Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018
lượt xem 2
download
Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 với các nội dung như cuộc kháng chiến từ năm 1833-1835 (đỉnh cao là cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi); cuộc kháng chiến năm 1861–1862 (hay có tên gọi là trận đánh Biên Hòa lịch sử năm 1861–1862); cuộc kháng chiến năm 1902-1905 (đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của Đoàn Văn Cự và nghĩa binh yêu nước)...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 Câu 1: Trong 320 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa Đồng Nai, Nhân dân Đồng Nai đã trải qua những cuộc kháng chiến nào? Hãy trình bày cảm nhận của anh (chị) về truyền thống đấu tranh cách mạng của Nhân dân Biên Hòa Đồng Nai ? Đồng Nai là một tỉnh thuộc khu vực miền Đông Nam Bộ của đất nước Việt Nam. Là tỉnh có dân số đông thứ nhì ở miền Nam (sau Thành phố Hồ Chí Minh), có diện tích lớn thứ nhì ở Đông Nam Bộ (sau Tỉnh Bình Phước) và thứ ba ở miền Nam (sau Tỉnh Bình Phước và Tỉnh Kiên Giang), Đồng Nai được đánh giá là một tỉnh cửa ngõ đi vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ vùng kinh tế phát triển và năng động nhất cả nước; là một trong ba góc nhọn của tam giác phát triển Thành phố Hồ Chí Minh Bình Dương Đồng Nai. Trong 320 năm lịch sử hình thành và phát triển, Đồng Nai đã trải qua nhiều cuộc kháng chiến gian lao và anh dũng thể hiện đúng khí chất của nhân dân vùng đất miền Đông. Với niềm tự hào và lòng biết ơn đối với các thế hệ cha anh đi trước, tôi đã nghiên cứu, tìm hiểu rất nhiều tài liệu (từ nhiều nguồn khác nhau) có đề cập đến lịch sử của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai và sau đây tôi xin trình bày cụ thể về nội dung của cuộc kháng chiến mà nhân dân vùng đất Biên Hòa Đồng Nai đã trải qua trong 320 năm lịch sử. 1. Cuộc kháng chiến từ năm 1833 1835 (đỉnh cao là cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi) Từ năm 1792, Nguyễn Ánh hoàn toàn làm chủ đất Trấn Biên, Gia Định. Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đổi phủ Gia Định thành trấn Gia Định, Trấn Biên dinh thành Biên Hòa trấn. Đến năm 1808, lại đổi trấn Gia Định ra Gia Định Thành thống quản trấn Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên; Nguyễn Văn Nhơn làm tổng trấn, Trịnh Hoài Đức làm hiệp tổng trấn. Đến năm 1812, Lê Văn Duyệt làm tổng trấn. Năm 1832, Lê Văn Duyệt mất. Nguyễn Văn Quế và bố chánh Bạch Xuân Nguyên vốn có hiềm khích, dựng vụ án Lê Văn Duyệt. Vua Minh Mạng cho xiềng mộ Lê Văn Duyệt, bãi bỏ chức tổng trấn, chia các trấn thành lục tỉnh. Tỉnh Biên Hòa có từ đây. Giận vì Lê Văn Duyệt bị ngược đãi, năm 1833 con nuôi Lê Văn Duyệt là Lê Văn Khôi tạo phản, chiếm thành Phiên An; mãi đến năm 1835, Lê Văn Khôi bệnh mất, nhà Nguyễn mới dập tắt được cuộc binh biến, bắt giết cả thảy 1.831 người đem chôn chung gọi là mả Ngụy. Hai lần Lê Văn Khôi đánh chiếm Biên Hòa. Người Biên Hòa theo Lê Văn Khôi bị trừng trị khá đông liên lụy đến cả họ Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 1
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 hàng. Bảy tướng lĩnh triều đình chết trận tại Biên Hòa: Lê Văn Nghĩa, Phan Văn Song, Trần Văn Du, Đặng Văn Quyến, Trần Văn Thiều, Nguyễn Văn Lý, Ngô Văn Hóa; vua Minh Mạng cho lập thờ ở thôn Bình Hòa, xã Bình Thành, ban sắc phong năm 1838, di tích còn lại có thể là miếu Bình Hòa (nay thuộc phường Quang Vinh, thành phố Biên Hòa). Tương truyền, con cháu của Lên Văn Khôi trốn được, có 2 người ẩn danh trong dân ở Hang Nai (Nhơn Trạch) và Long Thành. 2. Cuộc kháng chiến năm 1861 – 1862 (hay có tên gọi là trận đánh Biên Hòa lịch sử năm 1861 – 1862) Sau khi Pháp đánh chiếm Định Tường (tháng 4/1861), thì phong trào kháng Pháp của người dân ở Nam Kỳ càng thêm mạnh mẽ. Bất lực, Đề đốc Hải quân Charner đã xin từ chức. Tháng 10/1861, Đô đốc L. Bonard được cử sang thay. Rút kinh nghiệm thất bại của Charne, tướng Bonard chủ trương chưa đánh sâu vào các làng xã mà khẩn trương đánh chiếm những tỉnh thành. Và kế hoạch đánh chiếm Biên Hòa và Vĩnh Long liền được thảo ra, và nhanh chóng thực hiện nhằm mở rộng khả năng càn quét, bao vây, tiêu diệt các lực lượng chống đối trên một địa bàn rộng lớn từ sông Đồng Naiđến sông Tiền, sông Hậu. Để dọn đường cho cuộc tấn công Biên Hòa, tướng Bonard sai hai toán quân đi thám thính. Một đội đến Suối Sâu (nay thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai), thì bị quân Việt đánh đuổi; một đội khác đến hai thôn là Bình Thuận và Bình Chuẩn (đều thuộc Biên Hòa), thì bị Phó đề đốc Lê Quang Tiến cho quân tập kích, làm đối phương cũng phải tháo lui. Sau khi chuẩn bị xong, ngày 14/12/1861, tướng Bonard vừa gửi tối hậu thơ cho tướng Bá Nghi & Tuần phủ Nguyễn Đức Hoan, vừa ban lệnh khởi binh. Liên quân Pháp – Tây Ban Nha có khoảng 1.000 người được chia làm 4 đạo như sau: Đạo quân bộ thứ nhất do Thiếu tá Comte chỉ huy gồm pháo binh và bộ binh Tây Ban Nha; Đạo quân bộ thứ nhì do Trung tá Domenech Diégo chỉ huy gồm một đại đội thủy quân lục chiến Tây Ban Nha và một đội kỵ binh Pháp cùng 2 súng đồng 4 nòng; Đạo quân thủy thứ ba do Đại tá Lebris chỉ huy gồm 2 đại đội thủy quân lục chiến; Đạo quân thủy thứ tư do Chủ tỉnh Renommée chỉ huy. Ngay ngày đầu, đạo quân của Thiếu tá Comte đã đánh chiếm được Gò Công Trao Trảo. Ngày 15/12/1861, đội quân trên hợp với cánh quân của Trung tá Domenech Diégo, cắt đứt liên lạc giữa Mỹ Hòa và Biên Hòa, rồi cùng bao vây đồn Mỹ Hòa, khiến quân Việt phải bỏ căn cứ rút qua sông. Trong khi đó, đoàn tàu chiến do Trung tá Haren chỉ huy tiến theo sông Đồng Nai vừa phá cản vừa bắn phá các pháo đài trên bờ. Đồng thời, một cánh quân thủy khác do Đại tá Lebris cầm đầu, theo rạch Gò Công Trao Trảo đánh vào phía sau các pháo đài. Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 2
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 Sau khi các cản và pháo đài của quân Việt đều bị phá vỡ, đến ngày 16/12/1861, cả bốn đạo quân của đối phương đều có mặt trước tỉnh thành Biên Hòa. Trước tình thế đó, tỉnh thần là Tuần phủ Nguyễn Đức Hoan vá Án sát Lê Khắc Cẩn cho lui quân về giữ đồn mới là Hồ Nhĩ; còn tướng Bá Nghi thì từ phủ Phước Tuy (Bà Rịa) lui vào rừng Long Kiên, Long Tả rồi chạy tuốt về Bình Thuận. Ngày 18/12/1861, liên quân ung dung tiến vào chiếm đoạt thành, mà không gặp bất kỳ sự kháng cự nào nữa. Ngày 28/12/1861, từ Biên Hòa, liên quân đánh chiếm Long Thành. Ngày 7/01/1862, liên quân lại theo dòng sông Đồng Nai, đánh lấy thành Bà Rịa (phủ lỵ Phước Tuy) ngay trong ngày này. Không có con số chính thức về mức độ thiệt hại về người và của cả hai bên; chỉ biết khi tháo chạy, quân Việt đã bỏ lại 48 cổ đại bác, 15 chiến thuyền và nhiều thuốc đạn nơi thành Biên Hòa. Trong lúc liên quân PhápTây Ban Nha đi tấn công Biên Hòa và Bà Rịa, đoàn chiến thuyền của họ còn rảo theo ven biển đánh đắm trên trăm thuyền của dân và của triều đình, nhiều nhất là ở hải phận Phan Rí thuộc Bình Thuận. Và sau khi rơi vào tay liên quân, tỉnh Biên Hòa được chia thành 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa (nay thuộc tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu) và Thủ Dầu Một (nay là thị xã tỉnh lỵ tỉnh Bình Dương). Thành lũy ở Biên Hòa và Bà Rịa đều bị phá bỏ. Về phía Pháp, ngay trong ngày đầu tiên tấn công (14/12/1861), tàu Alarme của Pháp đã bị bắn trúng nhiều phát đại bác, gây hư hại nặng, gãy cả cột buồm. 3. Cuộc kháng chiến năm 1902 1905 (đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của