Giáo trình Luật sư và đạo đức nghề luật sư: Phần 2
lượt xem 13
download
Nối tiếp phần 1, phần 2 của Giáo trình Luật sư và đạo đức nghề luật sư trình bày những nội dung về: Chương 4 - Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư trong quan hệ với khách hàng; Chương 5 - Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư trong quan hệ với đồng nghiệp; Chương 6 - Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư trong quan hệ với cơ quan, người tiến hành tố tụng và cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác;... Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình Luật sư và đạo đức nghề luật sư: Phần 2
- Giáo trình Luật sư và đạo đức nghề luật sư Chương 4 QUY TẮC ĐẠO ĐỨC VÀ ỨNG XỬ NGHỀ NGHIỆP LUẬT SƯ TRONG QUAN HỆ VỚI KHÁCH HÀNG 1. Những vấn đề chung 1.1. Quan hệ giữa luật sư và khách hàng Trong lịch sử hình thành và phát triển NLS trên thế giới cũng như ở Việt Nam, sứ mệnh nghề nghiệp, mục đích và kỹ năng hành nghề đều khởi nguồn từ nhu cầu của khách hàng, những người yếu thế để đấu tranh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm từ các chủ thể quyền lực, tố tụng và chủ thể khác. Do đó, nói tới vai trò của LS trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng là nói tới những tác động, ảnh hưởng của LS trong tiến trình tố tụng và trong đời sống xã hội thông qua chức năng cao quý của nghề nghiệp, góp phần vào quá trình dân chủ hóa hoạt động tư pháp, tạo lập công bằng xã hội. Thông qua hoạt động nghề nghiệp, LS không chỉ thiết thực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, mà còn bảo vệ pháp luật, công lý như là các đại lượng phản ánh niềm tin của người dân vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người. Tuy nhiên, ở đây cũng phải làm rõ một vấn đề tưởng chừng như đơn giản nhưng chưa nhiều LS quan tâm đến, đó là tình trạng một số khách hàng không thể nhận biết một cách đầy đủ về khả năng của LS, bao gồm trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp. Trong đa số trường hợp, khách hàng tự tìm đến LS (qua giới thiệu của bạn bè, qua tìm hiểu trên các phương tiện thông tin đại chúng...) và hết sức tin tưởng vào LS. Trong khi đó, yêu cầu của khách hàng không giống nhau cho tất cả các vụ việc, chưa kể tư cách tham gia tố tụng của họ là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan... Một LS liêm chính cần phải chia sẻ cho khách hàng biết 178
- Học viện Tư pháp mức độ khả năng chuyên môn của mình, mà không phải bất cứ việc gì đều nhận tư vấn, bào chữa hoặc bảo vệ quyền lợi. Trong thực tiễn xét xử hình sự, có những LS có khả năng chuyên môn và kinh nghiệm trong các vụ án đặc thù nhất định (tội phạm về kinh tế, tham nhũng, xâm phạm sở hữu...), nhưng có thể lại rất ít kinh nghiệm trong các vụ án liên quan đến người chưa thành niên phạm tội, về án ma túy, về sở hữu công nghiệp... Trong lĩnh vực tư vấn, có nhiều LS có hiểu biết và khả năng hành nghề chuyên sâu trong các lĩnh vực thương mại, kinh tế, dân sự, nhưng các lĩnh vực M&A, bảo hộ sở hữu trí tuệ, thương mại có yếu tố nước ngoài, không phải LS nào cũng đủ khả năng để cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Nói cách khác, LS phải biết từ chối những vụ việc vượt quá khả năng và kinh nghiệm của mình. Điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng đối với các LS, nhất là một số LS trẻ mới bước vào nghề. Trong một TCHNLS, cũng nên phân loại vụ việc cho những LS có kiến thức và kỹ năng hành nghề khác nhau, mới có thể tích lũy kinh nghiệm và đáp ứng được nhu cầu chính đáng của khách hàng. Về phương diện đạo đức nghề nghiệp, LS không nên tạo ra ảo tưởng cho khách hàng là mình có thể giải quyết vụ việc một cách tốt hơn các LS khác, hoặc gián tiếp thông báo cho khách hàng mình có mối liên hệ nào đó với những người tiến hành tố tụng, đặt khách hàng vào tình thế phải nhờ mình làm LS mà không phải nhờ người khác có khả năng thật sự. Nhận biết rõ khách hàng của LS là ai là một khía cạnh cần quan tâm trong khi tiếp xúc với khách hàng. Thật ra, trong vụ án hình sự, pháp luật tố tụng cho phép người bị tạm giữ, bị can được nhờ và LS được tham gia bào chữa từ giai đoạn tạm giữ, khởi tố điều tra (khởi tố bị can). Tuy nhiên, trong thực tế đã xảy ra một số trường hợp CQTHTT có thể làm “khó dễ” đối với LS. Mặt khác, phải thừa nhận trong thực tiễn đời sống, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng là một con người, có những mối quan hệ khác nhau (trong gia đình, xã hội, đơn vị công tác...), nên khi xảy ra vụ việc bị tạm giữ, bị bắt tạm giam, người đến nhờ LS có thể chỉ là bạn bè, người “quen đặc biệt” nào đó... Về mặt pháp lý, pháp luật về LS và pháp luật về tố tụng hình sự không phân biệt bắt buộc đích danh người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mới có quyền nhờ LS và quy chế hoạt động của Đoàn LS cũng không cấm gia đình, thân nhân của họ đến liên hệ nhờ LS 179
- Giáo trình Luật sư và đạo đức nghề luật sư bào chữa, nhất là trong điều kiện bị can, bị cáo bị tạm giữ hoặc tạm giam. Do đó, khi tiếp xúc với một người đến liên hệ nhờ bào chữa, LS cần tìm hiểu mối liên hệ của người này với đương sự, nhận biết chính xác mối quan hệ đó để có ứng xử cho đúng mực. Điều này hết sức quan trọng, vì thực tế đã xảy ra trường hợp là một bị can bị bắt tạm giam, người đến nhờ LS có “quan hệ tình cảm” mà không phải là vợ của bị can, dẫn đến việc than phiền của gia đình, cũng như tranh chấp nhau trong việc giành “suất thăm nuôi định kỳ” trong trại tạm giam giữa hai người này. Ngoài ra, có trường hợp người đến nhờ LS là người môi giới, móc nối theo đơn đặt hàng hoặc “ăn chia” trên tỷ lệ thỏa thuận thù lao của khách hàng nên LS cần hết sức cẩn trọng đối với các đối tượng loại này. Trong thực tế, có một số trường hợp khách hàng nhầm lẫn tư cách, quyền và nghĩa vụ của LS trong đời sống với trong quá