intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018

Chia sẻ: Lại Thị Quốc Toàn | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:88

62
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 với các nội dung như cuộc kháng chiến từ năm 1833-1835 (đỉnh cao là cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi); cuộc kháng chiến năm 1861–1862 (hay có tên gọi là trận đánh Biên Hòa lịch sử năm 1861–1862); cuộc kháng chiến năm 1902-1905 (đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của Đoàn Văn Cự và nghĩa binh yêu nước)...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018

  1. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 Câu   1: Trong   320   năm   hình   thành   và   phát   triển   vùng   đất   Biên   Hòa ­ Đồng Nai, Nhân dân Đồng Nai đã trải qua những cuộc kháng chiến   nào? Hãy trình bày cảm nhận của anh (chị) về truyền thống đấu tranh cách   mạng của Nhân dân Biên Hòa ­ Đồng Nai ? Đồng Nai là một tỉnh thuộc khu vực miền  Đông Nam Bộ  của đất nước  Việt Nam. Là tỉnh có dân số  đông thứ  nhì  ở  miền Nam (sau Thành phố  Hồ  Chí  Minh), có diện tích lớn thứ nhì ở Đông Nam Bộ (sau Tỉnh Bình Phước) và thứ ba  ở  miền Nam (sau Tỉnh Bình Phước và Tỉnh Kiên Giang), Đồng Nai được đánh  giá là một tỉnh cửa ngõ đi vào vùng kinh tế  Đông Nam Bộ  ­ vùng kinh tế  phát   triển và năng động nhất cả  nước; là một trong ba góc nhọn của tam giác phát   triển Thành phố Hồ Chí Minh ­ Bình Dương ­ Đồng Nai.  Trong 320 năm lịch sử hình thành và phát triển, Đồng Nai đã trải qua nhiều   cuộc kháng chiến gian lao và anh dũng thể hiện đúng khí chất của nhân dân vùng   đất miền Đông. Với niềm tự hào và lòng biết ơn đối với các thế  hệ  cha anh đi  trước, tôi đã nghiên cứu, tìm hiểu rất nhiều tài liệu (từ nhiều nguồn khác nhau)  có đề cập đến lịch sử của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai và sau đây tôi xin trình   bày cụ thể về nội dung của cuộc kháng chiến mà nhân dân vùng đất Biên Hòa ­  Đồng Nai đã trải qua trong 320 năm lịch sử. 1. Cuộc kháng chiến từ năm 1833 ­ 1835 (đỉnh cao là cuộc nổi dậy của  Lê Văn Khôi) Từ  năm 1792, Nguyễn Ánh hoàn toàn làm chủ  đất Trấn Biên, Gia Định.  Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đổi phủ  Gia Định thành trấn Gia Định,  Trấn Biên dinh thành Biên Hòa trấn. Đến năm 1808, lại đổi trấn Gia Định ra Gia  Định Thành thống quản trấn Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà  Tiên; Nguyễn Văn Nhơn làm tổng trấn, Trịnh Hoài Đức làm hiệp tổng trấn. Đến  năm 1812, Lê Văn Duyệt làm tổng trấn. Năm 1832, Lê Văn Duyệt mất. Nguyễn Văn Quế và bố chánh Bạch Xuân   Nguyên vốn có hiềm khích, dựng vụ  án Lê Văn Duyệt. Vua Minh Mạng cho  xiềng mộ Lê Văn Duyệt, bãi bỏ chức tổng trấn, chia các trấn thành lục tỉnh.  Tỉnh  Biên Hòa có từ đây. Giận vì Lê Văn Duyệt bị  ngược đãi, năm 1833 con nuôi Lê Văn Duyệt là  Lê Văn Khôi tạo phản, chiếm thành Phiên An; mãi đến năm 1835, Lê Văn Khôi   bệnh mất, nhà Nguyễn mới dập tắt được cuộc binh biến, bắt giết cả thảy 1.831   người đem chôn chung gọi là mả  Ngụy. Hai lần Lê Văn Khôi đánh chiếm Biên  Hòa. Người Biên Hòa theo Lê Văn Khôi bị trừng trị khá đông liên lụy đến cả họ  Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 1
  2. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 hàng. Bảy tướng lĩnh triều đình chết trận tại Biên Hòa: Lê Văn Nghĩa, Phan Văn   Song, Trần Văn Du, Đặng Văn Quyến, Trần Văn Thiều, Nguyễn Văn Lý, Ngô  Văn Hóa; vua Minh Mạng cho lập thờ  ở thôn Bình Hòa, xã Bình Thành, ban sắc  phong năm 1838, di tích còn lại có thể  là miếu Bình Hòa (nay thuộc phường   Quang Vinh, thành phố  Biên Hòa). Tương truyền, con cháu của Lên Văn Khôi  trốn được, có 2 người  ẩn danh trong dân  ở  Hang Nai (Nhơn Trạch) và Long  Thành. 2. Cuộc kháng chiến năm 1861 – 1862 (hay có tên gọi là trận đánh Biên  Hòa lịch sử năm 1861 – 1862) Sau khi Pháp đánh chiếm Định Tường (tháng 4/1861), thì phong trào kháng  Pháp của người dân ở Nam Kỳ càng thêm mạnh mẽ. Bất lực, Đề  đốc Hải quân  Charner đã xin từ chức. Tháng 10/1861, Đô đốc L. Bonard được cử sang thay. Rút   kinh nghiệm thất bại của Charne, tướng Bonard chủ trương chưa đánh sâu vào  các làng xã mà khẩn trương đánh chiếm những tỉnh thành. Và kế  hoạch đánh  chiếm Biên  Hòa và  Vĩnh  Long  liền   được  thảo  ra,  và  nhanh  chóng  thực  hiện  nhằm mở  rộng khả  năng càn quét, bao vây, tiêu diệt các lực lượng chống đối  trên một địa bàn rộng lớn từ sông Đồng Naiđến sông Tiền, sông Hậu. Để  dọn  đường cho cuộc tấn công Biên Hòa, tướng Bonard sai hai toán quân đi thám  thính. Một đội đến Suối Sâu (nay thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai), thì bị  quân Việt đánh đuổi; một đội khác đến hai thôn là Bình Thuận và Bình Chuẩn   (đều thuộc Biên Hòa), thì bị  Phó đề  đốc Lê Quang Tiến cho quân tập kích, làm   đối phương cũng phải tháo lui.   Sau khi chuẩn bị  xong, ngày 14/12/1861, tướng Bonard vừa gửi tối hậu   thơ cho tướng Bá Nghi & Tuần phủ Nguyễn Đức Hoan, vừa ban lệnh khởi binh.   Liên quân Pháp – Tây Ban Nha có khoảng 1.000 người được chia làm 4 đạo như  sau: Đạo quân bộ thứ nhất do Thiếu tá Comte chỉ huy gồm pháo binh và bộ binh   Tây Ban Nha; Đạo quân bộ  thứ  nhì do Trung tá Domenech Diégo chỉ  huy gồm   một đại đội thủy quân lục chiến Tây Ban Nha và một đội kỵ  binh Pháp cùng 2   súng đồng 4 nòng; Đạo quân thủy thứ ba do Đại tá Lebris chỉ huy gồm 2 đại đội   thủy quân lục chiến; Đạo quân thủy thứ tư do Chủ tỉnh Renommée chỉ huy. Ngay ngày đầu, đạo quân của Thiếu tá Comte đã đánh chiếm được Gò  Công Trao Trảo. Ngày 15/12/1861, đội quân trên hợp với cánh quân của Trung tá  Domenech Diégo, cắt đứt liên lạc giữa Mỹ  Hòa và Biên Hòa, rồi cùng bao vây  đồn Mỹ  Hòa, khiến quân Việt phải bỏ  căn cứ  rút qua sông. Trong khi đó, đoàn  tàu chiến do Trung tá Ha­ren chỉ  huy tiến theo sông Đồng Nai vừa phá cản vừa  bắn phá các pháo đài trên bờ. Đồng thời, một cánh quân thủy khác do Đại tá  Lebris cầm đầu, theo rạch Gò Công Trao Trảo đánh vào phía sau các pháo đài.  Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 2
  3. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 Sau khi các cản và pháo đài của quân Việt đều bị phá vỡ, đến ngày 16/12/1861,   cả bốn đạo quân của đối phương đều có mặt trước tỉnh thành Biên Hòa. Trước  tình thế  đó, tỉnh thần là Tuần phủ  Nguyễn Đức Hoan vá Án sát Lê Khắc Cẩn  cho lui quân về  giữ  đồn mới là Hồ  Nhĩ; còn tướng Bá Nghi thì từ  phủ Phước  Tuy (Bà Rịa) lui vào rừng Long Kiên, Long Tả rồi chạy tuốt về Bình Thuận. Ngày 18/12/1861, liên quân ung dung tiến vào chiếm đoạt thành, mà không   gặp bất kỳ sự kháng cự  nào nữa. Ngày 28/12/1861, từ  Biên Hòa, liên quân đánh   chiếm Long Thành. Ngày 7/01/1862, liên quân lại theo dòng sông Đồng Nai, đánh  lấy thành Bà Rịa (phủ lỵ Phước Tuy) ngay trong ngày này. Không có con số chính thức về mức độ  thiệt hại về người và của cả  hai   bên;   chỉ   biết   khi   tháo   chạy,   quân   Việt   đã   bỏ   lại   48   cổ   đại   bác,   15   chiến  thuyền và nhiều thuốc đạn nơi thành Biên Hòa. Trong lúc liên quân Pháp­Tây  Ban Nha đi tấn công Biên Hòa và Bà Rịa, đoàn chiến thuyền của họ còn rảo theo   ven biển đánh đắm trên trăm thuyền của dân và của triều đình, nhiều nhất là ở  hải phận Phan Rí thuộc Bình Thuận. Và sau khi rơi vào tay liên quân, tỉnh Biên   Hòa được chia thành 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa (nay thuộc tỉnh Bà Rịa ­ Vũng Tàu)  và Thủ  Dầu Một (nay là thị  xã tỉnh lỵ  tỉnh Bình Dương). Thành lũy ở  Biên Hòa  và Bà  Rịa  đều bị  phá bỏ. Về  phía Pháp, ngay trong ngày  đầu tiên tấn công   (14/12/1861), tàu Alarme