Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của thức ăn đến tốc độ sinh trưởng của thằn lằn bóng hoa Mabuya multifasciata
lượt xem 13
download
Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của thức ăn đến tốc độ sinh trưởng của thằn lằn bóng hoa Mabuya multifasciata được nghiên cứu nhằm bước đầu thử nghiệm nuôi thằn lằn bóng hoa trong điều kiện nhân tạo; khảo sát chất lượng của các loại thức ăn khác nhau ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của thằn lằn bóng hoa thông qua các chỉ tiêu: cân nặng, chiều dài thân; xác định loại thức ăn thích hợp nhất, tốt nhất cho sự sinh trưởng và phát triển của thằn lằn bóng hoa.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của thức ăn đến tốc độ sinh trưởng của thằn lằn bóng hoa Mabuya multifasciata
- LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của tôi. Những kết quả theo dõi ghi chép trong quá trình nghiên cứu và các số liệu thực tế trong đề tài này, chưa được ai công bố dưới bất kì hình thức nào. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước nhà trường về lời cam đoan này. Đà Lạt, ngày 23 tháng 05 năm 2012. Tác giả. NGÔ THỊ NGÂN HÀ.
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, ngoài sự cố gắng, nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của quý thầy cô và các bạn. Trước tiên tôi xin gởi tới Th.S Nguyễn Thị Thùy Linh – người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài, lòng biết ơn sâu sắc. Tôi xin cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Đà Lạt đã giảng dạy tôi trong bốn năm qua, những kiến thức mà tôi nhận được trên giảng đường đại học sẽ là hành trang giúp tôi vững bước trong tương lai. Xin gởi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô cùng các bạn sinh viên khoa Sinh học đã luôn động viên, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để tôi có thể thực hiện đề tài một cách tốt nhất. Xin cảm ơn Bố, Mẹ và tất cả bạn bè đã luôn ủng hộ, giúp đỡ tôi trong cuộc sống, trong học tập, nghiên cứu để tôi hoàn thành khóa luận của mình.
- DANH MỤC BẢNG Bảng 1. Tăng trưởng trọng lượng các nhóm của ba lô thức ăn...................................................26 Bảng 2. Tăng trưởng chiều dài các nhóm của ba lô thức ăn........................................................30
- DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 1. Biểu đồ tăng trưởng trọng lượng của các nhóm lô đối chứng.................................23 Biểu đồ 2. Biểu đồ tăng trưởng trọng lượng của các nhóm lô thức ăn cá + cám......................24 Biểu đồ 3. Biểu đồ tăng trưởng trọng lượng của các nhóm lô thức ăn thịt + cám.....................25 Biểu đồ 4. Biểu đồ tăng trưởng trọng lượng của các nhóm trong ba lô thức ăn........................26 Biểu đồ 5. Biểu đồ tăng trưởng trọng lượng của thằn lằn bóng hoa giữa ba lô.......................28 Biểu đồ 6. Biểu đồ tăng trưởng chiều dài của các nhóm trong ba lô thức ăn............................30 Biểu đồ 7. Biểu đồ tăng trưởng chiều dài thằn lằn bóng hoa giữa ba lô...................................32
- DANH MỤC HÌNH ẢNH Hình 1. Chuồng nuôi thằn lằn bóng hoa.......................................................................................18 Hình 2. Thức ăn của thằn lằn bóng hoa ở lô đối chứng..............................................................19 Hình 3. Thức ăn thịt + cám (tỷ lệ 2:1)...........................................................................................19 Hình 4. Thức ăn cá + cám (tỷ lệ 2:1)............................................................................................20 Hình 5. Mô hình chuồng nuôi........................................................................................................21 Hình 6. Mô hình bên trong chuồng nuôi........................................................................................22
- MỤC LỤC
- Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà MỞ ĐẦU Việt Nam là một nước nằm trong vùng nhiệt đới với hệ sinh thái hết sức đa dạng, phong phú với nhiều loài động thực vật khác nhau, đặc biệt là bò sát. So với những nước hay khu vực có diện tích tương tự thì bò sát ở Việt Nam khá đa dạng. Đến nay đã thống kê được khoảng gần 296 loài thuộc 3 bộ (theo Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc, Nguyễn Văn Trường, 2005). Bò sát là nhóm động vật có xương sống đầu tiên thích nghi với đời sống trên cạn hoàn toàn, chúng không lệ thuộc vào ẩm độ của môi trường, nhờ có bộ da hóa sừng không thấm nước và khí. Do đó bò sát phân bố rộng rãi trên mọi vùng khí hậu của Trái đất, trừ vùng