intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của thức ăn đến tốc độ sinh trưởng của thằn lằn bóng hoa Mabuya multifasciata

Chia sẻ: Nguyễn Phong | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:51

99
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của thức ăn đến tốc độ sinh trưởng của thằn lằn bóng hoa Mabuya multifasciata được nghiên cứu nhằm bước đầu thử nghiệm nuôi thằn lằn bóng hoa trong điều kiện nhân tạo; khảo sát chất lượng của các loại thức ăn khác nhau ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của thằn lằn bóng hoa thông qua các chỉ tiêu: cân nặng, chiều dài thân; xác định loại thức ăn thích hợp nhất, tốt nhất cho sự sinh trưởng và phát triển của thằn lằn bóng hoa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của thức ăn đến tốc độ sinh trưởng của thằn lằn bóng hoa Mabuya multifasciata

  1. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là đề  tài nghiên cứu của tôi. Những kết quả  theo dõi ghi chép   trong quá trình nghiên cứu và các số liệu thực tế trong đề tài này, chưa được ai công bố  dưới bất kì hình thức nào. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước nhà trường về lời cam  đoan này. Đà Lạt, ngày 23 tháng 05 năm 2012. Tác giả. NGÔ THỊ NGÂN HÀ.
  2. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, ngoài sự cố gắng, nỗ lực của bản thân,   tôi còn nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của quý thầy cô và các bạn. Trước tiên tôi xin gởi tới Th.S Nguyễn Thị Thùy Linh – người đã tận tình hướng   dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài, lòng biết ơn sâu sắc. Tôi xin cảm  ơn các thầy cô giáo trường Đại học Đà Lạt đã giảng dạy tôi trong   bốn năm qua, những kiến thức mà tôi nhận được trên giảng đường đại học sẽ là hành   trang giúp tôi vững bước trong tương lai. Xin gởi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô cùng các bạn sinh viên khoa Sinh học   đã luôn động viên, giúp đỡ  và tạo mọi điều kiện để  tôi có thể  thực hiện đề  tài một   cách tốt nhất. Xin cảm ơn Bố, Mẹ và tất cả bạn bè đã luôn ủng hộ, giúp đỡ tôi trong cuộc sống,   trong học tập, nghiên cứu để tôi hoàn thành khóa luận của mình.
  3. DANH MỤC BẢNG Bảng 1. Tăng trưởng trọng lượng các nhóm của ba lô thức ăn...................................................26 Bảng 2. Tăng trưởng chiều dài các nhóm của ba lô thức ăn........................................................30
  4. DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 1. Biểu đồ tăng trưởng trọng lượng của các nhóm lô đối chứng.................................23 Biểu đồ 2. Biểu đồ tăng trưởng trọng lượng của các nhóm lô thức ăn cá + cám......................24 Biểu đồ 3. Biểu đồ tăng trưởng trọng lượng của các nhóm lô thức ăn thịt + cám.....................25 Biểu đồ 4. Biểu đồ tăng trưởng trọng lượng của các nhóm trong ba lô thức ăn........................26 Biểu đồ 5. Biểu đồ tăng trưởng trọng lượng của thằn lằn bóng hoa giữa ba lô.......................28 Biểu đồ 6. Biểu đồ tăng trưởng chiều dài của các nhóm trong ba lô thức ăn............................30 Biểu đồ 7. Biểu đồ tăng trưởng chiều dài thằn lằn bóng hoa giữa ba lô...................................32
  5. DANH MỤC HÌNH ẢNH Hình 1. Chuồng nuôi thằn lằn bóng hoa.......................................................................................18 Hình 2. Thức ăn của thằn lằn bóng hoa ở lô đối chứng..............................................................19 Hình 3. Thức ăn thịt + cám (tỷ lệ 2:1)...........................................................................................19 Hình 4. Thức ăn cá + cám (tỷ lệ 2:1)............................................................................................20 Hình 5. Mô hình chuồng nuôi........................................................................................................21 Hình 6. Mô hình bên trong chuồng nuôi........................................................................................22
  6. MỤC LỤC
  7. Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà MỞ ĐẦU Việt Nam là một nước nằm trong vùng nhiệt đới với hệ sinh thái hết sức đa dạng,  phong phú với nhiều loài động thực vật khác nhau, đặc biệt là bò sát. So với những   nước hay khu vực có diện tích tương tự thì bò sát ở Việt Nam khá đa dạng. Đến nay đã  thống kê được khoảng gần 296 loài thuộc 3 bộ (theo Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc,  Nguyễn Văn Trường, 2005).  Bò sát là nhóm động vật có xương sống đầu tiên thích nghi với đời sống trên cạn   hoàn toàn, chúng không lệ  thuộc vào  ẩm độ  của môi trường, nhờ  có bộ  da hóa sừng   không thấm nước và khí. Do đó bò sát phân bố rộng rãi trên mọi vùng khí hậu của Trái   đất, trừ vùng cực.  Trong hệ  sinh thái, bò sát là một mắt xích thức ăn quan trọng trong chuỗi, lưới   thức ăn của quần xã sinh vật. Đa số các loài bò sát thường ăn các loài côn trùng, gặm  nhấm, thân mềm, nên chúng có ý nghĩa nhất định trong nông nghiệp về  việc tiêu diệt   các loài hại cây trồng, mùa màng,… Ngược lại, chúng cũng là thức ăn cho các loài động  vật khác. Bò sát không những có vai trò quan trọng trong thiên nhiên mà còn có vai trò quan   trọng với đời sống con người như cung cấp nguyên liệu, thực phẩm (rắn, thằn lằn, kì  đà, rùa, trăn,…), lấy da, xương (trăn, rắn, đồi mồi, cá sấu,…), làm thuốc (rắn, thằn  lằn, kì đà,…) Thằn lằn bóng hoa  Mabuya multifasciata  thuộc họ  thằn lằn bóng, là loài bò sát  phân bố phổ biến  ở Việt Nam và một số nước nhiệt đới, cận nhiệt đới trên thế  giới.   Thức ăn chủ  yếu của chúng là các loại côn trùng, trong đó đa số  là côn trùng gây hại   nông nghiệp. Bên cạnh đó, chúng cũng là thức ăn cho các nhóm động vật khác như  chim, thú và các loài bò sát lớn hơn. Hiện nay các món ăn được chế biến từ loài bò sát này đang được rất nhiều người  ưa chuộng, nhất là  ở  miền Tây. Khi được chế  biến thành món ăn thì ngoài vị  ngọt,   mềm của thịt ra thì chúng còn có nhiều chất dinh dưỡng không thua gì các loài động   vật khác, ngoài ra nhiều người mua thằn lằn bóng hoa về  dùng làm thuốc trị  bệnh.   Theo các bài thuốc dân gian thì thịt của chúng có thể dùng để chữa bệnh gầy yếu, xanh   xao, chậm lớn, hen suyễn  ở trẻ em. Thời gian gần đây cũng có rất nhiều hộ  gia đình  Trang 1
  8. Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà nuôi thằn lằn bóng hoa để  kinh doanh, phát triển kinh tế gia đình. Kỹ  thuật cũng như  mô hình nuôi chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của những người nuôi trước, mà chưa có  nghiên cứu nào về các điều kiện ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng của chúng cũng   như ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau lên sự sinh trưởng, phát triển của thằn   lằn bóng hoa. Để  góp phần nghiên cứu thêm về  thằn lằn bóng hoa  ở  Đà Lạt, đặc biệt là khảo   sát ảnh hưởng của nhân tố thức ăn đến sự phát triển của chúng, chúng tôi đã tiến hành   thực hiện đề  tài: “Ảnh hưởng của thức ăn đến tốc độ  sinh trưởng của thằn lằn   bóng hoa Mabuya multifasciata” Đề tài này nhằm giải quyết những nội dung sau:  ­ Bước đầu thử nghiệm nuôi thằn lằn bóng hoa trong điều kiện nhân tạo. ­ Khảo sát chất lượng của các loại thức ăn khác nhau ảnh hưởng đến tốc độ sinh   trưởng của thằn lằn bóng hoa thông qua các chỉ tiêu: cân nặng, chiều dài thân. ­ Xác định loại thức ăn thích hợp nhất, tốt nhất cho sự sinh trưởng và phát triển   của thằn lằn bóng hoa. Chúng tôi cố  gắng hoàn thiện đề  tài trong điều kiện cho phép, tuy nhiên do thời   gian và trình độ nghiên cứu còn hạn chế, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót,  rất mong sự góp ý của quý thầy cô và các bạn quan tâm đến vấn đề này. Trang 2
  9. Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà CHƯƠNG 1.  TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Tình hình nghiên cứu về  Thằn lằn bóng hoa (Mabuya multifasciata) trên thế  giới và Việt Nam 1.1.1. Trên thế giới Thằn lằn bóng hoa hay rắn mối có tên khoa học là  Mabuya multifasciata, được  Kulh mô tả  lần đầu tiên và đặt tên là  Scincus multifasciata  vào năm 1820, thuộc họ  thằn lằn bóng Scincidae [11]. Giống thằn lằn bóng hiện gồm 90 loài, phân bố ở Châu Phi, Châu Mỹ và Châu Á.   [12]. Vị trí phân loại của thằn lằn bóng hoa: Lớp Bò sát: Reptilia Phân lớp không cung: Anapsida Bộ có vẩy: Squamata Phân bộ thằn lằn: Sauria hay Lacertilia Họ thằn lằn bóng: Scincidae Giống: Mabuya Loài: Mabuya multifasciata (Kuhl, 1820). Tên Việt Nam: Thằn lằn bóng hoa, thằn lằn, rắn mối. Tên tiếng Anh: Many – lined sun skink [13]. Trang 3
  10. Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà Thằn lằn bóng hoa phân bố rộng rãi ở các vùng trên thế giới. Ở Châu Á thằn lằn  bóng hoa phân bố   ở   Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Myanmar, Lào, Campuchia, Việt   Nam, Malaysia, Singapore, Indonesia và Philippine [6]. Về đặc điểm hình thái, thằn lằn bóng hoa vùng Châu Á có da được phủ  bởi lớp  vảy, bóng, có chân nhỏ. Chúng có thể  được nhận ra nhờ  5 – 6 đường đậm song song  dọc thành bụng. Dọc bên thân có thể  có màu từ  vàng nâu đến đỏ  cam. Vùng họng có  thể có màu từ trắng đến vàng. Chiều dài từ  miệng đến lỗ  huyệt 13cm, chiều dài toàn   cơ thể 35cm [6]. Một số tác giả khác mô tả loài thằn lằn bóng hoa ở Đông Nam châu Á dài khoảng   23cm, con đực thường có tập tính bảo vệ  lãnh thổ  và có nhiều màu sắc hơn con cái.   Thức ăn chủ yếu của chúng là côn trùng [6]. Một vài tài liệu lại mô tả loài thằn lằn bóng hoa ở Đông Nam Châu Á ăn dế, mọt  bột và những loài côn trùng khác. Cần nước sạch vào mọi lúc [6]. Nhìn chung những nghiên cứu về  thằn lằn bóng hoa trên thế  giới chủ  yếu tập   trung vào vùng phân bố và hình thái bên ngoài của chúng mà chưa có tài liệu cụ thể nào   nghiên cứu về   ảnh hưởng của thức ăn và chế  độ  dinh dưỡng lên tốc độ  sinh trưởng   của thằn lằn bóng hoa. 1.1.2. Ở Việt Nam Ở nước ta, Morice là người đặt nền móng đầu tiên cho việc nghiên cứu về bò sát.   Năm 1875, ông đã tiến hành thu thập mẫu vật các loài Bò sát ở khu vực Nam Bộ và lập  nên danh sách các loài Bò sát ở khu hệ này, tạo nền tảng cho  các công trình nghiên cứu  khoa học về nhóm động vật này ở nước ta vào thế kỷ 19 [20]. Những nghiên cứu về  Bò sát  ở  Bắc Bộ  có J. Anderson   (1878),  ở  Nam Bộ  có J.  Tirant (1885), G. Boulenger (1890), Flower (1896). Công trình nghiên cứu đáng chú ý là  của Bourret R. và các cộng sự trong khoảng thời gian từ 1924 đến 1944, đã thống kê,  mô tả được 177 loài và loài phụ Thằn lằn, 245 loài và loài phụ Rắn, 44 loài và loài phụ  Rùa trên toàn Đông Dương. Trong đó có nhiều loài của miền Bắc Việt Nam (Bourret R.  1936, 1941, 1942). Đáng chú ý là  những công trình nghiên cứu của Bourret R có nói  nhiều đến Bò sát  ở  khu vực  Bắc Trung Bộ. Ông công bố  và bổ  sung nhiều loài cho  danh lục Bò sát, Ếch nhái (Bourret R. 1934, 1937, 1939, 1940, 1943) [20]. Từ  năm 1954, nghiên cứu về  khu hệ  Bò sát,  Ếch nhái Việt Nam mới được  tiến  hành ở Miền Bắc. Đào Văn Tiến (1960) nghiên cứu khu hệ động vật có  xương sống ở  Trang 4
  11. Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà Vĩnh Linh đã thống kê được nhóm Bò sát,  Ếch nhái có 12 loài. Năm 1977, nghiên cứu  xây dựng các đặc điểm định loại, khoá định loại Ếch nhái Việt Nam và công bố 87 loài  Ếch nhái thuộc 3 bộ  12 họ. Năm 1979, nghiên cứu xây dựng khoá định loại thằn lằn  Việt Nam và thống kê 77 loài thằn lằn trong đó  có 6 loài lần đầu tiên phát hiện ở Việt   Nam. Năm 1981­1982, nghiên cứu các đặc điểm phân loại, xây dựng khoá định loại và  đã xác định ở Việt Nam có 167 loài rắn thuộc 9 họ 69 giống [20]. Trần Kiên, Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc (1981) nghiên cứu Bò sát, Ếch nhái từ  năm 1956 ­ 1975 trên toàn Miền Bắc thống kê được 159 loài bò sát thuộc  2 bộ, 19 họ  và 69 loài Ếch nhái thuộc 3 bộ, 9 họ [20]. Trần Kiên, Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc (1985) báo cáo danh lục khu hệ Bò sát,  Ếch nhái Việt Nam gồm 160 loài Bò sát và 90 loài Ếch nhái. Các tác giả còn phân tích  sự phân bố địa lý, theo sinh cảnh và ý nghĩa kinh tế của các loài [20]. Hoàng Xuân Quang (1993) điều tra thống kê danh lục Bò sát, Ếch nhái ở các tỉnh  Bắc Trung Bộ gồm 94 loài Bò sát xếp trong 59 giống 17 họ và 34 loài Ếch nhái của 14  giống 7 họ. Tác giả đã bổ sung cho danh lục Bò sát, Ếch nhái Bắc Trung Bộ 23 loài,  phát hiện bổ sung cho vùng phân bố 9 loài. Bên cạnh đó tác giả còn phân tích sự phân  bố các loài theo sinh cảnh và quan hệ với các khu phân bố Bò sát, Ếch nhái trong nước.  Năm 1998, tác giả đã bổ sung 12 loài cho khu hệ Bò sát, Ếch nhái Bắc Trung Bộ, trong  đó có 1 giống, 1 loài cho khu hệ Bò sát, Ếch nhái Việt Nam [20]. Nguyễn Văn Sáng, Hồ  Thu Cúc (1996) công bố  danh lục Bò sát,  Ếch nhái Việt  Nam gồm 256 loài bò sát và 82 loài Ếch nhái [20]. Như vậy, các công trình nghiên cứu về Bò sát ở nước ta chỉ tập trung nghiên cứu  vào việc số  lượng loài cũng như  phân bố  của chúng mà không đi sâu vào nghiên cứu  từng đối tượng riêng rẽ. Theo các tài liệu đã công bố  thì giống thằn lằn bóng  ở  Việt Nam có ba loài phổ  biến. Ở miền đồng bằng và trung du có thằn lằn bóng hoa  Mabuya multifasciata Kuhl  và thằn lằn bóng đuôi dài Mabuya longicaudata. Miền trung du và miền núi có thằn lằn  bóng Sapa Mabuya chapaensis [7].   Thằn   lằn   bóng   hoa  Mabuya   multifasciata  Kuhl   thuộc   họ   thằn   lằn   bóng  (Scincidae). Ở miền Bắc thường gọi chúng tên khác là thằn lằn bóng, còn ở miền Nam   gọi là rắn mối. Loài thằn lằn bóng này có một số đặc điểm hình thái là có thân thon và  tròn dài, đuôi nhọn dài bằng thân; bốn chân đều có 5 ngón có móng; da có vảy sừng   Trang 5
