
Kết nối du lịch sinh thái dựa trên những đặc trưng về không gian và thời gian sinh thái vùng tại Nam Tây Nguyên
lượt xem 2
download

Nam Tây Nguyên là vùng có nhiều tiềm năng về du lịch sinh thái. Tuy nhiên trong thời gian qua, du lịch sinh thái tại đây chưa thật sự phát triển do chưa được quan tâm đúng mức, chưa kết nối tốt cả nội vùng và liên vùng. Muốn kết nối du lịch sinh thái vùng cần chú ý những đặc trưng về không gian và thời gian sinh thái của vùng. Các nhóm giải pháp để kết nối vùng trong phát triển du lịch sinh thái ở Nam Tây Nguyên được đề xuất.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Kết nối du lịch sinh thái dựa trên những đặc trưng về không gian và thời gian sinh thái vùng tại Nam Tây Nguyên
- Kết nối du lịch sinh thái dựa trên những đặc trưng về không gian và thời gian sinh thái vùng tại Nam Tây Nguyên Bùi Trung Hưng Tóm tắt Nam Tây Nguyên là vùng có nhiều tiềm năng về du lịch sinh thái. Tuy nhiên trong thời gian qua, du lịch sinh thái tại đây chưa thật sự phát triển do chưa được quan tâm đúng mức, chưa kết nối tốt cả nội vùng và liên vùng. Muốn kết nối du lịch sinh thái vùng cần chú ý những đặc trưng về không gian và thời gian sinh thái của vùng. Các nhóm giải pháp để kết nối vùng trong phát triển du lịch sinh thái ở Nam Tây Nguyên được đề xuất, gồm: Kết nối về cơ chế, chính sách phát triển du lịch sinh thái giữa các địa phương trong và ngoài vùng; Kết nối về không gian và thời gian sinh thái vùng, liên kết về truyền thông; Tăng cường sự chủ động, tích cực thúc đẩy kết nối từ phía ngành du lịch. Từ khóa: Nam Tây Nguyên, du lịch, sinh thái, không gian, thời gian. 1. Đặt vấn đề Mươi năm gần đây, loại hình du lịch sinh thái được đầu tư, phát triển ở hầu khắp các vùng miền trên cả nước. Song, trên thực tế triển khai, loại hình du lịch này cũng còn nhiều vấn đề rất đáng quan tâm, thậm chí để lại những hệ lụy cho cả du khách lẫn các cộng đồng bản địa. Qua khảo sát trên nhiều công trình nghiên cứu đã công bố và cả những người đã, đang làm du lịch sinh thái, chúng tôi nhận thấy đa số chưa có được cách hiểu, cách làm đúng bản chất của vấn đề, nhất là với cụm từ “sinh thái”. Bên cạnh đó, hiện nay ở nhiều vùng, nhiều người tham gia làm du lịch nói chung, du lịch sinh thái nói riêng, chủ yếu vẫn theo phong trào, tự phát đầu tư, mà còn thiếu những cơ sở khoa học. Vậy du lịch sinh thái thật sự là gì, nên được tổ chức như thế nào? kết nối để phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam nói chung, Nam Tây Nguyên (xin gọi tắt là Vùng) nói riêng cần triển khai như thế nào? ..., là những vấn đề lớn, cần nghiên cứu sâu hơn về mặt lý luận, có những cách thức triển khai khoa học hơn trong từng địa bàn cụ thể. Đặc biệt, muốn tiến hành kết nối để phát triển du lịch sinh thái tại Vùng, trước hết cần thống nhất về mặt lý luận cho hoạt động du lịch sinh thái. Trên cơ sở những nét đặc thù của Vùng, mà đề xuất những giải pháp kết nối để phát triển du lịch sinh thái phù hợp với những đặc trưng của từng địa phương và cả Vùng, thì mới mang lại hiệu quả thiết thực trên thực tế. Từ yêu cầu đó, dựa trên các phương pháp phân tích dữ liệu thứ cấp và những khảo sát thực tế tại Vùng, chúng tôi xin bàn về chủ đề: “Kết nối hoạt động du lịch sinh thái dựa trên những đặc trưng về không gian và thời gian sinh thái vùng tại Nam Tây Nguyên”. 2. Một số nhận thức về loại hình du lịch sinh thái 2.1. Mấy khía cạnh lý luận của loại hình du lịch sinh thái cần được thống nhất + Môi trường sinh thái Khi bàn về du lịch sinh thái, trước tiên cần nói đến khái niệm môi trường sinh thái. Môi trường sinh thái bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Khi ta nói đến môi trường sinh thái tức là luôn gắn sự có mặt, sự tác động của con người đến giới tự nhiên. Cũng có nghĩa là nói đến hoạt động sống của con người, mà rộng ra là nói đến văn hóa của cộng đồng, của dân tộc. Ngày nay, trên thế giới hoàn toàn không còn những khu vực tự nhiên thuần túy, chưa có sự tác động của con người. Do vậy, khi bàn đến môi trường sinh thái, thường người ta gắn nó với 183