Đoàn Văn Cự và nghĩa binh yêu nước) Cùng với Nam kỳ lục tỉnh, tại Biên Hòa phong trào chống thực dân Pháp cũng diễn ra mạnh mẽ. Tuy có những lúc diễn ra âm thầm nhưng lại nung nấu những ý chí lớn lao. Có thời điểm các phong trào chống thực dân Pháp hoạt động bí mật theo các hội kín tôn giáo, điển hình trong số đó là Hội kín Thiên Địa hội của Đoàn Văn Cự. Đoàn Văn Cự sinh năm 1835, người Bình An, Thủ Đức, tỉnh Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) trong một gia đình nhà nho khá giả. Thời nhỏ, Đoàn Văn Cự là người thông minh, học giỏi. Lớn lên, Đoàn Văn Cự thấm nhuần tư tưởng của những nhà yêu nước và cụ thân sinh ra ông, là người có tinh thần chống thực dân, đã có nhiều hoạt động phản kháng và bị thực dân theo dõi. Vì thế, khi lập gia đình, ông đưa vợ con đến sinh sống tại rừng chồi Bưng Kiệu, thôn Vĩnh Cửu, tỉnh Biên Hòa (nay là phường Tam Hòa, TP. Biên Hòa), nơi có ít tai mắt của bọn thực dân. Tại Bưng Kiệu, Đoàn Văn Cự mở các lớp dạy học và làm nghề bốc thuốc gia truyền, kiêm luôn xem bói tướng cho người dân. Hàng Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 3
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 ngày, ông ăn mặc giống như một người tu hành, sống hiền hòa, lương thiện và được nhiều người trong vùng kính nể. Dưới vỏ bọc này, Đoàn Văn Cự đã tạo được uy tín đối với cộng đồng người tại Bưng Kiệu. Từ đây, ông bắt đầu gây dựng Thiên Địa hội, chống thực dân Pháp. Lúc này, Đoàn Văn Cự đã bước sang tuổi 67. Vào thời điểm ấy, hưởng ứng các bang hội khác, nhiều cuộc nổi dậy kháng Pháp đã diễn ra. Điển hình như Trương Công Định chiêu mộ quân sỹ và lập căn cứ tại Gò Công (Tiền Giang) hay vụ Nguyễn Trung Trực đốt cháy tàu quân Pháp trên dòng sông Vàm Nhật Tảo huyền thoại. Cùng với đó là hàng loạt các cuộc nổi dậy dưới "mác" Thiên Địa hội hay hội kín. Hiểu rõ mục đích và lời kêu gọi kháng thực dân Pháp của Đoàn Văn Cự, đông đảo người dân trong vùng hưởng ứng nhiệt tình nhất là lớp thanh niên, trai tráng. Cứ thế, thời gian trôi qua, lực lượng Thiên Địa hội của Đoàn Văn Cự ngày một mạnh và đông lên. Họ được ông chỉ giáo về nghĩa khí giang hồ, về lòng yêu nước và nhiệm vụ phải làm là đuổi thực dân Pháp đem lại ấm no, hạnh phúc cho muôn dân. Trong khoảng 3 năm (1902 1905), lực lượng Thiên Địa hội đã rất đông, khắp nơi đều có tín đồ, thành viên. Họ giao tiếp và nhận diện nhau thông qua những ám hiệu, ám khí. Thời ấy, từ Bình Đa, chợ Chiếu ở Hiệp Hòa đến tận khu vực núi Nứa của Bà Rịa là cả một vùng rộng lớn đều có tay chân của Thiên Địa hội. Trong Thiên Địa hội của Đoàn Văn Cự có rất nhiều anh hùng hảo hán hay những tay giang hồ cự phách, những tên trộm cướp khét tiếng thời ấy đã được ông thu nạp và giáo huấn, trở thành những dũng tướng trong bang hội. Hiểu rõ được mục đích của Thiên Địa hội, họ hết sức phò tá Đoàn Văn Cự và quyết tâm đuổi thực dân Pháp giành tự do. Quy tụ được đông đảo anh hùng hảo hán khắp nơi cùng sự ủng hộ của bà con nhân dân, Đoàn Văn Cự cùng các thành viên trong bang hội tích cực chuẩn bị mọi mặt để làm chuyện lớn. Việc đầu tiên được Thiên Địa hội chú ý chính là lương thực và vũ khí. Để có lương thực, ông ra sức kêu gọi nhân dân đóng góp và tích trữ tiền bạc mua lương thảo. Về phần binh khí, ngoài việc tìm mua thì ông cũng cho xây dựng lò rèn làm gươm, giáo, mác. Mặt khác, Đoàn Văn Cự còn cho anh em trong bang hội tập luyện võ nghệ, thao dượt binh pháp. Cứ thế, các hoạt động của Thiên Địa hội nhất loạt theo kế hoạch của Đoàn Văn Cự. Lực lượng này ngày càng quy củ và lớn mạnh cả số lượng cùng sự gan lỳ, dũng mãnh và biết tác chiến. Từ chỗ hội kín, Thiên Địa hội của Đoàn Văn Cự dần dần ra hoạt động công khai tại cánh rừng Bưng Kiệu. Cũng chính từ đây, thực dân Pháp đã cho mật thám theo dõi và chúng dần biết được Thiên Địa hội của ông. Sau khi cho theo dõi, thực dân Pháp tại Biên Hòa đã biết được mục đích Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 4
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 thực sự của Thiên Địa hội do Đoàn Văn Cự cầm đầu. Bọn thực dân quyết tâm thực hiện một kế hoạch tiêu diệt bất ngờ. Theo tin báo, bọn thực dân Pháp tại Biên Hòa sẽ cử một viên sỹ quan chỉ huy tiểu đội lính Mã Tà (lính cảnh sát) trang bị đầy đủ vũ khí hiện đại vào thời ấy, đến bao vây căn cứ của Thiên Địa hội tại rừng Bưng Kiệu. Đó là ngày mồng 8/4 (âm lịch) năm 1905. Nhận được tin báo, Đoàn Văn Cự cho triệu tập các thành viên trong hội sẵn sàng nghênh chiến. Ông lệnh cho Hoàng Giáp, Hoàng Mè, những anh hùng hảo hán bày binh, bố trận tại khu vực cánh rừng Bưng Kiệu sẵn sàng nghinh địch. Tuy nhiên, anh em trong hội mật phục từ sáng tới chiều tối cũng không thấy tiểu đội Mã Tà xuất đầu lộ diện. Bố trí mai phục cả một ngày trời không thấy địch xuất hiện, lệnh từ ông được phát đi cho anh em về ăn cơm, vì cả ngày phải mai phục chưa ăn uống gì. Thêm vào đó, Đoàn Văn Cự nghĩ rằng, bọn địch đã hoãn kế hoạch tiến vào Bưng Kiệu. Tuy nhiên, khi các vị trí vừa rút xong thì bất ngờ quân Pháp kéo tới rầm rộ, bao vây cả cánh rừng Bưng Kiệu, thôn Vĩnh Cửu. Dưới sự chỉ huy của một tên đại úy, chúng cho mai phục khắp nơi trong thôn, bao vây hoàn toàn căn cứ của Thiên Địa hội. Thậm chí, chúng còn mai phục trên diện rộng, từ bờ suối Linh đến suối cầu Khỉ. Khi siết chặt vòng vây, sẵn sàng cho cuộc tiêu diệt Thiên Địa hội, tên đại úy cùng thông ngôn và hai tên vệ sỹ tiến tới nhà Đoàn Văn Cự. Biết trước được chuyện chẳng lành, Đoàn Văn Cự trong trang phục chỉnh tề ra nghênh đón. Khi tới trước cửa nhà, bọn chúng thấy ông đứng uy nghi, oai phong với đầu chít khăn, mình lại thắt dây đai màu hồng, có dắt đoản đao đầu hổ. Lúc này, tuy đã ngoài 70 nhưng trông ông vẫn còn tráng kiện, oai vệ. Đoàn Văn Cự đứng ngay bàn thờ tổ, thấy 4 tên xông vào nhà, không nói lời nào, Đoàn Văn Cự rút đoản đao lao tới chém liền mấy nhát vào tên đại úy. Tuy nhiên, hắn lanh lẹ tránh kịp lưỡi đao chí mạng của cụ nhưng cũng bị đứt vành tai và cánh tay trái bị thương. Thoát chết, lấy lại được thế, hắn rút súng và bắn một loạt đạn, cụ Đoàn Văn Cự đứng được một lúc thì ngã xuống. Khi cụ Đoàn Văn Cự ngã xuống, chúng bắt đầu cho lính xả súng xối xả vào nhà cụ cũng như những ngôi nhà lân cận, đốt phá kho lương thực. Người ta nghe kể lại, lúc ấy súng nổ vang trời, lửa cháy ngùn ngụt, sáng cả một vùng trời vào đêm 8/4. Chúng cho lính đứng giám sát việc tiêu diệt sào huyệt Thiên Địa hội, mặc dù lửa đã cháy rừng rực. Đến tận khuya hôm đó, chúng lại cho một toán lính khác đến thay thế và giám sát, kiên quyết không cho một thành viên nào của Thiên Địa hội có cơ may sống sót. Tuy nhiên, do thông thạo địa hình, lại được cụ Đoàn Văn Cự tính toán đường lui từ trước nên đã có rất nhiều người trốn thoát khỏi họng súng và lửa cháy của kẻ thù. Dù vậy, ngoài cụ Đoàn bị bắn chết cũng có thêm 16 người khác phải bỏ mạng trong đám cháy. Khi đã chắc chắn tiêu diệt được bang chủ và đồng đảng Thiên Địa hội, quân Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 5
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 Pháp mới bắt dân làng khiêng xác cụ Đoàn và 16 đồng đảng đi chôn tại một ngôi mộ tập thể gần đó. Cụ Đoàn ngã xuống như một dũng tướng, khiến người dân vùng Vĩnh Cửu hết sức thương tiếc và đau buồn. Còn anh em nghĩa sỹ cũng mỗi người tứ tán mỗi phương và tiếp tục nuôi lý tưởng kháng thực dân Pháp. 4. Cuộc kháng chiến năm 1929 1945 Sau Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Phú Riềng ra đời vào năm 1929; 6 năm sau (năm 1935), Chi bộ Đảng Bình Phước Tân Triều được thành lập gồm 5 đồng chí do đồng chí Hoàng Minh Châu làm Bí thư, khởi đầu giai đoạn yêu nước chống Pháp ở Đồng Nai đi theo Chủ nghĩa Cộng sản dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi có Đảng lãnh đạo, phong trào cách mạng ở Đồng Nai đi vào hoạt động tự giác, có tổ chức, hướng đến mục tiêu trước mắt và lâu dài, xác định từng bước đi thích hợp. Giai đoạn 1935 đến trước tháng 8/1945, chủ yếu là dân sinh dân chủ kết hợp đấu tranh chính trị, kết hợp nuôi dưỡng lực lượng vũ trang để chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Nhiều cuộc đấu tranh chính trị liên tục của các tầng lớp nhân dân chứng tỏ sự trưởng thành của các lực lượng cách mạng: Liên đoàn học sinh trường tiểu học Bình Hòa được Đảng lãnh đạo rải truyền đơn kêu gọi tinh thần cách mạng ngày 01/5/1935; mítting trọng thể tại Gò Dê (Bình Ý) tháng 9/1936; Cuộc đấu tranh đòi giảm sưu thuế của nhân dân Long Thành và cuộc đấu tranh đòi tăng lương giảm giờ làm của công nhân Nhà máy BIF thắng lợi. Đầu năm 1937, các cơ sở Đảng phát triển, thành lập Tỉnh ủy lâm thời do đồng chí Trương Văn Bang làm bí thư, đến giữa năm có thêm các chi bộ Đảng: Bình Ý, Bình Phước, Tân Triều, Thiện Tân, Bình Hòa, Mỹ Lộc, Mỹ Quới, Xuân Lộc... Năm 1940, việc chuẩn bị tham gia khởi nghĩa Nam kỳ được tiến hành ráo riết nhưng bị lộ, bị đàn áp, nhiều tổn thất; một số đảng viên bị bắt, bị giết hoặc tù đày; một bộ phận có vũ trang thô sơ rút vào rừng (là một trong số các bộ phận hình thành Chi đội 10 sau Cách mạng Tháng tám). Từ ngày 28/7/1941, phát xít Nhật vào Biên Hòa, dân Đồng Nai thêm một tròng áp bức. Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, lập chính quyền và các tổ chức thân Nhật; lãnh đạo Đảng nhận định tình hình, chọn thời cơ cách mạng; địa phương Biên Hòa cùng cả nước thực hiện lệnh tổng khởi nghĩa; buộc tỉnh trưởng ngụy Nguyễn Văn Quý phải chuyển giao chính quyền cho đại diện nhân dân lúc 11h30 ngày 26/8/1945. Sáng ngày 27/8/1945 tại Quảng trường Sông Phố diễn ra ngày hội lịch sử mừng độc lập, thống nhất của nhân dân Biên Hòa Đồng Nai gồm hàng vạn người tham gia. 5. Cuộc kháng chiến từ năm 1945 1948 Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 6
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 Cuối tháng 9/1945, tại Biên Hòa, đồng chí Hà Huy Giáp đại diện Xứ ủy Nam Bộ đã triệu tập Hội nghị cán bộ toàn tỉnh họp tại nhà hội Bình Trước (Thị xã Biên Hòa). Hội nghị đã bầu Tỉnh ủy lâm thời và đề ra một số chủ trương cần kịp. Hội nghị nhấn mạnh vấn đề xây dựng mặt trận Việt Minh, kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp, gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang để bước vào kháng chiến. Thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy lâm thời, trại huấn luyện du kích Bình Đa – Vĩnh Cửu được thành lập, do đồng chí Phan Đình Công phụ trách. Tham gia giảng dạy có các đồng chí Phạm Thiều, Xuân Diệu… Học viên từ khóa đầu tiên gồm tự vệ công nhân hãng cưa BIF, tự vệ vùng Bình Đa – Vĩnh Cửu và thanh niên cứu quốc quận Châu Thành. Trong thời gian gấp rút trường đã mở được hai khoá (mỗi khóa nửa tháng), đào tạo cán bộ chỉ huy đánh du kích với phân đội nhỏ. Trại huấn luyện du kích Bình Đa là tiền thân các trường quân chính của tỉnh sau này. Trại đã kịp thời đào tạo một số cán bộ tiểu đội trung đội cho lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên của tỉnh. Nhiều đồng chí được đào tạo ở đây qua chiến đấu đã trưởng thành nhanh chóng và giữ vai trò nòng cốt trong việc phát triển lực lượng vũ trang của cả hai tỉnh Biên Hòa và Bà Rịa suốt chín năm chống Pháp. Vừa huấn luyện vừa chiến đấu, tháng 10/1945, trại đã cử một phân đội phối hợp cùng bộ đội Nam tiến, do đồng chí Nam Long chỉ huy, đánh địch tại cầu Bình Lợi, ngăn chặn giặc lên chiếm. Song song với việc thành lập Trại du kích, tại các quận, dưới sự lãnh đạo của các Quận ủy, các đội địa phương vũ trang địa phương cũng được hình thành. Tại quận Châu Thành, đơn vị vũ trang tập trung mang tên quân giải phóng gồm 5 tiểu đội có 30 súng trường các loại. Quận ủy Châu Thành còn thành lập đội Xung Phong cảm tử khoảng 30 thiếu niên từ 13 đến 16 tuổi do đồng chí Nguyễn Văn Ký chỉ huy. Đội này có nhiệm vụ nắm tình hình địch, quấy rối, diệt tề trừ gian trong thị xã. Ở Long Thành, ta đã xây dựng được 3 quân đội, phần lớn là công nhân các cơ sở cao su Bình Sơn, He le na, nòng cốt là những cán bộ 12 người của trại du Khóa thứ hai đang huấn luyện thì quân Nhật vào khiêu khích, trại phải chuyển lên sở Tiêu Đất Cuốc (Tân Uyên). Đơn vị đã trang bị 8 khẩu súng thu của lính mã tà và hương quản. Đến tháng 10, thêm lực lượng tự vệ chiến đấu với 18 khẩu súng ở Thành Tuy Hạ về hợp nhất, quân giải phóng Long Thành phát triển thành 4 phân đội. Ở Xuân Lộc, lực lượng vũ trang tập trung có khoảng 30 chiến sĩ và 20 tay súng. Tại Tân Uyên, lực lượng vũ trang gồm 4 phân đội do đồng chí Huỳnh Văn Nghệ chỉ huy lấy tên là Quân giải phóng Biên Hòa. Lực lượng này gồm: đội vũ trang của đồng chí Chín Quỳ (17 người), một phân đội (gồm lực lượng công nhân hàng hải) do đồng chí Đào Văn Quang đưa từ Sài Gòn lên; thanh niên tự vệ chiến đấu Tân Uyên và các học viên của trại huấn luyện du kích Sở Tiêu. Nhân dân vùng Tân Uyên quen gọi là: bộ đội Tám Nghệ. Mỗi phân đội có từ 12 đến 15 Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 7
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 tay súng, số còn lại trang bị mã tấu, dao găm, lựu đạn. Cùng với việc khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang, Ủy ban nhân dân tỉnh đã tập trung tuyên truyền, giải thích và kêu gọi các giới đồng bào bất hợp tác với giặc, thành lập các đội phá hoại để thực hiện “tiêu thổ kháng chiến” khi giặc Pháp tiến lên Biên Hòa. Cuối tháng 10/1945, có quân tăng viện từ Pháp sang, lại được quân Anh, quân Nhật phối hợp, có hỏa lực mạnh hơn ta gấp nhiều lần, giặc Pháp phá vỡ vòng vây ở Sài Gòn Chợ Lớn. Không để tài sản nhân dân rơi vào tay giặc, Tỉnh ủy lâm thời, Ủy ban nhân dân tỉnh ra lệnh tiêu thổ kháng chiến. Nhân dân thị xã được hướng dẫn tản cư ra vùng nông thôn. Công nhân hãng của BIF đốt sạch số gỗ súc, tháo gỡ toàn bộ máy móc đem cất giấu. Công nhân cao su ở Châu Thành, Xuân Lộc, Long Thành đốt các bánh mủ (crepe), phá hủy các kho, xưởng máy, đánh sập các khu nhà xây kiên cố để giặc không thể sử dụng đóng đồn, bót khi tới chiếm. Các đội công tác đánh sập cầu, chặt cây, phá đường ngăn cản giặc. Ngày 25/10/1945, quân Pháp đánh chiếm Biên Hòa. Xe cộ ngừng chạy đường phố vắng tanh. Nhà nhà cửa đóng im ỉm. Chợ búa không họp. Điện nước không có. Các cơ quan của Ủy ban nhân dân, Ủy ban mặt trận Việt Minh tỉnh rút lên Tân Định, Tân Uyên để bảo toàn lực lượng xây dựng căn cứ kháng chiến lâu dài. Riêng các cơ quan của huyện Châu Thành lui về Bình Ý và Bến Gỗ. Ngày 27/10, giặc Pháp đánh lên Trảng Bom, Dầu Giây, chiếm ngã ba quốc lộ 1 và quốc lộ 20. Ngày 30/10, có quân Anh dẫn đường, giặc Pháp tiến về Xuân Lộc. Bộ đội Nam tiến đã chặn đánh địch quyết liệt ở núi Thị, Bình Lộc và thị trấn Xuân Lộc. Tại Núi Thị, địch không tiến được phải dùng quân Nhật hộ tống tìm đường vòng để đi. Trong các trận chiến đấu ở thị trấn Xuân Lộc và Bình Lộc, bộ đội ta bị tiêu hao vì đánh theo lối dàn trận. Đầu tháng 11/1945, quân giặc tỏa ra đánh chiếm các vùng phụ cận thị xã Biên Hòa. Các cơ quan của quận Châu Thành vẫn đứng chân ở Bình Ý. Theo chỉ đạo của Quận ủy, đội Xung phong cảm tử nhiều lần mưu trí theo xe ô tô, xe ngựa đột nhập chợ Biên Hòa, diệt một số tên Việt gian mới ló đầu ra như Bảy Thống, Ba Lê… Đội cũng đã đánh nhiều trận ở Vườn Mít và những nơi địch thường tụ tập bằng lựu đạn và súng lục. Nhiều em như Phát, Mành, Chảy đã chiến đấu rất dũng cảm và hy sinh oanh liệt. Hoạt động của đội thiếu niên Xung phong cảm tử trong những ngày đầu mới chiếm đóng thị xã Biên Hòa đã cổ vũ rất lớn tinh thần kháng chiến của đồng bào Châu Thành. Quân địch cũng phải kiêng dè và thận trọng trong việc nống lấn các khu vực xung quanh thị xã. Nhờ vậy ta có đủ thời gian để điều lực lượng quân giải phóng Châu Thành lúc ấy đang đóng ở Thiện Tân và một phân đội Quân giải phóng Biên Hòa (bộ đội Tám Nghệ) về vùng Bình Ý, Cây Đào để chặn giặc. Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 8
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 Ngày 10/12/1945, đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Trung ương Đảng triệu tập hội nghị Đức Hòa. Tại Hội nghị này, Nam Bộ được chia làm 3 khu: Khu 7, Khu 8, Khu 9. Khu 7 bao gồm các tỉnh miền Đông: Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Bà Rịa, Tây Ninh. Đồng chí Nguyễn Bình được cử giữ chức Tư lệnh Khu 7. Bộ tư lệnh Khu chuyển về đóng tại Tân Uyên. Đồng chí Huỳnh Văn Nghệ được chỉ định giữ chức Chỉ huy trưởng Vệ quốc đoàn Biên Hòa, Tân Uyên một thị trấn phía bắc tỉnh Biên Hòa giờ đây đã thực sự trở thành trung tâm kháng chiến của cả miền Đông Nam bộ. Tân Uyên vốn là đất rừng, địa thế khá hiểm yếu; có sông Đồng Nai và Sông Bé bao bọc nối liền với Xuân Lộc và một lưng dựa là dãy rừng mênh mông trải dài lên tận Mã Đà, Đường 14. Dân cư thưa thớt và sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa, làm đường và khai thác gỗ. Tân Uyên lại cách Sài Gòn không xa, cách thị xã Biên Hòa khoảng 15 km đường chim bay; nó có thể nối sang cả đông lẫn tây, khi cần có thể tạm rút lên hướng bắc. Với một địa bàn chiến lược lợi hại như vậy, Tân Uyên được chọn làm nơi xây dựng căn cứ để kháng chiến lâu dài. Tranh thủ thời gian Tân Uyên còn yên tĩnh, các Ủy ban quận, xã mới được xây dựng, ra sức củng cố tổ chức và hoạt động. Các đoàn thể yêu nước có bước phát triển khá. Nhân dân Tân Uyên và các quận xung quanh đã nuôi dưỡng, tiếp tế cho Vệ quốc đoàn, cho cán bộ Việt Minh, động viên con em mình vào du kích hoặc tình nguyện đầu quân giết giặc, tham gia các đội phá hoại cầu đường, làm thông tin liên lạc, đi vận tải… Bất cứ việc lớn, việc nhỏ gì mà Việt Minh huy động là bà con bỏ ngay việc nhà, có mặt liền ở nơi tụ tập, sẵn sàng gánh vác nhiệm vụ được phân công. Lòng yêu nước nồng nàn và tình cảm sâu đậm đó của đồng bào với cách mạng, với kháng chiến đã giúp bộ đội, cán bộ và các cơ quan vượt qua khó khăn trong buổi đầu chống giặc. Có căn cứ đứng chân vững chắc, tiến có thể đánh, lui có thể giữ. Khu trưởng Khu 7 liên lạc với bộ đội Ba Dương (Dương Văn Dương), bàn bạc với đồng chí Tám Nghệ Chỉ huy trưởng bộ đội Biên Hòa và đã quyết định tập trung một lực lượng lớn tập kích thị xã Biên Hòa. Bộ đội Ba Dương sau khi mặt trận bao vây Sài Gòn bị vỡ đã về đứng chân ở Bào Bông, Vũng Gấm thuộc xã Phước An huyện Long Thành. Lực lượng này có số quân đông, có tinh thần chiến đấu. Nhiều chiến sĩ, tự vệ Tổng công đoàn Nam bộ trong khi rút khỏi Sài Gòn bị tản lạc cũng đã gia nhập bộ đội này. Theo kế hoạch chiến đấu, bộ đội Ba Dương (có một trung đội của Mai Văn Vĩnh) gồm 10 phân đội từ Long Thành dời lên Bến Gỗ (Long Bình Tân ngày nay), theo đường 15 qua ngã ba Kỷ Niệm, chia thành nhiều mũi chọc thẳng vào trung tâm thị xã. Vệ quốc đoàn Biên Hòa với hai phân đội do đồng chí Huỳnh Văn Nghệ trực tiếp chỉ huy bố trí tại ngã ba Dốc Sỏi, đường từ thị xã ra Tân Phong. Một số đơn vị bạn do đồng chí Nguyễn Bứa chỉ huy, được bố trí ở ngã ba Bình Thạnh Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 9
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 Cây Đào để ngăn chặn địch phản kích. Cuộc tiến công được chọn vào đêm tết dương lịch. 0 giờ ngày 02/01/1946, lực lượng ta bí mật luồn vào thành phố an toàn. Quân giặc không hề hay biết. Bộ đội ta đã tiến công vào các trạm gác, cơ sở, nhà lao, đầu cầu…, làm chủ các đường phố. Tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ vang lên. Quân giặc cố thủ trong thành Xăng Đá bắn ra. Chợ và một số nhà xung quanh bốc lửa cháy. Tuy ta không diệt được nhiều giặc nhưng tiếng vang của trận đánh bất ngờ và táo bạo này đã nhanh chóng dội về Sài Gòn và các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Báo và đài Sài Gòn phải thừa nhận: “Đêm 01 rạng ngày 02/01, quân kháng chiến Việt Minh đã đột nhập thị xã Biên Hòa và súng nổ ”… Lời thú nhận này, tự nó bác bỏ ý đồ chiến lược của Lơcờléc: “sẽ chấm dứt công việc bình định Nam Kỳ trong 3 tháng ”. Tiếng súng trận tập kích thị xã đã cổ vũ các thanh niên yêu nước từ các cơ sở Cao su, thành phố Sài Gòn Chợ Lớn đến các tỉnh miền Hậu Giang xa xôi và đã có một số thanh niên tìm về Tân Uyên gia nhập Vệ quốc đoàn Biên Hòa. Trong số đó có Đinh Quang Ân, Bùi Cát Vũ, Đặng Sĩ Hùng, Võ Văn Mén, Trần Văn Xã…Trận tiến công vào thị xã Biên Hòa đánh dấu một bước trưởng thành của lực lượng vũ trang miền Đông về mặt lãnh đạo và chỉ huy tập trung, thống nhất. Trong trận đánh này có một số chiến sĩ ta bị thương được đưa về đình Tân Nhuận (Tân Uyên) cứu chữa. Phương tiện, thuốc men đều thiếu. Có đồng chí phải cưa tay bằng cưa thợ mộc, không có thuốc tê, thuốc gây mê vẫn cắn răng chịu đựng. Và trong cơn đau buốt óc, chiến sĩ ta bật lên tiếng hát khiến mọi người thêm cảm phục. Giữa không khí rạo rực của chiến thắng thị xã Biên Hòa, ngày 06/01/1946, Ủy ban nhân dân và Ủy ban mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hòa đã tổ chức khắp các địa phương cuộc bầu cử Quốc hội lần thứ nhất. Các phòng bỏ phiếu được chăng đèn, kết hoa rực rỡ. Cờ Tổ quốc, ảnh Bác Hồ được đặt nơi trang trọng. Nhân dân, cán bộ, bộ đội, tấp nập đi bầu cử. Các đại biểu: Hoàng Minh Châu (Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh), Phạm Văn Búng và Điểu Xiển (người dân tộc Chơ – ro ở Xuân Lộc) trúng cử. Ở Bà Rịa, cuộc bầu cử cũng được tiến hành rộng rãi ở khắp các xã. Đại biểu của Bà Rịa, đồng chí Dương Bạch Mai đã trúng cử. Cũng như trên cả nước, đây là lần đầu tiên, công dân Biên Hòa và Bà Rịa được thực hiện quyền dân chủ thiêng liêng nhất của mình. Trong lúc giặc Pháp đang mở rộng chiếm đóng, các thế lực phản động ra sức phá hoại, nhân dân vẫn sôi nổi hăng hái đi bầu cử, đã nói lên sức mạnh của chế độ mới, nói lên lòng yêu nước tình cảm gắng bó và tin cậy của các tầng lớp nhân dân với chính quyền cách mạng. Cuối tháng 01/1946, Pháp mở cuộc hành quân đánh ra các tỉnh của Nam Trung bộ. Ngày 25/01/1946, đoàn xe cơ giới của giặc xuất phát từ Biên Hòa tiến theo đường số 1 lên hướng Xuân Lộc. Đồng thời địch đã huy động 4.000 quân của khu miền Đông cùng một lúc mở ba mũi tấn công vào chiến khu Tân Uyên nhằm Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 10
