BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Hồng
KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM LONG AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Hồng
KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM LONG AN
Chuyên ngành Mã số
: Tâm lí học : 60 31 04 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ TỨ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Thông tin sử
dụng trong bản luận văn là hoàn toàn chính xác, phù hợp với tình hình thực tế tại
trường Cao đẳng Sư phạm Long An. Số liệu thống kê được tác giả thu thập một
cách khách quan, đáng tin cậy thông qua việc tiến hành khảo sát 373 sinh viên năm
thứ nhất khoá 38 tại trường Cao đẳng Sư phạm Long An.
Người cam đoan
Nguyễn Thị Hồng
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin gửi lời biết ơn chân thành đến Ban giám hiệu, phòng sau đại học
trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức, hỗ trợ và tạo điều kiện tốt
nhất cho học viên cao học khoá 23. Tác giả cũng xin được gửi lời cảm ơn chân
thành tới quý Thầy, Cô khoa Tâm lí – Giáo dục trường Đại học Sư phạm TP. Hồ
Chí Minh đã giảng dạy, giúp đỡ lớp cao học Tâm lí khoá 23 trong suốt thời gian
qua. Đặc biệt, tác giả xin được gửi lời biết ơn sâu sắc đối với Tiến sĩ Nguyễn Thị
Tứ - người hướng dẫn khoa học đã luôn động viên, khích lệ và hướng dẫn tôi trong
suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tác giả xin gửi lời biết ơn chân thành đến quý Thầy, Cô tại trường Cao đẳng
Sư phạm Long An đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ nhiệt tình cho chúng tôi
trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu.
Tác giả xin gửi lời biết ơn chân thành tới các bạn sinh viên tại trường Cao
đẳng Sư phạm Long An đã hỗ trơ, tạo điều kiện, nhiệt tình tham gia và hỗ trợ tích
cực cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu.
Nguyễn Thị Hồng
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh sách các bảng số liệu
Danh sách các sơ đồ và biểu đồ
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN .................... 6
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 6
1.1.1. Trên Thế giới .............................................................................................. 6
1.1.2. Tại Việt Nam ............................................................................................ 11
1.2. Các khái niệm cơ bản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. ........................... 14
1.2.1. Kỹ năng .................................................................................................... 14
1.2.2. Vấn đề ....................................................................................................... 21
1.2.3. Kỹ năng giải quyết vấn đề ........................................................................ 25
1.2.4. Hoạt động học tập của sinh viên .............................................................. 29
1.3. Lý luận về kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh
viên năm thứ nhất. ........................................................................................ 33
1.3.1. Một vài đặc điểm tâm lý của sinh viên. .................................................... 33
1.3.2. Hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất ........................................ 36
1.3.3. Những vấn đề thường gặp trong hoạt động học tập của sinh viên năm
thứ nhất .................................................................................................... 37
1.3.4. Kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh viên năm
thứ nhất .................................................................................................... 40
1.3.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập
của sinh viên năm thứ nhất ...................................................................... 44
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ......................................................................................... 47
Chương 2. THỰC TRẠNG KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TRONG
HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ
NHẤT TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM LONG AN ................ 48
2.1. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu ............................................................. 48
2.1.1. Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 48
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 48
2.1.3. Tiêu chí và thang đánh giá kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập
của sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An. .......... 51
2.1.4. Khách thể và địa bàn khảo sát .................................................................. 54
2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động
học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An. .. 55
2.2.1. Những vấn đề của sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm
Long An trong hoạt động học tập. ........................................................... 55
2.2.2. Thực trạng kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An. ................. 66
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng kỹ năng giải quyết vấn đề trong
hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư
phạm Long An. ............................................................................................ 87
2.3.1. Các yếu tố từ phía bản thân sinh viên ...................................................... 88
2.3.2. Các yếu tố từ phía giáo viên, cán bộ các phòng ban ................................ 90
2.3.3. Các yếu tố từ phía nhà trường .................................................................. 92
2.4. Một số biện pháp nhằm cải thiện kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt
động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm
Long An. ...................................................................................................... 94
2.4.1. Cơ sở đề xuất biện pháp ........................................................................... 94
2.4.2. Các biện pháp nhằm cải thiện kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học
tập của sinh viên năm thứ nhất ................................................................ 95
2.4.3. Đánh giá tính cần thiết và khả thi của một số biện pháp cụ thể ............... 99
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ....................................................................................... 106
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .............................................................................. 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 111
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CĐSP : Cao đẳng Sư phạm
GQVĐ : Giải quyết vấn đề
HĐHT : Hoạt động học tập
ĐTB : Điểm trung bình
ĐLC : Độ lệch chuẩn
DANH SÁCH CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 2.1. Thống kê đặc điểm mẫu khách thể nghiên cứu ..................................... 55
Bảng 2.2. ĐTB và thứ hạng tổng quát các nhóm vấn đề của sinh viên năm thứ
nhất ........................................................................................................ 56
Bảng 2.3. Một số vấn đề cụ thể liên quan tới nội dung học tập ............................. 58
Bảng 2.4. Một số vấn đề cụ thể liên quan tới phương pháp học tập ...................... 59
Bảng 2.5. Một số vấn đề cụ thể liên quan tới phương pháp giảng dạy của giáo
viên ........................................................................................................ 61
Bảng 2.6. Một số vấn đề cụ thể liên quan tới giao tiếp.......................................... 63
Bảng 2.7. Một số vấn đề cụ thể liên quan tới các điều kiện học tập khác ............. 65
Bảng 2.8. Đánh giá về vai trò của kỹ năng GQVĐ trong HĐHT .......................... 66
Bảng 2.9. So sánh kết quả đánh giá sự cần thiết của kỹ năng GQVĐ trong
HĐHT .................................................................................................... 67
Bảng 2.10. Mức độ quan tâm rèn luyện kỹ năng GQVĐ trong HĐHT ................... 68
Bảng 2.11. Nhận thức của sinh viên về khái niệm kỹ năng GQVĐ trong HĐHT .. 69
Bảng 2.12. So sánh nhận thức của sinh viên về khái niệm kỹ năng GQVĐ ........... 70
Bảng 2.13. Nhận thức của sinh viên về các bước của quá trình GQVĐ ................. 71
Bảng 2.14. So sánh nhận thức của sinh viên về các bước của quá trình GQVĐ ..... 72
Bảng 2.15. Nhận thức của sinh viên về các thao tác trong quá trình GQVĐ .......... 73
Bảng 2.16. So sánh nhận thức về các thao tác trong quá trình giải quyết vấn đề .... 75
Bảng 2.17. Mức độ nhận thức của sinh viên về kỹ năng giải quyết vấn đề ............ 75
Bảng 2.18. So sánh mức độ nhận thức của sinh viên về kỹ năng giải quyết vấn
đề ........................................................................................................... 76
Bảng 2.19. Tự đánh giá của sinh viên về khả năng thực hiện các thao tác của
quá trình GQVĐ .................................................................................... 77
Bảng 2.20. Mức độ giải quyết vấn đề của sinh viên trong các tình huống giả
định ........................................................................................................ 79
Bảng 2.21. Mức độ giải quyết vấn đề của sinh viên trong tình huống 9.1 .............. 79
Bảng 2.22. Mức độ giải quyết vấn đề của sinh viên trong tình huống 9.2 .............. 80
Bảng 2.23. Mức độ giải quyết vấn đề của sinh viên trong tình huống 9.3 .............. 81
Bảng 2.24. Mức độ giải quyết vấn đề của sinh viên trong tình huống 9.4 .............. 82
Bảng 2.25. Mức độ giải quyết vấn đề của sinh viên trong tình huống 9.5 .............. 83
Bảng 2.26. Mức độ kỹ năng GQVĐ trong HĐHT của sinh viên năm thứ nhất ...... 84
Bảng 2.27. So sánh mức độ GQVĐ của sinh viên trên phương diện giới tính (tỷ
lệ%) ........................................................................................................ 85
Bảng 2.28. So sánh mức độ kỹ năng GQVĐ của sinh viên trên phương diện
ngành học ............................................................................................... 86
Bảng 2.29. Các nhóm yếu tố có ảnh hưởng đến kỹ năng GQVĐ ............................ 88
Bảng 2.30. Các yếu tố xuất phát từ phía bản thân sinh viên .................................... 88
Bảng 2.31. Các yếu tố xuất phát từ phía giáo viên, cán bộ phòng ban .................... 90
Bảng 2.32. Các yếu tố xuất phát từ phía nhà trường ............................................... 92
Bảng 2.33. Đánh giá mức độ cần thiết và khả thi của các biện pháp từ phía bản
thân sinh viên (ĐTB) ............................................................................. 99
Bảng 2.34. Đánh giá mức độ cần thiết và khả thi của các biện pháp từ phía giáo
viên, cán bộ các phòng ban (ĐTB) ...................................................... 101
Bảng 2.35. Đánh giá mức độ cần thiết và khả thi của các biện pháp từ phía nhà
trường (ĐTB) ....................................................................................... 103
Bảng 2.36. Lựa chọn thời điểm phù hợp nhất để hướng dẫn kỹ năng GQVĐ ...... 105
DANH SÁCH CÁC SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Quan niệm khung về khái niệm “ Độ khó của vấn đề”. .................... 24
Biểu đồ 2.1. Mức độ gặp phải các nhóm vấn đề trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất ...................................................................... 57
Biểu đồ 2.2. Mức độ kỹ năng GQVĐ trong HĐHT của sinh viên năm thứ nhất .. 85
Biểu đồ 2.3. Các yếu tố xuất phát từ phía bản thân sinh viên ............................... 90
Biểu đồ 2.4. Các yếu tố từ phía giáo viên, cán bộ phòng ban ............................... 92
Biểu đồ 2.5. Các yếu tố từ phía nhà trường ........................................................... 94
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo được xem là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn
Đảng, toàn dân. Trong xu thế phát triển hiện nay, việc đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục là điều kiện cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Chỉ thị
số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo cũng chỉ rõ: “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục
từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất
người học”, “Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực,
phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức
vào thực tiễn”. Điều này cho thấy một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo
dục không chỉ nhằm trang bị cho người học những tri thức chuyên môn mà còn phải
hình thành những kỹ năng phù hợp, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Học tập là hoạt động của con người nhằm chiếm lĩnh tri thức, kinh nghiệm
xã hội – lịch sử của loài người đã được tích lũy qua nhiều thế hệ để hình thành giá
trị cho riêng mình. Khác với những hoạt động học tập ở trường phổ thông, hoạt
động học tập của sinh viên ở Đại học – Cao đẳng đòi hỏi sinh viên phải có những
phương pháp học tập, những kỹ năng cần thiết để chủ động, tích cực, sáng tạo tìm
kiếm và lĩnh hội tri thức. Nhưng trong quá trình học tập sinh viên còn gặp không ít
những vấn đề, những khó khăn làm ảnh hưởng tới kết quả học tập. Đặc biệt là sinh
viên năm thứ nhất là những người đang chuyển từ môi trường học tập ở phổ thông
sang môi trường học tập ở Đại học – Cao đẳng với những thay đổi về nội dung,
phương pháp học tập, mối quan hệ giao tiếp với bạn bè, Thầy Cô…. Những sự khác
biệt này đòi hỏi sinh viên năm thứ nhất phải có sự nỗ lực cao để giải quyết các vấn
đề gặp phải trong quá trình học tập.
Trường Cao đẳng Sư phạm Long An với hơn 36 năm xây dựng và phát triển,
trường là nơi đào tạo giáo viên cho tỉnh, góp phần giải quyết khó khăn về nhân lực
2
của ngành. Nhiệm vụ chính của trường là đào tạo ra đội ngũ giáo viên vừa hồng vừa
chuyên [34]. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó nhà trường rất chú trọng tới hoạt động
giảng dạy, giáo dục cũng như hoạt động học tập của sinh viên. Nhưng trong quá
trình học tập sinh viên cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, lúng túng khi gặp các tình
huống có vấn đề. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng tới kết
quả học tập. Vì vậy, việc hình thành cho sinh viên kỹ năng để giải quyết linh hoạt
các vấn đề là điều cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo của nhà
trường.
Mặc dù có nhiều đề tài nghiên cứu về hoạt động học tập của sinh viên nhưng
chưa có nhiều nghiên cứu về kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất. Mặt khác, với chương trình đào tạo hiện nay thì hoạt động
học tập của sinh viên có những yêu cầu mới, đòi hỏi sinh viên phải có kỹ năng giải
quyết tốt các vấn đề khác nhau để khẳng định năng lực của bản thân.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài: “ Kỹ năng
giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất Trường
Cao đẳng Sư phạm Long An ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định thực trạng kỹ năng giải quyết vấn đề của sinh viên năm thứ nhất
trong hoạt động học tập, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nhằm cải thiện kỹ
năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường
Cao đẳng Sư phạm (CĐSP) Long An.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Hệ thống hoá các vấn đề liên quan đến đề tài như: Kỹ năng giải quyết
vấn đề, hoạt động học tập của sinh viên, kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động
học tập của sinh viên năm thứ nhất.
3.2. Xác định thực trạng kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập
của sinh viên năm thứ nhất trường CĐSP Long An, tìm hiểu nguyên nhân của thực
trạng. Đề xuất một số biện pháp tác động nhằm cải thiện kỹ năng giải quyết vấn đề
trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường CĐSP Long An.
3
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh viên.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An
5. Giả thuyết khoa học
Mức độ biểu hiện kỹ năng giải quyết vấn đề của sinh viên năm thứ nhất tại
trường Cao đẳng Sư phạm Long An ở mức độ trung bình.
Có sự khác biệt về mức độ biểu hiện kỹ năng giải quyết vấn đề theo phương
diện ngành học.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới kỹ năng giải quyết vấn đề của sinh viên năm
thứ nhất nhưng trong đó chủ yếu là những yếu tố xuất phát từ phía chính bản thân
sinh viên.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu mức độ biểu hiện kỹ năng giải quyết vấn đề
trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường CĐSP Long An trên
bình diện nhận thức, thái độ, hành vi và chỉ xem xét kỹ năng này trong hoạt động
học tập.
6.2. Phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu:
+ 400 sinh viên năm thứ nhất hệ Cao đẳng Sư phạm chính quy chuyên ngành
Toán, Ngữ Văn, Tiếng Anh, Giáo Dục Thể Chất, Giáo Dục Tiểu Học, Giáo Dục
Mầm Non, Mỹ Thuật, Tin Học và Âm Nhạc của Trường CĐSP Long An.
+ 30 giáo viên đang giảng dạy sinh viên năm thứ nhất tại Trường CĐSP Long
An.
Địa bàn nghiên cứu: Trường CĐSP Long An.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 11/2013 đến tháng 9/2014.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
4
7.1.1. Mục đích
Xác lập cơ sở phương pháp luận cho quy trình và phương pháp nghiên cứu
của đề tài.
7.1.2. Nội dung
+ Khái quát, hệ thống hoá những vấn đề lý luận về kỹ năng giải quyết vấn đề
trong hoạt động học tập của sinh viên, làm sáng tỏ các khái niệm công cụ, xây dựng
khung lý thuyết cho vấn đề nghiên cứu.
+ Phân tích, tổng hợp các công trình nghiên cứu, từ đó chỉ ra các vấn đề cần
tiếp tục nghiên cứu.
+ Xác lập cơ sở lý luận cho việc lựa chọn, thiết lập công cụ nghiên cứu và
phương pháp nghiên cứu của đề tài.
7.1.3. Cách thực hiện
Phương pháp này được thực hiện thông qua các quá trình như phân tích, tổng
hợp, phân loại và hệ thống hoá các tài liệu nhằm sắp xếp những tri thức về kỹ năng
giải quyết vấn đề, kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh
viên… để xác định cơ sở lý luận cần thiết cho đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Đây là phương pháp nghiên cứu chính của đề tài.
- Mục đích:
+ Thu thập một số thông tin về bản thân khách thể nghiên cứu.
+ Điều tra nhận thức, mức độ thực hiện các thao tác, mức độ giải quyết vấn đề
của sinh viên năm thứ nhất trong hoạt động học tập.
+ Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt
động học tập của sinh viên năm thứ nhất.
- Cách tiến hành
+ Quá trình điều tra được tổ chức chặt chẽ, có trình tự, đảm bảo sự chuẩn bị
chu đáo về phương tiện, điều kiện không gian và thời gian.
+ Chúng tôi xây dựng hai bảng hỏi khác nhau dành cho sinh viên năm thứ nhất
và các giảng viên để tìm hiểu về kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập
5
của sinh viên năm thứ nhất.
+ Trước khi lấy ý kiến, chúng tôi thông báo đầy đủ, rõ ràng mục đích, yêu cầu
của việc điều tra, hướng dẫn cụ thể chi tiết để có thể thu được số liệu khách quan
nhất.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
- Mục đích:
+ Nhằm thu thập thêm thông tin, giải thích và đánh giá về sự hiểu biết cũng
như thái độ của sinh viên năm thứ nhất với kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt
động học tập, nhận xét của giáo viên về kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động
học tập của sinh viên năm thứ nhất.
- Cách tiến hành:
+ Trò chuyện, trao đổi trực tiếp với sinh viên, giáo viên được chọn làm khách
thể nghiên cứu, nhằm làm rõ thêm những thông tin thu được từ các phương pháp
khác.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Chúng tôi sử dụng phần mềm SPSS 21 for window để xử lý số liệu khảo sát
được nhằm định lượng cho nghiên cứu.
6
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT
VẤN ĐỀ TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên Thế giới
Trên Thế giới, các nhà nghiên cứu ở các lĩnh vực khác nhau đã có nhiều
công trình nghiên cứu về kỹ năng GQVĐ trên bình diện lý luận và thực tiễn. Mỗi
nhà nghiên cứu tiếp cận kỹ năng GQVĐ dưới một góc độ khác nhau nhưng đa phần
các tác giả đều thống nhất kỹ năng GQVĐ được thể hiện thông qua việc chủ thể giải
quyết những vấn đề nảy sinh trong các tình huống khác nhau của đời sống (được
gọi là tình huống có vấn đề). Và quá trình GQVĐ là một quá trình đòi hỏi chủ thể
phải tích cực tư duy để tìm giải pháp và thực hiện giải pháp. Từ đó, các tác giả tập
trung nghiên cứu về tình huống có vấn đề, các bước, các thao tác của quá trình
GQVĐ và đặc biệt là cấu trúc của kỹ năng GQVĐ, đồng thời ứng dụng kỹ năng
GQVĐ trong đời sống con người trên các khía cạnh khác nhau.
Tại Liên Xô, các tác giả tiêu biểu như X.L.Rubinstein, A.M.Machiuskin,
V.Okon, I.Ia.Lecne, V.A.Cruchetxki, A.V.Petrovski… đã có những nghiên cứu lý
luận về tình huống có vấn đề làm cơ sở để xây dựng những lý luận về kỹ năng giải
quyết vấn đề.
Năm 1958, một đại diện tiêu biểu của tâm lý học Macxit là X.L.Rubinstein,
trong nghiên cứu của mình ông đã cho rằng tác dụng của tình huống có vấn đề là
“lôi cuốn cá nhân vào quá trình tư duy” [3] bởi vì “quá trình tư duy bắt đầu từ việc
phân tích tình huống có vấn đề” [3]. Quan điểm này rất gần với A.V.Petrovski
(1982) vì theo Petrovski: “Tình huống có vấn đề là tình huống đặc trưng bởi một
trạng thái tâm lý xác định của con người, nó kích thích tư duy trước khi con người
nảy sinh những mục đích và những điều kiện hoạt động mới trong đó những phương
tiện và phương thức hoạt động trước đây mặc dù là cần nhưng chưa đủ để đạt được
mục tiêu mới này” [21].
Trong khi đó, A.M.Machiuskin (1972) đã coi tình huống có vấn đề là một
7
dạng đặc biệt của sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể được đặc trưng bởi
một trạng thái tâm lý khiến chủ thể phải tìm kiếm những tri thức, phương thức hành
động nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức của mình [21]. V.Okon (1976) cũng cho
rằng đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề là trạng thái lúng túng về lý thuyết
và thực hành trong quá trình nhận thức, sự mâu thuẫn của kinh nghiệm đã có của
chủ thể với những tri thức mới. Nhờ đó người học phải huy động năng lực của mình
để giải quyết mâu thuẫn [38].
Đặc biệt, I.Ia.Lecne đã phân tích sâu hơn về tình huống có vấn đề và ông đã
trình bày thêm về “trạng thái tâm lý” hay “trạng thái lúng túng” mà
A.M.Machiuskin và V.Okon đã nói đến chính là “thái độ của chủ thể với trở ngại
nảy ra trong lĩnh vực hoạt động thực hành hay trí óc. Nhưng đó là thái độ mà trong
đó chủ thể chưa biết cách khắc phục trở ngại và phải tìm tòi khắc phục. Nếu không
ý thức được khó khăn thì không nảy ra nhu cầu tìm tòi và không có nhu cầu tìm tòi
thì không có tư duy sáng tạo” [38]. Có thể nói theo quan niệm của I.Ia.Lecne cũng
như các tác giả trên thì chỉ khi nào chủ thể nhận thức được vấn đề thì tình huống có
vấn đề mới là tác nhân để khởi nguồn cho sự tìm tòi, tư duy và sáng tạo để đáp ứng
nhu cầu nhận thức của mình. Bên cạnh đó, V.A.Cruchetxki (1981) cũng nghiên cứu
về tình huống có vấn đề và kết luận tình huống có vấn đề xuất hiện khi có “mâu
thuẫn giữa kinh nghiệm đã có của học sinh (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo) và những vấn
đề nảy sinh trước các em khi giải quyết những nhiệm vụ nhận thức trong học tập.
Mâu thuẫn này tạo nên hoạt động tư duy tích cực”[17].
Như vậy, theo quan điểm của các nhà Tâm lý học Xô Viết thì đặc trưng cơ
bản của tình huống có vấn đề là sự mâu thuẫn giữa kinh nghiệm đã có của chủ thể
với tri thức mới. Từ đó, chủ thể nảy sinh nhu cầu giải quyết tình huống có vấn đề,
kích thích tư duy và đi đến GQVĐ.
Từ những nghiên cứu lý luận đã nêu trên các tác giả đã ứng dụng rất thành
công kỹ năng GQVĐ vào dạy học với một phương pháp dạy học gọi là dạy học
GQVĐ hay còn gọi là dạy học nêu vấn đề và được các nhà sư phạm ứng dụng trong
giảng dạy như là một phương pháp tích cực. Tuy nhiên vì chú trọng đến việc nghiên
cứu cách thức tổ chức lớp học, sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề mà các tác
8
giả chưa quan tâm nghiên cứu các bước hình thành kỹ năng GQVĐ trong quá trình
dạy học.
Trong khi các nhà Tâm lý học Liên Xô tập trung nghiên cứu kỹ năng GQVĐ
ở khía cạnh kỹ năng giải quyết trong các tình huống có vấn đề thì tại Mỹ các nhà
nghiên cứu quan tâm đến việc tìm hiểu cấu trúc, các bước của kỹ năng GQVĐ. Cụ
thể, năm 1982 hai tác giả Jefferey R.Bedoll và Shelley S.Lennox đã xác định kỹ
năng GQVĐ là một kỹ năng quan trọng. Hai tác giả đã xếp kỹ năng GQVĐ là kỹ
năng xã hội (social skill) thứ 7 trong 10 kỹ năng xã hội không thể thiếu trong cuộc
sống. Từ đó, Bedoll và Lennox đã nghiên cứu và đưa ra 7 bước để GQVĐ (Nhận
thức về vấn đề, định nghĩa vấn đề, liên hệ những phương án, đánh giá những giải
pháp, ra quyết định, thực hiện giải pháp, kiểm tra hiệu quả của phương án) [43].
Trong khi đó, R.J.Sternberg (1986), J.R.Hayes (1989), A.J.Naples (2005) cho rằng
mỗi người cần tiến hành GQVĐ theo quy trình các bước: Nhận biết vấn đề, định
nghĩa và biểu đạt vấn đề trong óc, đề ra các chiến lược giải quyết, sắp xếp các kiến
thức của mình về vấn đề, huy động các nguồn lực trí tuệ và thể chất để GQVĐ,
giám sát các kết quả đạt được hướng tới mục tiêu và đánh giá tính đúng đắn của
phương án giải quyết [40].
Nhà nghiên cứu J.D.Bransford chỉ ra thêm các bước GQVĐ là quá trình trí
tuệ diễn ra trong đầu (mental process), một người GQVĐ thành công là một người
biết tiến hành linh hoạt từng giai đoạn trong tình huống cụ thể [43].
Đồng ý với quan điểm của J.D.Bransford, Sharon L.Foster và Marcelle Crain
(2002) (Đại học quốc tế Alliant – San Diego) khẳng định kỹ năng GQVĐ bao gồm:
Nhận dạng tình huống có vấn đề, phát hiện tình huống có vấn đề, xác định bản chất
của vấn đề, tập trung các ý tưởng để GQVĐ, đánh giá các ý tưởng và chọn ra ý
tưởng tối ưu, lập kế hoạch và thực hiện ý tưởng đó bằng hành vi cụ thể [43].
Như vậy, các nhà nghiên cứu ở Mỹ trong phần trình bày trên đã cho chúng ta
biết kỹ năng GQVĐ gồm có các bước: Nhận dạng vấn đề, phân tích thông tin, ra
quyết định, biểu đạt vấn đề… Nhưng không dừng ở đó, nhiều nhà nghiên cứu đi sâu
tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng GQVĐ, đặc biệt là các yếu tố tâm lý.
Cụ thể, Dorit Wenke đã nghiên cứu về ảnh hưởng của khả năng trí tuệ đến việc giải
9
quyết những vấn đề phức tạp của mỗi người. Theo ông, khả năng trí tuệ của mỗi
người là những khả năng, những quá trình và những cơ chế nhận thức làm cho
người này khác với người kia, ảnh hưởng đến quá trình GQVĐ của mỗi người [40].
Hai tác giả Shozo Hibino và Gerad Nadler (2009) khẳng định nếu biết vận dụng tư
duy sáng tạo vào GQVĐ thì các vấn đề không chỉ được giải quyết mà còn được giải
quyết một cách tốt nhất. Từ đó, hai ông đã đưa ra 7 nguyên tắc vàng để giải quyết
vấn đề một cách sáng tạo và tối ưu [25].
Đặc biệt Shannon White (2005) khi nghiên cứu về những yếu tố ảnh hưởng
đến kỹ năng GQVĐ đã cho thấy khả năng biểu đạt vấn đề là một yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến kỹ năng GQVĐ [46]. Do vậy, muốn giải quyết tốt vấn đề, mỗi người
phải biểu đạt vấn đề thật rõ ràng và đầy đủ.
Như vậy, thông qua những nghiên cứu lý luận của mình các tác giả đã góp
phần làm rõ thêm những lý luận về kỹ năng GQVĐ, các bước, các thao tác của kỹ
năng GQVĐ và những yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng GQVĐ như khả năng tư duy
sáng tạo, khả năng biểu đạt vấn đề, trí nhớ…
Bên cạnh những nghiên cứu về lý luận thì các nghiên cứu thực tiễn về kỹ
năng GQVĐ ở Mỹ cũng rất đa dạng. Tiến sĩ Leslie E.Borck và Tiến sĩ Stephen
B.Fawcett (1982) nghiên cứu kỹ năng GQVĐ ứng dụng trong công tác tham vấn và
trị liệu tâm lý, từ đó xây dựng một chương trình đào tạo về kỹ năng tham vấn và kỹ
năng GQVĐ dành cho những người làm công tác tham vấn với một hệ thống bài tập
được thể hiện trong từng tình huống cụ thể [45].
Trong khi đa phần các nhà nghiên cứu quan tâm nghiên cứu về kỹ năng
GQVĐ trên các đối tượng người trưởng thành thì Sharon L.Foster và Marcelle
Crain (2002) (Đại học quốc tế Alliant – Sant Diego) tập trung nghiên cứu việc hình
thành và rèn luyện kỹ năng GQVĐ cho trẻ em và kết luận trẻ em được học tập, bồi
dưỡng về kỹ năng GQVĐ càng sớm sẽ càng tự tin, dễ hoà nhập với bạn bè và môi
trường mới [43]. Kết quả này của Foster và Crain đã có tác động mạnh mẽ đến các
nhà giáo dục và các bậc phụ huynh cần quan tâm rèn luyện kỹ năng GQVĐ cho trẻ
ngay từ lúc nhỏ. Một giá trị lớn nữa trong nghiên cứu của mình là hai tác giả đã xây
dựng một chương trình giáo dục kỹ năng GQVĐ một cách chi tiết. Tuy nhiên,
10
nghiên cứu của hai tác giả chỉ dừng lại ở trẻ độ tuổi từ 5-10 tuổi.
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực quản lý, Howard Senter đã đưa ra những công
cụ và những thủ pháp thiết yếu thông qua những tình huống từ thực tiễn công tác
quản lý để GQVĐ theo trình tự 6 bước [42]. Ngày nay, kết quả nghiên cứu của
Howard Senter được các nhà quản lý, các doanh nghiệp ứng dụng để nâng cao kỹ
năng GQVĐ cho các nhân viên của mình.
