Kinh nghiệm từ mô hình xây dựng nông thôn mới vùng ven đô của thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long
Chia sẻ: Chauchaungayxua6 Chauchaungayxua6 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5
lượt xem 8
download
Tài liệu trình bày một số kinh nghiệm từ mô hình xây dựng nông thôn mới vùng ven đô của thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long. Mời các bạn cùng tham khảo tài liệu để nắm chi tiết nội dung nghiên cứu.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Kinh nghiệm từ mô hình xây dựng nông thôn mới vùng ven đô của thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long
- UBND THỊ XẪ BÌNH MINH TỈNH VĨNH LONG KINH NGHIỆM TỪ MÔ HÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÙNG VEN ĐÔ CỦA THỊ XÃ BÌNH MINH, TỈNH VĨNH LONG Thị xã Bình Minh được thành lập theo Nghị quyết số 89/NQ-CP, ngày 28/12/2012 của Chính phủ với 8 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 03 phường và 05 xã. Thị xã Bình Minh có vị trí chiến lược, là cửa ngõ của tỉnh Vĩnh Long với các tỉnh phía Nam sông Hậu và nằm kề thành phố Cần Thơ, thuận lợi giao thông thủy bộ lẫn đường hàng không. Có nhiều tiềm năng, thế mạnh để phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch và công nghiệp. Song song với đẩy mạnh thực hiện chương trình phát triển nâng thị xã Bình Minh lên đô thị loại III vào năm 2020 trong thời gian qua, Đảng bộ và chính quyền thị xã cũng ra sức tập trung đầu tư, phát triển vùng ven của thị xã Bình Minh để thích ứng với quá trình đô thị hóa, cụ thể là thông qua triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới để tập trung thúc đẩy phát triển lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp đô thị cho các vùng ven thị xã. Theo đó, trên lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: thị xã được tỉnh đầu tư xây dựng Khu công nghiệp Bình Minh với quy mô 134,82 ha tại xã Mỹ Hòa. Đến nay có 26 dự án (trong đó: có 18 dự án đang sản xuất kinh doanh, 03 dự án đang xây dựng cơ bản) với tổng vốn đầu tư thực hiện 471,13/809,98 tỷ đồng, đạt 58,16% và 91,44/151,09 triệu USD, đạt 60,52%. Diện tích đất đã triển khai 26,84/58,59ha, chiếm 45,80%. Thông qua đó đã giải quyết trên 2.500 lao động cho người dân của các xã. Đồng thời, hiện nay thị xã cũng đang kêu gọi đầu tư khu công nghiệp Đông Bình tại xã Đông Bình với quy mô 350 ha, cụm công nghiệp Thuận An tại xã Thuận An với quy mô 79 ha. Về tiểu thủ công nghiệp trong thời gian qua tiếp tục được duy trì và có bước phát triển. Nhiều sản phẩm tiểu thủ công nghiệp được sản xuất tại các vùng ven thị xã được người tiêu dùng trên thị trường tín nhiệm cao như làng nghề truyền thống tàu hủ ky xã Mỹ Hòa với 34 cơ sở sản xuất, giải quyết cho trên 170 lao động thường xuyên, sản lượng hàng năm trên 306 tấn; làng nghề làm nhang, cốm dẹp của đồng bào dân tộc Khmer ấp Phù Ly 2, xã Đông Bình; sản xuất nước chấm, nước mắm tiếp tục được mở rộng về quy mô. Trên lĩnh vực phát triển nông nghiệp đô thị các vùng ven: để thích nghi với tình hình đất nông nghiệp các vùng ven ngày càng giảm, nhiều mô hình nông nghiệp đô thị được hình thành trên địa bàn phù hợp với quá trình đô thị hóa ngày càng gia tăng. Cụ thể đã hình thành làng nghề chuyên ươm, cung ứng cây giống hoa màu của nông dân xã Đông Thành, Đông Thạnh, Đông Thuận với 24 hộ tham gia sản xuất. Cây giống của làng nghề được cung ứng rộng rãi cho nông dân trong và ngoài tỉnh; mô hình sản xuất hoa, cây cảnh, bonsai của nông dân xã Đông Thành, Đông Bình, cung ứng cho thành phố Vĩnh Long, thành phố Cần Thơ và các tỉnh, thành khác. Đồng thời, nhiều mô hình về sản xuất giống mới có năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao, phục vụ cho yêu cầu chuyển đổi cây trồng, vật nuôi tăng chất lượng và sức cạnh tranh cho nông sản hàng hoá trên địa bàn thị xã như đưa vào sản xuất các giống lúa chất lượng cao OM 5451, OM 4900, OM 6976, vịt siêu thịt, gà lông màu... Triển khai xây dựng các mô 177
- hình cánh đồng mẫu lớn 350 ha trong sản xuất lúa áp dụng quy trình ”3 giảm – 3 tăng”, kỹ thuật ”1 phải – 5 giảm”, ứng dụng cơ giới hóa trong làm đất và thu hoạch; sản xuất rau màu an toàn trong nhà lưới; mô hình trồng nấm rơm trong nhà; mô hình tưới phun trên rau màu, bưởi 5 roi; mô hình ứng dụng công nghệ sinh thái trong sản xuất lúa, cây ăn trái; mô hình sản xuất bưởi 5 roi đạt tiêu chuẩn GlobalGAP, VietGAP, sản xuất xà lách xoong an toàn theo VietGAP... Đối với chăn nuôi, do địa bàn là các vùng ven đô nên chăn nuôi được thị xã định hướng là phát triển theo hướng bảo vệ môi trường gắn với an toàn sinh học. Theo hướng đó, đã triển khai hỗ trợ xây dựng trên 100 công trình khí sinh học biogas nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi. Việc ứng dụng các chế phẩm sinh học trong chăn nuôiđược ứng dụng rộng rãi nhằm tăng hiệu quả hấp thu dinh dưỡng, tạo sức đề kháng cho vật nuôi; nhiều mô hình chăn nuôi trên đệm lót sinh học; chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học cũng được triển khai thực hiện trên địa bàn… Đối với mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hiện tại trên địa bàn có trên 2.000 ha trồng trọt ứng dụng công nghệ tưới phun, tưới tự động, trong đó có 2.050 ha ứng dụng cho trồng cây ăn trái, trong đó có gần 150 ha được sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP (bưởi 5 roi), 150 ha ứng dụng trồng màu (xà lách xoong, rau diếp cá), thu nhập bình quân của nông dân trên 400 triệu đồng/ha/năm. Ngoài ra, tại các xã vùng ven cũng đã bước đầu hình thành trên 15 mô hình sản xuất nông nghiệp trong nhà màng, nhà lưới, ứng dụng công nghệ trồng trên giá thể không cần đất kết hợp tưới nhỏ giọt của Israel, 12 mô hình nuôi lươn không bùn… Bên cạnh những mặt đạt được, việc thực hiện xây dựng nông thôn mới tại các địa bàn vùng ven của thị xã cũng tồn tại những hạn chế là giá cả nông sản trên thị trường bấp bênh, giá vật tư nông nghiệp có chiều hướng tăng cao, thu nhập nông dân không ổn định; tính cạnh tranh của một số sản phẩm tiểu thủ công nghiệp về mẩu mã, bao bì, giá cả bị giảm, thị phần thu hẹp; lao động nông nghiệp ngày càng bị thiếu; nhiều mô hình nông nghiệp công nghệ cao có giá trị đầu tư lớn, vượt quá khả năng đầu tư của nông dân. Qua triển khai mô hình xây dựng nông thôn mới vùng ven đô thị của thị xã Bình Minh,địa phương đúc kết một số kinh nghiệm như sau: Một là,trên lĩnh vực nông nghiệp, phải phát huy những thế mạnh hiện có của vùng, phù hợp với tập quán sản xuất, văn hóa bản địa và khả năng tiếp cận, đầu tư của người dân. Có cơ chế đặc thù để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, đặc biệt ưu tiên cho các doanh nghiệp đầu tư lĩnh vực sơ chế, chế biến nâng cao giá trị các nông sản chủ lực trên địa bàn.