intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khủng hoảng tài chính toàn cầu - một giải pháp ứng phó của hệ thống ngân hàng Việt Nam

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

84
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong nền kinh tế hiện nay, một trong những nguyên nhân chính gây ra những cuộc khủng hoảng kinh tế là do sự yếu kém của hệ thống ngân hàng. Khi cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu diễn ra, dường như nó chỉ là một đốm lửa trên đỉnh núi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khủng hoảng tài chính toàn cầu - một giải pháp ứng phó của hệ thống ngân hàng Việt Nam

Nguyễn Thị Hồng Yến và cs<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 65(03): 26 - 32<br /> <br /> KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU - MỘT SỐ GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ<br /> CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM<br /> Nguyễn Thị Hồng Yến*, Trần Phạm Văn Cương<br /> <br /> Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Trong nền kinh tế hiện nay, một trong những nguyên nhân chính gây ra những cuộc khủng hoảng<br /> kinh tế là do sự yếu kém của hệ thống ngân hàng. Khi cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu diễn ra,<br /> dường như nó chỉ là một đốm lửa trên đỉnh núi. Nhưng trong thế giới kết nối mà chúng ta đang<br /> sống, đốm lửa nhỏ ấy đã mở đầu cho một đám cháy lớn. Cơn chấn động trên Phố Wall nơi ngọn<br /> lửa đã bùng cháy và tiếp tục lan xa đã tác động đến tất cả những ai có liên quan đến tài chính. Mối<br /> quan hệ chặt chẽ giữa ngân hàng - khách hàng - nền kinh tế, đòi hỏi các ngân hàng phải chủ động<br /> trong mọi tình huống, dự báo, dự đoán được khả năng xảy ra và định lượng rủi ro. Từ đó có biện<br /> pháp phòng ngừa hạn chế thấp nhất tác động của rủi ro.<br /> Từ khóa: Khủng hoảng tài chính, nguyên nhân, hậu quả, giải pháp ngăn chặn.<br /> <br /> <br /> KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH LÀ GÌ?<br /> Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một<br /> hay một số nhân tố của nền kinh tế trong<br /> việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài<br /> chính của mình. Dấu hiệu của Khủng hoảng<br /> tài chính là:<br /> Các NHTM không hoàn trả được các khoản<br /> tiền gửi của người gửi tiền.<br /> Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng<br /> được xếp loại A cũng không thể hoàn trả đầy<br /> đủ các khoản vay cho ngân hàng. Chính phủ<br /> từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.<br /> NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHỦNG<br /> HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU<br /> Các khoản cho vay mua nhà dưới chuẩn<br /> Bắt nguồn từ thị trường địa ốc Mỹ, cuộc<br /> khủng hoảng “nợ dưới chuẩn” (subprime) đã<br /> lan rộng như một virus máy tính, làm chao<br /> đảo thị trường tiền tệ và chứng khoán quốc tế.