cực. Trong hệ sinh thái, bò sát là một mắt xích thức ăn quan trọng trong chuỗi, lưới thức ăn của quần xã sinh vật. Đa số các loài bò sát thường ăn các loài côn trùng, gặm nhấm, thân mềm, nên chúng có ý nghĩa nhất định trong nông nghiệp về việc tiêu diệt các loài hại cây trồng, mùa màng,… Ngược lại, chúng cũng là thức ăn cho các loài động vật khác. Bò sát không những có vai trò quan trọng trong thiên nhiên mà còn có vai trò quan trọng với đời sống con người như cung cấp nguyên liệu, thực phẩm (rắn, thằn lằn, kì đà, rùa, trăn,…), lấy da, xương (trăn, rắn, đồi mồi, cá sấu,…), làm thuốc (rắn, thằn lằn, kì đà,…) Thằn lằn bóng hoa Mabuya multifasciata thuộc họ thằn lằn bóng, là loài bò sát phân bố phổ biến ở Việt Nam và một số nước nhiệt đới, cận nhiệt đới trên thế giới. Thức ăn chủ yếu của chúng là các loại côn trùng, trong đó đa số là côn trùng gây hại nông nghiệp. Bên cạnh đó, chúng cũng là thức ăn cho các nhóm động vật khác như chim, thú và các loài bò sát lớn hơn. Hiện nay các món ăn được chế biến từ loài bò sát này đang được rất nhiều người ưa chuộng, nhất là ở miền Tây. Khi được chế biến thành món ăn thì ngoài vị ngọt, mềm của thịt ra thì chúng còn có nhiều chất dinh dưỡng không thua gì các loài động vật khác, ngoài ra nhiều người mua thằn lằn bóng hoa về dùng làm thuốc trị bệnh. Theo các bài thuốc dân gian thì thịt của chúng có thể dùng để chữa bệnh gầy yếu, xanh xao, chậm lớn, hen suyễn ở trẻ em. Thời gian gần đây cũng có rất nhiều hộ gia đình Trang 1
- Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà nuôi thằn lằn bóng hoa để kinh doanh, phát triển kinh tế gia đình. Kỹ thuật cũng như mô hình nuôi chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của những người nuôi trước, mà chưa có nghiên cứu nào về các điều kiện ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng của chúng cũng như ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau lên sự sinh trưởng, phát triển của thằn lằn bóng hoa. Để góp phần nghiên cứu thêm về thằn lằn bóng hoa ở Đà Lạt, đặc biệt là khảo sát ảnh hưởng của nhân tố thức ăn đến sự phát triển của chúng, chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài: “Ảnh hưởng của thức ăn đến tốc độ sinh trưởng của thằn lằn bóng hoa Mabuya multifasciata” Đề tài này nhằm giải quyết những nội dung sau: Bước đầu thử nghiệm nuôi thằn lằn bóng hoa trong điều kiện nhân tạo. Khảo sát chất lượng của các loại thức ăn khác nhau ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của thằn lằn bóng hoa thông qua các chỉ tiêu: cân nặng, chiều dài thân. Xác định loại thức ăn thích hợp nhất, tốt nhất cho sự sinh trưởng và phát triển của thằn lằn bóng hoa. Chúng tôi cố gắng hoàn thiện đề tài trong điều kiện cho phép, tuy nhiên do thời gian và trình độ nghiên cứu còn hạn chế, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự góp ý của quý thầy cô và các bạn quan tâm đến vấn đề này. Trang 2
- Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Tình hình nghiên cứu về Thằn lằn bóng hoa (Mabuya multifasciata) trên thế giới và Việt Nam 1.1.1. Trên thế giới Thằn lằn bóng hoa hay rắn mối có tên khoa học là Mabuya multifasciata, được Kulh mô tả lần đầu tiên và đặt tên là Scincus multifasciata vào năm 1820, thuộc họ thằn lằn bóng Scincidae [11]. Giống thằn lằn bóng hiện gồm 90 loài, phân bố ở Châu Phi, Châu Mỹ và Châu Á. [12]. Vị trí phân loại của thằn lằn bóng hoa: Lớp Bò sát: Reptilia Phân lớp không cung: Anapsida Bộ có vẩy: Squamata Phân bộ thằn lằn: Sauria hay Lacertilia Họ thằn lằn bóng: Scincidae Giống: Mabuya Loài: Mabuya multifasciata (Kuhl, 1820). Tên Việt Nam: Thằn lằn bóng hoa, thằn lằn, rắn mối. Tên tiếng Anh: Many – lined sun skink [13]. Trang 3
- Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà Thằn lằn bóng hoa phân bố rộng rãi ở các vùng trên thế giới. Ở Châu Á thằn lằn bóng hoa phân bố ở Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Myanmar, Lào, Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Singapore, Indonesia và Philippine [6]. Về đặc điểm hình thái, thằn lằn bóng hoa vùng Châu Á có da được phủ bởi lớp vảy, bóng, có chân nhỏ. Chúng có thể được nhận ra nhờ 5 – 6 đường đậm song song dọc thành bụng. Dọc bên thân có thể có màu từ vàng nâu đến đỏ cam. Vùng họng có thể có màu từ trắng đến vàng. Chiều dài từ miệng đến lỗ huyệt 13cm, chiều dài toàn cơ thể 35cm [6]. Một số tác giả khác mô tả loài thằn lằn bóng hoa ở Đông Nam châu Á dài khoảng 23cm, con đực thường có tập tính bảo vệ lãnh thổ và có nhiều màu sắc hơn con cái. Thức ăn chủ yếu của chúng là côn trùng [6]. Một vài tài liệu lại mô tả loài thằn