- những hoạt động có mục đích cụ thể, mà du lịch sinh thái là một loại hình trong những hoạt động đó. + Du lịch sinh thái và những nguyên tắc triển khai Trang Wikipedia tiếng Việt định nghĩa: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương. Du lịch sinh thái là loại hình khai thác, tìm hiểu đa hệ sinh thái tự nhiên gồm: Đa hệ sinh thái động vật, thực vật, hệ sinh thái nhân văn của núi, của rừng, của hồ”. Ở Việt Nam hiện nay, du lịch sinh thái thường được hiểu là loại hình du lịch đến các địa điểm mà hệ thực vật, động vật còn hoang dã, có di sản văn hóa độc đáo, mang đến cho du khách cái nhìn sâu sắc về tác động của con người đối với môi trường và thúc đẩy sự đánh giá cao hơn về môi trường sống tự nhiên của chúng ta. Còn theo các tổ chức quốc tế, du lịch sinh thái là một kiểu du lịch đòi hỏi cao về trách nhiệm của người trải nghiệm. Đây là loại hình du lịch ngày càng được nhiều người lựa chọn bởi những lợi ích gì mà nó mang lại rất đa dạng về kinh tế, văn hóa, môi trường cho các hộ tư nhân và cộng đồng địa phương; hỗ trợ quản lý, bảo vệ môi trường, cảnh quan, các di sản thiên nhiên và văn hóa, nếu được thực hiện đúng cách. Muốn vậy, hoạt động du lịch sinh thái cần phải áp dụng các nguyên tắc sau: Xây dựng được ý thức tự giác tôn trọng môi trường thiên nhiên và văn hóa; Cung cấp sự trải nghiệm tích cực cho cả du khách và người dân địa phương; Đóng góp tài chính trực tiếp cho bảo tồn môi trường, tôn tạo di tích; Tạo ra lợi ích kinh tế cho cả người dân và ngành dịch vụ tư nhân địa phương; Mang lại trải nghiệm đáng nhớ cho du khách, giúp nâng cao độ nhạy cảm với chính trị, môi trường và xã hội của địa bàn chủ nhà; Thiết kế, xây dựng, vận hành kết cấu hạ tầng thấp, tận dụng những điều kiện sẵn có, góp phần đa dạng về hoạt động kinh tế cho người dân và cộng đồng địa phương. 2.2. Không gian và thời gian trong hoạt động du lịch sinh thái Trên thực tế, du lịch sinh thái luôn được diễn ra trên một loại hình không gian chuyên biệt- không gian sinh thái, gắn liền với thời gian sinh thái vùng. Do vậy, không gian sinh thái (không gian xã hội) và thời gian sinh thái là những khái niệm quan trọng trong lĩnh vực khoa học xã hội nói chung, trong hoạt động du lịch nói riêng, rất cần phải làm rõ. + Về không gian sinh thái Chúng tôi xin dựa theo quan niệm của nhà dân tộc học người Pháp G. Condominas để xác định nội hàm của khái niệm này. Theo G. Condominas, không gian sinh thái, ngoài những chiều cạnh vốn có mang tính không gian vật chất theo thời gian, còn mang tính lịch sử và mang tính tộc người. Tiếp cận dưới góc độ lịch sử, Condominas cho rằng văn hóa và sinh thái luôn có tác động qua lại với nhau, mối quan hệ giữa chúng là biện chứng và đa dạng ở từng tộc người. Theo Condominas có hai loại hình không gian xã hội: không gian xã hội giới hạn (chỉ là một hệ thống quan hệ duy nhất) và không gian xã hội rộng (bao gồm nhiều hệ thống quan hệ). Thuật ngữ này đã bổ sung một cách tiếp cận khác về một cộng đồng, ngoài cách tiếp cận thông qua những giá trị văn hóa truyền thống trong Dân tộc học. Không gian xã hội mang cả chiều cạnh không gian và thời gian. Biên độ của nó luôn thay đổi tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, đặc điểm kinh tế, xã hội của một cộng đồng. Ẩn chứa trong mỗi không gian này là các mạng lưới quan hệ đa tầng. 184
- + Về thời gian sinh thái Ở vào thời đại sản xuất nông nghiệp trình độ thấp là chủ yếu, thời gian sinh thái chính là tính mùa vụ trong hoạt động gieo trồng, canh tác của con người trên một vùng đất nhất định. Nó được quy định bởi các điều kiện tự nhiên từng vùng, gắn liền với sản xuất nông nghiệp truyền thống và quyết định nhịp sống của con người ở một vùng đất cụ thể nào đó. Muốn tổ chức các hoạt động nghiên cứu một cộng đồng xã hội cụ thể (tộc người, nhóm dân cư, .v.v.) chúng ta phải nắm được và dựa theo các yếu tố về không gian và thời gian sinh thái đang chi phối cộng đồng đó. + Kết nối hoạt động du lịch sinh thái dựa trên đặc thù về không gian và thời gian sinh thái Vùng Theo quan niệm về du lịch sinh thái nói trên, hoạt động này không thể tách rời những đặc điểm của không gian và thời gian sinh thái ở nơi tổ chức. Kết nối để phát triển du lịch sinh thái Vùng chính là sự kết nối về không gian và thời gian trong tổ chức các hoạt động du lịch sinh thái. Sự kết nối này có thể từ các vùng trong phạm vi một tỉnh, đến kết nối giữa các tỉnh trong Vùng và ngoài Vùng, trong khi thiết kế tour, tuyến nhằm đa dạng hóa sản phẩm, kéo dài thời gian trên một chuyến du lịch. Đây chính là vấn đề trọng tâm, chủ yếu nhất của hoạt động du lịch nói chung, du lịch sinh thái nói riêng, rất cần được quan tâm. 3. Tiềm năng đặc trưng và thực trạng du lịch sinh thái tại Vùng 3.1. Tiềm năng du lịch sinh thái đặc trưng của Vùng Nam Tây Nguyên gồm 2 tỉnh: Lâm Đồng và Đắk Nông, vừa có những đặc điểm chung của cả Tây Nguyên, lại vừa có những đặc trưng khá khác biệt và độc đáo. Ngành du lịch ở đây, nhất là tại tỉnh Lâm Đồng, đã phát triển khá mạnh và đã có những đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Riêng về du lịch sinh thái, Vùng có khá nhiều điều kiện đặc trưng để đẩy mạnh phát triển và kết nối với các vùng khác trong nước để tổ chức hoạt động này. Có thể khái quát những tiềm năng, điều kiện đặc trưng để phát triển du lịch sinh thái Vùng như sau: + Tiềm năng về sinh thái tự nhiên. Vùng đất Nam Tây Nguyên là kết quả của sự dâng cao ở cuối dãy núi Trường Sơn, trước khi hạ thấp dần, rồi chuyển tiếp xuống vùng đồng bằng. Trải qua hàng triệu năm biến đổi, kiến tạo về địa chất, địa mạo, đã hình thành nên một hệ thống cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ và ngoạn mục, cao nhất vùng Tây Nguyên, với nhiều núi cao, hang động núi lửa, sông suối, thác, hồ nước tự nhiên,... Vùng hiện có diện tích rừng tự nhiên che phủ cao nhất cả nước, với nhiều loài cây bản địa đặc hữu, trong đó đa số là rừng thông ba lá. Toàn Vùng có 3 khu bảo tồn và dự trữ sinh quyển thiên nhiên quy mô hàng trăm nghìn héc- ta, gồm Vườn Quốc gia (VQG) Bi-đúp- Núi bà, có đỉnh núi Lang-Biang cao hơn 2.300m và một phần VQG Nam Cát Tiên thuộc tỉnh Lâm Đồng; một phần VQG Yok Đôn, thuộc huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông. Tỉnh Lâm Đồng, có thành phố Đà Lạt, với độ cao trung bình khoảng 1.500m so với mực nước biển, ngay từ đầu thế kỉ XX đã được người Pháp lựa chọn xây dựng thành trung tâm nghỉ dưỡng nổi tiếng, được coi như một "tiểu Paris", vì có cảnh quan thiên nhiên thơ mộng, khí hậu ôn hòa quanh năm mát mẻ, một vùng ôn đới ở giữa xứ Đông Dương nhiệt đới nóng ẩm quanh năm; hiện vẫn là trung tâm du lịch nổi tiếng cả nước và khu vực. Đây là nơi khởi nguồn của 185
- dòng sông Đa Dâng, đoạn đầu sông Đồng Nai, dòng sông lớn duy nhất chỉ chảy trong nội địa Viêt Nam, có nhiều thác nước hùng vĩ vào bậc nhất nước, nhiều hồ nước rộng hàng trăm ha, gắn với rừng cảnh quan rất nên thơ, trong đó khu du lịch hồ Tuyền Lâm được công nhận là khu du lịch thắng cảnh cấp quốc gia. Tỉnh Đắk Nông có hơn 100 km đường biên giới giáp Campuchia, có độ cao khá tương đồng với Lâm Đồng nên nhiều hồ, thác rất thơ mộng. Đặc biệt là khu sinh thái hồ Tà Đùng và Công viên Địa chất toàn cầu được UNESCO công nhận, với một hệ thống hang động núi lửa trong đá bazan dài hơn 10 km, có nhiều dấu tích cư trú của các bộ lạc thời tiền sử cách đây khoảng 6.000 - 7.000 năm, được các chuyên gia quốc tế đánh giá là rộng lớn và hấp dẫn hơn nhiều so với hang động núi lửa Manjanggul trên đảo Jeju-biểu tượng của du lịch Hàn Quốc. Đây chính là điều kiện thiên nhiên rất thích hợp cho việc phát triển các loại hình du lịch sinh thái nghỉ dưỡng, thám hiểm hang động và nghiên cứu đa dạng sinh học. + Tiềm năng về sinh thái xã hội: Vùng vốn là nơi cư trú lâu đời của các tộc người thuộc nhóm ngữ hệ Môn-Khme (một nhóm ngôn ngữ Nam Á bản địa của Đông Dương và một phần Đông Nam Á). Tỉnh Lâm Đồng có các tộc như: Châu Mạ, M'Nông, K'Ho; từ khoảng thế kỉ 17- 18, thêm 2 tộc Churu và Rag-lây (có chung ngữ hệ với các tộc người thuộc Bắc Tây Nguyên). Trong đó, dân tộc thiểu số gốc Tây Nguyên là 249.463 người, chiếm 19,24%; toàn bộ các dân tộc thiểu số là 333.524 người, chiếm 25,7% dân số toàn tỉnh. Tỉnh Đắk Nông có 3 tộc thiểu số tại chỗ là M’nông, Châu Mạ, và Ê đê với tổng số hơn 15.800 hộ với 71.700 người, chiếm hơn 32% trên tổng số dân tộc thiểu số và hơn 10% so với dân số toàn tỉnh. Do định cư lâu đời, cùng với những khả năng lao động sáng tạo cao, các tộc người bản địa tại Vùng đã tạo dựng được nhiều giá trị văn hóa khá đặc sắc. Nhiều tài liệu khảo cổ cho thấy con người đã định cư ở Vùng khá sớm và sớm có sự giao thoa về văn hóa giữa các cư dân bản địa với văn hóa Ốc- eo ở Nam bộ và với cả các vùng khác trên thế giới; điển hình là di tích khảo cổ Thánh địa Cát Tiên, với nhiều dấu tích của Bà-la-môn, Phật giáo, cùng tín ngưỡng bản địa rất độc đáo và kì bí. Người Việt (Kinh) đến Vùng sớm nhất là khoảng giữa thế kỉ XIX, với các đoàn thám hiểm theo lệnh Triều đình Nhà Nguyễn. Sau chuyến thám hiểm phát hiện ra cao nguyên Langbiang của bác sĩ Yersin năm 1893 và các quyết định xây dựng Đà Lạt thành khu nghỉ dưỡng, cùng với người Pháp, người Kinh bắt đầu chuyển cư đến ngày càng đông hơn, trải qua 130 năm, đến nay đã chiếm tới hơn 74% trong tổng số hơn 2 triệu dân toàn Vùng. Từ những năm 80 của thế kỉ XX, nhiều tộc người thiểu số tại các tỉnh miền núi phía Bắc di cư đến Vùng, đông nhất là người H'Mông, Tày, Nùng, Dao, Thổ, Mường,…, đã nâng tổng số tộc người đang sinh sống tại Vùng lên 47 tộc. Các cộng đồng dân cư tại vùng đã tạo ra và lưu giữ nhiều giá trị, di sản văn hóa rất đặc sắc, có sức hấp dẫn cao với du lịch sinh thái, cụ thể như: - Các hoạt động sản xuất vật chất. Tổ chức thiết kế buôn làng, nhà dài truyền thống, canh tác nương rẫy, cách tìm và lấy nước, cách đánh bắt cá suối, dựng nghĩa địa và nhà mồ,…, được xem là những sinh hoạt vật chất riêng có của các cư dân bản địa tại Vùng. Đặc biệt nhất là nhà dài của người Châu Mạ (hiện còn ở Lâm Đồng), một buôn thường chỉ có 2-3 nhà dài, hoặc một nhà dài chỉ có một dòng theo họ mẹ cư trú. Bên cạnh làm rẫy, nhiều nhóm người K'Ho ở Di Linh, người ChuRu ở Đơn Dương và đa số người Châu Mạ đã canh tác lúa nước từ rất sớm; họ cũng có tục ăn trầu giống người Kinh. Ngày nay, đồng bào đã định canh định cư, nhờ tác động của tiến bộ khoa học kĩ thuật, nên sản xuất nông nghiệp đa số đã theo hướng hiện đại, gắn với kinh tế hàng hóa lớn. Tuy nhiên, việc phát nương, làm rẫy vẫn được duy trì trong phạm vi nhất định, nhằm bổ sung cho nhu cầu và giữ gìn bản sắc dân tộc. Việc thiết kế nhà ở, buôn làng đã nhiều thay đổi theo hướng hiện đại và gắn với xây dựng nông thôn mới, kéo theo sự đổi thay mạnh mẽ của nếp sống ở các dân tộc bản địa. Kinh tế trang trại được các hộ di dân 186
- kinh tế mới đẩy mạnh phát triển, với đa dạng loại hình sản xuất. Các nhà vườn trồng chè, cà phê, rau hoa đặc sản, các trang trại chăn nuôi đại gia súc, thủy sản nước lạnh, những vùng trồng cây ăn quả có múi ven sông Đồng Nai, bên các hồ thủy điện, … của đồng bào các dân tộc trong Vùng đang phát triển mạnh, cho thu nhập cao và là nơi trải nghiệm rất hiệu quả cho du lịch sinh thái. Gần đây, đã có nhiều tour du lịch sinh thái được tổ chức tại các trang trại nói trên. - Các di tích lịch sử-văn hóa và cách mạng. Tỉnh Lâm Ðồng có 36 di tích đã được xếp hạng các cấp, trong đó có 2 di tích quốc gia đặc biệt ( Khu di chỉ khảo cổ Cát Tiên và vườn Quốc gia Cát Tiên), 18 di tích cấp quốc gia, 16 di tích cấp tỉnh, với đầy đủ các loại hình: nghệ thuật kiến trúc, lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh. Về di tích văn hóa, có Bộ Mộc bản triều Nguyễn đã được công nhận là Di sản tư liệu Thế giới. Tỉnh Ðắk Nông có 10 di tích lịch sử cấp tỉnh và quốc gia. Trong đó có một di tích lịch sử quốc gia đặc biệt, 06 di tích lịch sử quốc gia, 03 di tích lịch sử cấp tỉnh. Bên cạnh đó, Vùng vốn là cái nôi của phong trào cách mạng trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, nhất là kháng chiến chống Pháp, Mỹ, nên đã để lại rất nhiều di tích lịch sử-cách mạng. Trong đó, nhiều di tích lịch sử được công nhận cấp quốc gia đặc biệt gồm: Tỉnh Lâm Đồng có ba di tích lịch sử cách mạng, gồm: Nhà lao thiếu nhi Ðà Lạt, Khu ủy Khu VI và Căn cứ kháng chiến Núi Voi. Ở Đắk Nông, những địa chỉ nổi tiếng trên vùng đất này là di tích lịch sử về phong trào chống Pháp của đồng bào M'Nông do thủ lĩnh N'Trang Lơng lãnh đạo; đường Trường Sơn-Hồ Chí Minh; Ngục Ðắk Mil và Căn cứ kháng chiến B4-Liên tỉnh IV,… Đây là những địa điểm có nhiều nét đặc trưng về sinh thái tự nhiên, thường gắn với núi, rừng, khu bảo tồn đa dạng sinh học, nên rất có tiềm năng khi kết hợp với các tour du lịch sinh thái. - Lễ hội văn hóa dân gian. Các tộc người bản địa Vùng có nhiều lễ hội truyền thống rất đặc sắc, phản ánh đời sống tâm linh, sản xuất gắn với núi rừng, nương rẫy. Các lễ cúng cơm mới, lễ cúng thần đập nước, lễ cầu mưa, lễ bỏ mả,…, gắn với cồng chiêng và các nhạc cụ làm từ quả bầu khô, từ tre nứa, nói lên sự phong phú trong đời sống tinh thần của cư dân bản địa. Đặc biệt, không gian văn hóa công chiêng, vốn là đặc sắc của cư dân Tây Nguyên, đã được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể truyền khẩu của nhân loại. Các tộc người thiểu số phía Bắc di cư đến Vùng cũng mang theo nhiều giá trị văn hóa tinh thần và lễ hội khá đặc sắc. Nhiều lễ hội văn hóa dân gian như liên hoan cồng chiêng, lễ đâm trâu, lễ cúng Giàng của các tộc người gốc Tây Nguyên; lễ lồng tồng, liên hoan các điệu hát then, hát lượn,… của người Tày, Thái, thường xuyên được tổ chức nhằm tôn vinh và bảo vệ bản sắc của đồng bào dân tộc thiểu số trên vùng quê mới. Gần đây, nhiều loại hình âm nhạc, lễ hội truyền thống ở từng địa phương riêng lẻ được khai thác, nâng cấp thành các lễ hội du lịch cấp tỉnh để phục vụ du khách trong các hoạt động du lịch văn hóa đa sắc màu, thu hút số lượng lớn khách từ các vùng miền trong nước và quốc tế. Nhiều lễ hội hiện đại được tổ chức rất quy mô, như: Festival cồng chiêng Tây Nguyên, festival hoa Đà Lạt, festival trà-tơ lụa Bảo Lộc, được tổ chức định kì 2 năm một lần. Tại các festival này, chính quyền và ngành du lịch địa phương đã kết hợp hài hòa các nội dung mới với nhiều tập quán truyền thống tiêu biểu của đồng bào bản địa (đua voi, cúng bến nước, cúng cơm mới, diễn tấu cồng chiêng,…), giúp các cộng đồng dân tộc thiểu số tại chỗ giao lưu với du khách, tạo ra những nét độc đáo riêng có, góp phần phát huy giá trị di sản văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Vùng. - Văn hóa ẩm thực và nghề thủ công. Ẩm thực độc đáo của Vùng được thể hiện qua các món ăn truyền thống như: Rượu cần, cơm lam, cá suối trộn rau rừng nấu trong ống tre, các món 187
- làm từ cà đắng, thịt trâu hun khói,…, vốn là những đặc sản mà đến tận ngày nay vẫn được đồng bào bản địa lưu truyền, sử dụng trong đời sống hàng ngày. Nhiều nghề thủ công truyền thống đang được khai thác để phục vụ du lịch như: Nghề rèn, nghề mộc, nghề làm trang sức bằng bạc, đan lát, dệt thổ cẩm, chế tác đồ gốm,…, vốn nhằm tạo ra những tư liệu lao động và dụng cụ phục vụ đời sống, sinh hoạt thường ngày của các dân tộc bản địa trước kia, sau một thời gian bị mai một, nay đã được đầu tư khôi phục và đang phát huy hiệu quả. Đây cũng là những sản phẩm có sức hấp dẫn rất cao với du lịch sinh thái tại Vùng. 3.2. Điều kiện về hạ tầng giao thông đảm bảo kết nối vùng trong hoạt động du lịch Hiện nay, Vùng có hạ tầng giao thông tương đối hoàn thiện với 2 loại hình chủ yếu là đường hàng không và đường bộ, có khả năng kết nối rất thuận lợi giữa các địa phương trong tỉnh, Vùng, trong nước và quốc tế. Cụ thể gồm có: Về đường hàng không, có sân bay quốc tế Liên Khương, với nhiều đường bay quốc tế và nội địa tới các thành phố lớn trong nước đã đi vào hoạt động. Về đường bộ, Vùng có 5 tuyến quốc lộ chính kết nối với hệ thống đường quốc gia và quốc tế, như đường quốc lộ 20, 27, 28, 55 và đường 14-Hồ Chí Minh, kết nối các tỉnh Tây Nguyên và Đông Nam bộ. Đường bộ nối các đô thị, các khu vực trong Vùng và hệ thống đường đến các khu, điểm du lịch quan trọng nhìn chung đã được đầu tư, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật hạ tầng giao thông quốc gia. Hiện nay Nhà nước đang tích cực chuẩn bị khởi công 3 tuyến cao tốc và khôi phục tuyến đường sắt nối Đà Lạt với Phan Rang, nhằm tăng kết nối Vùng với các vùng khác, giúp phá vỡ thế cô lập do địa hình núi cao tạo ra. 3.3. Khái quát sự phát triển du lịch sinh thái tại Vùng hiện nay + Thực trạng phát triển du lịch sinh thái Vùng Hiện nay, du lịch sinh thái tại Vùng chủ yếu có các sản phẩm chính là: Du lịch tham quan các làng nghề truyền thống; du lịch gắn liền với tham quan các công trình văn hóa, các di tích lịch sử; sản phẩm du lịch gắn với sinh thái hồ, suối nước nóng; du lịch nghiên cứu tài nguyên, đa dạng sinh học tại các VQG, Khu bảo tồn thiên nhiên; du lịch gắn liền với tài nguyên văn hóa phi vật thể như: Tham gia các hoạt động tâm linh-tôn giáo, tìm hiểu phong tục tập quán, lễ hội của các dân tộc thiểu số. Các sản phẩm này được những hãng lữ hành từ nhiều nơi trong nước và một số nước ngoài, phối hợp với ngành du lịch địa phương tổ chức khai thác. Bên cạnh đó, có thêm loại hình du lịch cuối tuần, nghỉ lễ của các gia đình tại đô thị, các nhóm sinh viên, công nhân khu công nghiệp, chủ yếu gắn với các điểm dịch vụ vui chơi giải trí có khoảng cách gần nơi cư trú. Loại hình này chủ yếu tập trung tại các khu du lịch, trên sông, hồ; tại các công viên, VQG, khu bảo tồn, tuy phần lớn mang tính tự phát và tính mùa vụ, song nhiều khi có lượng khách khá lớn, với nhu cầu chi tiêu cũng khá, nên cũng là một hoạt động cần quan tâm. + Những hạn chế, nguyên nhân trong phát triển du lịch sinh thái Vùng - Quy mô và hình thức hoạt động du lịch sinh thái còn nhỏ lẻ, sản phẩm đơn điệu, thị trường khách còn chưa được xác định nên ít có khả năng thu hút khách. Các hoạt động du lịch sinh thái hiện nay thường mới chỉ có mấy dạng: Tham quan, tìm hiểu các hệ sinh thái rừng, hồ, thác; tham quan các cơ sở văn hóa (mang tính kinh doanh) của người bản địa. - Điều tra, nghiên cứu cơ bản và quy hoạch phát triển du lịch sinh thái còn chưa được chú ý đầu tư. Chưa có sự liên kết, phối hợp giữa các địa phương trong vùng. Đa số công ty lữ 188
- hành của địa phương còn yếu, chưa đủ khả năng và trình độ để cạnh tranh, thu hút khách từ thị trường quốc tế. - Chất lượng dịch vụ du lịch sinh thái còn nhiều hạn chế; các khâu quảng bá, tiếp thị còn yếu, mang nặng tính tự phát và chưa đúng với thực tế. Vì thế lợi ích mang lại từ du lịch sinh thái cho du khách và đa số người dân còn chưa được cao. - Việc đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý, hướng dẫn viên và người dân tham gia du lịch sinh thái còn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Chuyển đổi số trong du lịch còn nhiều hạn chế. 4. Các nhóm giải pháp thúc đẩy kết nối để phát triển du lịch sinh thái tại Vùng thời gian tới 4.1. Kết nối giữa các địa phương trong và ngoài Vùng về cơ chế, chính sách phát triển du lịch sinh thái Để phát triển du lịch sinh thái đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ của 3 yếu tố chủ yếu: Chủ trương, chính sách của Nhà nước; sự quản lý điều hành của chính quyền các cấp và sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương. Vì thế, ủy ban Nhân dân hai tỉnh thuộc Vùng nên nghiên cứu, hoàn thiện và áp dụng hệ thống các cơ chế chính sách đặc thù trong liên kết vùng và xã hội hóa về du lịch sinh thái. Các chính sách cần đề cập rõ đến các giá trị cốt lõi và các giá trị tăng thêm để đáp ứng tốt hơn sự mong đợi của các bên liên quan. Cần làm tốt công tác quy hoạch phát triển du lịch sinh thái ở những địa phương có nhiều tiềm năng. Tăng cường công tác tổ chức quản lý Nhà nước đối với các khu vực sau: Khu VQG, khu bảo tồn thiên nhiên, khu văn hóa-tâm linh, khu di tích lịch sử và chú trọng bảo vệ tài nguyên môi trường. Bên cạnh đó, cần có chính sách hỗ trợ cộng đồng địa phương như: Hướng dẫn đầu tư khai thác, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội tại địa phương; chính sách hỗ trợ việc bao tiêu sản phẩm thu hoạch được từ trang trại để có nguồn thực phẩm sạch và tươi góp phần bảo vệ sức khỏe của người sản xuất và du khách; chính sách về bảo vệ môi trường và bảo tồn các giá trị văn hóa bản địa; chính sách về cơ chế giám sát, kiểm soát sự phát triển mô hình du lịch sinh thái theo quy hoạch vùng miền, không để phát triển tràn lan. Phải xác định phân khúc thị trường du khách có nhu cầu du lịch sinh thái là ai, họ ở đâu, nhu cầu, mong muốn trải nghiệm của đối tượng khách này khi đi du lịch sinh thái là gì, họ có khả năng chi trả như thế nào. Đối với khách quốc tế, có thể bao gồm các đoàn chuyên gia, đại biểu hội nghị, hoặc các cá nhân, nhóm có nhu cầu nghiên cứu, khám phá. Du khách trong nước có thể là học sinh, sinh viên, các gia đình đang sinh sống ở các thành phố, công nhân các khu công nghiệp, những người có thời gian và có nhu cầu tham quan, sinh sống gần gũi với cộng đồng địa phương, trải nghiệm với với cuộc sống thôn quê. Trên cơ sở đó mà có sự chuẩn bị thiết kế tour, tuyến và các dịch vụ đi kèm cho phù hợp, hiệu quả. 4.2. Kết nối về không gian và thời gian sinh thái vùng, liên kết về truyền thông Trong việc lập quy hoạch và xây dựng chính sách phát triển sản phẩm dịch vụ theo thị trường cần chú trọng sự kết nối nội vùng, hoặc liên vùng khi thiết kế tour, tuyến du lịch sinh thái. Theo không gian có thể kết hợp giữa các địa phương với nhau để hình thành chuỗi, tuyến và điểm du lịch sinh thái; kết nối những khu vực lân cận giữa các tỉnh, thành hay điểm đến du lịch có khoảng cách di chuyển không xa, khả năng tiếp cận tốt, dễ dàng kết hợp. Bố trí các điểm trải nghiệm là các trang trại, khu vực cộng đồng hợp lý để góp phần giãn mật độ khách, tránh quá tải tại các khu, điểm du lịch tập trung, đồng thời kéo dài thời gian lưu trú hơn, góp phần tăng thu cho địa phương. 189
- Cần quan tâm đến thời gian sinh thái Vùng. Thời tiết Vùng chia thành hai mùa mưa, nắng rõ rệt, theo đó người dân cũng tổ chức sản xuất các loại cây con, tổ chức các sinh hoạt cộng đồng phù hợp với mùa. Với Nam Tây Nguyên xưa, một năm có một mùa rẫy, phát, đốt vào cuối tháng 3, tỉa lúa vào cuối tháng 5, thu hoạch vào tháng 10; với cây bắp, đậu, sẽ có 2 lần tỉa và thu hoạch trong một vụ. Ngày nay, đa số bà con trong Vùng chuyển sang trồng cây công nghiệp dài ngày như cà phê, điều, cây ăn trái, việc chăm bón, thu hoạch sẽ phụ thuộc vào giống cây trồng và yếu tố kĩ thuật, do vậy nhịp sống đã có nhiều thay đổi, thời gian sinh thái cũng khác xưa. Tuy nhiên, thời gian sinh thái vẫn chịu sự quy định bởi những đặc điểm riêng của Vùng về khí hậu, thời tiết và truyền thống canh tác. Chẳng hạn, mùa mưa việc đến các buôn của đồng bào dân tộc thiểu số sẽ khó khăn hơn, nhưng mùa khô thì sẽ ít sản vật tự nhiên hơn; mùa khô thường là mùa thu hoạch các sản phẩm cây công nghiệp dài ngày như cà phê, điều, mía,…, còn với chăn nuôi thì có thể trải nghiệm quanh năm. Hiện nay, ở nhiều nơi trong Vùng, đa số người dân sử dụng nhà kính để trồng rau hoa, nên có thể khắc phục tính mùa vụ, sản vật có thể thu hoạch quanh năm. Tuy nhiên đây là loại hình sản xuất chỉ áp dụng ở những nơi thật sự khắc nghiệt về điều kiện tự nhiên, rất có hại cho môi trường và con người, hậu quả nhỡn tiền đã thấy rõ ở Đà Lạt-Lâm Đồng. Vì vậy, khi thiết kế tour du lịch sinh thái cần hết sức tránh những địa bàn sử dụng nhà kính để sản xuất nông nghiệp, mà nên tìm những nơi truyền thống, gắn với bảo vệ, tôn tạo môi trường, xanh, sạch, tự nhiên. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh liên kết truyền thông nhằm quảng bá hình ảnh của các mô hình du lịch sinh thái đối với phân khúc thị trường mục tiêu, các đối tượng khách hàng bằng các thông điệp mang tính lan tỏa từ trải nghiệm. Chú trọng những cách thức tiếp thị độc đáo, nhưng phải truyền tải và thể hiện được tính riêng biệt về văn hóa canh tác, nuôi trồng, lối sống hòa hợp với thiên nhiên của người dân bản địa một cách chân thật nhất. Tăng cường chuyển đổi số, sử dụng website, các trang mạng xã hội như facebook, twister, tạp chí và thông qua chính du khách để quảng bá cho các loại hình này. 4.3. Tăng cường sự chủ động, tích cực thúc đẩy kết nối từ phía ngành du lịch + Giải pháp phát triển thị trường và sản phẩm du lịch - Tùy theo thế mạnh riêng có, mỗi tỉnh trong Vùng nên xác định những mô hình du lịch sinh thái đặc trưng nhằm tạo dấu ấn riêng, đồng thời tránh sự trùng lắp khi liên kết với các tỉnh khác trên một tour. - Kết hợp giữa các loại hình du lịch thế mạnh của từng tỉnh với du lịch sinh thái Vùng nhằm tạo thành sản phẩm du lịch tổng hợp. Phát triển sản phẩm tổng hợp, gắn với các thế mạnh về tài nguyên du lịch rừng, thác, hồ, hang động và các tài nguyên nhân văn để đa dạng hóa các loại hình trên một tour, tuyến. - Hai tỉnh trong Vùng nên cùng nhau xây dựng chiến lược về thị trường khách; mở rộng liên kết với các vùng lân cận như Nam Trung bộ, Đông Nam bộ, để phát triển thị trường du lịch sinh thái đa dạng, ổn định và bền vững. - Bên cạnh đó cũng cần đẩy mạnh đầu tư và phát triển các khu dịch vụ vui chơi giải trí có chất lượng cao để bổ sung cho du lịch sinh thái, tránh sự đơn điệu, nhàm chán, kéo dài ngày lưu trú của khách. + Giải pháp phát triển nguồn nhân lực 190
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ của ngành Du lịch đáp ứng nhu cầu cho phát triển du lịch trong hội nhập quốc tế hiện nay. Tổ chức hệ thống cung cấp sản phẩm dịch vụ của loại hình homestay, farmstay, trong đó đề cao yếu tố con người và các công cụ hỗ trợ như quy trình tiêu chuẩn, sách hướng dẫn, chế độ chính sách... Các bên liên quan cần được tập huấn nâng cao nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của hoạt động du lịch sinh thái, nhằm đạt được các giá trị đã đề ra, đáp ứng sự mong đợi của khách du lịch. Có cách thức phù hợp nhằm đào tạo cho họ về: Nghề du lịch, khả năng hạch toán kinh doanh; thực hiện các quy trình tiêu chuẩn về sản xuất xanh, sạch, an toàn, đảm bảo an ninh cho du khách; hướng dẫn các kỹ năng mềm, ngoại ngữ trong giao tiếp và phục vụ du khách. + Nâng cao nhận thức của cả cộng đồng về du lịch sinh thái Cần tăng cường nâng cao nhận thức của xã hội, cộng đồng, của nhà quản lý về tầm quan trọng của phát triển du lịch sinh thái trong sự phát triển bền vững của đất nước, của Vùng. Có thể triển khai dưới nhiều hình thức như: Đưa nội dung này vào chương trình giáo dục phổ thông ở các cấp, các trường dạy nghề, đại học trên địa bàn; tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để mọi người dân có ý thức tham gia vào hoạt động du lịch sinh thái; xây dựng, phổ biến, nhân rộng các mô hình du lịch sinh thái kết hợp với các hoạt động kinh tế thường nhật tại các cộng đồng có tính đặc thù cao về sinh thái tự nhiên. Tăng cường phổ biến, giáo dục cho người dân và cán bộ về pháp luật liên quan, về văn hóa giao tiếp và kĩ năng phục vụ du khách khi tham gia các loại hình du lịch sinh thái. 5. Kết luận Hiện nay ở Việt Nam đô thị hóa tăng nhanh, nông thôn ngày càng bị thu hẹp, vì vậy các giá trị từ loại hình du lịch sinh thái trở nên có sức hấp dẫn lớn để thu hút khách du lịch ở vùng có nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên. Để thúc đẩy sự phát triển bền vững của lĩnh vực du lịch nói riêng và phát triển kinh tế-xã hội của Vùng nói chung, hoạt động du lịch sinh thái cần được đẩy mạnh trên cơ sở khai thác hợp lý thế mạnh, tiềm năng tài nguyên sinh thái đặc trưng của Vùng. Kết nối để phát triển du lịch du lịch sinh thái sẽ là hướng đi tích cực trong đầu tư và phát triển du lịch bền vững Vùng. Muốn vậy, cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa chủ trương đường lối chính sách của Nhà nước, quản lý điều hành của chính quyền và tham gia của cộng đồng dân cư địa phương. Chỉ khi chúng ta hiểu đúng bản chất của du lịch sinh thái, nhận thức và vận dụng các mô hình phù hợp với đặc thù Vùng, thì việc kết nối để khai thác tiềm năng, thế mạnh phát triển du lịch sinh thái tại Nam Tây Nguyên mới có hiệu quả, mới góp phần tích cực vào tăng trưởng chung của kinh tế-xã hội toàn vùng./. TÀI LIỆU THAM KHẢO Phan Thị Hoàn. Mối quan hệ giữa con người và môi trường: tiếp cận thế giới quan sinh thái. Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 05 (61) – 2019; PGS, TS. Bùi Trung Hưng. Bàn về những mô hình có khả năng ứng dụng hiệu quả trong xây dựng vùng du lịch văn hóa sinh thái tại Tây Nguyên hiện nay. Viện KHXH vùng Tây Nguyên, Kỉ yếu Hội thảo KH Quốc gia, tr 14-20. Đắk Lắk, 10-2019; Trần Xuân Mới. Du lịch farmstay - loại hình mới. TC Du lịch online Thứ sáu, 10/02/2017 | 08:01 GMT+7; TS. Lê Văn Minh. Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái tại Việt Nam. (Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 6/2016); 191
- Vũ Thị Minh Phượng. Vấn đề môi trường trong phát triển du lịch ở Tây Nguyên. Tạp chí VHNT số 414, tháng 12 năm 2018; Trần Lê Trà. Làm du lịch sinh thái ở Việt Nam: “Cạp” vào thiên nhiên mà lớn. Báo Xây dựng ĐT, 2016; Bảo Trân. Du lịch sinh thái là gì? Đây là xu hướng du lịch trong tương lai? Ngày đăng: 18-02-2019. Báo Du lịch online; Nguyễn Tri. Du lịch sinh thái ở Việt Nam: Nhiều tiềm năng nhưng chưa bài bản. LĐO | 04/08/2018 | 15:18. THÔNG TIN TÁC GIẢ - Họ và tên: Bùi Trung Hưng - Học hàm, học vị: PGS, TS Triết học - Cơ quan công tác: Trường đại học Công nghệ Đồng Nai. - Chức vụ: Giảng viên Cao cấp - Địện thoại: 0918675758 - Email: buitrunghung@dntu.edu.vn - Địa chỉ nhà riêng: Số 9, đường 12, KDC Hiệp Thành 3, Tp Thủ Dầu Một, Bình Dương. 192

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển làng nghề kết hợp du lịch ở đồng bằng sông Cửu Long
8 p |
212 |
32
-
Bài giảng Hệ thống phân vị trong phân vùng du lịch
38 p |
707 |
30
-
Du lịch Malaysia: Sự thần kỳ của ngành công nghiệp không khói
3 p |
127 |
19
-
Bài giảng Xây dựng chiến lược Marketing nhằm thu hút du khách tại khu du lịch sinh thái Gáo Giồng huyện Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp - ThS. Trần Đình Lý
23 p |
145 |
17
-
Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch sinh thái Vườn quốc gia Cát Tiên
5 p |
36 |
7
-
Panama – Điểm du lịch sinh thái hấp dẫn
3 p |
72 |
5
-
Phát triển du lịch Đà Nẵng theo hướng bền vững: Nhân tố ảnh hưởng và các giải pháp
5 p |
79 |
5
-
Hoang dã Tarutao, Thái Lan
3 p |
61 |
5
-
Tham quan cung điện Wallenstein - Cộng hòa Séc
3 p |
67 |
5
-
Du ngoạn chợ nổi Thái Lan
4 p |
82 |
5
-
Từ sự thích ứng với môi trường đến việc hình thành mô hình du lịch thuận thiên tại Cồn Chim, tỉnh Trà Vinh
12 p |
18 |
4
-
Công viên đá ở Côn Minh (Trung Quốc)
4 p |
62 |
4
-
Thưởng thức món chè Cendol của đất nước Indonesia
3 p |
49 |
4
-
Sac Actun (Mexico) - Hệ thống động ngầm dài nhất thế giới
4 p |
42 |
3
-
Chiêm ngưỡng vẻ đẹp rực rỡ thành phố Cinque Terre -Ý
2 p |
74 |
3
-
Caribe Thiên đường nghỉ dưỡng
5 p |
54 |
3
-
Bảo tồn và phát huy giá trị làng nghề truyền thống Tiền Giang
7 p |
2 |
1


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