của Pháp đã bị bắn trúng nhiều phát đại bác, gây hư hại  nặng, gãy cả cột buồm. 3. Cuộc kháng chiến năm 1902 ­ 1905 (đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của Đoàn  Văn Cự và nghĩa binh yêu nước) Cùng với Nam kỳ  lục tỉnh, tại Biên Hòa phong trào chống thực dân Pháp  cũng diễn ra mạnh mẽ. Tuy có những lúc diễn ra âm thầm nhưng lại nung nấu   những ý chí lớn lao. Có thời điểm các phong trào chống thực dân Pháp hoạt động  bí mật theo các hội kín tôn giáo, điển hình trong số  đó là Hội kín Thiên Địa hội  của Đoàn Văn Cự. Đoàn Văn Cự sinh năm 1835, người Bình An, Thủ Đức, tỉnh Gia Định (nay   là Thành phố Hồ Chí Minh) trong một gia đình nhà nho khá giả. Thời nhỏ, Đoàn  Văn Cự  là người thông minh, học giỏi. Lớn lên, Đoàn Văn Cự  thấm nhuần tư  tưởng của những nhà yêu nước và cụ  thân sinh ra ông, là người có tinh thần   chống thực dân, đã có nhiều hoạt động phản kháng và bị  thực dân theo dõi. Vì  thế, khi lập gia đình, ông đưa vợ  con đến sinh sống tại rừng chồi Bưng Kiệu,   thôn Vĩnh Cửu, tỉnh Biên Hòa (nay là phường Tam Hòa, TP. Biên Hòa), nơi có ít  tai mắt của bọn thực dân. Tại Bưng Kiệu, Đoàn Văn Cự mở các lớp dạy học và   làm nghề  bốc thuốc gia truyền, kiêm luôn xem bói tướng cho người dân. Hàng  Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 3
  4. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 ngày, ông ăn mặc giống như một người tu hành, sống hiền hòa, lương thiện và   được nhiều người trong vùng kính nể. Dưới vỏ  bọc này, Đoàn Văn Cự  đã tạo  được uy tín đối với cộng đồng người tại Bưng Kiệu. Từ đây, ông bắt đầu gây  dựng Thiên Địa hội, chống thực dân Pháp. Lúc này, Đoàn Văn Cự  đã bước sang   tuổi 67. Vào thời điểm  ấy, hưởng  ứng các bang hội khác, nhiều cuộc nổi dậy   kháng Pháp đã diễn ra. Điển hình như  Trương Công Định chiêu mộ  quân sỹ  và   lập căn cứ  tại Gò Công (Tiền Giang) hay vụ  Nguyễn Trung Trực đốt cháy tàu   quân Pháp trên dòng sông Vàm Nhật Tảo huyền thoại. Cùng với đó là hàng loạt   các cuộc nổi dậy dưới "mác" Thiên Địa hội hay hội kín. Hiểu rõ mục đích và lời kêu gọi kháng thực dân Pháp của Đoàn Văn Cự,  đông đảo người dân trong vùng hưởng ứng nhiệt tình nhất là lớp thanh niên, trai   tráng. Cứ thế, thời gian trôi qua, lực lượng Thiên Địa hội của Đoàn Văn Cự ngày   một mạnh và đông lên. Họ được ông chỉ giáo về nghĩa khí giang hồ, về lòng yêu  nước và nhiệm vụ phải làm là đuổi thực dân Pháp đem lại ấm no, hạnh phúc cho  muôn dân. Trong khoảng 3 năm (1902 ­ 1905), lực lượng Thiên Địa hội đã rất  đông, khắp nơi đều có tín đồ, thành viên. Họ giao tiếp và nhận diện nhau thông  qua những ám hiệu, ám khí. Thời  ấy, từ  Bình Đa, chợ  Chiếu  ở  Hiệp Hòa đến   tận khu vực núi Nứa của Bà Rịa là cả  một vùng rộng lớn đều có tay chân của  Thiên Địa hội. Trong Thiên Địa hội của Đoàn Văn Cự có rất nhiều anh hùng hảo  hán hay những tay giang hồ cự phách, những tên trộm cướp khét tiếng thời ấy đã  được ông thu nạp và giáo huấn, trở  thành những dũng tướng trong bang hội.   Hiểu rõ được mục đích của Thiên Địa hội, họ  hết sức phò tá Đoàn Văn Cự  và  quyết tâm đuổi thực dân Pháp giành tự do. Quy tụ được đông đảo anh hùng hảo hán khắp nơi cùng sự ủng hộ của bà  con nhân dân, Đoàn Văn Cự cùng các thành viên trong bang hội tích cực chuẩn bị  mọi mặt để  làm chuyện lớn. Việc đầu tiên được Thiên Địa hội chú ý chính là   lương thực và vũ khí. Để  có lương thực, ông ra sức kêu gọi nhân dân đóng góp  và tích trữ  tiền bạc mua lương thảo. Về  phần binh khí, ngoài việc tìm mua thì   ông cũng cho xây dựng lò rèn làm gươm, giáo, mác. Mặt khác, Đoàn Văn Cự còn  cho anh em trong bang hội tập luyện võ nghệ, thao dượt binh pháp. Cứ  thế, các   hoạt động của Thiên Địa hội nhất loạt theo kế  hoạch của Đoàn Văn Cự. Lực   lượng này ngày càng quy củ  và lớn mạnh cả  số  lượng cùng sự  gan lỳ, dũng  mãnh và biết tác chiến. Từ  chỗ  hội kín, Thiên Địa hội của Đoàn Văn Cự  dần  dần ra hoạt động công khai tại cánh rừng Bưng Kiệu. Cũng chính từ  đây, thực  dân Pháp đã cho mật thám theo dõi và chúng dần biết được Thiên Địa hội của   ông. Sau khi cho theo dõi, thực dân Pháp tại Biên Hòa đã biết được mục đích  Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 4
  5. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 thực sự  của Thiên Địa hội do Đoàn Văn Cự  cầm đầu. Bọn thực dân quyết tâm  thực hiện một kế hoạch tiêu diệt bất ngờ. Theo tin báo, bọn thực dân Pháp tại Biên Hòa sẽ cử  một viên sỹ  quan chỉ  huy tiểu đội lính Mã Tà (lính cảnh sát) trang bị đầy đủ  vũ khí hiện đại vào thời   ấy, đến bao vây căn cứ của Thiên Địa hội tại rừng Bưng Kiệu. Đó là ngày mồng   8/4 (âm lịch) năm 1905. Nhận được tin báo, Đoàn Văn Cự cho triệu tập các thành   viên trong hội sẵn sàng nghênh chiến. Ông lệnh cho Hoàng Giáp, Hoàng Mè,   những anh hùng hảo hán bày binh, bố trận tại khu vực cánh rừng Bưng Kiệu sẵn   sàng nghinh địch. Tuy nhiên, anh em trong hội mật phục từ  sáng tới chiều tối   cũng không thấy tiểu đội Mã Tà xuất đầu lộ diện. Bố trí mai phục cả một ngày  trời không thấy địch xuất hiện, lệnh từ ông được phát đi cho anh em về ăn cơm,  vì cả  ngày phải mai phục chưa ăn uống gì. Thêm vào đó, Đoàn Văn Cự  nghĩ  rằng, bọn địch đã hoãn kế  hoạch tiến vào Bưng Kiệu. Tuy nhiên, khi các vị  trí   vừa rút xong thì bất ngờ quân Pháp kéo tới rầm rộ, bao vây cả  cánh rừng Bưng   Kiệu, thôn Vĩnh Cửu. Dưới sự chỉ huy của một tên đại úy, chúng cho mai phục   khắp nơi trong thôn, bao vây hoàn toàn căn cứ  của Thiên Địa hội. Thậm chí,  chúng còn mai phục trên diện rộng, từ bờ  suối Linh đến suối cầu Khỉ. Khi siết  chặt vòng vây, sẵn sàng cho cuộc tiêu diệt Thiên Địa hội, tên đại úy cùng thông  ngôn và hai tên vệ sỹ tiến tới nhà Đoàn Văn Cự. Biết trước được chuyện chẳng   lành, Đoàn Văn Cự  trong trang phục chỉnh tề ra nghênh đón. Khi tới trước cửa   nhà, bọn chúng thấy ông đứng uy nghi, oai phong với đầu chít khăn, mình lại  thắt dây đai màu hồng, có dắt đoản đao đầu hổ. Lúc này, tuy đã ngoài 70 nhưng  trông ông vẫn còn tráng kiện, oai vệ. Đoàn Văn Cự đứng ngay bàn thờ tổ, thấy 4  tên xông vào nhà, không nói lời nào, Đoàn Văn Cự rút đoản đao lao tới chém liền  mấy nhát vào tên đại úy. Tuy nhiên, hắn lanh lẹ tránh kịp lưỡi đao chí mạng của   cụ  nhưng cũng bị  đứt vành tai và cánh tay trái bị  thương. Thoát chết, lấy lại   được thế, hắn rút súng và bắn một loạt đạn, cụ  Đoàn Văn Cự  đứng được một   lúc thì ngã xuống. Khi cụ  Đoàn Văn Cự  ngã xuống, chúng bắt đầu cho lính xả  súng xối xả  vào nhà cụ  cũng như  những ngôi nhà lân cận, đốt phá kho lương   thực. Người ta nghe kể  lại, lúc  ấy súng nổ  vang trời, lửa cháy ngùn ngụt, sáng  cả  một vùng trời vào đêm 8/4. Chúng cho lính đứng giám sát việc tiêu diệt sào   huyệt Thiên Địa hội, mặc dù lửa đã cháy rừng rực. Đến tận khuya hôm đó,  chúng lại cho một toán lính khác đến thay thế và giám sát, kiên quyết không cho   một thành viên nào của Thiên Địa hội có cơ  may sống sót. Tuy nhiên, do thông  thạo địa hình, lại được cụ  Đoàn Văn Cự  tính toán đường lui từ  trước nên đã có  rất nhiều người trốn thoát khỏi họng súng và lửa cháy của kẻ thù. Dù vậy, ngoài  cụ Đoàn bị bắn chết cũng có thêm 16 người khác phải bỏ mạng trong đám cháy.   Khi đã chắc chắn tiêu diệt được bang chủ  và đồng đảng Thiên Địa hội, quân  Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 5