Như vậy, có thể thấy trên thế giới kỹ năng GQVĐ đã được nghiên cứu từ rất
lâu trên nhiều khách thể khác nhau và mang những giá trị ứng dụng cao. Những
nghiên cứu về kỹ năng giải quyết vấn đề của sinh viên cũng được quan tâm thực
hiện.
Tại Mỹ năm 1957, Polya đã có những nghiên cứu về kỹ năng GQVĐ của
sinh viên. Từ đó, mô hình Polya (Polya Model) về các bước cũng như cấp độ của kỹ
năng GQVĐ được giới thiệu đến mọi người. Theo Polya trong kỹ năng GQVĐ có 4
cấp độ tương ứng với các bước như: Hiểu vấn đề, xây dựng kế hoạch, thực hiện kế
hoạch, kiểm tra, nhìn lại toàn bộ vấn đề [26].
Hilarie Bryce Davis, Ed.D (1969), đã nghiên cứu đề tài “Kỹ năng giải quyết
vấn đề trong học tập của sinh viên khối ngành công nghệ tại Mỹ”. Nghiên cứu của
Hilarie cho thấy, vấn đề của đa số sinh viên ngành công nghệ gặp phải là không
hoàn thành những đồ án thực tiễn trong mỗi môn học chuyên ngành. Nguyên nhân
của vấn đề này chính là: Thứ nhất, sinh viên không biết tự đặt ra những câu hỏi phù
hợp để từ đó có thể giúp họ biết được vấn đề mình đang gặp phải là gì và bắt đầu
tiến trình giải quyết nó. Thứ hai, sinh viên gặp khó khăn trong kết nối ý tưởng với
những thành viên khác để cùng GQVĐ [45].
Woolfok (1995) nghiên cứu chuyên sâu về những phương pháp dạy học tích
cực trong đó có dạy học nêu vấn đề. Trong nghiên cứu của mình, Woolfok đã kết
luận, trong kỹ năng GQVĐ sinh viên gặp nhiều khó khăn với việc xác định mục tiêu
và thực hiện phương án [47].
Tóm lại, mỗi nhà nghiên cứu tiếp cận kỹ năng GQVĐ đề dưới một góc độ
khác nhau nhưng có thể nhận thấy các tác giả đều thống nhất kỹ năng giải quyết vấn
đề được thể hiện thông qua việc chủ thể giải quyết những vấn đề nảy sinh trong các
11
tình huống khác nhau của đời sống (được gọi là tình huống có vấn đề). Quá trình
giải quyết vấn đề là một quá trình đòi hỏi chủ thể phải tích cực tư duy để tìm giải
pháp và thực hiện giải pháp. Từ đó, các tác giả tập trung nghiên cứu về tình huống
có vấn đề, cấu trúc của kỹ năng giải quyết vấn đề, các bước, các thao tác của kỹ
năng GQVĐ, ứng dụng kỹ năng GQVĐ trên các khía cạnh khác nhau của đời sống.
1.1.2. Tại Việt Nam
Cũng như các nhà khoa học trên thế giới, tại Việt Nam, khi nghiên cứu lý
luận về kỹ năng GQVĐ, các tác giả cũng quan tâm nghiên cứu về tình huống có vấn
đề như Triệu Xuân Quýnh (1993), Nguyễn Quang Uẩn (1995), Bùi Văn Huệ
(1996), Phạm Minh Hạc (1998), Trần Trọng Thuỷ (1998),… đều có cùng quan điểm
khi cho rằng: Tư duy được kích thích bởi tình huống (hoàn cảnh) có vấn đề. Tình
huống có vấn đề được cá nhân nhận thức đầy đủ, được chuyển thành nhiệm vụ của
cá nhân, cá nhân xác định được cái gì đã biết và cái gì còn chưa biết phải tìm, đồng
thời cũng phải có nhu cầu (động cơ) tìm kiếm nó [11].
Nguyễn Xuân Thức (2007) cũng đã nêu: Tình huống có vấn đề là bài toán
đặt ra mâu thuẫn với vốn hiểu biết cũ của chúng ta. Khi chúng ta có nhu cầu giải
quyết chúng thì quá trình tư duy bắt đầu [31,tr.121]. Các tác giả khác như Nguyễn
Đình Chỉnh (1995), Nguyễn Ngọc Bảo (1995) cũng có quan điểm như trên về tính
khách quan và chủ quan trong tình huống có vấn đề khi nghiên cứu về kiểu dạy học
nêu vấn đề.
Bên cạnh những nghiên cứu về động cơ thúc đẩy quá trình giải quyết tình
huống có vấn đề như trên, Nguyễn Ngọc Quang (1994) đã phân chia thành các loại
tình huống khác nhau cũng là tình huống chứa đựng vấn đề trong cuộc sống như
tình huống nghịch lý, tình huống bế tắc, tình huống lựa chọn, tình huống “tại sao”
hay “nhân – quả”.
Trên cơ sở những nghiên cứu lý thuyết, các tác giả cũng đã có những nghiên
cứu thực tiễn trên nhiều lĩnh vực của đời sống. Và cũng như các nhà nghiên cứu của
Liên Xô, những nhà nghiên cứu trong nước đã ứng dụng kỹ năng GQVĐ vào dạy
học với phương pháp dạy học GQVĐ hay còn gọi là dạy học nêu vấn đề với việc
12
xây dựng những tình huống có vấn đề trong quá trình giảng dạy trên lớp. Có thể kể
đến các tác giả Lê Trung Thành (2004) nghiên cứu việc “Vận dụng dạy học nêu vấn
đề vào dạy học tác phẩm văn chương ở bậc trung học” trong luận án Tiến sĩ Giáo
dục học của mình [32]. Tác giả Nguyễn Anh Tuấn, quan tâm nghiên cứu việc rèn
luyện năng lực GQVĐ cho học sinh trong từng giờ lên lớp với đề tài: “Bồi dưỡng
năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề cho học sinh Trung học cơ sở trong dạy học
khái niệm toán học” (2003) [33]. Tác giả Cao Đình Trung Hậu nghiên cứu đề tài
Thạc sĩ “Hình thành năng lực giải quyết vấn đề qua dạy học phần cơ học lớp 10”
(2003) [13]. Thông qua những nghiên cứu này, các tác giả đều cho thấy giáo viên
hoàn toàn có thể nâng cao năng lực GQVĐ cho học sinh thông qua việc giảng dạy
các môn học trong giờ học tại lớp. Tuy nhiên, các đề tài chưa đo lường được chính
xác mức độ kỹ năng GQVĐ cho học sinh mà chỉ dừng lại ở việc xây dựng giáo án
với các tình huống có vấn đề để kích thích học sinh tìm cách giải quyết.
Ngoài ra, nhiều nghiên cứu khác về kỹ năng GQVĐ cũng được tiến hành
trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, giao tiếp, quản lý. Cụ thể, nghiên cứu ứng dụng
kỹ năng GQVĐ trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, Phan Dũng (1997) cho rằng khi
GQVĐ, người tìm lời giải cho bài toán phải tiến hành hành động tư duy theo một
quy trình mà ông gọi là “chương trình rút gọn quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề
và ra quyết định”. Quá trình này sẽ bao gồm 6 bước: Hiểu bài toán, đề ra mục đích
cần đạt, trả lời các câu hỏi, phát biểu mâu thuẫn, phác thảo các ý tưởng và ra quyết
định chọn phương án tối ưu [6,tr.33-37].
Việc sử dụng kỹ năng GQVĐ trong công tác huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ quản lý được nhiều nhà nghiên cứu tại Việt Nam quan tâm như: Nguyễn Văn
Khánh (1986), Trần Văn Hà (1995), Vũ Văn Tảo (1996), Phạm Viết Nhụ (1997).
Đặc biệt, tác giả Nguyễn Thị Thuý Dung đã nghiên cứu luận án tiến sĩ với đề tài
“Kỹ năng giải quyết tình huống quản lý của các học viên các lớp bồi dưỡng hiệu
trưởng tiểu học”. Kết quả nghiên cứu cho thấy học viên lớp bồi dưỡng hiệu trưởng
tiểu học có nhận thức về tình huống quản lý ở mức độ tương đối cao nhưng kỹ năng
giải quyết tình huống quản lý ở mức độ tương đối thấp. Và sau khi được rèn luyện
về kỹ năng giải quyết tình huống quản lý thì các học viên lớp bồi dưỡng hiệu trưởng
13
tiểu học có kỹ năng giải quyết tình huống quản lý ở mức độ tương đối cao [8]. Song
trong nghiên cứu này, tác giả chưa nghiên cứu về những hành động cụ thể của các
học viên khi giải quyết các tình huống. Đồng thời, các tình huống trong giai đoạn
thực nghiệm khá gần với những tình huống được tập huấn nên không thấy rõ khả
năng di chuyển sang những tình huống mới của học viên mà điều này là một trong
những biểu hiện để đánh giá mức độ kỹ năng giải quyết tình huống.
Hiện nay, các tác giả cũng đã nghiên cứu về kỹ năng GQVĐ của sinh viên ở
bậc Đại học – Cao đẳng nhưng chủ yếu chỉ tập trung nghiên cứu kỹ năng GQVĐ
trong từng tình huống sư phạm trong thực tế giảng dạy cũng như những tình huống
sinh viên gặp phải trong quá trình thực tập như các tác giả: Ngô Công Hoàn, Bùi
Văn Huệ, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Ngọc Bảo, Nguyễn Đình Chỉnh, Huỳnh Văn Sơn,
Phan Trịnh Hoàng Dạ Thy.
Tác giả Huỳnh Văn Sơn trong đề tài nghiên cứu “Thực trạng kỹ năng giải
quyết vấn đề của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh trong
thực tập sư phạm đợt một theo hình thức gửi thẳng” đã cho thấy nhận thức của sinh
viên về kỹ năng GQVĐ và mức độ giải quyết các vấn đề trong các tình huống giả
định đều ở mức trung bình. Trong nghiên cứu này tác giả đã đưa ra cấu trúc của kỹ
năng GQVĐ, các bước, các thao tác và các hành động cụ thể khi GQVĐ. Trong
nghiên cứu khác“Thử nghiệm một vài biện pháp phát triển một số kỹ năng mềm cho
sinh viên Đại học Sư phạm” của tác giả Huỳnh Văn Sơn đã cho thấy sau thực
nghiệm thì kỹ năng GQVĐ của sinh viên có sự thay đổi khá tích cực, các yếu tố
được tác động trong kỹ năng GQVĐ của sinh viên đều tăng từ mức trung bình lên
mức cao. Như vậy, nếu có các biện pháp tác động một cách khoa học, phù hợp thì
có thể nâng cao mức độ kỹ năng GQVĐ của sinh viên [24].
Bên cạnh đó tác giả Phan Trịnh Hoàng Dạ Thy với đề tài nghiên cứu “Kỹ
năng giải quyết vấn đề trong quá trình thực tập nhận thức của sinh viên trường Đại
học Hoa Sen” cho thấy sinh viên còn gặp nhiều vấn đề khác nhau trong quá trình
thực tập nhận thức. Kết quả phân tích khẳng định kỹ năng GQVĐ của sinh viên
trường Đại học Hoa Sen trong quá trình thực tập nhận thức chỉ ở mức trung bình,
14
trong đó nhận thức của sinh viên về kỹ năng GQVĐ ở mức trung bình, còn kết quả
GQVĐ của sinh viên trong các tình huống giả định ở mức thấp [29].
Những nghiên cứu lý luận và thực tiễn chúng tôi đã trình bày trên cho thấy
mỗi nhà nghiên cứu, mỗi tác giả của Việt Nam có một quan điểm của riêng mình,
song có thể tóm tắt quan niệm của các tác giả thành những điểm cơ bản như sau:
+ Vấn đề là một tình trạng, một bài toán, một nhiệm vụ mà con người chưa biết
làm cách nào để giải quyết nó và đạt được mục đích mình mong đợi.
+ Mọi vấn đề đều chứa đựng tình huống có vấn đề.
+ Tình huống có vấn đề chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết,
mà những phương thức cũ, những cái đã biết đó là cần thiết nhưng chưa đủ
để giải quyết được tình huống có vấn đề, điều đó đòi hỏi con người phải suy
nghĩ để tìm ra cách thức giải quyết vấn đề, giải quyết tình huống nhằm đạt
được mục đích của mình.
+ Từ vấn đề rồi đến tình huống có vấn đề là nguồn kích thích tư duy và hoạt
động nhận thức.
Nếu như tại nước ngoài các nhà nghiên cứu ưu tiên nghiên cứu về kỹ năng
GQVĐ của sinh viên thì tại Việt Nam khía cạnh này vẫn còn chưa được nhiều nhà
khoa học nghiên cứu. Đặc biệt là những nghiên cứu về kỹ năng GQVĐ trong hoạt
động học tập của sinh viên năm thứ nhất. Trong khi đó, các nhà nghiên cứu nước
ngoài đã chỉ ra, sinh viên là đối tượng thường xuyên gặp phải nhiều vấn đề khác
nhau. Nếu họ không có kỹ năng để giải quyết những vấn đề này thì sẽ ảnh hưởng
đến hiệu quả học tập của sinh viên.
1.2. Các khái niệm cơ bản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
1.2.1. Kỹ năng
1.2.1.1. Khái niệm kỹ năng
Theo Việt Nam Tự điển thì “kỹ” có nghĩa là “nghề” trong từ “kỹ nghệ”, có
nghĩa là “khéo đến nơi đến chốn, mất nhiều công phu” trong từ “kỹ càng, kỹ
lưỡng”, “năng” có nghĩa là “tài giỏi” trong từ “năng thần: Bề tôi tài giỏi”, có nghĩa
là “có thể làm được” trong từ “năng lực” [16, tr.269].
15
Theo từ điển Tiếng Việt, “kỹ năng là thói quen áp dụng vào thực tiễn những
kiến thức đã học hoặc là những kết quả của quá trình luyện tập” [8].
Trong tiếng Anh, kỹ năng được dịch thành “skill”. Từ điển Oxford định
nghĩa “skiil” là khả năng tìm ra giải pháp cho một vấn đề nào đó và có được nhờ rèn
luyện [39].
Theo từ điển Tâm lý học do tác giả Vũ Dũng biên soạn, kỹ năng là “năng lực
vận dụng có kết quả những tri thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh
hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng. Ở mức độ kỹ năng, công việc hoàn
thành trong điều kiện hoàn cảnh không thay đổi, chất lượng chưa cao, thao tác
chưa thuần thục, và còn phải tập trung chú ý căng thẳng. Kỹ năng được hình thành
qua luyện tập” [5].
Trong từ điển Tâm lý học của A.M.Colman, “kỹ năng là sự thông thạo, hiểu
biết chuyên môn sâu, là khả năng đạt dược thành tích cao trong một lĩnh vực nhất
định; cụ thể là một cách thức thực hiện hành vi có sự phối họp, có tổ chức, đạt được
thông qua huấn luyện và thực hành” [8].
Như vậy, có thể thấy kỹ năng được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau.
Việc làm rõ những điểm chung và những điểm khác biệt trong từng khái niệm nhằm
đi đến một khái niệm nhất quán về kỹ năng được sử dụng trong đề tài này.
Trong Tâm lý học, có hai quan điểm khác nhau về kỹ năng:
• Quan niệm thứ nhất coi kỹ năng là mặt kỹ thuật của thao tác, hành
động, hoạt động.
V.A.Krutretxki (1980) cho rằng “kỹ năng là phương thức thực hiện hoạt động,
cái mà con người lĩnh hội được”. Trong quá trình luyện tập, trong hoạt động thực
hành kỹ năng dần được hoàn thiện và trong mối quan hệ đó hoạt động của con
người cũng trở nên được hoàn hảo hơn trước [1, tr.96].
Tác giả Trần Trọng Thủy (1978) trong “Tâm lý học lao động” cũng cho rằng
kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động, con người nắm được cách hành động tức là
có kỹ thuật của hành động, có kỹ năng [8].
Các tác giả Nguyễn Hữu Nghĩa, Triệu Xuân Quýnh, Bùi Ngọc Oánh cho rằng:
“Kỹ năng là những hành động được hình thành do sự bắt chước trên cơ sở của tri
16
thức mà có, chúng đòi hỏi sự tham gia thường xuyên của tri thức, sự tập trung chú
ý, cần tiêu tốn nhiều năng lượng của cơ thể”. Các tác giả cũng viết: Kỹ năng cũng
có những đặc điểm khác nữa là “hành động chưa được khái quát, do thao tác chưa
chính xác nên vai trò kiểm soát của thị giác là quan trọng” [1].
Thế nhưng, cách hiểu kỹ năng như trên có hai vấn đề cần xem xét. Thứ nhất,
đây là sự mô tả chính xác đối với những kỹ năng đơn giản mà thao tác có thể quan
sát được. Riêng các kỹ năng phức tạp như kỹ năng GQVĐ trong những tình huống
mới và đa đạng đòi hỏi phải có sự nỗ lực trí tuệ căng thẳng và khó có thể tự động
hóa được. Thứ hai, nếu quan niệm kỹ năng chỉ là các kỹ năng đơn giản thì khi giải
quyết mối quan hệ giữa kỹ năng và năng lực sẽ đưa đến sự không lý giải được vấn
đề cấu trúc năng lực và sự hình thành năng lực. Rõ ràng, kỹ năng đơn giản chưa thể
được xem là năng lực, khi đó kỹ năng chỉ là một điều kiện cần chứ chưa phải là điều
kiện đủ của năng lực.
• Quan niệm thứ hai xem kỹ năng là biểu hiện của năng lực con người.
Từ điển Tiếng Nga (1968) định nghĩa: Kỹ năng là khả năng làm một cái gì đó,
khả năng này được hình thành bởi tri thức, kinh nghiệm [17]. Theo K.K.Platonov
thì kỹ năng là khả năng của con người thực hiện một hành động bất kỳ nào đó hay
các hành động trên cơ sở của kinh nghiệm đã lĩnh hội trước đó. Hay nói cách khác,
kỹ năng được hình thành trên cơ sở của tri thức và các kỹ xảo [1, tr.97]. Đồng thời,
“kỹ năng luôn được nhận thức. Cơ sở tâm lý của các kỹ năng là sự hiểu biết về mối
quan hệ qua lại giữa mục đích hành động, các điều kiện và phương thức thực hiện
hành động” [1, tr.100].
N.Đ.Lêvitôv cho rằng, “kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một động tác nào
đó hay một hoạt động phức tạp hơn bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách
thức đúng đắn có chiếu cố đến những điều kiện nhất định” [18, tr.190].
A.V.Ptrovxki cho rằng “kỹ năng là cách thức thức cơ bản để chủ thể thực hiện
hành động, thể hiện bởi những kiến thức đã được thu lượm, những thói quen và
kinh nghiệm”. Cụ thể hơn, Ptrovxki đã viết: “Năng lực sử dụng các dữ kiện, các tri
thức hay kinh nghiệm đã có, năng lực vận dụng chúng để phát hiện những thuộc
tính bản chất của các sự vật và giải quyết thành công những nhiệm vụ lý luận hay
17
thực hành xác định, được coi là kỹ năng” [21].
Từ điển Tâm lý học của Liên Xô cũ (1983) cũng định nghĩa: “Kỹ năng là giai
đoạn giữa của việc nắm vững một phương thức hành động mới – cái dựa theo một
quy tắc (tri thức) nào đó và trên quá trình giải quyết một loạt các nhiệm vụ tương
ứng với tri thức đó, nhưng còn chưa đạt đến mức độ kỹ xảo” [1, tr.98].
Ở Việt Nam, các tác giả như Nguyễn Ánh Tuyết, Ngô Công Hoàn, Lê Văn
Hồng, Nguyễn Quang Uẩn cũng có quan niệm như các tác giả nói trên. Như tác giả
Lê Văn Hồng có viết: “Kỹ năng là khả năng vận dụng kiến thức (khái niệm, cách
thức, phương pháp…) để giải quyết một nhiệm vụ mới” [11, tr.118].
Như vậy, theo những quan điểm trên, kỹ năng đã được nhìn nhận ở cả những
kỹ năng mang tính phức tạp. Kỹ năng cũng được khẳng định là năng lực vận dụng
tri thức thì kỹ năng là một mức độ của năng lực. Nói một cách khác, một người có
kỹ năng thì người đó đang hình thành một năng lực tương ứng với kỹ năng đó.
Chính vì vậy tác giả Đặng Thành Hưng (2004) cho rằng kỹ năng là một thành phần
quan trọng trong cấu trúc năng lực [13]. Còn tác giả Huỳnh Văn Sơn, trong một
nghiên cứu đã cho rằng kỹ năng có nhiều dạng, có những kỹ năng khá đơn giản,
nhưng cũng có những kỹ năng rất phức tạp. Và “những kỹ năng có thể chia thành
những kỹ năng chung và những kỹ năng chuyên biệt. Ví dụ: Trong công việc, những
kỹ năng chung có thể kể đến là: Kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng làm việc nhóm
và kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng tự thúc đẩy bản thân và những kỹ năng khác, trong
khi những kỹ năng chuyên biệt có thể hữu dụng chỉ trong một nghề nhất định. Kỹ
năng thường yêu cầu một hoàn cảnh và những tác động ngoại cảnh nhất định để
đánh giá mức độ kỹ năng được thể hiện và được sử dụng” [23]. Tác giả Huỳnh Văn
Sơn cũng khẳng định: “Một kỹ năng không bao giờ đứng riêng lẻ mà luôn có sự
“tham gia” của các kỹ năng khác có liên quan” [22].
Từ những quan điểm trên, chúng tôi nhận thấy, kỹ năng không chỉ là thao tác
mà còn là biểu hiện của năng lực. Kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một động tác
nào đó hay một hoạt động phức tạp hơn bằng cách áp dụng hay lựa chọn những
cách thức đúng đắn có tính đến những điều kiện nhất định. Vì vậy, chúng tôi đồng ý
với khái niệm về kỹ năng của tác giả Vũ Dũng trình bày trong từ điển Tâm lý học vì
18
đã có sự kết hợp của hai quan điểm trên.
Trong luận văn này, chúng tôi cho rằng: Kỹ năng là khả năng vận dụng có
hiệu quả những tri thức, kinh nghiệm về phương thức hành động đã được chủ
thể lĩnh hội để thực hiện những hành vi tương ứng một cách hiệu quả.
1.2.1.2. Đặc điểm của kỹ năng
Khi nhắc đến kỹ năng, người ta thường đề cập đến kỹ xảo. Nhưng nếu kỹ xảo
có mức độ tham gia của ý thức ít, thậm chí trong nhiều trường hợp có khi không
cảm thấy có sự tham gia của ý thức và đôi khi có sự kiểm tra bằng cảm giác vận
động, tầm tri giác được mở rộng thì kỹ năng có những đặc điểm sau đây:
+ Trong kỹ năng, nhận thức đóng vai trò tích cực và thường trực. Trong quá
trình chủ thể thực hiện một hành động, một kỹ năng nào đó thì chính chủ thể phải
nhận biết được những nội dung, nhiệm vụ, các thao tác và những hành động cụ thể
để thực hiện kỹ năng đó.
+ Cùng với nhận thức đúng đắn thì thái độ tích cực, tâm thế sẵn sàng sẽ giúp
chủ thể vượt qua các trở ngại và khó khăn để thực hiện kỹ năng một cách dễ dàng.
+ Có nhận thức đầy đủ, thái độ tích cực nhưng nếu không hành động để thực
hiện kỹ năng thì kỹ năng cũng không được hình thành. Kỹ năng được hình thành
thông qua hoạt động. Để có thể hoạt động hiệu quả, con người phải có kỹ năng và
kỹ năng chỉ có thể phát triển thông qua thực tiễn hoạt động. Muốn tăng mức độ kỹ
năng, con người phải thường xuyên rèn luyện. Khi thực hiện kỹ năng, chủ thể phải
thực hiện các loại tri giác khác nhau để kiểm tra các thao tác thực hiện. Trong quá
trình thực hiện kỹ năng, tùy vào từng năng lực, kỹ năng của mỗi chủ thể mà các
thao tác được thực hiện đầy đủ, chính xác đến mức độ nào. Tuy nhiên, khi thực hiện
kỹ năng, thường những động tác thừa, động tác phụ chưa được loại trừ.
+ Trong kỹ năng có sự thống nhất giữa tính ổn định và tính linh hoạt: Có nghĩa
là kỹ năng không nhất thiết gắn liền với một đối tượng nhất định, mà trong trường
hợp kỹ năng ở mức độ cao thì chủ thể có khả năng di chuyển linh hoạt và dễ dàng
sang những đối tượng mới.
19
1.2.1.3. Các mức độ của kỹ năng
Mỗi nhà nghiên cứu có một cách phân chia khác nhau về mức độ của kỹ
năng. Nhưng đa phần các tác giả đều phân chia kỹ năng thành năm mức độ từ
những kỹ năng ban đầu đến kỹ năng đạt ở mức độ hoàn hảo.
Theo quan điểm của V.P.Bexpalko, có năm mức độ kỹ năng sau:
+ Mức độ 1: Kỹ năng ban đầu
Người học đã có kiến thức về nội dung một dạng kỹ năng nào đó và trong
những tình huống cụ thể khi cần thiết, người học sẽ có thể tái hiện những thao tác,
hành động nhất định nào đó. Tuy nhiên, ở mức độ kỹ năng ban đầu này thì người
học thường chỉ thực hiện được yêu cầu của kỹ năng này dưới sự hướng dẫn của
người dạy.
+ Mức độ 2: Kỹ năng mức thấp
Khác với mức độ 1, ở mức độ kỹ năng mức thấp, người học đã có thể tự thực
hiện được những thao tác, hành động cần thiết theo một trình tự đã biết. Song, ở
mức độ kỹ năng này, người học chỉ thực hiện được những thao tác, hành động trong
những tình huống quen thuộc và chưa di chuyển được sang những tình huống mới.
+ Mức độ 3: Kỹ năng trung bình
Người học tự thực hiện thành thạo các thao tác đã biết trong các tình huống
quen thuộc. Tuy vậy, việc di chuyển các kỹ năng sang tình huống mới còn hạn chế.
+ Mức độ 4: Kỹ năng cao
Một sự khác biệt thể hiện ở mức độ kỹ năng cao là người học đã tự lựa chọn
hệ thống các thao tác, các hành động cần thiết trong các tình huống khác nhau. Bên
cạnh đó, người học đã biết di chuyển kỹ năng trong phạm vi nhất định.
+ Mức độ 5: Kỹ năng hoàn hảo
Đây là mức độ cao nhất của kỹ năng. Người học nắm được đầy đủ hệ thống
các thao tác, hành động khác nhau, biết lựa chọn những thao tác, hành động cần
thiết và ứng dụng chúng một cách thành thạo trong các tình huống khác nhau mà
không gặp khó khăn gì.
20
Trong từ điển rút gọn các khái niệm Tâm lý học của Nga và cũng là quan
niệm của tác giả K.K.Platonov và G.G.Glubev [12], đưa ra năm mức độ hình thành
kỹ năng như sau:
+ Mức độ 1: Có khả năng sơ đẳng, hành động được thực hiện theo cách thử
và sai, dựa trên vốn hiểu biết và kinh nghiệm.
+ Mức độ 2: Biết cách thực hiện hành động nhưng không đầy đủ.
+ Mức độ 3: Có những kỹ năng chung nhưng còn mang tính rời rạc và riêng lẻ.
+ Mức độ 4: Có những kỹ năng chuyên biệt để hành động.
+ Mức độ 5: Vận dụng sáng tạo những kỹ năng trong các tình huống khác
nhau.
1.2.1.4. Sự hình thành kỹ năng
Tâm lý học Mácxit đã khẳng định: Tâm lý con người có bản chất là hoạt
động. Nói cách khác tâm lý, ý thức (trong đó có kỹ năng) được nảy sinh, hình thành
và phát triển trong quá trình chủ thể tiến hành hoạt động. Vì vậy, kỹ năng được hình
thành trong hoạt động và thông qua hoạt động. Tác giả Robert J.Sternberg (2003) ở
đại học Yale nhìn nhận “Thực chất của sự hình thành kỹ năng là tạo điều kiện để
chủ thể nắm vững một hệ thống phức tạp các bước, các thao tác làm sáng tỏ những
thông tin chứa đựng những tình huống, các nhiệm vụ và đối chiếu chúng với những
hành động cụ thể” [46].
Vì vậy, muốn hình thành kỹ năng, cần thực hiện được các yêu cầu cơ bản
sau:
- Giúp chủ thể biết cách tìm tòi và từ đó nhận biết những thông tin đã biết,
chưa biết cần phải thu thập cũng như mối quan hệ giữa chúng.
- Giúp chủ thể hình thành một mô hình khái quát để giải quyết nhiệm vụ.
Đồng thời trên cơ sở đó, chủ thể có sự liên tưởng đến các đối tượng cùng loại.
- Giúp chủ thể xác lập được mối liên hệ giữa mô hình khái quát và các kiến
thức tương ứng để từ đó có thể tự chọn lựa được những thao tác, hành động đúng
đắn và phù hợp để hoàn thành những nhiệm vụ khó khăn và phức tạp hơn nảy sinh
trong các trường hợp khác.
21
1.2.2. Vấn đề
1.2.2.1. Khái niệm vấn đề
Trong từ điển Tiếng Việt, vấn đề được hiểu là “những điều cần phải được
nghiên cứu để giải quyết”[16].
Trong tiếng Anh, vấn đề được dịch thành “problem”. Từ điển Oxford đưa ra
khái niệm về “problem” như sau [39]:
+ Những điều bắt nguồn từ một sự khó khăn.