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 cầm chân quân ta và bảo đảm an toàn cho đoàn xe cơ giới. Chúng cũng có ý định sau trận này sẽ lấn lên chiếm đóng sâu hơn, trực tiếp uy hiếp Chiến khu Tân Uyên của ta. Trước đó ba ngày (ngày 20 và 21), tàu giặc vừa thăm dò đường sông vừa bắn phá bừa bãi các xã ven sông nên ta đã đoán được ý đồ của chúng. Tân Uyên được lệnh tiêu thổ. Thị trấn, chợ Tân Uyên bị đốt cháy. Dân quân các xã ngả thêm cây chặn đường. Các đội phá hoại đánh sập cầu, đẩy xác cầu đổ chúc xuống lòng rạch. Các cơ quan lãnh đạo kháng chiến của tỉnh và quân tạm thời di chuyển đi nơi khác đánh giặc. Các phân đội Vệ quốc đoàn cùng với du kích xã vạch kế hoạch đánh địch. Nhân dân thực hiện “vườn không nhà trống” thực hiện 3 không: không nghe, không thấy, không biết, giữ gìn bí mật cho cơ quan và bộ đội. Công tác chuẩn bị chiến đấu xong xuôi. Sáng ngày 25/01/1946, mũi tiến quân của giặc từ Tân Phong lên, lập tức bị phân đội 4 chặn lại ở giếng Mội (Bình Thạnh). Trận đánh kéo dài đến 11 giờ trưa. Ở phía lộ 24, phân đội Vệ quốc đoàn Châu Thành do đồng chí Lê Văn Ngọc chỉ huy đã phục kích sẵn tại cầu Rạch Cốc. Ta đánh địch từ sáng đến trưa. Sau khi tiêu diệt một bộ phận quân địch, giết chết tên quan ba, để bảo toàn lực lượng ta rút lui. Các phân đội Vệ quốc đoàn Biên Hòa sau khi đánh địch ở thị trấn đã rút lui vào Tân Nhuận rồi vòng về xóm Đèn Tân Hòa, phục kích đánh cánh quân địch từ Mỹ Lộc về Tân Uyên. Lúc này đã hơn 4 giờ chiều. Ngày 25/01/1946, quân ta bố trí sát mé rừng chỗ cao hơn mặt đường và gần các cây cầu đã bị phá hoại. Một bộ phận quân địch vừa lò mò tìm cách qua cầu, sau một loạt tiếng súng nổ, quân ta nhảy xuống mặt đường dùng gươm, mã tấu, gậy tầm vông đánh xáp lá cà với giặc. Tiểu đội du kích Tân Hòa khua phèng la, đập thùng thiếc giả làm tiếng súng máy uy hiếp tinh thần địch. Khẩu trung liên của ta bắn quét, chặn số quân địch còn lại không cho chúng qua cầu. Quân địch bị đẩy dồn về phía bờ sông, vướng cầu không tháo lui được. Chiến sĩ ta lao ra dùng mã tấu chém địch, dùng gậy tầm vông xuyên thẳng ngực giặc, làm cho chúng khiếp đảm, rối loạn hàng ngũ, nhiều tên xin hàng. Lần đầu tiên ta bắt sống tù binh Pháp. Bộ đội ta diệt gọn một phân đội địch thu được nhiều súng, có cả trung kiên, tiểu liên và súng cối 60 ly. Trận Xóm Đèn là một trận đánh táo bạo, mưu trí của lực lượng vũ trang Biên Hòa. Cán bộ chỉ huy đã phán đoán đúng đường lui quân của giặc, biết lợi dụng tình hình, khéo kết hợp với nghi binh sử dụng cách đánh gần, xung phong mạnh khiến cho quân địch có số lượng đông, vũ khí hiện đại mà không kịp trở tay. Như vậy là, cuộc tấn công đầu tiên của quân Pháp vào chiến khu Tân Uyên với mục đích tiêu diệt quân du kích và cơ quan đầu não kháng chiến của ta đã bị thất bại hoàn toàn. Ngày 26/01/1946, trên 1.000 quân Pháp đánh chiếm thị trấn Xuân Lộc và các đồn điền cao su quan trọng. Nhờ có xe bọc thép và hỏa lực mạnh, quân địch đã chọc thủng tuyến phòng ngự của ta ở Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 11
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 An Lộc, Suối Tre, Xuân Lộc. Bộ đội ta lui về tuyến Tân Phong Hàng Gòn chiến đấu ròng rã suốt ba ngày đêm, nhưng thế giặc mạnh, bộ đội Nam tiến phải rút ra Bình Thuận. Riêng lực lượng vũ trang Xuân Lộc rút về khu vực La Ngà. Tiếp đó quân Pháp theo lên tiến công vào căn cứ của quận, lực lượng vũ trang Xuân Lộc do viên đội cũ Chế Đình Đạo chỉ huy – tuy còn được 20 cây súng và gần 30 chiến sĩ cũng chạy luôn ra Bình Thuận. Cùng ngày, giặc Pháp theo đường 15 đánh chiếm quận lỵ Long Thành. Chúng chiếm đóng luôn Phước Thiền, Sở cao su He le na, Sở cao su Bình Sơn, kho đạn Thành Tuy Hạ. Trước sức mạnh của địch, người chỉ huy giải phóng Long Thành dao động bỏ đơn vị chạy. Đồng chí Huỳnh Văn Đạo và đồng chí Nguyễn Văn Lung được cử làm chỉ huy trưởng và chỉ huy phó lực lượng vũ trang Long Thành. Mặc dù chưa quen chiến đấu, bộ đội Long Thành sau đó cũng đã phục kích đánh địch ở cầu Ngang (Phước Thiền) ở ngã ba Bà Ký, giết và bị thương một số tên. Trong trận Bà Ký, địch đi 2 xe, ta bắn hư cả 2. Ngày 08 và 09/02, khoảng 300 quân Pháp được quân Anh mở đường đánh chiếm Vũng Tàu và Bà Rịa. Bọn Tân Hiền tỏ ra cực kỳ hèn nhát. Khi giặc tới, chúng đã rút về Đất Đỏ, Xuyên Mộc và chạy ra Bình Thuận. Đi tới đâu, chúng hà hiếp dân lành tới đó. Ủy ban kháng chiến miền Nam đã bắt bọn đầu sỏ và giải tán toàn bộ lực lượng này. Còn Lê Văn Huề Chủ tịch Ủy ban nhân dân lâm thời kẻ đã ngăn cản không cho nhân dân tiêu thổ kháng chiến, khi Pháp đến cũng đầu hàng ngay và mang cả số vàng bạc của nhân dân đóng góp trong Tuần lễ vàng nộp cho giặc. Những kẻ phản bội đã tự vạch mặt chúng. Trong lúc đó dân quân, thanh niên cứu quốc Bà Rịa trang bị gậy tầm vông, mã tấu tìm cách đánh địch, ngăn chặn bước tiến của chúng. Trên lộ số 2 (đoạn sông Cầu) bộ đội Mười Tỷ đã phục kích, nổ súng diệt một số địch. Đến tháng 2/1946, hơn 5 tháng đã qua, quân và dân Biên Hòa, Bà Rịa đã vượt qua những khó khăn, phức tạp, chiến đấu anh dũng, bảo toàn lực lượng, phát triển được cơ sở mặt trận Việt Minh, giữ được căn cứ Tân Uyên, căn cứ Long Mỹ, gây cho địch một số tổn thất. Qua chiến đấu ta đã loại trừ các phần tử cơ hội, các lực lượng ô hợp, nội bộ ta được trong sạch hơn trước. Tuy nhiên, lực lượng quân sự của ta tuy có bước thống nhất nhưng chưa tạo được sức mạnh, chưa có cách đánh thích hợp nên không ngăn chặn được sức tiến công của địch. Giặc Pháp đã chiếm đóng được thị xã Biên Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu, các thị trấn, đường giao thông chiến lược, các vùng cao su một cách nhanh chóng và đang lấn chiếm “bình định” vùng nông thôn. Thực hiện chủ trương hòa để tiến, Chính phủ ta ký kết với Pháp hiệp định sơ bộ (ngày 06/3/1946). Theo đó quân đội hai bên ngừng bắn và ở nguyên vị trí chờ việc đàm phán nhằm thực hiện hiệp định. Mặc dù vậy quân Pháp tại Nam bộ vẫn cố tình vi phạm hiệp định. Chúng cho rằng hiệp ước mới được ký kết Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 12
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 không dính dáng gì đến Nam bộ. Do vậy, chúng trắng trợn vi phạm hiệp định, đẩy mạnh các hoạt động quân sự hòng tiêu diệt lực lượng kháng chiến của ta trong thời gian ngắn. Ở Biên Hòa, sau khi đã chiếm được một số vị trí xung yếu để đặt sở chỉ huy, quân Pháp tiến hành hàng loạt cuộc càn quét với quy mô lớn, dồn đẩy cơ quan kháng chiến và lực lượng vũ trang cách mạng vào sâu trong các căn cứ xa dân, không có nguồn tiếp tế cung ứng hậu cần. Cùng thời gian này, quân Pháp hướng mọi nỗ lực của chúng vào việc đánh chiếm Tân Uyên, Chiến khu Đ. Do vậy ngày 18/4/1946, chúng huy động 8.000 quân, chia thành 4 cánh bao vây vùng Phước Hòa, Tân Uyên, Cây Đào; các xã Thường Lan, Lạc An, cắt đứt và cô lập toàn bộ khu vực căn cứ. Trong khi đó, ở Bình Trước, Châu Thành, Biên Hòa , địch tăng cường các hoạt động tuần tiểu, để kiểm soát các vành đai chung quanh thị xã, chiếm lợi thế trong việc bao vây kiểm soát nội ô. Xã Bình Trước có nguy cơ bị cô lập. Các đường dây liên lạc trong và ngoại thành không còn dễ dàng thông suốt như trước. Hiểu được khó khăn của Biên Hòa, Tỉnh bộ Việt Minh đã quyết định thành lập một ban công tác thành ở Biên Hòa và phái đồng chí Võ Văn Mén (Bảy Mén) về phụ trách, căn cứ đặt tại Hố Cạn; đồng thời tăng cường 1 trung đội lực lượng vũ trang để hỗ trợ cho Biên Hòa trừ gian, diệt ác, giữ vững cơ sở của ta. Vào thời điểm này, các cán bộ chủ chốt hoạt động trong nội thành xã Bình Trước, Biên Hòa đã bị lộ. Từ sau khi giặc Pháp chiếm đóng hãng máy cưa BIF, chúng đánh phá ác liệt vào Tân Mai, Lân Thành, Vĩnh Thị, gây xáo trộn các tổ chức của ta. Do vậy, để bảo toàn lực lượng, lãnh đạo Việt Minh Biên Hòa tạm thời chuyển hết ra ngoài, thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Cùng với việc này, các cơ sở bí mật tiếp tục vận động thanh niên còn ở trong thị xã tham gia tòng quân vào bộ đội đánh Tây. Chủ trương này đã đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo lớp thanh niên mới lớn. Anh em đã hăng hái tham gia tòng quân. Chỉ trong vòng 1 năm, đến giữa năm 1947, lực lượng vũ trang kháng chiến của Biên Hòa đã phát triển lớn mạnh gấp 2 3 lần so với trước. Song song với việc tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang kháng chiến, bộ máy kháng chiến của Biên Hòa đẩy mạnh xây dựng, củng cố các tổ chức đoàn thể công đoàn cứu quốc, thanh niên, phụ nữ, phụ lão, nông dân, thiếu nhi cứu quốc v.v...; xây dựng các cơ sở địch vận để hỗ trợ cho kháng chiến. Ông Ngô Bá Cao, nguyên cán bộ Mặt trận Việt Minh Biên Hòa , nguyên Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh liên thôn 5 thời ấy nhớ lại: Khí thế kháng chiến ở Biên Hòa lúc ấy được đẩy lên thành cao trào. Mọi hoạt động xoay quanh việc đề cao uy thế của kháng chiến, giáo dục lòng yêu nước cho mọi tầng lớp nhân dân, vận động nhân Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 13
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 dân đóng góp công sức, của cải, tiền bạc ủng hộ kháng chiến được phát huy tối đa. Đến giữa năm 1947, công tác vận động nhân dân đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến đã trở thành phong trào khá rộng rãi, được các tầng lớp nhân dân trong nội ô cũng như các vùng ven thị xã Biên Hòa hưởng ứng tích cực mạnh mẽ. Đặc biệt là đã thu hút được giới trí thức công chức tình nguyện thoát ly đi tham gia kháng chiến như: ông Lương Văn Nho (công chức kho bạc Biên Hòa), ông Huỳnh Văn Đạo (chánh lục sự Tòa án Biên Hòa), thầy giáo Nguyễn Văn Ngữ (sau lấy tên là Hoàng Minh Viễn), thầy Võ Kim Đôi, Hiệu trưởng Trường Bá nghệ Biên Hòa v.v... Trong bối cảnh giặc Pháp đang cố sức tăng cường đàn áp phong trào kháng chiến, hô hào cho thuyết "Nam kỳ tự trị" thì việc "lên chiến khu" của số trí thức nêu trên đã có tác động và ảnh hưởng rất lớn đến những trí thức, công chức, nhân sĩ còn lại. Ai không ra đi kháng chiến thì họ cũng dồn tình cảm giúp đỡ, ủng hộ Việt Minh như trường hợp của bác sĩ Nguyễn Văn Hoài, Giám đốc nhà thương điên Biên Hòa; bác sĩ Nguyễn Sơn Cao; dược sĩ Hồ Văn Lâm, chủ hiệu thuốc Tây Hồ Văn Gia v.v...Hướng về kháng chiến, các tầng lớp nhân dân Biên Hòa đã tích cực đóng góp tiền bạc, mua sắm các vật dụng cần thiết như lương thực, thực phẩm, thuốc men, máy đánh chữ, văn phòng phẩm gởi ra chiến khu. Nhiều người đã không kể hiểm nguy, giả làm người đi buôn chuyến, bỏ mối hàng, vượt qua sự kiểm soát gắt gao của giặc để đem hàng hóa đến tận chiến khu phục vụ kháng chiến như bà Giáo Mỹ (mẹ ông Đỗ Bá Nghiệp, nguyên giám đốc Bảo tàng Đồng Nai). Có người dũng cảm hy sinh trên đường đi tiếp tế như chị Tư Điểu (Bình Hòa). Có những em thiếu nhi như: Nguyễn Thị Có, Nguyễn Văn Đời, Nguyễn Văn Đường ... Thường xuyên ra vào nội ô làm nhiệm vụ giữ vững liên lạc trong và ngoại thành...Có thể nói từ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ, liên tục trong thời gian sau đó, phong trào kháng chiến của Biên Hòa ngày càng lớn mạnh. Tiếng súng trừ gian, diệt ác của các lực lượng vũ trang Biên Hòa vẫn tiếp tục vang lên, phối hợp với bộ đội ta trên các chiến trường giành lại thế chủ động và đi đến ngày thắng lợi hoàn toàn Chính quyền cách mạng vừa mới xây dựng chưa đầy tháng, thực dân Pháp núp bóng quân đội Anh dưới danh nghĩa đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật tái chiếm Sài Gòn, Biên Hòa; quân dân Biên Hòa cùng Nam bộ bước vào giai đoạn trường kỳ kháng chiến. Hội nghị Bình Trước ngày 23/9/1945 phân tích tình hình, xác định nhiệm vụ của chính quyền cách mạng, trong đó chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ kháng chiến để tính chuyện lâu dài. Liền sau đó, Trại huấn luyện Du kích Vĩnh Cửu được thành lập để huấn luyện quân sự Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 14
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 cho các đội vũ trang. Các căn cứ kháng chiến Bình Đa, Hố Cạn, Chiến khu Đ, Rừng Sác, Phước An dựa vào thế trận lòng đất, lòng dân vừa sản xuất vừa chiến đấu, làm cái nôi nuôi dưỡng các lực lượng cách mạng. Lực lượng vũ trang Biên Hòa từ tầm vông giáo mác nhanh chóng trưởng thành, đến tháng 6/1946 đã hình thành Chi đội 10; 3 hình thức vũ trang được xây dựng, vũ khí thô sơ nhưng tinh thần hừng hực khí thế cách mạng; tổ chức nhiều trận đánh ngăn bước tiến của giặc, tạo nên nhiều chiến công vang dội: Trận thắng Núi Thị Xuân Lộc (30/10/1945); Cầu Lò Rèn Long Thành (09/3/1946), phục kích địch Cầu Phước Cang Long Thành (01/1948); đặc biệt là trận thắng La Ngà (01/3/1948) chấn động thế giới và trận đánh Cầu Bà Kiên (19/3/1948) khai sinh cách đánh đặc công ở chiến trường miền Đông. Riêng ở trận thắng La Ngà, tham gia có chi đội 10 và một đại đội liên quân (3 trung đội 1, 6, và 10) do đồng chí Hoàng Minh Chánh chỉ huy . Đúng theo kế hoạch, 15 giờ ngày 01/3/1948 hiệu lệnh nổ súng phát ra, Chi đội 10 Biên Hòa hiệp đồng chặt chẽ với Đại đội liên quân 17 chiến đấu dũng cảm, ngoan cường,mưu trí. Qua nghiên cứu, chỉ huy Chi đội 10 quyết định chọn đoạn đường từ La Ngà đến Định Quán để tổ chức trận địa phục kích. Tiểu đoàn Xuân Lộc (thiếu đại đội 5) bố trí ở khu vực A (từ km 111 đến km 113) có nhiệm vụ chặn đầu diệt xe thiết giáp và lực lượng hộ tống. Liên quân 17 bố trí ở khu vực B (từ km 108 đến km 111) có nhiệm vụ diệt đoàn xe vận tải. Tiểu đoàn Tân Uyên bố trí ở khu vực C (từ km 105 đến km 108) có nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng đi phía sau đồng thời sẵn sàng chặn đánh địch từ phía sau lên ứng cứu. Đại đội 5 (thuộc tiểu đoàn Xuân Lộc) được giao nhiệm vụ phối hợp với du kích các địa phương Hồ Hải, Trảng Bom, Bàu Cá quấy rối địch từ xa, nhằm làm chậm tốc độ hành quân của chúng, nhưng không được đánh đến mức địch lo ngại, dừng cuộc hành quân đã định sẵn. Ban chỉ huy Chi đội còn phái một phân đội trinh sát phối hợp với lực lượng quân báo Sài GònGia Định nắm chắc mọi hoạt động của địch ngay từ khi xuất phát. Sáng ngày 01/3, mọi công tác chuẩn bị chiến đấu của ta đã hoàn thành. 15 giờ ngày 13, sau khi cho máy bay trinh sát dọc theo trục đường, không thấy dấu hiệu khả nghi, đoàn xe hơn 60 chiếc của địch, có xe thiết giáp và một đại đội lính Âu Phi hộ tống tiến vào khu vực phục kích của quân ta. Đoàn xe lần lượt vượt qua các khu vực C, B. Vừa hành quân, địch vừa dùng hỏa lực trên xe bắn ra hai bên đường để trấn an tinh thần hòng nhanh chóng thoát khỏi khu vực nguy hiểm. Đúng 15 giờ 10 phút, bộ phận chặn đầu (khu vực A) nổ mìn diệt chiếc xe thiết giáp đi đầu. Ngay sau đó ở khu vực A và B, theo lệnh của chỉ huy, bộ đội ta bắn mãnh liệt vào đội hình xe địch, đồng thời ào ạt xung phong chia cắt, tiêu diệt từng chiếc xe của địch. Bị đánh bất ngờ, quân địch không kịp phản ứng, đội hình rối loạn, hàng chục chiếc xe đâm sầm vào nhau. Quân địch Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 15
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 nhảy ra khỏi xe, phần lớn bị bộ đội ta tiêu diệt, số còn lại tháo chạy vào rừng. Ở khu vực C, sau khi nghe thấy tiếng địa lôi của bộ phận chặn đầu, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Tân Uyên lập tức cho nổ mìn diệt ba xe chở quân của địch, đồng thời ra lệnh cho đơn vị xung phong. Một số xe phía sau của địch thấy phía trước bị đánh liền dừng lại ở phía đông cầu La Ngà tổ chức lực lượng lên ứng cứu. Tiểu đoàn Tân Uyên dùng hỏa lực ngăn chặn, đồng thời chia thành nhiều mũi đánh vào hai bên sườn địch, bẻ gãy hai đợt phản kích của chúng, bảo đảm cho chi đội tiêu diệt đoàn xe địch rồi rút về Thành Sơn an toàn. Sau một giờ chiến đấu quân ta tiêu diệt gọn 59 xe các loại, 150 tên lính và 25 sĩ quan Pháp, khống chế toàn bộ đường 20 lên Đà Lạt. Chiến thắng Là Ngà đã đi vào lịch sử không phải chỉ vì thắng lợi về mặt quân sự mà còn là thắng lợi lớn về mặt chính trị trong và ngoài nước. Đồng thời đánh dấu một bước trưởng thành nhanh chóng của lực lượng vũ trang Biên Hòa Đồng Nai. 6. Cuộc kháng chiến từ năm 1949 1954: Lực lượng cách mạng ở Biên Hòa Đồng Nai trưởng thành vững vàng, các chiến khu được củng cố, tăng năng lực sản xuất và chiến đấu; chiến thắng trước thử thách của thiên tai lũ lụt Nhâm Thìn 1952; đánh và thắng địch bằng nhiều cách: du kích, đột kích, tập kích trên khắp các chiến trường, kết hợp binh vận, diệt ác trừ gian ở cơ sở, và ở ngay cả trong lòng địch; tiếp tục ghi nhiều chiến công lịch sử, như: Trận tập kích đồng loạt phá 50 tháp canh của giặc ngày 22/3/1950; đánh bại nhiều cuộc càn quét qui mô của địch vào chiến khu Đ; đốt kho xăng dầu ở Phước Lư (Biên Hòa) tấn công trại giam Thủ Đức giải thoát 120 tù chính trị (tháng 8/1950), tập kích yếu khu Trảng Bom (20/7/1951), cài mìn diệt máy bay giặc ở sân bay SIPH (tháng 4/1952)... Kết quả kháng chiến chống Pháp của quân dân Biên Hòa đã góp phần quan trọng trong thắng lợi chung ở chiến trường Nam bộ, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ.. Năm 1949, thực dân Pháp càng đẩy mạnh lấn chiếm và bình định chiến trường Nam Bộ. Chúng đã xây dựng hàng nghìn tháp canh, khống chế những địa bàn trọng yếu. Ở Biên Hòa, Bà Rịa, địch liên tục càng quét, mở rộng việc xây dựng đồn bót, tháp canh, lấn chiếm vùng du kích của ta. Lấn chiếm vùng du kích, chúng nhằm phá địa bàn đứng chân của bộ đội, du kích, đẩy lực lượng ta ra xa để bình định vùng tạm chiếm và tạo vành đai trắng giữa vùng căn cứ và vùng tạm bị chiếm. Đồn bót, tháp canh của địch mọc lên ngày càng nhiều trên lộ 16, nối liền từ thị trấn Tân Ba lên Tân Uyên đến chi khu Phước Hòa (ở phía bắc). Ở tả ngạn sông Đồng Nai (thuộc hai huyện Vĩnh Cửu và Tân Uyên), địch cũng xây dựng hệ thống tháp canh theo lộ 24 từ Cây Đào (Bình Thạnh) đến Rạch Đông (Tân Định). Đặc biệt, trên địa bàn huyện Xuân Lộc, tháp canh địch dày đặc trên Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 16
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 lộ 1 và lộ 20, cắm sâu vào cả vùng đồng bào dân tộc, các sở cao su. Lực lượng thân binh giáo phái, chủ yếu là Cao Đài được địch sử dụng làm nhiệm vụ càn quét, lấn chiếm. Trên chiến trường Bà Rịa, địch dồn sức lấn chiếm, bình định huyện Long Điền, Đất Đỏ, nơi tập trung sức người, sức của của ta. Đầu năm 1949, đội chuyên môn đánh xe lửa do đồng chí Hoàng Phùng Đức (Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn Lê Lợi) chỉ huy được thành lập. Đội có nhiệm vụ phá hoại đường sắt, đánh giao thông đoạn Trảng Bom – Biên Hòa. Trong 06 tháng đầu năm 1949, trên đoạn này đội đã đánh 15 trận, diệt 13 đầu máy Paciphich. Cũng trong thời gian này, Đội biệt động Biên Hòa cũng luồn sâu diệt ác ngay trong thị xã, hạn chế việc bung ra của địch. Tuy nhiên ở vùng du kích, bộ đội ta phải chống trả khó khăn trước những cuộc càn quét, lấn chiếm của địch. Ở huyện Vĩnh Cửu, ta giữ được căn cứ bàn đạp Bình Đa, nhưng các vùng xung quanh như Tân Phong, Tân Mai, Hố Cạn, ấp Vĩnh Cửu bị địch lấn dần, bộ đội mất chỗ dựa để đánh địch dọc lộ 24. Từ Bình Thạnh lên Tân Định, nhân dân bị địch gom về quanh chi khu Cây Đào. Vùng du kích bị thu hẹp, việc liên lạc từ Bình Đa về Chiến khu Đ đã gặp nhiều khó khăn hơn trước. Nhưng lúc này, khó khăn lớn nhất là ở địa bàn trọng điểm Xuân Lộc. Các lực lượng vũ trang của ta thế yếu hơn địch, nặng về đối phó chống đỡ. Địch ra sức mở rộng lấn chiếm, triệt phá sản xuất. Nhân dân các xã Túc Trưng, Cây Gáo, Dầu Giây bị gom vào các xã cao su. Nhân dân phía đông bắc huyện bị gom vào quanh các bót Bảo Chánh, Gia Ray, Định Quán. Đồng bào dân tộc đời sống vô cùng điêu đứng. Nhưng bà con kiên quyết theo cách mạng thà ăn rau, ăn củ chụp, ăn củ nần, thà chết đói chớ không về với giặc, không ở hai lòng. Tình hình huyện Xuân Lộc tiếp tục đi xuống. Và đến tháng 3/1950, bị địch chiếm đóng hoàn toàn. Tháng 9/1949, Xứ ủy Nam bộ triệu tập hội nghị quân sự toàn Nam bộ. Xứ ủy nêu rõ 6 nhiệm vụ cơ bản trước mắt là: chỉnh đốn bộ máy chỉ huy quân sự các cấp; xây dựng ba thứ quân; rèn cán chỉnh quân; tăng gia công tác chính trị; tổ chức lại ngành quân giới; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước. Hội nghị đã nhấn mạnh chủ trương “giữ người, giữ của, giành người giành với địch”. Thực hiện nghị quyết quân sự của Xứ ủy, tháng 12/1949, Bộ tư lệnh Nam bộ quyết định hợp nhất hai Trung đoàn 310 (Biên Hòa) và 301 (Thủ Dầu Một) thành Liên trung đoàn 301310. Đồng chí Nguyễn Văn Thi được cử làm Liên trung đoàn trưởng. Trung đoàn 307 và 309 cũng hợp nhất lại thành Trung đoàn 397. Đồng chí Mai Văn Vĩnh làm Trung đoàn trưởng. Các cơ quan trung đoàn như: Ban quân nhutài chính, binh công xưởng được tăng cường thêm cán bộ và máy móc. Binh công xưởng Liên trung đoàn 397 mang tên Lý Chính Thắng. Phát huy tinh thần tự lực, tự cường, cán bộ, công nhân đã sản xuất các loại vỏ đạn, đúc vỏ lựu đạn, mìn… Đêm 21 rạng sáng 22/3/1950, trên chiến trường Biên Hòa các tổ chức du Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 17
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 kích đồng loạt đánh vào 50 tháp canh dọc lộ 16, 15 và Quốc lộ 1. Tường tháp canh bị thủng một lỗ với đường kính từ 0,6 m đến 1,5 m, song tháp canh không cái nào bị sập. Bọn lính giữ tháp ngủ trên sàn cao 7 m đều bị chết, nhưng tên lính gác ở nóc tháp vẫn sống và dùng súng trường, lựu đạn đối phó với ta. Tình huống này không được dự kiến trước, các tổ du kích bị bất ngờ, lúng túng và kéo nhau về. Tuy chưa giành được thắng lợi, nhưng trận đánh đã gây một tác động mạnh đối với địch. Tên tướng Săng xông phải đến Biên Hòa trấn an tinh thần quân ngụy. Và sáng ngày 23/3, Sở thông tin quân đội Pháp đã ra thông báo thú nhận: “Đêm 21 rạng 22/3 du kích quân khởi cuộc tiến công thình lình các tháp canh dài theo các đường lộ ở Biên Hòa. Trên 30 tháp canh đồng bộ bị tấn công và nhiều chỗ bị tấn công mãnh liệt” . Với quyết tâm cao nhằm đánh bại chiến thuật tháp canh Đờ La – tua, Bộ Tư lệnh Khu 7, Tỉnh đội Biên Hòa lại mở cuộc họp sơ kết trận đánh. Hội nghị đã khẳng định sự thành công về kỹ thuật bí mật tiếp cận tháp canh của các tổ du kích và bổ sung hoàn chỉnh thêm một bước cách đánh mới: khi FT nổ tạo ra được một lỗ thủng ở tường, dùng thêm 1 trái Pêta đút sâu vào trong tháp canh, đánh tiếp, sức nổ mạnh từ bên trong phá ra, tháp canh sẽ đổ sập. Đêm 1841950, ta đánh sập hoàn toàn tháp canh cầu Bà Kiên. Địch chết sạch. Ta làm chủ trận địa, thu toàn bộ vũ khí. Trong trận này ta còn rút thêm một kinh nghiệm quý là: những tháp canh có lỗ châu mai thì không cần dùng đến FT để tạo lỗ thủng ở tường tháp nữa. Như vậy, ta tiết kiệm được vũ khí, kết quả trận đánh vẫn được bảo đảm. Trận diệt tháp canh cầu Bà Kiên mở ra một phong trào diệt tháp canh khá rộng rãi. Với kỹ thuật đánh tháp canh, bộ đội ta đã ứng dụng đánh lô cốt, đồn bót, đánh các cầu lớn và kho tàng địch. Mấy năm sau đã xuất hiện những đơn vị đánh giỏi, đảm đương các nhiệm vụ chiến đấu đặc biệt với tên gọi: bộ đội đặc công. Cùng với phong trào diệt tháp canh, ngày 27/3/1950, Đội biệt động Biên Hòa tiến công kho xăng dầu Biên Hòa, đốt cháy hàng triệu lít xăng dầu của giặc, hỗ trợ lực lượng địa phương làm công tác vũ trang tuyên truyền trong thị xã. Ngày 24/4, tiểu đoàn chủ lực của Liên trung đoàn 301 310 diệt 13 xe thiết giáp địch trên đường 13, giết nhiều địch, thu nhiều vũ khí. Đây là trận đánh lớn đầu tiên kể từ khi liên trung đoàn được thành lập. Từ giữa năm 1950, giặc Pháp liên tục hành quân, càn quét vào vùng căn cứ Bình Đa và Long Thành. Tỉnh ủy Biên Hòa, Huyện ủy Vĩnh Cửu xác định: bằng mọi cách ta phải giữ cho được căn cứ Bình Đa để giữ bàn đạp tiến công địch trong tỉnh lỵ; khống chế không cho chúng mở rộng lấn chiếm xuống lộ 15; bảo vệ sản xuất ở vùng độc lập An Hòa, Long Hưng. Trong 61950, địch mở liên tiếp 5 trận càn có xe tăng, máy bay yểm trợ vào căn cứ Bình Đa. Bộ đội tỉnh, huyện và du kích đã bẻ gãy các cuộc càn này. Không diệt được căn cứ Bình Đa, địch chuyển sang lấn chiếm, chốt giữ các xã ven để có lập căn cứ, cắt đường Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 18