  6. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 Pháp mới bắt dân làng khiêng xác cụ Đoàn và 16 đồng đảng đi chôn tại một ngôi  mộ  tập thể gần đó. Cụ Đoàn ngã xuống như một dũng tướng, khiến người dân   vùng Vĩnh Cửu hết sức thương tiếc và đau buồn. Còn anh em nghĩa sỹ cũng mỗi   người tứ tán mỗi phương và tiếp tục nuôi lý tưởng kháng thực dân Pháp. 4. Cuộc kháng chiến năm 1929 ­ 1945 Sau Chi bộ  Cộng sản đầu tiên  ở  Phú Riềng ra đời vào năm 1929; 6 năm  sau (năm 1935), Chi bộ  Đảng Bình Phước ­ Tân Triều được thành lập gồm 5   đồng chí do đồng chí Hoàng Minh Châu làm Bí thư, khởi đầu giai đoạn yêu nước  chống Pháp ở Đồng Nai đi theo Chủ nghĩa Cộng sản dưới sự lãnh đạo của Đảng   Cộng sản Việt Nam. Khi có Đảng lãnh đạo, phong trào cách mạng ở Đồng Nai đi vào hoạt động  tự  giác, có tổ  chức, hướng đến mục tiêu trước mắt và lâu dài, xác định từng   bước đi thích hợp. Giai đoạn 1935 đến trước tháng 8/1945, chủ  yếu là dân sinh   dân chủ kết hợp đấu tranh chính trị, kết hợp nuôi dưỡng lực lượng vũ trang để  chuẩn bị  tổng khởi nghĩa. Nhiều cuộc đấu tranh chính trị  liên tục của các tầng  lớp nhân dân chứng tỏ sự trưởng thành của các lực lượng cách mạng: Liên đoàn  học sinh trường tiểu học Bình Hòa được Đảng lãnh đạo rải truyền đơn kêu gọi  tinh thần cách mạng ngày 01/5/1935; mítting trọng thể tại Gò Dê (Bình Ý) tháng  9/1936; Cuộc đấu tranh đòi giảm sưu thuế  của nhân dân Long Thành và cuộc  đấu tranh đòi tăng lương giảm giờ làm của công nhân Nhà máy BIF thắng lợi.  Đầu năm 1937, các cơ  sở  Đảng phát triển, thành lập Tỉnh ủy lâm thời do   đồng chí Trương Văn Bang làm bí thư, đến giữa năm có thêm các chi bộ  Đảng:  Bình Ý, Bình Phước, Tân Triều, Thiện Tân, Bình Hòa, Mỹ Lộc, Mỹ Quới, Xuân  Lộc... Năm 1940, việc chuẩn bị tham gia khởi nghĩa Nam kỳ được tiến hành ráo  riết nhưng bị lộ, bị đàn áp, nhiều tổn thất; một số đảng viên bị bắt, bị giết hoặc  tù đày; một bộ phận có vũ trang thô sơ rút vào rừng (là một trong số các bộ phận   hình thành Chi đội 10 sau Cách mạng Tháng tám).  Từ  ngày 28/7/1941, phát xít Nhật vào Biên Hòa, dân Đồng Nai thêm một   tròng áp bức. Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, lập chính quyền và các tổ  chức thân Nhật; lãnh đạo Đảng nhận định tình hình, chọn thời cơ cách mạng; địa  phương   Biên   Hòa   cùng   cả   nước   thực   hiện   lệnh   tổng   khởi   nghĩa;   buộc   tỉnh  trưởng ngụy Nguyễn Văn Quý phải chuyển giao chính quyền cho đại diện nhân  dân lúc 11h30 ngày 26/8/1945. Sáng ngày 27/8/1945 tại Quảng trường Sông Phố  diễn ra ngày hội lịch sử  mừng độc lập, thống nhất của nhân dân Biên Hòa ­   Đồng Nai gồm hàng vạn người tham gia. 5. Cuộc kháng chiến từ năm 1945 ­ 1948 Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 6
  7. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018  Cuối tháng 9/1945, tại Biên Hòa, đồng chí Hà Huy Giáp đại diện Xứ   ủy   Nam Bộ đã triệu tập Hội nghị cán bộ toàn tỉnh họp tại nhà hội Bình Trước (Thị  xã Biên Hòa). Hội nghị đã bầu Tỉnh ủy lâm thời và đề ra một số chủ trương cần   kịp. Hội nghị  nhấn mạnh vấn đề  xây dựng mặt trận Việt Minh, kiện toàn bộ  máy chính quyền các cấp, gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang để  bước vào  kháng chiến. Thực hiện nghị  quyết của Tỉnh  ủy lâm thời, trại huấn luyện du   kích Bình Đa – Vĩnh Cửu được thành lập, do đồng chí Phan Đình Công phụ trách.  Tham gia giảng dạy có các đồng chí Phạm Thiều, Xuân Diệu… Học viên từ  khóa đầu tiên gồm tự  vệ  công nhân hãng cưa BIF, tự  vệ  vùng Bình Đa – Vĩnh   Cửu và thanh niên cứu quốc quận Châu Thành. Trong thời gian gấp rút trường đã  mở được hai khoá (mỗi khóa nửa tháng), đào tạo cán bộ chỉ huy đánh du kích với   phân đội nhỏ. Trại huấn luyện du kích Bình Đa là tiền thân các trường quân  chính của tỉnh sau này. Trại đã kịp thời đào tạo một số cán bộ tiểu đội trung đội  cho lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên của tỉnh. Nhiều đồng chí được đào   tạo  ở  đây qua chiến đấu đã trưởng thành nhanh chóng và giữ  vai trò nòng cốt   trong việc phát triển lực lượng vũ trang của cả hai tỉnh Biên Hòa và Bà Rịa suốt   chín năm chống Pháp. Vừa huấn luyện vừa chiến đấu, tháng 10/1945, trại đã cử  một phân đội phối hợp cùng bộ  đội Nam tiến, do đồng chí Nam Long chỉ  huy,   đánh địch tại cầu Bình Lợi, ngăn chặn giặc lên chiếm. Song song với việc thành  lập Trại du kích, tại các quận, dưới sự  lãnh đạo của các Quận  ủy, các đội địa   phương vũ trang địa phương cũng được hình thành. Tại quận Châu Thành, đơn vị  vũ trang tập trung mang tên quân giải phóng gồm 5 tiểu đội có 30 súng trường  các loại. Quận ủy Châu Thành còn thành lập đội Xung Phong cảm tử khoảng 30   thiếu niên từ  13 đến 16 tuổi do đồng chí Nguyễn Văn Ký chỉ  huy. Đội này có  nhiệm vụ  nắm tình hình địch, quấy rối, diệt tề  trừ  gian trong thị  xã.  Ở  Long   Thành, ta đã xây dựng được 3 quân đội, phần lớn là công nhân các cơ sở  cao su  Bình Sơn, He ­ le ­ na, nòng cốt là những cán bộ 12 người của trại du Khóa thứ  hai đang huấn luyện thì quân Nhật vào khiêu khích, trại phải chuyển lên sở Tiêu  ­ Đất Cuốc (Tân Uyên). Đơn vị  đã trang bị  8 khẩu súng thu của lính mã tà và   hương quản. Đến tháng 10, thêm lực lượng tự vệ chiến đấu với 18 khẩu súng ở  Thành Tuy Hạ về hợp nhất, quân giải phóng Long Thành phát triển thành 4 phân  đội.  Ở Xuân Lộc, lực lượng vũ trang tập trung có khoảng 30 chiến sĩ và 20 tay  súng. Tại Tân Uyên, lực lượng vũ trang gồm 4 phân đội do đồng chí Huỳnh Văn   Nghệ chỉ huy lấy tên là Quân giải phóng Biên Hòa. Lực lượng này gồm: đội vũ   trang của đồng chí Chín Quỳ  (17 người), một phân đội (gồm lực lượng công  nhân hàng hải) do đồng chí Đào Văn Quang đưa từ Sài Gòn lên; thanh niên tự vệ  chiến đấu Tân Uyên và các học viên của trại huấn luyện du kích Sở Tiêu. Nhân  dân vùng Tân Uyên quen gọi là: bộ đội Tám Nghệ. Mỗi phân đội có từ 12 đến 15  Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 7
  8. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 tay súng, số  còn lại trang bị  mã tấu, dao găm, lựu đạn. Cùng với việc khẩn   trương xây dựng lực lượng vũ trang,  Ủy ban nhân dân tỉnh đã tập trung tuyên  truyền, giải thích và kêu gọi các giới đồng bào bất hợp tác với giặc, thành lập   các đội phá hoại để thực hiện “tiêu thổ kháng chiến” khi giặc Pháp tiến lên Biên   Hòa. Cuối tháng 10/1945, có quân tăng viện từ  Pháp sang, lại được quân Anh,   quân Nhật phối hợp, có hỏa lực mạnh hơn ta gấp nhiều lần, giặc Pháp phá vỡ  vòng vây ở Sài Gòn ­ Chợ Lớn. Không để tài sản nhân dân rơi vào tay giặc, Tỉnh   ủy lâm thời,  Ủy ban nhân dân tỉnh ra lệnh tiêu thổ kháng chiến. Nhân dân thị xã   được hướng dẫn tản cư ra vùng nông thôn. Công nhân hãng của BIF đốt sạch số  gỗ súc, tháo gỡ toàn bộ máy móc đem cất giấu. Công nhân cao su ở Châu Thành,   Xuân Lộc, Long Thành đốt các bánh mủ  (crepe), phá hủy các kho, xưởng máy,  đánh sập các khu nhà xây kiên cố  để  giặc không thể sử  dụng đóng đồn, bót khi  tới chiếm. Các đội công tác đánh sập cầu, chặt cây, phá đường ngăn cản giặc.  Ngày 25/10/1945, quân Pháp đánh chiếm Biên Hòa. Xe cộ  ngừng chạy đường  phố  vắng tanh. Nhà nhà cửa đóng im ỉm. Chợ búa không họp. Điện nước không  có. Các cơ  quan của  Ủy ban nhân dân,  Ủy ban mặt trận Việt Minh tỉnh rút lên   Tân Định, Tân Uyên để bảo toàn lực lượng xây dựng căn cứ kháng chiến lâu dài.   Riêng các cơ quan của huyện Châu Thành lui về Bình Ý và Bến Gỗ. Ngày 27/10,   giặc Pháp đánh lên Trảng Bom, Dầu Giây, chiếm ngã ba quốc lộ  1 và quốc lộ  20. Ngày 30/10, có quân Anh dẫn đường, giặc Pháp tiến về  Xuân Lộc. Bộ  đội  Nam tiến đã chặn đánh địch quyết liệt ở núi Thị, Bình Lộc và thị trấn Xuân Lộc.  Tại Núi Thị, địch không tiến được phải dùng quân Nhật hộ tống tìm đường vòng  để  đi. Trong các trận chiến đấu  ở  thị  trấn Xuân Lộc và Bình Lộc, bộ  đội ta bị  tiêu hao vì đánh theo lối dàn trận.  Đầu tháng 11/1945, quân giặc tỏa ra đánh chiếm các vùng phụ  cận thị  xã  Biên Hòa. Các cơ quan của quận Châu Thành vẫn đứng chân ở Bình Ý. Theo chỉ  đạo của Quận  ủy, đội Xung phong cảm tử  nhiều lần mưu trí theo xe ô tô, xe  ngựa đột nhập chợ Biên Hòa, diệt một số  tên Việt gian mới ló đầu ra như  Bảy  Thống, Ba Lê… Đội cũng đã đánh nhiều trận  ở  Vườn Mít và những nơi địch  thường tụ  tập bằng lựu đạn và súng lục. Nhiều em như  Phát, Mành, Chảy đã  chiến đấu rất dũng cảm và hy sinh oanh liệt. Hoạt động của đội thiếu niên Xung  phong cảm tử  trong những ngày đầu mới chiếm đóng thị  xã Biên Hòa đã cổ  vũ  rất lớn tinh thần kháng chiến của đồng bào Châu Thành. Quân địch cũng phải   kiêng dè và thận trọng trong việc nống lấn các khu vực xung quanh thị xã. Nhờ  vậy ta có đủ  thời gian để  điều lực lượng quân giải phóng Châu Thành lúc  ấy  đang đóng ở Thiện Tân và một phân đội Quân giải phóng Biên Hòa (bộ đội Tám  Nghệ) về vùng Bình Ý, Cây Đào để chặn giặc.  Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 8
  9. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 Ngày 10/12/1945, đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Trung  ương Đảng  triệu tập hội nghị  Đức Hòa. Tại Hội nghị  này, Nam Bộ  được chia làm 3 khu:   Khu 7, Khu 8, Khu 9. Khu 7 bao gồm các tỉnh miền Đông: Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia   Định, Biên Hòa, Thủ  Dầu Một, Bà Rịa, Tây Ninh. Đồng chí Nguyễn Bình được   cử  giữ  chức Tư  lệnh Khu 7. Bộ  tư  lệnh Khu chuyển về   đóng tại Tân Uyên.  Đồng chí Huỳnh Văn Nghệ  được chỉ  định giữ  chức Chỉ  huy trưởng Vệ  quốc  đoàn Biên Hòa, Tân Uyên ­ một thị trấn phía bắc tỉnh Biên Hòa ­ giờ đây đã thực  sự trở thành trung tâm kháng chiến của cả miền Đông Nam bộ. Tân Uyên vốn là  đất rừng, địa thế khá hiểm yếu; có sông Đồng Nai và Sông Bé bao bọc nối liền   với Xuân Lộc và một lưng dựa là dãy rừng mênh mông trải dài lên tận Mã Đà,  Đường 14. Dân cư  thưa thớt và sống chủ  yếu bằng nghề trồng lúa, làm đường   và khai  thác gỗ. Tân Uyên lại cách Sài Gòn không xa, cách thị  xã Biên Hòa  khoảng 15 km đường chim bay; nó có thể  nối sang cả  đông lẫn tây, khi cần có  thể  tạm rút lên hướng bắc. Với một địa bàn chiến lược lợi hại như  vậy, Tân  Uyên được chọn làm nơi xây dựng căn cứ để kháng chiến lâu dài. Tranh thủ thời  gian Tân Uyên còn yên tĩnh, các  Ủy ban quận, xã mới được xây dựng, ra sức   củng cố  tổ  chức và hoạt động. Các đoàn thể  yêu nước có bước phát triển khá.  Nhân dân Tân Uyên và các quận xung quanh đã nuôi dưỡng, tiếp tế cho Vệ quốc   đoàn, cho  cán  bộ  Việt   Minh,  động  viên con  em  mình  vào  du kích  hoặc tình  nguyện đầu quân giết giặc, tham gia các đội phá hoại cầu đường, làm thông tin   liên lạc, đi vận tải… Bất cứ việc lớn, việc nhỏ gì mà Việt Minh huy động là bà   con bỏ  ngay việc nhà, có mặt liền  ở  nơi tụ  tập, sẵn sàng gánh vác nhiệm vụ  được phân công. Lòng yêu nước nồng nàn và tình cảm sâu đậm đó của đồng bào   với cách mạng, với kháng chiến đã giúp bộ đội, cán bộ và các cơ quan vượt qua   khó khăn trong buổi đầu chống giặc. Có căn cứ  đứng chân vững chắc, tiến có   thể   đánh,  lui   có  thể  giữ.  Khu  trưởng  Khu  7  liên  lạc  với  bộ   đội  Ba  Dương   (Dương Văn Dương), bàn bạc với đồng chí Tám Nghệ  Chỉ  huy trưởng bộ  đội  Biên Hòa và đã quyết định tập trung một lực lượng lớn tập kích thị xã Biên Hòa.  Bộ đội Ba Dương sau khi mặt trận bao vây Sài Gòn bị vỡ đã về đứng chân ở Bào  Bông, Vũng Gấm thuộc xã Phước An huyện Long Thành. Lực lượng này có số  quân đông, có tinh thần chiến đấu. Nhiều chiến sĩ, tự  vệ  Tổng công đoàn Nam   bộ  trong khi rút khỏi Sài Gòn bị  tản lạc cũng đã gia nhập bộ  đội này. Theo kế  hoạch chiến đấu, bộ  đội Ba Dương (có một trung đội của Mai Văn Vĩnh) gồm  10 phân đội từ  Long Thành dời lên Bến Gỗ  (Long Bình Tân ngày nay), theo   đường 15 qua ngã ba Kỷ  Niệm, chia thành nhiều mũi chọc thẳng vào trung tâm  thị  xã. Vệ  quốc đoàn Biên Hòa với hai phân đội do đồng chí Huỳnh Văn Nghệ  trực tiếp chỉ huy bố trí tại ngã ba Dốc Sỏi, đường từ thị xã ra Tân Phong. Một số  đơn vị bạn do đồng chí Nguyễn Bứa chỉ huy, được bố trí ở ngã ba Bình Thạnh ­   Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 9
  10. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 Cây Đào để  ngăn chặn địch phản kích. Cuộc tiến công được chọn vào đêm tết   dương lịch. 0 giờ  ngày 02/01/1946, lực lượng ta bí mật luồn vào thành phố  an   toàn. Quân giặc không hề hay biết. Bộ đội ta đã tiến công vào các trạm gác, cơ  sở, nhà lao, đầu cầu…, làm chủ  các đường phố. Tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ  vang lên. Quân giặc cố thủ trong thành Xăng Đá bắn ra. Chợ và một số nhà xung  quanh bốc lửa cháy. Tuy ta không diệt được nhiều giặc nhưng tiếng vang của  trận đánh bất ngờ  và táo bạo này đã nhanh chóng dội về  Sài Gòn và các tỉnh   miền Tây Nam Bộ. Báo và đài Sài Gòn phải thừa nhận: “Đêm 01 rạng ngày   02/01, quân kháng chiến Việt Minh đã đột nhập thị xã Biên Hòa và súng nổ ”…   Lời thú nhận này, tự  nó bác bỏ  ý đồ  chiến lược của Lơ­cờ­léc: “sẽ  chấm dứt   công việc bình định Nam Kỳ trong 3 tháng ”. Tiếng súng trận tập kích thị  xã đã  cổ vũ các thanh niên yêu nước từ các cơ sở Cao su, thành phố Sài Gòn ­ Chợ Lớn  đến các tỉnh miền Hậu Giang xa xôi và đã có một số thanh niên tìm về Tân Uyên   gia nhập Vệ quốc đoàn Biên Hòa. Trong số  đó có Đinh Quang Ân, Bùi Cát Vũ,  Đặng Sĩ Hùng, Võ Văn Mén, Trần Văn Xã…Trận tiến công vào thị xã Biên Hòa  đánh dấu một bước trưởng thành của lực lượng vũ trang miền Đông về  mặt  lãnh đạo và chỉ huy tập trung, thống nhất. Trong trận đánh này có một số  chiến  sĩ ta bị thương được đưa về đình Tân Nhuận (Tân Uyên) cứu chữa. Phương tiện,   thuốc men đều thiếu. Có đồng chí phải cưa tay bằng cưa thợ  mộc, không có  thuốc tê, thuốc gây mê vẫn cắn răng chịu đựng. Và trong cơn đau buốt óc, chiến  sĩ ta bật lên tiếng hát khiến mọi người thêm cảm phục. Giữa không khí rạo rực   của chiến thắng thị  xã Biên Hòa, ngày 06/01/1946,  Ủy ban nhân dân và  Ủy ban  mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hòa đã tổ chức khắp các địa phương cuộc bầu cử  Quốc hội lần thứ nhất. Các phòng bỏ phiếu được chăng đèn, kết hoa rực rỡ. Cờ  Tổ  quốc,  ảnh Bác Hồ  được đặt nơi trang trọng. Nhân dân, cán bộ, bộ  đội, tấp   nập đi bầu cử. Các đại biểu: Hoàng Minh Châu (Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh),  Phạm Văn Búng và Điểu Xiển (người dân tộc Chơ – ro ở Xuân Lộc) trúng cử. Ở  Bà Rịa, cuộc bầu cử cũng được tiến hành rộng rãi ở  khắp các xã. Đại biểu của  Bà Rịa, đồng chí Dương Bạch Mai đã trúng cử. Cũng như  trên cả  nước, đây là   lần đầu tiên, công dân Biên Hòa và Bà Rịa được thực hiện quyền dân chủ thiêng  liêng nhất của mình. Trong lúc giặc Pháp đang mở rộng chiếm đóng, các thế lực   phản động ra sức phá hoại, nhân dân vẫn sôi nổi hăng hái đi bầu cử, đã nói lên   sức mạnh của chế độ  mới, nói lên lòng yêu nước tình cảm gắng bó và tin cậy  của các tầng lớp nhân dân với chính quyền cách mạng. Cuối tháng 01/1946, Pháp  mở cuộc hành quân đánh ra các tỉnh của Nam Trung bộ.  Ngày 25/01/1946, đoàn xe cơ giới của giặc xuất phát từ Biên Hòa tiến theo  đường số  1 lên hướng Xuân Lộc. Đồng thời địch đã huy động 4.000 quân của   khu miền Đông cùng một lúc mở ba mũi tấn công vào chiến khu Tân Uyên nhằm  Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 10