trình tham gia tố tụng, là do nhận thức và cách hiểu chưa đúng về thực hiện chức năng xã hội và vai trò, vị thế của LS, nên đã đòi hỏi, yêu cầu LS tiến hành những công việc chưa đúng, chưa phù hợp với quy định của pháp luật. Ví dụ 1: Trong một vụ án hình sự, thân nhân của gia đình bị can A đến nhờ LS tham gia bào chữa từ giai đoạn điều tra, LS đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình, tận tâm giúp đỡ bị can được tại ngoại, điều tra, nghiên cứu hồ sơ và trao đổi thường xuyên với bị can. Tuy nhiên, bị can sau khi được tại ngoại, mặc dù vụ án chưa được xét xử sơ thẩm, lại yêu cầu LS phải khởi kiện Điều tra viên, Kiểm sát viên và cho rằng LS được quyền tham gia ý kiến trong các cuộc họp của Cơ quan điều tra, VKS (?), nên khi LS không thực hiện thì quay sang kiện LS “đồng thuận” với các CQTHTT, gây thiệt hại cho bị can... Yêu cầu khởi kiện và nhận thức của bị can A như vậy có đúng không? Bình luận: Rõ ràng, bị can A chưa phân biệt được tư cách tham gia tố tụng của LS với người tiến hành tố tụng, chưa có được sự hiểu biết đúng đắn về trách nhiệm, nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về các CQTHTT trong vụ án hình sự. Do đó, việc bị can A đòi hỏi LS phải làm như trên là không phù hợp với quy định của pháp luật. 180
- Học viện Tư pháp Việc đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng và tiến hành thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án... là quyền của người bào chữa, hoàn toàn không phải là nghĩa vụ buộc LS phải làm. Trong quá trình hành nghề, LS phải xác định rõ những kỹ năng, quy tắc và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, muốn yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng thì phải làm rõ họ đã không vô tư, khách quan trong khi làm nhiệm vụ. LS phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để cân nhắc thực hiện các quyền của mình, hoàn toàn không thể coi các yêu cầu của bị can A là nghĩa vụ bắt buộc LS phải làm, nếu không làm thì gây hậu quả thiệt hại cho bị can A. Các yêu cầu khởi kiện những người tiến hành tố tụng nói trên là không phù hợp với pháp luật, không có căn cứ. Trong quá trình hành nghề và xử lý mối quan hệ giữa LS và khách hàng, pháp luật không thể đồng nhất và yêu cầu LS phải bảo vệ quyền lợi cho khách hàng bằng mọi giá, nên cùng với việc bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp cho khách hàng, Điều 3 LLS năm 2006 đã quy định rõ: “Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Điều này có nghĩa là pháp luật tạo ra một hành lang pháp lý cho LS hành nghề bảo đảm các nguyên tắc, pháp luật, trình tự và không thể buộc LS phải luôn đáp ứng các yêu cầu không hợp lý, không chính đáng của thân chủ. Chính giới hạn này phân biệt tư cách của LS với chính khách hàng của LS. Thực tiễn cho thấy, mối quan hệ giữa LS và khách hàng có thể nhận diện trên ba phạm vi sau đây: Thứ nhất, quan hệ trong phạm vi tham gia tư vấn, hỗ trợ về pháp lý, tham gia tố tụng và cung cấp các dịch vụ pháp lý khác bào chữa trong các giai đoạn tố tụng. Đây là mối quan hệ cơ bản, phát sinh trách nhiệm pháp lý của LS trước pháp luật và trước khách hàng. LS sau khi đã nhận trách nhiệm cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng, tùy theo tính chất của vụ việc, phải có kế hoạch và bước đi cần thiết để tiến hành các công việc phục vụ cho việc tư vấn, hỗ trợ về pháp lý cho khách hàng. 181
- Giáo trình Luật sư và đạo đức nghề luật sư Thứ hai, quan hệ với tư cách con người với nhau trong đời sống xã hội. Nhận biết mối quan hệ này một cách đúng đắn có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh ứng xử hành vi của LS với khách hàng. Trong giao tiếp công việc, dần dần đã hình thành mối quan hệ tình cảm chân chính nảy sinh một cách tự nhiên giữa LS và khách hàng, trong đó thể hiện sự tin cậy, tôn trọng lẫn nhau và cùng chung ước vọng làm tất cả những gì tốt nhất cho khách hàng trên cơ sở pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Trong thực tiễn, nhiều khách hàng muốn LS chia sẻ sự quan tâm đến số phận của họ “mọi lúc, mọi nơi” bằng cách mời LS tham dự những cuộc gặp nào đó, mời ăn uống, tiệc tùng, vui chơi thể thao... Trên thế giới, báo chí có đề cập đến một số trường hợp từ mối quan hệ thâm giao nói trên, LS có quan hệ tình cảm hoặc đi đến hôn nhân với khách hàng. Điều đó cho thấy, xử lý mối quan hệ với khách hàng ngoài phạm vi công việc là một vấn đề hết sức nhạy cảm, cần có giới hạn nhất định, để người LS vừa giữ được những chuẩn mực nghề nghiệp, vừa có thể chia sẻ những bức xúc, quan tâm của khách hàng một cách tận tâm và chu đáo. Thứ ba, quan hệ về tài sản giữa LS và khách hàng. Ở đây, cần phân biệt mối quan hệ này với thỏa thuận về thù lao với khách hàng. Trong thực tế, đã có nhiều trường hợp, xuất phát từ những lý do và nguyên nhân khác nhau, đã có việc LS có quan hệ tài sản với khách hàng (như vay mượn tiền, hùn vốn làm ăn, được tặng cổ phiếu sáng lập, ưu đãi trong công ty...). Đạo đức nghề nghiệp LS không cho phép LS chạy theo lợi ích vật chất, coi đó là mục tiêu duy nhất của hành nghề LS và không được tham gia các hoạt động kinh doanh mà có thể ảnh hưởng đến uy tín và thanh danh của NLS. LS cũng không được sử dụng tiền, tài sản của khách hàng trong khi hành nghề; không được soạn thảo hợp đồng tặng cho tài sản của khách hàng cho chính LS hoặc cho những người thân thích của LS; không được nhận tiền hoặc bất kỳ lợi ích vật chất nào khác từ người khác để thực hiện hoặc không thực hiện vụ việc, nếu việc đó có thể gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng... 1.2. Sự cần thiết quy định quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp điều chỉnh mối quan hệ giữa luật sư và khách hàng Về mặt pháp lý, thực chất quan hệ cung cấp dịch vụ pháp lý giữa LS với khách hàng trong đời sống và trong tố tụng là quan hệ mang tính dịch 182
- Học viện Tư pháp vụ. Tuy nhiên, như đã được nhấn mạnh trong Chương II về hành nghề LS, LS hành nghề không chỉ quan tâm đến tính “dịch vụ” hay thù lao của khách hàng và những lợi ích vật chất, tinh thần, mà còn phải quan tâm đến yếu tố “phục vụ”, không để yếu tố dịch vụ lấn át tính chất phục vụ của nghề nghiệp LS. Đó chính là giá trị cốt lõi tạo ra vị thế và hình ảnh “hiệp sĩ” trong trái tim công chúng. Những yếu tố phi vật chất, phi dịch vụ còn thể hiện trong hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, các đối tượng thuộc diện chính sách, bào chữa theo chỉ định của Tòa án hoặc tham gia với tư cách là LS của tổ chức, cơ quan, chính quyền, từng bước phủ kín nhu cầu cung cấp dịch vụ pháp lý cho đông đảo các tầng lớp nhân dân. Ý nghĩa, tính chất trong việc phục vụ cho lợi ích cộng đồng, giúp lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, hòa giải các xung đột về lợi ích giữa các cá nhân và chủ thể xã hội khác, nâng cao vị thế của người LS như một cầu nối chuyển tải pháp luật là những vấn đề thuộc về quan niệm, nhận thức liên quan đến chức năng xã hội của LS. Xác định ranh giới điều chỉnh pháp luật đối với các loại quan hệ xã hội nào tuỳ thuộc vào mức độ điển hình, phổ biến của quan hệ xã hội cần điều chỉnh và bản thân đối tượng điều chỉnh. Nói tới phạm vi điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động LS là nói tới ranh giới của việc Nhà nước sử dụng pháp luật nhằm can thiệp công khai và tác động đến các quan hệ nảy sinh trong quá trình hoạt động hành nghề của LS. Xác định ranh giới này là một công việc khó khăn, vì phụ thuộc vào nhu cầu điều chỉnh và tính cấp thiết của phương thức điều chỉnh. Vì vậy, cần xem xét đến phạm vi và đối tượng điều chỉnh của pháp luật về LS là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động của LS. Hiện nay, về mặt lý luận, các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý chưa có được sự thống nhất trong việc phân loại các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động của LS. Trong hoạt động xây dựng pháp luật, hệ thống hóa pháp luật và áp dụng pháp luật, một số cơ quan chưa có sự nhất quán về quan niệm và phạm vi điều chỉnh của pháp luật về LS, chưa định hình rõ nét địa vị pháp lý của LS là một chủ thể tư pháp độc lập hoạt động nghề nghiệp trong lĩnh vực tư vấn, tranh tụng và cung cấp các dịch vụ pháp lý khác nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức. Nguyên nhân của tình trạng trên là quá trình xây dựng và hoàn 183
- Giáo trình Luật sư và đạo đức nghề luật sư thiện pháp luật về LS phụ thuộc vào sự tham gia của các chủ thể tư pháp trong các quan hệ xã hội và mức độ quan tâm của Đảng và Nhà nước về xây dựng pháp luật liên quan đến hoạt động của LS. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về LS gồm các nhóm quan hệ như sau: - Nhóm quan hệ phát sinh giữa các LS với nhau tạo thành tổ chức xã hội - nghề nghiệp và tổ chức hành nghề, trong đó bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh về điều kiện, tư cách, phạm vi hành nghề, quyền và nghĩa vụ của LS, tổ chức hành nghề và tổ chức xã hội nghề nghiệp, thù lao và xử lý vi phạm... - Nhóm quan hệ phát sinh giữa LS với khách hàng, bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh về cách thức tiếp cận và thỏa thuận giữa LS và khách hàng, thù lao, các điều cấm và quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong quan hệ với khách hàng được pháp lý hóa. - Nhóm quan hệ phát sinh giữa LS với các CQTHTT và cơ quan có thẩm quyền khác trong hoạt động nghề nghiệp, bao gồm các quy phạm pháp luật của nhiều ngành luật khác nhau điều chỉnh các quan hệ liên quan đến quyền và nghĩa vụ của LS trong tố tụng (hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động...); các quy phạm xác định quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo, đương sự liên quan đến quá trình tố tụng với LS và với các CQTHTT. - Nhóm quan hệ phát sinh về mặt quản lý nhà nước và sự tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp LS, bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật phát sinh từ mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và TCHNLS. Như vậy, pháp luật về LS cần được hiểu trên hai bình diện: Một là, xét ở phạm vi rộng thì pháp luật về LS được hiểu là toàn bộ các yếu tố và chế định pháp luật liên quan, không bị giới hạn bởi ngành hay phân ngành luật nào. Đối với các quan hệ xã hội có LS tham gia nhưng chưa có một ngành luật nào điều chỉnh trực tiếp thì do pháp luật về LS điều chỉnh, còn các quan hệ khác đã có ngành luật điều chỉnh “gián tiếp” hoặc cụ thể hóa chế định về LS thì cần được hoàn thiện, không san sẻ, chia cắt, biệt lập chúng. Có thể nêu ra ví dụ thuyết phục 184
- Học viện Tư pháp là các ngành luật thương mại, kinh tế đều được hoàn thiện trên cơ sở và điều kiện đã có Bộ luật Dân sự và các nghĩa vụ dân sự cũng phát sinh trong quản lý hành chính, trong tố tụng hình sự, dân sự, thương mại, kinh tế... Hai là, xét ở phạm vi hẹp, pháp luật về LS là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các phạm vi cung cấp dịch vụ pháp lý, quyền và nghĩa vụ của LS, tổ chức, hoạt động và cơ chế quản lý đối với LS. Như vậy, cho dù xét trên phạm vi rộng hay hẹp thì các yếu tố cấu thành nên pháp luật về LS bao gồm các nguyên tắc, định hướng cơ bản về phát triển NLS ở Việt Nam; các quy phạm pháp luật thực định điều chỉnh trực tiếp hoạt động của LS trong các phạm vi hành nghề theo quy định; và các thiết chế pháp lý liên quan hỗ trợ về quản lý, giám sát, xử lý vi phạm. Có thể nhận thấy “hạt nhân” cơ bản là các quy phạm pháp luật được hình thành từ nhiều ngành, phân ngành và chế định pháp luật khác nhau. Nguồn của pháp luật về LS không chỉ bao gồm các quy phạm pháp luật trong nước được quy định trong Hiến pháp, LLS và các văn bản dưới luật, mà còn có các quy phạm pháp luật trong các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương mà Việt Nam tham gia ký kết, cũng như sự chuyển hóa của một số quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của LS thành điều cấm của pháp luật. Từ những điểm phân tích nêu trên, có thể coi pháp luật về LS là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động nghề nghiệp giữa LS với khách hàng, các CQTHTT và cơ quan có thẩm quyền khác, về việc quản lý nhà nước và sự tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp LS do Nhà nước đặt ra, thừa nhận và bảo đảm thi hành. Liên quan đến mối quan hệ với khách hàng, pháp luật đã minh định tính tự nguyện trong giao dịch, thỏa thuận, quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của khách hàng, cũng như của LS, kể cả vấn đề thù lao tư vấn, bào chữa, bảo vệ quyền lợi. Từ chỗ quan niệm về nhận thức bản chất mối quan hệ với khách hàng, pháp luật về LS đã điều chỉnh về mặt pháp lý mối quan hệ này tại LLS năm 2006, cụ thể: 185
- Giáo trình Luật sư và đạo đức nghề luật sư Điều 24. Nhận và thực hiện vụ, việc của khách hàng 1. LS tôn trọng sự lựa chọn LS của khách hàng; chỉ nhận vụ, việc theo khả năng của mình và thực hiện vụ, việc trong phạm vi yêu cầu của khách hàng. 2. Khi nhận vụ, việc, LS thông báo cho khách hàng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nghề nghiệp của LS trong việc thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng. 3. LS không chuyển giao vụ, việc mà mình đã đảm nhận cho LS khác làm thay, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc trường hợp bất khả kháng. Điều 25. Bí mật thông tin 1. LS không được tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác. 2. LS không được sử dụng thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 3. Tổ chức hành nghề LS có trách nhiệm bảo đảm các nhân viên trong tổ chức hành nghề không tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng của mình. Các quy định nói trên của LLS đã điều chỉnh tổng quát các nguyên tắc và hành vi ứng xử chung của LS khi nhận và thực hiện vụ, việc của khách hàng trên cơ sở tôn trọng sự lựa chọn LS của khách hàng; chỉ nhận vụ, việc theo khả năng của mình và thực hiện vụ, việc trong phạm vi yêu cầu của khách hàng. Khuôn khổ pháp lý này là nền tảng để LS biết được những giới hạn mà pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa LS với khách hàng, trong đó có một nghĩa vụ, đồng thời là một bổn phận đạo đức rất quan trọng là phải thông báo cho khách hàng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nghề nghiệp của LS trong việc thực hiện dịch 186
- Học viện Tư pháp vụ pháp lý cho khách hàng; không chuyển giao vụ, việc mà mình đã đảm nhận cho LS khác làm thay, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc trường hợp bất khả kháng. Vậy câu hỏi đặt ra là vì sao pháp luật về LS đã quy định về mối quan hệ với khách hàng mà vẫn cần xây dựng các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp LS trong mối quan hệ với khách hàng? Khi đề cập vấn đề này, cần quan niệm nói tới phạm vi của các quy tắc đạo đức là nói đến những chuẩn mực ứng xử mang tính khuyến cáo, định hướng và phản ánh tính mục đích trong hoạt động nghề nghiệp LS, tạo ra khoảng không gian rộng rãi cho việc lựa chọn ứng xử trong từng hành vi của LS áp dụng cho một tình huống cụ thể. Trên thế giới, cũng như trong điều kiện phát triển của nước ta hiện nay, vấn đề xây dựng và ban hành Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp LS đang còn nhiều ý kiến và cách tiếp cận khác nhau, cách hiểu về “tính pháp lý” của Bộ Quy tắc cũng chưa có được sự thống nhất. Theo một kết quả nghiên cứu, cách thức xác định “mô hình” của quy tắc đạo đức nghề nghiệp LS rất khác nhau trên thế giới: Một số nước có Bộ Quy tắc ứng xử của LS (code of conduct of lawyers), một số nước khác có quy định về đạo đức nghề nghiệp LS (lawyers professional ethics). Tuy nhiên, nội dung vẫn chủ yếu tập trung vào các quy tắc ứng xử của LS trong khi hành nghề và trong quan hệ xã hội. Quy tắc đạo đức nghề nghiệp ở các nước khác nhau do các cơ quan khác nhau ban hành, có thể do Hiệp hội LS (như ở Australia, Singapore...) hoặc do Đoàn LS thông qua như ở Canada.1 Cộng đồng châu Âu đã thông qua Bộ luật về đạo đức nghề nghiệp LS và được coi là Phụ lục I trong “Nội quy và niên giám luật sư tại Tòa án Paris” năm 19982, còn ở Hoa Kỳ, Đoàn LS từng bang có thể ban hành Quy chế trách nhiệm nghề nghiệp riêng của mình.3 1 Trường Đào tạo các chức danh tư pháp (Bộ Tư pháp), Tập bài giảng đào tạo luật sư, tập I, Hà Nội, 2001, tr. 17. 2 Ordre des avocats à la cour de Paris, Règlement intérieur et annuaire des avocats à la Cour de Paris, Publication de l’Ordre des avocats à la Cour de Paris, France, 1998. 3 The New York State Bar Association, The Lawyer’s Code of Professional responsibility, Adopted by the New York State Bar Association, Effective January 1, 1970, As Amended Effective January 1, 2002, http://www.nysba.org. 187