<br /> Ngân hàng trung ương các cường quốc đã<br /> phải lập tức đưa ra những biện pháp cấp cứu,<br /> nhiều tập đoàn ngân hàng, quỹ đầu tư, cơ<br /> quan tài trợ bất động sản chịu lỗ nặng khiến<br /> nhiều lãnh đạo bị mất chức và hàng loạt nhân<br /> viên bị sa thải. Nhiều kinh tế gia đã tiên đoán<br /> là kinh tế Mỹ sẽ bước vào giai đoạn suy thoái,<br /> gây ảnh hưởng lớn cho toàn thế giới! Để tìm<br /> hiểu, chúng ta hãy tìm về cội nguồn của vấn<br /> đề. Vậy thế nào là cho vay dưới chuẩn?<br /> Vay trả góp nhà theo hình thức cổ điển<br /> <br /> <br /> <br /> Tel: 0912662033 , Email: ngocantra@yahoo.com<br /> <br /> Ngân hàng buộc người vay phải có ít nhất 10%<br /> - nghĩa là chỉ cho vay tối đa 90% trị giá căn<br /> nhà. Số tiền trả góp hàng tháng thì không nên<br /> vượt quá mức an toàn là một phần ba mức thu<br /> nhập trước khi tính thuế. Các ngân hàng Mỹ<br /> thường dùng một công thức gọi là “tỷ lệ<br /> 28:36” dựa vào mức thu nhập hàng tháng 28% là tỷ lệ trước (front ratio) và 36% là tỷ lệ<br /> sau (back ratio). Ngân hàng thường chỉ cho<br /> vay nếu số tiền trả góp hằng tháng (kể cả thuế<br /> và tiền bảo hiểm ngôi nhà) không vượt quá<br /> 28% (tỷ lệ trước) thu nhập hằng tháng. Cộng<br /> thêm các khoản nợ khác (như tiền trả nợ thẻ tín<br /> dụng, mua xe, nợ trả học phí cho con cái...) thì<br /> tất cả không được quá 36% (tỷ lệ sau) của số<br /> thu nhập hằng tháng. Một người lãnh lương<br /> 5.000 USD mỗi tháng thì tốt nhất là có thể dành<br /> ra 1.400 USD (5.000 x 28%) để trả nợ mua<br /> nhà. Không kể thuế và tiền bảo hiểm nhà cửa,<br /> nếu dùng số tiền này để trả đều mỗi tháng thì<br /> người ấy có thể vay trả góp theo hình thức<br /> chiết khấu (amortization) trong 30 năm với lãi<br /> suất 7,25%, một món nợ là 205.000 USD. Vì<br /> cần ứng ra 10% nên người ấy có thể mua một<br /> ngôi nhà trị giá 228.000 USD (205.000/90%)<br /> và cần đặt cọc 23.000 USD. Ngoài ra, khi xét<br /> đơn vay nợ thì các ngân hàng Mỹ lại còn căn<br /> cứ vào “điểm tín dụng” (credit score) của<br /> người đi vay. Đây là thang điểm do Công ty<br /> Fair Isaac Corp. thiết lập, gọi tắt là điểm số<br /> FICO, từ 300 - 900 điểm. Điểm tín dụng này<br /> được thiết lập cho mỗi cá nhân dựa trên năm<br /> <br /> 26<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Nguyễn Thị Hồng Yến và cs<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 65(03): 26 - 32<br /> <br /> yếu tố mà quan trọng nhất là “tiểu sử tín<br /> dụng”. Điểm càng cao thì càng dễ vay và<br /> được cho vay với lãi suất thấp hơn. Thông<br /> thường thì người vay sẽ gặp khó khăn với<br /> điểm tín dụng thấp hơn 620 (4).<br /> Cho vay dưới tiêu chuẩn (subprime lending)<br /> Là hình thức cho vay rất phổ biến, đặc biệt tại<br /> Mỹ. Thuật ngữ “dưới tiêu chuẩn - subprime” ở<br /> đây liên quan đến vị thế tín dụng của người vay.