  11. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 cầm chân quân ta và bảo đảm an toàn cho đoàn xe cơ giới. Chúng cũng có ý định  sau trận này sẽ  lấn lên chiếm đóng sâu hơn, trực tiếp uy hiếp Chiến khu Tân  Uyên của ta. Trước đó ba ngày (ngày 20 và 21), tàu giặc vừa thăm dò đường sông  vừa bắn phá bừa bãi các xã ven sông nên ta đã đoán được ý đồ  của chúng. Tân  Uyên được lệnh tiêu thổ. Thị  trấn, chợ  Tân Uyên bị  đốt cháy. Dân quân các xã  ngả thêm cây chặn đường. Các đội phá hoại đánh sập cầu, đẩy xác cầu đổ chúc   xuống lòng rạch. Các cơ quan lãnh đạo kháng chiến của tỉnh và quân tạm thời di   chuyển đi nơi khác đánh giặc. Các phân đội Vệ  quốc đoàn cùng với du kích xã  vạch kế hoạch đánh địch. Nhân dân thực hiện “vườn không nhà trống” thực hiện   3 không: không nghe, không thấy, không biết, giữ gìn bí mật cho cơ  quan và bộ  đội. Công tác chuẩn bị chiến đấu xong xuôi.  Sáng ngày 25/01/1946, mũi tiến quân của giặc từ Tân Phong lên, lập tức bị  phân đội 4 chặn lại  ở  giếng Mội (Bình Thạnh). Trận đánh kéo dài đến 11 giờ  trưa.  Ở  phía lộ  24, phân đội Vệ  quốc đoàn Châu Thành do đồng chí Lê Văn   Ngọc chỉ huy đã phục kích sẵn tại cầu Rạch Cốc. Ta đánh địch từ sáng đến trưa.   Sau khi tiêu diệt một bộ phận quân địch, giết chết tên quan ba, để bảo toàn lực   lượng ta rút lui. Các phân đội Vệ  quốc đoàn Biên Hòa sau khi đánh địch  ở  thị  trấn đã rút lui vào Tân Nhuận rồi vòng về  xóm Đèn Tân Hòa, phục kích đánh   cánh quân địch từ  Mỹ  Lộc về  Tân Uyên. Lúc này đã hơn 4 giờ  chiều. Ngày  25/01/1946, quân ta bố  trí sát mé rừng chỗ  cao hơn mặt đường và gần các cây   cầu đã bị phá hoại. Một bộ phận quân địch vừa lò mò tìm cách qua cầu, sau một   loạt tiếng súng nổ, quân ta nhảy xuống mặt đường dùng gươm, mã tấu, gậy tầm  vông đánh xáp lá cà với giặc. Tiểu đội du kích Tân Hòa khua phèng la, đập thùng   thiếc giả làm tiếng súng máy uy hiếp tinh thần địch. Khẩu trung liên của ta bắn  quét, chặn số quân địch còn lại không cho chúng qua cầu. Quân địch bị đẩy dồn  về phía bờ sông, vướng cầu không tháo lui được. Chiến sĩ ta lao ra dùng mã tấu  chém địch, dùng gậy tầm vông xuyên thẳng ngực giặc, làm cho chúng khiếp  đảm, rối loạn hàng ngũ, nhiều tên xin hàng. Lần đầu tiên ta bắt sống tù binh   Pháp. Bộ  đội ta diệt gọn một phân đội địch thu được nhiều súng, có cả  trung  kiên, tiểu liên và súng cối 60 ly. Trận Xóm Đèn là một trận đánh táo bạo, mưu trí  của lực lượng vũ trang Biên Hòa. Cán bộ  chỉ  huy đã phán đoán đúng đường lui   quân của giặc, biết lợi dụng tình hình, khéo kết hợp với nghi binh sử dụng cách   đánh gần, xung phong mạnh khiến cho quân địch có số  lượng đông, vũ khí hiện  đại mà không kịp trở tay. Như vậy là, cuộc tấn công đầu tiên của quân Pháp vào  chiến khu Tân Uyên với mục đích tiêu diệt quân du kích và cơ  quan đầu não  kháng chiến của ta đã bị  thất bại hoàn toàn. Ngày 26/01/1946, trên 1.000 quân   Pháp đánh chiếm thị  trấn Xuân Lộc và các đồn điền cao su quan trọng. Nhờ  có  xe bọc thép và hỏa lực mạnh, quân địch đã chọc thủng tuyến phòng ngự của ta ở  Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 11
  12. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 An Lộc, Suối Tre, Xuân Lộc. Bộ  đội ta lui về  tuyến Tân Phong ­ Hàng Gòn   chiến đấu ròng rã suốt ba ngày đêm, nhưng thế  giặc mạnh, bộ  đội Nam tiến   phải rút ra Bình Thuận. Riêng lực lượng vũ trang Xuân Lộc rút về  khu vực La  Ngà. Tiếp đó quân Pháp theo lên tiến công vào căn cứ  của quận, lực lượng vũ  trang Xuân Lộc do viên đội cũ Chế Đình Đạo chỉ huy – tuy còn được 20 cây súng   và gần 30 chiến sĩ cũng chạy luôn ra Bình Thuận. Cùng ngày, giặc Pháp theo  đường   15   đánh   chiếm   quận   lỵ   Long   Thành.   Chúng   chiếm   đóng   luôn   Phước  Thiền, Sở cao su He ­ le ­ na, Sở cao su Bình Sơn, kho đạn Thành Tuy Hạ. Trước  sức mạnh của địch, người chỉ  huy giải phóng Long Thành dao động bỏ  đơn vị  chạy. Đồng chí Huỳnh Văn Đạo và đồng chí Nguyễn Văn Lung được cử làm chỉ  huy trưởng và chỉ  huy phó lực lượng vũ trang Long Thành. Mặc dù chưa quen  chiến đấu, bộ đội Long Thành sau đó cũng đã phục kích đánh địch ở cầu Ngang  (Phước Thiền) ở ngã ba Bà Ký, giết và bị thương một số tên. Trong trận Bà Ký,   địch đi 2 xe, ta bắn hư cả 2. Ngày 08 và 09/02, khoảng 300 quân Pháp được quân  Anh mở  đường đánh chiếm Vũng Tàu và Bà Rịa. Bọn Tân ­ Hiền tỏ  ra cực kỳ  hèn nhát. Khi giặc tới, chúng đã rút về  Đất Đỏ, Xuyên Mộc và chạy ra Bình   Thuận. Đi tới đâu, chúng hà hiếp dân lành tới đó. Ủy ban kháng chiến miền Nam   đã bắt bọn đầu sỏ và giải tán toàn bộ lực lượng này. Còn Lê Văn Huề ­ Chủ tịch   Ủy ban nhân dân lâm thời ­ kẻ  đã ngăn cản không cho nhân dân tiêu thổ  kháng  chiến, khi Pháp đến cũng đầu hàng ngay và mang cả số  vàng bạc của nhân dân  đóng góp trong Tuần lễ vàng nộp cho giặc. Những kẻ phản bội đã tự  vạch mặt   chúng. Trong lúc đó dân quân, thanh niên cứu quốc Bà Rịa trang bị gậy tầm vông,  mã tấu tìm cách đánh địch, ngăn chặn bước tiến của chúng. Trên lộ  số  2 (đoạn  sông Cầu) bộ đội Mười Tỷ  đã phục kích, nổ  súng diệt một số  địch. Đến tháng  2/1946, hơn 5 tháng đã qua, quân và dân Biên Hòa, Bà Rịa đã vượt qua những khó  khăn, phức tạp, chiến đấu anh dũng, bảo toàn lực lượng, phát triển được cơ  sở  mặt trận Việt Minh, giữ được căn cứ  Tân Uyên, căn cứ  Long Mỹ, gây cho địch  một số tổn thất. Qua chiến đấu ta đã loại trừ các phần tử cơ hội, các lực lượng  ô hợp, nội bộ ta được trong sạch hơn trước. Tuy nhiên, lực lượng quân sự của ta   tuy có bước thống nhất nhưng chưa tạo được sức mạnh, chưa có cách đánh thích  hợp nên không ngăn chặn được sức tiến công của địch. Giặc Pháp đã chiếm  đóng được thị  xã Biên Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu, các thị  trấn, đường giao thông  chiến lược, các vùng cao su một cách nhanh chóng và đang lấn chiếm “bình  định” vùng nông thôn.  Thực hiện chủ trương hòa để tiến, Chính phủ ta ký kết với Pháp hiệp định  sơ  bộ  (ngày 06/3/1946). Theo đó quân đội hai bên ngừng bắn và  ở  nguyên vị  trí  chờ  việc đàm phán nhằm thực hiện hiệp định. Mặc dù vậy quân Pháp tại Nam   bộ  vẫn cố  tình vi phạm hiệp định. Chúng cho rằng hiệp  ước mới được ký kết  Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 12
  13. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 không dính dáng gì đến Nam bộ. Do vậy, chúng trắng trợn vi phạm hiệp định,  đẩy mạnh các hoạt động quân sự  hòng tiêu diệt lực lượng kháng chiến của ta  trong thời gian ngắn. Ở Biên Hòa, sau khi đã chiếm được một số  vị trí xung yếu để  đặt sở  chỉ  huy, quân Pháp tiến hành hàng loạt cuộc càn quét với quy mô lớn, dồn đẩy cơ  quan kháng chiến và lực lượng vũ trang cách mạng vào sâu trong các căn cứ  xa   dân, không có nguồn tiếp tế  cung  ứng hậu cần. Cùng thời gian này, quân Pháp   hướng mọi nỗ lực của chúng vào việc đánh chiếm Tân Uyên, Chiến khu Đ. Do  vậy ngày 18/4/1946, chúng huy động 8.000 quân, chia thành 4 cánh bao vây vùng  Phước Hòa, Tân Uyên, Cây Đào; các xã Thường Lan, Lạc An, cắt đứt và cô lập  toàn bộ  khu vực căn cứ. Trong khi đó,  ở  Bình Trước, Châu Thành, Biên Hòa ,  địch tăng cường các hoạt động tuần tiểu, để kiểm soát các vành đai chung quanh  thị xã, chiếm lợi thế trong việc bao vây kiểm soát nội ô. Xã Bình Trước có nguy   cơ  bị  cô lập. Các đường dây liên lạc trong và ngoại thành không còn dễ  dàng  thông suốt như trước. Hiểu được khó khăn của Biên Hòa, Tỉnh bộ Việt Minh đã   quyết định thành lập một ban công tác thành ở Biên Hòa và phái đồng chí Võ Văn   Mén (Bảy Mén) về  phụ  trách, căn cứ  đặt tại Hố  Cạn; đồng thời tăng cường 1  trung đội lực lượng vũ trang để hỗ trợ cho Biên Hòa trừ gian, diệt ác, giữ  vững   cơ sở của ta. Vào thời điểm này, các cán bộ chủ chốt hoạt động trong nội thành xã Bình  Trước, Biên Hòa đã bị lộ. Từ sau khi giặc Pháp chiếm đóng hãng máy cưa BIF,  chúng đánh phá ác liệt vào Tân Mai, Lân Thành, Vĩnh