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 hành lang từ Bình Đa về vùng độc lập Đại An, Định Tân và Chiến khu Đ. Đối phó với hoạt động của địch, Đại đội Lam Sơn và bộ đội huyện Vĩnh Cửu đã đánh phá giao thông, đồn bót tiêu hao sinh lực địch. Ngày 1181950, ta đánh lật một chiếc xe lửa đoạn Cây Gáo Trảng Bom, phá hủy một máy Rubi, diệt một tên đội pháp ác ôn và 5 tên Việt gian. Ngày 308, Đại đội Lam Sơn và bộ đội huyện Vĩnh Cửu bất ngờ tiến công diệt bót Bến Gỗ do một trung đội thân binh Cao Đài đóng giữ. Tháng 101950, theo chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Nam bộ, chiến trường miền Đông được tổ chức lại. Đặc khu Sài Gòn Chợ Lớn được thành lập. Bộ Tư lệnh quyết định sáp nhập tỉnh đội dân quân và Ban chỉ huy trung đoàn để thống nhất lãnh đạo, chỉ huy 3 thứ quân ở địa phương. Chấp hành chỉ thị của Bộ Tư lệnh Nam bộ, Tỉnh đội Biên Hòa và Bà Rịa khẩn trương bắt tay vào việc chấn chỉnh tổ chức, nghiên cứu đặc điểm từng vùng để bố trí lực lượng giữ vững phong trào chiến tranh du kích. Tỉnh đội Biên Hòa đưa lên khu tiểu đoàn chủ lực của tỉnh (sau này mang tên Tiểu đoàn 302), Tỉnh đội Bà Rịa đưa lên khu Đại đội 3564 để góp phần xây dựng chủ lực khu. Các đại đội độc lập còn được tăng cường về các huyện. Các đội vũ trang tuyên truyền thị xã Biên Hòa, thị xã Cấp, Xuân Lộc (gồm cả cán bộ dân, quân, chính, đảng) được thành lập. Tháng 10/1950, nhằm phối hợp với chiến dịch Biên giới, Bộ Tư lệnh Khu 7 mở chiến dịch Bến Cát. Các tỉnh đội dân quân Biên Hòa, Bà Rịa đang thời kỳ tổ chức lại, nên không có hoạt động quân sự nào đáng kể. Riêng trên địa bàn huyện Vĩnh Cửu, ta và địch vẫn giành giật quyết liệt vùng du kích. Những trận đánh nhỏ xảy ra liên tiếp. Ngày 19/10, Đại đội 3005 chủ lực thu cùng Đại đội Lam Sơn đánh địch tuần tiểu trên lộ 15, hủy 2 xe quân sự diệt 30 tên địch, thu 5 súng. Ngày 17 11, Đại đội Lam Sơn lại chặn đánh diệt một tiểu đội lính tuần tra đường sắt đoạn Trảng Bom Cây Gáo. Tháng 11 du kích xã Bình Hòa dùng kỹ thuật đặc công đánh sập tháp canh Bình Hòa. Ba năm 1948, 1949, 1950 là một thời kỳ thử thách mới của Đảng bộ và quân dân Biên Hòa, Bà Rịa. Từ giữa năm 1949 đến cuối năm 1950, địch tăng cường càn quét đánh phá các vùng căn cứ, lấn chiếm, bình định các vùng du kích và các địa bàn trọng điểm trong tỉnh. Ta đã giữ vững và phát triển được phong trào chiến tranh du kích trên cả 3 vùng, đánh địch bình định lấn chiếm, càn quét, bảo vệ được căn cứ kháng chiến. Nổi bật với cách đánh đặc công ta đánh bại bước đầu hệ thống đồn bót, tháp canh Đờ Latua của địch. Dựa hẳn vào nhân dân, lực lượng vũ trang 3 thứ quân kết hợp chặt chẽ trong chiến đấu và đã tạo ra được những trận đánh sôi động, phối hợp tốt với chiến trường toàn quốc. Nhưng do lực lượng địch ta chênh lệch, một số vùng du kích đã biến thành vùng tạm chiếm; chi bộ, chính quyền bị bật ra khỏi dân. Hình thái chiến trường Biên Hòa, Bà Rịa trở nên khó khăn, phức tạp trong những năm sau. Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 19
- Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 Tháng 9/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược đông xuân 1953 1954. Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Từ ngày 20/12/1953 đến 20/01/1954, bộ đội ta mở những đòn tiến công ở Lai Châu, Tây Nguyên, Trung Hạ Lào, Thượng Lào và đông bắc Campuchia. Kế hoạch tập trung lực lượng cơ động ở đồng bằng Bắc bộ của tướng Na va bị phá sản. Tại chiến trường Nam bộ, địch phải rút 13 tiểu đoàn để tăng cường cho chiến trường chính ở Bắc bộ. Thay vào đó, địch tổ chức những tiểu đoàn ngụy binh (BVN) mới, chất lượng kém hẳn. Nắm thời cơ, Phân liên khu Miền Đông đã chỉ đạo các tỉnh đẩy mạnh hoạt động phía sau lưng địch, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động quân sự với phong trào quần chúng, tăng cường công tác địch ngụy vận. Phối hợp chiến trường chung, Tỉnh ủy Thủ Biên chủ trương đẩy mạnh công tác địch ngụy vận, diệt đồn bót, tạo thế họat động ở vừng sau lưng địch. Cuối tháng 121953, đội biệt động tỉnh và bộ đội địa phương huyện Vĩnh Cửu diệt bót Cẩm Vinh (thuộc xã Tân Triều huyện Vĩnh Cửu) tiêu diệt 2 trung đội lính ngụy, thu toàn bộ vũ khí, mở địa bàn trọng yếu ven thị xã Biên Hòa. Cùng thời gian trên, bộ đội huyện Đồng Nai diệt bót Miếu Ngói ở Lộc Hòa, tiến hành vũ trang tuyên truyền, phá tề ngụy, tạo điều kiện cho cán bộ, du kích các xã Bình Long, Lợi Hòa (nhập lại thành xã Dân Chủ), Tân Phú bám lại xã ấp. Liền ngày hôm sau, trên đường rút về căn cứ, bộ đội ta diệt một trung đội biệt kích ở Sở cao su Ông Phủ (xã Bình Ý, huyện Vĩnh Cửu). Ở huyện Vĩnh Cửu, các xã Bình Long, Tân Phú, Bình Thạnh… truyền đơn chống bầu cử được rải khắp nơi. Tại xã Bình Ý, chi bộ xã đã vận động, tổ chức hàng trăm quần chúng đốt cháy phòng bỏ phiếu. Cuộc bầu cử của địch ở đây bị thất bại. Công nhân các sở cao su đã chống bầu cử bằng nhiều hình thức: bỏ phiếu không hợp lệ, xé phiếu, gạch xóa hình Diệm… Cũng trong thời gian này, khắp các vùng nông thôn, nông dân Biên Hòa, Bà Rịa đã phối hợp đấu tranh với công nhân đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống địch cướp đất. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của nông dân Sở Cống Dầu (xã Phước Thọ huyện Long Đất). Đây là vùng đất của nông dân tự khai phá và canh tác từ lâu đời. Đầu năm 1956, tên tư sản Huỳnh Văn Định dựa vào bọn tề xã đưa dân vệ đến chiếm. Tỉnh ủy Bà Rịa, Huyện ủy Long Đất đã chi đạo cho chi bộ xã thành lập ban lãnh đạo đấu tranh. Nông dân xã Phước Thọ 2 lần làm kiến nghị đưa lên quận, tỉnh đấu tranh, nhưng chúng vẫn không giải quyết. Tên Định lại bán đất cho tên Xinh (Hoa Kiều). Cuộc đấu tranh vẫn tiếp diễn. Tên Xinh phải chịu bồi thường cho nông dân mỗi ha là 300 đồng. Ở cù lao Ông Còn (xã Đại Phước – Long Thành), chúng định cướp 300 ha để mở rộng vùng kiểm soát kho đạn Thành Tuy Hạ. Huyện Long Thành đã phát động hàng trăm nông dân kéo xuống đấu lý quyết liệt với địch, Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề thi cuối kì môn Thống kê xã hội: Mã đề thi 003
4 p | 467 | 44
-
VỐN XÃ HỘI VÀ PHÁT TRIỂN (Phần II)
14 p | 106 | 29
-
Hội thi tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2012
31 p | 132 | 16
-
Tìm hiểu về Các liệu pháp tâm lý
8 p | 137 | 14
-
Đề thi trắc nghiệm môn lịch sử Đảng về Đường Hồ Chí Minh Trên Biển
9 p | 152 | 14
-
Tìm hiểu về Bùi Viện (1839-1878) và cuộc cải cách hải quân - Phần 3
11 p | 95 | 5
-
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đồng Nai qua các kỳ đại hội: Bài dự thi tìm hiểu giá trị văn hóa lịch sử Đồng Nai 2015
39 p | 63 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn