BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG

VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Y DƯỢC LÂM SÀNG 108

LÊ SÁU NGUYÊN

NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU MỔ MỞ Ổ BỤNG

CỦA PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN LIÊN TỤC

LEVOBUPIVACAIN 0,2% VÀO VẾT MỔ QUA CATHETER

NHIỀU LỖ BÊN

Chuyên ngành: Gây mê hồi sức

Mã số: 62.72.01.22

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

Hà Nội – Năm 2019

CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH

TẠI VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Y DƯỢC LÂM SÀNG 108

Người hướng dẫn khoa học:

1. GS.TS Nguyễn Quốc Kính

Phản biện 1: ………………………………………………………….

Phản biện 2: ………………………………………………………….

Phản biện 3: ………………………………………………………….

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện vào

hồi: giờ ngày tháng năm

Có thể tìm hiểu luận án tại:

1. Thư viện Quốc Gia

2. Thư viện Viện NCKH Y Dược lâm sàng 108

ĐẶT VẤN ĐỀ

Đau sau mổ luôn là mối quan tâm của cả người bệnh và thầy

thuốc. Đau sau mổ có ảnh hưởng lớn tới tâm lý và quá trình phục hổi

của người bệnh. Trên thực tế, đau sau mổ có ảnh hưởng nhiều tới tuần

hoàn, hô hấp, tiêu hóa, nội tiết... và làm chậm thời gian phục hồi của

người bệnh [104]. Mặc dù có nhiều phương pháp giảm đau sau mổ đã

được áp dụng tuy nhiên việc quản lý đau sau mổ vẫn còn gặp nhiều

khó khăn do mỗi phương pháp giảm đau cũng có những chỉ định và

chống chỉ định khác nhau [27] [76] [104].

Có nhiều phương pháp giảm đau sau mổ đã được áp dụng, trước

đây việc sử dụng morphin được coi là tiêu chuẩn vàng trong điều trị đau. Từ

thập niên 80 trở lại đây, các phương pháp giảm đau được nghiên cứu và áp

dụng với mong muốn giảm dần việc sử dụng morphin [98]. Giảm đau đa

phương thức được coi là xu hướng mới với nguyên tắc phối hợp các

phương pháp khác nhau để nâng cao hiệu quả giảm đau và giảm liều thuốc,

đặc biệt là giảm liều opioid [27] [104] [101].

Sau phẫu thuật ổ bụng, có nhiều phương pháp giảm đau đã được áp

dụng. Giảm đau do bệnh nhân tự điều khiển bằng opioid đường tĩnh mạch

có hiệu quả tốt, tuy nhiên vẫn còn nhiều tác dụng không mong muốn như

buồn nôn, nôn… [85]. Truyền liên tục ngoài màng cứng mang lại hiệu quả

rất tốt. Tuy nhiên, có nguy cơ sảy ra các tai biến nguy hiểm như gây tê tủy

sống toàn bộ, nhiễm trùng và tổn thương thần kinh trung ương… [3]. Ngoài

ra, một số tác dụng không mong muốn hay gặp của gây tê ngoài màng cứng

như tụt huyết áp, ức chế vận động dẫn tới phải truyền thêm dịch, hạn chế

vận động sớm [3] [26].

Truyền liên tục thuốc tê vào vết mổ là phương pháp duy trì

thuốc tê liên tục tại vị trí phẫu thuật. Việc sử dụng các catheter có

nhiều lỗ bên với kích thước nhỏ làm tăng khả năng cung cấp thuốc tê

đều khắp vết mổ. Truyền liên tục thuốc tê tại vết mổ không gây ảnh

hưởng tới thần kinh giao cảm như gây tê tủy sống, gây tê ngoài màng

cứng, tuy nhiên ảnh hưởng lên vết mổ và toàn thân cũng chưa rõ

ràng. [58] [60] [78] [117].

Trên thế giới, phương pháp giảm đau bằng truyền liên tục

thuốc tê vào vết mổ qua catheter đa ống thông kích thước nhỏ được

áp dụng trên nhiều loại phẫu thuật như phẫu thuật cột sống [33],

phẫu thuật vào khớp, phẫu thuật thoát vị bẹn, phẫu thuật cắt tuyến vú

và các phẫu thuật vào ổ bụng cũng như lồng ngực [33] [53] [73]

Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào sử dụng catheter nhiều

lỗ bên để giảm đau sau phẫu thuật ổ bụng. Do đó, chúng tôi thực

hiện nghiên cứu trên với các mục tiêu:

1. So sánh hiệu quả giảm đau sau mổ mở ổ bụng giữa

truyền liên tục vào vết mổ levobupivacain 0,2% qua catheter nhiều

lỗ bên với hai phương pháp morphin đường tĩnh mạch do bệnh

nhân tự kiểm soát và truyền liên tục ngoài màng cứng hỗn hợp

levobupivacain 0,125% - fentanyl 2mcg/ml.

2. Đánh giá ảnh hưởng của ba phương pháp giảm đau sau

mổ trên đến tình trạng vết mổ và hồi phục chức năng tiêu hóa.

3. Nhận xét một số ảnh hưởng lên tuần hoàn, hô hấp và tác

dụng không mong muốn của ba phương pháp giảm đau sau mổ trên.