+ Một câu hỏi được nảy sinh cần được xem xét và tìm ra giải pháp.
+ Một tình trạng khó khăn cần được giải quyết.
Trong khi đó “vấn đề” được các nhà tâm lý học định nghĩa như sau:
V. Okon (1976) đã đưa ra khái niệm về “vấn đề” như sau: “Vấn đề được nảy
sinh từ tình huống có vấn đề. Những khó khăn về lý luận hoặc thực tiễn là cơ sở tạo
ra tình huống có vấn đề và cũng là điểm xuất phát để đặt vấn đề”. Tác giả cũng cho
rằng: “Vấn đề bao giờ cũng đảm bảo hai điều kiện (cái đã biết và cái chưa biết)
trong đó cái đã biết là điều kiện để đi đến cái cần tìm” [38].
Tác giả Howard Senter trong cuốn “Giải quyết vấn đề - công cụ và giải pháp
thiết yếu cho nhà quản lý” đã mô tả: Vấn đề là một trong những từ chúng ta dùng
một cách rộng rãi để mô tả những tình huống không chắc chắn hoặc khó hiểu được
diễn tả với những miêu tả như:
+ Một cái gì đó khó hiểu
+ Một tình huống không rõ ràng hoặc khó giải quyết
+ Một cái gì đó khó kiểm soát và gây gián đoạn sự tiến triển bình thường
+ Một câu đố hoặc bí ẩn
+ Một nhiệm vụ khó thực thi [29].
Từ đó, Howard Senter định nghĩa: “Vấn đề là một cái gì đó khó xử lý hoặc
khó giải quyết”.
Các nhà nghiên cứu tại Việt Nam cũng đưa ra những ý kiến riêng về khái
niệm “vấn đề”. Tác giả Hồ Ngọc Đại (2000) có viết: “Một tình huống không tự nó
bao hàm trong đó tính có vấn đề hay không có vấn đề. Tình huống ở một trạng thái
22
trừu tượng đối với mọi chủ thể, chỉ là một tình huống nói chung”[8]. Tác giả
Nguyễn Huy Tú (1996) đưa ra khái niệm khá cụ thể về “vấn đề” như sau: “Vấn đề
là một nhiệm vụ (bài toán) mà người giải không thể huy động được các giải pháp
giải quyết sẵn có trong trí nhớ của mình để đạt mục đích đặt ra” [8].
Tác giả Phan Trịnh Hoàng Dạ Thy trong luận văn thạc sĩ Tâm lý học của
mình cho rằng: “Vấn đề là sự phản ánh mâu thuẫn trong quá trình nhận thức khách
thể bởi chủ thể được thể hiện trong những tình huống cụ thể”[29].
Tóm lại theo các nhà tâm lý học thì “vấn đề” là sự phản ánh mâu thuẫn trong
quá trình nhận thức khách thể bởi chủ thể. Đây là mâu thuẫn giữa “cái đã biết” và
“cái chưa biết”. “Cái chưa biết” đó chỉ trở thành vấn đề đối với nhận thức của con
người khi con người có nhu cầu và có khả năng tìm ra “cái chưa biết” đó. Do đó,
vấn đề không phải là yếu tố khách quan mà thực sự là yếu tố chủ quan tức là chủ thể
nhận thức được, có nhu cầu, có điều kiện và khả năng giải quyết mâu thuẫn. Chính
vì vậy chúng ta thường nhìn thấy rất nhiều trường hợp, tình huống này có thể rất
bình thường với người này nhưng lại trở thành một vấn đề và một tình huống có vấn
đề thực sự đối với người khác.
Trên cơ sở tham khảo, phân tích, tổng hợp những quan điểm khác nhau về
“vấn đề”, chúng tôi xây dựng khái niệm “vấn đề” trong nghiên cứu này như sau:
“Vấn đề là sự phản ánh mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết trong quá
trình nhận thức khách thể của chủ thể được thể hiện trong những tình huống cụ
thể”.
1.2.2.2. Đặc điểm của vấn đề
“Vấn đề” có hai đặc điểm cơ bản là phạm vi vấn đề và tính phức hợp của vấn
đề.
+ Phạm vi của vấn đề:
Một vấn đề có thể diễn ra trong một tình huống nhỏ xảy ra hàng ngày trong
đời sống gia đình, quan hệ bạn bè, học tập, công tác và chỉ liên quan đến một cá
nhân nào đó. Bên cạnh đó có những vấn đề có sự ảnh hưởng đến một nhóm nhất
định. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều trường hợp đó cũng có thể là một vấn đề mang
23
tầm cỡ quốc gia, quốc tế. Khi đó để GQVĐ cần phải có sự hợp tác của nhiều bên.
Như vậy, các vấn đề khác nhau sẽ có một phạm vi hẹp hay rộng lớn khác nhau.
Phạm vi của vấn đề có ảnh hưởng đến việc vận dụng nguồn nhân lực như thế nào để
GQVĐ.
+ Tính phức hợp của vấn đề
Số lượng các biến số: Tính phức hợp của vấn đề thể hiện đầu tiên ở số lượng
các biến số hay là những thông tin chưa biết cần tìm hiểu khi GQVĐ. Thông
thường, một vấn đề thường bao gồm trong đó rất nhiều những biến số khác nhau đòi
hỏi người GQVĐ phải nhận dạng được các biến số này để làm cho vấn đề được rõ
ràng hơn. Số lượng các biến số càng ít thì vấn đề càng dễ giải quyết, số lượng biến
số càng nhiều thì vấn đề càng phức tạp và càng khó giải quyết.
Sự phân nhánh: Khi một vấn đề xảy ra, xuất phát điểm chỉ từ một nguyên
nhân nhất định. Tuy nhiên, nếu như vấn đề không được giải quyết nó sẽ kéo theo rất
nhiều những tình huống khác và làm cho vấn đề trở nên phức tạp hơn. Khi đó, việc
GQVĐ trở nên khó khăn khi nguyên nhân chính đã bị một chuỗi những sự kiện
khác che lấp đi và chủ thể không xác định được mấu chốt vấn đề.
1.2.2.3. Cấu trúc tâm lý của vấn đề
Cấu trúc tâm lý của vấn đề bao gồm ba yếu tố:
a. Cái chưa biết
Cái chưa biết là cách thức hành động để GQVĐ mà chủ thể phải tìm kiếm.
Theo W.Hussy (Đức -1986) thì độ khó của vấn đề phụ thuộc vào cả đặc điểm của
vấn đề lẫn đặc điểm, trình độ, kinh nghiệm cá nhân… Hay nói cách khác là năng
lực GQVĐ của chủ thể [8].
Như vậy, mức độ khó của vấn đề phụ thuộc vào các đặc điểm của vấn đề
(phạm vi, tính phức tạp…) và các đặc điểm cá nhân của chủ thể (tri thức, kinh
nghiệm). Chính cái chưa biết với mức độ khó của vấn đề sẽ kích thích chủ thể sáng
tạo cách thức GQVĐ.
24
b. Cái đã biết
Cái đã biết bao gồm tri thức, kinh nghiệm, khả năng sáng tạo của chủ thể.
Vốn kinh nghiệm, tri thức của chủ thể là điểm xuất phát để chủ thể suy nghĩ, tìm tòi
cách GQVĐ.
c. Nhu cầu nhận thức kích thích chủ thể tư duy GQVĐ
Đây là yếu tố quan trọng vì có thể nói nó là điều kiện để xuất hiện vấn đề.
Bởi vì, vấn đề chỉ thực sự xuất hiện khi chủ thể nhận ra “cái chưa biết” và có nhu
cầu, mong muốn tìm ra “cái chưa biết” đó.
Ba yếu tố này liên quan chặt chẽ với nhau, thúc đẩy lẫn nhau, trong đó “cái
đã biết” là điều kiện cần để nảy sinh vấn đề, “cái chưa biết” là yếu tố trung tâm và
nhu cầu nhận thức là động lực bên trong để tìm ra “cái chưa biết”.
Độ khó của vấn đề
Các đặc điểm cá nhân Các đặc điểm của vấn đề
Sự hiểu biết thao tác
Sự hiểu biết các sự kiện Phạm vi vấn đề Tính phức hợp của vấn đề
Phạm vi mức độ Cấu trúc Phạm vi mức độ Cấu trúc
Số lượng các biến số Sự dễ hiểu mạch lạc
Sự phân nhánh Khả năng sử dụng Khả năng sử dụng
Sơ đồ 1.1. Quan niệm khung về khái niệm “ Độ khó của vấn đề” [8].
25
1.2.3. Kỹ năng giải quyết vấn đề
1.2.3.1. Khái niệm kỹ năng giải quyết vấn đề
Theo những nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu và nhiều tổ chức phi chính
phủ trên thế giới thì kỹ năng GQVĐ là một kỹ năng sống.
Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), kỹ năng sống có 3 nhóm:
+ Nhóm một – kỹ năng nhận thức, bao gồm những kỹ năng cơ bản như: Kỹ
năng tự nhận thức bản thân, tự đặt mục tiêu và xác định giá trị, kỹ năng sáng tạo, kỹ
năng ra quyết định và giải quyết vấn đề.
+ Nhóm hai – nhóm kỹ năng liên quan đến cảm xúc, bao gồm những kỹ năng
như: Kỹ năng nhận biết và chịu trách nhiệm về cảm xúc của mình, kỹ năng tự giám
sát, tự điều khiển, điều chỉnh cảm xúc của bản thân.
+ Nhóm ba – nhóm kỹ năng xã hội, bao gồm các kỹ năng như: Kỹ năng hợp
tác, kỹ năng gây thiện cảm, kỹ năng giao tiếp – truyền thông, kỹ năng thích ứng với
cảm xúc của người khác.
Trong đó, kỹ năng giải quyết vấn đề thuộc nhóm kỹ năng nhận thức.
Theo tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO)
phân chia kỹ năng sống thành hai nhóm chính:
+ Nhóm một, bao gồm các kỹ năng chung như: Kỹ năng nhận thức, kỹ năng
cảm xúc, kỹ năng xã hội.
+ Nhóm hai, bao gồm các kỹ năng chuyên biệt như: Các kỹ năng liên quan
đến môi trường thiên nhiên, các kỹ năng liên quan đến cuộc sống gia đình, các kỹ
năng liên quan đến cộng đồng, các kỹ năng liên quan đến giới tính, các kỹ năng liên
quan đến sức khỏe…
Theo tổ chức UNESCO, kỹ năng giải quyết vấn đề thuộc nhóm kỹ năng
chung là một trong hai nhóm kỹ năng sống mà tổ chức này phân chia gồm nhóm kỹ
năng chung và nhóm kỹ năng chuyên biệt.
Theo quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) thì kỹ năng sống gồm ba
nhóm chính:
26
+ Nhóm một – nhóm kỹ năng tự nhận thức và sống với chính mình gồm các
kỹ năng như: Tự nhận thức và tự đánh giá bản thân, kỹ năng xây dựng mục tiêu
cuộc đời, kỹ năng bảo vệ bản thân…
+ Nhóm hai – nhóm kỹ năng tự nhận thức và sống với người khác bao gồm
các kỹ năng như: Kỹ năng thiết lập quan hệ, kỹ năng hợp tác, kỹ năng làm việc
nhóm…
+ Nhóm ba – nhóm kỹ năng ra quyết định và làm việc hiệu quả bao gồm một
số kỹ năng như: Phân tích vấn đề, nhận thức thực tế, ra quyết định, ứng xử, giải
quyết vấn đề...
Như vậy, theo sự phân chia của tổ chức UNICEF thì kỹ năng GQVĐ thuộc
nhóm kỹ năng thứ ba – nhóm kỹ năng ra quyết định và làm việc có hiệu quả.
Trong khi đó tác giả Nguyễn Quan Uẩn (2008) chia kỹ năng sống làm ba
nhóm và kỹ năng GQVĐ thuộc nhóm thứ ba [35]. Cụ thể như sau:
+ Nhóm một – nhóm kỹ năng cuộc sống cá nhân bao gồm: Kỹ năng sinh hoạt
cá nhân, kỹ năng rèn luyện giữ sức khỏe, kỹ năng tự nhận thức bản thân, kỹ năng tự
ý thức và có trách nhiệm với bản thân, kỹ năng tự xác định mục đích, kế hoạch cuộc
sống…
+ Nhóm hai – nhóm kỹ năng quan hệ với người khác, với cộng đồng, xã hội
bao gồm: Kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng thiết lập và duy trì các mối quan hệ
liên nhân cách, kỹ năng thực hiện các hành vi văn hóa xã hội, kỹ năng thích ứng xã
hội…
+ Nhóm ba – nhóm kỹ năng công việc bao gồm: Kỹ năng xác định mục tiêu
công việc, kỹ năng lựa chọn và xác định các giá trị, kỹ năng hoạch định công việc,
kỹ năng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong công việc, kỹ năng tổ chức thực hiện
công việc có kết quả, kỹ năng đánh giá công việc và rút kinh nghiệm về công việc,
kỹ năng chuẩn bị cho các công việc tiếp theo…
Như vậy, tất cả các tổ chức cũng như các nhà nghiên cứu mà chúng tôi kể
trên đều có một sự thống nhất kỹ năng GQVĐ là một kỹ năng sống. Tuy nhiên,
quan niệm, cách phân loại kỹ năng sống có phần khác nhau nên quan niệm của từng
tác giả về kỹ năng GQVĐ cũng không giống nhau. Song về cơ bản, kỹ năng GQVĐ
27
có thể hiểu là khả năng chủ thể vận dụng nền tảng kiến thức có sẵn để giải quyết
những vấn đề xảy ra.
Từ việc tham khảo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu về kỹ năng và kỹ năng
GQVĐ, chúng tôi đưa ra khái niệm kỹ năng GQVĐ như sau: Kỹ năng giải quyết
vấn đề là sự giải quyết có kết quả những vấn đề nảy sinh trong hoạt động hàng
ngày của con người bằng cách tiến hành đúng đắn các bước, các thao tác trên cơ
sở vận dụng những tri thức và kinh nghiệm của chủ thể.
1.2.3.2. Cấu trúc của quá trình giải quyết vấn đề
• Bước 1: Nhận thức về vấn đề
Khi chủ thể chưa nhận ra vấn đề tức là chủ thể cũng chưa có hành động nào
vì thực sự chưa biết vấn đề đang gặp phải là gì. Để sớm nhận ra vấn đề đòi hỏi chủ
thể có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng cần thiết. Có những vấn đề đôi khi không cần
giải quyết hay đưa ra giải pháp nào thì chúng cũng qua đi. Nhưng cũng có những
vấn đề nếu chủ thể không giải quyết thì nó sẽ không bao giờ mất đi thậm chí vấn đề
có thể trở nên trầm trọng hơn.
Khi đã nhận ra vấn đề thì chủ thể cũng phải xác định người có trách nhiệm
giải quyết vấn đề, những nguồn lực hỗ trợ chủ thể khi giải quyết vấn đề. Nhận biết
xem vấn đề có ảnh hưởng tới chủ thể hay không và vấn đề nào không phải quan
tâm. Nếu chủ thể không có quyền hạn hay khả năng, nghĩa vụ phải giải quyết nó thì
tốt nhất nên chuyển vấn đề cho người có thể giải quyết. Còn ngược lại, thì chủ thể
phải nhận thức rõ vấn đề để bắt tay giải quyết nó. Như vậy, xác định vấn đề cũng có
nghĩa chủ thể nhận thấy: Có một vấn đề đang tồn tại, cần phải giải quyết, đáng để
giải quyết. Sau đó quyết định: Chủ thể có nghĩa vụ phải giải quyết hay không, phải
dốc sức lực vào GQVĐ này, bảo đảm những ai liên quan đến vấn đề đều biết rằng
chính chủ thể là người chịu trách nhiệm giải quyết vấn đề.
Tiếp đó, chủ thể phải xác định mục tiêu khi giải quyết vấn đề, mục tiêu trước
mắt cần đạt được cũng như mục tiêu lâu dài khi giải quyết vấn đề này là gì. Mục
tiêu này sẽ định hướng cho chủ thể xây dựng kế hoạch giải quyết vấn đề, là cơ sở để
chủ thể đánh giá tính hiệu quả của quá trình giải quyết vấn đề.
28
• Bước 2: Hiểu vấn đề
Một trong những yêu cầu quan trọng khi GQVĐ là xác định nguyên nhân của
vấn đề. Tuy nhiên, khi một vấn đề xảy ra nó dễ bị che khuất bởi các tình tiết khác
nhau dẫn đến nhiều trường hợp chủ thể không xác định được nguyên nhân thực sự
là gì.
Do đó, khi chủ thể có một vấn đề và xác định mình là người giải quyết vấn
đề thì đòi hỏi chủ thể phải định nghĩa (chỉ ra, mô tả) một cách rõ ràng, tìm hiểu càng
nhiều thông tin càng tốt để từ đó nhận diện các mâu thuẫn tồn tại trong vấn đề như
mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài. Từ đó, chủ thể hiểu vấn đề và tìm ra
được cách giải quyết vấn đề đó. Như vậy, hiểu vấn đề là rất quan trọng, nó giúp chủ
thể xác định nguyên nhân của vấn đề bao gồm nguyên nhân trực tiếp và cả nguyên
nhân gián tiếp.
• Bước 3: Đề ra các phương án giải quyết
Với mỗi vấn đề, chỉ có một giải pháp tốt nhất để GQVĐ một cách hiệu quả.
Do đó chủ thể phải dựa trên những thông tin thu thập được và những mâu thuẫn của
vấn đề đã được xác định, liệt kê các phương án khác nhau để GQVĐ. Mỗi phương
án sẽ có những ưu điểm và hạn chế khác nhau nên càng nhiều phương án được đưa
ra thì chủ thể càng có thêm cơ hội để lựa chọn ra giải pháp tốt nhất. Vì vậy, ở giai
đoạn này, chủ thể có thể liệt kê tất cả những phương án được hình dung để sau đó
xác định một phương án tối ưu.
• Bước 4: Chọn giải pháp tốt nhất
Giai đoạn chọn giải pháp tối ưu là một giai đoạn đòi hỏi chủ thể phải có sự
so sánh các phương án với nhau, đồng thời chủ thể cũng phải tiến hành phân tích
những ưu điểm cũng như hạn chế và những rủi ro của từng phương án. Bên cạnh đó
chủ thể phải dựa trên mục tiêu đã đề ra khi GQVĐ để lựa chọn phương án tối ưu.
Như vậy, phương án tối ưu là phương án chứa đựng nhiều ưu điểm nhất, ít
rủi ro nhất, phù hợp với hoàn cảnh và khả năng thực thi của chủ thể, đồng thời phải
thoả mãn được mục tiêu đã đề ra.
• Bước 5: Thực thi giải pháp
Có thể nói đây là giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình GQVĐ bởi vì nếu
29
chủ thể không thực hiện tốt ở giai đoạn này thì toàn bộ quá trình GQVĐ sẽ thất bại.
Thực thi giải pháp là biến những ý tưởng của giải pháp tối ưu được lựa chọn
bằng việc lên một kế hoạch thực hiện với sự cân nhắc nhiều yếu tố như thời gian,
bối cảnh, địa điểm, các phương tiện cũng như các cá nhân hỗ trợ. Từ đó chủ thể tiến
hành những hành động cụ thể để thực thi giải pháp tối ưu lựa chọn.
• Bước 6: Theo dõi và đánh giá giải pháp
Đây là giai đoạn cuối cùng trong tiến trình GQVĐ. Nếu như chủ thể dừng
quá trình GQVĐ ở giai đoạn thực thi giải pháp thì chủ thể sẽ không xác định được
quá trình GQVĐ có thành công hay không.
Do đó, sau khi thực thi giải pháp, chủ thể cần dựa trên mục tiêu đã đề ra, xác
định những mục tiêu nào đã đạt được và mục tiêu nào chưa hoàn thành. Bằng cách
này hay cách khác chủ thể có thể kiểm tra xem cách giải quyết đó có thành công
như mong đợi hay không, có tạo ra những ảnh hưởng không mong đợi nào không và
quan trọng nhất là rút kinh nghiệm cho lần sau. Hoặc đặt trường hợp vấn đề chưa
được giải quyết thì chủ thể phải thực hiện lại từng bước một để GQVĐ.
1.2.4. Hoạt động học tập của sinh viên
1.2.4.1. Khái niệm
Đối với con người thì học tập là một trong những hình thức hoạt động chính,
không thể thiếu nhằm tiếp thu, lĩnh hội những thành tựu, tri thức, kinh nghiệm xã
hội – lịch sử của xã hội loài người đã được tích luỹ qua nhiều thế hệ. Trong thực
tiễn, con người có nhiều cách học khác nhau để tiếp thu kinh nghiệm xã hội nhưng
thông thường học tập thường có hai dạng cơ bản: Học ngẫu nhiên và học có mục
đích.
- Học ngẫu nhiên: Đây là dạng học được thực hiện một cách không chủ định.
Kết quả của hoạt động này chỉ thu được những tri thức rời rạc, không hệ thống,
ngẫu nhiên, tiền khoa học. Mục đích của cách học này nhằm ứng phó với những
tình huống, những vấn đề cụ thể trong cuộc sống. Tuy nhiên, để tồn tại và phát triển
cũng như tác động, cải tạo thế giới hiện thực, con người không chỉ dừng lại ở những
tri thức kinh nghiệm mà đòi hỏi cần có một hệ thống tri thức khoa học, có tính khái
30
quát cao để áp dụng vào mọi tình huống trong thực tiễn. Để đạt được mục đích này
con người cần tiến hành hoạt động học một cách hiệu quả hơn đó là học có mục
đích.
- Học có mục đích: Là một dạng hoạt động đặc thù của con người. Hoạt động
học chỉ có thể thực hiện được khi con người phát triển ở một trình độ nhất định, có
khả năng điều chỉnh những hành động của mình theo mục đích đã được ý thức. Khả
năng này thường bắt đầu hình thành vào lúc 5-6 tuổi. Và khi hoạt động học được
tiến hành đúng nghĩa của nó thì mới có thể hình thành hệ thống tri thức khoa học,
kỹ năng, cấu trúc tương ứng của hoạt động tâm lý giúp phát triển toàn diện nhân
cách của con người.
Khi bàn về vấn đề học tập có rất nhiều quan điểm khác nhau tuỳ vào cách
tiếp cận của các nhà nghiên cứu.
I.B.Intenxon cho rằng, học tập là loại học tập đặc biệt của con người nhằm
mục đích nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và các hình thức nhất định của
hành vi. Nó bao gồm cả ý nghĩa nhận thức và thực tiễn.
V.V.Đavudov quan niệm học tập dựa trên cơ sở nâng cao trình độ tư duy lý
luận. A.V.Petrovxki lại có quan niệm khác khi cho rằng hoạt động học tập là vấn đề
phẩm chất tư duy kết hợp các loại hoạt động trong việc thực hiện mục đích và
nhiệm vụ giảng dạy.
N.V.Cudomina lại coi hoạt động học tập là loại hoạt động nhận thức cơ bản
của sinh viên được thực hiện dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy. Trong quá
trình này việc nắm vững nội dung cơ bản các thông tin mà thiếu nó thì không thể
tiến hành hoạt động nghề nghiệp tương lai [12].
Các quan niệm trên về hoạt động học tập mặc dù chưa có sự thống nhất giữa
các tác giả song các tác giả khác nhau ít nhiều đều xem xét hoạt động học tập có
liên quan đến nhận thức hoặc tư duy và sâu hơn nữa là liên quan đến yếu tố nghề
nghiệp. Do cách tiếp cận khác nhau nên hoạt động học tập cũng được tác giả nhấn
mạnh ở các khía cạnh khác nhau nhưng họ vẫn gặp nhau ở một mục đích chung đó
là xem hoạt động học tập là hoạt động có mục đích tự giác, có ý thức về động cơ và
trong đó diễn ra quá trình nhận thức và đặc biệt là quá trình tư duy.
31
Về phía các tác giả Việt Nam, như tác giả Lê Văn Hồng và Lê Ngọc Lan, khi
nghiên cứu về hoạt động học tập có quan niệm như sau: Hoạt động học tập là hoạt
động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục đích tự giác và lĩnh hội những
tri thức, kỹ xảo mới, những phương thức hành vi và những dạng hoạt động nhất
định [14].
Tóm lại, hoạt động học tập là một hoạt động có mục đích của chủ thể
nhằm lĩnh hội tiếp thu tri thức, kinh nghiệm của xã hội loài người được kết tinh
trong nền văn hoá xã hội, qua đó giúp chủ thể phát triển và hoàn thiện nhân
cách.
1.2.4.2. Đặc điểm của hoạt động học tập
Đối tượng của học tập là hệ thống kiến thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo mới
tương ứng. Hoạt động học tập là loại hoạt động mà ở đó bằng sự tự giác và có mục
đích của mình, chủ thể biến những tri thức chung của nhân loại thành cái của riêng
mình. Trong quá trình ấy, người học không sáng tạo ra tri thức mà chỉ tái tạo lại tri
thức đã có và việc tái tạo tri thức này được diễn ra dưới sự tổ chức, hướng dẫn của
người dạy, vì vậy hoạt động học tập sẽ không có kết quả nếu người học chỉ thụ
động tiếp nhận các tác động sư phạm. Để việc học tập có hiệu quả, người học phải
là chủ thể tích cực, tự giác và có năng lực trí tuệ để lĩnh hội tri thức mà giáo viên
truyền thụ.
Thông thường các hoạt động khác hướng vào làm thay đổi khách thể để cải
tạo, biến đổi nó phục vụ cho con người thì hoạt động học tập chủ yếu tác động, làm
biến đổi chính bản thân chủ thể. Hoạt động học không làm biến đổi nội dung của tri
thức khi nó được lĩnh hội mà chỉ làm thay đổi chính bản thân chủ thể hoạt động
học. Có thể hoạt động học cũng làm thay đổi khách thể ở một mức độ nhất định
nhưng mục đích mà hoạt động học tập hướng vào là làm thay đổi nhận thức của
người học có nghĩa là hướng vào học cách tiến hành hoạt động học tập, học phương
pháp học tập.
32
Hoạt động học chỉ có thể thực hiện được khi con người phát triển ở một trình
độ nhất định, có khả năng điều chỉnh những hành động của mình theo mục đích đã
được ý thức.
1.2.4.3. Hoạt động học tập của sinh viên
Hoạt động học tập của sinh viên là hoạt động có ý thức chiếm lĩnh tri thức
khoa học nhằm hình thành và phát triển tri thức, thái độ, kỹ năng phù hợp đáp ứng
với hoạt động học tập có môi trường thay đổi hàng ngày.
1.2.4.4. Đặc điểm hoạt động học tập của sinh viên
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục, đào tạo ở bậc Đại học – Cao đẳng là đào tạo
nguồn nhân lực có chuyên môn cao về nghề, đáp ứng yêu cầu xã hội. Do đó học tập
của sinh viên ngoài việc mang những đặc điểm học tập nói chung còn có những đặc
điểm riêng sau đây:
- Tính chuyên nghiệp: Thể hiện trong mục đích của hoạt động học tập ở sinh
viên là nhằm hướng vào việc hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách người
chuyên gia trong các lĩnh vực nghề nghiệp tương ứng. Học tập của sinh viên mang
tính đặc trưng của hoạt động tương lai. Ở đại học người sinh viên không những
chiếm lĩnh những kiến thức tổng quát, nền tảng (một phần trong quá trình học) mà
mục tiêu chính là chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng và thái độ về nghề nghiệp,
hình thành những phẩm chất của người chuyên gia trong tương lai. Tóm lại, trong
quá trình học tập sinh viên phải xây dựng cho mình một nhân cách đáp ứng yêu cầu
nghề nghiệp sau này.
- Tính độc lập cao trong học tập: Do yêu cầu cao của việc học tập để trở
thành chuyên gia trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định nên trong hoạt động học
tập của người sinh viên đòi hỏi phải có sự độc lập cao, sự tự ý thức đầy đủ về học
tập của bản thân. Đó là sự tự nhận thức được mình là chủ thể của hoạt động học tập,
là người định hướng, tổ chức và kiểm tra đánh giá hoạt động học tập của bản thân
dưới sự hướng dẫn, trợ giúp của giáo viên. Tính độc lập trong học tập của sinh viên
thể hiện trong suốt quá trình học tập, từ việc tích cực giải quyết nhiệm vụ học tập
đến việc tìm kiếm tài liệu phục vụ cho việc học, lập kế hoạch học tập phù hợp và nỗ
33
lực ý chí thực hiện nó. Bên cạnh đó, việc học tập của sinh viên mang tính chất
nghiên cứu khoa học nên buộc sinh viên phải có tính độc lập cao trong học tập.
- Tính thực tiễn: Thể hiện ở việc chú trọng phương pháp học bộ môn, chuyên
ngành, cách thức tiến hành nghiên cứu khoa học, làm thí nghiệm,…phục vụ cho
nghề nghiệp tương lai. Học tập của sinh viên trên cơ sở nắm vững hệ thống tri thức
lý luận, phát triển kỹ năng ứng dụng và năng lực sáng tạo trong chuyên môn của
mình. Tính thực tiễn trong học tập của sinh viên còn thể hiện ở sự đáp ứng về
những đòi hỏi của xã hội trong việc đào tạo một lực lượng chuyên gia về nghề phục
vụ cho xã hội tương lai.
- Tính sáng tạo: Tính sáng tạo trong hoạt động học tập của sinh viên thể hiện
ở việc tham gia nghiên cứu khoa học. Tính sáng tạo của sinh viên xuất phát từ kết
quả của sự phát triển tuổi trưởng thành vừa là yêu cầu của bản thân hoạt động học
tập của sinh viên trong thời đại mới.
Từ những đặc điểm riêng trong hoạt động học tập của sinh viên đã kéo theo
một sự thay đổi lớn về nội dung, phương pháp, điều kiện học tập cần có ở bậc Đại
học – Cao đẳng. Học tập của sinh viên không chỉ diễn ra ở trên lớp mà còn ở ngoài
lớp, không chỉ tiến hành dưới sự hướng dẫn của giảng viên mà còn tiến hành một
cách độc lập, do bản thân mình tự sắp xếp, tổ chức thực hiện và kiểm tra đánh giá.
Nội dung học tập bao gồm việc tiếp nhận kiến thức, học kỹ năng, học các thái độ…
chính sự thay đổi về tính chất, mục tiêu của việc học tập ở Đại học – Cao đẳng so
với phổ thông đã dẫn đến việc học tập của sinh viên mang tính chuyên nghiệp, tính
độc lập cao, tính thực tiễn, tính sáng tạo.
1.3. Lý luận về kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh viên
năm thứ nhất.
1.3.1. Một vài đặc điểm tâm lý của sinh viên.
Sinh viên là một nhóm xã hội, là những người đang theo học bậc Đại học –
Cao đẳng để chuẩn bị cho hoạt động sản xuất vật chất hay tinh thần của xã hội. Sinh
viên sẽ là nguồn bổ sung cho đội ngũ tri thức, được đào tạo cho lao động trí óc với
nghiệp vụ cao và tham gia tích cực vào hoạt động đa dạng, có ích cho xã hội. Theo
các nhà tâm lý học, sinh viên là những người thuộc lứa tuổi từ 18 đến 25 với đầy sức
34
trẻ, hoài bão ý chí vươn lên và đã đạt đến mức độ trưởng thành cơ bản của con người
cả về thể chất lẫn tinh thần. Chính sự hoàn thiện này cho phép sinh viên có thể lựa
chọn và thực hiện những gì có ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của họ một
cách độc lập như chọn nghề sau khi kết thúc học tập ở trường phổ thông, xác định
lý tưởng… B.G.Ananhev đã nhận định, sinh viên có khả năng lập kế hoạch và thực
hiện hoạt động một cách độc lập, có sự biến đổi mạnh mẽ về động cơ, về thang giá
trị xã hội có liên quan đến nghề nghiệp, xác định con đường sống tích cực, nắm
vững nghề nghiệp tương lai, bắt đầu thể nghiệm mình trong mọi lĩnh vực của cuộc
sống.
Đặc điểm tâm lý quan trọng nhất của lứa tuổi sinh viên là sự tự ý thức phát
triển mạnh mẽ. Tự ý thức bao gồm: Khả năng tự đánh giá, tự kiểm tra, tự nhận thức
về bản thân. Sinh viên có khả năng đánh giá, nhìn nhận một cách tương đối toàn
diện về bản thân từ khả năng nhận thức, xác định tư tưởng, tình cảm, động cơ, hành
vi cũng như vị trí của bản thân trong nhóm, trong tập thể. Chính nhờ sự tự ý thức đó
sinh viên mới có thể tự điều chỉnh hành vi, cử chỉ thái độ của mình.
Thành phần quan trọng nhất để tạo nên sự phát triển tự ý thức của sinh viên
là năng lực tự đánh giá, thể hiện thái độ với bản thân. Tự đánh giá sẽ hình thành nên
lòng tự trọng của cá nhân, bảo đảm tính tích cực của nhân cách được thể hiện trong
đời sống cá nhân cũng như trong mối quan hệ liên nhân cách.
Tự đánh giá phản ánh mức độ thoả mãn của chủ thể về trình độ phát triển các
thuộc tính nhân cách của cá nhân. Vì thế sự tự đánh giá của cá nhân có ảnh hưởng
rất lớn tới hiệu quả của hoạt động, đặc biệt là sự tự đánh giá về trí tuệ. Nó có tác
dụng rất lớn đối với sự hình thành và phát triển các phẩm chất trí tuệ trong quá trình
học tập ở Đại học – Cao đẳng. Nếu sinh viên tự đánh giá đặc điểm trí tuệ ở mức
thấp sẽ gây ra những khó khăn trong quá trình học tập, ngược lại những đặc điểm trí
tuệ được đánh giá đúng mức cho đến cao là cơ sở tốt cho hoạt động học tập ở đại
học.
Nhưng một điều cần lưu ý trong nhân cách của sinh viên trong giai đoạn này
chính là sự tự đánh giá còn mâu thuẫn và thậm chí thiếu thực tế. Nó thể hiện qua
việc so sánh “cái tôi lí tưởng” với “cái tôi thực tế” trong khi “cái tôi lí tưởng” là một
35
hình mẫu đã được đóng khung, không được thay đổi cho phù hợp với từng hoàn
cảnh cụ thể. Chính từ sự so sánh thiếu thực tế và cứng nhắc này đã làm sinh viên,
đặc biệt là sinh viên năm thứ nhất thiếu lòng tin ở bản thân, làm ảnh hưởng tới các
hoạt động của bản thân, trong đó có hoạt động học tập.
Bước vào tuổi sinh viên, khi mà việc xác định nghề nghiệp đã rõ ràng, người
thanh niên – sinh viên bắt đầu với các hình thức hoạt động mới. Trong giai đoạn
này, người sinh viên phải đối mặt với những khó khăn nhất định cả về vật chất lẫn
tinh thần. Phần lớn sinh viên năm thứ nhất bắt đầu làm quen với cuộc sống xa gia
đình, phải học cách tự lập, tự chăm sóc bản thân, lại tiếp cận với môi trường Đại học –
Cao đẳng với nhiều hoạt động và các mối quan hệ mới mẻ nên không tránh khỏi những
bỡ ngỡ, lo lắng ban đầu. Sự thay đổi của môi trường, sự thay đổi của phương thức
hoạt động… đòi hỏi người sinh viên phải giải quyết những khó khăn để có thể học
tập tốt nhằm hình thành cơ sở vững chắc cho nghề nghiệp tương lai. Việc giải quyết
hiệu quả những khó khăn giúp cho sinh viên có niềm tin đúng đắn cho việc chọn
nghề, là cơ sở cũng như tạo điều kiện cho sự phát triển nhân cách được thuận lợi.
Trong sự phát triển nhân cách của sinh viên, cho dù đã dần đi vào ổn định
nhưng nó vẫn là một quá trình phức tạp, nảy sinh nhiều mâu thuẫn cần giải quyết
đặc biệt trong quá trình chuyển hoá những tri thức về nghề nghiệp từ bên ngoài
thành tri thức, kỹ năng về nghề của bản thân. Trong quá trình chuyển hoá những cái
bên ngoài thành cái bên trong, yếu tố quyết định cho sự phát triển này chính là bản
thân chủ thể người sinh viên. Chỉ khi nào người sinh viên nhận thức được những
khó khăn, nỗ lực tìm cách khắc phục những khó khăn đó thì mới có thể đạt được
hiệu quả mong muốn trong các hoạt động của mình và ngày càng hoàn thiện nhân
cách người sinh viên.
Về điều kiện sống và hoạt động của sinh viên trong gia đình và ngoài xã hội
thì sinh viên đã là một thành viên chính thức của xã hội, một người trưởng thành
với đầy đủ quyền hạn và nghĩa vụ công dân trước pháp luật, tuy nhiên sinh viên
năm thứ nhất chưa tự lập hoàn toàn vì còn lệ thuộc kinh tế vào gia đình. Trong
trường Đại học và Cao đẳng, sinh viên tham gia nhiều dạng hoạt động khác nhau
của Đoàn, Hội sinh viên... Sinh viên năm thứ nhất thường ít tham gia vào các hoạt
36
động nghiên cứu khoa học mà các dạng hoạt động cơ bản của sinh viên năm thứ
nhất thường là hoạt động học tập, hoạt động giao tiếp, hoạt động xã hội và sinh hoạt
của cá nhân.
Tóm lại, tuổi sinh viên là giai đoạn phát triển đạt đến độ trưởng thành cả về
sinh lý và tâm lý. Tuy nhiên, sự phát triển nhân cách của sinh viên không phải là
một con đường bằng phẳng, hoàn toàn thuận lợi mà gặp phải nhiều khó khăn vướng
mắc, đòi hỏi sự nỗ lực khắc phục của chính bản thân người sinh viên. Chính sự tích
cực, tự giác của sinh viên sẽ là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc hình thành và
phát triển các phẩm chất nhân cách của người chuyên gia trong tương lai.
1.3.2. Hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất
Từ những học sinh phổ thông đang học những tri thức cơ bản của cấp phổ
thông, lên Đại học – Cao đẳng sinh viên sẽ không khỏi bỡ ngỡ, lạ lẫm với các môn
học mới, cách thức tổ chức học tập mới, phương pháp giảng dạy mới, cuộc sống
mới… Và đặc trưng cơ bản của hoạt động học tập ở bậc Đại học – Cao đẳng so với
bậc phổ thông được xác định bởi sự khác biệt trong phương pháp học tập, cách thức
tổ chức học tập mà trong đó vai trò của người sinh viên là tích cực, chủ động dưới
sự hướng dẫn của giáo viên. Vì thế bên cạnh việc tự học ở nhà giờ đây sinh viên
phải tham gia các buổi thảo luận cũng như chuẩn bị các nội dung thảo luận, các câu
hỏi chất vấn, nên hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất cũng có những đặc
thù riêng.
Sinh viên năm thứ nhất bắt đầu làm quen với môi trường học tập mới, có
nhiều khác biệt so với việc học tập ở phổ thông, do vậy sinh viên cần phải thích
nghi với nội dung và phương pháp học tập mới mẻ. Với mục tiêu giảng dạy chuyển
từ cung cấp kiến thức là chủ yếu sang phát triển năng lực, phẩm chất của sinh viên
nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của người học vì thế sinh viên nói
chung và sinh viên năm thứ nhất nói riêng cần phải có kế hoạch học tập thật khoa
học, chủ động. Đặc biệt sinh viên năm thứ nhất là những người lần đầu được tiếp
xúc với các môn học, các phương pháp học tập mới, việc chuẩn bị các nội dung về
lý thuyết trước giờ lên lớp, tự học, thảo luận cũng như tham gia tranh luận trong các
buổi học yêu cầu sự chủ động rất cao. Do đó trong hoạt động học tập của mình, sinh
37
viên năm thứ nhất còn gặp nhiều vấn đề liên quan đến phương pháp học tập,
phương pháp giảng dạy, các điều kiện học tập, vấn đề về giao tiếp với Thầy Cô, bạn
bè ….
1.3.3. Những vấn đề thường gặp trong hoạt động học tập của sinh viên
năm thứ nhất
Dựa trên những đặc điểm tâm lý của sinh viên năm thứ nhất, đặc điểm hoạt
động học tập của sinh viên và tham khảo các công trình nghiên cứu trước đó, đồng
thời dựa trên kết quả khảo sát nhanh bằng phiếu điều tra mở về những vấn đề mà
sinh viên năm thứ nhất thường gặp phải trong hoạt động học, từ đó chúng tôi đưa ra
một số vấn đề cơ bản trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất đó là
những vấn đề liên quan đến nội dung học tập, phương pháp học tập, phương pháp
giảng dạy của giáo viên, vấn đề về giao tiếp và các điều kiện học tập khác. Dưới
đây là những vấn đề mà sinh viên năm thứ nhất hay gặp:
• Những vấn đề có liên quan tới nội dung học tập
Một trong những khó khăn của sinh viên năm thứ nhất trong quá trình học
tập đó chính là nội dung học tập. Nội dung học tập của sinh viên trong môi trường
Đại học – Cao đẳng không mang tính chất phổ thông mà mang tính chất chuyên
ngành. Sinh viên phải tiếp thu một khối lượng kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo chuyên
ngành, phạm vi hẹp hơn, nhưng sâu sắc và phức tạp hơn nhiều so với bậc học phổ
thông với các học phần như: Các môn khoa học cơ bản, các môn khoa học chuyên
ngành, các môn nghiệp vụ… Các môn học này đều có vị trí và vai trò như nhau bởi
sự đóng góp của nó trong quá trình hình thành và phát triển những phẩm chất và
năng lực của những chuyên gia, trí thức, những kĩ sư tương lai. Nhưng sinh viên
năm thứ nhất là những người vừa rời khỏi ghế nhà trường phổ thông, bước vào môi
trường học tập mới ở các trường Đại học – Cao đẳng, nên họ còn gặp nhiều khó
khăn khi tham gia vào hoạt động học tập cũng như các hoạt động khác. Ở phổ thông
học sinh lĩnh hội tri thức đã được biên soạn sao cho phù hợp với đặc điểm tâm lý
lứa tuổi. Còn ở Đại học – Cao đẳng sinh viên phải tiếp thu kiến thức cơ bản hệ
thống và có tính khoa học cao của một khoa học nhất định. Vì thế nó nảy sinh một
số vấn đề mà sinh viên năm thứ nhất thường phải đối diện như:
38
- Nội dung học tập khá mới mẻ, kiến thức nhiều và khó, sinh viên năm thứ
nhất chưa thích ứng kịp với nội dung học tập đa dạng.
- Kiến thức đòi hỏi suy luận nhiều
- Không nắm bắt kịp bài học
- Nhiều môn học còn tập trung vào lý thuyết thiếu thực tiễn
• Những vấn đề liên quan đến phương pháp học tập
Vấn đề mà sinh viên còn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động học tập đó
chính là phương pháp học tập. Sinh viên lĩnh hội kiến thức bằng phương pháp tự
nghiên cứu là chủ yếu, Thầy Cô chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn còn sinh viên
mới là trung tâm của quá trình dạy và học. Mục đích, nhiệm vụ học tập đòi hòi cao
nhưng sinh viên năm thứ nhất còn quen với cách học thuộc lòng máy móc, luôn
được Thầy Cô giám sát, đánh giá, kiểm tra liên tục và nội dung học thì có giới hạn
trong một khuôn khổ chung. Sinh viên thường áp dụng những phương pháp học ở
phổ thông, nhưng những phương pháp này không còn phù hợp với yêu cầu của hoạt
động học tập ở Đại học – Cao đẳng. Hoạt động học tập ở Đại học – Cao đẳng đòi
hỏi sinh viên phải tích cực, chủ động trong việc học của mình. Trong quá trình thích
nghi với những phương pháp học tập đa dạng thì sinh viên năm thứ nhất còn gặp
phải một số vấn đề như:
- Vấn đề tự học, ghi chép, tiếp thu bài giảng, lập kế hoạch học tập cụ thể
- Vấn đề tự nghiên cứu giáo trình, tham khảo tài liệu học tập, tìm kiếm thêm
tài liệu học tập
- Vấn đề học nhóm
• Những vấn đề liên quan tới phương pháp giảng dạy của giáo viên
Để nâng cao chất lượng giáo dục thì đổi mới phương pháp giảng dạy nói
chung là yêu cầu bắt buộc đối với việc giảng dạy ở mọi cấp độ, giúp người học
chuyển từ cách học bị động sang cách học chủ động. Đặc biệt là ở bậc Đại học –
Cao đẳng. Người giáo viên không còn đơn thuần là người truyền thụ kiến thức, mà
là người hướng dẫn, hỗ trợ sinh viên trong hoạt động học tập, còn sinh viên là trung
tâm của quá trình dạy và học. Chính vì vậy mà giáo viên thường xuyên sử dụng
nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau nhằm phát huy tính tích cực, chủ động,
39
sáng tạo của sinh viên trong quá trình lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Sinh viên
năm thứ nhất thường là những người vừa rời ghế nhà trường phổ thông đã quen với
những phương pháp giảng dạy truyền thống nên khi bước vào học tập ở Đại học –
Cao đẳng được làm quen với những phương pháp giảng dạy mới cho nên sinh viên
không tránh khỏi những bỡ ngỡ hay sẽ gặp phải một số vấn đề, khó khăn trong hoạt
động học tập như:
- Chưa kịp thích nghi với các phương pháp giảng dạy của Thầy Cô
- Một số giáo viên dạy quá nhanh
- Một số giáo viên dạy không trọng tâm, không liên hệ với thực tiễn
- Một số giáo viên dạy không hấp dẫn, không gây hứng thú cho sinh viên
• Những vấn đề liên quan tới hoạt động giao tiếp
Giao tiếp là điều kiện tất yếu của mọi hình thức hoạt động xã hội và cá nhân
của con người. Giao tiếp hiệu quả giữa sinh viên với giáo viên, bạn bè, với các cán
bộ phòng ban cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập của sinh viên. Do
sinh viên mới bước chân vào giảng đường Đại học – Cao đẳng còn lúng túng, thiếu
kinh nghiệm thực tế, một mặt do tâm lý sinh viên còn e ngại nên không dám mạnh
dạn trong quá trình giao tiếp với giáo viên, cán bộ phòng ban, với bạn bè. Từ đó,
sinh viên lúng túng, e ngại khi tiếp xúc cán bộ phòng ban hay khi trò chuyện với
Thầy Cô. Việc thiết lập mối quan hệ với bạn bè cũng gặp nhiều khó khăn, do các
bạn đến từ nhiều nơi khác nhau nên còn rụt rè khi trò chuyện, tâm sự cùng nhau.
Trong hoạt động giao tiếp sinh viên năm thứ nhất thường gặp một số vấn đề khó
khăn về giao tiếp xoay quanh các mối quan hệ sau:
- Giao tiếp với bạn bè
- Giao tiếp với Thầy Cô
- Giao tiếp với Cán bộ phòng ban trong trường
• Những vấn đề liên quan đến các điều kiện học tập khác
Ngoài những vấn đề liên quan tới nội dung học tập, phương pháp học tập của
sinh viên, phương pháp giảng dạy của giảng viên, các mối quan hệ giao tiếp của
sinh viên thì còn có một số những vấn đề khác cũng có những ảnh hướng nhất định
tới hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất như:
40
- Những vấn đề liên quan tới nội quy, quy chế đào tạo ở Đại học – Cao
đẳng
- Phương tiện học tập như internet, máy tính, tài liệu … còn thiếu
- Cơ sở vật chất như phòng học, máy chiếu…của nhà trường chưa đảm bảo
- Áp lực thi cử, kiểm tra đánh giá
Nói tóm lại sinh viên năm thứ nhất thường gặp một số vấn đề trong hoạt
động học tập làm ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập và quá trình rèn luyện
của sinh viên. Việc tìm ra các biện pháp giúp cho sinh viên năm thứ nhất giải quyết
tốt các vấn đề trong hoạt động học tập là việc làm cần thiết nhằm nâng cao kết quả
học tập của sinh viên, giúp sinh viên thành công trong hoạt động học tập cũng như
các hoạt động khác. Và quan trọng hơn cả là sự phát triển và hoàn thiện nhân cách
của sinh viên cho phù hợp với chuẩn mực xã hội, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao
của nhu cầu nghề nghiệp trong tương lai.
1.3.4. Kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh viên
năm thứ nhất
1.3.4.1. Khái niệm kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất
Mỗi tác giả khi nghiên cứu đều có những quan điểm khác nhau về kỹ năng
và kỹ năng GQVĐ. Tuy nhiên, các tác giả đều thống nhất kỹ năng GQVĐ là một kỹ
năng sống và được biểu hiện bằng kết quả quá trình giải quyết những vấn đề trên cơ
sở vận dụng tri thức và kinh nghiệm của mỗi cá nhân.
Từ những nghiên cứu và quan điểm của nhiều tác giả khác nhau trong điều
kiện nghiên cứu của mình, chúng tôi xem xét kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học
tập của sinh viên năm thứ nhất như sau:
Kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất là
khả năng thực hiện đúng các bước, các thao tác của quá trình GQVĐ để giải
quyết có kết quả và hợp lý những vấn đề trong hoạt động học tập dựa trên nền
tảng tri thức và kinh nghiệm của mỗi sinh viên
41
1.3.4.2. Cấu trúc kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất
Kỹ năng GQVĐ của sinh viên năm thứ nhất trong hoạt động học tập là một
hệ thống cấu trúc bao gồm các bước của quá trình GQVĐ với những thao tác cụ thể
như sau:
+ Bước thứ nhất: Nhận thức về vấn đề
Trong bước nhận thức về những vấn đề thường gặp trong hoạt động học tập
của sinh viên năm thứ nhất gồm có các thao tác:
- Nhận dạng vấn đề trong hoạt động học tập (vấn đề liên quan tới nội dung
học tập, phương pháp học tập, phương pháp giảng dạy, vấn đề về giao tiếp…)
- Xác định chủ thể GQVĐ, khả năng GQVĐ của chủ thể và các nguồn lực
hỗ trợ.
- Xác định hậu quả nếu vấn đề đó không được giải quyết.
- Xác định mục tiêu khi GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm
thứ nhất (bao gồm cả mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài).
+ Bước thứ hai: Hiểu vấn đề
Trong bước hiểu về những vấn đề thường gặp trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất gồm có các thao tác:
- Xác định những thông tin có liên quan đến vấn đề cần thu thập
- Xác định mâu thuẫn của vấn đề
- Xác định nguyên nhân của vấn đề
- Thao tác biểu đạt vấn đề
+ Bước thứ ba: Đề ra các phương án giải quyết
- Thao tác đưa ra các phương án khác nhau có thể sử dụng để giải quyết
những vấn đề thường gặp trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất.
+ Bước thứ tư: Lựa chọn phương án tối ưu
- Thao tác phân tích ưu, khuyết điểm và những rủi ro của từng phương án,
lựa chọn phương án tốt nhất để GQVĐ gặp phải trong hoạt động học tập của sinh
viên năm thứ nhất.
+ Bước thứ năm là: Tổ chức thực hiện
42
- Thao tác xác định công việc cụ thể cần làm khi tiến hành giải quyết những
vấn đề thường gặp trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất.
+ Bước thứ sáu: Kiểm tra đánh giá
- Thao tác xác định các yếu tố để đánh giá tính hiệu quả của quá trình giải
quyết những vấn đề thường gặp trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất.
Tóm lại kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất
bao gồm các bước với nhiều thao tác có quan hệ mật thiết với nhau và quy định lẫn
nhau.
1.3.4.3. Biểu hiện của kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh
viên năm thứ nhất
Dựa trên việc tìm hiểu những nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn của các tác
giả trong và ngoài nước về kỹ năng, kỹ năng GQVĐ chúng tôi đưa ra những biểu
hiện của kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất như
sau:
Về mặt nhận thức:
Nhận thức là sự hiểu một vấn đề nào đó, tiếp thu được những kiến thức về
điều nào đó, hiểu biết về những quy luật, những hiện tượng, quá trình nào đó [5].
Nhận thức là một trong những thành tố quan trọng của đời sống tâm lý con người.
Nhận thức giúp con người hiểu biết về các sự vật hiện tượng, từ đó bày tỏ thái độ
tình cảm và hành vi tương ứng.
Hoạt động học tập là một dạng hoạt động trí tuệ của con người nhằm lĩnh hội
tri thức, kỹ năng kinh nghiệm xã hội – lịch sử của xã hội loài người đã được tích luỹ
qua nhiều thế hệ. Và trong hoạt động học tập này sinh viên năm thứ nhất còn gặp
một số vấn đề làm ảnh hưởng tới hoạt động học tập. Những vấn đề đó chỉ được giải
quyết khi sinh viên nhận thức đầy đủ, rõ ràng, đúng bản chất “vấn đề” mình đang
gặp phải từ đó định hướng phương thức ứng xử, hình thành hành vi, kỹ năng phù
hợp để giải quyết hiệu quả và hợp lý các vấn đề đó. Ngược lại nếu không nhận thức
đầy đủ hoặc nhận thức sai lệch sẽ làm sinh viên xử lý sai cũng như tạo ra những trở
ngại về mặt tâm lý khi giải quyết các vấn đề trong hoạt động học tập của mình.
43
Kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất biểu
hiện trong nhận thức là:
- Nhận thức về tầm quan trọng của kỹ năng GQVĐ đối với hoạt động học tập
của sinh viên năm thứ nhất.
- Nhận thức về khái niệm kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh
viên năm thứ nhất.
- Nhận thức về các bước, các thao tác của quá trình GQVĐ trong hoạt động
học tập của sinh viên năm thứ nhất.
- Nhận thức đầy đủ về những vấn đề (những khó khăn) gặp phải trong hoạt
động học tập. Để đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi từ hoạt động học tập, sinh viên
phải nhận ra những khó khăn mà mình gặp phải và giải quyết vấn đề dựa trên việc
vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có trước đó.
Chỉ khi nào sinh viên nhận thức đầy đủ và rõ ràng về các vấn đề gặp phải
trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất, về kỹ năng GQVĐ, sinh viên sẽ
chuẩn bị tâm thế để giải quyết tốt các vấn đề trong hoạt động học tập.
Về mặt thái độ:
Đây là thái độ, tình cảm – xúc cảm của sinh viên đối với các vấn đề trong
hoạt động học tập. Khi sinh viên có thái độ tích cực, có xúc cảm dương tính với
những vấn đề trong hoạt động học tập sẽ tiến nhanh đến việc thực hiện hành vi
nhằm giải quyết các vấn đề. Cùng với nhận thức đúng đắn, chính thái độ giúp cho
sinh viên có mong muốn được thay đổi, điều chỉnh và giải quyết những vấn đề gặp
phải để hoạt động học tập có hiệu quả hơn. Thái độ tích cực, niềm tin, ý chí sẽ làm
cho những khó khăn, những trở ngại có trong quá trình học tập trở thành động lực
để sinh viên phát triển và hoàn thiện mình. Nếu nhận thức đúng đắn nhưng bản thân
sinh viên không quan tâm, không chủ động trong việc GQVĐ thì sẽ không thúc đẩy
hành vi diễn ra hoặc nếu có diễn ra cũng mang tính chất hình thức đại khái mà
không có sự nỗ lực, tích cực chủ động GQVĐ. Khi ấy, sinh viên sẽ không hình
thành được kỹ năng GQVĐ hoặc kỹ năng GQVĐ ở mức độ thấp.
Kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất thể hiện
trên bình diện thái độ là:
44
- Nghiêm túc trong hoạt động học tập
- Tích cực chủ động GQVĐ trong hoạt động học tập
- Quan tâm đến việc lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
- Chủ động hoà nhập với các điều kiện học tập: Mối quan hệ bạn bè, Thầy
Cô, môi trường học tập…
Về mặt hành vi:
Hành vi là kết quả của nhận thức và thái độ - xúc cảm, tình cảm. Hành vi là
“bộ mặt” của đời sống tâm lý. Kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh
viên năm thứ nhất biểu hiện ở hành vi chính là mức độ thực hiện các bước, các thao
tác khi GQVĐ trên cơ sở những tri thức, kinh nghiệm đã có.
Kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất biểu hiện ở
hành vi là:
- Biết vận dụng tri thức, kinh nghiệm đã có vào giải quyết những vấn đề cụ thể
trong hoạt động học tập thông qua một số tình huống giả định.
- Giải quyết hiệu quả và hợp lý những vấn đề nảy sinh trong hoạt động học tập
(nội dung học tập, phương pháp học tập, phương pháp giảng dạy của giáo
viên, mối quan hệ với Thầy Cô, bạn bè, các điều kiện học tập, …).
- Hình thành được kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập như: Xác định mục
tiêu, nhiệm vụ, lên kế hoạch GQVĐ, lựa chọn phương án tối ưu, kiểm tra,
đánh giá kết quả quá trình GQVĐ.
1.3.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học
tập của sinh viên năm thứ nhất
Trong quá trình học tập ở trường Đại học, Cao đẳng, kỹ năng GQVĐ của
sinh viên năm thứ nhất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Trong đề tài
này chúng tôi chỉ tập trung làm rõ một số yếu tố cơ bản có ảnh hưởng đến kỹ năng
GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất.
- Thứ nhất là những yếu tố từ phía nhà trường
Vào giảng đường Đại học – Cao đẳng, sinh viên năm thứ nhất là những học
sinh vừa rời khỏi ghế nhà trường phổ thông, bước vào một môi trường học tập mới
mẻ với nhiều khác biệt. Đứng trước bước chuyển đổi này, sinh viên năm thứ nhất sẽ
45
gặp nhiều sự thay đổi về môi trường sống, môi trường học tập. Để có thể đảm bảo
cho hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất được diễn ra suôn sẻ, đảm bảo
hiệu quả giáo dục thì nhà trường cần quan tâm tới những khó khăn hay những vấn
đề mà sinh viên năm thứ nhất thường gặp phải trong hoạt động học tập, giúp đỡ, hỗ
trợ kịp thời giúp cho sinh viên giải quyết tốt các vấn đề đó. Và một trong những
mục tiêu đào tạo của nhà trường đó là dạy kỹ năng cho sinh viên. Trong đó kỹ năng
GQVĐ là một kỹ năng sống quan trọng, giúp cho sinh viên giải quyết hiệu quả các
vấn đề không chỉ trong học tập mà ngay cả trong cuộc sống hàng ngày. Để tăng
cường kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập cho sinh viên năm thứ nhất thì bên
cạnh việc đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt
động học tập… Nhà trường cũng cần tổ chức chương trình học tập phù hợp giúp
cho sinh viên tăng cường hứng thú học tập, nâng cao hiệu quả học tập, cung cấp cho
sinh viên đầy đủ thông tin về nội quy, quy chế học tập, về nghề nghiệp,… tổ chức
các buổi giao lưu, hội thảo nhằm cung cấp, rèn luyện cho sinh viên những kỹ năng
sống cần thiết.
