ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA TRIẾT HỌC

***

NGUYỄN HẢI YẾN

QUYỀN CON NGƢỜI VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC

QUYỀN CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGHÀNH: TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa: QH – 2015 – X

Hà Nội, 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA TRIẾT HỌC

***

NGUYỄN HẢI YẾN

QUYỀN CON NGƢỜI VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC

QUYỀN CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGHÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa: QH – 2015 – X

Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Thúy Vân

Hà Nội, 2019

LỜI CAM ĐOAN

***

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện và chƣa

đƣợc công bố. Những trích dẫn trong khóa luận là trung thực, xuất xứ rõ ràng.

Sinh viên thực hiện

Nguyễn Hải Yến

LỜI CẢM ƠN

***

Để có thể hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin đƣợc gửi lời cảm

ơn chân thành đến giảng viên hƣớng dẫn của tôi là PGS.TS Nguyễn Thị Thúy

Vân. Cô giáo đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong việc định hƣớng lựa chọn đề tài và

nội dung, tìm kiếm và đọc tài liệu cũng nhƣ các thao tác làm việc cơ bản giúp tôi

hoàn thiện hơn cả về kiến thức và kỹ năng.

Tôi cũng xin đƣợc gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo trong khoa

Triết học đã cung cấp những kiến thức nền để tôi có thể thực hiện đề tài này.

Mặc dù đã hoàn thành, song bài Khóa luận tốt nghiệp của tôi không tránh

khỏi có những yếu điểm và thiếu sót, do vậy tôi rất mong nhận đƣợc những lời

đánh giá và góp ý từ phía các thầy giáo, cô giáo và các bạn để bài Khóa luận tốt

nghiệp của tôi đƣợc hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2019

Sinh viên thực hiện

Nguyễn Hải Yến

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 3

NỘI DUNG ......................................................................................................... 13

Chƣơng 1. Khái quát chung về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời

trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc Pháp quyền ở Việt Nam hiện nay .............. 13

1.1: Khái niệm quyền con ngƣời, quyền công dân .......................................... 13

1.1.1: Khái niệm quyền con ngƣời ................................................................ 13

1.1.2: Khái niệm quyền công dân ................................................................. 18

1.1.3: Quan hệ giữa quyền con ngƣời, quyền công dân ............................... 21

1.2: Lịch sử phát triển của tƣ tƣởng về quyền con ngƣời ................................ 22

1.2.1: Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời thời kỳ cổ đại ..................................... 22

1.2.2: Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời trong thời kỳ cận – hiện đại ............... 25

1.3: Khái niệm giáo dục quyền con ngƣời ....................................................... 32

1.3.1: Một số vấn đề chung về giáo dục quyền con ngƣời ........................... 32

1.3.2: Nội dung giáo dục quyền con ngƣời ................................................... 37

1.3.3: Vai trò của giáo dục quyền con ngƣời trong điều kiện xây dựng Nhà

nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay ............................................................ 40

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ...................................................................................... 45

Chƣơng 2: Thực trạng và một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao công tác

giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay ................................................. 46

2.1: Thực trạng giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay .................... 46

2.1.1: Những thành tựu đã đạt đƣợc ............................................................. 46

2.1.2. Những hạn chế còn tồn tại .................................................................. 56

2.2: Những quan điểm chung và giải pháp về giáo dục quyền con ngƣời, quyền

công dân ở nƣớc ta hiện nay ............................................................................ 60

2.2.1: Những quan điểm của Đảng - Nhà nƣớc ta về giáo dục quyền con

ngƣời, quyền công dân .................................................................................. 60

2.2.2: Giải pháp tăng cƣờng giáo dục quyền con ngƣời quyền công dân ở

nƣớc ta hiện nay ............................................................................................ 61

1

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ...................................................................................... 64

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 66

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 68

2

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Quyền con ngƣời là một trong những yếu tố cơ bản, nền tảng của một xã

hội dân chủ, văn minh. Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời đã hình thành từ rất sớm

trong lịch sử nhân loại; tuy nhiên không phải trong bất cứ hình thái - xã hội nào,

trong bất cứ kiểu Nhà nƣớc nào nó cũng tồn tại và đƣợc thừa nhận một cách đầy

đủ. Vì thế, quyền con ngƣời là một phạm trù lịch sử và là kết quả của cuộc đấu

tranh không ngừng của toàn nhân loại nhằm vƣơn tới những lý tƣởng, giải

phóng hoàn toàn con ngƣời khỏi bất bình đẳng trong xã hội nhằm xây dựng một

xã hội thật sự công bằng, dân chủ và nhân đạo.

Trong thời đại ngày nay, quyền con ngƣời đã trở thành một vấn đề triết

học, chính trị, pháp lý, đao đức có ý nghĩa hết sức quan trọng. Ở cấp độ quốc tế,

quyền con ngƣời đã trở thành mối quan tâm chung của toàn thể cộng đồng nhân

loại. Quyền con ngƣời đƣợc ghi nhận là giá trị chính trị, đạo đức, pháp lý phổ

biến. Ở cấp độ quốc gia, quyền con ngƣời đang ngày càng đƣợc thừa nhận rộng

rãi. Tôn trọng, bảo đảm và thực thi quyền con ngƣời vừa đƣợc coi là điều kiện

vừa là mục tiêu phát triển của các nƣớc, không phân biệt chế độ chính trị hay

trình độ phát triển.

Vấn đề quyền con ngƣời có vai trò quan trọng nhƣ vậy, nên nhiều nƣớc

trên thế giới coi trọng việc giáo dục quyền con ngƣời nhằm làm cho mỗi con

ngƣời ý thức biết tôn trọng quyền của ngƣời khác và tự mình biết bảo vệ quyền

của mình. Năm 1978 UNESCO cũng đã triệu tập Hội nghị quốc tế về giáo dục

nhân quyền tại Viên (Thủ đô nƣớc Áo) để phát triển hơn nữa những lý do cho

việc giáo dục nhân quyền. Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị công nhận rằng:

"Giáo dục nên làm cho mỗi cá nhân thấy quyền của mình, đồng thời họ cũng

phải biết tôn trọng những quyền của ngƣời khác", và đến 23/12/1994, Đại hội

đồng Liên Hợp Quốc bằng Nghị quyết số 49/184 đã chính thức tuyên bố: "Thập

kỷ giáo dục nhân quyền bắt đầu từ 1/1/1995 đến 1/1/2004".

Nƣớc ta đang trong tiến trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền dƣới sự

lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì việc giáo dục quyền con ngƣời lại

3

càng có ý nghĩa to lớn hơn bao giờ hết, nhằm làm cho Việt Nam sớm hội nhập

với thế giới và khu vực, góp phần xây dựng nền văn hóa nhân quyền toàn cầu.

Thực hiện đƣợc điều đó, Đảng và Nhà nƣớc ta đã hƣởng ứng, tham gia có hiệu

quả "Thập kỷ giáo dục nhân quyền" của Liên Hợp Quốc.

Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây, việc nghiên cứu

làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá những thành tựu, ƣu điểm đã đạt đƣợc và làm rõ

những khuyết điểm tồn tại của vấn đề giáo dục quyền con ngƣời; đồng thời xác

định phƣơng hƣớng, nội dung, phƣơng pháp tiếp tục thực hiện giáo dục quyền

con ngƣời trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay có

ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Do vậy, tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu

“Quyền con ngƣời và vấn đề giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay”

làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời là vấn đề có tính thời sự

và có liên quan mật thiết đến tình hình chính trị toàn cầu nên những nghiên cứu

về vấn đề quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời nhận đƣợc sự quan tâm

nghiên cứu của đông đảo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc. Có thể chia

những nghiên cứu này thành hai mảng nội dung chính sau:

* Những nghiên cứu về quyền con người

Có rất nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh những vấn đề lý luận về

quyền con ngƣời của nhiều học giả trong và ngoài nƣớc, tiêu biểu là cuốn sách

Quyền con ngƣời của Jacques Mourgon, giáo sƣ trƣờng đại học Khoa học Xã

hội Toulouse (Pháp). Bằng việc phân tích bản chất của con ngƣời và quyền con

ngƣời, tác giả khẳng định quyền con ngƣời là trung tâm của chính trị và trung

tâm của các mối quan hệ giữa quyền lực và con ngƣời, nhƣng quyền con ngƣời

cũng không phải là những cái gì quá xa lạ với con ngƣời. Quyền con ngƣời là

"những đặc quyền" đƣợc các quy tắc điều khiển mà con ngƣời "giữ riêng" lấy

trong các quan hệ của mình với những cá nhân và với chính quyền". Nhƣ vậy,

quyền con ngƣời trƣớc hết là các quyền cố hữu, tự nhiên con ngƣời sinh ra đã có

(cả thể xác và tƣ tƣởng) và các quyền này đƣợc sử dụng trong các quan hệ giữa

4

cá nhân với cá nhân, cá nhân với chính quyền. Trên cơ sở khái niệm quyền con

ngƣời, tác giả tập trung phân tích các điều kiện cần thiết để bảo đảm, thực hiện

quyền con ngƣời nhƣ: sự công nhận quyền trong các điều ƣớc quốc tế về quyền

con ngƣời; sự ghi nhận quyền trong pháp luật quốc tế và quốc gia; thiết chế

kiểm soát các quyền nhằm ngăn chặn sự lạm quyền từ phái các cá nhân, tổ chức

thực thi quyền lực nhà nƣớc bảo đảm quyền con ngƣời và sự phụ thuộc của các

quyền vào cộng đồng quốc tế và các nhà nƣớc.

Giáo sƣ Hoàng Nam Sâm, trƣờng đại học Tổng hợp Bắc Kinh, Trung

Quốc trong bài "Khái niệm quyền con ngƣời trong truyền thống văn hóa Trung

Quốc" (2002) cho rằng: "Quyền con ngƣời là những quyền cơ bản mà con ngƣời

sinh ra đã đƣợc hƣởng, bao gồm trƣớc hết là quyền đƣợc sống và quyền đƣợc

phát triển; sau đó là các quyền khác" [67, tr.40], chẳng hạn nhƣ "quyền đƣợc

tham gia các hoạt động chính trị, xã hội, trong đó quyền bình đẳng là quan trọng

nhất. Quyền này thể hiện ở chỗ tất cả mọi ngƣời có thể sống nhƣ một cá nhân

độc lập và quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời là bình đẳng, xét trên phƣơng

diện nhân phẩm" [67, tr.40]. Để có đƣợc một học thuyết về quyền con ngƣời, tác

giả cho rằng phải đƣợc thiết lập qua 5 giai đoạn: thứ nhất là ý thức về quyền con

ngƣời; thứ hai là tƣ tƣởng về quyền con ngƣời; thứ ba là quyền con ngƣời dƣới

góc độ pháp lý; thứ tƣ là khái niệm quyền con ngƣời và thứ năm là học thuyết về

quyền con ngƣời. Tác giả cũng khẳng định việc Trung Quốc thực hiện cải cách,

mở cửa đã đƣa sự phát triển về quyền con ngƣời sang một giai đoạn mới. Bằng

việc thực thi dân chủ và xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, các quyền con ngƣời

của ngƣời dân Trung Quốc không ngừng mở rộng, quyền cá nhân và quyền tập

thể kết hợp hòa quyện với nhau, tạo động lực thúc đẩy lực lƣợng sản xuất, cải

thiện mức sống của ngƣời dân.

Bài viết "Thực tế quyền con ngƣời trong chủ nghĩa xã hội và cuộc đấu

tranh vì quyền con ngƣời trên thế giới", (2002), tác giả Lang Nghị Hoài khẳng

định: "Quyền con ngƣời là một phạm trù xã hội mang tính tổng hợp, là sự giới

định và thừa nhận xã hội mà con ngƣời giành đƣợc với tƣ cách là sự vật tồn tại

trong xã hội. Sự thừa nhận và giới định này biểu hiện ở tƣ cách là ngƣời tham dự

5

giao lƣu xã hội" [28, tr.231]. Theo tác giả, quyền con ngƣời nằm sâu trong mối

quan hệ giữa ngƣời với ngƣời trong xã hội, do đó, quyền con ngƣời trƣớc hết là

quyền của một giai cấp nhất định, có tính giai cấp rõ rệt. Sự phát triển quyền con

ngƣời, sự cải thiện mối quan hệ quyền con ngƣời là quá trình lâu dài trong lịch

sử, tự do và bình đẳng trừu tƣợng không phải là thƣớc đo thông dụng đối với

quyền con ngƣời mà chỉ là tiêu chí để đánh giá mức độ phát triển của quyền con

ngƣời mà thôi. Đặc biệt, trong thế giới hiện nay, việc bảo đảm quyền con ngƣời

và bảo vệ giữ vững chủ quyền quốc gia có mối quan hệ mật thiết và biện chứng

với nhau, do đó, cần có cái nhìn toàn diện và khoa học về quyền con ngƣời cũng

nhƣ các cơ chế, thiết chế bảo vệ quyền con ngƣời.

Ở nƣớc ta, việc nghiên cứu quyền con ngƣời đƣợc bắt đầu từ cuối thập kỷ

80 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, thời gian này, các công trình nghiên cứu mới chỉ

là bƣớc đầu và chƣa đƣợc xã hội hóa một cách có hệ thống. Những năm 1990 là

thời gian đánh dấu sự "bùng nổ" về hoạt động nghiên cứu quyền con ngƣời ở

Việt Nam. Hai sự kiện có thể coi là động lực thúc đẩy hoạt động nghiên cứu

quyền con ngƣời ở Việt Nam những năm đầu của thập kỷ này là việc sửa đổi bổ

sung Hiến pháp 1992 và việc ban hành Chỉ thị 12-CT/TW của Ban Bí thƣ về

Vấn đề quyền con ngƣời và quan điểm chủ trƣơng của Đảng ta. Hiến pháp 1992,

Hiến pháp của công cuộc Đổi mới, lần đầu tiên, khái niệm quyền con ngƣời

đƣợc quy định tại điều 50, thể hiện sự thay đổi mang tính bƣớc ngoặt trong nhận

thức về vấn đề này ở Việt Nam. Sự kiện này khẳng định việc đánh giá một cách

chính thức của Đảng, Nhà nƣớc Việt Nam với vấn đề quyền con ngƣời, tạo nền

tảng chính trị và pháp lý cho các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và tổ chức

thực hiện bảo đảm các quyền con ngƣời ở Việt Nam.

Trong Chƣơng trình "Con ngƣời, mục tiêu và động lực của sự phát triển

kinh tế - xã hội", mã số KX.07/91-95, lần đầu tiên, quyền con ngƣời đã trở thành

đối tƣợng nghiên cứu cấp nhà nƣớc. Đó là đề tài "Các điều kiện đảm bảo quyền

con ngƣời, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nƣớc", do Hoàng Văn

Hảo chủ nhiệm. Đề tài đã tập trung phân tích những vấn đề lý luận về quyền con

ngƣời nhƣ: khái niệm quyền con ngƣời, lịch sử phát triển của quyền con ngƣời,

6

những nội dung cơ bản của quyền con ngƣời; thực trạng việc vi phạm quyền con

ngƣời trên thế giới cũng nhƣ các điều kiện đảm bảo quyền con ngƣời. Từ đó đến

nay, vấn đề quyền con ngƣời đƣợc nhiều học giả tập trung nghiên cứu với nhiều

công trình khoa học đƣợc công bố có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn trên

hầu hết lĩnh vực của quyền con ngƣời, nhƣ đề tài khoa học cấp bộ "Quan điểm

C.Mác-Ph.Ăngghen về quyền con ngƣời", Hoàng văn Hảo chủ nhiệm (1997) ;

đề tài "Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Quyền con ngƣời", Cao Đức Thái chủ nhiệm

(1998); đề tài "Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về quyền con

ngƣời và ý nghĩa với Việt Nam hiện nay" (2007), Nguyễn Đức Thùy chủ nhiệm,

đề tài "Tƣ tƣởng V.I.Lênin về quyền con ngƣời", Hoàng Mai Hƣơng chủ nhiệm

(2009); đề tài "Tƣ tƣởng nhân quyền trong một số học thuyết chính trị, pháp lý

cơ bản", Nguyễn Duy Sơn chủ nhiệm (2013) . Các công trình trên đã tập trung

phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con ngƣời: nguồn gốc của

quyền con ngƣời, khái niệm quyền con ngƣời, các quan điểm, luận điểm khác

nhau về quyền con ngƣời trong lịch sử, quan điểm của Chủ nghĩa MácLênin về

quyền con ngƣời; tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền con ngƣời cũng nhƣ các điều

kiện cần thiết để bảo đảm quyền con ngƣời và khẳng định: quyền con ngƣời là

một phạm trù lịch sử; mang tính nhân loại và tính giai cấp; nó là sản phẩm của

phƣơng thức sản xuất vật chất; gắn liền với nhà nƣớc và pháp luật, đƣợc bảo vệ

bằng pháp luật; đƣợc thực hiện triệt để nhất trong chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa

cộng sản. Đây là những công trình đặt cơ sở phƣơng pháp luận cho việc triển

khai nghiên cứu các chủ đề khác nhau về quyền con ngƣời.

Cùng với các đề tài khoa học, nhiều sách chuyên khảo có giá trị về quyền

con ngƣời đã đƣợc công bố nhƣ: "Quyền con ngƣời trong thế giới hiện đại", tác

giả Phạm Khiêm Ích và Hoàng Văn Hảo chủ biên (1995) , sách "Tìm hiểu vấn

đề nhân quyền trong thế giới hiện đại" (1996), Chu Hồng Thanh chủ biên; sách

tham khảo "Góp phần tìm hiểu quyền con ngƣời" (2006) của tác giả Phạm Văn

Khánh; sách "Triết học chính trị về quyền con ngƣời" (2006) của tác giả Nguyễn

Văn Vĩnh; "Quyền con ngƣời, tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội"

(2009), Võ Khánh Vinh chủ biên, "Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời, Tuyển tập tƣ

7

liệu thế giới và Việt Nam" (2011) của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội,

"Dân chủ nhân quyền giá trị toàn cầu và đặc thù quốc 9 gia" (2011) của Hội

đồng Lý Luận Trung ƣơng, "Quyền con ngƣời, lý luận và thực tiễn" (2014) của

Viện nghiên cứu quyền con ngƣời,... Mặc dù cách tiếp cận và phân tích có khác

nhau, song các công trình trên đều tập trung nghiên cứu, luận giải khái niệm

quyền con ngƣời, bản chất đặc trƣng của quyền con ngƣời, nội dung các quyền

cơ bản của con ngƣời cũng nhƣ các điều kiện, cơ chế bảo đảm quyền con

ngƣời...

Trên cơ sở các công trình nghiên cứu, một số cơ sở đào tạo đã biên soạn

giáo trình giảng dạy về quyền con ngƣời. Tiêu biểu là giáo trình "Lý luận về

quyền con ngƣời" do Viện nghiên cứu quyền con ngƣời, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh (2010) biên soạn và "Giáo trình lý luận và pháp luật về

quyền con ngƣời" của Khoa luật, Đại học quốc gia (2009)... Mặc dù cách tiếp

cận, phân tích khác nhau, song nhìn chung, các giáo trình này đều tập trung giới

thiệu về những vấn đề lý luận của quyền con ngƣời nhƣ: khái niệm quyền con

ngƣời; đặc trƣng cơ bản của quyền con ngƣời; nội dung cơ bản của quyền con

ngƣời; sự phát triển quyền con ngƣời trong lịch sử nhân loại; luật quốc tế về

quyền con ngƣời; Hiến pháp, pháp luật Việt Nam về quyền con ngƣời; quan

điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc Việt Nam về quyền con

ngƣời; phân tích các điều kiện và cơ chế quốc gia và quốc tế bảo đảm quyền con

ngƣời, trong đó nhấn mạnh "Ngày nay, quyền con ngƣời đã đƣợc quốc tế hóa về

nhiều mặt. Đó là việc xác lập các nguyên tắc và chuẩn mực nhân quyền. Đó là

sự hình thành cơ chế quốc tế bảo vệ quyền con ngƣời. Tuy nhiên, việc bảo đảm

các quyền con ngƣời hiện nay chủ yếu vẫn nằm trong khuôn khổ quốc gia, trong

thẩm quyền pháp lý của các nhà nƣớc" [77, tr.126]. Vì vậy, các quốc gia đều có

nghĩa vụ ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, thực thi quyền con ngƣời theo quy định

của Luật nhân quyền quốc tế, đồng thời có trách nhiệm tôn trọng cơ chế giám

sát quốc tế và phải tuân thủ các công ƣớc mà quốc gia đã ký kết, gia nhập...

*Những nghiên cứu về giáo dục quyền con người

8

Với ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề giáo dục quyền con ngƣời đối

với việc tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền nhƣ đã trình bày trên đây,

việc nghiên cứu về vấn đề này đã thu hút sự quan tâm của các cơ quan, tổ chức,

các nhà nghiên cứu, các học giả, các chuyên gia trên thế giới và trong các quốc

gia, trong đó có Việt Nam.

Ở phạm vi quốc tế, các công trình nghiên cứu về giáo dục quyền con

ngƣời đáng kể nhất phải kể đến những tài liệu, hƣớng dẫn về giáo dục quyền con

ngƣời của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc nhƣ: Cuốn “Sử dụng ABC: giảng

dạy về quyền con ngƣời, các hoạt động thực tiễn cho các trƣờng phổ thông (cấp

I và cấp II)” xuất bản năm 2003 với nội dung giáo dục những kiến thức cơ bản,

sơ khai về nhân quyền cho học sinh cấp tiểu học và những hiểu biết ở mức bảo

vệ nhân quyền cho học sinh cấp trung học cơ sở; Năm 1999 Trung tâm quốc gia

về giáo dục pháp luật, thuộc Đại học Warwick, Anh đã xuất bản cuốn “Giảng

dạy nhân quyền” với nội dung lồng ghép giáo dục nhân quyền với giáo dục pháp

luật; Đến năm 2000, Hội đồng Anh xuất bản ba tập sách với nội dung về: Giáo

dục công dân và giáo dục nhân quyền.

Ở Việt Nam, trong vấn đề giáo dục quyền con ngƣời hiện nay vẫn chủ yếu

gắn với giáo dục pháp luật, do đó, có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận

văn thạc sỹ, luận án tiến sĩ đề cập đến vấn đề trên, có thể liệt kê những tác phẩm,

công trình nghiên cứu nhƣ: "Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cƣờng pháp

chế xã hội chủ nghĩa", luận án Phó tiến sĩ của Trần Ngọc Đƣờng; "Ý thức pháp

luật xã hội chủ nghĩa và giáo dục pháp luật cho nhân dân lao động (ở Việt

Nam)", luận án Phó tiến sĩ của Nguyễn Đình Lộc; "Giáo dục pháp luật cho nhân

dân" của Nguyễn Ngọc Minh (Tạp chí Cộng sản, số 10, 1983); "Giáo dục ý thức

pháp luật để tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng con ngƣời mới"

của Phùng Văn Tửu (Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4, 1985); "Giáo dục ý thức

pháp luật" của Nguyễn Trọng Bình (Tạp chí Xây dựng Đảng, số 4, 1989); "Cơ

sở khoa học của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" đề tài khoa

học cấp nhà nƣớc, mã số 07-17 do Viện Nhà nƣớc - Pháp luật thuộc Trung tâm

Khoa học xã hội và nhân văn chủ trì; "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo

9

dục pháp luật trong công cuộc đổi mới", đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92-98-

223ĐT của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tƣ pháp; "Tìm kiếm mô

hình phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít ngƣời" đề

tài khoa học cấp bộ của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý; "Thực trạng và

phƣơng hƣớng đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nƣớc

ta hiện nay", luận văn Thạc sĩ của Đặng Ngọc Hoàng…

Ở góc độ riêng về giáo dục quyền con ngƣời thời gian gần đây có một số

công trình nghiên cứu điển hình nhƣ: "Giáo dục nhân quyền hƣớng tới thế kỷ

XXI" của Tƣờng Duy Kiên (Tạp chí Thông tin Khoa học thanh niên, số 4,

1997); Chuyền đề “Nghiên cứu giảng dạy về quyền con ngƣời” (Thông tin

Quyền con ngƣời, số 3, 2009); Chuyên khảo “Giáo dục quyền con ngƣời, những

vấn đề lý luận và thực tiễn” của GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên (Viện khoa học

xã hội Việt Nam, năm 2010); Báo cáo khoa học tổng quan đề tài cấp cơ sở

“Giáo dục quyền con ngƣời_lý luận, thực tiễn Quốc tế và Việt Nam” do Ths.

Nguyễn Văn Tuấn làm chủ nhiệm đề tài (Đại học Quốc Gia Hà Nội, Khoa Luật

năm 2010)… Những công trình nghiên cứu trên là đóng góp to lớn cho nền giáo

dục quyền con ngƣời của Việt Nam.

Nhƣ vậy, trên thế giới cũng nhƣ trong nƣớc đã có nhiều công trình nghiên

cứu về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời. Các công trình nghiên

cứu này đã đề cập đến những vấn đề lý luận chung về quyền con ngƣời, từng

lĩnh vực hoạt động cụ thể của quyền con ngƣời, về tổ chức và hoạt động của

chƣơng trình giáo dục về quyền con ngƣời… Vì thế, các công trình này là nguồn

tham khảo quan trọng đối với tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.

3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung về quyền con ngƣời và

giáo dục quyền con ngƣời, khóa luận bƣớc đầu khảo cứu thực trạng giáo dục

quyền con ngƣời ở Việt Nam. Từ đó đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm

tăng cƣờng công tác giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ của khóa luận

10

Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung về quyền con ngƣời và giáo dục

quyền con ngƣời.

Bƣớc đầu khảo sát thực trạng giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện

nay.

Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm tăng cƣờng công tác giáo dục

quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1: Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận: Khóa luận dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,

quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam về quyền con ngƣời và giáo dục

quyền con ngƣời hiện nay.

4.2: Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận sử dụng kết hợp nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khoa học khác

nhau, bao gồm: thống kê, hệ thống, so sánh, phân tích, tổng hợp để nghiên cứu

các vấn đề lý luận, khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng giáo dục về quyền

con ngƣời ở Việt Nam hiện nay nhằm đề xuất, luận chứng một cách khoa học

phƣơng hƣớng, giải pháp tăng cƣờng giáo dục về quyền con ngƣời ở Việt Nam

trong giai đoạn hiện nay.

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận

5.1: Đối tượng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu: Quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời ở

Việt Nam hiện nay.

5.2: Phạm vi nghiên cứu

Khóa luận tập trung vào nghiên cứu khái niệm quyền con ngƣời và lịch sử

phát triển của tƣ tƣởng về quyền con ngƣời, hoạt động giáo dục quyền con

ngƣời ở Việt Nam chủ yếu khảo cứu qua các chƣơng trình giáo dục ở bậc phổ

thông và đại học.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Khóa luận góp phần vào việc nghiên cứu vấn đề lý luận chung về quyền

con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời

11

Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho

những vấn đề có liên quan đến đề tài, đồng thời làm tài liệu tham khảo bổ ích

cho việc giảng dạy và nghiên cứu trong những bình diện có liên quan.

7. Kết cấu của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, khóa

luận đƣợc chia làm 2 chƣơng, 5 tiết.

12

NỘI DUNG

Chƣơng 1. Khái quát chung về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con

ngƣời trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc Pháp quyền ở Việt Nam hiện nay

1.1: Khái niệm quyền con người, quyền công dân

1.1.1: Khái niệm quyền con người

Nhận thức về quyền con ngƣời là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử

xã hội loài ngƣời, là giá trị tinh thần quý giá của nền văn minh nhân loại. Khái

niệm “quyền con ngƣời” (Human Rights) xuất hiện đầu tiên ở phƣơng Tây thế

kỷ XVII - XVIII. Trong một số tác phẩm của các nhà tƣ tƣởng nhƣ J.J.

Rousseau, T. Hobbes, J. Locke.v.v.. đã đề cập đến khái niệm này. Sau đó khái

niệm này đã đƣợc cụ thể hóa trong một số văn bản có tính chất pháp lý của một

số quốc gia nhƣ: Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn về quyền con

ngƣời và quyền công dân ở Pháp năm 1789,v.v… Cuối cùng quyền con ngƣời

cũng trở thành vấn đề quốc tế mà các quốc gia cùng quan tâm và bảo hộ khi

hàng loạt các điều ƣớc quốc tế ghi nhận.

Khái niệm quyền con ngƣời có nguồn gốc từ thời Hy lạp cổ dƣới dạng các

quyền tự nhiên của con ngƣời nhƣ quyền đƣợc sống... Dƣới chế độ chiếm hữu

nô lệ, ngƣời nô lệ không đƣợc coi là con ngƣời, không có và không đƣợc thừa

nhận các quyền con ngƣời. Chế độ phong kiến so với chế độ nô lệ đã là một

bƣớc tiến trong việc giành lại quyền tự do và giải phóng con ngƣời. Giai cấp tƣ

sản là giai cấp đầu tiên nêu ngọn cờ nhân quyền, biết lợi dụng các tƣ tƣởng tự

do, bình đẳng, bác ái, công lý, vốn là yêu cầu bức thiết của nhân dân lao động để

tuyệt đối hoá tự do cá nhân, nhấn mạnh yếu tố cá nhân trong khái niệm quyền

con ngƣời, “quyền tƣ hữu thiêng liêng”. Khái niệm quyền con ngƣời lần đầu tiên

đƣợc chính thức ghi trong các văn kiện quan trọng nhƣ Tuyên ngôn độc lập của

Mỹ, Tuyên ngôn về quyền con ngƣời và quyền công dân của Pháp 1789, Tuyên

ngôn cộng sản 1848... Quyền con ngƣời (Nhân quyền) là những quyền tự nhiên

của con ngƣời và không bị tƣớc bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Trong

“Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”, đã khẳng định: “…tất cả

mọi ngƣời sinh ra đều bình đẳng… tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể

13

xâm phạm đƣợc, trong những quyền đó có quyền đƣợc sống, quyền tự do, và

quyền mƣu cầu hạnh phúc” [73, tr.15].

Nhƣ vậy, Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 có thể đƣợc coi là sự xác

nhận chính thức, đầu tiên về mặt nhà nƣớc về quyền con ngƣời trong lịch sử

phát triển của quyền con ngƣời. Khi đánh giá về văn kiện này, C.Mác đã cho

rằng: Nƣớc Mỹ - đó là nơi: “Lần đầu tiên xuất hiện ý tƣởng về một nƣớc cộng

hòa dân chủ vĩ đại thống nhất, bản tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên đã đƣợc

công bố và đã có sự thúc đẩy đầu tiên đối với cuộc cách mạng Châu Âu thế kỷ

XVIII” [53, tr.65]. Tuyên ngôn này là cơ sở để xây dựng nên bản hiến pháp của

Mỹ năm 1787.

Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, vấn đề nhân quyền càng

trở nên bức xúc và trở thành mối quan tâm sâu sắc của các quốc gia dân tộc trên

thế giới cũng nhƣ của toàn thể cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở đó, một tổ chức

Liên Hợp Quốc ra đời và đã thông qua bản “Hiến chƣơng Liên Hợp Quốc” ngày

24 -10 – 1945 với mục đích và nhiệm vụ chính là vì vấn đề con ngƣời trên phạm

vi toàn cầu. Sau 3 năm thành lập, tháng 12 năm 1948, Liên Hợp Quốc đã công

bố bản “Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền”. Trên cơ sở này, hàng loạt văn kiện

quốc tế về nhân quyền đƣợc công bố, ký kết và trở thành luật pháp quốc tế về

quyền con ngƣời.

Tuy vậy giai cấp tƣ sản chỉ tập trung nhấn mạnh quyền dân sự, chính trị,

mà chƣa chú trọng quyền kinh tế, văn hoá, xã hội là cơ sở và điều kiện quan

trọng để ngƣời lao động thoát khỏi đói nghèo và bị bóc lột. Cách mạng tháng 10

Nga đã tạo nên một phạm trù mới về quyền con ngƣời: đó là các quyền kinh tế,

văn hoá, xã hội. Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, các nƣớc XHCN đã đi đầu

trong việc nêu bật các quyền dân tộc cơ bản nhƣ bộ phận thiết yếu của các

quyền tập thể, đƣa ra cách đề cập toàn diện và biện chứng hơn về quyền con

ngƣời. Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội của loài ngƣời, nội dung các quyền

con ngƣời tiếp tục phát triển.

Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng và bảo đảm quyền con ngƣời đã có một lịch

sử truyền thống lâu đời, gắn liền với quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân

14

tộc. Tuy nhiên, vấn đề quyền con ngƣời mới thực sự đƣợc đề cao và xem trọng

cho đến khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, lúc này vấn đề quyền

con ngƣời đã đƣợc chính thức ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật quốc gia.

Bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của Nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

đã ghi nhận các quyền thiêng liêng của con ngƣời. Tiếp đó là các bản Hiến pháp

năm 1959, 1980, 1992 không chỉ thừa nhận và bảo đảm đầy đủ các quyền con

ngƣời, quyền công dân phù hợp với luật pháp quốc tế mà còn khẳng định rõ:

Nhà nƣớc Việt Nam là nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân, có trách

nhiệm bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân

dân. Đặc biệt khái niệm quyền con ngƣời lần đầu tiên đƣợc đƣợc đƣa vào Hiến

pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) trong một chế định cụ thể.

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật, “quyền con ngƣời” là phạm trù

lịch sử có quá trình hình thành, phát triển, phản ánh những quy luật vận động

khách quan của con ngƣời và là thành quả của quá trình đấu tranh lâu dài trong

lịch sử. Mỗi thời đại, nhân dân lao động và các dân tộc đều phải trải qua sự đấu

tranh, hy sinh cũng vì quyền con ngƣời. Vấn đề quyền con ngƣời luôn là trung

tâm của mọi cuộc cách mạng xã hội và tiến bộ của nhân loại. Lịch sử phát triển

của xã hội loài ngƣời tùy thuộc vào từng hình thái kinh tế - xã hội khác nhau mà

vấn đề quyền con ngƣời cũng đƣợc lý giải và thực hiện theo nhiều cấp độ khác

nhau.

Quan niệm thứ nhất bắt nguồn từ chỗ coi con ngƣời là một thực thể tự

nhiên, nên quyền con ngƣời phải là quyền "bẩm sinh", là "đặc quyền", nghĩa là

quyền con ngƣời, quyền lợi của con ngƣời với tƣ cách là ngƣời, gắn liền với cá

nhân con ngƣời, không thể tách rời.

Quan điểm này đƣợc các đại biểu tƣ tƣởng của giai cấp tƣ sản ở thế kỷ

XVII, XVIII nhƣ Hobbes, Kant, Locke, Spinoza, Rousseau hoàn thiện và nêu ra

trong học thuyết về pháp quyền tự nhiên. Trƣờng phái này cho rằng, quyền tự

nhiên, pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật nhà nƣớc. Xuất phát từ

quan điểm này, Jacques Mourgon (giáo sƣ đại học khoa học xã hội Toulouse)

đƣa ra định nghĩa: "Quyền con ngƣời là những đặc quyền đƣợc các quy tắc điều

15

khiển mà con ngƣời giữ riêng lấy trong các quan hệ của mình với các cá nhân và

với chính quyền" [42, tr. 12].

Quan niệm thứ hai lại chỉ đặt con ngƣời và quyền con ngƣời trong mối

quan hệ xã hội. Quan niệm này cho rằng, con ngƣời chỉ là một thực thể xã hội,

nên quyền của nó chỉ đƣợc xác định trong mối tƣơng quan với các thực thể xã

hội khác và vì là quan hệ xã hội nên nó đƣợc chế độ nhà nƣớc, pháp luật điều

chỉnh bảo vệ.

Quan niệm này có tính tích cực khi coi quyền con ngƣời là một khái niệm

có tính lịch sử, đặt con ngƣời trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Vì con

ngƣời là thực thể của xã hội, có mối quan hệ phổ biến với xã hội nên quyền con

ngƣời cũng luôn gắn liền với đấu tranh giai cấp, đấu tranh chống áp bức bóc lột,

đấu tranh chống bạo lực, chống bất công trong xã hội. Cơ sở của quyền con

ngƣời ở đây chính là trình độ phát triển của nền kinh tế, văn hóa, xã hội và do

chế độ kinh tế, chế độ xã hội quyết định.

Quan niệm thứ ba là quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề

quyền con ngƣời. Xuất phát từ quan niệm coi con ngƣời vừa là sản phẩm tự

nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng con ngƣời:

"Về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội" [60, tr. 12].

Xét về mặt tự nhiên, C.Mác cho rằng, con ngƣời là "động vật xã hội có

khả năng tái sinh ra con ngƣời, con ngƣời là động vật cao cấp nhất trong quá

trình tiến hóa” [60, tr. 855]. Do đó, về mặt này quyền con ngƣời trƣớc hết là một

thuộc tính tự nhiên. Quyền con ngƣời không phải là một "tặng vật", do giai cấp

thống trị ban phát thông qua nhà nƣớc mà quyền con ngƣời trong hình thức lịch

sử tự nhiên của nó mang bản chất tự nhiên, đƣợc thể hiện ở quyền đƣợc sống,

quyền tự do, quyền đƣợc sáng tạo, phát triển, quyền đƣợc đối xử nhƣ con ngƣời,

xứng đáng với con ngƣời.

Xét về mặt xã hội, con ngƣời mặc dù là động vật cao cấp nhất của tự

nhiên, nhƣng ngay khi tiến hóa trở thành động vật cao cấp, con ngƣời đã sống

thành bầy đàn và trở thành sản phẩm của lịch sử xã hội. Trong luận cƣơng thứ

VI về Phoi-ơ-bắc, C.Mác cho rằng: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con

16

ngƣời là tổng hòa những quan hệ xã hội" [60, tr. 21]. Do đó xét về khía cạnh xã

hội, thì quyền con ngƣời, ngay từ khi có xã hội loài ngƣời, bên cạnh bản tính tự

nhiên còn in đậm bản tính xã hội.

Khi xã hội hình thành giai cấp, hình thành nhà nƣớc, đã tạo ra những

chuyển biến có tính "bƣớc ngoặt" trong sự biến đổi mối quan hệ tƣơng quan

giữa bản tính tự nhiên và bản tính xã hội của quyền con ngƣời. Đi kèm xã hội có

giai cấp là mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp; do đó, trong điều kiện xã

hội có giai cấp thì bản tính xã hội trở thành bản tính giai cấp. Và ngay cả bản

tính tự nhiên, những giá trị phổ biến của quyền con ngƣời cũng tất yếu chịu sự

chi phối của giai cấp thống trị xã hội.

Mặt khác, quyền con ngƣời, kể cả quyền tự nhiên, bẩm sinh còn bị ràng

buộc, chi phối vào chính khả năng khám phá chinh phục tự nhiên của chính con

ngƣời, nghĩa là phụ thuộc vào khả năng hoàn thiện, phát triển của con ngƣời, sự

phát triển của lực lƣợng sản xuất, trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Con ngƣời

càng có khả năng chế ngự, chinh phục thiên nhiên bao nhiêu thì tự do, quyền

con ngƣời ngày càng đƣợc mở rộng, ngày càng đƣợc đảm bảo bấy nhiêu.

Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa khác nhau về quyền con ngƣời. Học

giả Nguyễn Bá Diến cho rằng: "Quyền con ngƣời là các khả năng của con ngƣời

đƣợc đảm bảo bằng pháp luật (luật quốc gia và luật quốc tế) về sử dụng và chi

phối các phúc lợi xã hội, các giá trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng

quyền tự do trong xã hội trong phạm vi luật định và quyền quyết định các hoạt

động của mình và của ngƣời khác trên cơ sở pháp luật" [17, tr. 34]. Định nghĩa

này mới chỉ đề cập đến quyền con ngƣời với tƣ cách là phạm trù luật học.

Một định nghĩa đang đƣợc sử dụng phổ biến trong giảng dạy, nghiên cứu

về quyền con ngƣời ở nƣớc ta hiện nay: "Nhân quyền (hay quyền con ngƣời) là

những năng lực và nhu cầu vốn có và chỉ có ở con ngƣời, với tƣ cách là thành

viên cộng đồng nhân loại, đƣợc thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa

thuận pháp lý quốc tế" [31, tr. 10] .

Qua những phân tích trên đây có thể rút ra kết luận: Quyền con ngƣời là

những quyền không bị tƣớc bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào; đó là:

17

quyền sống, quyền tự do, quyền đƣợc mƣu cầu hạnh phúc, quyền đƣợc bảo vệ

và bình đẳng trƣớc pháp luật, quyền an ninh thân thể, quyền không bị hình phạt

tàn bạo và bất bình thƣờng…Đó cũng là những đòi hỏi chính đáng về tự do và

những nhu cầu cuộc sống cơ bản cần đƣợc đáp ứng của con ngƣời, không bị phá

hủy khi xã hội dân sự đƣợc thiết lập và không một xã hội hay một chính phủ nào

có thể xóa bỏ hoặc chuyển nhƣợng các quyền này. Nói cách khác, quyền con

ngƣời đóng vai trò “là cơ sở để xác định tính điều chỉnh tự định đoạt của con

ngƣời, khả năng độc lập của con ngƣời trong việc giải quyết các nhu cầu cá

nhân” [27, tr.21].

Nhƣ vậy, có thể hiểu quyền con ngƣời là một phạm trù tổng hợp, vừa là

"chuẩn mực tuyệt đối" mang tính phổ biến, vừa là "sản phẩm tổng hợp của một

quá trình lịch sử lâu dài luôn luôn tiến hóa và phát triển". Quyền con ngƣời

"không thể tách rời", đồng thời cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ

phát triển kinh tế - xã hội... Quyền con ngƣời là một tổng thể những quyền gắn

bó với nhau trong mối tƣơng quan biện chứng, đó là quyền cá nhân và quyền

của dân tộc cộng đồng, quyền chính trị - dân sự và kinh tế văn hóa xã hội, quyền

của cá nhân đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội...

Nhƣ vậy, mặc dù cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều cách nhìn nhận khác

nhau về quyền con ngƣời, nhƣng rõ ràng rằng quyền con ngƣời là những giá trị

cao cả cần đƣợc tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và mọi giai đoạn lịch sử.

Trong thời đại ngày nay, quyền con ngƣời không thể tách khỏi hòa bình, dân chủ

và phát triển.

1.1.2: Khái niệm quyền công dân

Quyền công dân, về nguồn gốc lịch sử nó là một khái niệm xuất hiện cùng

với cách mạng tƣ sản và chỉ tồn tại trong xã hội công dân. Cách mạng tƣ sản đã

biến con ngƣời từ địa vị thần dân trong nhà nƣớc quân chủ sang địa vị công dân

trong nhà nƣớc cộng hòa. Nghĩa là khi đề cập đến khái niệm công dân là đề cập

đến một bộ phận con ngƣời, theo quy định của pháp luật với tƣ cách là những

thành viên bình đẳng trong nhà nƣớc, từ đó mà quyền con ngƣời đƣợc thừa nhận

một cách rộng rãi và bình đẳng với ý nghĩa là quyền công dân. Nhƣng quyền

18

công dân không phải và không bao giờ trở thành hình thức cuối cùng của quyền

con ngƣời, nó chỉ thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nƣớc và mối

quan hệ đó đƣợc xác định thông qua một chế định pháp luật, đặc biệt là chế định

quốc tịch.

Hiện vẫn tồn tại một số khái niệm khác nhau về quyền công dân:

Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì quyền công dân là: “Quyền của ngƣời

công dân đƣợc thừa nhận, bao gồm quyền tự do dân chủ và các quyền kinh tế -

văn hóa xã hội” [19, tr.1384].

Theo Tiến sĩ Nguễn Đình Lộc, “Quyền công dân – đó là sự thể chế hóa về

mặt nhà nƣớc bằng pháp luật địa vị con ngƣời trong khuôn khổ nhà nƣớc, là sự

thừa nhận trong chừng mực mà nhà nƣớc chấp nhận, địa vị con ngƣời của cá

nhân trong nhà nƣớc”. [64, tr.75]

Thạc sĩ Vũ Công Giao cho rằng: “Quyền công dân là tập hợp các quyền tự

nhiên đƣợc pháp luật của một nƣớc quy định, mà tất cả những ngƣời có chung

quốc tịch của nƣớc đó đƣợc hƣởng một cách bình đẳng”. [24, tr.21]

Các khái niệm trên tuy có sự diễn đạt khác nhau, nhƣng về bản chất, nội

dung đều xuất phát từ khái niệm về quyền công dân của C.Mác. Về vấn đề này

C.Mác cho rằng “Quyền công dân là những quyền chính trị, những quyền cá

nhân con ngƣời với tƣ cách là thành viên xã hội công dân” [53, tr.14].

Nhƣ vậy, khái niệm công dân, quyền công dân ra đời sau quyền con

ngƣời, nó gắn liền và đƣợc sử dụng rộng rãi trong xã hội tƣ sản.

So với khái niệm quyền con ngƣời thì khái niệm quyền công dân mang

tính xác định hơn. Tuy nhiên quan niệm về quyền công dân của mỗi quốc gia là

khác nhau, và tùy thuộc vào thể chế chính trị, vào giai cấp cầm quyền trong xã

hội. Trƣớc dây ở các nƣớc xã hội chủ nghĩa vấn đề quyền con ngƣời ít khi đƣợc

nói đến nên mặc nhiên đƣợc hiểu rằng quyền con ngƣời và quyền công dân là

đồng nhất. Trong các văn kiện pháp lý (Hiến pháp, pháp luật) chỉ tồn tại thuật

ngữ quyền công dân. Ngay ở Việt Nam cũng vậy, trong các hiến pháp năm

1946, năm 1959, năm 1980 đều chỉ đề cập đến vấn đề quyền và nghĩa vụ của

công dân mà không đề cập đến vấn đề quyền con ngƣời. Chỉ đến Hiến pháp năm

19

1992, vấn đề quyền con ngƣời mới chính thức đƣợc đề cập đến với nội dung “Ở

nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con ngƣời về chính trị,

dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội đƣợc tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân

và đƣợc quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50 – Hiến pháp năm 1992).

Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1992 chỉ thừa nhận thuật ngữ "quyền con ngƣời"

thông qua quy định “quyền con ngƣời về chính trị, dân sự và kinh tế, văn hóa, xã

hội đƣợc thể hiện trong quyền công dân” tại Điều 50 nhƣng lại chƣa phân biệt

rạch ròi đƣợc quyền con ngƣời với quyền cơ bản của công dân. Khắc phục thiếu

sót đó, Hiến pháp năm 2013 đã có sự phân biệt giữa “quyền con ngƣời” và

“quyền công dân”. Theo đó, quyền con ngƣời đƣợc quan niệm là quyền tự nhiên

vốn có của con ngƣời từ lúc sinh ra (kể cả đối với ngƣời quốc tịch nƣớc ngoài,

ngƣời không quốc tịch, ngƣời có quốc tịch Việt Nam đã bị tƣớc hoặc hạn chế

một số quyền công dân); còn quyền công dân, trƣớc hết cũng là quyền con

ngƣời, nhƣng việc thực hiện nó gắn với quốc tịch, tức là gắn với vị trí pháp lý

của công dân trong quan hệ với nhà nƣớc. Để làm rõ sự khác biệt này, tham

khảo các công ƣớc Quốc tế về quyền con ngƣời và Hiến pháp của các nƣớc,

Hiến pháp 2013 đã sử dụng từ “mọi ngƣời” khi thể hiện quyền con ngƣời và

dùng từ “công dân” khi quy định về quyền công dân. Bên cạnh đó, nhằm khắc

phục sự tùy tiện ra các quy định trong việc hạn chế quyền con ngƣời, quyền

công dân, Hiến pháp năm 2013 đã quy định nguyên tắc “Quyền con ngƣời,

quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trƣờng hợp

cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự án toàn xã hội, đạo đức

xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Theo đó, không ai đƣợc tùy tiện cắt xén, hạn

chế các quyền, ngoại trừ các trƣờng hợp cần thiết nói trên do Luật định. Điều

này xác lập nguyên tắc quyền con ngƣời, quyền công dân chỉ bị hạn chế bằng

Luật chứ không phải các văn bản dƣới luật: “Ở nƣớc Cộng hòa XHCN Việt

Nam, các quyền con ngƣời, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn

hóa, xã hội đƣợc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp

luật” (Điều 14- Hiến pháp năm 2013).