Đẩy mạnh thực hiện Chương trình quốc gia mỗi xã một sản phẩm gắn với phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, các hoạt động thương mại, dịch vụ trong nông thôn để tăng thu nhập cho người dân. Hai là,tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Với quan điểm “ly nông nhưng không ly hương”. Muốn làm tốt công tác này phải có bước chuẩn bị trước từ khâu dự báo, rà soát cơ cấu lao động, trình độ, chuyên môn để thực hiện tốt bước tiếp theo là đào tạo nghề và giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động. Tránh tình trạng kêu gọi đầu tư nhưng không có đủ lao động có tay nghề để tham gia. Ba là, chủ động, phối hợp chặt chẽ với tỉnh trong công tác kêu gọi, thu hút đầu tư dự án tại các khu công nghiệp. Trong đó, tập trung đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, nâng cao đạo đức công vụ, năng lực chuyên môn cho lực lượng công chức, giảm thiểu thủ tục, thời gian trong việc cấp phép đầu tư cho các doanh nghiệp. 178
- UBND HUYỆN TIỂU CẦN, TỈNH TRÀ VINH KINH NGHIỆM XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở HUYỆN TIỂU CẦN, TỈNH TRÀ VINH Sau hơn 9 năm triển khai thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, với sự nỗ lực, cố gắng của cấp ủy, chính quyền các cấp, các lực lượng xã hội và sự hưởng ứng, chung tay, góp sức của nhân dân, Chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn Tỉnh đã đạt được những kết quả toàn diện, tích cực: Đến tháng 8/2019, toàn tỉnh đã có 42/85 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm tỷ lệ 49,41% số xã; 02 đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; ấp nông thôn mới đạt 319/682 ấp, chiếm tỷ lệ 46,8%; hộ NTM có 176.964/223.323 hộ đạt chuẩn hộ gia đình văn hóa NTM, chiếm tỷ lệ 79,2%, nhiều tiêu chí có tỷ lệ đạt cao (trên 70-80%), như: thủy lợi, điện, chợ nông thôn, thông tin và truyền thông, lao động có việc làm, giáo dục, y tế, văn hóa,… Có nhiều mô hình sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao; nhiều địa phương đã xây dựng xã NTM nâng cao, ấp NTM kiểu mẫu, đường hoa nông thôn, các mô hình bảo tồn, gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống… Đặc biệt, huyện Tiểu Cần, Thị xã Duyên Hải đã vươn lên dẫn đầu trong XD nông thôn mới. Theo tiến độ như hiện nay, dự kiến hết năm 2019, có 57/85 xã đạt chuẩn NTM, chiếm tỷ lệ 67% và 3 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới, sớm đạt chỉ tiêu Trung ương giao (51% số xã và 01 đơn vị cấp huyện) Đây thực sự là một thành quả to lớn, cho thấy xây dựng nông thôn mới là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân, đã thực sự trở thành một phong trào cách mạng mạnh mẽ, rộng khắp, được cả hệ thống chính trị và đông đảo nhân dân cả nước nhiệt tình hưởng ứng, tích cực tham gia. Đối với huyện Tiểu Cần, Toàn huyện có 09 xã, 02 thị trấn. Tổng diện tích đất tự nhiên là 22.723 ha, dân số 112.008 người. Huyện có địa hình đa dạng, khí hậu, thời tiết, đất đai... phù hợp với nhiều loại cây trồng, vật nuôi, phát triển. - Về dân tộc: Toàn huyện có gần 40.000 người dân tộc Khmer, chiếm trên 30% dân số chung của huyện (còn lại là chủ yếu là dân tộc kinh), là một trong những địa phương có đông đồng bào dân tộc Khmer của tỉnh. Đời sống văn hóa của đồng bào Khmer trên địa bàn huyện cũng đa dạng và phong phú, trong những năm qua, đồng bào Khmer trên địa bàn huyện đã cùng nhau chung sức xây dựng nông thôn mới, tập trung phát triển kinh tế, giảm nghèo cùng với sự đầu tư hỗ trợ của nhà nước góp phần làm cho đời sống kinh tế trong đồng bào dân tộc Khmer ngày một nâng lên. Cụ thể năm 2011 tổng số hộ nghèo trong đồng bào dân tộc Khmer là 2.646 hộ, chiếm tỷ lệ 36,96% nhưng đến năm 2018 tổng số hộ nghèo trong đồng bào dân tộc đã giảm xuống hiện còn 300 hộ, tỷ lệ 3,32% so với tổng số hộ trong đồng bào dân tộc Khmer, từ khi triển khai xây dựng nông thôn mới đến nay số hộ nghèo trong đồng bào Khmer giảm 2.346 hộ, tương đương tỷ lệ giảm 33,64%. Năm 2011, toàn huyện có tới 07 xã đặc biệt khó khăn thuộc Chương trình 135 của Chính phủ, Trong có 03/09 xã đạt từ 10 đến 12 tiêu chí, các xã còn lại đạt dưới 06 tiêu chí (theo Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 14/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM). 179
- Trong những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân toàn tỉnh nói chung và huyện Tiểu Cần nói riêng đã rất quan tâm đến công tác dân tộc của tỉnh, cụ thể tỉnh đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo điều hành và ban hành các chính sách gắn với Chương trình xây dựng nông thôn mới trong vùng dân tộc thiểu số như: Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh chỉ đạo triển khai thực hiện Chỉ thị số 28/CT-TTg ngày 10/9/2014 của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc; Quyết định 2196/QĐ-UBND ngày 18/10/2016 của UBND tỉnh về việc ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 402/QĐ-TTg ngày 14/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển đội ngũ, cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới và Kết luận số 01-KL/TU ngày 16/6/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 03 của Tỉnh ủy (Khóa IX) về phát triển toàn diện vùng dân tộc Khmer giai đọn 2011-2015; Quyết định số 2594/QĐ- UBND ngày 05/12/2016 của UBND tỉnh về việc ban hành kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 52/NQ-CP của Chính phủ về đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Trà Vinh; Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/01/2018 của BCHTW Đảng về tăng cường công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tình hình mới; Quyết định số 20/QĐ-UBND ngày 07/01/2019 của Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh về việc ban hành kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ về nhiệm vụ giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2019. Song song đó tỉnh cũng ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển vúng dân tộc thiểu số như Chương trình 135; Vốn viện trợ của Chính phủ Ailen, chính sách đối với người có uy tín và một số chính sách khác. Từ đó giúp đồng bào dân tộc có sự nỗ lực, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và đạt được nhiều thành tích đáng tự hào, đóng góp quan trọng vào thành tích chung của tỉnh và cả nước. Huyện Tiểu Cần đã huy động, lồng ghép và sử dụng các nguồn vốn xây dựng nông thôn mới hiệu quả; tổ chức cho cộng đồng dân cư cùng nhau tự quản, tự làm đường giao thông, kênh mương theo quy chuẩn; các đoàn thể chính trị - xã hội tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân phát huy truyền thống, tích cực tham gia “hiến đất mở đường, xây dựng đường đẹp, ngõ đẹp”. Trong sản xuất nông nghiệp, do thực hiện tốt việc ứng dụng khoa học kỹ thuật mới, công nghệ cao, nên các mô hình cho thu nhập từ 100 triệu đồng đến vài trăm triệu đồng/ha xuất hiện ngày càng nhiều, điển hình như: Mô hình cánh đồng lớn về sản xuất lúa; mô hình sản xuất lúa sử dụng phân bón thông minh; mô hình trồng thanh long ruột đỏ; mô hình