- Thứ hai là những yếu tố từ phía giáo viên và cán bộ phòng ban
Cán bộ, giáo viên là những người trực tiếp ảnh hưởng đến việc hình thành và
phát triển các kỹ năng cho sinh viên thông qua việc quản lý, tổ chức dạy và học. Sự
tác động của giáo viên đến sinh viên phụ thuộc vào trình độ, phẩm chất, năng lực sư
phạm của người giáo viên. Người giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, có
phương pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng cụ thể, sẽ có tác động to lớn
đến quá trình học tập của sinh viên. Muốn cho sinh viên nhận thức được vấn đề và
giải quyết vấn đề một cách hiệu quả thì giáo viên cần kết hợp các phương pháp
giảng dạy hiện đại, tích cực. Giáo viên thường xuyên sử dụng các phương pháp dạy
học phù hợp (phương pháp nêu vấn đề, thảo luận…) sẽ kích thích sinh viên tích cực
chiếm lĩnh tri thức, trong dạy học giáo viên gắn liền lý thuyết với thực tiễn, đưa ra
các tình huống cụ thể tạo điều kiện cho sinh viên suy nghĩ, phát hiện và giải quyết
các nhiệm vụ học tập. Ngoài ra, các mối quan hệ giao tiếp giữa sinh viên với bạn
bè, Thầy Cô, các cơ quan quản lý ở nhà trường cũng sẽ giúp cho sinh viên phát huy
tốt khả năng xử lý và giải quyết vấn đề.
46
- Thứ ba là những yếu tố từ phía bản thân sinh viên
Kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ
nhất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó có cả yếu tố thuộc về phía bản thân
sinh viên. Ở lứa tuổi này thì trí tuệ, kỹ năng,… của sinh viên đã phát triển ở trình độ
cao, có sự phối hợp uyển chuyển, linh động tuỳ theo từng hoàn cảnh có vấn đề. Tuy
nhiên, do hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất có những đặc trưng riêng
nên sinh viên năm thứ nhất còn gặp khó khăn, những vấn đề có liên quan đến hoạt
động học tập như: Nội dung học tập, phương pháp giảng dạy của Thầy Cô, phương
pháp học tập của bản thân, các mối quan hệ giao tiếp và các điều kiện học tập khác.
Do đó để hoạt động học tập hiệu quả hơn thì sinh viên cần phải giải quyết tốt các
vấn đề có liên quan tới hoạt động học tập. Muốn giải quyết được các vấn đề đó sinh
viên cần có tri thức và kinh nghiệm của bản thân. Vì vậy, sinh viên cần phải thực sự
làm chủ quá trình học tập, biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo, chủ động, tích
cực trong hoạt động học tập, vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, tích cực tham gia các
hoạt động đoàn thể và xã hội, rèn luyện các kỹ năng cần thiết để đáp ứng yêu cầu
của nghề nghiệp.
47
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Có nhiều công trình nghiên cứu về kỹ năng, nhưng tại Việt Nam các nghiên
cứu về kỹ năng GQVĐ, đặc biệt là kỹ năng GQVĐ của sinh viên vẫn còn rất hạn
chế, với số lượng khá khiêm tốn. Theo khảo sát của người nghiên cứu thì đến thời
điểm hiện tại vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu về kỹ năng giải quyết vấn đề
trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất.
Trong hoạt động học tập cũng như trong cuộc sống hàng ngày đều nảy sinh
nhiều vấn đề, tình huống có vấn đề mà mỗi cá nhân phải tìm ra phương thức để giải
quyết hiệu quả các vấn đề hay tình huống đó. Do vậy, kỹ năng giải quyết vấn đề là
vô cùng cần thiết và là một kỹ năng không thể thiếu với mỗi người đặc biệt là trong
môi trường, điều kiện học tập mới ở Đại học – Cao đẳng của sinh viên năm thứ
nhất.
Kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ
nhất chính là khả năng thực hiện đúng những thao tác của quá trình GQVĐ để giải
quyết có kết quả và hợp lý những vấn đề trong hoạt động học tập dựa trên nền tảng
tri thức và kinh nghiệm của mỗi sinh viên.
Kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ
nhất được biểu hiện ở ba mặt nhận thức – thái độ – hành vi. Dựa trên mức độ biểu
hiện để đánh giá sinh viên có kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập ở
mức thấp, trung bình hay mức cao.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học
tập của sinh viên năm thứ nhất nhưng nhìn chung thì có ba nhóm yếu tố có ảnh
hưởng nhiều tới kỹ năng này của sinh viên là những yếu tố xuất phát từ phía chính
bản thân sinh viên, những yếu tố từ phía giáo viên, cán bộ phòng ban và những yếu
tố từ phía nhà trường.
48
Chương 2. THỰC TRẠNG KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NĂM
THỨ NHẤT TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM LONG AN
2.1. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Mục đích nghiên cứu
Xác định thực trạng kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An.
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợp phương pháp điều tra bằng bảng hỏi và phương pháp
phỏng vấn trong đó phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp chính,
phương pháp phỏng vấn là phương pháp bổ trợ.
2.1.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Bảng hỏi được phát cho khách thể nghiên cứu là 400 sinh viên năm thứ nhất
của trường Cao đẳng Sư phạm Long An.
Bảng hỏi được thực hiện qua ba giai đoạn như sau:
∗ Giai đoạn 1:
Dựa trên những cơ sở lý luận của đề tài, chúng tôi tiến hành thiết kế bảng hỏi
mở gồm 5 câu hỏi về những vấn đề liên quan đến kỹ năng GQVĐ trong hoạt động
học tập của sinh viên năm thứ nhất. Sau đó, phát cho 100 sinh viên năm thứ nhất
của trường Cao đẳng Sư phạm Long An để thu thập những thông tin cần thiết làm
định hướng cho việc xây dựng bảng hỏi chính thức của đề tài.
∗ Giai đoạn 2:
Từ kết quả thu được sau khi phát bảng hỏi mở, cùng với những lý luận của
đề tài, chúng tôi tiến hành xây dựng bảng hỏi chính thức bao gồm các bảng hỏi như
sau:
Bảng hỏi thứ nhất dành cho khách thể nghiên cứu chính của đề tài gồm 9
câu, được phân thành các nội dung:
49
- Phần 1: Các câu hỏi về thông tin cá nhân của sinh viên, sẽ thu thập thông
tin về ngành học, giới tính của sinh viên.
- Phần 2: Câu hỏi về thực trạng những vấn đề trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất (câu 6) và những yếu tố ảnh hưởng tới kỹ năng GQVĐ trong
hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất (câu 8).
- Phần 3: Các câu hỏi về nhận thức của sinh viên với kỹ năng GQVĐ gồm:
+ Câu hỏi nhận thức của sinh viên năm thứ nhất về khái niệm kỹ năng
GQVĐ trong hoạt động học tập (câu 1).
+ Câu hỏi về thái độ của sinh viên năm thứ nhất đối với vai trò của kỹ năng
GQVĐ trong hoạt động học tập (câu 2).
+ Câu hỏi về thái độ rèn luyện kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất (câu 3).
+ Câu hỏi nhận thức của sinh viên năm thứ nhất về các bước của quá trình
GQVĐ trong hoạt động học tập (câu 4).
+ Câu hỏi nhận thức của sinh viên năm thứ nhất về các thao tác của quá
trình GQVĐ trong hoạt động học tập (câu 5).
- Phần 4: Câu hỏi về thực hành kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất
+ Tìm hiểu việc tự đánh giá của sinh viên về mức độ thực hiện các thao tác
của kỹ năng GQVĐ (câu 7).
+ Tìm hiểu về kết quả thực hiện GQVĐ trong những tình huống giả định
được thiết kế dựa trên những tình huống có thể/ đã xảy ra trong hoạt động học tập
của sinh viên năm thứ nhất (câu 9).
Bảng hỏi thứ hai dành cho khách thể nghiên cứu chính của đề tài, tìm hiểu
tính cần thiết và khả thi của một số biện pháp cụ thể nhằm cải thiện kỹ năng GQVĐ
trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất.
Bảng hỏi thứ ba dành cho khách thể nghiên cứu bổ trợ của đề tài là những
Thầy Cô đang trực tiếp giảng dạy các sinh viên (là khách thể đang nghiên cứu ở
trên). Bảng hỏi này được thiết kế bằng cách chọn lọc một số câu hỏi trong bảng hỏi
thứ nhất.
50
* Giai đoạn 3: Tiến hành phát phiếu điều tra chính thức. Kết quả thu về như sau:
+ Đối với bảng hỏi mở phát ra 100 phiếu, thu về 100 phiếu.
+ Đối với bảng hỏi chính thức dành cho sinh viên năm thứ nhất phát ra 400
phiếu, thu về 373 phiếu.
+ Đối với bảng hỏi dành cho Thầy Cô phát ra 30 phiếu, thu về 30 phiếu.
Cách quy đổi điểm
- Cho điểm tổng hợp chung
Đối với thang đo bậc 5: Điểm thấp nhất là 1, cao nhất là 5, chia làm 5 mức.
Theo đó ta có thang điểm như sau:
+ Từ 1.0 – 1.5: Kém
+ Từ 1.51 – 2.5: Yếu/Thấp
+ Từ 2.51 – 3.5: Trung bình
+ Từ 3.51 – 4.5: Tốt
+ Từ 4.51 – 5: Rất tốt/Cao
Đối với thang đo bậc 3: Điểm thấp nhất là 1, cao nhất là 3, chia làm 3 mức.
Theo đó ta có thang điểm như sau:
+ Từ 1.0 – 1.5: Yếu/Thấp
+ Từ 1.51 – 2.5: Trung bình
+ Từ 2.51 – 3.0: Tốt/Cao
- Cho điểm từng câu
Mỗi tình huống sẽ có 5 phương án trả lời phân bố đều theo hai phía, từ mức
tích cực nhất cho đến mức tiêu cực nhất. Tuy nhiên để tránh tình trạng khách thể
nghiên cứu lựa chọn toàn a hoặc toàn b theo dạng ngẫu nhiên nên việc cho điểm
không theo thứ tự a,b,c,d mà căn cứ vào từng tình huống. Cụ thể như sau:
Câu 9.1 Câu 9.2 Câu 9.3 Câu 9.4 Câu 9.5
5 điểm 4 điểm 2 điểm 1 điểm 3 điểm 2 điểm 4 điểm 3 điểm 5 điểm 1 điểm 1 điểm 5 điểm 2 điểm 3 điểm 4 điểm 3 điểm 2 điểm 5 điểm 4 điểm 1 điểm 4 điểm 3 điểm 2 điểm 1 điểm 5 điểm Tình huống Lựa chọn a b c d e
51
2.1.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Tiến hành phỏng vấn đối với các sinh viên năm thứ nhất, các giáo viên đang
giảng dạy sinh viên năm thứ nhất về kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất, góp phần làm rõ thực trạng kỹ năng GQVĐ trong hoạt động
học tập của sinh viên năm thứ nhất.
2.1.2.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phần mềm SPSS để tính tần số, điểm trung bình, tỷ lệ phần trăm, độ
lệch chuẩn và tiến hành các kiểm nghiệm … có liên quan đến đề tài để đánh giá.
2.1.3. Tiêu chí và thang đánh giá kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học
tập của sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An.
2.1.3.1. Cơ sở lý luận để xây dựng tiêu chí đánh giá kỹ năng GQVĐ trong
hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long
An.
Dựa vào quan niệm kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên
năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An là khả năng thực hiện đúng các
bước, các thao tác của quá trình GQVĐ để giải quyết có kết quả và hợp lý những
vấn đề trong hoạt động học tập dựa trên nền tảng tri thức và kinh nghiệm của
mỗi sinh viên. Do vậy, chúng tôi đánh giá mức độ biểu hiện của kỹ năng GQVĐ
trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long
An dựa trên hai tiêu chí sau:
+ Thứ nhất: Mức độ nhận thức của sinh viên về kỹ năng giải quyết vấn đề.
+ Thứ hai: Mức độ giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập thông qua các
tình huống giả định.
2.1.3.2. Tiêu chí đánh giá kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An
a. Tiêu chí 1: Mức độ nhận thức của sinh viên năm thứ nhất về kỹ năng giải
quyết vấn đề trong hoạt động học tập.
Tiêu chí này được đánh giá dựa trên nhận thức của sinh viên năm thứ nhất về:
52
- Tầm quan trọng của kỹ năng giải quyết vấn đề.
- Khái niệm kỹ năng giải quyết vấn đề.
- Các bước của quá trình giải quyết vấn đề.
- Các thao tác của quá trình giải quyết vấn đề.
b. Tiêu chí 2: Mức độ giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh viên
năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An được đánh giá dựa trên đáp án
của sinh viên cho những yêu cầu trong năm tình huống giả định.
2.1.3.3. Thang đánh giá kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh
viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An
Như đã trình bày ở trên, mức độ biểu hiện của kỹ năng GQVĐ trong hoạt
động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An được
đánh giá dựa trên hai tiêu chí: Mức độ nhận thức về kỹ năng GQVĐ và mức độ giải
quyết vấn đề trong hoạt động học tập thông qua các tình huống giả định.
Từ hai tiêu chí trên chúng tôi đánh giá mức độ biểu hiện kỹ năng GQVĐ
trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất theo 5 mức độ (từ 1-5 theo trình
tự từ thấp đến cao: Kém, Yếu, Trung Bình, Tốt, Rất Tốt tương ứng với mức độ biểu
hiện như sau:
1=Kém:
+ Nhận thức: Chưa nhận thức được về các vấn đề thường gặp trong hoạt
động học tập của sinh viên năm thứ nhất, tầm quan trọng của kỹ năng GQVĐ trong
hoạt động học tập, khái niệm, các bước, các thao tác của quá trình GQVĐ.
+ Thái độ: Không quan tâm, không tích cực tham gia giải quyết các vấn đề
trong hoạt động học tập.
+ Hành vi: Không thực hiện được các bước, các thao tác trong quá trình
GQVĐ, không giải quyết được vấn đề.
2=Yếu:
+ Nhận thức: Nhận thức rất hạn chế về các vấn đề thường gặp trong hoạt
động học tập của sinh viên năm thứ nhất, tầm quan trọng của kỹ năng GQVĐ trong
hoạt động học tập, khái niệm, các bước, các thao tác của quá trình GQVĐ.
53
+ Thái độ: Không tự giác, ít quan tâm tới việc giải quyết các vấn đề trong
hoạt động học tập.
+ Hành vi: Có thực hiện được các bước, các thao tác trong quá trình giải
quyết các vấn đề trong hoạt động học tập nhưng rất ít và đa số các thao tác còn sai,
có giải quyết được một phần của vấn đề.
3=Trung bình:
+ Nhận thức: Nhận thức tương đối đúng về các vấn đề thường gặp trong hoạt
động học tập của sinh viên năm thứ nhất, tầm quan trọng của kỹ năng GQVĐ trong
hoạt động học tập, khái niệm, các bước, các thao tác của quá trình GQVĐ.
+ Thái độ: Nghiêm túc và có tham gia vào việc giải quyết các vấn đề trong
hoạt động học tập.
+ Hành vi: Thực hiện tương đối đầy đủ các bước, các thao tác trong quá trình
giải quyết các vấn đề trong hoạt động học tập nhưng thao tác sai còn đáng kể, có
giải quyết được vấn đề.
4= Tốt:
+ Nhận thức: Nhận thức khá đúng và đầy đủ về các vấn đề thường gặp trong
hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất, tầm quan trọng của kỹ năng GQVĐ
trong hoạt động học tập, khái niệm, các bước, các thao tác của quá trình GQVĐ.
+ Thái độ: Quan tâm, chủ động tham gia vào việc giải quyết các vấn đề trong
hoạt động học tập.
+ Hành vi: Thực hiện tương đối đầy đủ các bước, các thao tác trong quá trình
giải quyết các vấn đề trong hoạt động học tập, các thao tác sai không đáng kể,
GQVĐ tương đối tốt.
5= Rất tốt:
+ Nhận thức: Nhận thức đúng và đầy đủ về các vấn đề thường gặp trong hoạt
động học tập của sinh viên năm thứ nhất, tầm quan trọng của kỹ năng GQVĐ trong
hoạt động học tập, khái niệm, các bước, các thao tác của quá trình GQVĐ.
+ Thái độ: Rất tích cực, chủ động tham gia vào việc giải quyết các vấn đề
trong hoạt động học tập.
+ Hành vi: Thực hiện đúng và đầy đủ các bước, các thao tác trong quá trình
54
giải quyết các vấn đề trong hoạt động học tập, GQVĐ rất tốt.
2.1.4. Khách thể và địa bàn khảo sát
2.1.4.1. Vài nét về trường Cao đẳng Sư phạm Long An.
Trường Cao đẳng Sư phạm Long An có tiền thân là trường Sư phạm Cấp II
tỉnh Long An, được thành lập ngày 26-11-1976, đến năm 1988 trường được nâng
cấp thành trường Cao đẳng Sư phạm. Năm 1989, thực hiện quyết định của Uỷ ban
nhân dân tỉnh Long An, các trường Sư phạm trong tỉnh gồm: Trường Sư phạm Cấp
II, trường Trung học Sư phạm, trường Bồi dưỡng Cán bộ Quản lý Giáo dục và
Trường Sư phạm Trung học Mầm non đã sát nhập thành trường Cao đẳng Sư phạm
đa hệ duy nhất của tỉnh Long An cho đến ngày nay. Với hơn 36 năm xây dựng và
phát triển, trường Cao đẳng Sư phạm Long An đã đào tạo hàng nghìn giáo viên có
trình độ, góp phần không nhỏ cho sự nghiệp giáo dục của tỉnh Long An [34].
Chức năng và nhiệm vụ của trường Cao đẳng Sư phạm Long An là đào tạo
và bồi dưỡng giáo viên Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở cho ngành giáo dục
của tỉnh. Những năm gần đây cùng với sự phát triển của xã hội, đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của xã hội thì trường đã phối hợp chặt chẽ với Sở giáo dục, liên kết
với các trường Đại học đào tạo thêm nhiều cử nhân Mầm non, Tiểu học, Tiếng
anh… Đứng trước yêu cầu, nhiệm vụ của ngành giáo dục Long An, việc nâng cao
chất lượng đội ngũ giáo viên sư phạm là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan
trọng. Hiện nay nhà trường rất quan tâm tới việc nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ cho giáo viên. Nhà trường đề ra chỉ tiêu đối với đội ngũ giáo viên sư
phạm đạt 50 % có trình độ thạc sĩ và 5 % có trình độ tiến sĩ [34].
Hàng năm, ngoài việc đào tạo sinh viên hệ sư phạm chính quy theo nhu cầu
của tỉnh thì nhà trường còn đào tạo sinh viên hệ chính quy ngoài sư phạm nhằm đáp
ứng nhu cầu về nguồn nhân lực của xã hội. Hiện tại, sinh viên năm thứ nhất của
trường đang theo học ở 9 chuyên ngành khác nhau thuộc hệ Sư phạm và ngoài Sư
phạm. Đa số sinh viên năm nhất của trường đều có ý thức học tập tốt và đều cố
gắng từ năm học đầu tiên.
55
2.1.4.2. Khách thể chính tham gia nghiên cứu
Bảng 2.1. Thống kê đặc điểm mẫu khách thể nghiên cứu
TT Chuyên ngành Giới tính Tổng
Nam Nữ Tần Tỷ lệ
số (%) Tần Tỷ lệ Tần Tỷ lệ
số (%) số (%)
6 20.7 23 79.3 29 7.8 Mĩ thuật 1
2 3.4 57 96.6 59 15.8 Giáo dục Tiểu học 2
30 100 0 0.0 30 8.0 Giáo dục Thể chất 3
0 0.0 44 100 44 11.8 Giáo dục Mầm non 4
10 47.6 11 52.4 21 5.6 Âm nhạc 5
3 6.0 47 94.0 50 13.4 Tiếng anh 6
20 24.7 61 75.3 81 21.7 Toán 7
7 38.9 11 61.1 18 4.8 Tin học 8
11 26.8 30 73.2 41 11.0 Ngữ văn 9
89 23.9 284 76.1 373 100 Tổng
Trong đề tài này chúng tôi tiến hành khảo sát:
+ 373 sinh viên đang học năm thứ nhất trường Cao đẳng sư phạm Long An
với các chuyên ngành: Mĩ thuật, Giáo dục thể chất, Giáo dục Tiểu học, Giáo dục
Mầm non, Âm nhạc, Tiếng anh, Tin học, Ngữ văn, Toán hệ Cao đẳng Sư phạm
chính qui khoá 38 (2013-2016) của trường Cao đẳng Sư phạm Long An. Trong đó
có 89 sinh viên nam (23.9%) và 284 (76.1%).
+ 30 giáo viên đang giảng dạy sinh viên năm thứ nhất của trường Cao đẳng
Sư phạm Long An.
2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động
học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An.
2.2.1. Những vấn đề của sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư
phạm Long An trong hoạt động học tập.
56
2.2.1.1. Kết quả chung về những vấn đề của sinh viên năm thứ nhất
trường Cao đẳng Sư phạm Long An trong hoạt động học tập.
Bảng 2.2. ĐTB và thứ hạng tổng quát các nhóm vấn đề của sinh viên năm thứ
nhất
T Các nhóm vấn đề Sinh viên Giáo viên
T ĐTB ĐLC Thứ ĐTB ĐLC Thứ
hạng hạng
1 Nội dung học tập 3.49 0.47 2 3.74 0.51 2
2 Phương pháp học tập 0.55 1 0.58 1 3.76 3.83
3 Phương pháp giảng dạy của 3.21 0.70 4 3.23 0.54 3
giáo viên
4 Giao tiếp 3.11 0.62 5 3.23 0.54 3
5 Điều kiện học tập khác 3.33 0.74 3 2.96 0.51 4
ĐTB chung 3.36 3.37
Từ học sinh phổ thông khi vào học ở giảng đường Đại học – Cao đẳng, sinh
viên năm thứ nhất chắc hẳn sẽ không tránh khỏi những bỡ ngỡ khi đối mặt với các
vấn đề khác nhau trong hoạt động học tập. Bảng 2.2 liệt kê những nhóm vấn đề cơ
bản của sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An. Kết quả thống
kê cho thấy, không có vấn đề nào có ĐTB dưới 2.51, ĐTB chung là 3.36 chứng tỏ
các nhóm vấn đề cơ bản được liệt kê của sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng
Sư phạm Long An đều đã gặp phải trong hoạt động học tập ở mức thỉnh thoảng trở
lên. Về phía giáo viên cũng có cùng đánh giá như sinh viên với ĐTB=3.37.
Trong năm nhóm vấn đề cơ bản nêu trên, nhóm vấn đề đạt ĐTB trên 3.51 ở
mức thường xuyên, đó là vấn đề liên quan đến “phương pháp học tập” với ĐTB là
3.76 (có thứ hạng cao nhất). Tiếp theo là vấn đề liên quan tới “nội dung học tập”
với ĐTB = 3.49, ở vị trí thứ ba là vấn đề liên quan đến “điều kiện học tập” với
ĐTB=3.33. Sau đó là nhóm vần đề liên quan tới “phương pháp giảng dạy của giáo
viên” với ĐTB = 3.21 và vấn đề về “giao tiếp” với ĐTB = 3.11, những nhóm vấn
đề này sinh viên năm thứ nhất thường gặp phải ở mức độ thỉnh thoảng.
57
Vấn đề liên quan tới phương pháp học tập là nhóm vấn đề mà sinh viên năm
thứ nhất gặp phải ở mức độ thường xuyên. Điều này có thể giải thích do sự khác
biệt trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất so với học sinh phổ thông.
Phương pháp học tập ở phổ thông không còn phù hợp với hoạt động học tập ở Đại
học – Cao đẳng. Hoạt động học tập ở Đại học – Cao đẳng đòi hỏi các sinh viên phải
tích cực, chủ động trong việc lĩnh hội tri thức. Sinh viên N.Đ.P (lớp Tin học) cho
biết: “em quen với cách học ở phổ thông, nên khi mới vào học em thấy rất khó tiếp
thu hết bài học”. Bên cạnh đó việc thay đổi hoạt động học tập cho phù hợp với
phương pháp học mới ở Đại học – Cao đẳng cũng là một thử thách đối với các em.
Những vấn đề cụ thể liên quan tới hoạt động học tập được phân tích sâu hơn ở phần
sau, nhưng ở khía cạnh này cũng lưu ý về việc cung cấp cho sinh viên năm thứ nhất
những phương pháp học tập hiệu quả là một điều thiết yếu giúp sinh viên năm thứ
nhất không quá bỡ ngỡ và hụt hẫng khi bước vào môi trường học tập ở Đại học –
Cao đẳng.
Biểu đồ 2.1. Mức độ gặp phải các nhóm vấn đề trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất
Số liệu thống kê về phía giáo viên cũng cho thấy có sự tương đồng giữa giáo
viên và sinh viên khi đánh giá mức độ gặp phải các nhóm vấn đề trong hoạt động
học tập của sinh viên năm thứ nhất. Trong năm nhóm vấn đề cơ bản trên thì giáo
viên đánh giá vấn đề sinh viên năm thứ nhất gặp thường xuyên nhất là vấn đề liên
quan đến phương pháp học tập với ĐTB là 3.83 rơi vào mức thường xuyên (sinh
58
viên cũng đánh giá vấn đề này có thứ hạng cao nhất). Vấn đề tiếp theo là vấn đề liên
quan đến nội dung học tập với ĐTB là 3.74 ở mức độ thường xuyên. Là người trực
tiếp giảng dạy sinh viên năm thứ nhất nên giáo viên đánh giá vấn đề liên quan tới
phương pháp học tập và nội dung học tập là những nhóm vấn đề mà sinh viên gặp
phải ở mức độ thường xuyên, cao hơn so với đánh giá của sinh viên về những vấn
đề trong hoạt động học tập. Các vấn đề còn lại đều được giáo viên đánh giá ở mức
thỉnh thoảng như phương pháp giảng dạy của giáo viên, giao tiếp, các điều kiện học
khác.
2.2.1.2. Kết quả cụ thể về những vấn đề của sinh viên năm thứ nhất trong
hoạt động học tập
a. Nội dung học tập
Nội dung học tập ở trường Đại học – Cao đẳng có nhiều khác biệt so với
trường phổ thông, nhiều khái niệm, kiến thức mới, khối lượng kiến thức cũng nhiều
hơn. Chính vì thế sinh viên năm thứ nhất thường bỡ ngỡ và gặp không ít khó khăn
trong quá trình lĩnh hội tri thức.
Bảng 2.3. Một số vấn đề cụ thể liên quan tới nội dung học tập
Các vấn đề cụ thể Sinh viên Giáo viên T
T ĐTB ĐLC Thứ ĐTB ĐLC Thứ
hạng hạng
1 Nội dung học tập đa dạng 3.43 0.78 0.66 3 1 4.20
2 Nhiều bài học khó nên 0.81 3.33 0.54 2 4 3.64
không nắm bắt kịp
3 Kiến thức đòi hỏi phải suy 0.80 0.69 1 2 3.90 4.00
luận nhiều
4 Nhiều môn học còn tập trung 2.99 0.85 3.43 0.85 4 3
lý thuyết, thiếu thực tiễn
ĐTB chung 3.49 3.74
Trong bốn vấn đề cụ thể liên quan tới nội dung học tập ở bảng 2.3 cho thấy
vấn đề “kiến thức đòi hỏi suy luận nhiều” xếp thứ hạng cao nhất với ĐTB là 3.90, ở
59
mức độ thường xuyên gặp phải (47.2% thường xuyên và 23.3% rất thường xuyên).
Với vấn đề này giáo viên cũng cho rằng sinh viên gặp phải ở mức độ thường xuyên
(ĐTB=4.00, có đến 83.3% giáo viên đánh giá ở mức độ thường xuyên trở lên). Kế
đến là vấn đề “nhiều bài học khó nên không nắm bắt kịp” với ĐTB =3.64, có đến
52.9 % sinh viên đánh giá ở mức thường xuyên trở lên. Sinh viên N.T.H (lớp Mầm
non) nói: “mới đầu năm học mà có nhiều môn học mới quá, em thấy khó, có nhiều
bài học trên lớp em không hiểu hết được”.