20

1.1.3: Quan hệ giữa quyền con người, quyền công dân

Quyền con ngƣời là những quyền tự nhiên và xã hội của con ngƣời và

không bị tƣớc bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào, mọi ngƣời sinh ra đều

bình đẳng và đƣợc tạo hóa ban cho một số quyền không thể tƣớc bỏ, nhƣ quyền

sống, quyền đƣợc tƣ do và quyền mƣu cầu hạnh phúc.

Quyền con ngƣời chính là thành quả đấu tranh lâu dài qua các thời đại của

nhân loại, của các dân tộc bị áp bức trên thế giới nhằm xác định quyền bình

đẳng, tự do trong các quan hệ giữa ngƣời với ngƣời, cũng nhƣ giữa các dân tộc,

và đó cũng là thành quả đấu tranh của loài ngƣời nhằm hƣớng tới làm chủ thiên

nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình. Đó là quyền tự nhiên của mỗi

ngƣời với tƣ cách là thực thể của tự nhiên và xã hội, không phân biệt quốc tịch,

màu da, ngôn ngữ và chính kiến,…đƣợc bảo đảm bằng pháp luật quốc tế, quốc

gia mà trƣớc hết là luật pháp quốc gia [24, tr. 32-35].

Quyền con ngƣời không chỉ bao quát quyền công dân mà còn là quyền

của tất cả mọi ngƣời, không phân biệt quốc tịch, năng lực hành vi dân sự và

năng lực pháp luật. Đó còn là quyền của quốc gia. Đặc biệt các quyền về kinh tế,

xã hội của ngƣời dân trong đó có quyền sở hữu tƣ nhân, quyền tự do kinh doanh,

đƣợc nhà nƣớc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện.

Quyền công dân là khả năng công dân thực hiện một hành vi nào đó theo

quy định của pháp luật một cách tự nguyện, tự do ý chí nhằm thỏa mãn những

nhu cầu và lợi ích của bản thân.

Khi nghiên cứu vấn đề “quyền con ngƣời” ta phải xem xét đầy đủ cả hai

khái niệm quyền con ngƣời và quyền công dân. Đây là hai khái niệm cơ bản, có

mối quan hệ biện chứng, mật thiết với nhau nhƣng cũng có sự độc lập nhất định

với nhau và cần đƣợc phân biệt rõ khi tiếp cận vấn đề này.

Khái niệm quyền con ngƣời là khái niệm rộng hơn so với khái niệm

quyền công dân. Nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nƣớc

mà còn biểu hiện mối quan hệ giữa cá nhân con ngƣời với cộng đồng xã hội. Do

đó trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, quyền con ngƣời bao gồm toàn bộ

những quyền tự nhiên đƣợc xác định từ khi họ sinh ra và tồn tại suốt cuộc đời

21

họ. Nó là “là cơ sở để xác định tính điều chỉnh tự định đoạt của con ngƣời, khả

năng độc lập của con ngƣời trong việc giải quyết các nhu cầu cá nhân” [24,

tr.21].

Trong quan hệ với cộng đồng nhân loại quyền con ngƣời bao gồm những

nhu cầu, lợi ích của con ngƣời đƣợc ghi nhận và bảo vệ bằng cả pháp luật quốc

gia và pháp luật quốc tế. Phạm vi tồn tại của nó không chỉ trong mối quan hệ với

một nhóm, một dân tộc, một quốc gia mà còn tồn tại trong mối quan hệ với cả

cộng đồng nhân loại. Nó thể hiện sự bình đẳng không chỉ những ngƣời có chung

quốc tịch, mà còn biểu hiện sự bình đẳng của mọi ngƣời trong cả cộng đồng

ngƣời.

Từ phân tích trên cho thấy, khái niệm quyền công dân và quyền con ngƣời

tuy có quan hệ gần gũi, mật thiết nhƣng không đồng nhất cả về chủ thể lẫn nội

dung. Tuy nhiên, hoàn toàn không có sự đối lập giữa quyền con ngƣời và quyền

công dân. Trong mối quan hệ giữa hai vấn đề này thì quyền con ngƣời là khái

niệm rộng hơn bao hàm cả quyền công dân, còn quyền công dân là một thành tố,

một bộ phận thiết yếu cơ bản của nó. Quyền con ngƣời không thể thay thế quyền

công dân, đồng thời quyền công dân không thể chứa đựng hết dung lƣợng của

quyền con ngƣời. Về chủ thể, chủ thể quyền con ngƣời cũng rộng hơn quyền

công dân vì ngoài những cá nhân là công dân, chủ thể quyền con ngƣời còn bao

gồm cả những cá nhân không phải là công dân nhƣ ngƣời nƣớc ngoài, ngƣời

không quốc tịch.

1.2: Lịch sử phát triển của tư tưởng về quyền con người

1.2.1: Tư tưởng về quyền con người thời kỳ cổ đại

Trong xã hội nguyên thủy, nguyên tắc đƣợc đặt lên hàng đầu hay còn gọi

là nguyên tắc vàng, trong cuộc sống sinh hoạt con ngƣời luôn tôn trọng và hoàn

toàn bình đẳng với nhau. Kéo theo, các dân tộc (theo nghĩa là thị tộc, bộ lạc)

cũng tồn tại mối quan hệ bình đẳng. Mà ở đó, trong mỗi thị tộc, bộ lạc mọi

ngƣời đều có quyền ngang nhau. Họ cùng sống, cùng lao động và cùng thừa

hƣởng mọi thành quả lao động mà tập thể làm ra. Tuy nhiên tất cả sự bình đẳng

22

ấy đều dựa trên cơ sở đời sống vật chất còn khá thô sơ lạc hậu thấp kém, sự tƣ

hữu là nhỏ giọt.

Qúa trình phát triển của lịch sử đã tạo ra nhiều cách thức để con

ngƣời đấu tranh với thiên nhiên và chinh phục thiên nhiên kéo theo sức sản xuất

phát triển và lúc này của cải dƣ thừa càng nhiều, càng lớn. Tƣ hữu cũng dần dần

xuất hiện với sự ra đời của một xã hội có giai cấp và nhà nƣớc. Theo

đó, những nguyên tắc vàng trƣớc đây của xã hội nguyên thủy cũng bị xé nhỏ ra,

những bình đẳng bị mất dần.

Xã hội phƣơng Tây cổ đại là một xã hội chiếm hữa nô lệ mang tính chất

điển hình. Trong đó hai giai cấp chủ yếu là chủ nô và nô lệ. Do đó, mâu thuẫn

chủ yếu giữa chủ nô và nô lệ cũng chính là mâu thuẫn giai cấp. Nô lệ là lực

lƣợng chính sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội nhƣng họ lại bị coi nhƣ súc

vật và hàng hóa để trao đổi, buôn bán. Trong khi đó giới chủ nô lại nắm trong

tay mọi đặc quyền đặc lợi.

Giai cấp nô lệ đã đứng lên để giành lại sự tự do và đòi lại phẩm giá của

họ. Sự uất hận đó đã bùng lên thành các cuộc khởi nghĩa. Một trong những cuộc

khởi nghĩa tiêu biểu diễn ra vào năm 74 - 71 TCN do Xpacstacút lãnh đạo đòi

xóa bỏ áp bức và nô dịch. Song cuộc khởi nghĩa đã bị thất bại do không đề ra

đƣợc cƣơng lĩnh, không tuyên bố đƣợc mục đích, chƣa vƣợt qua giới hạn của

giai cấp nên họ đã bị đàn áp rất dã man. Tuy nhiên, mọi thứ đều không trở

thành vô nghĩa, và phong trào đấu tranh dù thất bại nhƣng đã ảnh hƣởng to lớn

tới sự phát triển nhận thức về quyền con ngƣời.

Đáng chú ý trong thời kỳ Hy Lạp - La Mã cổ đại, có thể nói bƣớc đi ban

đầu về quyền con ngƣời ở đây đầu tiên xuất hiện trong các tƣ tƣởng, học thuyết

triết học, chính trị - xã hội. Đặc biệt, quyền con ngƣời gắn chặt với những tƣ

tƣởng, học thuyết về con ngƣời, về giải phóng, về mối quan hệ giữa con ngƣời

với con ngƣời, con ngƣời và xã hội, con ngƣời và nhà nƣớc, v.v… Đây có thể

coi là những tiền đề, mầm mống đầu tiên trong các tƣ tƣởng về quyền con

ngƣời. Quyền con ngƣời ở đây đã đƣợc đề cập đến trong các học thuyết của

Platon, Aristotelos, , v.v.. Aristotelos cho rằng, chỉ những công dân (nam giới từ

23

18 tuổi trở lên) mới có quyền công dân, còn phụ nữ, tr em, nô lệ, v.v… không

có các quyền con ngƣời nhƣ các công dân khác. Lúc này, các tầng lớp dƣới của

xã hội, nhƣ tầng lớp nô lệ thậm chí đƣợc xem nhƣ công cụ biết nói, chứ không

phải là con ngƣời. Chẳng hạn, Platon coi nông dân và thợ thủ công là hạng

ngƣời thấp nhất. Trong “Nhà nƣớc lý tƣởng của ông”. Platon cho rằng: Trong xã

hội cần phải duy trì các hạng ngƣời khác nhau và do đó không thể có sự hoàn

toàn bình đẳng giữa mọi ngƣời đƣợc [14, tr.41-44]. Tuy nhiên, lúc này quyền

con ngƣời mới chỉ là những tƣ tƣởng manh nha, chƣa đƣợc quan tâm nghiên cứu

và chƣa đƣợc thừa nhận nhƣ một giá trị phổ biến của con ngƣời. Xã hội thời kỳ

Hy Lạp - La Mã cổ đại có sự phân hóa giai tầng sâu sắc giữa giai cấp thống trị

và giai cấp bị trị, giữa tầng lớp chủ nô và tầng lớp nô lệ, do vậy quyền con ngƣời

lúc này cũng mang tính giai cấp sâu sắc, chỉ những tầng lớp quý tộc trong xã hội

mới có các quyền cơ bản, còn nô lệ thì không hề có quyền chút nào.

Tuy nhiên, cũng không tránh khỏi những hạn chế về điều kiện lịch

sử và xã hội mang lại,quyền con ngƣời chỉ dành cho tầng lớp giàu có, có học

thức, địa vị, đó là tầng lớp quý tộc, quan lại, tăng lữ… còn đại đa số nông dân

công xã, nô lệ lại không đƣợc hƣởng điều đó. Mặt khác, những quan điểm trên

đều phủ nhận đấu tranh giai cấp, đề cao tƣ tƣởng cam chịu, an phận. Ngoài ra,

họ coi sự áp bức, bóc lột giai cấp, dân tộc và nguồn gốc của mọi sự khổ đau là

do thiên ý - tức mệnh trời.

Nhƣ vậy, có thể khẳng định trong thời kỳ cổ đại đã xuất hiện những tƣ

tƣởng đầu tiên về quyền con ngƣời. Đó là sự đấu tranh đòi quyền tự do, bình

đẳng - những quyền cơ bản nhất của con ngƣời. Vì thế, có thể thấy quyền con

ngƣời ngay từ đầu đã mang tính giai cấp sâu sắc, nó cũng liên quan chặt ch đến

việc giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân cộng đồng, đặc biệt là mối quan hệ

giữa cá nhân và nhà nƣớc. Quan niệm chủ yếu trong thời kỳ này là quyền con

ngƣời không phải là một giá trị phổ biến, hay nói cách khác, quyền con ngƣời

chỉ đƣợc dành cho một bộ phận ngƣời trong xã hội. Do đó, con ngƣời thời kỳ

này cũng phản ánh cuộc sống đấu tranh giữa hai xu hƣớng: xu hƣớng đấu tranh

24

đòi quyền giai cấp, nô lệ và xu hƣớng bảo vệ của giai cấp chủ nô, phủ nhận

quyền của giai cấp nô lệ.

1.2.2: Tư tưởng về quyền con người trong thời kỳ cận – hiện đại

Đến thời kỳ Phục hƣng vấn đề quyền con ngƣời có sự phát triến đột phá

so với các giai đoạn trƣớc. Sử dĩ nhƣ vậy là vì thời kỳ Phục hƣng không chỉ

phục hồi và phát huy tất cả những giá trị tốt đẹp trong thời kỳ Hy Lạp - La Mã

cố đại ở phƣơng Tây đã bị xóa bỏ trong thời kỳ trung đại mà còn có xu hƣớng

chống lại một cách mạnh m những “gông cùm” của thời trung đại. Trong số

những giá trị tốt đẹp mà thời kỳ Phục hƣng hết sức đề cao đó là tƣ tƣởng nhân

văn về con ngƣời, tƣ tƣởng giải phóng con ngƣời. Con ngƣời thời kỳ này không

còn lấy Thƣợng đế mà lấy chính mình làm trung tâm và thƣớc đo tất thẩy mọi

vật. Các giá trị hiện thực của con ngƣời đƣợc đề cao. Hình tƣợng con ngƣời

cƣờng tráng ngẩng cao đầu đòi tự do và công lý, không khuất phục trƣớc mọi trở

ngại... đã trở thành phƣơng châm tƣ tƣởng và văn hóa thời kỳ này [50, tr.253].

Tôn trọng con ngƣời, đề cao con ngƣời, do đó tất cả những gì thuộc về con

ngƣời, nhƣ quyền con ngƣời đều phải đƣợc tôn trọng và đảm bảo, đó là tinh thần

nhân bản của thời kỳ Phục hƣng.

B. Spinoza (1632 - 1677), nhà triết học duy vật ngƣời Hà Lan đã tiếp thu

và phát triển những giá trị tích cực của thời kỳ Phục hƣng, đặc biệt là những tƣ

tƣởng về tự do. Ông nhận thấy tất cả các quyền tự do của con ngƣời đều bị xâm

phạm trong xã hội hiện tại. Khi đề cập đến tự do trong khuôn khổ các điều kiện

xã hội và các hệ thống chính trị, ông đã chỉ ra làm thế nào để đạt đƣợc tự do của

con ngƣời trong phạm vi tất yếu. Theo B. Spinoza, trong các điều kiện xã hội và

chính trị hiện tại có thể đạt tới tự do tối thiêu nhƣng hiện thực, cần thiết cho con

ngƣời. Theo quan điểm của ông khái niệm “tự do” có nội dung cụ thế, riêng biệt,

đặc thù, đó là: tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập pháp, tự do tƣ tƣởng,

v.v... Nói cách khác đây là các quyền tự do mà sau này đƣợc gọi là quyền tự do

dân chủ. Để đạt đƣợc quyền tự do cho mọi ngƣời, B. Spinoza đã kiến nghị các

nhà cầm quyền thực hiện các nguyên tắc quản lý hợp lý tối đa và bản thân họ

cũng cần tuân thủ các nguyên tắc ấy. Chính quyền nhà nƣớc cần đƣợc tố chức

25

phù hợp với quan niệm về lƣơng tri và tính nhân văn. Chính B. Spinoza đã đƣa

ra lối suy luận nhƣ vậy về tự do [16, tr.40].

Những tƣ tƣởng đề cao quyền dân tộc và đặc biệt là quyền con ngƣời đã

trở thành phong trào đấu tranh rầm rộ từ thời Phục hƣng (thế kỷ XIV - XV). Sau

đó nó đƣợc sự “tiếp sức ’ bởi các nhà Duy lý (thế kỷ XVII) và phát triển mạnh

m ở thế kỷ XVIII mà lịch sử vẫn thƣờng gọi là “Thế kỷ Ánh sáng” hay “Triết

học Ánh sáng ” để rồi đƣợc khẳng định trong các bản Tuyên ngôn của cách

mạng tƣ sản.

Những tƣ tƣởng giải phóng con ngƣời, đề cao con ngƣời thời kỳ này tiếp

tục đƣợc các nhà tƣ tƣởng thời cận đại khẳng định và phát triển, trong đó tiêu

biểu là Thomas Hobbes (1588 - 1679), J. Locke (1632 - 1704) và Thomas Paine

(1731 - 1809), J.J. Rousseau (1712 - 1778), v.v... Thomas Hobbes cho rằng

quyền tự nhiên cốt yếu của con ngƣời là “đƣợc sử dụng quyển lực của chỉnh

mình đế đảm bảo cuộc sổng của bản thân mình và do đó, đƣợc làm bất cứ điều

gì mà mình cho là đúng đắn và hợp lý... ” [16,40]. Trong các tác phẩm của mình,

J. Locke cho rằng các Chính phủ chẳng qua chỉ là một dạng “khế ƣớc xã hội ”

giữa những k cai trị và ngƣời bị trị (đa số công dân) tự nguyện kí vào bản khế

ƣớc này với kì vọng và mong muốn sử dụng Chính phủ nhƣ là một phƣơng tiện

để bảo vệ các “quyền tự nhiên ” của họ chứ không phải là ban phát và quy định

các quyền cho họ. Từ cách tiếp cận đó, J. Locke cho rằng các Chính phủ chỉ có

thể “chính danh ” hay “hợp pháp’’ khi thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và thúc đấy

các quyền bấm sinh, vốn có của công nhân. J. Locke cho rằng: “Con ngƣời sinh

ra, nhƣ đã đƣợc chứng minh, với một địa vị tự do hoàn hảo và sự thụ hƣởng

không bị kiếm soát đối với tất cả các quyền và những ân huệ của luật tự nhiên,

một cách bình đắng nhƣ bất kỳ ai khác hay nhƣ với tất cả lƣợng ngƣời trên thế

giới này”. I.Locke còn chỉ ra rằng: “quyền tự nhiên của con ngƣời là quyền

sống, quyền tự do, quyền tƣ hữu” [43, tr.40]. Còn Thomas Paine, trong tác phẩm

nổi tiếng Các quyền của con ngƣời (Rihgts of Man, 1791) thì nhấn mạnh rằng

các quyền không thể nào đƣợc ban phát bởi bất kì Chính phủ nào, bởi l , điều đó

không đồng thời cho phép các Chính phủ đƣợc rút lại các quyền ấy theo ý chí

26

của họ... Nhƣ thế Thomas Paine đã gián tiếp khẳng định rằng “các quyền của

con ngƣời là những giá trị tự nhiên” [43, tr.43-45]. Một trong những đại diện

tiêu biếu của triết học khai sáng Pháp là J.J. Rousseau. Những tƣ tƣởng của ông

và các nhà khai sáng Pháp đã tạo ra cơ sở cho sự phát triển quyền con ngƣời nói

chung và sự phát triển quyền con ngƣời ở Pháp nói riêng. Trong tác phẩm Khế

ƣớc xã hội (1762), J.J. Rousseau tập trung bàn về lý tƣởng tự do, bình đẳng của

con ngƣời. Tất cả mọi ngƣời đều có quyền tự do, bình đắng, bất kể có nguồn gốc

xuất thân nhƣ thế nào. Ông khẳng định con ngƣời sinh ra đã tự do, tự do là từ

bản chất của con ngƣời, “nhƣng đâu đâu con ngƣời cũng sống trong xiềng xích

”. Để đấu tranh cho tự do, bình đẳng, J.J.Rousseau cho rằng cần đến khế ƣớc xã

hội. Nội dung cơ bản của khế ƣớc xã hội là “mỗi thành viên trong khi khép mình

vào tập thể, dùng sức mạnh tập thể, vẫn đƣợc tự do đầy đủ nhƣ trƣớc, vẫn chỉ

tuân theo chính bản thân mình ” [14, tr.115].

Tƣ tƣởng và học thuyết của các nhà tƣ tƣởng cận đại kể trên đã đề xƣớng

một thuyết Duy lý mới về quyền tự nhiên. Lý thuyết này đã đóng góp rất to lớn

vào sự hình thành thế giới quan vào việc chuẩn bị nền tảng tƣ tƣởng cho các

cuộc cách mạng tƣ sản châu Âu. Ngoài ra nó còn góp phần củng cố về mặt pháp

luật, đồng thời vẫn chứng minh cho những ý niệm mới về quyền và tự do cá

nhân, về tính thiết yếu của pháp luật trong quan hệ giữa cá nhân với nhà nƣớc.

Quan niệm về khế ƣớc xã hội nhƣ là phần phát sinh cơ sở pháp luật của hoạt

động nhà nƣớc - là một yếu tố cấu thành quan trọng của những ý niệm mới về

quyền tự nhiên của con ngƣời và sự tôn trọng những quyền này trong trạng thái

nhà nƣớc [14, tr.76].

Có thể nói, thời kỳ cận đại cùng với sự thành công của cách mạng tƣ sản

châu Âu và sự ra đời của chế độ tƣ bản chủ nghĩa đã góp phần thể chế hóa hiện

thực hóa các quyền tự nhiên của con ngƣời nhƣ quyền sống, quyền tự do và

quyền sở hữu tài sản, quyền mƣu cầu hạnh phúc, quyền không bị áp bức, v.v...

Sự xuất hiện của các học thuyết về nhà nƣớc, về các quyền tự nhiên trong giai

đoạn này đã thúc đẩy quyền con ngƣời phát triển. Bắt đầu từ giai đoạn này,

quyền con ngƣời mới đƣợc các nhà tƣ tƣởng phát triển tƣ sản bàn đến nhƣ một

27

số học thuyết [14, tr.14]. Cũng chính từ đây, xuất hiện các khuynh hƣớng khác

nhau về quyền con ngƣời nhƣ: khuynh hƣớng quyền con ngƣời tự nhiên, khuynh

hƣớng pháp lí, v.v...

Khuynh hƣớng quyền con ngƣời tự nhiên (Natural right) cho rằng quyền

con ngƣời là những gì bẩm sinh, mọi cá nhân ngay từ khi sinh ra đã có bởi đơn

giản họ là “con ngƣời ” là thành viên của gia đình nhân loại. Điều đó cũng đồng

nghĩa với việc các quyền con ngƣời không bị phụ thuộc vào phong tục, tập quán,

truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức,

cộng đồng hay nhà nƣớc nào và không một chủ thể nào, kể cả nhà nƣớc, có thể

tùy ý ban phát hay tƣớc bỏ các quyền con ngƣời. Đại diện cho khuynh hƣớng

quyền tự nhiên là các nhà tƣ tƣởng thời cận đại nhƣ T.Hobbes, J. Locke,

Thomas Paine, v.v... Thuyết quyền tự do có điểm tích cực nhƣ ở chỗ đề cao con

ngƣời với tƣ cách là sản phẩm cao nhất thuần túy nhất của sự phát triển. Nhƣng

có nhƣợc điểm ở chỗ chƣa nhìn thấy nguồn gốc xã hội của quyền con ngƣời, do

đó chƣa thấy đƣợc tính chất lịch sử, tính giai cấp, sự phát triển trong những đòi

hỏi về quyền con ngƣời [43, tr.40].

Ngƣợc lại, khuynh hƣớng quyền pháp (Legal Right) (hay còn gọi là

khuynh hƣớng thực định), cho rằng các quyền của con ngƣời không phải là

quyền tự nhiên, không phải là bẩm sinh mà là do nhà nƣớc xác định và pháp

điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa.

Nói cách khác, chỉ khi đƣợc thừa nhận bằng pháp luật thì các quyền tự nhiên

mới có tính hợp pháp. Nhƣ vậy, theo khuynh hƣớng quyền pháp lý, phạm vi,

giới hạn và các góc độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con ngƣời

đều phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố nhƣ phong tục, tập

quán, truyền thống văn hóa của các xã hội theo quan điếm của các khuynh

hƣớng quyền tự nhiên thì các quyền con ngƣời có tính đồng nhất trong mọi hoàn

cảnh mọi không gian, thời gian. Còn theo khuynh hƣớng quyền pháp lý thì các

quyền con ngƣời có tính chất khác biệt tƣơng đối đầy đủ về lịch sử, văn hóa,

kinh tế, chính trị, xã hội, V. V...

28

Khuynh hƣớng pháp lý có điểm tích cực ở chỗ gắn quyền con ngƣời với

pháp luật, với ý chí nhà nƣớc, chỉ khi đƣợc pháp luật hóa thì mới trở thành

quyền. Tuy nhiên khuynh hƣớng này có điểm hạn chế ở chỗ tuyệt đối hóa nguồn

gốc quyền con ngƣời và ý chí nhà nƣớc, nhấn mạnh đến tính hợp pháp mà

không chú ý đến tính hợp lý của quyền [43, tr.41].

Đại diện tiêu biểu cho khuynh hƣớng quyền pháp lý là Edmund Burke

(1729 - 1797), Jeremy Bentham (1748 - 1832), John Stuart Mill (1806 - 1873).

Edmund Burke, trong tác phẩm Suy nghĩ về Cách mạng Pháp (Reílections on

the Revolution in France, 1770) và Jeremy Bentham, trong tác phẩm Phê phán

học thuyết về các quyền tự nhiên, không thể chuyển nhƣợng (Critique of the

Doctrine of Inalienable, Natural Rights, 1843) cùng cho rằng các ý tƣởng về các

quyền tự nhiên là vô nghĩa, và chẳng có quyền nào lại không thể chuyến nhƣợng

đƣợc [43, tr.43]. Jonh Stuart Mill trong tác phẩm Bàn về tự do (On Liberty,

1859) đã đề cập đến các quyền của cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng và

xã hội. John Stuart Mill cho rằng, con ngƣời có quyền tự do mƣu cầu hạnh phúc

cho điều kiện, không xâm phạm quyền tự do mƣu cầu hạnh phúc của ngƣời

khác. Quyền tự do đƣợc John Stuart Mill đề cập ở các nội dung: Quyền tƣ do tƣ

tƣởng, tự do tôn giáo, tự do hội họp, tự do thảo luận, tự do làm những điều mình

muốn, v.v...

Hai khuynh hƣớng chủ yếu về quyền con ngƣời vừa trình bày ở trên đã

đứng từ góc độ khác nhau đế xem xét về quyền con ngƣời. Khuynh hƣớng tự

nhiên nhấn mạnh đến góc độ pháp luật, thể chế. Do đó, đứng theo khuynh hƣớng

quyền tự nhiên thì quyền con ngƣời là đứng trên nhà nƣớc. Đối với khuynh

hƣớng quyền pháp lý thì quyền con ngƣời thuộc phạm vi pháp luật, thuộc vào

pháp luật, không có pháp luật thì không có quyền con ngƣời. Có thể thấy, hai

khuynh hƣớng trên đã tuyệt đối hóa hai khía cạnh cơ bản nhất của quyền con

ngƣời, do vậy cả hai quan điểm trên đều có điểm tích cực và hạn chế nhƣ đã

trình bày ở trên.

Từ hai khuynh hƣớng trên đã làm cho thời cận đại xuất hiện hai xu hƣớng.

Xu hƣớng thứ nhất, hay còn gọi là xu hƣớng tự do, cho rằng cần thu nhỏ quyền

29

lực nhà nƣớc, coi đó là điều kiện thỏa mãn yêu sách của con ngƣời nhằm đảm

bảo sự an toàn của cá nhân, của tự do tƣ tƣởng, quyền tƣ hữu. Xu hƣớng thứ hai

lại cho rằng cần mở rộng và tăng cƣờng quyền lực nhà nƣớc nhằm thiết lập một

quyền lực dân chủ để đảm bảo thỏa mãn yêu sách về các quyền của con ngƣời

[43, tr.18]. Ngƣời đại diện xu hƣớng thứ nhất là J. Locke, còn đại diện xu hƣớng

thứ hai là T. Hobbes.

Từ cách nhìn khác nhau về quyền con ngƣời, quyền công dân, các trƣờng

phái lý luận cũng có sự khác nhau cơ bản về hình thức tổ chức nhà nƣớc, ranh

giới giữa chính trị và vai trò của ngƣời dân. Tuy nhiên, các lý thuyết đều đi đến

thống nhất rằng nhà nƣớc không phải là vô hạn, nó bị giới hạn bởi một loạt các

quyền mà các công dân vẫn đƣợc bảo lƣu kể cả sau khi đã ký khế ƣớc xã hội.

Nhà nƣớc không thể buộc các công dân tiếp nhận một hình thức tƣ duy nào đó

hay chỉ nói những điều nhà nƣớc quy định. Ngƣợc lại, nhà nƣớc s hùng mạnh

khi nó vừa bảo đảm việc duy trì cuộc sống cho mỗi công dân vừa thỏa mãn

những nhu cầu của họ.

Đƣợc xem nhƣ học trò của Rousseau, Immanuel Kant (1724-1804) là nhà

tƣ tƣởng quan trọng nhất của triết học kỷ Ánh sáng. Kant thừa nhận sự tồn tại

của Chúa và sự bất tử của linh hồn nhƣng không thừa nhận mọi mƣu toan chứng

minh cho những gì ông tin chắc về sự thật căn bản của tinh thần. Về điểm này

Kant gần với Decartes. Kant là một trong những ngƣời sáng lập quan trọng nhất

của học thuyết triết học về các quyền cơ bản và ông đặt học thuyết này trong

mối quan hệ với tính bất khả xâm phạm của nhân phẩm con ngƣời.

Theo Immanuel Kant, mệnh lệnh thực tiễn là những gì : “hành động tới

mức anh đối xử với con ngƣời cũng nhƣ đối với bản thân anh và mọi cá nhân

khác, luôn cùng lúc, giống nhƣ một mục tiêu chứ không bao giờ là một phƣơng

tiện” [80, tr.295]. Ý tƣởng này s đƣợc nhắc lại một cách ngắn gọn trong tác

phẩm “Phê phán lý tính thực tiễn” với tựa đề “luật cơ bản của lý tính thực tiễn” :

“Hãy hành xử làm sao cho phƣơng châm của ý chí anh có thể cùng lúc có giá trị

nhƣ một nguyên tắc của luật pháp phổ biến” [81, tr.643].

30

Immanuel Kant đi xa hơn khi khẳng định: Bản thân con ngƣời chính là

nhân phẩm, thực tế con ngƣời không thể bị sử dụng bởi một ai đó đơn giản nhƣ

một phƣơng tiện, mà phải luôn đƣợc đối xử nhƣ một mục tiêu, và bằng cái đó

mà tạo nên nhân phẩm của con ngƣời (nhân cách của ngƣời đó), nhờ đó con

ngƣời vƣợt cao hơn tất cả các bản thể khác trên thế gian.

Quan niệm triết học về quyền con ngƣời đƣợc ƣơm mầm từ thời Cổ đại,

đƣợc nuôi dƣỡng và bổ sung trong suốt chiều dài lịch sử và trở thành học thuyết

vào thời kỳ Phục hƣng và kỷ Ánh sáng. Tất cả tạo thành tiền đề và nền tảng dẫn

đến việc thừa nhận các “quyền căn bản” bởi pháp luật thực định vào thế kỷ 17

thông qua Tuyên ngôn về các quyền của Anh 1688, thế kỷ 18 với Tuyên ngôn

độc lập của nƣớc Mỹ, Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của Pháp...

Emmamuel Kant là triết gia tiêu biểu nhất trong việc tạo lập nền tảng triết học

về quyền con ngƣời. Ông tiếp nhận một phần di sản của truyền thống luật tự

nhiên khách thể, phát triển thành học thuyết về quyền con ngƣời-nhân phẩm con

ngƣời. Dĩ nhiên, Kant vẫn trung thành với những phân biệt đối xử phổ biến của

thời đại ông nhƣ giữa đàn ông và phụ nữ, cũng nhƣ những cấm đoán tình dục

mang tính truyền thống. Tuy nhiên, có thể kết luận rằng Kant là ngƣời thiết lập

nên quan niệm về quyền con ngƣời với tƣ cách là một luận thuyết có hệ thống,

triết học Kant là nền tảng lý luận vững chắc để bảo vệ quyền cá nhân và mối liện

hệ của các quyền này với tính không thể xâm phạm của nhân phẩm con ngƣời.

Khi bàn đến vấn đề quyền con ngƣời, chúng ta không thể không bàn tới

quan niệm của chủ nghĩa Mac – Lênin về vấn đề quyền con ngƣời. C.Mac và

Ănghen chƣa bao giờ đƣa ra một định nghĩa nào về quyền con ngƣời nhƣ chúng

ta mong muốn, mặc dù các ông đã nhiều lần nói đến nội dung liên quan quyền

con ngƣời. Thậm chí nhiều khi các ông dùng chữ “quyền”, chúng ta cũng cần

phải hiểu là các ông đang nói đến “quyền con ngƣời”. Chính Mac đã khẳng định

điều đó: “Còn nói về quyền…quyền dƣới một hình thức chung nhất – với ý

nghĩa là quyền của con ngƣời” [61, tr.289].

Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ănghen có đề cập

đến tƣ tƣởng về quyền con ngƣời và quyền dân tộc theo cách nhìn của chủ nghĩa

31

duy vật lịch sử. Khắng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là ngƣời

“giải phỏng mình đồng thời giải phỏng toàn nhân loại. Để thực hiện sứ mệnh

lịch sử đó, đòi hỏi giai cấp vô sản mỗi nƣớc trƣớc hết phải giành lấy chính

quyền, “phải tự mình vƣơn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành

dân tộc " [1, tr.22].

Lênin cũng đã đấu tranh không mệt mỏi để giành lại quyền con ngƣời và

quyền dân tộc cho nhân loại. Ngoài những luận điểm về đấu tranh giai cấp để

giành lại quyền con ngƣời, Lênin đã vận dụng và phát triển sáng tạo những tƣ

tƣởng của C.Mác và Ph.Ănghen về vấn đề quyền dân tộc trong thời đại mới -

thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản - thời đại mà vấn đề dân tộc và

thuộc địa nổi lên gay gắt. Lênin đƣa ra Cƣơng lĩnh dân tộc trong “Tuyên ngôn

về các quyền ” với nội dung chủ yếu là: Thực hiện quyền dân tộc tự quyết, độc

lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, quyền bình đẳng giữa các dân tộc và chính

sách đại đoàn kết dân tộc.

1.3: Khái niệm giáo dục quyền con người

1.3.1: Một số vấn đề chung về giáo dục quyền con người

Quyền đƣợc sống, quyền đƣợc mƣu cầu hạnh phúc, tự do, bình đẳng… là

những quyền cơ bản của con ngƣời. Quyền con ngƣời là thành quả phát triển của

lịch sử lâu dài sự nghiệp đấu tranh giải phóng, cải tạo xã hội và cải tạo thiên

nhiên của cả nhân loại. Trong một thế giới đang toàn cầu hoá hiện nay, quyền

con ngƣời ở mỗi quốc gia, không kể hoàn cảnh lịch sử, chế độ chính trị - xã hội,

kinh tế và văn hoá đều có những giá trị chung giống nhau, không thể chia cắt và

phụ thuộc lẫn nhau, đó là tính phổ cập của quyền con ngƣời. Vấn đề quyền con

ngƣời có vai trò quan trọng nhƣ vậy, nên việc giáo dục quyền con ngƣời nhằm

làm cho mỗi con ngƣời ý thức biết tôn trọng quyền của ngƣời khác và tự mình

biết bảo vệ quyền của mình có ý nghĩa hết sức quan trọng không chỉ đối với Việt

Nam nói riêng mà còn đối với toàn thể quốc gia dân tộc trên thế giới nói chung.

Quyền con ngƣời chỉ có thể đƣợc nhận thức và thực hiện đầy đủ thông qua giáo

dục quyền con ngƣời, chỉ có giáo dục quyền con ngƣời một cách toàn diện mới

32

giúp con ngƣời hiểu và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, đồng thời

biết tôn trọng những quyền của mình và của ngƣời khác.

Khái niệm giáo dục quyền con ngƣời đƣợc đề cập tới trong nhiều tài liệu

của các tổ chức quốc tế cũng nhƣ dƣới góc độ quan điểm của các cá nhân. Khát

vọng bảo vệ nhân phẩm của tất cả con ngƣời là cốt lõi của khái niệm quyền con

ngƣời. Nó coi cá nhân con ngƣời là trọng tâm của sự quan tâm. Nó dựa trên một

hệ thống giá trị toàn cầu phổ biến nhằm cống hiến cho sự linh thiêng của cuộc

sống và tạo ra một khuôn khổ để xây dựng hệ thống quyền con ngƣời, đƣợc các

quy phạm và tiêu chuẩn quốc tế bảo vệ. Trong suốt thế kỷ XX, quyền con ngƣời

đã phát triển nhƣ một khuôn khổ đạo đức, chính trị, pháp lý và nhƣ một hƣớng

dẫn nhằm phát triển một thế giới tự do khỏi sợ hãi và tự do làm điều mong

muốn.

Hiện đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về giáo dục quyền con

ngƣời:

Quan niệm của giai cấp tƣ sản: Các nƣớc tƣ bản hiện đang rất quan tâm

đến vấn đề giáo dục quyền con ngƣời. Vấn đề này đƣợc các nƣớc phƣơng Tây

thực hiện thƣờng xuyên, liên tục cho mọi đối tƣợng cả trong phạm vi quốc gia

và cả trên phạm vi toàn cầu dƣới nhiều hình thức, phƣơng pháp khác nhau,

nhằm đạt đƣợc những mục đích khác nhau. Xuất phát từ lợi ích chính trị của

mình, họ chỉ tập trung vào việc giáo dục một số quan điểm về quyền con ngƣời

dƣới đây:

Ƣu tiên giáo dục các quyền tự nhiên:

Quan niệm này xuất phát từ việc tuyệt đối hóa quyền tự nhiên của con

ngƣời, dẫn đến việc tuyệt đối hóa cá nhân trong quan hệ cộng đồng xã hội, coi

quyền con ngƣời là bất khả xâm phạm, không phụ thuộc vào không gian, thời

gian, quốc gia, dân tộc. Mục đích của việc giáo dục quan điểm này nhằm:

Thứ nhất, đối với dân chúng trong nƣớc, quan điểm này tạo ra đƣợc một

hình thức xã hội dân chủ. Mọi ngƣời đều có quyền nhƣ nhau trong việc thực

hiện các mục tiêu, ý tƣởng sống, đƣợc quyền tự do, quyền sở hữu, quyền đƣợc

an toàn và chống áp bức...

33

Thứ hai, khi quyền, tự do cá nhân đƣợc đề cao tuyệt đối s dẫn đến việc

triệt tiêu quyền lợi của tập thể, nhóm, giới, xóa nhòa quyền giai cấp và s dẫn

đến hệ quả mà giai cấp tƣ sản - giai cấp đang thống trị xã hội mong muốn là ý

thức đấu tranh giai cấp trong xã hội bị thủ tiêu, ý thức đấu tranh đòi quyền lợi

của tập thể dân cƣ, sắc tộc, bộ phận xã hội bị xóa bỏ.

Theo Kế hoạch hành động của Thập kỷ Liên hiệp quốc về giáo dục quyền

con ngƣời (1995 - 2004), giáo dục quyền con ngƣời đƣợc hiểu là “các nỗ lực về

đào tạo, phổ biến, và thông tin nhằm tạo lập nền văn hóa toàn cầu về quyền con

ngƣời thông qua truyền đạt kiến thức, các kỹ năng, hình thành các thái độ và

hƣớng tới: Tăng cƣờng tôn trọng quyền con ngƣời và các quyền tự do cơ bản;

Phát triển đầy đủ nhân cách con ngƣời và ý thức về nhân phẩm; Tăng cƣờng

hiểu biết, khoan dung, bình đẳng giới và tình hữu nghị giữa các dân tộc, ngƣời

bản địa và các nhóm chủng tộc, quốc gia, đạo đức, tôn giáo và ngôn ngữ; Khả

năng hoạt động một cách có hiệu quả của tất cả mọi ngƣời trong một xã hội tự

do; Đẩy mạnh các hoạt động của Liên hợp quốc để gìn giữ hòa bình [34].

Một nhà nghiên cứu quyền con ngƣời thuộc Trung tâm quyền con ngƣời

của Trƣờng Đại học Minnesota, bà Nancy Flowers, cho rằng: “Giáo dục quyền

con ngƣời là tất cả quá trình học hỏi để phát triển kiến thức, kỹ năng và các giá

trị của quyền con ngƣời, nhằm thúc đẩy sự công bằng, khoan dung, nhân phẩm,

cũng nhƣ tôn trọng các quyền và nhân phẩm của ngƣời khác”. Trong khi đó,

theo ngƣời sáng lập Thập kỷ giáo dục quyền con ngƣời toàn dân, ông Shulamith

Koenig, giáo dục quyền con ngƣời là để “mọi ngƣời biết về quyền con ngƣời và

biết đƣa ra đòi hỏi về quyền con ngƣời” [6, tr.30].

Là tổ chức quốc tế tiên phong trong hoạt động thúc đẩy và bảo vệ nhân

quyền, Liên hợp quốc đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục nhân quyền, xem

đó nhƣ là một biện pháp cốt yếu và một chiến lƣợc hiệu quả để ngăn chặn các vi

phạm nhân quyền cũng nhƣ để xây dựng các xã hội bình đẳng, tự do và hòa

bình. Quan điểm của Liên Hợp Quốc về giáo dục quyền con ngƣời: Ngay từ khi

ra đời, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền đã lập tức có giá trị nhƣ một văn kiện

vĩ đại trong lịch sử nhân loại. Nó tạo ra sức mạnh về các khía cạnh pháp lý trong

34

quan hệ quốc tế, quốc gia, chính trị, đạo đức và những giá trị đó ngày càng

không ngừng đƣợc nâng cao với nền văn minh nhân loại. Kỷ niệm 50 năm

Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, Tổng thƣ ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan đã

phát biểu:

... Hôm nay, chúng ta ghi nhớ sự bắt đầu của năm thứ 50 sự ra đời của Tuyên

ngôn thế giới về nhân quyền. ở khắp mọi nơi trên thế giới, đàn ông, phụ nữ và

tr em thuộc đủ các màu da và tín ngƣỡng s tụ họp để đón nhận những quyền

con ngƣời chung của chúng ta... Nhân quyền là cơ sở của sự tồn tại và cùng tồn

tại của con ngƣời. Quyền con ngƣời là phổ biến, không thể chia tách và phụ

thuộc lẫn nhau. Nhân quyền là cái làm nên nhân loại chúng ta. Đó là những

nguyên tắc mang tính cơ sở để chúng ta thiết lập cái ngôi nhà thiêng liêng cho

phẩm giá loài ngƣời... Khi chúng ta nói về quyền sống, hoặc về quyền phát triển,

hoặc về quyền đƣợc bất đồng quan điểm và có sự khác biệt, có nghĩa là chúng ta

đang nói về khoan dung. Khoan dung nếu đƣợc tăng cƣờng, bảo vệ và ghi nhận,

s bảo đảm cho tự do của tất cả chúng ta. Thiếu sự khoan dung chắc chắn chúng

ta s không làm đƣợc gì... tính phổ biến của nhân quyền s cho nhân quyền sức

mạnh. Nó là động lực để nhân quyền liên kết các biên giới quốc gia, vƣợt qua

mọi trở ngại, thách thức và bạo lực... Cuộc đấu tranh cho các quyền con ngƣời

trên toàn cầu luôn diễn ra ở khắp mọi nơi và đã là cuộc đấu tranh chống trả tất

cả các hình thức chuyên chế tàn bạo và sự bất công, chống lại tình trạng nô lệ,

chống lại chủ nghĩa thực dân, chống lại chủ nghĩa A-pac-thai. Ngày hôm nay,

cuộc đấu tranh đó chƣa hề giảm sức mạnh và chƣa bị khác trƣớc [32, tr. 1].

Nhƣ vậy, mục đích của vấn đề giáo dục nhân quyền của Liên Hợp Quốc

chính là: "Xây dựng một nền văn hóa nhân quyền toàn cầu và cho phép mọi

ngƣời đƣợc hƣởng các quyền - giáo dục nhân quyền ở mọi cấp độ và cho tất cả

mọi ngƣời - xây dựng mối quan hệ hợp tác trên toàn cầu vì nhân quyền - thúc

đẩy sự khoan dung trong tƣ tƣởng nhân quyền rộng khắp thế giới" [42, tr. 6].

Những nội dung trên thể hiện quan điểm giáo dục quyền con ngƣời của

Liên Hợp Quốc, bao gồm những vấn đề sau:

35

Mục đích của giáo dục nhân quyền nhằm: xây dựng một nền văn hóa nhân

quyền toàn cầu và cho phép mọi ngƣời đƣợc hƣởng các quyền.

Nội dung của giáo dục nhân quyền: là toàn bộ các quyền con ngƣời đƣợc

ghi nhận trong các Tuyên ngôn, các Công ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời.

Đối tƣợng của giáo dục nhân quyền là toàn thể cộng đồng ngƣời, không

phân biệt nam nữ, già tr , dân tộc, tôn giáo... mọi ngƣời đều đƣợc quyền đƣợc

giáo dục nhƣ nhau về quyền con ngƣời.

Từ một số định nghĩa trên, có thể thấy rằng giáo dục quyền con ngƣời là

một quá trình nhằm truyền đạt các kiến thức, các kỹ năng để ngƣời học có

những hiểu biết về quyền con ngƣời, những giá trị phẩm giá, bình đẳng, tin

cậy lẫn nhau, sự tôn trọng và hiểu biết về quyền của ngƣời khác, tôn trọng

pháp luật để từ đó thúc đẩy mọi ngƣời tham gia vào mọi mặt của đời sống xã

hội và cùng nhau xây dựng một “nền văn hóa nhân quyền” chung. Đó cũng là

việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện việc tuyên truyền,

phổ biến cho mỗi cá nhân trong cộng đồng hiểu rõ những quyền cơ bản của

họ, đồng thời giúp họ hiểu đƣợc cách thức bảo vệ các quyền đó cũng nhƣ đạt

đƣợc các kỹ năng để có thể sử dụng các quyền này trong cuộc sống.

Nét đặc thù của giáo dục quyền con ngƣời khác với các dạng giáo dục

khác ở những điểm sau:

Trƣớc hết, nó phải nhằm mục đích giáo dục riêng. Giáo dục quyền con

ngƣời nhằm hình thành và mở rộng tri thức về quyền con ngƣời. Mục đích

cảm xúc: giáo dục quyền con ngƣời nhằm hình thành tình cảm và lòng tin đối

với việc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền con ngƣời. Mục đích hành vi: giáo

dục quyền con ngƣời nhằm hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự hợp

pháp, tích cực để bảo đảm, bảo vệ và thực hiện quyền con ngƣời

Nó phải chứa đựng nội dung giáo dục riêng. Nội dung giáo dục chú trọng

xoay quanh việc truyền bá tri thức của nhân loại, của dân tộc, những quan điểm

của Đảng và Nhà nƣớc về quyền con ngƣời.

Từ những phân tích trên có thể nêu khái niệm giáo dục quyền con ngƣời,

quyền công dân nhƣ sau: Giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân là hoạt

36

động có định hƣớng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên

đối tƣợng giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức về quyền con ngƣời, biết tự

mình bảo vệ quyền của mình và tôn trọng quyền của ngƣời khác phù hợp với các

yêu cầu, đòi hỏi của các chuẩn mực pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia và

tƣơng lai tiến bộ của nhân loại về quyền con ngƣời.

Với khái niệm trên, trong điều kiện ở nƣớc ta hiện nay, việc trang bị đầy

đủ, đúng đắn những tri thức về quyền con ngƣời, tạo ra tình cảm, thói quen ứng

xử theo quy định về quyền con ngƣời, quyền công dân cho mọi công dân trong

xã hội là trách nhiệm của Đảng, Nhà nƣớc, của các cơ quan chức năng, của các

tổ chức đoàn thể quần chúng, tổ chức kinh tế, trong đó, trách nhiệm này trƣớc

hết và trực tiếp là thuộc về hệ thống các cơ quan có chức năng giáo dục, đào tạo

con ngƣời.

