Khám phá hệ sinh thái khởi nghiệp của dân tộc thiểu số trong bối cảnh của Việt Nam
lượt xem 6
download
Nghiên cứu này nhằm khám phá hệ sinh thái cấp độ tiểu vùng trong quá trình khởi nghiệp của nhóm DTTS ở Việt Nam, với trường hợp nghiên cứu điển hình ở Sơn La. Bằng phương pháp nghiên cứu định tính, 10 chủ doanh nghiệp ở Sơn La đã được phỏng vấn về quá trình khởi nghiệp và những rào cản trong quá trình họ khởi nghiệp.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khám phá hệ sinh thái khởi nghiệp của dân tộc thiểu số trong bối cảnh của Việt Nam
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 51. KHÁM PHÁ HỆ SINH THÁI KHỞI NGHIỆP CỦA DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG BỐI CẢNH CỦA VIỆT NAM ThS. Nguyễn Văn Đại* ThS. Bùi Thái Thảo** Võ Hồng Nhật*** Tóm tắt Hệ sinh thái khởi nghiệp trở thành một chủ đề nghiên cứu quan trọng trong lĩnh vực kinh tế - kinh doanh những năm gần đây. Tuy vậy, các nghiên cứu về chủ đề này thường ít chú trọng tới quá trình khởi nghiệp của nhóm dân tộc thiểu số (DTTS) cũng như không áp dụng cách tiếp cận hệ sinh thái đối với nhóm này trong quá trình khởi nghiệp của họ. Nghiên cứu này nhằm khám phá hệ sinh thái cấp độ tiểu vùng trong quá trình khởi nghiệp của nhóm DTTS ở Việt Nam, với trường hợp nghiên cứu điển hình ở Sơn La. Bằng phương pháp nghiên cứu định tính, 10 chủ doanh nghiệp ở Sơn La đã được phỏng vấn về quá trình khởi nghiệp và những rào cản trong quá trình họ khởi nghiệp. Kết quả nghiên cứu chỉ ra sự tồn tại của một hệ sinh thái khởi nghiệp ở cấp độ tiểu vùng tại Sơn La. Vai trò của sự hợp tác, trí thức, học hỏi và sự hỗ trợ từ bên ngoài trở thành những điều kiện tiên quyết cho hệ sinh thái này. Dựa trên những rào cản được chỉ ra, nghiên cứu này cũng đề xuất những hàm ý chính sách nhằm hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp của nhóm DTTS trong thời gian tới. Từ khóa: Dân tộc thiểu số, hệ sinh thái khởi nghiệp, liên kết, Sơn La 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Sự công nhận ngày càng tăng trên toàn thế giới về tinh thần doanh nhân đã được chứng kiến quan điểm của các nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu. Các nghiên từ cứu hiện có về khởi sự kinh doanh đã phân tích tinh thần kinh doanh dưới nhiều hình thức, * Khoa Kế hoạch và Phát triển, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân ** Khoa Kinh tế học, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân *** Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 676
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 đặc điểm và bản chất khác nhau của nó. Hơn nữa, các chủ thể khác nhau tương tác với nhau trong quá trình khởi nghiệp của họ được coi là những người đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái khởi nghiệp (EE). Trường phái tư tưởng thống trị hiện nay thường phân tích EE dựa trên các yếu tố của nó, sự tương tác của các tác nhân và quy mô lãnh thổ mà sau này đề cập đến quy mô khu vực, quốc gia và địa phương. Ngược lại, khởi nghiệp của các nhóm DTTS vẫn chưa được nghiên cứu một cách sâu sắc. Cộng đồng dân tộc ở các nước đang phát triển phần lớn được biết đến là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất về xã hội và kinh tế. Tuy nhiên, xu hướng khởi nghiệp ngày càng tăng được cho là một phương tiện hữu hiệu để giảm nghèo và nhận được sự quan tâm, hỗ trợ ngày càng tăng của Nhà nước và các bên liên quan. Nhóm doanh nhân DTTS này thường đặt hoạt động kinh doanh của họ vào các nguồn lực địa phương từ yếu tố sản xuất đến nguồn nhân lực và đưa bản sắc văn hóa địa phương vào các sản phẩm và dịch vụ của họ. Hơn nữa, nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các doanh nhân DTTS cũng tạo ra các liên kết kinh doanh với nhau và các tác nhân bên ngoài để phát triển kinh doanh của họ. Tuy vậy, bất chấp sự đóng góp ngày càng tăng của nhóm này đối với sự phát triển kinh tế ở các nước “Thế giới thứ ba”, nghiên cứu về khởi sự kinh doanh của người DTTS lại nghiêng về các hoạt động kinh doanh của các doanh nhân nhập cư/xuyên quốc gia trở thành DTTS ở các nước sở tại. Các học giả, đặc biệt trong lĩnh vực liên ngành của doanh nhân và di cư, coi các doanh nhân nhập cư là nhóm mục tiêu chính trong nghiên cứu của họ, thay vì ở quy mô địa phương. Do đó, ít tài liệu về DTTS ở quy mô địa phương trong bối cảnh thế giới đang phát triển chỉ tạo ra hiểu biết hạn chế về nhóm doanh nhân năng động này. Kiến thức hiện tại của chúng ta về nhóm này chỉ bao gồm các đặc điểm, thách thức và cách thúc đẩy tinh thần kinh doanh của họ. Điều đó giải thích cho sự phát triển mạnh mẽ của các chính sách của Chính phủ và các công cụ hỗ trợ từ các nhà hoạt động chính sách nhắm tới nhóm này về các vấn đề thực tế và rời rạc trong khởi nghiệp, thay vì tiếp cận vấn đề này một cách có hệ thống trên cơ sở kiến thức được phát triển toàn diện hơn. Nói cách khác, chúng ta vẫn còn thiếu hiểu biết về kinh doanh khởi nghiệp của người DTTS tại địa phương và hệ thống của chính họ. Mặc dù thực tế khởi nghiệp đã là một lĩnh vực nghiên cứu phổ biến trên toàn thế giới, nó mới chỉ nổi lên như một chủ đề nghiên cứu được các nhà nghiên cứu Việt Nam chú ý từ năm 2012 (Vương Quân Hoàng và cộng sự, 2020). Vương Quân Hoàng và cộng sự (2020) nhận thấy rằng, lĩnh vực khởi nghiệp chưa được nghiên cứu sâu trong bối cảnh Việt Nam phân hóa thành hai lĩnh vực: (i) ít quan tâm đến việc áp dụng khung lý thuyết phương Tây vào bối cảnh địa phương của Việt Nam; và (ii) tập trung nhiều vào “các vấn đề thực tiễn” liên quan đến tinh thần kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chẳng hạn như quản lý kinh doanh, tài chính và các rào cản thách thức các hoạt động kinh doanh. Tương tự, mặc dù tinh thần kinh doanh trong cộng đồng địa phương đã tăng mạnh theo thời gian dưới nhiều hình thức đóng góp đáng kể cho nền kinh tế địa phương, cụ thể là ở miền Bắc Việt Nam, trường hợp 677
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA điển hình ở tỉnh Sơn La, chủ đề này chắc chắn bị bỏ qua trong cộng đồng học thuật Việt Nam. Các báo cáo dự án và tóm tắt chính sách được công bố chiếm ưu thế trong các nghiên cứu hàn lâm liên quan đến lĩnh vực này ở Việt Nam mặc dù thực tế là khởi nghiệp và sinh kế của nhóm DTTS đã nằm trong các ưu tiên dựa trên chính sách ở Việt Nam từ năm 2017. Câu hỏi về cách thức khởi nghiệp của nhóm điển hình này về DTTS có thể được định nghĩa và khái quát hóa về mặt khái niệm vẫn còn chưa được giải đáp trong trường hợp cụ thể của Việt Nam. Nghiên cứu này nhằm (i) xác định các thành phần trong hệ sinh thái khởi nghiệp; và (ii) khám phá mối liên kết trong hệ sinh thái ở cấp độ tiểu vùng. Các kết quả đưa ra từ nghiên cứu có ý nghĩa nhằm khám phá một cách tiếp cận thay thế để phân tích khởi nghiệp kinh doanh của các DTTS dưới góc độ một hệ sinh thái khởi nghiệp cấp tiểu vùng. Câu hỏi nghiên cứu: 1) Đâu là thành phần cốt lõi của khởi nghiệp DTTS trong trường hợp của Việt Nam? 2) Các thành phần khởi nghiệp DTTS được phát triển và liên kết như thế nào ở Việt Nam? Nghiên cứu này có đóng góp học thuật bằng cách khám phá sâu sắc về tinh thần kinh doanh của các DTTS dưới góc độ tiếp cận hệ sinh thái khởi nghiệp. Quan trọng hơn, nghiên cứu lý thuyết này nhằm chứng minh rằng, bản thân tinh thần khởi nghiệp của người DTTS có thể tạo ra một hệ sinh thái khởi nghiệp ở cấp tiểu vùng. Do đó, nghiên cứu này có thể cung cấp một cách tiếp cận thay thế cho việc phân tích hệ sinh thái khởi nghiệp hiện tại. Dưới góc độ thực tiễn và chính sách, các kết quả nghiên cứu dự kiến có thể mang lại những tác động tích cực đối với những thay đổi chính sách về tinh thần kinh doanh, khởi nghiệp nữ, đặc biệt là đối với doanh nhân DTTS. Ngoài ra, những phát hiện về sự tồn tại của hệ sinh thái khởi nghiệp do tinh thần doanh nhân DTTS tạo ra được ủng hộ, thì nghiên cứu này kêu gọi thay đổi chính sách theo cách mà Chính phủ nên coi nhóm này là một “hệ sinh thái” ở cấp độ tiểu vùng của chính họ, mang đặc trưng của họ so với hệ sinh thái quốc gia với quy mô lớn hơn đáng kể. Nói cách khác, Chính phủ cần xác định chính sách của mình theo hướng “thân thiện hơn” với hệ sinh thái khởi nghiệp cụ thể này. 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ HỆ SINH THÁI KHỞI NGHIỆP CỦA NHÓM DÂN TỘC THIỂU SỐ 2.1. Tổng quan về hệ sinh thái khởi nghiệp Trong bối cảnh phát triển hiện nay, tinh thần khởi nghiệp được công nhận rộng rãi là động cơ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia (Davidsson 2006; Wong và cộng sự 2005; Mason và Brown 2014). Đi cùng với sự phát triển của tinh thần khởi nghiệp, khái niệm “hệ sinh thái khởi nghiệp” cũng nhận được sự quan tâm đáng kể đến từ các học giả, nhà hoạch định chính sách trong những thập kỷ gần đây (Acs và cộng sự, 2014; Auerswald, 2015; Isenberg, 2011; Mack và Mayer, 2016; Spigel, 2015; Stam, 2015). Những 678
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 ý tưởng ban đầu phát triển khái niệm “hệ sinh thái khởi nghiệp” được các học giả hình thành trong giai đoạn những năm 1980, 1990 như là một phần chuyển hướng nghiên cứu về khởi nghiệp từ hướng nghiên cứu dựa trên chủ nghĩa cá nhân, các cá thể sang quan điểm nghiên cứu rộng lớn hơn – cộng đồng – trong đó, bao gồm vai trò của các lực lượng kinh tế, văn hóa, xã hội trong quá trình khởi nghiệp (Nijkamp, 2003). Cho đến nay, chưa có cách tiếp cận tổng thể nào đối với tinh thần khởi nghiệp tập trung vào các khía cạnh liên quan đến nhau của nó (Alvedalen và Boschma, 2017). Nghiên cứu của Van de Ven (1993) chỉ ra rằng, một doanh nhân riêng lẻ không thể kiểm soát tất cả các các yếu tố nguồn lực, thể chế, thị trường và các chức năng kinh doanh cần thiết để phát triển và thương mại hóa các dự án kinh doanh của họ. Trên cơ sở đó, một số học giả nhấn mạnh sự cần thiết nghiên cứu tinh thần khởi nghiệp đặt trong các bối cảnh rộng lớn hơn, ví dụ: nghiên cứu tinh thần khởi nghiệp theo bối cảnh thời gian, đặc điểm khu vực địa lý, kinh tế, xã hội (Autio và cộng sự, 2014; Van de Ven, 1993; Zahra và Wright, 2011; Zahra và cộng sự, 2014). Khái niệm “hệ sinh thái khởi nghiệp” ra đời đáp ứng những yêu cầu của khoảng trống nghiên cứu và thu hút được nhiều sự chú ý trong thời gian ngắn (Stam, 2015; Stam và Spigel, 2017). Cohen là người đầu tiên sử dụng khái niệm “hệ sinh thái khởi nghiệp” và định nghĩa là “một nhóm các tác nhân được kết nối với nhau trong một cộng đồng địa phương, cam kết phát triển bền vững thông qua hỗ trợ và tạo điều kiện cho các dự án phát triển bền vững mới” (Cohen, 2006). Trong nghiên cứu của mình, các học giả nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tương tác giữa các yếu tố trong một hệ thống khởi nghiệp. Kết quả là khái niệm hệ sinh thái khởi nghiệp được phát triển theo hướng đưa ra một “cái nhìn hệ thống về tinh thần khởi nghiệp”. Theo góc độ sinh học, một hệ sinh thái là một hệ thống phức tạp chứa một số các thực thể, trên cơ sở đó, các học giả gọi hệ sinh thái khởi nghiệp là sự tương tác của các điều kiện hệ thống và điều kiện khung, do đó cần xem xét cả thành phần “sinh học” và “phi sinh học” của hệ sinh thái khởi nghiệp (Stam và Spigel, 2017). Tương tự như hệ thống các sinh vật sống được coi là trung tâm của hệ sinh thái trong sinh học, trong tinh thần khởi nghiệp, khi các điều kiện khung đòi hỏi bối cảnh xã hội cho phép hoặc hạn chế sự tương tác của con người, các điều kiện hệ thống, chẳng hạn như mạng lưới khởi nghiệp, khả năng lãnh đạo, yếu tố tài chính, tài năng, kiến thức và các dịch vụ hỗ trợ được coi là trung tâm của một hệ sinh thái khởi nghiệp (Stam và Spigel, 2017). Khái niệm hệ sinh thái khởi nghiệp nhận được sự đồng thuận cao giữa các học giả khi họ đề cập hệ sinh thái khởi nghiệp là một cộng đồng địa phương, bao gồm nhiều bên liên quan đồng hành cùng nhau, cùng cung cấp một môi trường hỗ trợ cho các sáng tạo mạo hiểm mới phát triển. Trong các nghiên cứu của mình, một số học giả đã mô tả sự trỗi dậy của tư duy hệ sinh thái là “làn sóng thứ tư” của phát triển kinh tế (Gines, 2019), trong đó mô hình tập trung vào mạng lưới từ dưới lên, do doanh nhân lãnh đạo được thêm vào. Hoạt động của một hệ sinh thái khởi nghiệp phụ thuộc vào sự tương tác giữa ba yếu tố: cá nhân (doanh nhân), tổ chức và thể chế. Yếu tố cá nhân được tách biệt khỏi yếu tố tổ chức và có tầm quan trọng đặc biệt trong 679
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA một hệ sinh thái khởi nghiệp vì không phải tất cả các doanh nhân đều gắn liền với một công ty khi đang tiến hành xem xét cơ hội thị trường (Qian và cộng sự, 2013). Doanh nhân có vị trí trung tâm trong hệ sinh thái khởi nghiệp, là tác nhân cốt lõi trong việc xây dựng và duy trì hệ sinh thái. Quan điểm này đã được Acs và các cộng sự (2014) đưa ra trong cuốn “Hệ thống doanh nhân quốc gia” với tư cách là “sự tương tác năng động, được gắn kết về mặt thể chế giữa thái độ, khả năng và nguyện vọng kinh doanh của các cá nhân, thúc đẩy việc phân bổ nguồn lực thông qua việc tạo ra và vận hành các dự án mới” (Acs và các cộng sự, 2014). Tinh thần khởi nghiệp được xem xét gắn liền với các mối quan hệ xã hội – (một) mạng lưới (Lefebvre, Radu Lefebvre, và Simon, 2015; Nijkamp, 2003; Stuart và Sorenson, 2005). Theo Johannisson (2000), kết nối mạng lưới rất quan trọng khi các doanh nhân gặp phải những tình huống mới và sắp xếp các mạng lưới dựa theo nhu cầu của họ. Nghiên cứu của Stuart và Sorenson (2005) đã tập trung vào vai trò quan trọng của mạng lưới xã hội địa phương cho phép các doanh nhân tiếp cận với các nguồn lực như: kiến thức, tài chính và vốn nhân lực. Quan điểm của Elfring và Hulsink (2003) cho rằng, các loại quan hệ mạng lưới khác nhau có những ảnh hưởng khác nhau đến việc hình thành và phát triển ban đầu của các doanh nghiệp mới khi những quan hệ mạng lưới này tác động đến các quá trình kinh doanh như: tìm kiếm các cơ hội kinh doanh mới, huy động các nguồn lực và quá trình đạt được sự công nhận hợp pháp (Stam và Elfring, 2008). Hầu hết các khái niệm định nghĩa đều đồng ý rằng, hệ sinh thái khởi nghiệp có ranh giới xác định về mặt địa lý, trong đó ba yếu tố thành phần là: vốn con người, mạng lưới và thể chế có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Nghiên cứu của Johannisson (2000) cũng cho rằng, yếu tố địa lý có vai trò quan trọng đối với tinh thần khởi nghiệp hầu hết các cấu trúc hỗ trợ được tác giả ghi nhận là tổ chức theo không gian và mạng lưới cá nhân tập trung về mặt địa lý, mặc dù các mối quan hệ phi địa phương cũng rất quan trọng. Nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng, tinh thần khởi nghiệp có xu hướng tập trung về mặt địa lý ở các khu vực, thành phố, vùng lân cận và thậm chí cả các tòa nhà cụ thể. Ngay cả ở những khu vực không đặc biệt nổi tiếng về tinh thần khởi nghiệp, các nhà nghiên cứu vẫn có thể tìm thấy ở đó các điểm nóng về tinh thần khởi nghiệp. Thể chế được coi là thành phần quan trọng của một mạng lưới kinh doanh (Johannisson, Ramirez-Pasillas và Karlsson, 2002). Các thể chế như: luật pháp, thái độ văn hóa, chuẩn mực cho phép hoặc không cho phép các định chế hình thành tương tác giữa các cá nhân, công ty và các tổ chức khác (Huggins, Thompson, và Johnston, 2012). Theo quan điểm của Sine và David (2010), các thể chế bao gồm các khía cạnh khác nhau, chẳng hạn như các khía cạnh về quy chuẩn (chuẩn mực và giá trị), nhận thức văn hóa (cách mọi thứ được thực hiện) và quy định (luật và hướng dẫn) tác động trực tiếp đến các quá trình kinh doanh. Những khía cạnh thể chế này ở một số khu vực (địa lý) được hỗ trợ nhiều hơn so với các khu vực khác, do đó có thể dẫn đến sự khác nhau trong tỷ lệ và loại hình của hoạt động kinh doanh cũng như khác biệt trong con đường phát triển của các vùng/khu vực (Gertler, 2010). Các điều kiện hệ thống là yếu tố trung tâm của một hệ sinh thái khởi nghiệp: mạng lưới 680
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 doanh nhân, khả năng lãnh đạo, nguồn lực tài chính, tài năng, kiến thức và các dịch vụ hỗ trợ. Sự hiện diện của các yếu tố này và sự tương tác giữa chúng quyết định chủ yếu tới sự thành công của một hệ sinh thái khởi nghiệp. Mạng lưới doanh nhân cung cấp một mạng lưới thông tin, cho phép phân phối lao động và vốn một cách hiệu quả. Khả năng lãnh đạo giúp cung cấp mô hình mẫu và định hướng cho hệ sinh thái khởi nghiệp. Yếu tố lãnh đạo là yếu tố rất quan trọng trong việc xây dựng và duy trì một hệ sinh thái lành mạnh. Điều này liên quan đến việc hình thành một tập hợp các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cam kết cho sự phát của hệ sinh thái khởi nghiệp, những người “có thể nhìn thấy được”. Việc tiếp cận nguồn tài chính – đặc biệt là những nguồn tài chính do các tổ chức có kiến thức về khởi nghiệp cung cấp – là yếu tố quan trọng đối với các khoản đầu tư vào các dự án kinh doanh không chắc chắn có tầm nhìn dài hạn (Kerr và Nanda, 2009). Sự hiện diện của một nhóm lao động đa dạng và có kỹ năng (yếu tố tài năng) được đánh giá là quan trọng nhất khi xem xét tính hiệu quả của một hệ sinh thái khởi nghiệp (Lee và cộng sự, 2004). Tri thức được đánh giá là suối nguồn cơ hội quan trọng đối với tinh thần khởi nghiệp, tri thức có thể được thu nhận từ các tổ chức công và tư (Audretsch và Lehmann, 2005). Cuối cùng, việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ bởi nhiều bên trung gian về cơ bản có thể hạ thấp đáng kể các rào cản gia nhập đối với các dự án khởi nghiệp mới và giảm thời gian tiếp cận thị trường của các đổi mới (Zhang và Li, 2010). 2.2. Khởi nghiệp của nhóm dân tộc thiểu số Tương tự như các thuật ngữ “doanh nhân” và “tinh thần khởi nghiệp”, thuật ngữ “khởi nghiệp của nhóm DTTS” có thể được hiểu theo nhiều cách. Nói một cách sơ lược, khởi nghiệp của nhóm DTTS là việc một doanh nghiệp tự doanh do một người – không thuộc nhóm dân tộc chính – điều hành và do đó có thể được mô tả bằng tính từ “thiểu số” (Waldinger và cộng sự, 1990; Greene và Butler, 1996; Richtermeyer, 2002). Khái niệm “khởi nghiệp của nhóm DTTS” được hiểu là “một tập hợp các kết nối và các mô hình tương tác thường xuyên giữa những người có chung nền tảng dân tộc hoặc kinh nghiệm di cư” (Waldinger và cộng sự, 1990). Trong nghiên cứu của mình, nhà xã hội học Ivan Light là người đi tiên phong trong khái niệm “khởi nghiệp của nhóm DTTS” là sự thích ứng đối với sự phân biệt đối xử trên thị trường lao động, thúc đẩy người nhập cư, người thuộc nhóm các DTTS chấp nhận các ngách cận biên trong nền kinh tế để có được sự dịch chuyển xã hội đi lên” (Light, 1972). Bên cạnh đó, trong nghiên cứu của mình, Bates và cộng sự (2018) đã đề cập rằng, thành phần của các nhóm xã hội được xác định là thiểu số có thể thay đổi theo thời gian. Sự phụ thuộc vào các đặc điểm của xã hội chính thống cũng như khung thời gian nghiên cứu làm cho khái niệm về “thiểu số” trở nên linh hoạt. Khái niệm “khởi nghiệp của nhóm DTTS” được đánh giá là linh hoạt, năng động và có tính quan hệ, bao gồm nhiều cách hiểu khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh, trường hợp và bối cảnh thời gian. Cần nói thêm rằng, khái niệm thiểu số không chỉ đề cập đến sự hiện diện không đầy đủ trong hệ sinh thái khởi nghiệp mà còn để chỉ sự phân bổ nguồn lực không đồng đều giữa các nhóm DTTS và dân số thống trị (Healey, 2014). Do đó, các doanh nhân nhóm các DTTS thường được coi là một nhóm “thiệt thòi về mặt xã 681
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA hội” (Sonfield, 2001). Thật vậy, theo quan điểm của Ram và cộng sự (2017), các doanh nhân nhóm DTTS và di cư thường chịu nhiều thiệt thòi ngay cả trước khi gia nhập thị trường kinh doanh. Họ có thể gặp nhiều trở ngại trong thị trường kinh doanh như: sự phân biệt đối xử về xã hội và thể chế, thiếu mạng lưới phù hợp, thiếu nguồn nhân lực phù hợp hoặc bị cản trở trong việc tiếp cận các nguồn tài chính cần thiết. Vị trí không thuận lợi này tạo ra những hậu quả lâu dài, được phản ánh trong tỷ lệ thành công của các doanh nghiệp nhóm các DTTS (Amit và Muller, 1995). Doanh nhân nhóm DTTS là chủ doanh nghiệp không đại diện cho phần lớn dân số của một quốc gia. Khởi nghiệp của nhóm DTTS cũng có thể mang lại lợi ích cho cá nhân, xã hội, vùng kinh tế, nền kinh tế và lợi ích toàn cầu. Nghiên cứu của Tolciu và cộng sự (2010) chỉ ra rằng, trong các nghiên cứu khởi nghiệp của nhóm DTTS, khái niệm “dân tộc” được thảo luận theo hai cách khác nhau, đó là nguồn gốc của các doanh nhân hoặc các phương pháp quản lý kinh doanh như dựa vào nhóm khách hàng dân tộc. Thật vậy, theo quan sát thực nghiệm của Casson (1990), nhiều doanh nhân nhóm DTTS không mở rộng cơ sở khách hàng của họ ra bên ngoài cộng đồng dân tộc đó. Vì vậy, hiểu được tầm quan trọng của khởi nghiệp của nhóm DTTS sẽ thực sự hữu ích cho tất cả các bên liên quan. Nền văn hóa độc đáo và hệ thống giá trị của các DTTS là những đặc điểm mong muốn nhất đối với bất kỳ doanh nhân thành đạt nào nói chung. Khi nghiên cứu về khởi nghiệp của nhóm DTTS, khái niệm về “khu vực cộng đồng dân tộc” được hình thành. Khái niệm này lần đầu tiên được xuất hiện trong các nghiên cứu do các nhà xã hội học thực hiện về sự hình thành các khu vực cộng đồng dân tộc ở Mỹ bao gồm các khu vực di cư của người Cuba ở Miami (Portes, 1987; Forment, 1989; Portes và Jensen, 1989), người da đen, người Ý và người Do Thái ở New York (Model, 1985) và người nhập cư Hàn Quốc ở Chicago (Kwang và Won, 1985). Những nghiên cứu này đã thách thức giả định rằng, các vùng đất DTTS nên được xem như “các khu dân cư đơn thuần” và các doanh nghiệp DTTS là “phương tiện khai thác” (Portes và Jensen, 1989). Nghiên cứu cũng xác định tầm quan trọng của kết nối xã hội và vai trò của sự hỗ trợ từ gia đình và cộng đồng đối với các doanh nhân trong các cộng đồng này (Model, 1985; Kwang và Won, 1985). Các nghiên cứu này cũng khẳng định tầm quan trọng của các cơ chế hợp đồng được tạo ra trong một nhóm cũng rất quan trọng trong việc cung cấp khả năng tiếp cận đầu vào, công nghệ và tài chính. Việc hình thành các mạng lưới giúp cung cấp các cơ chế thực thi hợp đồng cũng rất quan trọng, từ đó giúp giảm thiểu chi phí giao dịch trên thị trường. Trong nghiên cứu khởi nghiệp của nhóm các DTTS ở Kenya, Biggs và Raturi (1997) đã nhận thấy rằng, việc thuộc một nhóm DTTS ở Kenya không ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng chính thức như cơ sở thấu chi, nhưng ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận nhà cung cấp tín dụng. Các tác giả cho rằng, luồng thông tin và cơ chế thực thi hợp đồng giải thích khả năng tiếp cận tín dụng nhiều hơn của các thành viên của các nhóm DTTS. Trong giai đoạn 2000 - 2009, các học giả đã thừa nhận sự dịch chuyển kinh tế và xã hội 682
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 đối với các DTTS sẽ đòi hỏi chính sách của Chính phủ và các nghiên cứu học thuật tập trung ít hơn vào yếu tố văn hóa dân tộc và đi sâu vào nghiên cứu tác động của các yếu tố kinh tế, xã hội và thể chế; nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến các khái niệm hỗn hợp đã được xuất bản. Các nghiên cứu này nhấn mạnh giá trị của mạng lưới bản địa hóa trong các khu vực cộng đồng dân tộc, đồng thời lưu ý những tác động tiêu cực của các doanh nghiệp lớn, chẳng hạn như chuỗi cửa hàng quốc gia, khi di chuyển vào các khu vực này, và sự kém hiệu quả, thậm chí là tác động tiêu cực của các chính sách của Chính phủ liên quan đến hỗ trợ doanh nghiệp, bãi bỏ các quy định về thị trường và nhập cư (Barrett và cộng sự, 2002). Các nghiên cứu này cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải tiếp cận khởi nghiệp của nhóm các DTTS một cách tổng thể hơn, tập trung vào yếu tố văn hóa, kinh tế và bối cảnh ngành mà các lực lượng này tham gia hoạt động (Ram và cộng sự, 2017). Thay vì địa lý xã hội và sự tập trung vào yếu tố dân tộc, các hoạt động kinh doanh thành công trong bối cảnh hiện nay được cho là dựa nhiều hơn vào các nguồn tài chính, kỹ năng quản lý và khả năng tiếp cận thông tin thị trường (Ram và cộng sự, 2017). Từ phần trình bày tổng quan ở trên có thể thấy rằng, các nghiên cứu hiện nay trên thế giới cũng ít chú trọng vào khởi nghiệp của nhóm DTTS và càng không xem quá trình khởi nghiệp, sự tương tác trong khởi nghiệp của các chủ thể thuộc nhóm này dưới góc độ của một hệ sinh thái. Ở Việt Nam, cũng rất ít nghiên cứu về khởi nghiệp của nhóm DTTS. Đây là một khoảng trống lớn mà các nhà nghiên cứu cần phân tích trong tương lai. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU 3.1. Cách tiếp cận Nghiên cứu sử dụng phương pháp luận định tính để khám phá nhiều hơn về tinh thần và quá trình khởi nghiệp kinh doanh của các DTTS như một hệ sinh thái khởi nghiệp. Cách tiếp cận định tính cho phép nhóm nghiên cứu có được những hiểu biết phong phú về hệ sinh thái khởi nghiệp đặt trong đối tượng là nhóm DTTS trong phạm vi không gian cụ thể ở tỉnh Sơn La. Phương pháp luận này rất phù hợp với nghiên cứu về khởi nghiệp trong bối cảnh đặc biệt của cộng đồng dân tộc địa phương như ở Sơn La, nơi tồn tại các quy tắc và chuẩn mực truyền thống mang bản sắc địa phương. Thuyết diễn giải – cách tiếp cận điển hình của phương pháp luận định tính được sử dụng giúp làm phong phú thêm hiểu biết về DTTS trong bối cảnh cụ thể ở địa phương. Phương pháp quy nạp được sử dụng để xử lý thông tin/dữ liệu trong nghiên cứu. Bên cạnh các bước đầu tiên bao gồm: sàng lọc làm sạch dữ liệu (dạng văn bản, chữ) và chọn đơn vị phân tích, mã hóa ba bước được áp dụng để tạo ra các chủ đề trong quy trình phân tích chuyên đề. Cách tiếp cận này giúp đi sâu vào các ý nghĩa ẩn của dữ liệu định tính. 683
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA Cuối cùng, chiến lược nghiên cứu trường hợp điển hình được sử dụng vì sự phù hợp của nó trong phân tích sâu sắc các hoạt động hoặc quá trình. Đồng thời, chiến lược nghiên cứu trường hợp điển hình là công cụ nghiên cứu hữu hiệu đối với các nghiên cứu có số lượng người tham gia nghiên cứu hạn chế trong khi vẫn đảm bảo giải thích rõ ràng đối tượng nghiên cứu trong phạm vi thời gian và không gian nghiên cứu. 3.2. Dữ liệu Nghiên cứu sẽ tiến hành thu thập dữ liệu sơ cấp về hệ sinh thái khởi nghiệp với đối tượng được khảo sát là nhóm các doanh nghiệp DTTS ở tỉnh Sơn La. Phỏng vấn sâu được sử dụng trong phân tích định tính nhằm khám phá sâu hơn nữa các khía cạnh của hệ sinh thái khởi nghiệp đặt trong nhóm đối tượng nghiên cứu điển hình. Nhóm tác giả dự kiến sẽ tiến hành phỏng vấn sâu 10 doanh nhân khởi nghiệp là người DTTS trên địa bàn tỉnh Sơn La trong khoảng thời gian từ tháng 9/2021 tới tháng 3/2022 bằng cả hình thức trực tuyến và trực tiếp, phù hợp với bối cảnh của dịch bệnh. Bên cạnh đó, nhóm tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn và tổng quan nghiên cứu để thu thập dữ liệu thứ cấp. Với nghiên cứu tại bàn, các dữ liệu thu thập được từ các sách và tạp chí học thuật, các báo cáo cấp ngành và vi mô… sẽ được sử dụng cho phân tích tổng quan. Bước tiếp theo, khung lý thuyết sẽ được xây dựng dựa vào quá trình tổng quan nghiên cứu và thực trạng về hệ sinh thái khởi nghiệp của nhóm DTTS sẽ được phân tích dựa trên các dữ liệu thứ cấp thu thập được. 3.3. Phân tích dữ liệu Dữ liệu sơ cấp định tính được nhóm nghiên cứu xử lý bằng cách sử dụng phương pháp phân tích theo chủ đề (thematic analysis). Đây là phương pháp được áp dụng phổ biến trong các nghiên cứu định tính. 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Các đặc trưng của hệ sinh thái khởi nghiệp của nhóm dân tộc thiểu số tỉnh Sơn La 4.1.1. Sự liên kết chặt chẽ giữa các chủ thể tham gia Sự liên kết giữa các chủ thể tham gia hệ sinh thái khởi nghiệp đóng một vai trò rất quan trọng. Nó như một kênh truyền dẫn những thông tin và nguồn lực quan trọng trong quá trình thực hiện khởi nghiệp của doanh nhân. Nếu mối liên kết này mạnh thì quá trình khởi nghiệp dễ dàng nhận được sự hỗ trợ trong mạng lưới của hệ sinh thái và ngược lại. Đối với trường hợp nghiên cứu tại tỉnh Sơn La, nghiên cứu này phát hiện ra rằng, sự hình thành của một hệ sinh thái cấp tiểu vùng tương đối rõ ràng. Mạng lưới liên kết các bên trong hệ sinh thái thể hiện rõ nhu cầu kết nối giữa doanh nhân, người lao động, chính quyền địa phương và nhà cung ứng. Trong trường hợp khởi nghiệp thuộc lĩnh vực nông nghiệp, điều này thể hiện như sau: 684
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 “Ở đây, chúng tôi liên kết với nhau rất chặt chẽ theo một quy trình chuẩn. Chính quyền địa phương hỗ trợ thông tin chính sách và kết nối giúp với chuyên gia, bà con địa phương thì lao động trong này hoặc trở thành những hộ sản xuất nhỏ nằm trong một tổ chức sản xuất lớn của chúng tôi. Chúng tôi cũng có mối quan hệ tốt với các bên cung cấp cây giống…” (NV1) Các liên kết này xuất phát từ nhu cầu cũng như đòi hỏi theo đặc tính của lĩnh vực, đặc biệt là với lĩnh vực nông nghiệp. “Nếu không liên kết với nhau thì không làm được vì mỗi người đều như một mắt xích. Anh có giỏi đến đâu thì cũng không thể tự mình làm hết được, vẫn cần chuyên môn hóa và liên kết”. (NV5) “Thực tế cho thấy là khi chúng tôi tìm kiếm những hỗ trợ từ các bên thì họ cũng rất sẵn sàng. Lúc đầu, khi hợp tác cũng khó khăn những càng hợp tác thì càng thấy hiệu quả và muốn hợp tác lâu dài hơn…” (NV7) Sự liên kết này là một quá trình tích lũy theo thời gian mà tiền đề của nó chính là niềm tin nhìn vào chính người doanh nhân cũng như thành quả bước đầu của quá trình hợp tác. “Khi địa phương họ thấy mình mới làm, họ cũng chưa tin tưởng để làm chung đâu. Dần dần, khi thấy mình cũng làm ăn uy tín, cũng sẵn sàng hỗ trợ họ thì họ cởi mở hơn và sẵn sàng tham gia…” (NV10) Các nguồn lực huy động vào quá trình khởi nghiệp được tích lũy chủ yếu bởi doanh nhân nhưng cũng có sự hỗ trợ của tổ chức tài chính mà địa phương đóng vai trò trung gian quan trọng. “Mình chỉ khởi nghiệp nhỏ thôi, nhưng lúc mình không có đủ vốn để khởi nghiệp thì địa phương và ngân hàng đã hỗ trợ mình rất nhiều. Các anh, chị ở xã còn động viên mình cứ làm đi, thủ tục giấy tờ thì các anh, chị ấy hỗ trợ… ngân hàng cũng hỗ trợ tối đa…” (NV10) 4.1.2. Vai trò quan trọng của quá trình “học hỏi” Học hỏi là một quá trình tích lũy tri thức, kinh nghiệm có thể ở cả cấp độ cá nhân và tổ chức. Những người tham gia phỏng vấn cho rằng, họ trau dồi tri thức và kinh nghiệm cho chính họ và tổ chức của họ. Bên cạnh đó, tri thức và kinh nghiệm còn được lan tỏa từ doanh nhân cho chủ thể khác trong hệ sinh thái. 685
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “Khi những người khác muốn khởi nghiệp như mình, anh sẵn sàng chia sẻ những gì đã biết, đã làm để họ học, anh không giấu nghề. Người dân ở đây còn khó khăn, họ muốn lập nghiệp thì mình giúp thôi…” (NV5) Học hỏi trở thành một quá trình tích lũy của các cá nhân doanh nhân trong hệ sinh thái cấp tiểu vùng. Nghiên cứu này chỉ ra rằng, học hỏi trước hết bắt đầu từ tri thức và kỹ thuật đối với lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động. Tri thức được tích lũy theo một tiến trình trong nhiều năm với sự chủ động học hỏi rất cao của chủ doanh nghiệp. “Mình kinh doanh trong ngành này cũng là “tay ngang” thôi nên lúc đầu không biết gì về nó. Mình chủ động tham gia vài khóa học ngắn về ngành này rồi cứ thế khi đã có chút kiến thức thì tiếp tục trau dồi…” (NV8) “Muốn kinh doanh được thì phải học! Học ở đây bao gồm cả học kỹ thuật và kiến thức. Mình kinh doanh mảng nông nghiệp nên nếu không hiểu về kỹ thuật trồng trọt, cây con thì không được. Đấy là còn chưa kể tới học kỹ năng và kiến thức về kinh doanh, marketing…” (NV9) Học hỏi và chia sẻ mang lại sự cải thiện đáng kể về kết quả sản xuất và hiệu quả kinh doanh. Trong trường hợp của hệ sinh thái cấp tiểu vùng ở Sơn La, những tri thức được chia sẻ đã góp phần tích cực vào quá trình sản xuất và mô hình kinh doanh của những doanh nghiệp trong cùng ngành. “Khi gặp anh em, tham quan mô hình phát triển của họ, tôi thấy rằng, có những cái họ làm rất hay và mình cần học hỏi. Tất nhiên, mình không bê nguyên mô hình vào của mình nhưng có những điểm rất hay…” (NV7) “Trước đây, mình chỉ canh tác rau quả để bán thôi nhưng kể từ lần đi tham quan mô hình của một ông anh, cách đây hai năm, thì mình cũng mở cửa cho khách du lịch vào đây, vừa giới thiệu sản phẩm, vừa thu được phí tham qua và duy trì được lượng khách về sau…” (NV6) 4.1.3. Có sự lan tỏa tri thức bởi chủ thể nước ngoài Trong hệ sinh thái cấp tiểu vùng ở Sơn La, nghiên cứu này chỉ ra rằng, chủ thể là cá nhân và tổ chức nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong quá trình lan tỏa tri thức và kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh. Các chủ doanh nghiệp chủ động tìm hiểu những tri thức mới từ các 686
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 cá nhân và tổ chức nước ngoài nhằm chuẩn bị cho quá trình nâng cao và tiếp cận chuẩn mực chất lượng quốc tế. Điều này xuất phát từ thực tế rằng, những doanh nghiệp trên địa bàn Sơn La có chủ doanh nghiệp là người DTTS tham gia nghiên cứu này phần lớn là tự khởi nghiệp. “Mình thấy các đối tác và mối quan hệ của họ có quan tâm tới mô hình sản xuất kinh doanh này nên mình chủ động mở lời với họ để học hỏi thêm…” (NV5) “Nhân dịp được tham gia khóa tập huấn có đoàn chuyên gia của nước ngoài, tôi chủ động kết nối với họ, không ngờ họ lại thích cách làm hiện nay của chúng tôi và nhận lời hỗ trợ, đặc biệt là kỹ thuật…” (NV9) 4.2. Các rào cản và thách thức đối với việc hình thành, phát triển một hệ sinh thái khởi nghiệp của nhóm dân tộc thiểu số tại tỉnh Sơn La Các kết quả của phỏng vấn sâu cũng chỉ ra một số rào cản trong quá trình phát triển của hệ sinh thái khởi nghiệp cấp tiểu vùng của Sơn La hiện nay. Một là, mối liên kết giữa các hộ dân sản xuất với cơ sở sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp bộc lộ một số rủi ro. Các rủi ro này xuất phát từ thực tế rằng, ràng buộc giữa hộ gia đình và tổ chức mang tính “phi chính thức”, dựa trên cơ sở của sự tin tưởng lẫn nhau. Vì thế, vấn đề phá vỡ cam kết xuất hiện như một điều tất yếu. Hai là, vấn đề về thương hiệu đối với các sản phẩm của vùng vẫn chưa được chú trọng. Điều này phổ biến ở nhóm các cơ sở sản xuất - kinh doanh có quy mô nhỏ, rất nhỏ. Ba là, các hỗ trợ kỹ thuật và kinh nghiệm chưa được thực hiện liên tục và thiếu tính kế hệ thống, kế thừa. Các hỗ trợ về chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi tri thức kỹ thuật - kinh doanh phụ thuộc phần lớn vào chính cá nhân và tổ chức, trong khi sự hỗ trợ từ bên ngoài (địa phương, chuyên gia…) lại không thể dự báo trước. Mặt khác, vì thiếu một kế hoạch và tầm nhìn tổng thể nên quá trình hỗ trợ mang tính ngắn hạn và rời rạc, không đồng bộ và kế hoạch giữa những lần hỗ trợ này. 5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Nghiên cứu này cho thấy một hệ sinh thái cấp tiểu vùng đang được hình thành và phát triển ở Sơn La và rộng hơn là khu vực miền núi phía Bắc. Việc nghiên cứu khởi nghiệp của nhóm DTTS dưới cách tiếp cận hệ sinh thái có ý nghĩa quan trọng vì nó cho phép thấy được các mối liên hệ và tương tác trong quá trình khởi nghiệp. Nghiên cứu này chỉ ra rằng, hệ sinh thái cấp tiểu vùng ở Sơn La thể hiện những liên kết mạnh giữa các chủ thể và tri thức có một vai trò quan trọng. Bên cạnh đó, những rào cản về thương hiệu, tính hệ thống của các hỗ trợ và tính rủi ro của quá trình hợp tác cũng là những vấn đề cần được quan tâm. 687
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA Dựa trên các phát hiện của nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đề xuất một số hàm ý chính sách sau đây: Thứ nhất, chính quyền địa phương có thể đóng một vai trò quan trọng như một “đầu mối”, chẳng hạn trong việc lập kế hoạch dài hạn cho sự hỗ trợ và kết nối với các chủ thể bên ngoài vùng. Thứ hai, các ràng buộc giữa các chủ thể trong hệ sinh thái tiểu vùng cần được thể chế hóa bằng hình thức hợp đồng. Thứ ba, vấn đề thương hiệu và xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm của địa phương cần được chú trọng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Acs, Z. J., Autio, E., & Szerb, L. (2014), “National systems of entrepreneurship: Measurement issues and policy implications”, Research Policy, 43(3), 476 - 494. 2. Alvedalen, J. and Boschma, R. (2017), “A critical review of entrepreneurial ecosystems research: towards a future research agenda”, European Planning Studies, Vol. 25 No. 6, pp. 887 - 903. 3. Amit, Raphael, and Muller, Eitan (1995), “Push” and “Pull” Entrepreneurship, Journal of Small Business and Entrepreneurship, 12 (4), pp. 64 - 80. 4. Audretsch, D. B. & Lehmann, E. E. (2005), “Does the knowledge spillover theory of entrepreneurship hold for regions?”, Research Policy, 34(8), pp. 1191 - 1202. 5. Auerswald, P. (2015), Enabling entrepreneurial ecosystems. In D. Audretsch, A. Link, & M. L. Walsok (Eds.), The Oxford handbook of local competitiveness (pp. 54 - 83). Oxford: Oxford University Press. 6. Autio, E., Kenney, M., Mustar, P., Siegel, D., & Wright, M. (2014), “Entrepreneurial innovation: The importance of context”, Research Policy, 43(7), 1097 - 1108. 7. Barrett, G., Jones, T., McEvoy, D., & McGoldrick, C. (2002), “The economic embeddedness of immigrant enterprise in Britain”, International Journal of Entrepreneurial Behavior & Research, 8(1/2), 11 - 31. 8. Bates, Timothy, Bradford, William, D., and Seamans, Robert (2018), “Minority Entrepreneurship in Twenty-First Century America”, Small Business Economics, 50, pp. 415 - 427. 9. Biggs, Tyler and Mayank Raturi (1997), “Ethnic Ties and Access to Credit: Evidence from the Manufacturing Sector in Kenya”, Working Paper, Regional Program on Enterprise Development, Washington, DC: The World Bank. 688
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 10. Casson, Marc (1990), “Entrepreneurship”, Aldershot, Hants, UK: Edward Elgar. 11. Cohen, B. (2006). Sustainable valley entrepreneurial ecosystems. Business Strategy and the Environment, 15(1), 1 - 14. 12. Davidsson, P. (2005) Researching Entrepreneurship (New York, NY: Springer-Verlag). 13. Elfring, T., & Hulsink, W. (2003), “Networks in entrepreneurship: The case of high- technology firms”, Small Business Economics, 21(4), 409 - 422. 14. Feld, B. (2012), Startup communities: Building an entrepreneurial ecosystem in your city. Hoboken, NJ: John Wiley & Sons. 15. Forment, C.A. (1989), “Political Practice and the Rise of an Ethnic Enclave - The Cuban American Case, 1959 - 1979.” Theory and Society 18(1): 47 - 81. 16. Gertler, M. S. (2010), “Rules of the game: The place of institutions in regional economic change”, Regional Studies, 44(1), 1 - 15. 17. Gines, D. (2019), The importance of inclusive entrepreneurial ecosystems. Federal Reserve Bank of Kansas City. 18. Greene, Patricia, G., and Butler, John Sibley (1996), “The Minority Community as a Natural Business Incubator”, Journal of Business Research, 36, pp. 51 - 58. 19. Healey, Joseph F. (2014), Diversity and Society: Race, Ethnicity and Gender, 4th-ed. Thousand Oaks, CA: Sage. 20. Huggins, R., Thompson, P., & Johnston, A. (2012), “Network capital, social capital, and knowledge flow: How the nature of inter-organisational networks impacts on innovation”, Industry and Innovation, 19, 203 - 232. 21. Isenberg, D. J. (2010), “How to start an entrepreneurial revolution”, Harvard Business Review, 88(6), 41 - 50. 22. Isenberg, D. J. (2011), “The entrepreneurship ecosystem strategy as a new paradigm for economic policy: Principles for cultivating entrepreneurship”, the Babson entrepreneurship ecosystem project. Wellesley, MA: Babson College. 23. Johannisson, B., Ramirez-Pasillas, M., & Karlsson, G. (2002), “The institutional embeddedness of local inter-firm networks: A leverage for business creation”, Entrepreneurship and Regional Development, 14(4), 297 - 315. 24. Johannisson, B., Ramirez-Pasillas, M., & Karlsson, G. (2002), “The institutional embeddedness of local inter-firm networks: A leverage for business creation”, Entrepreneurship and Regional Development, 14(4), 297 - 315. 25. Kerr, W. R. & Nanda, R. (2009), “Democratizing entry: Banking deregulations, financing constraints, and entrepreneurship”, Journal of Financial Economics, 94(1), 689
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA pp. 124 - 149. Kwang, C.K., and M.H. Won. 1985. “Ethnic Resources Utilization of Korean Immigrant Entrepreneurs in the Chicago Minority Area.” International Migration Review 19(1): 82 - 111. 26. Lee, S. Y., Florida, R., & Acs, Z. J. (2004), “Creativity and entrepreneurship: A regional analysis of new firm formation”, Regional Studies, 38(8), pp. 879 - 891. 27. Lefebvre, V., Radu Lefebvre, M., & Simon, E. (2015), “Formal entrepreneurial networks as communities of practice: A longitudinal case study”, Entrepreneurship and Regional Development, 27(7 - 8), 500 - 525. 28. Light, Ivan. (1972), Ethnic enterprise in America. Berkeley: University of California Press. 29. Mack, E., & Mayer, H. (2016), “The evolutionary dynamics of entrepreneurial ecosystems”, Urban Studies. 30. Mason, C., & Brown, R. (2014), “Entrepreneurial ecosystems and growth oriented entrepreneurship”, Background paper prepared for the workshop organised by the OECD LEED Programme and the Dutch Ministry of Economic Affairs on Entrepreneurial ecosystems and Growth oriented entrepreneurship, The Hague, Netherlands. 31. Model, S. (1985), “A comparative perspective on the ethnic enclave: Blacks, Italians, and Jews in New York city.” International Migration Review 19(1): 64 - 81. 32. Nijkamp, P. (2003), “Entrepreneurship in a modern network economy”, Regional Studies, 37(4), 395 - 405. 33. Portes, A. (1987), “The social origins of the Cuban enclave economy of Miami.” Sociological Perspectives 30(4): 340 - 372. 34. Portes, A., and L. Jensen (1989), “The Enclave and the Entrants: Patterns of Ethnic Enterprise in Miami before and after Mariel.” American Sociological Review 54(6): 929 - 949. 35. Qian, H., Acs, Z. J., & Stough, R. R. (2013), “Regional systems of entrepreneurship: The nexus of human capital, knowledge and new firm formation”, Journal of Economic Geography, 13(4), 559 - 587. 36. Ram, Monder, Jones, Trevor, and Villares-Varela, María (2017), “Migrant Entrepreneurship: Reflections on Research and Practice”, International Small Business Journal, 35 (1), 3 - 18. 37. Richtermeyer, Gwen (2002), Minority Entrepreneurs: A Review of Current Literature. 38. Sine, W. D., & David, R. J. (2010), Institutions and entrepreneurship. Research in the Sociology of Work, 21, 1 - 26. 39. Sonfield, Matthew C. (2001), “Re-defining “Minority Business”: Challenges and Opportunities,’ Journal of Developmental Entrepreneurship, 6 (3), pp. 269 - 276. 690
- KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 40. Spigel, B. (2015), The relational organization of entrepreneurial ecosystems. Entrepreneurship Theory and Practice. 41. Stam, E. (2015), “Entrepreneurial ecosystems and regional policy: A sympathetic critique”, European Planning Studies, 23(9), 1759 - 1769. 42. Stam, E., & Spigel, B. (2017), “Entrepreneurial ecosystems”, in R. Blackburn, D. De Clercq, J.Heinonen, & Z. Wang (Eds.), The SAGE handbook of small business and entrepreneurship. London: SAGE. 43. Stam, W., & Elfring, T. (2008), “Entrepreneurial orientation and new venture performance: The moderating role of intra - and extraindustry social capital”, Academy of Management Journal, 51(1), 97 - 111. 44. Stuart, T. E., & Sorenson, O. (2005), “Social networks and entrepreneurship” In S. A. Alvarez, R. Agarwal, & O. Sorenson (Eds.), Handbook of entrepreneurship research: Disciplinary Perspectives (pp. 233 - 252). New York, NY: Springer. 45. Tolciu, Andreia, Schaland, Ann-Julia, and El-Cherkeh, Tanja (2010), “Migrant entrepreneurship in Hamburg: Results from a qualitative study with Turkish entrepreneurs”, HWWI Research Paper, 3 (22), 1 - 30. 46. Van de Ven, H. (1993), “The development of an infrastructure for entrepreneurship”, Journal of Business Venturing, 8(3), 211 - 230. 47. Waldinger, Roger, Aldrich, Howard E., and Ward, Robin (eds.) (1990), Ethnic Entrepreneurs. London: Sage. 48. Wong, P., Ho, Y., & Autio, E. (2005), “Entrepreneurship, innovation and economic growth: Evidence from GEM data”, Small Business Economics, 24(3), pp. 335 - 350. World Economic Forum. (2013), Entrepreneurial ecosystems around the globe and company growth dynamics. Davos: World Economic Forum. 49. Zahra, S. A., & Wright, M. (2011), “Entrepreneurship’s next act”, Academy of Management Perspectives, 25(4), 67 - 83. 50. Zahra, S. A., Wright, M., & Abdelgawad, S. G. (2014), “Contextualization and the advancement of entrepreneurship research”, International Small Business Journal, 32(5), 479 - 500. 51. Zhang, Y. & Li, H. (2010), “Innovation search of new ventures in a technology cluster: The role of ties with service intermediaries”, Strategic Management Journal, 31(1), pp. 88 - 109. 691
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tạp chí Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo - Số 44/2018
24 p | 45 | 9
-
Các nhân tố tác động đến quyết định khởi nghiệp của thanh niên tại thành phố Hồ Chí Minh
7 p | 42 | 5
-
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành Kinh tế trường Đại học Công nghệ Tp. Hồ Chí Minh (HUTECH)
6 p | 35 | 4
-
Giáo dục và kiến thức khởi nghiệp có ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp - vai trò trung gian của thái độ khởi nghiệp
18 p | 6 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn