LUẬN VĂN:

Kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp nhà

nước để cổ phần hoá tại công ty Tư vấn Tài chính

Kế toán và Kiểm toán – AASC

Lời mở đầu

ở nước ta, ngay từ những năm 1986, khi Nhà nước thực hiên chuyển cơ chế quản lý

Nhà nước, nền kinh tế thị trường bắt đầu bung ra phát triển dần dần và mạnh mẽ. Là một

trong các yếu tố quan trong của thị trường, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng trở

nên mạnh mẽ. Lúc này, doanh nghiệp nhà nước đã bộc lộ rõ những điểm yếu của mình là bị

động, không tự chủ về tài chính và hoạt động kinh doanh, hoạt động không hiệu quả do được

Nhà nước tài trợ và được bù lỗ khi bị lỗ, bộ máy thì cồng kềnh trong khi việc làm không có…

Nhận ra những điểm yếu trên và các ưu điểm khác, Nhà nước đã đẩy mạnh cổ phần hoá các

doanh nghiệp nhà nứơc nhằm nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo ra loại

hình doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động cho doanh

nghiệp, huy động vốn của toàn xã hội và phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động.

Nghị Quyết Hội nghị lần thứ 13 của Ban Chấp Hành TW Đảng khoá IX đã chỉ rõ:

‘…cần thiết phải bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà

nước, trong đó cần sửa đổi phương pháp xác địnhgiá trị doanh nghiệp theo hướng gắn với

thị trường, nghiên cứu đưa ra giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp...”.

Nhà nước ta đã không ngừng cải thiện, đổi mới công tác xác định GTDN. Điều đó đựơc

thể hiện qua các văn bản Thông tư số 36/TC-CN, Quyết định 202/CT ngày 8/5/1992, Thông

tư 50/TC/TCDN ngày 30/8/1996, Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996, Thông tư số 104/1998/TT-

BTC ngày 29/6/1998, Nghị định số 44/1998/NĐ-CP, Nghị định 64/2002/NĐ-CP, Thông tư số

76/2002/TT-BTC, 79/2002/TT-BTC về việc chuyển doanh nghiệp nhà nứơc thành công ty cổ

phần.

Và do đó, chừng nào còn doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá thì công tác xác định

GTDN luôn là một vấn đề nóng hổi và quan trọng. Do đó, em quyết định chọn đề tài: “Kiểm

toán xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại công ty Tư vấn Tài

chính Kế toán và Kiểm toán – AASC”.

Xác định GTDN là một vấn đề phức tạp từ khi Nhà nước ta thực hiện CFH đến nay. Từ

lý luận đến thực tiễn là một vấn đề lớn. Các văn bản hướng dẫn của Nhà nước không lường

hết được các vấn đề nảy sinh, dẫn đến GTDN được xác định có sự chênh lệch khá lớn giữa

các phương pháp khác nhau và các tổ chức định giá khác nhau.

ở đây, cũng như tên đề tài đã nêu, tác giả đề cập đến vấn đề xác định GTDN có liên

quan đến công tác kiểm toán của các công ty kiểm toán độc lập. Như vậy, kiểm toán xác định

GTDN nhà nước để cổ phần hoá bao gồm hai phần là:

- Kiểm toán từng khoản mục trên BCTC.

- Định giá tài sản.

Chương 1: Cơ sở lý luận của xác định giá trị

Doanh nghiệp

I. Cơ sở lý luận về xác định giá trị doanh nghiệp

1.1. Giá trị, giá trị hàng hoá và giá trị doanh nghiệp

1.1.1. Quan điểm của Các-Mác về giá trị, giá trị hàng hoá

Theo Các - Mác, hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng, giá trị được xác

định ở mặt chất và mặt lượng:

- Mặt chất của giá trị là hao phí lao động của con người

- Mặt lượng của giá trị được đo bằng thời gian hao phí lao động. Khi trao đổi trên thị

trường, lượng của giá trị được đo bằng thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất

ra hàng hoá. Sự cạnh tranh trong nội bộ ngành hình thành nên giá trị thị trường, cạnh tranh

giữa các ngành sẽ hình thành nên giá cả sản xuất. Khi tiền tệ ra đời thì giá trị của hàng hoá

được phản ánh thông qua giá cả. Do sự tác động của cung cầu mà giá cả tách rời giá trị nhưng

yếu tố quyết định giá cả vẫn là giá trị.

- Giá trị sử dụng là khái niệm dùng để chỉ những công dụng, lợi ích mà hàng hoá có thể

mang lại cho con người khi tiêu dùng nó. Mỗi loại hàng hoá đều có những công dụng riêng

biệt, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào giá cả.

Trên thực tế, do quy luật cung cầu của nền kinh tế thị trường, giá trị của hàng hoá được

đánh giá không chỉ bằng các chi phí thời gian lao động xã hội cần thiết mà còn bởi giá trị sử

dụng dưới quy luật cạnh tranh. Có các khái niệm giá trị hàng hoá sau:

- Giá trị nhượng bán: là giá cả của hàng hoá được hình thành trong điều kiện bình

thường chịu tác động của quy luật cung cầu. Nó tương ứng với khái niệm giá cả của Mác. Giá

trị nhượng bán còn được gọi là giá thị trường.

- Giá trị đổi mới: là khái niệm dùng để chỉ các khoản chi tiêu cần thiết để thay thế mới

một tài sản.

- Giá trị mua vào: giá ghi trên sổ kế toán, đây chính là giá gốc, thường không tính đến

yếu tố thị trường làm thay đổi giá cả...

- Giá trị thanh lý: là mức giá chịu sự chi phối của nhiều yếu tố tài chính. Đây thường là hậu quả

đối với các DN bắt buộc phải thanh lý. Tài sản của DN trong những trường hợp như vậy có nguy cơ bị

bán phá giá, tức không theo giá thị trường.

- Giá trị hoạt động: khi bán một DN đang hoạt động, mức giá thu được thường có mức

chênh lệch so với giá trị thanh lý. Khoản chênh lệch giữa hai giá trị đó gọi là giá trị hoạt động,

nó tượng trưng cho giá trị về mặt tổ chức.

- Giá trị theo công dụng: là mức giá chỉ ra các khoản chi tiêu cần thiết để có được một

tài sản tương đương tức có cùng chất lượng, quy cách.

Tóm lại mặc dù có nhiều khái niệm giá trị được đưa ra, nhưng tiêu chuẩn để nhận biết

giá trị hàng hoá trong hoạt động kinh doanh có thể được chia là ba loại:

- Loại 1: Giá trị theo sổ kế toán còn gọi là giá lịch sử (historical cost) hay giá gốc

- Loại 2: Giá trị ước tính theo giá hiện hành – giá thị trường

- Loại 3: Giá trị ước tính theo công dụng của tài sản

1.1.2. Giá trị thời gian của tiền, chi phí cơ hội, chi phí sử dụng vốn vay

Trong nền kinh tế thị trường, luôn có sự biến động trong việc sản xuất hàng hoá, có khi

tại thời điểm này, khi mà nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm xuống thì số lượng hàng hoá

tiêu thụ sẽ bị giảm, các nhà sản xuất sẽ giảm quy mô sản xuất xuống, và ngược lại, khi nhu

cầu tiêu dùng tăng thì các DN lại mở rộng quy mô sản xuất. Cùng với sự lớn lên của giá trị

hàng hoá, nhà nước sẽ phải in thêm số lượng tiền để phù hợp với sức mua hàng hoá của người

tiêu dùng. Do đó, luôn luôn có sự khác biệt về giá trị của đồng tiền giữa các giai đoạn khác

nhau của nền kinh tế.

Nếu ta có một số lượng tiền trong tay, nếu ta dùng để đầu tư và giả sử không gặp rủi ro

về đầu tư, trong tương lai ta sẽ thu được một khoản thu nhập từ số tiền đầu tư đó với lãi suất

lớn hơn lãi suất trái phiếu Chính phủ ở thời điểm hiện hành vì hoạt động đầu tư vào trái phiếu

Chính phủ là hoạt động đầu tư ít rủi ro nhất. Nếu ta không dùng để đầu tư, thì sau đó, trong

tay ta vẫn có từng ấy giá trị tiền. Như vậy, khoản chênh lệch giữa việc đầu tư và không đầu tư

chứng tỏ tiền có khả năng sinh lời, và người ta gọi đó là giá trị thời gian của tiền.

Cũng từ lý luận trên, nếu ta dùng số tiền đó cho đối tượng khác vay để hoạt động kinh

doanh thì sau một khoảng thời gian ta sẽ thu được một số tiền lãi từ việc cho vay. Khoản tiền

mà người đi vay phải trả cho người cho vay gọi là chi phí sử dụng vốn vay.

Chi phí cơ hội là chi phí lớn nhất trong các cơ hội có thể được lựa chọn đã bị bỏ qua.

1.1.3. Doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, giá trị thực tế của doanh nghiệp

a) Doanh nghiệp

DN là một thuật ngữ trong kinh doanh dùng để chỉ các tổ chức kinh tế, cá nhân nhằm

phân biệt nó với các hình thức kinh doanh có quy mô quá nhỏ. Một tổ chức kinh tế chỉ được

coi là DN nếu nó được sự thừa nhận về mặt pháp lý trên một số tiêu chuẩn nào đó.

Các tiêu chuẩn ở đây có thể là mức vốn tối thiểu (vốn pháp định), mục tiêu hoạt động,

ngành nghề, địa điểm, quyền lợi, chủ sở hữu, nhiệm vụ...

Xét theo mục tiêu hoạt động, người ta có thể chia DN thành 2 loại: DN công ích và DN

kinh doanh.

- DN công ích: là DN được thành lập ra nhằm mục tiêu chính trị, xã hội. Lợi nhuận chỉ

là mục tiêu thứ yếu, mục đích của nó là mục tiêu xã hội: không chỉ là đóng góp được bao

nhiêu thuế cho nhà nước mà còn được thể hiện ở chỗ giải quyết được bao nhiêu công ăn việc

làm, mang lại bao nhiêu thu nhập cho các nhà cấp vốn, tổng giá trị mà nó đóng góp vào GDP

của nền kinh tế...

- DN kinh doanh: là một tổ chức kinh tế được thành lập nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi

nhuận. Lợi nhuận của DN kinh doanh là lợi ích mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư. Lợi

ích kinh doanh là ở các khoản thu nhập dưới hình thức như lợi nhuận sau thuế, lợi tức cổ

phần...

Theo quan điểm của Nhà nước Việt nam, công ty Cổ phần là doanh nghiệp trong đó

các cổ đông cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu rủi ro tương

ứng với phần vốn góp.Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao

dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện

các hoạt động kinh doanh.

DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt

động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà

nước giao.

DNNN là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu

trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN quản lý, có tên gọi,

có con dấu riêng (theo Điều 1, luật Doanh nghiệp nhà nước, 20/04/1995).

Như vậy, ngoài những đặc điểm chung của DN, DNNN còn có những đặc điểm sau:

- DNNN là tổ chức kinh tế được thành lập để thực hiện những mục tiêu do Nhà nước

giao

- DNNN do nhà nước đầu tư vốn nên tài sản trong DN là thuộc sở hữu của nhà nước,

DN quản lý, sử dụng tài sản theo quy định của chủ sở hữu là nhà nước.

- DNNN có tư cách pháp nhân vì có đủ các điều kiện của pháp nhân theo quy định của

pháp luật.

- DNNN là DN chịu trách nhiệm hữu hạn

Có 2 loại DNNN là DNNN hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích.

- DNNN hoạt động kinh doanh là DNNN hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận.

- DNNN hoạt động công ích là DNNN hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng,

theo các chính sách của nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh…

Như vậy, DNNN là DN nắm giữ những ngành kinh tế chủ đạo có tác dụng điều hoà nền

kinh tế quốc dân.

b) Giá trị doanh nghiệp

Trước khi xem xét GTDN, ta thấy cần làm rõ một số đặc điểm của doanh nghiệp như

sau:

- DN là một đơn vị, một tổ chức kinh tế hoạt động. Thông qua sự hoạt động mà người ta

nhận ra DN. DN không phải là một tập hợp các loại tài sản. Khi mà nó chỉ đơn giản là một sự

hỗn loạn các tài sản đơn lẻ, rời rạc mà người ta có thể thanh lý, phát mãi từng thứ riêng biệt

như những hàng hoá thông thường thì nó không còn đầy đủ ý nghĩa của một DN. Và do vậy,

khái niệm GTDN là một khái niệm chỉ được dùng cho những DN đang còn hoạt động và sẵn

sàng hoạt động.

- DN là một tổ chức vừa phi vật thể, vừa là vật thể. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị

trường, DN cũng được coi là một loại hàng hoá, nó là một loại hàng hoá đặc biệt. Nó có thể

được đem rao bán trên thị trường và bị ảnh hưởng bởi quy luật giá trị và các quy luật khác

trên thị trường.

- DN là một tổ chức, một đơn vị, một hệ thống và đồng thời cũng là một phần tử trong

hệ thống lớn – nền kinh tế. Do đó, sự tồn tại của DN ở mối quan hệ của nó với các phần tử

khác của hệ thống tức mối quan hệ với các đơn vị, thể nhân và pháp nhân kinh tế khác. Sự tồn

tại của DN không chỉ được quyết định bởi các yếu tố bên trong DN mà còn bởi các yếu tố bên

ngoài như khách hàng, người cung cấp, người cho vay, các luật, chính sách...

Doanh nghiệp có tồn tại được hay không là nhờ vào các mối quan hệ trên thị trường.

Các mối quan hệ này mang tính quyết định đến sự phát triển, tồn tại và thành công của doanh

nghiệp. Do đó, khi đánh giá về doanh nghiệp, người ta phải quan tâm đến cả các mối quan hệ

bên trong và bên ngoài doanh nghiệp trên thị trường.

- Nếu nhìn nhận doanh nghiệp bằng con mắt của các nhà đầu tư thì việc mua sắm TSCĐ

và lưu động không ngoài mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả hoạt

động, lợi ích của DN đối với các nhà đầu tư là ở các khoản thu nhập từ hoạt động SXKD. Vì

mục đích của các nhà đầu tư là liệu đặt vốn kinh doanh của mình và thì sẽ thu được bao nhiêu

đồng lợi nhuận trên một đồng vốn. Vì vậy, theo các nhà đầu tư thì giá trị của doanh nghiệp là

giá trị của các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể đem lại cho nhà đầu tư từ các hoạt

động kinh doanh của mình.

Tóm lại, qua việc phân tích trên ta có thể thấy tồn tại hai cách tiếp cận trong việc xác

định GTDN là:

- Trực tiếp đánh giá giá trị của các tài sản trong DN

- Đánh giá giá trị của các yếu tố, tổ chức hoặc bằng một kỹ thuật nào đó để lượng

hoá các khoản thu nhập mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư.

1.2. Tính cần thiết phải xác định giá trị Doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá.

Trong nền kinh tế thị trường, DN đựơc coi như một loại hàng hoá, chúng có thể được

mua bán, trao đổi. Vì vậy, nhu cầu đánh giá hay xác định giá trị đối với loại tài sản này xuất

hiện là một đòi hỏi hoàn toàn tự nhiên. Trong việc điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước cũng

như trong hoạt động quản trị kinh doanh của các DN luôn cần thiết các thông tin về GTDN.

Giá trị của DN là bao nhiêu, cao hay thấp luôn là mối quan tâm của các pháp nhân và thể

nhân kinh tế có lợi ích liên quan, gắn bó trực tiếp đến các DN.

1.2.1. Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước là xu hướng tất yếu khách quan

khi chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường.

Trong nền kinh tế thị trường thì xu hướng CPH một bộ phận các DNNN đã diễn ra như

là một quy luật, điều này có thể được giải thích bởi 2 lý do là:

1) Các DN nhỏ nếu muốn tồn tại trên thị trường cạnh tranh gay gắt với các DN lớn

thì phải góp vốn để tạo ra DN lớn có sức cạnh tranh lớn hơn. Vì ưu thế của DN lớn là có số

lượng vốn lớn, quy mô sản xuất lớn, và có lợi thế trong việc nâng cao năng suất lao động, hạ

giá thành, đổi mới quy trình công nghệ... để có sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành rẻ và có

thể tiêu thụ tốt hơn sản phẩm cùng loại.

2) Cũng do sự cạnh tranh và rủi ro trong kinh doanh, các DN lớn tồn tại một khoản

tiền vốn nhàn rỗi, không muốn gặp nhiều rủi ro nên phải phân tán số vốn của mình vào các

DN khác bằng cách góp vốn mua cổ phần ở nhiều DN khác.

Đây là xu hướng sát nhập các DN nhỏ thành DN lớn trên thế giới.

Điều này có nghĩa là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các DN dẫn đến quy luật đào

thải, các DN nhỏ sẽ bị chèn ép dẫn đến phá sản. Các DN nhỏ không muốn phá sản, thì phải

thu hút vốn thêm nhằm mở rộng thị trường, phát triển sản xuất. Cũng do tính cạnh tranh khốc

liệt của thị trường mà trong các DN lớn tồn tại một lượng vốn nhàn rỗi, để giảm rủi ro trong

đầu tư, DN lớn này sẽ phân tán nguồn vốn đầu tư của mình. DNNN với sự quản lý kém, hoạt

động thiếu hiệu quả cũng nằm trong xu thế khách quan đó.

Thực tiễn nhiều thập kỷ qua cho thấy, kinh tế quốc dân kém hiệu quả hơn kinh tế tập thể

và tư nhân. Các DNNN làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ. Nguyên nhân chính là do không thực sự

có động lực để thúc đẩy làm ra nhiều lợi nhuận. Sự thua lỗ này lại được Nhà nước bao cấp, tài

trợ nhằm đảm bảo cho DNNN hoạt động tốt theo chủ trương kế hoạch KTXH của Nhà nước.

Điều này làm mất tính tự chủ của DN và tạo sự ỷ lại vào nguồn vốn Nhà nước.

Từ các thực tế trên cho thấy, xu hướng thay đổi quan điểm về vai trò điều tiết của nhà

nước trong nền kinh tế thị trường, xu hướng đa dạng hoá các loại hình sở hữu. “Sở hữu nhà

nước không đồng nghĩa với hiệu quả và mục đích của sự phát triển mà chỉ là một công cụ

quan trọng và hữu hiệu cùng với công cụ tài chính và tiền tệ để nhà nước thực hành việc điều

tiết định hướng vào nền kinh tế, khu vực kinh tế nhà nước chỉ nên thu hẹp ở những lĩnh vực có

vai trò quyết định đến sự phát triển và ổn định của nền kinh tế như giao thông vận tải, bưu

điện,…”.

Các DNNN ở Việt nam hoạt động kém hiệu quả. Nguyên nhân là do:

- Hệ thống kế hoạch hoá và tài chính cồng kềnh và cứng nhắc vì được quản lý theo hệ

thống hành chính từ trên xuống theo nhiều cấp trung gian.

- Tính tự chủ trong quản lý và kinh doanh bị hạn chế vì nhiều quy chế liên quan đến

quyền sở hữu của DN.

- Sự độc quyền của các DNNN trên thị trường đựơc pháp luật Việt nam củng cố đã làm

mất đi những động lực nâng cao hiệu qủa SXKD

- Được tài trợ bởi nguồn ngân sách nhà nước, do đó không có động lực nâng cao hiệu

quả kinh doanh để tồn tại trong cạnh tranh với các DN tư nhân vì không thể “bị chết”.

- Hoạt động của DNNN là nhằm đảm bảo cho xí nghiệp có hoạt động dễ chịu và ổn

định, tránh né sự thẩm xét của các cơ quan cấp trên, do đó dẫn đến quan niêu, mua sắm thừa

thiết bị, cơ chế phình to...

- Do phải tài trợ cho các DNNN bị lỗ, nên nhà nước bị thâm hụt ngân sách và nợ nước

ngoài nhiều.

Vì vậy, nhà nước ta đã thay đổi quan điểm về vai trò điều tiết của Nhà nước trong nền

kinh tế thị trường và đã thực hiện chủ trương CPH ngay sau khi chuyển sang nền kinh tế thị

trường.

Do đó, để cải thiện DNNN cho phù hợp với cơ chế thị trường, cần thiết phải cổ phần

hoá.

Tuy nhiên, CPH không phải là đơn giản, chúng ta phải giải quyết rất nhiều vấn đề phức

tạp:

- Xác định GTDN như thế nào là chính xác

- Đất có tính vào GTDN không và tính như thế nào

- Giải quyết vấn đề lao động như thế nào khi DNNN chuyển sang công ty cổ

phần.

Và một trong những vấn đề bức xúc nhất mà nước ta không ngừng nghiên cứu và hoàn

thiện từ sau đổi mới đến nay là vấn đề xác định GTDN. Việc đưa ra các phương án, đề án

thực hiện khác xa so với thực tế, GTDN qua kiểm kê cho thấy có nhiều chênh lệch và thường

không chính xác.

1.2.2. Cổ phần hoá là giải pháp cơ bản để tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước trong

giai đoạn hiện nay ở nước ta.

CPH là một trong nhiều cách để tư nhân hoá tài sản của DN. Tư nhân hoá là quá trình

chuyển sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân. CPH có tác dụng:

- Đa dạng hoá quyền sở hữu và cụ thể hoá chủ sở hữu.

- Thương mại hoá mọi hoạt động của DN (chứ không phải theo mệnh lệnh hành chính,

cắt bỏ sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động DN).

- Luật pháp hoá các tổ chức quản lý (theo luật Công ty và luật khác...).

- Nâng cao hiệu quả SXKD của DN.

Xét về mặt hình thức, CPH là việc nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần

của mình trong xí nghiệp cho các đối tượng, tổ chức hoặc tư nhân trong và ngoài nước hoặc

cho cán bộ quản lý, công nhân trong xí nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua thị

trường chứng khoán để hình thành các công ty TNHH hoặc công ty cổ phần.

Xét về mặt thực chất, CPH là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình thái

kinh doanh một chủ sở hữu (Nhà nước) thành nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình DN

phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được yêu cầu kinh doanh hiện đại.

II. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp

Như vậy, qua trên ta đã có cái nhìn tổng quan về doanh nghiệp thông qua các đặc điểm

của nó. Tuy nhiên, để xác định được giá trị doanh nghiệp, người ta phải quan tâm đến các yếu

tố ảnh hưởng đến doanh nghiệp.

GTDN được đo lường bằng khoản thu nhập mà DN mang lại cho nhà đầu tư nhưng độ

lớn của thu nhập đó là bao nhiêu thì nó lại phụ thuộc rất lớn vào sự tồn tại của doanh nghiệp

với các mối quan hệ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Đó là các yếu tố vốn liếng, tài sản,

kỹ thuật, khả năng thích ứng của nó với môi trường bên ngoài, các quan hệ hợp tác và các yếu

tố khách quan khác như các chính sách kinh tế, môi trường kinh doanh,...

2.1. Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh

Trước hết phải khẳng định GTDN chỉ được đánh giá trong một môi trường kinh doanh

nhất định. Môi trường kinh doanh được chia làm hai loại là môi trường kinh doanh tổng quát

và môi trường đặc thù.

2.1.1. Môi trường kinh doanh tổng quát

Môi trường kinh doanh tổng quát bao gồm: môi trường kinh tế, môi trường chính trị,

môi trường văn hoá - xã hội, môi trường tự nhiên, môi trường kỹ thuật và môi trường dân số...

- Môi trường kinh tế:

Môi trường mà DN tồn tại là một môi trường kinh tế cụ thể. DN chịu ảnh hưởng của tốc

độ phát triển kinh tế, mức độ ổn định của nền kinh tế, tốc độ lạm phát, tỷ suất đầu tư, mức độ

ổn định của đồng tiền, tỷ giá trên thị trường chứng khoán,… Các yếu tố trên đều là những yếu

tố khách quan nhưng nó lại có tác động một cách không nhỏ đến sự hoạt động của DN. Một

DN không thể hoạt động tốt trong một môi trường mà lạm phát cao, tỷ suất đầu tư cao,…

Mỗi sự thay đổi nhỏ trong các yếu tố này bao giờ cũng ảnh hưởng tới sự đánh giá về

DN. Nền kinh tế với tốc độ phát triển cao chứng tỏ nhu cầu đầu tư tiêu dùng cao, ngược lại,

nền kinh tế với mức lạm phát cao, chứng tỏ sự bất ổn định về tỷ giá đồng tiền là dấu hiệu

chứng tỏ sự bất ổn về môi trường hoạt động của DN. Do đó, mọi sự đánh giá về DN, trong đó

có GTDN sẽ bị đảo lộn hoàn toàn.