- Giáo trình Luật sư và đạo đức nghề luật sư Ở đây, cần đề cập mối quan hệ giữa pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp LS xuất phát từ nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật với nhu cầu điều chỉnh hoạt động LS bằng các tiêu chuẩn chung, tiêu chuẩn đạo đức và ứng xử nghề nghiệp. Nhu cầu này có mối liên hệ mật thiết với việc xử lý quan hệ giữa yêu cầu tăng cường quản lý nhà nước với phát huy tính tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp LS. Biểu hiện của tính tự quản không chỉ là tạo ra tư thế độc lập và phương thức hành nghề tự do, mà còn là tính “tự điều tiết” hoạt động nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp của LS. Có ý kiến lo ngại việc phát huy tính tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp LS và đề cao vai trò của Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp sẽ làm cho hoạt động LS xa rời việc quản lý của Nhà nước hoặc thiếu tin tưởng vào khả năng tự quản của đội ngũ LS. Ý kiến này không phản ánh đặc điểm của NLS là một nghề luật, trong đó bắt buộc phải có những tiêu chuẩn, quy tắc làm khuôn mẫu cho việc ứng xử trong hoạt động nghề nghiệp và trong cuộc sống. Sức mạnh nội tại của đội ngũ LS chỉ có thể phát huy trong điều kiện tăng cường tính kết nối và tự làm trong sạch đội ngũ của mình thông qua các việc xây dựng và duy trì các tiêu chuẩn cao về mặt đạo đức và kỷ luật. Mặt khác, hiện nay cùng với chiến lược cải cách tư pháp và yêu cầu phát triển nhanh chóng đội ngũ LS, nếu không chặt chẽ về tiêu chuẩn “đầu vào”, trau dồi phẩm chất cá nhân, uy tín và đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật và quy tắc đạo đức thì chắc chắn hoạt động LS sẽ gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại. Trong một số trường hợp, việc hành nghề của LS còn thiếu những chuẩn mực để đánh giá và xử lý khi có vi phạm, đồng thời Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp do Hội đồng LS toàn quốc ban hành năm 2011 cũng chưa phản ánh hết những đặc điểm của hoạt động LS phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay. Nhu cầu xây dựng và hoàn thiện Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp đã trở nên cấp thiết, dẫn đến việc Hội đồng LS toàn quốc đã thông qua và ban hành Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp mới vào tháng 11/2019, hướng đến việc tạo lập sức mạnh nội tại của đội ngũ LS Việt Nam. 1.3. Các quy tắc điều chỉnh mối quan hệ giữa luật sư và khách hàng Bộ Quy tắc đạo đức gồm Lời nói đầu, 06 chương và 32 quy tắc, trong 188
- Học viện Tư pháp đó Chương II (Quan hệ với khách hàng) là một chương rất quan trọng, điều chỉnh trực tiếp, phổ biến và thường xuyên đối với hoạt động hành nghề LS. LS là hoạt động nghề nghiệp cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng trên các lĩnh vực tố tụng, tư vấn, đại diện ngoài tố tụng, thực hiện các dịch vụ pháp lý khác. Công việc hành nghề của LS luôn gắn với khách hàng và là quan hệ thường xuyên, phổ biến nhất trong các quan hệ liên quan đến nghề nghiệp LS. Do đó, quan hệ giữa LS với khách hàng là quan hệ cơ bản nhất trong hoạt động nghề nghiệp LS. Từ ý nghĩa đó, Bộ Quy tắc đã dành ra một chương (Chương II) được thiết kế thành 04 mục với 12 quy tắc (từ Quy tắc 5 đến Quy tắc 16), đã được rà soát, bổ sung những nội dung còn thiếu, loại bỏ những quy tắc đã được pháp luật quy định, thể hiện sự ngắn gọn, cô đọng, súc tích hơn. Chương này quy định những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp trong quan hệ giữa LS với khách hàng, làm khuôn mẫu cho mỗi LS ứng xử, rèn luyện, tu dưỡng để giữ gìn uy tín đội ngũ LS và tôn vinh nghề nghiệp LS. Chương II được chia thành 4 mục nhỏ: - Mục 1 (từ Quy tắc 5 đến Quy tắc 9): là những quy tắc cơ bản trong quan hệ giữa LS với khách hàng, những việc LS không được làm trong quan hệ với khách hàng. - Mục 2 (Quy tắc 10 và Quy tắc 11): là những quy tắc về ứng xử cụ thể của LS khi tiếp nhận vụ việc của khách hàng, những trường hợp LS phải từ chối tiếp nhận vụ việc; - Mục 3 (từ Quy tắc 12 đến Quy tắc 15): Quy định về ứng xử của LS khi thực hiện vụ việc của khách hàng; các trường hợp LS có quyền từ chối hoặc phải từ chối tiếp tục thực hiện vụ việc của khách hàng; ứng xử của LS khi đơn phương chấm dứt thực hiện vụ việc đã nhận của khách hàng và giải quyết khi có xung đột lợi ích trong quá trình nhận, thực hiện vụ việc của khách hàng. - Mục 4 (Quy tắc 16): Quy định về ứng xử của LS với khách hàng khi kết thúc vụ việc. Sở dĩ Bộ Quy tắc chia Chương II thành 04 mục nhỏ là trên cơ sở 189
- Giáo trình Luật sư và đạo đức nghề luật sư tham khảo Bộ Quy tắc của Liên đoàn LS Nhật Bản và căn cứ vào thực tế quan hệ giữa LS với khách hàng trải qua 03 giai đoạn: Nhận vụ việc, thực hiện vụ việc, kết thúc vụ việc để xác định các quy tắc ứng xử của LS trong từng giai đoạn, tránh bị trùng lắp và dễ áp dụng trong quá trình thực hiện. Những vấn đề chung của mối quan hệ giữa LS với khách hàng được đưa vào Mục 1. “Những quy tắc cơ bản”. Phần ứng xử còn lại có những quy tắc tương ứng với nội dung và tính chất của từng giai đoạn. Trong Chương II, vấn đề xung đột lợi ích là vấn đề được đại đa số LS quan tâm. Vì vậy, Bộ Quy tắc đã thể hiện cụ thể trong Quy tắc 15.1 định nghĩa về xung đột lợi ích, bảo đảm tính khái quát, khắc phục được sự liệt kê cụ thể về xung đột lợi ích mà trong thực tế kỹ thuật lập pháp không thể liệt kê hết. Khi giải quyết các trường hợp xung đột về lợi ích nhằm bảo đảm một cách tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, vẫn cần tôn trọng quyền tự định đoạt của khách hàng trong việc chọn lựa LS bảo vệ cho mình. Vì vậy, Bộ Quy tắc mới có quy định một số trường hợp xung đột về lợi ích nhưng khách hàng vẫn tự nguyện chấp nhận bằng văn bản thì sẽ không còn là điều cấm đối với LS trong các trường hợp có xung đột về lợi ích. Tất nhiên, sự chấp thuận của khách hàng không được trái với quy định của pháp luật và đạo đức nghề nghiệp. 2. Thực hiện quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư trong quan hệ với khách hàng 2.1. Những quy tắc cơ bản trong quan hệ với khách hàng 2.1.1. Bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng LS có nghĩa vụ tận tâm với công việc, phát huy năng lực, sử dụng kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng theo quy định của pháp luật và Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp LS Việt Nam. Quy tắc này có thể coi là một thông điệp chuyển tải một trong những trách nhiệm pháp lý và đạo đức của NLS là phải bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Tuy nhiên, về quan niệm lẫn thực chất, “bảo vệ tốt nhất” có nội hàm khác hoàn toàn với “bảo vệ bằng mọi giá”. Hiện nay, nhu cầu của bị can, bị cáo và các đương sự cần đến sự giúp đỡ của LS trong vụ án 190
- Học viện Tư pháp hình sự hoặc tư vấn, cung cấp các dịch vụ pháp lý khác là rất lớn, đó là chưa kể đến việc Tòa án các cấp phải chỉ định LS cho các bị cáo trong trường hợp pháp luật quy định. Tuy nhiên, nhu cầu này bao hàm rất nhiều yếu tố khác nhau và có những nhu cầu đích thực bị “che lấp” do xuất phát từ nhận thức khác nhau của khách hàng. Ví dụ, có khách hàng đến nhờ LS với mong muốn quyền và lợi ích hợp pháp của họ được pháp luật bảo vệ và LS là người giúp chuyển tải cho họ tâm tư, nguyện vọng trước các CQTHTT. Có khách hàng, do nhận thức hạn chế, muốn nhờ LS “lo từ A tới Z”, chấp nhận các biện pháp trái pháp luật, miễn là đạt yêu cầu của họ. Ví dụ 2: Trong một buổi làm việc với khách hàng là bị can đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, khi cán bộ dẫn giải bị can (là một nữ doanh nhân khá nổi tiếng trên thương trường) vào phòng hỏi cung, do tính chất vụ án, mặc dù sau khi kết thúc điều tra, việc gặp bị can hết sức khó khăn, LS không được gặp riêng khách hàng do không có Kiểm sát viên (không bố trí lịch đi cùng được). Tuy nhiên, LS đã trình bày và khiếu nại về vấn đề quyền được gặp và làm việc riêng với bị can sau khi kết thúc điều tra với Lãnh đạo Vụ chức năng của VKSNDTC. Sau đó, Kiểm sát viên phải sắp xếp công việc, đi cùng LS vào Trại tạm giam. Khi Cảnh sát tại Trạm tạm giam dẫn giải bị can vào phòng hỏi cung, mặc dù đã rất nhiều lần làm việc, dự cung trong giai đoạn điều tra, nhưng LS nhận thấy thái độ của bị can rất kỳ lạ. Trước đây, mỗi lần được gặp LS, bị can đều rất mừng rỡ, thậm chí xúc động khóc rất nhiều. Vậy mà lần gặp này, thấy thái độ của bị can rất lạnh nhạt, thậm chí khi LS chào cũng không lên tiếng đáp lại. Trước khi buổi làm việc bắt đầu, bị can tỏ ý không hài lòng với LS khi thấy LS đi cùng với Kiểm sát viên. Là người nhạy cảm, từ thái độ ban đầu khi gặp, cho đến khi cất lên tiếng nói, LS thấy điều gì đó khác thường trong suy nghĩ của bị can. Khi trao đổi và tìm hiểu, hóa ra bị can cho rằng Kiểm sát viên này trong buổi làm việc trước đây đã có lời nói xúc phạm bà, cố ý kết tội không đúng. Nay lại thấy LS đi cùng Kiểm sát viên, bị can cho rằng “LS xuôi chiều theo Cơ quan điều tra, VKS”, không bảo vệ 191
- Giáo trình Luật sư và đạo đức nghề luật sư được quyền lợi hợp pháp của khách hàng. LS nhận ra nguyên nhân của câu chuyện, liền giải thích và trình bày quá trình xin gặp, làm việc rất khó khăn, do bị can không nhận tội. Bản thân LS phải tìm hết mọi biện pháp để bằng mọi cách gặp được bị can. Ngay buổi làm việc này, phải từ TP. Hồ Chí Minh ra Hà Nội rất vất vả nên LS đã khiếu nại lên lãnh đạo và Kiểm sát viên phải đi cùng vào Trại. Thấy thái độ như vậy, LS nói cảm thấy buồn vì khách hàng chưa hiểu những khó khăn trong việc LS tham dự các buổi hỏi cung trong giai đoạn điều tra. Đồng thời, LS giải thích rõ ràng là xuyên suốt quá trình điều tra cho đến nay, LS đã có rất nhiều kiến nghị, LS kiên trì giữ vững quan điểm pháp lý nhằm tận tâm, cố gắng hết sức mình để đấu tranh bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị can. Nghe đến đây, bị can ngân ngấn nước mắt, hiểu ra suy nghĩ của mình về LS là không đúng, thật lòng xin lỗi LS. Buổi làm việc sau đó được tiếp tục trên tinh thần chia sẻ và đồng cảm giữa LS và khách hàng... Nhìn chung, LS thông qua việc tiếp xúc ban đầu với khách hàng, cần tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của họ một cách thấu đáo, bằng cách lắng nghe họ trình bày, xem xét những tài liệu ban đầu (đơn từ, các tài liệu liên quan vụ việc, các giấy tờ cá nhân...); đồng thời cũng phải chỉ rõ cho khách hàng biết được giới hạn trách nhiệm của LS trước pháp luật và trước khách hàng, không để khách hàng lôi kéo mình theo những yêu cầu trái pháp luật và trái đạo đức nghề nghiệp. Nội dung quy tắc bảo vệ tốt nhất quyền lợi của khách hàng không chỉ được nhận thức một cách sâu sắc và toàn diện nêu trên, mà còn phải thể hiện bằng điều khoản cụ thể về nghĩa vụ của LS trong hợp đồng dịch vụ pháp lý ký với khách hàng. Trong hợp đồng không được thỏa thuận, cam kết “bao kết quả” với khách hàng để nhằm tạo sự tin tưởng hoặc để được trả thù lao cao. 2.1.2. Tôn trọng khách hàng Quy tắc cơ bản này đòi hỏi LS thực hiện việc cung cấp dịch vụ pháp lý trên cơ sở yêu cầu hợp pháp của khách hàng, tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp và sự lựa chọn của khách hàng. Để nhận diện thế nào là “yêu cầu hợp pháp của khách hàng”, LS cần tìm hiểu về vụ việc và yêu cầu của khách hàng trên tinh thần chia sẻ, hiểu biết thấu đáo bản chất vụ việc. 192
- Học viện Tư pháp Thông thường, với những thông tin, tài liệu, hồ sơ ban đầu, khách hàng chưa nắm hoặc chưa đưa ra hết những tình tiết, diễn biến sự việc, nên có thể LS chưa đánh giá hết được những cơ sở, đường dẫn hướng đến kế hoạch, bước đi sau này, thậm chí ngộ nhận yêu cầu của khách hàng là có căn cứ, việc buộc tội là oan ức. Vẫn có trường hợp khách hàng “dẫn dắt” LS theo những mong muốn của mình, đôi khi LS bị đặt trong tình trạng “chạy theo” khách hàng, phục vụ cho những yêu cầu không chính đáng hoặc không hợp pháp của khách hàng. Yêu cầu hợp pháp là những yêu cầu gắn liền với quyền và lợi ích của khách hàng, được xác định dựa trên những căn cứ được pháp luật quy định hoặc hợp với đạo lý, lẽ công bằng. Tuy nhiên, trong suy nghĩ của khách hàng, yêu cầu khi tìm đến nhờ LS thường rất rộng, đa dạng, không chỉ là bảo vệ quyền lợi hợp pháp, mà còn cả các vấn đề, tình tiết bên lề vụ án. Có trường hợp, khi tìm hiểu hoặc được giới thiệu, khách hàng mong muốn Văn phòng LS cử LS. A là người có kinh nghiệm tư vấn hoặc tranh tụng để bảo vệ cho mình, nhưng LS. A bận nhiều việc nên lại cử LS. B là LS trẻ, mới vào nghề tiếp và gợi ý cho khách hàng nhờ LS. B. Khách hàng không hài lòng về việc đề cử LS như vậy, kiên quyết mong muốn được nhờ LS. A trực tiếp tư vấn, bào chữa cho mình. Khi gặp trường hợp này, LS. A có thể trao đổi, thảo luận với khách hàng về tình hình công việc thực tế của Văn phòng, LS. A sẽ trực tiếp nhận trách nhiệm, nhưng sẽ có thêm LS. B để phụ giúp trong quá trình chuẩn bị hồ sơ, làm thủ tục, tham dự buổi làm việc hoặc hỏi cung nếu LS. A bận công tác đột xuất. Khách hàng thấy phương án LS. A đưa ra như vậy là phù hợp với tình hình thực tế nên đã đồng ý để LS. B cùng tham gia tư vấn, bảo vệ quyền lợi cho mình. Tôn trọng khách hàng còn được hiểu là sự tôn trọng của chính LS đối với bản thân cá nhân con người của khách hàng, hiểu thấu đáo hoàn cảnh xuất thân, nguyên nhân, bối cảnh nảy sinh vụ việc dẫn đến nhu cầu phải nhờ LS. Trong một chừng mực nhất định, LS với tư cách là người có kiến thức, kỹ năng và trải nghiệm đời sống thực tiễn, biết khơi gợi, nắm bắt tâm tư, tình cảm, sẵn sàng chia sẻ những khó khăn của khách hàng. Khách hàng tin cậy, gửi gắm lòng tin vào LS không chỉ về kiến thức, uy tín, kinh nghiệm nghề nghiệp, mà còn thông qua cách ứng xử của LS làm tăng thêm 193
- Giáo trình Luật sư và đạo đức nghề luật sư sự đồng cảm, thúc đẩy cho công việc cung cấp dịch vụ pháp lý đi vào thực chất và chiều sâu. Khách hàng là pháp nhân hay cá nhân đều có một quá trình hình thành, tích lũy và phát triển, khi gặp khó khăn hoặc rủi ro trong cuộc sống, trong kinh doanh mới phải nhờ LS. Vì thế, LS không nên đưa ra đánh giá, nhận xét về khách hàng một cách vội vàng. Có những trường hợp, khách hàng là bị can, bị cáo trong những vụ án về trật tự xã hội, có hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây bức xúc trong xã hội, nhưng khi nhận trách nhiệm bào chữa, với trái tim và tấm lòng trắc ẩn, LS nhận ra được những góc khuất của thân phận con người, nguyên nhân, hoàn cảnh, các yếu tố tác động đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Do vậy, lời bào chữa của LS tại phiên tòa không chỉ đưa ra các lập luận, ý kiến pháp lý, mà còn thấm đẫm tình người, mang tính nhân văn. Ví dụ 3: Vì sao LS lại cảm ơn khách hàng ngay tại phiên tòa? Tại phiên tòa sơ thẩm vào ngày 11/01/2018 xét xử vụ án xảy ra tại Tập đoàn D, sau khi đại diện VKS phát biểu lời luận tội, LS đã trình bày ý kiến bào chữa của mình cho Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tập đoàn. Mở đầu bài phát biểu, LS trình bày: “Là người được Chủ tịch Tập đoàn và gia đình nhờ bào chữa cùng với các LS khác, tôi cảm nhận những ngày tháng diễn ra tiến trình điều tra, những ngày làm việc liên tục trong Trại tạm giam và phiên tòa dân chủ, công khai của TAND TP. Hà Nội là những trải nghiệm đặc biệt về nghề nghiệp. Lời cám ơn đối với các CQTHTT tôi đã trình bày ngay phần đầu tiên, nhưng tôi phải cám ơn khách hàng của mình cùng gia đình ông về sự tin cậy đối với các LS. Có lẽ từ người dân bình thường, cho đến những người từng giữ trách nhiệm mà Đảng và Nhà nước phân công đều có nhu cầu như nhau về sự trợ giúp pháp lý của LS. Đó chính là điều kiện cho NLS ở Việt Nam có điều kiện phát triển tốt hơn dựa trên nền tảng sự tin cậy của các chủ thể xã hội. Nhưng thật đặc biệt, trong cái rét lạnh cắt da cắt thịt của mùa đông Hà Nội, ông vẫn cảm động nói với chúng tôi, rằng ông luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, tin vào sự công tâm xem xét của Cơ quan điều tra, VKS và HĐXX hôm nay. Điều này khiến cho các LS chúng tôi thật ấm lòng”. 194
- Học viện Tư pháp Báo chí đưa tin về vụ án ngay sau đó với tiêu đề “LS bào chữa cảm ơn bị cáo...”. Trong quá trình hành nghề, có lẽ, đây là một tình huống chưa từng xảy ra tại các phiên tòa, chưa nói đến đó là phiên tòa đang thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội. Như lời phát biểu nêu trên, trong tâm thế của LS, sự tôn trọng và tin cậy của khách hàng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Chỉ có sự tôn trọng và tin cậy ấy, các LS mới có sự đồng cảm, chia sẻ và cố gắng hết sức mình để bào chữa, bảo vệ các quyền và lợi ích của khách hàng. Đó cũng là một thông điệp để dư luận xã hội hiểu thêm về nghề nghiệp LS, cũng như khi đứng trước những rủi ro pháp lý, từ người dân bình thường hay đến người có chức vụ, quyền hạn, nhu cầu cần sự trợ giúp pháp lý của LS đều như nhau. Sự tôn trọng đối với khách hàng trong việc nhờ LS còn bao hàm cả sự tôn trọng đối với sự lựa chọn của khách hàng. Trên thực tế, sự lựa chọn của khách hàng thường thể hiện trên các mặt, bao gồm sự lựa chọn LS tư vấn, trợ giúp pháp lý; sự phù hợp về định hướng giải quyết vụ việc, sự thống nhất về cách thức, phương pháp, tiến độ giải quyết và trao đổi thống nhất về mức thù lao LS... Cần hiểu nhu cầu và sự lựa chọn của khách hàng rất đa dạng, có thời điểm lại thay đổi, khiến cho LS làm thế nào đáp ứng được nhu cầu đó rất khó khăn, thậm chí có thể dẫn đến mâu thuẫn về nhận thức và cách thức phối hợp tiến hành công việc. Nếu thiếu đi sự cẩn trọng, cân nhắc đến các khía cạnh phát sinh trong quan hệ với khách hàng, LS sẽ tự đánh mất lòng tin của khách hàng đối với chức phận nghề nghiệp của LS. Đó cũng là nguồn gốc phát sinh những va chạm, mâu thuẫn nảy sinh, dẫn đến tranh chấp hoặc khiếu nại, tố cáo đối với LS. Nhận thức và hiểu thấu đáo nguyên tắc chung về tôn trọng khách hàng sẽ tạo ra sự đồng thuận, nỗ lực của LS trong việc bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng. 2.1.3. Giữ bí mật thông tin * Quy tắc 7.1 quy định: LS có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý và sau khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật. Như trên đã nêu, pháp luật về LS đã quy định bắt buộc LS không 195