Thị, gây xáo trộn các tổ  chức của ta. Do vậy, để  bảo toàn lực lượng, lãnh đạo Việt Minh Biên Hòa tạm   thời chuyển hết ra ngoài, thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Cùng với việc này, các  cơ sở bí mật tiếp tục vận động thanh niên còn ở trong thị xã tham gia tòng quân  vào bộ  đội đánh Tây. Chủ  trương này đã đáp  ứng được nguyện vọng của đông  đảo lớp thanh niên mới lớn. Anh em đã hăng hái tham gia tòng quân. Chỉ  trong   vòng 1 năm, đến giữa năm 1947, lực lượng vũ trang kháng chiến của Biên Hòa  đã phát triển lớn mạnh gấp 2 ­ 3 lần so với trước. Song song với việc tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang kháng chiến, bộ  máy kháng chiến của Biên Hòa đẩy mạnh xây dựng, củng cố  các tổ  chức đoàn  thể  công đoàn cứu quốc, thanh niên, phụ  nữ, phụ  lão, nông dân, thiếu nhi cứu   quốc v.v...; xây dựng các cơ sở địch vận để hỗ trợ cho kháng chiến. Ông Ngô Bá   Cao, nguyên cán bộ Mặt trận Việt Minh Biên Hòa , nguyên Chủ nhiệm Mặt trận   Việt Minh liên thôn 5 thời  ấy nhớ  lại: Khí thế  kháng chiến  ở  Biên Hòa lúc  ấy  được đẩy lên thành cao trào. Mọi hoạt động xoay quanh việc đề  cao uy thế của   kháng chiến, giáo dục lòng yêu nước cho mọi tầng lớp nhân dân, vận động nhân  Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 13
  14. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 dân đóng góp công sức, của cải, tiền bạc  ủng hộ kháng chiến được phát huy tối   đa. Đến giữa năm 1947, công tác vận động nhân dân đóng góp sức người, sức   của cho kháng chiến đã trở  thành phong trào khá rộng rãi, được các tầng lớp  nhân dân trong nội ô cũng như các vùng ven thị xã Biên Hòa hưởng ứng tích cực   mạnh mẽ. Đặc biệt là đã thu hút được giới trí thức công chức tình nguyện thoát  ly đi tham gia kháng chiến như: ông Lương Văn Nho (công chức kho bạc Biên   Hòa), ông Huỳnh Văn Đạo (chánh lục sự  Tòa án Biên Hòa), thầy giáo Nguyễn   Văn Ngữ  (sau lấy tên là Hoàng Minh Viễn), thầy Võ Kim Đôi, Hiệu trưởng   Trường Bá nghệ Biên Hòa v.v... Trong bối cảnh giặc Pháp đang cố sức tăng cường đàn áp phong trào kháng  chiến, hô hào cho thuyết "Nam kỳ tự trị" thì việc "lên chiến khu" của số trí thức nêu  trên đã có tác động và ảnh hưởng rất lớn đến những trí thức, công chức, nhân sĩ còn   lại. Ai không ra đi kháng chiến thì họ  cũng dồn tình cảm giúp đỡ,  ủng hộ  Việt   Minh như trường hợp của bác sĩ Nguyễn Văn Hoài, Giám đốc nhà thương điên Biên  Hòa; bác sĩ Nguyễn Sơn Cao; dược sĩ Hồ  Văn Lâm, chủ  hiệu thuốc Tây Hồ  Văn  Gia v.v...Hướng về  kháng chiến, các tầng lớp nhân dân Biên Hòa đã tích cực   đóng góp tiền bạc, mua sắm các vật dụng cần thiết như lương thực, thực phẩm,   thuốc men, máy đánh chữ, văn phòng phẩm gởi ra chiến khu. Nhiều người đã  không kể hiểm nguy, giả làm người đi buôn chuyến, bỏ mối hàng, vượt qua sự  kiểm soát gắt gao của giặc để  đem hàng hóa đến tận chiến khu phục vụ kháng  chiến như bà Giáo Mỹ (mẹ ông Đỗ Bá Nghiệp, nguyên giám đốc Bảo tàng Đồng  Nai). Có người dũng cảm hy sinh trên đường đi tiếp tế  như  chị  Tư  Điểu (Bình  Hòa). Có những em thiếu nhi như: Nguyễn Thị  Có, Nguyễn Văn Đời, Nguyễn  Văn Đường ... Thường xuyên ra vào nội ô làm nhiệm vụ giữ vững liên lạc trong   và ngoại thành...Có thể  nói từ  Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ,   liên tục trong thời gian sau đó, phong trào kháng chiến của Biên Hòa ngày càng   lớn mạnh. Tiếng súng trừ gian, diệt ác của các lực lượng vũ trang Biên Hòa vẫn   tiếp tục vang lên, phối hợp với bộ đội ta trên các chiến trường giành lại thế chủ  động và đi đến ngày thắng lợi hoàn toàn Chính quyền cách mạng vừa mới xây dựng chưa đầy tháng, thực dân Pháp  núp bóng quân đội Anh dưới danh nghĩa đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật  tái chiếm Sài Gòn, Biên Hòa; quân dân Biên Hòa cùng Nam bộ  bước vào giai   đoạn trường kỳ kháng chiến. Hội nghị Bình Trước ngày 23/9/1945 phân tích tình  hình, xác định nhiệm vụ  của chính quyền cách mạng, trong đó chú trọng xây   dựng lực lượng vũ trang và căn cứ kháng chiến để tính chuyện lâu dài. Liền sau  đó, Trại huấn luyện Du kích Vĩnh Cửu được thành lập để  huấn luyện quân sự  Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 14
  15. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 cho các đội vũ trang. Các căn cứ kháng chiến Bình Đa, Hố Cạn, Chiến khu Đ, Rừng  Sác, Phước An dựa vào thế  trận lòng đất, lòng dân vừa sản xuất vừa chiến đấu,  làm cái nôi nuôi dưỡng các lực lượng cách mạng. Lực lượng vũ trang Biên Hòa từ  tầm vông giáo mác nhanh chóng trưởng thành, đến tháng 6/1946 đã hình thành Chi  đội 10; 3 hình thức vũ trang được xây dựng, vũ khí thô sơ nhưng tinh thần hừng hực  khí thế  cách mạng; tổ  chức nhiều trận đánh ngăn bước tiến của giặc, tạo nên   nhiều chiến công vang dội: Trận thắng Núi Thị ­ Xuân Lộc (30/10/1945); Cầu Lò  Rèn ­ Long Thành (09/3/1946), phục kích địch Cầu Phước Cang ­ Long Thành  (01/1948); đặc biệt là trận thắng La Ngà (01/3/1948) chấn động thế  giới và trận  đánh Cầu Bà Kiên (19/3/1948) khai sinh cách đánh đặc công ở chiến trường miền   Đông. Riêng ở trận thắng La Ngà, tham gia có chi đội 10 và một đại đội liên quân  (3 trung đội 1, 6, và 10) do đồng chí Hoàng Minh Chánh chỉ  huy . Đúng theo kế  hoạch, 15 giờ  ngày 01/3/1948 hiệu lệnh nổ  súng phát ra, Chi đội 10 Biên Hòa  hiệp   đồng   chặt   chẽ   với   Đại   đội   liên   quân   17   chiến   đấu   dũng   cảm,   ngoan   cường,mưu trí. Qua nghiên cứu, chỉ huy Chi đội 10 quyết định chọn đoạn đường   từ  La Ngà đến Định Quán để  tổ  chức trận địa phục kích. Tiểu đoàn Xuân Lộc  (thiếu đại đội 5) bố trí ở khu vực A (từ km 111 đến km 113) có nhiệm vụ chặn  đầu diệt xe thiết giáp và lực lượng hộ tống. Liên quân 17 bố trí ở khu vực B (từ  km 108 đến km 111) có nhiệm vụ diệt đoàn xe vận tải. Tiểu đoàn Tân Uyên bố  trí ở khu vực C (từ km 105 đến km 108) có nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng đi phía  sau đồng thời sẵn sàng chặn đánh địch từ phía sau lên ứng cứu. Đại đội 5 (thuộc   tiểu đoàn Xuân Lộc) được giao nhiệm vụ phối hợp với du kích các địa phương  Hồ  Hải, Trảng Bom, Bàu Cá quấy rối địch từ  xa, nhằm làm chậm tốc độ  hành  quân của chúng, nhưng không được đánh đến mức địch lo ngại, dừng cuộc hành  quân đã định sẵn. Ban chỉ  huy Chi đội còn phái một phân đội trinh sát phối hợp   với lực lượng quân báo Sài Gòn­Gia Định nắm chắc mọi hoạt động của địch  ngay từ khi xuất phát. Sáng ngày 01/3, mọi công tác chuẩn bị chiến đấu của ta đã  hoàn thành. 15 giờ ngày 1­3, sau khi cho máy bay trinh sát dọc theo trục đường,   không thấy dấu hiệu khả nghi, đoàn xe hơn 60 chiếc của địch, có xe thiết giáp và  một đại đội lính Âu Phi hộ  tống tiến vào khu vực phục kích của quân ta. Đoàn  xe lần lượt vượt qua các khu vực C, B. Vừa hành quân, địch vừa dùng hỏa lực  trên xe bắn ra hai bên đường để  trấn an tinh thần hòng nhanh chóng thoát khỏi  khu vực nguy hiểm. Đúng 15 giờ 10 phút, bộ phận chặn đầu (khu vực A) nổ mìn   diệt chiếc xe thiết giáp đi đầu. Ngay sau đó ở khu vực A và B, theo lệnh của chỉ  huy, bộ  đội ta bắn mãnh liệt vào đội hình xe địch, đồng thời ào  ạt xung phong   chia cắt, tiêu diệt từng chiếc xe của địch. Bị  đánh bất ngờ, quân địch không kịp   phản  ứng, đội hình rối loạn, hàng chục chiếc xe đâm sầm vào nhau. Quân địch  Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 15
  16. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 nhảy ra khỏi xe, phần lớn bị bộ đội ta tiêu diệt, số  còn lại tháo chạy vào rừng. Ở  khu vực C, sau khi nghe thấy tiếng địa lôi của bộ  phận chặn đầu, tiểu đoàn   trưởng Tiểu đoàn Tân Uyên lập tức cho nổ  mìn diệt ba xe chở  quân của địch,   đồng thời ra lệnh cho đơn vị xung phong. Một số xe phía sau của địch thấy phía  trước bị đánh liền dừng lại  ở phía đông cầu La Ngà tổ  chức lực lượng lên ứng   cứu. Tiểu đoàn Tân Uyên dùng hỏa lực ngăn chặn, đồng thời chia thành nhiều  mũi đánh vào hai bên sườn địch, bẻ  gãy hai đợt phản kích của chúng, bảo đảm  cho chi đội tiêu diệt đoàn xe địch rồi rút về  Thành Sơn an toàn.   Sau một giờ  chiến đấu quân ta tiêu diệt gọn 59 xe các loại, 150 tên lính và 25 sĩ quan Pháp,  khống chế toàn bộ  đường 20 lên Đà Lạt. Chiến thắng Là Ngà đã đi vào lịch sử  không phải chỉ vì thắng lợi về mặt quân sự mà còn là thắng lợi lớn về mặt chính   trị trong và ngoài nước. Đồng thời đánh dấu một bước trưởng thành nhanh chóng  của lực lượng vũ trang Biên Hòa ­ Đồng Nai. 6. Cuộc kháng chiến từ năm 1949 ­ 1954: Lực lượng cách mạng ở Biên Hòa ­ Đồng Nai trưởng thành vững vàng, các  chiến khu được củng cố, tăng năng lực sản xuất và chiến đấu; chiến thắng  trước thử  thách của thiên tai lũ lụt Nhâm Thìn 1952; đánh và thắng địch bằng   nhiều cách: du kích, đột kích, tập kích trên khắp các chiến trường, kết hợp binh   vận, diệt ác trừ  gian  ở  cơ  sở, và  ở  ngay cả  trong lòng địch; tiếp tục ghi nhiều   chiến công lịch sử, như: Trận tập kích đồng loạt phá 50 tháp canh của giặc ngày  22/3/1950; đánh bại nhiều cuộc càn quét qui mô của địch vào chiến khu Đ; đốt  kho xăng dầu ở Phước Lư (Biên Hòa) tấn công trại giam Thủ Đức giải thoát 120   tù chính trị (tháng 8/1950), tập kích yếu khu Trảng Bom (20/7/1951), cài mìn diệt   máy bay giặc ở sân bay SIPH (tháng 4/1952)... Kết quả kháng chiến chống Pháp  của quân dân Biên Hòa đã góp phần quan trọng trong thắng lợi chung  ở  chiến   trường Nam bộ, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ.. Năm 1949, thực dân Pháp càng đẩy mạnh lấn chiếm và bình định chiến  trường Nam Bộ. Chúng đã xây dựng hàng nghìn tháp canh, khống chế những địa  bàn trọng yếu.  Ở  Biên Hòa, Bà Rịa, địch liên tục càng quét, mở  rộng việc xây   dựng đồn bót, tháp canh, lấn chiếm vùng du kích của ta. Lấn chiếm vùng du  kích, chúng nhằm phá địa bàn đứng chân của bộ đội, du kích, đẩy lực lượng ta ra   xa để bình định vùng tạm chiếm và tạo vành đai trắng giữa vùng căn cứ và vùng  tạm bị chiếm. Đồn bót, tháp canh của địch mọc lên ngày càng nhiều trên lộ  16,  nối liền từ thị trấn Tân Ba lên Tân Uyên đến chi khu Phước Hòa (ở phía bắc). Ở  tả ngạn sông Đồng Nai (thuộc hai huyện Vĩnh Cửu và Tân Uyên), địch cũng xây  dựng hệ  thống tháp canh theo lộ  24 từ  Cây Đào (Bình Thạnh) đến Rạch Đông  (Tân Định). Đặc biệt, trên địa bàn huyện Xuân Lộc, tháp canh địch dày đặc trên  Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 16
  17. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 lộ  1 và lộ 20, cắm sâu vào cả vùng đồng bào dân tộc, các sở cao su. Lực lượng   thân binh giáo phái, chủ  yếu là Cao Đài được địch sử  dụng làm nhiệm vụ  càn  quét, lấn chiếm. Trên chiến trường Bà Rịa, địch dồn sức lấn chiếm, bình định  huyện Long Điền, Đất Đỏ, nơi tập trung sức người, sức của của ta. Đầu năm   1949, đội chuyên môn đánh xe lửa do đồng chí Hoàng Phùng Đức (Tiểu đoàn phó   Tiểu đoàn Lê Lợi) chỉ huy được thành lập. Đội có nhiệm vụ phá hoại đường sắt,  đánh giao thông đoạn Trảng Bom – Biên Hòa. Trong 06 tháng đầu năm 1949, trên  đoạn này đội đã đánh 15 trận, diệt 13 đầu máy Pa­ciphich. Cũng trong thời gian  này, Đội biệt động Biên Hòa cũng luồn sâu diệt ác ngay trong thị  xã, hạn chế  việc bung ra của địch. Tuy nhiên  ở  vùng du kích, bộ  đội ta phải chống trả  khó  khăn trước những cuộc càn quét, lấn chiếm của địch. Ở huyện Vĩnh Cửu, ta giữ  được căn cứ bàn đạp Bình Đa, nhưng các vùng xung quanh như Tân Phong, Tân  Mai, Hố  Cạn,  ấp Vĩnh Cửu bị  địch lấn dần, bộ  đội mất chỗ  dựa để  đánh địch  dọc lộ 24. Từ Bình Thạnh lên Tân Định, nhân dân bị địch gom về quanh chi khu   Cây Đào. Vùng du kích bị thu hẹp, việc liên lạc từ  Bình Đa về  Chiến khu Đ đã  gặp nhiều khó khăn hơn trước. Nhưng lúc này, khó khăn lớn nhất là  ở  địa bàn   trọng điểm Xuân Lộc. Các lực lượng vũ trang của ta thế yếu hơn địch, nặng về  đối phó chống đỡ. Địch ra sức mở rộng lấn chiếm, triệt phá sản xuất. Nhân dân  các xã Túc Trưng, Cây Gáo, Dầu Giây bị  gom vào các xã cao su. Nhân dân phía  đông bắc huyện bị  gom vào quanh các bót Bảo Chánh, Gia Ray, Định Quán.  Đồng bào dân tộc đời sống vô cùng điêu đứng. Nhưng bà con kiên quyết theo   cách mạng thà ăn rau, ăn củ  chụp, ăn củ  nần, thà chết đói chớ  không về  với   giặc, không  ở  hai lòng. Tình hình huyện Xuân Lộc tiếp tục đi xuống. Và đến  tháng 3/1950, bị địch chiếm đóng hoàn toàn.  Tháng 9/1949, Xứ ủy Nam bộ triệu tập hội nghị quân sự toàn Nam bộ. Xứ  ủy nêu rõ 6 nhiệm vụ  cơ  bản trước mắt là: chỉnh đốn bộ  máy chỉ  huy quân sự  các cấp; xây dựng ba thứ quân; rèn cán chỉnh quân; tăng gia công tác chính trị; tổ  chức lại ngành quân giới; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước. Hội nghị  đã   nhấn mạnh chủ trương “giữ người, giữ của, giành người giành với địch”. Thực  hiện nghị  quyết quân sự  của Xứ   ủy, tháng 12/1949, Bộ  tư  lệnh Nam bộ  quyết   định hợp nhất hai Trung đoàn 310 (Biên Hòa) và 301 (Thủ Dầu Một) thành Liên  trung đoàn 301­310. Đồng chí Nguyễn Văn Thi được cử  làm Liên trung đoàn  trưởng. Trung đoàn 307 và 309 cũng hợp nhất lại thành Trung đoàn 397. Đồng   chí Mai Văn Vĩnh làm Trung đoàn trưởng. Các cơ quan trung đoàn như: Ban quân  nhu­tài chính, binh công xưởng được tăng cường thêm cán bộ và máy móc. Binh   công xưởng Liên trung đoàn 397 mang tên Lý Chính Thắng. Phát huy tinh thần tự  lực, tự  cường, cán bộ, công nhân đã sản xuất các loại vỏ  đạn, đúc vỏ  lựu đạn,  mìn… Đêm 21 rạng sáng 22/3/1950, trên chiến trường Biên Hòa các tổ  chức du  Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 17
  18. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 kích đồng loạt đánh vào 50 tháp canh dọc lộ  16, 15 và Quốc lộ  1. Tường tháp  canh bị thủng một lỗ với đường kính từ  0,6 m đến 1,5 m, song tháp canh không   cái nào bị sập. Bọn lính giữ tháp ngủ trên sàn cao 7 m đều bị chết, nhưng tên lính  gác  ở  nóc tháp vẫn sống và dùng súng trường, lựu đạn đối phó với ta. Tình  huống này không được dự kiến trước, các tổ du kích bị bất ngờ, lúng túng và kéo   nhau về. Tuy chưa giành được thắng lợi, nhưng trận đánh đã gây một tác động  mạnh đối với địch. Tên tướng Săng ­ xông phải đến Biên Hòa trấn an tinh thần  quân ngụy. Và sáng ngày 23/3, Sở  thông tin quân đội Pháp đã ra thông báo thú  nhận: “Đêm 21 rạng 22/3 du kích quân khởi cuộc tiến công thình lình các tháp  canh dài theo các đường lộ ở Biên Hòa. Trên 30 tháp canh đồng bộ bị tấn công và   nhiều chỗ bị tấn công mãnh liệt” . Với quyết tâm cao nhằm đánh bại chiến thuật   tháp canh Đờ La – tua, Bộ Tư lệnh Khu 7, Tỉnh đội Biên Hòa lại mở cuộc họp sơ  kết trận đánh. Hội nghị đã khẳng định sự thành công về kỹ thuật bí mật tiếp cận   tháp canh của các tổ du kích và bổ sung hoàn chỉnh thêm một bước cách đánh mới:  khi FT nổ tạo ra được một lỗ thủng ở tường, dùng thêm 1 trái Pêta đút sâu vào trong  tháp canh, đánh tiếp, sức nổ mạnh từ bên trong phá ra, tháp canh sẽ  đổ  sập. Đêm  18­4­1950, ta đánh sập hoàn toàn tháp canh cầu Bà Kiên. Địch chết sạch. Ta làm  chủ  trận địa, thu toàn bộ  vũ khí. Trong trận này ta còn rút thêm một kinh nghiệm   quý là: những tháp canh có lỗ châu mai thì không cần dùng đến FT để tạo lỗ thủng   ở tường tháp nữa. Như vậy, ta tiết kiệm được vũ khí, kết quả trận đánh vẫn được  bảo đảm. Trận diệt tháp canh cầu Bà Kiên mở ra một phong trào diệt tháp canh khá  rộng rãi. Với kỹ thuật đánh tháp canh, bộ đội ta đã ứng dụng đánh lô cốt, đồn bót,   đánh các cầu lớn và kho tàng địch. Mấy năm sau đã xuất hiện những đơn vị đánh   giỏi, đảm đương các nhiệm vụ chiến đấu đặc biệt với tên gọi: bộ  đội đặc công.  Cùng với phong trào diệt tháp canh, ngày 27/3/1950, Đội biệt động Biên Hòa tiến   công kho xăng dầu Biên Hòa, đốt cháy hàng triệu lít xăng dầu của giặc, hỗ trợ lực   lượng địa phương làm công tác vũ trang tuyên truyền trong thị xã. Ngày 24/4, tiểu   đoàn chủ lực của Liên trung đoàn 301 ­ 310 diệt 13 xe thiết giáp địch trên đường 13,  giết nhiều địch, thu nhiều vũ khí. Đây là trận đánh lớn đầu tiên kể từ khi liên trung  đoàn được thành lập.  Từ giữa năm 1950, giặc Pháp liên tục hành quân, càn quét vào vùng căn cứ  Bình Đa và Long Thành. Tỉnh ủy Biên Hòa, Huyện ủy Vĩnh Cửu xác định: bằng  mọi cách ta phải giữ  cho được căn cứ  Bình Đa để  giữ  bàn đạp tiến công địch   trong tỉnh lỵ; khống chế không cho chúng mở rộng lấn chiếm xuống lộ 15; bảo   vệ  sản xuất  ở  vùng độc lập An Hòa, Long Hưng. Trong 6­1950, địch mở  liên  tiếp 5 trận càn có xe tăng, máy bay yểm trợ  vào căn cứ  Bình Đa. Bộ  đội tỉnh,   huyện và du kích đã bẻ gãy các cuộc càn này. Không diệt được căn cứ Bình Đa,  địch chuyển sang lấn chiếm, chốt giữ  các xã ven để  có lập căn cứ, cắt đường  Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 18
  19. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 hành lang từ  Bình Đa về  vùng độc lập Đại An, Định Tân và Chiến khu Đ. Đối  phó với hoạt động của địch, Đại đội Lam Sơn và bộ  đội huyện Vĩnh Cửu đã  đánh phá giao thông, đồn bót tiêu hao sinh lực địch. Ngày 11­8­1950, ta đánh lật   một chiếc xe lửa đoạn Cây Gáo ­ Trảng Bom, phá hủy một máy Rubi, diệt một  tên đội pháp ác ôn và 5 tên Việt gian. Ngày 30­8, Đại đội Lam Sơn và bộ  đội   huyện Vĩnh Cửu bất ngờ tiến công diệt bót Bến Gỗ do một trung đội thân binh  Cao Đài đóng giữ. Tháng 10­1950, theo chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Nam bộ, chiến   trường miền Đông được tổ  chức lại. Đặc khu Sài Gòn ­ Chợ  Lớn được thành   lập. Bộ  Tư  lệnh quyết định sáp nhập tỉnh đội dân quân và Ban chỉ  huy trung  đoàn để thống nhất lãnh đạo, chỉ huy 3 thứ quân ở địa phương. Chấp hành chỉ thị  của Bộ Tư lệnh Nam bộ, Tỉnh đội Biên Hòa và Bà Rịa khẩn trương bắt tay vào  việc chấn chỉnh tổ  chức, nghiên cứu đặc điểm từng vùng để  bố  trí lực lượng  giữ  vững phong trào chiến tranh du kích. Tỉnh đội Biên Hòa đưa lên khu tiểu   đoàn chủ lực của tỉnh (sau này mang tên Tiểu đoàn 302), Tỉnh đội Bà Rịa đưa lên   khu Đại đội 3564 để  góp phần xây dựng chủ  lực khu. Các đại đội độc lập còn  được tăng cường về  các huyện. Các đội vũ trang tuyên truyền thị  xã Biên Hòa,   thị  xã Cấp, Xuân Lộc (gồm cả  cán bộ  dân, quân, chính, đảng) được thành lập.  Tháng 10/1950, nhằm phối hợp với chiến dịch Biên giới, Bộ Tư lệnh Khu 7 mở  chiến dịch Bến Cát. Các tỉnh đội dân quân Biên Hòa, Bà Rịa đang thời kỳ tổ chức   lại, nên không có hoạt động quân sự nào đáng kể. Riêng trên địa bàn huyện Vĩnh   Cửu, ta và địch vẫn giành giật quyết liệt vùng du kích. Những trận đánh nhỏ xảy   ra liên tiếp. Ngày 19/10, Đại đội 3005 chủ  lực thu cùng Đại đội Lam Sơn đánh  địch tuần tiểu trên lộ 15, hủy 2 xe quân sự diệt 30 tên địch, thu 5 súng. Ngày 17­ 11, Đại đội Lam Sơn lại chặn đánh diệt một tiểu đội lính tuần tra đường sắt  đoạn Trảng Bom ­ Cây Gáo. Tháng 11 du kích xã Bình Hòa dùng kỹ  thuật đặc   công đánh sập tháp canh Bình Hòa. Ba năm 1948, 1949, 1950 là một thời kỳ thử  thách mới của Đảng bộ  và quân dân Biên Hòa, Bà Rịa. Từ  giữa năm 1949 đến  cuối năm 1950, địch tăng cường càn quét đánh phá các vùng căn cứ, lấn chiếm,  bình định các vùng du kích và các địa bàn trọng điểm trong tỉnh. Ta đã giữ  vững  và phát triển được phong trào chiến tranh du kích trên cả 3 vùng, đánh địch bình  định lấn chiếm, càn quét, bảo vệ  được căn cứ  kháng chiến. Nổi bật với cách   đánh đặc công ta đánh bại bước đầu hệ thống đồn bót, tháp canh Đờ La­tua của   địch. Dựa hẳn vào nhân dân, lực lượng vũ trang 3 thứ  quân kết hợp chặt chẽ  trong chiến đấu và đã tạo ra được những trận đánh sôi động, phối hợp tốt với   chiến trường toàn quốc. Nhưng do lực lượng địch ­ ta chênh lệch, một số  vùng  du kích đã biến thành vùng tạm chiếm; chi bộ, chính quyền bị  bật ra khỏi dân.   Hình thái chiến trường Biên Hòa, Bà Rịa trở nên khó khăn, phức tạp trong những  năm sau.  Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 19
  20. Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018 Tháng 9/1953, Bộ  Chính trị  Trung  ương Đảng chủ  trương mở  cuộc tiến  công chiến lược đông xuân 1953 ­1954. Ngày 6/12/1953, Bộ  Chính trị  thông qua  kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện Biên  Phủ. Từ  ngày 20/12/1953 đến 20/01/1954, bộ  đội ta mở  những đòn tiến công ở  Lai Châu, Tây Nguyên, Trung Hạ Lào, Thượng Lào và đông bắc Campuchia. Kế  hoạch tập trung lực lượng cơ động  ở  đồng bằng Bắc bộ  của tướng Na ­ va bị  phá sản. Tại chiến trường Nam bộ, địch phải rút 13 tiểu đoàn để tăng cường cho  chiến trường chính  ở Bắc bộ. Thay vào đó, địch tổ  chức những tiểu đoàn ngụy   binh (BVN) mới, chất lượng kém hẳn. Nắm thời cơ, Phân liên khu Miền Đông  đã chỉ  đạo các tỉnh đẩy mạnh hoạt động phía sau lưng địch, kết hợp chặt chẽ  giữa hoạt động quân sự  với phong trào quần chúng, tăng cường công tác địch  ngụy vận. Phối hợp chiến trường chung, Tỉnh  ủy Thủ  Biên chủ  trương đẩy  mạnh công tác địch ngụy vận, diệt đồn bót, tạo thế họat động ở  vừng sau lưng   địch. Cuối tháng 12­1953, đội biệt động tỉnh và bộ  đội địa phương huyện Vĩnh  Cửu diệt bót Cẩm Vinh (thuộc xã Tân Triều huyện Vĩnh Cửu) tiêu diệt 2 trung   đội lính ngụy, thu toàn bộ  vũ khí, mở  địa bàn trọng yếu ven thị  xã Biên Hòa.   Cùng thời gian trên, bộ đội huyện Đồng Nai diệt bót Miếu Ngói ở Lộc Hòa, tiến  hành vũ trang tuyên truyền, phá tề ngụy, tạo điều kiện cho cán bộ, du kích các xã   Bình Long, Lợi Hòa (nhập lại thành xã Dân Chủ), Tân Phú bám lại xã ấp. Liền  ngày hôm sau, trên đường rút về căn cứ, bộ đội ta diệt một trung đội biệt kích ở  Sở cao su Ông Phủ (xã Bình Ý, huyện Vĩnh Cửu).  Ở huyện Vĩnh Cửu, các xã Bình Long, Tân Phú, Bình Thạnh… truyền đơn  chống bầu cử được rải khắp nơi. Tại xã Bình Ý, chi bộ xã đã vận động, tổ chức  hàng trăm quần chúng đốt cháy phòng bỏ phiếu. Cuộc bầu cử của địch ở  đây bị  thất bại. Công nhân các sở  cao su đã chống bầu cử  bằng nhiều hình thức: bỏ  phiếu không hợp lệ, xé phiếu, gạch xóa hình Diệm… Cũng trong thời gian này,  khắp các vùng nông thôn, nông dân Biên Hòa, Bà Rịa đã phối hợp đấu tranh với  công nhân đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống địch cướp đất. Tiêu biểu là cuộc  đấu tranh của nông dân Sở Cống Dầu (xã Phước Thọ ­ huyện Long Đất). Đây là  vùng đất của nông dân tự  khai phá và canh tác từ lâu đời. Đầu năm 1956, tên tư  sản Huỳnh Văn Định dựa vào bọn tề xã đưa dân vệ đến chiếm. Tỉnh ủy Bà Rịa,  Huyện  ủy Long Đất đã chi đạo cho chi bộ xã thành lập ban lãnh đạo đấu tranh.   Nông dân xã Phước Thọ 2 lần làm kiến nghị đưa lên quận, tỉnh đấu tranh, nhưng  chúng vẫn không giải quyết. Tên Định lại bán đất cho tên Xinh (Hoa Kiều).  Cuộc đấu tranh vẫn tiếp diễn. Tên Xinh phải chịu bồi thường cho nông dân mỗi  ha là 300 đồng.  Ở  cù lao Ông Còn (xã Đại Phước – Long Thành), chúng định   cướp 300 ha để  mở  rộng vùng kiểm soát kho đạn Thành Tuy Hạ. Huyện Long   Thành đã phát động hàng trăm nông dân kéo xuống đấu lý quyết liệt với địch,  Họ và tên: Lại Thị Quốc Toàn – Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2