- Môi trường chính trị:

Hoạt động SXKD chỉ có thể tồn tại và phát triển trong một môi trường có sự ổn định về

chính trị ở một mức độ nhất định. Những bất ổn trong xã hội (tệ nạn xã hội, chiến tranh,…)

là những yếu tố tác động rất lớn đến hoạt động SXKD của DN.

Các yếu tố của môi trường chính trị liên quan đến SXKD bao gồm

+) Tính đầy đủ, rõ ràng, chi tiết, đồng bộ của hệ thống luật pháp

+) Quan điểm của nhà nước đối với SXKD thông qua các văn bản pháp quy như bảo vệ

SXKD, bảo vệ nhà đầu tư, bảo vệ người tiêu dùng, đầu tư nước ngoài, quan điểm phân biệt

đối xử thực hiện trong luật thuế, luật cạnh tranh, luật sở hữu trí tuệ...

+) Năng lực hành pháp của chính phủ và ý thức chấp hành pháp luật của các công dân và

các tổ chức sản xuất. Pháp luật đã được ban hành nhưng không trở thành hiện thực, tệ nạn

buôn lậu, trốn thuế, hàng giả, hàng nhái... là biểu hiện của một môi trường chính trị gây bất

lợi cho sản xuất.

+) Xu hướng, quan điểm trong quan hệ ngoại giao và hợp tác quốc tế của chính phủ với

các quốc gia khác trong tiến trình toàn cầu hoá và quan điểm cá nhân của những người đứng

đầu Chính phủ cũng tác động to lớn đến SXKD.

Nền kinh tế hiện nay là nền kinh tế có sự tham gia quản lý của Nhà nước. Do đó, các

chính sách kinh tế, các luật, các quan điểm kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến SXKD của DN.

Môi trường kinh tế và môi trường chính trị đóng vai trò như những điều kiện thiết yếu để DN

có thể hoạt động. Vì vậy, khi đánh giá DN bao giờ cũng phải xem xét các yếu tố này.

- Môi trường Văn hoá - Xã hội

Mỗi DN tồn tại trong một môi trường văn hoá nhất định. Môi trường văn hoá bao gồm

những hệ tư tưởng của số đông cộng đồng về lối sống, đạo đức, tác phong, quan niệm về

chân, thiện, mỹ, quan niệm về nhân cách, văn minh xã hội, thực hiện trong tập quán sản xuất

và tiêu dùng.

Môi trường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi, mật độ sự gia

tăng dân số, thu nhập bình quân đầu người và hàng loạt các vấn đề mới nảy sinh như ô nhiễm

môi trường, tài nguyên cạn kiệt...

Thói quen tiêu dùng, tâm lý tiêu dùng, cơ cấu dân cư, mật độ dân số, thu nhập bình quân

đầu người,… ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và cách thức SXKD. SXKD chỉ có thể tồn tại

khi mà nó đảm bảo các yêu cầu về Văn hoá - Xã hội như đảm bảo không bị ô nhiễm môi

trường, tài nguyên cạn kiệt,… DN ra đời là để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao trong đời

sống vật chất và tinh thần của cộng đồng nơi DN hoạt động. Chính vì thế đánh giá về DN

không thể bỏ qua những yếu tố, những đòi hỏi bức xúc của môi trường Văn hoá - Xã hội

trong hiện mà còn phải thực hiện dự báo được sự ảnh hưởng yếu tố này đến SXKD của DN trong

tương lai.

- Môi trường kỹ thuật, công nghệ

Thời đại ngày nay là thời đại của công nghệ thông tin. Một loạt những phát minh được

ứng dụng trong thực tế gây ảnh hưởng trực tiếp, rõ rệt đến đời sống hàng ngày của con người

như hàng loạt các phát minh mới về công nghệ sinh học: sinh sản vô tính, công nghệ máy

tính,… Những phát minh này không chỉ ảnh hưởng đễn các phương thức sản xuất kinh doanh

trong mỗi doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến nhu cầu sản phẩm và chất lượng sản phẩm

trong DN. Các sản phẩm sản xuất ra ngày càng đa dạng và phong phú, chứa đựng một hàm

lượng lớn tri thức. Đây là xu hướng tiến tới nền kinh tế tri thức trên toàn cầu.

Trên bình diện xã hội, đó là những bước tiến nhảy vọt của nền văn minh nhân loại. Song

trên giác độ DN, trong cơ chế thị trường, đó không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức đối với

sự tồn tại của DN. Việc thiếu nhạy bén trong việc áp dụng những thành tựu khoa học mới

nhất có thể là nguyên nhân đưa DN đến chỗ phá sản.

Chính vì thế, việc đánh giá DN phải xem xét chúng trong môi trường của kỹ thuật công

nghệ. Việc đánh giá phải chỉ ra mức độ tác động của môi trường này đến SXKD và khả năng

thích ứng của DN trước những bước phát triển mới của khoa học công nghệ.

2.1.2. Môi trường đặc thù

Môi trường đặc thù là môi trường có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh

doanh của DN. Các yếu tố thuộc môi trường này có thể kiểm soát được.

Thuộc môi trường đặc thù có các yếu tố về khách hàng, nhà cung cấp, các hãng cạnh tranh và

cơ quan Nhà nước.

 Quan hệ doanh nghiệp với khách hàng

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sự đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh dẫn đễn

nhu cầu đa dạng về các sản phẩm dịch vụ đầu vào. Do đó, mối quan hệ với khách hàng của

DN cũng đa dạng. Yếu tố khách hàng là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của DN.

Khách hàng của DN có thể là các cá nhân, các DN khác hoặc Nhà nước, họ có thể là khách

hàng hiện tại nhưng cũng có thể là khách hàng tương lai.

Để đánh giá về doanh nghiệp, người ta căn cứ vào mối quan hệ bền vững của DN với

khách hàng hay mức độ uy tín thể hiện ở thời gian hợp tác với khách hàng, chất lượng khách

hàng (thể hiện ở tiếng tăm của họ), số lượng của khách hàng và khả năng phát triển mối quan

hệ lâu dài với khách hàng. Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất vẫn là thị phần hiện tại của

doanh nghiệp, thị phần tương lai, doanh số bán ra và tốc độ phát triển của chỉ tiêu này qua các

thời kỳ kinh doanh khác nhau của DN.

DN thường phải trông đợi sự cung cấp từ bên ngoài các hàng hoá, NVL, các dịch vụ

điện, nước, thông tin tư vấn... Tính ổn định của nguồn cung cấp đó có ý nghĩa quan trọng đảm

bảo cho sản xuất và tiêu thụ được thực hiện theo yêu cầu mà DN đã định ra. Do tính khan

hiếm của NVL nhiều khi DN cũng gặp phải những khó khăn nếu như không có sự cung cấp

kịp thời và không có NVL thay thế. Vì vậy, để đánh giá sự ổn định trong hoạt động kinh

doanh của DN ta phải quan tâm đến khả năng đáp ứng nhu cầu của DN, mối quan hệ của DN

với các nhà cung cấp.

 Các hãng cạnh tranh.

Cạnh tranh là hoạt động tranh đua nhằm giành giật những điều kiện sản xuất và kinh

doanh có lợi nhất giữa các DN cùng sản xuất và kinh doanh cùng loại mặt hàng hoặc những

mặt hàng có thể thay thế được cho nhau.

Cạnh tranh được thể hiện dưới ba hình thức:

- Cạnh tranh về giá cả

- Cạnh tranh về chất lượng

- Cạnh tranh về dịch vụ bảo hành, sửa chữa (hậu thương mại)

Được sự ủng hộ từ phía nhà nước, hầu hết các lĩnh vực kinh tế, mức độ cạnh tranh giữa

các DN trên thị trường trong nước và quốc tế ngày càng trở nên quyết liệt hơn. Sự quyết liệt

trong cạnh tranh được coi là mối nguy cơ trực tiếp đến sự tồn tại của DN. Do đó, đánh gía

năng lực cạnh tranh, ngoài việc xem xét trên 3 tiêu chuẩn trên còn phải xác định được số

lượng DN tham gia cạnh tranh, năng lực thực sự và thế mạnh của họ là gì. Đồng thời phải chỉ

ra được những yếu tố và mầm mống có thể làm xuất hiện các đối thủ mới. Có như thế mới kết

luận được sự đúng đắn về vị thế và khả năng cạnh tranh của DN trên thị trường.

Các cơ quan nhà nước 

Trong cơ chế thị trường, DN tuy được chủ động trong hoạt động SXKD, tuy nhiên

nhưng sự hoạt động của DN luôn phải được đặt dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan nhà

nước như cơ quan thuế, thanh tra, các tổ chức công đoàn… Các tổ chức này có trách nhiệm

kiểm tra giám sát đảm bảo cho hoạt động của DN không vượt ra khỏi những quy ước của xã

hội bằng các luật thuế, môi trường, luật cạnh tranh, luật công đoàn,...

DN có mối quan hệ tốt đẹp với các tổ chức đó thường là DN thực hiện tốt nhiệm vụ đối

với xã hội như nộp thuế đầy đủ, đúng hạn, chấp hành tốt luật lao động, quan tâm giải quyết

vấn đề môi trường sinh thái... Đó cũng là biểu hiện của những DN có tiềm lực tài chính vững

mạnh, lợi nhuận thu được không phải bằng cách buôn lậu, trốn thuế, làm hàng hoá giả... Vì

vậy, xác định sự tác động của yếu tố môi trường đặc thù đến SXKD còn cần phải xem xét chất

lượng và thực trạng của mối quan hệ giữa DN với các tổ chức đó trong những khoản thời gian

xác định.

2.2. Các yếu tố thuộc về nội tại doanh nghiệp

2.2.1. Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp

Tài sản trong DN là toàn bộ tài sản hữu hình và vô hình nằm trong danh mục bảng cân

đối kế toán tại thời điểm đánh giá. Đây là một quan niệm cần thiết để phân biệt nó với lợi thế

thương mại.

Số lượng và cơ cấu các loại tài sản thường có sự khác nhau giữa các DN ngay cả khi

chúng ở trong cùng ngành SXKD. Khi xác định GTDN, bao giờ người ta cũng quan tâm đến

hiện trạng tài sản vì:

- Tài sản DN là biểu hiện của yếu tố vật chất cần thiết, tối thiểu đối với quá trình SXKD.

Số lượng, chất lượng, trình độ kỹ thuật và tính đồng bộ của các loại tài sản là yếu tố quyết

định đến số lượng, chất lượng sản phẩm của DN. Tức là, khả năng cạnh tranh của DN phụ

thuộc trực tiếp vào yếu tố này.

- Giá trị tài sản của DN được coi là một căn cứ và là một sự bảo đảm rõ ràng nhất về

GTDN. Vì thay cho việc dự báo các khoản thu nhập tiềm năng thì người sở hữu có thể bán

chúng bất cứ lúc nào để nhận được thu nhập từ tài sản đó.

Do đó, trong thực tế, người ta thường vận dụng phương pháp có liên quan trực tiếp đến

việc xác định giá trị tài sản của DN.

2.2.2. Vị trí kinh doanh

Vị trí kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với SXKD. Vị trí kinh doanh bao gồm các

yếu tố như địa điểm, diện tích của DN và các chi nhánh của DN, yếu tố địa hình, thời tiết, môi

trường sinh thái, an ninh khu vực, thu nhập dân cư trong vùng, tốc độ phát triển kinh tế và khả

năng cung cấp các dịch vụ cho sản xuất của khu vực đó.

DN hoạt động thương mại có vị trí thuận lợi là DN hoạt động ở khu vực đông dân cư,

trung tâm buôn bán, các đầu mối giao thông quan trọng. Với vị trí thuận lợi, DN có thể giảm

được chi phí vận chuyển, bảo quản, lưu kho, giao dịch… đồng thời DN có những thuận lợi

lớn để tiếp cận với nhu cầu, thị hiếu của thị trường,… Bên cạnh đó, DN phải chịu những chi

phí cao về thuê văn phòng, thuê lao động, và có thể phải di chuyển trụ sở đi nơi khác do sự

quy hoạch của nhà nước.

Những thuận lợi và bất lợi cơ bản của yếu tố vị trí đối với SXKD là lý do chủ yếu giải

thích sự chênh lệch về giá cả đất đai, giá thuê nhà giữa các khu vực với nhau. Và vì thế, khi

nói về yếu tố lợi thế thương mại, người ta thường trước hết đề cập đến yếu tố vị trí. Trong

thực tế, do có sự khác nhau về vị trí kinh doanh mà có sự chênh lệch rất lớn khi đánh giá về

GTDN. Vì vậy, vị trí kinh doanh cần được coi là một trong các yếu tố quan trọng hàng đầu

khi đưa ra phân tích, đánh giá GTDN.

2.2.3. Uy tín kinh doanh

Uy tín kinh doanh của DN được thể hiện ở sự ổn định của khách hàng, ở sự gia tăng

nhanh chóng thị phần và doanh số bán.

Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng về sản phẩm của DN nhưng nó lại

được hình thành bởi nhiều yếu tố khác nhau từ bên trong DN như: do chất lượng sản phẩm

cao, do trình độ và năng lực quản trị kinh doanh giỏi, do có nghệ thuật quảng cáo, do thái độ

phục vụ tận tình của nhân viên...

Trong thực tế, có những DN trong nước có thể sản xuất những mặt hàng có chất lượng

không thua kém gì hàng nước ngoài nhưng không thể bán với giá cao vì chưa gây được uy tín

với khách hàng.

Như vậy, có thể thấy rằng, khi sản phẩm đã được đánh giá cao trong con mắt của khách

hàng thì uy tín đã trở thành một tài sản thực sự, chúng có giá, và người ta gọi chúng là giá trị

của nhãn mác hay thương hiệu. Trong nền kinh tế thị trường, người ta có thể mua bán quyền

dán nhãn mác các sản phẩm, quyền dán nhãn mác có khi được đánh giá rất cao. Vì vậy, uy tín

của DN được đông đảo các nhà kinh tế thừa nhận là một yếu tố quan trọng hình thành nên

GTDN.

2.2.4. Trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao động

Một trong những yếu tố quyết định sự thắng lợi trong cạnh tranh là chất lượng sản phẩm

sản xuất ra phải được thị trường đánh giá cao. Chất lượng sản phẩm DN một mặt phụ thuộc

vào trình độ của máy móc thiết bị, một mặt phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật và tay nghề của

nhân viên.

Trình độ kỹ thuật và sự lành nghề của người lao động không chỉ có ý nghĩa quan trọng

trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn có thể làm giảm chi phí SXKD do việc sử

dụng hợp lý NVL,... trong quá trình sản xuất, giảm được chi phí đào tạo, bồi dưỡng từ đó góp

phần nâng cao thu nhập cho DN.

Để đánh giá về trình độ kỹ thuật tay nghề của người lao động ta không chỉ xem ở bằng

cấp, bậc thợ, số lượng lao động đạt được các chuẩn mực đó mà quan trọng hơn, trong điều

kiện hiện nay, còn phải xem xét hàm lượng tri thức có trong mỗi sản phẩm mà DN sản xuất.

Khi đánh giá khả năng tồn tại và phát triển, khả năng sáng tạo ra lợi nhuận của DN, cần thiết

phải xem xét đến trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao động, coi chúng như một yếu tố

nội tại quyết định đến GTDN.

2.2.5. Năng lực quản trị kinh doanh

Một trong những yếu tố quyết định đến hoạt động SXKD, chất lượng sản phẩm, khả

năng cạnh tranh… là khả năng quản lý. Cách tổ chức tốt trong việc sử dụng các nguồn lực sản

xuất, tận dụng, nắm bắt các cơ hội nảy sinh, ứng phó năng động với sự biến động của môi

trường,… là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng tồn tại của DN trên thị trường.

Do đó, năng lực quản trị kinh doanh là một yếu tố quan trọng đặc biệt trong GTDN.

Năng lực quản trị kinh doanh của một DN cần được xem xét về khả năng hoạch định

chiến lược, chiến thuật, trình độ tổ chức bộ máy quản lý, năng lực quản trị các yếu tố đầu vào

và đầu ra của quá trình sản xuất, khả năng quản trị nguồn nhân lực.

Năng lực quản trị kinh doanh là một yếu tố định tính nhiều hơn là yếu tố định lượng. Vì

vậy, khi đánh giá cần phải xem xét chúng dưới sự tác động của môi trường. Ngoài ra, năng

lực quản trị kinh doanh còn được thể hiện thông qua các chỉ tiêu tài chính của DN. Do đó,

thực hiện phân tích một cách toàn diện tình hình tài chính trong những năm gần đây với thời

điểm đánh giá cũng có thể rút ra những kết luận quan trọng về năng lực quản trị và sự tác

động của nó đến GTDN.

Tóm lại,

- GTDN bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài.

- Các yếu tố đã phân tích trên có tác động lẫn nhau, chúng được xác định về mặt định

tính nhiều hơn định lượng. Thực hiện sự đánh giá về chúng, người ta xây dựng các tiêu thức

cơ bản rồi áp dụng phương pháp xếp hạng cho điểm. Tuy nhiên, phương pháp này mang nặng

tính chủ quan của người đánh giá, do đó để hạn chế yếu điểm này, người ta đánh giá chúng

bởi số đông, có thể là một hội đồng. Mặc dù vậy, quyết định xếp hạng không phải lúc nào

cũng đúng. Quyết định khách quan cuối cùng là thị trường.

- GTDN là khoản thu nhập mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư, người mua DN

không phải là mua lấy những tài sản, uy tín kinh doanh và trình độ quản lý giỏi... mà là sự

đánh đổi lấy các khoản thu nhập tiềm năng ở DN. Do đó, ta phải nghiên cứu chúng để phân

biệt các yếu tố tác động tới cấu thành DN và làm cơ sở để xác định GTDN.

III. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp

3.1. Xác định giá trị doanh nghiệp là gì?

Ta có các nhận xét sau:

- GTDN có thể khác xa so với giá bán DN trên thị trường. GTDN được đo bằng độ lớn

của các khoản thu nhập mà DN có thể đem lại cho các nhà đầu tư. Giá mua bán của DN hình

thành trên thị trường chịu ảnh hưởng bởi các quy luật trên thị trường như quy luật cung-cầu

DN, cung-cầu về chứng khoán và tiền tệ...

- Khi nào còn tồn tại DN với tư cách là một tổ chức pháp nhân thì còn tồn tại khái niệm

GTDN ngay cả khi không còn tồn tại quan hệ mua bán DN. Do đó, GTDN cần bên thứ ba xác

định để đảm bảo yếu tố trung thực khách quan trong việc xác định GTDN.

- Xác định GTDN không đơn giản chỉ để mua bán, sát nhập, hợp nhất, chia nhỏ DN mà

còn có tác dụng cổ phần hoá, xác định vị thế tín dụng, cung cấp cho hoạt động quản lý vĩ

mô,...

Như vậy, xác định GTDN hay còn gọi là định giá DN thực chất là việc lượng hoá các

khoản thu nhập mà DN có thể tạo ra trong quá trình SXKD làm cơ sở cho các hoạt động giao

dịch thông thường thuộc thị trường.

3.2. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp

Cùng với sự đa dạng về cách nhìn nhận, đánh giá GTDN ở các góc độ khác nhau dẫn

đến tồn tại nhiều phương pháp xác định GTDN.

3.2.1. Phương pháp giá trị tài sản thuần

a)Cơ sở lý luận

Phương pháp này dựa trên quan điểm : “giá trị của một DN được tính bằng tổng giá thị

trường của số tài sản mà DN hiện đang sử dụng vào SXKD”.

DN có hoạt động được là nhờ vào số vốn và tài sản hiện có trong DN, trong quá trình

hoạt động DN có thể phát triển số tài sản hoặc thâm hụt số tài sản của mình

b) Phương pháp xác định

Trong số tài sản của DN trên Bảng cân đối kế toán, có những tài sản thuộc sở hữu của

DN nhưng có nhiều tài sản không thuộc quyền sở hữu của DN như các khoản phải trả (công

nhân viên, người bán, nhà nước...). Do vậy, khi xác định GTDN ta phải loại bỏ các khoản này,

có nghĩa là, ta phải xác định giá trị tài sản thuần.

V0=Vt-Vn

Vo: Giá trị tài sản thuần thuộc về chủ sở hữu DN

Vt: Tổng giá trị tài sản mà DN sử dụng vào SXKD

Vn: Giá trị các khoản nợ

Do đó, theo cách này, người ta có thể :

1) Xác định GTDN bằng cách dựa vào Bảng cân đối kế toán

Giá trị doanh Tổng các khoản nợ = Tổng tài sản – nghiệp thuần Ngắn hạn và Dài hạn

2) Xác định giá trị tài sản theo giá thị trường

Cách này có ưu điểm hơn vì:

- Giá trị tài sản phản ánh trên sổ kế toán là giá gốc, có tính lịch sử nên có thể đã bị thay

đổi tại thời điểm xác định GTDN

- Giá trị còn lại của TSCĐ phản ánh trên sổ kế toán cao hay thấp phụ thuộc vào việc DN

đang sử dụng phương pháp khấu hao nào, thời điểm mà DN xác định nguyên giá và sự lựa

chọn tuổi thọ kinh tế của TSCĐ. Vì vậy, giá trị TSCĐ phản ánh trên sổ kế toán thường không

phù hợp với giá thị trường tại thời điểm xác định gía trị DN.

- Đối với HTK (hàng hoá, vật tư, công cụ dụng cụ...) hoặc hàng đang dùng trong sản

xuất, một mặt phụ thuộc vào phương pháp tính giá hàng tồn kho, phụ thuộc vào tiêu thức

phân bổ chi phí khác nhau cho số hàng hoá dự trữ, mặt khác chất lượng HTK tại thời điểm

xác định GTDN có thể bị thay đổi do HTK đã để lâu ngày kém, mất phẩm chất, không dùng

được...

Để xác định giá trị tài sản theo giá thị trường, trước hết người ta loại ra những tài sản

không cần dùng(nếu vẫn có giá trị vẫn không tính vào tài sản của DN CPH) và không có khả

năng đáp ứng các yêu cầu của SXKD, sau đó tiến hành đánh giá số tài sản còn lại trên nguyên

tắc sử dụng giá thị trường để tính cho từng tài sản hoặc từng tài sản cụ thể:

- Đối với TSCĐ và lưu động là hiện vật thì đánh giá theo giá thị trường nếu trên thị

trường có bán những tài sản như vậy.

Nếu trên thị trường, không tồn tại loại TSCĐ đã cũ, đã qua sử dụng. Khi đó, người ta xác định

giá trị tài sản dựa theo công dụng hay khả năng phục vụ sản xuất của tài sản để áp dụng một

tỷ lệ khấu trừ trên giá trị của một TSCĐ mới.

- Đối với những TSCĐ không còn tồn tại trên thị trường thì người ta áp dụng một hệ số

quy đổi so với các TSCĐ khác loại có tính năng tương đương.

- Các tài sản bằng tiền được xác định bằng cách kiểm quỹ, đối chiếu số dư trên tài

khoản. Nếu là ngoại tệ sẽ được quy đổi về đồng nội tệ theo tỷ giá thị trường tại thời điểm

đánh giá. Vàng, bạc, kim đá quý... cũng được xác định tương tự như vậy.

- Các khoản phải thu: Do khả năng đòi nợ các khoản này ở nhiều mức độ khác nhau nên

bao giờ người ta cũng bắt đầu từ việc đối chiếu công nợ, xác minh tính pháp lý, đánh giá độ

tin cậy của từng khoản phải thu nhằm loại ra những khoản mà DN không có khả năng đòi

được hoặc khả năng đòi được là thấp.

- Đối với các khoản đầu tư ra bên ngoài DN : Về mặt nguyên tắc phải thực hiện đánh

giá một cách toàn diện về giá trị đối với các DN hiện đang sử dụng khoản đầu tư đó. Tuy

nhiên, nếu các khoản đầu tư này không lớn, người ta thường trực tiếp dựa vào giá thị trường

của chúng dưới hình thức chứng khoán hoặc căn cứ vào số liệu của bên đối tác liên doanh để

xác định theo cách thứ nhất

- Đối với các tài sản cho thuê và quyền thuê bất động sản : Tính theo chiết khấu dòng

thu nhập tương lai.

- Các tài sản vô hình theo phương pháp này người ta chỉ thừa nhận giá trị của các tài sản

vô hình đã được xác định trên sổ kế toán và thường không tính đến lợi thế thương mại của

DN.

Ta có công thức sau:

Giá trị tài Giá trị của các Các Khoản tiền thuế tính trên giá trị

sản DN = tài sản đã được - khoản - tăng thêm của số tài sản được đánh

xác định nợ giá tại thời điểm xác định GTDN thuần

Phương pháp này có đặc điểm là:

- Không coi DN là một thực thể, bỏ qua các giá trị về lợi thế DN, đánh giá tài sản DN

như một thực thể riêng rẽ, không có mối liên quan với nhau nên không phản ánh được tầm

nhìn chiến lược của DN, triển vọng sinh lời của DN.

- Trong nhiều trường hợp, xác định giá trị tài sản thuần trở nên phức tạp do một tập đoàn

có nhiều chi nhánh lại có số lượng rất lớn các tài sản chi tiết. Do vậy, chi phí đánh giá tốn

kém và không chính xác do phụ thuộc vào thông số kỹ thuật của tài sản mà các nhà kỹ thuật

chuyên nghành đưa ra, vì vậy sai số đánh giá có thể rất cao.

Tuy nhiên, phương pháp này lại phản ánh chính xác giá trị mà người chủ sở hữu có được

trong DN dựa trên giá thị trường của các tài sản, nó làm giá cơ sở cho việc xác định giá bán

DN. Phương pháp này rất phù hợp với những DN có quy mô nhỏ.

3.2.2. Phương pháp hiện tại hoá các nguồn tài chính trong tương lai

Phương pháp này nhìn nhận xác định GTDN dưới góc độ đánh giá độ lớn các khoản thu

nt 

nhập mà DN có thể mang lại cho các nhà đầu tư trong tương lai.

Ft 1( 

) ti

t

1 

Vo = 

Vo: GTDN

Ft: Thu nhập đem lại cho nhà đầu tư ở năm thứ t

i: tỷ suất hiện tại hoá (tỷ suất chiết khấu)

N: thời gian nhận được thu nhập (năm)

Phương pháp hiện tại hoá các nguồn tài chính tương lai bao gồm:

- Phương pháp hiện tại hoá lợi nhuận

- Phương pháp định giá chiết khấu

- Phương pháp hiện tại hoá các dòng thu nhập của DN trong tương lai

3.2.3. Phương pháp định lượng Goodwill (lợi thế thương mại)

Phương pháp này xác định dựa trên giả định sau:

Một DN A ứng ra một lượng vốn là 100, thu về khoản lợi nhuận là 10 ( 10% tỷ suất

lợi nhuận trên vốn), DN B cũng ứng ra 100, thu về một khoản thu nhập là 15 ( 15% tỷ suất

lợi nhuận trên vốn).

Tại sao DN B cũng ứng ra một lượng vốn như vậy lại sinh ra một khoản lợi nhuận cao

hơn A, chỉ có thể giải thích được rằng vì B có vị trí kinh doanh thuận lợi hơn, mạng lưới hàng

hoá rộng hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn, trình độ quản lý giỏi hơn,... Đó là những yếu tố

vô hình, chúng hội tụ lại đã làm nên khoản lợi nhuận vượt trội (5 đơn vị tiền tệ) so với DN A.

Nếu như 10% là tỷ suất lợi nhuận trung bình trên thị trường thì khoản lợi nhuận 5 (5=15-

10) là siêu lợi nhuận.

Như vậy, cơ sở xác định giá trị của tài sản vô hình là giá trị hiện tại của khoản thu nhập

do tài sản vô hình tạo ra. Tức là bằng gía trị hiện tại của các khoản siêu lợi nhuận.

Vo = ANC + GW

Vo: GTDN

ANC: giá trị tài sản thuần

n

At

GW: giá trị tài sản vô hình (lợi thế thương mại)

* rBt  ti 1( ) 

t

1 

GW = 

Bt: lợi nhuận năm t (t=1,n)

At: giá trị tài sản đưa vào kinh doanh

r: Tỉ suất lợi nhuận bình thường của tài sản đưa vào kinh doanh

r*At: lợi nhuận bình thường của tài sản năm t

Bt-r*At: siêu lợi nhuận ở năm t.

3.2.4. Phương pháp định giá dựa vào PER (Price Earning Ratio)

PER được xác định dựa trên các nhận định cơ bản :

- Giá cả chứng khoán phụ thuộc vào cung cầu chứng khoán, đầu cơ,... Do đó, giá cả

chứng khoán thường không phản ánh đúng giá trị chứng khoán của DN đã phát hành.

- Thị trường chứng khoán hoàn hảo.

Khi đó:

Vo P

1 i

PER= =

Vo: giá trị của DN

P: lợi nhuận thuần hàng năm

i: tỷ suất hiện tại hoá

Giá trị của Lợi nhuận = * PER quá khứ DN dự kiến đạt được

Trong đó, PER là thông tin của những công ty lớn được công bố thường xuyên trên thị

trường và kể cả PER trung bình của các DN cùng một lĩnh vực kinh doanh có chứng khoán

đựơc giao dịch tại thị trường này. Vì vậy, người ta phải sử dụng PER ở các kỳ trước.

IV. Quy trình xác định giá trị doanh nghiệp trong công tác kiểm toán

4.1. Vai trò của kiểm toán trong xác định giá trị doanh nghiệp

Có thể nói, hoạt động kiểm tra kiểm soát luôn tồn tại song song với hoạt động quản lý.

Hoạt động kiểm tra kế toán ra đời ngay từ khi xuất hiện hoạt động kế toán nguyên thuỷ như

dấu hiệu trên các sợi dây, thân cây, lá cây,... Cùng với sự phát triển của quy luật ấy, kiểm tra

nói chung cũng như kiểm tra kế toán nói riêng đã được quan tâm ngay từ thời kỳ bắt đầu xây

dựng đất nước. Từ những năm 90, ở Việt nam, kiểm toán độc lập đã hình thành và kiểm toán

nhà nước cũng được thành lập.

Có nhiều quan niệm về kiểm toán, nhưng có thể nói một cách tổng quát: “Kiểm toán là

hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần được kiểm toán bằng một hệ

thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm

toán viên có trình độ, nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu

lực” – Giáo trình Lý thuyết kiểm toán – Nguyễn Quang Quynh - ĐHKTQDHN.

Như vậy, có thể nói, chức năng của kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến. Chức năng

xác minh của kiểm toán khẳng định tính trung thực của tài liệu, tính pháp lý của việc thực

hiện các nhiệm vụ hay việc lập các BCTC. Xác minh BCTC phải đảm bảo 2 mặt:

- Tính trung thực của các con số

- Tính hợp thức của các biểu mẫu phản ánh tình hình tài chính

Chức năng bày tỏ ý kiến có thể được hiểu với ý nghĩa kết luận về chất lượng thông tin

và cả tính pháp lý.

Đối tượng trực tiếp của kiểm toán là các BCTC của các tổ chức hay một thực thể kinh

tế. Thông thường, các bản khai này được hiểu là các bảng tổng hợp kế toán (Bảng cân đối,

bảng kết quả, bảng chu chuyển tiền tệ...)

Khách thể kiểm toán là thực thể kinh tế hay một tổ chức. Thực thể hay tổ chức ở đây là

một thực thể pháp lý (một công ty, một đơn vị của Chính phủ, một chủ sở hữu...) hoặc một bộ

phận, thậm chí một cá nhân.

Chủ thể thực hiện kiểm toán là những KTV độc lập, có nghiệp vụ (Tính độc lập của

KTV được quy định ở chuẩn mực Kiểm toán Việt nam số 510).

Quan niệm độc lập ở đây được hiểu là khi tham gia vào hoạt động kiểm toán có thái độ

độc lập hay độc lập về nghiệp vụ. Còn trình độ nghiệp vụ là trình độ lựa chọn và tập hợp Báo

cáo kiểm toán.

Cơ sở thực hiện kiểm toán là những luật định, tiêu chuẩn hay chuẩn mực chung. Các luật

định hoặc chuẩn mực này bao gồm cả lĩnh vực kế toán và kiểm toán.

Có thể nói, có rất nhiều đối tượng cần biết đến số liệu chính xác của GTDN CPH như

các nhà đầu tư, nhà nước,... Vì vậy, đảm bảo tính chính xác, trung thực và khách quan thì đảm

bảo phải có một tổ chức có tính độc lập và đủ quyền hạn, trách nhiệm pháp lý để đảm đương

công việc xác định GTDN. Và như vậy, công ty kiểm toán độc lập thực hiện công việc này là

hợp lý.

Đây cũng là pháp luật quy định, vì theo nguyên tắc xác định giá trị DN năm 1998, “khi

xác định giá trị thực tế của DN không nhất thiét phải thuê kiểm toán độc lập, những DN

không thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về chế độ kế toán thống kê thì cơ quan

quyết định giá trị DN xem xét thuê kiểm toán độc lập xác định”.

Thực chất của kiểm toán xác định GTDN là hoạt động kiểm toán BCTC kết hợp với các

đặc thù của xác định GTDN là:

- Phân loại tài sản

- Đánh giá chất lượng tài sản

- Định giá tài sản dựa trên giá thị trường của tài sản đó hay giá tương đương của tài sản

đó trên thị trường

4.2. Các phương pháp kiểm toán được sử dụng trong xác định giá trị doanh nghiệp

Kiểm toán là một môn khoa học cho nên nó cũng có những phương pháp chung như

những cơ sở lý luận và phương pháp luận để hình thành nên phương pháp xác minh và bày tỏ

ý kiến của mình phù hợp với đối tượng kiểm toán. Hoạt động kiểm toán cũng có những

phương pháp thực hiện riêng của mình là kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ. Thực chất

của kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp mà tác giả đề cập ở đây là xác định dựa trên bảng

cân đối tài sản của DN. Do đó, nó cũng sử dụng các phương pháp kiểm toán tài chính thông

thường.

4.2.1. Phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ

Phương pháp này bao gồm: kiể m kê, điều tra và trắc nghiệm

a) Kiểm kê

Là quá trình kiểm tra tại chỗ những đối tượng có dạng vật chất cụ thể như hàng tồn kho,

tài sản cố định, tiền mặt, giấy thanh toán có giá trị,…

Ưu điểm của kiểm kê là mang lại bằng chứng có độ tin cậy cao vì tính khách quan của

nó. Tuy nhiên, kiểm kê chỉ cho biết được sự hiện hữu của đối tượng mà không cho biết giá trị,

quyền sở hữu của tài sản đó. Do đó, kỹ thuật kiểm kê được kết hợp với các kỹ thuật khác.

Quy trình kiểm kê được thực hiện theo các bước sau:

1) Chuẩn bị kiểm kê: phải căn cứ vào mục tiêu, quy mô, thời hạn kiểm kê để bố trí

lực lượng và cơ cấu nhân viên, các thiết bị đo lường phù hợp và chính xác. Đây là yếu tố quyết

định chất lượng kiểm kê nói riêng và kiểm toán nói chung.

2) Thực hiện kiểm kê: phải theo đúng yêu cầu và ghi chép đầy đủ theo từng mã

cân, lô hàng,… Phiếu, sổ mã cân trở thành chứng từ kiểm toán.

3) Kết thúc kiểm kê: cần có biên bản trong đó phải nêu rõ chênh lệch, các nguyên

nhân và xử lý cụ thể. Biên bản cần được đính kèm phiếu kiểm kê (mã cân) và bảng kê chất

lượng về kết quả kiểm kê.

Sự khác biệt trong kiểm kê của kiểm toán BCTC ở doanh nghiệp thông thường và kiểm

toán BCTC DNNN để CPH có sự khác biệt là:

- Nếu kiểm toán BCTC hướng tới kiểm kê tất cả các tài sản thuộc quyền sở hữu của

doanh nghiệp thì kiểm toán BCTC DNNN để CPH chỉ tiến hành kiểm kê theo hướng phân

loại tài sản đang dùng, không cần dùng, chưa dùng, chờ thanh lý và theo nguồn hình thành tài

sản (từ quỹ khen thưởng, phúc lợi,…)

- Phương pháp kiểm kê kết hợp với các phương pháp kiểm toán khác (đối chiếu tổng

hợp, logic, kiểm tra chứng từ… ), nhằm bảo đảm các cơ sở dẫn liệu của kiểm toán.

Điều tra b)

Điều tra là phương pháp xác định lại một tài liệu hoặc một thực trạng để đi đến những

quyết định hay kết luận kiểm toán. Điều tra được sử dụng rất rộng rãi trong kiểm toán. Chẳng

hạn:

- Tìm hiểu khách thể kiểm toán hay làm quen với khách hàng kiểm toán. Có thể tìm hiểu

trực tiếp hoặc thông qua KTV tiền nhiệm hoặc gửi phiếu điều tra phỏng vấn... Đây là bước

điều tra sơ bộ nhằm đưa ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận kiểm toán.

- Tiếp cận với các bên liên quan: dò hỏi, phỏng vấn, thu lượm, tích luỹ dữ liệu, loại dần

và thu gọn đối tượng xác minh cho những vấn đề kiểm toán.

- Xác minh bằng văn bản qua thư xác nhận của các bên liên quan: có hai loại thư xác

nhận:

+)Thư xác nhận khẳng định (posititive confirmation): đòi hỏi thông báo quả quyết của

bên nợ trên mọi giấy yêu cầu xác nhận về khoản nợ hoặc tiền hàng của chủ nợ hoặc đúng, sai

hoặc có phần lưu ý. Trong trường hợp này, mọi giấy yêu cầu đều được trả lời.

+)Thư xác nhận phủ định (negative confirmation): chỉ đòi hỏi thông báo của bên nợ khi

không đồng tình với số tiền ghi trên giấy yêu cầu xác nhận và găm trên báo cáo của người

mua.

Vì vậy, với xác nhận khẳng định, khi chưa nhận được trả lời, thường phải làm thêm

những trình tự xác minh, do đó, xác nhận này là bằng chứng đáng tin cậy hơn xác nhận phủ

định. Ngược lại với xác nhận phủ định, việc không trả lời cũng không coi là phủ định ngay cả

khi người mua không biết có yêu cầu xác nhận. Cũng vì thế, chi phí cho xác nhận khẳng định

lớn hơn chi phí cho xác nhận phủ định. Việc sử dụng loại bằng chứng nào là tuỳ thuộc vào

kinh nghiệm và phán đoán của KTV.

Trong kiểm toán BCTC để xác định GTDN, phương pháp này được sử dụng nhiều trong

việc xác minh giá trị các khoản nợ vay, tiền gửi ngân hàng.

Độ chính xác của các bằng chứng thu thập được từ phương pháp này là lớn do tính

khách quan của nó (bằng chứng thu thập được từ bên thứ ba).

- Chọn mẫu hoặc chọn điển hình các đối tượng kiểm toán, xác minh làm rõ các vấn đề

kiểm toán.

Để đảm bảo hiệu quả kiểm toán, điều tra cần đựơc kết hợp với hàng loạt kỹ thuật dự

báo, dự đoán cụ thể như chi tiết, phân loại, tổng hợp đối tượng kiểm toán, chọn mẫu ngẫu

nhiên hoặc chọn điển hình và cả những kinh nghiệm trong việc tiếp cận, tìm hiểu những đối

tượng liên quan.

Cũng như với cuộc kiểm toán thông thường khác, kiểm toán BCTC của DNNN để CPH,

cũng chọn mẫu đối tượng kiểm toán khi số lượng các đối tượng chi tiết kiểm toán là quá lớn.

Từ một đối tượng các mẫu nhỏ, đặc trưng, mang tính đại diện cao mà cụ thể là có giá trị

lớn, KTV sẽ ước lượng, xác định giá trị đối với tổng thể. Nhưng đối với những tài sản chiếm

phần lớn giá trị trong tổng tài sản của DN thì KTV sẽ thực hiện kiểm toán trên toàn bộ đối

tượng tài sản.

Đặc điểm khác biệt lớn nhất của kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán xác định giá

trị doanh nghiệp là báo cáo tài chính thực hiện kiểm toán dựa trên giá gốc, kiểm toán xác định

giá trị doanh nghiệp chủ yếu dựa trên giá thị trường của tài sản đó. Do đó, KTV chỉ thực hiện

xác minh lại giá trị đối với những tài sản cần thiết phải dùng đễn số liệu trên sổ sách như đối

với những tài sản mới mua sắm, các khoản phải thu, phải trả, nợ vay, tiền gửi ngân hàng.

c) Thực nghiệm

Thực nghiệm là phương pháp diễn lại hoặc nghiên cứu phân tích từng yếu tố cấu thành

của một tài sản, một quá trình đã có, đã diễn ra cần xác minh lại. Do vậy, thực nghiệm còn

được gọi là phương pháp “làm lại”. Chẳng hạn, để xem xét lại hao phí hoặc kết quả sản xuất

có thể phải làm thử lại một mẻ hàng để khẳng định rõ những điểm nghi vấn. VD: mức hao phí

vật liệu hoặc sản lượng hoặc lao động... tương ứng. Trong một số trường hợp, kiểm toán phải

sử dụng nhiều cách thức trong hoá nghiệm, trong kỹ thuật hình sự,... để khẳng định một vụ

việc trước khi đưa ra những kết luận kiểm toán.

Trong kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp, KTV sử dụng phương pháp này để xác

minh lại chất lượng hoạt động của tài sản cố định, qua đó đánh giá công suất, và xác định tỷ lệ

còn lại. Ngoài ra, kỹ thuật này còn được sử dụng trong xác minh lại qui trình sản xuất, để

đánh giá lại sản phẩm dở dang.

4.2.2. Phương pháp kiểm toán chứng từ

Phương pháp kiểm toán chứng từ bao gồm: kiểm toán các cân đối kế toán, đối chiếu trực

tiếp, đối chiếu logic.

a) Kiểm toán cân đối

Phương pháp kiểm toán cân đối dựa trên mối liên hệ thống nhất và mâu thuẫn giữa hai

mặt đối lập của một sự vật hiện tượng. Các quan hệ này được cụ thể hoá bằng các quan hệ

khác nhau như cân đối giữa nguồn lực và kết quả, giữa số phát sinh Nợ và phát sinh Có, giữa

tài sản và nguồn hình thành tài sản đó.

Trong kiểm toán, ta có phương trình cân đối tổng quát theo từng đối tượng.

Ví dụ, với bảng cân đối tài sản:

Tài sản = Vốn chủ sở hữu + Công nợ

Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn

Với bảng cân đối số phát sinh

Tổng phát sinh Nợ của Tổng phát sinh có của = các Tài khoản các Tài khoản

Trong kiểm toán cân đối phải dựa vào số ghi Nợ và số ghi Có và giữa số đầu kỳ và số

tăng trong kỳ với số cuối kỳ và số giảm trong kỳ của kế toán kép.

Kiểm toán báo cáo tài chính DNNN để CPH sử dụng kỹ thuật này để kiểm tra tính đúng

đắn của số liệu được cộng dồn trên các sổ kế toán, qua đó, có hướng xác minh tiếp theo.

b) Đối chiếu trực tiếp

Đối chiếu trực tiếp là so sánh về mặt lượng trị số của cùng một chỉ tiêu trên các chứng từ

kiểm toán. Đối chiếu này thường có trong các trường hợp sau:

1) Đối chiếu giữa số đầu kỳ và số cuối kỳ năm và giữa các kỳ trên các Bảng cân

đối tài sản để nghiên cứu động thái của các mặt hoạt động tương ứng với chỉ tiêu trên đó (đối

chiếu ngang) hoặc giữa các bộ phận tổng thể để xem xét cơ cấu, phân bố từng quần thể (đối

chiếu dọc).

2) Đối chiếu giữa số dự toán, định mức, kế hoạch với số thực tế để đánh giá mức

độ phấn đấu, thực hiện các mục tiêu thể hiện trên các chỉ tiêu tương ứng.

3) Đối chiếu trị số của cùng một chỉ tiêu trong cùng một thời kỳ trên các chứng từ

tổng hợp khác nhau. Chẳng hạn, chỉ tiêu lợi nhuận hay lợi nhuận còn lại trên các bảng cân

đối.

4) Đối chiếu các con số của cùng một chứng từ được bảo quản lưu trữ ở các địa

điểm khác nhau. Loại đối chiếu này được thực hiện phổ biến trong kiểm toán các khoản giao

dịch với ngân hàng, các khoản thu về bán hàng và các khoản chi về mua hàng.

5) Đối chiếu trị số và các chỉ tiêu với các trị số cấu thành chỉ tiêu đó. Chẳng hạn,

đối chiếu các yếu tố số lượng, đơn giá với số tiền trên các chứng từ gốc, đối chiếu các khoản

mục cấu thành các loại tài sản hoặc nguồn vốn trong Bảng cân đối tài sản, đối chiếu các

khoản thu chi với các loại hoạt động trong bảng chu chuyển tiền tệ hoặc bảng báo cáo kết quả

kinh doanh.

Tuy nhiên đối chiếu trực tiếp chỉ được sử dụng trong trường hợp các chỉ tiêu được hạch

toán theo cùng một chuẩn mực, cùng nội dung, phương pháp, đơn vị tính toán và trong cùng

một khoảng thời gian điều kiện tương tự nhau.

Trong kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp, phương pháp này được sử dụng để tính

toán, cộng dồn số liệu trên các chứng từ gốc, so sánh với sổ chi tiết, sổ cái để xác định giá trị

hợp lý.

c) Đối chiếu logic

Đối chiếu logic là việc xem xét mức biến động tương ứng về trị số và các chỉ tiêu có

quan hệ kinh tế trực tiếp song có thể có mức biến động khác nhau và có thể theo hướng khác

nhau. Ví dụ:

- HTK giảm có thể dẫn đến tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và các khoản phải thu tăng. Xu

hướng biến động giữa HTK và các khoản mục liên quan nói trên là ngược nhau và mức biến

động cũng có thể không đồng nhất trên từng khoản mục.

- TSCĐ tăng có thể dẫn đến tiền vay ngắn và dài hạn tăng hoặc chi phí xây dựng giảm.

Trường hợp này, có thể mức biến động tương xứng và xu hướng biến động có thể cùng chiều

(nếu vay nợ) hoặc ngược chiều (nếu kết chuyển chi phí xây lắp hoặc dùng tiền để mua).

- Vốn bằng tiền giảm có thể dẫn tới hàng hoá vật tư tăng hoặc các khoản phải trả giảm.

Phương pháp này được sử dụng rất sử dụng phổ biến trong việc xem xét các quan hệ kế

toán tài chính của đối tượng kiểm toán. Từ đó định hướng cho việc kiểm toán các đối tượng

cụ thể khi phát hiện mâu thuẫn và xua hướng biến động của các chỉ tiêu liên quan.

Phương pháp này được sử dụng rộng rãi hơn như những cách tư duy suy lý cho những

mối liên hệ kể cả chưa được lượng hoá trong công tác kiểm toán. Theo đó, kiểm toán tài chính

đã hình thành 3 loại trắc nghiệm: trắc nghiệm công việc, trắc nghiệm trực tiếp các số dư, và

trắc nghiệm phân tích.

Cũng như trong kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp sử

dụng phương pháp này để đánh giá tính hợp lý của số liệu, tìm ra xu hướng hoặc tìm ra những

khoản mục nghi vấn, định hướng cho việc xác minh.

4.3. Hệ thống mục tiêu của kiểm toán BCTC để cổ phần hoá và mục tiêu xác định giá trị

doanh nghiệp

Nếu như kiểm toán báo cáo tài chính hướng tới tính hợp pháp, hợp lý và trung thực của

số liệu trên báo cáo tài chính, và kết quả cuối cùng là đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính đó thì

kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp quan tâm đến số liệu kiểm kê thực tế qua đó định giá

lại tài sản, phần liên quan đến báo cáo tài chính cũng được KTV đưa ra trong phần kiến nghị,

nhận xét nhưng không phải chỉ nhận xét về báo cáo tài chính mà còn về cả các yếu tố bên

trong và bên ngoài DN.

ở đây, ta chỉ xem xét cuộc xác định GTDN đối với các DNNN không thực hiện đúng

chế độ kế toán hiện hành. Khi đó, việc xác định giá trị DN phải đi cùng với kiểm toán các

thông tin trên BCTC, phân loại tài sản và kết hợp với việc định giá lại tài sản, loại ra khỏi

GTDN những tài sản không cần dùng. Như vậy, việc kiểm toán BCTC để cổ phần hoá và để

xác định GTDN cũng tương tự như kiểm toán BCTC nhưng có đặc điểm là phân loại tài sản

và định giá lại tài sản.

Do đó, ngoài các mục tiêu chung mà kiểm toán BCTC phải hướng, kiểm toán báo cáo tài

chính để xác định giá trị doanh nghiệp còn phải hướng tới các mục tiêu đặc thù.

Các mục tiêu chung của kiểm toán báo cáo tài chính là:

- Tính có thực của thông tin: thông tin phản ánh tài sản hoặc vốn phải được đảm bảo

bằng sự tồn tại của tài sản, vốn hoặc tính thực tế xảy ra của nghiệp vụ.

- Tính trọn vẹn: thông tin không bị bỏ sót trong quá trình xử lý.

- Tính đúng đắn của việc tính giá với ý nghĩa giá tài sản cũng như giá phí (giá thành) đều

được tính theo phương pháp kế toán là giá thực tế đơn vị phải chi ra đê mua hoặc thực hiện

các hoạt động.

- Tính chính xác cơ học: các phép tính cộng dồn khi chuyển sổ, sang trang phải được

tính đúng đắn.

- Tính đúng đắn trong phân loại và trình bày: phân loại tài sản và nguồn vốn đúng, định

khoản phù hợp với bảng tài khoản của đơn vị,… những trường hợp đặc biệt phải được phản

ánh rõ ràng.

- Tính đúng đắn trong việc phản ánh quyền và nghĩa vụ của đơn vị: tài sản phản ánh trên

BCTC phải thuộc quyền sở hữu của đơn vị, còn vốn và công nợ phản ánh đúng nghĩa vụ của

dơn vị này.

Như vậy, mục tiêu chung của kiểm toán BCTC cũng là mục tiêu của kiểm toán BCTC

của DNNN để xác định giá trị DN để CPH.

Ngoài những mục tiêu mà kiểm toán BCTC phải hướng tới, hệ thống mục tiêu kiểm toán

BCTC để xác định giá trị DNNN để CPH còn phải hướng tới :

- Tính phân loại hợp lý: các tài sản không cần dùng, chưa cần dùng, tài sản chờ thanh lý,

tài sản kém, mất phẩm chất,… cần phải được phân loại đúng đắn

- Tính hợp lý về mặt định giá: đảm bảo chính xác trong kiểm kê, đánh giá chất lượng tài

sản, định giá phù hợp với thị trường.

- Tính hợp lý về chất lượng tài sản: đối với những tài sản đã hỏng hoặc kém phẩm chất,

cần có ý kiến của chuyên gia.

4.4. Lập kế hoạch tổng quát

Trong một cuộc kiểm toán xác định GTDN, trình tự kiểm toán cũng thực hiện giống như

một cuộc kiểm toán BCTC bình thường.

Lập kế hoạch kiểm toán là một khâu quan trọng trong kiểm toán vì nó “…nhằm đảm

bảo bao quát hết các khía cạnh trọng yếu của cuộc kiểm toán, đảm bảo phát hiện những vấn

đề tiềm ẩn và cuộc kiểm toán hoàn thành đúng hạn” (theo chuẩn mực Kiểm toán Việt nam số

300).

4.4.1. Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán.

Vì ở đây ta xem xét xác định GTDN đối với những DN không thực hiện đúng chế độ kế

toán, cho nên, việc định giá tài sản phải dựa trên số liệu kế toán đã được kiểm toán và việc

định giá DN dựa trên BCTC. Trong quá trình thực hiện kiểm toán, việc định giá đi song song.

Do đó, để chuẩn bị cho kế hoạch xác định giá trị DN ta cần quan tâm đến các vấn đề sau:

Sau khi nhận đựơc yêu cầu của khách hàng, KTV phải:

a)Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán: KTV chỉ chấp nhận kiểm toán khi cuộc kiểm

toán này không ảnh hưởng đến uy tín của KTV cũng như công ty kiểm toán. KTV xem xét về:

1) Hệ thống kiểm soát chất lượng: bao gồm tính độc lập của KTV, khả năng phục

vụ tốt khách hàng của KTV và công ty kiểm toán và tính liêm chính của ban giám đốc công ty

khách hàng.

2) Liên lạc với KTV tiền nhiệm: KTV thông qua KTV tiền nhiệm để tìm hiểu về

khách hàng.

KTV phải đựơc đảm bảo rằng hệ thống kế toán của khách hàng phải cung cấp đầy đủ bằng

chứng chứng minh cho các nghiệp vụ đã phát sinh và phải đảm bảo rằng tất cả các nghiệp vụ

cần được ghi chép thì thực tế cũng được ghi lại.

b)Nhận diện lý do kiểm toán của khách hàng: KTV cần xác định người sử dụng

GTDN, mục đích của việc xác định giá trj DN (để CPH hay để bán…), từ đó lựa chọn đội ngũ

nhân viên thích hợp và các thủ tục kiểm toán, quy mô kiểm toán thích hợp để thực hiện cuộc

kiểm toán.

c)Lựa chọn đội ngũ nhân viên thực hiện kiểm toán: lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm

toán phải đảm bảo có ít nhất một KTV hiểu biết về ngành nghề kinh doanh của khách hàng,

số lượng nhân viên kiểm toán phụ thuộc vào quy mô, thời gian, chất lượng của cuộc kiểm

toán.

d)Hợp đồng kiểm toán: sau khi đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán đượcc của

khách hàng, KTV sẽ thực hiện kí kết hợp đồng xác định GTDN và hẹn ngày thực hiện.

4.4.2. Thu thập thông tin cơ sở.

KTV tìm hiểu sơ bộ về khách hàng, qua đó đánh giá mức trọng yếu và thực hiện các thủ

tục phân tích để xác định thời gian cần thiết để thực hiện kiểm toán và việc mở rộng các thủ

tục kiểm toán khác.

-Tìm hiểu nghành nghề, hoạt động kinh doanh của khách hàng.

Thông qua KTV tiền nhiệm và các tài liêu báo chí, KTV tìm hiểu chung về nền kinh tế,

lĩnh vực hoạt động của đơn vị, tổ chức và hoạt động của đơn vị được kiểm toán, cơ cấu tổ

chức dây chuyền các dịch vụ sản xuất, cơ cấu vốn, chức năng của kiểm toán nội bộ… nhằm

thiết kế các thủ tục kiểm toán phù hợp.

- Xem xét lại kết quả của cuộc kiểm toán trước và hồ sơ kiểm toán chung: chứa đựng

các thông tin về công việc kinh doanh, cơ cấu tổ chức, sơ đồ tổ chức bộ máy, điều lệ của công

ty, chính sách tài chính, kế toán…

- Tham quan nhà xưởng: giúp KTV hiểu được tình hình bảo quản NVL của đơn vị,

phát hiện những vấn đề như sản xuất trì trệ, sản phẩm ứ đọng, máy móc lạc hậu không phát

huy hết công suất. Qua đây KTV có thể đưa ra nhận định ban đầu về phong cách quản lý của

ban giám đốc, tính hệ thống trong việc tổ chức, sắp đặt công việc…

-Nhận diện các bên hữu quan

Các bên hữu quan là các bộ phận trực thuộc, các chủ sở hữu chính thức của công ty

khách hàng hay bất kỳ công ty, chi nhánh, một cá nhân hay tổ chức mà công ty khách hàng có

quan hệ và các tổ chức, cá nhân này có ảnh hưởng đáng kể đến chính sách kinh doanh, quản

trị của đơn vị. KTV nhận diện các bên hữu quan thông qua phỏng vấn ban giám đốc, qua đó

dự đoán các vấn đề có thể phát sinh giữa các bên hữu quan và hoạch định kế hoạch kiểm toán

phù hợp.

-Dự kiến nhu cầu chuyên gia bên ngoài

KTV cần hiểu về khả năng chuyên môn của nhân viên mình, qua đó sẽ quyết định thuê

chuyên gia bên ngoài đối với các nghiệp vụ đặc biệt.

4.4.3. Thu thập thông tin nghĩa vụ pháp lý của khách hàng.

KTV cần thu thập:

- Giấy phép thành lập và điều lệ của công ty.

- Các BCTC, báo cáo kiểm toán, thanh tra hay kiểm tra quyết toán thuế của năm hiện hành

hay trong vài năm trước.

- Biên bản các cuộc họp Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc.

- Các hợp đồng cam kết quan trọng như hợp đồng mua, bán hàng,...

4.4.4. Thực hiện các thủ tục phân tích

Theo chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 520 “Thủ tục phân tích là việc phân tích các số

liệu, thông tin, tỷ suất quan trọng qua đó tìm ra xu hướng biến động và tìm ra những mối

quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin liên quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với giá

trị đã dự kiến”.

Trong kiểm toán xác định GTDN, thủ tục này được dùng để phân tích tình hình kinh

doanh của khách hàng khi KTV thực hiện tìm hiểu sơ bộ về khách hàng.

4.4.5. Nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát

Đây là một khâu quan trọng trong công tác kiểm toán vì nó giúp KTV “...lập kế hoạch

kiểm toán và để xác định bản chất, thời gian và phạm vi của các cuộc kiểm soát thực hiện”,

còn theo chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 400, đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ, “KTV

phải có đủ hiểu biết về hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ của khách hàng để lập kế hoạch

kiểm toán và xây dựng cách tiếp cận kiểm toán có hiệu quả”

4.5. Thiết kế chương trình kiểm toán

Quy trình thiết kế chương trình kiểm toán xác định GTDN cũng qua các bước sau:

- Các thủ tục kiểm toán cần thực hiện để xác minh lại số liệu

- Quy mô mẫu chọn: do đối tượng kiểm toán gồm nhiều loại nghiệp vụ khác nhau, khối

lượng nghiệp vụ phát sinh lớn, do đó, KTV phải tiến hành xác định số lượng mẫu cần chọn để

đảm bảo tính chính xác của công tác định giá tài sản và kiểm toán.

- Khoản mục được chọn: KTV dựa vào kinh nghiệm và những hiểu biết về khách hàng mà

quyết định lựa chọn khoản mục sao có tính đặc trưng nhất.

- Thời gian thực hiện: xác định thời điểm bắt đầu và kết thúc thực hiện

4.6. Thực hiện kiểm toán, xác định giá trị DN và báo cáo xác định giá trị DN.

Quá trình thực hiện kiểm toán, xác định giá trị DN thực chất là quá trình kết hợp các

phương pháp kiểm toán và định giá của chủ thể kiểm toán đối với các BCTC (Bảng cân đối kế

toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh) nhằm đạt được mục tiêu kiểm toán và xác định

giá trị DN đã nêu trên.

Báo cáo về xác định giá trị DN là văn bản đưa ra kết quả của cuộc kiểm toán xác định

giá trị doanh nghiệp, được đưa ra khi cuộc kiểm toán đã hoàn thành.

Nếu như báo cáo kiểm toán về BCTC là loại báo cáo bằng văn bản do kiểm toán viên

lập và công bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về BCTC của một đơn vị (tổ chức, doanh

nghiệp) đã được kiểm toán (Theo chuẩn mực kiểm toán (IPAC) của Liên đoàn Kế toán Quốc

tế IFAC) thì báo cáo xác định giá trị doanh nghiệp là báo cáo bằng văn bản do kiểm toán viên

(hội đồng định giá) lập và công bố để đưa ra giá trị doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và

đưa ra ý kiến về giá trị doanh nghiệp đã xác định làm căn cứ, giá tham khảo cho việc xác

định giá bán cổ phiếu.

Nếu như báo cáo kiểm toán về BCTC được lập khi kết thúc cuộc kiểm toán báo cáo tài

chính thì báo cáo xác định giá trị doanh nghiệp được dùng khi kết thúc cuộc xác định giá trị

doanh nghiệp.

Quy trình kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp như sau:

Sơ đồ 1: Ba giai đoạn của một cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính để

Báo cáo xác định GTDN

Chuẩn bị kiểm toán và xác định GTDN

Thực hiện cuộc kiểm toán & xác định GTDN

Kết thúc kiểm toán & xác định GTDN

cổ phần hoá

Cũng như báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính, báo cáo về xác định giá trị doanh

nghiệp cũng phụ thuộc vào quyết định liệu có thể kiểm toán báo cáo tài chính của DN đó

không. Ta có sự so sánh như sau:

Báo cáo xác định giá trị DN bao gồm các yếu tố sau:

- Tên, địa chỉ công ty kiểm toán

- Số hiệu báo cáo xác định giá trị DN

- Các căn cứ xác định gía trị DN

- Tiêu đề báo cáo

- Người nhận báo cáo

- Kết quả xác định giá trị DN

- ý Kiến của kiểm toán viên

- Các nguyên nhân tăng giảm

- Nhận xét, kết luận, kiến nghị

- Địa điểm và thời gian lập báo cáo

- Chữ ký và đóng dấu của đơn vị Kiểm toán và đơn vị được xác định giá trị DN CPH.

V. Tóm tắt quá trình phát triển của công tác xác định giá trị doanh nghiệp ở

Việt Nam

5.1.Từ năm 1992 đến năm 6/5/1996

Trong thời gian này, Hội Đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ra chỉ thị

202/CT/HĐBT ngày 8/06/1992 và thông tư 36/TC-CN về việc cổ phần hoá một số DNNN.

ở giai đoạn này, GTDN được coi là giá trị thực của doanh nghiệp mà các đơn vị, tổ chức độc

lập xác định chỉ là tương đối. Giá trị thực tế sẽ dao động quanh giá này.

GTDN được xác định căn cứ vào số liệu kiểm kê và các văn bản giao vốn, các yếu tố về

đất đai, vị trí địa lý kinh tế của doanh nghiệp, khả năng sinh lợi trong những năm sắp tới, uy

tín, hiệu quả kinh doanh,…

Việc định giá doanh nghiệp phải do một hội đồng định gía xem xét và một hội đồng

thẩm định có thẩm quyền thông qua.

Các yếu tố tạo ra hiệu quả triển Giá trị tài Các khoản thuộc vọng về SXKD của DN (uy tín, đội sản của DN phạm vi thua lỗ, GTDN = + ngũ kỹ sư, công nhân năng động, - (vốn cố định, nợ nần, HTK kém tay nghề cao, khả năng sinh lợi đất đai) phẩm chất… cao…)

Như vậy, giá trị của DN khi cổ phần hoá gồm 3 bộ phận:

1) Giá trị tài sản của DN

2) Giá đất đai đã sử dụng vào SXKD

3) Giá trị các yếu tố làm tăng hiệu quả của DN như uy tín, tiếng tăm, đội ngũ kỹ sư

giỏi, công nhân lành nghề.

Như vậy, vô tình, Nhà nước đã tách giá trị tài sản vô hình (uy tín,…) ra khỏi giá trị DN.

Để xác định GTDN, cần phải phân loại tài sản: Tài sản không cần dùng, tài sản thanh

lý, tài sản chờ thanh lý, tài sản thiếu hụt, mất mát,…

Đối với công nợ, phân loại công nợ khó đòi, có thể đòi, không thể đòi,…

Đối với vốn góp liên doanh, liên kết, thuê mướn: phải xác định được vốn nào đã thu hồi,

trả lại

Đối với số dư quỹ phát triển sản xuất, chương trình XDCBDD: phần không dùng trong

tính GTDN thì chuyển trả lại cho DN.

Các văn bản này đã dựa trên cơ sở lý luận hợp lý nhưng chưa đưa ra các hướng dẫn chi

tiết cụ thể như phải xác định giá trị của uy tín kinh doanh như thế nào, xác định giá trị của các

yếu tố tạo ra triển vọng DN như thế nào,… nên không hình dung hết được những phức tạp của

sự việc, do đó, việc xác định GTDN còn gặp nhiều khó khăn, thời gian xác định giá trị DN từ

8 tháng đến 2 năm và GTDN phản ánh không sát với thực tế.

5.2.Từ 7/5/1996 đến 28/06/1998

Nhằm tiếp tục hoàn thiện công tác định giá DN, Chính phủ đã ban hành Nghị định

28/CP ngày 7/5/1996 và Thông tư số 50/CP/TCDN ngày 30/08/1996 của Bộ Tài Chính hướng

dẫn những vấn đề tài chính trong việc chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần.

Nguyên tắc để xác định GTDN là:

1) Số liệu trong sổ sách kế toán của DN tại thời điểm cổ phần hoá đã được cơ quan

kiểm toán xác nhận

2) Hệ số lợi thế kinh doanh của DN về vị trí địa lý, uy tín mặt hàng

3) Hiệu quả hoạt động kinh tế của DN thể hiện qua tỷ suất lợi nhuận tính trên vốn

kinh doanh bình quân trong 3 năm cuối của DN trước khi cổ phần hoá.

4) Giá trị quyền sử dụng đất tính theo quy định của Luật đất đai và các văn bản

hướng dẫn.

Căn cứ để xác định GTDN là số liệu trên sổ sách kế toán, số liệu kiểm kê thực tế và hiện

trạng, giá trị hiện hành của từng loại tài sản, vật tư, hàng hoá.

a) Đối với tài sản cố định

Giai đoạn này yêu cầu xác định rõ nguyên giá, giá trị hao mòn, giá trị còn lại, đồng thời

phải phân loại tài sản đang dùng, không dùng, chưa dùng, cho thuê, chờ thanh lý nhưng chưa

yêu cầu xác định nguồn vốn hình thành (quỹ phúc lợi…) do đó chưa loại trừ giá trị tài sản này

ra khỏi GTDN.

Giá trị TSCĐ bao gồm cả giá trị tài sản cố định vô hình như bằng phát minh sáng chế,…

Căn cứ để xác định giá là: giá của lọai hàng tương tự hiện có trên thị trường hoặc theo

giá trước đây nhân với chỉ số trượt giá hoặc được điều chỉnh tổng hợp theo doanh thu hoặc lợi

nhuận

Giai đoạn này không tính giá trị đất đai vào GTDN.

b) Đối với tài sản lưu động

Vốn Giá trị Vật tư Các Nợ Giá trị TSLĐ bằng hàng hoá sau khoản khó TSLĐ thực tế = + + - + tiền đánh giá lại phải thu đòi khác

c) Giá trị XDCBDD

Được định giá như TSCĐ.

d) Vốn góp liên doanh liên kết

Phải được xác định lại bằng giá trị thực tế có tại thời điểm cổ phần hoá.

e) Xác định nguồn vốn hình thành

- Đối với nguồn vốn chủ sở hữu, phân loại theo nguồn vốn sở hữu của Nhà nước

(Ngân sách cấp, tự bổ sung,…), vốn nhận liên doanh và vốn khác.

- Nợ phải trả: gồm nợ ngắn hạn, dài hạn, nợ khác.

- Các khoản lỗ: gồm lỗ năm trước, công nợ không thu hồi được, những khoản thiệt hại

còn lại sau khi được đền bù, tài sản vật tư mất mát, thiếu hụt, giảm giá.

- Quỹ phúc lợi, khen thưởng: bao gồm nhiều tài sản được hình thành từ quỹ phúc lợi

khen thưởng và quỹ phúc lợi khen thưởng bằng tiền chưa chi.

= Giá + + Vốn - Nợ + Nợ - Các - Quỹ - Vốn

phải khoản khen nhận phải trị + Giá Giá góp GT

trả lỗ thưởng liên trả TS trị liên trị DN

doanh phúc không CĐ TS doanh XD sau

lợi có LĐ liên CB kiểm

chủ kết DD kê

trả đánh

giá

lại

f) Xác định lợi thế DN

Tỷ suất lợi nhuận trên Tỷ suất lợi nhuận Lợi vốn kinh doanh của các GTDN trên vốn bình thế = ( - DN cùng loại trong ) x sau kiểm quân 3 năm trước DN cùng ngành kinh tế, kỹ kê khi cổ phần hoá thuật

GTDN sau Giá trị lợi thế + Chi phí cổ GTDN = + kiểm kê kinh doanh - phần hoá

Trong thời gian này, công tác xác định GTDN đã nhanh chóng hơn, thời gian thực hiện

giảm xuống còn 3 tháng.

5.3.Từ 29/06/1998 đến 08/09/2002

Nhằm khắc phục những điểm còn hạn chế, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

44/1998/NĐ-CP v/v chuyển DNNN thành công ty cổ phần và Thông tư 104/1998/TT-BTC

hướng dẫn những vấn đề tài chính khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần.

Trong giai đoạn này, nguyên tắc xác định GTDN dựa trên giá trị thực tế của tài sản tại

DN trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng, kỹ thuật, và giá thị trường tại thời điểm cổ

phần hoá.

Đồng thời chỉ tính tối đa 30% giá trị lợi thế kinh doanh vào GTDN và chỉ thuê kiểm

toán độc lập xác định GTDN đối với những DN không thực hiện đúng quy định của pháp luật

về kế toán, thống kê.

Trong giai đoạn này đã loại trừ ra khỏi DN những tài sản mà DN không thể tiếp tục sử

dụng, nợ phải thu khó đòi, chi phí XDCBDD của những công trình đã đình hoãn, các khoản

đầu tư dài hạn vào DN nhưng không thực hiện cổ phần hoá, tài sản thuê tài chính, tài sản thuê

ngoài, tài sản hình thành từ quỹ phúc lợi, khen thưởng, tài sản chưa xác định được chủ sở hữu,

khoản dự phòng giảm giá HTK, nợ phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá chứng khoán, chênh

lệch tỷ giá, các khoản lãi chưa phân phối.

Nếu tài sản không tồn tại trên thị trường thì lấy giá trên sổ kế toán hoặc đánh giá thiện

trạng của tài sản.

Số lượng thực Giá thị trường của tài Chất lượng Giá trị = tế của từng tài X sản tại thời điểm xác X còn lại của tài thực tế sản định GTDN sản (%)

Trong đó, giá trị lợi thế kinh doanh đã có sự khác biệt trong công thức tính toán:

Giá trị Vốn NN theo Tỷ suất lợi Tỷ suất lợi

lợi thế sổ kế toán nhuận bình nhuận bình = X ( - ) X

kinh bình quân quân 3 năm quân chung của 30%

doanh của 3 năm của DN DNNN cùng Các khoản GTDN sau Nợ phải Vốn NN = - - nợ không trả kiểm kê trả được

Sau 3 tháng, cơ quan định giá phải xem xét và điều chỉnh lại GTDN nếu số cổ phần thực

bán chưa đạt tới 50%.

5.4.Từ 09/09/2002 đến nay

5.4.1. Các căn cứ thực tế để xác định giá trị doanh nghiệp

- Số liệu có trong sổ sách kế toán của đơn vị tại thời điểm cổ phần hoá.

- Số lượng và chất lượng tài sản theo kiểm kê phân loại tài sản thực tế của DN tại

thời điểm cổ phần hoá.

- Tính năng kỹ thuật của tài sản, nhu cầu sử dụng và giá thị trường tại thời điểm cổ

phần hoá.

- Giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế kinh doanh của DN về vị trí địa lý, uy tín của DN,

tính chất độc quyền về sản phẩm, mẫu mã, thương hiệu (nếu có).

- Khả năng sinh lời của DN xác định trên tỷ suất lợi nhuận trên vốn của DN.

Qua đây, ta có thể thấy sự đặc biệt trong kiểm toán xác định GTDN như sau:

- Căn cứ xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp là số liệu có trong sổ sách của đơn vị tại thời

điểm CPH. Điều này nghĩa là doanh nghiệp nếu xác định theo phương pháp giá trị tài sản thuần, số liệu

lấy trên sổ phải được kiểm toán.

- Đặc thù của xác định GTDN là:

1) Phải xác định được chất lượng tài sản, từ đó xác định hệ số quy đổi trên giá trị của tài sản

tương đương trên thị trường.

2) Phải phân loại được tài sản:

+) Tài sản không dùng, chưa cần dùng

+) Nợ không đòi được, khó đòi,…

+) Các khoản phải trả không trả được…

3) Phải xác định giá trị tương lai mà doanh nghiệp đưa lại cho nhà đầu tư dựa trên việc tính lại

lợi thế doanh nghiệp.

5.4.2. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp ở Việt nam

Nhà nước ta nghiên cứu dựa trên 2 khía cạnh nhìn nhận DN là nhìn nhận từ phía các

nhà đầu tư và nhìn nhận từ phía các nhà quản lý. Do đó, nước ta đã đưa ra 2 phương pháp xác

định GTDN là:

- Phương pháp 1: Xác định GTDN theo tài sản: là phương pháp xác định GTDN dựa

trên cơ sở giá trị thực tế của toàn bộ tài sản hữu hình, vô hình của DN tại thời điểm định giá.

- Phương pháp 2: Phương pháp dòng tiền chiết khấu (DCF): là phương pháp xác định

GTDN dựa trên khả năng sinh lời của DN trong tương lai, không phụ thuộc vào giá trị tài sản

của DN.

Phương pháp 1 được áp dụng đối với các DNNN hoạt động trong lĩnh vực SXKD,

phương pháp 2 được áp dụng đối với các DNNN hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ như thương

mại, tư vấn, thiết kế… mà giá trị tài sản là hiện vật của DN không chiếm tỉ trọng lớn trong

doanh thu.

Như vậy, ở đây đã có sự hợp lý trong việc xác định GTDN căn cứ vào đặc điểm hoạt

động kinh doanh của từng DN. Việc xác định GTDN lần này đã đưa ra cụ thể 2 phương pháp

chứ không phải là các lý thuyết chung chung như các văn bản trước.

5.4.3. Thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp

- Đối với phương pháp 1, thời điểm xác định GTDN là thời điểm kết thúc quý trước

ngày có quyết định CPHDN.

- Đối với phương pháp 2, thời điểm xác định GTDN là thời điểm kết thúc năm tài chính

trước ngày DN có quyết định CPH của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

5.4.4. Các tài sản không nằm trong giá trị thực tế của doanh nghiệp

- Tài sản thuê mượn, nhận vốn góp liên doanh, liên kết và các tài sản khác không phải

của DN.

- Tài sản không cần dùng, ứ đọng, chờ thanh lý chưa kịp xử lý đến thời điểm cổ phần

hoá.

- Các khoản nợ phải thu khó đòi

- Chi phí xây dựng dở dang của những công trình đã bị đình hoãn trước thời điểm cổ

phần hoá.

- Các khoản đầu tư dài hạn vào DN khác được cơ quan có thẩm quyền quyết định cho

đối tác khác.

- Tài sản của công trình phúc lợi được đầu tư bằng nguồn Quỹ khen thưởng phúc lợi của

DN và nhà ở của cán bộ, công nhân viên trong DN.

5.4.5. Đối tượng áp dụng để xác định giá trị doanh nghiệp

- Tất cả các DNNN trừ những DNNN cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn điều lệ

- Việc quyết định đối tượng nào CPH do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Cơ quan có thẩm

quyền quyết định CPH DN quyết định thành lập hội đồng xác định GTDN để CPH hoặc lựa

chọn công ty Kiểm toán, tổ chức kinh tế có chức năng định giá để DN CPH ký hợp đồng xác

định giá trị DN.

- Theo điều 20. Chương II, 64/2002/NĐ-BTC, công ty Kiểm toán và tổ chức kinh tế thực hiện

xác định GTDN phải đảm bảo các quy định hiện hành và hoàn thành đúng thời hạn theo hợp

đồng đã ký, phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính hợp pháp của kết quả định giá.

- Kết quả xác định GTDN là cơ sở để bán cổ phần lần đầu, có thể sẽ phải định lại giá DN nếu

gặp khó khăn trong bán cổ phần.

5.4.6. Căn cứ xác định chất lượng tài sản

- Căn cứ vào khả năng đảm bảo an toàn trong vận hành và trong sử dụng tài sản. bảo đảm

chất lượng sản phẩm và môi trường.

- Giá trị quyền sử dụng đất: căn cứ vào quyết định giá tính đất của địa phương, tính lại giá

thuê đất ở những vị trí thuận lợi. Đối với đơn vị sử dụng đất kinh doanh cho thuê nhà ở, và hạ

tầng thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào GTDN, giá trị này không nhỏ hơn chi phí đền

bù, giải phóng, san lấp mặt bằng…

- Giá trị lợi thế kinh doanh, được xác định dựa trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận sau thuế thu nhập

trên vốn Nhà nước tại DN bình quân 3 năm liền kề trước khi CPH so với lãi suất của trái

phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất với thời điểm định giá.

- Các tài sản khác xác định dựa trên số liệu kiểm toán BCTC.

Chương II

Thực trạng xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để Cổ phần hoá ở AASC

I. Đặc điểm của công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán với công tác xác

định GTDN.

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của AASC

Vào đầu những năm đầu của thập kỷ 90, do sự phát triển của nền kinh tế thị trường với

việc bung ra nhiều thành phần kinh tế và có sự du nhập đầu tư nước ngoài vào Việt nam. Để

giúp các DN bảo vệ quyền lợi của mình và thực hiện các quy định của nhà nước, BTC đã

quyết định thành lập công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán gọi tắt là

AASC. AASC là một trong các tổ chức chuyên ngành đầu tiên và lớn nhất của Việt nam hoạt

động trong lĩnh vực kiểm toán, kế toán và tư vấn tài chính, được thành lập theo giấy phép số

164/TC/QĐ-TCCB ngày 13/5/1991 của Bộ Tài Chính.

Công ty được thành lập, hoạt động nhằm mục đích: kiểm tra, đưa ra ý kiến xác nhận tính

khách quan, đúng đắn, trung thực và hợp lý của số liệu, tài liệu kế toán và báo cáo quyết toán

của đơn vị được kiểm toán; tư vấn và hướng dẫn cho khách hàng thực hiện các quy định của

nhà nước về tài chính, kế toán, thuế,… để giúp cho đơn vị được kiểm toán tư vấn và điều

hành hoạt động SXKD có hiệu quả, đúng pháp luật và đáp ứng yêu cầu của cơ quan quản lý

nhà nước, của các tổ chức, cá nhân có quan hệ và quan tâm đến hoạt động của đơn vị.

Công ty có phạm vi hoạt động rộng khắp trên cả nước, có trụ sở chính tại số 1 - Lê

Phụng Hiểu - Quận Hoàn Kiếm - Hà nội và các chi nhánh tại các tỉnh và thành phố trong cả

nước.

Ngày 1/4/1991, Hội đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ ra thông báo số 957/TTg đồng ý

cho BTC thành lập công ty dịch vụ kế toán. Trên cơ sở có sự đồng ý của BTC, ngày

13/5/1991 công ty dịch cụ Kế toán đựơc thành lập. Công ty được nhà nước cấp vốn ngân sách

ban đầu là 200.000.000 đồng và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 14/9/1991 với tổng số

nhân viên là 5 người. Ngày 14/9/1993, với việc nhận thức rõ sự cần thiết của kiểm toán độc

lập tại Việt nam, Bộ trưởng BTC cho phép công ty Dịch vụ Kế toán bổ sung thêm chức năng

kiểm toán và đổi tên thành công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán ban hành

theo quyết định 639/TC-TCCB của Bộ Tài Chính.

Để mở rộng thị trường, tháng 3/1992, công ty thành lập chi nhánh đầu tiên tại Thành phố

Hồ Chí Minh. Sau đó, tháng 4/1993, các chi nhánh Vũng Tàu và Đà Nẵng được thành lập.

Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng, tháng 3/1995, được phép của BTC,

chi nhánh của công ty tại TP Hồ Chí Minh tách ra thành lập công ty Kiểm toán Sài Gòn

(AFC).

Đến tháng 4/1995, công ty chính thức nhận giấy phép và khai trương thành lập chi

nhánh tại Thanh Hoá.

Tháng 2/1996, công ty thành lập chi nhánh Quảng Ninh, và sau 2 năm văn phòng đại

diện của công ty tại Hải Phòng được thành lập.

Tháng 3/1997, theo nhu cầu hoạt động của công ty, công ty thành lập lại văn phòng đại

diện tại TP Hồ Chí Minh và đến tháng 5/1998 văn phòng đại diện tại TP Hồ Chí Minh được

nâng cấp thành chi nhánh.

Sau hơn 10 năm hoạt động, đến nay, công ty có hơn 250 nhân viên với tổng số vốn đạt

trên 10 tỷ đồng, tổng doanh thu đạt 19.2 tỷ đồng.

Năm 2001, 75% hoạt động dịch vụ của công ty là dịch vụ kiểm toán BCTC (trong đó

35% là kiểm toán các DNNN, 25% là kiểm toán các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, 20% là

kiểm toán các dự án XDCBDD, còn lại là các lĩnh vực khác), 15% là dịch vụ tư vấn, còn lại là

các dịch vụ khác.

Qua 10 năm hoạt động, công ty đã duy trì được trên 500 khách hàng thường xuyên, bao

gồm các DNNN, các DN có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức trong nước và quốc tế hoạt

động trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân như Ngân hàng, Bảo hiểm, Dầu khí, Năng

lượng, Bưu chính Viễn thông, Công nghiệp, Xây dựng, Thủy lợi, Du lịch, Thương mại, Xi

măng, Than, Thép…Đặc biệt công ty đã thực hiện kiểm toán cho nhiều công ty liên doanh,

công ty 100% vốn nước ngoài, các dự án sử dụng vốn vay, vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế

như Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Châu á, Quỹ tiền tệ quốc tế, Liên minh Châu

Âu. Công ty đã và đang cung cấp cho khách hàng nhiều loại dịch vụ có chất lượng cao như

dịch vụ kiểm toán, dịch vụ kế toán, dịch vụ tư vấn và dịch vụ đào tạo với phương châm dịch

vụ là đảm bảo chất lượng dịch vụ của Công ty trong mọi lĩnh vực đó là độc lập, trung thực

khách quan và bảo mật, tuân thủ các quy định của Nhà nước Việt nam cũng như các Chuẩn

mực kiểm toán Quốc tế được chấp nhận chung. Bên cạnh đó, Công ty cũng luôn nhận thức đặt

lợi ích của khách hàng lên hàng đầu. Chính vì vậy, mục tiêu hoạt động của AASC cung cấp

các dịch vụ chuyên ngành tốt nhất, cung cấp những thông tin với độ tin cậy cao cho công tác

quản lý kinh tế tài chính và điều hành công việc SXKD của khách hàng mang lại hiệu quả cao

nhất.

Để hoạt động thành công và có hiệu quả, Công ty luôn coi trọng trình độ và kinh nghiệm

của đội ngũ nhân viên. Hiện nay, công ty có một đội ngũ nhân viên trên 250 người làm việc

tại trụ sở chính và các chi nhánh trong đó gần 50 KTV được cấp chứng chỉ KTV Nhà nước.

Đội ngũ nhân viên của công ty được đào tạo có hệ thống đã tốt nghiệp đại học trong và ngoài

nước, thường xuyên được trang bị và tiếp cận với những kỹ năng và kiến thức mới nhất qua

các chương trình đào tạo và bồi dưỡng chuyên ngành trong nước và quốc tế nhằm đáp ứng

yêu cầu, chất lượng cao nhất của khách hàng.

Mục tiêu của công ty trong thời gian tới là chú trọng phát triển các dịch vụ truyền thống

và phát triển một số dịch vụ mới như dịch vụ tư vấn, tin học. Đảm bảo kinh doanh có lãi từ

25- 30% doanh thu và mỗi năm tăng 10% doanh thu, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ

và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.

1.2. Cơ cấu tổ chức của công ty.

Bất kỳ một tổ chức DN nào muốn hoạt động và phát triển có hiệu quả đều phải có một

máy quản lý thích hợp. Với đội ngũ nhân viên trên 250 người trong đó nhân viên nghiệp vụ

chiếm hơn 90% được tổ chức như sau:

Về cơ cấu tổ chức nhân sự, Công ty hoạt động dưới sự lãnh đạo thống nhất của Ban

Giám Đốc. Ban Giám Đốc gồm có: 1 Giám đốc và 3 Phó giám đốc.

Tại các chi nhánh có Ban giám đốc chi nhánh và văn phòng đại diện có Trưởng phòng

đại diện, Ban Giám đốc và Trưởng phòng chịu trách nhiệm về hoạt động do mình phụ trách.

Phòng hành chính tổng hợp có chức năng thực hiện các công tác phục vụ cho hoạt động

kinh doanh của khách hàng và nghiên cứu phổ biến các văn bản chính sách có tính chất

nghiệp vụ chuyên ngành, giải quyết các chế độ của cán bộ công nhân viên, trực tiếp và bảo vệ

tài sản của Công ty.

Phòng tài chính kế toán có nhiệm vụ bổ sung sửa đổi quy chế tài chính hiện hành của

công ty, cùng với các phòng nghiệp vụ đôn đốc khách hàng thanh toán và phối hợp với phòng

Hành chính tổng hợp quyết toán quỹ lương của Công ty.

Mỗi phòng nghiệp vụ đều có Trưởng phòng và phó phòng chịu trách nhiệm với Công ty

về hoạt động của phòng. Các phòng nghiệp vụ có nhiệm vụ tăng cường tiếp thị, giữ vững

khách hàng đã có, mở rộng thị trường, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng của các dịch vụ.

Tham gia đấu thầu kiểm toán các dự án do các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế tài trợ.

Sau đây là cơ cấu tổ chức của công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và kiểm toán.

Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức của Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và kiểm

toán

1.3. Quy trình kiểm toán để xác định giá trị doanh nghiệp do AASC thực hiện.

Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh là một tất yếu khách quan. Bên cạnh các

công ty kiểm toán trong nước như VACO, A&C, AISC, AFC…còn có 5 công ty kiểm toán

hàng đầu thế giới như PWC, KPMG, Ernst & Young… các công ty này cũng đang ra sức mở

rộng thị trường của mình. Chính vì vậy, AASC luôn phải tìm cách vừa duy trì mối quan hệ

với khách hàng cũ, vừa tìm kiểm các khách hàng mới để mở rộng thị trường. Tuy nhiên trong

một nghề có tính cạnh tranh cao như kiểm toán độc lập, một lĩnh vực đòi hỏi phải có tính thận

trọng cao, trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm nghề nghiệp lớn do đó AASC cũng rất thận

trọng khi quyết định khách hàng nào sẽ được chấp nhận. Đối với khách hàng dù cũ hay mới

hàng năm Công ty đều có thư trào hàng tới khách hàng. Phòng hành chính tổng hợp của Công

ty thường xuyên thu thập thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh của các khách hàng

tiềm năng và các văn bản pháp quy của Nhà nước có liên quan đến hoạt động kinh doanh của

khách hàng. Khách hàng sau khi xem xét nếu đồng ý mời AASC cung cấp các dịch vụ kiểm

toán sẽ gửi thư hẹn kiểm toán sau khi đã ký nhận hoặc gửi fax hay điện thoại. Đại diện Ban

Giám đốc sẽ gặp gỡ khách hàng, tiến hành khảo sát tình hình hoạt động kinh doanh của khách

hàng, hệ thống kế toán, hệ thống kiểm soát nội bộ để xác địnhquy mô phức tạp của cuộc

kiểm toán. Sau đó trao đổi, thảo luận với khách hàng và ký kết hợp đồng kiểm toán về cung

cấp dịch vụ cho khách hàng, thời gian, phạm vi, mục đích kiểm toán. Hợp đồng kiểm toán đã

được công ty lập theo mẫu dựa trên Chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 210. Kết hợp chuẩn

mực kiểm toán Quốc tế và những đặc thù của Việt Nam , quy trình kiểm toán BCTC của

AASC được tóm tắt theo sơ đồ sau:

Rà soát đánh giá chất lượng hệ thống kiểm soát nội bộ

Xem xét hoạt động kinh doanh và chiến lược của khách hàng, mục tiêu xác định giá trị doanh nghiệp

Sơ đồ 3: Quy trình kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp của AASC

Kiểm tra tình hình tài chính

Tìm hiểu môi trường hoạt động và hệ thống kiểm soát nội bộ

Thu thập thông tin

Lập kế hoạc h

Thực hiện sử dụng pp kiểm toán BCTC, định giá tài sản

Lập kế hoạch chi tiết

Thự c hiện sử dụng pp kiểm toán, định giá

Phát hành biên bản xác định giá trị doan h nghiệ p

Thảo luận kế hoạch và phân công thực hiện

Rà soát đánh giá việc tuân thủ pháp luật

Theo AASC, việc hiểu biết tổng thể và pháp luật và các quy định của Nhà nước liên

quan đến hoạt động của khách hàng, nắm bắt các mục tiêu mà khách hàng cần đạt được cũng

như các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của khách hàng là chìa khóa để tiến hành cuộc

kiểm toán một cách hữu hiệu nhất theo các Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam và chuẩn mực

Quốc tế được chấp nhận tại Việt Nam.

Khi bắt đầu cuộc kiểm toán, AASC thảo luận với Ban lãnh đạo khách hàng để xác định

những vấn đề quan trọng, áp dụng các thủ tục phân tích trong quá trình lập kế hoạch. Đây là

công việc được AASC chú trọng vì qua đó AASC có được những nhận xét ban đầu về hệ

thống kiểm soát nội bộ, hệ thống kế toán, mội trường kiểm soát, đánh giá sơ bộ về rủi ro kiểm

toán. Sau đó lập kế hoạch chi tiết các bước công việc cụ thể nhằm thu thập được những bằng

chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp nhất. Những bằng chứng đó là cơ sở để các KTV đưa ra

quyết định về định giá tài sản của DN.

Công việc kiểm toán được tiến hành một cách toàn diện các hoạt động, nghiệp vụ tài

chính kế toán của khách hàng. Tuy nhiên trong quá trình kiểm toán, AASC tiến hành kiểm tra

trên cơ sở chọn mẫu về các bằng chứng liên quan đến các số liệu trên thuyết minh BCTC,

đánh giá tính nhất quán trong việc áp dụng các nguyên tắc kế toán, tập trung vào các lĩnh vực

có tính rủi ro cao nhất và việc đánh giá đúng hệ thống kiểm soát nội bộ sẽ giảm bớt được rủi

ro kiểm toán.

Lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán sao cho có thể thu thập được tất cả các thông tin,

các bằng chứng đáng tin cậy nhằm đảm bảo ở mức độ hợp lý về việc các BCTC không có sai

sót trọng yếu và đánh giá khái quát sự đầy đủ về việc trình bày thông tin trên BCTC. Phương

pháp kiểm toán của AASC đảm bảo về thời gian và cung cấp chất lượng cao nhất cho khách

hàng bằng việc tập hợp thông tin, cập nhật về hoạt động kinh doanh của khách hàng, môi

trường kiểm soát nội bộ để xác định những lĩnh vực có rủi ro cao. Đánh giá rủi ro để lập kế

hoạch, tập trung vào những lĩnh vực có nhiều rủi ro, sai sót hơn và giảm thiểu tối đa nguồn

lực đối với những lĩnh vực có ít rủi ro. Công việc xác định gía trị DN của AASC bao gồm:

Kiểm toán BCTC -

Phân loại tài sản -

Đánh giá chất lượng tài sản -

Định giá tài sản -

- Tính toán lại số liệu trên bảng cân đối kế toán với các tài sản mà giá trị đánh giá

lại buộc phải lấy trên sổ kế toán.

II. Thực tế xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại AASC

Gần đây, BTC đã đưa ra thông tư số 76/2002/TT-BTC, 79/2002/TT-BTC về hướng dẫn

xác định GTDN khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần theo nghị định số 64/2002/NĐ-CP

về việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần. AASC dùng các thông tư này làm văn bản hướng

dẫn chính thức trong việc xác định GTDN.

Có hai phương pháp xác định GTDN là phương pháp xác định GTDN theo tài sản và

theo dòng tiền chiết khấu như đã giới thiệu ở trên.

Tuy nhiên, việc thực hiện công tác xác định GTDN ở AASC là việc xác định giá trị tài

sản của công ty dựa trên các căn cứ cụ thể, nghĩa là, không xác định giá trị các tài sản vô hình

như quyền sử dụng đất, bằng phát minh sáng chế,…

2.1. Phương pháp định giá

2.1.1. Nguyên tắc định giá

Nguyên tắc định giá của AASC là:

- Đối với tài sản là hiện vật: Tài sản dự kiến sẽ sử dụng sau cổ phần hoá, không đánh giá

những tài sản không cần dùng, tài sản ứ đọng, tài sản chờ thanh lý.

Giá trị thực tế của tài sản được xác định lại dựa trên cơ sở giá thị trường và chênh lệch

giá trị tài sản tại thời điểm định giá.

- Đối với tài sản là phi hiện vật: căn cứ trên các biên bản đối chiếu, thư xác nhận, sổ kế

toán và BCTC của đơn vị tại thời điểm xác định GTDN.

2.1.2. Phương pháp tính

- Tài sản cố định: xác định bằng giá trị chất lượng theo tỉ lệ % so với nguyên giá TSCĐ

mới mua sắm hoặc mới đầu tư xây dựng. Tỷ lệ này được xác định dựa trên nguyên giá

mới và giá trị hao mòn luỹ kế mới.

Giá trị hao mòn luỹ kế mới xác định theo số năm khấu hao quy định trong khung thời

gian khấu hao tại Quyết định số 166/1999/QĐ-BTC ngày 31/12/1999.

Nguyên giá mới:

Đối với tài sản là nhà cửa vật kiến trúc, nguyên giá mới được xác định theo báo cáo

quyết toán của đơn vị nếu tài sản hình thành từ 2 – 3 năm trở lại trước thời điểm xác định GTDN, ngược lại, giá tri sẽ được lấy theo bảng giá đất của địa phương theo m2 sàn quy định.

Đối với tài sản là phương tiện vận tải, nếu hình thành từ 3 năm trở lại, nguyên giá căn

cứ trên số liệu sổ kế toán của đơn vị, nếu hình thành từ trên 3 năm, nguyên giá được căn cứ

trên giá thị trường và số năm khấu hao tối đa được quy định.

Đối với tài sản là máy móc thiết bị: cũng định giá tương tự trên nhưng giá của máy móc

thiết bị bao gồm cả chi phí thu mua, lắp đặt, chạy thử,…

Riêng đối với những tài sản bị ảnh hưởng bởi công nghệ thông tin thì nguyên giá được

lấy theo số liệu kiểm toán theo sổ kế toán.

- Đối với hàng tồn kho:

+) HTK là vật tư, công cụ dụng cụ, NVL, và hàng hoá nhập về được xác định theo giá

mua và chi phí vận chuyển theo hoá đơn, chứng từ tại thời điểm gần ngày xác định GTDN

nhất.

+) Đối với HTK là công cụ dụng cụ đã phân bổ hết giá trị nhưng vẫn còn sử dụng được

đánh giá bằng 20% giá mới của công cụ dụng cụ cùng loại đang bán trên thị trường theo tạp

chí giá cả thị trường.

- Đối với các tài sản khác: số liệu đựơc xác định dựa theo số liệu kiểm toán báo cáo tài

chính của đơn vị.

2.2. Thực hiện kiểm toán xác định gía trị doanh nghiệp

Một cuộc xác định GTDN bắt đầu khi trưởng phòng kiểm toán nhận được thư yêu cầu

xác định GTDN, người này sẽ thực hiện gửi thư trở lại cho khách hàng, hẹn ngày cùng nhau

ký kết hợp đồng kiểm toán. Đối với những đơn vị mà BCTC đã được một cơ quan kiểm toán

hợp pháp nào đó kiểm toán thì công việc xác định GTDN còn lại của công ty sẽ đơn giản và

gọn nhẹ hơn. Đối với trường hợp này, KTV chỉ cần phân loại tài sản và nguồn vốn, sau đó

loại trừ ra khỏi GTDN những tài sản không nằm trong GTDN theo quy định. Trường hợp còn

lại, tức là đối với những DN chưa được kiểm toán BCTC, thì công ty phải vừa thực hiện kiểm

toán vừa phân loại để xác định GTDN.

Nhưng dù trong trường hợp nào đi nữa, KTV của AASC cũng tìm hiểu sơ bộ về tình

hình kinh doanh của đơn vị khách hàng trước khi đi vào kiểm toán cụ thể.

Chẳng hạn, việc tìm hiểu khách hàng A của AASC được ghi trên giấy tờ của KTV như

sau:

Biểu 1: Tổng quan về doanh nghiệp

(Trích giấy tờ làm việc của kiểm toán viên)

Tổng quan về DN:

Giám đốc: Ông Hùng -

Kế toán trưởng: Bà Bính -

- Công ty thành lập lần đầu tiên năm 1959, sau đó kinh doanh lại vào năm

1991

- Công ty có 01 xí nghiệp (xí nghiệp 105) hạch toán phụ thuộc vào công ty

- Công ty mở một chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh nhưng không hoạt

động.

Công ty có một cửa hàng bán lẻ hạch toán chung tại công ty

- Diện tích: 45.000 m2

Nhà xưởng xây dựng : 1960

Cán bộ công nhân viên: 60 người

Hoạt động SXKD: hoạt động thương mại 95%, sản xuất 5%

Khách hàng: chủ yếu là khách hàng trong nước (mọi loại khách hàng), nhập

khẩu vật tư hàng hoá đến 31/12/2002 không còn công nợ với khách hàng.

Các giấy tờ mà KTV thu thập trước khi tiến hành xác định GTDN và ký kết hợp đồng

xác định GTDN là:

- Quyết định của cấp có thẩm quyền về việc CPH công ty, DN.

- Đăng ký thành lập DNNN, giấy phép kinh doanh, đăng ký thay đổi ngành nghề kinh

doanh.

- Hợp đồng thuê đất

- Biên bản thanh tra việc chấp hành pháp luật về thuế (nếu có).

- Bảng cân đối kế toán, các chỉ tiêu ngoài bảng cân đối kế toán, kết quả hoạt động

SXKD quý, năm. tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước, báo cáo lưu chuyển tiền tệ.

- Một số chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình hoạt động của DN,...

Sau khi thực hiện tìm hiểu sơ bộ về khách hàng, KTV tiến hành xác định GTDN.

KTV không phân biệt DNNN hoạt động trong lĩnh vực SXKD hay lĩnh vực thương mại,

tất cả các loại DN đều được xác định theo cùng một phương pháp như nhau đó là phương

pháp giá trị tài sản thuần.

Sau khi thực hiện tìm hiểu chung về khách hàng, KTV thực hiện điịnh giá chi tiết từng

tài sản trong quy mô và khoản mục được chọn.

1)Đối với TSCĐ

Kiểm kê toàn bộ tài sản hiện có tại DN, kể cả những tài sản đang cho thuê, tài sản nhận

giữ hộ, tài sản được tặng biếu, viện trợ, tài sản vô chủ hiện có trong khu vực quản lỹ của DN.

Đối với công trình XDCBDD hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng thì được kiểm kê như tài

sản cùng loại.

Khi thực hiện kiểm toán, KTV thực hiện:

- Kiểm kê toàn bộ tài sản cố định của DN

- Xác minh quyền sở hữu của tài sản đó

- Cộng số học trên các chứng từ, tính ra giá tài sản, đối chiếu với số liệu trên sổ sách và

ghi vào giấy tờ làm việc của KTV.

- Xem xét phương pháp khấu hao của DN và đánh giá lại khấu hao theo nguyên giá đã

đánh gía lại theo quy định của BTC.

Khi thực hiện xác định GTDN, KTV phân loại TSCĐ trong DN thành các loại:

- Tài sản đang dùng trong SXKD

- Tài sản chưa cần dùng

- Tài sản hư hỏng, chờ thanh lý

- Tài sản không cần dùng

- Nguồn hình thành tài sản

KTV thực hiện kiểm kê qua các chỉ tiêu:

- Năm sản xuất, năm sử dụng nước sản xuất

- Công suất, đặc trưng thiết kế kỹ thuật

Biểu 2: Thông tin chi tiết thu thập về tài sản cố định

(Trích giấy tờ làm việc của KTV)

Nhà cấp III, dùng làm văn phòng

- Các thông số kỹ thuật: diện tích 810 m2

- Hiện trạng sử dụng tài sản: đang dùng trong SXKD

- Hiện trạng quản lý tài sản: có trong sổ sách và kiểm kê

- Giá TSCĐ bao gồm: Nguyên giá : 303.999.101

Giá trị còn lại : 205.579.740

Hao mòn luỹ kế: 98.419.301

Tỷ lệ hao mòn: 10%

Xác định nguồn vốn hình thành: vốn ngân sách.

Đối với mỗi tài sản, lập một phiếu kiểm kê bao gồm các chỉ tiêu như trên, phiếu kiểm kê

được lập dựa vào thẻ TSCĐ. Trên cơ sở phiếu kiểm kê, KTV lập bảng kê chi tiết TSCĐ.

Giá trị thực tế của tài sản được xác định như sau:

- Nếu là tài sản có trên thị trường: là giá đang mua bán trên thị trường cộng với chi phí

vận chuyển, lắp đặt (nếu có).

AASC căn cứ vào các giấy báo giá (từ các cửa hàng…), tạp chí thị trường giá cả, bảng

giá của cơ quan có thẩm quyền về ban hành giá tối thiểu trị giá nhà hoặc trên internet theo địa

chỉ http//:www.market.com.vn…

- Nếu tài sản không lưu thông trên thị trường thì tính theo giá cả của tài sản cùng loại, có

cùng công suất hoặc đặc tính tương đương, nếu không có tài sản tương đương thì tính theo giá

tài sản trên sổ kế toán.

Ví dụ :

Biểu 3: Xác định lại giá trị Tài sản cố định

(Trích giấy tờ làm việc của KTV)

“Theo sổ kế toán tại đơn vị:

Nguyên giá: 302.954.330

Hao mòn luỹ kế: 191.131.786

Giá trị còn lại: 11.822.544

Số liệu đánh giá lại:

Nguyên giá: tại thời điểm không có loại này sản xuất, do đó không xác định

đượcc giá thị trường của loại xe này mới, chấp nhận theo giá đơn vị hạch toán là

302.954.330.”

Nguyên giá của tài sản chấp nhận theo sổ kế toán sẽ được kiểm tra lại thông qua các

chứng từ liên quan như hóa đơn giá trị gia tăng, lệ phí trước bạ, vận đơn,… đối chiếu với số

liệu trên sổ kế toán chi tiết, sổ cái và BCTC.

Đối với những tài sản có sự đánh giá lại giá trị thì:

GTCLm = NGm - GTHMm

Số năm đã sử dụng

GTHMm = NGm x

Số năm khấu hao tối đa qui định

Trong đó:

GTCLm: giá trị còn lại mới

NGm: nguyên giá mới

GTHMm: giá trị hao mòn mới

- Số năm đã sử dụng: xác định dựa trên quyết định sử dụng công trình, quyết định mua

tài sản,…

Số năm khấu hao tối đa quy định: được quy định bởi BCTC đối với từng loại tài sản cụ

thể.

Đối với nhà xưởng:

NGm=Giá quyết định của điạ phương x m2 xây dựng

Đối với vật kiến trúc

NGm = Giá quyết định của địa phương

Đối với tài sản đã khấu hao hết nhưng vẫn còn sử dụng thì giá trị thực tế của tài sản

được xác định theo chất lượng.

Chất lượng của tài sản được xác định bằng giá trị còn lại theo tỷ lệ % so với nguyên giá

tài sản mới mua sắm hoặc mới đầu tư xây dựng.

Đối với tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị thì chất lượng tài sản không

dưới 20%.

Đối với tài sản là phương tiện vận tải tiếp tục sử dụng thì chất lượng tài sản không dưới

20% và phải đảm bảo các điều kiện lưu hành theo quy định của bộ giao thông vận tải.

KTV kiểm tra chất lượng tài sản, tính diện tích đất sử dụng, căn cứ vào bảng giá địa

phương nơi DN đặt trụ sở.

Ví dụ:

Biểu 4: Xác định chất lượng còn lại và tính lại giá trị còn lại của TSCĐ

Diện tích sử dụng:810 m2

Giá mới: 737.100.000 (=810 x 9100.000)

Tỷ lệ chất lượng còn lại: Mô tả hiện trạng: nhà 2 tầng

Niên hạn sử dụng: 25 năm

Thời gian đã sử dụng: 17 năm

Tỷ lệ chất lượng còn lại: 32%

Giá trị còn lại của công trình là: 737.100.000 x 32% =

235.872.000

Tỷ lệ chất lượng còn lại phải có sự đồng ý của các bên liên quan như cơ quan định giá,

hội đồng định giá và DN.

Sau khi thực hiện kiểm kê, KTV dựa trên các phiếu kiểm kê và giấy tờ làm việc (các

biên bản xác định chất lượng còn lại, giá trị còn lại,…) lập nên bảng kê chi tiết đánh giá lại

tài sản.

Biểu 5: Bảng kê chi tiết tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc, đến ngày 31/12/2002

đơn vị: 1000đ

Stt Tên Diện địa Năm Giá trị kế toán Đánh giá lại Chênh lệch

tài sản điểm sử tích NG HMLK GTCL NG KHLK GTCL NG GTCL

dụng

1 2 3 4 5 6 7 8=7-6 9 10 11=9-10 12=9-6 13=11-8

1 Nhà 810 Yên 1985 303.999 205.579 98.419 737.100 32% 235.872 433.100 137.452

văn m2 viên

phòng

2 …

2.161.099 1.340.850 820.249 2.233.249 1.342.399 890.850 72.150 70.601 Tổng

Sau đó từ các bảng kê chi tiết này và phiếu kiểm kê KTV lập nên báo cáo tổng

hợp kiểm kê TSCĐ phục vụ việc lập lại báo cáo xác định GTDN.

Đồng thời, AASC cũng lập các bảng kê tài sản không cần dùng, chờ thanh lý, tài

sản có nguồn hình thành từ quỹ phúc lợi khen thưởng. Trong đợt xác định GTDN lần

này, các tài sản cho thuê, mượn, nhận vốn góp liên doanh liên kết và các tài sản khác

không phải của DN, tài sản của DN không cần dùng, ứ đọng, chờ thanh lý, các tài sản

thuộc công trình phúc lợi (trừ tài sản đang dùng trong SXKD được đầu tư bằng nguồn

quỹ khen thưởng phúc lợi) không được tính vào giá trị DN và không thuộc đối tượng

xác định lại giá trị.

2)Đối với công trình xây dựng cơ bản dở dang

a) Đối tượng kiểm kê: toàn bộ công trình, hạng mục công trình đầu tư tự làm. Nếu

giao thầu cho bên B thì chỉ kiểm kê phần hạng mục công trình đã hạch toán theo từng

giai đoạn bên B bàn giao cho bên A và được bên A chấp nhận thanh toán. Phần

XDCBDD bên A chưa chấp nhận thanh toán cho bên B thì được coi là TSCĐ của bên

B.

b) Thực hiện kiểm toán và định giá

Nguyên tắc định giá của loại tài sản này là số liệu kiểm toán trên sổ kế toán của

doanh nghiệp nên KTV chủ yếu thực hiện kiểm toán trên sổ sách.

- KTV căn cứ vào các hoá đơn giá trị gia tăng về mua NVL, các phiếu chi, các

phiếu giao việc, các lệnh mua NVL nếu có. Từ đó, đối chiếu số liệu trên các chứng từ

này với dự toán và bảng kê cho công trình và BCTC. Số liệu tổng hợp từ các chứng từ

gốc là căn cứ xác định giá trị công trình và là số liệu xác định GTDN.

- Đối với công trình XDCBDD thuê ngoài, căn cứ vào các biên bản bàn giao công

trình, các hợp đồng, quyết định xây dựng công trình,… cho đến thời điểm định giá, đối

chiếu trên sổ chi tiết theo dõi công trình. Giá trị công trình là tổng giá trị bên được thuê

được giao cho trên các biên bản trên.

- Việc kiểm toán trên chứng từ phải kết hợp với quan sát thực tế để đảm bảo tính

có thực của các nghiệp vụ phát sinh.

Sau khi thực hiện kiểm kê, KTV lập biên bản kiểm kê, đánh giá công trình

XDCBDD có sự thống nhất của các bên liên quan (như cơ quan định giá, DN, bên nhận

thầu…).

Khi kiểm kê công trình XDCBDD cũng cần chú ý đến các nguồn hình thành là

nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản hay quỹ phúc lợi khen

thưởng. Đối với các công trình đầu tư XDCBDD gắn liền với hoạt động SXKD của

DN mà công ty cổ phần sau này có nhu cầu xây dựng tiếp thì cũng định giá như TSCĐ

như trên. Nếu thực hiện đối chiếu trên sổ cái, chi tiết, chứng từ gốc thấy khớp thì số

liệu được lấy trên sổ cái của đơn vị.

3)Đối với TSLĐ là hiện vật

a) Đối tượng TSLĐ là hiện vật bao gồm:

- Toàn bộ NVL tồn kho, CCDC trong kho, hàng hoá, thành phẩm, bán thành

phẩm tồn kho, hàng mua đang đi đường, hàng gửi bán.

- Toàn bộ các loại vốn bằng tiền bao gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền đang chuyển,

ngân phiếu, vàng bạc, kim quý, đá quý, và các chứng khoán có giá trị như tiền, các loại

TGNH, kể cả tiền gửi đi liên doanh, liên kết, các loại ngoại tệ tại quỹ và tại ngân hàng.

b) Thực hiện kiểm toán và định giá

Đối với loại tài sản này, KTV chỉ thực hiện xác định lại giá trị những hàng tồn

kho có khả năng giá trị đã bị thay đổi (các tài sản này có đặc điểm là tồn kho từ 2-3

năm, chất lượng đã bị thay đổi…), có giá trị lớn trong tổng tài sản của DN.

Quy trình thực hiện kiểm toán là:

- Tiến hành đối chiếu số liệu trên sổ sách kế toán của tài khoản

- Tiến hành kiểm kê (thường là kiểm kê chọn mẫu vì số lượng HTK lớn), căn cứ

vào số phát sinh tăng giảm để tính số tồn cuối năm.

- So sánh với các kỳ trước để xem xét những biến động bất thường.

- Trên đối tượng được chọn mẫu kiểm kê tiến hành kiểm tra chi tiết trên chứng từ

để đảm bảo các cơ sở dẫn liệu của kiểm toán.

*) Đối với HTK:

Không đánh giá lại HTK kém, mất phẩm chất, không sử dụng được, ứ đọng

không cần dùng.

Đối với các DN có số lượng HTK rất lớn, ở nhiều kho, việc kiểm kê có thể tiến

hành theo phương pháp chọn mẫu.

Theo quy định, công ty định giá phải lập bảng kê theo mẫu sau:

Biểu 6: Bảng kiểm kê thực tế hàng tồn kho

Theo sổ kế toán Thực tế kiểm kê

Tổng số Trong đó

Tiền

ứ đọng không cần Tên, kém mất phẩm chất Mã Đơn Chênh dùng Stt nhãn số vị lệch SL ĐG TT ĐG xđ hiệu SL lại

Tiền Tiền Theo Theo Theo xđ SL ĐG SL ĐG Theo Xđ Theo sổ kt xđ lại sổ lại sổ lại

1. Bulông BL01 Cái 100 10 1000 100 10 1000 1000 -

… … … …

Tổng 5664000 … 5664000 - số

Đơn vị: Nghìn đồng

AASC tiến hành kiểm kê tính đúng đắn của hàng Nhập, Xuất, Tồn dựa theo hoá

đơn bán hàng, các lệnh mua hàng, phiếu nhập kho, phiếu chi, lệnh xuất hàng, phiếu

xuất kho. Đối chiếu các chứng từ trên với sổ chi tiết vật tư, tổng hợp vật tư, và trên

BCTC. KTV ghi lại số liệu tổng hợp lên giấy tờ làm việc theo mẫu:

Biểu 7: Bảng kiểm kê nhập – xuất – tồn kho nguyên vật liệu

Tồn đơn vị Stt Mặt hàng đầu kỳ Nhập Xuất Chênh lệch 31/12/2002 tính

Bulông 125 200 225 95 Cái -

Tổng cộng … … … … …

Đối với tất cả các số liệu, KTV phải thực hiện xác minh tính hợp lý, hợp pháp,

trung thực của số liệu. Đồng thời, KTV thu thập các chứng từ về nhà cung cấp như số

điện thoại, địa chỉ,… để xác minh các thông tin trên bảng cân đối kế toán.

Nếu tồn tại chênh lệch, KTV phải tìm hiểu nguyên nhân và từ đó, xác định số liệu

chính xác.

Sau đó KTV sẽ tổng hợp số liệu kiểm kê trên các giấy tờ thành bảng kê theo mẫu:

Biểu 8: Bảng kê giá trị nguyên vật liệu xác định lại

đơn vị: nghìn đồng

Theo sổ sách Tên, nhãn đơn vị Số lượng Xác định lại Chênh stt hiệu tính kiểm kê lệch

ĐG TT ĐG TT

1. Bu lông Cái 95 10 950 10 950 -50

2.

Tổng cộng 5.664.000 5.664.000 -

*)Đối với tài sản bằng tiền

Tài sản bằng tiền bao gồm: tiền tại quỹ, TGNH, tiền đang chuyển, các loại chứng

khoán có tính thanh khoản cao.

Thực hiện xác định giá trị

Tiền bao gồm tiền nội tệ và ngọai tệ.

- Đối với đồng nội tệ: KTV thực hiện kiểm kê tại quỹ dưới sự chứng kiến của ít

nhất 3 người (người kiểm kê, thủ quỹ và thủ trưởng đơn vị). Khi đó, tiền được phân

loại và ghi nhận theo bảng:

Biểu 9: Bảng kiểm kê tiền mặt

đơn vị: đồng

Loại tiền Số tờ Thành tiền

500.000 50 25.000.000

100.000 273 27.3000.000

Tổng 301.000.000

- Đối với đồng ngoại tệ: được quy đổi ra đồng nội tệ theo tỷ giá hiện hành (căn cứ

vào “ Thông báo tỷ giá hạch toán ngoại tệ” của BTC tại thời điểm gần nhất.

Số liệu kiểm kê thực tế so sánh với các phiếu thu, chi, sổ cái, sổ chi tiết tài khoản

nhằm phát hiện tính đúng đắn, và những chênh lệch để tính đúng số liệu.

Đối với tiền đang chuyển, phải có các chứng từ hợp lý.

Đối với TGNH, KTV xác nhận bằng giấy báo số dư khách hàng tại từng Ngân

hàng. Trên giấy tờ ghi chép của KTV, KTV tổng hợp chứng từ như sau:

Biểu 10:Bảng kiểm kê tiền

Đơn vị: Triệu đồng

Theo sổ Theo Chênh Chỉ tiêu Ghi chú sách kiểm kê lệch

1. Tiền mặt 301 301 -

2. TGNH

- Ngân hàng

Lạng sơn

275 275.8 0.8 Lãi TGNH - VND

Quy đổi ngoại tệ theo tỷ giá

- 106.5 USD … … … liên Ngân hàng

1 USD = 15368 VND

Tổng cộng 266 267 1

4)Đối với các khoản chi phí dở dang

Chi phí dở dang bao gồm: chi phí SXKD dở dang, chi phí sự nghiệp, chi phí đầu

tư xây dựng cơ bản,…. Khi xác định, giá trị của chúng là giá trị số liệu ghi trên sổ kế

toán đã được cơ quan kiểm toán xác nhận.

KTV thực hiện đối chiếu số liệu giữa các bảng cân đối số phát sinh, sổ chi tiết, sổ

cái và biên bản kiểm kê nhằm xác định tính phù hợp của số liệu.

Đồng thời, KTV đối chiếu sổ chi tiết TK 154 ( chi tiết từng phân xưởng) với các

phiếu xuất kho, phiếu giao việc, nhằm xác định tính có thật của số liệu, tính đầy đủ,..

của số liệu trên sổ.

Qua việc tìm hiểu phương pháp đánh giá giá trị sản phẩm dở dang, KTV xác định

lại giá trị. Nhưng trên thực tế, AASC chỉ xác minh tính hợp lý của số liệu mà không đề

cập đến phương pháp đánh giá.

5)Đối với các khoản nợ phải thu

a) Nợ phải thu bao gồm: phải thu khách hàng, trả trước cho người bán, phải thu nội

bộ, phải thu khác, VAT khấu trừ, tạm ứng…

b) Thực hiện kiểm toán và định giá

Đối với các khoản công nợ phải thu, kiểm toán viên thực hiện lấy số liệu kiểm

toán trên sổ sách. Quy trình kiểm toán như sau:

- Gửi thư xác nhận các khoản ứng trước cho người bán, người nhận thầu,…

- Kiểm tra chi tiết một số nghiệp vụ bất thường.

Theo quy định hiện hành, “DN có trách nhiệm đối chiếu, xác nhận, thu hồi và xử

lý các khoản nợ phải thu trước khi CPH theo cơ chế hiện hành”. Do đó, KTV xác định

giá trị theo số dư trên sổ kế toán của từng khoản nợ (dựa vào bảng kê nợ phải thu) đối

chiếu với các chứng từ gốc (hoá đơn mua hàng, phiếu thu (nếu đã thu tiền bán

hàng),…). Đồng thời với việc đối chiếu này (mà mục đích của việc đối chiếu này là xác

nhận các khoản phải thu là có thật, và đầy đủ), là việc gửi thư xác nhận số dư nợ cho

khách hàng. Mẫu như sau:

Biểu 11: Biên bản xác nhận công nợ

Biên bản xác nhận công nợ đến 31/12/2002

Hôm nay, ngày … tháng… năm… chúng tôi gồm có:

I. Công ty vật tư Mỏ - Địa chất (Gọi là bên A)

1. Ông…. Chức vụ:….

2. Ông… Chức vụ:….

II. Phía khách hàng: công ty cầu 3 (Gọi tắt là bên B)

1. Ông (bà)….

Cùng nhau đối chiếu xác nhận công nợ như sau:

Tính đến ngày 31/12/2002, bên B còn nợ bên A là: 2.999.999 VND

Bằng chữ: …

Bên A Bên B

(Ký tên, đóng dấu) (Chữ ký, đóng dấu)

Sau đó, KTV đối chiếu số liệu trên bảng kê công nợ phải thu, sổ cái phải thu

nhằm phát hiện ra chênh lệch, tìm hiểu nguyên nhân và điều chỉnh.

Đối với công nợ phải thu, theo quy định phải phân loại theo tiêu thức sau:

+ Công nợ phải thu ngắn hạn (<= 1năm)

+ Công nợ phải thu dài hạn (> 1 năm)

+ Công nợ phải thu quá hạn: khoản nợ đến hạn thu nhưng chưa thu được. Trong

đó, phải phân loại khoản nợ quá hạn 1 năm, 2 năm, và trên 3 năm. Phải xác định được

các khoản nợ khó đòi và không thể đòi được. Đối với các khoản này, phải có bằng

chứng chứng tỏ không/khó đòi, KTV phải ghi rõ số tiền và nguyên nhân không đòi

được.

- Đối với các khoản không có khả năng thu hồi, ngoài việc xử lý trách nhiệm cá

nhân, nếu chưa đủ, dùng nguồn dự phòng để bù đắp, nếu vẫn thiếu thì phần chênh lệch

được trừ vào kết quả kinh doanh, nếu vẫn còn thiếu thì trừ vào phần vốn góp nhà nước

tại DN trước thời điểm cổ phần hoá.

- Đối với những khoản nợ phải thu đã quá hạn thì DN có thể bán cho các tổ chức

kinh tế có chức năng mua bán nợ. Phần tổn thất được xử lý như phần không có khả

năng thu hồi.

Như vậy, khoản phải thu không đòi được không nằm trong GTDN.

6)Đối với các khoản phải trả

a) Các khoản phải trả bao gồm: phải trả nhà cung cấp, vay ngắn hạn, khách hàng trả

trước, thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước, phải trả công nhân viên, phải

nộp, phải trả khác, vay ngắn hạn, nợ dài hạn đến hạn trả, phải trả các đơn vị nội bộ, vay

dài hạn, nợ dài hạn, chi phí phải trả, tài sản thừa chờ xử lý.

b) Thực hiện kiểm toán

Quy trình kiểm toán và định giá các khoản phải trả cũng giống như khoản phải

thu.

Để xác định các khoản công nợ phải trả, KTV thực hiện phương pháp gửi thư xác

nhận và đối chiếu.

Các chứng từ kiểm toán mà KTV thu thập là: sổ cái các khoản phải trả, sổ chi tiết,

bảng kê công nợ phải trả, và các khế ước vay vốn, hoá đơn bán hàng…

KTV thực hiện gửi thư xác nhận đến bên thứ 3 theo mẫu:

Biểu 12: Biên bản đối chiếu số dư

Biên bản đối chiếu số dư đến 31/12/2002

Hôm nay, ngày… tháng … năm…

I. Bên công ty Vật tư Mỏ địa chất:

1. Ông : …. Chức vụ….

II. Ông (bà)…

Tính đến ngày 31/12/2002, số dư tiền của bà … địa chỉ… cho công ty Vật tư

mỏ điạ chất là 265.000.000.

Bằng chữ:….

Đại diện công ty Vật tư Mỏ địa chất Người cho vay

(ký, đóng dấu) Ký tên

Thư xác nhận này là bằng chứng kiểm toán đáng tin cậy cho việc xác minh tính

đúng đắn của các số liệu.

Đối với các khoản công nợ không có biên bản xác nhận thì KTV thực hiện tìm

hiểu về khách hàng liệu còn tồn tại, sắp phá sản… Nếu khách hàng còn tồn tại, số liệu

kiểm toán của KTV trên các chứng từ gốc và sổ chi tiết, sổ cái là số liệu sẽ được lấy để

xác định GTDN.

KTV phải phân loại các khoản phải trả, xác định và phân loại các khoản chưa đến

hạn trả, đến hạn trả, quá hạn trả, trong đó , quá hạn trả phải chia ra quá hạn trả trên 1

năm trở lên, trên 2 năm, từ trên 3 năm và khoản phải trả được khoanh nợ.

Riêng đối với các khoản phải trả ngoại tệ, ngoài việc kiểm kê, đối chiếu, KTV sẽ

phân loại nợ trong nước, nợ nước ngoài đối với ngoại tệ, phải được quy đổi ra đồng

Việt nam theo tỷ giá hiện hành.

Sau khi kiểm kê, phân loại, KTV thực hiện xử lý các khoản nợ phải trả theo quy

định hiện hành: DN phải thực hiện thanh toán các khoản nợ đến hạn trả, nếu gặp khó

khăn trong việc thanh toán thì phải thoả thuận để được giãn nợ, khoanh nợ hoặc

chuyển thành vốn cổ phần (nếu có sự đồng ý của chủ nợ).

Riêng đối với các khoản phải trả mà không có người nhận thì phải có các văn bản

chứng minh bên cho vay đã giải thể, phá sản hoặc chủ nợ đã chết. Khoản này được

hạch toán vào thu nhập bất thường của DN DN (thu nhập khác).

Như vậy, không có khoản phải trả nào bị loại ra khỏi GTDN.

7)Đối với các khoản chi phí dở dang

Các chi phí dở dang bao gồm chi phí SXKD, chi phí sự nghiệp, chi phí đầu tư xây

dựng cơ bản.

Quy trình kiểm toán là:

- Quan sát thực tế quá trình sản xuất

- Tính toán lại giá trị sản phẩm hoàn thành và sản phẩm dở dang

- Kiểm tra sự phê chuẩn trên các chứng từ khi kiểm tra chi tiết

Các khoản chi phí này được xác định giá trị theo số dư chi phí thực tế trên sổ kế

toán, nghĩa là, căn cứ vào mối liên hệ giữa chứng từ, sổ sách, KTV kiểm tra tính trung

thực, hợp lý, hợp pháp của các thông tin tổng hợp từ liên quan đến các khoản chi phí

như phiếu chi, hoá đơn GTGT, phiếu xuất kho, nhập kho,.. với bảng kê các khoản chi,

sổ chi tiết các khoản chi, sổ tổng hợp các khoản chi, sổ tổng hợp các khoản chi và sổ

cái. Từ đó xác minh tính khớp đúng của số liệu và lấy giá trị sau khi tính toán lại làm

số liệu xác định GTDN.

8)Đối với tài sản ký cược, ký quỹ ngắn hạn và dài hạn

KTV thực hiện gửi thư xác nhận đến bên nhận ký quỹ, ký cược tại thời điểm xác định

GTDN. Số liệu được đối chiếu, xác nhận sẽ là số liệu dùng để xác định GTDN.

9)Đối với tài sản vô hình

Theo quy định hiện hành, tài sản vô hình được tính theo giá trị còn lại đang hạch

toán trên sổ kế toán. Tài sản vô hình bao gồm quyền sử dụng đất, quyền phát hành, bản

quyền, bằng phát minh, sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, phần mềm máy tính, giấy phép

và giấy nhượng quyền và tài sản vô hình khác.

10)Đối với các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn và dài hạn

Đối với các khoản này, chỉ thực hiện xác định đối với các khoản công ty cổ phần

sẽ tiếp tục kế thừa, số liệu xác định GTDN dược tính theo số dư trên sổ kế toán. Riêng

đối với các khoản đầu tư góp vốn, mua cổ phần của DN khác thì xác định lại giá trị cổ

phần và giá trị vốn góp theo giá trị vốn chủ sở hữu thực hiện trong BCTC của DN mà

DN CPHgóp vốn hoặc mua cổ phần tại thời điểm gần nhất trước thời điểm xác định

GTDN cổ phần hoá.

KTV cũng thực hiện kiểm toán các khoản này theo các mục tiêu:

- Chính xác Trọn vẹn -

- Trung thực Hợp pháp -

- Đầy đủ Hợp lý -

- Quyền và nghĩa vụ

Căn cứ để kiểm toán là các chứng từ gốc như hợp đồng, biên bản xác nhận,…

11)Đối với tài sản là vốn góp liên doanh, liên kết với nước ngoài

Chỉ thực hiện xác định giá trị đối với trường hợp DN CPH có kế thừa các hoạt

động liên doanh.

Căn cứ để xác định giá trị vốn góp liên doanh trên là

- Vốn chủ sở hữu (không gồm số dư quỹ khen thưởng phúc lợi)

- Tỷ lệ vốn góp vào liên doanh của DN

- Tỷ giá giữa đồng ngoại tệ góp vốn với đồng Việt nam

Trường hợp góp vốn liên doanh với nước ngoài bằng giá trị quyền sử dụng đất thì

giá trị quyền sử dụng đất góp vốn liên doanh cũng đựơc tính vào GTDN cổ phần hoá.

Giá trị xác định được ở trên là căn cứ để xác định GTDN. Không điều chỉnh giá trị vốn

góp liên doanh trên giấy phép đầu tư.

12)Đối với các khoản dự phòng và lãi chưa phân phối

Các khoản này bao gồm dự phòng giảm giá hàng tồn kho, nợ phải thu khó đòi,

giảm giá chứng khoán, chênh lệch tỷ giá, dự phòng trợ cấp mất việc làm, dự phòng tài

chính… và các khoản lãi chưa phân phối.

KTV thực hiện xử lý các khoản dự phòng bằng cách: sau khi bù đắp tổn thất về

giảm giá, thực hiện hoàn nhập vào thu nhập của DN.

13)Đối với giá trị quyền sử dụng đất

Đối với giá trị quyền sử dụng đất áp dụng theo Luật đất đai đã được quy định.

14)Đối với DN có lợi thế kinh doanh

Lợi thế kinh doanh của DN là các lợi thế về mặt vị trí địa lý, uy tín, tính độc

quyền về sản phẩm, mẫu mã, thương hiệu, tỷ suất lợi nhuận sau thuế thấp hơn lãi suất

trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất trước thời điểm định giá thì

phải tính thêm giá trị lợi thế kinh doanh vào giá trị thực tế của DN cổ phần hoá.

Quy định này mâu thuẫn đối với việc xác định tài sản vô hình ở mục trên vì bản

chất, lợi thế kinh doanh là một phần giá trị của tài sản vô hình.

Công thức xác định giá trị lợi thế kinh doanh như sau:

Tỷ suất lợi Giá trị phần Lãi suất trái Giá trị lợi nhuận sau thuế vốn Nhà nước phiếu chính thế kinh trên vốn Nhà = tài DN theo sổ x ( - phủ kỳ hạn 10 ) doanh nước bình quân kế toán tại thời năm tại thời của dn trong 3 năm điểm định giá điểm gần nhất trước

Lợi nhuận sau thuế bình

quân 3 năm liền kề trước cổ

Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên phần hoá

vốn nhà nước bình quân 3 năm = X 100%

trước khi cổ phần hóa Vốn nhà nước theo sổ kế

toán bình quân 3 năm liền kề

trước cổ phần hoá

Giá trị phần vốn Tổng giá Số dư quỹ Nợ Nguồn Nhà nước tài DN trị thực khen = - ( phải + + kinh phí ) theo sổ kế toán tại tế của thưởng trả sự nghiệp thời điểm định DN phúc lợi

giá

Nếu DN có giá trị thương hiệu đã được xác định hoặc được thị trường chấp nhận

cao hơn giá trị lợi thế kinh doanh xác định theo quy định trên thì căn cứ vào giá trị

thương hiệu đã phản ánh trên thị trường hoặc trên sổ kế toán để tính vào giá trị DN cổ

phần hoá. Nếu thấp hơn thì tính thêm phần chênh lệch vào GTDN cổ phần hoá.

KTV căn cứ vào bảng thu nhập của DN 3 năm trước khi CPH để xác định lợi thế

kinh doanh.

Biểu 13: Báo cáo lợi nhuận 3 năm của công ty A.

Đơn vị: triệu đồng

Tt Chỉ tiên Năm Năm Năm Tổng

2001 2002 2000 cộng

I. Tổng lợi nhuận xác định 234 230 127 591

II. Khoản giảm trừ từ lợi nhuận 112 74 725 263

1. Thúê TNDN 75 74 32 180

2. Thu sử dụng vốn 42 - 41 84

54 III. Lợi nhuận sau thuế 117 157 328

Lợi nhuận sau thuế bình quân 3 109

năm

IV. Vốn nhà nước 2.78 2.837 3.059 8.375

1. Tổng tài sản theo báo cáo của 21.055 30.747 34.563 8.637

DN

2. Nợ phải trả theo báo cáo của DN 18.633 28.054 31.702 78.305

3. Quỹ khen thưởng phúc lợi theo (56) (144) (197) (398)

báo cáo của DN

Vốn NN bình quân 3 năm 2.791

V. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn 3.92%

nhà nước

VI. Lãi suất trái phiếu chính phủ 9.17%

VII. Lợi thế kinh doanh của DN 0

Nếu lãi suất trái phiếu chính phủ là 3% thì lợi thế kinh doanh của DN là :

2.791 x ( 3.92-3) = 2.56773.

2.3. Báo cáo xác định giá trị doanh nghiệp

Sau khi thực hiện kiểm toán và định giá tài sản, KTV tiến hành tổng hợp các tài

sản có cùng đặc điểm từ các bảng kê chi tiết. Tập hợp các biên bản xác định giá trị

kiểm toán, các bảng kê tổng hợp, bảng tổng hợp tài sản, bảng cân đối kế toán, và biên

bản xác định GTDN… hợp thành báo cáo xác định GTDN.

Báo cáo này được in làm ít nhất 3 bản, một bản lưu lại công ty, một bản gửi lên

doanh nghiệp và một bản trình lên hội đồng định giá phê duyệt.

Sau khi phát hành báo cáo xác định giá trị DN, công tác xác định đã hoàn thành.

Kết quả xác định giá trị DN được trình bày theo mẫu sau:

Biểu 14: Kết quả xác định giá trị doanh

nghiệp tại công ty A

Thời điểm: 31/12/2002

Đơn vị: triệu đồng

Chỉ tiêu Sổ kế toán Xác định lại Chênh lệch

A. Tài sản đang dùng 11.140 11.701 561

560 1.981 2.542 I. TSCĐ và đầu tư dài hạn

560 1.725 2.286 1. TSCĐ

560 1.725 2.286 a. TSCĐHH

- - - b. TSCĐVH

2.Các khoản đầu tư tài chính dài hạn - - -

3.Chi phí xây dựng cơ bản dở dang 256 256 -

- - - 4. ký cược ký quỹ dài hạn

9.158 9.159 1 II. TSLĐ & Đầu tư NH

1 567 568 1. Tiền

- 301 301 - Tiền tồn quỹ

1 266 267 - TGNH

-- - - -Tiền đang chuyển

- - - 2. Đầu tư TC ngắn hạn

- 2.715 2.715 3.PhảI thu

- 5.664 5.664 4. Vật tư hàng hoá tồn kho

- 212 212 5. TSLĐ khác

- - - 6. Chi phí hành chính sự nghiệp

0 0 0 III. Giá trị lợi thế kinh doanh của dn

Giá trị thực tế của DN (I+II+III) 11.140 11.702 562

- 4.140 4.140 IV. Nợ phải trả

- 4.013 4.013 - Nợ phải trả

- Số dư quỹ khen thưởng phúc lợi 87 87

562 Tổng giá trị phần vốn nhà nước tại DN. 7.000 7.562

- B.Tài sản cố định không cần dùng. - -

- I. TSCĐ&Đầu tư DH - -

- … Các khoản ký cược ký quỹ dài hạn - -

- II. TSLĐ & đầu tư NH 431 431

- C. Tài sản chờ thanh lý - -

- D. Tài sản nguồn hình thành khác 381 381

Sau đó, KTV thực hiện phân tích nguyên nhân tăng, giảm các tài sản trong doanh

nghiệp kèm theo báo cáo này.

Cũng kèm theo báo cáo này, KTV đưa ra các nhận xét và kiến nghị đối với tình

hình hoạt động của bộ máy kế toán của công ty và cách thức áp dụng kết quả xác định

GTDN. Kết quả này là kết quả mang tính chất tham khảo, là cơ sở để tính giá trị các cổ

phiếu, giá trị của cổ phiếu doanh nghiệp sẽ do thị trường quyết định dưới sự tác động

của quy luật giá trị và tình hình tài chính trong doanh nghiệp.

Chương III

Phương hướng giải quyết và giải pháp hoàn thiện đổi mới công tác xác định giá

trị DNNN để Cổ phần hoá tại AASC

3.1. Tính tất yếu phải hoàn thiện công tác xác định giá trị doanh nghiệp ở AASC

Như đã trình bày ở trên, CPH DNNN ở Việt nam là một xu thế tất yếu. Trong

thời gian qua, nhà nước đã liên tục có kế hoạch CPH các DNNN.

CPH DNNN đã đem lại lợi ích rõ rệt cho người lao động và cho xã hội. Thông

qua việc CPH, nguồn vốn kinh doanh của DN tăng lên nhờ huy động được từ các tổ

chức, cá nhân tập thể bên ngoài. Nhờ đó, vốn nhà nước không những được bảo toàn mà

còn tăng thêm. Trước năm 2001, 370 DNNN được CPH với tổng số vốn nhà nước là

854 tỷ đồng đã thu hút gần 1432 tỷ đồng ngoài xã hội đồng thời nhà nước thu gần 714

tỷ đồng từ việc nhà nước rút bớt phần vốn tại các DN này.

Sau khi CPH DNNN hoạt động kinh doanh của các DN đã có những biến đổi rõ

rệt.

- Doanh thu tăng gấp 2 lần so với trước khi CPH. Ví dụ: công ty Cơ điện lạnh đạt

94 tỷ đồng so với 46 tỷ đồng trước CPH.

- Số lượng lao động tăng trên 20%, ví dụ, công ty Chế biến hàng Xuất nhập khẩu

Long An từ 900 lao động lên 1280 lao động, công ty Cơ điện lạnh từ 244 lên 806 lao

động.

- Thu nhập người lao động tăng bình quân 20%/năm, ví dụ công ty Cổ phần đại lý

liên hiệp vận chuyển từ 1.1 lên 4.4 triệu đồng/người/năm.

- Lợi nhuận bình quân tăng 2-3 lần, nộp ngân sách bình quân 2-2.5 lần, vốn điều

lệ tăng 2.5 lần.

Tuy nhiên, số DN CPH không thực hiện đúng theo kế hoạch: năm 1998 đạt 55%,

năm 1999 đạt 63%, năm 2000 đạt 36%.

Nguyên nhân chủ yếu làm chậm tiến trình CPH là:

- Sự hiểu biết của công chúng về CPH còn hạn chế, phần lớn các DNNN được

thành lập từ trước với trình độ công nghệ còn lạc hậu, sản phẩm sản xuất không có tính

cạnh tranh.

- Các chế độ chính sách ở Việt nam như vấn đề công khai hoá các bảng khai tài

chính chưa được thực hiện, thị trường chứng khoán phát triển chưa mạnh.

- Quan điểm CPH chưa thống nhất vì nếu CPH sẽ không còn gì để quản lý.

- Nhà nước chậm ban hành các văn bản tạo khuôn khô pháp lý cho tiến trình

CPH, chưa tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các DN.

- Và đặc biệt, vấn đề xác định GTDN trước khi CPH gặp không ít khó khăn làm

kéo dài lịch trình. Vấn đề đánh giá lợi thế và bất lợi của DN cũng chưa toàn diện.

Vấn đề xác định GTDN là một vấn đề mới và nó cần được hoàn thiện, đổi mới để

phù hợp với tốc độ CPH ở DN Việt nam hiện nay.

Vấn đề xác định GTDN là một vấn đề phức tạp, do đó nó luôn cần được hoàn

thiện. Việc xác định GTDN là cần thiết vì người ta đưa doanh nghiệp ra thị trường bán

như một loại hàng hoá. Giá trị thực tế của doanh nghiệp cần thiết phảI được xác định

chính xác làm căn cứ xác định giá cổ phiếu. Có thể thấy:

- Khách sạn Sài Gòn được tính theo 2 phương pháp, thì giá trị là:

Phương pháp 1: 12.271 tỷ VND

Phương pháp 2: 20.364 tỷ VND

Chênh lệch là: 8.093 tỷ đồng, BTC thẩm định lại là 16.132 tỷ đồng, chênh

lệch so với hai phương pháp trên là 4 tỷ VND.

- Công ty Hoá phẩm sông Gấm Hải Phòng:

GTDN tự xác định: 7.147 tỷ VND

Nhà nước thẩm định:6.369 tỷ VND

Chênh lệch: 0.778 tỷ đồng.

- Công ty Bê tông, Tổng Công ty Xây dựng 1:

Công ty Kiểm toán Việt nam xác định: 13.7 tỷ VND

BTC thẩm định: 14 tỷ VND

Chênh lệch: 0.3 tỷ đồng.

Như vậy, có thể thấy, sự chênh lệch khác nhau qua việc xác định GTDN theo

nhiều phương pháp. Điều này có thể hiểu được là, ở mỗi phương pháp ta lại có cách

nhìn nhận khác nhau về DN. Chẳng hạn, đối với phương pháp xác định giá trị tài sản

thuần, người ta nhìn nhận DN dưới góc độ tổng giá trị tài sản riêng lẻ của DN, đối với

phương pháp dòng tiền chiết khấu, người ta nhìn DN dưới góc độ một thực thể có khả

năng sinh lời trong tương lai. Từ thực tế nêu trên, có thể thấy, công tác xác định GTDN

là một công tác phức tạp và cần có sự hợp tác hoàn thiện của nhà nước và các cơ quan,

bộ ngành liên quan.

Phương châm hoạt động của AASC là: phục vụ tốt khách hàng tất cả mọi dịch vụ

chuyên nghành của công ty, không ngừng học hỏi nâng cao nghiệp vụ. Xác định

GTDN cũng là một hoạt động chuyên nghành của công ty, mặc dù nó chiếm tỷ trọng

doanh thu không lớn trong tổng doanh thu nhưng nó hiện tại đang là một thế mạnh của

công ty và tạo nên uy tín cho công ty.

Gần đây, hoạt động CPH các DNNN là một hiện tượng mới nổi lên ở Việt nam,

số lượng hợp đồng mà công ty nhận về ngày càng nhiều, mặc dù thời gian kiểm toán

rút xuống chỉ còn 3-5 ngày nhưng AASC vẫn không ngừng hoàn thiện công tác của

mình.

3.2. Định hướng hoàn thiện

Công tác xác định GTDN cần hướng tới mục tiêu là:

- Đánh giá đúng thực trạng, cơ cấu giá trị tài sản, các nguồn vốn hình thành giá trị

tài sản do DNNN đang quản lý và sử dụng, số vốn nhà nước hiện còn tại DN trên cơ sở

đó đánh giá khả năng trả nợ của DN, lập phương án xử lý những tồn tại về tài sản, góp

phần làm lành mạnh hoá DN.

- Đánh giá đúng hoạt động của công ty về lợi thế kinh doanh như năng lực quản

lý của cán bộ, khả năng làm việc của người lao động, vị trí địa lý, quyền sử dụng đất.

- Giá trị của DN phản ánh sát tình trạng của DN và giá trị trên thị trường.

3.3. Thực trạng công tác xác định giá trị doanh nghiệp

3.3.1. Đối với AASC

AASC đã tuân thủ đúng các hướng dẫn mà BTC ban hành qua các thông tư

76,79/2002/TT-BTC và nghị định 64/2002/NĐ-CP. Tuy nhiên, dù với bất kỳ loại hình

DN nào, dù là hoạt động trong lĩnh vực SXKD hay thương mại dịch vụ, AASC đều sử

dụng phương pháp giá trị tài sản thuần. Điều này sẽ dẫn đến sự không chính xác về

GTDN, vì các DN thương mại dịch vụ, số lượng tài sản là hiện vật chiếm tỷ trọng nhỏ

trong tổng tài sản DN. Quan điểm xác định giá trị của AASC là DN là một tập hợp

riêng rẽ các tài sản thuộc quyền sở hữu của DN. Quan điểm này là quan điểm phiến

diện vì DN là một tổ chức kết hợp hoạt động của con người và tài sản để sản sinh ra

thu nhập. AASC chỉ đánh giá các tài sản hiện có làm cơ sở cho việc định giá DN. Giá

cổ phiếu của DN bán ra trên thị trường dựa trên 2 cơ sở:

- Giá trị thuần của DN.

- Giá đấu thầu.

Như vậy, GTDN sẽ do thị trường chứng khoán quyết định dựa trên giá trị cổ

phiếu bán được trên thị trường chứng khoán, nó sẽ dao động quanh giá trị mà AASC

thực hiện.

- Phương pháp xác định giá trị hiện hành là duy nhất, đối với DN SXKD, sử dụng

phương pháp giá trị tài sản thuần, đối với DN thương mại sử dụng phương pháp dòng

tiền chiết khấu. Việc phân loại DN theo đặc điểm SXKD là phù hợp với việc áp dụng

phương pháp xác định GTDN. Tuy nhiên, nếu chỉ áp dụng duy nhất một phương pháp

sẽ không có công cụ để kiểm chứng tính chính xác, toàn diện của kết quả tính toán.

- Tại một số đơn vị mà AASC thực hiện xác định GTDN, AASC dùng tài liệu

kiểm kê và phân loại của DN. Điều này làm giảm tính khách quan của việc xác định

GTDN song vì thời gian có hạn, công việc nhiều cho nên AASC không có điều kiện để

kiểm kê và phân loại hàng hoá, tài sản của đơn vị.

- Việc thực hiện kiểm tra chi tiết trên giấy tờ của một số tài khoản là phi hiện vật

không thực sự cụ thể.

Chẳng hạn, đối với khoản phải thu không có giấy xác nhận công nợ, KTV chỉ

thực hiện kiểm tra đối chiếu trên các chứng từ của đơn vị mà không có dấu hiệu nào

chứng tỏ có bằng chứng xác nhận là con nợ vẫn còn tồn tại.

Hoặc đối với các khoản chi phí dở dang, KTV chỉ thực hiện đối chiếu trên

chứng từ mà không thực hiện tính lại giá của thành phẩm nhập kho. KTV của AASC

xem xét xem có sự hợp lý giữa giá thành phẩm nhập kho và giá mua vào của NVL

không, nếu thấy giá thành phẩm nhập kho lớn hơn hoặc bằng giá hoá đơn của NVL thì

kết luận có sự hợp lý và giải thích rằng do trong quá trình chế biến phát sinh chi phí

chế biến ???. Thiết nghĩ công tác này không hợp lý và không cần thiết. Vấn đề chính là

KTV phải thực hiện đánh giá lại chi phí thành phẩm nhập kho.

Ví dụ, trên giấy tờ làm việc của KTV đối với công ty A, ghi như sau:

“ Mục đích: Kiểm tra khớp sổ Cái, báo cáo kiểm kê

- Kiểm kê chọn mẫu tại từng từng cửa hàng bán lẻ, tính ngược lại số tồn

thực tế tài 31/12/2002, sau đó tìm nguyên nhân chênh lệch.

- Kiểm tra tính hợp lý của đơn giá hàng gửi bán trên cơ sở so sánh giá mua

vào NVL nhỏ hơn hoặc bằng giá vốn thành phẩm (???)...”

- Công ty không thực hiện tính giá trị quyền sử dụng đất

- Việc tìm hiểu về tình hình của khách hàng, KTV đã bỏ qua một số tiêu

thức quan trọng như tình hình hoạt động của bộ máy kế toán, và một số yếu tố khác của

kiểm toán nội bộ, chẳng hạn, trên một số giấy tờ của KTV ghi nhận sự tìm hiểu về

khách hàng như sau:

“Tổng quan về doanh nghiệp

Giám đốc: Ông Hùng

Kế toán trưởng: Bà Bính

- Công ty thành lập lần đầu tiên năm 1959, sau đó kinh doanh lại vào năm 1991

- 01 xí nghiệp (XNo 195) hạch toán phụ thuộc vào công ty - Diện tích : 45.000 m2

- Nhà xưởng xây dựng năm 1960

- Cán bộ công nhân viên: 60 người

- Hoạt động SXKD: Hoạt động thương mại 95%, sản xuất 5%

- Khách hàng; chủ yếu là khách hàng trong nước (mọi loại khách hàng)

- Nhập khẩu vật tư hàng hoá đến thời điểm 31/12/2002 không còn công nợ

với khách hàng”

Trong báo cáo tổng kết công tác năm 2003 và phương hướng nhiệm vụ công

tác năm 2004 có đoạn viết “tiếp tục đẩy mạnh công tác tiếp thị, nâng cao sức cạnh

tranh, giữ vững khách hàng cũ, tìm kiếm thêm khách hàng mới đặc biệt là các Tổng

Công ty 90,91, khuyến khích toàn thể cán bộ nhân viên trong phòng tiếp thị, tìm kiếm

khách hàng với các hình thức phù hợp...” và “... phát triển và nâng cao chất lượng dịch

vụ, đặc biệt là dịch vụ kiểm toán ...”. Đó là những phương hướng và mục tiêu mà công

ty sẽ đạt được trong năm tới. Có thể thấy, trong năm 2003 vừa qua, nước ta đã thực

hiện chuyển đổi từ DNNN sang công ty Cổ phần được 52 DN và bộ phận DN, từ đầu

năm 2004 đến nay, được 25 DN và bộ phận DN. Dự kiến sang năm 2005 sẽ thực hiện

chuyển đổi 3 DNNN sang hình thức công ty Cổ phần nhưng nhà nước giữ số cổ phiếu

chi phối (theo Quyết định 125/2003/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án tổng thể sản xuất,

đổi mới tổng công ty nhà nước và DNNN của Bộ Công nghiệp giai đoạn 2003-2005).

Do đó, để cạnh tranh và luôn đứng vững trên thị trường, giữ vững uy tín của công ty là

một trong những công ty hàng đầu của Việt nam trong lĩnh vực kiểm toán, thì công ty

cần phải nhìn thấy những điểm chưa tốt và phải sửa đổi, không ngừng hoàn thiện công

tác kiểm toán.

- Thực tế đơn vị kiểm toán chỉ thực hiện xác định lại gía trị trên cơ sở báo cáo

tài chính nhưng doanh nghiệp cũng chủ yếu căn cứ vào số liệu kiểm kê thực tế của đơn

vị, do đó số liệu xác định giá trị doanh nghiệp không mang tính khách quan, do đó có

thể không chính xác.

- Đối với hàng tồn kho là công cụ dụng cuj đã qua sử dụng, đã trích hết khấu

hao nhưng vẫn còn sử dụng được thì nguyên giá được xác định lại bằng 20% nguyên

giá mới của tài sản trên thị trường. Biện pháp này nghe có vẻ hơi cứng nhắc, vì giá trị

thực tế của tài sản phụ thuộc vào giá trị thanh lý của tài sản đó, công dụng cũng như

chất lượng của tài sản. Do đó, đối với những tài sản này, việc xác định theo cách trên

sẽ có lợi cho Nhà nước vì giá trị thực tế của DN xác định sẽ lớn hơn. Mặc dù đối với

một số tổ chức kinh doanh hiện đại, có thể số lượng hàng tồn kho loại này không lớn,

nó có thể ảnh hưởng ít trọng yếu đến kết quả giá trị doanh nghiệp, nhưng nếu đối với

những đơn vị kinh doanh tất cả các tài sản đều đã trở nên cũ không còn phù hợp với thị

trường nhưng vẫn dùng vào sản xuất kinh doanh thì sẽ không còn chính xác. Đưa ra tỉ

lệ 20% là cứng nhắc mặc dù nó làm giảm tính phức tạp của công tác định giá.

- Đối với tài sản không còn tồn tại trên thị trường thì đơn vị chấp nhận theo

nguyên giá hạch toán trên sổ kế toán. Điều này không đúng khi tài sản có sự hao mòn

vô hình, tức là trên thị trường đã có một số tài sản có công dụng tương đương nhưng

công suất tốt hơn và nhiều tính năng hơn. Do đó, khi định lại giá của tài sản, phải quan

tâm đến công dụng, chất lượng và giá của tài sản tương đương trên thị trường.

- Đối với tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc, nguyên giá phải không nhỏ hơn

20%. Nguyên tắc này cũng cứng nhắc như nguyên tắc trên.

3.3.2. Đối với các chế độ hiện hành

Nhà nước coi giá trị quyền sử dụng đất, giá trị tài sản vô hình và lợi thế kinh

doanh là khác nhau. Thật vậy, theo Thông tư 79/2002/TT-BTC, giá trị thực tế của DN

được xác định trên cơ sở kết quả kiểm kê, phân loại và định giá xác định theo giá thị

trường tại thời điểm định giá.

Theo Nghị định 64/2002/NĐ-BTC, giá trị thực tế của DN là gái trị toàn bộ tài sản

hiện có tại DN tại thời điểm CPH có tính đến khả năng sinh lời của DN mà người mua

và người bán cổ phần đều chấp nhận được.

Như vậy, ngầm hiểu lợi thế kinh doanh chính là giá trị phản ánh khả năng sinh lời

của DN.

Vậy đâu là giá trị của các tài sản vô hình khác như trình độ quản lý, trình độ làm

việc... Các giá trị này không thấy phản ánh trên giấy tờ làm việc cũng như trên báo cáo

của KTV.

Gần như có sự lẫn lộn giữa quyền sử dụng đất và giá trị tài sản vô hình. Cụ thể,

Thông tư 79/2002/TT-BTC quy định tại mục 2.6 : “Đối với tài sản vô hình (nếu có) thì

tính theo giá còn lại ghi trên sổ kế toán”, và tại mục 2.10, lại ghi, “Đối với quyền sử

dụng đất,...”. Tuy nhiên, theo em, giá trị tài sản vô hình phải do thị trường quyết định

tại thời điểm CPH.

Giá trị tài sản vô hình bao gồm:

- Quyền sử dụng đất

- Quyền phát hành

- Bản quyền, bằng phát minh, sáng chế

- Nhãn hiệu hàng hoá

- Phần mềm máy tính

- Giấy phép và giấy phép nhượng quyền

- TSCĐ vô hình khác

Như vậy, vô hình trung đã xem giá trị quyền sử dụng đất nằm ngoài tài sản vô

hình của DN và bỏ ngoài giá trị tài sản vô hình của DN lợi thế kinh doanh.

Việc xác định giá trị thực tế của DN được thực hiện theo nguyên tắc “giá trị

thực tế của DN là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của DN tại thời điểm CPH mà người

mua, người bán CPH đều chấp nhận được”. Nguyên tắc này dường như phù hợp với

nguyên tắc thị trường song lại mang nặng tính hình thức vì trên thực tế, giữa người

mua và người bán cổ phần không có thoả thuận gì. ở đây phải ngầm hiểu là thoả thuận

sẽ chỉ được thực hiện khi có người mua cổ phần của DN. Nói cách khác, sự thoả thuận

được chứng minh bằng việc người mua cổ phần có mua hay không mua cổ phần.

Những người tham gia mua cổ phần không trực tiếp biết nội dung và phương pháp xác

định GTDN. Việc xác định GTDN do một hội đồng xác định, làm cơ sở xác định giá

bán cổ phần cho các cổ đông, do vậy gía bán cổ phần vẫn còn nhiều yếu tố chủ quan,

không phản ánh đúng quy luật kinh tế thị trường. Mặt khác, cổ phần chủ yếu ưu tiên

bán cho người làm việc trong DN dẫn đến tình trạng người bán và người mua lẫn lộn

nên việc định giá DN càng chứa đựng nhiều yếu tố chủ quan.

3.4. Những kiến nghị để thực hiện

a) Đối với công ty

Nhằm không ngừng hoàn thiện chất lượng công tác xác định GTDN, em xin

mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị như sau:

- Công ty không ngừng bổ sung, hướng dẫn và cung cấp các tài liệu về xác định

GTDN cho nhân viên trong công ty, không ngừng mở các khoá đào tạo, trang bị kiến

thức cho nhân viên trong công ty. Vì theo em biết, trong mỗi phòng chỉ có một số

người có thể thực hiện được công tác này.

- KTV của công ty cần thực hiện kiểm tra chi tiết hơn đối với từng khoản mục.

Chẳng hạn, đối với khoản mục phải thu khách hàng, khi không có giấy xác nhận công

nợ, cần tìm hiểu xem con nợ có còn tồn tại không, hoặc đối với khoản mục chi phí

SXKD dở dang, KTV nên bỏ qua bước kiểm tra bất đẳng thức “ giá mua NVL <= giá

vốn thành phẩm”, mà nên tìm hiểu về phương pháp tính và thực hiện tính lại. Bởi vì,

đối với những đơn vị hoạt động SXKD, số lượng thành phẩm lớn có thể ảnh hưởng

trọng yếu đến giá trị DN.

- KTV cần đi sâu, đi sát hơn trong vấn đề tìm hiểu tình hình hoạt động kinh

doanh của khách hàng, KTV cần tìm hiểu về môi trường xung quanh khách hàng, khí

hậu, tình hình chính trị, nội bộ của DN,... để có các đánh giá và có cái nhìn sâu hơn về

tình hình khách hàng.

- Công ty cần ban hành một quy trình chuẩn cho công tác xác định giá trj doanh

nghiệp nhằm đảm bảo chất lượng hoạt động xác định GTDN và thuận tiện cho việc

kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp.

- Công ty nên áp dụng nhiều phương pháp định giá doanh nghiệp, qua đó có thể

đưa ra nhiều giá trị giúp cho DN tham khảo, so sánh, tìm ra giá trị hợp lý nhất để định

giá cổ phiếu.

- Đối với tài sản mà nguyên giá xác định thấp nhất là 20%, cần phải xác định một

cách linh động hơn, xác định dựa vào công dụng và chất lượng tài sản, qua đó xác định

tỷ lệ chất lượng còn lại, áp dụng giá của hàng đó hoặc mặt hàng tương tự trên thị

trường, qua đó xác định lại giá.

- Để đảm bảo tính khách quan và phù hợp với cơ chế thị trường trong việc định

giá doanh nghiệp, KTV cần tìm hiểu kỹ hơn và sâu hơn về các yếu tố nội tại của DN

như trình độ nhân viên, quan hệ khách hàng, cơ cấu tổ chức bộ máy, khả năng quản lý,

uy tín kinh doanh, vị trí địa lý và đưa các nhận xét này vào báo cáo xác định giá trị

doanh nghiệp.

b) Đối với các quy định của Nhà nước về xác định giá trị doanh nghiệp.

Sau khi nghiên cứu các Quyết định 64/2002/QĐ-BTCvà Thông tư 76,79/2002/TT-

BTC về vấn đề xác định GTDN, em thấy có một số chỗ chưa hợp lý, em xin đề xuất

như sau:

-Chuyển mục 2.10 (về giá trị quyền sử dụng đất) vì:

1) Mục 2.6, nói về tài sản vô hình đã bao gồm quyền sử dụng đất, đã quy định, tài

sản vô hình xác định lại theo giá trên sổ kế toán.

2) Để cho đơn giản trong việc xác định giá trị quyền sử dụng đất, giá trị này sẽ

được lấy là giá thị trường của tổng số đất đai mà DN có hoặc sẽ tính là giá thuê

đất cộng với chi phí giải phóng mặt bằng (nếu có).

- Sửa đổi lại định nghĩa về giá trị lợi thế kinh doanh. ở đây ta xem xét:

Giá trị doanh = Tổng giá trị thực tế của + Giá trị lợi thế kinh doanh của

nghiệp doanh nghiệp doanh nghiệp

Như vậy, giá trị lợi thế kinh doanh của DN có được là do sự kết hợp giữa các

tài sản của DN lại thành một tổ chức có khả năng sinh lời. Vì vậy, nó không phải là uy

tín, vị trí địa lý,.. mà nó là sự kết hợp thông qua ý chí của con người thành một thực thể

hoạt động. Công thức xác định lợi thế kinh doanh của DN dựa trên tỷ suất lợi nhuận

sau thuế trên vốn nhà nước bình quân trong 3 năm trước khi cổ phần hoá và lãi suất trái

phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm tại thời điểm gần nhất là hợp lý vì nó phản ánh được

ưu thế sinh lời của DN so với mức đầu tư ít rủi ro nhất. Quan điểm này dựa trên cách

nhìn nhận từ phía các nhà đầu tư.

Giá trị tài sản vô hình đã bao gồm tất cả các yếu tố vô hình trong DN như

quyền sử dụng đất, quyền phát hành, bản quyền, bằng sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá,

phần mềm máy tính, giấy phép và giấy phép nhượng quyền và tài sản vô hình khác...

Bên cạnh đó, còn một số bất cập trong định giá như Nhà nước quy định việc đánh giá

tài sản không dưới 20% đối với những tài sản đã trích khấu hao hết nhưng vẫn còn sử

dụng. Điều này làm cho giá trị của doanh nghiệp tăng lên. Trong điều kiện Việt nam

chưa phát triển thị trường chứng khoán thì điều này càng có lợi cho Nhà nước vì giá trị

cổ phiếu đưa ra bán cao nhưng làm mất đi tính khách quan trong cơ chế thị trường. Do

vậy, Nhà nước cần có sự đánh giá khách quan trong việc định giá tài sản, không nên

đưa ra một tỷ lệ tài sản cứng nhắc như vậy.

Kết luận

Công tác xác định GTDN còn là một chuyên nghành mới của hoạt động kiểm

toán tại Việt nam, mặc dù nó đã xuất hiện ở các nước XHCN khác từ rất lâu. Việt nam

đi sau, tuy chậm nhưng bù lại, lại được kế thừa những kinh nghiệm của các nước đi

trước. Tuy nhiên, từ lý luận đi đến thực tiễn là cả một vấn đề lớn. Nhìn lại chặng đường

phát triển công tác xác định GTDN ở Việt nam vừa qua, ta thấy sự khác biệt rõ rệt từ

việc xác định GTDN tốn mất thời gian từ 8 tháng đến 2 năm những năm 1996, dưới 3

tháng những năm 1996-1998, và chỉ còn 5-6 ngày từ năm 1998 trở lại đây. Như vậy,

xác định GTDN ngày càng được hoàn thiện và phù hợp với tình hình thực tế. Nhờ đó

mà công tác CPHđược đẩy mạnh.

Việc thực hiện xác định GTDN phải do một bên độc lập thực hiện, và công tác

này rất phù hợp với kiểm toán độc lập vì nó đảm bảo tính khách quan cao. Về phía nhà

nước, nhà nước muốn GTDN cao vì nhà nước sẽ bán được cổ phiếu với giá cao, thu

hồi về được nhiều vốn nhưng người mua cổ phiếu lại bị thiệt. Còn về phía DN, DN

muốn GTDN thấp vì DN muốn bán cho “người nhà của mình” đó là những cán bộ

công nhân viên trong công ty. Như vậy một tổ chức kiểm toán độc lập đứng giữa thực

hiện là hợp lý.

Công tác xác định GTDN là một dịch vụ mới của kiểm toán, nó phát triển song

song cùng với kiểm toán nhưng công tác này có tính lịch sử, nó chỉ tồn tại khi còn

DNNN để cổ phần hoá. Nhà nước CPHDN mình nhưng không có nghĩa là nhà nước

mất quyền kiểm soát đối với các DN này. Đối với các DN quan trọng, nhà nước chiếm

số cổ phần ưu thế hoặc chiếm trên 51% cổ phần. Và như thế, vai trò của nhà nước

không bị mất đi.

Là một công ty kiểm toán nhà nước có uy tín trên cả nước, AASC luôn thực hiện

đúng và tuân thủ các quy định về kiểm toán nói chung và về xác định GTDN nói riêng.

Tuy nhiên, công ty kiểm toán cần phải bồi dưỡng, trau dồi kiến thức nghiệp vụ cho

KTV hơn nữa để cạnh tranh với các công ty khác như KPMG, Earnt & Young, A&C,

VACO, Grant Thomson, Price Waterhouse,... để từng bước mở rộng thị trường kiểm

toán ra nước ngoài.

Danh mục các tài liệu tham khảo

1) Thông tư số 76/2002/TT-BTC ngày 09/09/2002 hướng dẫn những vấn đề về tài

chính khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần.

2) Thông tư số 79/2002/TT-BTC hướng dẫn phương pháp xác định giá trị doanh

nghiệp

3) Nghị định số 64/2002/NĐ-CP về việc cổ phần hóa các DNNN

4) Tổng kiểm kê tài sản và xác định lại giá trị tài sản của DNNN ngày 1/1/2000-

Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp số 8/1999

5) Xác định giá trị doanh nghiệp – Quan điểm của nhà đầu tư và nhà quản trị – Tạp

chí Tài chính doanh nghiệp số 2/2000

6) Một số đánh giá về công tác định giá tài sản của doanh nghiệp cổ phần hoá ở

Việt nam – Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp – số 3/2000

7) Một số nhận thức về giá trị doanh nghiệp – Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp –

số 3/2000

8) Phân chia tương lai khi xác định gía bán doanh nghiệp – Tạp chí Tài chính

Doanh nghiệp – số 3/2000

9) Bàn về mô hình xác định gía trị DNNN – Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp – số

4/2000

10) Định giá doanh nghiệp trên cơ sở BCTC – Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp – số

5/2000

11) Một số vấn đề về tài chính trong tiến trình cổ phần hoá DNNN – Tạp chí Tài

chính Doanh nghiệp – số 4/2001

12) Công tác kế toán, kiểm toán đối với DN có vốn đầu tư nhà nứơc – Tạp chí Tài

chính Doanh nghiệp – số 9/2001

13) Một số ý kiến về lập kế hoạch kiểm toán – tạp chí Kiểm toán – số Xuân Canh

thìn

14) Những nội dung cơ bản của quy trình kiểm toán DNNN – Tạp chí Kiểm toán -

số 4/1998

15) Đổi mới cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp trước khi cổ phần hóa – Tạp chí

Tài chính Doanh nghiệp – số 5/2002

16) Cổ phần hoá DNNN, một số tiêu điểm – tạp chí Thị trường Chứng khoán – số

6/2000

17) Thấy gì qua kết quả kiểm kê và xác định lại giá trị tài sản DNNN – Tài chính

doanh nghiệp – số 9/2001

18) Những vấn đề tài chính khi thực hiện chuyển đổi DNNN thành công ty TNHH

một thành viên – Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp – số 2/2001

19) Điều có thể xảy ra trong tổng kiểm kê tài sản năm 2000 – Tạp chí Tài chính

Doanh nghiệp - số 12/1999

20) Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa kiểm toán nhà nước và DNNN – tạp chí

Kiểm toán – số 1/2001

21) Danh mục hệ thống tài khoản kế toán Việt nam đã sửa đổi bổ sung đến tháng

2/2004

22) Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp – Luận án tiến sĩ kinh tế – 2001 –

Nguyễn Minh Hoàng - Đại học Tài chính Kế toán

23) Đánh giá doanh nghiệp – Nguyễn Hải Sản – 1998 – NXB Tài chính Hà Nội

24) Công văn số 04/KK/TW của ban chỉ đạo kiểm kê TW về phương án kiểm kê tài

sản và xác định lại giá trị DNNN để cổ phần hoá thời điểm 0h ngày

31/12/2000

25) Cổ phần hoá DNNN

26) Thông tư số 104-1998/TT-BTC ngày 18/7/1998 hướng dẫn những vấn đề tài

chính khi chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần

27) Thông tư số 50/TC /TCDN ngày 30/08/1996 của Bộ tài chính hướng dẫn những

vấn đề về tài chính, bán cổ phần và phát hành cổ phần trong việc chuyển

một số DNNN thành công ty cổ phần

28) Thông tư 36/TC-CN theo Quyết định 2002/CT ngày 08/06/1992

29) Kế toán quản trị – Nguyễn Tấn Bình

30) Phân tích tài chính doanh nghiệp – Josette Peyrard

31) Cổ phần hoá các DNNN ở Việt nam – PGS PTS Hoàng Công Thi và PTS

Phùng Thị Đoan – 1992

Mục lục

Lời mở đầu…………………………………………………………………...1

Chương 1: Cơ sở lý luận của xác định giá trị doanh

nghiệp…………………………………………………………………............4

I. Cơ sở lý luận về xác định giá trị doanh nghiệp ...................................................... 4

1.1. Giá trị, giá trị hàng hoá và giá trị doanh nghiệp 4

1.1.1. Quan điểm của Các-Mác về giá trị, giá trị hàng hoá.................................... 4

1.1.2. Giá trị thời gian của tiền, chi phí cơ hội, chi phí sử dụng vốn vay ............... 5

1.1.3. Doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, giá trị thực tế của doanh nghiệp .... 6

1.2. Tính cần thiết phải xác định giá trị Doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá. ..... 9

1.2.1. Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước là xu hướng tất yếu

khách quan khi chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị

trường. ................................................................................................................. 9

1.2.2. Cổ phần hoá là giải pháp cơ bản để tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước

trong giai đoạn hiện nay ở nước ta...................................................................... 11

II. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp ................................................ 12

2.1. Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh ..................................................... 12

2.1.1. Môi trường kinh doanh tổng quát ............................................................. 12

2.1.2. Môi trường đặc thù ................................................................................... 15

2.2. Các yếu tố thuộc về nội tại doanh nghiệp ......................................................... 17

2.2.1. Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp…………………………...17

2.2.2. Vị trí kinh doanh ...................................................................................... 17

2.2.3. Uy tín kinh doanh…………………………………………………...18

2.2.4. Trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao động .................................... 19

2.2.5. Năng lực quản trị kinh doanh.................................................................... 19

III. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp ............................................. 20

3.1. Xác định giá trị doanh nghiệp là gì?................................................................. 20

3.2. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp............................................... 21

3.2.1. Phương pháp giá trị tài sản thuần .............................................................. 21

3.2.2. Phương pháp hiện tại hoá các nguồn tài chính trong tương lai .................. 24

3.2.3. Phương pháp định lượng Goodwill (lợi thế thương mại) ........................... 24

3.2.4. Phương pháp định giá dựa vào PER (Price Earning Ratio) ....................... 25

IV. Quy trình xác định giá trị doanh nghiệp trong công tác kiểm toán ................. 26

4.1. Vai trò của kiểm toán trong xác định giá trị doanh nghiệp ............................... 26

4.2. Các phương pháp kiểm toán được sử dụng trong xác định giá trị doanh nghiệp

............................................................................................................................... 28

4.2.1. Phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ .................................................... 28

4.2.2. Phương pháp kiểm toán chứng từ ............................................................. 31

4.3. Hệ thống mục tiêu của kiểm toán BCTC để cổ phần hoá và mục tiêu xác định

giá trị doanh nghiệp ............................................................................................... 33

4.4. Lập kế hoạch tổng quát .................................................................................... 35

4.4.1. Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán. ........................................................... 35

4.4.2. Thu thập thông tin cơ sở. .......................................................................... 36

4.4.3. Thu thập thông tin nghĩa vụ pháp lý của khách hàng. ............................... 37

4.4.4. Thực hiện các thủ tục phân tích ................................................................ 37

4.4.5. Nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát ......... 38

4.5. Thiết kế chương trình kiểm toán ...................................................................... 38

4.6. Thực hiện kiểm toán, xác định giá trị DN và báo cáo xác định giá trị DN. ...... 38

V. Tóm tắt quá trình phát triển của công tác xác định giá trị doanh

nghiệp ở Việt Nam ................................................................................................ 40

5.1.Từ năm 1992 đến năm 6/5/1996 ....................................................................... 40

5.2.Từ 7/5/1996 đến 28/06/1998 ............................................................................. 41

5.3.Từ 29/06/1998 đến 08/09/2002 ......................................................................... 43

5.4.Từ 09/09/2002 đến nay ..................................................................................... 45

5.4.1. Các căn cứ thực tế để xác định giá trị doanh nghiệp ................................. 45

5.4.2. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp ở Việt nam ..................... 45

5.4.3. Thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp ................................................... 46

5.4.4. Các tài sản không nằm trong giá trị thực tế của doanh nghiệp ................... 46

5.4.5. Đối tượng áp dụng để xác định giá trị doanh nghiệp ................................. 47

5.4.6. Căn cứ xác định chất lượng tài sản ........................................................... 47

Chương II: Thực trạng xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để Cổ phần hoá ở

AASC………………………………...47

I. Đặc điểm của công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán với công tác

xác định GTDN. ........................................................................................................ 48

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của AASC……………………………...48

1.2. Cơ cấu tổ chức của công ty. ............................................................................. 50

1.3. Quy trình kiểm toán để xác định giá trị doanh nghiệp do AASC thực hiện. .... 53

II. Thực tế xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại

AASC………………………………………………………...……..…………..55

2.1. Phương pháp định giá ...................................................................................... 55

2.1.1. Nguyên tắc định giá .................................................................................. 55

2.1.2. Phương pháp tính ..................................................................................... 56

2.2. Thực hiện kiểm toán xác định gía trị doanh nghiệp .......................................... 57

2.3. Báo cáo xác định giá trị doanh nghiệp ............................................................. 81

Chương III: Phương hướng giải quyết và giải pháp hoàn thiện đổi mới công tác

xác định giá trị DNNN để Cổ phần hoá tại

AASC………………………………………………………………84

3.1. Tính tất yếu phải hoàn thiện công tác xác định giá trị doanh nghiệp ở AASC .. 84

3.2. Định hướng hoàn thiện .................................................................................... 86

3.3. Thực trạng công tác xác định giá trị doanh nghiệp ........................................... 87

3.3.1. Đối với AASC .......................................................................................... 87

3.3.2. Đối với các chế độ hiện hành ................................................................... 90

3.4. Những kiến nghị để thực hiện .......................................................................... 92

Danh mục các tài liệu tham khảo………………………………96