trồng bưởi da xanh; mô hình nuôi cá lóc, cá tra thâm canh; mô hình nuôi bò thịt, bò sinh sản; mô hình nuôi gà thả vườn,..Chính nhờ tổ chức tốt sản xuất, nên giá trị bình quân/ha đất trồng trọt của huyện đã đạt trên 150 triệu đồng/ha/năm. Để đạt được thành quả nêu trên, tỉnh Trà Vinh rút ra có một số kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Tiểu Cần, như sau: - Một là, làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, người dân trong xây dựng nông thôn mới (tập trung nhiều hơn đối với ấp xã có đông đồng bào dân tộc) và phải tuyên truyền đến tận nhà của người dân, cán bộ, đảng viên xem đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, trên cơ sở đó, phát huy dân chủ và vai trò làm chủ của các cộng đồng dân cư trong xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt, tổ chức tuyên truyền cho người dân vùng dân tộc thiểu số bằng các tờ bướm và Pano bằng tiếng Khmer và các hình ảnh rất gần gũi với người dân tộc, giúp người dân dễ 180
- hiểu, dễ tiếp thu, từ đó nâng cao nhận thức về xây dựng đời sống gia đình văn hóa, nông thôn mới trong vùng dân tộc thiểu số. - Hai là, ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng dân tộc như: giao thông, điện, thủy lợi, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, chợ, thông tin truyền thông,…để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đồng bào dân tộc phát triển kinh tế và tiếp cận các thông tin về các chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước, các công tác về xây dựng nông thôn mới một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. - Ba là: Cần tranh thủ sự hỗ trợ, giúp sức của những người có uy tín trong vùng có đông đồng bào dân tộc Khmer cho chương trình xây dựng nông thôn mới. Nhất là các vị Sư cả, Trụ trì trong các chùa Khmer, những người trong thời gian qua đã chuyển tải các nội dung, phần việc liên quan đến chức sắc, bà con phật tử và nhân dân trong thực hiện các tiêu chí nông thôn mới rất thành công như: Vào các ngày sinh hoạt tôn giáo Ban chỉ đạo xã tranh thủ phối hợp với Sư cả Trụ trì chùa ngoài việc thuyết pháp, cầu an Sư còn dành thời gian để thông tin cho bà con phật tử về tình hình phát triển kinh tế - xã hội, về công tác xây dựng nông thôn mới của xã, huyện; các giải pháp, kế hoạch định hướng thực hiện trong thời gian tới để bà con phật tử nắm cùng tham gia thực hiện với chính quyền địa phương liên quan đến phần việc thực hiện của gia đình. Mặc khác xã còn phối hợp với Ban quản trị và chư tăng trong chùa thành lập và xây dựng mô hình vận động bà con phật tử chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, thành lập chi hội liên hiệp Thanh niên việt nam trong nhà chùa, mô hình trong nhà có mõ, ngoài ngõ có đèn…ngoài ra Ban quản trị và Sư cả cũng thường xuyên nhắc nhở bà con phật tử phải chấp hành nghiêm pháp luật, không tham gia vào các tệ nạn xã hội, giữ gin trật tự xóm ấp. Tích cực cải thiện cảnh quan môi trường, trồng cây xanh, hoa kiển quanh nhà, đóng góp kinh phí xây dựng tuyến đường sáng , xanh, sạch, đẹp. Thường xuyên nhắc nhỡ bà con phải biết giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, tham gia các lớp học chữ Khmer…. Từ những việc làm cụ thể đó đã đem lại hiệu quả tích cực và góp phần quan trọng trong xây dựng thành công xã nông thôn mới. - Bốn là: Yếu tố con người là khâu then chốt, quyết định hiệu quả của công việc nói chung, xây dựng nông thôn mới nói riêng, do đó phải coi trọng công tác xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ nòng cốt, nhất là đội ngũ cán bộ dân tộc, cán bộ nữ, phát huy vai trò gương mẫu, đi đầu của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên các đoàn thể, người có uy tín trong cộng đồng, các chức sắc, chức việc trong xây dựng nông thôn mới. - Năm là: Phát huy dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác quy hoạch, tạo sự đồng thuận và ủng hộ của Nhân dân, nhất là những người có uy tín trong đồng bào dân tộc đối với việc triển khai thực hiện, quản lý các quy hoạch và đề án nông thôn mới đã được thông qua và phê duyệt; niêm yết công khai tại các khu vực công cộng, thường xuyên thông tin, hướng dẫn Nhân dân thực hiện và giám sát các hoạt động xây dựng nông thôn mới... - Sáu là: hằng năm tại các kỳ hội nghị sơ, tổng kết chương trình xây dựng nông thôn mới, BCĐ Chương trình xây dựng nông thôn mới cấp tỉnh, cấp huyện điều biểu dương, khen thưởng, khích lệ đối với những việc làm thiết thực, tinh thần cống hiến, sức sáng tạo của các cá nhân và tập thể vùng đồng bào dân tộc thiểu số, để tạo động lực, phát huy tinh thần và lan tỏa sự chung sức, chung lòng trong xây dựng nông thôn mới của vùng dân tộc thiểu số./. 181
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
xây dựng mô hình kinhtế lượng về FDI tỉ lệ thất nghiệp GDP
12 p | 567 | 106
-
Mô hình Tòa án Hiến pháp ở Cộng hòa Áo
19 p | 149 | 24
-
Kinh nghiệm cải cách của Nhật Bản và việc xây dựng mô hình chính quyền địa phương ở Việt Nam
15 p | 123 | 21
-
Mô hình tổ chức chính quyền địa phương của một số quốc gia trên thế giới và gợi mở bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
14 p | 61 | 7
-
Vấn đề phát huy sự tham gia đóng góp của người dân cho chương trình xây dựng nông thôn mới – Bài học kinh nghiệm từ mô hình thí điểm Thụy Hương
0 p | 42 | 6
-
Ảnh hưởng của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế: Tổng quan và xây dựng mô hình nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam
9 p | 20 | 4
-
Xây dựng mô hình quản lý và khai thác chỉ dẫn địa lý tỏi Lý Sơn: Kinh nghiệm từ một số mô hình thành công
16 p | 10 | 4
-
Thực trạng xây dựng mô hình dự báo kinh tế vĩ mô sử dụng kỹ thuật giảm chiều dữ liệu và chỉ số dẫn báo và bài học kinh nghiệm
10 p | 51 | 4
-
Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù phát triển các địa phương tại Việt Nam và bài học kinh nghiệm cho thành phố Cần Thơ
13 p | 13 | 4
-
Luật về tư pháp đối với người chưa thành niên: Thực tiễn ở Việt Nam và kinh nghiệm của một số nước Đông Nam Á
10 p | 8 | 3
-
Nghiên cứu các nhân tố thành công cho dự án PPP và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
6 p | 25 | 3
-
Vai trò của tổng cầu trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam
10 p | 18 | 3
-
Xây dựng mô hình khung pháp luật Việt Nam về sử dụng khoảng không vũ trụ vì mục đích hòa bình
10 p | 70 | 3
-
Quan điểm về mô hình đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng pháp luật về đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt
6 p | 46 | 2
-
Ứng dụng mô hình Hedonic cho định giá nhà ở thương mại xây dựng mới – nghiên cứu tình huống nhà chung cư tại thành phố Hà Nội
17 p | 30 | 1
-
Mô hình pháp điển hóa của Hoa Kỳ và một số nội dung Việt Nam có thể tiếp thu
8 p | 38 | 1
-
Nghiên cứu triển khai mô hình làng thông minh ở Phú Yên
9 p | 3 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn