HIỂU BIẾT VỀ CÁC DẤU HIỆU NGUY HIỂM TRƯỚC, TRONG VÀ SAU KHI SINH<br />
CỦA CÁC CẶP VỢ CHỒNG TẠI 7 TỈNH<br />
TẠ NHƯ ĐÍNH, LÊ THIỆN THÁI, NGÔ VĂN TOÀN<br />
TÓM TẮT<br />
Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu ngang mô thực tế và không đầy đủ. Nghiên cứu này được thực<br />
tả, thiết kế KPC 2000+ sử dụng bộ câu hỏi phỏng vấn hiện nhằm mô tả kiến thức của các ông bố và bà mẹ<br />
1459 cặp vợ chồng tuổi từ 15-49 với mục đích là mô tả về các nguy cơ, tai biến trước, trong và sau khi sinh tại<br />
kiến thức của các ông bố và bà mẹ về các nguy cơ, tai 7 tỉnh trong cả nước năm 2006.<br />
biến trước, trong và sau khi sinh tại 7 tỉnh trong cả<br />
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
nước năm 2006. Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến<br />
1. Đối tượng nghiên cứu: Là các cặp vợ chồng<br />
thức về các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai, khi sinh trong độ tuổi sinh đẻ từ 15-49 tuổi thuộc 7 tỉnh: Hà<br />
và sau sinh 42 ngày của phụ nữ và nam giới tuổi từ 15- Giang, Hòa Bình, Phú Thọ, Kon Tum, Ninh Thuận,<br />
49 là rất thấp. Cách xử trí chủ yếu của cả nam và nữ Tiền Giang và Bến Tre.<br />
khi gặp dấu hiệu nguy hiểm trong thời kỳ mang thai,<br />
2. Phương pháp nghiên cứu: Là một thiết kế<br />
khi sinh và sau khi sinh là đến cơ sở y tế công. Kết quả nghiên cứu ngang mô tả, thiết kế KPC 2000+ được áp<br />
này đề xuất việc tăng cường công tác truyền thông dụng cho nghiên cứu này. Cỡ mẫu nghiên cứu được<br />
giáo dục sức khoẻ về các dấu hiệu nguy hiểm khi tính theo công thức cho nghiên cứu mô tả, bao gồm<br />
mang thai, khi sinh và sau sinh 42 ngày cho các đối 1459 cặp vợ chồng tuổi từ 15-49. Bộ câu hỏi phỏng<br />
tượng trên là rất quan trọng nhằm làm giảm tỷ lệ tử vấn về các nguy cơ, tai biến trước, trong và sau khi<br />
vong mẹ và trẻ sơ sinh.<br />
sinh được sử dụng để thu thập các thông tin. Số liệu<br />
Từ khóa: mang thai, trẻ sơ sinh.<br />
được kiểm tra hàng ngày nhằm đảm bảo tính chính<br />
SUMMARY<br />
xác và tin cậy. Số liệu được nhập và phân tích trên<br />
The cross sectional design (KPC 200+) was chương trình SPSS 10.0. Kết quả được trình bày bằng<br />
applied in the research with structure questionnaire in tỷ lệ %.<br />
1459 men and women aged 15-49 to describe their<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
knowledge of danger signs of pregnancy, delivery and<br />
1. Hiểu biết các dấu hiệu có thể nguy hiểm cho<br />
post natal period in 7 provinces in 2006. Results show<br />
phụ nữ mang thai<br />
that their knowledge is rather poor. Those who<br />
Sáu dấu hiệu bất thường liên quan đến thai nghén<br />
suffered these danger signs said that they came to<br />
public health services for care. The research suggests có thể gây nguy hiểm cho người phụ nữ đã được mô<br />
increase of health education and behavioral change tả trong bảng dưới. Kiến thức của phụ nữ và nam giới<br />
communication for community to reduce maternal and về các dấu hiệu nguy hiểm đối với người phụ nữ mang<br />
thai còn rất hạn chế. Còn 39,1% số đối tượng không<br />
neonatal mortality.<br />
biết bất kỳ dấu hiệu nào trong sáu dấu hiệu nguy hiểm<br />
Keywords: pregnancy, neonatal mortality.<br />
thường gặp cho người phụ nữ khi mang thai. Tỷ lệ<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Chăm sóc trước, trong và sau khi sinh cho bà mẹ không biết bất kỳ dấu hiệu nào ở nam cao hơn ở nữ<br />
và trẻ sơ sinh đóng vai trò rất quan trọng trong việc (44,7% so với 33,4%) và khác biệt có ý nghĩa thống kê<br />
giữ gìn sức khỏe cho bà mẹ và trẻ sơ sinh. Việc hiểu giữa nam và nữ (p0,05<br />
biết tất cả các nguy cơ cũng như các dấu hiệu nguy<br />
Đau đầu<br />
10,4<br />
8,3<br />
12,5<br />
>0,05<br />
hiểm này rất thấp và rất khác nhau cho các vùng miền<br />
Phù<br />
9,6<br />
8,0<br />
11,3<br />
>0,05<br />
khác nhau và các nhóm đối tượng khác nhau. Điều<br />
Chảy máu ở cửa<br />
30,8<br />
36,2<br />
25,5<br />
0,05<br />
một số tỉnh có dự án nước ngoài hỗ trợ. Các số liệu<br />
Không biết<br />
39,1<br />
33,4<br />
44,7<br />
0,05<br />
<br />
56<br />
<br />
Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014<br />
<br />
Biết 2 dấu hiệu<br />
Biết 3 dấu hiệu<br />
Biết 4 dấu hiệu<br />
Biết 5 dấu hiệu<br />
<br />
23,9<br />
5,9<br />
1,3<br />
0,7<br />
<br />
27,7<br />
6,2<br />
1,4<br />
0,3<br />
<br />
20,2<br />
5,5<br />
1,2<br />
1,0<br />
<br />
>0,05<br />
>0,05<br />
>0,05<br />
>0,05<br />
<br />
Bảng 2 cho biết tỷ lệ nam và nữ hiểu biết cách xử<br />
trí khi gặp các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai.<br />
96,7% nam và nữ trả lời là đến cơ sở y tế nhà nước<br />
khi gặp các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai. Chỉ có<br />
một tỷ lệ rất thấp trả lời là tự chữa hoặc để tự khỏi<br />
hoặc đến thầy lang hoặc cúng. Không có sự khác biệt<br />
có ý nghĩa thống kê về xử trí giữa nam và nữ (p>0,05).<br />
Bảng 2. Tỷ lệ hiểu biết về cách xử trí khi gặp các<br />
dấu hiệu nguy hiểm cho thai nghén<br />
Chun Phụ<br />
Nam<br />
Cách xử trí<br />
p<br />
g<br />
nữ<br />
giới<br />
>0,0<br />
Để tự khỏi<br />
0,6<br />
1,0<br />
0,1<br />
5<br />
>0,0<br />
Tự chữa<br />
1,2<br />
1,4<br />
1,1<br />
5<br />
>0,0<br />
Mời thầy thuốc đến nhà 10,1<br />
9,9<br />
10,4<br />
5<br />
>0,0<br />
Đến CSYT nhà nước<br />
96,7 95,7<br />
97,9<br />
5<br />
>0,0<br />
Đến phòng khám tư<br />
8,0<br />
8,6<br />
7,4<br />
5<br />
>0,0<br />
Đến thầy lang khám và<br />
0,1<br />
0,1<br />
0,1<br />
chữa<br />
5<br />
>0,0<br />
Cúng<br />
0,1<br />
0,1<br />
0<br />
