intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Hành nghề luật sư (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:41

420
lượt xem
73
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 1 giáo trình "Hành nghề luật sư" (Giáo trình đào tạo từ xa) gồm các chương sau: Khái quát chung về nghề luật sư, vai trò của luật sư trong tố tụng. Mời các bạn tham khảo giáo trình để tìm hiểu rõ hơn về nghề luật sư.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Hành nghề luật sư (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên Bùi Thị Phương Quỳnh GIÁO TRÌNH HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ (Giáo trình đào tạo từ xa) Vinh - 2011 1
  2. MỤC LỤC CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHỀ LUẬT SƯ.......... 4 1..LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH LUẬT SƯ BÀO CHỮA............................................................................. 4 2. QUI TẮC ỨNG XỬ VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA LUẬT SƯ .............................................................................................................. 7 3. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ TẠI VIỆT NAM ...................................................................... 8 4. CÁC QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ VÀ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ. .............................................. 10 CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 19 1. LUẬT SƯ VỚI TƯ CÁCH LÀ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ......................................................................................... 19 2. LỰA CHỌN VÀ THAY ĐỔI LUẬT SƯ ............................................ 21 3 . NHỮNG TRƯỜNG HỢP LUẬT SƯ KHÔNG ĐƯỢC THAM GIA TỐ TỤNG VỚI TƯ CÁCH LÀ NGƯỜI BÀO CHỮA .................................... 22 4. VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG CÁC GIAI ĐOẠN KHÁC NHAU CỦA TỐ TỤNG HÌNH SỰ......................................................................... 23 5. QUYỀN TỐ TỤNG CỦA LUẬT SƯ KHI BÀO CHỮA CHO BỊ CAN, BỊ CÁO........................................................................................................ 32 CHƯƠNG III: TỔ CHỨC QUẢN LÝ VĂN PHÒNG LUẬT SƯ VÀ CÔNG TY LUẬT ..................................................................... 42 1. CƠ SỞ CỦA HOẠT ĐỘNG LUẬT SƯ ................................................. 42 2. CÁC LOẠI HÌNH TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ .................... 43 3. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA VĂN PHÒNG LUẬT SƯ, CÔNG TY LUẬT ..................................................................................................................... 44 3.1. Biên chế ............................................................................................. 44 3.2. Điều kiện vật chất ............................................................................. 45 3.3. Bộ máy .............................................................................................. 47 4. HOẠT ĐỘNG CỦA VĂN PHÒNG LUẬT SƯ, CÔNG TY LUẬT HỢP DANH ......................................................................... 48 4.1. Đào tạo nguồn nhân lực ................................................................... 48 4.2. Lĩnh vực hoạt động .......................................................................... 49 5. QUẢN LÝ VĂN PHÒNG LUẬT SƯ, CÔNG TY LUẬT HỢP DANH .............................................................................................. 51 5.1. Lĩnh vực quản lý............................................................................... 51 5.2. Quyền quản lý và trách nhiệm ........................................................ 52 5.3. Quản lý phát triển ............................................................................ 52 5.4. Nguyên tắc quản lý Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh .... 53 D. NỘI DUNG TỰ HỌC ................................................................ 54 2