<br /> “Những người đi vay dưới tiêu chuẩn thường có<br /> quá khứ tín dụng (tiền sử tín dụng) không tốt,<br /> như thường có những khoản thanh toán quá<br /> hạn, và có thể có những vấn đề nghiêm trọng<br /> như phải ra toà, phá sản (4).<br /> Cho vay thế chấp nhà đất dưới tiêu chuẩn<br /> (subprime housing mortgage)<br /> Là một trong những loại hình thuộc lĩnh vực<br /> cho vay dưới tiêu chuẩn. Cho vay dưới hình<br /> thức này đều chấp nhận đảm bảo bằng tài sản<br /> hình thành từ vốn vay.<br /> Vay nợ... dưới chuẩn. Tại sao ở Mỹ lại phát<br /> triển hình thức cho vay này?<br /> Tin tưởng rằng giá nhà cửa sẽ tiếp tục gia tăng<br /> Nguồn tài trợ địa ốc gia tăng<br /> Lượng tiền cho vay địa ốc gia tăng<br /> Chứng khoán hoá các khoản cho vay thế chấp<br /> <br /> chứng khoán hóa các khoản cho vay đó<br /> KẾT QUẢ<br /> Thị trường, sẽ thừa nhà (xem biểu đồ 01).<br /> Biểu đồ 01 dưới đây cho thấy lượng cung nhà<br /> ở Mỹ tăng vọt bắt đầu từ nửa cuối năm 2005<br /> như là kết quả của quá trình cho vay mua nhà<br /> quá “phóng khoáng” của các ngân hàng Mỹ.<br /> <br /> Các Ngân hàng<br /> và các công ty<br /> tài trợ đị a ốc<br /> <br /> trong khi nhu cầu nhà ở lại giảm mạnh (xem<br /> biểu đồ 03), cứ như thế món nợ vay mua<br /> nhà bỗng tăng vọt. Đến lúc này các ngân<br /> hàng bắt đầu nhận thấy nợ xấu, nợ khó đòi<br /> tăng vọt. Số lượng nợ xấu và khách hàng vỡ<br /> nợ cứ thế tăng, đẩy các tổ chức cho vay vào<br /> cảnh thua lỗ đáng sợ.<br /> Chưa hết, các khoản vay tín dụng xấu này<br /> được chứng khoán hóa thành các loại cổ<br /> phiếu, chẻ nhỏ ra rồi đem lên giao dịch trên<br /> thị trường chứng khoán (TTCK).<br /> <br /> Người vay<br /> mua nhà<br /> <br /> Các<br /> <br /> Chứng<br /> <br /> Người vay<br /> mua nhà<br /> <br /> Những món<br /> nợvayđịa ốc đa cấp, đa<br /> khoándạng nay đã<br /> khoản<br /> được “trái phiếu hóa” thành những sản phẩm<br /> hoá các<br /> thế chấp<br /> tài chính thông dụng và gọn gàng, có thể mua<br /> khoảntệ.<br /> vay Với niềm<br /> bán dễ dàng trên thị trường tiền<br /> tin… mù quáng vào tương lai bất động sản<br /> Mỹ, mọi người - kể cả những ngân hàng lớn đều lao vào mua các trái phiếu bất động sản<br /> này. Thêm vào đó, những quỹ đầu tư lớn cũng<br /> đã vay rất nhiều từ các ngân hàng để mua các<br /> trái phiếu bất động sản cho nên chính các<br /> ngân hàng lại cũng “gián tiếp” gánh thêm các<br /> món nợ đầu tư địa ốc - qua việc tài trợ các<br /> quỹ đầu tư mua những trái phiếu này.<br /> Như vậy, cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp<br /> tại Mỹ xuất phát từ việc các ngân hàng giảm<br /> nhẹ các tiêu chuẩn cho vay cho đối với các<br /> khoản vốn vay để mua nhà có độ rủi ro cao và<br /> việc các ngân hàng nước này có xu hướng<br /> <br /> Thị trường đĩa ốc Mỹ lại rơi vào thời kỳ<br /> đóng băng, người vay tiền để mua nhà bán<br /> kiếm lời lại không thể bán được nhà (xem<br /> biểu đồ 02),<br /> <br /> 27<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Nguyễn Thị Hồng Yến và cs<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> Vì thế, mặc dù cuộc khủng hoảng cho vay<br /> mua nhà chỉ xảy ra ở Mỹ nhưng ảnh hưởng<br /> thì lan đến tận New Zealand, Đức, Pháp, Úc,<br /> Nhật... vì họ cũng tham gia mua bán chứng<br /> khoán loại này.<br /> Nguyên nhân căn bản của cuộc khủng hoảng<br /> tài chính toàn cầu hiện nay là do những vấn<br /> đề liên quan đến thị trường nhà ở thế chấp,<br /> Tuy nhiên, theo nhà phân tích chiến lược<br /> Igor Nikolayev của Cơ quan kiểm toán tư<br /> FBK - tác giả của bản nghiên cứu Thị<br /> trường chứng khoán: “Tăng trưởng cao, sụt<br /> giảm thấp”, nguyên nhân tiềm ẩn, sâu xa<br /> của vấn đề này chính là việc cấp quá nhiều<br /> vốn vào thị trường.<br /> Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay<br /> là do tỷ lệ cấp vốn vào thị trường so với GDP<br /> vượt quá giá trị mà có thể đảm bảo một sự<br /> phát triển ổn định trong tương lai. Cuộc<br /> khủng hoảng thế chấp tại Mỹ chỉ là chất xúc<br /> tác cho tiến trình này. Nếu nó không xảy ra,<br /> thì cũng có một thứ khác thay thế. Một sự xụp<br /> giảm mạnh trong tỷ lệ cấp vốn vào thị trường<br /> chứng khoán của các nước khác nhau là điều<br /> tất yếu, cũng giống như là sẽ tất yếu dẫn đến<br /> cuộc suy thoái GDP.<br /> Mỹ đã không triệt để cải tổ cơ cấu kinh tế<br /> một cách mạnh mẽ kể từ khủng hoảng kinh<br /> tế Châu Á năm 1997<br /> Các nước Châu Á liên tục có thặng dự thương<br /> mại do đồng nội tệ bị phá giá trong khủng<br /> hoảng khiến xuất khẩu có tính cạnh tranh cao.<br /> Mặt khác, do mất niềm tin vào IMF, Châu Á<br /> tập trung củng cố dự trữ ngoại hối để tăng<br /> cường khả năng đối phó với khủng hoảng tài<br /> chính tiền tệ tương tự. Kết quả là dự trữ ngoại<br /> tệ của các nước Châu Á đã tăng mạnh (Trung<br /> quốc 1997: 180 tỉ; 2008: 1700 tỉ, Nhật 1997:<br /> 210 tỉ, 2008: 1 nghìn tỉ, Ấn độ: 1997: 50 tỉ,<br /> 2008: 250 tỉ). Châu Á chuyển từ châu lục<br /> thâm hụt và nhập vốn sang thặng dư và xuất<br /> vốn. Sau 1997, mặc dù kinh tế tăng trưởng<br /> nhưng Mỹ luôn trong tình trạng thâm hụt cán<br /> cân thanh toán vãng lai. Thâm hụt thương mại<br /> với Châu Á, đặc biệt với Trung Quốc tăng<br /> gần 250 tỉ đô la. Giá dầu tăng gấp 5 lần, từ 20<br /> đô/thùng dầu thô lên hơn 100 đô la/thùng năm<br /> 2007 khiến nhập siêu tăng mạnh. Chiến tranh<br /> I-rắc, Afghanistan làm ngân sách thâm hụt<br /> <br /> 65(03): 26 - 32<br /> <br /> 800 tỉ đô. Các chính sách giảm thuế làm<br /> nguồn thu ngân sách giảm. Do vậy tăng<br /> trưởng kinh tế của Mỹ sau năm 1997 là không<br /> bền vững. Thay vì các biện pháp cải cách<br /> kinh tế sâu rộng để củng cố tăng trưởng, Mỹ<br /> chọn việc nhập khẩu vốn (vay nợ) của Châu<br /> Á, chủ yếu là của Trung Quốc để khác phục<br /> thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai. Việc<br /> vay nợ được thực hiện qua phát hành các trái<br /> phiếu kho bạc và doanh nghiệp. Trong gần<br /> mười năm, quá trình vay nợ này được tiến hành<br /> thuận lợi, Mỹ trở thành con nợ lớn nhất thế giới<br /> và châu Á, trong đó Trung Quốc là điển hình,<br /> trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới. Trung Quốc<br /> sở hữu 38% trái phiếu kho bạc Mỹ.<br /> Việc vay nợ dễ dàng để khắc phục cán cân<br /> thanh toán vãng lai không những trì hoãn cải<br /> cách kinh tế lẽ ra phải được thực hiện sớm, mà<br /> còn khiến tín dụng Mỹ phát triển thái quá.<br /> Thay vì nâng lãi xuất cơ bản để thắt chặt tín<br /> dụng, Ngân hàng Trung ương Mỹ lại duy trì lãi<br /> xuất thấp để khuyến khích vay nợ nước ngoài.<br /> Khi tín dụng mở rộng, lãi xuất cơ bản thấp đã<br /> kích thích thị trường tài chính và thị trường<br /> chứng khoán. Các ngân hàng đầu tư và công<br /> ty tài chính lao vào các hoạt động kinh doanh<br /> rủi ro với mục đích thu lời cao hơn nữa. Đầu<br /> tiên, các kinh doanh rủi ro tập trung vào lĩnh<br /> vực công nghệ viễn thông (IT). Sự đầu cơ quá<br /> đáng trong lĩnh vực IT đã dẫn đến qua bong<br /> bóng viễn thông nổ vào năm 2000 và kinh tế<br /> Mỹ đi vào suy thoái trong năm 2001. Cùng<br /> với quả bong bóng IT nổ, thị trường chứng<br /> khoán Mỹ cũng lao đao vì những vụ gian lận<br /> tín dụng như vụ Eron năm 2002.<br /> Mở rộng thị trường cạnh tranh, nhưng lầm<br /> lẫn giữa “rào cản” cần phá bỏ và các<br /> “kiểm soát” cần bảo vệ<br /> Cho phép ngân hàng thương mại (commercial<br /> banks) hoạt động đa năng và rộng khắp cả<br /> nước. Mở cửa tự do cho mọi loại công cụ tài<br /> chính mới xuất hiện mà không có sự kiểm<br /> soát nào.Cho phép các hành động đầu tư hoàn<br /> toàn mang tính đầu cơ. Bán khống trần trụi<br /> (naked shorting) là một thí dụ. Đây là hành<br /> động mà giới tài chính có thể sử dụng để đẩy<br /> giá một loại chứng khoán nào đó xuống để<br /> làm giàu. Họ bán chứng khoán ra (dù không<br /> có chứng khoán trong tay) - tức là bán được<br /> <br /> 28<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Nguyễn Thị Hồng Yến và cs<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> giá cao - và làm thế giá chứng khoán bị đẩy<br /> xuống, họ mua lại với giá thấp.<br /> Kinh doanh mạo hiểm vượt quá giới hạn<br /> của các ngân hàng đầu tư và công ty tài<br /> chính (LÒNG THAM CỦA CÁC NH)<br /> Sự quản lý lỏng lẻo của các cơ quan chức<br /> năng cũng đóng góp phần không nhỏ tạo ra<br /> khủng hoảng. Trong khi các ngân hàng<br /> thương mại bị giám sát chặt chẽ với các hệ<br /> thống đánh giá rủi ro hiệu quả, thì các ngân<br /> hàng đầu tư và công ty tài chính hầu như<br /> không bị giám sát. Thêm vào đó, việc giám<br /> sát chất lượng đánh giá tín dụng của các công<br /> ty đánh giá tín dụng cũng không hiệu quả.Nói<br /> cách khác, hệ thống giám sát của Mỹ với thị<br /> trường tài chính rủi ro chưa đủ hiệu quả để có<br /> thể quản lý thị trường này.<br /> Bán khống làm trầm trọng thêm cuộc khủng<br /> hoảng vì đã tạo ra làn sóng bán tháo chứng<br /> khoán. Bán khống (Short-selling), trong tài<br /> chính có nghĩa là một cách kiếm lợi nhuận từ<br /> sự kỳ vọng tụt giảm giá của một loại chứng<br /> khoán, ngoại tệ... Bán khống là bán một loại<br /> chứng khoán mà người bán không sở hữu tại<br /> thời điểm bán(4). Cụ thể, họ vay chứng khoán<br /> để bán và sau đó mua lại chứng khoán với<br /> giá thấp hơn để trả cho người họ vay, phần<br /> chênh lệch giá thấp hơn đó mang lại lợi<br /> nhuận cho người bán khống.<br /> HẬU QUẢ<br /> Phá sản hàng loạt các ngân hàng và công<br /> ty tài chính<br /> Tổng số lượng vốn của toàn bộ hệ thống tài<br /> chính Mỹ bị thiệt hại là gần 2 nghìn tỉ.<br /> Các ngân hàng trên thế giới đồng loạt thua lỗ<br /> Các ngân hàng và các định chế tài chính có<br /> thể lỗ 1 tỷ USD từ cuộc khủng hoảng tín<br /> dụng do khủng hoảng nợ dưới chuẩn cho<br /> vay cầm cố.<br /> <br /> 65(03): 26 - 32<br /> <br /> Do lượng nợ xấu ngày một tăng đã được<br /> chuyển sang cho những công ty thu hồi nợ<br /> chuyên nghiệp, nên ngành công nghiệp thu<br /> hồi nợ dự tính sẽ tăng trưởng 9,5% năm 2008<br /> và sẽ tiếp tục có tăng trưởng chừng nào nợ<br /> quá hạn vẫn tiếp tục tăng.<br /> Gánh nặng trả nợ của người vay tiền<br /> Suy thoái kinh tế toàn cầu: Dự báo tăng<br /> trưởng giảm.<br /> Những dự báo về tăng trưởng kinh tế ngày<br /> càng bi quan do thu hẹp tín dụng ngày càng lộ<br /> rõ. Dưới đây là dự báo của IMF kể từ năm<br /> 2006 đối với kinh tế thế giới (3).<br /> <br /> Dự báo kinh tế thế giới từ năm 2006<br /> Thị trường tín dụng đóng băng<br /> <br /> Các khoản vay thế chấp đã giảm hẳn trong<br /> năm 2008 trong đó khoản vay thế chấp<br /> thương mại hoàn toàn biến mất trên biểu đồ.<br /> Thị trường chứng khoán bất ổn<br /> Thị trường chứng khoán trên toàn thế giới, từ<br /> Thượng Hải cho tới London đều sụt giảm.<br /> Trong khi đó tại nước Mỹ, chỉ số công nghiệp<br /> Dow Jones cũng mất điểm mạnh và xuống<br /> thấp nhất trong năm.<br /> Biểu đồ chỉ số công nghiệp Dow Jones<br /> trong 12 tháng qua (tính đến hết 31/7)<br /> <br /> Thị trường địa ốc sụp đổ<br /> Nguyên nhân cơ bản khiến thị trường tài<br /> chính chao đảo là do giá nhà tại Mỹ giảm<br /> 29<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Nguyễn Thị Hồng Yến và cs<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> mạnh lan ra toàn nước Mỹ lần đầu tiên kể từ<br /> những năm 30.<br /> Giá nhà sẽ tiếp tục xuống. Cho đến nay giá<br /> nhà ở một số nơi như thành phố New York<br /> gần như chưa bị ảnh hưởng. Nhưng với số<br /> người trong khu vự tài chính mất việc làm,<br /> khả năng xuống giá ở New York là rất cao.<br /> <br /> Lạm phát gia tăng (giá cả lương thực, nguyên<br /> liệu): Giá hàng hóa leo thang<br /> <br /> Giá hàng hóa đã leo thang chóng mặt trong<br /> chỉ trong vòng 12 tháng qua đặc biệt là giá<br /> vàng và giá dầu. Giá vàng tăng thêm 54%<br /> trong khi giá dầu tăng tới 91%. Đồng euro<br /> trước khi bị mất giá so với đồng USD trong<br /> thời gian gần đây cũng đã tăng giá thêm 18%<br /> so với đồng USD.<br /> Lạm phát trong tương lai sẽ tăng cao dù giá<br /> xăng dầu xuống vì mức tín dụng được Fed<br /> đẩy mạnh để cứu nguy các công ty tài chính<br /> và để nền kinh tế không đi vào suy thoái.<br /> Điều có thể xảy ra là nền kinh tế suy thoái<br /> hoặc phát triển chậm nhưng lạm phát vẫn cao.<br /> Thất nghiệp<br /> Dấu hiệu suy thoái của nền kinh tế Mỹ thể<br /> hiện rõ qua con số người bị mất việc làm.<br /> <br /> 65(03): 26 - 32<br /> <br /> Kể từ đầu năm 2008 đến nay đã có khoảng<br /> 1,2 triệu người Mỹ mất việc làm, chiếm<br /> 8,5% dân số Mỹ.<br /> VIỆT NAM CÓ BỊ ẢNH HƯỞNG?<br /> Tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng đến<br /> kinh tế trong nước không lớn. Tuy nhiên, tác<br /> động gián tiếp thì lại rất mạnh mẽ. Thực tế,<br /> thời gian qua vẫn chưa ghi nhận và đo lường<br /> được những thiệt hại cụ thể nào từ cuộc<br /> khủng hoảng này đối với nước ta. Điều này<br /> được thể hiện ở một số mặt sau:<br /> Trong thời gian qua không biểu hiện nào cho<br /> thấy các ngân hàng có liên quan đến cho vay thế<br /> chấp bất động sản dưới tiêu chuẩn ở Mỹ có chi<br /> nhánh tại Việt Nam rút vốn về nước. Bên<br /> cạnh đó, hiện tại chưa có ngân hàng Việt<br /> Nam nào có hoạt động cho vay thế chấp bất<br /> động sản trên thị trường Mỹ. Vì vậy sự ảnh<br /> hưởng của cuộc khủng hoảng này đến Việt<br /> Nam hiện tại ít có khả năng.<br /> Mặc dù cuộc khủng hoảng nhà đất đã lan sang<br /> thị trường chứng khoán của một số quốc gia<br /> hàng đầu thế giới, nhưng ảnh hưởng của nó<br /> đối với thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn<br /> không nhiều. Sự sụt giảm chỉ số VN Index<br /> được đánh giá chưa hẳn là do tác động của<br /> cuộc khủng hoảng, nguyên nhân chính có thể<br /> là do VN Index trở về với giá trị thực của nó.<br /> VIỆT NAM LÀM GÌ NẾU KHỦNG<br /> HOẢNG KÉO DÀI<br /> Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia<br /> Lê Đức Thúy nhấn mạnh:<br /> "Nhiệm vụ trọng tâm trong những tháng cuối<br /> năm và năm sau là coi việc ngăn ngừa chiều<br /> hướng đình trệ sản xuất kinh doanh"(2).<br /> Một số giải pháp để ứng phó với cuộc khủng<br /> hoảng bao gồm:<br /> Nâng cao năng lực tài chính của các ngân<br /> hàng để tăng khả năng chống đỡ với những<br /> ảnh hưởng khách quan;<br /> Trở lại nguyên tắc lãi suất thỏa thuận chứ<br /> không nên áp dụng trần lãi suất như hiện nay;<br /> Phải lấy tỷ giá thực làm cơ sở định tỷ giá<br /> danh nghĩa;<br /> Tháo dỡ hạn mức tăng trưởng tín dụng không<br /> quá 30% để tạo điều kiện cho các tổ chức<br /> tín dụng có thể phân bổ vốn đến những nơi<br /> có hiệu quả.<br /> <br /> 30<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0