Chương 1

TỔNG QUAN

1.1 Đau sau phẫu thuật ổ bụng

1.1.1 Giải phẫu thành bụng

1.1.2 Các đường mở vào ổ bụng

1.1.3. Cơ chế gây đau sau phẫu thuật vào ổ bụng Phẫu thuật vào ổ bụng thường là phẫu thuật lớn, gây tổn

thương nhiều mô, tổ chức. Chính vì vậy phẫu thuật vào ổ bụng có thể

gây đau từ mức độ vừa tới mức độ nhiều. Phẫu thuật vào ổ bụng có 2

nguồn gây đau là đau có nguồn gốc từ thành bụng và đau có nguồn

gốc từ các tạng trong ổ bụng. [16] [36]

1.1.3.1 Cơ chế gây đau ở tạng

Các tạng trong ổ bụng thường được chi phối bởi các dây thần

kinh có nguồn gốc từ đám rối dương bao gồm dây thần kinh lang thang

và một số dây thần kinh từ hạch giao cảm cạnh sống. Một số nhánh của

đám rối dương tách ra đi tới ruột tạo thành đám rối Auerback và đám rối

Meissner [2]. Tại các tạng trong ổ bụng, không có nhiều các thụ cảm thể

cảm nhận đau do các nguyên nhân cơ học như khâu, cắt… [115].

* Thiếu máu

Cơ chế thiếu máu gây nên cơn đau tại tạng cũng giống như ở

những mô khác, dựa trên tổng hợp các sản phẩm acid chuyển hóa

cuối cùng hay từ mô thương tổn, như bradykinin, enzyms ly giải

proteine hay những chất dẫn truyền khác tại các điểm mút thần kinh.

Sau phẫu thuật các vùng bị thiếu máu như các miệng nối, các vùng bị

tổn thương mạch máu cũng chịu ảnh hưởng tương tự và gây ra cảm

giác đau. Mức độ đau phụ thuộc vào mức độ tổn thương do thiếu

máu gây nên [36] [121].

* Kích thích hóa học

Trong một số trường hợp như thủng tạng rỗng, dịch acid từ

dạ dày hoặc các dịch tiêu hóa từ ruột non sẽ chảy vào ổ bụng. Dịch

này có thể làm tổn thương phúc mạc do đó, một loạt kích thích sẽ

bùng phát và cơn đau dữ dội sẽ xảy ra. Trong phẫu thuật vào ổ bụng

khi sử dụng các dung dịch rửa ổ bụng, dung dịch sát khuẩn các

miệng nối có thể gây ra các kích thích tương tự dẫn tới kích thích

cảm giác đau [36] [121].

* Co thắt tạng rỗng

Sự co thắt của các tạng rỗng như ruột non, ống mật, niệu quản có

thể gây nên kích thích do làm tăng áp lực lên các thụ thể cơ học ở đầu mút

sợi thần kinh. Đồng thời, co thắt cũng làm giảm máu tưới mô, kết hợp với

sự tăng chuyển hóa trong cơ càng làm mức độ đau nặng thêm. Cảm giác

đau từ các tạng đặc có dạng như bị bóp nghẹt, cường độ tăng dần tới cực đại

rồi giảm dần [36] [41].

* Căng giãn quá mức

Nếu một tạng rỗng đang phải chứa căng thì có thể sẽ gây đau

bởi sự kéo căng các mô. Đồng thời, nó còn gây chèn ép dẫn tới thiếu

máu tới các mô tổ chức, thúc đẩy vào cơn đau do thiếu máu tưới mô.

Qúa trình gây mê và phẫu thuật có thể gây nên tình trạng tắc

ruột cơ năng. Tính trạng định trệ lưu thông đường tiêu hóa có thể dẫn

tới căng giãn quá mức do lưu thông trong lòng ruột bị gián đoạn

cũng có thể gây nên những co thắt nhất là giai đoạn đầu phục hồi lưu

thông đường tiêu hóa [36] [41].

1.1.3.2 Đau có nguồn gốc từ thành bụng

Đây là cảm nhận đau do tổn thương thực thể gây nên do tổn

thương các dây thần kinh nhận cảm, các mô tổ chức bị tổn thương

kích thích lên các thụ cảm thể nhận cảm cảm giác đau [104].

Tại thành bụng có các thụ cảm thể hay ổ nhận cảm đau như

thụ cảm thể nhận cảm tác nhân cơ học hay thụ cảm thể cảm nhận

nhiều tác nhân như cơ học, hóa học, nhiệt, áp lực… Khi phẫu thuật

cần banh rộng vết mổ, co kéo thành bụng để thăm dò cũng như tạo

phẫu trường cho quá trình phẫu thuật. Qúa trình phẫu thuật gây tổn

thương dẫn tới vị trí tổn thương sẽ làm sản sinh ra các chất gây đau là các Kinin: Histamin, serotonin, brandykinin… Các ion H+, K+

được giải phóng khỏi tế bào bị tổn thương. Các Prostaglandin liên

quan tới quá trình viêm như PGE1, PGE2 làm cho ổ cảm thụ nhạy

cảm với cảm giác đau. [121]

Cảm giác đau từ vết mổ trên thành bụng được dẫn truyền về

vỏ não bằng cả hai loại sợi dẫn truyền nhanh và sợi dẫn truyền chậm,

chính vì vậy đau ở thành bụng được nhận cảm là cơn đau cấp tính,

dữ dội. Mực độ đau tại vết mổ là rõ ràng hơn nhiều so với đau có

nguồn gốc từ tạng do đau ở tạng chủ yếu được dẫn truyền bởi sợi dẫn

truyền đau chậm. [36]

1.2. Giảm đau sau phẫu thuật ổ bụng

1.3 Thuốc tê levobupivacain

1.4. Phương pháp truyền liên tục thuốc tê vào vết mổ

1.4.1 Lịch sử

1.4.2 Trang thiết bị

1.4.2.1 Bộ đặt catheter đa ống thông kích thước nhỏ

1.4.2.2 Ưu điểm khi sử dụng

1.4.3 Thuốc tê

1.4.3.1 Ảnh hưởng của thuốc tê lên vi khuẩn

1.4.3.2 Ảnh hưởng của thuốc tê lên quá trình liền vết thương

1.4.4 Vị trí đặt catheter giảm đau sau mổ Năm 1983, Thomas [38] và cộng sự thực hiện nghiên cứu giảm

đau bằng đặt catheter sau phẫu thuật cắt túi mật. một catheter được đặt giữa

lớp phúc mạc và cân cơ. Thuốc tê bupivacain 0,5% được truyền với tốc độ

10ml/4 giơ trong 48 giờ. Với 3 nhóm được giảm đau gồm có catheter với

bupi có n=10, có catheter sử dụng nước muối với n = 9 và không có

catheter với n = 10. Kết quả cho thấy điểm mức độ sử dụng opioid của

nhóm sử dụng thuốc tê giảm 57% so với nhóm đối chứng.

Năm 2006, tác giả SS Liu [78] thực hiện nghiên cứu phân

tích gộp từ 44 nghiên cứu RCT với 2141 bệnh nhân. Các nghiên cứu

được thống kê từ năm 1983 tới 2006 cho thấy giảm đau bằng truyền

liên tục thuốc tê vào vết mổ được thực hiện trên nhiều loại phẫu thuật

như các phẫu thuật vào lồng ngực, phẫu thuật vào ổ bụng… Phân

tích của tác giả cho thấy kết quả nhóm sử dụng truyền liên tục thuốc

tê có điểm đau thấp hơn, sử dụng ít opioid hơn.

Năm 2012, tác giả Marina Campolo thuộc Trung tâm Cơ học

Thủy lực và Thủy lực, Đại học Udine, Ý thực hiện đánh giá về mức

độ phân phối của 4 loại multihole catheter được sử dụng trên lâm

sàng là PAINfusor của Baxter, OnQ Pump của I Flow, PolyFuser

Polymedic của Temena và Infiltralong của Pajunk. Kết quả cho thấy

các catheter của Baxter và Pajunk có khả năng phân phối dòng chảy

tốt hơn so với catheter của I Flow và Temena [58].

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 Đối tượng nghiên cứu

2.1.1 Các tiêu chuẩn lựa chọn

Các bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật ổ bụng.

Thể trạng: Đối tượng được đánh giá ASA I-III

Tuổi: từ 18 tuổi trở lên

Không có chống chỉ định gây tê tại chỗ.

Tình nguyện tham gia vào nghiên cứu.

2.1.2 Tiêu chuẩn loại trừ

Có vết mổ dưới 10cm và trên 30cm.

Đang áp đụng các phương pháp giảm đau khác.

Thời gian phẫu thuật kéo dài trên 6 giờ.

Có tiền sử sử dụng thuốc gây nghiện.

Các trường hợp có tai biến, biến chứng trong quá trình gây mê và

phẫu thuật.

Từ chối tham gia nghiên cứu.

2.1.3 Tiêu chuẩn đưa ra khỏi nghiên cứu

Tắc catheter trong thời gian thực hiện giảm đau (trong72 giờ).

Các trường hợp phải tiến hành phẫu thuật lại.

2.2 Phương pháp nghiên cứu

2.2.1 Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng.

2.2.2 Cách chọn mẫu và cỡ mẫu nghiên cứu

Theo kết quả tính cỡ mẫu và thiết kế nghiên cứu, chúng tôi

chọn 3 nhóm bệnh nhân với mỗi nhóm có 40 bệnh nhân.

Sau khi chọn vào nghiên cứu bệnh nhân được chia nhóm ngẫu

nhiên thành 3 nhóm.

Nhóm 1: Nhóm được giảm đau bằng truyền liên tục

levobupivacain 0,2% vào vết mổ qua multillholed catheter (Nhóm

CWI: Continuous Wound Infusion).

Nhóm 2: Nhóm được giảm đau bằng phương pháp bệnh

nhân tự kiểm soát đau bằng morphin đường tĩnh mạch (Nhóm PCA:

Patiens Controlled Analgesia).

Nhóm 3: Nhóm được giảm đau bằng truyền liên tục đường

ngoài màng cứng levobupivacain 0,125% phối hợp với fentanyl

2mcg/ml (Nhóm CEA: Continuous Epidural Analgesia).

2.2.3 Tiến hành

2.2.3.1 Phương tiện nghiên cứu chính

2.2.3.2 Chuẩn bị bệnh nhân

2.2.3.3 Tiến hành gây mê

2.2.3.4 Tiến hành đặt catheter vào vết mổ

Khi phẫu thuật viên tiến hành đóng bụng, người gây mê hồi sức

phối hợp với phẫu thuật viên tiến hành đặt catheter vào vết mổ.

Bóc bộ catheter được đóng gói theo quy cách. Dùng bơm

5ml, lấy thuốc tê đã được pha sẵn với nồng độ 0,2% đuổi khí khỏi

catheter và thử lại xem các lỗ thông trên catheter có đều không.

Sau khi đóng kín lớp phúc mạc. Sử dụng kim dẫn đường

chuyên dụng chọc qua da cách mép vết mổ 1,5-2 cm hướng đầu kim

vào vị trí đầu vết mổ.

Luồn catheter qua kim dẫn đường, đặt catheter dọc theo vết

mổ cho tới khi đầu catheter chạm đầu kia của vết mổ. Bơm thử 1 -2

ml thuốc tê, kiểm tra thấy catheter đặt đúng vị trí bên trên lớp phúc

mạc và thuốc tê thoát đều qua catheter thì tiến hành cố định catheter

vào da BN. Catheter được cố định bằng khâu chỉ cố định vào da.

Hình 2.4: Vị trí catheter trong vết mổ

Tiến hành đóng lớp cân cơ, trong quá trình đóng đảm bảo

catheter nằm giữa lóp phúc mạc và lớp cân cơ. Sau đấy, phẫu thuật

viên đóng nốt lớp da và tổ chức dưới da.

2.2.3.7 Thiết kế giảm đau sau mổ

Cách sử dụng thuốc giảm đau sau mổ

Nhóm 1: Khi đủ điểu kiện làm giảm đau, tiến hành bolus

liều levobupivacain 0,2% với thể tích là 5ml. Sau đấy tiến hành giảm

đau bằng truyền liên tục levobupivacain 0,2% với tốc độ 4- 6 ml/

giờ, tổng lượng thuốc tê không vượt quá 400mg/24 giờ. Theo dõi sát

mạch, huyết áp, SpO2, nhịp thở, tình trạng lâm sàng. Người bệnh được cài đặt sẵn PCA morphin tĩnh mạch và được sử dụng PCA

morphin theo nhu cầu.

Nhóm 2: Khi đủ điều kiện làm giảm đau. Tiến hành chuẩn

độ bằng morphin tiêm TM. Sau đó BN được mắc máy PCA morphin

tĩnh mạch, tiến hành giảm đau bằng morphin đường tĩnh mạch. Pha

dung dịch 1 mg morphin/ml: Lấy 5 ống morphin 10mg + 45 ml nước

muối sinh lý 0,9% vào bơm tiêm 50ml được dung dịch morphin 1

mg/ml. Đặt các thông số máy sau khi chuẩn độ: Liều yêu cầu 1 ml, thời

gian khóa: 10 phút liều giới hạn trong 4 giờ là 20 ml.

Nhóm 3: Giảm đau bằng truyền liên tục thuốc tê

levobupivacain 0,125% phối hợp với fentanyl liều 2µg/ml vào NMC.

Liều khởi đầu với thể tích được tính dựa vào công thức:

“Thể tích tiêm (ml) = (Chiều cao (cm) – 100)/10”

Sau đấy bệnh nhân được tiến hành giảm đau bằng truyền liên tục

vào khoang ngoài màng cứng levobupivacain 0,125%, có pha fentanyl

nồng độ 2µg/ml và adrenalin với nồng độ 5µg/ml với tốc độ 4-6 ml/ giờ,

tổng liều thuốc tê không quá 400mg/24 giờ.

2.3 Sơ đồ nghiên cứu

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1 Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu

Tuổi trung bình trong nghiên cứu là 56,23 ± 13,21 với tuổi

thấp nhất là 19 và cao nhất là 86 tuổi.

Chiều cao trung bình trong nghiên cứu là 161,00 ± 7,19 cm,

trong đó thấp nhất là 144cm và cao nhất là 176cm.

Cân nặng trung bình trong nghiên cứu là 55,73 ± 8,32kg,

trong đó thấp nhất là 40kg và cao nhất là 76kg.

Phân bố về tuổi, chiều cao, cân nặng của 3 nhóm giảm khác nhau

không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05 (p khi so sánh giữa 3 nhóm).

3.2 Hiệu quả giảm đau sau mổ

3.2.1 Điểm VAS lúc nghỉ ngơi ở các thời điểm nghiên cứu

Khi so sánh từng cặp là CWI với PCA chúng tôi thấy điểm

VAS lúc nghỉ tương đương với nhau từ H0 đến H48, sau 48 giờ thì

điểm VAS của nhóm CWI thấp hơn so với nhóm PCA. Khi so sánh

hai nhóm CWI và CEA, điểm VAS hai nhóm tương đương từ khi bắt

đầu giảm đau cho thời thời điểm 24 giờ. Từ giờ thứ 24 tới giờ 60 điểm

VAS lúc nghỉ của nhóm CEA thấp hơn nhóm CWI với p<0,05. Từ H60,

điểm VAS ở hai nhóm khác nhau nhưng không có ý nghĩa thống kê.

3.2.2 Điểm VAS khi vận động ở các thời điểm nghiên cứu

So với nhóm CEA, từ lúc tiến hành làm giảm đau nhóm CWI

có mức giảm đau tương đương đến thời điểm giờ 36 điểm VAS của

nhóm CEA thấp hơn có ý nghĩa thống kê với P <0,05. Tuy nhiên từ

giờ 48 đến 72mức độ giảm đau của hai nhóm tương đương. (p>0,05).

So với nhóm PCA, điểm VAS của nhóm CWI tương đương

từ lúc bắt đầu làm giảm đau tới thời điểm 36 giờ. Từ thời điểm 48

giờ cho đến 72 giờ mức điểm VAS của nhóm CWI thấp hơn so với

nhóm PCA ở mức có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

3.2.3 Lượng Morphin tiêu thụ ở nhóm CWI và nhóm PCA

3.2.3.2 Phân tích nhu cầu morphin ở hai nhóm CWI và PCA

Ở thời điểm 12 giờ đầu tiên lượng morphin của nhóm CWI

cao hơn, tỷ lệ sử dụng morphin của hai nhóm là 6,77mg/8,8mg. Tỷ lệ

này gần như được giữ nguyên ở thời điểm 24 giờ.

Sau 24 giờ, lượng morphin của cả hai nhóm đều giảm dần, tuy

nhiên nhóm CWI có mức giảm nhanh hơn so với nhóm PCA. Từ sau thời

điểm 48 giờ, lượng morphin trung bình của nhóm CWI là rất thấp.

3.2.4 Lượng thuốc tê levobupivacain ở nhóm CWI và nhóm CEA

Biểu đồ 3.8: Lượng levobupivacain ở hai nhóm CWI và CEA

Ở nhóm CWI, lượng thuốc tê được bolus là 10mg (5ml dung

dịch 0,2%) ở tất cả các trường hợp. Lượng levobuivacain sử dụng

trung bình của mỗi ngày là 230,40mg, trong đó cao nhất là 288mg và

thấp nhất là 192mg. Tổng lượng levobupivacain trung bình là

701,45mg, trong đó thấp nhất là 586mg và cao nhất là 884mg.

Ở nhóm CEA, lượng thuốc tê bolus là 7,54 ± 0,97mg, trong

đó thấp nhất là 5,75mg và cao nhất là 9,13mg. Lượng levobupivacain

sử dụng ngày thứ nhất là 146,06 ± 13,85, ngày thứ hai là 147,06 ±

13,50 và ngày thứ ba là 144,12 ± 13,58mg. Tổng lượng

levobupivacain là 444,76 ± 38,92mg, trong đó thấp nhất là 366,25mg

và cao nhất là 546,25mg.

Lượng thuốc levobupivacain của nhóm CEA là thấp hơn với

nhóm CWI ở các thời điểm nghiên cứu. Sự khác biệt này là có ý

nghĩa thống kê ở tất cả các thời điểm nghiên cứu với p<0,05 khi so

sanh hai nhóm.

3.3 Ảnh hưởng lên sự phục hồi sau phẫu thuật

3.3.1.5 Tỷ lệ nhiễm trùng sau mổ

3.3.2 Số ngày nằm viện sau phẫu thuật

Biểu đồ 3.10: Biểu đồ Kaplan - Meier về thời gian nằm viện sau phẫu thuật của 3 nhóm

3.4 Ảnh hưởng lên hô hấp, huyết động và tác dụng không mong muốn

3.4.3 Tác dụng không mong muôn

Tác dụng không mong muốn gặp nhiều nhất ở cả ba nhóm là

buồn nôn (9,2%), ngứa (14,2%). Ngoài ra bí tiểu còn gặp ở hai nhóm

PCA và CEA. Tỷ lệ gặp các tác dụng không mong muốn ở cả ba nhóm là

tương đương nhau trong nghiên cứu (với p>0,05 khi so sánh cả ba nhóm).

Nhóm CWI không gặp trường hợp nào bị bí tiểu hay tụt huyết áp. Chương 4

BÀN LUẬN

4.1 Đặc điểm chung

4.1.1 Tuổi, giới, chiều cao, cân nặng, ASA.

4.1.2 Đặc điểm gây mê và phẫu thuật

4.2 Đánh giá hiệu quả giảm đau

4.2.1 Điểm VAS lúc nghỉ và khi vận động

Từ biểu đồ 3.4 và bảng 3.9, chúng tôi thấy thời điểm bắt đầu

làm giảm đau điểm VAS lúc nghỉ của bệnh nhân ở ba nhóm là tương

đương nhau với mức trung bình là 5 điểm. Sau khi tiến hành giảm

đau ở cả ba nhóm, thời điểm 1 giờ sau khi bắt đâu, điểm VAS của cả

ba nhóm đều giảm xuống dưới 4 điểm, trong đó nhóm CEA có mức

giảm tốt nhất với điểm VAS trung bình tại thời điểm H1, điểm VAS

của cả ba nhóm đều giảm với mức trung bình của nhóm CWI là 2,35

± 1,12 , nhóm PCA là 2,48 ± 0,98 , nhóm CEA là 2,2 ± 0,81. Trong

nghiên cứu của tác giả Nguyễn Toàn Thắng, tại thời điểm H1, nhóm

PCA morphin có điểm VAS trung bình là 2,74 ± 0,92. Nhóm PCA

trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Trung Kiên [8] có điểm VAS

tại H1 là 1,7 ± 0,5, điểm VAS của các tác giả trên cũng đều dưới 4

điểm. Như vậy, điểm VAS trong nghiên cứu của chúng tôi cũng

tương đương với các tác giả khác và đảm bảo mức giảm đau cho BN.

Từ bảng 3.10, mức điểm VAS của ba nhóm khi vận động tại

thời điểm bắt đầu tiến hành giảm đau là 5,9 ở nhóm CWI, 5,77 ở

nhóm PCA và 6,0 ở nhóm CEA. Sau khi tiến hành giảm đau mức

điểm VAS trung bình tại thời điểm H1 lần lượt là 3,45 ở nhóm CWI,

3,6 ở nhóm PCA và 3,3 ở nhóm CEA. Như vậy có thể thấy nhóm

CEA có mức giảm trung bình nhiều nhất và mức độ điểm VAS lúc

vận động cũng thấp nhất. Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Toàn

Thắng [14], điểm VAS khi vận động trung bình là 4,25 ± 0,93 còn

trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Trung Kiên [8], điểm VAS lúc

vận động của nhóm PCEA là 1,6 ± 0,6 còn nhóm PCA là 2,7 ± 0,5.

Trong nghiên cứu của Trần Đức Thọ [15], điểm VAS trung bình ở

H1 của nhóm levobupivacain và fentanyl thấp nhất trong nghiên cứu

là 3,06 ± 0,77. Điểm VAS trong nghiên cứu của chúng tôi và các tác

giả khác có sự khác biệt, việc sử dụng điểm VAS trong đánh giá đau

phụ thuộc vào mức độ nhận cảm và đánh giá của người bệnh do đó

thường có sự khác biệt giữa mỗi bệnh nhân. Tuy nhiên trong nghiên

cứu của chúng tôi và các tác giả khác đều cho thấy mức giảm điểm

VAS của thời điểm bắt đầu với thời điểm H1 là có ý nghĩa và đảm

bảo mức giam đau cho người bệnh trong quá trình điều trị.

Nghiên cứu của tác giả Xing Zheng và cộng sự cho thấy điểm

VAS của nhóm CEA là thấp nhất, điểm VAS của hai nhóm CWI và PCA

tương đương ở các thời điểm 6 giờ, 24 giờ, 36 giờ [83].

Trong nghiên cứu của chúng tôi, từ thời điểm H36, điểm

VAS của nhóm CEA là thấp hơn so với hai nhóm còn lại, tuy nhiên

tại thời điểm H48 điểm VAS của nhóm CWI lại có mức giảm xuống

tương đương với điểm VAS của nhóm CEA và thấp hơn so với nhóm

PCA, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Trên lâm sàng chúng tôi

cũng quan sát thấy sang ngày thứ 3 sau phẫu thuật, bệnh nhân của

nhóm CWI có mức độ hài lòng với kết quả giảm đau hơn so với

nhóm PCA. Tuy nhiên, mức độ đau của ngày thứ ba thấp hơn so với

hai ngày đâu, mức điểm VAS của cả ba nhóm lúc nghỉ đều giảm

xuống dưới 2 điểm. Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Trung

Kiên [8], điểm VAS của nhóm PCEA là thấp hơn so với nhóm PCA

ở mọi thời điểm nghiên cứu, và sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê.

Trong nghiên cứu của chúng tôi lượng morphin theo nhu cầu của

bệnh nhân cao hơn so với của tác giả Nguyễn Trung Kiên [8] (57,8 ±

11,3mg) và lứa tuổi trong nghiên cứu của tác giả là 69,2 ± 6,6 cao

hơn so với nghiên cứu của chúng tôi là 56,23 ± 13,21, ngoài ra trong

nghiên cứu của Nguyễn Trung Kiên còn có các bệnh nhân phẫu thuật

nội soi, do đó nhu cầu sử dụng morphin có thể thấp hơn so với các

bệnh nhân mổ mở [8]. Tác giả Philippe Jouve so sánh hiệu quả giảm

đau giữa CEA và CWI bằng thang điểm VNS cho thấy điểm VAS

của nhóm CEA thấp hơn so với CWI [69]. Trong nghiên cứu của tác

giả Sergio Bertoglio so sánh hiệu quả giữa nhóm CWI và CEA cho thấy

điểm VAS của nhóm CEA thấp hơn so với nhóm CWI ở thời điểm 6h

nhưng lại cao hơn so với nhóm CWI ở các thời điểm 24h, 48h và 72h [94].

4.2.2 Lượng morphin tiêu thụ trong 72 giờ

Từ bảng 3.11 lượng morphin của nhóm CWI trong 72 giờ là

47,00±10,95 mg, so với tổng lượng morphin của nhóm PCA là 93,54

± 16,6mg. Như vậy tổng liều morrphin của nhóm CWI tương đương

với 50,3% lượng morphin của nhóm PCA.

Lượng morphin trong nhóm PCA của chúng tôi tương đương

với của tác giả Nguyễn Toàn Thắng [14] là 71,5 ± 7,5mg sau 48 giờ.

Trong nghiên cứu của chúng tối lượng morphin sau 48 giờ là 73,35 ±

13,3mg. Lượng morphin trong nghiên cứu của Nguyễn Trung Kiên là

57,8 ± 11,3 mg sau 72 giờ. Lượng morphin trong nghiên cứu của tác

giả Nguyễn Trung Kiên thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi,

tuy nhiên, trong nghiên cứu của Nguyễn Trung Kiên có 53,1% bệnh

nhân được phẫu thuật nội soi trong khi nghiên cứu của chúng tôi tiến

hành hoàn toàn trên bệnh nhân mổ mở. Do đó mức độ đau trong

nghiên cứu của chúng tôi có thể cao hơn.

Khi phân tích phân bố lượng morphin ở cả hai nhóm CWI và

nhóm PCA trên các cơ quan phẫu thuật (biểu đồ 3.7) chúng tôi thấy

tại cùng cơ quan phẫu thuật thì lượng morphin của nhóm CWI đều

thấp hơn so với nhóm PCA. Từ kết quả trên chúng tôi thấy việc giảm

đau tại vết mổ giúp giảm thấp lượng morphin sử dụng trong phẫu

thuật vào ổ bụng. Mức giảm có sự khác nhau giữa các cơ quan phẫu

thuật hay nói cách khác là có sự khác biệt về mức độ đau của các

phẫu thuật có tổn thương khác nhau.

Phân tích biểu đồ 3.6 sử dụng morphin mỗi 12 giờ ở hai

nhóm CWI và PCA chúng tôi thấy, lượng morphin sử dụng trong 12

giờ đầu của nhóm CWI là thấp so với nhóm PCA. Từ thời điểm sau

12 giờ, lượng morphin của nhóm cả hai nhóm tăng nhanh và đạt cao

nhất tại thời điểm 24 giờ. Sau đó lượng morphin của hai nhóm cùng

giảm dần, tuy nhiên nhóm CWI có mức giảm nhanh hơn so với nhom

PCA, quan sát từ biểu đổ 3.6 chúng tôi thấy sau 48 giờ, lượng

morphin sử dụng mỗi 12h xuống rất thấp so với nhóm PCA. Từ mức

tiêu thụ của nhóm CWI chúng tôi thấy ró sự khác biệt trong đau sau

phẫu thuật có nguồn gốc từ thành bụng và đau sau phẫu thuật có

nguồn gốc từ tồn thương trong ổ bụngTheo phân tích từ C. Guyton

[36] cho thấy, đau có nguyên nhân từ thành bụng là đau cấp tính rõ

ràng hơn so với đau do nguồn gốc từ tạng. Các đau từ tạng có mức

độ đau thấp hơn, thời gian xuất hiện thường muộn hơn so với đau

cấp tính từ thành bụng. Theo đó, thời gian đau tạng của nhóm CWI

sẽ trùng với thời điểm lượng morphin của nhóm CWI tăng. Thường

là từ sau 12 giờ tời 36 giờ sau phẫu thuật. Sau 36 giờ lượng morphin

của nhóm CWI giảm nhanh cho thấy mức độ đau do tổn thương các

tạng trong ổ bụng giảm nhanh. Tại thời điểm 48 giờ sau phẫu thuật,

mức đau tạng gần như không đáng kể. Trong khi đó, lượng morphin

của nhóm PCA tăng nhanh ngay từ thời điểm sau phẫu thuật, lượng

morphin sử dụng để chuẩn độ của nhóm PCA là 7,35 ± 2,09mg.

Trong 12 giờ tiếp theo, lượng morphin sử dụng vẫn cao là mg

18,67ng so với 10,22mg ở nhóm CWI. Từ thời điểm sau 36 giờ, mức

độ sử dụng của nhóm CWI đã giảm tuy nhiên lượng morphin của

nhóm PCA có giảm nhưng mức độ giảm chậm hơn nhiều. Từ thời

điểm 60 tới 72giờ, lượng morphin của nhóm CWI gần như không

đáng kể (1,67mg), tuy nhiên lượng morphin của nhóm PCA vẫn ở

mức 8,37mg. Từ đó có thể thấy, đau có nguồn gốc từ thành bụng có

mức độ đau nhiều hơn, thời gian xuất hiện sớm hơn và tồn tại lâu hơn

so với đau có nguồn gốc từ tổn thương tạng trong ổ bụng.

4.2.3 Lượng thuốc tê levobupivacain tiêu thụ

Liều sử dụng levobupivacain (bảng 3.12) trong nghiên cứu

của chúng tôi là 701,45 ± 67,5 mg trong 72 giờ. Trong đó cao nhất là

874mg/72h, như vậy liều cao nhất được sử dụng trong nghiên cứu

của chúng tôi tương đương 12,14mg/h. Liều trùng bình trong nghiên cứu

của chúng tôi là 9,74mg/h. Đây là liều thấp hơn so với liều khuyến cáo của

levobupivacain, liều khuyến cáo từ nhà sản xuất là 12,5 - 18,5 mg/h khi

truyền liên tục đường ngoài màng cứng [106] [113] [97]. Liều khuyến cáo

mỗi ngày của levobupivacain theo dược thư Quốc gia Việt Nam tối đa là

400mg/24h [1].

Lượng levobupivacain của nhóm CEA là 444,76 ± 38,92mg.

Trong nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận mức liều của nhóm CWI cao

hơn so với nhóm CEA ở mọi thời điểm nghiên cứu. Sự khác biệt này là có

ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên sự khác biệt này chủ yếu là do nồng độ thuốc

sử dụng của hai nhóm là khác nhau. Nhóm CWI sử dụng levobupivacain

0,2%, trong khi nhóm CEA sử dụng levobupivacin 0,125%. Việc lựa chọn

nồng độ levobupivacain là 0,125% là nồng độ thuốc được nhiều tác giả sử

dụng trong nghiên cứu và đánh giá đây là liều có hiệu quả giảm đau tốt, ít

ức chế tới vận động [15].

Tác giả Philippe Jouve, so sánh CEA và CWI, liều thuốc được sử

dụng ở hai nhóm lần lươt là CWI ropivacain 0,2%, bolus 10ml sau đấy duy

trì 10ml/h, nhóm CEA levobupivacain 0,375% bolus 5ml sau đấy duy trì

5ml/h [69].

Mộ số tác giả như Marc Beaussier [87] chọn thể tích thuốc

lớn hơn với tốc độ 10ml/h. Trên lâm sàng chúng tôi quan sát thấy,

nếu thế tích thuốc quá lớn, thuốc tê sẽ thấm qua vết mổ ra ngoài.

4.3.3 Số ngày nằm viện sau mổ

Từ bảng 3.17, số ngày viện sau phẫu thuật của nhóm CWI là

8,7 ± 1,81, nhóm PCA là 9,33 ± 1,9 và nhóm CEA là 9,23 ± 2,73

ngày. Như vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian nằm viện

của nhóm CWI là ngắn hơn so với hai nhóm PCA và CEA.

Phân tích từ biểu đồ 3.10 chúng tôi thấy tại các thời điểm

xuất viện của ba nhóm, tỷ lệ được xuất viện của cả ba nhóm là tương

đương nhau. Trong đó >95% có thời gian xuất viện dưới 15 ngày.

Trong nghiên cứu của các tác giả Mac Beausier [87]cũng

cho thấy thời gian xuất viện của nhóm CWI là ngắn hơn so với nhóm

đối chứng, thời gian nằm viện của nhóm CWI là 115 ± 25 giờ trong

khi nhóm đối chứng có thời gian nằm viện là 147 ± 53 giờ. Sự khác

biệt là có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

4.5 Ảnh hưởng lên tuần hoàn, hô hấp và tác dụng không mong muốn

4.5.1 Ảnh hưởng lên tuần hoàn

4.4.3 Các tác dụng không mong muốn

Tác dụng không mong muốn chúng tôi gặp phải là buồn nôn,

nôn, ngứa, bí tiểu, tụt huyết áp. Kết quả từ bảng 3.22 cho thấy tỷ lệ

gặp các tác dụng không mong nuốn ở cả ba nhóm là tương đương với

p>0,05. Trong nhóm CWI tác dụng không mong muồn gặp nhiều

nhất là ngứa (12,5%) đây là tác dụng phụ thường gặp cả khi sử dụng

thuốc tê và khi sử dụng morphin. Tỷ lệ nôn và buồn nồn của nhóm

CWI bằng với nhóm PCA lần lượt là 10% và 2,5%. Nhóm CEA

không có bệnh nhân nào bị nôn. Trong nhóm CWI không có bệnh

nhân nào tụt huyết áp và bí tiểu.

Trong nghiên cứu của Bo Young Oh [34] các tác dụng không

mong muồn thường gặp là buồn nôn, ngứa, chóng mặt, bí tiểu.

Trong nghiên cứu của tác giả Trần Đức Thọ [15], các tác

dụng không mong muốn thường gặp ở nhóm sử dụng levobupivacain

với fentanyl là buồn nôn (12%), bí tiểu (14%), ngứa (10%).

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật ổ bụng

của phương pháp truyền liên tục thuốc tê levobupivacain 0,2% vào

vết mổ, PCA morphin tĩnh mạch và CEA levobupivacain 0,125%

trên 120 BN từ tháng 10/2015 đến tháng 04/2018 tại BV Hữu Nghị

Việt Đức chúng tôi rút ra các kết luận sau:

Về hiệu quả giảm đau sau mổ

Giảm đau bằng truyền liên tục thuốc tê levobupivacain 0,2%

vào vết mổ có hiệu quả giảm đau tốt (VAS vận động và lúc nghỉ <

4). Phương pháp giúp giảm một nửa lượng morphin sử dụng theo

phương pháp PCA (47,00 ± 10,95 mg so với 93,65 ± 16,60 mg với p

< 0,05) và có mức điểm VAS thấp hơn từ giờ thứ 48 tới 72. Có hiệu

quả giảm đau tương đương với truyền liên tục hỗn hợp

levobupivacain 0,125% + fentanyl 2mcg/ml ngoài màng cứng nhưng

tiêu thụ nhiều levobupivacain hơn (701,45 ± 67,5 mg so với 444,76 ±

38,92 mg với p < 0,05).

Vê phục hồi sau mổ

So sánh giữa ba nhóm truyền liên tục thuốc tê vào vết mổ,

truyền liên tục thuốc tê vào khoang ngoài màng cứng và dùng

morphin tĩnh mạch do bệnh nhân tự điều khiển về tỷ lệ nhiễm trùng

nông vết mổ lần lượt là 5%, 7,5% và 7,5 % và về thời gian nằm viện

sau mổ lần lượt là 8,70 ± 1,81 ngày, 9,23 ± 2,73 ngày và 9,33 ± 1,9

ngày, sự khác biệt giữa 3 nhóm không có ý nghĩa thống kê với

p>0,05. Không có sự khác biệt giữa 3 nhóm về số loại kháng sinh sử

dụng, số ngày sử dụng kháng sinh và số ngày nuôi dưỡng đường tĩnh

mạch. Nhóm truyền liên tục thuốc tê vào vết mổ và nhóm truyền

thuốc tê liên tục vào khoang ngoài màng cứng có thời gian phục hồi

nhu động ruột tương tự nhau 3,28 ± 0,81 ngày so với 3,19 ± 0,98

ngày (với p > 0,05) nhưng sớm hơn rõ (với p < 0,05) so với nhóm

morphin tĩnh mạch do bệnh nhân tự điều khiển (4,03 ± 0,89 ngày).

Về tuần hoàn, hô hấp và một số tác dụng không mong muốn

Cả ba nhóm trên đều ổn định và không khác biệt nhau về tần

số thở, SpO2, huyết áp và tần số tim tại các thời điểm nghiên cứu. Tỷ

lệ buồn nôn 9,2%, nôn 1,7% và ngứa 14,2% trong tổng số các bệnh

nhân nghiên cứu nhưng không khác biệt giữa ba nhóm. Tụt huyết áp

và bí tiểu: không gặp trường hợp nào ở nhóm truyền liên tục thuốc tê

vào vết mổ, trong khi, trong khi ở nhóm truyền liên tục thuốc tê

khoang ngoài màng cứng (2,5% và 2,5%) và ở nhóm dùng morphin

tĩnh mạch do bệnh nhân tự điều khiển (5% và 5%) tuy nhiên kết quả

không có ý nghĩa thống kê.

KHUYẾN NGHỊ

1. Có thể áp dụng rộng rãi phương pháp giảm đau truyền liên

tục thuốc tê levobupincain 0,2% sau phẫu thuật mổ mở vào ổ bụng.

2. Cần có những nghiên cứu tiếp theo với cỡ mẫu lớn và thời

gian dài hơn để khẳng định kết quả của nghiên cứu này cũng như ảnh

hưởng phương pháp lên quá trình phục hồi vết mổ, đau mạn tính sau

phẫu thuật ổ bụng.

3. Thực hiện nghiên cứu đánh giá hiệu quả của phương pháp

truyền liên tục thuốc tê vào vết mổ tại những phẫu thuật khác nhau

với các loại thuốc tê ở các nồng độ khác nhau.

CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Lê Sáu Nguyên, Nguyễn Quốc Kính, Ngô Mạnh Dinh, Nguyễn

Thu Ngân. 2018. So sánh hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật bụng của

truyền liên tục thuốc tê vào vết mổ với dùng morphin tĩnh mạch do

bệnh nhân tự điều khiển. Tạp chí Y học Việt Nam. Tập 466, trang 4-8.

2. Lê Sáu Nguyên, Nguyễn Quốc Kính. 2018. Hiệu quả và tính

an toàn của phương pháp truyền liên tục levobupivacain 0,2% qua

multiholde catheter để giảm đau sau phẫu thuật ổ bụng. Tạp chí Y

học Việt Nam. Số 466, trang 23-27.