  3. E. CÂU HỎI ÔN TẬP, CÂU HỎI THẢO LUẬN: ....................... 54 CHƯƠNG IV: KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ KHI TIẾP XÚC VỚI KHÁCH HÀNG .............................................................................. 55 1. Khách hàng trong vụ án hình sự ........................................................ 55 2. Bản chất mối quan hệ của luật sư với khách hàng trong vụ án hình sự .............................................................................................................. 55 3. Các giai đoạn tiếp xúc và làm việc với khách hàng khi tiếp nhận bào chữa.......................................................................................................... 56 CHƯƠNG V: KỸ NĂNG XÂY DỰNG BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ CHO NGƯỜI BỊ HẠI ..................................................................... 57 1. CHUẨN BỊ LUẬN CỨ BẢO VỆ CHO BỊ HẠI .................................... 57 1.1. Tổng hợp các tài liệu đã thu thập được........................................... 57 1.2. Chuẩn bị các tài liệu liên quan phục vụ cho việc bảo vệ ................ 58 1.3. Xác định phương hướng viết bản bảo vệ ........................................ 58 1.4. Trao đổi với thân chủ ....................................................................... 59 2. CƠ CẤU BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ CHO BỊ HẠI ............................... 59 2.1. Phần mở đầu ..................................................................................... 59 2.2. Phần nội dung ................................................................................... 60 2.3. Phần kết luận .................................................................................... 64 CHƯƠNG VI: KỸ NĂNG BÀO CHỮA TRONG CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN PHẨM .............................................................................................. 66 1. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI ................. 66 1.1. Khách thể của tội phạm ................................................................... 66 1.2. Mặt khách quan của tội phạm ......................................................... 66 1.3. Chủ thể của tội phạm ....................................................................... 66 1.4. Mặt chủ quan của tội phạm ............................................................. 66 2. HOẠT ĐỘNG CHUẨN BỊ CHO VIỆC BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA ..................................................................................................................... 67 2.1. Nghiên cứu hồ sơ .............................................................................. 67 2.2. Gặp và trao đổi với thân chủ và những người khác liên quan....... 67 3. THAM GIA PHIÊN TÒA ...................................................................... 69 CHƯƠNG VII: KỸ NĂNG BÀO CHỮA TRONG VỤ ÁN THAM NHŨNG ........................................................................................... 70 1. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG ................................. 71 2. HOẠT ĐỘNG CHUẨN BỊ CHO VIỆC BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA ..................................................................................................................... 71 2.1. Nghiên cứu hồ sơ .............................................................................. 71 2.3. Xây dựng bản luận cứ bào chữa ...................................................... 72 3. THAM GIA PHIÊN TÒA ...................................................................... 72 D. NỘI DUNG TỰ HỌC ................................................................ 73 E. CÂU HỎI ÔN TẬP, CÂU HỎI THẢO LUẬN ......................... 73 3
  4. TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 75 CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHỀ LUẬT SƯ 1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH LUẬT SƯ BÀO CHỮA Trong hệ thống pháp luật của nhiều nước trên thế giới, luật sư là một chế định quan trọng và được xem như một nghề nghiệp đặc biệt. Hoạt động tranh tụng, nghề luật có lịch sử xuất hiện gắn với thiết chế Tòa án gắn với việc tổ chức, hoàn thiện bộ máy nhà nước và thừa nhận quyền được bào chữa, đảm bảo tự do, nhân quyền của các đương sự. Ở Việt Nam, pháp luật thành văn thiết lập chế định luật sư và các quy định pháp luật đảm bảo vai trò tranh tụng của luật sư chỉ được hình thành sau khi thực dân Pháp xâm lược. Từ năm 1945 trở về trước, pháp luật về luật sư là một bộ phận gắn liền với hệ thống pháp luật của chủ nghĩa thực dân và đế quốc xâm lược. Về bản chất, đó là hình thức, công cụ phục vụ cho bộ máy nhà nước thực dân và bán nước. Sau khi nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân được thiết lập, đánh dấu bởi thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự kiện chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945, tư tưởng nhân quyền, đảm bảo quyền tự do các nhân trong đó có quyền tự do cơ bản là quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã được thực hiện trên thực tế. Chỉ 38 ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ sự cần thiết phải thay thế tổ chức luật sư cũ do Pháp bắt đầu thiết lập từ năm 1864 ở nước ta và sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu mới của Cách mạng. Ngày 10/10/1945, Người ký Sắc lệnh số 46/SL quy định cho duy trì các tổ chức đoàn thể luật sư, trong đó nêu rõ: “Cách tổ chức đoàn thể luật sư trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn tạm giữ như cũ. Sắc lệnh ngày 25/5/1930 quy định tổ chức ấy vẫn tạm thi hành 4
  5. với các điều sửa đổi sau này (...) các luật sư có quyền bào chữa ở trước tất cả các tòa án (...)” (Điều 1 và Điều 2). Trong Sắc lệnh này, các tiêu chuẩn để được làm luật sư cũng được quy định cụ thể: có quốc tịch Việt Nam bất luận nam, nữ; có bằng cử nhân luật; đã làm luật sư tập sự trong ba năm (kể từ ngày tuyên thệ) ở một văn phòng luật sư thực thụ trong nước Việt Nam; những người đã làm luật sư tập sự ở Pháp có thể xin tính thời hạn tập sự ở Pháp nhưng chỉ được trừ nhiều nhất là 12 tháng; có hạnh kiểm tốt; được bằng chứng rằng đã hết hạn tập sự và đủ tư cách làm luật sư tập sự... Điều đó cho thấy sự đánh giá cao của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền bào chữa, nghề luật sư và vận dụng nó thích nghi, phù hợp trong điều kiện cụ thể của Cách mạng Việt Nam. Quyền bào chữa đã chính thức trở thành một nguyên tắc hiến định trong lĩnh vực tư pháp. Nguyên tắc ấy đã khẳng định vị trí, vai trò của người luật sư trong xã hội dân chủ pháp quyền với tính cách là người bảo vệ, trợ giúp pháp lý cho nhân dân, đồng thời thể chế hóa quyền bào chữa và nhờ người khác - Luật sư bào chữa cho mình. Sắc lệnh 46/SL ngày 10/10/1945 đã trở thành một cột mốc quan trọng trong việc hình thành khái niệm quyền bào chữa và nghề luật sư trong chế độ Cách mạng. Hơn một năm sau, Hiến pháp đầu tiên (1946) của nước ta, do chính Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo thực hiện, Điều 67 đã quy định: “Các phiên tòa đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”. Một điều trùng hợp ý nghĩa là hơn hai năm sau, trong Bản tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền ngày 10/12/1948 của Đại hội đồng Liên Hiệp quốc, ý tưởng này cũng đã được khẳng định: “Mỗi bị cáo dù đã bị buộc tội đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo luật pháp tại một phiên tòa xét xử công khai với mọi bảo đảm biện hộ cần thiết” (khoản 1, Điều 11). Về sau, Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị đã được Đại hội đồng Liên Hiệp quốc thông qua ngày 16/12/1966 (Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982) cũng khẳng định quyền bào chữa của con người và vai trò của luật sư 5
  6. trong xã hội tiến bộ. Cụ thể là trong quá trình xét xử về một tội phạm hình sự, mỗi người đều có quyền đòi hỏi đủ thời gian phù hợp, điều kiện thuận tiện để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn, trong trường hợp do lợi ích của công lý đòi hỏi, phải bố trí cho người đó một sự giúp đỡ về pháp lý mà người đó không phải trả tiền nếu họ không có đủ điều kiện trả (khoản 3, Điều 14, Công ước). Đến năm 1990, Hội nghị Liên Hiệp quốc lần thứ 8 về phòng chống tội phạm tổ chức ở Havana (Cu Ba) đã thông qua “Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư” - (Basic principles on the role of lawyers) đặt trách nhiệm cho các Chính phủ và Hiệp hội chuyên môn của luật sư ở các nước là phải thúc đẩy những chương trình nhằm thông báo cho công chúng biết rõ vai trò quan trọng của luật sư trong việc bảo vệ các quyền tự do cơ bản của công dân. Cùng với sự phát triền và hoàn thiện dần của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, quyền bào chữa của công dân và vai trò của luật sư ngày càng được nâng cao. Quyền bào chữa và nghề luật sư được xác định ngày càng cụ thể trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác. Hiến pháp nước ta năm 1980, Điều 133 quy định: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý”. Điều 132 Hiến pháp năm 1992 cũng nêu rõ: “Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình”. Nhà nước ta lần lượt thể chế hóa, nâng cao vai trò của luật sư qua các văn bản quy phạm pháp luật từ thấp đến cao: Pháp lệnh Tổ chức luật sư ngày 18/12/1987 và Quy chế Đoàn Luật sư ban hành kèm theo Nghị định số 15/HĐBT ngày 12/2/1989 của Hội đồng Bộ trưởng đánh dấu sự đổi mới về tư duy pháp lý đối với nghề luật sư theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986). Để tiếp tục hoàn thiện chế định luật sư, mười hai năm sau một pháp lệnh mới về luật sư được ban hành, Pháp lệnh luật sư năm 2001 đưa chế định luật sư nước ta tiếp cận với chuẩn mực quốc tế, làm cơ sở cho việc hội nhập thế giới trong quá 6
  7. trình toàn cầu hóa. Sau 5 năm thi hành Pháp lệnh Luật sư 2001, Luật Luật sư năm 2006 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2007) thay thế Pháp lệnh Luật sư năm 2001 cụ thể và chi tiết hóa các quy định trước đây về địa vị pháp lý và xác lập rõ nét hơn vai trò luật sư. Các Bộ luật Tố tụng Hình sự và Bộ Luật Tố tụng dân sự của nhà nước ta cũng từng bước tạo điều kiện thuận lợi để bảo đảm đầy đủ quyền bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân trước pháp luật và không ngừng nâng cao vai trò của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng. 2. QUI TẮC ỨNG XỬ VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA LUẬT SƯ Đạo đức là phép tắc đối xử trong xã hội, là phép tắc về quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân và tập thể, ai cũng phải biết và tuân thủ, giữ dìn. - Luật sư là nghề đang được xã hội quan tâm, nhất là trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. Khi nói đến đạo đức nghề nghiệp của luật sư, trước hết phải đề cập tới sứ mệnh mà người luật sư phải gánh vác, sau đó đến phẩm chất, thanh danh của luật sư, kỹ năng hành nghề và cuối cùng là những chuẩn mực ứng xử của luật sư trong khi hành nghề. - Đạo đức nghề nghiệp của luật sư bao gồm: những qui định chung về đạo đức của bản thân luật sư trong các mỗi quan hẹ với khách hàng, cơ quan nhà nước và đồng nghiệp trong hành nghề. - Những qui tắc chung về đạo đức nghề nghiệp của luật sư: + Độc lập, trung thực, khách quan: Luật sư độc lập trung thực, khách quan và tận tụy trong hành nghề; không vì bất cứ lợi ích vật chất, tinh thần hoặc áp lực nào khác mà làm sai lệch sự thật, trái pháp luật trong hoạt động nghề nghiệp. + Văn hóa ứng xử trong hành nghề và lối sống: Luật sư ứng xử đứng mực, có văn hóa trong hành nghề và trong lối sống để luôn tạo được sự tin cậy và tôn trọng của xã hội đối với luật sư và nghề luật sư. + Nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý: Nghĩa vụ cao cả của luật sư là tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng 7
  8. chính sách. Luật sư tận tâm, tích cực thực hiện yêu cầu trợ giúp pháp lý như đối với các vụ việc có thù lao. - Người luật sư có đạo đức là người thực hiện trọn vẹn các qui tắc chung nói trên. Các qui tắc này luôn bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau và tạo thành bộ qui tắc đạo đức nghề nghiệp của luật sư. 3. NHŨNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM Do chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa nên hệ thống tranh tụng Việt Nam mang đặc điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn (tố tụng xét hỏi), trong đó ghi nhận vai trò trung tâm của thẩm phán, yếu tố tra tấn trong việc điều tra, xác minh chứng cứ không phải là trung tâm. Trong hệ thống này, cơ quan công tố và luật sư có địa vị bất bình đẳng, quyền hạn của công tố lớn hơn quyền của luật sự. Luật sư đứng trước tòa để trình bày chứ không phải để tranh tụng nên họ đóng vai trò là người bổ trợ cho quá trình tố tụng do tòa án điều khiển. Hoạt động tranh tụng của luật sư được hiểu là tổng hợp các hoạt động và kỹ năng nghề nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ với nhau diễn ra tại phiên tòa dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa nhằm mục đích thuyết phục Hội đồng xét xử nghe theo ý kiến của mình. Vai trò của luật sư tranh tụng là cách thức tác động và ý nghĩa xã hội của luật sư trong quá trình thực hiện hoạt động tranh tụng nhằm đảm bảo các mục đích bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ, bảo vệ pháp chế, pháp luật, bảo vệ công lý, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và giám sát hoạt động tư pháp. Hoạt động tranh tụng của luật sư diễn ra theo các giai đoạn gồm: chuẩn bị tranh tụng gắn với các thủ tục bắt đầu phiên tòa; kiểm tra chứng cứ, tài liệu về vụ án khi tham gia quá trình xét hỏi tại phiên tòa; tranh luận giữa các bên; công bố kết quả tranh tụng. 8
  9. Trong hoạt động tranh tụng, luật sư có các vai trò cơ bản sau như: vai trò bào chữa, bảo vệ thân chủ; vai trò bảo vệ công lý, công bằng xã hội; vai trò bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế và hoàn thiện hệ thống pháp luật; vai trò phổ biến, giáo dục pháp luật; vai trò giám sát hoạt động tư pháp. Vai trò bào chữa, bảo vệ thân chủ là một trong những vai trò tranh tụng cơ bản của luật sư, được pháp luật quy định ngày càng chặt chẽ và được thực hiện ngày càng nhiều trong thực tế các phiên tòa xét xử hiện nay. Xét mặt lý luận và thực tiễn, vai trò này hướng tới mục đích bảo vệ quyền của bị can, bị cáo và các đương sự trước Tòa nói riêng, quyền cơ bản của con người nó chung - yêu cầu cấp thiết, quan trọng khi xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và luật sư là một trong những thiết chế đảm bảo của nhà nước về mặt xã hội. Khi tham gia tranh tụng, luật sư triển khai các kỹ năng, nghiệp vụ của mình, đưa ra các lập luận nhằm mục đích gỡ tội cho các thân chủ. Trường hợp không có chứng cứ gỡ tội mà tồn tại các chứng cứ không có lợi cho thân chủ của mình, luật sư vẫn phải tranh tụng nhằm mục đích bào chữa, hạn chế tối đa sự trừng phạt của Nhà nước đối với bị can, bị cáo Vai trò bào chữa của luật sư trong tố tụng hình sự được hình thành trên cơ sở nghiên cứu, tìm tòi, suy nghĩ để tìm hiểu được sự thật khách quan của vụ án. Luật sư tự xây dựng bản luận cứ với các lý lẽ kèm theo các chứng cứ thu thập được và các tình tiết có lợi nhất cho thân chủ với mục đích thuyết phục Hội đồng xét xử chấp nhận, việc này quyết định lớn đến kết quả bào chữa. Tuy nhiên, việc triển khai các kỹ năng xét hỏi và kỹ năng tranh luận tại phiên tòa mới thể hiện rõ nét vai trò bảo vệ thân chủ của luật sư trên cơ sở xác định rõ về tư cách tham gia tố tụng, các quy định của pháp luật liên quan đến vụ án, theo dõi và ghi chép về diễn biến phiên tòa, đặc biệt là sự ứng phó với các tình huống gặp phải trong quá trình xét xử để điều chỉnh nội dung tranh luận nhằm bảo vệ các luận cứ mà mình đưa ra một cách chặt chẽ, lôgic, mang tính thuyết phục cao. 9
  10. Việc luật sư triển khai các kỹ năng tranh tụng, bố trí thời gian hợp lý, xác định và áp dụng chính xác, linh hoạt các quy định của pháp luật, loại tội, đối tượng để đưa ra lập luận sẽ quyết định lớn đến kết quả bào chữa. Nếu bị cáo phạm vào tội phạm về an ninh quốc gia, luật sư cần chỉ rõ các nguyên nhân, điều kiện phạm tội, hoàn cảnh sa ngã, động cơ, mục đích để tranh luận; hay nếu thân chủ là người chưa thành niên thì cần chú trọng tới nguyên nhân, điều kiện phạm tội, đặc điểm về nhận thức để bào chữa… 4. CÁC QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ VÀ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ Hiện nay, trong khoa học pháp lý nói chung, vẫn tồn tại rất nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau về khái niệm luật sư, vị trí và vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự. Ở Việt Nam, nghề luật sư được hiểu đồng nhất với các tên gọi luật gia, luật sư, người bào chữa, bào chữa viên nhân dân, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo, các đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, người đại diện theo ủy quyền. Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Luật sư là người có chức trách, dùng pháp luật bào chữa cho bị can trước tòa án” Tại điểm a, khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã quy định luật sư là một trong những người có tư cách thực hiện việc bào chữa cho bị can, bị cáo tại phiên tòa (bên cạnh đó còn có người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân cũng được tham gia bào chữa). Quy định này thừa nhận tư cách pháp lý trong việc tham gia tố tụng nói chung và tố tụng hình sự nói riêng của luật sư. Theo đó, sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ tương ứng trong suốt quá trình luật sư tham gia vào việc giải quyết vụ án hình sự. Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật luật sư năm 2006 đã có các quy định chi tiết xác định rõ về khái niệm, tiêu chuẩn, nguyên tắc hành nghề… đối với luật sư. 10
  11. “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng)” (Điều 2). Điều kiện, tiêu chuẩn của Luật sư được quy định tại Điều 10, Luật Luật sư 2006 là: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, bằng cử nhân Luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể hành nghề luật sư”. “Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 của Luật này muốn được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư.” (Điều 11). Từ những quy định nêu trên, có thể hiểu một cách khái quát: Luật sư là những người hoạt động và hành nghề luật dưới hình thức tư vấn pháp luật và tham gia tố tụng đáp ứng đủ các tiêu chuẩn, điều kiện của quy định hành nghề luật sư và các quy định pháp luật khác có liên quan để cung ứng dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng. Luật này cũng quy định 5 nguyên tắc hành nghề đối với luật sư tại Điều 5 gồm: “1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật 2. Tuân theo quy tắc ứng xử và đạo đức nghề nghiệp luật sư. 3. Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan. 4. Sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng. 5. Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp luật sư.” Luật sư giữ một vị trí pháp lý hết sức quan trọng trong hoạt động tố tụng. Tại Việt Nam, địa vị pháp lý tố tụng của luật sư được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, Luật Luật sư năm 2006 và các văn bản pháp luật có liên quan. 11
  12. Trong tố tụng hình sự, địa vị pháp lý của luật sư được xác định khi họ tham gia tố tụng với vai trò là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 58, 59 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003). Điều 27 Luật này quy định về hoạt động tố tụng của luật sư: “1. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này. 2. Luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận người bào chữa, giấy chứng nhận người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án hình sự hoặc giấy chứng nhận người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính (sau đây gọi chung là giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư) khi xuất trình đủ giấy tờ thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư của khách hàng và giấy giới thiệu của tổ chức hành nghề luật sư hoặc của chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề đối với trường hợp luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư; b) Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư của khách hàng và giấy giới thiệu của Đoàn luật sư nơi luật sư đó là thành viên đối với trường hợp luật sư hành nghề với tư cách cá nhân; Thẻ luật sư và giấy giới thiệu của cơ quan, tổ chức nơi luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó; c) Thẻ luật sư và văn bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư hoặc của chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề đối với luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc Thẻ luật sư và văn bản phân công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân để tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. 3. Thời hạn cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư không quá ba ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. 12
  13. 4. Giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư có giá trị trong các giai đoạn tố tụng, trừ trường hợp bị thu hồi, luật sư bị thay đổi hoặc không được tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. 5. Khi cần liên hệ với cá nhân, cơ quan, tổ chức để thực hiện quyền, nghĩa vụ và các hoạt động có liên quan đến việc bào chữa, bảo vệ quyền lợi của khách hàng, luật sư xuất trình Thẻ luật sư và giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư.” Địa vị pháp luật tố tụng của luật sư có hiệu lực khi luật sư được cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng. Giấy chứng nhận đó có giá trị trong các giai đoạn tố tụng từ điều tra, khởi tố đến xét xử và thi hành án. Thẻ luật sư và giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư là căn cứ pháp lý để các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan có liên quan, các tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo đảm cho luật sư hoàn thành nhiệm vụ của mình trong quá trình tham gia tố tụng. Nếu giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư bị thu hồi, luật sư bị thay đổi hoặc không được tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật thì trách nhiệm tố tụng của luật sư sẽ bị mất, địa vị pháp lý của luật sư trong hoạt động cụ thể đó cũng không còn nữa. Quyền của Luật sư trong tố tụng hình sự bao gồm: Với tư cách của người bảo vệ quyền lợi của đương sự - người bào chữa, luật sư có các quyền lợi được pháp luật quy định tương ứng với địa vị pháp lý họ đảm nhiệm. Bên cạnh các quyền chung được quy định tại khoản 1 Điều 21, Luật Luật sư năm 2006 như: Hành nghề luật sư, lựa chọn hình thức hành nghê luật sư và hình thức tổ chức hành nghề luật sư theo quy định của Luật này; Hành nghề luật sư trên toàn lãnh thổ Việt Nam;Hành nghề luật sư ở nước ngoài; Các quyền khác theo quy định của Luật này, luật sư còn có những quyền riêng, cụ thể khi tham gia tố tụng. Trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, theo quy định tại Điều 36 thì người bào chữa (Luật sư) có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can (giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự). Trường hợp cần phải giữ bí mật 13
  14. điều tra đối với tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Họ có quyền có mặt khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác. Người bào chữa có các quyền: đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch quy định; quyền đưa ra những chứng cứ và yêu cầu; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam; được đọc hồ sơ vụ án và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra; tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa; khiếu nại các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án và quyết định của tòa nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Trên cơ sở kế thừa các quy định đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã có nhiều quy định mới, mở rộng quyền của người bào chữa nói chung, luật sư nói riêng trong quá trình họ tham gia tố tụng hình sự. Luật sư “có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác”. Sự có mặt của Luật sư không chỉ giúp bị can vững tin, an tâm hơn, tranh tâm lý hoang mang, lo lắng, sợ hãi quá mà khai bừa vì luật sư sẽ giải thích cho họ hiểu rõ về tính chất của hành vi họ đã thực hiện đã vi phạm quy định nào của luật, bị xử lý thế nào về trách nhiệm hình sư và bồi thường dân sự (nếu có), những tình tiết nào có thể áp dụng để giảm nhẹ hình phạt.... Hơn thế, đây còn là hình thức thực hiện việc giám sát quá trình điều tra của Cơ quan điều tra, tránh tình trạng vi phạm về thẩm quyền, thời hạn, nguyên tắc, việc mớm cung, ép cung, dùng nhục hình để buộc người bị tạm giữ phải khai. Việc “xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa” của luật sư nhằm kiểm tra tính chính xác của các thông tin được khai thác trong quá trình điều tra nhằm đảm bảo tính khách quan, sự thật, bảo vệ quyền lợi chính đáng 14