- Giáo trình Luật sư và đạo đức nghề luật sư được tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác. Quy định này đòi hỏi mỗi LS phải bảo mật thông tin về vụ, việc và thông tin về khách hàng mà mình biết được trong quá trình hành nghề, thể hiện một trong những đặc điểm quan trọng của NLS là tạo sự tin cậy, tín nhiệm từ phía khách hàng. Đây không chỉ là quy định chung, mà còn là sự khác biệt lớn đối với các chủ thể tư pháp khác. Sự tin cậy, tín nhiệm của khách hàng khi trình bày hết những góc khuất của vụ việc và cá nhân cho LS chính là sự gửi gắm niềm tin vào vị trí, vai trò và tâm thế của LS sẽ là người bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho mình. Có một vấn đề mà LS cần tránh, đó là sử dụng thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trên thực tế, những biểu hiện vi phạm trong mối quan hệ với khách hàng liên quan đến nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng theo quy định của pháp luật không chỉ trong quá trình thời hạn cung cấp dịch vụ pháp lý có hiệu lực, mà còn bao hàm cả sau khi kết thúc vụ việc. Điều này rất quan trọng, vì pháp luật quy định như vậy để ràng buộc một hành lang cho việc ứng xử của LS, trong khi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, LS không được xâm phạm, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các chủ thể xã hội khác. Đương nhiên, việc tiết lộ thông tin chỉ được phép khi khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật. * Quy tắc 7.2 quy định: LS có trách nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có liên quan và nhân viên trong tổ chức hành nghề của mình cam kết không tiết lộ những bí mật thông tin mà họ biết được và LS có trách nhiệm giải thích rõ nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Quy tắc này đòi hỏi và ràng buộc trước hết trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức hành nghề và của chính LS được khách hàng lựa chọn trong việc giữ bí mật thông tin của khách hàng. Để thực hiện đúng quy tắc này, người đứng đầu TCHNLS cần xây dựng và đưa vào trong quy chế vận hành nội bộ, thường xuyên quán triệt đến các LS thành viên về nghĩa vụ giữ bí mật thông tin khách hàng, tổ chức công tác văn thư, lưu trữ, bảo 196
- Học viện Tư pháp quản bảo đảm tính bí mật hồ sơ của khách hàng, những người không liên quan thì không tiếp cận được hồ sơ vụ, việc hoặc thông tin cá nhân của khách hàng. Khi đưa quy định này vào quy chế nội bộ, TCHNLS cần quy định chi tiết về hình thức và chế tài xử lý nếu xảy ra vi phạm. Đáng chú ý, theo điểm c khoản 7 Điều 6 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong một số lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực hành chính tư pháp, quy định mức xử phạt từ 30 đến 40 triệu đồng đối với hành vi “tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác”. Như vậy, việc tuân thủ quy định về mặt đạo đức đối với việc không tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết trong quá trình hành nghề đã được chuyển hóa thành quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động LS. Ví dụ 4: Đưa thông tin hồ sơ vụ việc, cá nhân của khách hàng lên Facebook, mạng xã hội mà không được sự đồng ý của khách hàng có vi phạm Quy tắc 7? Thực tế trong những năm gần đây, với sự phát triển của Cách mạng công nghiệp 4.0, mạng xã hội ngày càng phát triển, trong đó có Facebook và một số mạng xã hội khác. Nhiều LS đã sử dụng mạng xã hội một cách hiệu quả để tuyên truyền pháp luật, nâng tầm ảnh hưởng trong hoạt động nghề nghiệp LS và thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội. Tuy nhiên, trong một số trang Facebook cá nhân có đăng tải một số thông tin liên quan đến hồ sơ vụ án đang trong giai đoạn xác minh tin báo, tố giác tội phạm hoặc chưa kết thúc giai đoạn điều tra mà LS tham gia tố tụng. Ngoài ra, còn đưa thông tin về tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, hoặc có sự tranh luận, nảy sinh tình trạng mâu thuẫn, khác biệt về quan điểm ngay giữa các LS với nhau. Vậy hành vi nói trên có bị coi là vi phạm Quy tắc 7 nêu trên? Để có thể trả lời câu hỏi này, cần nhận thức việc các LS sử dụng mạng xã hội để chia sẻ công việc và đời sống cá nhân là quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin đã được quy định trong Điều 25 Hiến pháp năm 2013. Điều 10 Luật Báo chí năm 2016 giải thích cụ thể công dân có các quyền 197
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Luật hình sự
71 p | 1036 | 353
-
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam: Phần 1
161 p | 400 | 103
-
Giáo trình Luật dân sự (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
99 p | 419 | 95
-
Giáo trình Lịch sử các học thuyết pháp lý (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
62 p | 837 | 87
-
Giáo trình Lịch sử các học thuyết pháp lý (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2
75 p | 358 | 83
-
Giáo trình Luật tố tụng hình sự (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
77 p | 428 | 74
-
Giáo trình Luật Hình sự
113 p | 560 | 72
-
Giáo trình Luật đất đai và môi trường (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
106 p | 270 | 66
-
Giáo trình Luật đất đai và môi trường (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2
90 p | 138 | 46
-
Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
38 p | 221 | 41
-
Giáo trình Luật biển - ĐH Hàng hải
79 p | 165 | 40
-
Giáo trình Luật tố tụng hình sự (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2
65 p | 166 | 36
-
Giáo trình Luật hình sự (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
56 p | 168 | 34
-
Giáo trình Luật hình sự (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2
65 p | 91 | 26
-
Giáo trình Luật sư và đạo đức nghề luật sư: Phần 1
177 p | 33 | 16
-
Giáo trình Luật sư và nghề luật sư (Tái bản lần thứ hai) - GVC.ThS. Nguyễn Hữu Ước
352 p | 32 | 16
-
Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung): Phần 1
191 p | 32 | 10
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn