intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Dân tộc học, tôn giáo học: Phần 2

Chia sẻ: Lăng Mộng Như | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:73

21
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 2 của giáo trình "Dân tộc học, tôn giáo học" tiếp tục trình bày những nội dung về: quan hệ dân tộc trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay; nguồn gốc, bản chất, chức năng xã hội của tôn giáo; những hình thức lịch sử của tín ngưỡng tôn giáo và xu hướng tín ngưỡng tôn giáo trên thế giới hiện nay;... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Dân tộc học, tôn giáo học: Phần 2

  1. Chương 6 QUAN HỆ DÂN TỘC TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 6.1. Các xu hướng của quá trình tộc người trên thế giới và ở Việt Nam 6.1.1. Các xu hướng của quá trình tộc người trên thế giới Quá trình tộc người là quá trình vận động, biến đổi của tộc người trong những điều kiện lịch sử cụ thể và trong toàn bộ tiến trình lịch sử trước sự tác động của các yếu tố tự nhiên và xã hội. Quá trình tộc người trên thế giới luôn luôn vận động và biến đổi không phải ngẫu nhiên, tuỳ tiện mà tuân theo hai xu hướng cơ bản là xu hướng liên hợp tộc người và xu hướng phân tách tộc người. Xu hướng liên hợp tộc người (liên kết, đoàn kết, hợp nhất tộc người). Đây là xu hướng đặc trưng, chủ đạo của quá trình tộc người, phản ánh quy luật khách quan của lịch sử phát triển tộc người, thúc đẩy sự hình thành các quốc gia dân tộc. Xu hướng này bao gồm 3 dạng thức: cố kết tộc người, hoà hợp tộc người và đồng hoá tộc người cả đồng hoá tự nhiên và đồng hoá cưỡng bức. Xu hướng phân tách tộc người (phân ly, phân chia tộc người). Đây là xu hướng của quá trình tộc người từ một tộc người chia tách ra thành các cộng đồng tộc người độc lập. Xu hướng phân tách bắt đầu ngay từ thời công xã nguyên thuỷ, đó là sự chia tách các thị tộc, bộ lạc thành các bào tộc. Sau đó, trong quá trình thiên di tiếp tục chia tách tộc người. Trong xã hội có giai cấp, do bị áp bức, bóc lột, ý thức tộc người phát triển - đặc biệt thời kỳ cận đại, các tộc người muốn tách ra thành lập quốc gia riêng. Sự thiên di tộc người càng mạnh thì phân li tộc người càng nhiều. Hiện nay, do nhiều nguyên nhân: lịch sử để lại, sự bừng tỉnh ý thức dân tộc, sự lợi dụng của chủ nghĩa đế quốc... xu hướng li khai tộc người, dân tộc đang nổi lên ở một số quốc gia, nhất là ở châu Âu. Cả hai xu hướng trên đều là xu hướng cơ bản, diễn ra đồng thời, đan xen, lồng xoắn vào nhau phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng tộc người, đều phản ánh xu thế vận động biện chứng, khách quan của lịch sử trước sự tác động của các yếu tố tự nhiên và xã hội. Dưới chủ nghĩa tư bản, do mục đích vụ lợi của nó, Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  2. cả hai xu hướng đều bị ngăn cản; dưới chủ nghĩa xã hội, cả hai xu hướng đó đều được tôn trọng và phát huy tác dụng. 6.1.2. Các xu hướng của quá trình tộc người ở Việt Nam Quá trình tộc người ở Việt Nam cũng tuân theo hai xu hướng trên, nhưng có những đặc thù của nó. Xu hướng liên hợp tộc ngườiX, được thể hiện ở quá trình cố kết, hoà hợp và quá trình đồng hoá. Quá trình cố kết, hoà hợp là quá trình chủ đạo ở nước ta, diễn ra đồng khắp và mạnh mẽ trong suốt quá trình hình thành, phát triển của dân tộc Việt Nam. Để đáp ứng nhu cầu khách quan của điều kiện tự nhiên lịch sử phải cố kết thành dân tộc. Quá trình đồng hoá cũng diễn ra phổ biến ở Việt Nam cả đồng hoá tự nhiên và đồng hoá cưỡng bức. Trong các thời kì đều có một bộ phận tộc người thiểu số đồng hoá vào người Việt và sự đồng hoá giữa các tộc người thiểu số, có lúc người Việt cư trú ở vùng các dân tộc thiểu số và bị đồng hoá tự nhiên. Trong thời kỳ đô hộ, xâm lược Việt Nam, người Hán, người Pháp, người Mỹ thực thi chính sách đồng hoá cưỡng bức các tộc người Việt Nam Nhưng nhờ có ý thức tộc người, dân tộc của các tộc người Việt Nam mà chính sách đồng hoá của chúng không thực hiện được. Các tộc người ở Việt Nam không những không bị đồng hoá mà còn tiếp biến văn hoá, làm giàu văn hoá của mình. Xu hướng phân tách tộc người cũng đã, đang diễn ra ở Việt Nam. Nhiều tộc người trong quá trình phát triển đã phân chia thành nhiều ngành như: Người Thái chia ra Thái trắng, Thái đen; Hmông (có đen, đỏ, xanh, Hoa); Dao (ngành Đại bản, tiểu bản, Quần trắng, Thanh y, Quần chẹt, áo dài, Cóc ngáng, Cóc mùn); Bru - Vân kiều (ngành Vân kiều, Tri, Măng con); Xinh mun có Dạ, nghẹt.. .Hiện nay, các tộc người được tôn trọng lợi ích, bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, tập quán...trong quan hệ với các tộc người khác và trong quốc gia dân tộc Việt Nam Hiện nay, hai xu hướng này cũng được tôn trọng, phát huy, Đảng, Nhà nước có quan điểm, chính sách đúng đắn nên quá trình tộc người và quan hệ tộc người ở nước ta cơ bản ổn định, tốt đẹp, vận động theo xu hướng Đoàn kết, thống nhất. Mặt khác, các tộc người được bảo lưu lợi ích, bản sắc văn hóa, phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, phồn vinh, hạnh phúc, đấu tranh chống Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  3. các thế lực phản động chia rẽ các dân tộc Việt Nam nhằm thực hiện mục đích, ý đồ chính trị của chúng. 6.2. Quan hệ dân tộc, sắc tộc trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay 6.2.1. Quan hệ dân tộc, sắc tộc trên thế giới hiện nay Trong quá trình tộc người, các tộc người vận động, biến đổi tất yếu có mối quan hệ với nhau. Đó chính là là quan hệ tộc người, dân tộc Quan hệ dân tộc là sự gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các tộc người trong quốc gia đa tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trong quan hệ quốc tế, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như quan hệ về lãnh thổ, chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoài giao, quân sự... Theo Từ điển tiếng Việt quan hệ sắc tộc là quan hệ giữa các cộng đồng người có sự khác biệt nào đó về ngôn ngữ, văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo, tộc người, dân tộc, chủng tộc (thường hàm ý miệt thị, theo quan điểm kì thị dân tộc, chủng tộc). Quan hệ dân tộc, sắc tộc là mối quan hệ đa dạng, sinh động phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, diễn ra trên mọi lĩnh vực, phản ánh cả những vấn đề lịch sử và hiện tại, quốc gia và quốc tế; là vấn đề thực tế, rất nhạy cảm, tế nhị bởi nó đụng chạm đến tâm lí ý thức, lợi ích, bản sắc văn hoá tộc người, dễ bị kẻ thù kích động, chống phá; là vấn đề phức tạp, và còn tồn tại lâu dài. Ngày nay quan hệ dân tộc, sắc tộc đang diễn ra khá phức tạp, là vấn đề nóng bỏng vừa mang tính toàn cầu, vừa là vấn đề nổi cộm của nhiều quốc gia dân tộc. Các điểm nóng diễn ra ở khắp các châu lục với nhiều hình thức và cấp độ khác nhau. ở châu Âu, xung đột dân tộc vẫn xảy ra ở nhiều nơi như: ở Nam tư: xung đột giữa SécbiBoxnhia Hécxgôvina và Crôát, li khai của người Anbani ở Côxôvô; Tỉnh tự trị Nagor nưi Carabắc: người Ácmêni và Azécbaigian căng thẳng, xung đột; bắc AiLen: cộng đồng người Tin Lành xung đột với cộng đồng người Thiên chúa giáo; ở Đảo Coócxơ (Pháp): xung đột giữa người Síp gốc Thổ với người Síp gốc Hilạp, và xung đột giữa người theo Hồi giáo và Công giáo ở nhiều nước châu Âu. ở châu Á, tình hình quan hệ dân tộc, sắc tộc cũng không kém phần phức tạp: Trécsnia đòi tách khỏi Liên bang Nga; Người Cuốc li khai ở I Rắc, Thổ để thành Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  4. lập nhà nước Kuốcđixtan; ở Ápgaxtan lực lượng Taliban và Ma sút; ở Trung đông Palextin và Ixraen; Đông Timo; phong trào Mo rô ở Phi líp pin… ở châu Phi, nhiều cuộc xung đột nổ ra, sát hại nhau rất dã man như ở Ugan đa, Bunrundi: xung đột giữa người Hu tu với người Tút xi; ở Angiêri, Xu Đăng, Ai cập: Phong trào Hồi giáo cực đoan. ở châu Mỹ và châu Đại dương, nổi lên sự xung đột tộc người, chủng tộc, tệ phân biệt chủng tộc giữa người gốc Âu và thổ dân. Xung đột dân tộc để lại hậu quả, tổn thất nặng nề về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường, đe doạ hoà bình an ninh khu vực và thế giới; gây chia rẽ lực lượng cách mạng tiến bộ. Tình hình xung đột dân tộc, sắc tộc diễn ra phức tạp trong những năm gần đây, hiện nay do những nguyên nhân chủ yếu sau: Một là, do mâu thuẫn lợi ích tộc người, dân tộc (lãnh thổ, tài nguyên, quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hoá) đã tồn tại lâu đời trong lịch sử hoặc mới nảy sinh. Hai là, do sai lầm về đường lối, chính sách của đảng cầm quyền và của nhà nước trong giải quyết vấn đề dân tộc nhất là việc duy trì quan hệ bất bình đẳng giữa các tộc người trong quốc gia, và với các quốc gia khác; chính sách kinh tế - xã hội không đúng đắn gây bất bình đẳng giữa các tộc người, các dân tộc. Ba là, do sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội hiện thực và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế phần nào làm suy giảm sự tương trợ vật chất, tinh thần, nhất là làm mất định hướng chính trị. Bốn là, do âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để chia rẽ, lợi dụng, kích động mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc để chống phá nhằm thực hiện mục đích chính trị của chúng. Năm là, do hệ quả tiêu cực của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại thúc đẩy xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá đe dọa xu thế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của các tộc người, dân tộc...vừa làm cho xu hướng liên kết tăng lên, đồng thời cũng làm cho xu hướng ly khai phát triển. 6.2.2. Quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, cùng với quá trình tộc người, quan hệ tộc người ở Việt Nam cũng hình thành, phát triển đa dạng và phức tạp. Đặc điểm chủ yếu của quan hệ tộc người ở nước ta là đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, từ khi có Đảng truyền thống và sức mạnh của dân tộc ta đã được phát huy cao độ đưa dân tộc ta phát triển lên một trình độ mới Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  5. - dân tộc xã hội chủ nghĩa. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, truyền thống đó tiếp tục được phát huy, phấn đấu cho mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới là hết sức quan trọng như: quyền bình đẳng từng bước được thực hiện trên thực tế; đoàn kết tộc người không ngừng được củng cố tăng cường; kinh tế hàng hoá được hình thành và phát triển; nhiều chính sách, công trình được thực hiện làm cho kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số được xây dựng, phát triển; công tác xoá đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, văn hoá thu được thành tựu quan trọng; Hệ thống chính trị được củng cố, trật tự an toàn xã hội cơ bản ổn định; Quốc phòng an ninh được giữ vững. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quan hệ dân tộc ở nước ta hiện nay vẫn còn các vấn đề cần phải tiếp tục được quan tâm giải quyết giải quyết: đó là kinh tế vùng dân tộc thiểu số còn chậm phát triển; tỷ lệ đói nghèo cao. Sự chênh lệch trên thực tế về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội giữa miền núi và miền xuôi, giữa cá dân tộc người thiểu số với đa số. Trình độ dân trí còn nhiều hạn chế, sự tồn tại của nhiều tập tục cũ trong cộng đồng các dân tộc. Một số vấn đề phức tạp mới nảy sinh trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng các công, nông, lâm trường; nạn du canh, du cư, khai thác rừng bừa bãi; vấn đề di dân tự do, tranh chấp về quyền lợi giữa đồng bào đi xây dựng kinh tế mới với đồng bào tại chỗ; tư tưởng ly khai đã xuất hiện trong một bộ phận tộc người, đã xuất hiện các điểm “nóng” về dân tộc, tôn giáo…nếu không kịp thời phát hiện và có biện pháp giải quyết đúng đắn thì có thể xảy ra xung đột. Những vấn đề nổi cộm, phức tạp về quan hệ dân tộc còn tồn tại trên đây do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau.Về khách quan là do điều kiện tự nhiên, lịch sử các tộc người và sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Về chủ quan, là do nhận thức chưa đầy đủ về vấn đề dân tộc; những chính sách về dân tộc còn nhiều bất cập; chỉ đạo tổ chức thực hiện có mặt, có khâu chưa phù hợp; hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở còn yếu kém; tình trạng quan liêu, tham nhũng của một số cán bộ công chức ít nhiều làm giảm lòng tin đối với đồng bào dân tộc. 6.3. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay 6.3.1. Quan điểm giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng, Nhà nước ta Quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc; từ mục đích, yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; từ vị trí chiến lược của miền núi, biên giới hải đảo, vùng đồng bào dân tộc ít người về kinh tế, chính trị, văn Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  6. hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại; từ bài học kinh nghiệm quý báu trong giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc trong các giai đoạn cách mạng trước đây. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong các giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn có quan điểm nhất quán: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam". Trong thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định đường lối chiến lược “phát huy sức mạnh toàn dân tộc”, coi “đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo là động lực chủ yếu để phát triển đất nước”, để “phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của toàn bộ nền kinh tế, của toàn xã hội”, Đảng ta xác định: Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng. Mục tiêu chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc; phát huy tinh thần cách mạng và năng lực sáng tạo của các dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển trên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tư tưởng chỉ đạo cơ bản, xuyên suốt trong quan điểm, chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay là “thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển” giữa các dân tộc. Thực hiện tốt mục tiêu cũng như những tư tưởng chỉ đạo trênT, Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX xác định một số quan điểm sau: Một là, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Hai là, các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam bình đẳng đoàn kết tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc. Ba là, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc phòng trên địa bàn dân tộc và miền núi. Bốn là, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc và miền núi, khai thác có hiệu quả tiềm năng thế mạnh từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực tự cường của Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  7. đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự tương trợ, giúp đỡ của các địa phương trong cả nước. Năm là, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của toàn bộ hệ thống chính trị, nhưng trước hết là sự nghiệp của chính đồng bào các dân tộc định cư ở đó. 6.3.2. Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay tập trung vào việc: khắc phục sự cách biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc; nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, kỳ thị, chia rẽ dân tộc, lợi dụng vấn đề dân tộc để gây mất ổn định chính trị - xã hội, chống phá cách mạng; thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp đỡ nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm cho tất cả các dân tộc ở Việt Nam đều phát triển, ấm no, hạnh phúc. Một là, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng, đảm bảo cho đồng bào khai thác được thế mạnh của địa phương làm giàu cho mình và đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Chính sách này được thể hiện ở việc xác lập quyền làm chủ cụ thể về đất đai, gắn với môi trường sống của đồng bào các dân tộc thiểu số; khắc phục về căn bản tình trạng tranh chấp ruộng đất và di cư tự do ở các vùng dân tộc thiểu số. Đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng; đổi mới cơ chế quản lý cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên từng vùng, từng dân tộc. Hai là, Có chính sách ưu tiên đặc biệt phát triển giáo dục đào tạo, coi trọng đào tạo cán bộ và đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số. Phát triển giáo dục đào tạo nâng cao dân trí, đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào phát triển sản xuất: tập trung xoá mù chữ, chống tái mù chữ, giữ vững phổ cập tiểu học; nâng cao chất lượng các trường, lớp nội trú; có chính sách ưu tiên tuyển chọn cán bộ dân tộc vào các trường đào tạo bậc đại học, cao đẳng, dạy nghề. Thực hiện miễn giảm học phí cho con em người dân tộc thiểu số trong hệ thống giáo dục quốc dân. Thực hiện tốt chế độ chính sách khuyến khích cán bộ, trí thức người dân tộc thiểu số, cán bộ, trí thức công tác vùng sâu, vùng xa, vùng cao; thu hút các nhà khoa học phục vụ có hiệu quả đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Ba là, kế thừa và phát triển những giá trị văn hoá của cộng đồng dân tộc Việt Nam và từng dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng bào các dân Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  8. tộc thiểu số cần được thông tin về thời sự, chính sách, những thành tựu văn hoá tiên tiến…bằng ngôn ngữ phổ thông và ngôn ngữ dân tộc mình. Tạo điều kiện thuận lợi để quần chúng bảo vệ, kế thừa phát huy những truyền thống tốt đẹp, bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan cản trở sự tiến bộ của các dân tộc; đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hoá hiện đại một cách chọn lọc. Thực hiện tốt việc chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng cao. Bốn là, có chính sách quan tâm đặc biệt đến vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, từng bước ngăn chặn tình trạng suy giảm dân số, mức sống của một số dân tộc. Nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội; đồng thời thực hiện tốt các chương trình quốc gia về chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào. Thực hiện chính sách ưu đãi những mặt hàng thiết yếu như gạo, muối, nhiên liệu thắp sáng, thuốc chữa bệnh, dịch vụ văn hoá, văn nghệ; giải quyết nhanh chóng nhu cầu nước sinh hoạt cho đồng bào vùng cao. Thực hiện mạnh mẽ chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình. Tóm lại, vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc là vấn đề rất hệ trọng của bất cứ quốc gia dân tộc nào. Nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Việt Nam có ý nghĩa quyết định đến sự tồn vong của chế độ, sự thành bại của công cuộc đổi mới đất nước. Đòi hỏi phải phát huy sức mạnh của toàn hệ thống chính trị và ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc đoàn kết, thống nhất trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Câu hỏi ôn tập: 1. Quan hệ dân tộc, sắc tộc trên thế giới hiện nay? 2. Quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay? 3. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay? Chương 7 Nguồn gốc, bản chất, chức năng xã hội của tôn giáo 7. 1. Nguồn gốc, bản chất của tôn giáo 7.1.1. Khái niệm tôn giáo. Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  9. Trong đời sống hiện thực, khi nói về hiện tượng tôn giáo, thường xuất hiện ba thuật ngữ có quan hệ với nhau: tín ngưỡng, tôn giáo, mê tín dị đoan. Tín ngưỡng là lòng tin và sự ngưỡng mộ của con người vào lực lượng siêu nhiên có vai trò toàn năng đối với con người. Người tín ngưỡng tin vào sự có thực của lực lượng siêu nhiên thần bí, vô hình đang che chở, giải thoát họ khỏi mọi tai ương, trắc trở hoặc tránh được sự trừng phạt trong cuộc sống hàng ngày, như: lòng tin vào sự che chở của tổ tiên, của các vị thần. Tín ngưỡng là cơ sở nảy sinh các hình thức thờ cúng tổ tiên, thành hoàng và các hình thức tôn giáo khác. Tôn giáo Tà hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, bao gồm ý thức tôn giáo, hoạt động tôn giáo và tổ chức tôn giáo, mà sự tồn tại và phát triển của nó là do sự phản ánh hư ảo hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người. Về mặt quản lý nhà nước, để thừa nhận là một tổ chức tôn giáo phải có đầy đủ các yếu tố sau: Có người sáng lập, có giáo thuyết, giáo lý, giáo luật; Có tổ chức giáo hội, có người hoạt động nghề nghiệp; Có tín đồ, lễ hội và có cơ sở vật chất thờ tự. Mê tín dị đoan là lòng tin một cách mù quáng, mê muội vào lực lượng thần thánh, ma quỷ, không có sự kiểm soát của lý trí và thường có những hành vi trái với chuẩn mực xã hội, làm tổn hại về kinh tế, tinh thần và thể lực của con người, như các hiện tượng: đồng bóng, gọi hồn, tướng số... Tín ngưỡng, mê tín dị đoan và tôn giáo về cơ bản đều tin vào lực lượng siêu nhiên, thần bí có sức mạnh toàn năng đang chi phối đời sống con người. Song tín ngưỡng, tôn giáo, mê tín dị đoan cũng có sự khác nhau. Tín ngưỡng, theo nghĩa hẹp là niềm tin vào lực siêu nhiên, là một bộ phận của tôn giáo, mê tín dị đoan. Tín ngưỡng được coi là một tôn giáo khi nó có đủ các yếu tố của một tôn giáo. Tín ngưỡng, tôn giáo sẽ trở thành mê tín dị đoan khi lòng tin bị mê muội và có những hành vi cuồng tín, cực đoan, phản văn hoá gây hậu quả tiêu cực về tinh thần, thể xác, kinh tế của cá nhân và xã hội…không được các tôn giáo thừa nhận và bị pháp luật nghiêm cấm. 7.1.2. Nguồn gốc tôn giáo Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  10. 7.1.2.1. Nguồn gốc xã hội Do trình độ sản xuất thấp kémD, con người bị lệ thuộc và bất lực trước tự nhiên như mưa bão, lũ lụt, sấm sét, dịch bệnh…và trước sức mạnh xã hội, sự áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị, sự tàn sát của chiến tranh, sự thất bại trong các cuộc đấu tranh chống áp bức, nô dịch đè nặng lên cuộc sống con người, làm cho họ tìm đến với thần thánh và hy vọng được che chở, cứu vớt, giải thoát ở thế giới “thiên đường”. V.I. Lênin khẳng định: “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bóc lột đẻ ra lòng tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống hệt như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra niềm tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu”3. Cho nên, còn sự bất lực trước sức mạnh tự nhiên, sức mạnh xã hội thì tôn giáo còn tồn tại. 7.1.2.2 Nguồn gốc nhận thức Do trình độ nhận thức còn thấp kém, con người không lý giải được các hiện tượng đầy bí ẩn của thế giới khách quan, họ đã tưởng tượng, và gán cho nó sức mạnh siêu tự nhiên, tạo ra các vị thần chi phối thế giới xung quanh. Ph. Ăngghen đã viết: “Sự nhân cách hoá các lực lượng tự nhiên làm nảy sinh ra những vị thần đầu tiên”4. Mặt khác, nhận thức là một quá trình biện chứng phức tạp, chứa đựng những yếu tố suy diễn, tưởng tưởng xa lạ với hiện thực khách quan, làm nảy sinh ảo tưởng hư ảo, hoang đường…trong đó có tôn giáo. Vì thế, tôn giáo chỉ xuất hiện khi trình độ tư duy trừu tượng của con người đã phát triển đến mức đủ khả năng để những quan niệm tạo nên các biểu tượng tôn giáo, các vị thần có quyền lực không hạn chế, có quyền năng tối cao. 7.1.2.3. Nguồn gốc tâm lý Những trạng thái tâm lý tiêu cực như sự sợ hãi, cô đơn, bất hạnh, đau khổ, kinh hoàng, chán nản, nhất là sợ hãi trước cái chết; lòng biết ơn, sự kính trọng, sự hài lòng và sự ngưỡng mộ trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, xã hội cũng là một trong những nguồn gốc nảy sinh tôn giáo. 3. V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1979, tập 12, tr.169. 4. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, tập 21, tr. 403-404. Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  11. V.I. Lênin cho rằng: “sự sợ hãi của quần chúng trước những thế lực mù quáng của thiên nhiên, của sự áp bức, bóc lột, bất công của giai cấp thống trị đang hàng ngày, hàng giờ đe doạ, đem lại cho họ “sự phá sản “đột ngột”, “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”, làm cho họ phải diệt vong, biến họ thành một người ăn xin, một kẻ bần cùng và dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại”5. Ngoài ra truyền thống, phong tục, tập quán, thói quen cũng là những nguyên nhân tâm lý dẫn đến sự hình thành và phát triển tình cảm, niềm tin tôn giáo. Những nguồn gốc nêu trên là tiền đề khách quan, cần thiết cho sự xuất hiện, tồn tại, phát triển của tôn giáo. Song tôn giáo ra đời, mở rộng ảnh hưởng còn phụ thuộc vào sự tuyên truyền, vận động của các giáo hội thậm chí cả cuộc đấu tranh giữa các tôn giáo, các hình thái ý thức xã hội, các lực lượng xã hội trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Sự ra đời của tôn giáo gắn liền với những nguồn gốc khách quan, song tôn giáo luôn là một dạng tình cảm, một hình thái ý thức xã hội nên có tính độc lập tương đối, sẽ còn tồn tại lâu dài ngay cả khi cái mà nó phản ánh không còn hoặc đã có biến đổi khác trước. 7.1.3. Tính chất của tôn giáo 7.1.3.1. Tính lịch sử Tôn giáo là một phạm trù lịch sử, sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử gắn với giai đoạn lịch sử nhất định của nhân loại, ra đời, tồn tại, biến đổi và mất đi gắn với sự vận động, biến đổi của xã hội loài người. Tính chất lịch sử phản ánh sự ra đời của tôn giáo trong những điều kiện khác nhau thì quan niệm về thần, thánh, về thân phận con người và con đường giải thoát khác nhau. Tôn giáo của mỗi dân tộc luôn gắn với lịch sử, văn hoá dân tộc và chứa đựng những chất liệu truyền thống về văn hoá, tư tưởng, triết học của dân tộc. Tính lịch sử của tôn giáo cũng phản ánh sự biến đổi thích nghi của tôn giáo với điều kiện mới của lịch sử nhân loại và của từng dân tộc. Niềm tin vào sức mạnh của thượng đế và thế giới thiên đường sẽ mất đi khi các nguyên nhân sinh ra nó đã bị loại bỏ. 5. V.I. Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1979, tập 17, tr. 515. Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  12. 7.1.3.2. Tính quần chúng Tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân, phản ánh khát vọng về một xã hội tự do, bình đẳng và bác ái của quần chúng, nên được đông đảo quần chúng tin theo. Hiện nay, ở nước ta có hơn 20 triệu tín đồ, chức sắc tôn giáo, khoảng 80 % dân số có tín ngưỡng tôn giáo. Trên thế giới, có hơn 3 tỉ tín đồ, chức sắc theo các tôn giáo lớn. Cho nên, Đảng, Nhà nước ta xác định, thái độ đối với tôn giáo là thái độ với đông đảo quần chúng, cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, công tác với con người. 7.1.3.3. Tính chính trị Trong xã hội có đối kháng giai cấpT, tôn giáo có tính chính trị. Đó là việc giai cấp thống trị sử dụng tôn giáo làm công cụ nô dịch quần chúng, củng cố, bảo vệ địa vị chính trị, trật tự xã hội của giai cấp mình. Thông qua lợi dụng giáo lý, giáo luật, giai cấp thống trị đã mê hoặc, ru ngủ những người lao động chấp nhận sự áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị. Đúng như V.I. Lênin viết: “Tất cả những giai cấp áp bức đều cần đến hai chức năng xã hội, để giữ gìn nền thống trị của mình: chức năng đao phủ và chức năng giáo sĩ. Đao phủ phải dẹp tan sự phản kháng và sự căm phẫn của những người bị áp bức... Giáo sĩ phải an ủi những người bị áp bức làm cho họ chịu nhận nền thống trị ấy, làm cho họ xa rời hành động cách mạng, làm tiêu tan tinh thần cách mạng của họ và phá vỡ nghị lực cách mạng của họ”6. Ngày nay, đông đảo quần chúng tín đồ đến với tôn giáo nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần, song trên thực tế, tôn giáo đã và đang bị các thế lực chính trị phản động lợi dụng chống phá cách mạng. Do vậy, cần cảnh giác đấu tranh chống sự lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng của các thế lực thù địch. 7.1.4. Bản chất tôn giáo Theo quan điểm Mác - Lênin, bản chất của tôn giáo là niềm tin hư ảo của con người vào sức mạnh siêu nhiên, vào cuộc sống hạnh phúc ở thế giới “thiên đường”. “Theo bản chất của nó, tôn giáo là sự rút hết toàn bộ nội dung 6.V.I. Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1980, tập 26, tr 2 93. Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  13. của con người và giới tự nhiên, là việc chuyền nội dung đó sang cái bóng ma. Thượng đế ở bên kia thế giới, Thượng đế này, sau đó, do lòng nhân từ, lại trả về cho con người và giới tự nhiên một chút ân huệ”7. Chính vì thế, tôn giáo là hạnh phúc hư ảo của nhân dân. Niềm tin hư ảo của tôn giáo thể hiện ở chỗ, mọi suy nghĩ và hành động của con người đều phải dựa vào sự mách bảo, sự ban ơn của đấng tối cao: thần linh, thường đế. Niềm tin đó được coi là chuẩn mực vĩnh cửu, bất biến trong mọi thời đại, mọi giai cấp và chi phối mọi hành động của con người. Tôn giáo đã làm cho con người tự đánh mất bản tính tích cực, sáng tạo của mình, biến mình thành kẻ nhẫn nhục, chịu đựng, chấp nhận sự áp bức, bất hạnh trong cuộc sống hiện thực và mơ ước ảo tưởng vào được sống hạnh phúc ở thế giới phi hiện thực. Vì vậy, Ph.Ăngghen khẳng định: “Trong mọi tôn giáo, sự ăn năn, sự hy sinh, và có thể là cả sự xả thân nữa, hợp thành bản chất của hoạt động tu hành, của sự thờ phụng”8. Xét về bản chất, trong các tôn giáo đều có nội dung phù hợp với lợi ích ích kỷ của giai cấp thống trị và bóc lột, nên được giai cấp thống trị sử dụng làm công cụ áp bức, bảo vệ trật tự xã hội của nó. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: “Tôn giáo là một trong những hình thức áp bức về tinh thần, luôn luôn và bất cứ ở đâu cũng đè nặng lên quần chúng nhân dân khốn khổ vì phải lao động suốt đời cho người khác hưởng, vì phải chịu cảnh bần cùng và cô độc”9. Nó “là thứ rượu tinh thần, làm cho những người nô lệ của tư bản mất phẩm cách con người và quên mất hết những điều họ đòi hỏi để được sống một cuộc đời đôi chút xứng đáng với con người”10. Do vậy, “tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”11. Tuy nhiên, trong tôn giáo cũng có những giá trị văn hoá đạo đức nhất định, phù hợp với xã hội mới cần biết kế thừa, phát huy. 7.2. Chức năng xã hội và vai trò xã hội của tôn giáo 7. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, tập 1, tr 815. 8. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, tập 19, tr. 436. 9. V.I. Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1979, tập 12, tr. 169. 10. V.I. Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1979, tập 12, tr. 70. 11. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Nxb CTQG, H toàn tập, tập 1, tr. 581. Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  14. 7.2.1. Chức năng xã hội của tôn giáo 7.2.1.1. Chức năng đền bù hư ảo Đây là chức năng xã hội chủ yếu, đồng thời cũng là đặc trưng cơ bản của tôn giáo. Tôn giáo như một liều thuốc an thần có khả năng an ủi làm dịu nỗi đau con người bằng cách tạo nên sự hài lòng, tin tưởng vào các lực lượng siêu nhiên và cuộc sống hạnh phúc ở thế giới thiên đường; góp phần giải toả sự sợ hãi, nỗi bất hạnh trong cuộc đời - mặc dù đó chỉ là sự đền bù hư ảo. Nhờ đó, tôn giáo có khả năng giảm nhẹ một cách hư ảo sự bất hạnh trong cuộc sống. Trong đời sống xã hội những nhân tố “bất ngờ”, “đột ngột”, “ngẫu nhiên” gây ra nỗi thống khổ sự đau thương ghê gớm và khủng khiếp gấp nhiều so với hậu quả của chiến tranh, động đất... làm xuất hiện cảm giác bất lực, yếu đuối của con người. Trong điều kiện ấy, tôn giáo vẫn là chỗ dựa để an ủi, khuyên răn bằng những lời giải thích đầy huyền bí về sức mạnh, quyền uy cứu độ của thượng đế, góp phần làm giảm những căng thẳng về tinh thần con người, dù là hư ảo. Với tinh thần đó, C.Mác nói: tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân, tôn giáo là hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân. 7.2.1.2. Chức năng thế giới quan Tôn giáo tạo cho con người một quan niệm về thế giới, con người nhưng thế giới quan tôn giáo là “thế giới quan lộn ngược”12, “vì bản thân chúng là thế giới lộn ngược. Tôn giáo là lý luận chung của thế giới ấy. Tôn giáo biến bản chất con người thành tính hiện thực ảo tưởng”13. Sự phản ánh của tôn giáo là sự phản ánh ảo tưởng về một thế giới hư ảo nên đã định hướng mọi suy nghĩ, nhận thức, hành động của con nguời theo thế giới quan duy tâm. Việc nhận thức các hiện tượng của tự nhiên, của đời sống xã hội, thậm chí cả sự sáng tạo khoa học của con người cũng được tôn giáo giải thích theo quan điểm thế giới quan duy tâm. Trong quan niệm của tôn giáo, vai trò chủ thể sáng tạo của con người bị biến mất và tất cả đều phụ thuộc, phó mặc cho thần thánh. 12. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, tập 1, tr. 569. 13. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, tập 1, tr. 570. Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  15. Mặc dù, thế giới quan tôn giáo là duy tâm, song tôn giáo vẫn góp phần hình thành trong tín đồ hệ thống quan niệm về thế giới và những chuẩn mực giá trị tôn giáo. 7.2.1.3 Chức năng điều chỉnh Tôn giáo nào cũng có hệ thống giá trị, chuẩn mực đạo đức tôn giáo nhằm điều chỉnh mọi suy nghĩ, hành vi ứng xử của người với bản thân, với người khác, với xã hội và với giới tự nhiên phù hợp với đức tin. Đánh giá chức năng này, C.Mác viết: “Họ đã xây dựng những quan hệ của của họ căn cứ vào những quan niệm của họ về thần, về kiểu mẫu của con người.v.v … Những sản phẩm của bộ óc của họ đã trở thành kẻ thống trị họ. Là những người sáng tạo, họ lại phải cúi mình trước những cái họ sáng tạo ra”14. Song trên thực tế, vì sự sống còn của con người và cộng đồng, một số chuẩn mực tôn giáo đã “vay mượn” chuẩn mực, giá trị đạo đức chân chính của xã hội, nên có ý nghĩa tích cực trong điều chỉnh hành vi của con người, cộng đồng. Do vậy, khi đánh giá sức mạnh điều chỉnh của tôn giáo không chỉ thấy mặt tiêu cực mà còn có những hạt nhân tích cực ẩn chứa trong tôn giáo. Chức năng điều chỉnh của tôn giáo được thực hiện vừa tự giác, vừa bắt buộc, tuân theo nội dung ở giáo lý, giáo luật, nghi lễ hành đạo. 7.2.2. Vai trò xã hội của tôn giáo Cần phân biệt giữa chức năng xã hội của tôn giáo và vai trò xã hội của tôn giáo. Nếu như chức năng xã hội của tôn giáo do bản chất, đặc trưng của tôn giáo quy định thì vai trò của tôn giáo không chỉ xuất phát từ bản chất, chức năng đó mà còn chịu sự chi phối của mối quan hệ giữa tôn giáo với chính trị, văn hoá, đạo đức...Trong xã hội có đối kháng giai cấp, vai trò xã hội của tôn giáo thường bị chi phối bởi ý thức chính trị - giai cấp. Các giáo hội ngoài chức năng tôn giáo còn thực hiện những chức năng khác như: thống trị xã hội, chiến tranh xâm lược. Do vậy, khi nhìn nhận, đánh giá một tổ chức tôn giáo phải luôn luôn có quan điểm lịch sử, cụ thể, đặc biệt phải phân biệt giữa ý thức tôn giáo với ý thức chính trị - giai cấp. 14. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, tập 3, tr. 19. Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  16. 7.2.2.1. Vai trò tiêu cực Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, tôn giáo chỉ là hạnh phúc hư ảo của nhân dân. Do đó, tôn giáo thường hạn chế phát triển tư duy duy vật, khoa học, làm cho con người có thái độ nhẫn nhục, khuất phục, không tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc tạo dựng hạnh phúc thật sự nơi trần gian, mà lại hi vọng hạnh phúc ở cuộc sống sau khi chết. Nhiều khi tôn giáo làm cho con người ta có thái độ mù quáng và hành vi cuồng tín. Do có bản chất chung là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên, là sự phản ánh hư ảo, thiêng liêng hoá, thần bí hoá hiện thực, nên ranh giới giữa tín ngưỡng, tôn giáo, mê tín rất mong manh, ngay bản thân tôn giáo chứa đựng những yếu tố mê tín. Trong thực tế, các hiện tượng tôn giáo, mê tín và mê tín dị đoan thường đan xen nhau. Trong xã hội có giai cấp, tôn giáo thường bị giai cấp thống trị lợi dụng để thực hiện ý đồ chính trị. Tôn giáo cũng còn bị một số người lợi dụng cầu lợi, họ biến các không gian, tôn giáo linh thiêng thành nơi có thể “buôn thần bán thánh”. 7.2.2.2. Vai trò tích cực Tuy vậy, tôn giáo cũng có những mặt tích cực nhất định, thể hiện ở chỗ: tôn giáo vừa phản ánh khốn cùng của hiện thực, vừa phản kháng chống lại sự khốn cùng của hiện thực ấy, nên nó góp phần cổ vũ cuộc đấu tranh chống lại sự bất công, tàn bạo trong xã hội có giai cấp và bóc lột giai cấp. Đồng thời trên cơ sở “vay mượn” đạo đức xã hội, tôn giáo cũng đề cao tính nhân văn, khuyến thiện, trừ ác phù hợp với đạo đức xã hội, và trở thành giá trị văn hoá tinh thần của nhân loại. Tôn giáo cũng được coi là một thành tố của văn hoá. Các nền văn minh lớn trên thế giới đều mang dấu ấn của tôn giáo. Nhiều khi người ta lấy tên của một tôn giáo để chỉ đặc điểm, sắc thái của một nền văn hoá. Thí dụ, Văn hoá Cơ đốc giáo, văn hoá Hòi giáo, văn hoá Phật giáo. Tôn giáo luôn là mảnh đất màu mỡ, trên đó hình thành và phát triển nhưng tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng. Trong Văn kiện hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Đảng ta Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  17. nhận định “đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Câu hỏi ôn tập: 1. Phân tích khái niệm, bản chất tôn giáo? Phân biệt tôn giáo với tín ngưỡng, mê tín dị đoan và mối quan hệ giữa chúng với nhau? 2. Phân tích nguồn gốc, tính chất của tôn giáo? Rút ra ý nghĩa của vấn đề trong quá trình nghiên cứu tôn giáo? 3. Phân tích các chức năng, vai trò xã hội của tôn giáo? Rút ra ý nghĩa trong quá trình hoạt động thực tiễn? Chương 8 Những hình thức lịch sử của tín ngưỡng tôn giáo và xu hướng tín ngưỡng tôn giáo trên thế giới hiện nay 8.1. Những hình thức tín ngưỡng tôn giáo trong lịch sử Tôn giáo vận động, biến đổi gắn liền với lịch sử xã hội loài người. Sự vận động phát triển của tôn giáo gắn với những sinh hoạt cộng đồng của con người, đi từ hình thức thấp đến hình thức cao, thể hiện được chiều hướng chính, sự phát triển của tôn giáo: tôn giáo nguyên thuỷ, tôn giáo dân tộc, tôn giáo thế giới. 8.1.1. Hình thức tín ngưỡng tôn giáo nguyên thuỷ Đây là hình thức tôn giáo cổ xưa nhất, xuất hiện trong xã hội nguyên thuỷ, ở các thị tộc, bộ lạc với lực lượng sản xuất thấp kém, chưa có tư hữu giai cấp. Đặc điểm chung của tôn giáo nguyên thuỷ là tôn giáo đa thần, tồn tại dưới các hình thức, phổ biến là Tôtem giáo, Bái vật giáo, Ma thuật giáo, Vật linh giáo. Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  18. 8.1.1.1. Thờ vật tổ (Tô-tem giáo) Tôtem là hình thức tín ngưỡng quan trọng của xã hội nguyên thuỷ, phản ánh mối quan hệ phụ thuộc của con người vào môi trường tự nhiên và quan hệ cộng đồng thị tộc. Tôtem giáo là hình thức tín ngưỡng tôn giáo với quan niệm có một con vật hoặc một vật nào đó là “tổ” sinh ra cộng đồng người, hoặc có tác động đến cộng đồng người một cách hư ảo, khiến cả cộng đồng coi đó là vật tổ và lấy đó làm biểu tượng thờ cúng. Từ đó, mỗi dân tộc đều lấy một con vật nào đó làm Tôtem cho dân tộc mình. Ví dụ, người Việt cổ lấy con Cá sấu, người Thái lấy con Hổ, người Mường thờ đá, thờ cây coi đó là vật tổ của mình. Như vậy thông qua Tôtem giáo, con người đã chuyển dịch quan hệ họ hàng, huyết thống sang thế giới bên ngoài. Ngày thường, tất cả các thành viên trong bộ tộc không được ăn thịt Tôtem. Chỉ trong ngày lễ người ta ăn thịt Tôtem với ý nghĩa nhằm tiếp thêm sức mạnh cho mình và góp phần gắn kết quan hệ thị tộc, bộ lạc trở nên chặt chẽ hơn. Như vậy, totem ra đời có tác dụng gắn kết cộng đồng, giữa người với người có chung vật tổ. Quan hệ với vật tổ chỉ là quan hệ hư ảo, còn quan hệ thực là quan hệ giữa người với người. ở đây, sức mạnh trần thế đã mang hình thức sức mạnh siêu thần thế. Trong xã hội ngày nay, hình thức thờ Tôtem đã được biến thái vào trong các giáo lý của các tôn giáo, ví dụ ăn bánh thánh, uống rượu nho trong đạo Kytô, ăn lộc trong đạo Phật. 8.1.1.2. Bái vật giáo Bái vật giáo là tín ngưỡng tôn giáo con người vào một vật cụ thể như ngọn núi, dòng suối, tảng đá, cây cổ thụ, thậm chí cả chiếc răng thú, chiếc rìu đá, lọ bình vôi, mảnh vải… Với quan niệm các vật đó được tạo ra bởi các thần linh, mỗi vật đều có thần của mình trú ngụ trong đó. Do đó, chúng có sức mạnh siêu linh có thể trợ giúp con người trong những lúc khó khăn. Việc dùng các bùa hộ mệnh của một số người trong xã hội ngày nay, là dấu vết của tín ngưỡng bái vật nguyên thuỷ. Hình thức Bái vật giáo không những là hình thức phổ biến trong xã hội nguyên thuỷ mà còn tồn tại đến ngày nay. Nó được biểu hiện rất phong phú ở Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  19. mọi quốc gia, đâu đâu cũng có những hiện tượng thờ cúng các vật thể cụ thể của thế giới vật chất. 8.1.1.3. Ma thuật giáo (Có nghĩa là phép phù thuỷ). Ma thuật giáo là hình thức tín ngưỡng tôn giáo nguyên thuỷ thể hiện niềm tin rằng một người cụ thể nào đó có phép lạ, có khả năng giao tiếp với thần linh, mang sức mạnh của thần linh để cứu giúp hoặc làm hại người khác mà người thường khác không có. Những người có phép lạ đó là những người như thầy phù thuỷ, thầy mo…họ có phép lạ, có thể chữa mọi bệnh tật, trừ mọi ma quỷ, cứu giúp người hay gây hại cho người khác. Cơ sở tâm lý của tín ngưỡng ma thuật là niềm tin của người nguyên thuỷ rằng có mọt thế giới hồn và ma cùng tồn tại với thế giới của người đang sống. Con người ốm đau là do hồn của người đó đi lạc vào thế giới hồn ma. Thầy phù thuỷ có phép lạ điều khiển đội âm binh bằng những lời phú chú, tìm hồn lạc về thể xác người ốm. Cơ sở xã hội của ma thuật giáo là các cuộc xung đột giữa các thị tộc khác nhau gây nên sự chết chóc và lòng muốn trả thù. Cuộc sống luôn bị đe doạ bởi không chỉ do chiến tranh mà còn do bênh tật, thiên tai. Người nguyên thuỷ mong ước có một cuộc bình yên, hạnh phúc. Về sau, ma thuật giáo thường bị các tôn giáo lợi dụng yếu tố thần bí có tính ma thuật để gây ảnh hưởng trong xã hội như trong Đạo giáo ở Trung Quốc, đạo Bà La môn ở ấn Độ). Các nghi lễ của Ma thuật giáo luôn là phương tiện hư ảo để giải quyết những vấn đề thực tiễn cuộc sống của người nguyên thuỷ. Trong xã hội nguyên thuỷ, ma thuật giáo có hình thức rất phong phú: ma thuật làm hại, ma thuật chữa bệnh (chữa bệnh bằng phù phép), ma thuật săn bắt, ma thuật tình yêu, ma thuật khí tượng (cầu mưa, cầu tạnh, cầu gió...). ở Việt Nam, các hình thức bùa chú, chài, thư, xiên lình, ma lai, ma cà rồng… là các dạng thức của ma thuật giáo. Các hình thức này cũng có những tác động đáng kể tới đời sống tinh thần của một bộ phận dân cư nhẹ dạ, cả tin, nhất là những vùng xã xôi, hẻo lánh, trình độ văn hoá thấp. 8.1.1.4. Vật linh giáo Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
  20. Vật linh giáo là tôn giáo ra đời cuối thời kỳ công xã thị tộc, quan niệm rằng mọi vật đều có hai phần: “xác” (hữu hình) và “hồn” (vô hình). “Xác” là nơi trú ngụ của “hồn”, còn “hồn” quyết định phần “xác”. Khi con người chết thì chỉ chết về phần xác còn phần hồn tồn tại mãi mãi. Từ đó, tạo nên hai thế giới: thực - hư; trần gian - địa ngục. Con người phải cầu xin thế giới bên kia. Đến đây con người đã có quan niệm thần, ma, quỷ. Như vậy, vật linh giáo xuất hiện với quan niệm của tang lễ, với quan niệm hai thế giới song song tồn tại (hữu hình và vô hình) có quan hệ với nhau. Thực chất của vật linh giáo là thờ cúng linh hồn những người đã khuất. Đây là hình thức tín ngưỡng tôn giáo cao hơn tiền vật linh giáo, bởi nó đã “linh hồn hoá” các hiện tượng tự nhiên, gắn cho các hiện tượng đó một sức mạnh ghê gớm, là cơ sở tín ngưỡng quan trọng cho sự ra đời các tôn giáo sau này. 8.1.1.5. Saman giáo Saman giáo xuất hiện sớm ở tộc người Saman ở Xibêri vào thời kỳ cuối của xã hội thị tộc. Đây là hình thức tín ngưỡng tôn giáo, quan niệm rằng con người có thể giao tiếp được với thần linh, ma quỷ thông qua người trung gian có phép nhiệm màu để giải quyết những yêu cầu của trần gian. Người trung gian này là thầy pháp Saman có thể yêu cầu thần linh giải quyết những vấn đề quan trọng của con người trong bộ lạc. Saman giáo là hình thức tín ngưỡng tôn giáo cao hơn các hình thức trước đó, bởi nó đã xác lập quan hệ giữa người với thần và xuất hiện người hành nghề tôn giáo chuyên nghiệp với sự giúp đỡ của một nhóm người nhất định, nhằm tạo ra không gian “linh thiêng” cho linh hồn nhập thoát. Hiện nay, ở Việt Nam đang tồn tại đầy đủ các hình thức tín ngưỡng tôn giáo nguyên thuỷ này. Các hình thức tiền vật linh giáo còn tồn tại ở các dân tộc thiểu số. Hai hình thức sau tồn tại xen lẫn trong các lễ hội, các sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo. Các dạng thức lên đồng, gọi hồn, phù thuỷ trừ ma bắt của các thầy cúng là các biểu hiện của Saman giáo. 8.1.2. Hình thức tôn giáo dân tộc Đây là hình thức tôn giáo được nảy sinh, tồn tại, phát triển gắn liền với sự hình thành, tồn tại của một quốc gia dân tộc, đáp ứng nhu cầu tâm linh tôn giáo của một dân tộc và chỉ có quyền lực giới hạn trong phạm vi dân tộc đó. Đặc trưng cơ bản của tôn giáo dân tộc là tính chất dân tộc của nó và phản ánh văn hoá ứng xử riêng, đặc sắc của dân tộc hoặc một vùng của dân tộc. Tương tự như xã hội vua của quốc gia nào chỉ có quyền cai trị quốc gia dân tộc đó. Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
23=>2