  15. cho thân chủ của mình; giám sát quá trình làm việc của các cơ quan tiến hành tố tụng, đảm bảo tinh thần trách nhiệm, sự thận trọng, nghiêm túc của người có thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ, tránh những sai phạm, tình trạng bị cáo phản cung trước tòa, gây ảnh hưởng và làm mất niềm tin của quần chúng vào cơ quan tiến hành tố tụng. Giai đoạn điều tra mang ý nghĩa quan trọng, là giai đoạn thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, kết quả điều tra là cơ sở để Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can trước tòa hoặc quyết định đình chỉ vụ án và đây cũng là cơ sở để Tòa án xét xử đúng người, đúng tội. Do vậy, đi kèm với quyền trên, luật sư có quyền “đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can”, tránh tình trạng luật sư bị cơ quan điều tra gây khó dễ, không được thông báo về lịch hỏi cung, hoặc hoãn bất thường, nhiều lần, làm mất thời gian và gây trở ngại cho quá trình thu thập chứng cứ của họ. So với bị can, bị cáo, luật sư là người nắm rõ các quy định pháp luật, hiểu rõ về bản chất, nội dung và thủ tục tố tụng nên họ sẽ biết được việc “đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch” được thực hiện khi nào. Điều này không chỉ có tác dụng hỗ trợ cho bị can, bị cao thực hiện các quyền của họ mà còn đảm bảo sự vô tư, khách quan của những người tham gia tố tụng, để họ đưa ra những phán quyết chính xác, công bằng. Với quyền này, luật sư sẽ có điều kiện thuận lợi để thực hiện trọn vẹn vai trò của mình khi tham gia giải quyết vụ án. Luật sư được “thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác”; không chỉ “đọc, ghi chép” mà còn được “sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật”. Đó không chỉ là quyền mà còn được xem như là biện pháp để luật sư tiến hành quá trình 15
  16. điều tra, trách nhiệm của họ đối với bị can, bị cáo khi họ nhận bào chữa tuy trình tự, thủ tục của quá trình chứng minh, thu thập chứng cứ của luật sư không bị pháp luật điều chỉnh như đối với cơ quan tiến hành tố tụng - cơ quan có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Bên cạnh đó, luật sư có thể đề xuất các yêu cầu điều tra lại, điều tra bổ sung, hỏi thêm người làm chứng, giám định, giám định lại, đối chất, tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn nếu có căn cứ pháp lý để không chỉ đảm bảo cho việc xác minh sự thật khách quan, bảo vệ quyền lợi cho thân chủ mình mà còn giúp kiểm sát viên nhìn nhận rõ và sâu sắc hơn về vấn đề để tiến hành truy tố đúng người, đúng tội. Việc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa được nêu rõ tại Điều 19, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003. Theo đó, cùng với kiếm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, luật sư có “quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.” Điểm e, khoản 2 Điều 57 có đề cập quyền được “gặp người bị tạm giữ, gặp bị can, bị cáo đang tạm giam” nhằm làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án, đặc điểm nhân thân, hoàn cảnh gia đình người phạm tội... trên cơ sở đó đưa ra những lập luận bào chữa phù hợp. Các quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa và không chỉ khiếu nại quyết định mà còn khiếu nại cả hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì luật sư còn có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án là cơ sở để luật sư thực hành vai trò bào chữa của mình, tham gia vào quá trình làm sáng tỏ những vấn đề của vụ án đề Hội đồng xét xử căn cứ vào, đưa ra những phán quyết sáng suốt. Tương ứng với quyền, luật sư phải thực hiện các nghĩa vụ khi hành nghề gồm: “Tuân theo các nguyên tắc hành nghề luật sư; Sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng; Tham gia tố 16
  17. tụng trong các vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu; Thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí; Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này.” (Điều 21, Luật luật sư 2006). Trong tố tụng, vấn đề này được nêu ở khoản 3, Điều 36, Bộ luật Tố tụng hình sự 1988: sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Người bào chữa không được từ chối bào chữa cho bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận, nếu không có lý do chính đáng. Người bào chữa không được tiết lộ bí mật mà mình biết được trong khi làm nhiệm vụ. Đến Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, có sáu nghĩa vụ được đưa ra: “a) Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này; b) Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; c) Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng; d) Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; đ) Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án; e) Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.” 17
  18. Ngoài ra, Luật này còn quy định: “Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữ, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”. Điều này cho thấy khi tiến hành hoạt động tranh tụng, luật sư có trách nhiệm rất lớn không chỉ đối với thân chủ của họ, bản thân họ mà còn gắn với nhà nước. Do đó, xã hội không chỉ đòi hỏi trí truệ của người luật sư mà còn đề cao đạo đức nghề nghiệp của họ. Việc thực hiện nghĩa vụ của luật sư ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của bị can, bị cáo, góp phần giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, đúng pháp luật. Cũng như pháp luật của nhiều nước trên thế giới, Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam 2003 cũng quy định: “Một người có thể bào chữa cho nhiều người bị tam giam, tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị tam giữ, bị can, bị cáo.” (khoản 3, Điều 56). Quy định này thể hiện quyền tự do hành nghề của luật sư, tạo điều kiện để người bị tạm giam, tạm giữ thực hiện và tôn trọng quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của họ. Khi hoạt động của luật sư không có sự mâu thuẫn về lợi ích thì quá trình giải quyết vụ án mới khách quan và toàn diện được. 18
  19. CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1. LUẬT SƯ VỚI TƯ CÁCH LÀ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Theo quy định tại Điều 56 BLTTHS thì người bào chữa có thể là: Luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân. Trong số những người tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa nói trên, có thể khẳng định luật sư là người tham gia có hiệu quả nhất vì: Thứ nhất: Luật sư là người có trình độ, kiến thức pháp luật; Thứ hai: Luật sư là người có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động bào chữa; Thứ ba: Luật sư là người được đào tạo không chỉ đơn thuần là kiến thức pháp luật mà họ còn được đào tạo về nghiệp vụ, tức kỹ năng hành nghề. Do vậy, họ là người giúp đỡ bị can, bị cáo về mặt pháp lý có hiệu quả nhất. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và các đương sự khác bằng những phương tiện và phương pháp hợp pháp thể hiện rõ nét nhất ở vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự. Bào chữa là một trong những chức năng quan trọng không thể thiếu được trong quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Không phải người bị tạm giữ, bị 19
  20. can, bị cáo nào cũng có khả năng tự bào chữa một cách có hiệu quả. Do vậy, pháp luật tạo điều kiện để họ thực hiện quyền bào chữa của mình bằng việc có thể nhờ người khác trong đó có luật sư bào chữa. Quyền nhờ người khác bào chữa là một trong những hình thức thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo thông qua sự giúp đỡ của những người được pháp luật quy định nhằm giúp bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình. “Luật sư là người đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật và tham gia hoạt động tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật”. Như vậy, luật sư là người bào chữa chuyên nghiệp. Người có đủ các điều kiện sau đây thì có thể gia nhập Đoàn luật sư: - Là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam; - Có trình độ đại học luật; - Tốt nghiệp khóa đào tạo nghề luật sư ở Việt Nam hoặc ở nước ngoài được Việt Nam công nhận, trừ trường hợp được miễn; - Có phẩm chất đạo đức tốt; - Không là cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. Luật sư và người bào chữa không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Trong thực tế không ít người đã cho rằng đã là người bào chữa thì phải là luật sư và luật sư luôn luôn là người bào chữa. Theo quy định của pháp luật thì luật sư chỉ trở thành người bào chữa khi họ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo. Người bào chữa có thể là luật sư nhưng cũng có thể không phải là luật sư. Trong TTHS, nếu luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thì họ tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Trong số những người tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa theo quy định của BLTTHS thì, dù họ là luật sư, bào chữa viên nhân dân hay người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đều phải được cơ 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2