5<br />
2. Hiểu biết về các dấu hiệu nguy hiểm của<br />
người mẹ trong quá trình chuyển dạ<br />
Hiểu biết của nam giới và phụ nữ về các dấu hiệu<br />
nguy hiểm trong quá trình chuyển dạ được đánh giá<br />
thông qua 5 dấu hiệu. Hiểu biết của cả nam giới và<br />
phụ nữ về các dấu hiệu nguy hiểm cho người phụ nữ<br />
trong chuyển dạ còn kém. Có 39% đối tượng phỏng<br />
vấn (33,7% phụ nữ, 44,3% nam giới) không biết được<br />
bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm nào đối với phụ nữ trong<br />
khi sinh. Sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê với<br />
p0,05.<br />
Bảng 3. Tỷ lệ hiểu biết những dấu hiệu nguy hiểm<br />
cho phụ nữ trong chuyển dạ<br />
Dấu hiệu nguy<br />
Chung Phụ nữ Nam giới<br />
p<br />
hiểm<br />
Đau bụng dữ dội<br />
32,7<br />
31,4<br />
34,0<br />
>0,05<br />
Chảy nhiều máu<br />
32,0<br />
36,7<br />
27,3<br />
>0,05<br />
Sốt<br />
10,9<br />
6,4<br />
15,4<br />
0,05<br />
Vỡ ối sớm<br />
13,8<br />
19,5<br />
8,0<br />
0,05<br />
Không biết<br />
39,0<br />
33,7<br />
44,3<br />
>0,05<br />
Biết 1 dấu hiệu<br />
34,5<br />
39,3<br />
29,7<br />
>0,05<br />
<br />
Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014<br />
<br />
Biết 2 dấu hiệu<br />
Biết 3 dấu hiệu<br />
Biết 4 dấu hiệu<br />
Biết 5 dấu hiệu<br />
<br />
20,2<br />
3,5<br />
2,5<br />
0,3<br />
<br />
22,3<br />
3,6<br />
1,0<br />
0,1<br />
<br />
18,1<br />
3,4<br />
4,0<br />
0,5<br />
<br />
>0,05<br />
>0,05<br />
>0,05<br />
>0,05<br />
<br />
3. Hiểu biết về các dấu hiệu nguy hiểm của<br />
người mẹ sau đẻ<br />
Câu hỏi “Những dấu hiệu nào cho thấy người phụ<br />
nữ sau đẻ gặp nguy hiểm?” cùng với 5 dấu hiệu chính<br />
sau đẻ để lựa chọn đã được sử dụng để đánh giá hiểu<br />
biết về các vấn đề chăm sóc sau sinh. Sự hiểu biết<br />
của cả phụ nữ và nam giới về các dấu hiệu nguy hiểm<br />
cho người phụ nữ sau sinh còn hạn chế. Còn 29,7%<br />
số phụ nữ và 47% số nam giới phỏng vấn không kể<br />
được bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm nào đối với người<br />
phụ nữ sau sinh. Sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê<br />
với p0,05<br />
Không biết các dấu hiệu<br />
38,4 29,7 47,0 0,05<br />
Biết 4 dấu hiệu<br />
1,1<br />
0,7 1,5 >0,05<br />
Biết 5 dấu hiệu<br />
1,6<br />
0,0 3,2<br />
Bảng 5 cho biết tỷ lệ nam và nữ hiểu biết cách xử<br />
trí khi gặp các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai.<br />
93,1% nam và nữ trả lời là đến cơ sở y tế nhà nước<br />
khi gặp các dấu hiệu nguy hiểm sau khi sinh. Chỉ có<br />
một tỷ lệ rất thấp trả lời là tự chữa hoặc để tự khỏi<br />
hoặc đến thầy lang hoặc cúng. Không có sự khác biệt<br />
có ý nghĩa thống kê về cách xử trí giữa nam và nữ<br />
(p>0,05).<br />
Bảng 5. Tỷ lệ hiểu biết các cách xử trí khi người<br />
mẹ sau sinh gặp nguy hiểm<br />
Chun<br />
Nam<br />
Cách xử trí<br />
Phụ nữ<br />
p<br />
g<br />
giới<br />
Để tự khỏi<br />
0,7<br />
1,2<br />
0,0 >0,05<br />
1,0<br />
1,3<br />
0,6 >0,05<br />
Tự chữa<br />
Mời CBYT đến nhà<br />
11,8 13,1<br />
10,2 >0,05<br />
Đến CSYT nhà nước 93,1 91,0<br />
96,0 >0,05<br />
Đến phòng khám tư<br />
6,0<br />
4,6<br />
7,8 >0,05<br />
<br />
57<br />
<br />
Đến thầy lang khám và<br />
chữa<br />
Cúng<br />
Khác<br />
Không biết<br />
<br />
0,4<br />
<br />
0,7<br />
<br />
0,1<br />
<br />
>0,05<br />
<br />
0,3<br />
0,7<br />
1,2<br />
<br />
0,3<br />
1,3<br />
1,1<br />
<br />
0,2<br />
0,0<br />
1,2<br />
<br />
>0,05<br />
>0,05<br />
>0,05<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ<br />
nam và nữ trong độ tuổi sinh đẻ hiểu biết về các nguy<br />
cơ và dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai, khi sinh và<br />
sau đẻ rất thấp, đặc biệt là biết từ 3 dấu hiệu nguy<br />
hiểm trở lên. Như trên đã trình bày hàng năm trên thế<br />
giới có khoảng 500.000 bà mẹ chết liên quan đến<br />
mang thai, sinh đẻ và sau đẻ. Trong số này có đến<br />
90% số bà mẹ chết ở các nước đang phát triển [4].<br />
Một số công trình nghiên cứu khoa học trên thế giới đã<br />
ước lượng nếu các bà mẹ và ông bố hoặc thành viên<br />
trong gia đình biết các dấu hiệu nguy hiểm khi mang<br />
thai, khi sinh và sau khi sinh 42 ngày và có thái độ xử<br />
trí đúng thì có thể cứu sống được khoảng 2/3 số<br />
trường hợp mẹ chết. Số còn lại thuộc về sự đáp ứng<br />
của cơ sở y tế, tình trạng bệnh và khả năng biến<br />
chuyển quá nhanh hoặc quá đột ngột của bà mẹ [5].<br />
Tổ chức Y tế Thế giới cũng đã khẳng định được<br />
khoảng 15% các bà mẹ mang thai sẽ có nguy cơ mắc<br />
tai biến sản khoa mà khó có thể lường trước được.<br />
Trong sản khoa hiện nay người ta thường nói<br />
nhiều đến việc khắc phục “3 chậm trễ” của cả gia đình<br />
và cơ sở y tế trong cấp cứu sản khoa và trẻ sơ sinh.<br />
Trong “3 chậm trễ” này thì có đến “2 chậm trễ” liên<br />
quan đến hiểu biết của phụ nữ mang thai và gia đình<br />
của họ. Đó là “chậm trễ” khi phát hiện các dấu hiệu<br />
nguy hiểm khi mang thai, khi sinh và sau khi sinh và do<br />
vậy đã không có chiến lược chuyển sản phụ đến có sở<br />
y tế thích hợp để có thể cấp cứu kịp thời cứu sống bà<br />
mẹ và trẻ sơ sinh. “Chậm trễ” thứ 2 là chậm trễ khi đã<br />
phát hiện được các dấu hiệu nguy hiểm nhưng không<br />
có phương tiện chuyển tuyến kịp thời đến cơ sở y tế<br />
chuyên khoa. Vấn đề này đặc biệt nghiêm trọng ở các<br />
vùng sâu vùng xa, không có phương tiện giao thông<br />
và chất lượng rất kém của hệ thống đường xá. Một<br />
chậm trễ nữa không liên quan đến hiểu biết của bà mẹ<br />
và thành viên gia đình, đó là “chậm trễ” đến từ phía cơ<br />
