intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giời thiệu một số phương pháp nghiên cứu y học: Phần 1

Chia sẻ: Codon_09 Codon_09 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:50

132
lượt xem
31
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu Phương pháp nghiên cứu y học nhằm giúp cho những ai muốn viết một luận án, một bản thu hoạch hay một bản báo cáo khoa học. Mời các bạn cùng tìm hiểu phần 1 tài liệu để nắm bắt một số vấn đề cơ bản về những nguyên tắc viết một tài liệu khoa học y học;...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giời thiệu một số phương pháp nghiên cứu y học: Phần 1

  1. LỜI GIỚI THIỆU Công nghiệp hoá và hiện đại hoá là hai trọng tâm cơ bản trong quá trình đổi mới đất nước Việt Nam. Từ hai trọng tâm này, giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là quốc sách hàng đầu. Đào tạo đại học và sau đại học ở mọi hình thức dù tập trung hay không tập trung, dù tự học hay theo học các khoá chính quy luôn phải kết gắn với nghiên cứu khoa học thì mới đảm bảo chất lượng. Nghiên cứu khoa học bao gồm hai phần liên quan tương hỗ lẫn nhau đó là nội dung nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu. Một nội dung nghiên cứu tốt mà trình bày dở thì sẽ làm giảm đi giá trị của kết quả nghiên cứu và ngược lại, trình bày nghiên cứu dù thật tốt mà nội dung nghiên cứu không có gì thì cũng không ai muốn đọc. Trong thời gian gần đây, khi đánh giá những luận văn tốt nghiệp, những bài trình bày trong các hội nghị khoa học cũng như xem xét các bài báo gửi đăng, một nhược điểm lớn mà chúng tôi nhận thấy chung ở các tác giả là phương pháp và bố cục trình bày. Chính vì vậy, việc giúp cho các nhà khoa học trẻ trong lĩnh vực y học về cách trình bày nghiên cứu của mình là một trăn trở của chúng tôi. Trong đợt sang giảng dạy về chủ đề Phương pháp nghiên cứu khoa học trong y học theo khuôn khổ hợp tác đào tạo Pháp - Việt, Giáo sư Hugiuer (Đại học Paris 6) có giới thiệu cuốn sách La rédaction médicale do ông biên soạn và đồng ý cho chúng tôi sử dụng để giúp đỡ cho sinh viên, học viên và các bác sĩ Việt Nam tham khảo. Với kinh nghiệm trong công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại Trường Đại học Y Hà Nội trong nhiều năm, chúng tôi tham khảo cuốn sách của Huguier và biên soạn cuốn sách này một cách sao cho phù hợp với các bạn đọc Việt Nam để hy vọng giúp đỡ bạn đọc có thêm tài liệu tham khảo khi trình bày kết quả nghiên cứu của minh. Chúng tôi biết dù đã cố gắng song sai sót là điều khó tránh khỏi nhưng cũng xin mạnh dạn giới thiệu với bạn đọc. Cố PGS. VS. NGND. Tôn Thất Bách Nguyên Hiệu trưởng trường ĐHYHN 6/30/2003
  2. CÁC TÁC GIẢ Bác sỹ Claude-Laurent Benhamou, nhà thấp khớp học ở Trung tâm bệnh viện vùng Orléans, là thành viên của Ban biên tập tạp chí Thấp khớp và các bệnh Xương-Khớp. Ông đã từng chủ trì các buổi thảo luận giảng dạy về phương pháp viết báo y học ở trường đại học Tours, nơi mà ông từng là thư ký của đơn vị giúp đỡ viết báo y học. Bác sĩ Loic de Calan, Giáo sư phẫu thuật tiêu hoá tại đại học Tours, đã từng là thành viên của Ban biên tập tạp chí Gastroenterologie Clinique et Biologique. Ông chủ trì các buổi thảo luận giảng dạy về phương pháp viết báo y học ở trường đại học Tours. Bác sĩ Dominique Franco, Giáo sư về phẫu thuật tiêu hoá ở đại học Paris Sud, đã từng là tổng biên tập tạp chí Gastroenterologie Clinique et Biologique. Bác sĩ Jean Paul Galmiche, Giáo sư chuyên ngành Gan-Tiêu hoá tại trường đại học Nantes, đã từng là tổng biên tập tạp chí Gastroenterologie Clinique et Biologique. Ông là người sáng lập và lãnh đạo tạp chí chuyên về đào tạo y học liên tục "Hépato-Gastro". Ông là thành viên ban biên tập tạp chí “Gut” và tạp chí "European Journal of Gastro-Enterology and Hepathology". Bác sĩ Bernard Grenier, Giáo sư danh dự của đại học Y khoa Tours, đã chủ trì các buổi sinh hoạt khoa học đào tạo chuyên ngành về phân tích các quyết định y học, về phương pháp đọc và phân tích cũng như biên tập báo y học ở nhiều trường đại học Pháp ngữ. Bác sĩ Michel Huguier, Giáo sư chuyên ngành phẫu thuật tiêu hoá ở đại học Paris VI, đã từng là thành viên ban biên tập tạp chí Gastroentérologic Clinique et Biologique. Ông là đồng biên tập của tạp chí Hepato-Gastroenterology và phó biên tập tạp chí Chirurgie. Ông là chủ tịch của Hội vì sự phát triển giảng dạy và nghiên cứu trong viết báo y học (ADERREM) và chủ trì các buổi thảo luận giảng dạy về viết báo y học. Bác sĩ Gérard Lorette, Giáo sư chuyên ngành Da liễu trường đại học Tours. Ông là tổng biên tập tạp chí Annales de Dermatologie. Ông là Giám đốc bộ phận nhận bài của nhà xuất bản Doin. Ông chủ trì các buổi thảo luận giảng dạy viết báo y học ở Pháp và ở nước ngoài. Bác sĩ Hervé Maisonneuve là giám đốc bộ phận thẩm định của cơ quan quốc gia về tín nhiệm và đánh giá trong y tế (ANAES). Ông đã từng là chủ tịch Hiệp hội Âu Châu của các nhà xuất bản khoa học. Ông là thành viên các ban biên tập (JAM, Journal of Evaluation in Clinical Pratice) và đã chủ trì các hội thảo về giảng dạy viết báo y học TS. Trần Bình Giang 6/30/2003
  3. LỜI NÓI ĐẦU Mục đích của cuốn sách này là nhằm giúp cho những ai muốn viết một luận án, một bản thu hoạch hay một bản báo cáo khoa học. Sách trình bày những nguyên tắc viết một tài liệu khoa học y học (chương 1 và 2) và cách sử dụng chúng trong công trình nghiên cứu (chương 3 đến chương 13). Hiểu biết những nguyên tắc này giúp cho tác giả biết cách viết một cách chính xác, rõ ràng và súc tích. Bên cạnh giá trị khoa học của công trình, nó góp phần làm cho công trình nghiên cứu được Ban biên tập của các tạp chí khoa học chấp nhận. Rất nhiều trong số những nguyên tắc này cũng có thể áp dụng để viết một bài giảng hay một cuốn sách. Hiểu biết các nguyên tắc viết bài trong y học cũng giúp cho việc nhận biết những bài báo kém sáng sủa, không chuẩn xác hay thiếu súc tích. Để tiết kiệm thời gian thì không cần đọc những bài như vậy. Để viết một bài báo cần phải biết có thể tìm tài liệu tham khảo ở đâu và như thế nào. Chủ yếu nhờ vào công nghệ tin học, ta sẽ thực hiện việc lựa chọn nhanh lần đầu các tài liệu và lưu trữ thông tin để có thể sử dụng dễ dàng: chương 14 dành cho vấn đề này. Các tác giả thường không biết con đường của một bài báo từ khi gửi bản thảo tới một tạp chí cho tới khi nó được đăng. Điều này tác động ngay tới chính việc viết bài báo. Thông tin này nằm trong chương 15. Chương cuối cùng của cuốn sách cho những lời khuyên để chuẩn bị trình bày báo cáo miệng hay dùng bảng trưng bày (poster) trong một hội nghị khoa học.
  4. Chương 1 PHƯƠNG PHÁP VIẾT BÁO KHOA HỌC Cách viết một bài báo khoa học đồng thời vừa là yếu tố cơ bản, vừa là yếu tố phụ của nội dung bài báo. Để có thể hiểu rõ về sự tưởng như đối nghịch này, ta có thể ví cách viết như mặt kính của một bể nuôi cá cảnh, nội dung khoa học của bài báo như những con cá nuôi trong bể này (1). Lợi ích mà cách viết mang lại là rất quan trọng: nếu mặt kính của bể cá mờ đục thì không thể chiêm ngưỡng những gì chứa bên trong dù nó có đẹp đến đâu chăng nữa. Tuy nhiên tự bản thân cách viết không mang lại mục đích vì chẳng ai ngắm một cái bể cá chỉ vì cái mặt kính. Học cách viết cũng giúp ta biết cách đọc tốt hơn. Trên thực tế, một độc giả nắm được cách viết sẽ nhận ra dễ dàng lợi ích khoa học của một bài báo được viết chuẩn xác nghĩa là viết một cách chính xác, rõ ràng và súc tích. Một bài báo không chính xác, tối nghĩa, với những chỗ lạc đề, sẽ làm cho người đọc phải mất một thời gian dài cố gắng, đôi khi một cách vô vọng, để tìm hiểu nội dung bài báo. Hiểu biết những nguyên tắc viết bài báo khoa học cho phép người đọc loại bỏ ngay khi mới xem qua những bài báo không tôn trọng những nguyên tắc này. Do đó người đọc sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian mà không sợ bỏ sót một thông điệp khoa học ẩn chứa trong một bài báo trình bày tồi vì nguy cơ này rất thấp. Kinh nghiệm cho thấy thường có sự đồng hành giữa nội dung và hình thức: "những gì người ta biết rõ thì sẽ được trình bày rõ ràng" (2). Hệ quả là những gì không rõ ràng thường chứa đựng một lợi ích khoa học rất hạn chế. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC VIẾT BÁO KHOA HỌC Mục đích đặc trưng của việc viết báo y học là truyền đạt một thông điệp khoa học mà thể thức thường gặp là bài báo đăng kết quả nghiên cứu hay là "Bản báo cáo nghiên cứu". Mục đích này giải thích rõ cách viết bài báo khoa học phải là một kỹ thuật xuất phát từ khoa học chứ không xuất phát từ văn chương hay thơ ca. Trên thực tế, việc viết báo khoa học được hướng dẫn bởi những nguyên tắc tự bản thân nó nói lên tính chặt chẽ khoa học. Đó phải là những nguyên tắc xuất hiện dần, đáp ứng theo một logic chứ không phải là những giáo điều áp đặt. Ví dụ, các tài liệu tham khảo phải được trình bày sao cho người đọc có thể tham chiếu dễ dàng nhất. Điều này không tuân theo một quy tắc duy nhất: Có nhiều hệ thống tham khảo mà mỗi hệ thống đều có điểm mạnh và điểm yếu riêng. Tuy nhiên các tạp chí y học tìm cách tốt nhất để trình bày tài liệu tham khảo một cách hài hoà(3). Mục đích thứ hai của cách trình bày một bản báo cáo khoa học không phải là một mục đích đặc biệt: đó là phải viết sao cho để bài báo được độc giả hưởng ứng. Trong văn chương, mục đích này đạt được nhờ cốt truyện hấp dẫn, sự giàu có về từ vựng, văn phong của tác giả. Trong khoa học, giá trị của nội dung khoa học là trên hết. Tuy nhiên sự xuất hiện ngày càng nhiều các tạp chí và bài báo y học làm cho người đọc phải chọn lựa nên đọc cái gì (4). Khi lợi ích khoa học tương đương nhau, chúng ta có xu hướng đọc các bài báo rõ ràng, chính xác, và súc tích hơn. Do vậy, chúng ta chỉ đặt mua những tạp chí nào có những bài báo đáp ứng những nguyên tắc đó nhiều nhất. Hơn nữa, thường những tạp chí có uy tín là nơi thu hút được những bài có giá trị. Những tạp chí đó có nhiều khả năng chọn lựa bài: Tạp chí British Medical Journal nhận được khoảng 5000 bài báo gửi đăng một năm mà chỉ có 600 bài được đăng. Một nửa số bài báo gửi đến thậm chí không nhận được sự phân tích tỷ mỷ vì đó không phải là những bài báo đăng kết quả nghiên cứu, hoặc quá chuyên sâu, tối nghĩa hoặc có giá trị tầm thường về mặt khoa học (5). Ba tiêu chuẩn chất lượng một bài báo khoa học gồm: 1) Giá trị khoa học; 2) Chất lượng của sự trình bày khoa học; 3) Sử dụng thành thạo thứ ngôn ngữ dùng viết bài báo. Rất tiếc một thực trạng đã xảy ra là sự xuất hiện bùng nổ các bài báo và tạp chí do sự cần thiết phải có danh mục công trình nghiên cứu, sự cần thiết phải đăng bài để có số lượng bài báo (6).
  5. Sự cần thiết phải đăng báo dù với động cơ nào đi nữa đã làm xuất hiện cả những sự không trung thực. Tháng 4 năm 1987 vấn đề này đã trở thành chủ đề một cuộc bàn luận ở Hội nghị khoa học Hoa Kỳ(7). Người ta đã đề nghị lập ra một uỷ ban kiểm tra và cả hình thức phạt trong trường hợp gian lận khoa học! Phương thuốc tốt nhất có lẽ là sự tiến bộ trong cách nhìn nhận của các thành viên các hội đồng thi hay các uỷ ban quy định số lượng bài báo. Việc cho điểm đánh giá các tạp chí khoa học có thể là một cách xác định giá trị các tạp chí nào chỉ nhận đăng các bài báo có chất lượng. Trường đại học Y Havard đã đề nghị một biện pháp phòng ngừa có tính hiện thực: Trường này yêu cầu các ứng viên dự tuyển chỉ xuất trình một số lượng hạn chế các công trình của họ: 7 công trình với ứng viên cho vị trí phó giáo sư, 10 công trình cho vị trí giáo sư (7). Cũng với tinh thần đó mà người ta yêu cầu các ứng viên cho giải thưởng Nobel hay Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Hoa Kỳ chỉ trình tối đa 12 công trình (8). Nhưng đối với hội đồng xét duyệt thì đếm đầu các bài báo dễ hơn là đọc bài báo đó (9). VIẾT BÁO KHOA HỌC VÀ VIỆC SỬ DỤNG TỐT NGÔN NGỮ Các nguyên tắc viết một bài báo khoa học trong bất cứ trường hợp nào cũng không bỏ qua việc tôn trọng các quy tắc ngữ pháp dù viết ở ngôn ngữ nào chăng nữa. Sự trộn lẫn giữa việc viết báo khoa học với việc sử dụng không tốt ngôn ngữ thể hiện sự lẫn lộn hoàn toàn giữa hai khái niệm khác nhau: Nguyên tắc viết bài và ngữ pháp. Ví dụ: thật là kỳ lạ khi Ban biên tập của một tạp chí lại có thể bảo vệ được văn phong y học của ngôn ngữ trong khi chấp nhận đăng một bài báo có những câu không thể hiểu được đại loại như: “chỉ có thể nghĩ tới một carcinome epidermoide tiên phát và một Sarcome là chẩn đoán vì bệnh phẩm phẫu thuật đã bị làm hỏng do điều trị coban trước đó”. Chặt chẽ, sáng sủa, súc tích Khi một tác giả băn khoăn về cách viết một câu, một đoạn hay một chương nào đó, người đó phải trả lời được 3 câu hỏi sau đây: 1) Dạng thức nào thích hợp nhất với ý tưởng và hiện tượng mà ta muốn trình bày? 2) Kiểu diễn đạt nào là đơn giản và rõ ràng nhất cho người đọc? 3) Kiểu diễn đạt nào súc tích nhất? Ba câu hỏi này có tầm quan trọng giảm dần: Đừng hy sinh sự chặt chẽ cho lối hành văn sáng sủa cũng như không hy sinh sáng sủa cho sự súc tích. HỌC CÁC NGUYÊN TẮC PHỔ BIẾN TOÀN CẦU TRONG VIẾT BÁO KHOA HỌC Các nguyên tắc viết báo khoa học không phải là tự nhiên mà có: Để biết đọc thì chỉ biết các chữ cái thôi chưa đủ; cũng như vậy, để viết đúng một bài báo khoa học thì việc biết viết bằng một thứ ngôn ngữ nào đó vẫn chưa đủ. Vì vậy việc học những nguyên tắc viết báo khoa học dù rất đơn giản là cần thiết. Việc cần thiết phải dạy những nguyên tắc này đã được đặt ra từ lâu ở nhiều nước (10). Ví dụ ở Hoa Kỳ, những khoa giảng dạy phương pháp viết báo khoa học đã được thành lập ở các trường đại học: L. Debakey lãnh đạo khoa thông tin khoa học (11) tại trường đại học Y Baylor ở Houston,. F.P Woodford đã sáng lập chương trình giảng dạy 18 tháng cho các biên tập viên khoa học chuyên nghiệp (12) tại trường đại học Rockerfeller ở New York. Tại Mayo Clinic ở Rochester đã tổ chức chương trình giảng dạy về viết báo khoa học cho sinh viên và các thầy thuốc (13). Khoa xuất bản y học giúp các thầy thuốc viết các công trình ngay từ khi có ý tưởng. Cách làm này là sự bổ sung tốt nhất cho việc giảng dạy lý thuyết (14). Ở Anh cách viết công trình khoa học đã được dạy ở Viện khoa học và kỹ thuật Cardiff. Những chương trình giảng dạy tích cực đã được tổ chức dưới sự lãnh đạo của S. Lock, "biên tập viên" của tạp chí British Medical Journal (15).
  6. Ở Pháp, G. P. Revillard đã nêu lên sự cần thiết phải giảng dạy về kỹ thuật viết các bản thu hoạch nghiên cứu trong chương trình học sau đại học "3ème cycle" (16). Năm 1975, J. A. Farfor đã đề nghị thành lập một tổ chức giảng dạy cách viết công trình y học ở ba mức độ (1,17): 1) Một đợt giảng có thời lượng vài giờ cho sinh viên y khoa năm thứ nhất hay thứ hai để giúp họ viết một bệnh án và trả lời các câu hỏi thi; 2) Một khoá học từ bốn đến sáu buổi rưỡi cho các sinh viên đại học năm thứ ba giúp họ viết luận án và nhất là các bản tóm tắt nghiên cứu; 3) Một khoá giảng sâu hơn nhiều dành cho các bác sĩ khi họ hợp tác với ban biên tập các tạp chí y học. Mặc dù khá muộn màng so với các nước khác, việc giảng dạy về phương pháp viết công trình y học đã được bắt đầu nhờ những ý tưởng của từng cá nhân, nhất là ở Paris, Tours, Nantes, Angers, Lille. Các ý tưởng này đã tập hợp lại năm 1987 bằng việc thành lập Hội phát triển giảng dạy và nghiên cứu về viết công trình khoa học y học (Association pour le developpement de l'enseignement et de la rechercher en rédaction médical - ADERREM). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Farfor JA. Enseigner la rédaction médicale. Chapitre II. La structure du compte rendu de recherche. Cah Med 1976;2:783-5. 2. Boileau-Despréaux N. L'art poétique. Chant I. In: (Euvres, nouvelle édition. Paris: Billiot, 1726:7-33. 3. International Committee of Medical Journal Editors. Uniform requirements for manuscrips submitted to biomedical journals. N Engl J Med 1997;336:309-15 (traduction fran†aise voire page 149) 4. Department of Clinical Epidemiology and Biostatistics, McMaster University Health of Science. How to read clinical journals: I. Why to read them and how to start reading them critically. Can Med Assoc J 1981;124:555-8. 5. Smith R. Steaming up windows and refereeing medical papers. Br Med J 1982;285:1259-61. 6. Garfield E. In thuth, the “flood” of scientific literature is only a myth. Scientist 1991;2:11-25. 7. Angell M, Relman AS. Fraud in biomedical research. A time for congressional restraint. N Engl J Med 1988;318:1462-3. 8. Stossel TP. Volume: papers and academic promotion. Ann Intern Med 1987;106:146-8. 9. Stetten D. Publication: numbers and quality. Science 1986;232:4746. 10. Farfor JA. Pour une réhabilitation de la presse médicale fran†aise: à quand la fin de l'amateurisme? Cah Med 1977;3:683-7. 11. DeBakey L. The scientific journal: editorial policies and pratices: guidelines for editors, reviewers, and subauthors. In collaboration with PF Cranefield et al. St Louis: Mosby, 1976,129p. 12. Woodford FP. Training professional editors for scientific journals. Scholarly Publishing 1970;2:41-6. 13. Roland CG, Cox BG. A mandatory course in scientific writing for undergraduate medical students. J Med Educ 1976;51:89-93. 14. Cox BG. The author's editor. Mayo Clin Proc 1974;49:314-7. 15. Lock S. Introduction (à l'enseignement de la rédaction médicale). Cah Med 1976;2:630-2. 16. Revillard JP. Pour un enseignement de l'expession médicale et scientifique. La rédaction d'un article. Lyon Médical 1970;224:1-9. 17. Farfor JA. Pourquoi la recherche médicale fran†aise est-elle sous-estimatée dans les pays de langue anglaise? Cah Med Lyonnais 1975;51:11-4. 18. Huguier M, Poitout D. Diplôme d' études approfondies en sciences chirurgicales. Ann Chir 1986;40:449-53. TS. Trần Bình Giang 6/30/2003
  7. Chương 2 CÁC DẠNG BÀI VIẾT VÀ BÀI BÁO TRONG Y HỌC Sự đa dạng của các bài viết và bài báo trong y học là để đáp ứng với sự đa dạng về mục đích của chúng. Các tạp chí y học cho phép các tác giả trình bày theo ít nhất tám cách khác nhau, mỗi cách tương ứng với một dạng bài báo đã được xác định. Hệ quả là việc xếp loại các bài báo trong y học thành các dạng khác nhau mang lại cho người đọc thông tin về mục đích chung của bài báo, như vậy hướng người đọc chọn lựa ngay từ đầu. Các dạng bài viết và bài báo khác nhau trong y học: Bài đăng công trình nghiên cứu (article original) Bài xã luận (editorial) Thông báo lâm sàng (cas clinique ou fait clinique) Thư gửi Ban biên tập ( lettre à la rédation) Tổng quan (revue generale) Hiệu chỉnh (mise au point) Phân tích bình luận (analyse commentée) Bài giảng (article didactique) Sách (livres) Luận án bác sỹ y học, khi trình bày một công trình nghiên cứu phải được viết như một bài báo khoa học, nghĩa là như một bài đăng công trình nghiên cứu. Mỗi dạng bài báo có điểm đặc trưng riêng. Việc không tuân thủ những đặc điểm này thể hiện sự thiếu nghiêm túc của người viết. BÀI ĐĂNG CÔNG TÌNH NGHIÊN CỨU Đây là bài báo nguyên thuỷ còn gọi là khoá luận hay báo cáo khoa học ở một số tạp chí, trình bày một công trình nghiên cứu theo một chủ đề nào đó. Các tác giả trình bày phương pháp nghiên cứu, đưa ra các kết quả nghiên cứu của mình và bàn luận về các kết quả đó. Cấu trúc một bài báo nghiên cứu là sự lặp lại một cách máy móc vì nó là kết quả của logic khoa học. Phần Đặt vấn đề phải nói rõ tại sao công trình được thực hiện. Phần Tư liệu và phương pháp nghiên cứu phải chỉ ra công trình được thực hiện thế nào. Phần kết quả mô tả những gì đã nhận thấy và chỉ những gì đã nhận thấy. Ngược lại phần Bàn luận hay bình luận có thể viết tự do hơn, mặc dù vẫn phải tôn trọng những nguyên tắc chung. Tài liệu tham khảo giúp để chứng minh những điều các tác giả khẳng định, chủ yếu ở phần đặt vấn đề và phần bàn luận. Cấu trúc này phù hợp với một logic chứ không phải với một sự giáo điều áp đặt. Bài báo nghiên cứu cũng khác với bài giảng ở chỗ mục đích của bài giảng là giảng dạy cho người đọc. Việc nhầm lẫn giữa các thể loại thể hiện sự thiếu chặt chẽ trong việc viết bài báo. Cấu trúc một bài báo nghiên cứu thường được gọi là IMRAD (1). Nó có nghĩa là: I = Introduction = Đặt vấn đề, M = Matériel et méthodes = Tư liệu và phương pháp, R = Résultats = Kết quả, A = and = và, D = Discussion = Bàn luận. Cấu trúc một bài báo nghiên cứu (gọi là cấu trúc IMRAD) Tên bài báo và tóm tắt I = Introduction = Đặt vấn đề, M = Matériel et méthode = Tư liệu và phương pháp, R = Résultat = Kết quả, A = and = và,
  8. D = Discussion = Bàn luận. Tài liệu tham khảo Hai sai lầm lớn nhất và thường gặp nhất là: thứ nhất là đặt trong một chương những vấn đề không có vị trí ở đó như đưa nhận xét vào chương Tư liệu và phương pháp nghiên cứu hay chương Kết quả, mô tả đối tượng nghiên cứu trong chương Kết quả... Sai lầm thứ hai là biến một phần hay toàn bộ chương Bàn luận thành một bài giảng sư phạm (2). BÀI XÃ LUẬN Bài xã luận thường được Ban biên tập của một tạp chí yêu cầu một tác giả có uy tín trong lĩnh vực chuyên môn đó viết. Tác giả tự do bày tỏ quan điểm, phân tích các công trình nghiên cứu đã xuất bản, đưa ra các giả thuyết hoặc đề xuất những nghiên cứu mới. Vì lý do đó, tác giả của bài xã luận khi viết không phải tuân theo cấu trúc IMRAD. Định nghĩa về bài xã luận cho thấy nó chỉ do một tác giả viết. Một bài xã luận phải ngắn vào khoảng 6 trang đánh máy. Trong một bài xã luận nên tránh đưa ra các kết quả nghiên cứu cụ thể. Tác giả cần giữ một thái độ phê phán đối với các kết quả nghiên cứu của riêng mình. Bài xã luận là một dạng bài báo y học rất cụ thể: Các kết quả thống kê cho thấy đó là loại bài được đọc nhiều nhất trong các tạp chí y học nổi tiếng (3). Trên thực tế với tư cách là người đọc, cách rất tốt để tạo ra quan điểm về một vấn đề là đọc bài xã luận về vấn đề đó. Một bài xã luận có thể có cùng chủ đề với bài nghiên cứu trong cùng một số của tạp chí, đó là dạng bài xã luận "chủ đề" . THÔNG BÁO LÂM SÀNG Thông báo lâm sàng có mục đích trình bày một bệnh án và bình luận ngắn về bệnh án đó. Vì lý do đó độ dài bản thảo không nên vượt quá 4-6 trang đánh máy. Thông báo lâm sàng phải đưa ra các thông tin độc đáo về sinh bệnh học, lợi ích của quá trình chẩn đoán hay điều trị một bệnh lý nào đó. Các tạp chí nổi tiếng có một chính sách rất chặt chẽ trong việc đăng các thông báo lâm sàng. Chính sách này là do có rất nhiều thông báo lâm sàng được gửi tới. Không phải bao giờ cho đăng những trường hợp hiếm gặp cũng có ích, thường vì đó là những trường hợp không có lợi ích rõ ràng về tính sư phạm (4). Việc viết một thông báo lâm sàng nên tránh hai xu hướng: Từ một trường hợp đã gặp làm một điểm báo y học hay viết một bài giảng dưới vỏ bình luận một bệnh án. Thảo luận giải phẫu bệnh-lâm sàng gần với dạng thông báo lâm sàng (5). Việc này được thực hiện bởi một hay nhiều bác sĩ thảo luận những vấn đề về chẩn đoán hay điều trị đặt ra nhân một trường hợp bệnh nhân. Thảo luận giải phẫu bệnh-lâm sàng là một bài báo có tính giảng dạy mà một minh họa là mục "Bệnh án lâm sàng" hay “Thảo luận lâm sàng - giải phẫu bệnh” của Bệnh viện Trung tâm Masachussets được đăng hàng tuần trong tạp chí New England Journal of Medicine (6). Tại Pháp, có những tạp chí đăng thường kỳ những bài thảo luận giải phẫu bệnh-lâm sàng. Thảo luận lâm sàng giống như thảo luận giải phẫu bệnh-lâm sàng, trình bày những vấn đề về chẩn đoán và điều trị của một bệnh án lâm sàng. Khác với thảo luận giải phẫu bệnh-lâm sàng mà mỗi phần được thảo luận bởi một chuyên gia khác nhau (5), thảo luận lâm sàng là một dạng bài báo giảng dạy, cập nhập một vấn đề qua một bệnh án cụ thể được trình bày. Dạng thảo luận lâm sàng được đăng thường kỳ trong tạp chí Annals of Internal Medicine. Đôi khi có người chỉ trích dạng thông báo lâm sàng (6,7). Tuy nhiên khi nó có chất lượng tốt thì lại mang lại rất nhiều kết quả bởi vì 56% độc giả của tạp chí New England Journal of Medicine nói rằng họ đọc ít nhất ba lần một tháng mục "Bệnh án lâm sàng" trong báo này (8). Vì vậy Ban biên tập các tạp chí y học nên khuyến khích đăng dạng bài này với điều kiện phải kiểm
  9. soát chất lượng (4). THƯ GỬI BAN BIÊN TẬP Thư gửi Ban biên tập là một bức thư gửi cho Ban biên tập của một tạp chí với mục đích được đăng trên tạp chí đó. Nội dung của thư gửi Ban biên tập có thể là một thông báo lâm sàng ngắn hoặc các kết quả bước đầu một công trình nghiên cứu hay có thể là lời bình luận về một bài báo đã đăng trước đó trong chính tạp chí đó. Thư gửi ban biên tập phải ngắn, ít hơn hai trang đánh máy và có dưới sáu tài liệu tham khảo. Các kết quả trình bày trong thư gửi Ban biên tập có thể sẽ được đăng sau này một cách chi tiết hơn. Thư gửi Ban biên tập cho phép các tác giả tính ngày công bố nếu công trình không đăng hay chỉ được thảo luận miệng. Lợi điểm của thư gửi ban biên tập là nó được đăng nhanh sau khi được Ban biên tập chấp nhận, thường chỉ trong vòng vài tuần, trong khi muốn đăng một công trình nghiên cứu thì thời gian chờ đợi là vài tháng thậm chí một năm hoặc hơn. Thư gửi Ban biên tập có thể là lời trả lời, một bình luận hay có thể là một quan điểm ngược lại với một bài báo đã đăng trước đó trong cùng tạp chí (9). Khả năng trao đổi này giữa các tác giả và người đọc là một thói quen rất được ưa chuộng ở các tạp chí Anh-Mỹ (9) đã phát triển trong các tạp chí tiếng Pháp. Có những tạp chí chỉ chấp nhận loại thư gửi Ban biên tập kiểu này mà thôi. TỔNG QUAN Bài tổng quan là một bài điểm lại một cách đầy đủ nhất có thể được những hiểu biết về một chủ đề xuất phát từ việc phân tích toàn bộ mọi mặt các công trình đã đăng. Trong phần tài liệu tham khảo có thể dẫn hàng vài trăm tài liệu. Một bài tổng quan tốt phải đáp ứng được những yêu cầu sau (10): 1) chỉ hướng tới một chủ đề cụ thể đã được trình bày rõ ở phần mở đầu. 2) trình bày những nguồn tài liệu đã được sử dụng để thu thập thông tin và chỉ rõ những tiêu chuẩn nào để sử dụng tài liệu trong số những tài liệu đã đọc, ví dụ như tác giả một bài tổng quan về điều trị một bệnh chỉ lấy những nghiên cứu tiền cứu có kiểm chứng. 3) phân tích phương pháp luận và giá trị của các kết quả thu được trong các công trình khác nhau được sử dụng trong bài. 4) trình bày tóm tắt trong những đoạn cuối của bài tổng quan những số liệu và kết quả có giá trị nhất và gợi ý những hướng nghiên cứu cho các công trình trong tương lai. Người đọc nhờ vậy nhận được một cái nhìn tổng thể bao quát về một vấn đề cả về mặt lịch sử và triển vọng mở ra từ đó. HIỆU CHỈNH Hiệu chỉnh là một thể loại nằm giữa hai thể loại có tính hoàn chỉnh hơn là bài xã luận và bài tổng quan. Người viết bài này phải là tác giả của những công trình chủ yếu trong vấn đề đó. Bài này cũng giống như bài xã luận thường được viết theo yêu cầu của Ban biên tập một tạp chí. Bài hiệu chỉnh có nội dung tập trung vào một chủ đề hạn hẹp xuất phát từ những bài báo đăng trong những năm gần đây và từ kinh nghiệm bản thân của tác giả. Sự khác biệt giữa hai nguồn thông tin này phải thể hiện rõ ràng. Ngay từ phần đặt vấn đề, các tác giả phải giải thích bài hiệu chỉnh được viết bởi lý do gì. Trong phần nội dung chính của bài báo phải tránh việc chỉ đơn giản sắp xếp các kết quả trái ngược cạnh nhau mà phải đưa ra sự giải thích các điều trái ngược, quan điểm cá nhân của tác giả, đưa ra gợi ý giải quyết những điểm bất đồng để cho phép người đọc có thể tự sàng lọc những quan niệm của họ về chủ đề đó. Tài liệu tham khảo nên chọn lọc và chỉ giới hạn ở vài chục tài liệu.
  10. BÀI ĐIỂN HÌNH Bài điểm bình có nội dung là phân tích và bình luận về những bài báo xuất hiện trong những tháng gần đây trong những tạp chí khác. Tốt nhất là bài này do một tác giả hiểu biết sâu về chủ đề đó viết. Bài dạng này chỉ nên có 2-3 trang đánh máy và bao gồm hai phần: Phần đầu tóm tắt bài báo với sự tham khảo phần tóm tắt của các tác giả, phần thứ hai là phần bình luận và phê phán về giá trị của các kết quả và những điều mà kết quả đó mang lại cho sự hiểu biết về chủ đề. Sự xuất hiện của phần bình luận bộc lộ nhân thân tác giả. Một vài tài liệu tham khảo, thường là khác với những tài liệu được dẫn trong bài báo được điểm có thể làm nòng cốt cho phần bình luận. Loại bài này rất được độc giả quan tâm. Có những tạp chí chỉ đăng những bài điểm bình, thậm chí có cả những cuốn sách xuất bản thường kỳ đăng loạt bài này như cuốn "Year Books". BÀI GIẢNG Mục đích của bài giảng là giảng dạy cho người đọc như chính tên của loại bài này chỉ ra. Một bài giảng đòi hỏi phải chuyên sâu về vấn đề và có khả năng mang lợi ích cho tất cả mọi độc giả muốn tìm hiểu về chủ đề đó, dù đó là người chưa biết gì hay chỉ biết một phần vấn đề. Kèm theo bài giảng có phần hướng dẫn đọc sách gọi là phần danh mục tài liệu liên quan dành cho những ai muốn biết sâu hơn về chủ đề. Danh mục tài liệu khác tài liệu tham khảo. Tuy nhiên một bài giảng, ngoài danh mục tài liệu liên quan còn có thể có tài liệu tham khảo là những tài liệu làm nòng cốt cho bài viết và được trích dẫn trong bài. LUẬN ÁN BÁC SỸ Luận án bác sỹ thường là dịp đầu tiên sinh viên tiếp xúc với việc viết báo y học. Mục đích của một luận án phải được xác định một cách cẩn thận trước khi bắt tay vào thực hiện: tra cứu hàng chục hay hàng trăm tài liệu để rồi sau đó tự hỏi có thể rút ra những cái gì là trái ngược với việc đáng phải làm. Mục đích của một luận án cũng như tất cả các công trình khoa học là trả lời câu hỏi được đặt ra một cách rõ ràng. Việc bảo vệ luận án phải là việc trình bày một công trình nghiên cứu cá nhân và những ảnh hưởng mà công trình đó tạo ra. Một luận án vì vậy phải được trình bày theo cấu trúc của một công trình nghiên cứu: Đặt vấn đề, Đối tượng và phương pháp, Kết quả, Bàn luận và Tài liệu tham khảo. Cách thức viết một luận án như vậy giúp cho sau này dễ dàng đăng công trình trong một tạp chí dưới dạng một bài báo nghiên cứu, đó là cách duy nhất để thông báo các kết quả của công trình. Trong thực tế, rất nhiều tạp chí y học từ chối chấp nhận khi đưa một luận án vào phần tài liệu tham khảo một bài báo vì đó là một công trình khó tiếp cận cho những ai không sống ở thành phố có trường đại học mà luận án đó được bảo vệ và càng khó hơn cho các người đọc ở nước ngoài khi muốn tham khảo tài liệu đó. TÀI LIỆU THAM KIHẢO 1. Farfor JA. Enseigner la rédaction médicale. Chapitre II. La structure du compte rendu de recherche. Cah Med 1976;2:783-5. 2. Huguier M, Molkhou JM. La rédaction médicale. Gastroenterol Clin Biol 1986;10:29-33. 3. Morgan PP. Scientific editorials. A precious and scarce element in medical journals. Can Med Assoc J 1985;132:315. 4. Amsler R. De l'honnêteté fondamentale des publications médicales. Concours Médical 1971;93:647-50. 5. Pariente A. Le cas clinique est-il un genre désuet? Ann Gastroenterol Hepatol (Paris) 1987;23:1.
  11. 6. Relman AS. Are the case records obsolete? N Engl J Med 1979;301:1112-3. 7. Lipkin M. The CPC as an anachronism. N Engl J Med 1979;301:1113-4. 8. Scully RE. In defence of the CPC. N Engl J Med 1979;301:1114-6. 9. Morgan PP. How to write a letter to editor that the editor will want to publish. Can Med Assoc J 1985;132:1344. 10. Murlow CD. The medical review article: state of the science. Ann Intern Med 1987;106:485-8.
  12. CHƯƠNG 3: VĂN PHONG Văn phong tốt nhất cho một bài báo khoa học là không có văn phong (1): Ba yếu tố cơ bản nhất của một bài báo khoa học là chính xác, rõ ràng và ngắn gọn. Cách viết một bài báo khoa học tự bản thân nó thể hiện tính chặt chẽ khoa học. Nó khác biệt một cách cơ bản với văn phong trong văn chương. CÁCH VIẾT TRONG KHOA HỌC KHÁC VỚI CÁCH VIẾT TRONG VĂN CHƯƠNG Nền văn hoá và việc học ở nhà trường đã ảnh hưởng tới việc viết văn trong khoa học và có lẽ đã có ảnh hưởng xấu tới việc đó. Trên thực tế việc viết văn trong khoa học y học có những điểm đặc biệt biểu hiện ở nhiều nguyên tắc: sử dụng tốt thì của động từ, loại bỏ những kiểu diễn đạt hoa mỹ, những biểu hiện có tính cảm tính, những thể bị động không cần thiết. Việc sử dụng đúng thì của động từ Tính logic khoa học đòi hỏi sử dụng thì quá khứ cho tất cả những hiện tượng đã xảy ra trong quá khứ và chỉ sử dụng thì hiện tại trong những trường hợp được xác định. Như vậy, trong một bài báo nghiên cứu, thì quá khứ phải được dùng cho tất cả những gì liên quan tới kinh nghiệm cá nhân của các tác giả bởi vì những cái đó đã xảy ra trong quá khứ dù chỉ mới vừa xảy ra: cách thức tiến hành nghiên cứu (tư liệu và phương pháp), những cái nhận được (kết quả). Thì quá khứ cũng phải được dùng cho tất cả những điều xuất phát từ kinh nghiệm của các tác giả khác, cả ở phần đặt vấn đề cũng như ở phần bàn luận. Khi viết trong khoa học, việc sử dụng thì hiện tại tường thuật cho những sự kiện xảy ra trong quá khứ thường dẫn tới sự không logic trong dạng thức: “bệnh nhân đang đến bệnh viện ngày 15 tháng 9 năm 1983” (sử dụng thì động từ thời hiện tại cho một hiện tượng đã xảy ra nhiều năm trước. Một cuộc phẫu thuật đã được thực hiện. Khi mổ "đang" tìm thấy một khối u (nhận xét như trên) và khối u này đã được cắt bỏ. Bệnh nhân "sẽ" được xuất viện (động từ ở thì tương lai cho một sự kiện trong quá khứ) ngày thứ tám sau mổ”. Hơn nữa, việc sử dụng thì hiện tại để mô tả những hiện tượng trong quá khứ là nguồn gốc của sự phóng đại: một khẳng định kiểu như "những cystadenomes của tuỵ được quan sát thấy ở phụ nữ từ 40 đến 60 tuổi" là muốn nói đến kinh nghiệm cá nhân của tác giả hay là số liệu trong y văn? Nếu là để nói tới kinh nghiệm cá nhân của tác giả thì phải chia động từ ở thì quá khứ. Nếu là để nói đến những điều đã biết trong y văn thì phải chia ở hiện tại. Khi đọc một câu viết "Tất cả những bệnh nhân bị ung thư tuyến tuỵ khi có di căn hạch đã chết trong vòng 5 năm" người đọc sẽ hiểu rằng đó là kinh nghiệm của bản thân tác giả. Ngược lại khi viết "Tất cả bệnh nhân ung thư tuỵ chết trong năm năm" là muốn nói tới một điều đã được tất cả mọi người biết. Vì vậy cần khẳng định điều này bằng một hay các tài liệu tham khảo. Các diễn đạt văn hoa Chúng ta đã được học để không dùng một từ nhiều lần sát nhau, ngoại trừ khi muốn tạo ra những tác dụng lặp lại. Vì vậy ta được khuyên tìm các diễn đạt hoa mỹ bằng cách dùng các từ đồng dạng. Ngược lại, tính logic của việc viết báo khoa học đòi hỏi sử dụng cùng một từ để chỉ một hiện tượng (1,2). Việc sử dụng trong một bài báo các từ "sốt", "sốt nhẹ", "thay đổi nhiệt độ", "tăng nhiệt độ" làm người đọc phải tự hỏi tại sao tác giả không sử dụng một từ duy nhất và cố đi tìm nguyên nhân của việc dùng các từ khác nhau do trong thực tế y học các từ này có ý nghĩa khác nhau. Việc cấm sử dụng các dạng diễn đạt hoa mỹ bắt buộc tác giả phải chọn lựa trong số
  13. những từ có nghĩa gần nhau từ nào phù hợp nhất với hiện tượng quan sát thấy và sau đó chỉ sử dụng duy nhất từ đó cả trong bài báo lẫn trong tất cả các bảng hay chú thích của các minh hoạ. Trong một bài báo thuộc ngành giải phẫu tạo hình, một độc giả khi đọc bài báo có các cụm từ "vạt có cuống của phần dưới cơ thang hay "phần chính dưới cơ thang", nếu không phải là nhà giải phẫu học sẽ không biết đó chỉ là một cơ và một nhà giải phẫu sẽ tự hỏi tại sao tác giả không sử dụng theo danh pháp quốc tế. Những diễn đạt cảm tính Ngôn ngữ trong văn chương chấp nhận và đôi khi tìm kiếm những biểu đạt có tính cảm tính. Điều đó không có bất cứ vị trí nào trong văn phong khoa học. Tại sao lại viết "sau nhiều giờ cố gắng vất vả... chúng tôi đã tham gia một cách vô vọng vào sự tiến triển của..."mà không viết là "bệnh nhân đã chết". Liệu chúng ta có thấy lợi ích gì cho người đọc khi viết một câu như: "chúng tôi biết rõ là những bệnh nhân sau mổ bệnh cường tuyến cận giáp mà có biến chứng về tiết niệu thì tiên lượng bệnh rất nặng, tuy nhiên những biến chứng đó đòi hỏi chúng tôi phải cố gắng rất nhiều". Độc giả không quan tâm tới những cố gắng của bạn. Cũng với lý do như vậy, tốt nhất đừng sử dụng những cách diễn đạt có tính xã giao như kiểu "nhờ sự giúp đỡ của người bạn đồng nghiệp tuyệt vời và bạn của chúng ta, bác sỹ X". Nếu bạn muốn cảm ơn bác sỹ X đã gửi bệnh nhân cho bạn, đã đọc xét nghiệm này hay xét nghiệm khác, đã đọc lại và cho ý kiến về bản thảo của bạn, hãy cảm ơn ông ấy ở cuối bài báo bằng một phụ chương có tên là cảm ơn. Hãy viết ở đó: "Chúng tôi cảm ơn bác sỹ X đã đọc các phim chụp cắt lớp vi tính". Trong một bài báo khoa học Hãy nhắc lại cùng một từ để chỉ cùng một sự vật, không nên sử dụng các danh từ tương tự như : Sốt, nhiệt độ cao, hơi sốt, tăng nhiệt độ, tình trạng sốt... 47%, gần một nửa, một nửa, vào khoảng 1 lần trên hai Ung thư, u, adenocarcinome, tổ chức tân tạo. Loại bỏ các diễn đạt cảm tính. "Chúng tôi đã phát hiện..." "Không may, may mắn..." "Chúng tôi rất ngạc nhiên nhận thấy rằng..." "Chúng tôi đã ngạc nhiên..." "Rất hay, rất ấn tượng, thất vọng..." Việc sử dụng chủ từ "tôi" hay "chúng tôi" không được gây ra sự mơ hồ. Trong viết báo khoa học không còn vị trí cho sự khiêm tốn hay cho các cách diễn đạt cảm tính khác (1). Tốt nhất hãy viết: "chúng tôi đã khám 10 bệnh nhân" hay "tôi đã khám" tuỳ theo có một hay nhiều tác giả. SỰ CHÍNH XÁC THỂ HIỆN TÍNH NGHIÊM TÚC KHOA HỌC Tính nghiêm túc khoa học phải đặt dấu ấn trên một công trình khoa học từ khi chuẩn bị cho tới khi thực hiện giai đoạn cuối cùng là viết bài báo. Hậu quả là nếu không cẩn thận khi soạn thảo bài báo sẽ dẫn đến việc độc giả sẽ hỏi là công trình được thực hiện với mức độ nghiêm túc như thế nào. Sự chính xác là biểu hiện chủ yếu của tính nghiêm túc khoa học. Sự chính xác thể hiện bằng định nghĩa trong chương Tư liệu và phương pháp nghiên cứu. Trong một nghiên cứu lâm sàng, quần thể nghiên cứu phải được xác định, các tiêu chuẩn đánh giá phải được mô tả chính xác và không được thiếu hay bỏ sót. Trong một nghiên cứu về thời gian sống của bệnh nhân xơ gan đã có búi giãn tĩnh mạch thực quản, các nhà gan học của
  14. trường đại học Havart ở Boston đã không bị coi là thừa khi định nghĩa thế nào là xơ gan, là búi giãn tĩnh mạch thực quản, là cổ chướng (3). Trong một công trình nghiên cứu thực nghiệm, việc trình bày phương pháp phải đủ rõ ràng để thực nghiệm đó có thể được lặp lại trong công trình nghiên cứu của người khác. Tính chính xác phải thể hiện khi trình bày phương pháp nghiên cứu và kết quả: một khối u không phải ước lượng là kích thước nhỏ, bằng quả cam hay bằng quả dưa mà phải đo bằng centimet (4). Không viết là nặng, nhẹ mà cân nặng bao nhiêu gram. Một bệnh nhân gầy đi 5 kg không có cùng ý nghĩa khi trọng lượng ban đầu là 30 kg hay 90 kg. Việc gầy đi từ 90 kg xuống 85 kg không có cùng ý nghĩa khi xảy ra trong 2 tháng hay trong 1 năm. Sự chính xác khi trình bày các kết quả đòi hỏi phải kiểm tra sự tương ứng của tất cả các số liệu trong bài và trong các bảng số liệu. Một nhà khoa học đã bỏ hàng tháng để mô tả các khó khăn của một nghiên cứu hay tính chính xác các kết quả cho tới 4 số thập phân, phải dành sự chú ý để người thư ký không nhầm miligram thành mililitre và nhà xuất bản không chuyển thành millimetre (5). Sự chính xác. Bỏ những danh từ trống rỗng: "U to" là bao nhiêu: 3 cm, 15 cm, 27 cm... " Quan sát mới đây" là khi nào: 1970, 1980, 1985... "Một số nhất định" chính xác là số nào: 10, 23, 67... "Khổng lồ", "hẹp", "rộng", "mênh mông", "nhỏ nhắn", "nặng", "nhẹ", "thường gặp", "hiếm", "rất hiếm", "hiện tại", "cổ xưa", "quan trọng". Tỷ lệ creatinin máu cao: là bao nhiêu Bỏ những đại từ trống rỗng: "Rất nhiều, ít, nhiều, một cách sâu sắc, một cách trung bình, khá đủ, quá, thường, hiếm khi"... Trong một bài báo, nhất là bài giảng dạy, việc ghi số tỷ lệ phần trăm có thể gây khó khăn cho việc đọc và nhớ. Vì những lý do này, có những tính từ hay đại từ được sử dụng. Một nghiên cứu tiến cứu nhiều trung tâm ở Pháp (6) đã cho phép đề nghị các thuật ngữ tương ứng tốt nhất với các tỷ lệ phần trăm (bảng 1). Sự thiếu vắng trong từ vựng các thuật ngữ để chỉ các tỷ lệ từ 40 đến 60 % dẫn tới việc sử dụng cách diễn đạt "1 trên 2". THUẬT NGỮ ĐỀ THUẬT NGỮ CHẤP TỶ LỆ THUẬT NGỮ NÊN TRÁNH NGHỊ NHẬN ĐƯỢC 0% Không bao giờ Vắng Hầu như không bao 5% (2-6) Rất đặc biệt giờ 10% 8-15) Hiếm Khá hiếm, thỉnh thoảng 20% (15- ít gặp Đôi khi Không thường xuyên, có thể 25) 30% (25- Không hằng định Có thể 33) 50% (33- Một lần trên hai 55) 60% (58- Hay gặp Khá thường gặp 62) 70% (65- Thường thấy Thường gặp Thông thường, bình thường
  15. 72) 75% Thường 80% (75- Nói chung, rất thường thấy, bình Phần lớn thời gian 82) thường, một cách bình thường 95% (85- Hầu như hằng định 95) 100% Luôn luôn Hằng định, không thay đổi Bảng 1: Các tính từ và đại từ đề nghị để biểu thị tỷ lệ (6) SỰ SÁNG SỦA CHO PHÉP BÀI BÁO ĐƯỢC VÀ HIỂU Sau sự chính xác, sự sáng sủa là yếu tố thứ hai của một bài báo khoa học. Một bài báo đăng kết quả nghiên cứu không chỉ có mục đích để được đăng báo, trước hết nó phải để được đọc (5). Số lượng các tạp chí y học và số bài báo đăng trong đó bắt buộc người đọc phải chọn lựa. Sự chọn lựa này được hướng dẫn bởi ngôn ngữ mà bài báo được viết, nội dung tạp chí có chuyên sâu hay không cũng như danh tiếng của tờ báo, cuối cùng bằng chính sự sáng sủa của bản thân bài báo: những bài báo kém sáng sủa sẽ ít có cơ hội được đọc hơn. Mặc dù vẫn còn những tạp chí chấp nhận đăng những bài báo như vậy. Viết bằng một ngôn ngữ sao cho đơn giản và rõ ràng Sự sáng sủa "Việc xem xét kỹ lưỡng bảng II chỉ ra...": hoặc bảng II đã được trình bày tốt và tính từ "kỹ lưỡng" là không cần thiết còn khi sự kỹ lưỡng là cần thiết trong trường hợp này thì cần phải trình bày lại bảng. Sự sáng sủa đòi hỏi sử dụng các từ và thuật ngữ đơn giản. Có lẽ sự lan rộng của tiếng Anh như là một ngôn ngữ của khoa học một phần là do ngôn ngữ đó sử dụng các từ vựng chặt chẽ nhưng đơn giản và rõ ràng. Điều này có được nhờ sự thống nhất và một cố gắng của bản thân các nhà Anh ngữ như trong đầu đề một bài báo của F. Savage và P.Godwin: "Kiểm soát ngôn ngữ của bạn: viết tiếng Anh rõ ràng". Điều này có thể áp dụng cho mọi ngôn ngữ (7). Mục đích của một bài báo khoa học không phải để khoe sự phong phú từ vựng của mình mà để trình bày công trình nghiên cứu. Tất cả các tác giả phải luôn luôn tự hỏi liệu có thể sử dụng một thuật ngữ đơn giản hơn, liệu từ được sử dụng có thể hiểu được bởi một độc giả nước ngoài không nói được tiếng ta sử dụng mà chỉ có một vài khái niệm về ngôn ngữ đó. Các qui tắc này càng quan trọng hơn do ngôn ngữ y học làm biến dạng việc sử dụng một số từ, tạo ra một số từ mới, thậm chí một từ lóng. ở điểm này các nguyên tắc viết bài báo khoa học gặp gỡ với việc sử dụng tốt ngôn ngữ. Tại sao lại viết: những vết loét này là những nguồn cung cấp bổ trợ cho tỷ lệ tử vong thay vì "các vết loét đã dẫn tới tỷ lệ tử vong cao hơn"? Sự biến dạng của ngôn ngữ y học thậm chí dẫn tới việc một sinh viên đã viết trong một bản dự thi tuyển nội trú: "Ta đặt bệnh nhân dưới sự che phủ kháng sinh!" . Vị trí chủ chốt Một từ ở vị trí chủ chốt khi nó bắt đầu một câu, một đầu đề hay một đoạn. Vị trí chủ chốt tạo ra sự rõ ràng của bài báo bằng cách thu hút sự chú ý của độc giả. Một sai lầm hay gặp, cần phải chỉ trích mạnh mẽ là việc đặt ở vị trí chủ chốt trong đầu đề một bài báo những từ có nội dung thông tin yếu: bắt đầu một đầu đề bằng "thực trạng hiện nay của" là đặt ở vị trí chủ chốt một từ và một tính từ ít có lợi ích. Nếu các tác giả cho rằng việc viết một bài báo về điều trị loét
  16. hành tá tràng là có ích, người đọc có thể hy vọng là công trình sẽ trình bày những tài liệu hiện tại về bệnh này mà không phải là những cái đã làm trong quá khứ. Việc sử dụng dấu phẩy Sự thiếu vắng dấu phảy có thể là nguồn gốc của sự tối nghĩa "ba bệnh nhân đều bị theo thứ tự đau, buồn nôn và nôn và ỉa chảy". Bệnh nhân thứ hai đã bị buồn nôn và nôn, bệnh nhân thứ ba bị ỉa chảy, hay bệnh nhân thứ hai bị buồn nôn, và bệnh nhân thứ ba buồn nôn và nôn! (1). Việc đặt một dấu phảy ở đúng vị trí loại bỏ sự tối nghĩa. Ngược với văn chương và thơ ca, trong một bài báo khoa học, ưu tiên sử dụng dấu phảy giữa một loạt các từ, chỉ sử dụng chữ "và" khi nó đứng giữa hai từ có liên quan với nhau. Chính sách này đã được áp dụng bởi các báo như British Medical Journal, Lancet và New England Journal of Medicine (1). Sử dụng sai từ "vân vân" Et coetera mà dạng viết tắt là etc có nghĩa là "và những cái còn lại" trong một sự tiếp nối có thể xác định. Dạng thức "etc" chỉ được sử dụng trong một bài báo khoa học chỉ sử dụng nếu nó không dẫn tới bất kỳ sự hiểu lầm nào: đó là trường hợp một xét nghiệm viên sử dụng hai nhóm ống nghiệm, nhóm đầu có 50 ống đánh dấu từ A1 đến A50, chứa một dung dịch có độ pha loãng khác nhau và nhóm thứ hai gồm 50 ống nghiệm khác đánh số từ B1đến B50 chứa một dung dịch khác. Nếu người làm thí nghiệm trộn lẫn ống A1 với ống B1, rồi ống A2 với ống B2, có thể sử dụng "etc" để tránh giải thích 48 quy trình tiếp theo. Et coetera sử dụng sai sẽ dẫn tới sự không chính xác: Bạn muốn nói gì khi viết "các xét nghiệm sinh học, huyết đồ, tốc độ máu lắng etc"? liệu bạn có xét nghiệm cả bilirubin, canxi máu? Et coetera mở rộng cửa về một chân trời vô định và không thể chấp nhận trong một bài báo khoa học. Đó là một ngân phiếu trắng đưa cho độc giả (1). Việc sử dụng sai "etc" là gần với sự không chính xác của "ví dụ" hay "như là" (1). Sau đây là một ví dụ về điều không nên làm "bệnh nhân đã được dùng kháng sinh kinh điển như là, ví dụ Penicilline etc" thêm vào với việc sử dụng sai etc, cái gì được gọi là "kháng sinh kiểu kinh điển"? muốn nói gì ở đây với "ví dụ"?. Một ngôn ngữ đơn giản . Sử dụng tốt ngôn ngữ Tìm để loại bỏ các tiếng lóng y học: Dùng "che phủ" kháng sinh thay vì "điều trị" kháng sinh hay "kháng sinh liệu pháp" Hội chứng "tăng nhiệt" thay cho "sốt". Bệnh nhân bị "hội chứng khó nuốt" thay vì bệnh nhân bị "khó nuốt". Các kết quả này "làm xuất hiện" thay vì : "các kết quả này đã chỉ ra". Ruột thừa nằm ở "vị trí dưới gan" thay cho "ruột thừa nằm dưới gan" Kinh nghiệm đã "giới hạn các sự vượt tràn" của biến chứng thay vì kinh nghiệm đã "giảm" các biến chứng. Một "biểu hiện cổ chướng" thay cho "cổ chướng" Một phim X quang "nói". Ai đã nghe một phim X quang nói? Một "vật mang ung thư" có đặt nó trên một cái đĩa? "Một thang bậc" điều trị: theo mặt bắc? "Quả cầu ORL" đó có phải là một quả cầu thuỷ tinh? Các dấu hiệu siêu âm không thể giả định về chẩn đoán bản chất của hình ảnh. Sử dụng các động từ và các từ cho chính xác Thăm khám "phát hiện": phát hiện có nghĩa là làm xuất hiện cái mà trước đây không được biết và bí mật. Tại sao không nói một cách đơn giản "thăm khám cho thấy"? Bệnh nhân "bày tỏ" một sự đau đầu thay vì bệnh nhân "bị" đau đầu (ngược lại bệnh nhân có thể bày tỏ một điều xin lỗi)
  17. Ta chỉ có thể "tìm thấy" một khối u khi nó đã bị mất và "trở lại bệnh viện" nếu người ta đã đi ra trước đó. "Bằng" không có nghĩa là "tương đương với", "theo" không có nghĩa là "tuỳ theo", "nhờ vào" không có nghĩa là "do", "hội chứng" không có nghĩa "triệu chứng học" hay "triệu chứng", "thay thế" không phải là "khả năng" (8) Một phẫu thuật viên "nhi" là một phẫu thuật viên có đặc điểm của trẻ em. Những danh từ và tính từ có một nghĩa thống kê chính xác khác với nghĩa thông thường: tương ứng, tỷ xuất, tần suất, rõ rệt. Không đưa ra các từ mới: Số lượng bệnh nhân "được cắt" "Sự tiến triển" của thai nghén Bệnh nhân đã được dùng thuốc chống đông, dùng thuốc kháng sinh, được xét nghiệm toàn diện, được sàng lọc. Bệnh nhân đã được "cho đường" (bạn đọc hãy bình tâm, đó chỉ là một trường hợp giảm đường huyết) Tránh những tính từ liên tiếp: "Bệnh nhân xơ gan cổ chướng nhiễm trùng": ai nhiễm trùng, bệnh nhân xơ gan hay dịch cổ chướng của xơ gan? "Tăng huyết áp nặng": nặng như thế nào ? Khi bạn viết, đừng dùng các từ Anh hoá, nhất là khi không có ý thức: Cần phải tính đến một "liệu pháp ngược" cho "căn bệnh nghiện" của các thầy thuốc với ngày càng nhiều "ao" tiếng nước ngoài đang dần dần làm ô nhiễm ngôn ngữ y học của ta (2): planing, cocktaik, screening thay cho kế hoạch, hỗn hợp, sàng lọc. Shunt, thrill, feed-back thay cho cầu nối, run, phản hồi? Các chữ viết tắt Việc sử dụng các chữ viết tắt các đơn vị đo lường quốc tế khi chúng đứng sau một số là hợp pháp thậm chí được khuyến khích, có thể viết "bệnh nhân nặng 50 kg" nhưng không được viết "sự tiến triển của trọng lượng bằng kg", trong ví dụ này, kilogramme không có số đứng trước nó nên phải được viết đầy đủ bằng chữ. Nếu bạn không chắc chắn về một chữ viết tắt, hãy kiểm tra lại nó: m là viết tắt của metre, min là chữ viết tắt của minute (không phải là mn), G là viết tắt của gauss, Gy là chữ viết tắt của gray, g của gramme. Những chữ viết tắt các đơn vị này là không đổi. Danh sách các chữ viết tắt quốc tế chủ yếu cùng với danh sách các chữ viết tắt của các đơn vị nằm ở cuối sách. Ngoài những chữ viết tắt của các đơn vị đo, các chữ viết tắt có lợi ích là làm bài viết được rút ngắn, làm bài viết dễ đọc hơn thay cho các khái niệm hay các từ quá dài, được sử dụng nhiều lần trong bài như ống mật chủ có thể viết tắt là OMC. Nhưng việc lạm dụng các chữ viết tắt sẽ đi ngược lại mục đích của nó là làm cho việc đọc bài báo dễ dàng hơn, do đó chỉ nên sử dụng chữ viết tắt cho một từ khi từ đó được sử dụng trên ba lần trong một bài báo. Hơn nữa không nên dùng quá hai hay ba chữ viết tắt, ngay cả khi nó đã được giải thích vì sẽ dẫn tới việc làm bài báo rất khó đọc, ví dụ: "83 Bn có 1 TV+D, 93 Bn có 1 SV+D và 83 Bn có 1 PVC"! Tất cả các chữ viết tắt phải được viết đầy đủ khi xuất hiện lần đầu. Phải viết "đã phát hiện sỏi ống mật chủ (OMC)". Từ tiếp sau đó mỗi khi nói tới ống mật chủ, ta chỉ cần sử dụng chữ viết tắt OMC. Qui tắc này áp dụng cho tất cả các chữ viết tắt cho dù chữ viết tắt đó có vẻ rất thông dụng. Tất cả các thầy thuốc biết tiếng Pháp đều biết là ECBU muốn nói tới "examen cyto - bacteriologique des urines - xét nghiệm tế bào và vi khuẩn học nước tiểu". Khi đọc một đoạn như sau chúng ta sẽ nghĩ gì?: "Trên Px của w.d.w.n.w.m có BP, P, R và T trong giới hạn bình thường"?. Chữ AFC có thể có nghĩa là hội ngoại khoa Pháp (Association fran†aise de chirurgie) theo cách hiểu của các nhà ngoại khoa trong khi lại có nghĩa là phân tích từng phần của mối tương quan theo các nhà lập trình tin học. Qui tắc này cũng bao hàm với các dấu hiệu: Khi sự biến đổi của một nhóm xung quanh một giá trị trung bình biểu thị bằng ± 4, phải chỉ rõ ± là biểu thị cho kiểu khoảng cách, sai số chuẩn, hay phương sai.
  18. Những nguyên tắc này cũng áp dụng cho tóm tắt của bài báo. Tuy nhiên tốt nhất nên tránh chữ viết tắt trong tóm tắt, trừ khi đó là một từ hay một nhóm từ khá dài và được sử dụng trên ba lần trong tóm tắt, mà điều này hiếm khi xảy ra. Cũng như vậy đối với các bảng biểu, tuy nhiên nếu có sử dụng chữ viết tắt ở đây thì phải giải thích bằng chú thích dưới bảng hay trong chú giải của biểu đồ. SỰ SÚC TÍCH Tính súc tích là đặc trưng thứ ba của một bài báo khoa học (9). J.A. Farfor đã so sánh hai câu sau: 1) "Bạn đồng nghiệp tuyệt vời và người bạn của tôi, giáo sư N, người trong nhiều năm là một chủ nhiệm khoa sáng chói của Khoa Da Liễu Trường Đại Học Y Khoa thuộc Đại Học Tổng Hợp X ở Y, vừa mới công bố một thống kê rất quan trọng những trường hợp bệnh rất hiếm gặp và rất hay mà ông đã trình bày một cách tuyệt vời ở hội nghị da liễu quốc tế diễn ra mới đây ở Stockholm" 2) "N đã công bố 11 trường hợp" câu đầu tiên gồm 68 từ, câu thứ hai có 5 từ. Thế mà câu thứ hai chứa đựng nhiều thông tin khoa học hơn so với câu đầu. Những cụm từ "bạn đồng nghiệp tuyệt vời và người bạn", "chói sáng", "rất hay", "tuyệt vời" là những diến đạt cảm tính. "Nhiều", "quan trọng", "hiếm", "mới đây" là những từ trống rỗng. Theo J.A. Farfor, sau thí dụ này, những từ và câu không cần thiết là một trong những nguyên nhân chính gây ra dài dòng vô ích cho bao nhiêu bài báo y học ở mọi thể loại (1). Ông gọi những từ, tính từ, đại từ này là "gỗ mục". Việc loại bỏ các danh từ, đại từ , tính từ trống rỗng là việc phải làm. Hãy đừng viết câu dạng như: thật thú vị khi chỉ ra rằng...". Nếu bạn thấy việc chỉ ra điều đó là thú vị, hãy chỉ ra điều đó và đừng phải nói rằng bạn thấy thú vị làm điều đó, nếu điều đó bạn thấy không hay thì hãy đừng nói tới. Cũng với sự chú ý đến tính súc tích của bài báo, hãy đừng đưa ra các thông tin ngoài lề (1). Khi ta muốn xem trên bảng thông báo ở nhà ga giờ khởi hành của chuyến tàu đi từ Paris đến Chantilly, chúng ta đâu đó cần biết gần Chantilly có một khu rừng đẹp mà vào mùa xuân, nếu buổi sáng dậy sớm ta có thể hái được những bông hoa huệ chuông tuyệt đẹp. Sự súc tích Loại bỏ những diễn đạt trống rỗng: "Có lẽ có ích khi lưu ý rằng...": nếu đó là điều có ích hãy chỉ ra, nếu không thì đừng nói đến nó. "Thật đúng lúc chỉ ra rằng..." "Thật là diều rất thú vị khi chỉ ra rằng..." "Có một số điểm có vẻ đáng để chúng ta thảo luận" "Chúng tôi muốn kêu gọi sự chú ý tới sự kiện..." Loại bỏ từ ngữ rườm ra, thừa: "Tuyệt đối" bình thường; tiên lượng "đi trước", điều trị "kháng sinh liệu pháp"; ống "hoàn toàn" đầy... Tránh lặp lại Sự lặp lại một sự kiện hay một ý tưởng đi ngược lại nguyên tắc súc tích. Chỉ có một sự lặp lại là được phép và thậm chí là cần thiết đó là nội dung của phần tóm tắt tương quan với bài báo. Ngoài trường hợp đặc biệt này ra phải tránh lặp lại. Không nhắc lại câu đầu tiên của đầu đề trong phần tóm tắt. Đừng nhắc lại các kết quả trong phần bàn luận. Đừng nhắc lại các đoạn của phần đặt vấn đề trong phần bàn luận. Không phải khi nào cũng dễ tránh được sự lặp lại, vì vậy cần cân nhắc xem một điều nên nói ở phần đặt vấn đề hay phần bàn luận thì có lợi hơn. Tất nhiên có thể cụ thể hoá trong phần bàn luận những điều đã gợi ra ở phần đặt vấn đề. Để tránh lặp lại các kết quả trong phần bàn luận,
  19. thì nên trình bày kết quả dưới dạng bảng hay biểu đồ. Khi đó có thể viết trong phần bàn luận: "Tỷ lệ sống mà chúng tôi quan sát được (bảng II) khác với kết quả thu được...". Việc trích dẫn bảng II cho phép tránh việc nhắc lại tỷ lệ sống là bao nhiêu. Sự tĩnh lược Sự súc tích thái quá dẫn tới việc lược bớt những từ hay ý tưởng bắt buộc phải có để có thể hiểu được câu văn hay nội dung bài. Ta có thể thấy: sự quá ngắn gọn làm hỏng tính sáng sủa của một bản trình bày khoa học. Sự rút gọn thái quá trong một báo cáo khoa học có thể so sánh với một cái thang thỉnh thoảng lại bị thiếu một bậc (1). Nhà khoa học phải trình bày từng giai đoạn lý luận của mình để độc giả tránh phải suy diễn ngay cả khi một số giai đoạn có vẻ là tất yếu. Ngược lại với một bài thơ, ở đây tránh khêu gợi sự tưởng tượng của độc giả. Khi chứng minh rằng a=b và b=c thì phải chỉ rõ là như vậy a cũng =c Trong thực tế sự rút gọn có thể dẫn tới việc suy diễn quá mức các qui tắc logic. Một nhóm nghiên cứu y học gửi đến một tạp chí một bài báo công bố kết quả của một nghiên cứu thực nghiệm trên động vật về tử vong do một loại thuốc gây ra (1): Các tác giả đã viết: "không chứng minh được bất kỳ mối liên quan nào giữa tỷ lệ tử vong với số lượng thuốc hấp thụ khi số lượng này dưới 15mg". Trong lời phê bình bài báo, biên tập viên đã trả lời các tác giả: "Các bạn đã thông báo không có bất kỳ mối liên quan nào giữa tỷ lệ tử vong và liều thuốc sử dụng chỉ khi liều lượng này dưới 15mg. Điều này dẫn tới giả thiết là có mối tương quan đó khi liều cao hơn 15mg. Bạn phải chỉ rõ là mối tương quan đó có hay không?". Một ví dụ khác của sự lược bớt là "trong số 16 máu tụ, 4 trường hợp phàn nàn...". Ai đã từng thấy một khối máu tụ phàn nàn? Vì vậy phải viết "Trong số 16 bệnh nhân bị máu tụ, 4 người phàn nàn...". KẾT LUẬN Để kiểm tra sự tôn trọng các nguyên tắc này, chúng tôi khuyên các tác giả là trước khi gửi một bài báo tới một tạp chí, hãy đọc lại bốn lần, mỗi lần có một mục đích rõ ràng: 1) Đảm bảo sử dụng đúng thì của động từ trong các chương tư liệu và phương pháp, kết quả ở thì quá khứ và không dùng thì hiện tại trong các chương này. 2) Loại bỏ các danh từ, tính từ, đại từ trống rỗng, không có vai trò. 3) Kiểm tra sự liên quan giữa các số liệu trong bài, các bảng, các biểu đồ. 4) Tự hỏi xem liệu các danh từ, các tính từ, các đại từ và động từ được sử dụng liệu có thể hiểu được bởi một người nước ngoài chỉ biết chút ít về ngôn ngữ của bài viết được không. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Farfor JA. Enseigner la rédaction médicale. Chapitre III. Le style. Cah Med 1976;1-2:1053- 9. 2. Vigy M. Le fran†aise est une langue vivante... qui peut être malade. Concous Médical 1975;97:1727-8. 3. Garceau AJ, Chalmers TC, and the Boston Inter Hospital Liver Group. The natural history of cirrhosis. I Survival with esophageal varices. N Engl J Med 1963;268:469-73. 4. DeBakey L, DeBakey S. Medical writing. The case report. II Style and form. Int J Cardiol 1984;6:247-54. 5. Day RA. How to write and publish a scientific paper. Cambridge: Cambridge University Press, 1989:87-93. 6. Les Associations de Recherche en Chirurgie. Hay JM, Michot F, Flamant Y, Leblanc Y. Comment traduire en pourcentages les mots exprimant la fréquence (ou sensibilité) des signes dans une maladie. Gastroenterol Clin Biol 1991;15:481-8. 7. Savage F, Godwin P. Controlling your language: making English clear. Trans R Soc Trop Med Hyg 1981;75:583-5. 8. Maillard JN, Benhamou JP. L'article médical et la communication orale. Paris: Expansion Scientifique Fran†aise, 1970;31-6.
  20. 9. Ramon Y, Cajal S. On the writing of scientific paper. Clin Orthop Related Res 1981;155:1- 6. Chương 4 ĐầU Đề BÀI BÁO Tất cả những độc giả của một bài báo ít nhất cũng sẽ đọc đầu đề của bài báo. Vì vậy đầu đề bài báo phải được đặt đặc biệt cẩn thận và trau chuốt lại mỗi khi xem lại bản thảo (1) và các ban biên tập thường phải đề nghị tác giả sửa lại đầu đề bài báo. Viết một đầu đề tốt là một nhiệm vụ khó khăn nhưng là việc bắt buộc phải làm. Đầu đề bài báo phải nói lên nội dung của bài báo với sự chính xác và súc tích nhất. Đầu đề bài báo cùng với phần tóm tắt phải tạo thành một cấu trúc hoàn toàn độc lập với phần còn lại của bài báo, nhưng phải phản ảnh chính xác nội dung của toàn bài báo. Phần đầu đề và tóm tắt có thể so sánh với một bài báo được viết trên một tấm bưu thiếp (2). Với người đọc, đầu đề có vai trò thu hút và chọn lọc (2): khi đọc đầu đề, người ta sẽ quyết định xem có đọc phần tóm tắt hay không. Có thể xem đầu đề bài báo bằng hai cách: Đọc lướt các bản mục lục của các tạp chí hay cuốn tập hợp các bản tóm tắt như cuốn Current Contents; hoặc có thể thực hiện một thư mục theo chủ đề: nghĩa là tìm tất cả những bài báo viết về một chủ đề bằng cách tra trong các cuốn niên giám như cuốn Index Medicus hay tra ở các hệ thống tin học thống kê về vấn đề đó như Medline hay Internet . Một đầu đề tồi sẽ làm cho một công trình không được biết đến Một đầu đề phải tránh hai khuynh hướng: Quá ngắn gọn, có nguy cơ không phản ánh được nội dung đặc trưng của bài báo. Quá chi tiết, có nguy cơ quá dài. Những tiêu chuẩn của một đầu đề bài báo tốt: Một đầu đề tốt phải sáng sủa, đặc trưng, không có tính gợi ý. Độ dài của đầu đề: Đầu đề phải ngắn (10 đến 15 từ) để có thể cho phép đọc nhanh (2): "Các biểu hiện khác nhau giữa các khối u lymphome angiocentriques nguyên phát và thứ phát của virus Epstein-Barr", "Calcitonin với việc đề phòng mất xương thời kỳ sau mãn kinh". Các đầu đề trên không vượt quá 14 từ, tuy nhiên khá cụ thể. Tuy vậy sự ngắn gọn của đầu đề không được làm độc giả nhầm lẫn về nội dung bài báo. Ví dụ một đầu đề chung chung như kiểu "Đái đường" không phù hợp với một bài báo nghiên cứu về một mặt đặc hiệu nào đó trong chẩn đoán hay trong điều trị đái tháo đường. Nói chung, đầu đề càng dài khi nội dung đề cập càng cụ thể: "Ung thư dạ dày", "Điều trị ngoại khoa ung thư dạ dày", "Kết quả điều trị ngoại khoa ung thư dạ dày", "Kết quả điều trị ngoại khoa ung thư nông của dạ dày". Những đầu đề chi tiết tạo ra sự rất cụ thể "Tác dụng của Levamisole trong dự phòng những đợt tiến triển của bệnh Crohn tiềm ẩn: nghiên cứu tiến cứu có kiểm chứng tại nhiều trung tâm trên 155 bệnh nhân". Trong ví dụ này, đầu đề rất cụ thể nhưng số từ được sử dụng vượt quá 20 từ. Một đầu đề dài như vậy làm khó đọc. Tuy nhiên có thể rút ngắn lại đầu đề đó mà vẫn giữ được tính chính xác.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2