ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
***
NGUYỄN HẢI YẾN
QUYỀN CON NGƢỜI VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC
QUYỀN CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGHÀNH: TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa: QH – 2015 – X
Hà Nội, 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
***
NGUYỄN HẢI YẾN
QUYỀN CON NGƢỜI VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC
QUYỀN CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGHÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa: QH – 2015 – X
Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Thúy Vân
Hà Nội, 2019
LỜI CAM ĐOAN
***
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện và chƣa
đƣợc công bố. Những trích dẫn trong khóa luận là trung thực, xuất xứ rõ ràng.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Hải Yến
LỜI CẢM ƠN
***
Để có thể hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin đƣợc gửi lời cảm
ơn chân thành đến giảng viên hƣớng dẫn của tôi là PGS.TS Nguyễn Thị Thúy
Vân. Cô giáo đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong việc định hƣớng lựa chọn đề tài và
nội dung, tìm kiếm và đọc tài liệu cũng nhƣ các thao tác làm việc cơ bản giúp tôi
hoàn thiện hơn cả về kiến thức và kỹ năng.
Tôi cũng xin đƣợc gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo trong khoa
Triết học đã cung cấp những kiến thức nền để tôi có thể thực hiện đề tài này.
Mặc dù đã hoàn thành, song bài Khóa luận tốt nghiệp của tôi không tránh
khỏi có những yếu điểm và thiếu sót, do vậy tôi rất mong nhận đƣợc những lời
đánh giá và góp ý từ phía các thầy giáo, cô giáo và các bạn để bài Khóa luận tốt
nghiệp của tôi đƣợc hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Hải Yến
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 3
NỘI DUNG ......................................................................................................... 13
Chƣơng 1. Khái quát chung về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời
trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc Pháp quyền ở Việt Nam hiện nay .............. 13
1.1: Khái niệm quyền con ngƣời, quyền công dân .......................................... 13
1.1.1: Khái niệm quyền con ngƣời ................................................................ 13
1.1.2: Khái niệm quyền công dân ................................................................. 18
1.1.3: Quan hệ giữa quyền con ngƣời, quyền công dân ............................... 21
1.2: Lịch sử phát triển của tƣ tƣởng về quyền con ngƣời ................................ 22
1.2.1: Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời thời kỳ cổ đại ..................................... 22
1.2.2: Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời trong thời kỳ cận – hiện đại ............... 25
1.3: Khái niệm giáo dục quyền con ngƣời ....................................................... 32
1.3.1: Một số vấn đề chung về giáo dục quyền con ngƣời ........................... 32
1.3.2: Nội dung giáo dục quyền con ngƣời ................................................... 37
1.3.3: Vai trò của giáo dục quyền con ngƣời trong điều kiện xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay ............................................................ 40
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ...................................................................................... 45
Chƣơng 2: Thực trạng và một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao công tác
giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay ................................................. 46
2.1: Thực trạng giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay .................... 46
2.1.1: Những thành tựu đã đạt đƣợc ............................................................. 46
2.1.2. Những hạn chế còn tồn tại .................................................................. 56
2.2: Những quan điểm chung và giải pháp về giáo dục quyền con ngƣời, quyền
công dân ở nƣớc ta hiện nay ............................................................................ 60
2.2.1: Những quan điểm của Đảng - Nhà nƣớc ta về giáo dục quyền con
ngƣời, quyền công dân .................................................................................. 60
2.2.2: Giải pháp tăng cƣờng giáo dục quyền con ngƣời quyền công dân ở
nƣớc ta hiện nay ............................................................................................ 61
1
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ...................................................................................... 64
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 68
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền con ngƣời là một trong những yếu tố cơ bản, nền tảng của một xã
hội dân chủ, văn minh. Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời đã hình thành từ rất sớm
trong lịch sử nhân loại; tuy nhiên không phải trong bất cứ hình thái - xã hội nào,
trong bất cứ kiểu Nhà nƣớc nào nó cũng tồn tại và đƣợc thừa nhận một cách đầy
đủ. Vì thế, quyền con ngƣời là một phạm trù lịch sử và là kết quả của cuộc đấu
tranh không ngừng của toàn nhân loại nhằm vƣơn tới những lý tƣởng, giải
phóng hoàn toàn con ngƣời khỏi bất bình đẳng trong xã hội nhằm xây dựng một
xã hội thật sự công bằng, dân chủ và nhân đạo.
Trong thời đại ngày nay, quyền con ngƣời đã trở thành một vấn đề triết
học, chính trị, pháp lý, đao đức có ý nghĩa hết sức quan trọng. Ở cấp độ quốc tế,
quyền con ngƣời đã trở thành mối quan tâm chung của toàn thể cộng đồng nhân
loại. Quyền con ngƣời đƣợc ghi nhận là giá trị chính trị, đạo đức, pháp lý phổ
biến. Ở cấp độ quốc gia, quyền con ngƣời đang ngày càng đƣợc thừa nhận rộng
rãi. Tôn trọng, bảo đảm và thực thi quyền con ngƣời vừa đƣợc coi là điều kiện
vừa là mục tiêu phát triển của các nƣớc, không phân biệt chế độ chính trị hay
trình độ phát triển.
Vấn đề quyền con ngƣời có vai trò quan trọng nhƣ vậy, nên nhiều nƣớc
trên thế giới coi trọng việc giáo dục quyền con ngƣời nhằm làm cho mỗi con
ngƣời ý thức biết tôn trọng quyền của ngƣời khác và tự mình biết bảo vệ quyền
của mình. Năm 1978 UNESCO cũng đã triệu tập Hội nghị quốc tế về giáo dục
nhân quyền tại Viên (Thủ đô nƣớc Áo) để phát triển hơn nữa những lý do cho
việc giáo dục nhân quyền. Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị công nhận rằng:
"Giáo dục nên làm cho mỗi cá nhân thấy quyền của mình, đồng thời họ cũng
phải biết tôn trọng những quyền của ngƣời khác", và đến 23/12/1994, Đại hội
đồng Liên Hợp Quốc bằng Nghị quyết số 49/184 đã chính thức tuyên bố: "Thập
kỷ giáo dục nhân quyền bắt đầu từ 1/1/1995 đến 1/1/2004".
Nƣớc ta đang trong tiến trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền dƣới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì việc giáo dục quyền con ngƣời lại
3
càng có ý nghĩa to lớn hơn bao giờ hết, nhằm làm cho Việt Nam sớm hội nhập
với thế giới và khu vực, góp phần xây dựng nền văn hóa nhân quyền toàn cầu.
Thực hiện đƣợc điều đó, Đảng và Nhà nƣớc ta đã hƣởng ứng, tham gia có hiệu
quả "Thập kỷ giáo dục nhân quyền" của Liên Hợp Quốc.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây, việc nghiên cứu
làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá những thành tựu, ƣu điểm đã đạt đƣợc và làm rõ
những khuyết điểm tồn tại của vấn đề giáo dục quyền con ngƣời; đồng thời xác
định phƣơng hƣớng, nội dung, phƣơng pháp tiếp tục thực hiện giáo dục quyền
con ngƣời trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Do vậy, tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu
“Quyền con ngƣời và vấn đề giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay”
làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời là vấn đề có tính thời sự
và có liên quan mật thiết đến tình hình chính trị toàn cầu nên những nghiên cứu
về vấn đề quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời nhận đƣợc sự quan tâm
nghiên cứu của đông đảo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc. Có thể chia
những nghiên cứu này thành hai mảng nội dung chính sau:
* Những nghiên cứu về quyền con người
Có rất nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh những vấn đề lý luận về
quyền con ngƣời của nhiều học giả trong và ngoài nƣớc, tiêu biểu là cuốn sách
Quyền con ngƣời của Jacques Mourgon, giáo sƣ trƣờng đại học Khoa học Xã
hội Toulouse (Pháp). Bằng việc phân tích bản chất của con ngƣời và quyền con
ngƣời, tác giả khẳng định quyền con ngƣời là trung tâm của chính trị và trung
tâm của các mối quan hệ giữa quyền lực và con ngƣời, nhƣng quyền con ngƣời
cũng không phải là những cái gì quá xa lạ với con ngƣời. Quyền con ngƣời là
"những đặc quyền" đƣợc các quy tắc điều khiển mà con ngƣời "giữ riêng" lấy
trong các quan hệ của mình với những cá nhân và với chính quyền". Nhƣ vậy,
quyền con ngƣời trƣớc hết là các quyền cố hữu, tự nhiên con ngƣời sinh ra đã có
(cả thể xác và tƣ tƣởng) và các quyền này đƣợc sử dụng trong các quan hệ giữa
4
cá nhân với cá nhân, cá nhân với chính quyền. Trên cơ sở khái niệm quyền con
ngƣời, tác giả tập trung phân tích các điều kiện cần thiết để bảo đảm, thực hiện
quyền con ngƣời nhƣ: sự công nhận quyền trong các điều ƣớc quốc tế về quyền
con ngƣời; sự ghi nhận quyền trong pháp luật quốc tế và quốc gia; thiết chế
kiểm soát các quyền nhằm ngăn chặn sự lạm quyền từ phái các cá nhân, tổ chức
thực thi quyền lực nhà nƣớc bảo đảm quyền con ngƣời và sự phụ thuộc của các
quyền vào cộng đồng quốc tế và các nhà nƣớc.
Giáo sƣ Hoàng Nam Sâm, trƣờng đại học Tổng hợp Bắc Kinh, Trung
Quốc trong bài "Khái niệm quyền con ngƣời trong truyền thống văn hóa Trung
Quốc" (2002) cho rằng: "Quyền con ngƣời là những quyền cơ bản mà con ngƣời
sinh ra đã đƣợc hƣởng, bao gồm trƣớc hết là quyền đƣợc sống và quyền đƣợc
phát triển; sau đó là các quyền khác" [67, tr.40], chẳng hạn nhƣ "quyền đƣợc
tham gia các hoạt động chính trị, xã hội, trong đó quyền bình đẳng là quan trọng
nhất. Quyền này thể hiện ở chỗ tất cả mọi ngƣời có thể sống nhƣ một cá nhân
độc lập và quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời là bình đẳng, xét trên phƣơng
diện nhân phẩm" [67, tr.40]. Để có đƣợc một học thuyết về quyền con ngƣời, tác
giả cho rằng phải đƣợc thiết lập qua 5 giai đoạn: thứ nhất là ý thức về quyền con
ngƣời; thứ hai là tƣ tƣởng về quyền con ngƣời; thứ ba là quyền con ngƣời dƣới
góc độ pháp lý; thứ tƣ là khái niệm quyền con ngƣời và thứ năm là học thuyết về
quyền con ngƣời. Tác giả cũng khẳng định việc Trung Quốc thực hiện cải cách,
mở cửa đã đƣa sự phát triển về quyền con ngƣời sang một giai đoạn mới. Bằng
việc thực thi dân chủ và xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, các quyền con ngƣời
của ngƣời dân Trung Quốc không ngừng mở rộng, quyền cá nhân và quyền tập
thể kết hợp hòa quyện với nhau, tạo động lực thúc đẩy lực lƣợng sản xuất, cải
thiện mức sống của ngƣời dân.
Bài viết "Thực tế quyền con ngƣời trong chủ nghĩa xã hội và cuộc đấu
tranh vì quyền con ngƣời trên thế giới", (2002), tác giả Lang Nghị Hoài khẳng
định: "Quyền con ngƣời là một phạm trù xã hội mang tính tổng hợp, là sự giới
định và thừa nhận xã hội mà con ngƣời giành đƣợc với tƣ cách là sự vật tồn tại
trong xã hội. Sự thừa nhận và giới định này biểu hiện ở tƣ cách là ngƣời tham dự
5
giao lƣu xã hội" [28, tr.231]. Theo tác giả, quyền con ngƣời nằm sâu trong mối
quan hệ giữa ngƣời với ngƣời trong xã hội, do đó, quyền con ngƣời trƣớc hết là
quyền của một giai cấp nhất định, có tính giai cấp rõ rệt. Sự phát triển quyền con
ngƣời, sự cải thiện mối quan hệ quyền con ngƣời là quá trình lâu dài trong lịch
sử, tự do và bình đẳng trừu tƣợng không phải là thƣớc đo thông dụng đối với
quyền con ngƣời mà chỉ là tiêu chí để đánh giá mức độ phát triển của quyền con
ngƣời mà thôi. Đặc biệt, trong thế giới hiện nay, việc bảo đảm quyền con ngƣời
và bảo vệ giữ vững chủ quyền quốc gia có mối quan hệ mật thiết và biện chứng
với nhau, do đó, cần có cái nhìn toàn diện và khoa học về quyền con ngƣời cũng
nhƣ các cơ chế, thiết chế bảo vệ quyền con ngƣời.
Ở nƣớc ta, việc nghiên cứu quyền con ngƣời đƣợc bắt đầu từ cuối thập kỷ
80 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, thời gian này, các công trình nghiên cứu mới chỉ
là bƣớc đầu và chƣa đƣợc xã hội hóa một cách có hệ thống. Những năm 1990 là
thời gian đánh dấu sự "bùng nổ" về hoạt động nghiên cứu quyền con ngƣời ở
Việt Nam. Hai sự kiện có thể coi là động lực thúc đẩy hoạt động nghiên cứu
quyền con ngƣời ở Việt Nam những năm đầu của thập kỷ này là việc sửa đổi bổ
sung Hiến pháp 1992 và việc ban hành Chỉ thị 12-CT/TW của Ban Bí thƣ về
Vấn đề quyền con ngƣời và quan điểm chủ trƣơng của Đảng ta. Hiến pháp 1992,
Hiến pháp của công cuộc Đổi mới, lần đầu tiên, khái niệm quyền con ngƣời
đƣợc quy định tại điều 50, thể hiện sự thay đổi mang tính bƣớc ngoặt trong nhận
thức về vấn đề này ở Việt Nam. Sự kiện này khẳng định việc đánh giá một cách
chính thức của Đảng, Nhà nƣớc Việt Nam với vấn đề quyền con ngƣời, tạo nền
tảng chính trị và pháp lý cho các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và tổ chức
thực hiện bảo đảm các quyền con ngƣời ở Việt Nam.
Trong Chƣơng trình "Con ngƣời, mục tiêu và động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội", mã số KX.07/91-95, lần đầu tiên, quyền con ngƣời đã trở thành
đối tƣợng nghiên cứu cấp nhà nƣớc. Đó là đề tài "Các điều kiện đảm bảo quyền
con ngƣời, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nƣớc", do Hoàng Văn
Hảo chủ nhiệm. Đề tài đã tập trung phân tích những vấn đề lý luận về quyền con
ngƣời nhƣ: khái niệm quyền con ngƣời, lịch sử phát triển của quyền con ngƣời,
6
những nội dung cơ bản của quyền con ngƣời; thực trạng việc vi phạm quyền con
ngƣời trên thế giới cũng nhƣ các điều kiện đảm bảo quyền con ngƣời. Từ đó đến
nay, vấn đề quyền con ngƣời đƣợc nhiều học giả tập trung nghiên cứu với nhiều
công trình khoa học đƣợc công bố có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn trên
hầu hết lĩnh vực của quyền con ngƣời, nhƣ đề tài khoa học cấp bộ "Quan điểm
C.Mác-Ph.Ăngghen về quyền con ngƣời", Hoàng văn Hảo chủ nhiệm (1997) ;
đề tài "Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Quyền con ngƣời", Cao Đức Thái chủ nhiệm
(1998); đề tài "Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về quyền con
ngƣời và ý nghĩa với Việt Nam hiện nay" (2007), Nguyễn Đức Thùy chủ nhiệm,
đề tài "Tƣ tƣởng V.I.Lênin về quyền con ngƣời", Hoàng Mai Hƣơng chủ nhiệm
(2009); đề tài "Tƣ tƣởng nhân quyền trong một số học thuyết chính trị, pháp lý
cơ bản", Nguyễn Duy Sơn chủ nhiệm (2013) . Các công trình trên đã tập trung
phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con ngƣời: nguồn gốc của
quyền con ngƣời, khái niệm quyền con ngƣời, các quan điểm, luận điểm khác
nhau về quyền con ngƣời trong lịch sử, quan điểm của Chủ nghĩa MácLênin về
quyền con ngƣời; tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền con ngƣời cũng nhƣ các điều
kiện cần thiết để bảo đảm quyền con ngƣời và khẳng định: quyền con ngƣời là
một phạm trù lịch sử; mang tính nhân loại và tính giai cấp; nó là sản phẩm của
phƣơng thức sản xuất vật chất; gắn liền với nhà nƣớc và pháp luật, đƣợc bảo vệ
bằng pháp luật; đƣợc thực hiện triệt để nhất trong chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản. Đây là những công trình đặt cơ sở phƣơng pháp luận cho việc triển
khai nghiên cứu các chủ đề khác nhau về quyền con ngƣời.
Cùng với các đề tài khoa học, nhiều sách chuyên khảo có giá trị về quyền
con ngƣời đã đƣợc công bố nhƣ: "Quyền con ngƣời trong thế giới hiện đại", tác
giả Phạm Khiêm Ích và Hoàng Văn Hảo chủ biên (1995) , sách "Tìm hiểu vấn
đề nhân quyền trong thế giới hiện đại" (1996), Chu Hồng Thanh chủ biên; sách
tham khảo "Góp phần tìm hiểu quyền con ngƣời" (2006) của tác giả Phạm Văn
Khánh; sách "Triết học chính trị về quyền con ngƣời" (2006) của tác giả Nguyễn
Văn Vĩnh; "Quyền con ngƣời, tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội"
(2009), Võ Khánh Vinh chủ biên, "Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời, Tuyển tập tƣ
7
liệu thế giới và Việt Nam" (2011) của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội,
"Dân chủ nhân quyền giá trị toàn cầu và đặc thù quốc 9 gia" (2011) của Hội
đồng Lý Luận Trung ƣơng, "Quyền con ngƣời, lý luận và thực tiễn" (2014) của
Viện nghiên cứu quyền con ngƣời,... Mặc dù cách tiếp cận và phân tích có khác
nhau, song các công trình trên đều tập trung nghiên cứu, luận giải khái niệm
quyền con ngƣời, bản chất đặc trƣng của quyền con ngƣời, nội dung các quyền
cơ bản của con ngƣời cũng nhƣ các điều kiện, cơ chế bảo đảm quyền con
ngƣời...
Trên cơ sở các công trình nghiên cứu, một số cơ sở đào tạo đã biên soạn
giáo trình giảng dạy về quyền con ngƣời. Tiêu biểu là giáo trình "Lý luận về
quyền con ngƣời" do Viện nghiên cứu quyền con ngƣời, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh (2010) biên soạn và "Giáo trình lý luận và pháp luật về
quyền con ngƣời" của Khoa luật, Đại học quốc gia (2009)... Mặc dù cách tiếp
cận, phân tích khác nhau, song nhìn chung, các giáo trình này đều tập trung giới
thiệu về những vấn đề lý luận của quyền con ngƣời nhƣ: khái niệm quyền con
ngƣời; đặc trƣng cơ bản của quyền con ngƣời; nội dung cơ bản của quyền con
ngƣời; sự phát triển quyền con ngƣời trong lịch sử nhân loại; luật quốc tế về
quyền con ngƣời; Hiến pháp, pháp luật Việt Nam về quyền con ngƣời; quan
điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc Việt Nam về quyền con
ngƣời; phân tích các điều kiện và cơ chế quốc gia và quốc tế bảo đảm quyền con
ngƣời, trong đó nhấn mạnh "Ngày nay, quyền con ngƣời đã đƣợc quốc tế hóa về
nhiều mặt. Đó là việc xác lập các nguyên tắc và chuẩn mực nhân quyền. Đó là
sự hình thành cơ chế quốc tế bảo vệ quyền con ngƣời. Tuy nhiên, việc bảo đảm
các quyền con ngƣời hiện nay chủ yếu vẫn nằm trong khuôn khổ quốc gia, trong
thẩm quyền pháp lý của các nhà nƣớc" [77, tr.126]. Vì vậy, các quốc gia đều có
nghĩa vụ ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, thực thi quyền con ngƣời theo quy định
của Luật nhân quyền quốc tế, đồng thời có trách nhiệm tôn trọng cơ chế giám
sát quốc tế và phải tuân thủ các công ƣớc mà quốc gia đã ký kết, gia nhập...
*Những nghiên cứu về giáo dục quyền con người
8
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề giáo dục quyền con ngƣời đối
với việc tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền nhƣ đã trình bày trên đây,
việc nghiên cứu về vấn đề này đã thu hút sự quan tâm của các cơ quan, tổ chức,
các nhà nghiên cứu, các học giả, các chuyên gia trên thế giới và trong các quốc
gia, trong đó có Việt Nam.
Ở phạm vi quốc tế, các công trình nghiên cứu về giáo dục quyền con
ngƣời đáng kể nhất phải kể đến những tài liệu, hƣớng dẫn về giáo dục quyền con
ngƣời của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc nhƣ: Cuốn “Sử dụng ABC: giảng
dạy về quyền con ngƣời, các hoạt động thực tiễn cho các trƣờng phổ thông (cấp
I và cấp II)” xuất bản năm 2003 với nội dung giáo dục những kiến thức cơ bản,
sơ khai về nhân quyền cho học sinh cấp tiểu học và những hiểu biết ở mức bảo
vệ nhân quyền cho học sinh cấp trung học cơ sở; Năm 1999 Trung tâm quốc gia
về giáo dục pháp luật, thuộc Đại học Warwick, Anh đã xuất bản cuốn “Giảng
dạy nhân quyền” với nội dung lồng ghép giáo dục nhân quyền với giáo dục pháp
luật; Đến năm 2000, Hội đồng Anh xuất bản ba tập sách với nội dung về: Giáo
dục công dân và giáo dục nhân quyền.
Ở Việt Nam, trong vấn đề giáo dục quyền con ngƣời hiện nay vẫn chủ yếu
gắn với giáo dục pháp luật, do đó, có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận
văn thạc sỹ, luận án tiến sĩ đề cập đến vấn đề trên, có thể liệt kê những tác phẩm,
công trình nghiên cứu nhƣ: "Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cƣờng pháp
chế xã hội chủ nghĩa", luận án Phó tiến sĩ của Trần Ngọc Đƣờng; "Ý thức pháp
luật xã hội chủ nghĩa và giáo dục pháp luật cho nhân dân lao động (ở Việt
Nam)", luận án Phó tiến sĩ của Nguyễn Đình Lộc; "Giáo dục pháp luật cho nhân
dân" của Nguyễn Ngọc Minh (Tạp chí Cộng sản, số 10, 1983); "Giáo dục ý thức
pháp luật để tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng con ngƣời mới"
của Phùng Văn Tửu (Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4, 1985); "Giáo dục ý thức
pháp luật" của Nguyễn Trọng Bình (Tạp chí Xây dựng Đảng, số 4, 1989); "Cơ
sở khoa học của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" đề tài khoa
học cấp nhà nƣớc, mã số 07-17 do Viện Nhà nƣớc - Pháp luật thuộc Trung tâm
Khoa học xã hội và nhân văn chủ trì; "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo
9
dục pháp luật trong công cuộc đổi mới", đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92-98-
223ĐT của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tƣ pháp; "Tìm kiếm mô
hình phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít ngƣời" đề
tài khoa học cấp bộ của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý; "Thực trạng và
phƣơng hƣớng đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nƣớc
ta hiện nay", luận văn Thạc sĩ của Đặng Ngọc Hoàng…
Ở góc độ riêng về giáo dục quyền con ngƣời thời gian gần đây có một số
công trình nghiên cứu điển hình nhƣ: "Giáo dục nhân quyền hƣớng tới thế kỷ
XXI" của Tƣờng Duy Kiên (Tạp chí Thông tin Khoa học thanh niên, số 4,
1997); Chuyền đề “Nghiên cứu giảng dạy về quyền con ngƣời” (Thông tin
Quyền con ngƣời, số 3, 2009); Chuyên khảo “Giáo dục quyền con ngƣời, những
vấn đề lý luận và thực tiễn” của GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên (Viện khoa học
xã hội Việt Nam, năm 2010); Báo cáo khoa học tổng quan đề tài cấp cơ sở
“Giáo dục quyền con ngƣời_lý luận, thực tiễn Quốc tế và Việt Nam” do Ths.
Nguyễn Văn Tuấn làm chủ nhiệm đề tài (Đại học Quốc Gia Hà Nội, Khoa Luật
năm 2010)… Những công trình nghiên cứu trên là đóng góp to lớn cho nền giáo
dục quyền con ngƣời của Việt Nam.
Nhƣ vậy, trên thế giới cũng nhƣ trong nƣớc đã có nhiều công trình nghiên
cứu về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời. Các công trình nghiên
cứu này đã đề cập đến những vấn đề lý luận chung về quyền con ngƣời, từng
lĩnh vực hoạt động cụ thể của quyền con ngƣời, về tổ chức và hoạt động của
chƣơng trình giáo dục về quyền con ngƣời… Vì thế, các công trình này là nguồn
tham khảo quan trọng đối với tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung về quyền con ngƣời và
giáo dục quyền con ngƣời, khóa luận bƣớc đầu khảo cứu thực trạng giáo dục
quyền con ngƣời ở Việt Nam. Từ đó đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm
tăng cƣờng công tác giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của khóa luận
10
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung về quyền con ngƣời và giáo dục
quyền con ngƣời.
Bƣớc đầu khảo sát thực trạng giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện
nay.
Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm tăng cƣờng công tác giáo dục
quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1: Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận: Khóa luận dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,
quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam về quyền con ngƣời và giáo dục
quyền con ngƣời hiện nay.
4.2: Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng kết hợp nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khoa học khác
nhau, bao gồm: thống kê, hệ thống, so sánh, phân tích, tổng hợp để nghiên cứu
các vấn đề lý luận, khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng giáo dục về quyền
con ngƣời ở Việt Nam hiện nay nhằm đề xuất, luận chứng một cách khoa học
phƣơng hƣớng, giải pháp tăng cƣờng giáo dục về quyền con ngƣời ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận
5.1: Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời ở
Việt Nam hiện nay.
5.2: Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung vào nghiên cứu khái niệm quyền con ngƣời và lịch sử
phát triển của tƣ tƣởng về quyền con ngƣời, hoạt động giáo dục quyền con
ngƣời ở Việt Nam chủ yếu khảo cứu qua các chƣơng trình giáo dục ở bậc phổ
thông và đại học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Khóa luận góp phần vào việc nghiên cứu vấn đề lý luận chung về quyền
con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời
11
Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
những vấn đề có liên quan đến đề tài, đồng thời làm tài liệu tham khảo bổ ích
cho việc giảng dạy và nghiên cứu trong những bình diện có liên quan.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận đƣợc chia làm 2 chƣơng, 5 tiết.
12
NỘI DUNG
Chƣơng 1. Khái quát chung về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con
ngƣời trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc Pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
1.1: Khái niệm quyền con người, quyền công dân
1.1.1: Khái niệm quyền con người
Nhận thức về quyền con ngƣời là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử
xã hội loài ngƣời, là giá trị tinh thần quý giá của nền văn minh nhân loại. Khái
niệm “quyền con ngƣời” (Human Rights) xuất hiện đầu tiên ở phƣơng Tây thế
kỷ XVII - XVIII. Trong một số tác phẩm của các nhà tƣ tƣởng nhƣ J.J.
Rousseau, T. Hobbes, J. Locke.v.v.. đã đề cập đến khái niệm này. Sau đó khái
niệm này đã đƣợc cụ thể hóa trong một số văn bản có tính chất pháp lý của một
số quốc gia nhƣ: Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn về quyền con
ngƣời và quyền công dân ở Pháp năm 1789,v.v… Cuối cùng quyền con ngƣời
cũng trở thành vấn đề quốc tế mà các quốc gia cùng quan tâm và bảo hộ khi
hàng loạt các điều ƣớc quốc tế ghi nhận.
Khái niệm quyền con ngƣời có nguồn gốc từ thời Hy lạp cổ dƣới dạng các
quyền tự nhiên của con ngƣời nhƣ quyền đƣợc sống... Dƣới chế độ chiếm hữu
nô lệ, ngƣời nô lệ không đƣợc coi là con ngƣời, không có và không đƣợc thừa
nhận các quyền con ngƣời. Chế độ phong kiến so với chế độ nô lệ đã là một
bƣớc tiến trong việc giành lại quyền tự do và giải phóng con ngƣời. Giai cấp tƣ
sản là giai cấp đầu tiên nêu ngọn cờ nhân quyền, biết lợi dụng các tƣ tƣởng tự
do, bình đẳng, bác ái, công lý, vốn là yêu cầu bức thiết của nhân dân lao động để
tuyệt đối hoá tự do cá nhân, nhấn mạnh yếu tố cá nhân trong khái niệm quyền
con ngƣời, “quyền tƣ hữu thiêng liêng”. Khái niệm quyền con ngƣời lần đầu tiên
đƣợc chính thức ghi trong các văn kiện quan trọng nhƣ Tuyên ngôn độc lập của
Mỹ, Tuyên ngôn về quyền con ngƣời và quyền công dân của Pháp 1789, Tuyên
ngôn cộng sản 1848... Quyền con ngƣời (Nhân quyền) là những quyền tự nhiên
của con ngƣời và không bị tƣớc bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Trong
“Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”, đã khẳng định: “…tất cả
mọi ngƣời sinh ra đều bình đẳng… tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể
13
xâm phạm đƣợc, trong những quyền đó có quyền đƣợc sống, quyền tự do, và
quyền mƣu cầu hạnh phúc” [73, tr.15].
Nhƣ vậy, Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 có thể đƣợc coi là sự xác
nhận chính thức, đầu tiên về mặt nhà nƣớc về quyền con ngƣời trong lịch sử
phát triển của quyền con ngƣời. Khi đánh giá về văn kiện này, C.Mác đã cho
rằng: Nƣớc Mỹ - đó là nơi: “Lần đầu tiên xuất hiện ý tƣởng về một nƣớc cộng
hòa dân chủ vĩ đại thống nhất, bản tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên đã đƣợc
công bố và đã có sự thúc đẩy đầu tiên đối với cuộc cách mạng Châu Âu thế kỷ
XVIII” [53, tr.65]. Tuyên ngôn này là cơ sở để xây dựng nên bản hiến pháp của
Mỹ năm 1787.
Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, vấn đề nhân quyền càng
trở nên bức xúc và trở thành mối quan tâm sâu sắc của các quốc gia dân tộc trên
thế giới cũng nhƣ của toàn thể cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở đó, một tổ chức
Liên Hợp Quốc ra đời và đã thông qua bản “Hiến chƣơng Liên Hợp Quốc” ngày
24 -10 – 1945 với mục đích và nhiệm vụ chính là vì vấn đề con ngƣời trên phạm
vi toàn cầu. Sau 3 năm thành lập, tháng 12 năm 1948, Liên Hợp Quốc đã công
bố bản “Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền”. Trên cơ sở này, hàng loạt văn kiện
quốc tế về nhân quyền đƣợc công bố, ký kết và trở thành luật pháp quốc tế về
quyền con ngƣời.
Tuy vậy giai cấp tƣ sản chỉ tập trung nhấn mạnh quyền dân sự, chính trị,
mà chƣa chú trọng quyền kinh tế, văn hoá, xã hội là cơ sở và điều kiện quan
trọng để ngƣời lao động thoát khỏi đói nghèo và bị bóc lột. Cách mạng tháng 10
Nga đã tạo nên một phạm trù mới về quyền con ngƣời: đó là các quyền kinh tế,
văn hoá, xã hội. Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, các nƣớc XHCN đã đi đầu
trong việc nêu bật các quyền dân tộc cơ bản nhƣ bộ phận thiết yếu của các
quyền tập thể, đƣa ra cách đề cập toàn diện và biện chứng hơn về quyền con
ngƣời. Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội của loài ngƣời, nội dung các quyền
con ngƣời tiếp tục phát triển.
Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng và bảo đảm quyền con ngƣời đã có một lịch
sử truyền thống lâu đời, gắn liền với quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân
14
tộc. Tuy nhiên, vấn đề quyền con ngƣời mới thực sự đƣợc đề cao và xem trọng
cho đến khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, lúc này vấn đề quyền
con ngƣời đã đƣợc chính thức ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật quốc gia.
Bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của Nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đã ghi nhận các quyền thiêng liêng của con ngƣời. Tiếp đó là các bản Hiến pháp
năm 1959, 1980, 1992 không chỉ thừa nhận và bảo đảm đầy đủ các quyền con
ngƣời, quyền công dân phù hợp với luật pháp quốc tế mà còn khẳng định rõ:
Nhà nƣớc Việt Nam là nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân, có trách
nhiệm bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân
dân. Đặc biệt khái niệm quyền con ngƣời lần đầu tiên đƣợc đƣợc đƣa vào Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) trong một chế định cụ thể.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật, “quyền con ngƣời” là phạm trù
lịch sử có quá trình hình thành, phát triển, phản ánh những quy luật vận động
khách quan của con ngƣời và là thành quả của quá trình đấu tranh lâu dài trong
lịch sử. Mỗi thời đại, nhân dân lao động và các dân tộc đều phải trải qua sự đấu
tranh, hy sinh cũng vì quyền con ngƣời. Vấn đề quyền con ngƣời luôn là trung
tâm của mọi cuộc cách mạng xã hội và tiến bộ của nhân loại. Lịch sử phát triển
của xã hội loài ngƣời tùy thuộc vào từng hình thái kinh tế - xã hội khác nhau mà
vấn đề quyền con ngƣời cũng đƣợc lý giải và thực hiện theo nhiều cấp độ khác
nhau.
Quan niệm thứ nhất bắt nguồn từ chỗ coi con ngƣời là một thực thể tự
nhiên, nên quyền con ngƣời phải là quyền "bẩm sinh", là "đặc quyền", nghĩa là
quyền con ngƣời, quyền lợi của con ngƣời với tƣ cách là ngƣời, gắn liền với cá
nhân con ngƣời, không thể tách rời.
Quan điểm này đƣợc các đại biểu tƣ tƣởng của giai cấp tƣ sản ở thế kỷ
XVII, XVIII nhƣ Hobbes, Kant, Locke, Spinoza, Rousseau hoàn thiện và nêu ra
trong học thuyết về pháp quyền tự nhiên. Trƣờng phái này cho rằng, quyền tự
nhiên, pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật nhà nƣớc. Xuất phát từ
quan điểm này, Jacques Mourgon (giáo sƣ đại học khoa học xã hội Toulouse)
đƣa ra định nghĩa: "Quyền con ngƣời là những đặc quyền đƣợc các quy tắc điều
15
khiển mà con ngƣời giữ riêng lấy trong các quan hệ của mình với các cá nhân và
với chính quyền" [42, tr. 12].
Quan niệm thứ hai lại chỉ đặt con ngƣời và quyền con ngƣời trong mối
quan hệ xã hội. Quan niệm này cho rằng, con ngƣời chỉ là một thực thể xã hội,
nên quyền của nó chỉ đƣợc xác định trong mối tƣơng quan với các thực thể xã
hội khác và vì là quan hệ xã hội nên nó đƣợc chế độ nhà nƣớc, pháp luật điều
chỉnh bảo vệ.
Quan niệm này có tính tích cực khi coi quyền con ngƣời là một khái niệm
có tính lịch sử, đặt con ngƣời trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Vì con
ngƣời là thực thể của xã hội, có mối quan hệ phổ biến với xã hội nên quyền con
ngƣời cũng luôn gắn liền với đấu tranh giai cấp, đấu tranh chống áp bức bóc lột,
đấu tranh chống bạo lực, chống bất công trong xã hội. Cơ sở của quyền con
ngƣời ở đây chính là trình độ phát triển của nền kinh tế, văn hóa, xã hội và do
chế độ kinh tế, chế độ xã hội quyết định.
Quan niệm thứ ba là quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề
quyền con ngƣời. Xuất phát từ quan niệm coi con ngƣời vừa là sản phẩm tự
nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng con ngƣời:
"Về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội" [60, tr. 12].
Xét về mặt tự nhiên, C.Mác cho rằng, con ngƣời là "động vật xã hội có
khả năng tái sinh ra con ngƣời, con ngƣời là động vật cao cấp nhất trong quá
trình tiến hóa” [60, tr. 855]. Do đó, về mặt này quyền con ngƣời trƣớc hết là một
thuộc tính tự nhiên. Quyền con ngƣời không phải là một "tặng vật", do giai cấp
thống trị ban phát thông qua nhà nƣớc mà quyền con ngƣời trong hình thức lịch
sử tự nhiên của nó mang bản chất tự nhiên, đƣợc thể hiện ở quyền đƣợc sống,
quyền tự do, quyền đƣợc sáng tạo, phát triển, quyền đƣợc đối xử nhƣ con ngƣời,
xứng đáng với con ngƣời.
Xét về mặt xã hội, con ngƣời mặc dù là động vật cao cấp nhất của tự
nhiên, nhƣng ngay khi tiến hóa trở thành động vật cao cấp, con ngƣời đã sống
thành bầy đàn và trở thành sản phẩm của lịch sử xã hội. Trong luận cƣơng thứ
VI về Phoi-ơ-bắc, C.Mác cho rằng: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
16
ngƣời là tổng hòa những quan hệ xã hội" [60, tr. 21]. Do đó xét về khía cạnh xã
hội, thì quyền con ngƣời, ngay từ khi có xã hội loài ngƣời, bên cạnh bản tính tự
nhiên còn in đậm bản tính xã hội.
Khi xã hội hình thành giai cấp, hình thành nhà nƣớc, đã tạo ra những
chuyển biến có tính "bƣớc ngoặt" trong sự biến đổi mối quan hệ tƣơng quan
giữa bản tính tự nhiên và bản tính xã hội của quyền con ngƣời. Đi kèm xã hội có
giai cấp là mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp; do đó, trong điều kiện xã
hội có giai cấp thì bản tính xã hội trở thành bản tính giai cấp. Và ngay cả bản
tính tự nhiên, những giá trị phổ biến của quyền con ngƣời cũng tất yếu chịu sự
chi phối của giai cấp thống trị xã hội.
Mặt khác, quyền con ngƣời, kể cả quyền tự nhiên, bẩm sinh còn bị ràng
buộc, chi phối vào chính khả năng khám phá chinh phục tự nhiên của chính con
ngƣời, nghĩa là phụ thuộc vào khả năng hoàn thiện, phát triển của con ngƣời, sự
phát triển của lực lƣợng sản xuất, trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Con ngƣời
càng có khả năng chế ngự, chinh phục thiên nhiên bao nhiêu thì tự do, quyền
con ngƣời ngày càng đƣợc mở rộng, ngày càng đƣợc đảm bảo bấy nhiêu.
Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa khác nhau về quyền con ngƣời. Học
giả Nguyễn Bá Diến cho rằng: "Quyền con ngƣời là các khả năng của con ngƣời
đƣợc đảm bảo bằng pháp luật (luật quốc gia và luật quốc tế) về sử dụng và chi
phối các phúc lợi xã hội, các giá trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng
quyền tự do trong xã hội trong phạm vi luật định và quyền quyết định các hoạt
động của mình và của ngƣời khác trên cơ sở pháp luật" [17, tr. 34]. Định nghĩa
này mới chỉ đề cập đến quyền con ngƣời với tƣ cách là phạm trù luật học.
Một định nghĩa đang đƣợc sử dụng phổ biến trong giảng dạy, nghiên cứu
về quyền con ngƣời ở nƣớc ta hiện nay: "Nhân quyền (hay quyền con ngƣời) là
những năng lực và nhu cầu vốn có và chỉ có ở con ngƣời, với tƣ cách là thành
viên cộng đồng nhân loại, đƣợc thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lý quốc tế" [31, tr. 10] .
Qua những phân tích trên đây có thể rút ra kết luận: Quyền con ngƣời là
những quyền không bị tƣớc bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào; đó là:
17
quyền sống, quyền tự do, quyền đƣợc mƣu cầu hạnh phúc, quyền đƣợc bảo vệ
và bình đẳng trƣớc pháp luật, quyền an ninh thân thể, quyền không bị hình phạt
tàn bạo và bất bình thƣờng…Đó cũng là những đòi hỏi chính đáng về tự do và
những nhu cầu cuộc sống cơ bản cần đƣợc đáp ứng của con ngƣời, không bị phá
hủy khi xã hội dân sự đƣợc thiết lập và không một xã hội hay một chính phủ nào
có thể xóa bỏ hoặc chuyển nhƣợng các quyền này. Nói cách khác, quyền con
ngƣời đóng vai trò “là cơ sở để xác định tính điều chỉnh tự định đoạt của con
ngƣời, khả năng độc lập của con ngƣời trong việc giải quyết các nhu cầu cá
nhân” [27, tr.21].
Nhƣ vậy, có thể hiểu quyền con ngƣời là một phạm trù tổng hợp, vừa là
"chuẩn mực tuyệt đối" mang tính phổ biến, vừa là "sản phẩm tổng hợp của một
quá trình lịch sử lâu dài luôn luôn tiến hóa và phát triển". Quyền con ngƣời
"không thể tách rời", đồng thời cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế - xã hội... Quyền con ngƣời là một tổng thể những quyền gắn
bó với nhau trong mối tƣơng quan biện chứng, đó là quyền cá nhân và quyền
của dân tộc cộng đồng, quyền chính trị - dân sự và kinh tế văn hóa xã hội, quyền
của cá nhân đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội...
Nhƣ vậy, mặc dù cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều cách nhìn nhận khác
nhau về quyền con ngƣời, nhƣng rõ ràng rằng quyền con ngƣời là những giá trị
cao cả cần đƣợc tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và mọi giai đoạn lịch sử.
Trong thời đại ngày nay, quyền con ngƣời không thể tách khỏi hòa bình, dân chủ
và phát triển.
1.1.2: Khái niệm quyền công dân
Quyền công dân, về nguồn gốc lịch sử nó là một khái niệm xuất hiện cùng
với cách mạng tƣ sản và chỉ tồn tại trong xã hội công dân. Cách mạng tƣ sản đã
biến con ngƣời từ địa vị thần dân trong nhà nƣớc quân chủ sang địa vị công dân
trong nhà nƣớc cộng hòa. Nghĩa là khi đề cập đến khái niệm công dân là đề cập
đến một bộ phận con ngƣời, theo quy định của pháp luật với tƣ cách là những
thành viên bình đẳng trong nhà nƣớc, từ đó mà quyền con ngƣời đƣợc thừa nhận
một cách rộng rãi và bình đẳng với ý nghĩa là quyền công dân. Nhƣng quyền
18
công dân không phải và không bao giờ trở thành hình thức cuối cùng của quyền
con ngƣời, nó chỉ thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nƣớc và mối
quan hệ đó đƣợc xác định thông qua một chế định pháp luật, đặc biệt là chế định
quốc tịch.
Hiện vẫn tồn tại một số khái niệm khác nhau về quyền công dân:
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì quyền công dân là: “Quyền của ngƣời
công dân đƣợc thừa nhận, bao gồm quyền tự do dân chủ và các quyền kinh tế -
văn hóa xã hội” [19, tr.1384].
Theo Tiến sĩ Nguễn Đình Lộc, “Quyền công dân – đó là sự thể chế hóa về
mặt nhà nƣớc bằng pháp luật địa vị con ngƣời trong khuôn khổ nhà nƣớc, là sự
thừa nhận trong chừng mực mà nhà nƣớc chấp nhận, địa vị con ngƣời của cá
nhân trong nhà nƣớc”. [64, tr.75]
Thạc sĩ Vũ Công Giao cho rằng: “Quyền công dân là tập hợp các quyền tự
nhiên đƣợc pháp luật của một nƣớc quy định, mà tất cả những ngƣời có chung
quốc tịch của nƣớc đó đƣợc hƣởng một cách bình đẳng”. [24, tr.21]
Các khái niệm trên tuy có sự diễn đạt khác nhau, nhƣng về bản chất, nội
dung đều xuất phát từ khái niệm về quyền công dân của C.Mác. Về vấn đề này
C.Mác cho rằng “Quyền công dân là những quyền chính trị, những quyền cá
nhân con ngƣời với tƣ cách là thành viên xã hội công dân” [53, tr.14].
Nhƣ vậy, khái niệm công dân, quyền công dân ra đời sau quyền con
ngƣời, nó gắn liền và đƣợc sử dụng rộng rãi trong xã hội tƣ sản.
So với khái niệm quyền con ngƣời thì khái niệm quyền công dân mang
tính xác định hơn. Tuy nhiên quan niệm về quyền công dân của mỗi quốc gia là
khác nhau, và tùy thuộc vào thể chế chính trị, vào giai cấp cầm quyền trong xã
hội. Trƣớc dây ở các nƣớc xã hội chủ nghĩa vấn đề quyền con ngƣời ít khi đƣợc
nói đến nên mặc nhiên đƣợc hiểu rằng quyền con ngƣời và quyền công dân là
đồng nhất. Trong các văn kiện pháp lý (Hiến pháp, pháp luật) chỉ tồn tại thuật
ngữ quyền công dân. Ngay ở Việt Nam cũng vậy, trong các hiến pháp năm
1946, năm 1959, năm 1980 đều chỉ đề cập đến vấn đề quyền và nghĩa vụ của
công dân mà không đề cập đến vấn đề quyền con ngƣời. Chỉ đến Hiến pháp năm
19
1992, vấn đề quyền con ngƣời mới chính thức đƣợc đề cập đến với nội dung “Ở
nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con ngƣời về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội đƣợc tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân
và đƣợc quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50 – Hiến pháp năm 1992).
Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1992 chỉ thừa nhận thuật ngữ "quyền con ngƣời"
thông qua quy định “quyền con ngƣời về chính trị, dân sự và kinh tế, văn hóa, xã
hội đƣợc thể hiện trong quyền công dân” tại Điều 50 nhƣng lại chƣa phân biệt
rạch ròi đƣợc quyền con ngƣời với quyền cơ bản của công dân. Khắc phục thiếu
sót đó, Hiến pháp năm 2013 đã có sự phân biệt giữa “quyền con ngƣời” và
“quyền công dân”. Theo đó, quyền con ngƣời đƣợc quan niệm là quyền tự nhiên
vốn có của con ngƣời từ lúc sinh ra (kể cả đối với ngƣời quốc tịch nƣớc ngoài,
ngƣời không quốc tịch, ngƣời có quốc tịch Việt Nam đã bị tƣớc hoặc hạn chế
một số quyền công dân); còn quyền công dân, trƣớc hết cũng là quyền con
ngƣời, nhƣng việc thực hiện nó gắn với quốc tịch, tức là gắn với vị trí pháp lý
của công dân trong quan hệ với nhà nƣớc. Để làm rõ sự khác biệt này, tham
khảo các công ƣớc Quốc tế về quyền con ngƣời và Hiến pháp của các nƣớc,
Hiến pháp 2013 đã sử dụng từ “mọi ngƣời” khi thể hiện quyền con ngƣời và
dùng từ “công dân” khi quy định về quyền công dân. Bên cạnh đó, nhằm khắc
phục sự tùy tiện ra các quy định trong việc hạn chế quyền con ngƣời, quyền
công dân, Hiến pháp năm 2013 đã quy định nguyên tắc “Quyền con ngƣời,
quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trƣờng hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự án toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Theo đó, không ai đƣợc tùy tiện cắt xén, hạn
chế các quyền, ngoại trừ các trƣờng hợp cần thiết nói trên do Luật định. Điều
này xác lập nguyên tắc quyền con ngƣời, quyền công dân chỉ bị hạn chế bằng
Luật chứ không phải các văn bản dƣới luật: “Ở nƣớc Cộng hòa XHCN Việt
Nam, các quyền con ngƣời, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội đƣợc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật” (Điều 14- Hiến pháp năm 2013).
20
1.1.3: Quan hệ giữa quyền con người, quyền công dân
Quyền con ngƣời là những quyền tự nhiên và xã hội của con ngƣời và
không bị tƣớc bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào, mọi ngƣời sinh ra đều
bình đẳng và đƣợc tạo hóa ban cho một số quyền không thể tƣớc bỏ, nhƣ quyền
sống, quyền đƣợc tƣ do và quyền mƣu cầu hạnh phúc.
Quyền con ngƣời chính là thành quả đấu tranh lâu dài qua các thời đại của
nhân loại, của các dân tộc bị áp bức trên thế giới nhằm xác định quyền bình
đẳng, tự do trong các quan hệ giữa ngƣời với ngƣời, cũng nhƣ giữa các dân tộc,
và đó cũng là thành quả đấu tranh của loài ngƣời nhằm hƣớng tới làm chủ thiên
nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình. Đó là quyền tự nhiên của mỗi
ngƣời với tƣ cách là thực thể của tự nhiên và xã hội, không phân biệt quốc tịch,
màu da, ngôn ngữ và chính kiến,…đƣợc bảo đảm bằng pháp luật quốc tế, quốc
gia mà trƣớc hết là luật pháp quốc gia [24, tr. 32-35].
Quyền con ngƣời không chỉ bao quát quyền công dân mà còn là quyền
của tất cả mọi ngƣời, không phân biệt quốc tịch, năng lực hành vi dân sự và
năng lực pháp luật. Đó còn là quyền của quốc gia. Đặc biệt các quyền về kinh tế,
xã hội của ngƣời dân trong đó có quyền sở hữu tƣ nhân, quyền tự do kinh doanh,
đƣợc nhà nƣớc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện.
Quyền công dân là khả năng công dân thực hiện một hành vi nào đó theo
quy định của pháp luật một cách tự nguyện, tự do ý chí nhằm thỏa mãn những
nhu cầu và lợi ích của bản thân.
Khi nghiên cứu vấn đề “quyền con ngƣời” ta phải xem xét đầy đủ cả hai
khái niệm quyền con ngƣời và quyền công dân. Đây là hai khái niệm cơ bản, có
mối quan hệ biện chứng, mật thiết với nhau nhƣng cũng có sự độc lập nhất định
với nhau và cần đƣợc phân biệt rõ khi tiếp cận vấn đề này.
Khái niệm quyền con ngƣời là khái niệm rộng hơn so với khái niệm
quyền công dân. Nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nƣớc
mà còn biểu hiện mối quan hệ giữa cá nhân con ngƣời với cộng đồng xã hội. Do
đó trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, quyền con ngƣời bao gồm toàn bộ
những quyền tự nhiên đƣợc xác định từ khi họ sinh ra và tồn tại suốt cuộc đời
21
họ. Nó là “là cơ sở để xác định tính điều chỉnh tự định đoạt của con ngƣời, khả
năng độc lập của con ngƣời trong việc giải quyết các nhu cầu cá nhân” [24,
tr.21].
Trong quan hệ với cộng đồng nhân loại quyền con ngƣời bao gồm những
nhu cầu, lợi ích của con ngƣời đƣợc ghi nhận và bảo vệ bằng cả pháp luật quốc
gia và pháp luật quốc tế. Phạm vi tồn tại của nó không chỉ trong mối quan hệ với
một nhóm, một dân tộc, một quốc gia mà còn tồn tại trong mối quan hệ với cả
cộng đồng nhân loại. Nó thể hiện sự bình đẳng không chỉ những ngƣời có chung
quốc tịch, mà còn biểu hiện sự bình đẳng của mọi ngƣời trong cả cộng đồng
ngƣời.
Từ phân tích trên cho thấy, khái niệm quyền công dân và quyền con ngƣời
tuy có quan hệ gần gũi, mật thiết nhƣng không đồng nhất cả về chủ thể lẫn nội
dung. Tuy nhiên, hoàn toàn không có sự đối lập giữa quyền con ngƣời và quyền
công dân. Trong mối quan hệ giữa hai vấn đề này thì quyền con ngƣời là khái
niệm rộng hơn bao hàm cả quyền công dân, còn quyền công dân là một thành tố,
một bộ phận thiết yếu cơ bản của nó. Quyền con ngƣời không thể thay thế quyền
công dân, đồng thời quyền công dân không thể chứa đựng hết dung lƣợng của
quyền con ngƣời. Về chủ thể, chủ thể quyền con ngƣời cũng rộng hơn quyền
công dân vì ngoài những cá nhân là công dân, chủ thể quyền con ngƣời còn bao
gồm cả những cá nhân không phải là công dân nhƣ ngƣời nƣớc ngoài, ngƣời
không quốc tịch.
1.2: Lịch sử phát triển của tư tưởng về quyền con người
1.2.1: Tư tưởng về quyền con người thời kỳ cổ đại
Trong xã hội nguyên thủy, nguyên tắc đƣợc đặt lên hàng đầu hay còn gọi
là nguyên tắc vàng, trong cuộc sống sinh hoạt con ngƣời luôn tôn trọng và hoàn
toàn bình đẳng với nhau. Kéo theo, các dân tộc (theo nghĩa là thị tộc, bộ lạc)
cũng tồn tại mối quan hệ bình đẳng. Mà ở đó, trong mỗi thị tộc, bộ lạc mọi
ngƣời đều có quyền ngang nhau. Họ cùng sống, cùng lao động và cùng thừa
hƣởng mọi thành quả lao động mà tập thể làm ra. Tuy nhiên tất cả sự bình đẳng
22
ấy đều dựa trên cơ sở đời sống vật chất còn khá thô sơ lạc hậu thấp kém, sự tƣ
hữu là nhỏ giọt.
Qúa trình phát triển của lịch sử đã tạo ra nhiều cách thức để con
ngƣời đấu tranh với thiên nhiên và chinh phục thiên nhiên kéo theo sức sản xuất
phát triển và lúc này của cải dƣ thừa càng nhiều, càng lớn. Tƣ hữu cũng dần dần
xuất hiện với sự ra đời của một xã hội có giai cấp và nhà nƣớc. Theo
đó, những nguyên tắc vàng trƣớc đây của xã hội nguyên thủy cũng bị xé nhỏ ra,
những bình đẳng bị mất dần.
Xã hội phƣơng Tây cổ đại là một xã hội chiếm hữa nô lệ mang tính chất
điển hình. Trong đó hai giai cấp chủ yếu là chủ nô và nô lệ. Do đó, mâu thuẫn
chủ yếu giữa chủ nô và nô lệ cũng chính là mâu thuẫn giai cấp. Nô lệ là lực
lƣợng chính sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội nhƣng họ lại bị coi nhƣ súc
vật và hàng hóa để trao đổi, buôn bán. Trong khi đó giới chủ nô lại nắm trong
tay mọi đặc quyền đặc lợi.
Giai cấp nô lệ đã đứng lên để giành lại sự tự do và đòi lại phẩm giá của
họ. Sự uất hận đó đã bùng lên thành các cuộc khởi nghĩa. Một trong những cuộc
khởi nghĩa tiêu biểu diễn ra vào năm 74 - 71 TCN do Xpacstacút lãnh đạo đòi
xóa bỏ áp bức và nô dịch. Song cuộc khởi nghĩa đã bị thất bại do không đề ra
đƣợc cƣơng lĩnh, không tuyên bố đƣợc mục đích, chƣa vƣợt qua giới hạn của
giai cấp nên họ đã bị đàn áp rất dã man. Tuy nhiên, mọi thứ đều không trở
thành vô nghĩa, và phong trào đấu tranh dù thất bại nhƣng đã ảnh hƣởng to lớn
tới sự phát triển nhận thức về quyền con ngƣời.
Đáng chú ý trong thời kỳ Hy Lạp - La Mã cổ đại, có thể nói bƣớc đi ban
đầu về quyền con ngƣời ở đây đầu tiên xuất hiện trong các tƣ tƣởng, học thuyết
triết học, chính trị - xã hội. Đặc biệt, quyền con ngƣời gắn chặt với những tƣ
tƣởng, học thuyết về con ngƣời, về giải phóng, về mối quan hệ giữa con ngƣời
với con ngƣời, con ngƣời và xã hội, con ngƣời và nhà nƣớc, v.v… Đây có thể
coi là những tiền đề, mầm mống đầu tiên trong các tƣ tƣởng về quyền con
ngƣời. Quyền con ngƣời ở đây đã đƣợc đề cập đến trong các học thuyết của
Platon, Aristotelos, , v.v.. Aristotelos cho rằng, chỉ những công dân (nam giới từ
23
18 tuổi trở lên) mới có quyền công dân, còn phụ nữ, tr em, nô lệ, v.v… không
có các quyền con ngƣời nhƣ các công dân khác. Lúc này, các tầng lớp dƣới của
xã hội, nhƣ tầng lớp nô lệ thậm chí đƣợc xem nhƣ công cụ biết nói, chứ không
phải là con ngƣời. Chẳng hạn, Platon coi nông dân và thợ thủ công là hạng
ngƣời thấp nhất. Trong “Nhà nƣớc lý tƣởng của ông”. Platon cho rằng: Trong xã
hội cần phải duy trì các hạng ngƣời khác nhau và do đó không thể có sự hoàn
toàn bình đẳng giữa mọi ngƣời đƣợc [14, tr.41-44]. Tuy nhiên, lúc này quyền
con ngƣời mới chỉ là những tƣ tƣởng manh nha, chƣa đƣợc quan tâm nghiên cứu
và chƣa đƣợc thừa nhận nhƣ một giá trị phổ biến của con ngƣời. Xã hội thời kỳ
Hy Lạp - La Mã cổ đại có sự phân hóa giai tầng sâu sắc giữa giai cấp thống trị
và giai cấp bị trị, giữa tầng lớp chủ nô và tầng lớp nô lệ, do vậy quyền con ngƣời
lúc này cũng mang tính giai cấp sâu sắc, chỉ những tầng lớp quý tộc trong xã hội
mới có các quyền cơ bản, còn nô lệ thì không hề có quyền chút nào.
Tuy nhiên, cũng không tránh khỏi những hạn chế về điều kiện lịch
sử và xã hội mang lại,quyền con ngƣời chỉ dành cho tầng lớp giàu có, có học
thức, địa vị, đó là tầng lớp quý tộc, quan lại, tăng lữ… còn đại đa số nông dân
công xã, nô lệ lại không đƣợc hƣởng điều đó. Mặt khác, những quan điểm trên
đều phủ nhận đấu tranh giai cấp, đề cao tƣ tƣởng cam chịu, an phận. Ngoài ra,
họ coi sự áp bức, bóc lột giai cấp, dân tộc và nguồn gốc của mọi sự khổ đau là
do thiên ý - tức mệnh trời.
Nhƣ vậy, có thể khẳng định trong thời kỳ cổ đại đã xuất hiện những tƣ
tƣởng đầu tiên về quyền con ngƣời. Đó là sự đấu tranh đòi quyền tự do, bình
đẳng - những quyền cơ bản nhất của con ngƣời. Vì thế, có thể thấy quyền con
ngƣời ngay từ đầu đã mang tính giai cấp sâu sắc, nó cũng liên quan chặt ch đến
việc giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân cộng đồng, đặc biệt là mối quan hệ
giữa cá nhân và nhà nƣớc. Quan niệm chủ yếu trong thời kỳ này là quyền con
ngƣời không phải là một giá trị phổ biến, hay nói cách khác, quyền con ngƣời
chỉ đƣợc dành cho một bộ phận ngƣời trong xã hội. Do đó, con ngƣời thời kỳ
này cũng phản ánh cuộc sống đấu tranh giữa hai xu hƣớng: xu hƣớng đấu tranh
24
đòi quyền giai cấp, nô lệ và xu hƣớng bảo vệ của giai cấp chủ nô, phủ nhận
quyền của giai cấp nô lệ.
1.2.2: Tư tưởng về quyền con người trong thời kỳ cận – hiện đại
Đến thời kỳ Phục hƣng vấn đề quyền con ngƣời có sự phát triến đột phá
so với các giai đoạn trƣớc. Sử dĩ nhƣ vậy là vì thời kỳ Phục hƣng không chỉ
phục hồi và phát huy tất cả những giá trị tốt đẹp trong thời kỳ Hy Lạp - La Mã
cố đại ở phƣơng Tây đã bị xóa bỏ trong thời kỳ trung đại mà còn có xu hƣớng
chống lại một cách mạnh m những “gông cùm” của thời trung đại. Trong số
những giá trị tốt đẹp mà thời kỳ Phục hƣng hết sức đề cao đó là tƣ tƣởng nhân
văn về con ngƣời, tƣ tƣởng giải phóng con ngƣời. Con ngƣời thời kỳ này không
còn lấy Thƣợng đế mà lấy chính mình làm trung tâm và thƣớc đo tất thẩy mọi
vật. Các giá trị hiện thực của con ngƣời đƣợc đề cao. Hình tƣợng con ngƣời
cƣờng tráng ngẩng cao đầu đòi tự do và công lý, không khuất phục trƣớc mọi trở
ngại... đã trở thành phƣơng châm tƣ tƣởng và văn hóa thời kỳ này [50, tr.253].
Tôn trọng con ngƣời, đề cao con ngƣời, do đó tất cả những gì thuộc về con
ngƣời, nhƣ quyền con ngƣời đều phải đƣợc tôn trọng và đảm bảo, đó là tinh thần
nhân bản của thời kỳ Phục hƣng.
B. Spinoza (1632 - 1677), nhà triết học duy vật ngƣời Hà Lan đã tiếp thu
và phát triển những giá trị tích cực của thời kỳ Phục hƣng, đặc biệt là những tƣ
tƣởng về tự do. Ông nhận thấy tất cả các quyền tự do của con ngƣời đều bị xâm
phạm trong xã hội hiện tại. Khi đề cập đến tự do trong khuôn khổ các điều kiện
xã hội và các hệ thống chính trị, ông đã chỉ ra làm thế nào để đạt đƣợc tự do của
con ngƣời trong phạm vi tất yếu. Theo B. Spinoza, trong các điều kiện xã hội và
chính trị hiện tại có thể đạt tới tự do tối thiêu nhƣng hiện thực, cần thiết cho con
ngƣời. Theo quan điểm của ông khái niệm “tự do” có nội dung cụ thế, riêng biệt,
đặc thù, đó là: tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập pháp, tự do tƣ tƣởng,
v.v... Nói cách khác đây là các quyền tự do mà sau này đƣợc gọi là quyền tự do
dân chủ. Để đạt đƣợc quyền tự do cho mọi ngƣời, B. Spinoza đã kiến nghị các
nhà cầm quyền thực hiện các nguyên tắc quản lý hợp lý tối đa và bản thân họ
cũng cần tuân thủ các nguyên tắc ấy. Chính quyền nhà nƣớc cần đƣợc tố chức
25
phù hợp với quan niệm về lƣơng tri và tính nhân văn. Chính B. Spinoza đã đƣa
ra lối suy luận nhƣ vậy về tự do [16, tr.40].
Những tƣ tƣởng đề cao quyền dân tộc và đặc biệt là quyền con ngƣời đã
trở thành phong trào đấu tranh rầm rộ từ thời Phục hƣng (thế kỷ XIV - XV). Sau
đó nó đƣợc sự “tiếp sức ’ bởi các nhà Duy lý (thế kỷ XVII) và phát triển mạnh
m ở thế kỷ XVIII mà lịch sử vẫn thƣờng gọi là “Thế kỷ Ánh sáng” hay “Triết
học Ánh sáng ” để rồi đƣợc khẳng định trong các bản Tuyên ngôn của cách
mạng tƣ sản.
Những tƣ tƣởng giải phóng con ngƣời, đề cao con ngƣời thời kỳ này tiếp
tục đƣợc các nhà tƣ tƣởng thời cận đại khẳng định và phát triển, trong đó tiêu
biểu là Thomas Hobbes (1588 - 1679), J. Locke (1632 - 1704) và Thomas Paine
(1731 - 1809), J.J. Rousseau (1712 - 1778), v.v... Thomas Hobbes cho rằng
quyền tự nhiên cốt yếu của con ngƣời là “đƣợc sử dụng quyển lực của chỉnh
mình đế đảm bảo cuộc sổng của bản thân mình và do đó, đƣợc làm bất cứ điều
gì mà mình cho là đúng đắn và hợp lý... ” [16,40]. Trong các tác phẩm của mình,
J. Locke cho rằng các Chính phủ chẳng qua chỉ là một dạng “khế ƣớc xã hội ”
giữa những k cai trị và ngƣời bị trị (đa số công dân) tự nguyện kí vào bản khế
ƣớc này với kì vọng và mong muốn sử dụng Chính phủ nhƣ là một phƣơng tiện
để bảo vệ các “quyền tự nhiên ” của họ chứ không phải là ban phát và quy định
các quyền cho họ. Từ cách tiếp cận đó, J. Locke cho rằng các Chính phủ chỉ có
thể “chính danh ” hay “hợp pháp’’ khi thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và thúc đấy
các quyền bấm sinh, vốn có của công nhân. J. Locke cho rằng: “Con ngƣời sinh
ra, nhƣ đã đƣợc chứng minh, với một địa vị tự do hoàn hảo và sự thụ hƣởng
không bị kiếm soát đối với tất cả các quyền và những ân huệ của luật tự nhiên,
một cách bình đắng nhƣ bất kỳ ai khác hay nhƣ với tất cả lƣợng ngƣời trên thế
giới này”. I.Locke còn chỉ ra rằng: “quyền tự nhiên của con ngƣời là quyền
sống, quyền tự do, quyền tƣ hữu” [43, tr.40]. Còn Thomas Paine, trong tác phẩm
nổi tiếng Các quyền của con ngƣời (Rihgts of Man, 1791) thì nhấn mạnh rằng
các quyền không thể nào đƣợc ban phát bởi bất kì Chính phủ nào, bởi l , điều đó
không đồng thời cho phép các Chính phủ đƣợc rút lại các quyền ấy theo ý chí
26
của họ... Nhƣ thế Thomas Paine đã gián tiếp khẳng định rằng “các quyền của
con ngƣời là những giá trị tự nhiên” [43, tr.43-45]. Một trong những đại diện
tiêu biếu của triết học khai sáng Pháp là J.J. Rousseau. Những tƣ tƣởng của ông
và các nhà khai sáng Pháp đã tạo ra cơ sở cho sự phát triển quyền con ngƣời nói
chung và sự phát triển quyền con ngƣời ở Pháp nói riêng. Trong tác phẩm Khế
ƣớc xã hội (1762), J.J. Rousseau tập trung bàn về lý tƣởng tự do, bình đẳng của
con ngƣời. Tất cả mọi ngƣời đều có quyền tự do, bình đắng, bất kể có nguồn gốc
xuất thân nhƣ thế nào. Ông khẳng định con ngƣời sinh ra đã tự do, tự do là từ
bản chất của con ngƣời, “nhƣng đâu đâu con ngƣời cũng sống trong xiềng xích
”. Để đấu tranh cho tự do, bình đẳng, J.J.Rousseau cho rằng cần đến khế ƣớc xã
hội. Nội dung cơ bản của khế ƣớc xã hội là “mỗi thành viên trong khi khép mình
vào tập thể, dùng sức mạnh tập thể, vẫn đƣợc tự do đầy đủ nhƣ trƣớc, vẫn chỉ
tuân theo chính bản thân mình ” [14, tr.115].
Tƣ tƣởng và học thuyết của các nhà tƣ tƣởng cận đại kể trên đã đề xƣớng
một thuyết Duy lý mới về quyền tự nhiên. Lý thuyết này đã đóng góp rất to lớn
vào sự hình thành thế giới quan vào việc chuẩn bị nền tảng tƣ tƣởng cho các
cuộc cách mạng tƣ sản châu Âu. Ngoài ra nó còn góp phần củng cố về mặt pháp
luật, đồng thời vẫn chứng minh cho những ý niệm mới về quyền và tự do cá
nhân, về tính thiết yếu của pháp luật trong quan hệ giữa cá nhân với nhà nƣớc.
Quan niệm về khế ƣớc xã hội nhƣ là phần phát sinh cơ sở pháp luật của hoạt
động nhà nƣớc - là một yếu tố cấu thành quan trọng của những ý niệm mới về
quyền tự nhiên của con ngƣời và sự tôn trọng những quyền này trong trạng thái
nhà nƣớc [14, tr.76].
Có thể nói, thời kỳ cận đại cùng với sự thành công của cách mạng tƣ sản
châu Âu và sự ra đời của chế độ tƣ bản chủ nghĩa đã góp phần thể chế hóa hiện
thực hóa các quyền tự nhiên của con ngƣời nhƣ quyền sống, quyền tự do và
quyền sở hữu tài sản, quyền mƣu cầu hạnh phúc, quyền không bị áp bức, v.v...
Sự xuất hiện của các học thuyết về nhà nƣớc, về các quyền tự nhiên trong giai
đoạn này đã thúc đẩy quyền con ngƣời phát triển. Bắt đầu từ giai đoạn này,
quyền con ngƣời mới đƣợc các nhà tƣ tƣởng phát triển tƣ sản bàn đến nhƣ một
27
số học thuyết [14, tr.14]. Cũng chính từ đây, xuất hiện các khuynh hƣớng khác
nhau về quyền con ngƣời nhƣ: khuynh hƣớng quyền con ngƣời tự nhiên, khuynh
hƣớng pháp lí, v.v...
Khuynh hƣớng quyền con ngƣời tự nhiên (Natural right) cho rằng quyền
con ngƣời là những gì bẩm sinh, mọi cá nhân ngay từ khi sinh ra đã có bởi đơn
giản họ là “con ngƣời ” là thành viên của gia đình nhân loại. Điều đó cũng đồng
nghĩa với việc các quyền con ngƣời không bị phụ thuộc vào phong tục, tập quán,
truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức,
cộng đồng hay nhà nƣớc nào và không một chủ thể nào, kể cả nhà nƣớc, có thể
tùy ý ban phát hay tƣớc bỏ các quyền con ngƣời. Đại diện cho khuynh hƣớng
quyền tự nhiên là các nhà tƣ tƣởng thời cận đại nhƣ T.Hobbes, J. Locke,
Thomas Paine, v.v... Thuyết quyền tự do có điểm tích cực nhƣ ở chỗ đề cao con
ngƣời với tƣ cách là sản phẩm cao nhất thuần túy nhất của sự phát triển. Nhƣng
có nhƣợc điểm ở chỗ chƣa nhìn thấy nguồn gốc xã hội của quyền con ngƣời, do
đó chƣa thấy đƣợc tính chất lịch sử, tính giai cấp, sự phát triển trong những đòi
hỏi về quyền con ngƣời [43, tr.40].
Ngƣợc lại, khuynh hƣớng quyền pháp (Legal Right) (hay còn gọi là
khuynh hƣớng thực định), cho rằng các quyền của con ngƣời không phải là
quyền tự nhiên, không phải là bẩm sinh mà là do nhà nƣớc xác định và pháp
điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa.
Nói cách khác, chỉ khi đƣợc thừa nhận bằng pháp luật thì các quyền tự nhiên
mới có tính hợp pháp. Nhƣ vậy, theo khuynh hƣớng quyền pháp lý, phạm vi,
giới hạn và các góc độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con ngƣời
đều phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố nhƣ phong tục, tập
quán, truyền thống văn hóa của các xã hội theo quan điếm của các khuynh
hƣớng quyền tự nhiên thì các quyền con ngƣời có tính đồng nhất trong mọi hoàn
cảnh mọi không gian, thời gian. Còn theo khuynh hƣớng quyền pháp lý thì các
quyền con ngƣời có tính chất khác biệt tƣơng đối đầy đủ về lịch sử, văn hóa,
kinh tế, chính trị, xã hội, V. V...
28
Khuynh hƣớng pháp lý có điểm tích cực ở chỗ gắn quyền con ngƣời với
pháp luật, với ý chí nhà nƣớc, chỉ khi đƣợc pháp luật hóa thì mới trở thành
quyền. Tuy nhiên khuynh hƣớng này có điểm hạn chế ở chỗ tuyệt đối hóa nguồn
gốc quyền con ngƣời và ý chí nhà nƣớc, nhấn mạnh đến tính hợp pháp mà
không chú ý đến tính hợp lý của quyền [43, tr.41].
Đại diện tiêu biểu cho khuynh hƣớng quyền pháp lý là Edmund Burke
(1729 - 1797), Jeremy Bentham (1748 - 1832), John Stuart Mill (1806 - 1873).
Edmund Burke, trong tác phẩm Suy nghĩ về Cách mạng Pháp (Reílections on
the Revolution in France, 1770) và Jeremy Bentham, trong tác phẩm Phê phán
học thuyết về các quyền tự nhiên, không thể chuyển nhƣợng (Critique of the
Doctrine of Inalienable, Natural Rights, 1843) cùng cho rằng các ý tƣởng về các
quyền tự nhiên là vô nghĩa, và chẳng có quyền nào lại không thể chuyến nhƣợng
đƣợc [43, tr.43]. Jonh Stuart Mill trong tác phẩm Bàn về tự do (On Liberty,
1859) đã đề cập đến các quyền của cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng và
xã hội. John Stuart Mill cho rằng, con ngƣời có quyền tự do mƣu cầu hạnh phúc
cho điều kiện, không xâm phạm quyền tự do mƣu cầu hạnh phúc của ngƣời
khác. Quyền tự do đƣợc John Stuart Mill đề cập ở các nội dung: Quyền tƣ do tƣ
tƣởng, tự do tôn giáo, tự do hội họp, tự do thảo luận, tự do làm những điều mình
muốn, v.v...
Hai khuynh hƣớng chủ yếu về quyền con ngƣời vừa trình bày ở trên đã
đứng từ góc độ khác nhau đế xem xét về quyền con ngƣời. Khuynh hƣớng tự
nhiên nhấn mạnh đến góc độ pháp luật, thể chế. Do đó, đứng theo khuynh hƣớng
quyền tự nhiên thì quyền con ngƣời là đứng trên nhà nƣớc. Đối với khuynh
hƣớng quyền pháp lý thì quyền con ngƣời thuộc phạm vi pháp luật, thuộc vào
pháp luật, không có pháp luật thì không có quyền con ngƣời. Có thể thấy, hai
khuynh hƣớng trên đã tuyệt đối hóa hai khía cạnh cơ bản nhất của quyền con
ngƣời, do vậy cả hai quan điểm trên đều có điểm tích cực và hạn chế nhƣ đã
trình bày ở trên.
Từ hai khuynh hƣớng trên đã làm cho thời cận đại xuất hiện hai xu hƣớng.
Xu hƣớng thứ nhất, hay còn gọi là xu hƣớng tự do, cho rằng cần thu nhỏ quyền
29
lực nhà nƣớc, coi đó là điều kiện thỏa mãn yêu sách của con ngƣời nhằm đảm
bảo sự an toàn của cá nhân, của tự do tƣ tƣởng, quyền tƣ hữu. Xu hƣớng thứ hai
lại cho rằng cần mở rộng và tăng cƣờng quyền lực nhà nƣớc nhằm thiết lập một
quyền lực dân chủ để đảm bảo thỏa mãn yêu sách về các quyền của con ngƣời
[43, tr.18]. Ngƣời đại diện xu hƣớng thứ nhất là J. Locke, còn đại diện xu hƣớng
thứ hai là T. Hobbes.
Từ cách nhìn khác nhau về quyền con ngƣời, quyền công dân, các trƣờng
phái lý luận cũng có sự khác nhau cơ bản về hình thức tổ chức nhà nƣớc, ranh
giới giữa chính trị và vai trò của ngƣời dân. Tuy nhiên, các lý thuyết đều đi đến
thống nhất rằng nhà nƣớc không phải là vô hạn, nó bị giới hạn bởi một loạt các
quyền mà các công dân vẫn đƣợc bảo lƣu kể cả sau khi đã ký khế ƣớc xã hội.
Nhà nƣớc không thể buộc các công dân tiếp nhận một hình thức tƣ duy nào đó
hay chỉ nói những điều nhà nƣớc quy định. Ngƣợc lại, nhà nƣớc s hùng mạnh
khi nó vừa bảo đảm việc duy trì cuộc sống cho mỗi công dân vừa thỏa mãn
những nhu cầu của họ.
Đƣợc xem nhƣ học trò của Rousseau, Immanuel Kant (1724-1804) là nhà
tƣ tƣởng quan trọng nhất của triết học kỷ Ánh sáng. Kant thừa nhận sự tồn tại
của Chúa và sự bất tử của linh hồn nhƣng không thừa nhận mọi mƣu toan chứng
minh cho những gì ông tin chắc về sự thật căn bản của tinh thần. Về điểm này
Kant gần với Decartes. Kant là một trong những ngƣời sáng lập quan trọng nhất
của học thuyết triết học về các quyền cơ bản và ông đặt học thuyết này trong
mối quan hệ với tính bất khả xâm phạm của nhân phẩm con ngƣời.
Theo Immanuel Kant, mệnh lệnh thực tiễn là những gì : “hành động tới
mức anh đối xử với con ngƣời cũng nhƣ đối với bản thân anh và mọi cá nhân
khác, luôn cùng lúc, giống nhƣ một mục tiêu chứ không bao giờ là một phƣơng
tiện” [80, tr.295]. Ý tƣởng này s đƣợc nhắc lại một cách ngắn gọn trong tác
phẩm “Phê phán lý tính thực tiễn” với tựa đề “luật cơ bản của lý tính thực tiễn” :
“Hãy hành xử làm sao cho phƣơng châm của ý chí anh có thể cùng lúc có giá trị
nhƣ một nguyên tắc của luật pháp phổ biến” [81, tr.643].
30
Immanuel Kant đi xa hơn khi khẳng định: Bản thân con ngƣời chính là
nhân phẩm, thực tế con ngƣời không thể bị sử dụng bởi một ai đó đơn giản nhƣ
một phƣơng tiện, mà phải luôn đƣợc đối xử nhƣ một mục tiêu, và bằng cái đó
mà tạo nên nhân phẩm của con ngƣời (nhân cách của ngƣời đó), nhờ đó con
ngƣời vƣợt cao hơn tất cả các bản thể khác trên thế gian.
Quan niệm triết học về quyền con ngƣời đƣợc ƣơm mầm từ thời Cổ đại,
đƣợc nuôi dƣỡng và bổ sung trong suốt chiều dài lịch sử và trở thành học thuyết
vào thời kỳ Phục hƣng và kỷ Ánh sáng. Tất cả tạo thành tiền đề và nền tảng dẫn
đến việc thừa nhận các “quyền căn bản” bởi pháp luật thực định vào thế kỷ 17
thông qua Tuyên ngôn về các quyền của Anh 1688, thế kỷ 18 với Tuyên ngôn
độc lập của nƣớc Mỹ, Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của Pháp...
Emmamuel Kant là triết gia tiêu biểu nhất trong việc tạo lập nền tảng triết học
về quyền con ngƣời. Ông tiếp nhận một phần di sản của truyền thống luật tự
nhiên khách thể, phát triển thành học thuyết về quyền con ngƣời-nhân phẩm con
ngƣời. Dĩ nhiên, Kant vẫn trung thành với những phân biệt đối xử phổ biến của
thời đại ông nhƣ giữa đàn ông và phụ nữ, cũng nhƣ những cấm đoán tình dục
mang tính truyền thống. Tuy nhiên, có thể kết luận rằng Kant là ngƣời thiết lập
nên quan niệm về quyền con ngƣời với tƣ cách là một luận thuyết có hệ thống,
triết học Kant là nền tảng lý luận vững chắc để bảo vệ quyền cá nhân và mối liện
hệ của các quyền này với tính không thể xâm phạm của nhân phẩm con ngƣời.
Khi bàn đến vấn đề quyền con ngƣời, chúng ta không thể không bàn tới
quan niệm của chủ nghĩa Mac – Lênin về vấn đề quyền con ngƣời. C.Mac và
Ănghen chƣa bao giờ đƣa ra một định nghĩa nào về quyền con ngƣời nhƣ chúng
ta mong muốn, mặc dù các ông đã nhiều lần nói đến nội dung liên quan quyền
con ngƣời. Thậm chí nhiều khi các ông dùng chữ “quyền”, chúng ta cũng cần
phải hiểu là các ông đang nói đến “quyền con ngƣời”. Chính Mac đã khẳng định
điều đó: “Còn nói về quyền…quyền dƣới một hình thức chung nhất – với ý
nghĩa là quyền của con ngƣời” [61, tr.289].
Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ănghen có đề cập
đến tƣ tƣởng về quyền con ngƣời và quyền dân tộc theo cách nhìn của chủ nghĩa
31
duy vật lịch sử. Khắng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là ngƣời
“giải phỏng mình đồng thời giải phỏng toàn nhân loại. Để thực hiện sứ mệnh
lịch sử đó, đòi hỏi giai cấp vô sản mỗi nƣớc trƣớc hết phải giành lấy chính
quyền, “phải tự mình vƣơn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành
dân tộc " [1, tr.22].
Lênin cũng đã đấu tranh không mệt mỏi để giành lại quyền con ngƣời và
quyền dân tộc cho nhân loại. Ngoài những luận điểm về đấu tranh giai cấp để
giành lại quyền con ngƣời, Lênin đã vận dụng và phát triển sáng tạo những tƣ
tƣởng của C.Mác và Ph.Ănghen về vấn đề quyền dân tộc trong thời đại mới -
thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản - thời đại mà vấn đề dân tộc và
thuộc địa nổi lên gay gắt. Lênin đƣa ra Cƣơng lĩnh dân tộc trong “Tuyên ngôn
về các quyền ” với nội dung chủ yếu là: Thực hiện quyền dân tộc tự quyết, độc
lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, quyền bình đẳng giữa các dân tộc và chính
sách đại đoàn kết dân tộc.
1.3: Khái niệm giáo dục quyền con người
1.3.1: Một số vấn đề chung về giáo dục quyền con người
Quyền đƣợc sống, quyền đƣợc mƣu cầu hạnh phúc, tự do, bình đẳng… là
những quyền cơ bản của con ngƣời. Quyền con ngƣời là thành quả phát triển của
lịch sử lâu dài sự nghiệp đấu tranh giải phóng, cải tạo xã hội và cải tạo thiên
nhiên của cả nhân loại. Trong một thế giới đang toàn cầu hoá hiện nay, quyền
con ngƣời ở mỗi quốc gia, không kể hoàn cảnh lịch sử, chế độ chính trị - xã hội,
kinh tế và văn hoá đều có những giá trị chung giống nhau, không thể chia cắt và
phụ thuộc lẫn nhau, đó là tính phổ cập của quyền con ngƣời. Vấn đề quyền con
ngƣời có vai trò quan trọng nhƣ vậy, nên việc giáo dục quyền con ngƣời nhằm
làm cho mỗi con ngƣời ý thức biết tôn trọng quyền của ngƣời khác và tự mình
biết bảo vệ quyền của mình có ý nghĩa hết sức quan trọng không chỉ đối với Việt
Nam nói riêng mà còn đối với toàn thể quốc gia dân tộc trên thế giới nói chung.
Quyền con ngƣời chỉ có thể đƣợc nhận thức và thực hiện đầy đủ thông qua giáo
dục quyền con ngƣời, chỉ có giáo dục quyền con ngƣời một cách toàn diện mới
32
giúp con ngƣời hiểu và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, đồng thời
biết tôn trọng những quyền của mình và của ngƣời khác.
Khái niệm giáo dục quyền con ngƣời đƣợc đề cập tới trong nhiều tài liệu
của các tổ chức quốc tế cũng nhƣ dƣới góc độ quan điểm của các cá nhân. Khát
vọng bảo vệ nhân phẩm của tất cả con ngƣời là cốt lõi của khái niệm quyền con
ngƣời. Nó coi cá nhân con ngƣời là trọng tâm của sự quan tâm. Nó dựa trên một
hệ thống giá trị toàn cầu phổ biến nhằm cống hiến cho sự linh thiêng của cuộc
sống và tạo ra một khuôn khổ để xây dựng hệ thống quyền con ngƣời, đƣợc các
quy phạm và tiêu chuẩn quốc tế bảo vệ. Trong suốt thế kỷ XX, quyền con ngƣời
đã phát triển nhƣ một khuôn khổ đạo đức, chính trị, pháp lý và nhƣ một hƣớng
dẫn nhằm phát triển một thế giới tự do khỏi sợ hãi và tự do làm điều mong
muốn.
Hiện đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về giáo dục quyền con
ngƣời:
Quan niệm của giai cấp tƣ sản: Các nƣớc tƣ bản hiện đang rất quan tâm
đến vấn đề giáo dục quyền con ngƣời. Vấn đề này đƣợc các nƣớc phƣơng Tây
thực hiện thƣờng xuyên, liên tục cho mọi đối tƣợng cả trong phạm vi quốc gia
và cả trên phạm vi toàn cầu dƣới nhiều hình thức, phƣơng pháp khác nhau,
nhằm đạt đƣợc những mục đích khác nhau. Xuất phát từ lợi ích chính trị của
mình, họ chỉ tập trung vào việc giáo dục một số quan điểm về quyền con ngƣời
dƣới đây:
Ƣu tiên giáo dục các quyền tự nhiên:
Quan niệm này xuất phát từ việc tuyệt đối hóa quyền tự nhiên của con
ngƣời, dẫn đến việc tuyệt đối hóa cá nhân trong quan hệ cộng đồng xã hội, coi
quyền con ngƣời là bất khả xâm phạm, không phụ thuộc vào không gian, thời
gian, quốc gia, dân tộc. Mục đích của việc giáo dục quan điểm này nhằm:
Thứ nhất, đối với dân chúng trong nƣớc, quan điểm này tạo ra đƣợc một
hình thức xã hội dân chủ. Mọi ngƣời đều có quyền nhƣ nhau trong việc thực
hiện các mục tiêu, ý tƣởng sống, đƣợc quyền tự do, quyền sở hữu, quyền đƣợc
an toàn và chống áp bức...
33
Thứ hai, khi quyền, tự do cá nhân đƣợc đề cao tuyệt đối s dẫn đến việc
triệt tiêu quyền lợi của tập thể, nhóm, giới, xóa nhòa quyền giai cấp và s dẫn
đến hệ quả mà giai cấp tƣ sản - giai cấp đang thống trị xã hội mong muốn là ý
thức đấu tranh giai cấp trong xã hội bị thủ tiêu, ý thức đấu tranh đòi quyền lợi
của tập thể dân cƣ, sắc tộc, bộ phận xã hội bị xóa bỏ.
Theo Kế hoạch hành động của Thập kỷ Liên hiệp quốc về giáo dục quyền
con ngƣời (1995 - 2004), giáo dục quyền con ngƣời đƣợc hiểu là “các nỗ lực về
đào tạo, phổ biến, và thông tin nhằm tạo lập nền văn hóa toàn cầu về quyền con
ngƣời thông qua truyền đạt kiến thức, các kỹ năng, hình thành các thái độ và
hƣớng tới: Tăng cƣờng tôn trọng quyền con ngƣời và các quyền tự do cơ bản;
Phát triển đầy đủ nhân cách con ngƣời và ý thức về nhân phẩm; Tăng cƣờng
hiểu biết, khoan dung, bình đẳng giới và tình hữu nghị giữa các dân tộc, ngƣời
bản địa và các nhóm chủng tộc, quốc gia, đạo đức, tôn giáo và ngôn ngữ; Khả
năng hoạt động một cách có hiệu quả của tất cả mọi ngƣời trong một xã hội tự
do; Đẩy mạnh các hoạt động của Liên hợp quốc để gìn giữ hòa bình [34].
Một nhà nghiên cứu quyền con ngƣời thuộc Trung tâm quyền con ngƣời
của Trƣờng Đại học Minnesota, bà Nancy Flowers, cho rằng: “Giáo dục quyền
con ngƣời là tất cả quá trình học hỏi để phát triển kiến thức, kỹ năng và các giá
trị của quyền con ngƣời, nhằm thúc đẩy sự công bằng, khoan dung, nhân phẩm,
cũng nhƣ tôn trọng các quyền và nhân phẩm của ngƣời khác”. Trong khi đó,
theo ngƣời sáng lập Thập kỷ giáo dục quyền con ngƣời toàn dân, ông Shulamith
Koenig, giáo dục quyền con ngƣời là để “mọi ngƣời biết về quyền con ngƣời và
biết đƣa ra đòi hỏi về quyền con ngƣời” [6, tr.30].
Là tổ chức quốc tế tiên phong trong hoạt động thúc đẩy và bảo vệ nhân
quyền, Liên hợp quốc đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục nhân quyền, xem
đó nhƣ là một biện pháp cốt yếu và một chiến lƣợc hiệu quả để ngăn chặn các vi
phạm nhân quyền cũng nhƣ để xây dựng các xã hội bình đẳng, tự do và hòa
bình. Quan điểm của Liên Hợp Quốc về giáo dục quyền con ngƣời: Ngay từ khi
ra đời, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền đã lập tức có giá trị nhƣ một văn kiện
vĩ đại trong lịch sử nhân loại. Nó tạo ra sức mạnh về các khía cạnh pháp lý trong
34
quan hệ quốc tế, quốc gia, chính trị, đạo đức và những giá trị đó ngày càng
không ngừng đƣợc nâng cao với nền văn minh nhân loại. Kỷ niệm 50 năm
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, Tổng thƣ ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan đã
phát biểu:
... Hôm nay, chúng ta ghi nhớ sự bắt đầu của năm thứ 50 sự ra đời của Tuyên
ngôn thế giới về nhân quyền. ở khắp mọi nơi trên thế giới, đàn ông, phụ nữ và
tr em thuộc đủ các màu da và tín ngƣỡng s tụ họp để đón nhận những quyền
con ngƣời chung của chúng ta... Nhân quyền là cơ sở của sự tồn tại và cùng tồn
tại của con ngƣời. Quyền con ngƣời là phổ biến, không thể chia tách và phụ
thuộc lẫn nhau. Nhân quyền là cái làm nên nhân loại chúng ta. Đó là những
nguyên tắc mang tính cơ sở để chúng ta thiết lập cái ngôi nhà thiêng liêng cho
phẩm giá loài ngƣời... Khi chúng ta nói về quyền sống, hoặc về quyền phát triển,
hoặc về quyền đƣợc bất đồng quan điểm và có sự khác biệt, có nghĩa là chúng ta
đang nói về khoan dung. Khoan dung nếu đƣợc tăng cƣờng, bảo vệ và ghi nhận,
s bảo đảm cho tự do của tất cả chúng ta. Thiếu sự khoan dung chắc chắn chúng
ta s không làm đƣợc gì... tính phổ biến của nhân quyền s cho nhân quyền sức
mạnh. Nó là động lực để nhân quyền liên kết các biên giới quốc gia, vƣợt qua
mọi trở ngại, thách thức và bạo lực... Cuộc đấu tranh cho các quyền con ngƣời
trên toàn cầu luôn diễn ra ở khắp mọi nơi và đã là cuộc đấu tranh chống trả tất
cả các hình thức chuyên chế tàn bạo và sự bất công, chống lại tình trạng nô lệ,
chống lại chủ nghĩa thực dân, chống lại chủ nghĩa A-pac-thai. Ngày hôm nay,
cuộc đấu tranh đó chƣa hề giảm sức mạnh và chƣa bị khác trƣớc [32, tr. 1].
Nhƣ vậy, mục đích của vấn đề giáo dục nhân quyền của Liên Hợp Quốc
chính là: "Xây dựng một nền văn hóa nhân quyền toàn cầu và cho phép mọi
ngƣời đƣợc hƣởng các quyền - giáo dục nhân quyền ở mọi cấp độ và cho tất cả
mọi ngƣời - xây dựng mối quan hệ hợp tác trên toàn cầu vì nhân quyền - thúc
đẩy sự khoan dung trong tƣ tƣởng nhân quyền rộng khắp thế giới" [42, tr. 6].
Những nội dung trên thể hiện quan điểm giáo dục quyền con ngƣời của
Liên Hợp Quốc, bao gồm những vấn đề sau:
35
Mục đích của giáo dục nhân quyền nhằm: xây dựng một nền văn hóa nhân
quyền toàn cầu và cho phép mọi ngƣời đƣợc hƣởng các quyền.
Nội dung của giáo dục nhân quyền: là toàn bộ các quyền con ngƣời đƣợc
ghi nhận trong các Tuyên ngôn, các Công ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời.
Đối tƣợng của giáo dục nhân quyền là toàn thể cộng đồng ngƣời, không
phân biệt nam nữ, già tr , dân tộc, tôn giáo... mọi ngƣời đều đƣợc quyền đƣợc
giáo dục nhƣ nhau về quyền con ngƣời.
Từ một số định nghĩa trên, có thể thấy rằng giáo dục quyền con ngƣời là
một quá trình nhằm truyền đạt các kiến thức, các kỹ năng để ngƣời học có
những hiểu biết về quyền con ngƣời, những giá trị phẩm giá, bình đẳng, tin
cậy lẫn nhau, sự tôn trọng và hiểu biết về quyền của ngƣời khác, tôn trọng
pháp luật để từ đó thúc đẩy mọi ngƣời tham gia vào mọi mặt của đời sống xã
hội và cùng nhau xây dựng một “nền văn hóa nhân quyền” chung. Đó cũng là
việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện việc tuyên truyền,
phổ biến cho mỗi cá nhân trong cộng đồng hiểu rõ những quyền cơ bản của
họ, đồng thời giúp họ hiểu đƣợc cách thức bảo vệ các quyền đó cũng nhƣ đạt
đƣợc các kỹ năng để có thể sử dụng các quyền này trong cuộc sống.
Nét đặc thù của giáo dục quyền con ngƣời khác với các dạng giáo dục
khác ở những điểm sau:
Trƣớc hết, nó phải nhằm mục đích giáo dục riêng. Giáo dục quyền con
ngƣời nhằm hình thành và mở rộng tri thức về quyền con ngƣời. Mục đích
cảm xúc: giáo dục quyền con ngƣời nhằm hình thành tình cảm và lòng tin đối
với việc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền con ngƣời. Mục đích hành vi: giáo
dục quyền con ngƣời nhằm hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự hợp
pháp, tích cực để bảo đảm, bảo vệ và thực hiện quyền con ngƣời
Nó phải chứa đựng nội dung giáo dục riêng. Nội dung giáo dục chú trọng
xoay quanh việc truyền bá tri thức của nhân loại, của dân tộc, những quan điểm
của Đảng và Nhà nƣớc về quyền con ngƣời.
Từ những phân tích trên có thể nêu khái niệm giáo dục quyền con ngƣời,
quyền công dân nhƣ sau: Giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân là hoạt
36
động có định hƣớng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên
đối tƣợng giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức về quyền con ngƣời, biết tự
mình bảo vệ quyền của mình và tôn trọng quyền của ngƣời khác phù hợp với các
yêu cầu, đòi hỏi của các chuẩn mực pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia và
tƣơng lai tiến bộ của nhân loại về quyền con ngƣời.
Với khái niệm trên, trong điều kiện ở nƣớc ta hiện nay, việc trang bị đầy
đủ, đúng đắn những tri thức về quyền con ngƣời, tạo ra tình cảm, thói quen ứng
xử theo quy định về quyền con ngƣời, quyền công dân cho mọi công dân trong
xã hội là trách nhiệm của Đảng, Nhà nƣớc, của các cơ quan chức năng, của các
tổ chức đoàn thể quần chúng, tổ chức kinh tế, trong đó, trách nhiệm này trƣớc
hết và trực tiếp là thuộc về hệ thống các cơ quan có chức năng giáo dục, đào tạo
con ngƣời.
1.3.2: Nội dung giáo dục quyền con người
Giáo dục quyền con ngƣời là vấn đề đƣợc các tổ chức quốc tế và các quốc
gia quan tâm, bởi nó có vai trò quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức xã
hội, phòng ngừa vi phạm và giúp mọi ngƣời biết cách tự bảo vệ quyền và tự do
của bản thân, đồng thời tôn trọng quyền và tự do của ngƣời khác. Giáo dục và
đào tạo quyền con ngƣời là một phần quan trọng của việc bảo vệ và thúc đẩy
quyền con ngƣời. Hiện nay, việc đƣa giáo dục quyền con ngƣời vào hệ thống
giáo dục quốc dân là yêu cầu cấp thiết. Ngày 5-9-2013, Thủ tƣớng Chính phủ đã
ban hành Quyết định số 1309/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đƣa nội dung quyền con
ngƣời vào chƣơng trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân. Nội dung đề
án đang đƣợc triển khai thực hiện, từng bƣớc hiện thực hóa quan điểm, chủ
trƣơng, chính sách của Đảng và thực hiện các cam kết quốc tế của Nhà nƣớc
Việt Nam về giáo dục quyền con ngƣời.
Việc xác định nội dung giáo dục quyền con ngƣời là yếu tố quan trọng
hàng đầu của quá trình giáo dục quyền con ngƣời. Nội dung giáo dục quyền con
ngƣời dựa trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu, đặc điểm của từng đối tƣợng cụ thể,
và xuất phát từ đặc điểm, nhiệm vụ, mục đích của dạng giáo dục này. Phạm vi
của dạng giáo dục này là rất rộng, có những đặc điểm đặc thù riêng không đồng
37
nhất, không lẫn với các nội dung giáo dục khác, nhƣng nó có thể lồng ghép, đan
xen với nội dung giáo dục khác nhƣ giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật.
Trƣớc hết, giáo dục quyền con ngƣời phải cung cấp cho mọi ngƣời thông
tin về quyền con ngƣời, toàn bộ các quyền con ngƣời đƣợc ghi nhận trong Hiến
pháp và các văn bản pháp luật. Đồng thời, giáo dục quyền con ngƣời phải cung
cấp cho mọi ngƣời những nguyên tắc về quyền con ngƣời chẳng hạn nhƣ tính
toàn thể, tính không thể tách rời, tính phụ thuộc lẫn nhau của quyền con ngƣời,
làm thế nào mà quyền con ngƣời thúc đẩy việc tham gia vào quá trình ra quyết
định và giải quyết hòa bình tranh chấp. Giáo dục quyền con ngƣời giúp mọi
ngƣời nhận thức một cách đúng đắn và đầy đủ về các quyền của bản thân, về
việc sử dụng luật về quyền con ngƣời để bảo vệ quyền con ngƣời đồng thời biết
tôn trọng và bảo vệ quyền của ngƣời khác. Thông qua hoạt động giáo dục quyền
con ngƣời, Việt Nam s sớm hội nhập với thế giới và khu vực, góp phần xây
dựng nền văn hóa nhân quyền toàn cầu và cho phép mọi ngƣời đƣợc hƣởng các
quyền theo mục tiêu giáo dục nhân quyền của Liên Hợp Quốc.
Từ những kiến thức đƣợc cung cấp từ hoạt động giáo dục quyền con
ngƣời nhƣ trên, con ngƣời có những hiểu biết về quyền của mình, sử dụng
những quyền đó nhƣ thế nào, trong hoàn cảnh nào, ở đâu, có những cơ chế nào
bảo đảm, bảo vệ cho họ thực hiện các quyền đó và phải làm gì khi có vi phạm.
Đó là những kiến thức thiết yếu để con ngƣời có thể thực hiện đƣợc quyền của
mình, để quyền con ngƣời không còn là cái gì xa lạ đối với ngƣời dân mà là hiện
thực trong cuộc sống của họ.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ đối tƣợng giáo dục nào cũng đòi hỏi đƣợc
sự cung cấp đầy đủ tất cả các thông tin về quyền con ngƣời nêu trên. Và cũng
không thể thực hiện giáo dục một cách máy móc, thuần túy chỉ là cung cấp
thông tin, mà cần phải lƣu ý tới một thực tiễn, sự tồn tại mâu thuẫn của các
thông tin, sự phủ định lẫn nhau của các thông tin và những đặc điểm đặc thù của
nội dung giáo dục quyền con ngƣời để có nhận thức đầy đủ, khách quan, chính
xác của chủ thể và đối tƣợng giáo dục. Cần phải có sự phân tích, đánh giá một
cách khoa học, khách quan về các thông tin để tạo ra nhận thức một cách đúng
38
đắn về quyền con ngƣời, tránh tình trạng áp đặt chủ quan, định kiến duy ý chí,
dẫn đến sự nhận thức sai lệch hoặc không đạt hiệu quả cao của giáo dục quyền
con ngƣời. Vì thế, khi thực hiện giáo dục quyền con ngƣời, cần phải xác định
mục đích giáo dục cần đạt đƣợc của từng đối tƣợng giáo dục, trên cơ sở đó xác
định mức độ, từng cấp giáo dục khác nhau cho từng đối tƣợng cụ thể.
Giáo dục về quyền con ngƣời đồng thời cũng đem đến cho con ngƣời cảm
giác về trách nhiệm để tôn trọng và bảo vệ quyền con ngƣời và trao cho họ các
kỹ năng để hành động phù hợp. Các kỹ năng hành động đó bao gồm: Nhận biết
rằng quyền con ngƣời có thể đƣợc thúc đẩy và bảo vệ ở nhiều cấp, thông qua
từng cá nhân cụ thể, tập thể hay cấp độ thể chế; Phát triển các hiểu biết mang
tính phê bình về hoàn cảnh sống; Phân tích các hoàn cảnh thông qua quan điểm
đạo đức;Nhận thức rằng các hoàn cảnh không công bằng có thể đƣợc cải thiện;
Nhận thức rằng mọi cá nhân và các thành phần xã hội đều có thể đóng góp vào
việc bảo vệ quyền con ngƣời;Phân tích các yếu tố tạo ra sự vi phạm nhân quyền;
Nhận biết và có khả năng sử dụng các công cụ về quyền con ngƣời mang tính
toàn cầu, khu vực, quốc gia, địa phƣơng và các cơ chế khác để bảo vệ quyền con
ngƣời; Có kế hoạch hành động phù hợp để đáp lại việc thiếu công bằng; Hành
động để thúc đẩy và bảo vệ quyền con ngƣời.
Ở Việt Nam hiện nay, nội dung giáo dục quyền con ngƣời, quyền công
dân phải chú trọng cung cấp cho ngƣời dân những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng ta về vấn đề quyền con ngƣời, quyền
công dân, cũng nhƣ những nội dung những quyền đã đƣợc thể chế hóa từ Hiến
pháp 1992 đến nay và trong hệ thống pháp luật. Nội dung giáo dục quyền con
ngƣời ngoài những nội dung trên còn cần phải nhấn mạnh vào giáo dục Hiến
pháp nhƣ một phần quan trọng của giáo dục quyền con ngƣời, vì một mặt, Hiến
pháp là đạo luật cao nhất, là hệ quy chiếu cho tất cả những quy định pháp luật
Nhà nƣớc; mặt khác, Hiến pháp thể hiện đầy đủ nội dung giáo dục quyền con
ngƣời mà Nhà nƣớc đảm bảo cam kết thực hiện. Ý thức về Hiến pháp có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền, tự do của
con ngƣời. Tƣ tƣởng, nhận thức về hiệu lực trực tiếp của Hiến pháp liên quan
39
đến các quyền con ngƣời cũng s định hƣớng, dẫn dắt và kiểm soát, kìm chế
những sự lạm dụng pháp luật gây phƣơng hại, làm sai lệch bản chất của các
quyền.
Việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung của Hiến pháp,
nâng cao nhận thức và niềm tin về Hiến pháp để hình thành ý thức tự giác, tôn
trọng và chấp hành Hiến pháp; bảo đảm cho Hiến pháp đƣợc tuân thủ và nghiêm
chỉnh chấp hành trong mọi tầng lớp nhân dân... s góp phần cải thiện thực trạng
về quyền con ngƣời ở Việt Nam. Nhằm giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân
nhận thức rõ mục đích, ý nghĩa và kết quả của việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992,
những nét mới của Hiến pháp (sửa đổi); tạo sự thống nhất cao trong Đảng, sự
đồng thuận trong xã hội về việc triển khai và thực thi Hiến pháp, pháp luật.
1.3.3: Vai trò của giáo dục quyền con người trong điều kiện xây dựng Nhà nước
Pháp quyền ở nước ta hiện nay
Quyền con ngƣời luôn là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá sự phát
triển và tiến bộ của xã hội cũng nhƣ là tiền đề cho sự phát triển đầy đủ về nhân
cách và năng lực của mỗi cá nhân. Ở phạm vi rộng hơn, quyền con ngƣời là sự
kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền văn hóa nhân loại. Những giá trị
này đƣợc kết tinh từ tất cả các quốc gia, dân tộc, giai cấp và mỗi một con ngƣời
trên trái đất. Chính vì vậy, việc bảo đảm các quyền con ngƣời là tiền đề cho hòa
bình- hạnh phúc và thịnh vƣợng của toàn nhân loại.
Nhà nƣớc pháp quyền là thành tựu của nền văn minh nhân loại trong tiến
trình phát triển xã hội loài ngƣời. Tƣ tƣởng Nhà nƣớc pháp quyền đƣợc hình
thành từ lâu trong lịch sử và ngày càng hoàn thiện nhƣ một phƣơng thức tổ chức
Nhà nƣớc mà trong đó có các đặc điểm nội bật nhƣ: quyền lực Nhà nƣớc đƣợc
bắt nguồn từ nhân dân; các quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp đƣợc phân công
thực hiện rõ ràng; pháp luật là tối thƣợng; và các cam kết quốc tế đƣợc Nhà
nƣớc đảm bảo thực hiện. Đặc biệt, trong Nhà nƣớc pháp quyền, quyền con
ngƣời luôn luôn đƣợc coi trọng; pháp luật quy định đầy đủ về quyền con ngƣời
và đƣợc bảo đảm trong thực tế. Nhà nƣớc pháp quyền là một Nhà nƣớc mà ở đó,
quyền và nghĩa vụ của tất cả và của mỗi ngƣời đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo
40
vệ. Nhà nƣớc và cá nhân phải tuân thủ pháp luật, việc thực hiện pháp luật đƣợc
bảo đảm bằng một hệ thống Tòa án độc lập. Nhà nƣớc pháp quyền có nghĩa vụ
tôn trọng giá trị cao nhất là con ngƣời. Nhà nƣớc phải đảm bảo cho công dân có
đủ khả năng và điều kiện chống lại sự tùy tiện của Nhà nƣớc, có một cơ chế chặt
ch để kiểm tra tính hợp pháp và hợp hiến của pháp luật và các hành vi của bộ
máy chính quyền Nhà nƣớc. Nhà nƣớc pháp quyền phải tạo ra cho công dân sự
bảo đảm rằng ngƣời ta không bị đòi hỏi cái ngoài hoặc trên những điều đƣợc
quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Trong Nhà nƣớc pháp quyền, Hiến pháp
giữ vị trí tối cao trong hệ thống pháp luật. Hiến pháp xây dựng trên cơ sở bảo
đảm tự do và quyền công dân [36, tr.39-40].
Ở nƣớc ta, tƣ tƣởng Nhà nƣớc pháp quyền đã có từ lâu. Nghiên cứu các
bản Hiến pháp nƣớc ta từ trƣớc tới nay (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992) cho
thấy các yếu tố đặc trƣng của Nhà nƣớc pháp quyền đã đƣợc hình thành. Các
bản Hiến pháp ở mức độ này hay mức độ khác đều khẳng định quyền lực Nhà
nƣớc thuộc về nhân dân, Nhà nƣớc quản lý xã hội bằng pháp luật và tăng cƣờng
pháp chế xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo
vệ các quyền con ngƣời, phân công thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tƣ
pháp… Và một lần nữa tƣ tƣởng Nhà nƣớc pháp quyền lại đƣợc khẳng định
trong Hiến pháp Việt Nam sửa đổi, đƣợc thông qua tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội
Khóa XIII ngày 28/11/2013. Một trong những nội dung đổi mới, bƣớc tiến quan
trọng của Hiến pháp sửa đổi là đề cao nhân quyền nhƣ một điều kiện để xây
dựng Nhà nƣớc pháp quyền, từ đó thể chế hóa quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa
vụ công dân, đồng thời xác lập trách nhiệm bảo đảm những quyền đó đƣợc thực
hiện trên thực tế. Hiến pháp sửa đổi khẳng định, các quyền con ngƣời, quyền
công dân đƣợc Nhà nƣớc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp
và pháp luật. Trƣớc đây, Chƣơng 5 Hiến pháp năm 1992 quy định quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp năn 2013 đã mở rộng tên chƣơng là
“Quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” và đặt tại Chƣơng
2, ngay sau Chƣơng 1 quy định về chế độ chính trị, để khẳng định vị trí quan
trọng của quyền con ngƣời, quyền công dân và cam kết của Nhà nƣớc ta trong
41
việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân đúng nhƣ
Công ƣớc quốc tế mà nƣớc ta là thành viên. Chƣơng 2 của Hiến pháp 2013 là
chƣơng có số lƣợng điều nhiều nhất, gồm 36 điều (từ Điều 14 đến Điều 49) ghi
nhận quyền con ngƣời, quy định quyền công dân, đƣợc thể hiện một cách đầy
đủ, 26 chính xác, có tính khả thi cao. Các quy định này theo hƣớng mở rộng, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con ngƣời, quyền công dân. Đặc
biệt với Hiến pháp 2013, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, quyền
đƣợc bảo đảm an sinh xã hội của mọi ngƣời dân đƣợc chính thức khẳng định
thành một điều riêng (Điều 34). Quyền này đƣợc xác lập, thực hiện cùng với
quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội; quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi
làm việc của công dân. Ngƣời làm công ăn lƣơng đƣợc bảo đảm các điều kiện
làm việc công bằng, an toàn; đƣợc hƣởng lƣơng, chế độ nghỉ ngơi. Nhà nƣớc
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động và
tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định. Phụ nữ
đƣợc tạo điều kiện để phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã
hội. Tr em đƣợc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục. Thanh niên đƣợc học tập, lao
động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ. Ngƣời cao tuổi đƣợc tôn trọng, chăm sóc
và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... Đây chính là
cơ sở quan trọng để cụ thể hóa Hiến pháp trong đời sống bằng các luật. Ngay
khi Hiến pháp có hiệu lực thì trong kế hoạch triển khai, Ủy ban Thƣờng vụ
Quốc hội đã ban hành kế hoạch thi hành Hiến pháp, trong đó ƣu tiên các luật
liên quan đến tổ chức bộ máy để rà soát, sửa đổi; đồng thời tăng cƣờng công tác
giáo dục quyền con ngƣời.
Nhân dân Việt Nam hiểu hơn ai hết giá trị của độc lập, tự do và những giá
trị thiêng liêng của quyền con ngƣời. Những tƣ tƣởng này đƣợc Chủ tịch Hồ Chí
Minh đúc kết trong câu nói nổi tiếng đã trở thành chân lý của nhân dân ta, đó là
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng vấn đề nhân quyền để xuyên tạc,
vu khống Việt Nam không bảo đảm các quyền con ngƣời hòng gây mất ổn định
42
tình hình trong nƣớc, tạo tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân, phục
vụ cho mục đích phá hoại sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta.
Chúng ta trƣớc sau nhƣ một, kiên trì quan điểm bảo đảm quyền con
ngƣời, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng dân chủ, nhân quyền để
xuyên tạc, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Bên cạnh đó, tiến hành
các hoạt động ngoại giao, đối thoại với các đối tác quan tâm đến vấn đề nhân
quyền tại Việt Nam là Mỹ, Thụy Sỹ, EU, Pháp và Ôxtrâylia. Thông qua đó, các
tổ chức và quốc gia s hiểu hơn về tình hình nhân quyền tại Việt Nam tránh
đƣợc những quan niệm sai lầm, lệch lạc cho rằng chúng ta vi phạm nhân
quyền.
Do đó, vấn đề giáo dục về quyền con ngƣời là mục tiêu không thể tách rời
trong xây dựng một Nhà nƣớc pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân, bởi vì, để ngƣời dân tuân theo pháp luật, biết sử dụng luật pháp để bảo vệ
quyền lợi chính đáng của mình thì trƣớc tiên họ phải hiểu là họ có quyền làm
điều đó, họ phải biết đƣợc cách thức để thực hiện yêu cầu của mình. Chính vì
vậy, việc Đảng và Nhà nƣớc ta quan tâm tới việc giáo dục quyền con ngƣời
chính là sự thể hiện quyết tâm xây dựng một Nhà nƣớc pháp quyền của dân, do
dân, vì dân trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Ngoài ý nghĩa chính trị, giáo dục quyền con ngƣời còn có ý nghĩa xã hội
sâu sắc, vì nó s giúp tất cả các chủ thể: từ công chức Nhà nƣớc đến ngƣời dân
bình thƣờng, từ ngƣời thành thị đến ngƣời nông thôn, từ ngƣời dân miền xuôi
đến đồng bào miền ngƣợc... nhận thức đúng đắn hơn về quyền và nghĩa vụ đối
với bản thân, gia đình và cộng đồng xã hội... Thông qua giáo dục quyền con
ngƣời, bản thân những cán bộ, công chức trong hệ thống cơ quan quản lý Nhà
nƣớc s hiểu rõ hơn trách nhiệm của mình là phục vụ nhân dân, tránh bệnh quan
liêu, lãnh cảm của cán bộ, công chức trƣớc ngƣời dân. Mỗi cá nhân s nhận thức
đầy đủ hơn về quyền đƣợc đối xử công bằng, đƣợc yêu thƣơng chăm sóc bởi
ngƣời thân và cộng đồng xã hội, s biết đƣợc trong trƣờng hợp nào những quyền
cơ bản của mình bị xâm hại và đƣợc quyền lên tiếng yêu cầu các cơ quan Nhà
nƣớc, các cá nhân có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình. Đồng
43
thời, mỗi ngƣời cũng ý thức rõ ràng hơn về việc phải tôn trọng quyền cơ bản của
những ngƣời xung quanh, biết yêu thƣơng, chia s , sống có trách nhiệm hơn với
bản thân, gia đình cũng nhƣ xã hội... Khi đƣợc giáo dục về quyền con ngƣời,
mỗi ngƣời trong cộng đồng xã hội s nhận thức rõ hơn về những giá trị về danh
dự nhân phẩm, từ đó có cách hành xử chuẩn mực, văn hóa hơn.
Giáo dục quyền con ngƣời thể hiện sự chủ động, tích cực của Việt Nam
trong việc thực hiện các cam kết và điều ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời. Đến
nay, Việt Nam đã ký, phê chuẩn hoặc gia nhập 09 công ƣớc và 02 nghị định thƣ
bổ sung công ƣớc trong tổng số gần 20 công ƣớc và nghị định thƣ bổ sung công
ƣớc về nhân quyền do Liên Hợp Quốc ban hành. Với số lƣợng nhƣ vậy, Việt
Nam đã tham gia hầu hết các điều ƣớc quốc tế chính về nhân quyền do Liên Hợp
Quốc ban hành... Việc tích cực tham gia các điều ƣớc quốc tế tạo hành lang
pháp lý làm cơ sở để bảo vệ quyền con ngƣời, giáo dục quyền con ngƣời chính
là biện pháp hữu hiệu để quyền con ngƣời đƣợc đảm bảo thực hiện trên thực tế.
Điều này thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết
quốc tế của Việt Nam về vấn đề quyền con ngƣời và là minh chứng rõ ràng để
chống lại các tƣ tƣởng xuyên tạc của các thế lực thù địch về vấn đề nhân quyền
ở Việt Nam. Giáo dục quyền con ngƣời góp phần nâng cao niềm tin của quần
chúng nhân dân vào Đảng và Nhà nƣớc. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng
lần thứ VII khóa IX đƣa ra nhận định: “Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nƣớc và
nhân dân tuy đã đƣợc chăm lo củng cố và phát triển, nhƣng chƣa thật bền chặt
và đang đứng trƣớc những thách thức mới; lòng tin vào Đảng, Nhà nƣớc và chế
độ của một bộ phận nhân dân chƣa thật vững chắc, có phần vì đời sống còn
nhiều khó khăn, vì bất bình trƣớc những bất công xã hội, trƣớc tình trạng tham
nhũng, quan liêu, lãng phí còn phổ biến và nghiêm trọng; kỷ cƣơng, pháp luật
nhiều lúc, nhiều nơi bị buông lỏng; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; trật tự an
toàn xã hội còn phức tạp. Các vụ khiếu kiện đông ngƣời vẫn còn nhiều, có lúc,
có nơi còn gay gắt.” Chính vì vậy, thông qua hoạt động giáo dục quyền con
ngƣời, các quyền cơ bản của con ngƣời đƣợc tôn trọng và bảo vệ, đạo đức xã hội
44
đƣợc nâng cao hơn... Nhờ đó, quần chúng nhân dân s đặt niềm tin nhiều hơn
vào đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc [33].
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Quyền con ngƣời là yếu tố cơ bản, nền tảng của một xã hội dân chủ, văn
minh. Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời đã hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân
loại; nhƣng không phải trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào, trong bất cứ
kiểu Nhà nƣớc nào nó cũng tồn tại và đƣợc thừa nhận một cách đầy đủ. Vì thế,
quyền con ngƣời là một phạm trù lịch sử và là kết quả của cuộc đấu tranh không
ngừng của toàn nhân loại vƣơn tới những ý tƣởng, giải phóng hoàn toàn con
ngƣời nhằm xây dựng một xã hội thật sự công bằng, dân chủ, nhân đạo. Nguyên
Thứ trƣởng Bộ Tƣ pháp Hoàng Thế Liên đã từng nói: “Quyền con ngƣời là một
giá trị tinh hoa của nhân loại, là khát vọng và thành quả đấu tranh của các dân
tộc trên toàn thế giới. Nhà nƣớc Việt Nam luôn coi con ngƣời vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của mọi chính sách phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện nhất
quán chính sách bảo đảm và thúc đẩy các quyền con ngƣời”.
Giáo dục quyền con ngƣời là một chiến lƣợc dài hạn, dành cho thế hệ
tƣơng lai. Giáo dục quyền con ngƣời không dành cho những ngƣời thiếu kiên
nhẫn, muốn nhìn thấy sự thay đổi ngay lập tức. Giáo dục quyền con ngƣời nhằm
xây dựng những chƣơng trình sáng tạo để thúc đẩy phát triển con ngƣời, hòa
bình, dân chủ và tôn trọng Nhà nƣớc pháp quyền. Giáo dục quyền con ngƣời ở
Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa chiến lƣợc đối với sự nghiệp
giáo dục - đào tạo thế hệ tr ; đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa; là cơ sở để quần chúng nhân dân hình thành nhận thức đúng
đắn về quyền con ngƣời, củng cố niềm tin của quần chúng đối với Đảng, Nhà
nƣớc; chống lại những k lợi dụng nhân quyền để xuyên tạc, vu khống chế độ,
lừa dối, mua chuộc; chống lại những hoạt động lợi dụng chiêu bài "nhân quyền"
của một số nƣớc phƣơng Tây và các thế lực phản động, thù địch chống phá công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính vì thế, nghiên cứu về giáo
dục quyền con ngƣời, đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp kịp thời đòi hỏi sự
quan tâm hơn nữa của các nhà khoa học trong thời gian tới.
45
Chƣơng 2: Thực trạng và một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao công
tác giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay
2.1: Thực trạng giáo dục quyền con người ở Việt Nam hiện nay
2.1.1: Những thành tựu đã đạt được
*Thành tựu đạt được của chủ thể trong việc ghi nhận về quyền con người
trong các văn bản pháp luật
Khi nói đến một thể chế chính trị tiến bộ, một quốc gia văn minh, thì
không thể không nói đến thể chế chính trị, quốc gia đó có quan tâm đến việc bảo
đảm những quyền cơ bản của con ngƣời hay không. Chế độ chính trị XHCN mà
Việt Nam đang nỗ lực xây dựng, thực hiện là một chế độ của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Vì vậy, từ khi lập quốc theo thể chế dân chủ XHCN đến nay,
Việt Nam đã kiên trì theo đuổi mục tiêu không ngừng bảo đảm quyền con ngƣời
cho mọi ngƣời dân.
Tuy không phải là quốc gia đầu tiên đề ra các vấn đề về quyền cơ bản của
con ngƣời, nhƣng Việt Nam là một trong số ít các quốc gia sớm tiếp cận về
quyền con ngƣời. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nƣớc Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Tất cả các
dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sƣớng và quyền tự do”. Nhƣ vậy, thông qua khẳng định các giá trị
của một dân tộc là quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sƣớng, quyền tự
do, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn nhấn mạnh quyền con ngƣời chỉ thực sự đƣợc
bảo đảm khi gắn liền với quyền độc lập, tự do của dân tộc.
Quốc hiệu Việt Nam từ khi thành lập chính quyền cách mạng đến nay
cũng nhất quán một khẩu hiệu: “Độc lập- Tự do- Hạnh phúc”. Điều đó có nghĩa
là, mục tiêu trƣớc sau nhƣ một mà cả dân tộc Việt Nam kiên trì thực hiện là bảo
đảm dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Điều này đã đƣợc
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng Giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất hơn
một lần nhấn mạnh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, và: “Nếu nƣớc độc
lập mà dân không hƣởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý
gì”.
46
Nhƣ vậy, nếu bản “Tuyên ngôn thế giới về quyền con ngƣời” mà Đại hội
đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10-12-1948, trong đó vấn đề hàng đầu mà
Tuyên ngôn này khuyến nghị cộng đồng quốc tế và các quốc gia dân tộc phải
thực hiện là bảo đảm “Tự do, công lý và hòa bình”; thì vấn đề quyền tự do trong
bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đƣợc nêu ra trƣớc 3 năm
so với bản “Tuyên ngôn thế giới về quyền con ngƣời”. Nhắc lại điều đó để thấy,
với tầm nhìn vƣợt thời đại của mình, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân
và dân tộc Việt Nam đã khẳng định Việt Nam luôn tôn trọng các giá trị quyền
con ngƣời và cam kết thực hiện quyền con ngƣời trƣớc cộng đồng quốc tế.
Qua nhiều lần xây dựng, sửa đổi Hiến pháp, từ các bản Hiến pháp 1946,
Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 đến Hiến pháp 2013 luôn giữ
một vấn đề căn cốt là hiến định các quyền con ngƣời và quyền công dân. Đại hội
VII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu bao trùm là xây dựng đất
nƣớc Việt Nam theo con đƣờng XHCN “Dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công
bằng, văn minh”, thì đến đại hội sau, mục tiêu này đƣợc bổ sung là: “Dân giàu,
nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và sau đó là “Dân giàu, nƣớc
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bổ sung tiêu chí “dân chủ” và đƣa tiêu
chí “dân chủ” lên trƣớc tiêu chí “công bằng, văn minh” không chỉ là vấn đề câu
chữ, mà thực chất là Đảng ta đã xác lập đúng vị trí, vai trò dân chủ- nội hàm liên
quan đến quyền là chủ, quyền làm chủ của nhân dân để bảo đảm quyền con
ngƣời ngày càng tốt hơn (Điều 3 – Hiến pháp năm 2013).
Do trải qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân đế quốc kéo dài suốt ba
thập niên (1945-1975) và chịu sự tác động, ảnh hƣởng của cuộc khủng khoảng
kinh tế- xã hội khoảng chục năm sau khi đất nƣớc thống nhất, dù rất quan tâm,
song Việt Nam chƣa có điều kiện thuận lợi để bảo đảm thực sự đầy đủ các
quyền con ngƣời. Tuy vậy, kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, hơn
30 năm qua, Việt Nam ngày càng nhận thức sâu sắc và bảo đảm tốt hơn quyền
con ngƣời trên tất cả các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Việt Nam đã đạt đƣợc những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực giáo dục
quyền con ngƣời, quyền công dân; đặc biệt là việc giáo dục quyền tr em theo
47
nội dung Công ƣớc Liên hợp quốc về quyền tr em (CRC), giáo dục quyền phụ
nữ theo nội dung công ƣớc của Liên hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử phụ nữ.
Đảng, Nhà nƣớc đã đề ra chủ trƣơng, chính sách và có sự quan tâm chỉ
đạo thực hiện hoạt động giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân ở Việt Nam,
đặc biệt là sự quan tâm chỉ đạo trong các hoạt động giáo dục quyền tr em,
quyền phụ nữ. Sự quan tâm chỉ đạo này của Đảng, Nhà nƣớc thể hiện cụ thể
trong việc thành lập các cơ quan chuyên trách nhà nƣớc về nghiên cứu quyền
con ngƣời, các cơ quan chuyên trách về quyền phụ nữ, quyền tr em; đào tạo đội
ngũ cốt cán về vấn đề này; chỉ đạo xây dựng các chƣơng trình hành động quốc
gia về quyền phụ nữ, quyền tr em. Những kết quả đạt đƣợc trong việc giáo dục
quyền phụ nữ, quyền tr em ở Việt Nam đã mang đến cách nhìn mới của thế giới
và khu vực đối với Việt Nam, từ đó tạo ra khả năng thuận lợi hơn cho Việt Nam
trong hội nhập khu vực và quốc tế. Với quan điểm: "Tiến bộ của tr em phải là
một mục tiêu chủ chốt của sự phát triển chung của quốc gia: Nó cũng phải là
một bộ phận thống nhất của chiến lƣợc phát triển thế giới rộng lớn hơn đối với
thập kỷ phát triển thứ ta của Liên Hợp Quốc. Vì tr em của hôm nay là những
công dân của thế giới ngày mai, nên sự sống còn, bảo vệ và phát triển của tr em
là điều kiện tiên quyết đối với sự phát triển tƣơng lai của loài ngƣời" [35, tr. 14],
ngay từ rất sớm Đảng, Chính phủ và nhân dân ta đã luôn quan tâm tới việc chăm
sóc, giáo dục và bảo vệ tr em. Từ năm 1960 đã có phong trào "toàn dân chăm
sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng". Tháng 11/1979 ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Pháp lệnh "Bảo vệ và chăm
sóc tr em". Tiếp tục đƣờng lối chính sách đó, Việt Nam đã ngay lập tức phê
chuẩn công ƣớc quốc tế về "quyền tr em" (là nƣớc thứ hai trên thế giới, là nƣớc
châu á đầu tiên ký và phê chuẩn công ƣớc này).
*Thành tựu trong giáo dục cho người dân về nội dung quyền con người
Hiện nay, nội dung về quyền con ngƣời đã đƣợc đƣa vào chƣơng trình
giáo dục của một số cấp học, ngành học trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Trong một số chƣơng trình chính khóa ở cấp tiểu học, trung học cơ sở và trung
48
học phổ thông đã có sự lồng ghép quyền công dân, quyền tr em vào môn học
đạo đức, giáo dục công dân, ngữ văn. Trong các chƣơng trình đào tạo đại học,
quyền con ngƣời đã đƣợc tích hợp, lồng ghép vào một số môn học nhƣ Luật
Hiến pháp, Luật Hành chính, Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự, Luật Công
pháp quốc tế... Năm 2008, các nội dung về quyền con ngƣời đƣợc xây dựng
thành môn học độc lập “Lý luận và pháp luật về quyền con ngƣời” và đƣợc đƣa
vào giảng dạy cho sinh viên Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nội dung
quyền con ngƣời cũng đã đƣợc đƣa vào chƣơng trình đào tạo của một số trƣờng
đại học thuộc khối ngành luật, hành chính và nội chính với hình thức môn học
bắt buộc hoặc lựa chọn nhƣ Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật thành phố Hồ
Chí Minh, Học viện Hành chính quốc gia, Học viện Cảnh sát nhân dân, Học
viện An ninh nhân dân, Đại học Kiểm sát Hà Nội, Học viện Ngoại giao...
Giáo dục quyền con ngƣời cũng đã đƣợc thực hiện từ lâu trong các nhà
trƣờng phổ thông ở Việt Nam, chủ yếu thông qua môn học đạo đức công dân.
Tuy nhiên, kể từ khi Đổi mới đến nay, hoạt động giáo dục nhân quyền trong các
nhà trƣờng phổ thông ở Việt Nam đã đƣợc tăng cƣờng thêm một bƣớc mới, với
việc lồng ghép nhiều nguyên tắc và tiêu chuẩn cụ thể của luật nhân quyền quốc
tế vào chƣơng trình giáo dục của các nhà trƣờng, đặc biệt là trong môn học Giáo
dục công dân (thực hiện ở các cấp phổ thông từ I, II đến III). Cụ thể nhƣ sau:
Đối với học sinh tiểu học (cấp I), môn học Đạo đức đã bao gồm các bài
học nhằm hƣớng dẫn các em tôn trọng ngƣời khác nhƣ: tôn trọng khách nƣớc
ngoài, tôn trọng thƣ từ, tài sản của ngƣời khác (Lớp 3); tôn trọng phụ nữ (Lớp
5)…Trong các bài học này, tuy các khái niệm cụ thể về quyền chƣa đƣợc sử
dụng (chẳng hạn khi nói về tôn trọng phụ nữ thì mới nêu các lý do về đạo đức,
xã hội chứ chƣa đề cập đền "quyền của phụ nữ") và các kiến thức, thông tin
chuyển tải mới ở mức độ đơn giản, nhƣng rõ ràng thông qua các bài học kể trên,
học sinh có thể hiểu đƣợc một số nguyên tắc cơ bản của quyền con ngƣời và
nghĩa vụ tôn trọng các quyền con ngƣời của các nhóm đối tƣợng có liên quan.
Ở cấp trung học cơ sở phổ thông (cấp II), số lƣợng bài học về quyền con
ngƣời trong chƣơng trình học đã nhiều hơn, các bài học chứa đựng những kiến
49
thức rộng và sâu hơn về quyền con ngƣời. Mặc dù vậy, tƣơng tự nhƣ ở cấp tiểu
học, các bài học về quyền con ngƣời ở cấp trung học cơ sở vẫn đƣợc thiết kế
thông qua những bối cảnh sinh hoạt hàng ngày và phù hợp với nhận thức xã hội
của học sinh theo từng độ tuổi, để giúp các em có thể hiểu đƣợc các khái niệm
và phạm trù đôi khi khá phức tạp trên lĩnh vực này. Cụ thể, các bài học về quyền
con ngƣời trong môn học Giáo dục công dân của học sinh phổ thông cấp II đƣợc
thiết kế nhƣ sau [12]:
*Trong môn học Giáo dục công dân Lớp 6 (tổng số 21 bài) có các bài:
Công ƣớc của Liên hợp quốc về quyền tr em (bài 12); Công dân nƣớc
CHXHCN Việt Nam (bài 13); Quyền và nghĩa vụ học tập (bài 15); Quyền đƣợc
pháp luật bảo vệ về tính mạng, thân thể, sức kho , danh dự và nhân phẩm (bài
16); Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở (bài 17); Quyền đƣợc bảo đảm an toàn
và bí mật thƣ tín, điện thoại, điện tín (bài 18); Trong môn học Giáo dục công
dân Lớp 7 (tổng số 18 bài) có các bài:; Quyền đƣợc chăm sóc và giáo dục của
tr em Việt Nam (bài 13); Quyền tự do tín ngƣỡng và tôn giáo (bài 16); Nhà
nƣớc CHXHCN Việt Nam (bài 17).
*Trong môn học Giáo dục công dân Lớp 8 (tổng số 21 bài) có các
bài: Quyền và nghĩa vụ của công dân trong gia đình (bài 12); Quyền sở hữu tài
sản và nghĩa vụ tôn trọng tài sản của ngƣời khác (bài 16); Quyền khiếu nại, tố
cáo của công dân (bài 18); Quyền tự do ngôn luận (bài 19); Hiến pháp nƣớc
CHXHCN Việt Nam (bài 20); Pháp luật nƣớc CHXHCN Việt Nam (bài 21).
*Trong môn học Giáo dục công dân Lớp 9 (tổng số 18 bài) có các bài:
Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân (bài 12); Quyền tự do kinh
doanh và nghĩa vụ đóng thuế (bài 13); Quyền và nghĩa vụ lao động của công dân
(bài 14); Quyền tham gia quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội của công dân (bài
16).
Trong chƣơng trình giáo dục cấp III, môn học Giáo dục công
dân đã mang tính lý thuyết và tính khái quát khá cao, nhiều nội dung tƣơng đối
trừu tƣợng với lứa tuổi thiếu niên. Chƣơng trình Lớp 10 có đề cập đến một số
nghĩa vụ của công dân nhƣng chủ yếu từ khía cạnh đạo đức (đối với cộng đồng,
50
với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc), Lớp 11 có các bài: nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa
(bài 9), nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (bài 10). Các kiến thức về quyền con
ngƣời tập trung nhiều hơn ở chƣơng trình giáo dục công dân Lớp 12, theo đó
học sinh đƣợc tiếp cận với nhiều nội dung liên quan đến quyền công dân nhƣ bài
Hiến pháp, các quyền trong lĩnh vực dân sự (trong bài Luật dân sự), các quyền
trong tố tụng và một số quyền trong các lĩnh vực cụ thể nhƣ đất đai, thuế, hành
chính…
Từ những thông tin kể trên, có thể thấy dung lƣợng kiến thức về quyền
con ngƣời trong chƣơng trình giáo dục phổ thông ở Việt Nam là khá lớn so với
mặt bằng chung trên thế giới. Một điểm tích cực nữa là việc thiết kế các bài học
về quyền trong chƣơng trình giáo dục công dân ở Việt Nam đã tính đến trình độ
nhận thức và tâm lý của học sinh ở từng độ tuổi. Những điều này cho thấy sự
quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam với hoạt động giáo dục về quyền con
ngƣời, cũng nhƣ cho thấy triển vọng tốt đẹp của hoạt động giáo dục về quyền
con ngƣời ở các nhà trƣờng phổ thông ở Việt Nam.
Tại các cơ sở đào tạo bậc đại học, việc giảng dạy về quyền con ngƣời chủ
yếu tập trung ở các trƣờng có đào tạo chuyên ngành luật. Riêng Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội đã xây dựng đƣợc chƣơng trình và giáo trình cho môn
quyền con ngƣời là một môn học tự chọn và hiện tại đã đƣa vào giảng dạy.
Trong chƣơng trình đào tạo, nội dung này thƣờng đƣợc tiếp cận dƣới góc độ
quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đƣợc giảng dạy trong
môn Luật đại cƣơng, Luật Hiến pháp, Luật Lao động... Các bộ môn khác tùy
theo đặc thù các chuyên ngành, nội dung của từng môn học ở các mức độ khác
nhau cũng đề cập đến quyền con ngƣời, nhƣ: vấn đề con ngƣời trong môn Triết
học Mác - Lênin; vấn đề dân tộc trong môn Chủ nghĩa xã hội khoa học; quyền
dân sự của công dân trong Luật Dân sự; quyền tự do trong kinh doanh môn Luật
Thƣơng mại; an sinh xã hội cho công dân (Luật An sinh xã hội);... Môn Công
pháp quốc tế có hai bài riêng nói đến quyền con ngƣời, đó là Dân cƣ trong luật
quốc tế và Luật quốc tế về quyền con ngƣời. Tuy vậy, do đặc thù của từng
51
trƣờng khác nhau nên việc xây dựng giáo trình giảng dạy về quyền con ngƣời
cũng có sự khác nhau.
Ngoài sinh viên ngành luật, một số trƣờng đại học khác có học môn “Luật
quốc tế” là Học viện quan hệ quốc tế, Học viện an ninh, Học viện cảnh sát...
Ngoài ra, ở những cơ sở đào tạo này, vấn đề quyền con ngƣời còn đƣợc giới
thiệu khái quát bằng cách lồng ghép vào nội dung của một số môn học khác có
liên quan, cụ thể nhƣ các môn học “Nhà nƣớc và pháp luật đại cƣơng” hoặc
“Pháp luật đại cƣơng”…Tuy nhiên, nhìn chung dung lƣợng kiến thức về quyền
con ngƣời trong chƣơng trình giảng dạy ở các cơ sở này còn ở mức độ rất hạn
chế, mặc dù kiến thức về quyền con ngƣời trên thực tế rất hữu ích trong hoạt
động của học viên một số trƣờng sau khi tốt nghiệp (ví dụ nhƣ học viên của Học
viện an ninh, Học viện cảnh sát...).
Hoạt động giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam trong thời gian qua đã
góp phần nâng cao nhận thức, ý thức về giá trị của hoạt động này trong việc
hình thành nhân cách ngƣời Việt Nam trong chủ nghĩa xã hội, và sự cần thiết
phải tăng cƣờng các hoạt động này trong thời gian tới. Đồng thời, việc giáo dục
quyền con ngƣời, quyền công dân cũng làm tăng nhu cầu xây dựng hệ thống
pháp luật Việt Nam phù hợp với các quy định của công ƣớc quốc tế về quyền
con ngƣời.
Từ những thông tin trên, có thể nhận xét rằng giáo dục quyền con ngƣời
đã có tiền đề khá tốt trong giáo dục ở Việt Nam, bởi l vấn đề nhân quyền đã
đƣợc đƣa vào chƣơng trình giảng dạy của các trƣờng đại học chuyên ngành luật,
chính trị…tƣơng tự nhƣ ở nhiều nƣớc khác trên thế giới.
*Thành tựu đạt được trong việc sử dụng các phương thức giáo dục quyền
con người nhằm mang lại hiệu quả thiết thực.
Giáo dục quyền con ngƣời không chỉ bao gồm các hoạt động giảng dạy ở
nhà trƣờng mà còn bao gồm các hoạt động tập huấn và phổ biến thông tin ở bên
ngoài hệ thống giáo dục quốc gia. Hoạt động tập huấn, tuyên truyền về quyền
con ngƣời ở bên ngoài dù không mang tính hệ thống và chính quy nhƣ trong các
nhà trƣờng nhƣng cũng góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức về
52
quyền con ngƣời của ngƣời dân và nhiều dạng chủ thể trong xã hội mà không
thể hoặc không còn cơ hội học tập ở hệ thống nhà trƣờng. Trong số các đối
tƣợng này có những nhóm rất quan trọng nhƣ quan chức nhà nƣớc, cán bộ xã
hội, nhân viên của các tổ chức quốc tế, thậm chí các nghị sĩ...Vì vậy, ở nhiều
nƣớc trên thế giới, giáo dục quyền con ngƣời ngoài hệ thống nhà trƣờng rất
đƣợc chú trọng phát triển đồng thời và đan xen với hoạt động giáo dục nhân
quyền trong hệ thống giáo dục quốc dân. Việt Nam cũng không đứng ngoài xu
thế kể trên trong giáo dục quyền con ngƣời. Ở Việt Nam trong suốt thời gian
vừa qua đã diễn ra rất nhiều các chƣơng trình hội thảo, hội nghị xoay quanh vấn
đề quyền con ngƣời và bảo đảm thực hiện quyền con ngƣời. Tiêu biểu trong số
đó có thể kể đến: Hội nghị tập huấn “Nâng cao hiệu quả công tác thông tin,
tuyên truyền về quyền con ngƣời” do Ban Chỉ đạo về nhân quyền Chính phủ
phối hợp với Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại Trung ƣơng tổ chức đã
diễn ra sáng 21/12/2017 tại Thành phố Đà Lạt. Tham dự hội nghị có các đại biểu
là đại diện các bộ, ban, ngành thành viên Ban Chỉ đạo về nhân quyền của Chính
phủ, lãnh đạo, phóng viên các cơ quan báo chí 33 tỉnh, thành phố khu vực phía
Nam. Hội nghị đã đƣợc nghe các chuyên gia thông tin các chuyên đề trọng tâm,
gồm: quan điểm, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam về quyền con
ngƣời và vai trò của truyền thông, báo chí trong bảo đảm, thúc đẩy quyền con
ngƣời ở Việt Nam; Vấn đề quyền con ngƣời trong quan hệ quốc tế và trách
nhiệm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt nam về quyền con ngƣời; Công
tác đấu tranh với các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền của các thế
lực thù địch và đấu tranh phản bác của các cơ quan thông tin đại chúng trong
thời gian qua; Công tác chỉ đạo định hƣớng tuyên truyền và đấu tranh phản bác
trên lĩnh vực quyền con ngƣời thời gian qua; Bảo đảm quyền con ngƣời trong
công tác giam giữ, giáo dục và cải tạo phạm nhân, vấn đề thông tin tuyên truyền
trên lĩnh vực này thời gian qua. Hội nghị tập huấn “Nâng cao hiệu quả công tác
tuyên truyền về quyền con ngƣời ở Việt Nam” cho cán bộ làm công tác thông tin
cơ sở thuộc Phòng Văn hóa – Thông tin cấp huyện, cán bộ cơ sở Truyền thanh -
Truyền hình cấp huyện và cán bộ Đài Truyền thanh cấp xã trên địa bàn tỉnh Sóc
53
Trăng đƣợc tổ chức vào 11/12/2018. Tại Hội nghị, các đại biểu đƣợc nghe báo
cáo viên của Bộ Công an trình bày quan điểm, chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc về quyền con ngƣời; Những thành tựu về
thực hiện quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay; nghe báo cáo viên của Ban
Tuyên giáo Trung ƣơng trình bày về công tác thông tin, tuyên truyền về quyền
con ngƣời ở Việt Nam trong thời gian qua và định hƣớng công tác thông tin,
tuyên truyền về quyền con ngƣời trong thời gian tới. Hội nghị tập huấn nâng cao
hiệu quả công tác thông tin – tuyên truyền về quyền con ngƣời ở Việt Nam đƣợc
tổ chức vào ngày 7/12/2017 tại Quảng Ninh. Hội thảo “Công tác nhân quyền
2018 và kết quả triển khai các khuyến nghị theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát
(UPR) chu kỳ 2 của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc đƣợc tổ chức vào
ngày 9/11/2018 tại Hà Nội. Ngày 08/4/2019, UBND tỉnh Bắc Kạn tổ chức Hội
nghị tập huấn về công tác nhân quyền cho lãnh đạo cấp ủy, chính quyền địa
phƣơng các cấp và thủ trƣởng các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh. Tại hội nghị,
các đại biểu đƣợc nghe phổ biến, quán triệt những chuyên đề về quan điểm, chủ
trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc về quyền con ngƣời; Tổng quan pháp luật Việt Nam
về quyền con ngƣời; Công tác nhân quyền trong tình hình mới và công tác nhân
quyền trên địa bàn tỉnh thời gian qua,…Có thể thấy công tác giáo dục, tuyên
truyền và nâng cao nhận thức về vấn đề quyền con ngƣời đƣợc Đảng và Nhà
nƣớc ta hết sức quan tâm và chú trọng thực hiện trên phạm vi toàn quốc.
Trong khoảng hai thập kỷ qua, hoạt động giáo dục quyền con ngƣời ở
ngoài hệ thống nhà trƣờng đã đƣợc thực hiện ở Việt Nam, bởi nhiều chủ thể nhƣ
các cơ quan giáo dục về quyền, các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức xã hội, nhằm
vào nhiều dạng đối tƣợng nhƣ các đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, cán bộ an
ninh, cảnh sát, cán bộ quản lý trại giam, ngƣời làm công tác xã hội, cán bộ của
các đoàn thể xã hội, giáo viên, thành viên của các nhóm xã hội dễ bị tổn
thƣơng…Nội dung tập huấn, tuyên truyền khá đa dạng, bao gồm các vấn đề lý
luận về quyền con ngƣời nói chung, các tiêu chuẩn quốc tế và quy định quốc gia
về quyền con ngƣời..., tuy nhiên, các nội dung liên quan đến quyền con ngƣời
của một số nhóm xã hội dễ bị tổn thƣơng (phụ nữ, tr em, ngƣời thiểu số, ngƣời
54
sống chung với HIV/AIDS…) chiếm dung lƣợng lớn. Các hoạt động tập huấn,
tuyên truyền về quyền con ngƣời theo kênh này thƣờng đƣợc thực hiện trong
khuôn khổ các dự án hợp tác giữa một số bộ, ngành, tổ chức xã hội, cơ sở đào
tạo ở Việt Nam với các nhà tài trợ nƣớc ngoài (bao gồm các tổ chức quốc tế, các
cơ quan viện trợ quốc gia, các đại sứ quán nƣớc ngoài…). Từ khi phê chuẩn
công ƣớc CEDAW, Đảng và nhà nƣớc ta đã thực hiện nhiều biện pháp, nhiều
hoạt động để thực hiện công ƣớc này. Đặc biệt tại hội nghị thế giới lần thứ IV về
phụ nữ của Liên Hợp Quốc tổ chức tại Bắc Kinh - Trung Quốc tháng 9/1995,
Chính phủ Việt Nam đã chính thức công bố "Chiến lƣợc phát triển vì sự tiến bộ
của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000". Đây là sự cam kết chính thức của Chính
phủ Việt Nam trƣớc thế giới về việc thực hiện chiến lƣợc toàn cầu vì mục tiêu
"bình đẳng - phát triển - hòa bình". Tháng 10 năm 1997 Thủ tƣớng Chính phủ đã
chính thức phê duyệt "kế hoạch hành động quốc gia đến năm 2000 vì sự tiến bộ
của phụ nữ". ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam là cơ quan
chuyên trách thực hiện kế hoạch hành động quốc gia này đƣợc thành lập theo
quyết định số 72/TTg của Thủ tƣớng Chính phủ ngày 25/2/1993 trên cơ sở kiện
toàn và đổi tên từ ủy ban quốc gia về thập kỷ phụ nữ của Việt Nam. - Kế hoạch
hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000 đề cập đến
11 mục tiêu trong đó có mục tiêu đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền vì
mục đích góp phần nâng cao nhận thức về quyền bình đẳng nam - nữ (mục tiêu
8) [35, tr. 22] . Theo mục tiêu này, đến năm 2000 nhằm tăng cƣờng vai trò và
sự tham gia của phụ nữ trong công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận
thức của xã hội về bình đẳng giới, phát huy phẩm chất truyền thống tốt đẹp của
phụ nữ Việt Nam; kế hoạch đề ra hai mục tiêu cụ thể là tăng cƣờng tuyên truyền
về bình đẳng giới và tăng cƣờng sự tham gia của phụ nữ vào công tác truyền
thống.
Thông qua các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục quyền con
ngƣời, nhận thức của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, học sinh, sinh
viên và ngƣời dân đã có những chuyển biến nhất định. Tri thức về quyền con
ngƣời và các quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về quyền con ngƣời nhìn chung
55
đƣợc vận dụng tốt trong các hoạt động đối nội và đối ngoại, bảo vệ, bảo đảm
quyền con ngƣời cho mọi ngƣời dân, hợp tác và đấu tranh có hiệu quả trên
trƣờng quốc tế, góp phần đẩy lùi một bƣớc những nhận thức lệch lạc, sai trái về
quyền con ngƣời ở Việt Nam.
Nhƣ vậy, vấn đề giáo dục quyền con ngƣời đã đang và s luôn là mối
quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam ta trong quá trình xây dựng
đất nƣớc. Việc giáo dục quyền con ngƣời với những nội dung phong phú, thiết
thực và ngày càng đƣợc hoàn thiện, lồng ghép trong nhiều môn học tại các bậc
giáo dục ở nƣớc ta.
2.1.2. Những hạn chế còn tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đạt dƣợc, giáo dục quyền con ngƣời, quyền
công dân ở nƣớc ta trong thời gian qua cũng bộc lộ và phát sinh những tồn
tại sau:
*Hạn chế của các chủ thể trong quá trình giáo dục quyền con người
Tại Việt Nam, giáo dục quyền con ngƣời đã đƣợc thực hiện từ lâu trong
trƣờng phổ thông thông qua môn học đạo đức công dân. Những cải cách trong
chƣơng trình giảng dạy của Bộ Giáo dục và Đào tạo với việc đƣa vào môn học
Giáo dục công dân đã tạo cơ hội tăng cƣờng hoạt động giáo dục quyền con
ngƣời trong chƣơng trình giáo dục phổ thông. Nhiều nguyên tắc và tiêu chuẩn cụ
thể của luật quyền con ngƣời quốc tế đƣợc lồng ghép vào môn học này. Nhìn
chung, nội dung kiến thức, lƣợng thông tin trong các bài học đƣợc thiết kế nhằm
phù hợp với từng lứa tuổi, cấp độ học tập.
Mặc dù vậy, một trong các hạn chế quan trọng của hoạt động giáo dục
nhân quyền trong các nhà trƣờng phổ thông ở Việt Nam hiện nay là hiểu biết và
phƣơng pháp giảng dạy về quyền con ngƣời của giáo viên. Về khía cạnh hiểu
biết, hầu hết giáo viên môn học Giáo dục công dân ở các cấp học phổ thông ở
Việt Nam đều chƣa đƣợc đào tạo hay tập huấn về quyền con ngƣời; tình trạng đó
chắn chắn có ảnh hƣởng không nhỏ đến chất lƣợng giảng dạy các bài học về
nhân quyền. Về khía cạnh phƣơng pháp, hơn bất kỳ môn khoa học xã hội nào
khác, giáo dục nhân quyền đòi hỏi giáo viên cần áp dụng phƣơng pháp giảng
56
dạy đặc thù, trong khi các nhà trƣờng phổ thông ở Việt Nam hiện vẫn áp dụng
phổ biến phƣơng pháp giảng dạy truyền thống. Việc sử dụng phƣơng pháp giáo
dục truyền thống làm giảm một cách đáng kể hiệu quả của hoạt đông giáo dục
nói chung, hoạt động giáo dục nhân quyền nói riêng vì phƣơng pháp giảng dạy
truyền thống thông thƣờng biến các tiết học về quyền con ngƣời thành các buổi
thuyết giảng một chiều, khô cứng về đạo đức và luân lý.
*Hạn chế về dung lượng kiến thức trong việc giáo dục về quyền con
người
Có thể nhận xét rằng giáo dục quyền con ngƣời đã có tiền đề khá tốt trong
giáo dục đại học ở Việt Nam, bởi l vấn đề nhân quyền đã đƣợc đƣa vào chƣơng
trình giảng dạy của các trƣờng đại học chuyên ngành luật, chính trị…tƣơng tự
nhƣ ở nhiều nƣớc khác trên thế giới.
Tuy nhiên, nhƣ đã đề cập, dung lƣợng kiến thức về quyền con ngƣời trong
chƣơng trình giảng dạy của một số trƣờng đại học còn quá ít, chƣa tƣơng xứng
với nhu cầu của đối tƣợng đào tạo; kết cấu môn học còn có nhiều điểm bất hợp
lý; đặc biệt chƣa đƣa ra các quan điểm, cách tiếp cận của Đảng, Nhà nƣớc Việt
Nam về quyền con ngƣời, giúp ngƣời học có khả năng nhận diện và phê phán
các quan điểm sai trái trên lĩnh vực quyền con ngƣời ở Việt Nam. Trong chƣơng
trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo chƣa có môn học độc lập về quyền con
ngƣời. Vấn đề quyền con ngƣời đƣợc đƣa vào chƣơng trình tự chọn cho luật
chuyên ngành ở một số trƣờng. Vì thế, số lƣợng sinh viên dự học môn này cũng
rất hạn chế. Trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, nội dung quyền con ngƣời
thƣờng đƣợc tiếp cận theo nghĩa hẹp là các quyền cơ bản của công dân. Do đó,
vấn đề quyền con ngƣời đƣợc tiếp cận ở các mức độ khác nhau trong hầu hết các
môn học. Tuy nhiên, khi giảng dạy, các giảng viên thƣờng tiếp cận nó thuần túy
nhƣ là một nội dung của môn học mà không tiếp cận nó ở góc độ quyền con
ngƣời. Thêm vào đó, có thể thấy những hạn chế trong hoạt động giáo dục nhân
quyền ở các nhà trƣờng phổ thông lặp lại ở cấp độ giáo dục đại học, đó là các
vấn đề liên quan đến trình độ của đội ngũ giảng viên, phƣơng pháp giảng dạy và
tài liệu tham khảo, tuy những tồn tại đó ít nhiều có những điểm khác nhau. Đơn
57
cử về vấn đề tài liệu, trong số các cơ sở đào tạo đại học có giảng dạy về quyền
con ngƣời, hiện chỉ có vài cơ sở có một số lƣợng tài liệu tham khảo hạn chế về
lĩnh vực này.
Đến nay Việt Nam đã phê chuẩn hoặc gia nhập hầu hết các công ƣớc quốc
tê cơ bản về quyền con ngƣời sau khi trở thành thành viên Liên hợp quốc năm
1977 do Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thông qua, trong đó có nhiều điều ƣớc
quan trọng nhƣ: Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự - chính trị (tại Hội đồng
Liên Hợp Quốc phê chuẩn ngày 16/12/1966, Việt Nam gia nhập ngày
24/5/1982); công ƣớc quốc tế về các quyền kinh tế - xã hội - văn hóa (Đại hội
đồng Liên Hợp Quốc phê chuẩn ngày 16/12/1966, Việt Nam gia nhập ngày
24/9/1982). Công ƣớc quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử những
phụ nữ (tại Hội đồng Liên Hợp Quốc phê chuẩn ngày 18/2/1979. Việt Nam phê
chuẩn ngày 19/3/1982); công ƣớc về quyền tr em, Việt Nam phê chuẩn ngày
20/2/1990). Tuy nhiên, đến nay trong thực tế Việt Nam mới chỉ tập trung giáo
dục, tuyên truyền, phổ biến đối với hai công ƣớc là: "Công ƣớc quốc tế về xóa
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ" (công ƣớc CEDAW) và Công
ƣớc Liên Hợp Quốc về quyền tr em (công ƣớc CRC). Nhƣng ngay cả trong
giáo dục quyền phụ nữ, quyền tr em dù đã có rất nhiều cố gắng nhƣ vậy, thì
vẫn còn những tồn tại. Chẳng hạn, việc giáo dục quyền phụ nữ mới chủ yếu
dừng lại ở cán bộ làm công tác quản lý, hội đoàn và một số vùng có điều kiện
thuận lợi, mà chƣa đƣợc thực hiện sâu rộng trong toàn thể xã hội, nhất là đối với
phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa và phụ nữ dân tộc thiểu số. Việc tuyên truyền, giáo
dục, chủ yếu đƣợc thực hiện theo từng đợt, thiếu tính thƣờng xuyên, liên tục.
Việc giáo dục quyền phụ nữ, thực chất mới chủ yếu dừng lại ở cán bộ làm
công tác quản lý, hội đoàn và một số vùng có điều kiện thuận lợi mà chƣa đƣợc
thực hiện sâu rộng trong toàn thể xã hội nhất là đối với phụ nữ ở vùng sâu, vùng
xa và phụ nữ dân tộc thiểu số. Và mới chỉ thực hiện tùng đợt, theo dự án mà
không đƣợc tổ chức thƣờng xuyên, liên tục.
*Hạn chế về các phương thức và đối tượng trong giáo dục quyền con
người
58
Hệ thống thông tin đại chúng, mặc dù là phƣơng tiện chủ lực trong hoạt
động giáo dục quyền phụ nữ, quyền tr em, nhƣng còn rất thụ động, chủ yếu chỉ
hoạt động dựa trên các kế hoạch dự án đã đƣợc phê duyệt, đƣợc hỗ trợ về tài
chính. Chƣa chủ động thực hiện hoạt động này mang tính tích cực, thƣờng
xuyên, liên tục, chƣa coi đây là nhiệm vụ của mình. Việc giáo dục quyền và bổn
phận của tr em Việt Nam mới chỉ đƣợc thực hiện mang tính thử nghiệm ở một
bộ phận tr em, học sinh ở tiểu học, trung học cơ sở (cấp 1 - 2). Một số địa
phƣơng có điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện. Còn đa số tr em, nhất
là tr em ở các vùng sâu, vùng xa, tr em dân tộc thiểu số vẫn chƣa đƣợc quan
tâm thực hiện thƣờng xuyên. Việc giáo dục quyền phụ nữ, thực chất mới chủ
yếu dừng lại ở cán bộ làm công tác quản lý, hội đoàn và một số vùng có điều
kiện thuận lợi mà chƣa đƣợc thực hiện sâu rộng trong toàn thể xã hội nhất là đối
với phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa và phụ nữ dân tộc thiểu số. Và mới chỉ thực
hiện tùng đợt, theo dự án mà không đƣợc tổ chức thƣờng xuyên, liên tục. Việt
Nam có 54 dân tộc thiểu số, trong đó có nhiều dân tộc thiểu số (trên 20 dân tộc)
có tiếng nói, chữ viết riêng; nhƣng đến nay công ƣớc Liên Hợp Quốc về quyền
tr em mới chỉ đƣợc dịch sang tiếng phổ thông và 4 tiếng dân tộc (Thái, H'mông,
Êđê, Bana). Điều này s rất hạn chế việc thực hiện giáo dục quyền tr em trong
dân tộc thiểu số. - ở một số cơ quan chức năng, một bộ phận cán bộ còn mang
nặng ý thức ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ kinh phí từ bên ngoài, hoặc chỉ tiến
hành thực hiện hoạt động giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân khi có kinh
phí, khi có dự án, hoặc khi có điều kiện thuận lợi. Các dự án giáo dục quyền phụ
nữ, quyền tr em gần nhƣ phụ thuộc hoàn toàn vào sự trợ giúp của các tổ chức
Liên Hợp Quốc, tổ chức phi chính phủ cả về kỹ thuật, phƣơng pháp, tài liệu và
tài chính, mà không có sự chủ động từ phía Nhà nƣớc và các cơ quan chức năng
có liên quan.
Hoạt động giáo dục quyền con ngƣời ở nƣớc ta trong thời gian qua mặc
dù mới chỉ tập trung giáo dục quyền phụ nữ, quyền tr em nhƣng đã đòi hỏi phải
đầu tƣ một số lƣợng tài chính thích ứng, tuy nhiên số tiền ngân sách nhà nƣớc
dành cho hoạt động này rất hạn chế, chủ yếu trông chờ vào sự trợ giúp của các
59
tổ chức quốc tế, tổ chức phái chính phủ. Do đó làm cho hoạt động giáo dục này
không những hạn chế về kết quả mà còn mang tính thụ động, phụ thuộc.
2.2: Những quan điểm chung và giải pháp về giáo dục quyền con người,
quyền công dân ở nước ta hiện nay
2.2.1: Những quan điểm của Đảng - Nhà nước ta về giáo dục quyền con người,
quyền công dân
Đảng và Nhà nƣớc ta khẳng định quyền con ngƣời là thành quả và khát
vọng chung của nhân loại. Đảng chỉ rõ: “Quyền con ngƣời là thành quả của cuộc
đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp
bức trên thế giới và cũng là cuộc đấu tranh của loài ngƣời làm chủ thiên nhiên,
qua đó, quyền con ngƣời trở thành giá trị chung của nhân loại”. Vì vậy, Đảng và
Nhà nƣớc ta thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ những giá trị cao quý về quyền con
ngƣời đƣợc thế giới thừa nhận rộng rãi. Đảng chỉ đạo “ Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nƣớc, tiếp thu
những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi
ích chân chính về phẩm giá con ngƣời” [15, tr.120].
Vấn đề quyền con ngƣời, quyền công dân và thực hiện giáo dục quyền
con ngƣời, quyền công dân ở Việt Nam hiện nay đang ngày càng trở nên bức
thiết bởi giá trị to lớn của nó đối với việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền, cải
cách bộ máy hành chính và cải cách tƣ pháp, hội nhập quốc tế, khu vực và quan
trọng hơn hết là đảm bảo cho việc thực hiện quyền làm chủ thực sự của nhân
dân đối với quyền lực nhà nƣớc. Trong những điều kiện đó giáo dục quyền con
ngƣời, quyền công dân cần quán triệt những quan điểm cụ thể dƣới đây của
Đảng và Nhà nƣớc ta:
Việc giáo dục quyền con ngƣời - quyền công dân phải dựa trên cơ sở lý
luận và quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề quyền con ngƣời, quyền công dân.
Giáo dục quyền con ngƣời công dân phải gắn bó với mở rộng dân chủ,
tuyên truyền cái đúng, đấu tranh phê phán những quan điểm và nhận thức sai
trái. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trƣơng phải tăng cƣờng thực hiện giáo dục
60
quyền con ngƣời, quyền công dân ở nƣớc ta: "Trƣớc mắt, thực hiện tốt các quy
chế dân chủ ở cơ sở, mở rộng dân chủ ở các cấp; tăng cƣờng tuyên truyền giáo
dục các quan điểm đúng đắn, phê phán các quan điểm sai lầm, những nhận thức
mơ hồ về dân chủ và nhân quyền" [49, tr. 2].
Nội dung giáo dục quyền con ngƣời phải bao gồm những quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và các quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc ta về
vấn đề quyền con ngƣời, nội dung những quyền đã đƣợc thể chế hóa từ Hiến
pháp 1992 đến nay và trong các văn bản pháp luật.
Đối tƣợng, phạm vi giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân: Việc giáo
dục quyền con ngƣời, quyền công dân phải đƣợc thực hiện trên phạm vi cả
nƣớc, cho mọi đối tƣợng, cho mọi công dân, trong đó đặc biệt chú ý đến các đối
tƣợng dễ bị tổn thƣơng trong xã hội nhƣ phụ nữ, tr em, dân tộc thiểu số số ở
vùng sâu, vùng xa.
Về hình thức, phƣơng pháp: Việc giáo dục quyền con ngƣời, quyền công
dân phải đƣợc thực hiện đồng thời bằng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau,
phải kết hợp giữa trong nhà trƣờng và bên ngoài xã hội, giữa các cơ quan chức
năng với các phƣơng tiện thông tin đại chúng.
2.2.2: Giải pháp tăng cường giáo dục quyền con người quyền công dân ở nước
ta hiện nay
Giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân là cần thiết để xây dựng thành
công nhà nƣớc pháp quyền, và thực hiện thắng lợi nền kinh tế thị trƣờng theo
định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Để tăng cƣờng hoạt động giáo dục
quyền con ngƣời, quyền công dân và để hoạt động này đạt hiệu quả cao trong
thời gian tới, tôi xin nêu một số giải pháp cơ bản, cụ thể sau:
Một là, biên soạn giáo trình, sách và tài liệu giáo dục cho từng nhóm đối
tƣợng giáo dục cụ thể. Hiện nay, chúng ta chƣa có giáo trình chung, thống nhất;
chƣa có đầy đủ tài liệu cho việc giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân theo
từng nhóm đối tƣợng. Vì thế, rất cần phải xây dựng các tài liệu giáo dục quyền
con ngƣời, quyền công dân cho từng nhóm chủ thể, từng nhóm đối tƣợng giáo
dục cụ thể, trên cơ sở tính hệ thống, tính liên thông của tài liệu và đảm bảo gắn
61
kết cả nội dung giáo dục quyền con ngƣời và nội dung giáo dục quyền công dân.
Cụ thể nhƣ: Hệ thống giáo trình, tài liệu giáo dục quyền con ngƣời, quyền công
dân cho tr em; Hệ thống giáo trình, tài liệu giáo dục quyền con ngƣời, quyền
công dân cho ngƣời lớn; Hệ thống giáo trình, tài liệu giáo dục quyền con ngƣời,
quyền công dân cho đối tƣợng là học sinh, sinh viên trong hệ thống giáo dục -
đào tạo quốc gia; Hệ thống giáo trình, tài liệu giáo dục quyền con ngƣời, quyền
công dân cho công chúng ở thành thị, ở nông thôn, ở vùng sâu vùng xa, dân tộc
ít ngƣời; Hệ thống giáo trình, tài liệu cho công chúng là tín đồ các tôn giáo; Hệ
thống giáo trình, tài liệu cho cán bộ, công chức nhà nƣớc nói chung và cho đối
tƣợng chuyên biệt nhƣ công an, luật sƣ, thẩm phán, công tố viên, phạm nhân,
ngƣời dân tộc thiểu số v.v...
Hai là, đƣa chƣơng trình giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân vào
hệ thống giáo dục nhà nƣớc. Việc này vừa đảm bảo tính thống nhất, tính liên
thông của chƣơng trình, vừa đảm bảo tính chủ động, thƣờng xuyên, liên tục,
rộng khắp trong cả nƣớc, tránh tình trạng phụ thuộc vào các dự án, nguồn tài
chính..., đồng thời đảm bảo trách nhiệm của cả chủ thể và đối tƣợng tham gia
hoạt động giáo dục này. Khi đƣa dạng giáo dục này vào giảng dạy chính thức,
nội dung của nó có thể đƣợc lồng ghép, tích hợp trong nội dung giảng dạy của
các môn học khác có liên quan nhƣ giáo dục đạo đức, giáo dục công dân, giáo
dục chính trị tƣ tƣởng, giáo dục pháp luật...Chẳng hạn, có thể xem xét, tổ chức
lại thời gian và nội dung môn học Giáo dục công dân, chuyển thành bộ môn
Giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân. Đƣa môn học này vào chƣơng trình
chính khóa từ cấp tiểu học đến cấp trung học phổ thông; hệ đại học. Đƣa môn
học quyền con ngƣời vào một số trƣờng đại học có các bậc hệ đào tạo chuyên và
không chuyên luật.
Ba là, xác định đúng đắn các hình thức, phƣơng pháp giáo dục phù hợp
với từng đối tƣợng giáo dục. Các đối tƣợng giáo dục quyền con ngƣời, quyền
công dân ở Việt Nam rất đa dạng, mỗi đối tƣợng có những điều kiện, khả năng
khác nhau để tham gia, tiếp nhận nội dung của dạng giáo dục này. Do đó, theo
chúng tôi mỗi nhóm đối tƣợng giáo dục cụ thể chúng ta cần thiết phải xây dựng
62
một hình thức, phƣơng pháp giáo dục riêng, thích hợp với điều kiện, khả năng
của họ. Hình thức, phƣơng pháp này phải đảm bảo truyền tải nội dung giáo dục
đã đƣợc xây dựng riêng cho từng đối tƣợng, một cách sinh động, dễ hiểu, dễ
nhớ, dễ áp dụng ngay vào thực tiễn cuộc sống. Nhƣ đối với dân tộc thiểu số,
chúng ta cố gắng dịch nội dung giáo dục sang tiếng của họ. Dân tộc nào có chữ
viết thì thực hiện cả dịch viết và dịch nói, dân tộc nào không có chữ viết thì diễn
giải nội dung giáo dục bằng chính ngôn ngữ của họ. Đội ngũ tuyên truyền, giáo
dục cho dân tộc thiểu số là chính những già làng, trƣởng bản, những ngƣời dân
tộc có trình độ học vấn đã đƣợc đào tạo trở thành cốt cán. Hình thức giáo dục có
thể thông qua các hoạt động văn hóa của làng, xã, bằng tranh ảnh, panô, áp
phích, tờ rơi, đài truyền thanh, đài phát thanh truyền hình, phim và các loại hình
nghệ thuật khác. Đối với ngƣời mù chữ, thất học, tr em lang thang, lại cần tăng
cƣờng tuyên truyền giáo dục qua các hình thức tranh ảnh, tờ rơi, phƣơng tiện
phát thanh, truyền hình... ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa điều kiện đi
lại khó khăn, ít có điều kiện thực hiện hoạt động tuyên truyền, giáo dục mang
tính tập trung. Chúng ta có thể in ấn tài liệu, tranh ảnh, tờ rơi có hình thức đẹp,
dễ hiểu và giao cho các tổ chức đoàn thể quần chúng, chính quyền địa phƣơng
phát cho từng hộ gia đình để họ bƣớc đầu có điều kiện tiếp cận, làm quen với
nội dung giáo dục.
Bốn là, đào tạo đội ngũ cốt cán, giáo viên chuyên trách. Đây là điều kiện
bắt buộc để có thể đƣa nội dung giáo dục về quyền con ngƣời vào giảng dạy
chính thức trong hệ thống giáo dục. Giáo dục quyền con ngƣời là một dạng giáo
dục đặc thù, chủ thể giáo dục không nhất thiết phải có trình độ chuyên môn,
chuyên ngành cao nhƣ giáo dục chính trị, tƣ tƣởng; giáo dục pháp luật. Đội ngũ
giáo viên này phải đƣợc đào tạo ở tất cả các cấp, các hệ thống trƣờng học trong
hệ thống giáo dục nhà nƣớc. Giáo dục về quyền con ngƣời có mối quan hệ mật
thiết với giáo dục chính trị, tƣ tƣởng, giáo dục pháp luật, do đó, về chiến lƣợc có
thể đào tạo đội ngũ giáo viên chuyên trách từ nguồn sinh viên tốt nghiệp các
trƣờng luật, chính trị.
63
Năm là, tăng cƣờng hoạt động thông tin, tuyên truyền trên các phƣơng
tiện thông tin đại chúng. Để hỗ trợ cho các hình thức, phƣơng pháp giáo dục,
cần tăng cƣờng đầu tƣ, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tuyên truyền, thông tin về
quyền con ngƣời, quyền công dân trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng. Nhà
nƣớc cần có chính sách đầu tƣ nguồn lực, kỹ thuật thích hợp cho các cơ quan
thông tin tuyên truyền, đặc biệt là các cơ quan phát thanh, truyền hình, báo chí
để các cơ quan này có điều kiện thuận lợi thực hiện hoạt động của mình. Đồng
thời, các cơ quan thông tin đại chúng cần coi hoạt động tuyên truyền, giáo dục
quyền con ngƣời là trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, từ đó xây dựng các chuyên
mục, chƣơng trình thƣờng xuyên, liên tục và rộng khắp cho hoạt động này.
Sáu là, bảo đảm các điều kiện kinh phí, vật chất phục vụ hoạt động giáo
dục quyền con ngƣời quyền công dân. Thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều cố
gắng trong thực hiện giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân. Tuy nhiên,
hoạt động này còn mang tính thụ động, phụ thuộc và kết quả chƣa cao. Điều này
có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhƣng trong đó có một nguyên nhân
quan trọng là nguồn ngân sách nhà nƣớc dành cho hoạt động này còn rất hạn
chế. Để tạo ra đƣợc nguồn lực cần thiết đáp ứng đƣợc yêu cầu, nhiệm vụ của
hoạt động giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân trong thời gian tới, hằng
năm, Nhà nƣớc cần có kế hoạch phân bổ một khoản kinh phí thích ứng cho hoạt
động tuyên truyền giáo dục, hội thảo khoa học về quyền con ngƣời.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Giáo dục quyền con ngƣời hiện vẫn là một vấn đề còn mới m đối với nền
giáo dục quốc dân của Việt Nam nói chung, với bậc giáo dục đại học ở Việt
Nam nói riêng do đó trong thực tiễn thực hiện còn nhiều hạn chế do các nguyên
nhân khác nhau nên cần thiết phải có những nghiên cứu chuyên sâu trong lĩnh
vực này để đề ra những phƣơng hƣớng, biện pháp thực sự hữu ích góp phần thúc
đẩy sự phát triển của nền giáo dục nhân quyền ở nƣớc ta. Khóa luận đã bƣớc đầu
làm sáng tỏ nhận thức về vấn đề giáo dục quyền con ngƣời, nhận thức về sự
thiết yếu trong nhu cầu đào tạo, giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam, nhận
thức về thực trạng giáo dục quyền con ngƣời còn nhiều yếu kém trong thực tiễn
64
và nguyên nhân dẫn đến thực trạng này để từ đó đề ra các biện pháp khắc phục
mang tính thiết thực nhất.
Hoạt động giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam mới bƣớc đầu nhận
đƣợc sự quan tâm từ phía Đảng và Nhà nƣớc cũng nhƣ nhà trƣờng, giảng viên
và sinh viên trong khi các nguồn lực để đẩy mạnh hoạt động này còn nhiều hạn
chế nên cần thiết phải có sự nỗ lực từ nhiều phía để khắc phục những hạn chế,
tồn đọng trong thực tiến thực hiện công tác giáo dục quyền con ngƣời ở nƣớc ta
đồng thời tạo dựng các điều kiện vật chất cần thiết cho sự phát triển của hoạt
động giáo dục quyền con ngƣời nhằm hƣớng tới mục tiêu xây dựng một nền
văn hóa nhân quyền trong thế hệ tri thức tr của Việt Nam tƣơng xứng với nền
văn hóa nhân quyền toàn cầu. Đây là thách thức đối với Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay khi điều kiện kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên
nó cũng là một trong những phƣơng hƣớng phát triển quan trọng của nƣớc ta
trong tiến trình xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập
kinh tế quốc tế. Do đó, vấn đề giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam đã, đang
và s trở thành vấn đề trọng tâm trong mục tiêu giáo dục của nƣớc ta và ngày
càng nhận đƣợc sự quan tâm thích đáng từ mọi phía.
65
KẾT LUẬN
Quyền con ngƣời là sự kết tinh của những giá trị văn hóa, của tất cả các
dân tộc trên thế giới, là mối quan tâm đặc biệt và là mục tiêu hành động hàng
đầu của Liên hợp quốc. Xét đến cùng mọi mâu thuẫn, xung đột, mọi vi phạm
pháp luật trong xã hội đều xuất phát từ việc không tôn trọng quyền con ngƣời.
Tôn trọng quyền con ngƣời, có cơ chế bảo đảm quyền con ngƣời chính là cơ sở
pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền vững của xã hội, của đất nƣớc. Hiểu
biết và chỉ có sự hiểu biết về quyền con ngƣời mới mang lại cho con ngƣời tự do
và hạnh phúc bởi l chỉ khi hiểu biết về quyền con ngƣời thì mỗi ngƣời mới có
khả năng tự thực hiện và bảo vệ những quyền của mình đồng thời có đủ hiểu
biết để tôn trọng quyền của ngƣời khác. Trong bối cảnh Việt Nam xây dựng nhà
nƣớc pháp quyền, Việt Nam cũng phải thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế,
phải thƣờng xuyên chú trọng giáo dục quyền con ngƣời. Mặt khác, thực tế hiện
nay ở Việt Nam vẫn còn có những thành phần phản động xuyên tạc, kích động
cho rằng Việt Nam vi phạm nhân quyền thì việc giáo dục quyền con ngƣời càng
có tầm đặc biệt quan trọng. Giáo dục quyền con ngƣời với tƣ cách là một bộ
phận của giáo dục pháp luật hiện nay đang đƣợc các trƣờng quan tâm, đặc biệt
đặt trong bối cảnh đổi mới căn bản toàn diện giáo dục thì giáo dục quyền con
ngƣời càng cần đƣợc coi trọng. Đổi mới giáo dục thiết nghĩ phải đổi mới rất
nhiều: Từ nội dung, chƣơng trình, sách giáo khoa, tƣ duy,.. cho đến việc đổi mới
việc đào tạo các cán bộ quản lý giáo dục bởi l nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục là những ngƣời đóng vai trò quyết định đến sự thành bại trong giáo dục.
Giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng, có ý
nghĩa chiến lƣợc đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo thế hệ tr ; đối với sự
nghiệp xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa; là cơ sở để quần chúng
nhân dân hình thành nhận thức đúng đắn về quyền con ngƣời, củng cố niềm tin
của quần chúng đối với Đảng, Nhà nƣớc; chống lại những hoạt động lợi dụng
chiêu bài "nhân quyền" của một số nƣớc phƣơng Tây và các thế lực phản động,
thù địch chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Giáo dục quyền con ngƣời là một quá trình lâu dài, liên tục. Đòi hỏi phải
có sự tập trung chỉ đạo, tập trung quản lý, điều phối các quan hệ, hoạt động. Đòi
66
hỏi phải tiến hành từng bƣớc, không chủ quan, nóng vội, hình thức. Phải thực
hiện toàn diện cả giáo dục quyền con ngƣời và quyền công dân, phải đƣợc thực
hiện cho mọi đối tƣợng trong đó cần tập trung ƣu tiên đối với các đối tƣợng
thanh thiếu niên, nhi đồng, phụ nữ, dân tộc ít ngƣời. Phải nghiên cứu tìm tòi
tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện. Kết hợp hài hòa giữa mục
tiêu ổn định lau dài với các nhiệm vụ cụ thể trƣớc mắt, trong đó không loại trừ
việc thử nghiệm thông qua các "dự án", các "điểm chỉ đạo", và qua các hoạt
động hội nghị, hội thảo ngoài kế hoạch định trƣớc.
Giáo dục quyền con ngƣời cần thiết phải đƣa vào hệ thống giáo dục và
đào tạo nhà nƣớc và là chƣơng trình đào tạo chính khóa nhƣ một môn khoa học
độc lập thuộc lĩnh vực khoa học xã hội. Môn học này có quan hệ khăng khít và
có thể lồng ghép trong nội dung giáo dục chính trị, giáo dục pháp luật, giáo dục
văn hóa... có cùng mục đích hình thành nhân cách và ý thức công dân cho học
sinh, sinh viên, các đối tƣợng.
Kinh nghiệm của nhiều nƣớc trên thế giới cho thấy, các vấn đề về nguồn
nhân, vật lực, kiến thức, kinh nghiệm và tài liệu là quan trọng nhƣng nhận thức
về vai trò và ý nghĩa của giáo dục nhân quyền của các nhà hoạch định chính
sách và của toàn thể công chúng trong xã hội mới là yếu tố có tính chất quyết
định đến việc thúc đẩy hoạt động trên lĩnh vực này. Một khi có nhận thức phù
hợp và quyết tâm chính trị cao trong việc thúc đẩy hoạt động giáo dục nhân
quyền, các vấn đề còn lại s đƣợc giải quyết một cách tốt đẹp và nhanh
chóng. Bởi vậy, để tiếp tục đẩy mạnh hoạt động giáo dục nhân quyền ở Việt
Nam, trƣớc hết, các nhà hoạch định chính sách của quốc gia cần nhận thức rõ
hơn về vai trò của giáo dục nhân quyền, các yêu cầu và ý nghĩa của hoạt động
này với sự phát triển của đất nƣớc trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa.
Đây là hoạt động mang tính rộng lớn, lâu dài, phức tạp và nhạy cảm vì
vậy cần thiết phải có hệ thống văn bản pháp luật quy định về tổ chức thực hiện
dạy giáo dục này và cần có một cơ quan quản lý duy nhất nhằm đảm bảo sự chỉ
đạo, quản lý tổ chức thực hiện, tiếp nhận điều phối các quan hệ quốc tế tập
trung, thống nhất.
67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đậu Đức Anh, (2004), Sự kế thừa và phát triển tư tưởng quyền con người,
quyền dân tộc trong “Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Luận văn
thạc sĩ, Khoa Lịch sử - Đại học Vinh.
2. Nguyễn Trọng An (2001), Báo cáo tham luận của ủy ban bảo vệ và chăm sóc
trẻ em Việt Nam tại hội thảo "Thành tựu về quyền con ngƣời của Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới".
3. Nguyễn Thị Báo (2008), “Một số vấn đề về giáo dục quyền con ngƣời ở Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, 23 (167), tr.2.
4. Lê Văn Bính (chủ trì) (2015), “Việt Nam với cơ chế bảo vệ quyền con người
của Liên hợp quốc”, Đề tài NCKH, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Bình (2000), "Chúng ta luôn phấn đấu vì quyền con ngƣời",
Thông tin quyền con người (1).
6. Benedek W. (2008), Tìm hiểu về quyền con người, Hà Nội: Nxb.Tƣ pháp. tr.
30.
7. Báo cáo tháng 2 năm 2001 của Trung tâm nghiên cứu quyền con người về
thành tích về công tác giáo dục, tuyên truyền và phổ biến luật năm 2000.
8. Báo cáo năm 2001 của ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam -
UNICEF về kết quả hoạt động dự án trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt năm 2000
và1996 - 2000.
9. Báo cáo nhanh của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh về hoạt
động dự án "Tháng giáo dục quyền trẻ em" bổ sung năm 1999.
10. Báo cáo ngày 12/10/2000 của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí
Minh về tổng kết hoạt động dự án "Tháng giáo dục quyền trẻ em" dành cho trẻ
em theo học các lớp linh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh năm học 1999 - 2000,
13
11. Báo cáo tháng 9/1992 của ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam về
hai năm thực hiện công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em, 1992.
12. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo dục công dân 6, Giáo dục công dân 7, Giáo
dục công dân 8, Giáo dục công dân 9, Nhà xuất bản Giáo dục, 2007.
68
13. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2007), Vấn đề nhân quyền, Tài liệu tuyên truyền,
http://www.mofa.gov.vn.
14. Hoàng Công, (1996), Quyền con ngƣời – Nhìn từ góc độ Triết học, Tạp chí
Triết học, số 3, Trang 41 – 44.
15.Cương lĩnh Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc
gia 1998. tr120
16. Nguyễn Đăng Dung, Phỏng vấn đăng trên trang 5, Báo Pháp luật Việt Nam
số 557(3.665) ngày 26/10/2008.
17. Nguyễn Bá Diến (1993), “Về quyền con người - trong tập chuyên khảo
"quyền con người, quyền công dân", Tập 1, Trung tâm nghiên cứu quyền con
ngƣời - Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr. 30 - 56.
18. Dự thảo chương trình hành động quốc gia về trẻ em năm 1991 - 2000,
UBBV và CSTE Việt Nam.
19. Đại từ điển tiếng Việt (1999), Viện ngôn ngữ, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà
Nội.
20. Nguyễn Ngọc Điện, Quyền chủ thể, đặc quyền và quyền ƣu tiên, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 4/2005.
21. Trần Ngọc Đƣờng (1999), Lý luận chung về Nhà nƣớc và pháp luật, tập 1, 2,
3, Nxb CTQG, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội.
24. Vũ Công Giao (2001), Cơ chế của Liên Hợp Quốc về nhân quyền, Luận án
thạc sĩ Luật học.
25. Hoàng Văn Hảo, (19980 Chính sách cơ bản của Đảng - Nhà nước Việt Nam
về quyền con người, quyền công dân.trong tập bài giảng lý luận về quyền con
người, TTNCQCN,HVCTQGHCM,Hà nội.
26. Hoàng Văn Hảo - Chu Hồng Thanh (1997), Một số vấn đề về quyền dân sự
và chính trị, Nxb CTQG, Hà Nội.
69
27. Phạm Khiêm ích -Hoàng Văn Hảo (1995), Quyền con người trong thế giới
hiện đại, đề tài KX 07-16, Viện TTKHXH, TTNCQCN, Hà Nội.
28. Lang Nghị Hoài (2002), "Thực tế quyền con ngƣời trong chủ nghĩa xã hội và
cuộc đấu tranh vì quyền con ngƣời trên thế giới", trong Quyền con ngƣời ở
Trung Quốc và Việt Nam, (truyền thống, lý luận và thực tiễn), (Trung tâm
Nghiên cứu quyền con ngƣời và Hội Nghiên cứu nhân quyền Trung Quốc chủ
biên), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.229-241.
29. Trần Duy Hƣơng (2008). Quyền con ngƣời và thực hiện quyền con ngƣời
trong điều kiện hiện nay. Tạp chí cộng sản (24), 32-35.
30. HOFMANNR (1995), Bảo vệ quyền con người và Hiến pháp CHLB Đức
trong quyền con người trong thế giới hiện đại đề tài KX 07 - 16, Viện TTKHXH
- TTNCQCN, Hà Nội.
31. Học viện CTQG Hồ Chí Minh (1993), Tập bài giảng lý luận về quyền con
người, Nxb Sự thật, Hà Nội
32. Kofi Annan (4/1999), Thông điệp của Tổng thư ký Liên Hợp Quốc nhân
ngày nhân quyền, trong quyền trẻ em tạo lập một nền văn hóa nhân quyền, Học
viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
33. Đỗ Minh Khôi (2011), “Giảng dạy và nghiên cứu về pháp luật quyền con
người tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh”, Giáo dục quyền con
người, Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Khoa học xã hội.
34. Kế hoạch hành động của Thập kỷ Liên hiệp quốc về giáo dục quyền con
người (1995 - 2004), Đoạn 2.
35. Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm
2000, UBQH vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.
36.Nguyễn Hữu Lệ (1995), Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền, Luận án
chuẩn hóa trình độ thạc sĩ, Hà Nội.
37. Lênin (1976), "Bàn về sự lẫn lộn chính trị", Trong sách C.Mác -
Ph.Ăngghen - Lênin - Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
38. Lênin (1976), "Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên", Trong sách C.Mác -
Ph.Ăngghen - Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
70
39. Lênin (1976), "Diễn văn tại Hội nghị các ban giáo dục chính trị toàn Nga"
Trong sách C.Mác - Ph.Ăngghen - Lênin - Xtalin, Bàn về giáo dục, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
40. Lênin V.I. (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
41. Nguyễn Văn Mạnh (1995), Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp lý thực
hiện quyền con người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến
sĩ Luật học, Hà Nội.
42. Jacques Mourgon (1995), Quyền con người, Nxb Đại học Pháp, Hà Nội.
43. Phạm Bình Minh, (2010), Đối thoại của Việt Nam với các nước về dân chủ,
nhân quyền, Tạp chí Lý luận chính trị số 7, Công bố lại trên tạp chí Cộng sản
điện tử ngày 14/8/2010.
44. Hồ Chí Minh (1970), "Di chúc", Trong sách Hồ Chí Minh bàn về công tác
giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Hồ Chí Minh (1970), "Nói chuyện với các cháu thiếu nhi Việt Nam đêm
trung thu thứ nhất nƣớc Việt Nam DCCH", Trong sách Hồ Chí Minh bàn về
công tác giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
46. "Hồ Chí Minh (1970) nói chuyện tại buổi lễ khai mạc trƣờng Đại học nhân
dân Việt Nam", Trong sách Hồ Chí Minh bàn về công tác giáo dục, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
47. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
48. Đỗ Mƣời (1992), Sửa đổi Hiến pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội.
49. Lê Hữu Nghĩa, Bảo vệ và phát triển quyền con người bản chất của chế độ ta,
Thông tin quyền và bổn phận của trẻ em ở Việt Nam, Viện NCKHGD - UBBV
và CSTE Việt Nam, Radd Barnen từ 9/10 - 3/11/2000.
50. Tạ Quang Ngọc, (2004), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nội luận hóa
các công ước quốc tế về quyền con người ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ
đại học Luật Hà Nội.
51. Nalin Swaris (2000), Đạo luật nhân quyền và sự tái sinh xã hội, Nxb Asian.
71
52. Lê Khả Phiêu (2000), "Bảo vệ và phát triển quyền con người lý tưởng phấn
đấu của người cộng sản", Thông tin quyền con người, (1). Trung tâm Nghiên
cứu quyền con ngƣời, Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
53. C.Mác - Ph.Ăngghen (1998), Về quyền con người, Nxb CTQG, Hà Nội.
54. C.Mác - Ph.Ăngghen (1976), "Chỉ thị về một số vấn đề gửi BCH Trung ương
lâm thời", trong sách C.Mác - Ph.Ăngghen - Lênin - Xtalin bàn về giáo dục,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
55. C.Mác - Ph.Ăngghen (1976), "Phê phán cương lĩnh Gota", Trong sách
C.Mác - Ph.Ăngghen - Lênin - Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
56. C.Mác - Ph.Ăngghen (1976), "Điếu văn trước mộ Mác", Trong sách C.Mác
- Ph.Ăngghen - Lênin -Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
57. C.Mác - Ph.Ăngghen (1976), "Chống Đuy-rinh", trong sách C.Mác -
Ph.Ăngghen - Lênin - Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
58. C.Mác - Ph.Ăngghen (1976), "Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư bản và
của Nhà nước", Trong sách C.Mác - Ph.Ăngghen - Lênin - Xtalin bàn về giáo
dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
59. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
60. C.Mác - Ph.Ăngghen (1986), Toàn tập, tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.
61. C.Mác – Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.
62. Mác – Ăngghen (1996), Toàn tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.
63. Quyền con người và sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, (1991), Học viện
Nguyễn ái Quốc.
64. Quyền con người, (1995), Trung tâm Nghiên cứu quyền con ngƣời, Hà Nội.
65. Quyền trẻ em, (6/2000), Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
66. Fean -Facques - Roussrau (1992), Bàn về khế ước xã hội, Nxb thành phố Hồ
Chí Minh.
67. Hoàng Nam Sâm (2002), "Khái niệm quyền con người trong truyền thống
văn hóa Trung Quốc", trong Quyền con ngƣời ở Trung Quốc và Việt Nam,
(truyền thống, lý luận và thực tiễn (Trung tâm Nghiên cứu quyền con ngƣời và
72
Hội Nghiên cứu nhân quyền Trung Quốc), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, tr.40-48.
68. Chu Hồng Thanh (1997), Quyền con người và luật quốc tế về quyền con
người, Nxb CTQG, Hà Nội.
69. Tài liệu phục vụ tọa đàm (2000), Một số bài viết về quyền con người của các
tác giả Việt Nam, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
70. Tài liệu tham khảo nội bộ (1998), Tập bài giảng lý luận về quyền con người,
Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội. 91.
71. Tài liệu phục vụ tọa đàm (2000), Một số bài viết về quyền con người của các
tác giả Việt Nam, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
72. Tập chuyên khảo (1990), CNXH và quyền con người, Đề tài khoa học "Nhân
quyền", Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà Nội.
73. "Tuyên ngôn độc lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 1776" (2000), Văn kiện quốc
tế về quyền con ngƣời, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
74. "Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp 1789" (2000), Văn kiện
quốc tế về quyền con ngƣời, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
75. Tăng cường lãnh đạo công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em,
(8/1998), UBBV và CSTE Việt Nam, Nha Trang.
76. Văn kiện quốc tế về quyền con người, (2000), TTNCQCN VTTKH Học viện
CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
77. Viện Nghiên cứu quyền con ngƣời (2010), Giáo trình lý luận về quyền con
người, Nxb Lý luận Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
Tài liệu tiếng anh
78. Adam B. Selligman (1995), The ideal of civil society, Princeton University
Press tr. 21.
79. Hobbes (1999), Levithan, chương XIV, Nxb. Urier.
80. Emmanuel Kant, Nền tảng siêu hình của các tập quán (1785) bản tiếng
Pháp, Tuyển tập các tác phẩm triết học, Nxb. de la Pleiade, tập 2, 1984.
81. Emmanuel Kant, Phê phán lý tính thực hành (1788), bản dịch tiếng Pháp của
Luc Ferry và Heinz Wisman, Tác phẩm, tập II.
73
82. Leo Strauss (1954), Droit naturel et histoire, Nxb. Flammarion, tr, 165-167.
83. Suart Hampsphire (2005), Spinoza and Spinozm, Nxb. Clarendon Press,
Oxford.
84. Seligman, Adam B , “The Idea of Civil Society”, Princeton University Press,
tr.17
85. Simone Goyard-Fabre (1975), Le droit et la loi dans la philosophie de
Hobbes, Nxb. Klinchsieck.
86. Tractatus politicus, Chương XX, tr. 897-899.
87. Raymond Polin (1953), politique et philosophie chez Thomas Hobbes, Nxb.
PUF.
88. JJ. Rousseau, Du contrat social, chương II, tập III, p. 288. Bài viết về Abbe
de St Piere, tập III.