  12. Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà nhỏ, sắp xếp như vảy cá, nhẵn bóng, màu xanh xám nhạt, có hai đường vạch đen chạy  dọc hai bên sườn [7]. Ở Việt Nam, thằn lằn có nhiều ở vùng đồng bằng và miền núi từ  Bắc vào Nam.  Thường gặp  ở  bụi cây quanh nhà, ngoài vườn, bãi cỏ, bờ  mương, ven suối. Những   nghiên cứu về  vùng phân bố  của thằn lằn bóng hoa của Trần   Đình Nghĩa (2005) đã  khẳng định chúng phân bố ở nhiều sinh cảnh: hốc đá ven đường, khe đá ven chân núi,   đồi chè, bờ dậu, trên mái nhà dân [9].  Ngoài ra, nhóm tác giả  Hoàng Xuân Quang, Hoàng Ngọc Thảo, Andrew Grieser   Johns, Cao Tiến Trung, Hồ Anh Tuấn, Chu Văn Dũng trong nghiên cứu ếch nhái, bò sát  ở khi bảo tồn thiên nhiên Pù Huống (2008) cho rằng thằn lằn bóng hoa ở Việt Nam có  khu phân bố rất rộng, cụ thể như sau: ­ Miền Bắc chủ yếu tập trung  ở các tỉnh Cao Bằng, Lai Châu, Tuyên Quang, Hà   Giang, Yên Bái, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Sơn La, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh,  Bắc Giang, Quảng Ninh, Hòa Bình, Ninh Bình. ­ Ở khu vực miền Trung – Tây Nguyên, loài thằn lằn bóng hoa có phân bố Nghệ  An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Kom Tum, Gia Lai, Đăk  Lăk, Lâm Đồng, Ninh Thuận.  ­ Ở  Nam Bộ, thằn lằn bóng hoa được ghi nhận có sự  hiện diện  ở  các tỉnh Bình  Phước, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An, Kiên Giang, Cần Thơ, Cà Mau   [11]. Theo quyển 1000 cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – tập 2 và Những  cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Đỗ Tất Lợi thì trong thịt thằn lằn bóng có protit ăn  được, còn có chất gì chữa bệnh đặc biệt khác thì chưa biết được.  Tuy nhiên, theo kinh nghiệm dân gian, thịt thằn lằn nấu cháo cho trẻ ăn chữa gầy  yếu, xanh xao, chậm lớn, hen suyễn. Thằn lằn (1 con) đốt tồn tính, tán bột, rây mịn,   uống với rượu chữa khí kết làm tắc đường tiểu tiện, tiểu ra máu, sưng âm vật, dương  vật. Phụ nữ có thai không được dùng [15]. Ngoài ra, nhân dân nhiều vùng bắt thằn lằn làm thịt cho trẻ em bị hen suyễn, gầy,   ít ăn; mỗi ngày ăn nửa hay một con tùy theo tuổi [24]. Bên cạnh những tác dụng về mặt y học, thằn lằn bóng hoa còn giúp tiêu diệt côn  trùng làm hại nông nghiệp. Ngược lại chúng cũng là thức ăn cho các nhóm động vật  Trang 6
  13. Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà khác như chim, thú và cả các loài bò sát lớn. [3]. Điều này chứng tỏ thằn lằn bóng hoa  là một mắt xích quan trọng trong trọng trong chuỗi, lưới thức ăn của quần xã sinh vật.  Do vậy, sự tồn tại của chúng là rất quan trọng trong hệ sinh thái, đặc biệt là trong hệ  sinh thái nông nghiệp. Những năm gần đây, thằn lằn bóng hoa đã bắt đầu được người dân sử dụng như  là một nguồn thực phẩm bởi một số đặc điểm như   thịt trắng, thơm ngon và có giá trị  dinh dưỡng cao. Hiện nay thằn lằn bóng hoa được sử dụng như những món ăn đặc sản  trong các nhà hàng, có thể chế biến thành một số món ăn như: chiên, nướng, xào lăn, rô   ti, nấu cháo,…[19]. Chính những giá trị  mà thằn lằn bóng hoa mang lại nên chúng đã được quan tâm   nghiên cứu, nuôi thử nghiệm với nhiều mục đích khác nhau, trong đó mục đích nuôi để  kinh doanh cũng rất được chú trọng. Theo những người dân nuôi thằn lằn bóng hoa làm  kinh tế ở các tỉnh miền Tây, thằn lằn bóng hoa là loài bò sát dễ nuôi, ít dịch bệnh. Nếu  con giống được nuôi tốt thì chừng 8 ­ 9 tháng sẽ  trưởng thành, có thể  bán được. 1kg  thằn lằn bóng hoa thường có từ 35 ­ 40 con  với giá bán hiện nay trên thị trường khoảng   400.000 ­ 450.000 đ/kg, sau khi trừ các chi phí về xây dựng chuồng trại, thức ăn thì tiền  lời thu về khoảng 50% [17]. Năm 2011, Nguyễn Thị Chúc Linh thực hiện đề tài nghiên cứu “Bước đầu nghiên   cứu đặc điểm sinh học và thử  nghiệm nuôi thằn lằn bóng hoa ( Mabuya multifasciata  Kuhl) trong điều kiện phòng thí nghiệm”. Đề tài nghiên cứu này khẳng định loài thằn   lằn bóng hoa có thể nuôi thử nghiêm được, chúng vẫn có khả năng sinh trưởng và phát   triển trong điều kiện nuôi nhốt ở Đà Lạt. Đây là một tiền đề  quan trọng để  chúng tôi   tiến hành thực hiện đề  tài “Ảnh hưởng của thức ăn đến tốc độ  sinh trưởng của thằn  lằn bóng hoa Mabuya multifasciata” Từ những nguồn tài liệu tham khảo được, chúng tôi nhận thấy loài thằn lằn bóng   hoa rất có ý nghĩa về mặt sử dụng và về giá trị kinh tế nhưng việc nghiên cứu và khai  thác chúng hiện nay vẫn chưa phổ biến. Chính vì vậy, loài thằn lằn bóng hoa rất cần  được quan tâm nghiên cứu, đặc biệt là về  mặt tác động của thức ăn đến tốc độ  sinh   trưởng của chúng. Đây là một việc làm rất có ý nghĩa, cần phải được tiến hành nghiên  cứu nhằm tạo ra những cơ  sở khoa học cho việc chuyển giao công nghệ  đến người   dân trong việc xây dựng mô hình nuôi thằn lằn bóng hoa nhằm mục đích kinh tế  và y  học.  1.2. Đặc điểm sinh học của thằn lằn bóng hoa Trang 7
  14. Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà Thằn lằn bóng hoa  Mabuya multifasciata  có vảy bóng, đuôi hình trụ,  vào những  ngày nắng chúng thường kiếm ăn ở các bụi cây ven thủy vực, ven núi, ven đường. Gặp   nhiều từ giữa tháng 2 và hoạt động mạnh vào ngày nắng ráo, từ  7 – 11 giờ và từ  14 –   18 giờ, ban đêm ít hoạt động. Chúng thường nhút nhát, thấy người là ẩn nấp ngay vào  hang hoặc kẽ đá. Thằn lằn bóng hoa ăn côn trùng cánh cứng, dế, gián, kiến, châu chấu,   sâu, lá cây,...[9].  Chúng là loài bò sát có thân hình to, nặng nề, thường có từ  năm đến bảy đường  kẻ đậm trên lưng màu đồng thanh. Phía bên hông sậm màu có các đốm trắng viền đen,   hoặc có một đốm lớn màu cam  ở  vài con. Loài động vật máu lạnh này phổ  biến gần  các nơi con người sống, bờ  sông và các con suối rộng, nơi đất thấp hoặc có độ  cao   tương đối. Thằn lằn bóng hoa rất linh hoạt dưới ánh nắng ban ngày, sưởi ấm và tìm   thức ăn ở các nơi phát hoang hoặc trên các tảng đá, thân cây, hàng rào và các bức tường   có bề mặt thô ráp [6]. Loài bò sát này thường  ở khe bụi gần nhà, mương, suối,… Chúng bắt mồi bằng  cách rình ở nơi trú ẩn, chủ yếu ăn côn trùng cánh thẳng (gián, dế, châu chấu,…) đôi khi  ăn cả thực vật xanh (lá cỏ) [7] . Thằn lằn bóng có “tập tính điều nhiệt”. Sáng sớm chúng ra khỏi nơi  ẩn nấp và  phơi nắng để hấp thụ nhiệt. Những ngày nắng nóng chúng ít phơi nắng mà chủ yếu là   nâng nhiệt độ  cơ  thể  từ  nền đất ẩm. Khi nắng nhất trong ngày chúng lại tìm nơi  ẩn   nấp và quay trở  lại chỗ  sưởi  ấm khi mặt trời xuống thấp và nhiệt độ  không khí đã  giảm xuống. Tập tính này giúp chúng duy trì nhiệt  độ khoảng 36 ­ 39oC trong khi nhiệt  độ môi trường có thể dao động từ 29 ­ 44oC [2]. Chúng cũng là loài động vật biến nhiệt, nhạy cảm với sự thay đổi của yếu tố thời  tiết (nhiệt độ, mưa, nắng), có chu kỳ hoạt động mùa và ngày đêm rõ ràng [14]. Khi gặp nguy hiểm, con vật chạy rất nhanh về nơi trú ẩn, tạm náu ở đó một thời   gian rồi lặng lẽ bò trong lớp cỏ đi nơi khác. Nó cũng dễ dàng tự cắt đuôi để chạy khi   bị bắt và ở chỗ cắt sẽ mọc đuôi mới. Đuôi có thể mọc lại vài lần [1]. Tập tính tự đứt đuôi ở thằn lằn bóng hoa xảy ra khi chúng gặp nguy hiểm: kẻ thù  tấn công vào phần đuôi, có sự  va chạm vào phần đuôi (bị  đè)… Khi thằn lằn đang  chạy trốn, chỉ  cần một động tác giữ  hay tóm phần đuôi của chúng thì ngay lập tức   phần đuôi đó tự  động đứt ra chúng chạy thoát và phần đuôi bị  đứt vẫn giãy giụa. Sau   Trang 8
  15. Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà một tuần chỗ bị đứt liền hẳn và một tuần tiếp theo nhú đuôi bắt đầu mọc (phần đuôi  tái sinh) [6]. Thằn lằn bóng lột xác vào mùa xuân hè, thường sau những cơn mưa và có thể lột   ba, bốn lần trong mùa. Sau khi lột xác, chúng cũng ăn da như nhiều loài thằn lằn khác  [1]. Sau khi lột xác, những lớp tế  bào biểu bì  ở  bên dưới sẽ  tạo nên lớp vẩy mới.   Hiện tượng lột xác  ở  thằn lằn bóng cũng như   ở  lưỡng cư  được tiến hành dưới tác  dụng của kích thích tố giáp trạng và mấu não dưới [5]. Khi bắt đầu lột xác, thằn lằn bóng hoa cà cơ  thể  mình vào những cành cây hay   hốc đất làm cho lớp da bong ra thành từng mảng. Khác với sự lột xác ở rắn thành xác  rắn, thằn lằn có hiện tượng ăn phần xác mới lột xong. Màu sắc cơ thể thằn lằn bóng  hoa trước và sau khi lột xác khác nhau. Trước khi lột xác có màu sẫm hơn. Và sau khi   mới lột xác lớp vẩy mới có màu xanh và bóng hơn so với màu sắc vẩy bình thường [6]. Sự  sai khác sinh dục của thằn lằn bóng không rõ ràng. Phần đuôi của  thằn lằn  đực phình to hơn so với con cái, có khe huyệt rộng, phồng hơn vì chứa gai giao cấu.  Màu sắc và kích thước không có sự khác nhau [12]. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Chúc Linh, có thể phân biệt được con   đực và con cái dựa vào màu sắc cơ thể. Vẩy họng con đực có màu vàng nhạt, con cái   có màu trắng đục. Hai bên sườn của con cái có những  đốm trắng rõ và nhiều hơn con  đực, phân bố  từ  hai bên sườn kéo dài đến đuôi.  Còn con đực, những đốm trắng chủ  yếu phân bố   ở  phần sau chi sau và đuôi. Màu sắc vẩy thân con cái đậm hơn con đực  [6]. Thằn lằn bóng hoa trưởng thành ở 6 ­ 7 tháng tuổi, bắt đầu sinh sản ở 8 ­ 9 tháng   tuổi. Thằn lằn bóng có tập tính ghép đôi vào mùa xuân và sinh sản vào mùa hè. Chúng  sinh sản mạnh vào mùa mưa khi lượng thức ăn dồi dào. Thằn lằn bóng hoa đẻ mỗi lần  từ 3 – 5 con. Con non lúc mới sinh có chiều dài khoảng 8cm kể cả đuôi. Sau khi sinh,  thằn lằn mẹ còn có tập tính chăm sóc con trong một thời gian nhất định rồi mới để con   tự lập [7]. Thằn lằn bóng hoa thụ  tinh trong. Trứng thiếu vỏ dai và phát triển trong cơ  thể  mẹ, cụ thể trong noãn quản tới khi thành con. Đây là trường hợp đẻ trứng thai thường  thấy  ở  một số  ít thằn lằn và rắn,… [12]. Hiện tượng đẻ  con  ở  bò sát là hiện tượng  noãn thai sinh (hay đẻ trứng thai) (ovoviparity). Trứng được ấp trong cơ thể con mẹ có   Trang 9
  16. Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà điều kiện nhiệt độ thuận lợi hơn nhiều so với bên ngoài. Con con phát triển nhờ  chất  dinh dưỡng có trong trứng, hoàn toàn không có liên quan gì đến sự cung cấp chất dinh   dưỡng từ cơ thể mẹ như sự đẻ con ở thú sau này [3]. 1.3.  Ảnh hưởng của nhân tố thức ăn đến đời sống động vật 1.3.1. Ý nghĩa của thức ăn đối với động vật Thức ăn là một nhân tố sinh thái quan trọng đối với động vật. Thức ăn được oxy  hóa để  sản xuất ra năng lượng, thức ăn được biến đổi và được thu nhận vào trong tế  bào và mô đảm bảo cho sự  sinh trưởng  ở động vật. Thức ăn có thể  dùng để  thay thế  và đổi mới những bộ phận của mô bị phân hủy liên tục trong các biến đổi hóa học xảy   ra suốt đời. Có 4 kiểu dinh dưỡng: ­ Dinh dưỡng kiểu động vật: thức ăn phức tạp được phân giải nhờ  quá trình tiêu  hóa thành những chất đơn giản về sau được hấp thụ và sát nhập vào cấu tạo cơ  thể, hoặc được oxy hóa để sinh ra năng lượng. ­ Dinh dưỡng kiểu thực vật: bao gồm sự tổng hợp chất hữu c ơ có từ  những hợp   chất đơn giản cụ thể là CO2, nước và các muối dưới tác dụng của ánh sáng mặt  trời trong quá trình quang hợp ở cây xanh. Chất hữu cơ có thể được oxy hóa sản   ra năng lượng hay được tổng hợp thành chất nguyên sinh và thành tế bào. ­ Dinh dưỡng ký sinh: trong kiểu dinh dưỡng này sinh vật lấy thức ăn dưới dạng  dịch mô của vật mà nó ký sinh (vật chủ), nhưng không làm chết ngay vật chủ. ­ Dinh dưỡng hoại sinh là kiểu dinh dưỡng trong đó các hợp chất hóa học khá  phức tạp được hấp thu vào trong cơ  thể  thực vật. Một số hợp chất được hấp  thu thẳng, một số hợp chất khác được tiêu hóa ở  ngoài cơ  thể  nhờ  enzyme tiết   vào trong hoặc trên bề  mặt của hợp chất đó. Các chất hữu cơ  thối rữa chẳng   hạn như gỗ mục là thức ăn thích hợp đối với các sinh vật hoại sinh như  nhiều  loại nấm. Nhu cầu về năng lượng do thức ăn cung cấp thay đổi tùy loài, cỡ lớn và tuổi. Dầu, mỡ có tác dụng bổ sung cho hydrat cacbon và cần thiết phải có trong chế độ  ăn. Nếu thiếu một vài loại acid béo nào đó có thể  gây ra những trở  ngại cho sự  tiêu  hóa. Một nhu cầu dinh dưỡng quan trọng nữa là sinh tố. Sinh tố có tác dụng như những   chất xúc tác sinh học giúp cho các chức phận chuyển hóa bình thường của cơ thể trong   đó có quá trình đồng hóa và sử  dụng các chất dinh dưỡng, quá trình trưởng thành xây  Trang 10
  17. Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà dựng tế  bào và tổ  chức của cơ thể. Đối với canxi và phốt pho, cơ  thể  hàng ngày đòi   hỏi với một số lượng lớn, trong khi đó đồng, coban và một số yếu tố khác cơ  thể  chỉ  cần một lượng rất nhỏ; nếu những yếu tố đó xâm nhập vào cơ thể quá một số lượng  nhất định có thể  gây ngộ  độc. Động vật nào cũng đều cần phải có nitơ  để  tạo thành   những amino acid cần thiết. Những thành phần protein thực vật là những nguyên liệu  để xây dựng protein động vật. Sự đáp ứng đầy đủ thành phần các loại thức ăn cần thiết cho việc duy trì sự sống   của cơ thể trong điều kiện nghỉ ngơi cũng như hoạt động để đảm bào sự sinh trưởng,   phát triển và sinh sản. Động vật ăn thịt, nhìn chung, có yêu cầu đơn giản về mặt dinh  dưỡng, song thực chất khi ăn thịt con mồi, nó đã sử dụng tất cả những loại thức ăn mà   con mồi đã sử dụng; do đó nó vẫn có đủ  chất. Một số động vật ăn thịt sử  dụng thêm   cả thức ăn thực vật để bù cho những thành phần thức ăn không có trong thịt. Dựa vào tính chất dinh dưỡng người ta chia động vật thành các nhóm: ­ Động vật đơn thực: gồm những loài chỉ ăn một vài loại thức ăn, thường gặp ở  động vật không xương sống chủ yếu ở sâu bọ. ­ Động vật thiểu hẹp thực: chỉ ăn một vài loại thức ăn như hạt cây, các phần cây,   lá cây, rễ, sâu bọ, chim nhỏ,… Nhóm này thường gặp nhiều hơn nhóm đơn   thực. Đa số bò sát thuộc nhóm hẹp thực. Trong số rắn được biết có những loài   hoặc giống chỉ  thích sống bằng những thú nhỏ  hay bò sát (rắn lục, cạp nong,   cạp nia,…) hoặc côn trùng hay một số ít loài động vật không xương sống (rắn  giun Typhlopidae). Những loài động vật thiểu thực thường phân bố ở những rừng nhiệt đới thức ăn  phong phú và khí hậu  ổn định không có sự  biến động rõ rệt theo mùa.  Ở  đấy   một vài loài thức ăn chuyên hóa của chúng có dồi dào. Những loài thiểu thực ít  phân bố ở những vùng ôn đới hoặc những vùng có vĩ độ cao. Sự  hình thành các loài thiểu thực có liên quan đến quan hệ  các loài trong quần  xã, có vai trò làm giảm sự cạnh tranh giữa các loài trong quần xã. Sự  thích nghi  hẹp đối với một loại thức ăn dẫn đến sự chuyên hóa các tuyến tiết men, nhờ đó  chúng có thể sử dụng thức ăn triệt để  hơn và chỉ  dùng một cách hợp lý dự  trữ  thức ăn. Do đó việc ăn thức ăn không đặc trưng có thể ảnh hưởng đến sức sống  của động vật, giảm sút chất lượng, số  lượng sản phẩm sinh dục, đôi khi dẫn  đến sự  bất thụ  và tử  vong. Nhân tố  quyết định sự  chuyên hóa thức ăn và năng  Trang 11
  18. Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà lực chọn thức ăn là phụ thuộc vào đặc điểm trao đổi chất của các loài, của các   giai đoạn phát triển của cơ thể và nhu cầu của chúng về thành phần, chất lượng  lipid, gluxit, muối khoáng và những sinh tố xác định. ­ Động vật rộng thực: có khả năng ăn nhiều loại thức ăn khác nhau. Ở động vật cũng có sự thay đổi về chế độ ăn. Động vật rộng thực thường có khả  năng ăn nhiều loại thức ăn khác nhau. Tuy  nhiên trong số  những thức ăn đó, cũng có những loại thức ăn chúng  ưa thích nhất và   loại thức ăn này thay đổi tùy theo giai đoạn phát triển, theo giống, theo tuổi, theo mùa  và theo hoàn cảnh sống. [4] 1.3.2. Ảnh hưởng của thức ăn đến động vật Thức ăn được coi là nhân tố  quan trọng nhất đối với cơ  thể  động vật. Đảm bảo   cho con vật tồn tại, sinh trưởng, sinh sản và phát triển. Vì vậy có thể nói thức ăn quyết   định đến toàn bộ đời sống của con vật. Thức ăn ảnh hưởng đến động vật tùy thuộc vào: ­ Giá trị dinh dưỡng. ­ Khả năng tiêu hóa kích thước của thức ăn. ­ Tính ưa thích đối với thức ăn. ­ Khả năng tự bảo vệ của đối tượng làm thức ăn. Nhân tố thức ăn đối với đời sống động vật có ý nghĩa khác nhau: ­ Tùy theo loài. ­ Giai đoạn phát triển. ­ Theo tính đực cái. ­ Theo mùa và ngày đêm. ­ Nơi phân bố. ­ Tình trạng con vật. Ở  hầu hết các động vật (côn trùng, cá, chim, thú,…) có hiện tượng thay thế  các   loại thức ăn, giảm yêu cầu thức ăn giữa mùa đông và mùa hè. Trang 12
  19. Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà Nguyên nhân của các hoạt động của động vật: di cư, di chuyển, nghỉ  ngơi, lối  sống tập đoàn hay đơn độc đều do thức ăn. Do tính thích nghi về  dinh dưỡng lâu dài trong quá trình hình thành loài, nên các  động vật đã phân hóa thành các bọn có chế độ  ăn khác nhau: ăn cỏ, ăn thịt, ăn tạp, ăn   xác chết, ăn đơn, ăn ít, ăn hẹp, ăn rộng. Chúng đều có những thích nghi về  hình thái  cấu tạo của cơ quan bắt mồi, tiêu hóa về sinh lý, về sinh thái [18]. Ảnh hưởng của thức ăn đến đời sống động vật thể  hiện  ở  cả  chất lượng cũng   như số lượng thức ăn. Chất lượng của thức ăn  ảnh hưởng tới độ  sinh sản, ảnh hưởng tới tuổi thọ, tốc   độ sinh trưởng và sự tử vong. Động vật đẳng nhiệt có nhu cầu về  mặt dinh dưỡng lớn hơn so với động vật  biến nhiệt vì động vật đẳng nhiệt cần nhiều năng lượng để  duy trì sự  ổn định nhiệt   độ  cơ  thể. Đặc biệt đối với những loài động vật đẳng nhiệt có kích thước nhỏ.  Ảnh   hưởng của số lượng thức ăn thể hiện rất rõ đối với sự phát triển của cơ thể và sự sinh  sản, đặc biệt ở hiện tượng chu kỳ sinh dục dinh dưỡng [4]. 1.3.3. Ảnh hưởng của thức ăn đến bò sát Hiện đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về ảnh hưởng của thức ăn lên tốc độ sinh  trưởng cũng như tỷ lệ sống sót của các loài động vật khác nhau, nhưng chủ yếu là các  loài sống dưới nước hay các động vật không xương sống cỡ  nhỏ  như:  ấu trùng ghẹ  xanh, cá tai tượng,  ốc len, cá khoang cổ đỏ,... Tuy nhiên lại rất ít đề  tài liên quan đến   việc nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn lên tốc độ sinh trưởng của bò sát. Dựa vào thức ăn có thể chia các loài bò sát thành ba nhóm: nhóm ăn thịt, nhóm ăn  thực vật và nhóm ăn tạp. Trong đó nhóm ăn thịt chiếm ưu thế nhất. Đại bộ  phận thằn lằn ăn động vật không xương sống, chủ  yếu là sâu bọ  (mồi  nhỏ). Kì đà ăn thân mềm, cá và cả xác động vật có xương sống. Đa số rắn ăn mồi có   kích thước lớn. Tuy nhiên, rắn giun ăn những động vật không xương sống nhỏ  trong   đất. Rắn khiếm chuyên ăn thằn lằn và nhiều loài động vật không xương sống. Có  nhiều loại chuyên ăn một số loại thức ăn như nhông cánh chủ yếu ăn kiến; rắn hổ đất  nâu chuyên ăn  ếch nhái và thằn lằn, rắn cạp nong, rắn hoa cân hoặc xe điếu  ở  miền   Nam nước ta; rắn hổ  mang chúa chuyên ăn thằn lằn và rắn hoặc rắn rào xanh ăn cả  chim và rắn; rắn biển ăn cá. Nhiều loài rắn còn ăn cả trứng chim như rắn sọc dưa, rắn   khiếm, rắn hổ mang. Chỉ có rất ít loài thằn lằn và rắn ăn thực vật. Ở miền Nam Việt   Trang 13
  20. Khóa luận tốt nghiệp 2012 Ngô Thị Ngân Hà Nam có loài rắn râu sống trong ao hồ, sử dụng tảo xanh làm thức ăn. Rùa cạn như rùa   núi vàng và rùa núi viền chủ yếu ăn thực vật. Những loài rùa biển như vích, đồi mồi và   hầu hết những loài trong nhóm rùa vừa sống  ở  nước, vừa sống ven bờ ăn tạp. Ba ba  gai ăn động vật. Nhiều loài bò sát có tập tính ăn thịt lẫn nhau, con lớn nuốt con cỡ nhỏ  như thằn lằn bóng bố mẹ ăn ngay con vừa mới nở từ trứng hay thạch sùng có khi đuổi  bắt thạch sùng con để ăn thịt [5]. Thức ăn  ảnh hưởng đến tập tính bắt mồi của bò sát.  Ở  đa số  rắn, đặc biệt rắn   độc có tập tính rình mồi, mai phục chờ cho con mồi đến đúng tầm là chộp lấy. Đối với   những loài này con mồi thường lớn và thời gian tiêu hóa chúng thường kéo dài, nhất là  khi nhiệt độ môi trường thấp [5]. Nhiều loài bò sát có tập tính đi tìm mồi tích cực. Những loài này thường là những   loài thằn lằn và rắn ăn sâu bọ. Thường chúng có giác quan phát triển và con mồi của  chúng thường có kích thước nhỏ [5]. Thức ăn còn ảnh hưởng đến tính phàm ăn của bò sát. Bò sát rất phàm ăn, nhất là  các loài rắn. Bò sát có khả năng nhịn đói trong một thời gian dài, đặc biệt là rùa và trăn   [8]. Những loài bò sát cỡ nhỏ thường đòi hỏi phải ăn thường xuyên hơn so với những  loài bò sát có kích thước cơ thể  lớn. Thằn lằn cỡ nhỏ có thể  tìm bắt mồi suốt ngày.   Thời gian tiêu hóa con mồi thường là sâu bọ, chỉ đòi hỏi vài giờ [5]. Những loài bò sát cỡ lớn thường ăn những con mồi lớn, nên tốc độ  tiêu hóa con   mồi thường chậm. Để tiêu hóa một con mồi cỡ lớn trăn cần có một thời gian từ 8 đến   10 ngày khi thời tiết nóng và hơn một tháng khi trời lạnh. Vì thế   ở  những loài bò sát  này số bữa ăn thường thưa và con vật không có tập tính bắt mồi liên tục. Khả năng ăn  một lượng thức ăn lớn trong một lúc đi liền với khả  năng nhịn ăn trong một thời gian   dài. Trăn mắt võng có thể nhịn ăn được trong hai năm, trong khi đó thằn lằn chỉ có thể  nhịn đói được trong vòng một tuần. Đại đa số  rắn, thằn lằn bắt mồi rồi nuốt chửng   mồi; rùa, cá sấu không nuốt chửng mồi mà xé nhỏ mồi ra từng mảnh [5]. Khả  năng nhịn ăn có thể  là một đặc điểm thích nghi với điều kiện khan hiếm   mồi. Trong thời gian nhịn đói, cường độ các quá trình sống giảm sút và con vật ít hoạt  động. Nhưng khi có nhiều thức ăn, con vật có thể  ăn một lúc khá nhiều và hoạt động   mạnh lên. Con vật càng giỏi nhịn đói bao nhiêu thì càng tài ăn bấy nhiêu. Ngược lại,   Trang 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2