1.3.2: Nội dung giáo dục quyền con người

Giáo dục quyền con ngƣời là vấn đề đƣợc các tổ chức quốc tế và các quốc

gia quan tâm, bởi nó có vai trò quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức xã

hội, phòng ngừa vi phạm và giúp mọi ngƣời biết cách tự bảo vệ quyền và tự do

của bản thân, đồng thời tôn trọng quyền và tự do của ngƣời khác. Giáo dục và

đào tạo quyền con ngƣời là một phần quan trọng của việc bảo vệ và thúc đẩy

quyền con ngƣời. Hiện nay, việc đƣa giáo dục quyền con ngƣời vào hệ thống

giáo dục quốc dân là yêu cầu cấp thiết. Ngày 5-9-2013, Thủ tƣớng Chính phủ đã

ban hành Quyết định số 1309/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đƣa nội dung quyền con

ngƣời vào chƣơng trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân. Nội dung đề

án đang đƣợc triển khai thực hiện, từng bƣớc hiện thực hóa quan điểm, chủ

trƣơng, chính sách của Đảng và thực hiện các cam kết quốc tế của Nhà nƣớc

Việt Nam về giáo dục quyền con ngƣời.

Việc xác định nội dung giáo dục quyền con ngƣời là yếu tố quan trọng

hàng đầu của quá trình giáo dục quyền con ngƣời. Nội dung giáo dục quyền con

ngƣời dựa trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu, đặc điểm của từng đối tƣợng cụ thể,

và xuất phát từ đặc điểm, nhiệm vụ, mục đích của dạng giáo dục này. Phạm vi

của dạng giáo dục này là rất rộng, có những đặc điểm đặc thù riêng không đồng

37

nhất, không lẫn với các nội dung giáo dục khác, nhƣng nó có thể lồng ghép, đan

xen với nội dung giáo dục khác nhƣ giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật.

Trƣớc hết, giáo dục quyền con ngƣời phải cung cấp cho mọi ngƣời thông

tin về quyền con ngƣời, toàn bộ các quyền con ngƣời đƣợc ghi nhận trong Hiến

pháp và các văn bản pháp luật. Đồng thời, giáo dục quyền con ngƣời phải cung

cấp cho mọi ngƣời những nguyên tắc về quyền con ngƣời chẳng hạn nhƣ tính

toàn thể, tính không thể tách rời, tính phụ thuộc lẫn nhau của quyền con ngƣời,

làm thế nào mà quyền con ngƣời thúc đẩy việc tham gia vào quá trình ra quyết

định và giải quyết hòa bình tranh chấp. Giáo dục quyền con ngƣời giúp mọi

ngƣời nhận thức một cách đúng đắn và đầy đủ về các quyền của bản thân, về

việc sử dụng luật về quyền con ngƣời để bảo vệ quyền con ngƣời đồng thời biết

tôn trọng và bảo vệ quyền của ngƣời khác. Thông qua hoạt động giáo dục quyền

con ngƣời, Việt Nam s sớm hội nhập với thế giới và khu vực, góp phần xây

dựng nền văn hóa nhân quyền toàn cầu và cho phép mọi ngƣời đƣợc hƣởng các

quyền theo mục tiêu giáo dục nhân quyền của Liên Hợp Quốc.

Từ những kiến thức đƣợc cung cấp từ hoạt động giáo dục quyền con

ngƣời nhƣ trên, con ngƣời có những hiểu biết về quyền của mình, sử dụng

những quyền đó nhƣ thế nào, trong hoàn cảnh nào, ở đâu, có những cơ chế nào

bảo đảm, bảo vệ cho họ thực hiện các quyền đó và phải làm gì khi có vi phạm.

Đó là những kiến thức thiết yếu để con ngƣời có thể thực hiện đƣợc quyền của

mình, để quyền con ngƣời không còn là cái gì xa lạ đối với ngƣời dân mà là hiện

thực trong cuộc sống của họ.

Tuy nhiên, không phải bất kỳ đối tƣợng giáo dục nào cũng đòi hỏi đƣợc

sự cung cấp đầy đủ tất cả các thông tin về quyền con ngƣời nêu trên. Và cũng

không thể thực hiện giáo dục một cách máy móc, thuần túy chỉ là cung cấp

thông tin, mà cần phải lƣu ý tới một thực tiễn, sự tồn tại mâu thuẫn của các

thông tin, sự phủ định lẫn nhau của các thông tin và những đặc điểm đặc thù của

nội dung giáo dục quyền con ngƣời để có nhận thức đầy đủ, khách quan, chính

xác của chủ thể và đối tƣợng giáo dục. Cần phải có sự phân tích, đánh giá một

cách khoa học, khách quan về các thông tin để tạo ra nhận thức một cách đúng

38

đắn về quyền con ngƣời, tránh tình trạng áp đặt chủ quan, định kiến duy ý chí,

dẫn đến sự nhận thức sai lệch hoặc không đạt hiệu quả cao của giáo dục quyền

con ngƣời. Vì thế, khi thực hiện giáo dục quyền con ngƣời, cần phải xác định

mục đích giáo dục cần đạt đƣợc của từng đối tƣợng giáo dục, trên cơ sở đó xác

định mức độ, từng cấp giáo dục khác nhau cho từng đối tƣợng cụ thể.

Giáo dục về quyền con ngƣời đồng thời cũng đem đến cho con ngƣời cảm

giác về trách nhiệm để tôn trọng và bảo vệ quyền con ngƣời và trao cho họ các

kỹ năng để hành động phù hợp. Các kỹ năng hành động đó bao gồm: Nhận biết

rằng quyền con ngƣời có thể đƣợc thúc đẩy và bảo vệ ở nhiều cấp, thông qua

từng cá nhân cụ thể, tập thể hay cấp độ thể chế; Phát triển các hiểu biết mang

tính phê bình về hoàn cảnh sống; Phân tích các hoàn cảnh thông qua quan điểm

đạo đức;Nhận thức rằng các hoàn cảnh không công bằng có thể đƣợc cải thiện;

Nhận thức rằng mọi cá nhân và các thành phần xã hội đều có thể đóng góp vào

việc bảo vệ quyền con ngƣời;Phân tích các yếu tố tạo ra sự vi phạm nhân quyền;

Nhận biết và có khả năng sử dụng các công cụ về quyền con ngƣời mang tính

toàn cầu, khu vực, quốc gia, địa phƣơng và các cơ chế khác để bảo vệ quyền con

ngƣời; Có kế hoạch hành động phù hợp để đáp lại việc thiếu công bằng; Hành

động để thúc đẩy và bảo vệ quyền con ngƣời.

Ở Việt Nam hiện nay, nội dung giáo dục quyền con ngƣời, quyền công

dân phải chú trọng cung cấp cho ngƣời dân những quan điểm cơ bản của chủ

nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng ta về vấn đề quyền con ngƣời, quyền

công dân, cũng nhƣ những nội dung những quyền đã đƣợc thể chế hóa từ Hiến

pháp 1992 đến nay và trong hệ thống pháp luật. Nội dung giáo dục quyền con

ngƣời ngoài những nội dung trên còn cần phải nhấn mạnh vào giáo dục Hiến

pháp nhƣ một phần quan trọng của giáo dục quyền con ngƣời, vì một mặt, Hiến

pháp là đạo luật cao nhất, là hệ quy chiếu cho tất cả những quy định pháp luật

Nhà nƣớc; mặt khác, Hiến pháp thể hiện đầy đủ nội dung giáo dục quyền con

ngƣời mà Nhà nƣớc đảm bảo cam kết thực hiện. Ý thức về Hiến pháp có vai trò

đặc biệt quan trọng trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền, tự do của

con ngƣời. Tƣ tƣởng, nhận thức về hiệu lực trực tiếp của Hiến pháp liên quan

39

đến các quyền con ngƣời cũng s định hƣớng, dẫn dắt và kiểm soát, kìm chế

những sự lạm dụng pháp luật gây phƣơng hại, làm sai lệch bản chất của các

quyền.

Việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung của Hiến pháp,

nâng cao nhận thức và niềm tin về Hiến pháp để hình thành ý thức tự giác, tôn

trọng và chấp hành Hiến pháp; bảo đảm cho Hiến pháp đƣợc tuân thủ và nghiêm

chỉnh chấp hành trong mọi tầng lớp nhân dân... s góp phần cải thiện thực trạng

về quyền con ngƣời ở Việt Nam. Nhằm giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân

nhận thức rõ mục đích, ý nghĩa và kết quả của việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992,

những nét mới của Hiến pháp (sửa đổi); tạo sự thống nhất cao trong Đảng, sự

đồng thuận trong xã hội về việc triển khai và thực thi Hiến pháp, pháp luật.

1.3.3: Vai trò của giáo dục quyền con người trong điều kiện xây dựng Nhà nước

Pháp quyền ở nước ta hiện nay

Quyền con ngƣời luôn là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá sự phát

triển và tiến bộ của xã hội cũng nhƣ là tiền đề cho sự phát triển đầy đủ về nhân

cách và năng lực của mỗi cá nhân. Ở phạm vi rộng hơn, quyền con ngƣời là sự

kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền văn hóa nhân loại. Những giá trị

này đƣợc kết tinh từ tất cả các quốc gia, dân tộc, giai cấp và mỗi một con ngƣời

trên trái đất. Chính vì vậy, việc bảo đảm các quyền con ngƣời là tiền đề cho hòa

bình- hạnh phúc và thịnh vƣợng của toàn nhân loại.

Nhà nƣớc pháp quyền là thành tựu của nền văn minh nhân loại trong tiến

trình phát triển xã hội loài ngƣời. Tƣ tƣởng Nhà nƣớc pháp quyền đƣợc hình

thành từ lâu trong lịch sử và ngày càng hoàn thiện nhƣ một phƣơng thức tổ chức

Nhà nƣớc mà trong đó có các đặc điểm nội bật nhƣ: quyền lực Nhà nƣớc đƣợc

bắt nguồn từ nhân dân; các quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp đƣợc phân công

thực hiện rõ ràng; pháp luật là tối thƣợng; và các cam kết quốc tế đƣợc Nhà

nƣớc đảm bảo thực hiện. Đặc biệt, trong Nhà nƣớc pháp quyền, quyền con

ngƣời luôn luôn đƣợc coi trọng; pháp luật quy định đầy đủ về quyền con ngƣời

và đƣợc bảo đảm trong thực tế. Nhà nƣớc pháp quyền là một Nhà nƣớc mà ở đó,

quyền và nghĩa vụ của tất cả và của mỗi ngƣời đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo

40

vệ. Nhà nƣớc và cá nhân phải tuân thủ pháp luật, việc thực hiện pháp luật đƣợc

bảo đảm bằng một hệ thống Tòa án độc lập. Nhà nƣớc pháp quyền có nghĩa vụ

tôn trọng giá trị cao nhất là con ngƣời. Nhà nƣớc phải đảm bảo cho công dân có

đủ khả năng và điều kiện chống lại sự tùy tiện của Nhà nƣớc, có một cơ chế chặt

ch để kiểm tra tính hợp pháp và hợp hiến của pháp luật và các hành vi của bộ

máy chính quyền Nhà nƣớc. Nhà nƣớc pháp quyền phải tạo ra cho công dân sự

bảo đảm rằng ngƣời ta không bị đòi hỏi cái ngoài hoặc trên những điều đƣợc

quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Trong Nhà nƣớc pháp quyền, Hiến pháp

giữ vị trí tối cao trong hệ thống pháp luật. Hiến pháp xây dựng trên cơ sở bảo

đảm tự do và quyền công dân [36, tr.39-40].

Ở nƣớc ta, tƣ tƣởng Nhà nƣớc pháp quyền đã có từ lâu. Nghiên cứu các

bản Hiến pháp nƣớc ta từ trƣớc tới nay (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992) cho

thấy các yếu tố đặc trƣng của Nhà nƣớc pháp quyền đã đƣợc hình thành. Các

bản Hiến pháp ở mức độ này hay mức độ khác đều khẳng định quyền lực Nhà

nƣớc thuộc về nhân dân, Nhà nƣớc quản lý xã hội bằng pháp luật và tăng cƣờng

pháp chế xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo

vệ các quyền con ngƣời, phân công thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tƣ

pháp… Và một lần nữa tƣ tƣởng Nhà nƣớc pháp quyền lại đƣợc khẳng định

trong Hiến pháp Việt Nam sửa đổi, đƣợc thông qua tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội

Khóa XIII ngày 28/11/2013. Một trong những nội dung đổi mới, bƣớc tiến quan

trọng của Hiến pháp sửa đổi là đề cao nhân quyền nhƣ một điều kiện để xây

dựng Nhà nƣớc pháp quyền, từ đó thể chế hóa quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa

vụ công dân, đồng thời xác lập trách nhiệm bảo đảm những quyền đó đƣợc thực

hiện trên thực tế. Hiến pháp sửa đổi khẳng định, các quyền con ngƣời, quyền

công dân đƣợc Nhà nƣớc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp

và pháp luật. Trƣớc đây, Chƣơng 5 Hiến pháp năm 1992 quy định quyền và

nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp năn 2013 đã mở rộng tên chƣơng là

“Quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” và đặt tại Chƣơng

2, ngay sau Chƣơng 1 quy định về chế độ chính trị, để khẳng định vị trí quan

trọng của quyền con ngƣời, quyền công dân và cam kết của Nhà nƣớc ta trong

41

việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân đúng nhƣ

Công ƣớc quốc tế mà nƣớc ta là thành viên. Chƣơng 2 của Hiến pháp 2013 là

chƣơng có số lƣợng điều nhiều nhất, gồm 36 điều (từ Điều 14 đến Điều 49) ghi

nhận quyền con ngƣời, quy định quyền công dân, đƣợc thể hiện một cách đầy

đủ, 26 chính xác, có tính khả thi cao. Các quy định này theo hƣớng mở rộng, tôn

trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con ngƣời, quyền công dân. Đặc

biệt với Hiến pháp 2013, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, quyền

đƣợc bảo đảm an sinh xã hội của mọi ngƣời dân đƣợc chính thức khẳng định

thành một điều riêng (Điều 34). Quyền này đƣợc xác lập, thực hiện cùng với

quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự,

kinh tế, văn hóa, xã hội; quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi

làm việc của công dân. Ngƣời làm công ăn lƣơng đƣợc bảo đảm các điều kiện

làm việc công bằng, an toàn; đƣợc hƣởng lƣơng, chế độ nghỉ ngơi. Nhà nƣớc

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động và

tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định. Phụ nữ

đƣợc tạo điều kiện để phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã

hội. Tr em đƣợc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục. Thanh niên đƣợc học tập, lao

động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ. Ngƣời cao tuổi đƣợc tôn trọng, chăm sóc

và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... Đây chính là

cơ sở quan trọng để cụ thể hóa Hiến pháp trong đời sống bằng các luật. Ngay

khi Hiến pháp có hiệu lực thì trong kế hoạch triển khai, Ủy ban Thƣờng vụ

Quốc hội đã ban hành kế hoạch thi hành Hiến pháp, trong đó ƣu tiên các luật

liên quan đến tổ chức bộ máy để rà soát, sửa đổi; đồng thời tăng cƣờng công tác

giáo dục quyền con ngƣời.

Nhân dân Việt Nam hiểu hơn ai hết giá trị của độc lập, tự do và những giá

trị thiêng liêng của quyền con ngƣời. Những tƣ tƣởng này đƣợc Chủ tịch Hồ Chí

Minh đúc kết trong câu nói nổi tiếng đã trở thành chân lý của nhân dân ta, đó là

“Không có gì quý hơn độc lập tự do”.

Các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng vấn đề nhân quyền để xuyên tạc,

vu khống Việt Nam không bảo đảm các quyền con ngƣời hòng gây mất ổn định

42

tình hình trong nƣớc, tạo tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân, phục

vụ cho mục đích phá hoại sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta.

Chúng ta trƣớc sau nhƣ một, kiên trì quan điểm bảo đảm quyền con

ngƣời, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng dân chủ, nhân quyền để

xuyên tạc, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Bên cạnh đó, tiến hành

các hoạt động ngoại giao, đối thoại với các đối tác quan tâm đến vấn đề nhân

quyền tại Việt Nam là Mỹ, Thụy Sỹ, EU, Pháp và Ôxtrâylia. Thông qua đó, các

tổ chức và quốc gia s hiểu hơn về tình hình nhân quyền tại Việt Nam tránh

đƣợc những quan niệm sai lầm, lệch lạc cho rằng chúng ta vi phạm nhân

quyền.

Do đó, vấn đề giáo dục về quyền con ngƣời là mục tiêu không thể tách rời

trong xây dựng một Nhà nƣớc pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân

dân, bởi vì, để ngƣời dân tuân theo pháp luật, biết sử dụng luật pháp để bảo vệ

quyền lợi chính đáng của mình thì trƣớc tiên họ phải hiểu là họ có quyền làm

điều đó, họ phải biết đƣợc cách thức để thực hiện yêu cầu của mình. Chính vì

vậy, việc Đảng và Nhà nƣớc ta quan tâm tới việc giáo dục quyền con ngƣời

chính là sự thể hiện quyết tâm xây dựng một Nhà nƣớc pháp quyền của dân, do

dân, vì dân trong thời kỳ hội nhập và phát triển.

Ngoài ý nghĩa chính trị, giáo dục quyền con ngƣời còn có ý nghĩa xã hội

sâu sắc, vì nó s giúp tất cả các chủ thể: từ công chức Nhà nƣớc đến ngƣời dân

bình thƣờng, từ ngƣời thành thị đến ngƣời nông thôn, từ ngƣời dân miền xuôi

đến đồng bào miền ngƣợc... nhận thức đúng đắn hơn về quyền và nghĩa vụ đối

với bản thân, gia đình và cộng đồng xã hội... Thông qua giáo dục quyền con

ngƣời, bản thân những cán bộ, công chức trong hệ thống cơ quan quản lý Nhà

nƣớc s hiểu rõ hơn trách nhiệm của mình là phục vụ nhân dân, tránh bệnh quan

liêu, lãnh cảm của cán bộ, công chức trƣớc ngƣời dân. Mỗi cá nhân s nhận thức

đầy đủ hơn về quyền đƣợc đối xử công bằng, đƣợc yêu thƣơng chăm sóc bởi

ngƣời thân và cộng đồng xã hội, s biết đƣợc trong trƣờng hợp nào những quyền

cơ bản của mình bị xâm hại và đƣợc quyền lên tiếng yêu cầu các cơ quan Nhà

nƣớc, các cá nhân có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình. Đồng

43

thời, mỗi ngƣời cũng ý thức rõ ràng hơn về việc phải tôn trọng quyền cơ bản của

những ngƣời xung quanh, biết yêu thƣơng, chia s , sống có trách nhiệm hơn với

bản thân, gia đình cũng nhƣ xã hội... Khi đƣợc giáo dục về quyền con ngƣời,

mỗi ngƣời trong cộng đồng xã hội s nhận thức rõ hơn về những giá trị về danh

dự nhân phẩm, từ đó có cách hành xử chuẩn mực, văn hóa hơn.

Giáo dục quyền con ngƣời thể hiện sự chủ động, tích cực của Việt Nam

trong việc thực hiện các cam kết và điều ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời. Đến

nay, Việt Nam đã ký, phê chuẩn hoặc gia nhập 09 công ƣớc và 02 nghị định thƣ

bổ sung công ƣớc trong tổng số gần 20 công ƣớc và nghị định thƣ bổ sung công

ƣớc về nhân quyền do Liên Hợp Quốc ban hành. Với số lƣợng nhƣ vậy, Việt

Nam đã tham gia hầu hết các điều ƣớc quốc tế chính về nhân quyền do Liên Hợp

Quốc ban hành... Việc tích cực tham gia các điều ƣớc quốc tế tạo hành lang

pháp lý làm cơ sở để bảo vệ quyền con ngƣời, giáo dục quyền con ngƣời chính

là biện pháp hữu hiệu để quyền con ngƣời đƣợc đảm bảo thực hiện trên thực tế.

Điều này thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết

quốc tế của Việt Nam về vấn đề quyền con ngƣời và là minh chứng rõ ràng để

chống lại các tƣ tƣởng xuyên tạc của các thế lực thù địch về vấn đề nhân quyền

ở Việt Nam. Giáo dục quyền con ngƣời góp phần nâng cao niềm tin của quần

chúng nhân dân vào Đảng và Nhà nƣớc. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng

lần thứ VII khóa IX đƣa ra nhận định: “Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nƣớc và

nhân dân tuy đã đƣợc chăm lo củng cố và phát triển, nhƣng chƣa thật bền chặt

và đang đứng trƣớc những thách thức mới; lòng tin vào Đảng, Nhà nƣớc và chế

độ của một bộ phận nhân dân chƣa thật vững chắc, có phần vì đời sống còn

nhiều khó khăn, vì bất bình trƣớc những bất công xã hội, trƣớc tình trạng tham

nhũng, quan liêu, lãng phí còn phổ biến và nghiêm trọng; kỷ cƣơng, pháp luật

nhiều lúc, nhiều nơi bị buông lỏng; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; trật tự an

toàn xã hội còn phức tạp. Các vụ khiếu kiện đông ngƣời vẫn còn nhiều, có lúc,

có nơi còn gay gắt.” Chính vì vậy, thông qua hoạt động giáo dục quyền con

ngƣời, các quyền cơ bản của con ngƣời đƣợc tôn trọng và bảo vệ, đạo đức xã hội

44

đƣợc nâng cao hơn... Nhờ đó, quần chúng nhân dân s đặt niềm tin nhiều hơn

vào đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc [33].

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Quyền con ngƣời là yếu tố cơ bản, nền tảng của một xã hội dân chủ, văn

minh. Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời đã hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân

loại; nhƣng không phải trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào, trong bất cứ

kiểu Nhà nƣớc nào nó cũng tồn tại và đƣợc thừa nhận một cách đầy đủ. Vì thế,

quyền con ngƣời là một phạm trù lịch sử và là kết quả của cuộc đấu tranh không

ngừng của toàn nhân loại vƣơn tới những ý tƣởng, giải phóng hoàn toàn con

ngƣời nhằm xây dựng một xã hội thật sự công bằng, dân chủ, nhân đạo. Nguyên

Thứ trƣởng Bộ Tƣ pháp Hoàng Thế Liên đã từng nói: “Quyền con ngƣời là một

giá trị tinh hoa của nhân loại, là khát vọng và thành quả đấu tranh của các dân

tộc trên toàn thế giới. Nhà nƣớc Việt Nam luôn coi con ngƣời vừa là mục tiêu,

vừa là động lực của mọi chính sách phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện nhất

quán chính sách bảo đảm và thúc đẩy các quyền con ngƣời”.

Giáo dục quyền con ngƣời là một chiến lƣợc dài hạn, dành cho thế hệ

tƣơng lai. Giáo dục quyền con ngƣời không dành cho những ngƣời thiếu kiên

nhẫn, muốn nhìn thấy sự thay đổi ngay lập tức. Giáo dục quyền con ngƣời nhằm

xây dựng những chƣơng trình sáng tạo để thúc đẩy phát triển con ngƣời, hòa

bình, dân chủ và tôn trọng Nhà nƣớc pháp quyền. Giáo dục quyền con ngƣời ở

Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa chiến lƣợc đối với sự nghiệp

giáo dục - đào tạo thế hệ tr ; đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền

xã hội chủ nghĩa; là cơ sở để quần chúng nhân dân hình thành nhận thức đúng

đắn về quyền con ngƣời, củng cố niềm tin của quần chúng đối với Đảng, Nhà

nƣớc; chống lại những k lợi dụng nhân quyền để xuyên tạc, vu khống chế độ,

lừa dối, mua chuộc; chống lại những hoạt động lợi dụng chiêu bài "nhân quyền"

của một số nƣớc phƣơng Tây và các thế lực phản động, thù địch chống phá công

cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính vì thế, nghiên cứu về giáo

dục quyền con ngƣời, đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp kịp thời đòi hỏi sự

quan tâm hơn nữa của các nhà khoa học trong thời gian tới.

45

Chƣơng 2: Thực trạng và một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao công

tác giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay

2.1: Thực trạng giáo dục quyền con người ở Việt Nam hiện nay

2.1.1: Những thành tựu đã đạt được

*Thành tựu đạt được của chủ thể trong việc ghi nhận về quyền con người

trong các văn bản pháp luật

Khi nói đến một thể chế chính trị tiến bộ, một quốc gia văn minh, thì

không thể không nói đến thể chế chính trị, quốc gia đó có quan tâm đến việc bảo

đảm những quyền cơ bản của con ngƣời hay không. Chế độ chính trị XHCN mà

Việt Nam đang nỗ lực xây dựng, thực hiện là một chế độ của nhân dân, do nhân

dân, vì nhân dân. Vì vậy, từ khi lập quốc theo thể chế dân chủ XHCN đến nay,

Việt Nam đã kiên trì theo đuổi mục tiêu không ngừng bảo đảm quyền con ngƣời

cho mọi ngƣời dân.

Tuy không phải là quốc gia đầu tiên đề ra các vấn đề về quyền cơ bản của

con ngƣời, nhƣng Việt Nam là một trong số ít các quốc gia sớm tiếp cận về

quyền con ngƣời. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nƣớc Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Tất cả các

dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,

quyền sung sƣớng và quyền tự do”. Nhƣ vậy, thông qua khẳng định các giá trị

của một dân tộc là quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sƣớng, quyền tự

do, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn nhấn mạnh quyền con ngƣời chỉ thực sự đƣợc

bảo đảm khi gắn liền với quyền độc lập, tự do của dân tộc.

Quốc hiệu Việt Nam từ khi thành lập chính quyền cách mạng đến nay

cũng nhất quán một khẩu hiệu: “Độc lập- Tự do- Hạnh phúc”. Điều đó có nghĩa

là, mục tiêu trƣớc sau nhƣ một mà cả dân tộc Việt Nam kiên trì thực hiện là bảo

đảm dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Điều này đã đƣợc

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng Giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất hơn

một lần nhấn mạnh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, và: “Nếu nƣớc độc

lập mà dân không hƣởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý

gì”.

46

Nhƣ vậy, nếu bản “Tuyên ngôn thế giới về quyền con ngƣời” mà Đại hội

đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10-12-1948, trong đó vấn đề hàng đầu mà

Tuyên ngôn này khuyến nghị cộng đồng quốc tế và các quốc gia dân tộc phải

thực hiện là bảo đảm “Tự do, công lý và hòa bình”; thì vấn đề quyền tự do trong

bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đƣợc nêu ra trƣớc 3 năm

so với bản “Tuyên ngôn thế giới về quyền con ngƣời”. Nhắc lại điều đó để thấy,

với tầm nhìn vƣợt thời đại của mình, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân

và dân tộc Việt Nam đã khẳng định Việt Nam luôn tôn trọng các giá trị quyền

con ngƣời và cam kết thực hiện quyền con ngƣời trƣớc cộng đồng quốc tế.

Qua nhiều lần xây dựng, sửa đổi Hiến pháp, từ các bản Hiến pháp 1946,

Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 đến Hiến pháp 2013 luôn giữ

một vấn đề căn cốt là hiến định các quyền con ngƣời và quyền công dân. Đại hội

VII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu bao trùm là xây dựng đất

nƣớc Việt Nam theo con đƣờng XHCN “Dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công

bằng, văn minh”, thì đến đại hội sau, mục tiêu này đƣợc bổ sung là: “Dân giàu,

nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và sau đó là “Dân giàu, nƣớc

mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bổ sung tiêu chí “dân chủ” và đƣa tiêu

chí “dân chủ” lên trƣớc tiêu chí “công bằng, văn minh” không chỉ là vấn đề câu

chữ, mà thực chất là Đảng ta đã xác lập đúng vị trí, vai trò dân chủ- nội hàm liên

quan đến quyền là chủ, quyền làm chủ của nhân dân để bảo đảm quyền con

ngƣời ngày càng tốt hơn (Điều 3 – Hiến pháp năm 2013).

Do trải qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân đế quốc kéo dài suốt ba

thập niên (1945-1975) và chịu sự tác động, ảnh hƣởng của cuộc khủng khoảng

kinh tế- xã hội khoảng chục năm sau khi đất nƣớc thống nhất, dù rất quan tâm,

song Việt Nam chƣa có điều kiện thuận lợi để bảo đảm thực sự đầy đủ các

quyền con ngƣời. Tuy vậy, kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, hơn

30 năm qua, Việt Nam ngày càng nhận thức sâu sắc và bảo đảm tốt hơn quyền

con ngƣời trên tất cả các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Việt Nam đã đạt đƣợc những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực giáo dục

quyền con ngƣời, quyền công dân; đặc biệt là việc giáo dục quyền tr em theo

47

nội dung Công ƣớc Liên hợp quốc về quyền tr em (CRC), giáo dục quyền phụ

nữ theo nội dung công ƣớc của Liên hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt

đối xử phụ nữ.

Đảng, Nhà nƣớc đã đề ra chủ trƣơng, chính sách và có sự quan tâm chỉ

đạo thực hiện hoạt động giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân ở Việt Nam,

đặc biệt là sự quan tâm chỉ đạo trong các hoạt động giáo dục quyền tr em,

quyền phụ nữ. Sự quan tâm chỉ đạo này của Đảng, Nhà nƣớc thể hiện cụ thể

trong việc thành lập các cơ quan chuyên trách nhà nƣớc về nghiên cứu quyền

con ngƣời, các cơ quan chuyên trách về quyền phụ nữ, quyền tr em; đào tạo đội

ngũ cốt cán về vấn đề này; chỉ đạo xây dựng các chƣơng trình hành động quốc

gia về quyền phụ nữ, quyền tr em. Những kết quả đạt đƣợc trong việc giáo dục

quyền phụ nữ, quyền tr em ở Việt Nam đã mang đến cách nhìn mới của thế giới

và khu vực đối với Việt Nam, từ đó tạo ra khả năng thuận lợi hơn cho Việt Nam

trong hội nhập khu vực và quốc tế. Với quan điểm: "Tiến bộ của tr em phải là

một mục tiêu chủ chốt của sự phát triển chung của quốc gia: Nó cũng phải là

một bộ phận thống nhất của chiến lƣợc phát triển thế giới rộng lớn hơn đối với

thập kỷ phát triển thứ ta của Liên Hợp Quốc. Vì tr em của hôm nay là những

công dân của thế giới ngày mai, nên sự sống còn, bảo vệ và phát triển của tr em

là điều kiện tiên quyết đối với sự phát triển tƣơng lai của loài ngƣời" [35, tr. 14],

ngay từ rất sớm Đảng, Chính phủ và nhân dân ta đã luôn quan tâm tới việc chăm

sóc, giáo dục và bảo vệ tr em. Từ năm 1960 đã có phong trào "toàn dân chăm

sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng". Tháng 11/1979 ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội

nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Pháp lệnh "Bảo vệ và chăm

sóc tr em". Tiếp tục đƣờng lối chính sách đó, Việt Nam đã ngay lập tức phê

chuẩn công ƣớc quốc tế về "quyền tr em" (là nƣớc thứ hai trên thế giới, là nƣớc

châu á đầu tiên ký và phê chuẩn công ƣớc này).

*Thành tựu trong giáo dục cho người dân về nội dung quyền con người

Hiện nay, nội dung về quyền con ngƣời đã đƣợc đƣa vào chƣơng trình

giáo dục của một số cấp học, ngành học trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Trong một số chƣơng trình chính khóa ở cấp tiểu học, trung học cơ sở và trung

48

học phổ thông đã có sự lồng ghép quyền công dân, quyền tr em vào môn học

đạo đức, giáo dục công dân, ngữ văn. Trong các chƣơng trình đào tạo đại học,

quyền con ngƣời đã đƣợc tích hợp, lồng ghép vào một số môn học nhƣ Luật

Hiến pháp, Luật Hành chính, Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự, Luật Công

pháp quốc tế... Năm 2008, các nội dung về quyền con ngƣời đƣợc xây dựng

thành môn học độc lập “Lý luận và pháp luật về quyền con ngƣời” và đƣợc đƣa

vào giảng dạy cho sinh viên Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nội dung

quyền con ngƣời cũng đã đƣợc đƣa vào chƣơng trình đào tạo của một số trƣờng

đại học thuộc khối ngành luật, hành chính và nội chính với hình thức môn học

bắt buộc hoặc lựa chọn nhƣ Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật thành phố Hồ

Chí Minh, Học viện Hành chính quốc gia, Học viện Cảnh sát nhân dân, Học

viện An ninh nhân dân, Đại học Kiểm sát Hà Nội, Học viện Ngoại giao...

Giáo dục quyền con ngƣời cũng đã đƣợc thực hiện từ lâu trong các nhà

trƣờng phổ thông ở Việt Nam, chủ yếu thông qua môn học đạo đức công dân.

Tuy nhiên, kể từ khi Đổi mới đến nay, hoạt động giáo dục nhân quyền trong các

nhà trƣờng phổ thông ở Việt Nam đã đƣợc tăng cƣờng thêm một bƣớc mới, với

việc lồng ghép nhiều nguyên tắc và tiêu chuẩn cụ thể của luật nhân quyền quốc

tế vào chƣơng trình giáo dục của các nhà trƣờng, đặc biệt là trong môn học Giáo

dục công dân (thực hiện ở các cấp phổ thông từ I, II đến III). Cụ thể nhƣ sau:

Đối với học sinh tiểu học (cấp I), môn học Đạo đức đã bao gồm các bài

học nhằm hƣớng dẫn các em tôn trọng ngƣời khác nhƣ: tôn trọng khách nƣớc

ngoài, tôn trọng thƣ từ, tài sản của ngƣời khác (Lớp 3); tôn trọng phụ nữ (Lớp

5)…Trong các bài học này, tuy các khái niệm cụ thể về quyền chƣa đƣợc sử

dụng (chẳng hạn khi nói về tôn trọng phụ nữ thì mới nêu các lý do về đạo đức,

xã hội chứ chƣa đề cập đền "quyền của phụ nữ") và các kiến thức, thông tin

chuyển tải mới ở mức độ đơn giản, nhƣng rõ ràng thông qua các bài học kể trên,

học sinh có thể hiểu đƣợc một số nguyên tắc cơ bản của quyền con ngƣời và

nghĩa vụ tôn trọng các quyền con ngƣời của các nhóm đối tƣợng có liên quan.

Ở cấp trung học cơ sở phổ thông (cấp II), số lƣợng bài học về quyền con

ngƣời trong chƣơng trình học đã nhiều hơn, các bài học chứa đựng những kiến

49

thức rộng và sâu hơn về quyền con ngƣời. Mặc dù vậy, tƣơng tự nhƣ ở cấp tiểu

học, các bài học về quyền con ngƣời ở cấp trung học cơ sở vẫn đƣợc thiết kế

thông qua những bối cảnh sinh hoạt hàng ngày và phù hợp với nhận thức xã hội

của học sinh theo từng độ tuổi, để giúp các em có thể hiểu đƣợc các khái niệm

và phạm trù đôi khi khá phức tạp trên lĩnh vực này. Cụ thể, các bài học về quyền

con ngƣời trong môn học Giáo dục công dân của học sinh phổ thông cấp II đƣợc

thiết kế nhƣ sau [12]:

*Trong môn học Giáo dục công dân Lớp 6 (tổng số 21 bài) có các bài:

Công ƣớc của Liên hợp quốc về quyền tr em (bài 12); Công dân nƣớc

CHXHCN Việt Nam (bài 13); Quyền và nghĩa vụ học tập (bài 15); Quyền đƣợc

pháp luật bảo vệ về tính mạng, thân thể, sức kho , danh dự và nhân phẩm (bài

16); Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở (bài 17); Quyền đƣợc bảo đảm an toàn

và bí mật thƣ tín, điện thoại, điện tín (bài 18); Trong môn học Giáo dục công

dân Lớp 7 (tổng số 18 bài) có các bài:; Quyền đƣợc chăm sóc và giáo dục của

tr em Việt Nam (bài 13); Quyền tự do tín ngƣỡng và tôn giáo (bài 16); Nhà

nƣớc CHXHCN Việt Nam (bài 17).

*Trong môn học Giáo dục công dân Lớp 8 (tổng số 21 bài) có các

bài: Quyền và nghĩa vụ của công dân trong gia đình (bài 12); Quyền sở hữu tài

sản và nghĩa vụ tôn trọng tài sản của ngƣời khác (bài 16); Quyền khiếu nại, tố

cáo của công dân (bài 18); Quyền tự do ngôn luận (bài 19); Hiến pháp nƣớc

CHXHCN Việt Nam (bài 20); Pháp luật nƣớc CHXHCN Việt Nam (bài 21).

*Trong môn học Giáo dục công dân Lớp 9 (tổng số 18 bài) có các bài:

Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân (bài 12); Quyền tự do kinh

doanh và nghĩa vụ đóng thuế (bài 13); Quyền và nghĩa vụ lao động của công dân

(bài 14); Quyền tham gia quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội của công dân (bài

16).

Trong chƣơng trình giáo dục cấp III, môn học Giáo dục công

dân đã mang tính lý thuyết và tính khái quát khá cao, nhiều nội dung tƣơng đối

trừu tƣợng với lứa tuổi thiếu niên. Chƣơng trình Lớp 10 có đề cập đến một số

nghĩa vụ của công dân nhƣng chủ yếu từ khía cạnh đạo đức (đối với cộng đồng,

50

với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc), Lớp 11 có các bài: nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa

(bài 9), nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (bài 10). Các kiến thức về quyền con

ngƣời tập trung nhiều hơn ở chƣơng trình giáo dục công dân Lớp 12, theo đó

học sinh đƣợc tiếp cận với nhiều nội dung liên quan đến quyền công dân nhƣ bài

Hiến pháp, các quyền trong lĩnh vực dân sự (trong bài Luật dân sự), các quyền

trong tố tụng và một số quyền trong các lĩnh vực cụ thể nhƣ đất đai, thuế, hành

chính…

Từ những thông tin kể trên, có thể thấy dung lƣợng kiến thức về quyền

con ngƣời trong chƣơng trình giáo dục phổ thông ở Việt Nam là khá lớn so với

mặt bằng chung trên thế giới. Một điểm tích cực nữa là việc thiết kế các bài học

về quyền trong chƣơng trình giáo dục công dân ở Việt Nam đã tính đến trình độ

nhận thức và tâm lý của học sinh ở từng độ tuổi. Những điều này cho thấy sự

quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam với hoạt động giáo dục về quyền con

ngƣời, cũng nhƣ cho thấy triển vọng tốt đẹp của hoạt động giáo dục về quyền

con ngƣời ở các nhà trƣờng phổ thông ở Việt Nam.

Tại các cơ sở đào tạo bậc đại học, việc giảng dạy về quyền con ngƣời chủ

yếu tập trung ở các trƣờng có đào tạo chuyên ngành luật. Riêng Khoa Luật, Đại

học Quốc gia Hà Nội đã xây dựng đƣợc chƣơng trình và giáo trình cho môn

quyền con ngƣời là một môn học tự chọn và hiện tại đã đƣa vào giảng dạy.

Trong chƣơng trình đào tạo, nội dung này thƣờng đƣợc tiếp cận dƣới góc độ

quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đƣợc giảng dạy trong

môn Luật đại cƣơng, Luật Hiến pháp, Luật Lao động... Các bộ môn khác tùy

theo đặc thù các chuyên ngành, nội dung của từng môn học ở các mức độ khác

nhau cũng đề cập đến quyền con ngƣời, nhƣ: vấn đề con ngƣời trong môn Triết

học Mác - Lênin; vấn đề dân tộc trong môn Chủ nghĩa xã hội khoa học; quyền

dân sự của công dân trong Luật Dân sự; quyền tự do trong kinh doanh môn Luật

Thƣơng mại; an sinh xã hội cho công dân (Luật An sinh xã hội);... Môn Công

pháp quốc tế có hai bài riêng nói đến quyền con ngƣời, đó là Dân cƣ trong luật

quốc tế và Luật quốc tế về quyền con ngƣời. Tuy vậy, do đặc thù của từng

51

trƣờng khác nhau nên việc xây dựng giáo trình giảng dạy về quyền con ngƣời

cũng có sự khác nhau.

Ngoài sinh viên ngành luật, một số trƣờng đại học khác có học môn “Luật

quốc tế” là Học viện quan hệ quốc tế, Học viện an ninh, Học viện cảnh sát...

Ngoài ra, ở những cơ sở đào tạo này, vấn đề quyền con ngƣời còn đƣợc giới

thiệu khái quát bằng cách lồng ghép vào nội dung của một số môn học khác có

liên quan, cụ thể nhƣ các môn học “Nhà nƣớc và pháp luật đại cƣơng” hoặc

“Pháp luật đại cƣơng”…Tuy nhiên, nhìn chung dung lƣợng kiến thức về quyền

con ngƣời trong chƣơng trình giảng dạy ở các cơ sở này còn ở mức độ rất hạn

chế, mặc dù kiến thức về quyền con ngƣời trên thực tế rất hữu ích trong hoạt

động của học viên một số trƣờng sau khi tốt nghiệp (ví dụ nhƣ học viên của Học

viện an ninh, Học viện cảnh sát...).

Hoạt động giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam trong thời gian qua đã

góp phần nâng cao nhận thức, ý thức về giá trị của hoạt động này trong việc

hình thành nhân cách ngƣời Việt Nam trong chủ nghĩa xã hội, và sự cần thiết

phải tăng cƣờng các hoạt động này trong thời gian tới. Đồng thời, việc giáo dục

quyền con ngƣời, quyền công dân cũng làm tăng nhu cầu xây dựng hệ thống

pháp luật Việt Nam phù hợp với các quy định của công ƣớc quốc tế về quyền

con ngƣời.

Từ những thông tin trên, có thể nhận xét rằng giáo dục quyền con ngƣời

đã có tiền đề khá tốt trong giáo dục ở Việt Nam, bởi l vấn đề nhân quyền đã

đƣợc đƣa vào chƣơng trình giảng dạy của các trƣờng đại học chuyên ngành luật,

chính trị…tƣơng tự nhƣ ở nhiều nƣớc khác trên thế giới.

*Thành tựu đạt được trong việc sử dụng các phương thức giáo dục quyền

con người nhằm mang lại hiệu quả thiết thực.

Giáo dục quyền con ngƣời không chỉ bao gồm các hoạt động giảng dạy ở

nhà trƣờng mà còn bao gồm các hoạt động tập huấn và phổ biến thông tin ở bên

ngoài hệ thống giáo dục quốc gia. Hoạt động tập huấn, tuyên truyền về quyền

con ngƣời ở bên ngoài dù không mang tính hệ thống và chính quy nhƣ trong các

nhà trƣờng nhƣng cũng góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức về

52

quyền con ngƣời của ngƣời dân và nhiều dạng chủ thể trong xã hội mà không

thể hoặc không còn cơ hội học tập ở hệ thống nhà trƣờng. Trong số các đối

tƣợng này có những nhóm rất quan trọng nhƣ quan chức nhà nƣớc, cán bộ xã

hội, nhân viên của các tổ chức quốc tế, thậm chí các nghị sĩ...Vì vậy, ở nhiều

nƣớc trên thế giới, giáo dục quyền con ngƣời ngoài hệ thống nhà trƣờng rất

đƣợc chú trọng phát triển đồng thời và đan xen với hoạt động giáo dục nhân

quyền trong hệ thống giáo dục quốc dân. Việt Nam cũng không đứng ngoài xu

thế kể trên trong giáo dục quyền con ngƣời. Ở Việt Nam trong suốt thời gian

vừa qua đã diễn ra rất nhiều các chƣơng trình hội thảo, hội nghị xoay quanh vấn

đề quyền con ngƣời và bảo đảm thực hiện quyền con ngƣời. Tiêu biểu trong số

đó có thể kể đến: Hội nghị tập huấn “Nâng cao hiệu quả công tác thông tin,

tuyên truyền về quyền con ngƣời” do Ban Chỉ đạo về nhân quyền Chính phủ

phối hợp với Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại Trung ƣơng tổ chức đã

diễn ra sáng 21/12/2017 tại Thành phố Đà Lạt. Tham dự hội nghị có các đại biểu

là đại diện các bộ, ban, ngành thành viên Ban Chỉ đạo về nhân quyền của Chính

phủ, lãnh đạo, phóng viên các cơ quan báo chí 33 tỉnh, thành phố khu vực phía

Nam. Hội nghị đã đƣợc nghe các chuyên gia thông tin các chuyên đề trọng tâm,

gồm: quan điểm, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam về quyền con

ngƣời và vai trò của truyền thông, báo chí trong bảo đảm, thúc đẩy quyền con

ngƣời ở Việt Nam; Vấn đề quyền con ngƣời trong quan hệ quốc tế và trách

nhiệm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt nam về quyền con ngƣời; Công

tác đấu tranh với các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền của các thế

lực thù địch và đấu tranh phản bác của các cơ quan thông tin đại chúng trong

thời gian qua; Công tác chỉ đạo định hƣớng tuyên truyền và đấu tranh phản bác

trên lĩnh vực quyền con ngƣời thời gian qua; Bảo đảm quyền con ngƣời trong

công tác giam giữ, giáo dục và cải tạo phạm nhân, vấn đề thông tin tuyên truyền

trên lĩnh vực này thời gian qua. Hội nghị tập huấn “Nâng cao hiệu quả công tác

tuyên truyền về quyền con ngƣời ở Việt Nam” cho cán bộ làm công tác thông tin

cơ sở thuộc Phòng Văn hóa – Thông tin cấp huyện, cán bộ cơ sở Truyền thanh -

Truyền hình cấp huyện và cán bộ Đài Truyền thanh cấp xã trên địa bàn tỉnh Sóc

53

Trăng đƣợc tổ chức vào 11/12/2018. Tại Hội nghị, các đại biểu đƣợc nghe báo

cáo viên của Bộ Công an trình bày quan điểm, chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc về quyền con ngƣời; Những thành tựu về

thực hiện quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay; nghe báo cáo viên của Ban

Tuyên giáo Trung ƣơng trình bày về công tác thông tin, tuyên truyền về quyền

con ngƣời ở Việt Nam trong thời gian qua và định hƣớng công tác thông tin,

tuyên truyền về quyền con ngƣời trong thời gian tới. Hội nghị tập huấn nâng cao

hiệu quả công tác thông tin – tuyên truyền về quyền con ngƣời ở Việt Nam đƣợc

tổ chức vào ngày 7/12/2017 tại Quảng Ninh. Hội thảo “Công tác nhân quyền

2018 và kết quả triển khai các khuyến nghị theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát

(UPR) chu kỳ 2 của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc đƣợc tổ chức vào

ngày 9/11/2018 tại Hà Nội. Ngày 08/4/2019, UBND tỉnh Bắc Kạn tổ chức Hội

nghị tập huấn về công tác nhân quyền cho lãnh đạo cấp ủy, chính quyền địa

phƣơng các cấp và thủ trƣởng các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh. Tại hội nghị,

các đại biểu đƣợc nghe phổ biến, quán triệt những chuyên đề về quan điểm, chủ

trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc về quyền con ngƣời; Tổng quan pháp luật Việt Nam

về quyền con ngƣời; Công tác nhân quyền trong tình hình mới và công tác nhân

quyền trên địa bàn tỉnh thời gian qua,…Có thể thấy công tác giáo dục, tuyên

truyền và nâng cao nhận thức về vấn đề quyền con ngƣời đƣợc Đảng và Nhà

nƣớc ta hết sức quan tâm và chú trọng thực hiện trên phạm vi toàn quốc.

Trong khoảng hai thập kỷ qua, hoạt động giáo dục quyền con ngƣời ở

ngoài hệ thống nhà trƣờng đã đƣợc thực hiện ở Việt Nam, bởi nhiều chủ thể nhƣ

các cơ quan giáo dục về quyền, các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức xã hội, nhằm

vào nhiều dạng đối tƣợng nhƣ các đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, cán bộ an

ninh, cảnh sát, cán bộ quản lý trại giam, ngƣời làm công tác xã hội, cán bộ của

các đoàn thể xã hội, giáo viên, thành viên của các nhóm xã hội dễ bị tổn

thƣơng…Nội dung tập huấn, tuyên truyền khá đa dạng, bao gồm các vấn đề lý

luận về quyền con ngƣời nói chung, các tiêu chuẩn quốc tế và quy định quốc gia

về quyền con ngƣời..., tuy nhiên, các nội dung liên quan đến quyền con ngƣời

của một số nhóm xã hội dễ bị tổn thƣơng (phụ nữ, tr em, ngƣời thiểu số, ngƣời

54

sống chung với HIV/AIDS…) chiếm dung lƣợng lớn. Các hoạt động tập huấn,

tuyên truyền về quyền con ngƣời theo kênh này thƣờng đƣợc thực hiện trong

khuôn khổ các dự án hợp tác giữa một số bộ, ngành, tổ chức xã hội, cơ sở đào

tạo ở Việt Nam với các nhà tài trợ nƣớc ngoài (bao gồm các tổ chức quốc tế, các

cơ quan viện trợ quốc gia, các đại sứ quán nƣớc ngoài…). Từ khi phê chuẩn

công ƣớc CEDAW, Đảng và nhà nƣớc ta đã thực hiện nhiều biện pháp, nhiều

hoạt động để thực hiện công ƣớc này. Đặc biệt tại hội nghị thế giới lần thứ IV về

phụ nữ của Liên Hợp Quốc tổ chức tại Bắc Kinh - Trung Quốc tháng 9/1995,

Chính phủ Việt Nam đã chính thức công bố "Chiến lƣợc phát triển vì sự tiến bộ

của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000". Đây là sự cam kết chính thức của Chính

phủ Việt Nam trƣớc thế giới về việc thực hiện chiến lƣợc toàn cầu vì mục tiêu

"bình đẳng - phát triển - hòa bình". Tháng 10 năm 1997 Thủ tƣớng Chính phủ đã

chính thức phê duyệt "kế hoạch hành động quốc gia đến năm 2000 vì sự tiến bộ

của phụ nữ". ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam là cơ quan

chuyên trách thực hiện kế hoạch hành động quốc gia này đƣợc thành lập theo

quyết định số 72/TTg của Thủ tƣớng Chính phủ ngày 25/2/1993 trên cơ sở kiện

toàn và đổi tên từ ủy ban quốc gia về thập kỷ phụ nữ của Việt Nam. - Kế hoạch

hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000 đề cập đến

11 mục tiêu trong đó có mục tiêu đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền vì

mục đích góp phần nâng cao nhận thức về quyền bình đẳng nam - nữ (mục tiêu

8) [35, tr. 22] . Theo mục tiêu này, đến năm 2000 nhằm tăng cƣờng vai trò và

sự tham gia của phụ nữ trong công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận

thức của xã hội về bình đẳng giới, phát huy phẩm chất truyền thống tốt đẹp của

phụ nữ Việt Nam; kế hoạch đề ra hai mục tiêu cụ thể là tăng cƣờng tuyên truyền

về bình đẳng giới và tăng cƣờng sự tham gia của phụ nữ vào công tác truyền

thống.

Thông qua các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục quyền con

ngƣời, nhận thức của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, học sinh, sinh

viên và ngƣời dân đã có những chuyển biến nhất định. Tri thức về quyền con

ngƣời và các quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về quyền con ngƣời nhìn chung

55

đƣợc vận dụng tốt trong các hoạt động đối nội và đối ngoại, bảo vệ, bảo đảm

quyền con ngƣời cho mọi ngƣời dân, hợp tác và đấu tranh có hiệu quả trên

trƣờng quốc tế, góp phần đẩy lùi một bƣớc những nhận thức lệch lạc, sai trái về

quyền con ngƣời ở Việt Nam.

Nhƣ vậy, vấn đề giáo dục quyền con ngƣời đã đang và s luôn là mối

quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam ta trong quá trình xây dựng

đất nƣớc. Việc giáo dục quyền con ngƣời với những nội dung phong phú, thiết

thực và ngày càng đƣợc hoàn thiện, lồng ghép trong nhiều môn học tại các bậc

giáo dục ở nƣớc ta.

2.1.2. Những hạn chế còn tồn tại

Bên cạnh những thành tựu đạt dƣợc, giáo dục quyền con ngƣời, quyền

công dân ở nƣớc ta trong thời gian qua cũng bộc lộ và phát sinh những tồn

tại sau:

*Hạn chế của các chủ thể trong quá trình giáo dục quyền con người

Tại Việt Nam, giáo dục quyền con ngƣời đã đƣợc thực hiện từ lâu trong

trƣờng phổ thông thông qua môn học đạo đức công dân. Những cải cách trong

chƣơng trình giảng dạy của Bộ Giáo dục và Đào tạo với việc đƣa vào môn học

Giáo dục công dân đã tạo cơ hội tăng cƣờng hoạt động giáo dục quyền con

ngƣời trong chƣơng trình giáo dục phổ thông. Nhiều nguyên tắc và tiêu chuẩn cụ

thể của luật quyền con ngƣời quốc tế đƣợc lồng ghép vào môn học này. Nhìn

chung, nội dung kiến thức, lƣợng thông tin trong các bài học đƣợc thiết kế nhằm

phù hợp với từng lứa tuổi, cấp độ học tập.

Mặc dù vậy, một trong các hạn chế quan trọng của hoạt động giáo dục

nhân quyền trong các nhà trƣờng phổ thông ở Việt Nam hiện nay là hiểu biết và

phƣơng pháp giảng dạy về quyền con ngƣời của giáo viên. Về khía cạnh hiểu

biết, hầu hết giáo viên môn học Giáo dục công dân ở các cấp học phổ thông ở

Việt Nam đều chƣa đƣợc đào tạo hay tập huấn về quyền con ngƣời; tình trạng đó

chắn chắn có ảnh hƣởng không nhỏ đến chất lƣợng giảng dạy các bài học về

nhân quyền. Về khía cạnh phƣơng pháp, hơn bất kỳ môn khoa học xã hội nào

khác, giáo dục nhân quyền đòi hỏi giáo viên cần áp dụng phƣơng pháp giảng

56

dạy đặc thù, trong khi các nhà trƣờng phổ thông ở Việt Nam hiện vẫn áp dụng

phổ biến phƣơng pháp giảng dạy truyền thống. Việc sử dụng phƣơng pháp giáo

dục truyền thống làm giảm một cách đáng kể hiệu quả của hoạt đông giáo dục

nói chung, hoạt động giáo dục nhân quyền nói riêng vì phƣơng pháp giảng dạy

truyền thống thông thƣờng biến các tiết học về quyền con ngƣời thành các buổi

thuyết giảng một chiều, khô cứng về đạo đức và luân lý.

*Hạn chế về dung lượng kiến thức trong việc giáo dục về quyền con

người

Có thể nhận xét rằng giáo dục quyền con ngƣời đã có tiền đề khá tốt trong

giáo dục đại học ở Việt Nam, bởi l vấn đề nhân quyền đã đƣợc đƣa vào chƣơng

trình giảng dạy của các trƣờng đại học chuyên ngành luật, chính trị…tƣơng tự

nhƣ ở nhiều nƣớc khác trên thế giới.

Tuy nhiên, nhƣ đã đề cập, dung lƣợng kiến thức về quyền con ngƣời trong

chƣơng trình giảng dạy của một số trƣờng đại học còn quá ít, chƣa tƣơng xứng

với nhu cầu của đối tƣợng đào tạo; kết cấu môn học còn có nhiều điểm bất hợp

lý; đặc biệt chƣa đƣa ra các quan điểm, cách tiếp cận của Đảng, Nhà nƣớc Việt

Nam về quyền con ngƣời, giúp ngƣời học có khả năng nhận diện và phê phán

các quan điểm sai trái trên lĩnh vực quyền con ngƣời ở Việt Nam. Trong chƣơng

trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo chƣa có môn học độc lập về quyền con

ngƣời. Vấn đề quyền con ngƣời đƣợc đƣa vào chƣơng trình tự chọn cho luật

chuyên ngành ở một số trƣờng. Vì thế, số lƣợng sinh viên dự học môn này cũng

rất hạn chế. Trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, nội dung quyền con ngƣời

thƣờng đƣợc tiếp cận theo nghĩa hẹp là các quyền cơ bản của công dân. Do đó,

vấn đề quyền con ngƣời đƣợc tiếp cận ở các mức độ khác nhau trong hầu hết các

môn học. Tuy nhiên, khi giảng dạy, các giảng viên thƣờng tiếp cận nó thuần túy

nhƣ là một nội dung của môn học mà không tiếp cận nó ở góc độ quyền con

ngƣời. Thêm vào đó, có thể thấy những hạn chế trong hoạt động giáo dục nhân

quyền ở các nhà trƣờng phổ thông lặp lại ở cấp độ giáo dục đại học, đó là các

vấn đề liên quan đến trình độ của đội ngũ giảng viên, phƣơng pháp giảng dạy và

tài liệu tham khảo, tuy những tồn tại đó ít nhiều có những điểm khác nhau. Đơn

57

cử về vấn đề tài liệu, trong số các cơ sở đào tạo đại học có giảng dạy về quyền

con ngƣời, hiện chỉ có vài cơ sở có một số lƣợng tài liệu tham khảo hạn chế về

lĩnh vực này.

Đến nay Việt Nam đã phê chuẩn hoặc gia nhập hầu hết các công ƣớc quốc

tê cơ bản về quyền con ngƣời sau khi trở thành thành viên Liên hợp quốc năm

1977 do Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thông qua, trong đó có nhiều điều ƣớc

quan trọng nhƣ: Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự - chính trị (tại Hội đồng

Liên Hợp Quốc phê chuẩn ngày 16/12/1966, Việt Nam gia nhập ngày

24/5/1982); công ƣớc quốc tế về các quyền kinh tế - xã hội - văn hóa (Đại hội

đồng Liên Hợp Quốc phê chuẩn ngày 16/12/1966, Việt Nam gia nhập ngày

24/9/1982). Công ƣớc quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử những

phụ nữ (tại Hội đồng Liên Hợp Quốc phê chuẩn ngày 18/2/1979. Việt Nam phê

chuẩn ngày 19/3/1982); công ƣớc về quyền tr em, Việt Nam phê chuẩn ngày

20/2/1990). Tuy nhiên, đến nay trong thực tế Việt Nam mới chỉ tập trung giáo

dục, tuyên truyền, phổ biến đối với hai công ƣớc là: "Công ƣớc quốc tế về xóa

bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ" (công ƣớc CEDAW) và Công

ƣớc Liên Hợp Quốc về quyền tr em (công ƣớc CRC). Nhƣng ngay cả trong

giáo dục quyền phụ nữ, quyền tr em dù đã có rất nhiều cố gắng nhƣ vậy, thì

vẫn còn những tồn tại. Chẳng hạn, việc giáo dục quyền phụ nữ mới chủ yếu

dừng lại ở cán bộ làm công tác quản lý, hội đoàn và một số vùng có điều kiện

thuận lợi, mà chƣa đƣợc thực hiện sâu rộng trong toàn thể xã hội, nhất là đối với

phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa và phụ nữ dân tộc thiểu số. Việc tuyên truyền, giáo

dục, chủ yếu đƣợc thực hiện theo từng đợt, thiếu tính thƣờng xuyên, liên tục.

Việc giáo dục quyền phụ nữ, thực chất mới chủ yếu dừng lại ở cán bộ làm

công tác quản lý, hội đoàn và một số vùng có điều kiện thuận lợi mà chƣa đƣợc

thực hiện sâu rộng trong toàn thể xã hội nhất là đối với phụ nữ ở vùng sâu, vùng

xa và phụ nữ dân tộc thiểu số. Và mới chỉ thực hiện tùng đợt, theo dự án mà

không đƣợc tổ chức thƣờng xuyên, liên tục.

*Hạn chế về các phương thức và đối tượng trong giáo dục quyền con

người

58

Hệ thống thông tin đại chúng, mặc dù là phƣơng tiện chủ lực trong hoạt

động giáo dục quyền phụ nữ, quyền tr em, nhƣng còn rất thụ động, chủ yếu chỉ

hoạt động dựa trên các kế hoạch dự án đã đƣợc phê duyệt, đƣợc hỗ trợ về tài

chính. Chƣa chủ động thực hiện hoạt động này mang tính tích cực, thƣờng

xuyên, liên tục, chƣa coi đây là nhiệm vụ của mình. Việc giáo dục quyền và bổn

phận của tr em Việt Nam mới chỉ đƣợc thực hiện mang tính thử nghiệm ở một

bộ phận tr em, học sinh ở tiểu học, trung học cơ sở (cấp 1 - 2). Một số địa

phƣơng có điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện. Còn đa số tr em, nhất

là tr em ở các vùng sâu, vùng xa, tr em dân tộc thiểu số vẫn chƣa đƣợc quan

tâm thực hiện thƣờng xuyên. Việc giáo dục quyền phụ nữ, thực chất mới chủ

yếu dừng lại ở cán bộ làm công tác quản lý, hội đoàn và một số vùng có điều

kiện thuận lợi mà chƣa đƣợc thực hiện sâu rộng trong toàn thể xã hội nhất là đối

với phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa và phụ nữ dân tộc thiểu số. Và mới chỉ thực

hiện tùng đợt, theo dự án mà không đƣợc tổ chức thƣờng xuyên, liên tục. Việt

Nam có 54 dân tộc thiểu số, trong đó có nhiều dân tộc thiểu số (trên 20 dân tộc)

có tiếng nói, chữ viết riêng; nhƣng đến nay công ƣớc Liên Hợp Quốc về quyền

tr em mới chỉ đƣợc dịch sang tiếng phổ thông và 4 tiếng dân tộc (Thái, H'mông,

Êđê, Bana). Điều này s rất hạn chế việc thực hiện giáo dục quyền tr em trong

dân tộc thiểu số. - ở một số cơ quan chức năng, một bộ phận cán bộ còn mang

nặng ý thức ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ kinh phí từ bên ngoài, hoặc chỉ tiến

hành thực hiện hoạt động giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân khi có kinh

phí, khi có dự án, hoặc khi có điều kiện thuận lợi. Các dự án giáo dục quyền phụ

nữ, quyền tr em gần nhƣ phụ thuộc hoàn toàn vào sự trợ giúp của các tổ chức

Liên Hợp Quốc, tổ chức phi chính phủ cả về kỹ thuật, phƣơng pháp, tài liệu và

tài chính, mà không có sự chủ động từ phía Nhà nƣớc và các cơ quan chức năng

có liên quan.

Hoạt động giáo dục quyền con ngƣời ở nƣớc ta trong thời gian qua mặc

dù mới chỉ tập trung giáo dục quyền phụ nữ, quyền tr em nhƣng đã đòi hỏi phải

đầu tƣ một số lƣợng tài chính thích ứng, tuy nhiên số tiền ngân sách nhà nƣớc

dành cho hoạt động này rất hạn chế, chủ yếu trông chờ vào sự trợ giúp của các

59

tổ chức quốc tế, tổ chức phái chính phủ. Do đó làm cho hoạt động giáo dục này

không những hạn chế về kết quả mà còn mang tính thụ động, phụ thuộc.

2.2: Những quan điểm chung và giải pháp về giáo dục quyền con người,

quyền công dân ở nước ta hiện nay

2.2.1: Những quan điểm của Đảng - Nhà nước ta về giáo dục quyền con người,

quyền công dân

Đảng và Nhà nƣớc ta khẳng định quyền con ngƣời là thành quả và khát

vọng chung của nhân loại. Đảng chỉ rõ: “Quyền con ngƣời là thành quả của cuộc

đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp

bức trên thế giới và cũng là cuộc đấu tranh của loài ngƣời làm chủ thiên nhiên,

qua đó, quyền con ngƣời trở thành giá trị chung của nhân loại”. Vì vậy, Đảng và

Nhà nƣớc ta thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ những giá trị cao quý về quyền con

ngƣời đƣợc thế giới thừa nhận rộng rãi. Đảng chỉ đạo “ Kế thừa và phát huy

những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nƣớc, tiếp thu

những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi

ích chân chính về phẩm giá con ngƣời” [15, tr.120].

Vấn đề quyền con ngƣời, quyền công dân và thực hiện giáo dục quyền

con ngƣời, quyền công dân ở Việt Nam hiện nay đang ngày càng trở nên bức

thiết bởi giá trị to lớn của nó đối với việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền, cải

cách bộ máy hành chính và cải cách tƣ pháp, hội nhập quốc tế, khu vực và quan

trọng hơn hết là đảm bảo cho việc thực hiện quyền làm chủ thực sự của nhân

dân đối với quyền lực nhà nƣớc. Trong những điều kiện đó giáo dục quyền con

ngƣời, quyền công dân cần quán triệt những quan điểm cụ thể dƣới đây của

Đảng và Nhà nƣớc ta:

Việc giáo dục quyền con ngƣời - quyền công dân phải dựa trên cơ sở lý

luận và quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan

điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề quyền con ngƣời, quyền công dân.

Giáo dục quyền con ngƣời công dân phải gắn bó với mở rộng dân chủ,

tuyên truyền cái đúng, đấu tranh phê phán những quan điểm và nhận thức sai

trái. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trƣơng phải tăng cƣờng thực hiện giáo dục

60

quyền con ngƣời, quyền công dân ở nƣớc ta: "Trƣớc mắt, thực hiện tốt các quy

chế dân chủ ở cơ sở, mở rộng dân chủ ở các cấp; tăng cƣờng tuyên truyền giáo

dục các quan điểm đúng đắn, phê phán các quan điểm sai lầm, những nhận thức

mơ hồ về dân chủ và nhân quyền" [49, tr. 2].

Nội dung giáo dục quyền con ngƣời phải bao gồm những quan điểm cơ

bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và các quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc ta về

vấn đề quyền con ngƣời, nội dung những quyền đã đƣợc thể chế hóa từ Hiến

pháp 1992 đến nay và trong các văn bản pháp luật.

Đối tƣợng, phạm vi giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân: Việc giáo

dục quyền con ngƣời, quyền công dân phải đƣợc thực hiện trên phạm vi cả

nƣớc, cho mọi đối tƣợng, cho mọi công dân, trong đó đặc biệt chú ý đến các đối

tƣợng dễ bị tổn thƣơng trong xã hội nhƣ phụ nữ, tr em, dân tộc thiểu số số ở

vùng sâu, vùng xa.

Về hình thức, phƣơng pháp: Việc giáo dục quyền con ngƣời, quyền công

dân phải đƣợc thực hiện đồng thời bằng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau,

phải kết hợp giữa trong nhà trƣờng và bên ngoài xã hội, giữa các cơ quan chức

năng với các phƣơng tiện thông tin đại chúng.

2.2.2: Giải pháp tăng cường giáo dục quyền con người quyền công dân ở nước

ta hiện nay

Giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân là cần thiết để xây dựng thành

công nhà nƣớc pháp quyền, và thực hiện thắng lợi nền kinh tế thị trƣờng theo

định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Để tăng cƣờng hoạt động giáo dục

quyền con ngƣời, quyền công dân và để hoạt động này đạt hiệu quả cao trong

thời gian tới, tôi xin nêu một số giải pháp cơ bản, cụ thể sau:

Một là, biên soạn giáo trình, sách và tài liệu giáo dục cho từng nhóm đối

tƣợng giáo dục cụ thể. Hiện nay, chúng ta chƣa có giáo trình chung, thống nhất;

chƣa có đầy đủ tài liệu cho việc giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân theo

từng nhóm đối tƣợng. Vì thế, rất cần phải xây dựng các tài liệu giáo dục quyền

con ngƣời, quyền công dân cho từng nhóm chủ thể, từng nhóm đối tƣợng giáo

dục cụ thể, trên cơ sở tính hệ thống, tính liên thông của tài liệu và đảm bảo gắn

61

kết cả nội dung giáo dục quyền con ngƣời và nội dung giáo dục quyền công dân.

Cụ thể nhƣ: Hệ thống giáo trình, tài liệu giáo dục quyền con ngƣời, quyền công

dân cho tr em; Hệ thống giáo trình, tài liệu giáo dục quyền con ngƣời, quyền

công dân cho ngƣời lớn; Hệ thống giáo trình, tài liệu giáo dục quyền con ngƣời,

quyền công dân cho đối tƣợng là học sinh, sinh viên trong hệ thống giáo dục -

đào tạo quốc gia; Hệ thống giáo trình, tài liệu giáo dục quyền con ngƣời, quyền

công dân cho công chúng ở thành thị, ở nông thôn, ở vùng sâu vùng xa, dân tộc

ít ngƣời; Hệ thống giáo trình, tài liệu cho công chúng là tín đồ các tôn giáo; Hệ

thống giáo trình, tài liệu cho cán bộ, công chức nhà nƣớc nói chung và cho đối

tƣợng chuyên biệt nhƣ công an, luật sƣ, thẩm phán, công tố viên, phạm nhân,

ngƣời dân tộc thiểu số v.v...

Hai là, đƣa chƣơng trình giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân vào

hệ thống giáo dục nhà nƣớc. Việc này vừa đảm bảo tính thống nhất, tính liên

thông của chƣơng trình, vừa đảm bảo tính chủ động, thƣờng xuyên, liên tục,

rộng khắp trong cả nƣớc, tránh tình trạng phụ thuộc vào các dự án, nguồn tài

chính..., đồng thời đảm bảo trách nhiệm của cả chủ thể và đối tƣợng tham gia

hoạt động giáo dục này. Khi đƣa dạng giáo dục này vào giảng dạy chính thức,

nội dung của nó có thể đƣợc lồng ghép, tích hợp trong nội dung giảng dạy của

các môn học khác có liên quan nhƣ giáo dục đạo đức, giáo dục công dân, giáo

dục chính trị tƣ tƣởng, giáo dục pháp luật...Chẳng hạn, có thể xem xét, tổ chức

lại thời gian và nội dung môn học Giáo dục công dân, chuyển thành bộ môn

Giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân. Đƣa môn học này vào chƣơng trình

chính khóa từ cấp tiểu học đến cấp trung học phổ thông; hệ đại học. Đƣa môn

học quyền con ngƣời vào một số trƣờng đại học có các bậc hệ đào tạo chuyên và

không chuyên luật.

Ba là, xác định đúng đắn các hình thức, phƣơng pháp giáo dục phù hợp

với từng đối tƣợng giáo dục. Các đối tƣợng giáo dục quyền con ngƣời, quyền

công dân ở Việt Nam rất đa dạng, mỗi đối tƣợng có những điều kiện, khả năng

khác nhau để tham gia, tiếp nhận nội dung của dạng giáo dục này. Do đó, theo

chúng tôi mỗi nhóm đối tƣợng giáo dục cụ thể chúng ta cần thiết phải xây dựng

62

một hình thức, phƣơng pháp giáo dục riêng, thích hợp với điều kiện, khả năng

của họ. Hình thức, phƣơng pháp này phải đảm bảo truyền tải nội dung giáo dục

đã đƣợc xây dựng riêng cho từng đối tƣợng, một cách sinh động, dễ hiểu, dễ

nhớ, dễ áp dụng ngay vào thực tiễn cuộc sống. Nhƣ đối với dân tộc thiểu số,

chúng ta cố gắng dịch nội dung giáo dục sang tiếng của họ. Dân tộc nào có chữ

viết thì thực hiện cả dịch viết và dịch nói, dân tộc nào không có chữ viết thì diễn

giải nội dung giáo dục bằng chính ngôn ngữ của họ. Đội ngũ tuyên truyền, giáo

dục cho dân tộc thiểu số là chính những già làng, trƣởng bản, những ngƣời dân

tộc có trình độ học vấn đã đƣợc đào tạo trở thành cốt cán. Hình thức giáo dục có

thể thông qua các hoạt động văn hóa của làng, xã, bằng tranh ảnh, panô, áp

phích, tờ rơi, đài truyền thanh, đài phát thanh truyền hình, phim và các loại hình

nghệ thuật khác. Đối với ngƣời mù chữ, thất học, tr em lang thang, lại cần tăng

cƣờng tuyên truyền giáo dục qua các hình thức tranh ảnh, tờ rơi, phƣơng tiện

phát thanh, truyền hình... ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa điều kiện đi

lại khó khăn, ít có điều kiện thực hiện hoạt động tuyên truyền, giáo dục mang

tính tập trung. Chúng ta có thể in ấn tài liệu, tranh ảnh, tờ rơi có hình thức đẹp,

dễ hiểu và giao cho các tổ chức đoàn thể quần chúng, chính quyền địa phƣơng

phát cho từng hộ gia đình để họ bƣớc đầu có điều kiện tiếp cận, làm quen với

nội dung giáo dục.

Bốn là, đào tạo đội ngũ cốt cán, giáo viên chuyên trách. Đây là điều kiện

bắt buộc để có thể đƣa nội dung giáo dục về quyền con ngƣời vào giảng dạy

chính thức trong hệ thống giáo dục. Giáo dục quyền con ngƣời là một dạng giáo

dục đặc thù, chủ thể giáo dục không nhất thiết phải có trình độ chuyên môn,

chuyên ngành cao nhƣ giáo dục chính trị, tƣ tƣởng; giáo dục pháp luật. Đội ngũ

giáo viên này phải đƣợc đào tạo ở tất cả các cấp, các hệ thống trƣờng học trong

hệ thống giáo dục nhà nƣớc. Giáo dục về quyền con ngƣời có mối quan hệ mật

thiết với giáo dục chính trị, tƣ tƣởng, giáo dục pháp luật, do đó, về chiến lƣợc có

thể đào tạo đội ngũ giáo viên chuyên trách từ nguồn sinh viên tốt nghiệp các

trƣờng luật, chính trị.

63

Năm là, tăng cƣờng hoạt động thông tin, tuyên truyền trên các phƣơng

tiện thông tin đại chúng. Để hỗ trợ cho các hình thức, phƣơng pháp giáo dục,

cần tăng cƣờng đầu tƣ, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tuyên truyền, thông tin về

quyền con ngƣời, quyền công dân trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng. Nhà

nƣớc cần có chính sách đầu tƣ nguồn lực, kỹ thuật thích hợp cho các cơ quan

thông tin tuyên truyền, đặc biệt là các cơ quan phát thanh, truyền hình, báo chí

để các cơ quan này có điều kiện thuận lợi thực hiện hoạt động của mình. Đồng

thời, các cơ quan thông tin đại chúng cần coi hoạt động tuyên truyền, giáo dục

quyền con ngƣời là trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, từ đó xây dựng các chuyên

mục, chƣơng trình thƣờng xuyên, liên tục và rộng khắp cho hoạt động này.

Sáu là, bảo đảm các điều kiện kinh phí, vật chất phục vụ hoạt động giáo

dục quyền con ngƣời quyền công dân. Thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều cố

gắng trong thực hiện giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân. Tuy nhiên,

hoạt động này còn mang tính thụ động, phụ thuộc và kết quả chƣa cao. Điều này

có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhƣng trong đó có một nguyên nhân

quan trọng là nguồn ngân sách nhà nƣớc dành cho hoạt động này còn rất hạn

chế. Để tạo ra đƣợc nguồn lực cần thiết đáp ứng đƣợc yêu cầu, nhiệm vụ của

hoạt động giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân trong thời gian tới, hằng

năm, Nhà nƣớc cần có kế hoạch phân bổ một khoản kinh phí thích ứng cho hoạt

động tuyên truyền giáo dục, hội thảo khoa học về quyền con ngƣời.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Giáo dục quyền con ngƣời hiện vẫn là một vấn đề còn mới m đối với nền

giáo dục quốc dân của Việt Nam nói chung, với bậc giáo dục đại học ở Việt

Nam nói riêng do đó trong thực tiễn thực hiện còn nhiều hạn chế do các nguyên

nhân khác nhau nên cần thiết phải có những nghiên cứu chuyên sâu trong lĩnh

vực này để đề ra những phƣơng hƣớng, biện pháp thực sự hữu ích góp phần thúc

đẩy sự phát triển của nền giáo dục nhân quyền ở nƣớc ta. Khóa luận đã bƣớc đầu

làm sáng tỏ nhận thức về vấn đề giáo dục quyền con ngƣời, nhận thức về sự

thiết yếu trong nhu cầu đào tạo, giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam, nhận

thức về thực trạng giáo dục quyền con ngƣời còn nhiều yếu kém trong thực tiễn

64

và nguyên nhân dẫn đến thực trạng này để từ đó đề ra các biện pháp khắc phục

mang tính thiết thực nhất.

Hoạt động giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam mới bƣớc đầu nhận

đƣợc sự quan tâm từ phía Đảng và Nhà nƣớc cũng nhƣ nhà trƣờng, giảng viên

và sinh viên trong khi các nguồn lực để đẩy mạnh hoạt động này còn nhiều hạn

chế nên cần thiết phải có sự nỗ lực từ nhiều phía để khắc phục những hạn chế,

tồn đọng trong thực tiến thực hiện công tác giáo dục quyền con ngƣời ở nƣớc ta

đồng thời tạo dựng các điều kiện vật chất cần thiết cho sự phát triển của hoạt

động giáo dục quyền con ngƣời nhằm hƣớng tới mục tiêu xây dựng một nền

văn hóa nhân quyền trong thế hệ tri thức tr của Việt Nam tƣơng xứng với nền

văn hóa nhân quyền toàn cầu. Đây là thách thức đối với Việt Nam trong giai

đoạn hiện nay khi điều kiện kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên

nó cũng là một trong những phƣơng hƣớng phát triển quan trọng của nƣớc ta

trong tiến trình xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập

kinh tế quốc tế. Do đó, vấn đề giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam đã, đang

và s trở thành vấn đề trọng tâm trong mục tiêu giáo dục của nƣớc ta và ngày

càng nhận đƣợc sự quan tâm thích đáng từ mọi phía.

65

KẾT LUẬN

Quyền con ngƣời là sự kết tinh của những giá trị văn hóa, của tất cả các

dân tộc trên thế giới, là mối quan tâm đặc biệt và là mục tiêu hành động hàng

đầu của Liên hợp quốc. Xét đến cùng mọi mâu thuẫn, xung đột, mọi vi phạm

pháp luật trong xã hội đều xuất phát từ việc không tôn trọng quyền con ngƣời.

Tôn trọng quyền con ngƣời, có cơ chế bảo đảm quyền con ngƣời chính là cơ sở

pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền vững của xã hội, của đất nƣớc. Hiểu

biết và chỉ có sự hiểu biết về quyền con ngƣời mới mang lại cho con ngƣời tự do

và hạnh phúc bởi l chỉ khi hiểu biết về quyền con ngƣời thì mỗi ngƣời mới có

khả năng tự thực hiện và bảo vệ những quyền của mình đồng thời có đủ hiểu

biết để tôn trọng quyền của ngƣời khác. Trong bối cảnh Việt Nam xây dựng nhà

nƣớc pháp quyền, Việt Nam cũng phải thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế,

phải thƣờng xuyên chú trọng giáo dục quyền con ngƣời. Mặt khác, thực tế hiện

nay ở Việt Nam vẫn còn có những thành phần phản động xuyên tạc, kích động

cho rằng Việt Nam vi phạm nhân quyền thì việc giáo dục quyền con ngƣời càng

có tầm đặc biệt quan trọng. Giáo dục quyền con ngƣời với tƣ cách là một bộ

phận của giáo dục pháp luật hiện nay đang đƣợc các trƣờng quan tâm, đặc biệt

đặt trong bối cảnh đổi mới căn bản toàn diện giáo dục thì giáo dục quyền con

ngƣời càng cần đƣợc coi trọng. Đổi mới giáo dục thiết nghĩ phải đổi mới rất

nhiều: Từ nội dung, chƣơng trình, sách giáo khoa, tƣ duy,.. cho đến việc đổi mới

việc đào tạo các cán bộ quản lý giáo dục bởi l nhà giáo và cán bộ quản lý giáo

dục là những ngƣời đóng vai trò quyết định đến sự thành bại trong giáo dục.

Giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng, có ý

nghĩa chiến lƣợc đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo thế hệ tr ; đối với sự

nghiệp xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa; là cơ sở để quần chúng

nhân dân hình thành nhận thức đúng đắn về quyền con ngƣời, củng cố niềm tin

của quần chúng đối với Đảng, Nhà nƣớc; chống lại những hoạt động lợi dụng

chiêu bài "nhân quyền" của một số nƣớc phƣơng Tây và các thế lực phản động,

thù địch chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Giáo dục quyền con ngƣời là một quá trình lâu dài, liên tục. Đòi hỏi phải

có sự tập trung chỉ đạo, tập trung quản lý, điều phối các quan hệ, hoạt động. Đòi

66

hỏi phải tiến hành từng bƣớc, không chủ quan, nóng vội, hình thức. Phải thực

hiện toàn diện cả giáo dục quyền con ngƣời và quyền công dân, phải đƣợc thực

hiện cho mọi đối tƣợng trong đó cần tập trung ƣu tiên đối với các đối tƣợng

thanh thiếu niên, nhi đồng, phụ nữ, dân tộc ít ngƣời. Phải nghiên cứu tìm tòi

tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện. Kết hợp hài hòa giữa mục

tiêu ổn định lau dài với các nhiệm vụ cụ thể trƣớc mắt, trong đó không loại trừ

việc thử nghiệm thông qua các "dự án", các "điểm chỉ đạo", và qua các hoạt

động hội nghị, hội thảo ngoài kế hoạch định trƣớc.

Giáo dục quyền con ngƣời cần thiết phải đƣa vào hệ thống giáo dục và

đào tạo nhà nƣớc và là chƣơng trình đào tạo chính khóa nhƣ một môn khoa học

độc lập thuộc lĩnh vực khoa học xã hội. Môn học này có quan hệ khăng khít và

có thể lồng ghép trong nội dung giáo dục chính trị, giáo dục pháp luật, giáo dục

văn hóa... có cùng mục đích hình thành nhân cách và ý thức công dân cho học

sinh, sinh viên, các đối tƣợng.

Kinh nghiệm của nhiều nƣớc trên thế giới cho thấy, các vấn đề về nguồn

nhân, vật lực, kiến thức, kinh nghiệm và tài liệu là quan trọng nhƣng nhận thức

về vai trò và ý nghĩa của giáo dục nhân quyền của các nhà hoạch định chính

sách và của toàn thể công chúng trong xã hội mới là yếu tố có tính chất quyết

định đến việc thúc đẩy hoạt động trên lĩnh vực này. Một khi có nhận thức phù

hợp và quyết tâm chính trị cao trong việc thúc đẩy hoạt động giáo dục nhân

quyền, các vấn đề còn lại s đƣợc giải quyết một cách tốt đẹp và nhanh

chóng. Bởi vậy, để tiếp tục đẩy mạnh hoạt động giáo dục nhân quyền ở Việt

Nam, trƣớc hết, các nhà hoạch định chính sách của quốc gia cần nhận thức rõ

hơn về vai trò của giáo dục nhân quyền, các yêu cầu và ý nghĩa của hoạt động

này với sự phát triển của đất nƣớc trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa.

Đây là hoạt động mang tính rộng lớn, lâu dài, phức tạp và nhạy cảm vì

vậy cần thiết phải có hệ thống văn bản pháp luật quy định về tổ chức thực hiện

dạy giáo dục này và cần có một cơ quan quản lý duy nhất nhằm đảm bảo sự chỉ

đạo, quản lý tổ chức thực hiện, tiếp nhận điều phối các quan hệ quốc tế tập

trung, thống nhất.

67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đậu Đức Anh, (2004), Sự kế thừa và phát triển tư tưởng quyền con người,

quyền dân tộc trong “Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Luận văn

thạc sĩ, Khoa Lịch sử - Đại học Vinh.

2. Nguyễn Trọng An (2001), Báo cáo tham luận của ủy ban bảo vệ và chăm sóc

trẻ em Việt Nam tại hội thảo "Thành tựu về quyền con ngƣời của Việt Nam

trong thời kỳ đổi mới".

3. Nguyễn Thị Báo (2008), “Một số vấn đề về giáo dục quyền con ngƣời ở Việt

Nam hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, 23 (167), tr.2.

4. Lê Văn Bính (chủ trì) (2015), “Việt Nam với cơ chế bảo vệ quyền con người

của Liên hợp quốc”, Đề tài NCKH, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

5. Nguyễn Thị Bình (2000), "Chúng ta luôn phấn đấu vì quyền con ngƣời",

Thông tin quyền con người (1).

6. Benedek W. (2008), Tìm hiểu về quyền con người, Hà Nội: Nxb.Tƣ pháp. tr.

30.

7. Báo cáo tháng 2 năm 2001 của Trung tâm nghiên cứu quyền con người về

thành tích về công tác giáo dục, tuyên truyền và phổ biến luật năm 2000.

8. Báo cáo năm 2001 của ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam -

UNICEF về kết quả hoạt động dự án trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt năm 2000

và1996 - 2000.

9. Báo cáo nhanh của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh về hoạt

động dự án "Tháng giáo dục quyền trẻ em" bổ sung năm 1999.

10. Báo cáo ngày 12/10/2000 của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí

Minh về tổng kết hoạt động dự án "Tháng giáo dục quyền trẻ em" dành cho trẻ

em theo học các lớp linh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh năm học 1999 - 2000,

13

11. Báo cáo tháng 9/1992 của ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam về

hai năm thực hiện công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em, 1992.

12. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo dục công dân 6, Giáo dục công dân 7, Giáo

dục công dân 8, Giáo dục công dân 9, Nhà xuất bản Giáo dục, 2007.

68

13. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2007), Vấn đề nhân quyền, Tài liệu tuyên truyền,

http://www.mofa.gov.vn.

14. Hoàng Công, (1996), Quyền con ngƣời – Nhìn từ góc độ Triết học, Tạp chí

Triết học, số 3, Trang 41 – 44.

15.Cương lĩnh Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc

gia 1998. tr120

16. Nguyễn Đăng Dung, Phỏng vấn đăng trên trang 5, Báo Pháp luật Việt Nam

số 557(3.665) ngày 26/10/2008.

17. Nguyễn Bá Diến (1993), “Về quyền con người - trong tập chuyên khảo

"quyền con người, quyền công dân", Tập 1, Trung tâm nghiên cứu quyền con

ngƣời - Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr. 30 - 56.

18. Dự thảo chương trình hành động quốc gia về trẻ em năm 1991 - 2000,

UBBV và CSTE Việt Nam.

19. Đại từ điển tiếng Việt (1999), Viện ngôn ngữ, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà

Nội.

20. Nguyễn Ngọc Điện, Quyền chủ thể, đặc quyền và quyền ƣu tiên, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, số 4/2005.

21. Trần Ngọc Đƣờng (1999), Lý luận chung về Nhà nƣớc và pháp luật, tập 1, 2,

3, Nxb CTQG, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội.

24. Vũ Công Giao (2001), Cơ chế của Liên Hợp Quốc về nhân quyền, Luận án

thạc sĩ Luật học.

25. Hoàng Văn Hảo, (19980 Chính sách cơ bản của Đảng - Nhà nước Việt Nam

về quyền con người, quyền công dân.trong tập bài giảng lý luận về quyền con

người, TTNCQCN,HVCTQGHCM,Hà nội.

26. Hoàng Văn Hảo - Chu Hồng Thanh (1997), Một số vấn đề về quyền dân sự

và chính trị, Nxb CTQG, Hà Nội.

69

27. Phạm Khiêm ích -Hoàng Văn Hảo (1995), Quyền con người trong thế giới

hiện đại, đề tài KX 07-16, Viện TTKHXH, TTNCQCN, Hà Nội.

28. Lang Nghị Hoài (2002), "Thực tế quyền con ngƣời trong chủ nghĩa xã hội và

cuộc đấu tranh vì quyền con ngƣời trên thế giới", trong Quyền con ngƣời ở

Trung Quốc và Việt Nam, (truyền thống, lý luận và thực tiễn), (Trung tâm

Nghiên cứu quyền con ngƣời và Hội Nghiên cứu nhân quyền Trung Quốc chủ

biên), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.229-241.

29. Trần Duy Hƣơng (2008). Quyền con ngƣời và thực hiện quyền con ngƣời

trong điều kiện hiện nay. Tạp chí cộng sản (24), 32-35.

30. HOFMANNR (1995), Bảo vệ quyền con người và Hiến pháp CHLB Đức

trong quyền con người trong thế giới hiện đại đề tài KX 07 - 16, Viện TTKHXH

- TTNCQCN, Hà Nội.

31. Học viện CTQG Hồ Chí Minh (1993), Tập bài giảng lý luận về quyền con

người, Nxb Sự thật, Hà Nội

32. Kofi Annan (4/1999), Thông điệp của Tổng thư ký Liên Hợp Quốc nhân

ngày nhân quyền, trong quyền trẻ em tạo lập một nền văn hóa nhân quyền, Học

viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.

33. Đỗ Minh Khôi (2011), “Giảng dạy và nghiên cứu về pháp luật quyền con

người tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh”, Giáo dục quyền con

người, Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Khoa học xã hội.

34. Kế hoạch hành động của Thập kỷ Liên hiệp quốc về giáo dục quyền con

người (1995 - 2004), Đoạn 2.

35. Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm

2000, UBQH vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.

36.Nguyễn Hữu Lệ (1995), Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền, Luận án

chuẩn hóa trình độ thạc sĩ, Hà Nội.

37. Lênin (1976), "Bàn về sự lẫn lộn chính trị", Trong sách C.Mác -

Ph.Ăngghen - Lênin - Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.

38. Lênin (1976), "Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên", Trong sách C.Mác -

Ph.Ăngghen - Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.

70

39. Lênin (1976), "Diễn văn tại Hội nghị các ban giáo dục chính trị toàn Nga"

Trong sách C.Mác - Ph.Ăngghen - Lênin - Xtalin, Bàn về giáo dục, Nxb Sự thật,

Hà Nội.

40. Lênin V.I. (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.

41. Nguyễn Văn Mạnh (1995), Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp lý thực

hiện quyền con người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến

sĩ Luật học, Hà Nội.

42. Jacques Mourgon (1995), Quyền con người, Nxb Đại học Pháp, Hà Nội.

43. Phạm Bình Minh, (2010), Đối thoại của Việt Nam với các nước về dân chủ,

nhân quyền, Tạp chí Lý luận chính trị số 7, Công bố lại trên tạp chí Cộng sản

điện tử ngày 14/8/2010.

44. Hồ Chí Minh (1970), "Di chúc", Trong sách Hồ Chí Minh bàn về công tác

giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

45. Hồ Chí Minh (1970), "Nói chuyện với các cháu thiếu nhi Việt Nam đêm

trung thu thứ nhất nƣớc Việt Nam DCCH", Trong sách Hồ Chí Minh bàn về

công tác giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

46. "Hồ Chí Minh (1970) nói chuyện tại buổi lễ khai mạc trƣờng Đại học nhân

dân Việt Nam", Trong sách Hồ Chí Minh bàn về công tác giáo dục, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

47. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

48. Đỗ Mƣời (1992), Sửa đổi Hiến pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt

Nam đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội.

49. Lê Hữu Nghĩa, Bảo vệ và phát triển quyền con người bản chất của chế độ ta,

Thông tin quyền và bổn phận của trẻ em ở Việt Nam, Viện NCKHGD - UBBV

và CSTE Việt Nam, Radd Barnen từ 9/10 - 3/11/2000.

50. Tạ Quang Ngọc, (2004), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nội luận hóa

các công ước quốc tế về quyền con người ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ

đại học Luật Hà Nội.

51. Nalin Swaris (2000), Đạo luật nhân quyền và sự tái sinh xã hội, Nxb Asian.

71

52. Lê Khả Phiêu (2000), "Bảo vệ và phát triển quyền con người lý tưởng phấn

đấu của người cộng sản", Thông tin quyền con người, (1). Trung tâm Nghiên

cứu quyền con ngƣời, Học viện CTQG Hồ Chí Minh.

53. C.Mác - Ph.Ăngghen (1998), Về quyền con người, Nxb CTQG, Hà Nội.

54. C.Mác - Ph.Ăngghen (1976), "Chỉ thị về một số vấn đề gửi BCH Trung ương

lâm thời", trong sách C.Mác - Ph.Ăngghen - Lênin - Xtalin bàn về giáo dục,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

55. C.Mác - Ph.Ăngghen (1976), "Phê phán cương lĩnh Gota", Trong sách

C.Mác - Ph.Ăngghen - Lênin - Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.

56. C.Mác - Ph.Ăngghen (1976), "Điếu văn trước mộ Mác", Trong sách C.Mác

- Ph.Ăngghen - Lênin -Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.

57. C.Mác - Ph.Ăngghen (1976), "Chống Đuy-rinh", trong sách C.Mác -

Ph.Ăngghen - Lênin - Xtalin bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.

58. C.Mác - Ph.Ăngghen (1976), "Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư bản và

của Nhà nước", Trong sách C.Mác - Ph.Ăngghen - Lênin - Xtalin bàn về giáo

dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.

59. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

60. C.Mác - Ph.Ăngghen (1986), Toàn tập, tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.

61. C.Mác – Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.

62. Mác – Ăngghen (1996), Toàn tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.

63. Quyền con người và sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, (1991), Học viện

Nguyễn ái Quốc.

64. Quyền con người, (1995), Trung tâm Nghiên cứu quyền con ngƣời, Hà Nội.

65. Quyền trẻ em, (6/2000), Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.

66. Fean -Facques - Roussrau (1992), Bàn về khế ước xã hội, Nxb thành phố Hồ

Chí Minh.

67. Hoàng Nam Sâm (2002), "Khái niệm quyền con người trong truyền thống

văn hóa Trung Quốc", trong Quyền con ngƣời ở Trung Quốc và Việt Nam,

(truyền thống, lý luận và thực tiễn (Trung tâm Nghiên cứu quyền con ngƣời và

72

Hội Nghiên cứu nhân quyền Trung Quốc), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà

Nội, tr.40-48.

68. Chu Hồng Thanh (1997), Quyền con người và luật quốc tế về quyền con

người, Nxb CTQG, Hà Nội.

69. Tài liệu phục vụ tọa đàm (2000), Một số bài viết về quyền con người của các

tác giả Việt Nam, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.

70. Tài liệu tham khảo nội bộ (1998), Tập bài giảng lý luận về quyền con người,

Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội. 91.

71. Tài liệu phục vụ tọa đàm (2000), Một số bài viết về quyền con người của các

tác giả Việt Nam, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.

72. Tập chuyên khảo (1990), CNXH và quyền con người, Đề tài khoa học "Nhân

quyền", Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà Nội.

73. "Tuyên ngôn độc lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 1776" (2000), Văn kiện quốc

tế về quyền con ngƣời, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.

74. "Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp 1789" (2000), Văn kiện

quốc tế về quyền con ngƣời, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.

75. Tăng cường lãnh đạo công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em,

(8/1998), UBBV và CSTE Việt Nam, Nha Trang.

76. Văn kiện quốc tế về quyền con người, (2000), TTNCQCN VTTKH Học viện

CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.

77. Viện Nghiên cứu quyền con ngƣời (2010), Giáo trình lý luận về quyền con

người, Nxb Lý luận Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

Tài liệu tiếng anh

78. Adam B. Selligman (1995), The ideal of civil society, Princeton University

Press tr. 21.

79. Hobbes (1999), Levithan, chương XIV, Nxb. Urier.

80. Emmanuel Kant, Nền tảng siêu hình của các tập quán (1785) bản tiếng

Pháp, Tuyển tập các tác phẩm triết học, Nxb. de la Pleiade, tập 2, 1984.

81. Emmanuel Kant, Phê phán lý tính thực hành (1788), bản dịch tiếng Pháp của

Luc Ferry và Heinz Wisman, Tác phẩm, tập II.

73

82. Leo Strauss (1954), Droit naturel et histoire, Nxb. Flammarion, tr, 165-167.

83. Suart Hampsphire (2005), Spinoza and Spinozm, Nxb. Clarendon Press,

Oxford.

84. Seligman, Adam B , “The Idea of Civil Society”, Princeton University Press,

tr.17

85. Simone Goyard-Fabre (1975), Le droit et la loi dans la philosophie de

Hobbes, Nxb. Klinchsieck.

86. Tractatus politicus, Chương XX, tr. 897-899.

87. Raymond Polin (1953), politique et philosophie chez Thomas Hobbes, Nxb.

PUF.

88. JJ. Rousseau, Du contrat social, chương II, tập III, p. 288. Bài viết về Abbe

de St Piere, tập III.

74