lằn bóng hoa ở Đông Nam Châu Á ăn dế, mọt bột và những loài côn trùng khác. Cần nước sạch vào mọi lúc [6]. Nhìn chung những nghiên cứu về thằn lằn bóng hoa trên thế giới chủ yếu tập trung vào vùng phân bố và hình thái bên ngoài của chúng mà chưa có tài liệu cụ thể nào nghiên cứu về ảnh hưởng của thức ăn và chế độ dinh dưỡng lên tốc độ sinh trưởng của thằn lằn bóng hoa. 1.1.2. Ở Việt Nam Ở nước ta, Morice là người đặt nền móng đầu tiên cho việc nghiên cứu về bò sát. Năm 1875, ông đã tiến hành thu thập mẫu vật các loài Bò sát ở khu vực Nam Bộ và lập nên danh sách các loài Bò sát ở khu hệ này, tạo nền tảng cho các công trình nghiên cứu khoa học về nhóm động vật này ở nước ta vào thế kỷ 19 [20]. Những nghiên cứu về Bò sát ở Bắc Bộ có J. Anderson (1878), ở Nam Bộ có J. Tirant (1885), G. Boulenger (1890), Flower (1896). Công trình nghiên cứu đáng chú ý là của Bourret R. và các cộng sự trong khoảng thời gian từ 1924 đến 1944, đã thống kê, mô tả được 177 loài và loài phụ Thằn lằn, 245 loài và loài phụ Rắn, 44 loài và loài phụ Rùa trên toàn Đông Dương. Trong đó có nhiều loài của miền Bắc Việt Nam (Bourret R. 1936, 1941, 1942). Đáng chú ý là những công trình nghiên cứu của Bourret R có nói nhiều đến Bò sát ở khu vực Bắc Trung Bộ. Ông công bố và bổ sung nhiều loài cho danh lục Bò sát, Ếch nhái (Bourret R. 1934, 1937, 1939, 1940, 1943) [20]. Từ năm 1954, nghiên cứu về khu hệ Bò sát, Ếch nhái Việt Nam mới được tiến hành ở Miền Bắc. Đào Văn Tiến (1960) nghiên cứu khu hệ động vật có xương sống ở Trang 4
- Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà Vĩnh Linh đã thống kê được nhóm Bò sát, Ếch nhái có 12 loài. Năm 1977, nghiên cứu xây dựng các đặc điểm định loại, khoá định loại Ếch nhái Việt Nam và công bố 87 loài Ếch nhái thuộc 3 bộ 12 họ. Năm 1979, nghiên cứu xây dựng khoá định loại thằn lằn Việt Nam và thống kê 77 loài thằn lằn trong đó có 6 loài lần đầu tiên phát hiện ở Việt Nam. Năm 19811982, nghiên cứu các đặc điểm phân loại, xây dựng khoá định loại và đã xác định ở Việt Nam có 167 loài rắn thuộc 9 họ 69 giống [20]. Trần Kiên, Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc (1981) nghiên cứu Bò sát, Ếch nhái từ năm 1956 1975 trên toàn Miền Bắc thống kê được 159 loài bò sát thuộc 2 bộ, 19 họ và 69 loài Ếch nhái thuộc 3 bộ, 9 họ [20]. Trần Kiên, Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc (1985) báo cáo danh lục khu hệ Bò sát, Ếch nhái Việt Nam gồm 160 loài Bò sát và 90 loài Ếch nhái. Các tác giả còn phân tích sự phân bố địa lý, theo sinh cảnh và ý nghĩa kinh tế của các loài [20]. Hoàng Xuân Quang (1993) điều tra thống kê danh lục Bò sát, Ếch nhái ở các tỉnh Bắc Trung Bộ gồm 94 loài Bò sát xếp trong 59 giống 17 họ và 34 loài Ếch nhái của 14 giống 7 họ. Tác giả đã bổ sung cho danh lục Bò sát, Ếch nhái Bắc Trung Bộ 23 loài, phát hiện bổ sung cho vùng phân bố 9 loài. Bên cạnh đó tác giả còn phân tích sự phân bố các loài theo sinh cảnh và quan hệ với các khu phân bố Bò sát, Ếch nhái trong nước. Năm 1998, tác giả đã bổ sung 12 loài cho khu hệ Bò sát, Ếch nhái Bắc Trung Bộ, trong đó có 1 giống, 1 loài cho khu hệ Bò sát, Ếch nhái Việt Nam [20]. Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc (1996) công bố danh lục Bò sát, Ếch nhái Việt Nam gồm 256 loài bò sát và 82 loài Ếch nhái [20]. Như vậy, các công trình nghiên cứu về Bò sát ở nước ta chỉ tập trung nghiên cứu vào việc số lượng loài cũng như phân bố của chúng mà không đi sâu vào nghiên cứu từng đối tượng riêng rẽ. Theo các tài liệu đã công bố thì giống thằn lằn bóng ở Việt Nam có ba loài phổ biến. Ở miền đồng bằng và trung du có thằn lằn bóng hoa Mabuya multifasciata Kuhl và thằn lằn bóng đuôi dài Mabuya longicaudata. Miền trung du và miền núi có thằn lằn bóng Sapa Mabuya chapaensis [7]. Thằn lằn bóng hoa Mabuya multifasciata Kuhl thuộc họ thằn lằn bóng (Scincidae). Ở miền Bắc thường gọi chúng tên khác là thằn lằn bóng, còn ở miền Nam gọi là rắn mối. Loài thằn lằn bóng này có một số đặc điểm hình thái là có thân thon và tròn dài, đuôi nhọn dài bằng thân; bốn chân đều có 5 ngón có móng; da có vảy sừng Trang 5
- Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà nhỏ, sắp xếp như vảy cá, nhẵn bóng, màu xanh xám nhạt, có hai đường vạch đen chạy dọc hai bên sườn [7]. Ở Việt Nam, thằn lằn có nhiều ở vùng đồng bằng và miền núi từ Bắc vào Nam. Thường gặp ở bụi cây quanh nhà, ngoài vườn, bãi cỏ, bờ mương, ven suối. Những nghiên cứu về vùng phân bố của thằn lằn bóng hoa của Trần Đình Nghĩa (2005) đã khẳng định chúng phân bố ở nhiều sinh cảnh: hốc đá ven đường, khe đá ven chân núi, đồi chè, bờ dậu, trên mái nhà dân [9]. Ngoài ra, nhóm tác giả Hoàng Xuân Quang, Hoàng Ngọc Thảo, Andrew Grieser Johns, Cao Tiến Trung, Hồ Anh Tuấn, Chu Văn Dũng trong nghiên cứu ếch nhái, bò sát ở khi bảo tồn thiên nhiên Pù Huống (2008) cho rằng thằn lằn bóng hoa ở Việt Nam có khu phân bố rất rộng, cụ thể như sau: Miền Bắc chủ yếu tập trung ở các tỉnh Cao Bằng, Lai Châu, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Sơn La, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hòa Bình, Ninh Bình. Ở khu vực miền Trung – Tây Nguyên, loài thằn lằn bóng hoa có phân bố Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Kom Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Lâm Đồng, Ninh Thuận. Ở Nam Bộ, thằn lằn bóng hoa được ghi nhận có sự hiện diện ở các tỉnh Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An, Kiên Giang, Cần Thơ, Cà Mau [11]. Theo quyển 1000 cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – tập 2 và Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Đỗ Tất Lợi thì trong thịt thằn lằn bóng có protit ăn được, còn có chất gì chữa bệnh đặc biệt khác thì chưa biết được. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm dân gian, thịt thằn lằn nấu cháo cho trẻ ăn chữa gầy yếu, xanh xao, chậm lớn, hen suyễn. Thằn lằn (1 con) đốt tồn tính, tán bột, rây mịn, uống với rượu chữa khí kết làm tắc đường tiểu tiện, tiểu ra máu, sưng âm vật, dương vật. Phụ nữ có thai không được dùng [15]. Ngoài ra, nhân dân nhiều vùng bắt thằn lằn làm thịt cho trẻ em bị hen suyễn, gầy, ít ăn; mỗi ngày ăn nửa hay một con tùy theo tuổi [24]. Bên cạnh những tác dụng về mặt y học, thằn lằn bóng hoa còn giúp tiêu diệt côn trùng làm hại nông nghiệp. Ngược lại chúng cũng là thức ăn cho các nhóm động vật Trang 6
- Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà khác như chim, thú và cả các loài bò sát lớn. [3]. Điều này chứng tỏ thằn lằn bóng hoa là một mắt xích quan trọng trong trọng trong chuỗi, lưới thức ăn của quần xã sinh vật. Do vậy, sự tồn tại của chúng là rất quan trọng trong hệ sinh thái, đặc biệt là trong hệ sinh thái nông nghiệp. Những năm gần đây, thằn lằn bóng hoa đã bắt đầu được người dân sử dụng như là một nguồn thực phẩm bởi một số đặc điểm như thịt trắng, thơm ngon và có giá trị dinh dưỡng cao. Hiện nay thằn lằn bóng hoa được sử dụng như những món ăn đặc sản trong các nhà hàng, có thể chế biến thành một số món ăn như: chiên, nướng, xào lăn, rô ti, nấu cháo,…[19]. Chính những giá trị mà thằn lằn bóng hoa mang lại nên chúng đã được quan tâm nghiên cứu, nuôi thử nghiệm với nhiều mục đích khác nhau, trong đó mục đích nuôi để kinh doanh cũng rất được chú trọng. Theo những người dân nuôi thằn lằn bóng hoa làm kinh tế ở các tỉnh miền Tây, thằn lằn bóng hoa là loài bò sát dễ nuôi, ít dịch bệnh. Nếu con giống được nuôi tốt thì chừng 8 9 tháng sẽ trưởng thành, có thể bán được. 1kg thằn lằn bóng hoa thường có từ 35 40 con với giá bán hiện nay trên thị trường khoảng 400.000 450.000 đ/kg, sau khi trừ các chi phí về xây dựng chuồng trại, thức ăn thì tiền lời thu về khoảng 50% [17]. Năm 2011, Nguyễn Thị Chúc Linh thực hiện đề tài nghiên cứu “Bước đầu nghiên cứu đặc điểm sinh học và thử nghiệm nuôi thằn lằn bóng hoa ( Mabuya multifasciata Kuhl) trong điều kiện phòng thí nghiệm”. Đề tài nghiên cứu này khẳng định loài thằn lằn bóng hoa có thể nuôi thử nghiêm được, chúng vẫn có khả năng sinh trưởng và phát triển trong điều kiện nuôi nhốt ở Đà Lạt. Đây là một tiền đề quan trọng để chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Ảnh hưởng của thức ăn đến tốc độ sinh trưởng của thằn lằn bóng hoa Mabuya multifasciata” Từ những nguồn tài liệu tham khảo được, chúng tôi nhận thấy loài thằn lằn bóng hoa rất có ý nghĩa về mặt sử dụng và về giá trị kinh tế nhưng việc nghiên cứu và khai thác chúng hiện nay vẫn chưa phổ biến. Chính vì vậy, loài thằn lằn bóng hoa rất cần được quan tâm nghiên cứu, đặc biệt là về mặt tác động của thức ăn đến tốc độ sinh trưởng của chúng. Đây là một việc làm rất có ý nghĩa, cần phải được tiến hành nghiên cứu nhằm tạo ra những cơ sở khoa học cho việc chuyển giao công nghệ đến người dân trong việc xây dựng mô hình nuôi thằn lằn bóng hoa nhằm mục đích kinh tế và y học. 1.2. Đặc điểm sinh học của thằn lằn bóng hoa Trang 7
- Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà Thằn lằn bóng hoa Mabuya multifasciata có vảy bóng, đuôi hình trụ, vào những ngày nắng chúng thường kiếm ăn ở các bụi cây ven thủy vực, ven núi, ven đường. Gặp nhiều từ giữa tháng 2 và hoạt động mạnh vào ngày nắng ráo, từ 7 – 11 giờ và từ 14 – 18 giờ, ban đêm ít hoạt động. Chúng thường nhút nhát, thấy người là ẩn nấp ngay vào hang hoặc kẽ đá. Thằn lằn bóng hoa ăn côn trùng cánh cứng, dế, gián, kiến, châu chấu, sâu, lá cây,...[9]. Chúng là loài bò sát có thân hình to, nặng nề, thường có từ năm đến bảy đường kẻ đậm trên lưng màu đồng thanh. Phía bên hông sậm màu có các đốm trắng viền đen, hoặc có một đốm lớn màu cam ở vài con. Loài động vật máu lạnh này phổ biến gần các nơi con người sống, bờ sông và các con suối rộng, nơi đất thấp hoặc có độ cao tương đối. Thằn lằn bóng hoa rất linh hoạt dưới ánh nắng ban ngày, sưởi ấm và tìm thức ăn ở các nơi phát hoang hoặc trên các tảng đá, thân cây, hàng rào và các bức tường có bề mặt thô ráp [6]. Loài bò sát này thường ở khe bụi gần nhà, mương, suối,… Chúng bắt mồi bằng cách rình ở nơi trú ẩn, chủ yếu ăn côn trùng cánh thẳng (gián, dế, châu chấu,…) đôi khi ăn cả thực vật xanh (lá cỏ) [7] . Thằn lằn bóng có “tập tính điều nhiệt”. Sáng sớm chúng ra khỏi nơi ẩn nấp và phơi nắng để hấp thụ nhiệt. Những ngày nắng nóng chúng ít phơi nắng mà chủ yếu là nâng nhiệt độ cơ thể từ nền đất ẩm. Khi nắng nhất trong ngày chúng lại tìm nơi ẩn nấp và quay trở lại chỗ sưởi ấm khi mặt trời xuống thấp và nhiệt độ không khí đã giảm xuống. Tập tính này giúp chúng duy trì nhiệt độ khoảng 36 39oC trong khi nhiệt độ môi trường có thể dao động từ 29 44oC [2]. Chúng cũng là loài động vật biến nhiệt, nhạy cảm với sự thay đổi của yếu tố thời tiết (nhiệt độ, mưa, nắng), có chu kỳ hoạt động mùa và ngày đêm rõ ràng [14]. Khi gặp nguy hiểm, con vật chạy rất nhanh về nơi trú ẩn, tạm náu ở đó một thời gian rồi lặng lẽ bò trong lớp cỏ đi nơi khác. Nó cũng dễ dàng tự cắt đuôi để chạy khi bị bắt và ở chỗ cắt sẽ mọc đuôi mới. Đuôi có thể mọc lại vài lần [1]. Tập tính tự đứt đuôi ở thằn lằn bóng hoa xảy ra khi chúng gặp nguy hiểm: kẻ thù tấn công vào phần đuôi, có sự va chạm vào phần đuôi (bị đè)… Khi thằn lằn đang chạy trốn, chỉ cần một động tác giữ hay tóm phần đuôi của chúng thì ngay lập tức phần đuôi đó tự động đứt ra chúng chạy thoát và phần đuôi bị đứt vẫn giãy giụa. Sau Trang 8
- Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà một tuần chỗ bị đứt liền hẳn và một tuần tiếp theo nhú đuôi bắt đầu mọc (phần đuôi tái sinh) [6]. Thằn lằn bóng lột xác vào mùa xuân hè, thường sau những cơn mưa và có thể lột ba, bốn lần trong mùa. Sau khi lột xác, chúng cũng ăn da như nhiều loài thằn lằn khác [1]. Sau khi lột xác, những lớp tế bào biểu bì ở bên dưới sẽ tạo nên lớp vẩy mới. Hiện tượng lột xác ở thằn lằn bóng cũng như ở lưỡng cư được tiến hành dưới tác dụng của kích thích tố giáp trạng và mấu não dưới [5]. Khi bắt đầu lột xác, thằn lằn bóng hoa cà cơ thể mình vào những cành cây hay hốc đất làm cho lớp da bong ra thành từng mảng. Khác với sự lột xác ở rắn thành xác rắn, thằn lằn có hiện tượng ăn phần xác mới lột xong. Màu sắc cơ thể thằn lằn bóng hoa trước và sau khi lột xác khác nhau. Trước khi lột xác có màu sẫm hơn. Và sau khi mới lột xác lớp vẩy mới có màu xanh và bóng hơn so với màu sắc vẩy bình thường [6]. Sự sai khác sinh dục của thằn lằn bóng không rõ ràng. Phần đuôi của thằn lằn đực phình to hơn so với con cái, có khe huyệt rộng, phồng hơn vì chứa gai giao cấu. Màu sắc và kích thước không có sự khác nhau [12]. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Chúc Linh, có thể phân biệt được con đực và con cái dựa vào màu sắc cơ thể. Vẩy họng con đực có màu vàng nhạt, con cái có màu trắng đục. Hai bên sườn của con cái có những đốm trắng rõ và nhiều hơn con đực, phân bố từ hai bên sườn kéo dài đến đuôi. Còn con đực, những đốm trắng chủ yếu phân bố ở phần sau chi sau và đuôi. Màu sắc vẩy thân con cái đậm hơn con đực [6]. Thằn lằn bóng hoa trưởng thành ở 6 7 tháng tuổi, bắt đầu sinh sản ở 8 9 tháng tuổi. Thằn lằn bóng có tập tính ghép đôi vào mùa xuân và sinh sản vào mùa hè. Chúng sinh sản mạnh vào mùa mưa khi lượng thức ăn dồi dào. Thằn lằn bóng hoa đẻ mỗi lần từ 3 – 5 con. Con non lúc mới sinh có chiều dài khoảng 8cm kể cả đuôi. Sau khi sinh, thằn lằn mẹ còn có tập tính chăm sóc con trong một thời gian nhất định rồi mới để con tự lập [7]. Thằn lằn bóng hoa thụ tinh trong. Trứng thiếu vỏ dai và phát triển trong cơ thể mẹ, cụ thể trong noãn quản tới khi thành con. Đây là trường hợp đẻ trứng thai thường thấy ở một số ít thằn lằn và rắn,… [12]. Hiện tượng đẻ con ở bò sát là hiện tượng noãn thai sinh (hay đẻ trứng thai) (ovoviparity). Trứng được ấp trong cơ thể con mẹ có Trang 9
- Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà điều kiện nhiệt độ thuận lợi hơn nhiều so với bên ngoài. Con con phát triển nhờ chất dinh dưỡng có trong trứng, hoàn toàn không có liên quan gì đến sự cung cấp chất dinh dưỡng từ cơ thể mẹ như sự đẻ con ở thú sau này [3]. 1.3. Ảnh hưởng của nhân tố thức ăn đến đời sống động vật 1.3.1. Ý nghĩa của thức ăn đối với động vật Thức ăn là một nhân tố sinh thái quan trọng đối với động vật. Thức ăn được oxy hóa để sản xuất ra năng lượng, thức ăn được biến đổi và được thu nhận vào trong tế bào và mô đảm bảo cho sự sinh trưởng ở động vật. Thức ăn có thể dùng để thay thế và đổi mới những bộ phận của mô bị phân hủy liên tục trong các biến đổi hóa học xảy ra suốt đời. Có 4 kiểu dinh dưỡng: Dinh dưỡng kiểu động vật: thức ăn phức tạp được phân giải nhờ quá trình tiêu hóa thành những chất đơn giản về sau được hấp thụ và sát nhập vào cấu tạo cơ thể, hoặc được oxy hóa để sinh ra năng lượng. Dinh dưỡng kiểu thực vật: bao gồm sự tổng hợp chất hữu c ơ có từ những hợp chất đơn giản cụ thể là CO2, nước và các muối dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời trong quá trình quang hợp ở cây xanh. Chất hữu cơ có thể được oxy hóa sản ra năng lượng hay được tổng hợp thành chất nguyên sinh và thành tế bào. Dinh dưỡng ký sinh: trong kiểu dinh dưỡng này sinh vật lấy thức ăn dưới dạng dịch mô của vật mà nó ký sinh (vật chủ), nhưng không làm chết ngay vật chủ. Dinh dưỡng hoại sinh là kiểu dinh dưỡng trong đó các hợp chất hóa học khá phức tạp được hấp thu vào trong cơ thể thực vật. Một số hợp chất được hấp thu thẳng, một số hợp chất khác được tiêu hóa ở ngoài cơ thể nhờ enzyme tiết vào trong hoặc trên bề mặt của hợp chất đó. Các chất hữu cơ thối rữa chẳng hạn như gỗ mục là thức ăn thích hợp đối với các sinh vật hoại sinh như nhiều loại nấm. Nhu cầu về năng lượng do thức ăn cung cấp thay đổi tùy loài, cỡ lớn và tuổi. Dầu, mỡ có tác dụng bổ sung cho hydrat cacbon và cần thiết phải có trong chế độ ăn. Nếu thiếu một vài loại acid béo nào đó có thể gây ra những trở ngại cho sự tiêu hóa. Một nhu cầu dinh dưỡng quan trọng nữa là sinh tố. Sinh tố có tác dụng như những chất xúc tác sinh học giúp cho các chức phận chuyển hóa bình thường của cơ thể trong đó có quá trình đồng hóa và sử dụng các chất dinh dưỡng, quá trình trưởng thành xây Trang 10
- Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà dựng tế bào và tổ chức của cơ thể. Đối với canxi và phốt pho, cơ thể hàng ngày đòi hỏi với một số lượng lớn, trong khi đó đồng, coban và một số yếu tố khác cơ thể chỉ cần một lượng rất nhỏ; nếu những yếu tố đó xâm nhập vào cơ thể quá một số lượng nhất định có thể gây ngộ độc. Động vật nào cũng đều cần phải có nitơ để tạo thành những amino acid cần thiết. Những thành phần protein thực vật là những nguyên liệu để xây dựng protein động vật. Sự đáp ứng đầy đủ thành phần các loại thức ăn cần thiết cho việc duy trì sự sống của cơ thể trong điều kiện nghỉ ngơi cũng như hoạt động để đảm bào sự sinh trưởng, phát triển và sinh sản. Động vật ăn thịt, nhìn chung, có yêu cầu đơn giản về mặt dinh dưỡng, song thực chất khi ăn thịt con mồi, nó đã sử dụng tất cả những loại thức ăn mà con mồi đã sử dụng; do đó nó vẫn có đủ chất. Một số động vật ăn thịt sử dụng thêm cả thức ăn thực vật để bù cho những thành phần thức ăn không có trong thịt. Dựa vào tính chất dinh dưỡng người ta chia động vật thành các nhóm: Động vật đơn thực: gồm những loài chỉ ăn một vài loại thức ăn, thường gặp ở động vật không xương sống chủ yếu ở sâu bọ. Động vật thiểu hẹp thực: chỉ ăn một vài loại thức ăn như hạt cây, các phần cây, lá cây, rễ, sâu bọ, chim nhỏ,… Nhóm này thường gặp nhiều hơn nhóm đơn thực. Đa số bò sát thuộc nhóm hẹp thực. Trong số rắn được biết có những loài hoặc giống chỉ thích sống bằng những thú nhỏ hay bò sát (rắn lục, cạp nong, cạp nia,…) hoặc côn trùng hay một số ít loài động vật không xương sống (rắn giun Typhlopidae). Những loài động vật thiểu thực thường phân bố ở những rừng nhiệt đới thức ăn phong phú và khí hậu ổn định không có sự biến động rõ rệt theo mùa. Ở đấy một vài loài thức ăn chuyên hóa của chúng có dồi dào. Những loài thiểu thực ít phân bố ở những vùng ôn đới hoặc những vùng có vĩ độ cao. Sự hình thành các loài thiểu thực có liên quan đến quan hệ các loài trong quần xã, có vai trò làm giảm sự cạnh tranh giữa các loài trong quần xã. Sự thích nghi hẹp đối với một loại thức ăn dẫn đến sự chuyên hóa các tuyến tiết men, nhờ đó chúng có thể sử dụng thức ăn triệt để hơn và chỉ dùng một cách hợp lý dự trữ thức ăn. Do đó việc ăn thức ăn không đặc trưng có thể ảnh hưởng đến sức sống của động vật, giảm sút chất lượng, số lượng sản phẩm sinh dục, đôi khi dẫn đến sự bất thụ và tử vong. Nhân tố quyết định sự chuyên hóa thức ăn và năng Trang 11
- Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà lực chọn thức ăn là phụ thuộc vào đặc điểm trao đổi chất của các loài, của các giai đoạn phát triển của cơ thể và nhu cầu của chúng về thành phần, chất lượng lipid, gluxit, muối khoáng và những sinh tố xác định. Động vật rộng thực: có khả năng ăn nhiều loại thức ăn khác nhau. Ở động vật cũng có sự thay đổi về chế độ ăn. Động vật rộng thực thường có khả năng ăn nhiều loại thức ăn khác nhau. Tuy nhiên trong số những thức ăn đó, cũng có những loại thức ăn chúng ưa thích nhất và loại thức ăn này thay đổi tùy theo giai đoạn phát triển, theo giống, theo tuổi, theo mùa và theo hoàn cảnh sống. [4] 1.3.2. Ảnh hưởng của thức ăn đến động vật Thức ăn được coi là nhân tố quan trọng nhất đối với cơ thể động vật. Đảm bảo cho con vật tồn tại, sinh trưởng, sinh sản và phát triển. Vì vậy có thể nói thức ăn quyết định đến toàn bộ đời sống của con vật. Thức ăn ảnh hưởng đến động vật tùy thuộc vào: Giá trị dinh dưỡng. Khả năng tiêu hóa kích thước của thức ăn. Tính ưa thích đối với thức ăn. Khả năng tự bảo vệ của đối tượng làm thức ăn. Nhân tố thức ăn đối với đời sống động vật có ý nghĩa khác nhau: Tùy theo loài. Giai đoạn phát triển. Theo tính đực cái. Theo mùa và ngày đêm. Nơi phân bố. Tình trạng con vật. Ở hầu hết các động vật (côn trùng, cá, chim, thú,…) có hiện tượng thay thế các loại thức ăn, giảm yêu cầu thức ăn giữa mùa đông và mùa hè. Trang 12
- Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà Nguyên nhân của các hoạt động của động vật: di cư, di chuyển, nghỉ ngơi, lối sống tập đoàn hay đơn độc đều do thức ăn. Do tính thích nghi về dinh dưỡng lâu dài trong quá trình hình thành loài, nên các động vật đã phân hóa thành các bọn có chế độ ăn khác nhau: ăn cỏ, ăn thịt, ăn tạp, ăn xác chết, ăn đơn, ăn ít, ăn hẹp, ăn rộng. Chúng đều có những thích nghi về hình thái cấu tạo của cơ quan bắt mồi, tiêu hóa về sinh lý, về sinh thái [18]. Ảnh hưởng của thức ăn đến đời sống động vật thể hiện ở cả chất lượng cũng như số lượng thức ăn. Chất lượng của thức ăn ảnh hưởng tới độ sinh sản, ảnh hưởng tới tuổi thọ, tốc độ sinh trưởng và sự tử vong. Động vật đẳng nhiệt có nhu cầu về mặt dinh dưỡng lớn hơn so với động vật biến nhiệt vì động vật đẳng nhiệt cần nhiều năng lượng để duy trì sự ổn định nhiệt độ cơ thể. Đặc biệt đối với những loài động vật đẳng nhiệt có kích thước nhỏ. Ảnh hưởng của số lượng thức ăn thể hiện rất rõ đối với sự phát triển của cơ thể và sự sinh sản, đặc biệt ở hiện tượng chu kỳ sinh dục dinh dưỡng [4]. 1.3.3. Ảnh hưởng của thức ăn đến bò sát Hiện đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về ảnh hưởng của thức ăn lên tốc độ sinh trưởng cũng như tỷ lệ sống sót của các loài động vật khác nhau, nhưng chủ yếu là các loài sống dưới nước hay các động vật không xương sống cỡ nhỏ như: ấu trùng ghẹ xanh, cá tai tượng, ốc len, cá khoang cổ đỏ,... Tuy nhiên lại rất ít đề tài liên quan đến việc nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn lên tốc độ sinh trưởng của bò sát. Dựa vào thức ăn có thể chia các loài bò sát thành ba nhóm: nhóm ăn thịt, nhóm ăn thực vật và nhóm ăn tạp. Trong đó nhóm ăn thịt chiếm ưu thế nhất. Đại bộ phận thằn lằn ăn động vật không xương sống, chủ yếu là sâu bọ (mồi nhỏ). Kì đà ăn thân mềm, cá và cả xác động vật có xương sống. Đa số rắn ăn mồi có kích thước lớn. Tuy nhiên, rắn giun ăn những động vật không xương sống nhỏ trong đất. Rắn khiếm chuyên ăn thằn lằn và nhiều loài động vật không xương sống. Có nhiều loại chuyên ăn một số loại thức ăn như nhông cánh chủ yếu ăn kiến; rắn hổ đất nâu chuyên ăn ếch nhái và thằn lằn, rắn cạp nong, rắn hoa cân hoặc xe điếu ở miền Nam nước ta; rắn hổ mang chúa chuyên ăn thằn lằn và rắn hoặc rắn rào xanh ăn cả chim và rắn; rắn biển ăn cá. Nhiều loài rắn còn ăn cả trứng chim như rắn sọc dưa, rắn khiếm, rắn hổ mang. Chỉ có rất ít loài thằn lằn và rắn ăn thực vật. Ở miền Nam Việt Trang 13
- Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà Nam có loài rắn râu sống trong ao hồ, sử dụng tảo xanh làm thức ăn. Rùa cạn như rùa núi vàng và rùa núi viền chủ yếu ăn thực vật. Những loài rùa biển như vích, đồi mồi và hầu hết những loài trong nhóm rùa vừa sống ở nước, vừa sống ven bờ ăn tạp. Ba ba gai ăn động vật. Nhiều loài bò sát có tập tính ăn thịt lẫn nhau, con lớn nuốt con cỡ nhỏ như thằn lằn bóng bố mẹ ăn ngay con vừa mới nở từ trứng hay thạch sùng có khi đuổi bắt thạch sùng con để ăn thịt [5]. Thức ăn ảnh hưởng đến tập tính bắt mồi của bò sát. Ở đa số rắn, đặc biệt rắn độc có tập tính rình mồi, mai phục chờ cho con mồi đến đúng tầm là chộp lấy. Đối với những loài này con mồi thường lớn và thời gian tiêu hóa chúng thường kéo dài, nhất là khi nhiệt độ môi trường thấp [5]. Nhiều loài bò sát có tập tính đi tìm mồi tích cực. Những loài này thường là những loài thằn lằn và rắn ăn sâu bọ. Thường chúng có giác quan phát triển và con mồi của chúng thường có kích thước nhỏ [5]. Thức ăn còn ảnh hưởng đến tính phàm ăn của bò sát. Bò sát rất phàm ăn, nhất là các loài rắn. Bò sát có khả năng nhịn đói trong một thời gian dài, đặc biệt là rùa và trăn [8]. Những loài bò sát cỡ nhỏ thường đòi hỏi phải ăn thường xuyên hơn so với những loài bò sát có kích thước cơ thể lớn. Thằn lằn cỡ nhỏ có thể tìm bắt mồi suốt ngày. Thời gian tiêu hóa con mồi thường là sâu bọ, chỉ đòi hỏi vài giờ [5]. Những loài bò sát cỡ lớn thường ăn những con mồi lớn, nên tốc độ tiêu hóa con mồi thường chậm. Để tiêu hóa một con mồi cỡ lớn trăn cần có một thời gian từ 8 đến 10 ngày khi thời tiết nóng và hơn một tháng khi trời lạnh. Vì thế ở những loài bò sát này số bữa ăn thường thưa và con vật không có tập tính bắt mồi liên tục. Khả năng ăn một lượng thức ăn lớn trong một lúc đi liền với khả năng nhịn ăn trong một thời gian dài. Trăn mắt võng có thể nhịn ăn được trong hai năm, trong khi đó thằn lằn chỉ có thể nhịn đói được trong vòng một tuần. Đại đa số rắn, thằn lằn bắt mồi rồi nuốt chửng mồi; rùa, cá sấu không nuốt chửng mồi mà xé nhỏ mồi ra từng mảnh [5]. Khả năng nhịn ăn có thể là một đặc điểm thích nghi với điều kiện khan hiếm mồi. Trong thời gian nhịn đói, cường độ các quá trình sống giảm sút và con vật ít hoạt động. Nhưng khi có nhiều thức ăn, con vật có thể ăn một lúc khá nhiều và hoạt động mạnh lên. Con vật càng giỏi nhịn đói bao nhiêu thì càng tài ăn bấy nhiêu. Ngược lại, Trang 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của văn hoá kinh doanh Nhật Bản trong đàm phán thương mại quốc tế với các đối tác Việt Nam
116 p | 611 | 122
-
Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của văn hoá phương Đông đến hành vi tiêu dùng hàng thực phẩm của người Việt Nam
98 p | 368 | 82
-
Khóa luận tốt nghiệp: Xu hướng phát triển của thị trường bảo hiểm thế giới và sự ảnh hưởng của nó đến sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam
115 p | 360 | 69
-
Đề cương khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của vị trí hom và chế độ che phủ đến tỷ lệ sống và sinh trưởng cây giống hồ tiêu (Piper nigrum L.) giâm bằng dây lươn trong điều kiện vườn ươm
31 p | 322 | 59
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của tiểu thuyết ngôn tình trong đời sống sinh viên nữ trường Đại học Văn hóa Hà Nội
12 p | 246 | 52
-
Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của văn hoá kinh doanh Đan Mạch đến quan hệ thương mại của Đan Mạch với Việt Nam
86 p | 150 | 32
-
Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Australia đến năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
113 p | 172 | 32
-
Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam hiện nay
73 p | 126 | 30
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của sách điện tử tới sách in truyền thống ở Việt Nam hiện nay
13 p | 101 | 17
-
Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng marketing nội bộ đối với sự cam kết gắn bó của nhân viên - Trường hợp nghiên cứu tại công ty TNHH Bia Huế
95 p | 105 | 16
-
Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng việc sử dụng thức ăn công nghiệp đến hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn thịt của công ty cổ phần đầu tư nông nghiệp yên định Thanh Hóa
77 p | 165 | 16
-
Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của lãi suất, tỷ giá hối đoái và lạm phát đến giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
95 p | 129 | 14
-
Khóa luận tốt nghiệp: Khảo sát ảnh hưởng của Matrix và hiệu ứng mật độ lên hiệu suất đỉnh của phổ kế Gamma đầu dò hpge bằng chương trình MCNP
55 p | 93 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của hệ số tích lũy (Buildup factor) đến sai số hệ thống trong kiểm tra các thùng thải phóng xạ
45 p | 108 | 10
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của sách văn học dịch tới lối sống của sinh viên Hà Nội hiện nay
10 p | 113 | 7
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp marketing giúp phát triển Trung tâm Anh ngữ Newton
66 p | 16 | 6
-
Khóa luận tốt nghiệp: Phát triển hoạt động Marketing nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty vận tải Hà Anh
71 p | 10 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn