intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hình tượng con người công dân và con người cá nhân trong văn học Việt nam trung đại_6

Chia sẻ: Ha Quynh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

92
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thủ công nghiệp với tính chất là nghề phụ gia đình của nông dân ngày càng phát triển rộng khắp. Trong những nghề thủ công đương thời, nghề làm giấy và nghề khắc ván in phát triển.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hình tượng con người công dân và con người cá nhân trong văn học Việt nam trung đại_6

  1. Hình tượng con người công dân và con người cá nhân trong văn học Việt nam trung đại Thủ công nghiệp với tính chất là nghề phụ gia đình của nông dân ngày càng phát triển rộng khắp. Trong những nghề thủ công đương thời, nghề làm giấy và nghề khắc ván in phát triển. Đây là tiền đề hết sức quan trọng cho việc truyền bá và lưu hành văn chương. Sự mục ruỗng của guồng máy nhà nước phong kiến thống trị đương thời đã trực tiếp tạo những ảnh hưởng mạnh mẽ, sâu sắc đến toàn bộ quá trình suy vi của Nho giáo. Chế độ thi cử thời vua Lê, chúa Trịnh không ổn định. Theo Phan Huy Chú chỉ trong vòng chưa đầy trăm năm 1678 - 1765, các đời vua Lê, chúa Trịnh nối nhau đã có đến 12 lần thay đổi phép thi Hương [146, 70]. Chính sự mất ổn định trầm trọng này đã góp phần không nhỏ vào việc tạo ra sự chán chường trong tâm lý chung của các thế hệ học trò đương thời. Triều đình lại cho bán học vị công khai với giá cả rõ ràng, sinh đồ ba quan là một ví dụ điển hình. Sau sự kiện 1527, tầng lớp Nho sĩ xuất hiện hai xu hướng: Xu hướng thứ nhất chịu ra làm quan (tức xuất sĩ) tuy thu hút được nhiều Nho sĩ, nhưng lực lượng của xu hướng này có hai vấn đề rất đáng lưu ý:
  2. một là họ bị phân chia thành hai khối, hai phe đối nghịch nhau, hoặc là theo Nam triều (triều Lê) hoặc là theo Bắc triều (triều Mạc). Họ cùng học chung sách vở, nghe giảng chung một đạo lý, nhưng lại hiển đạt ở hai nơi và đứng trên hai chiến tuyến. Họ thường công kích nhau. Nhưng dù theo Lê hay Mạc thì Nho gia vẫn cứ là Nho gia, họ cũng có nhiều điểm tương đồng trong nhận thức. Hai là: đối với lực lượng Nho sĩ lập danh chốn quan trường này là bản thân sự liên giữa họ với nhau cũng rất lỏng lẻo. Sống giữa thời loạn, việc thiếu niềm tin cậy lẫn nhau cũng là điều bình thường. Và chính điều bình thường này đã góp phần làm cho thời loạn càng thêm loạn. Xu hướng thứ hai của lực lượng Nho sĩ sau sự kiện năm 1527 là lánh mình ẩn dật (tức là xử sĩ). Thực ra, rất ít ai vừa đỗ đạt xong lại chịu xa lánh quan trường. Lực lượng xử sĩ trong giai đoạn này gồm hai bộ phận chính: một là những người thật sự uyên thâm, đa văn quảng kiến nhưng không chịu đi thi. Số này không nhiều và trong thực tế, ảnh hưởng xã hội của họ cũng không rộng lắm. Hai là những người từng đỗ đạt, từng được bổ nhiệm làm quan nhưng chỉ trong một thời gian ngắn thì buồn nản, trao trả chức tước cho triều đình rồi trở về. Số này đông hơn và ảnh hưởng của họ đối với xã hội cũng rộng lớn hơn. Nho giáo suy thoái, Phật giáo lại có cơ hội phát triển. Từ đầu TK XV, ngay sau khi rút khỏi vũ đài chính trị và tư tưởng (nhường chỗ cho Nho
  3. giáo), Phật giáo đã tìm cách phát triển và củng cố vị trí của mình trong lòng xã hội. Từ TK XVI trở đi, ở Đàng Ngoài, chùa chiền được trùng tu và xây dựng liên tiếp, người xuất gia tu hành ngày một đông. Trong số họ nhiều khi có cả những người đã từng là môn đồ của cửa Khổng sân Trình trước đây (Phạm Thái là một ví dụ điển hình; Nguyễn Du; Nguyễn Gia Thiều ảnh hưởng từ Phật giáo cũng không ít). Một số dòng Thiền tông cũ hồi sinh, nổi bật nhất là dòng Lâm Tế, dòng Thiền tông mới là Lân Giác ra đời; trong đời sống tư tưởng của đông đảo xã hội Đàng Ngoài, những quy phạm có nguồn gốc đạo đức từ Phật giáo ngày càng được đề cao và chùa chiền thực sự trở thành trung tâm sinh hoạt văn hoá có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với mọi tầng lớp. Ở Đàng Trong, ngay từ đầu Phật giáo rất được đề cao. Và từ đó đến mãi các thế kỷ sau, Phật giáo chiếm vai trò quan trong về mặt tư tưởng của cư dân xứ hoang hoá này. Cũng có thể nói, ở thời kỳ này có cuộc hội nhập giữa Đạo giáo với văn hoá dân tộc. Ở Đàng Ngoài, vua Lê - chúa Trịnh nhiều lần đến viếng hoặc cầu đảo ở các đền, miếu và Đạo quán. Ở Đàng Trong chúa Nguyễn cũng rất cởi mở với Phật giáo và Đạo giáo. Tóm lại, lúc bấy giờ nhiều người lên tiếng quảng bá cho quan điểm Tam giáo đồng nguyên hoặc Tam giáo đồng quy nhưng đời sống tư tưởng cũng chẳng phải vì thế mà
  4. có được cuộc hội nhập thực sự hài hoà giữa Nho, Phật và Đạo. 3.2.2. Cơ sở văn học Trước hết cần nói đến lực lượng sáng tác. Trong văn học Việt Nam trung đại, nhà Nho vẫn là lực lượng sáng tác cơ bản. Đối với nhà Nho đỗ đạt, vấn đề xuất - xử tương ứng với hai thái độ ứng xử; hành - tàng luôn luôn đặt ra (phần lớn là ngay trong bản thân từng nhà Nho)... Đây chính là chỗ khó khăn cho nhà nghiên cứu khi phân thành hai loại hình tác giả. Tuy nhiên có thể thấy, cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, bối cảnh không gian, thời gian tồn tại cho từng loại, kéo theo đó là cái nhìn, quan niệm của họ về con người và thế giới có những điểm khác nhau... Từ đây, trên một mức độ nhất định cũng có thể khái quát thành hai loại nhà Nho hành đạo và ẩn dật hai loại hình được coi là chính thống trong văn học trung đại Việt Nam. Nhà Nho hành đạo muốn thực hành những nguyên tắc của đạo lý Nho gia, sẵn sàng dấn thân nhập cuộc thực hiện lí tưởng trí quân trạch dân, mong ước một xã hội phong kiến mẫu mực theo mô hình Nghiêu Thuấn. Hình tượng tác giả hiện lên trong sáng tác của họ luôn với tư cách là con người hành động, thực tiễn, ưu thời mẫn thế, sẵn sàng xả thân vì Nghĩa. Sáng tác của nhà Nho hành đạo mang đậm màu sắc đạo lý, mang tính quy phạm cao; quy phạm trên cả hai phương diện nội dung, tư tưởng và hình thức, thể loại, ngôn ngữ.
  5. Nhà Nho ẩn dật, vẻ ngoài lại như là một biểu hiện đối cực của loại nhà Nho hành đạo. Họ phủ nhận việc hành đạo nhưng là loại hành đạo ngu trung, thiếu tỉnh táo. Tác giả ẩn dật (không chỉ có riêng nhà Nho) trong văn học Việt Nam có thể kể từ Huyền Quang Lý Đạo Tái, Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng, Nguyễn Dữ đến Ngô Thế Lân, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Khuyến. Đề cao và bảo toàn Danh - Tiết là đặc điểm cơ bản, chủ đạo trong ý thức, tư tưởng của tác giả ẩn dật. Để thực hiện điều này trước hết họ tìm đến một môi trường, một không gian vô trần, cô tịch, tránh mọi mối liên hệ xã hội (Thực ra cũng khó tránh được những dăng mắc của lưới đời, không ít trường hợp phải chấp nhận bi kịch. Câu chuyện Sư Huyền Quang và nàng Điểm Bích; giấc mơ làm một Đào Tiềm của Yên Đổ là những bằng chứng sinh động cho bi kịch vừa nêu). Họ coi thường danh lợi, quên cả dòng thời gian thế sự vì trong núi không có lịch, tự nhận về mình bao nhiêu thứ dại dột, ngu hèn, tăm tối (chỉ là một cách nói phản ngữ). Hình tượng nhà Nho giữ Tiết là hình tượng đẹp nhất trong sáng tác của tác giả ẩn dật. Khác với hai loại trên, nhà Nho tài tử ra đời muộn (từ TK XVIII), khi trong xã hội đã xuất hiện những yếu tố mới: đô thị, tư tưởng thị dân. Con người phát hiện ra mình là một thực thể tồn tại thực sự với những nhu cầu, khát vọng sống cá nhân. Nhà Nho tài tử, gốc, dĩ nhiên vẫn là Nho nhưng càng ngày càng xa rời những quy phạm, chuẩn mực khắt khe,
  6. giáo điều của đạo lý Nho giáo. Giá trị cao nhất trong quan niệm về con người, về nhân sinh đối với họ là Tài (nhất là tài văn chương nghệ thuật cầm, kỳ, thi, hoạ) và Tình (đặc biệt là tình đối và giai nhân). Tài gắn liền với Tình, với Sắc, với hưởng thụ. Chính họ là lớp nhà Nho tạo nên trào lưu nhân đạo chủ nghĩa độc đáo trong văn học nửa sau TK XVIII - nửa đầu TK XIX. Kiểu tác gia này rất nhạy cảm với các vấn đề mới nảy sinh, trong đó tự ý thức về bản thân mình, khẳng định cái tài hoa, độc đáo, sự sáng tạo trong nghệ thuật là khát vọng vươn tâm thời đại lúc bấy giờ. Thứ hai, truyền thống trữ tình của văn học dân tộc và sự trỗi dậy của những tư tưởng, tình cảm mới, văn học Việt Nam, đặc biệt là văn học trung đại, đậm tính trữ tình. Đây là cơ sở tốt nhất để các tác giả tự bộc lộ tư tưởng, tình cảm cá nhân của riêng mình. Từ TK XVI, đặc biệt là từ TK XVIII, con người luôn sống trong tâm trạng lo âu, phấp phỏng, sầu buồn, họ chìm trong triền miên đau khổ bởi nhiều nguyên nhân, mà nguyên nhân sâu xa gây nên là các thế lực thống trị Chính vì thế chưa bao giờ hình tượng con người cá nhân xuất hiện trong văn học nhiều như thế. Thời kỳ này, con người phát hiện ra mình là một thực thể tồn tại thực sự với tất cả những nhu cầu khát vọng cao nhất của nó.
  7. 4. Kết luận Thứ nhất, ở thời kỳ ổn định và phát triển của nhà nước phong kiến, mối quan tâm hàng đầu của văn học chính là hình tượng con người công dân gắn bó với những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc và công cuộc xây dựng đất nước. Ý thức trách nhiệm, những tình cảm công dân lớn lao, cao cả được đặc biệt đề cao. Thứ hai, trong giai đoạn nhà nước phong kiến trượt dài trên cái dốc suy thoái, con người cá nhân với ý thức cá tính, tài năng với nhu cầu tự khẳng định và khát vọng mãnh liệt về tự do, tình yêu, hạnh phúc lại là hình tượng trung tâm của các tác phẩm chứa đựng tinh thần nhân văn cao cả. Sự chuyển biến từ chỗ đặc biệt quan tâm đến hình tượng con người công dân đến chỗ đặc biệt quan tâm đến hình tượng con người cá nhân thể hiện rõ nét đặc trưng của văn học Việt Nam trung đại. Thứ ba, con người cá nhân hình thành và phát triển mạnh mẽ ở văn Việt Nam trung đại giai đoạn hậu kỳ đã trở thành một động lực nội sinh quan trong góp phần hình thành phong trào Thơ Mới xuất sắc 1932 - 1945./
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2