intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Hành vi con người và môi trường xã hội (Nghề: Công tác xã hội - Trung cấp) - Trường Trung cấp Tháp Mười

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:86

9
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình Hành vi con người và môi trường xã hội (Nghề: Công tác xã hội - Trung cấp) được biên soạn với mục tiêu nhằm giúp sinh viên trình bày được khái niệm cơ bản về hành vi con người, các loại hành vi và môi trường xã hội; Phân biệt được môi trường tự nhiên và môi trường xã hội của con người.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Hành vi con người và môi trường xã hội (Nghề: Công tác xã hội - Trung cấp) - Trường Trung cấp Tháp Mười

  1. SỞ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI ĐỒNG THÁP TRƯỜNG TCN – GDTX THÁP MƯỜI  GIÁO TRÌNH MÔ ĐUN: HÀNH VI CON NGƯỜI VÀ MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI NGÀNH/NGHỀ: CÔNG TÁC XÃ HỘI TRÌNH ĐỘ: TRUNG CẤP Ban hành kèm theo Quyết định số: /QĐ-TCNGDTX ngày tháng năm 2019 của Hiệu trưởng Trường Trung cấp nghề - Giáo dục thường xuyên Tháp Mười. Tháp Mười, năm 2019
  2. TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
  3. LỜI GIỚI THIỆU Giáo trình Hành vi con người và môi trường xã hội được biên soạn theo kế hoạch chung của Sở Lao động – Thương binh và xã hội Đồng Tháp thực hiện lựa chọn, chỉnh sửa giáo trình đào tạo nhầm cung cấp giáo trình đào tạo cho nghề công tác xã hội trên địa bàn tỉnh như là một phần của đóng góp thực hiện của “Đề án phát triển Nghề Công tác xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2010-2020” trong Quyết định 32/2010 – QĐ/TTg được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 3 năm 2010. Trong quá trình biên soạn, nhóm tác giả cảm ơn sự phối hợp và những ý kiến góp ý có giá trị từ các giảng viên Trường Đại học Đồng Tháp, Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Vĩnh Long và các đơn vị giáo dục nghề nghiệp bạn. Nhóm tác giả hy vọng rằng tài liệu này sẽ cung cấp những kiến thức, kỹ năng và những công cụ hữu ích cho việc giảng dạy, học tập trong quá trình đào tạo nghề công tác xã hội. Nhóm tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp hữu ích để có thể điều chỉnh tốt hơn trong tương lai và phù hợp hơn với nhu cầu học tập của mọi người./. Đồng Tháp, ngày 15 tháng 10 năm 2019 Tham gia thực hiện 1. Kiều Văn Tu 2. Võ Trí Trọng 3. Nguyễn Hòa Thuận 4. Nguyễn Văn Cường
  4. CHƯƠNG TRÌNH MÔN HỌC Tên môn học: Hành vi con người và môi trường xã hội Mã số môn học: MH14 I. Vị trí, tính chất của môn học: - Vị trí: Hành vi con người và môi trường xã hội là môn học chuyên môn nghề quan trọng của chương trình đào tạo trung cấp nghề công tác xã hội liên quan tới việc cung cấp những kỹ năng nhận biết về hành vi của con người trong xã hội. - Tính chất: Là môn học cơ sở cho quá trình thực hành công tác xã hội, chủ yếu rèn luyện kỹ năng, vì vậy cần sử dụng nhiều bài tập tình huống để học sinh thực hành. II. Mục tiêu môn học: - Kiến thức: + Trình bày được khái niệm cơ bản về hành vi con người, các loại hành vi và môi trường xã hội. + Phân biệt được môi trường tự nhiên và môi trường xã hội của con người. + Phân tích được các lý thuyết nghiên cứu hành vi con người và môi trường xã hội như: lý thuyết hành vi, lý thuyết phân tâm, lý thuyết phát triển nhận thức, lý thuyết phát triển tâm lý xã hội, lý thuyết hoạt động, lý thuyết siêu đẳng, lý thuyết lo lắng, lý thuyết cái tôi, lý thuyết hệ thống, lý thuyết tái sinh xã hội, lý thuyết tương tác xã hội, lý thuyết cấu trúc gia đình, lý thuyết quan hệ gắn bó. + Giải thích được mối tương tác giữa hành vi con người và môi trường xã hội. + Trình bày được những vấn đề thực tiễn về môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và hành vi con người ở Việt Nam. - Kỹ năng: + Vận dụng kiến thức về hành vi để phân tích các biểu hiện hành vi con người trong đời sống, đặc biệt là trong hoạt động nghề nghiệp. + Rèn luyện để hình thành những hành vi tích cực của cá nhân với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. + Vận dụng kiến thức về hành vi con người vào việc hình thành, phát triển các hành vi của bản thân phù hợp với việc tổ chức hoạt động nghề nghiệp sau này. - Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: + Có thái độ đúng đắn đối với việc nghiên cứu hành vi con người trong đời sống, đặc biệt là trong hoạt động nghề nghiệp. + Hình thành thái độ đúng đắn đối với việc học tập, rèn luyện hành vi của bản thân phù hợp với yêu cầu xã hội. + Có thái độ đúng đắn đối với các hành vi lệch chuẩn trong xã hội.
  5. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÀNH VI CON NGƯỜI VÀ MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI Mục tiêu: - Trình bày được khái niệm cơ bản về hành vi con người, các loại hành vi và môi trường xã hội. - Phân biệt được môi trường tự nhiên và môi trường xã hội của con người. - Rèn luyện để hình thành những hành vi tích cực của cá nhân với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. - Phân biệt được các loại hành vi con người. 1. Hành vi con người 1.1. Khái niệm về hành vi Theo từ điển Tiếng Việt (1986): Hành vi là toàn bộ những phản ứng, cách cư xử biểu hiện ra bên ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định. Như vậy, hành vi được hiểu như là một yếu tố mang tính xã hội và được hình thành trong quá trình hoạt động sống và giao tiếp xã hội. Mọi ứng xử của con người đề có những nguyên tắc nhất định, đối với mỗi cá nhân trong từng thời điểm, từng hoàn cảnh, cần có những hành vi ứng xử phù hợp. Không thể có cách ứng xử chung cho tất cả mọi người, nó tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh, tâm trạng, mục đích sẽ có những hành vi, cách ứng xử khác nhau. Theo Từ điển Tâm lý học của Mỹ thì: Hành vi là một thuật ngữ khái quát nhằm chỉ những họat động, hành động, phản ứng, phản hồi, những di chuyển, tiến trình có thể đo lường được của bất cứ một cá thể đơn lẻ nào. Trước đây đã có một số nhà khoa học trong lĩnh vực này có ý đưa ra một số giới hạn để thu hẹp nghĩa của thuật ngữ Hành vi. Đương nhiên nỗ lực này cần phải được đánh giá cao và điều đó cũng định hình ngành tâm lý như là môn “khoa học của hành vi”, cho đến sau này khó có thể để định nghĩa một cách chính xác nhất về thuật ngữ hành vi. Điểm qua lịch sử phát triển của lịch sử nghiên cứu hành vi nghiên cứu những họat động được liệt vào nghĩa hành vi phải tùy thuộc xem chúng được nghiên cứu theo cách nào. Ví dụ, theo Watson và Skinner thì chỉ bao gồm những phản ứng của hành vi mà theo họ được quan sát một cách chủ quan. Do đó, những hành vi liên quan đến tâm trí như ý thức, nhận thức, trí nhớ, tưởng tượng... không được liệt vào khái niệm hành vi. Từ phương thức tiếp cận này đã cho thấy những hiểu biết, tìm tòi, khám phá thêm về khoa học Hành vi con người là cần thiết. Những nhà nghiên cứu về môn khoa học hành vi gần đây đã có cái nhìn khái quát hơn về định nghĩa hành vi. Họ cho rằng, hành vi còn bao gồm những trạng thái bên trong, quá trình trao đổi sinh học, hay những trạng thái tương tự . Như vậy, theo cách tiếp cận này, khái niệm hành vi sẽ được hiểu linh hoạt hơn những định nghĩa nêu trước đó: yếu tố hành vi còn bao hàm cả phạm trù tâm trí và nhận thức. Thực tế
  6. cho thấy những hành vi liên quan đến tâm trí còn nhiều hơn những hành vi thuộc phạm trù có thể đo lường được. 1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi con người - Yếu tố bên trong cá nhân bao gồm các yếu tố như: + Di truyền + Sức khỏe + Tình cảm + Vai trò, địa vị trong xã hội/ trong gia đình + Kinh nghiệm, khả năng nhận thức của cá nhân,… - Yếu tố bên ngoài cá nhân: là tất cả môi trường xung quanh tác động vào cá nhân đó + Văn hóa, tôn giáo, đạo đức + Điều kiện kinh tế + Đời sống tinh thần + Chính sách xã hội + Thể chế chính trị + Phương tiện truyền thông + Những con người sống xung quanh cá nhân như: ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè,… 1.3. Phân loại hành vi Hành vi bản năng: là hành vi bẩm sinh, di truyền, cơ sở sinh lý của loại hành vi này là phản xạ không điều kiện. Hành vi bản năng nhằm thoả mãn các nhu cầu sinh lý của cơ thể. Loại hành vi này có cả ở động vật và người. Việc loài chim việc làm tổ, mớm mồi cho con... là hành vi bản năng để sinh tồn. Hành vi bản năng ở con người được biểu hiện ở bản năng tự vệ, bản năng sinh dục, bản năng dinh dưỡng. Tuy nhiên, hành vi bản năng của con người có sự tham gia của tư duy và ý chí mang tính xã hội và mang đặc điểm lịch sử. Hành vi kỹ xảo: Là một hành vi mới tự tạo trên cơ sở luyện tập. Hành vi kỹ xảo có tính mềm dẻo và thay đổi. Loại hành vi này nếu được rèn luyện củng cố thường xuyên sẽ được định hình trên vỏ não. Hành vi trí tuệ: là hành vi kết quả của hoạt động, nhằm nhận thức bản chất, các mối quan hệ xã hội có tính quy luật nhằm thích ứng và cải tạo thế giới khách quan. Hành vi trí tuệ của con người luôn gắn liền hệ thống tín hiệu thứ 2 - là ngôn ngữ - ở loài vật không có hành vi trí tuệ. Hành vi đáp ứng (ứng phó để tồn tại, phát triển ): là những hành vi ngược lại sự tự nguyện của bản thân, hành vi mà mình không có sự lựa chọn.
  7. Hành vi chủ động: là hành vi tự nguyện, tự phát, loại hành vi này thường được điều khiển bởi một chuỗi hành vi khác. Hành vi xã hội (hay hành động xã hội): Định nghĩa của nhà xã hội học người Đức Max Weber về hành động xã hội được cho là hoàn chỉnh nhất; ông cho rằng, hành động xã hội là hành vi mà chủ thể gắn cho ý nghĩa chủ quan nhất định, một hành động xã hội là một hành động của một cá nhân mà có gắn một ý nghĩa vào hành động ấy, và cá nhân đó tính đến hành vi của người khác, bằng cách như vậy mà định hướng vào chuỗi hành động đó. Weber đã nhấn mạnh đến động cơ bên trong chủ thể như nguyên nhân của hành động - Một hành động mà một cá nhân không nghĩ về nó thì không thể là một hành động xã hội. Mọi hành động không tính đến sự tồn tại và những phản ứng có thể có từ những người khác thì không phải là hành động xã hội. 2. Môi trường xã hội 2.1. Khái quát về môi trường 2.1.1. Khái niệm môi trường Theo cách hiểu thông thường, ta có thể định nghĩa môi trường như sau: “Môi trường là tập hợp (aggregate) các vật thể (things), hoàn cảnh (conditions) và ảnh hưởng (influences) bao quanh một đối tượng nào đó” (The Random House College Dictionary-USA). Định nghĩa này cho thấy, khi nói đến môi trường, ta phải đứng trên một đối tượng nhất định và đối tượng này chịu tác động của các thành phần môi trường bao quanh nó. Đối tượng này không nhất thiết là con người (loài người, cá thể người hoặc một cộng đồng người) mà có thể là bất cứ một vật thể, hoàn cảnh, hiện tượng nào tồn tại trong khoảng không gian có chứa đựng các yếu tố tác động tới sự tồn tại và phát triển của nó. Cách nhìn này, có thể làm chúng ta lầm tưởng rằng mỗi đối tượng chỉ tiếp nhận những tác động của các yếu tố khác ở xung quanh. Thực ra, bản thân đối tượng đó cũng có những tác động ngược lại các yếu tố xung quanh và chính nó lại trở thành một yếu tố của môi trường đối với một yếu tố khác được xem là đối tượng trong môi trường. Vì vậy, môi trường còn được định nghĩa như sau: Môi trường là khoảng không gian nhất định có chứa các yếu tố khác nhau, tác động qua lại với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Nói tới môi trường, người ta thường nghĩ ngay tới mối quan hệ của những yếu tố xung quanh tác động tới đời sống của sinh vật mà trong đó chủ yếu là con người. Quan điểm về môi trường nhìn từ góc độ sinh học là những quan điểm phổ biến. Một số định nghĩa như: Môi trường là tập hợp các yếu tố vật lý, hóa học, sinh học, kinh tế-xã hội bao quanh và tác động tới đời sống và sự phát triển của một cá thể hoặc một cộng đồng người (UNEP-Chương trình môi trường của Liên hiệp quốc, 1980).
  8. Môi trường là tất cả các hoàn cảnh bên ngoài tác động lên một cơ thể sinh vật hoặc một cơ thể nhất định đang sống; là mọi vật bên ngoài một cơ thể nhất định (G.Tyler Miler, Environmental Science, USA, 1988). Môi trường là hoàn cảnh vật lý, hóa học, sinh học bao quanh các sinh vật (Encyclopedia of Environmental Science. USA, 1992). Môi trường là tất cả các hoàn cảnh hoặc điều kiện bao quanh một hay một nhóm sinh vật hoặc môi trường là tổng hợp các điều kiện xã hội hay văn hóa ảnh hưởng tới cá thể hoặc cộng đồng. Vì con người vừa tồn tại trong thế giới tự nhiên và đồng thời tạo nên thế giới văn hóa, xã hội và kỹ thuật, nên tất cả đều là thành phần môi trường sống của con người. Qua các định nghĩa trên, môi trường được xem như là những yếu tố bao quanh và tác động lên con người (cá thể hay cộng đồng) và sinh vật. Thật vậy, nếu một môi trường nào đó có những yếu tố hoàn toàn không liên quan tới sự sống và con người, chắc rằng sẽ chẳng được ai quan tâm. Tuy nhiên, cách nhìn trên làm cho người ta dễ ngộ nhận rằng mối quan hệ giữa con người và môi trường là mối quan hệ một chiều: môi trường tác động tới con người và con người như là một trung tâm tiếp nhận những tác động đó. Thực ra, mỗi con người lại là một tác nhân tác động tới các yếu tố chính trong môi trường mà nó đang tồn tại. Theo Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam, "Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên (bao gồm thạch quyển, thủy quyển và khí quyển) và yếu tố vật chất nhân tạo (như đồng ruộng, vườn tược, công viên, thành phố, các công trình văn hóa, các nhà máy sản xuất công nghiệp …), quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên". Môi trường nói chung bao gồm tập hợp tất cả các thành phần của thế giới vật chất bao quanh có khả năng tác động đến sự tồn tại và phát triển của mọi sinh vật (theo Pepa, 1997). 2.1.2. Phân loại môi trường 2.1.2.1. Môi trường tự nhiên Môi trường tự nhiên: bao gồm các yếu tố tự nhiên như vật lý, hóa học, sinh học tồn tại khách quan, ngoài ý muốn con người hoặc ít nhiều chịu tác động chi phối của con người. 2.1.2.2. Môi trường xã hội Môi trường xã hội: gồm mối quan hệ giữa con người với con người (con người với tư cách là cá thể, cá nhân và nhân cách nghĩa là quan hệ giữa con người với con người, con người với cộng đồng, cộng đồng với cộng đồng). Hai thành phần môi trường này cùng tồn tại, xen lẫn vào nhau và tương tác chặt chẽ với nhau. Các thành phần môi trường luôn chuyển hóa và diễn ra theo chu kỳ. Thông thường là ở dạng cân bằng động. Sự cân bằng này đảm bảo cho sự sống trên trái đất phát triển ổn định. Các chu trình tuần hoàn phổ biến thường gặp là chu
  9. trình tuần hoàn cacbon, nitơ, lưu huỳnh, photpho, …. gọi chung là chu trình sinh-địa- hóa học. Sinh vật và môi trường xung quanh luôn có quan hệ tương hỗ với nhau về vật chất và năng lượng thông qua các thành phần môi trường như khí quyển, thủy quyển, địa quyển và sinh quyển, cùng các hoạt động của hệ mặt trời. Sống là phương thức tồn tại với những thuộc tính đặc biệt của vật chất trong điều kiện nhất định của môi trường. Trong quá trình xuất hiện, phát triển, tiến hóa, sự sống luôn gắn chặt với môi trường mà nó tồn tại không hề có sự sống tồn tại ngoài môi trường và ngược lại, cũng không có môi trường không có sự sống. Không hề có sự sống tồn tại trong môi trường mà lại không thích ứng. Con người vừa là một thực thể sinh học, vừa là một thực thể văn hóa, môi trường sống của con người còn gọi là môi trường nhân văn, là tổng hợp các điều kiện vật lý, hóa học, sinh học, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa bao quanh và có ảnh hưởng đến sự sống và phát triển của từng cá nhân và của các cộng đồng người. 2.2. Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động, thực vật, đất, nước... Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú. Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định... ở các cấp khác nhau như: Liên Hợp Quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể,... Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác. Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, bao gồm tất cả các nhân tố do con người tạo nên, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống, như ôtô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu vực đô thị, công viên nhân tạo... Môi trường theo nghĩa rộng là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người, như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội... Môi trường theo nghĩa hẹp không xét tới tài nguyên thiên nhiên, mà chỉ bao gồm các nhân tố tự nhiên và xã hội trực tiếp liên quan tới chất lượng cuộc sống con người. Ví dụ: môi trường của học sinh gồm nhà trường với thầy giáo, bạn bè, nội quy của trường, lớp học, sân chơi, phòng thí nghiệm, vườn trường, tổ chức xã hội như Đoàn, Đội với các điều lệ hay gia đình, họ tộc, làng xóm với những quy định không thành văn, chỉ truyền miệng nhưng vẫn được công nhận, thi hành và các cơ quan hành chính các cấp với luật pháp, nghị định, thông tư, quy định.
  10. Tóm lại, môi trường là tất cả những gì có xung quanh ta, cho ta cơ sở để sống và phát triển.
  11. CHƯƠNG II: MỘT SỐ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU HÀNH VI CON NGƯỜI VÀ MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI Mục tiêu: - Phân tích được các lý thuyết nghiên cứu hành vi con người và môi trường xã hội. - Vận dụng kiến thức về hành vi để phân tích các biểu hiện hành vi con người trong đời sống. 1. Lý thuyết hành vi 1.1. Lịch sử hình thành Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hình thành hai xu hướng duy tâm chủ quan và duy tâm khách quan đã tạo nên sự khủng hoảng trong tâm lý học thời kỳ ấy. Trước đòi hỏi của cuộc sống và sự vận động của bản thân khoa học, càng ngày ý đồ tiếp tục phát triển tâm lý học trong khuân khổ của tâm lý học duy tâm càng tỏ rõ sự thất bại. Chính vì thế, cần thiết tìm ra một con đường mới về nguyên tắc để xây dựng khoa học tâm lý. Dựa trên quan điểm triết học thực chứng của Comte (1798 - 1857), chủ trương mọi lập luận phải được xây dựng trên cơ sở những chứng cứ khách quan, quan sát được, những thành tựu của các nhà sinh lý học thần kinh và tâm lý học động vật. J. Watson (1878 – 1958) - một nhà tâm lý học người Mỹ đã hình thành trường phái tâm lý học hành vi - một khoa học về hành vi. Các nhà nghiên cứu có xu hướng duy vật trong tâm lý học đã đi theo con đường này. Và nhờ có cuộc đấu tranh tích cực của Watson và những nhà hành vi mà hành vi đã trở thành đối tượng chủ yếu và duy nhất của tâm lý học, góp phần xứng đáng xây dựng tâm lý học khách quan. Tâm lí học hành vi, với những đại biểu xuất sắc là các nhà tâm lí học kiệt xuất: J Watson (1878 – 1958), E.Tolmen (1886 – 1959), E.L.Toocdai (1874 – 1949), B.Ph.Skinnơ (1904 – 1990)… Các nhà tâm lí học theo hướng tiếp cận hành vi phủ nhận việc nghiên cứu ý thứ con người. 1.2. Sự phân hóa trong Tâm lý học hành vi. Năm 1913, tập san tâm lý học Mỹ in bài báo của Watson “Tâm lý học dưới con mắt nhà hành vi”, là phần đầu bài giảng của ông tại trường Đại học Colombia năm 1912, sự kiện này được coi như mốc hình thành tâm lý học hành vi. Về sau các quan điểm trình bày trong bài báo còn được ông đưa ra trong một loạt các công trình từ năm 1913 đến 1930. Sự phát triển tiếp theo của hướng tiếp cận hành vi sau J. Watson đã dẫn đến phân hoá trường phái tâm lí học này thành 3 nhánh: 1. Tâm lí học hành vi bảo thủ, trung thành với các luận điểm ban đầu, có tính cơ giới về hành vi trí tuệ con người của J. Watson (thuyết kích thích – phản ứng: S – R), đại biểu là Skinnơ.
  12. 2. Tâm lí học hành vi mới, có ý đồ nghiên cứu cả các yếu tố trung gian của chủ thể trong sơ đồ S – R, yếu đố đó chính là quá trình nhận thức (thuyết S – S), đại biểu là E.Tolmen. 3. Tâm lí học hành vi chủ quan (thuyết “TOTE” – chữ đầu của các từ tiếng Anh. T: Test, O: Operate; T: Test, E: Exit, tức là thuyết thử - thao tác - thử - thoát ra). Đại diện thuyết TOTE là O. Mille, Galanter, Pribram. Sự khác nhau giữa các thuyết trên tập trung vào 3 điểm sau: - Thứ nhất: nhân tố phát động 1 hành vi. Thuyết hành vi cổ điển cho rằng các phản ứng bên ngoài là nhân tố phát động hành vi của con người và con vật. Theo TOTE, nhân tố phát động hành vi của con người và con vật là quá trình ở trung ương thần kinh, trí nhớ, tâm thế, sự mong đợi… - Thứ hai: kết quả học tập. Thuyết (S – R) quan niệm kết quả học tập là kỹ xảo (trật tự nào đó của các cử động). Còn theo thuyết (S – S), kết quả học tập là “các cấu trúc nhận thức” (hay là sự phản ánh một tình huống nào đó). - Thứ ba: phương pháp ứng xử. Thuyết (S – R) cho rằng phương thức thích ứng là “thử và sai”, còn theo thuyết (S – S), tính chất và thành công của các hành vi phụ thuộc vào cấu trúc của tình huống khách quan quy định. Vì vậy, tổ chức (cấu trúc) tình huống quy định sự hoạt hoá của cá thể, nó quy định sự nắm bắt các quan hệ bản chất của tình huống. Ngược lại, thuyết TOTE, đề cao hình ảnh, kế hoạch của các phản ứng. Nói các khác, theo TOTE, những kinh nghiệm, tri thức đã có về hành vi, sự chỉ dẫn quá trình tiến hành hành vi đó sẽ quy định chất lượng của hành vi ứng xử. 1.3. Nội dung cơ bản của lý thuyết hành vi cổ điển và lý thuyết hành vi mới 1.3.1. Thuyết hành vi cổ điển * Những cương lĩnh đầu tiên của thuyết hành vi: 1. Tâm lý học hành vi tuyên bố không quan tâm đến việc mô tả, giảng giải các trạng thái tâm lý của ý thức mà chỉ quan tâm đến hành vi của tồn tại người, đối tượng của tâm lý học hành vi là hành vi con người. Hành vi được xem là tổ hợp các phản ứng của cơ thể trước các kích thích của môi trường bên ngoài. 2. Theo Watson có 4 loại hành vi: hành vi bên ngoài, hành vi bên trong, hành vi tự động minh nhiên và hành vi tự động mặc nhiên. Theo ông, mọi việc con người làm kể cả suy nghĩ đều thuộc một trong bốn loại hành vi này. Nghiên cứu dùng các phương pháp khoa học khách quan, sử dụng phương pháp ghi chép các sự kiện kiểm soát được về quá trình cơ thể, thích nghi với môi trường. 3. Trong tâm lý học hành vi cổ điển, hành vi của động vật và người bị giản đơn hóa thành những cử động cơ thể. Nhờ những cử động đó với tính cách là “một cơ quan biết phản ứng” hay “một hệ thống vật lý” thích nghi với môi trường để đảm bảo sự sống còn. Quan sát cũng như giảng giải hành vi đều phải tuân theo công thức S - R. Trong đó S là kích thích, R là phản ứng. Kích thích có thể là một tình huống tổng quát của môi trường hay một điều kiện bên trong nào đó của sinh vật, phản ứng là bất cứ cái gì mà sinh vật làm và nó bao gồm rất nhiều thứ.
  13. 4. Với công thức S - R, Watson đã đặt cho thuyết hành vi mục đích cao cả là điều khiển hành vi động vật và con người. Lấy nguyên tắc "thử - sai" làm nguyên tắc khởi thuỷ điều khiển hành vi. Hành vi chỉ là mối liên hệ trực tiếp “cơ thể - môi trường”; theo đó, tâm lý, ý thức chẳng qua chỉ là những hiện tượng thừa. Tâm lý học với tư cách là khoa học về khoa học về hành vi có trách nhiệm vứt bỏ toàn bộ các thuật ngữ của tâm lý học cấu trúc và tâm lý học chức năng như ý thức, trạng thái và quá trình ý thức, lý trí và hình ảnh…Do lấy hành vi làm đối tượng nghiên cứu và dùng phương pháp khoa học tự nhiên, tâm lý học lần đầu tiên có dáng dấp tâm lý học khách quan. * Hành vi và con người: Nghiên cứu hành vi của con người, điều ấy có nghĩa là đưa cuộc sống của con người trở thành đối tượng của tâm lý học. Chẳng cần phải nói, ai cũng có thể thấy hành vi là cái gì và nó tồn tại trong hiện thực một cách khách quan. Nếu như trong tâm lý học truyền thống chỉ tìm hiểu nội quan thì tâm lý học hành vi lại là một bước tiến đáng kể, nghiên cứu nguồn gốc sinh ra “tâm hồn”, “hồn”, “tâm lý”. Khái niệm hành vi được xây dựng trên nền móng của sự chứng thực có thể quan sát từ phía ngoài. Tâm lý (của cả người và con vật ) chỉ là các dạng hành vi khác nhau. Hành vi là tập hợp các phản ứng ® của cơ thể đáp lại các kích thích từ môi trường bên ngoài (S). Nhiệm vụ của nhà tâm lí học là mô tả và lượng hoá các hành vi đó, đúng như nó diễn ra trong tình huống xác định. Phương pháp của nhà tâm lí học là quan sát khách quan và thực nghiệm các phản ứng của cơ thể khi có tác nhân kích thích, nhằm mục đích xác định tương quan giữa kích thích và phản ứng. Chính sự quan sát đó chính là lập trường hiện thực của tâm lý học hành vi và toàn bộ cuộc sống của con người được xem như lịch sử của tính tích cực, từ đó hình thành khái niệm “dòng tính tích cực”. Trong tâm lý học hành vi khái niệm này được ngầm hiểu là “dòng hành vi”, đó là toàn bộ hành vi do các trả lời đơn thuần đối lới các kích thích hợp lại. Hầu hết các thực nghiệm của trường phái hành vi được thực hiện trên động vật (chuột, chim bồ câu…), sau đó, các kết quả này được ứng dụng trên con người. Cơ sở sinh lí thần kinh được quan tâm trong các thực nghiệm là phản xạ có điều kiện. Cơ chế hình thành các hành vi là sự mò mẫm của chủ thể, theo nguyên tắc “thử và sai” qua nhiều lần, cho tới khi xác lập được các phản ứng phù hợp, luyện tập và củng có nó. Theo Watson, mọi phản ứng, hành vi được phân loại theo hai tiêu chí: đó là phải ứng tiếp thu hay di truyền; phản ứng bên trong hay phản ứng bên ngoài. Kết quả là trong hành vi được chia ra thành các phản ứng: - Bên ngoài hay tiếp thu nhìn thấy được (chơi quần vợt, mở cửa…). - Bên trong và tiếp thu nhưng ở dạng dấu kín (tư duy - mà thuyết hành vi gọi là ngôn ngữ bên ngoài).
  14. - Bên ngoài nhìn thấy được và di truyền (vỗ tay, hắt hơi… cũng như các phản ứng yêu thương, cáu giận…). - Bên trong dấu kín và di truyền, là phản ứng các tuyến nội tiết. Ông còn phân biệt giữa phản ứng bản năng (đưa tay ra với bắt…) và phản ứng cảm xúc (các kích thích có đặc điểm nội tâm, liên quan đến cơ thể chủ thể). Theo các nhà tâm lí học hành vi, hành vi trí tuệ (của cả người và động vật) là các phản ứng có hiệu quả mà cá thể (chủ thể) học được, nhằm đáp lại các kích thích của môi trường sống. trong các công trình của J. Watson, hành vi trí tuệ được đồng nhất với ngôn ngữ bên trong. Từ đó, ông chia tư duy thành 3 dạng: - Thứ nhất, là các thói quen, kỹ xảo ngôn ngữ đơn giản (đọc 1 đoạn thơ hay đoạn văn mà không làm thay đổi trật tự từ). - Thứ hai: giải quyết các nhiệm vụ tuy không mới, nhưng ít gặp và phải có hành vi ngôn ngữ kèm theo ( nhớ lại một đoạn thơ hay một sự kiện đã thoảng qua trong kí ức). - Thứ ba: giải quyết các nhiệm vụ mới; buộc cơ thể lâm vào hoàn cảnh phức tạp, đòi hỏi phải giải quyết bằng ngôn ngữ trước khi thực hiện một hành động cụ thể. Watson phân biệt hành vi người không giống với hành vi động vật: - Một là: khác biệt hoàn toàn bẩm sinh ở trong lĩnh vực sinh vật của con người. - Hai là: ngoài thế giới vật thể mà động vật cũng có, con người còn có thế giới từ ngữ, cái có thể thay thế cho thế giới đồ vật tạm thời. Chính vì thế mà thế giới kích thích của con người rộng lớn hơn nhiều. Với Watson, ý nghĩ chẳng qua chỉ là hoạt động của bộ máy ngôn ngữ. - Thứ ba: đó là con người là “tồn tại xã hội”, vì chỉ trong môi trường xã hội con người mới kích thích lẫn nhau làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển. Với Watson, chỉ có hành vi của tồn tại con người mới là đối tượng của thuyết hành vi. Đối với nhà hành vi, ý thức là cái gì đó vu vơ, vô ích và nhà hành vi không được công nhận ý thức, đây chính là hạn chết lịch sử lớn nhất của thuyết hành vi. Bời thực chất hành vi là biểu hiện của hoạt động, và do đó nó không tách rời ý thức. Theo tâm lý học hành vi, tâm lý học lấy hành vi, tức là mọi ứng xử và từ ngữ của con người, cả những cái di truyền lẫn những cái tự tạo làm đối tượng nghiên cứu. Đây chính là việc nghiên cứu con người từ khi bào thai cho đến khi chết. Hành vi được coi là mối liên hệ trực tiếp giữa kích thích và phản ứng đáp lại kích thích ấy. Kích thích thuộc về thế giới tác động, còn hành vi là do cơ thể làm ra. Watson định nghĩa con người là “tồn tại xã hội”, đó là cơ thể làm việc và nói năng phải thích nghi với môi trường xung quanh; từ đó tạo ra một tổ hợp phản ứng phức tạp, tổ hợp lại thành các tập hợp phản ứng, và với các nhà hành vi cổ điển thì các tập hợp ấy được thực hiện chung bởi hệ thống chung của các kỹ xảo. Chính vì thế mà Watson coi con người như là “một cơ thể phản ứng” hay là “một cái máy sinh học nghiêm túc”, “một cái máy hữu cơ nghiêm túc, sẵn sàng hoạt động”, đó là những duy vật máy móc về con người.
  15. Các nhà hành vi chủ nghĩa coi nhẹ tính tích cực của chủ thể, đề cao vai trò của kích thích bên ngoài trong việc tạo ra các phản ứng. Vì vậy, nghiên cứu và điều khiển việc hình thành hành vi trí tuệ (cho cả động vật và con người) được quy về việc nghiên cưu tạo ra môi trường các kích thích, được sắp xếp theo logic cho phép hình thành các phản ứng mong muốn, tức là quá trình “điều kiện hoá hành vi”. Watson phát biểu: “hãy cho tôi một tá trẻ em khỏe mạnh và bình thường và một ngôi trường chuyên biệt mà ở đó tôi có thể giáo dục chúng, thì tôi bảo đảm bất kỳ một em nào trong đó cũng có thể trở thành bác sĩ, một luật gia, một nghệ sĩ, một cửa hàng trưởng, thậm chí nếu các bạn muốn, một người cục cằn hoặc một tên kẻ cắp không cần kể đến tài năng, xu hướng, chí hướng, nguyện vọng và dòng giống ông cha”. Ông muốn thực hiện một trong những nhiệm vụ hàng đầu của tâm lý học là điều khiển hành vi con người sao cho thỏa mãn nhu cầu của xã hội. Với Watson, “con người được xây dựng nên, chứ không phải tự sinh ra”. “Nhân cách là sự sáng tạo của con người, chứ không phải là so trời phú cho”. Ngôn ngữ và tư duy chỉ là các dạng kỹ năng, cơ sở của kỹ năng là những cở động giản đơn hay còn gọi là bẩm sinh. Kỹ xảo được giữ gìn trong trí nhớ. 1.3.2. Thuyết hành vi mới * Lịch sử hình thành: Vào ngay những năm đầu của thập kỷ thứ ba thế kỷ XX đã bắt đầu xuất hiện khủng hoảng tâm lý học kiểu Watson. Các đại biểu xây dựng lên thuyết hành vi mới là E.Tolman (1886-1959), K.Hull (1884-1952). Thuyết hành vi mới ở chỗ, trong công thức S-R truyền thống, những nhà hành vi mới đưa thêm vào các biến số trung gian làm khâu gián tiếp dẫn đến các kích thích và phản ứng. Theo chủ nghĩa hành vi mới, năm 1922, trong “Công thức mới của thuyết hành vi” đã cho rằng “tâm lý học hành vi S-R” thuần túy của Watson chỉ là sinh lý học về hành vi, vì thế đã đề ra “thuyết hành vi không sinh lý học” và gọi nó là “thuyết hành vi mới”. Năm 1929, báo cáo “giải thích phản xạ có điều kiện theo chức năng” của Hull đưa ra đã tạo thêm điều kiện thúc đẩy thuyết hành vi mới phát triển. Theo chủ nghĩa hành vi mới, các biến số trung gian hiểu theo tinh thần thuyết tạo tác, cụ thể là các kiến tạo lý luận có khả năng xác lập các quy luật chủ yếu của hành vi. Chính nhờ các “kiến tạo lý luận”, “các yếu tố trung gian”, “các biến số can thiệp” và dùng các thuật ngữ của tâm lý học chủ quan mà có thể phân tích một cách khoa học các sự kiện thu thập được và giải thích chúng một các chính xác, nhờ vậy, theo các nhà hành vi mới đã định, có thể đưa thuyết hành vi ra khỏi tình trạng khủng hoảng. * Lý thuyết của Tolman: Theo Tolman, thuyết hành vi cùng lúc có mấy tên gọi: thuyết hành vi tổng thể, thuyết hành vi có ý định, thuyết hành vi tạo tác. Lý thuyết của Tolman là sự hỗn hợp của thuyết hành vi, thuyết Ghestan, thuyết tạo tác, thuyết ý định.
  16. Theo ông, hành vi của cơ thể là tổng hòa chứ không phải là từng trả lời của cơ thể. Các cử động hành vi có cả các sự kiện vật lý và sinh học, cũng như những thuộc tính cá nhân của bản thân. Hành vi là một động tác trọn vẹn có một loạt các thuộc tính: tính định hướng tới mục đích, tính dễ hiểu, tính linh hoạt, tính so sánh. Tolman hình thành học thuyết về “các biến số trung gian” với tư cách là khâu trung gian can thiệp vào sơ đồ S-R. Trong học thuyết này bao gồm toàn bộ thực chất của tâm lý học khách quan và hành vi chủ nghĩa. Hành vi theo Tolman là các cử động hành vi chứ không phải là những trả lời trực tiếp đối với các kích thích. Hành vi đáp lại bao giờ cũng nhằm tới các khách thể chuyên biệt có lợi cho cơ thể, các khách thể này là mục đích của cơ thể. Tolman gọi khả năng tiếp thu là khả năng định tính chủ ý, ông cho rằng có thể có tính chủ ý mà không có khả năng tiếp thu đi theo. Tính chủ ý là một hiện tượng trong hành vi và là hiện tượng cơ bản hơn khả năng tiếp thu, tính chủ ý dường như là vốn tự có trong bản thân cơ thể. Tolman phủ nhận tiêu chuẩn chủ quan ý định, tính chất chủ quan thể hiện ở chỗ thấy trước cử động cuối cùng. Trong hệ thống của ông, cái gọi là tính tích cực chỉ là tính kiên trì đạt tới mục đích, và tính tích cực này được xem xét trong mối quan hệ nhân quả với khách thể - mục đích. Ông đưa ra hai loại biến số để làm cái quy định hành vi: 1. Các biến cố xa hay biến số khởi thủy: bao gồm các kích thích từ ngoại giới vào các trạng thái sinh lý ban đầu: Chế độ sử dụng(M); hình loại và dạng thức các kích thích có dự kiến trước cho phù hợp với khách thể - mục đích(G); Các loại hình của những trả lời vận động cần thiết®; Bản chất tổng hòa và số lần thử cần thiết để đạt tới mục đích đúng(∑OBO). Ngoài S, M và G cũng đều là kích thích quy định hành vi. 2. Các biến số thường xuyên bao gồm các biến số trung gian và các biến số can thiệp. Theo ông, các cử động hành vi bao giờ cũng phải dựa vào ‘những điểm tựa vật thể”. Điều đó có nghĩa là mọi cử động hành vi diễn ra dưới dạng vận động đều sẽ vô nghĩa, nếu như đặt chúng ra ngoài các thuộc tính vật lý của một nơi chốn nào đó. Quá trình phân biệt và quá trình cầm nắm sự vật được xem như là các quá trình hình thành cử động hành vi chờ đợi hay yêu cầu, quá trình này được hình thành do có học tập trước đó. Cả sự chờ đợi lẫn các giả định mà ông quan sát thấy đều dựa vào các vật thể, các vật thể này làm vai trò chỉ dẫn nhằm thỏa mãn nhu cầu cơ thể. Theo Tolman, hành vi được xem xét trong mối quan hệ nhân quả trực tiếp “thông số độc lập – thông số phụ thuộc”. Điều này phản ánh trong sơ đồ hành vi do dộng vật tạo ra dưới góc độ lựa chọn: Thông số độc lập – thông số trung gian – thông số phụ thuộc – hành vi Các thông số này được đưa vào với tư cách là các kiến tạo lý luận để giải thích các sự kiện thấy được bằng quan sát trực tiếp. Hệ thống của Tomal hạn chế ở chỗ, nó hoàn toàn tập trung chú ý vào ý định và nhận thức, và quẳng mất các quá trình thần kinh diễn ra trong não và không do quan sát mà thấy được.
  17. Tolman sinh vật hóa toàn bộ hoạt động của con người, giải thích tất cả các động cơ của hoạt động này bằng các loại nhu cầu khác nhau, và các loại nhu cầu cuối cùng được quy về nhu cầu cơ thể, bản năng. Theo ông, con người có bốn nhu cầu: “cái trung tính”, “cái tôi”, “cái siêu tôi”, “cái tôi mở rộng”. * Hệ thống Hull: Hull đưa các phương pháp diễn dịch – toán học vào tâm lý học hành vi, hệ thống của Hull là hệ thống bao gồm một loạt định đề và hệ quả. Cũng như Tolman, Hull cũng đưa vào các yếu tố trung gian trong sơ đồ S-R truyền thống, ông dùng thao tác để giải thích hành vi; mặt khác, dùng nguyên lý cung phản xạ với tư cách là nguyên lý làm việc của não bộ làm nguyên lý giải thích kinh nghiệm tự tạo trong học tập và kinh nghiệm này nằm trong cơ thể nằm trong hành vi. Hệ thống của Hull bao gồm những luận điểm cơ bản sau: 1. Hệ thống vẫn giữ nguyên truyền thống của thuyết hành vi cổ điển, nó gạt bỏ thuyết sức sống, thuyết mục đích luận và tất cả các loại lý giải tự biên. 2. Đối tượng vẫn là hành vi, các hiện tượng lớn của hành vi được hiểu là hành vi của một nhóm tế bào thần kinh cơ hay mấu thần kinh, còn kết quả lớn của tính tích cực chung thì nảy sinh khi trả lời các kích lớn tác động vào. Từ đây xuất hiện công thức S-O-R (O là cơ thể). 3. Trong hệ thống của ông, kỹ xảo là yếu tố trung gian giữ kích thích và phản ứng. Kỹ xảo là những tồn tại như là những điều kiện không nhìn thấy trong hệ thống thưấn kinh tựa như các điện tử, proton… trong thế giới vật lý. Vì không nhìn thấy nên các biến số ấy được coi là các kiến tạo logic tương ứng với các thao tác do cơ thể tạo ra trong các điều kiện. Kỹ xảo làm nhẹ gánh cho tư duy, tức là đưa việc giải thích hành vi ra khỏi các kích thích bên ngoài. Theo ông, hệ thần kinh có vai trò quyết định trong đời sống cơ thể, nó giữ cho cơ thể thống nhất giữa mối liên hệ qua lại với môi trường. Nhưng thuyết của Hull cũng có nhiều điều cần phải nói, trước nhất con người trong thuyết của Hull đã bị sinh vật hóa hoàn toàn; ta không thể xác định mối liên hệ một chiều thật rành mạch giữa tác động bên ngoài và phản ứng bên trong cơ thể. Tác động bên ngoài chỉ được thực hiện thông qua các điều kiện bên trong. Trong học thuyết của Hull, con người hoàn toàn không có chỗ đứng, hành vi con người chỉ là hành vi xã hội, tức là chức năng của một cơ chế tự vệ hay “một máy liên hợp vật lý”. * Thuyết TOTE: Thuyết hành vi chủ quan - thuyết “TOTE” - chữ đầu của các từ tiếng Anh: T: Test, O: Operate; T: Test, E: Exit, tức là thuyết thử - thao tác - thử - thoát ra. Đại biểu là O.Mille, Galanter, Pribram. Thuyết này là tổng hợp của thuyết hành vi với tâm lý học nội quan, giữ hành vi lại làm đối tượng của tâm lý học. Công thức trên bắt đầu từ sự tác động là cơ thể; hành vi nói chung tuân thủ sự kiểm tra của kế hoạch và biểu tượng, tức là của hoạt động tượng trưng. Theo thuyết này, bên trong cơ thể là các cơ chế, các quá trình gián tiếp giữa phản ứng với kích thích. Cho rằng, hình ảnh và kế hoạch là hai yếu tố liên kết kích
  18. thích với phản ứng. Hình ảnh là tri giác được tích lũy, được tổ chức trong cơ thể về bản thân về thế giới mà cơ thể đang tồn tại trong đó. Còn kế hoạch là quá trình được xây dựng kiểu thứ bậc của cơ thể, có khả năng kiểm tra các trật tự của thao tác. Hình ảnh mang tính chất thông tin, còn kế hoạch đề cập đến các thuật toán của hành vi. Hành vi chỉ là một loạt các cử động, còn con người là một cái máy vi tính phức tạp. Chiến lược của kế hoạch được xây dựng trên các lần thử, tiến hành trong các điều kiện đã được định sẵn. Thử nghiệm là sơ sở của quá trình hành vi trọn vẹn, từ đó mà các thao tác diễn ra một cách chính xác. Như vậy, hệ thống TOTE bao hàm cả tư tưởng liên hệ ngược, vì vậy mỗi một thao tác của cơ thể diễn ra thường xuyên được điều chỉnh bởi kết của của các thử nghiệm khác nhau. Hành vi chủ quan coi hành vi của con người một cách phi xã hội, quan niệm về con người phi lịch sử - đặc trưng đã làm cho hành vi chủ quan không phát hiện ra thực chất về tâm lý con người và chức năng thực sự của tâm lý trong cuộc sống, trong hoạt động của con người. 1.4. Đánh giá lý thuyết hành vi Thứ nhất, tâm lý học hành vi đã đồng hóa hành vi người và hành vi động vật. Phương pháp tiếp cận chỉ là quan sát được từ bên ngoài làm dữ liệu duy nhất. Bên cạnh đó lại vứt bỏ ý thức ra ngoài phạm vi tâm lý và tác biệt một cách máy móc ý thức ra khỏi hành vi. Thứ hai, thuyết hành vi đã coi con người như một cơ thể phản ứng, “một cái máy liên hợp vật lý”, họ xóa mọi ranh giới có tính nguyên tắc giữa hành vi con vật và con người. Đây là một nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc tan rã của thuyết hành vi. Với ý đồ phát triển khoa học hành vi trên nền tảng khách quan và tiến bộ đã sụp đổ với việc quan niệm con người chỉ có phản ứng thụ động, và vì vậy phụ thuộc vào các kích thích tác động. Phương pháp luận của thuyết hành vi không lưu ý nhà nghiên cứu tới mặt đạo đức, luân lý của con người mà chỉ xem xét con người có thích hợp với việc này việc kia hay không, biến con người không còn là người chủ nữa mà thành người thực hiện. Chủ nghĩa hành vi chỉ để ý đến hành vi chứ không để ý tìm hiểu nguyên nhân, nguồn gốc của các hình thái hành vi ấy. Thuyết này loại trừ hoàn toàn hành vi cấp cao như ý thức, và sự phát triển ý thức. Trong quá trình xây dựng tâm lý học hành vi, hầu hết các nhà hành vi đều đánh mất phạm trù hành vi, mà chuyển nó thành phạm trù phản ứng. Trong thuyết hành vi không có phạm trù hoạt động mà chỉ có phạm trù phản ứng mà thôi. Tâm lý học hành vi vẫn không giải quyết được hai vấn đề cơ bản mà trong suốt giai đoạn đó tâm lý học bế tắc: - Không tìm ra những khác biệt chất lượng giữa động vật và con người. - Và chính vì thế mà không có cách nghiên cứu ý thức.
  19. Nói chung, tâm lý học hành vi đã không khắc phục được chủ nghĩa nhị nguyên, chủ nghĩa duy linh, chủ nghĩa cơ giới và chủ nghĩa siêu hình đặc trưng trong tâm lý học nội quan như Watson đã từng mong muốn. 1.5. Vai trò của lý thuyết hành vi cổ điển và lý thuyết hành vi mới trong nghiên cưu hành vi con người Trong giai đoạn đầu hình thành, tâm lý học hành vi đã mở ra một thời kỳ mới, cứu thoát tâm lý học những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX ra khỏi khủng hoảng. Đưa ra cho tâm lý học đương đại một con đường mới để nghiên cứu tâm lý học như một khoa học về tâm lý. Và đưa tâm lý học đi theo con đường duy vật biện chứng, góp phần rất lớn trong việc xây dựng tâm lý học khách quan. Lần đầu tiên trong lịch sử tâm lý, tâm lý học hành vi đưa hành vi con người, đời sống xã hội của con người trở thành đối tượng của tâm lý học. Kiên quyết chông lại những trường phái tâm lý học duy tâm trước đó. Xây dựng một lý thuyết tâm lý học khách quan hoàn toàn mới. Bên cạnh đó, chủ nghĩa hành vi đã đưa ra nhiều lập luận có giá trị cho việc giáo dục, đào tạo con người. Đưa ra những luận điểm có ý nghĩa trong việc xây dựng tâm lý học xã hội, nghiên cứu hành vi của con người. Đặc biệt, học thuyết hành vi đã được nghiên cứu và áp dụng rất thành công trong tâm lý học hiện đại khi được chỉnh sửa và kết hợp với những trường phái khác. Đóng góp rất lớn trong tư vấn tâm lý: tiếp cận thân chủ, trị liệu hành vi, trị liệu tâm lý, quản lý nhân sự, điều hành con người, phương pháp giáo dục…Trị liệu hành vi được ứng dụng khá rộng rãi trong trị liệu, tham vấn, đặc biệt với với những người mong muốn thay đổi hành vi không phù hợp. Những trường hợp thường được sử dụng trị liệu hành vi có hiệu quả cao như: rối loạn ám sợ; stress, trẻ em với những rối nhiễu tâm lý, cảm giác tuyệt vọng; rối nhiễu tình dục... Người ta hay sử dụng nó trong những vấn đề liên quan đến lão khoa, nhi khoa, hoá giải stress, điều chỉnh hành vi. Trong một số lĩnh vực khác như kinh doanh quản lý hay giáo dục cũng có thể sử dụng liệu pháp này. Thời gian can thiệp bằng liệu pháp này không dài nhưng có thể đem lại những kết quả mong muốn do vậy nó được ứng dụng rộng rãi. 2. Một số lý thuyết về hành vi con người và môi trường xã hội 2.1. Thuyết phân tâm học của S. Freud Sigmund Freud - Nhà tâm lý học phân tâm người Áo nổi tiếng (1896 - 1939). Freud quan tâm đến những xúc cảm, đặc biệt là vai trò của nó trong việc thúc đẩy sự phát triển nhân cách và tư duy trong khi trẻ đối mặt với cảm xúc đó. Đồng thời ông đưa ra luận điểm tổng quát về sự phát triển tâm lý từ lứa tuổi ấu thơ tới tuổi thành niên. Ông cho rằng: khi mới sinh ra, con người chỉ là một bình chứa các xung năng và bản năng nguyên thuỷ gọi là "cái ấy" (Id). Sau đó qua năm tháng đầu tiên của cuộc sống thì “cái tôi” (Ego)- bản ngã xuất hiện. Nhưng tới những năm cuối của giai đoạn trước tuổi học, đứa trẻ đã có được cái “siêu tôi” (Super ego) tức là lương tâm.
  20. Ở thời điểm này, đứa trẻ đã biến các quy tắc và các giá trị của cha mẹ thành một phần trong cái bản ngã của mình. Đứa trẻ cảm thấy mình có lỗi khi đã có hành vi không tốt và cố gắng "ngoan ngoãn", ngay cả khi không có người lớn ở gần. Cùng như trong lý thuyết của Piaget, những biến đổi theo giai đoạn được Freud đề xuất ngụ ý là sự phát triển bao hàm sự biến đổi về chất. Có một biến đổi trong đó khía cạnh xung năng tình dục nổi trội. Có biến đổi về chất trong tổ chức tâm lý khi những thành tựu mới, như cơ chế phòng vệ và siêu tôi xuất hiện. Bên cạnh đó, ông cũng nhấn mạnh tới yếu tố môi trường trong sự phát triển. Trong phạm trù môi trường không phải tất cả mọi kinh nghiệm đều có ảnh hưởng như nhau. Kinh nghiệm của năm năm đầu tiên của cuộc sống rất quan trọng. Những kinh nghiệm dó muốn có ảnh hưởng phải không bị chấn thương. Nhưng trên thực tế thì những xung đột thời thơ ấu chỉ gây hệ quả thoảng qua. * Cốt lõi của sự phát triển là sự xuất hiện cấu trúc: cái ấy, cái tôi và cái siêu tôi- chúng dựa vào các kênh dồn nén và biến chuyển dục năng. Cái ấy (ID): bao gồm bản năng, hoạt động theo nguyên tắc thoả mãn và chiếm ưu thế vào lúc mới sinh. Cái tôi (Ego): Hoạt động theo nguyên tắc hiện thực, làm nhiệm vụ thích nghi với hoàn cảnh, điều chỉnh các hành động theo nguyên tắc tự vệ. Hoạt động này bắt đầu phát triển từ năm thứ nhất khi mà đứa trẻ nhận ra rằng không phải tất cả cái mà trẻ muốn là đáp ứng ngay mà tự nó phải tìm cách đạt được. Cái siêu tôi (Super Ego): Gồm các chuẩn mực đạo đức, các cấm kỵ do cá nhân lĩnh hội từ môi trường. Cái siêu tôi hoạt động theo nguyên tắc kiểm duyệt. Cái siêu tôi được phát triển dần qua các quá trình phát triển và lớn lên của trẻ. Cái siêu tôi là đại diện cho những giá trị của cha mẹ, của xã hội bao quanh trẻ, giúp trẻ học hỏi, nhận thức, xác định được cái gì là tốt, cái gì là xấu, cái gì nên làm và cái gì không nên làm, từ đó điều chỉnh và kiềm chế hành vi của mình. * Các cơ chế tự vệ: Đây là một khám phá quan trọng của tâm lý học về cái tôi. Trong cái tôi luôn luôn có những mâu thuẫn và đấu tranh nội bộ. Những đấu tranh này diễn ra trong vô thức, do cơ chế tự vệ điều động. Cơ chế tự vệ là phản ứng có tính cách tự động ngoài ý thức của con người để giúp giảm thiểu những mối đe doạ hay đẩy chúng ra khỏi ý thức và nhờ vậy tránh được những cảm xúc tiêu cực như bồn chồn, lo âu, hồi hộp, sợ sệt hay buồn chán… Dưới đây là một số cơ chế tự vệ thông thường: Phủ nhận: Phủ nhận có lẽ là một trong những cơ chế phòng vệ được nhiều người biết nhất. Nó thường được dùng để mô tả tình huống mà trong đó người ta dường như không thể đối diện với thực tế hoặc thừa nhận một sự thật hiển nhiên (ví dụ “Anh ấy đang phủ nhận.”). Phủ nhận là hành động chối bỏ thẳng thừng việc chấp nhận hoặc công nhận điều gì đó đang hoặc đã xảy ra. Người nghiện ma túy hoặc rượu bia thường phủ nhận họ có vấn đề, còn nạn nhân của những sự kiện chấn thương tâm lý có thể phủ nhận sự kiện đó đã diễn ra.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2