sở y tế khi bà mẹ hoặc trẻ sơ sinh đã đến được cơ sở<br />
y tế nhưng không có đủ cán bộ có trình độ và trang<br />
thiết bị cũng như cơ sở hạ tầng để có thể cứu sống bà<br />
mẹ và trẻ sơ sinh.<br />
<br />
58<br />
<br />
Theo một số tính toán thì chỉ cần đầu tư cho mỗi bà<br />
mẹ 1 đô la để chăm sóc trong quá trình mang thai và<br />
sinh đẻ thì cũng có thể cứu sống được rất nhiều các<br />
bà mẹ và trẻ sơ sinh. Trong những năm gần đây,<br />
Chính phủ đã có rất nhiều nỗ lực cùng với các tổ chức<br />
quốc tế cũng như của cộng đồng nhằm làm giảm tỷ lệ<br />
tử vong mẹ và tử vong sơ sinh. Chỉ trong vòng 30 năm<br />
tỷ xuất tử vong mẹ đã giảm từ 400/100.000 trẻ đẻ<br />
sống xuống còn 165/100.000 trẻ đẻ sống và tỷ xuất tử<br />
vong trẻ sơ sinh từ 70/1.000 trẻ đẻ sống xuống còn<br />
15/1.000 trẻ đẻ sống [6]. Hiện nay chỉ có khoảng 68%<br />
các bệnh viện huyện có khả năng cung cấp các dịch<br />
vụ cấp cứu sản khoa toàn diện và khoảng 80% các<br />
trạm y tế xã có khả năng cung cấp dịch vụ chăm sóc<br />
sản khoa cơ bản [2].<br />
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ<br />
Kiến thức về các dấu hiệu nguy hiểm khi mang<br />
thai, khi sinh và sau sinh 42 ngày của phụ nữ và nam<br />
giới tuổi từ 15-49 là rất thấp. Cách xử trí chủ yếu của<br />
cả nam và nữ khi gặp dấu hiệu nguy hiểm trong thời<br />
kỳ mang thai, khi sinh và sau khi sinh là đến cơ sở y tế<br />
công. Kết qủa này đề xuất việc tăng cường công tác<br />
truyền thông giáo dục sức khoẻ về các dấu hiệu nguy<br />
hiểm khi mang thai, khi sinh và sau sinh 42 ngày cho<br />
các đối tượng trên là rất quan trọng nhằm làm giảm tỷ<br />
lệ tử vong mẹ và trẻ sơ sinh.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. WHO (2001). Save motherhood and neonatal care.<br />
Guideline for developing countries. WHO. Geneva.<br />
2. Bộ Y tế (2004). Tình trạng chăm sóc sức khoẻ trẻ<br />
sơ sinh trên thế giới: Việt Nam. Bộ Y tế - Tổ chức Cứu trợ<br />
Trẻ em Mỹ. Nhà Xuất bản Y học.<br />
3. Tổ chức Dân số và Kế hoạch hoá Gia đình Liên<br />
hiệp quốc/UNFPA (2005). Điều tra cơ bản về chăm sóc<br />
sức khoẻ sinh sản taị 12 tỉnh. Hà Nội.<br />
4. Ngô Văn Toàn (2007). Phân tích đa biến mối liên<br />
quan giữa các yếu tố ảnh hưởng và thực hành chăm sóc<br />
trước và trong sinh tại tỉnh Quảng Trị năm 2005. Tạp chí<br />
Y học thực hành, số 1: 34-37.<br />
5. Bang TA, Bang RA, Reddy MH (2005). Homebased neonatal care: Summary and application of the field<br />
trials in Rural Gadchiroli (1993-2003). Journal of<br />
Perinatology;25: p. 108-22.<br />
6. Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em/Tổng cục<br />
Thống kê (2002). Điều tra Dân số và sức khoẻ. Nhà xuất<br />
bản Thống kê.<br />
<br />
Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014<br />
<br />