Hai vấn đề tiếp theo là “nội dung học tập đa dạng” và “nhiều môn học còn
tập trung lý thuyết, thiếu thực tiễn” được sinh viên đánh giá ở mức độ thỉnh thoảng
với ĐTB lần lượt là 3.43 và 2.99. Tuy nhiên vẫn có đến 22.6% sinh viên đánh giá
vấn đề “nhiều môn học còn tập trung lý thuyết, thiếu thực tiễn” ở mức thường
xuyên trở lên. Cũng có đến 43% giáo viên đánh giá sinh viên thường xuyên gặp
phải vấn đề này. Sinh viên T.H.H (lớp Tin học) nói: “có những môn học em chỉ học
lý thuyết trên lớp, không có giờ thực hành nên không hiểu hết”. Điều này thật đáng
quan tâm, nên chăng cần có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn để sinh viên có
thể nắm bắt hết được nội dung bài học.
b. Vấn đề liên quan đến phương pháp học tập
Bảng 2.4. Một số vấn đề cụ thể liên quan tới phương pháp học tập
Các vấn đề cụ thể T T
1 Chưa kịp Sinh viên ĐTB ĐLC Thứ hạng 1 0.81 Giáo viên ĐTB ĐLC Thứ hạng 2 0.66 4.12 3.97
thích ứng với những phương pháp học tập mới
2 Khả năng tự học ở nhà còn 3.65 0.94 3.70 0.70 4 3 yếu
3 Thiếu kỹ năng học tập 4 Gặp khó khăn trong việc học 3.35 3.91 0.93 0.92 3.97 3.67 0.76 0.66 6 3 2 4 nhóm
5 Chưa biết cách tự nghiên 0.97 0.78 2 1 3.95 4.07 cứu giáo trình
6 Chưa biết cách lập kế hoạch 3.58 0.96 3.67 0.88 5 4 học tập
ĐTB chung 3.76 3.83
60
Có sáu vấn đề cụ thể có liên quan đến phương pháp học tập, trong đó có đến
năm vấn đề được sinh viên đánh giá ở mức độ thường xuyên, chỉ có vấn đề “thiếu
kỹ năng học tập” ở mức độ thỉnh thoảng. Vấn đề “chưa kịp thích ứng với những
phương pháp học tập mới” có thứ hạng cao nhất với ĐTB là 4.12, có đến 76.9%
sinh viên lựa chọn ở mức thường xuyên trở lên (39.9% thường xuyên và 37.0% rất
thường xuyên). Kết quả này cho thấy do cách dạy và cách học ở phổ thông còn khác
nhiều so với phương pháp học tập ở Đại học - Cao đẳng nên các em còn gặp khó
khăn khi làm quen với phương pháp học tập mới. Sinh viên H.T.T (lớp Toán) cho
biết:“em đã quen cách học ở trường phổ thông, lên đây phương pháp học cũng
khác, em phải chủ động, tự học nhiều hơn, ngoài giáo trình em phải đọc thêm nhiều
tài liệu khác”. Phương pháp học tập là cách thức thực hiện các nhiệm vụ học tập
của sinh viên. Khi bước vào môi trường học tập ở Đại học – Cao đẳng, sinh viên
tiếp cận với nhiều môn học mới, khối lượng kiến thức lớn và phương pháp giảng
dạy mới của giáo viên. Để việc học tập có hiệu quả thì mỗi sinh viên phải tích cực,
chủ động hơn trong việc học, tìm ra cho bản thân những phương pháp học tập phù
hợp và hiệu quả.
Vấn đề tiếp theo là “chưa biết cách tự nghiên cứu giáo trình” với ĐTB là
3.95 và có 71.3% sinh viên lựa chọn ở mức độ thường xuyên trở lên (37.8% thường
xuyên và 33.5% rất thường xuyên). Sinh viên N.T.H.N (lớp Tiếng anh) chia sẻ: “ở
trường có nhiều những môn học mới, tài liệu tham khảo thì nhiều, em không biết
làm sao để tổng hợp kiến thức”. Các vấn đề kế tiếp là: Gặp khó khăn trong việc học
nhóm (ĐTB=3.91), Khả năng tự học ở nhà còn yếu (ĐTB=3.65), Chưa biết cách lập
kế hoạch học tập (ĐTB=3.58). Vấn đề có thứ hạng thấp nhất và được sinh viên đánh
giá ở mức thỉnh thoảng là “thiếu kỹ năng học tập” có ĐTB=3.35, chỉ có 11% sinh
viên đánh giá vấn đề này ở mức rất thường xuyên, có tới 39.4% sinh viên thỉnh
thoảng mới gặp phải vấn đề này.
Có cùng đánh giá với sinh viên khi giáo viên cho rằng vấn đề sinh viên
thường xuyên gặp phải là vấn đề liên quan tới phương pháp học tập (ĐTB=3.97).
Tuy nhiên vấn đề “chưa biết cách tự nghiên cứu giáo trình” lại xếp thứ hạng cao
nhất với ĐTB là 4.07 có đến 90% giáo viên lựa chọn ở mức độ thường xuyên trở
61
lên. Cô M.T cho biết: “hầu như các em sinh viên năm nhất còn chưa biết đúc kết
kiến thức từ giáo trình và tài liệu tham khảo”. Giáo viên đánh giá vấn đề “thiếu kỹ
năng học tập” có ĐTB 3.97, ở mức thường xuyên (trong khi đó sinh viên cho rằng
vấn đề này chỉ ở mức độ thỉnh thoảng với ĐTB 3.35), như vậy giáo viên đánh giá
kỹ năng học tập của sinh viên vẫn còn thấp.
Qua đây ta thấy, sinh viên năm thứ nhất còn gặp nhiều vấn đề liên quan tới
phương pháp học tập. Vì thế cần lưu ý cung cấp cho sinh viên những kiến thức cần
thiết về các phương pháp học tập hiệu quả.
c. Vấn đề về phương pháp giảng dạy của giáo viên
Bảng 2.5. Một số vấn đề cụ thể liên quan tới phương pháp giảng dạy của giáo
viên
T Các vấn đề có liên quan Sinh viên Giáo viên
T đến phương pháp giảng ĐTB ĐLC Thứ ĐTB ĐLC Thứ
dạy của giáo viên hạng hạng
1 Chưa kịp thích nghi với 0.87 1 0.65 1 3.54 3.70
phương pháp giảng dạy của
giáo viên
2 Một số giáo viên dạy quá 3.31 0.91 3.00 0.52 3 4
nhanh
5 2 3 Một số giáo viên dạy không 2.90 1.03 3.17 0.79
trọng tâm, không liên hệ
thực tiễn
4 Một số giáo viên dạy không 3.36 0.96 2 3.13 0.50 3
gây hứng thú cho sinh viên
trong học tập
5 Giáo viên không áp dụng 2.98 1.01 4 3.17 0.79 2
nhiều phương pháp giảng
dạy mới
ĐTB chung 3.21 3.23
62
Nhìn vào bảng 2.5 cho thấy trong năm vấn đề cụ thể có liên quan tới phương
pháp giảng dạy của giáo viên thì chỉ có vấn đề “chưa kịp thích nghi với phương
pháp giảng dạy của giáo viên” được đánh giá ở mức độ thường xuyên gặp phải với
ĐTB=3.54 và xếp thứ hạng cao nhất. Có đến 51.2% sinh viên đánh giá ở mức độ
thường xuyên trở lên (37.5% thường xuyên, 13.7% rất thường xuyên), trong khi đó
chỉ có 1.3% sinh viên cho rằng mình không bao giờ gặp phải vấn đề này. Điều này
cho thấy sinh viên năm thứ nhất còn gặp nhiều khó khăn với phương pháp giảng
dạy của giáo viên. Có thể lý giải điều này là do những thay đổi trong phương pháp
giảng dạy của giáo viên so với bậc học phổ thông. Phương pháp dạy ở đại học là
dạy cho sinh viên phương pháp tự học để chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, phát
huy sự chủ động, tích cực, sáng tạo của sinh viên. Trong quá trình dạy học người
giáo viên chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn, giúp đỡ sinh viên trong hoạt động
học tập, còn sinh viên là trung tâm trong quá trình dạy và học. Để làm được như vậy
đòi hỏi có sự hợp tác chặt chẽ, nhịp nhàng giữa giáo viên và sinh viên. Mà sinh viên
năm thứ nhất thường là những người mới rời khỏi trường phổ thông nên không
tránh khỏi những bỡ ngỡ hay chưa kịp làm quen với phương pháp giảng dạy của
giáo viên.
Trong bốn vấn đề còn lại có liên quan tới phương pháp giảng dạy của giáo
viên đều được sinh viên đánh giá ở mức thỉnh thoảng với ĐTB dưới 3.51. Ở vị trí
thứ hai đó là vấn đề “một số giáo viên dạy không gây hứng thú cho sinh viên trong
học tập” có ĐTB=3.36 với 45.4% sinh viên đánh giá ở mức thường xuyên trở lên.
Vấn đề kế tiếp là “một số giáo viên dạy quá nhanh” có ĐTB = 3.31, “giáo viên
không áp dụng nhiều phương pháp giảng dạy mới” có ĐTB =2.98 (vẫn còn 27.6%
sinh viên đánh giá ở mức thường xuyên trở lên), “một số giáo viên dạy không trọng
tâm, không liên hệ thực tiễn” có ĐTB = 2.90. Sinh viên N.Y (lớp Âm nhạc) cho
biết: “giáo viên bộ môn không nhấn mạnh trọng tâm bài học, các em cần ghi nhớ
chỗ nào, có lẽ giáo viên nghĩ rằng chúng em phải tự tìm ra. Vì thế làm tụi em khó
khăn trong tiếp thu bài giảng”. Với kết quả như vậy, chúng ta cần lưu ý tới những
đánh giá của sinh viên, điều chỉnh phương pháp giảng dạy của giáo viên cho phù
hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn, áp dụng nhiều phương pháp giảng
63
dạy khác nhau để kích thích hứng thú học tập của sinh viên. Có như vậy, thì hiệu
quả học tập của sinh viên sẽ được nâng cao.
Khi xem xét đánh giá của giáo viên về những vấn đề sinh viên gặp phải trong
phương pháp giảng dạy của giáo viên thì giáo viên cũng có cùng đánh giá với sinh
viên khi cho rằng vấn đề sinh viên năm thứ nhất thường xuyên gặp phải đó là “chưa
kịp thích ứng với phương pháp giảng dạy của giáo viên” có ĐTB =3.70 (có thứ
hạng cao nhất). Có đến 73.3% giáo viên đánh giá ở mức thường xuyên trở lên. Bốn
vấn đề còn lại đều được giáo viên đánh giá ở mức thỉnh thoảng sinh viên gặp phải
với ĐTB dưới 3.51. Điều đó chứng tỏ với sinh viên năm thứ nhất còn gặp nhiều khó
khăn khi làm quen với các phương pháp giảng dạy của giáo viên khi học tập ở môi
trường Đại học – Cao đẳng.
d. Vấn đề về giao tiếp
Bảng 2.6. Một số vấn đề cụ thể liên quan tới giao tiếp
T T Các vấn đề có liên quan đến giao tiếp
1 Bạn bè ít gần gũi, thân thiện 2 Dễ nảy sinh mâu thuẫn với Sinh viên ĐTB ĐLC Thứ hạng 6 8 2.63 2.35 1.07 1.04 Giáo viên ĐTB ĐLC Thứ hạng 1 8 0.63 0.54 3.50 2.90
bạn bè
3 Chưa có nhóm bạn học tập, 2.50 1.18 0.77 7 2 3.47
4 0.90 3.20 0.71 1 6 3.86
vui chơi Ít thời gian để trò chuyện cùng giáo viên
5 Giáo viên không thân thiện 3.20 0.95 3.23 0.81 5 5
với sinh viên
6 Khó liên hệ với các cán bộ 3.50 0.92 2.93 0.82 3 7
phòng ban
0.96 3.40 0.93 2 3 3.65
7 Không dám trình bày thắc mắc với cán bộ phòng ban 8 Bản thân thiếu kỹ năng giao 3.25 0.99 3.27 0.90 4 4
tiếp
ĐTB chung 3.11 3.23
64
Trong tám vấn đề cụ thể liên quan tới giao tiếp thì có hai vấn được sinh viên
đánh giá ở mức độ thường xuyên gặp phải và sáu vấn đề còn lại ở mức độ thỉnh
thoảng. Vấn đề mà sinh viên đối diện nhiều nhất là “ít thời gian để trò chuyện cùng
giáo viên” với ĐTB = 3.86, có đến 82.6% sinh viên lựa chọn ở mức độ thường
xuyên trở lên (49.3% thường xuyên và 23.3% rất thường xuyên). Có đến 44% sinh
viên thỉnh thoảng vẫn gặp vấn đề “giáo viên không thân thiện với sinh viên”, 37.3%
sinh viên đánh giá ở mức thường xuyên trở lên. Bên cạnh đó là vấn đề “không dám
trình bày thắc mắc với cán bộ phòng ban” (có vị trí thứ 2) mà sinh viên thường
xuyên gặp phải với ĐTB =3.65. Chỉ có 2.4% sinh viên không gặp phải vấn đề này.
Có đến 43.3% giáo viên cho rằng sinh viên thường xuyên gặp phải vấn đề này. Sinh
viên năm thứ nhất cho rằng có ít thời gian để trò chuyện với giáo viên, khi có khó
khăn hay thắc mắc các em không dám trình bày với cán bộ các phòng ban, các em
cảm thấy “khó liên hệ với cán bộ các phòng ban” (vấn đề này đứng ở vị trí thứ ba,
ĐTB = 3.50) có 53.1% sinh viên đánh giá ở mức thường xuyên trở lên. Qua phỏng
vấn sinh viên thì bạn H.T.N chia sẻ: “em cũng muốn trò chuyện với các giáo viên,
nhưng ngoài thời gian ở trên lớp thì em không biết gặp giáo viên ở đâu”. Một bạn
sinh viên lớp Ngữ văn cho biết “khi có vấn đề gì thắc mắc em thường hỏi lớp
trưởng hoặc các bạn chứ em không dám hỏi nhân viên các phòng ban, thái độ của
họ rất khó chịu khi tiếp xúc”.
Chúng ta cần quan tâm tới vấn đề này bởi vì trong số rất nhiều mối quan hệ
giao tiếp của sinh viên năm thứ nhất, các em lại có khó khăn nhiều nhất khi giao
tiếp với cán bộ phòng ban và giáo viên, mà trên thực tế các em lại phải làm việc với
những đối tượng này rất nhiều trong quá trình học tập. Sinh viên năm thứ nhất còn
nhiều bỡ ngỡ, trở ngại, không mạnh dạn và còn ít chủ động trong giao tiếp. Vì vậy
nên chăng các Thầy, Cô , cán bộ các phòng ban khi giao tiếp với sinh viên năm thứ
nhất cần phải lưu ý để điều chỉnh cách giao tiếp, giúp các em cảm thấy được chào
đón, thân thiện và thoải mái hơn, qua đó giúp các em giảm bớt những khó khăn
trong học tập và cuộc sống.
Đứng thứ tư là một vấn đề liên quan tới kỹ năng giao tiếp, sinh viên năm thứ
nhất đánh giá vấn đề “bản thân thiếu kỹ năng giao tiếp” với 38.3% sinh viên lựa
65
chọn ở mức độ thỉnh thoảng, ĐTB =3.25. Những vấn đề còn lại “bạn bè ít gần gũi
thân thiết” (ĐTB=2.63) ở mức độ thỉnh thoảng và các em cho rằng hiếm khi gặp
phải vấn đề “dễ nảy sinh mâu thuẫn với bạn bè”, “chưa có nhóm bạn học tập, vui
chơi” với ĐTB dưới 2.51 (chỉ có 3.2% sinh viên lựa chọn mức độ rất thường xuyên
gặp phải vấn đề này). Những đánh giá của giáo viên cũng cho rằng sinh viên thỉnh
thoảng mới gặp phải vấn đề liên quan tới giao tiếp với bạn bè và có ĐTB dưới 3.51.
Như vậy có thể thấy mối quan hệ giao tiếp với bạn bè của các em khá tốt. Sinh viên
N.T.N (lớp Nhạc) nói:“Chúng em cùng đi học xa nhà, nên hiểu nhau, dễ trò chuyện,
chia sẻ, và giúp đỡ nhau trong học tập hay cuộc sống”.
e. Vấn đề liên quan đến các điều kiện học tập khác
Bảng 2.7. Một số vấn đề cụ thể liên quan tới các điều kiện học tập khác
T Các vấn đề có liên quan Sinh viên Giáo viên
T đến điều kiện học tập ĐTB ĐLC Thứ ĐTB ĐLC Thứ
khác hạng hạng
1 Cơ sở vật chất trường chưa 3.26 1.09 3 0.56 1 3.23
đầy đủ (máy chiếu, micro,
quạt…)
2 Thời khóa biểu học tập 3.03 1.09 3.00 0.74 5 3
chưa hợp lí
3 Áp lực trong thi cử 0.93 2.97 0.76 1 4 3.73
4 Thiếu phương tiện học tập 3.07 1.18 3.17 0.64 4 2
(máy tính, internet…)
5 Khó khăn trong việc tìm tài 3.46 1.11 2.77 0.72 2 5
liệu tham khảo
ĐTB chung 3.33 2.96
Kết quả thống kê cho thấy, trong năm vấn đề cụ thể có liên quan đến các
điều kiện học tập khác thì chỉ có một vấn đề được lựa chọn ở mức thường xuyên,
năm vấn đề còn lại đều ở mức thỉnh thoảng. Đó là vấn đề “áp lực trong thi cử” (có
thứ hạng cao nhất) ĐTB = 3.73, có đến 64.1% sinh viên đánh giá ở mức thường
66
xuyên trở lên (43.2% thường xuyên, 20.9% rất thường xuyên). Xếp thứ hai là “khó
khăn trong việc tìm tài liệu tham khảo” với ĐTB = 3.46 ở mức thỉnh thoảng. Vẫn
có đến 35.4% sinh viên thường xuyên đối diện với vấn đề này. Giáo viên cũng cho
rằng thỉnh thoảng sinh viên cũng gặp phải vấn đề này (ĐTB=2.77, có 43.3% giáo
viên lựa chọn mức thỉnh thoảng). Chúng ta cần quan tâm tới vấn đề này, vì ngoài
giáo trình thì tài liệu tham khảo là rất cần thiết cho sinh viên trong quá trình học tập
và nghiên cứu.
Các vấn đề tiếp theo liên quan tới những điều kiện cơ sở vật chất của nhà
trường, phương tiện học tập, thời khoá biểu học tập chưa hợp lý đều ở mức thỉnh
thoảng. Với những điều kiện học tập thuận lợi thì sinh viên sẽ chủ động, tích cực hơn
trong việc tự học, tự trau dồi các kiến thức cần thiết. Tuy nhiên cũng còn một số sinh
viên chưa được hài lòng với cở sở vật chất nhà trường như sinh viên Đ.T.B.N (lớp Tiểu
học) cho biết: “em không có máy tính, máy ở thư viện còn ít nên thường phải ra ngoài
thuê máy để làm bài tập”. Hay một sinh viên lớp Mĩ thuật nói: “chúng em hay phải
học giảng đường, hai ba lớp học chung một giảng đường, rất chật chội. Nhiều khi một
buổi sáng thay đổi tới mấy phòng học”.
2.2.2. Thực trạng kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An.
2.2.2.1. Nhận thức của sinh viên năm thứ nhất về kỹ năng giải quyết vấn đề
a. Đánh giá của sinh viên năm thứ nhất về vai trò của kỹ năng giải quyết
vấn đề
Bảng 2.8. Đánh giá về vai trò của kỹ năng GQVĐ trong HĐHT
TT Mức độ quan trọng Sinh viên Giáo viên
Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ %
1 Hoàn toàn không quan trọng 2 Không quan trọng 3 Bình thường 4 Quan trọng 5 Rất quan trọng 2 1 35 213 127 0.5 0.3 9.3 57.1 32.7 0 0 0 11 19 0.0 0.0 0.0 36.6 63.3
ĐTB 3.82 4.57
67
Kết quả thống kê cho thấy điểm trung bình nhận thức của sinh viên về tầm
quan trọng của kỹ năng giải quyết vấn đề là 3.82, chứng tỏ sinh viên có nhận thức
khá tốt về tầm quan trọng của kỹ năng giải quyết vấn đề. Có đến 57.1% sinh viên
đánh giá kỹ năng GQVĐ là “rất quan trọng” và 32.7% lựa chọn “quan trọng”. Chỉ
có 10.1% sinh viên năm thứ nhất cho rằng kỹ năng GQVĐ là bình thường, không
quan trọng với hoạt động học tập. Rõ ràng, sinh viên nhìn nhận và đánh giá khá cao
về kỹ năng giải quyết vấn đề, là một trong những kỹ năng cần thiết trong hoạt động
học tập của họ.
Khảo sát vai trò của kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên ở
đối tượng giáo viên cũng có sự tương đồng. Có tới 63.3% giáo viên đánh giá kỹ
năng này là “rất quan trọng” và 36.6% “quan trọng”. Điều này cho thấy rằng, kỹ
năng GQVĐ trong hoạt động học tập là rất quan trọng, kỹ năng GQVĐ giúp sinh
viên năm thứ nhất giải quyết có hiệu quả các vấn đề thường gặp trong hoạt động
học tập.
Bảng 2.9. So sánh kết quả đánh giá sự cần thiết của kỹ năng GQVĐ trong HĐHT
TT Ngành học Số lượng ĐTB Kiểm nghiệm ANOVA
1 Mĩ thuật 29 3.78
2 Giáo dục Tiểu học 59 3.75
3 Giáo dục Thể chất 30 4.05
0.245 > 0.05 4 Giáo dục Mầm non 44 3.67
5 Âm nhạc 21 3.56
6 Tiếng anh 50 3.88
7 Toán 81 4.17
8 Tin học 18 3.92
9 Ngữ văn 41 4.20
Tổng 373 3.82
Kết quả kiểm nghiệm ANOVA so sánh điểm trung bình nhận thức về tầm
quan trọng của kỹ năng giải quyết vấn đề giữa sinh viên các ngành đào tạo cho biến
số kiểm nghiệm là 1.295 và mức ý nghĩa là 0.245 > 0.05 cho phép kết luận không
68
có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê. Như vậy, có thể thấy việc đánh giá vai trò
của kỹ năng GQVĐ trong hoạt động không phụ thuộc vào đặc điểm ngành học.
b. Mức độ quan tâm rèn luyện kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh
viên năm thứ nhất
Bảng 2.10. Mức độ quan tâm rèn luyện kỹ năng GQVĐ trong HĐHT
TT Mức độ quan tâm rèn luyện kỹ năng GQVĐ Tần số Tỷ lệ %
Hoàn toàn không quan tâm 1 2 0.5
2 Không quan tâm 1 0.3
3 Bình thường 21 5.6
4 Quan tâm 188 50.4
5 Rất quan tâm 161 43.2
ĐTB: 4.35
ĐLC: 0.65
Theo kết quả thống kê ở bảng 2.10 chứng tỏ sinh viên năm thứ nhất rất tích
cực trong việc rèn luyện kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập. Có đến 93,6%
sinh viên được hỏi đánh giá là“rất quan tâm” hoặc “quan tâm” đến việc rèn luyện
kỹ năng GQVĐ, chỉ có 5.6% sinh viên đánh giá là “bình thường” và 0.8% sinh viên
“không quan tâm” đến việc rèn luyện kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập. Với
ĐTB = 4.35, điều này khẳng định sinh viên năm thứ nhất đã quan tâm đến việc rèn
luyện kỹ năng GQVĐ ở mức cao. Điểm trung bình này cao hơn ĐTB nhận thức về
tầm quan trọng của kỹ năng GQVĐ là 3.82. Điều này chứng tỏ, đa số sinh viên đã
thấy được tầm quan trọng của kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập và cũng đã
quan tâm tới việc rèn luyện kỹ năng GQVĐ. Qua trò chuyện, một số sinh viên cho
biết bản thân rất lúng túng, bỡ ngỡ khi mới vào học, các em gặp phải một số khó
khăn trong việc học. Theo sinh viên thì kỹ năng là rất cần thiết. Vì kỹ năng này
không chỉ cần thiết trong hoạt động học tập mà còn giúp sinh viên có kỹ năng để
giải quyết các vấn đề khác trong cuộc sống.
69
c. Nhận thức của sinh viên về khái niệm kỹ năng giải quyết vấn đề
Bảng 2.11. Nhận thức của sinh viên về khái niệm kỹ năng GQVĐ trong HĐHT
TT Nhận thức của sinh viên về khái niệm kỹ năng GQVĐ Tần số Tỷ lệ
%
1 Là kỹ năng quan trọng đảm bảo cho sự thành công của 39 10.5
sinh viên trong học tập
2 Là kỹ năng cần thiết để con người tồn tại trong cuộc sống 20 5.4
3 Là việc giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh trong hoạt 12 3.2
động học tập
4 Là việc giải quyết có hiệu quả các vấn đề nảy sinh trong 212 56.8
hoạt động học tập dựa trên việc vận dụng những tri thức
và kinh nghiệm của mỗi sinh viên
5 Là khả năng thực hiện đúng các bước, các thao tác của 90 24.1
quá trình GQVĐ để giải quyết có kết quả và hợp lý
những vấn đề trong hoạt động học tập dựa trên nền tảng
tri thức và kinh nghiệm của mỗi sinh viên
ĐTB chung 3.64
Khi tìm hiểu về việc sinh viên hiểu như thế nào về kỹ năng GQVĐ trong
hoạt động học tập, chúng tôi nhận thấy rằng có đến 56.8% sinh viên chọn khái niệm
“kỹ năng GQVĐ là việc giải quyết có hiệu quả các vấn đề nảy sinh trong hoạt động
học tập dựa trên việc vận dụng những tri thức và kinh nghiệm của mỗi sinh viên”.
Khái niệm này cũng tương đối chính xác nhưng chưa đầy đủ khi nói về khái niệm
kỹ năng GQVĐ. Và chỉ có 24.1% sinh viên lựa chọn khái niệm “kỹ năng GQVĐ là
khả năng thực hiện đúng các bước, các thao tác của quá trình GQVĐ để giải quyết
có kết quả và hợp lý những vấn đề trong hoạt động học tập dựa trên nền tảng tri
thức và kinh nghiệm của mỗi sinh viên”. Đây mới chính là khái niệm của kỹ năng
GQVĐ. Như vậy có thể thấy nhận thức của sinh viên về khái niệm của kỹ năng
GQVĐ ở mức tốt với ĐTB = 3.64.
70
Khi chúng tôi tiến hành so sánh nhận thức của sinh viên về khái niệm kỹ
năng GQVĐ giữa các ngành học với nhau đã cho thấy không có sự khác biệt ý
nghĩa về mặt thống kê.
Bảng 2.12. So sánh nhận thức của sinh viên về khái niệm kỹ năng GQVĐ
TT Ngành học Số ĐTB Thứ Kiểm nghiệm
lượng hạng ANOVA
1 Mĩ thuật 29 3.72 6
2 Giáo Dục Tiểu học 59 3.90 3
3 Giáo dục Thể chất 30 4.13 2
4 Giáo dục Mầm non 44 3.89 4
0.122 > 0.05 5 Âm Nhạc 21 3.67 7
Tiếng anh 6 50 3.38 9
Toán 7 81 3.84 5
Tin học 8 18 4.17 1
9 Ngữ Văn 41 3.61 8
3.64 Tổng 373
Kết quả kiểm nghiệm ANOVA để so sánh điểm trung bình nhận thức của
sinh viên về khái niệm kỹ năng GQVĐ giữa các ngành học cho biến số kiểm
nghiệm là 1.603, với mức ý nghĩa là 0.122 > 0.05, cho thấy không có sự khác biệt ý
nghĩa về mặt thống kê. Duy nhất chỉ có ngành Tiếng anh có mức độ nhận thức về
khái niệm kỹ năng GQVĐ ở mức trung bình với ĐTB = 3.38. Sinh viên ở các ngành
đào tạo còn lại đều có nhận thức về khái niệm kỹ năng GQVĐ ở mức tốt.
d. Nhận thức của sinh viên về các bước của quá trình GQVĐ
Đây cũng là một nội dung quan trọng của kỹ năng giải quyết vấn đề, những
hiểu biết về các bước của quá trình GQVĐ sẽ giúp sinh viên năm thứ nhất có thể
vận dụng vào giải quyết hiệu quả những vấn đề nảy sinh trong học tập và cuộc
sống. Khi chúng tôi khảo sát mức độ hiểu biết của sinh viên năm thứ nhất về các
bước của quá trình GQVĐ thu được kết quả như sau:
71
Bảng 2.13. Nhận thức của sinh viên về các bước của quá trình GQVĐ
TT Các bước của quá trình GQVĐ ĐTB ĐLC Thứ hạng
1 Nhận thức về vấn đề 3.60 0.86 1
2 Hiểu vấn đề 3.44 0.83 2
3 Đề ra phương án giải quyết 3.06 0.91 5
4 Lựa chọn phương án tối ưu 3.18 0.96 4
5 Tổ chức thực hiện 3.00 1.02 6
6 Kiểm tra đánh giá 3.19 1.04 3
ĐTB chung 3.24
Kết quả phân tích cho thấy hiểu biết của sinh viên về các bước của quá trình
GQVĐ còn khá hạn chế. Trong sáu bước của quá trình GQVĐ thì chỉ có bước đầu
tiên “nhận thức về vấn đề” được sinh viên đánh giá ở mức độ “hiểu biết rõ” với
ĐTB = 3.60 (xếp thứ hạng cao nhất). Có đến 59.3% sinh viên đánh giá ở mức độ
hiểu biết rõ và hiểu biết rất rõ về bước “nhận thức về vấn đề” (46.4% lựa chọn mức
hiểu biết rõ, 12.9% lựa chọn mức hiểu biết rất rõ). Trong khi đó với năm bước còn
lại của quá trình GQVĐ đều ở mức “phân vân” với ĐTB dưới 3.51. Điều này có
thể giải thích là do sinh viên năm thứ nhất chưa được tìm hiểu, nghiên cứu và rèn
luyện về kỹ năng giải quyết vấn đề nên có thể sinh viên sẽ trả lời theo kinh nghiệm,
mức độ hiểu biết của bản thân.
Kiểm nghiệm ANOVA được sử dụng để tìm hiểu thêm về mức độ hiểu biết
về các bước của quá trình giải quyết vấn đề giữa các ngành đào tạo. Số liệu thống
kê cho thấy có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê (với mức ý nghĩa 0.000 <0.05),
trong đó có ba ngành đào tạo có mức độ hiểu biết về các bước của quá trình GQVĐ
ở mức “hiểu biết rõ” đó là: Giáo dục thể chất với ĐTB=3.93, Tin học với
ĐTB=3.57 và Âm nhạc với ĐTB=3.52. Chỉ có ngành Giáo dục Mầm non xếp thứ
hạng thấp nhất với ĐTB= 2.98. Các ngành đào tạo còn lại đều có mức độ hiểu biết
về các bước của quá trình GQVĐ vẫn còn ở mức “phân vân” theo thang đánh giá.
72
Bảng 2.14. So sánh nhận thức của sinh viên về các bước của quá trình GQVĐ
TT Ngành học Số ĐTB Thứ Kiểm nghiệm
lượng hạng ANOVA
1 Mĩ thuật 29 3.27 5
2 Giáo Dục Tiểu học 59 3.08 8
3 Giáo dục Thể chất 30 3.93 1
4 Giáo dục Mầm non 44 2.98 9
0.000 < 0.05 5 Âm nhạc 21 3.52 3
6 Tiếng anh 50 3.05 7
7 Toán 81 3.12 6
8 Tin học 18 3.57 2
9 Ngữ Văn 41 3.45 4
Tổng 373 3.24
e. Nhận thức của sinh viên về các thao tác trong quá trình giải quyết vấn đề
Nhận thức của sinh viên về những thao tác chính trong quá trình giải quyết
vấn đề chỉ ở mức trung bình với ĐTB là 3.04. Trong mười thao tác được nghiên cứu
thì có đến năm thao tác được sinh viên trả lời đúng với tỷ lệ cao:
+ Có thứ hạng cao nhất là thao tác “nhận ra vấn đề là việc tìm hiểu những
thông tin liên quan đến vấn đề” với tỷ lệ 75.6% trả lời đúng và chỉ có 8.6% sinh
viên trả lời sai.
+ Tiếp theo là hai thao tác “đề ra phương án giải quyết là liệt kê những giải
pháp có thể thực hiện” và “so sánh kết quả thực tế với mục tiêu đề ra là một cách
giúp xác định mức độ thành công của quá trình GQVĐ” với tỷ lệ 74.5% trả lời
đúng.
+ Kế đến là thao tác “mô tả khái quát các chi tiết giúp chủ thể hiểu vấn đề”
có ĐTB = 3.57 với tỷ lệ 63.5% trả lời đúng, có tới 30.3% sinh viên còn phân vân về
thao tác này.
+ Thao tác “xác định chủ thể vấn đề là xác định ai có nghĩa vụ và trách
nhiệm GQVĐ” có ĐTB = 3.52 với tỷ lệ 63.3% trả lời đúng, chỉ có 11.5 % sinh viên
73
trả lời sai.
+ Thao tác “thực hiện phương án tối ưu là xác định các công việc cụ thể cần
làm để GQVĐ” có ĐTB = 3.51 với 61.9% sinh viên trả lời đúng và 10.3% sinh viên
còn trả lời sai.
Bảng 2.15. Nhận thức của sinh viên về các thao tác trong quá trình GQVĐ
TT Các thao tác trong quá trình GQVĐ ĐTB Thứ
hạng
1 Nhận ra vấn đề là việc tìm hiểu những thông tin liên quan 1 3.71
đến vấn đề.
2 Xác định chủ thể vấn đề là xác định ai có nghĩa vụ và 3.52 4
trách nhiệm GQVĐ
3 Mô tả khái quát các chi tiết giúp chủ thể hiểu vấn đề 3.57 3
4 Xác định mục tiêu là xác định mục tiêu trước mắt khi 2.55 7
GQVĐ
5 Xác định nguyên nhân của vấn đề là xác định những 2.80 6
nguyên nhân trực tiếp của vấn đề
6 Đề ra phương án giải quyết là liệt kê những giải pháp có 2 3.66
thể thực hiện
7 Phân tích ưu và khuyết điểm của các phương án, chủ thể 2.28 9
sẽ chọn được phương án tối ưu
8 Phương án tối ưu là phương án chứa nhiều ưu điểm nhất 2.53 8
9 Thực hiện phương án tối ưu là xác định các công việc cụ 3.51 5
thể cần làm để GQVĐ
10 So sánh kết quả thực tế với mục tiêu đề ra là một cách 2 3.66
giúp xác định mức độ thành công của quá trình GQVĐ
ĐTB 3.04
Qua kết quả thống kê có thể thấy các thao tác của bước “nhận thức về vấn
đề” như: Nhận ra vấn đề, xác định chủ thể vấn đề có tỷ lệ sinh viên trả lời đúng
tương đối cao, điều này cũng khá phù hợp khi có tới 59.3% sinh viên đánh giá ở
74
mức độ hiểu biết rõ và hiểu biết rất rõ về bước “nhận thức về vấn đề” [bảng 2.13].
Trong khi đó vẫn còn bốn thao tác có tỷ lệ sinh viên trả lời đúng còn rất thấp:
+ Với thao tác “xác định nguyên nhân của vấn đề là xác định những nguyên
nhân trực tiếp của vấn đề” cũng chỉ có 22.5% sinh viên trả lời đúng. Điều này đồng
nghĩa với 42.1% sinh viên đồng ý với thao tác này. Nhưng khi giải quyết vấn đề
sinh viên cần phải xác định được cả nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián
tiếp, có như vậy vấn đề mới được giải quyết một cách triệt để và hiệu quả.
+ Với thao tác “xác định mục tiêu là xác định mục tiêu trước mắt khi
GQVĐ” chỉ có 15.5% sinh viên trả lời đúng, có đến 60.6% sinh viên trả lời sai. Như
vậy, đa số sinh viên khi xác định mục tiêu của quá trình GQVĐ mới chỉ tính đến
mục tiêu trước mắt mà chưa xác định mục tiêu lâu dài.
+ Có tới 57.9% sinh viên cho rằng “phương án tối ưu là phương án chứa
nhiều ưu điểm nhất”, trong khi đó chỉ có 10.7% sinh viên được khảo sát trả lời
đúng, phương án tối ưu chưa hẳn là phương án chứa nhiều ưu điểm nhất.
+ Thao tác có tỷ lệ sinh viên trả lời đúng thấp nhất là thao tác liên quan tới
việc lựa chọn phương án tối ưu “Phân tích ưu và khuyết điểm của các phương án,
chủ thể sẽ chọn được phương án tối ưu” chỉ có 4.3% sinh viên trả lời đúng, với tỷ lệ
trả lời sai đáng kể 75.9%. Đây không phải là một đáp án hoàn toàn sai nhưng chưa
thật sự đầy đủ. Bên cạnh việc phân tích ưu và khuyết điểm của từng phương án thì
việc tìm hiểu những rủi ro của từng phương án, hoàn cảnh và khả năng của chủ thể
cũng là những yếu tố cần được xem xét khi lựa chọn phương án tối ưu để GQVĐ.
Như vậy, nhận thức của sinh viên về các thao tác chính của kỹ năng giải
quyết vấn đề chỉ ở mức trung bình, trong đó vẫn còn một số thao tác mà mức độ
nhận thức của sinh viên thấp hơn các thao tác khác. Hạn chế ở sự nhận thức của
sinh viên năm thứ nhất về các thao tác chính của kỹ năng giải quyết vấn đề có ảnh
hưởng không nhỏ đến việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong hoạt động học tập.
Kiểm nghiệm ANOVA nhằm so sánh nhận thức về những thao tác trong quá
trình giải quyết vấn đề cho mức ý nghĩa là 0.689 > 0.05, cho phép kết luận không có
sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê trong mức độ nhận thức về nội dung này, sinh
viên ở các ngành học đều có điểm trung bình ứng với mức độ trung bình theo thang
75
điểm chuẩn.
Bảng 2.16. So sánh nhận thức về các thao tác trong quá trình giải quyết vấn đề
TT Ngành học ĐTB
Kiểm nghiệm ANOVA 0.689 > 0.05
1 Mĩ thuật 2 3 4 5 6 7 8 9
Giáo Dục Tiểu học Giáo dục Thể chất Giáo dục Mầm non Âm Nhạc Tiếng anh Toán Tin học Ngữ Văn Tổng Số lượng 29 59 30 44 21 50 81 18 41 373 3.10 3.04 3.02 3.07 3.01 3.01 3.06 3.03 3.05 3.04 Thứ hạng 1 5 7 2 8 8 3 6 4
f. Mức độ nhận thức của sinh viên về kỹ năng GQVĐ
Nhận thức của sinh viên về kỹ năng giải quyết vấn đề được đánh giá dựa trên
nhận thức về tầm quan trọng của kỹ năng giải quyết vấn đề, nhận thức về khái niệm
kỹ năng giải quyết vấn đề, các bước và các thao tác của kỹ năng giải quyết vấn đề.
Bảng 2.17. Mức độ nhận thức của sinh viên về kỹ năng giải quyết vấn đề
TT ĐTB ĐLC
1 3.82 0.65
2 3.64 1.17 Nội dung Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của kỹ năng GQVĐ Nhận thức của sinh viên về khái niệm kỹ năng GQVĐ trong HĐHT
3.24 0.66
4 3.04 0.21 3 Nhận thức của sinh viên về các bước của quá trình GQVĐ Nhận thức của sinh viên về các thao tác của quá trình GQVĐ
Nhận thức của sinh viên về kỹ năng GQVĐ 3.43
Từ kết quả nghiên cứu các phần trên, kết quả thống kê cho thấy điểm trung
bình chung là 3.43, điều này cho phép kết luận mức độ nhận thức chung của sinh
viên về kỹ năng giải quyết vấn đề chỉ ở mức trung bình. Qua việc phân tích số liệu
cụ thể cho thấy phần lớn sinh viên có mức độ nhận thức về kỹ năng giải quyết vấn
đề ở mức trung bình với 262 sinh viên tương ứng với tỷ lệ 70.5%. Mặc dù không có
76
sinh viên nào có mức độ nhận thức về kỹ năng GQVĐ ở mức kém, nhưng vẫn còn
6.2% sinh viên nhận thức về kỹ năng GQVĐ ở mức yếu. Đây là một điều đáng quan
tâm vì nhận thức về kỹ năng GQVĐ của sinh viên còn hạn chế thì sinh viên sẽ gặp
khó khăn hoặc GQVĐ không hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có đến 23.3%
sinh viên nhận thức về kỹ năng GQVĐ ở mức tốt trở lên (17.7% ở mức tốt và 5.6%
ở mức rất tốt). Sinh viên có nhận thức tốt về kỹ năng GQVĐ sẽ có một tác động tích
cực tới mức độ giải quyết vấn đề của họ, bởi nhận thức là nền tảng cho việc thực
hiện hành động.
Bảng 2.18. So sánh mức độ nhận thức của sinh viên về kỹ năng giải quyết vấn đề
TT Ngành học Số lượng ĐTB
Kiểm nghiệm ANOVA
0.000<0.05
1 Mĩ thuật 2 Giáo Dục Tiểu học 3 Giáo dục Thể chất 4 Giáo dục Mầm non 5 Âm nhạc Tiếng anh 6 Toán 7 8 Tin học 9 Ngữ Văn Tổng 29 59 30 44 21 50 81 18 41 373 Thứ hạng 8 5 1 4 7 9 6 2 3 3.34 3.37 3.57 3.40 3.35 3.32 3.36 3.53 3.45 3.43
Kết quả kiểm nghiệm ANOVA nhằm so sánh mức độ nhận thức của sinh
viên về kỹ năng GQVĐ cho mức ý nghĩa là 0.000 < 0.05, cho phép kết luận có sự
khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê trong mức độ nhận thức về kỹ năng GQVĐ của
sinh viên năm thứ nhất giữa các ngành học. Trong đó hai ngành Giáo dục Thể chất
và Tin học có nhận thức về kỹ năng GQVĐ ở mức tốt. Cụ thể thì ngành Giáo dục
Thể chất có ĐTB=3.57 (có thứ hạng cao nhất) với 43.3% sinh viên có nhận thức về
kỹ năng GQVĐ ở mức tốt trở lên. Còn ngành Tin học có ĐTB=3.53 (ở vị trí thứ
hai) với 36.3% sinh viên có nhận thức ở mức tốt và rất tốt về kỹ năng GQVĐ. Sinh
viên ở các ngành học còn lại đều có điểm trung bình ứng với mức độ trung bình
theo thang điểm chuẩn, ngành Tiếng anh có thứ hạng thấp nhất về mức độ nhận
thức kỹ năng GQVĐ.
77
2.2.2.2. Khả năng thực hiện các thao tác của kỹ năng GQVĐ trong hoạt
động học tập của sinh viên năm thứ nhất.
Bảng 2.19. Tự đánh giá của sinh viên về khả năng thực hiện các thao tác của
quá trình GQVĐ
TT Các thao tác
Sinh viên ĐTB Thứ hạng 5 6 2 3.71 3.70 3.77 Giáo viên ĐTB Thứ hạng 1 4 3 3.17 2.97 3.07 1 Xác định kiểu vấn đề trong HĐHT 2 Xác định người có trách nhiệm GQVĐ 3 Xác định được những thông tin cần tìm
hiểu để làm rõ vấn đề
4 Phát hiện ra các mâu thuẫn của vấn đề 5 Xác định nguyên nhân của vấn đề 6 Xác định hậu quả nếu vấn đề không được 3.60 3.64 3.75 9 8 3 3.13 2.80 3.17 2 7 1
giải quyết
7 Xác định mục tiêu cần đạt được khi GQVĐ 8 Liệt kê nhiều phương án khác nhau để 3.80 3.52 1 11 2.90 3.03 6 3
GQVĐ
9 Phân tích ưu, khuyết điểm và những rủi ro 3.60 9 2.73 8
của từng phương án 10 Lựa chọn phương án tối ưu 11 Xác định những công việc cụ thể cần làm 3.72 3.68 4 7 3.13 2.90 2 6
để GQVĐ
12 Đánh giá kết quả dựa trên các mục tiêu đã 3.71 5 3.03 3
đặt ra
5 13 Bạn đánh giá như thế nào về kỹ năng 3.55 10 2.93
GQVĐ nói chung của bản thân?
ĐTB chung 3.68 3.00
Theo bảng thống kê 2.19 thì sinh viên tự đánh giá các thao tác liên quan đến
kỹ năng GQVĐ đều ở mức tốt trở lên với ĐTB chung = 3.68, trong đó có đến 7 thao
tác có ĐTB đều trên mức 3.70.
Thao tác được sinh viên tự đánh giá ở mức cao nhất là thao tác “Xác định
mục tiêu cần đạt được khi GQVĐ” có ĐTB = 3.80 với 62.8% sinh viên tự đánh giá
ở mức từ tốt trở lên (40.5% ở mức tốt và 22.3% ở mức rất tốt). Chỉ có 4.5% sinh
78
viên đánh giá thao tác này ở mức yếu kém. Đây là thông tin khá tích cực bởi vì xác
định mục tiêu có vai trò then chốt để sinh viên định hướng đúng cách thức giải
quyết vấn đề. Xác định được mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài thì sinh viên sẽ
chủ động và có kế hoạch để giải quyết vấn đề một cách hiệu quả. Khi một vấn đề
phát sinh thì sinh viên phải xác định được mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài
cần đạt được khi giải quyết vấn đề này là gì? Từ đó sinh viên sẽ tìm cách giải quyết
vấn đề hay tìm kiếm sự hỗ trợ từ người khác.
“Xác định được những thông tin cần tìm hiểu để làm rõ vấn đề” là thao tác
kế tiếp với ĐTB=3.77, có 64.1% sinh viên chọn ở mức tốt và rất tốt, 32.4% sinh
viên đánh giá ở mức trung bình. 77.6% giáo viên cũng đánh giá thao tác này của
sinh viên ở mức trung bình. Đây cũng là một thao tác quan trọng, sinh viên cần xác
định chính xác và khách quan những thông tin liên quan để làm sáng tỏ vấn đề.
Thao tác “Xác định hậu quả nếu vấn đề không được giải quyết” có ĐTB =
3.75 với 60.2% sinh viên chọn ở mức tốt trở lên, chỉ có 7.6% sinh viên đánh giá ở
mức yếu kém.
“Lựa chọn phương án tối ưu” là thao tác có ĐTB = 3.72, với 61.4% sinh
viên đánh giá ở mức tốt và rất tốt, 34.9% sinh viên chọn ở mức trung bình. Giáo
viên cũng đánh giá cao về thao tác này ở sinh viên với ĐTB = 3.13. Điều này cho
thấy sinh viên đã biết lựa chọn phương án tối ưu nhất trong các phương án để
GQVĐ một cách hiệu quả.
Cả hai thao tác “Xác định kiểu vấn đề trong hoạt động học tập”, “Đánh giá
kết quả dựa trên các mục tiêu đã đặt ra” đều có ĐTB = 3.71. Việc xác định được
vấn đề thuộc nhóm nào, có liên quan tới nội dung nào trong hoạt động học tập rất
cần thiết. Còn thao tác đánh giá kết quả không chỉ giúp cá nhân đúc kết kinh
nghiệm sau khi GQVĐ mà quan trọng hơn cả là để sinh viên điều chỉnh lại phương
án giải quyết nếu vẫn chưa đạt được mục tiêu đã đề ra.
Xem xét thêm ở nhóm giáo viên khi đánh giá khả năng thực hiện các thao tác
của sinh viên khi GQVĐ thì giáo viên cho rằng các thao tác đó ở sinh viên chỉ có
mức trung bình với ĐTB chung = 3.00 mà thôi.
79
2.2.2.3. Mức độ giải quyết vấn đề của sinh viên năm thứ nhất trong các
tình huống giả định
Bảng 2.20. Mức độ giải quyết vấn đề của sinh viên trong các tình huống giả định
Tình huống 9.1 9.2 9.3 9.4 9.5 ĐTB 3.22 3.41 3.61 3.16 3.41 ĐLC 1.11 1.19 1.26 1.09 1.13 Thứ hạng 3 2 1 4 2
Điểm trung bình chung: 3.36
Năm tình huống giả định được đưa ra dựa trên các vấn đề thường gặp trong
hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất. Từ bảng thống kê 2.20 cho thấy mức
độ giải quyết vấn đề của sinh viên năm thứ nhất trong các tình huống giả định ở
mức trung bình với ĐTB chung = 3.36. Dưới đây là những phân tích cụ thể cho
từng tình huống:
Bảng 2.21. Mức độ giải quyết vấn đề của sinh viên trong tình huống 9.1
Tình huống Phương án Tần Tỷ lệ
số %
43 11.5 9.1. Trong giờ lên a. Cuối buổi học, bạn trình bày ý kiến của
lớp, giáo viên mình với giáo viên, nhờ giáo viên giải thích
thêm về bài học, ghi chép lại. giảng bài nhanh,
bạn không kịp hiểu b. Nhờ bạn bè cùng lớp giải thích cho bạn 129 34.6
hết bài học, ghi hiểu, mượn tập các bạn chép lại bài học.
chép không đầy đủ. c.Về nhà bạn đọc tài liệu, tìm hiểu sau. 91 24.4
Khi đó bạn sẽ làm d. Bỏ qua, không quan tâm đến những nội 21 5.6
như thế nào? dung đó nữa.
e. Nhờ lớp trưởng trình bày ý kiến với giáo 89 23.9
viên.
ĐTB: 3.22
80
Với tình huống: “bạn không kịp hiểu hết bài học, ghi chép không đầy đủ…”
có ĐTB=3.22 (ở vị trí thứ ba). Khi đối diện với vấn đề này đa phần sinh viên
(34.6%) lựa chọn phương án “nhờ bạn bè cùng lớp giải thích cho bạn hiểu, mượn
tập các bạn chép lại bài học” trong khi đó phương án giải quyết tốt nhất là : “trình
bày ý kiến của mình với giáo viên, nhờ giáo viên giải thích thêm về bài học, ghi
chép lại” thì chỉ có 11.5% sinh viên lựa chọn. Điều này cho thấy sinh viên còn e
ngại, không dám trình bày thắc mắc, những khó khăn với giáo viên. Bạn N.T.T (lớp
Mầm non) cho biết: “với tình huống này thì em sẽ hỏi các bạn cùng lớp, thời gian
trên lớp không nhiều nên em không dám hỏi giáo viên”. Chúng ta cần lưu ý tới điều
này vì giáo viên là những người trực tiếp giảng dạy, tổ chức, định hướng và dẫn dắt
quá trình lĩnh hội tri thức của sinh viên. Tuy nhiên, vẫn còn một tỷ lệ nhỏ sinh viên
“bỏ qua, không quan tâm đến nữa” chiếm 5.6%, việc bỏ qua, không quan tâm đến
phần kiến thức chưa rõ này, điều đó có thể làm cho các em không hiểu rõ và không
nắm bắt được những kiến thức trọng tâm, ảnh hưởng tới hiệu quả học tập của các
em.
Bảng 2.22. Mức độ giải quyết vấn đề của sinh viên trong tình huống 9.2
Tình huống Phương án Tần Tỷ lệ
số %
9.2. Đã gần hết học kì I, a.Vẫn còn nhiều thời gian ôn bài nên học 70 18.8
mà khối lượng kiến thức được tới đâu thì học
các môn học rất nhiều, b. Lập kế hoạch học tập cụ thể cho từng 92 24.7
bài tập thì khó. Bạn cảm môn học
thấy rất áp lực và căng c. Sát ngày thi môn nào mới ôn tập môn 103 27.6
thẳng vì sắp đến kì thi học đó
hết học kì. Bạn sẽ làm d. Lập kế hoạch học tập cụ thể, ôn lại các 87 23.3
như thế nào trong thời kiến thức trọng tâm của từng môn học,
gian này? đọc thêm các tài liệu tham khảo
e. Không quan tâm 21 5.6
ĐTB: 3.41
81
Tình huống ở vị trí thứ hai là tình huống có liên quan tới ôn tập các nội dung
đã học trước kỳ thi. Có tới 103 sinh viên (tương ứng với 27.6%) lựa chọn phương
án “Sát ngày thi môn nào mới ôn tập môn học đó”, đây chưa hẳn là phương án giải
quyết đúng nhất. Phương án này phần nào phản ánh sự thiếu tích cực, chủ động
trong hoạt động học tập của sinh viên. Bên cạnh đó cũng có 48% sinh viên lựa chọn
hai phương án là “lập kế hoạch học tập cụ thể, ôn lại các kiến thức trọng tâm của
từng môn học, đọc thêm các tài liệu tham khảo”, “lập kế hoạch học tập cụ thể cho
từng môn học”. Hai phương án này đều thể hiện thái độ tích cực, chủ động, có sự
chuẩn bị và có “kế hoạch” rõ ràng trong việc ôn tập. Tuy nhiên vẫn có tới 14.4%
sinh viên tỏ ra “không quan tâm”, “học được tới đâu thì học”, hai phương án này
thể hiện thái độ tiêu cực, bàng quan, không chủ động với việc học tập của bản thân.
Bảng 2.23. Mức độ giải quyết vấn đề của sinh viên trong tình huống 9.3
Tình huống Phương án Tần Tỷ lệ
số %
9.3. Khi thảo a. Im lặng, mặc kệ mọi người tranh luận 28 7.5
luận nhóm, mỗi b. Dung hoà nhóm và đặt ra các câu hỏi định 125 33.5
bạn đưa ra một ý hướng vào vấn đề đang thảo luận, sau đó tổng
kiến khác nhau. hợp các ý kiến và ghi chép có chọn lọc
Là nhóm trưởng c. Lôi kéo những ý kiến phù hợp về phía mình, 46 12.3
bạn sẽ làm như phản đối các ý kiến còn lại
thế nào? 94 25.2 d. Nhờ giáo viên giúp đỡ
80 21.4 e. Ghi chép lại toàn bộ các ý kiến
ĐTB: 3.61
Tình huống này có thứ hạng cao nhất với ĐTB = 3.61 có nội dung liên quan
đến hoạt động thảo luận nhóm thì có 33.5% sinh viên lựa chọn phương án: “Dung
hoà nhóm và đặt ra các câu hỏi định hướng…”, phương án giải quyết này là đúng
nhất khi sinh viên biết “định hướng” tạo điều kiện để các thành viên hợp tác tốt với
nhau khi làm việc nhóm. Tiếp sau đó là phương án “nhờ giáo viên giúp đỡ” với
82
25.2% sinh viên lựa chọn phương án này, 24.1% sinh viên lựa chọn phương án “ghi
chép lại toàn bộ các ý kiến”. Một tỷ lệ đáng lưu tâm khi có đến 19.8% sinh viên lựa
chọn phương án “lôi kéo những ý kiến phù hợp và phản đối các ý kiến còn lại”, “im
lặng, mặc kệ mọi người tranh luận”. Đây là cách giải quyết khá tiêu cực, chia rẽ sự
đoàn kết trong tập thể, chưa thực sự hoà mình vào hoạt động chung. Sinh viên
H.T.A.N (sư phạm Ngữ Văn) cho biết: “khi nhóm em thảo luận một chủ đề nào đó,
mỗi bạn đưa ra một ý kiến nhưng bạn nhóm trưởng thường áp đặt ý kiến cá nhân,
nên nhiều khi tranh cãi rất gay gắt”.
Bảng 2.24. Mức độ giải quyết vấn đề của sinh viên trong tình huống 9.4
Tình huống Phương án Tần Tỷ lệ
số %
9.4. Bạn muốn a. Tự tìm hiểu thông tin từ sinh viên khoá 149 39.9
biết về học bổng trước
của trường dành b. Nhờ bạn bè hỏi dùm vì mình chưa tiếp xúc 83 22.3
cho sinh viên với cán bộ phòng công tác sinh viên bao giờ
năm thứ nhất. Khi c. Trực tiếp lên phòng công tác sinh viên nhờ 55 14.7
đó bạn sẽ làm gì? cán bộ phòng hướng dẫn
d. Hỏi lớp trưởng 71 19.0
e. Không quan tâm tới nữa 15 4.0
ĐTB: 3.16
Tình huống thứ năm có nội dung liên quan tới vấn đề giao tiếp với các cán
bộ phòng ban. Vấn đề đặt ra là sinh viên cần tìm hiểu thông tin về học bổng cho
sinh viên năm thứ nhất. để giải quyết vấn đề này có 39.9% sinh viên lựa chọn “tự
tìm hiểu thông tin từ sinh viên khoá trước”, phương án này cũng cho thấy sinh viên
đã chủ động trong việc tìm hiểu thông tin. Nhưng có 41.3% sinh viên chọn phương
án nhờ người khác giúp đỡ “hỏi lớp trưởng”, “nhờ bạn bè hỏi dùm”. Có tới 4.0%
sinh viên bỏ qua vấn đề này “không quan tâm đến nữa”. Trong khi đó chỉ có 14.7%
sinh viên lựa chọn “trực tiếp lên phòng công tác sinh viên nhờ cán bộ phòng hướng
dẫn”. Đây là cách giải quyết vấn đề tốt nhất, giúp cho sinh viên có được những
83
thông tin chính xác nhất, nhưng chỉ có 55 sinh viên chọn cách giải quyết này. Bạn
T.T.H (lớp Giáo dục Thể chất) chia sẻ: “em rất ngại khi phải tiếp xúc cán bộ các
phòng, em thấy không được thoải mái và thân thiện lắm”.
Bảng 2.25. Mức độ giải quyết vấn đề của sinh viên trong tình huống 9.5
Tình huống Phương án Tần Tỷ lệ
số %
9.5. Bạn có một bài a. Thư viện của trường 66 17.7
tiểu luận của môn học. b. Internet, báo, tạp chí 153 41.0
Để chuẩn bị tốt cho bài c. Mượn tài liệu các sinh viên khóa 47 12.6
tiểu luận đó thì bạn sẽ trước
tìm tài liệu tham khảo d. Không cần dùng tới tài liệu tham 20 5.4
ở đâu? khảo
e. Cả a, b, c 87 23.3
ĐTB: 3.41
Có cùng vị trí thứ hai là tình huống có liên quan tới điều kiện học tập mà cụ
thể ở đây là việc tìm kiếm tài liệu tham khảo. Ngoài giáo trình trên lớp thì các tài
liệu tham khảo cũng rất quan trọng trong việc học tập của sinh viên. Khi đối diện
với vấn đề này thì có 41.0% sinh viên năm thứ nhất lựa chọn việc tìm kiếm tài liệu
tham khảo thông qua “internet, báo, tạp chí”, việc tìm kiếm tài liệu tham khảo
thông qua báo, tạp chí, intenet có thể mang đến cho sinh viên nhiều thông tin nhưng
sinh viên cần phải biết tham khảo một cách có chọn lọc. Chỉ có 17.7% sinh viên lựa
chọn phương án tìm kiếm tài liệu tham khảo ở “thư viện của trường”. Đây là
phương án giải quyết vấn đề khá tốt nhưng tỷ lệ lựa chọn phương án này không cao.
Vậy thì câu hỏi đặt ra là tại sao lại có rất ít sinh viên tìm tài liệu tham khảo ở thư
viện của trường? Theo bạn N.T.T.H (sư phạm Toán) thì: “thỉnh thoảng em mới lên
thư viện của trường, ở đó có ít máy tính nên phải chờ lâu, phòng đọc thì chật chội”.
Trong khi đó phương án tốt nhất khi giải quyết vấn đề này đó là tìm kiếm tài liệu
tham khảo từ nhiều nguồn như thư viện, báo, tạp chí, internet, mượn tài liệu sinh
viên khoá trước nhưng có chọn lọc, tổng hợp, lựa chọn kỹ càng thì chỉ có 23.3%
84
sinh viên lựa chọn phương án này. Cũng có đến 5.4% sinh viên lựa chọn “không
cần dùng tới tài liệu tham khảo”, phương án này mang xu hướng tiêu cực, cho thấy
sinh viên còn chưa chủ động, tích cực trong học tập .
2.2.2.4. Mức độ kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất
Mức độ kỹ năng giải quyết vấn đề của sinh viên năm thứ nhất được đánh giá
dựa trên mức độ nhận thức của sinh viên về kỹ năng GQVĐ và mức độ GQVĐ
trong các tình huống giả định. Kết quả thống kê ở trên cho thấy cả hai tiêu chí trên
sinh viên đều chỉ đạt mức độ trung bình, điều này đã ảnh hưởng đến kết quả chung
về mức độ kỹ năng GQVĐ của sinh viên.
Bảng 2.26. Mức độ kỹ năng GQVĐ trong HĐHT của sinh viên năm thứ nhất
TT Nội dung ĐTB ĐLC
1 Nhận thức của sinh viên về kỹ năng GQVĐ 3.43 0.43
2 Mức độ GQVĐ trong các tình huống giả định 3.36 0.67
Mức độ kỹ năng GQVĐ trong HĐHT 3.39 của sinh viên năm thứ nhất
Kết quả thống kê chung cho thấy ĐTB chung = 3.39 cho phép kết luận mức
độ kỹ năng QGVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Cao
đẳng Sư phạm Long An chỉ ở mức trung bình. Phân tích trên từng mức độ cụ thể thì
có đến 235 sinh viên (tương ứng với 63.0% sinh viên) có mức độ kỹ năng QGVĐ ở
mức trung bình. Ở mức độ này thì sinh viên có nhận thức tương đối đầy đủ về kỹ
năng giải quyết vấn đề, vẫn còn các thao tác sai và có giải quyết được vấn đề.
Tuy không có sinh viên nào có mức độ của kỹ năng GQVĐ ở mức kém
nhưng vẫn còn 9.1% sinh viên có kỹ năng GQVĐ ở mức yếu. Ở mức này sinh viên
nhận thức rất hạn chế về kỹ năng GQVĐ, các thao tác còn sai nhiều, đã giải quyết
được một phần của vấn đề. Bên cạnh đó cũng có đến 27.9 % sinh viên có mức độ kỹ
năng GQVĐ từ mức tốt trở lên (tốt 20.4%, rất tốt 7.5%). Đây là một thông tin khá
tích cực cho thấy sinh viên đã có nhận thức khá đầy đủ và chính xác về kỹ năng
85
QGVĐ, các bước, các thao tác của quá trình GQVĐ, GQVĐ trong các tình huống
giả định tương đối tốt.
Biểu đồ 2.2. Mức độ kỹ năng GQVĐ trong HĐHT của sinh viên năm thứ nhất
Kết quả này cũng cho thấy sự tự đánh giá của sinh viên về kỹ năng GQVĐ
của bản thân chưa thực sự phù hợp với thực tế khi mà ĐTB của sinh viên khi tự
đánh giá về kỹ năng GQVĐ của bản thân ở mức tốt (ĐTB = 3.55) [bảng 2.19], có
đến 190 (51.2%) sinh viên tự đánh giá kỹ năng này ở mức tốt trở lên. Sự đánh giá
không chính xác này sẽ làm cho sinh viên không nhận thức được thực tế kỹ năng
GQVĐ của bản thân để có ý thức cải thiện kỹ năng này.
2.2.2.5. So sánh mức độ kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập
của sinh viên năm thứ nhất trên các phương diện
a. So sánh mức độ kỹ năng GQVĐ của sinh viên trên phương diện giới tính
Bảng 2.27. So sánh mức độ GQVĐ của sinh viên trên phương diện giới tính (tỷ lệ%)
ĐTB Kiểm Mức độ kỹ năng giải quyết vấn đề Giới tính nghiệm T Kém Yếu Trung bình Tốt Rất tốt
Nam 0 5.6 62.9 22.5 9.0 3.44 0.474
Nữ 0 10.2 63.0 19.7 7.0 3.32
Kết quả kiểm nghiệm giả thuyết về sự bằng nhau giữa hai trung bình tổng thể
cho mức ý nghĩa bằng 0.474 > 0.05 cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa giữa
nam và nữ về mặt thống kê. Có thể lý giải điều này là do sinh viên năm thứ nhất
86
chưa được trang bị những kiến thức cũng như chưa được rèn luyện về kỹ năng
GQVĐ trong hoạt động học tập. Vì thế mà khi đối diện với tình huống có vấn đề
sinh viên còn lúng túng, chưa biết cách xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương án tối
ưu để GQVĐ, dẫn đến việc giải quyết vấn đề kém hiệu quả. Nhìn vào bảng mức độ
kỹ năng giải quyết vấn đề cho thấy ở từng mức độ thì tỷ lệ của nam và nữ chênh
lệch không đáng kể, với ĐTB của nam là 3.44, ĐTB của nữ là 3.32. Cụ thể ở từng
mức độ thì đối với mức độ yếu sinh viên nam có tỷ lệ 5.6%, nữ có tỷ lệ 10.2%. Ở
mức độ trung bình, tỷ lệ của sinh viên nam là 62.9%, tỷ lệ của sinh viên nữ 63.0%.
Ở mức tốt thì sinh viên nam có tỷ lệ 22.5%, nữ là 19.7%. Còn ở mức độ rất tốt thì
sinh viên nam có tỷ lệ là 9.0%, nữ là 7.0%.
b. So sánh mức độ kỹ năng GQVĐ của sinh viên trên phương diện ngành học
Bảng 2.28. So sánh mức độ kỹ năng GQVĐ của sinh viên trên phương diện
ngành học
Số Điểm trung Thứ Mức ý nghĩa TT Ngành học lượng bình hạng ANOVA
1 Mĩ thuật 29 7 3.32
2 Giáo dục Tiểu học 59 8 3.30
3 Giáo dục Thể chất 30 2 3.52
4 Giáo dục Mầm non 44 4 3.38
5 Âm nhạc 21 3 3.41 0.000<0.05 6 Tiếng anh 50 9 3.29
7 Toán 81 5 3.37
8 Tin học 18 1 3.55
9 Ngữ văn 41 6 3.35
3.39 Tổng 373
Kết quả kiểm nghiệm ANOVA so sánh điểm trung bình kỹ năng GQVĐ giữa
các ngành đào tạo với mức ý nghĩa là 0.000<0.05 cho phép kết luận có sự khác biệt
ý nghĩa về mặt thống kê. Tuy điểm trung bình chung = 3.39 (ở mức độ trung bình)
nhưng trong chín ngành học có ngành Tin học và Giáo dục Thể chất có mức độ kỹ
87
năng GQVĐ ở mức khá tốt. Cụ thể thì ngành Tin học có ĐTB=3.55 (có thứ hạng
cao nhất), có tới 44.5 % sinh viên ngành Tin học có mức độ kỹ năng GQVĐ ở mức
tốt trở lên (38.9% ở mức tốt, 5,6% ở mức rất tốt) và không có sinh viên nào có mức
độ kỹ năng GQVĐ ở mức yếu. Ngành Giáo dục Thể chất có ĐTB=3.52, có tới
43.3% sinh viên có mức độ kỹ năng GQVĐ ở mức tốt và rất tốt (33.3% ở mức tốt,
10.0% ở mức rất tốt), chỉ có 6.7% sinh viên có mức độ yếu. Đối với các ngành còn
lại Âm nhạc, Mĩ thuật, Giáo dục Tiểu học, Giáo dục Mầm non, Toán, Ngữ văn đều
có ĐTB của kỹ năng GQVĐ ở mức trung bình theo thang điểm chuẩn, riêng ngành
Tiếng Anh có ĐTB về mức độ kỹ năng GQVĐ ở thứ hạng thấp nhất (ĐTB= 3.29).
Điều này cũng khá phù hợp, khi so sánh ĐTB về nhận thức của sinh viên với kỹ
năng GQVĐ thì sinh viên ngành Giáo dục Thể chất và Tin học có ĐTB xếp thứ
hạng cao nhất, ngành Tiếng Anh có ĐTB có thứ hạng thấp nhất [bảng 2.18]. Qua
phỏng vấn sinh viên các lớp Tin học và Giáo dục Thể chất cho rằng kỹ năng GQVĐ
của sinh viên năm thứ nhất sẽ được cải thiện khi giáo viên quan tâm tới việc hình
thành các kỹ năng cho sinh viên, qua các hoạt động tập thể của Đoàn, Hội sinh viên,
… Bạn H.X.T (ngành Giáo dục Thể chất) cho biết : “lớp em toàn bộ là nam, các
bạn rất tích cực tham gia những hoạt động tập thể do Đoàn và nhà trường tổ chức,
ở mỗi hoạt động chung thì các bạn sẽ học được những kỹ năng như: làm việc nhóm,
cách giải quyết các tình huống”. Một bạn sinh viên lớp Tin học thì cho rằng: “trong
các buổi học, Thầy Cô thường hay đưa ra các tình huống hoặc một vấn đề nào đó
rồi cho lớp thảo luận nhóm, chúng em phải suy nghĩ, tìm ra cách giải quyết vấn đề
tốt nhất, qua đó rèn luyện các kỹ năng cho chúng em”.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt
động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An chỉ ở mức trung bình.
Vậy thì, những yếu tố nào đã ảnh hưởng đến thực trạng đó và yếu tố nào có ảnh
hưởng nhiều nhất. Để tìm hiểu được những yếu tố đó, chúng tôi đã đưa ra ba nhóm
yếu tố chính có ảnh hưởng tới kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập gồm: Yếu tố
88
xuất phát từ chính bản thân sinh viên, yếu tố từ phía giáo viên, cán bộ phòng ban và
yếu tố từ phía nhà trường.
Bảng 2.29. Các nhóm yếu tố có ảnh hưởng đến kỹ năng GQVĐ
TT Các nhóm yếu tố Sinh viên Giáo viên
ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC
1 Từ phía bản thân sinh viên 2.15 0.38 2.65 0.29
2 Từ phía giáo viên, cán bộ các phòng ban 2.06 0.50 2.36 0.45
3 Từ phía nhà trường 2.02 0.45 2.24 0.42
Kết quả thống kê chung cho thấy trong ba nhóm yếu tố kể trên thì nhóm yếu
tố thuộc về phía bản thân sinh viên có thứ hạng cao nhất với ĐTB = 2.15, kế đến là
những yếu tố từ phía giáo viên, cán bộ các phòng ban và nhà trường. Giáo viên
cũng có đánh giá tương đồng với sinh viên khi cho rằng các yếu tố từ phía bản thân
sinh viên có ảnh hưởng nhiều tới kỹ năng GQVĐ của sinh viên với ĐTB = 2.65.
Sau đây là các yếu tố cụ thể ảnh hưởng tới kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập
của sinh viên năm thứ nhất:
2.3.1. Các yếu tố từ phía bản thân sinh viên
Bảng 2.30. Các yếu tố xuất phát từ phía bản thân sinh viên
Các yếu tố từ phía bản thân sinh viên
T T
1 Chưa nắm vững kiến thức và phương pháp Sinh viên ĐTB Thứ hạng 2 2.25 Giáo viên ĐTB Thứ hạng 1 2.90
học tập
2.45 2.25 2.20 1 2 4 2.30 2.87 2.40 6 2 5
2 Quen với cách học tập ở phổ thông 3 Thiếu kiến thức và kỹ năng GQVĐ 4 Bản thân chưa được trang bị các kỹ năng cần thiết (kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự học, kỹ năng làm việc nhóm…)
5 Bản thân chưa tích cực trong việc GQVĐ 6 Thiếu tự tin, ngại ngùng khi trình bày 1.98 2.23 5 3 2.90 2.47 1 4
phương án GQVĐ
6 2.73 3 1.65
7 Bản thân không hứng thú với việc học tập ĐTB chung 2.15 2.65
89
Thông qua bảng thống kê có thể dễ dàng nhận thấy cả giáo viên và sinh viên
đều đánh giá các yếu tố từ phía chính bản thân sinh viên có ảnh hưởng tới kỹ năng
GQVĐ của sinh viên năm thứ nhất. Xếp thứ hạng cao nhất là yếu tố “quen với cách
học tập ở phổ thông” với ĐTB=2.45, có đến 92% sinh viên đánh giá yếu tố này có
ảnh hưởng tới kỹ năng GQVĐ (38.9% ở mức ảnh hưởng ít, 53.1% ở mức ảnh
hưởng nhiều). Kết quả này cho thấy phương pháp học tập ở phổ thông khác nhiều
so với bậc Đại học – Cao đẳng, nên sinh viên năm thứ nhất còn chưa kịp thích ứng
với những phương pháp học tập mới, khi mà việc tự học là chủ yếu, giáo viên chỉ là
người hướng dẫn, sinh viên phải chủ động, tích cực trong học tập, ít có sự kiểm tra
đánh giá liên tục, nội dung học tập cũng đa dạng phong phú hơn. Tuy nhiên về phía
giáo viên lại cho rằng yếu tố “quen với cách học tập ở phổ thông” có ĐTB=2.30
(thứ hạng thấp nhất) và chỉ 30% giáo viên cho đây là yếu tố ảnh hưởng nhiều tới kỹ
năng GQVĐ của sinh viên.
Hai yếu tố tiếp theo là “chưa nắm vững kiến thức và phương pháp học tập”
và “thiếu kiến thức và kỹ năng GQVĐ” đều có ĐTB=2.25, với 89% sinh viên đánh
giá hai yếu tố này đều có mức ảnh hưởng ít và nhiều tới kỹ năng GQVĐ của bản
thân. Như vậy về mặt chủ quan, do sinh viên chưa có những phương pháp học tập
hiệu quả, không có đủ những kiến thức, kỹ năng để giải quyết các vấn đề trong hoạt
động học tập và các hoạt động khác, nên việc GQVĐ, khắc phục các khó khăn trong
học tập còn chưa được tốt.
Tiếp đến là các yếu tố như sự e ngại, rụt rè, thiếu tự tin khi trình bày các
phương án GQVĐ, bản thân sinh viên không được trang bị các kỹ năng cần thiết
cũng như sự thiếu tích cực, chủ động, nỗ lực của sinh viên khi GQVĐ nảy sinh
trong học tập. Những yếu tố đó đều có ảnh hưởng không nhỏ tới kỹ năng GQVĐ
của sinh viên. Sinh viên H.T.H (lớp Ngữ văn) cho hay: “em không hay trình bày
cách làm của mình vì em không chắc là cách làm của mình có giải quyết được vấn
đề không hay chỉ làm nó rắc rối hơn”. Yếu tố “bản thân không hứng thú với việc
học tập” có thứ hạng thấp nhất và có đến 48.8% sinh viên đánh giá yếu tố này
không ảnh hưởng đến kỹ năng GQVĐ của sinh viên. Trong phần đánh giá của giáo
viên thì hai yếu tố nổi bật có ảnh hưởng nhiều tới kỹ năng GQVĐ của sinh viên là
90
“chưa nắm vững kiến thức và phương pháp học tập” và “bản thân chưa tích cực
trong GQVĐ” đều có ĐTB=2.90, với hơn 90% giáo viên đánh giá yếu tố này ảnh
hưởng ở mức ít và nhiều (trong khi đó về phía sinh viên thì yếu tố này có thứ hạng
thấp nhất, với ĐTB=1.98).
.
Biểu đồ 2.3. Các yếu tố xuất phát từ phía bản thân sinh viên
2.3.2. Các yếu tố từ phía giáo viên, cán bộ các phòng ban
Bảng 2.31. Các yếu tố xuất phát từ phía giáo viên, cán bộ phòng ban
T T Các yếu tố từ phía giáo viên cán bộ phòng ban
Sinh viên ĐTB Thứ hạng 1 Giáo viên ĐTB Thứ hạng 1 1 Phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa 2.22 2.43
tạo hứng thú học tập ở sinh viên
1.99 3 2.13 4
2 Giáo viên, cán bộ phòng ban ít thân thiện, không giải đáp tận tình thắc mắc của sinh viên
4 2.23 3 3 Giáo viên, cán bộ phòng ban còn thơ ơ khi 1.91
sinh viên gặp khó khăn
2 2.37 2 2.11
4 Giáo viên chỉ quan tâm tới nội dung bài dạy chưa quan tâm đến việc hình thành kỹ năng (kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm…) cho sinh viên
ĐTB 2.06 2.36
91
Qua bảng thống kê có thể nhận thấy có sự tương đồng giữa giáo viên và sinh
viên khi đánh giá về các yếu tố xuất phát từ phía giáo viên, cán bộ các phòng ban.
Cả sinh viên và giáo viên đều đánh giá nhóm yếu tố này có ảnh hưởng tới kỹ năng
GQVĐ của sinh viên. Trong đó yếu tố được cả sinh viên và giáo viên đánh giá cao
là “phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa tạo hứng thú học tập ở sinh viên”.
Có 89.5% sinh viên đánh giá yếu tố này có ảnh hưởng tới kỹ năng GQVĐ của sinh
viên (57.1% ở mức ít ảnh hưởng, 32.4% ở mức ảnh hưởng nhiều). 50% giáo viên
cũng cho rằng yều tố này ảnh hưởng nhiều tới kỹ năng GQVĐ của sinh viên.
Phương pháp giảng dạy của giáo viên cũng rất quan trọng, bởi vì phương pháp
giảng dạy của giáo viên sẽ kích thích, khơi gợi sự say mê tìm tòi học hỏi của sinh
viên trong quá trình tiếp thu tri thức. Cách mà giáo viên đặt ra các yêu cầu, nhiệm
vụ, mục tiêu cần hoàn thành trong mỗi môn học sẽ giúp sinh viên định hướng quá
trình học tập, xây dựng kế hoạch học tập cụ thể, từ đó nảy sinh nhu cầu, động cơ
hình thành tri thức, kỹ năng cần thiết cho sinh viên trong quá trình học tập.
Kế đến là yếu tố “giáo viên chỉ quan tâm tới nội dung bài dạy chưa quan
tâm đến việc hình thành kỹ năng (kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm…) cho sinh
viên” có ĐTB=2.11, với 82.0% sinh viên đánh giá yếu tố này có ảnh hưởng ở mức
ít và nhiều tới kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất.
Về phía giáo viên thì yếu tố này cũng xếp thứ hạng thứ hai với ĐTB=2.37.
Sau đó là các yếu tố “giáo viên, cán bộ phòng ban ít thân thiện, không giải
đáp tận tình thắc mắc của sinh viên”, “giáo viên, cán bộ phòng ban còn thơ ơ khi
sinh viên gặp khó khăn” đều được sinh viên đánh giá là có ảnh hưởng ít với ĐTB
trên 1.90 đối với việc hình thành kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh
viên năm thứ nhất. 26.3% sinh viên đánh giá yếu tố “giáo viên, cán bộ các phòng
ban còn ít thân thiện, chia sẻ, không giải đáp tận tình các thắc mắc, khó khăn của
sinh viên” ảnh hưởng nhiều tới kỹ năng GQVĐ của sinh viên (trong phần các vấn
đề sinh viên thường gặp phải thì có đến 37.3% sinh viên đánh giá ở mức thường
xuyên và rất thường xuyên gặp phải vấn đề “giáo viên không thân thiện với sinh
viên” [bảng 2.6]). 26.7% giáo viên cũng đồng ý với đánh giá này của sinh viên.
Như vậy nên chăng giáo viên, cán bộ các phòng ban cần có sự thay đổi, điều chỉnh
92
khi giao tiếp với sinh viên, hỗ trợ kịp thời khi sinh viên gặp khó khăn, giúp sinh
viên giải quyết hiệu quả các vấn đề thường gặp trong học tập.
Biểu đồ 2.4. Các yếu tố từ phía giáo viên, cán bộ phòng ban
2.3.3. Các yếu tố từ phía nhà trường
Bảng 2.32. Các yếu tố xuất phát từ phía nhà trường
Các yếu tố từ phía nhà trường Giáo viên
T T ĐTB
Sinh viên ĐTB Thứ hạng 1 2.33 Thứ hạng 2 2.33
1 Nhà trường chưa trang bị cho sinh viên kiến thức về kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập
2 Cơ sở vật chất và phương tiện phục vụ hoạt 2.00 3 1 2.37
động học tập chưa tốt
5 2 2.07 2.33 4 2 1.71 2.17
3 Chương trình đào tạo chưa hợp lý 4 Chưa quan tâm tới việc trang bị các kỹ năng (kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm…) cho sinh viên
1.89 4 2.10 3
5 Không phổ biến rõ ràng, đầy đủ, kịp thời các thông tin liên quan đến hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất
ĐTB chung 2.02 2.24
Đánh giá về các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng GQVĐ của mình từ phía nhà
trường, sinh viên cho rằng “nhà trường chưa trang bị cho sinh viên kiến thức về kỹ
93
năng GQVĐ trong hoạt động học tập” đứng hàng đầu với ĐTB=2.33, có 47.5%
sinh viên đánh giá yếu tố này ảnh hưởng nhiều tới kỹ năng QGVĐ của sinh viên.
(Điều này cũng khá phù hợp khi có tới 89% sinh viên đánh giá yếu tố chủ quan
“bản thân thiếu kiến thức và kỹ năng GQVĐ” ảnh hưởng ở mức ít và nhiều tới kỹ
năng GQVĐ của sinh viên [bảng 2.30]). 36.7% giáo viên cũng cho rằng yếu tố “nhà
trường chưa trang bị cho sinh viên kiến thức về kỹ năng GQVĐ” ảnh hưởng nhiều
tới kỹ năng GQVĐ của sinh viên. Như vậy, nếu được cung cấp đầy đủ kiến thức và
kỹ năng GQVĐ thì sinh viên sẽ không lúng túng khi đối diện với vấn đề, chủ động
xây dựng được kế hoạc cụ thể để GQVĐ một cách hiệu quả.
Có tới 83.3% sinh viên đánh giá yếu tố “nhà trường chưa quan tâm tới việc
trang bị các kỹ năng (kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm…) cho sinh viên”
(ĐTB=2.17), đều có ảnh hưởng kỹ năng GQVĐ của sinh viên (49.3% ở mức ảnh
hưởng ít, 34.0% ở mức ảnh hưởng nhiều), chỉ 16.6% sinh viên cho rằng yếu tố này
không ảnh hưởng. Ngoài kỹ năng GQVĐ thì sinh viên cũng cần được trang bị các
kỹ năng khác như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm…Những kỹ năng này
không chỉ cần thiết cho sinh viên trong học tập, mà còn hỗ trợ cho sinh viên trong
quá trình GQVĐ. Khi xem xét ở phía giáo viên thì có đến 43.3% giáo viên cũng
đánh giá yếu tố này ảnh hưởng nhiều tới kỹ năng GQVĐ của sinh viên. Tiếp theo
đó là yếu tố liên quan đến “cơ sở vật chất và các phương tiện phục vụ hoạt động”
có ĐTB = 2.00, “không phổ biến rõ ràng, đầy đủ, kịp thời các thông tin liên quan
đến hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất” ĐTB=1.89, “chương trình đào
tạo chưa hợp lý” ĐTB=1.71.
Tuy nhiên về phía giáo viên lại đánh giá “cơ sở vật chất và phương tiện phục
vụ hoạt động học tập chưa tốt” có ĐTB=2.37 (thứ hạng cao nhất) với 90% giáo
viên đánh giá yếu tố này có ảnh hưởng ở mức ít và nhiều tới kỹ năng GQVĐ của
sinh viên. Khi phỏng vấn giáo viên N.T.T (Tổ Ngữ văn) chia sẻ: “cơ sở vật chất
của nhà trường đã cũ, các thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập của sinh viên
chưa tốt, còn thiếu rất nhiều…”.
94
Biểu đồ 2.5. Các yếu tố từ phía nhà trường
2.4. Một số biện pháp nhằm cải thiện kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt
động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An.
2.4.1. Cơ sở đề xuất biện pháp
a. Cơ sở lý luận
Từ những cơ sở lí luận về kỹ năng GQVĐ, kỹ năng GQVĐ trong hoạt động
học tập của sinh viên năm thứ nhất đã được trình bày ở chương 1, chúng tôi đặc biệt
lưu ý các vấn đề sau đây như là cơ sở đề xuất các biện pháp, đó là:
Kỹ năng giải quyết vấn đề là sự giải quyết có kết quả những vấn đề nảy sinh
trong hoạt động hàng ngày của con người bằng cách tiến hành đúng đắn các bước,
các thao tác trên cơ sở vận dụng những tri thức và kinh nghiệm của chủ thể.
Kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất là khả
năng thực hiện đúng các bước, các thao tác của quá trình GQVĐ để giải quyết có
kết quả và hợp lý những vấn đề trong hoạt động học tập dựa trên nền tảng tri thức
và kinh nghiệm của mỗi sinh viên.
Tác động đến kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ
nhất không chỉ có những yếu tố từ phía giáo viên và nhà trường như: Phương pháp
giảng dạy của giáo viên, mối quan hệ giao tiếp giữa sinh viên với giáo viên, cán bộ
phòng ban, cơ sở vật chất của nhà trường, các hoạt động ngoại khoá của nhà
trường… mà còn cả những yếu tố xuất phát từ phía chính bản thân sinh viên như:
95
Hoạt động tự ý thức, rèn luyện kỹ năng, phương pháp học tập, mối quan hệ giao
tiếp với bạn bè, Thầy Cô…
b. Cơ sở thực tiễn
Từ những kết quả thu được khi phân tích thực trạng kỹ năng GQVĐ trong
hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất, có một số vấn đề mà chúng ta cần lưu
tâm đó là:
+ Kết quả phân tích thực trạng khẳng định kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập
của sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An ở mức độ trung
bình. Trong đó có 235 sinh viên (63.0%) có mức độ kỹ năng GQVĐ trong hoạt
động học tập ở mức độ trung bình, chỉ có 104 sinh viên (27.9%) ở mức tốt và rất
tốt, có 34 sinh viên (9.1%) ở mức độ yếu và không có sinh viên nào có kỹ năng
GQVĐ trong hoạt động học tập ở mức kém. Trong đó mức độ nhận thức chung của
sinh viên về kỹ năng GQVĐ ở mức trung bình, mức độ giải quyết vấn đề trong các
tình huống giả định cũng chỉ ở mức trung bình.
+ Có nhiều yếu tố có ảnh hưởng đến thực trạng này gồm có những yếu tố xuất phát
từ phía bản thân sinh viên, từ phía giáo viên, cán bộ phòng ban và từ phía nhà
trường nhưng trong đó chủ yếu là nhóm yếu tố xuất phát từ phía bản thân sinh viên.
+ Đặc điểm của sinh viên là những người có tính độc lập cao, luôn tìm tòi, sáng tạo,
tích cực, chủ động trong học tập cũng như trong các hoạt động khác. Tuy nhiên,
sinh viên năm thứ nhất thường còn nhiều bỡ ngỡ với điều kiện, môi trường học tập
ở Đại học – Cao đẳng, chưa có phương pháp học tập hiệu quả, còn lúng túng khi đối
diện với các vấn đề gặp phải trong hoạt động học tập.
+ Để cải thiện kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất
cần có những biện pháp phù hợp, cụ thể tác động trên cả ba bình diện: Nhận thức –
thái độ – hành vi, kỹ năng và phải có sự kết hợp giữa cả ba lực lượng: Sinh viên –
giáo viên, cán bộ phòng ban – nhà trường.
2.4.2. Các biện pháp nhằm cải thiện kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học
tập của sinh viên năm thứ nhất
Dựa trên việc tìm hiểu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn, kết quả phân tích thực
trạng kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường
96
Cao đẳng Sư phạm Long An, chúng tôi có xây dựng một số nhóm biện pháp tác
động nhằm cải thiện kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập cho sinh viên năm thứ
nhất.
2.4.2.1. Nhóm biện pháp tác động vào sinh viên
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất nhưng trong đó chủ yếu là các yếu tố xuất phát từ phía chính
bản thân sinh viên, bởi vì sinh viên chính là chủ thể của hoạt động rèn luyện kỹ
năng GQVĐ trong hoạt động học tập. Do vậy, việc xây dựng những nhóm biện
pháp tác động từ phía sinh viên là hết sức cần thiết.
Mục đích của biện pháp: Biện pháp nhằm nâng cao nhận thức của sinh viên
về kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập, xây dựng thái độ tích cực trong học tập,
rèn luyện kỹ năng GQVĐ và các kỹ năng cần thiết khác trong hoạt động học tập,
giúp cho sinh viên có yếu tố nội lực chủ quan tốt nhất để tham gia có hiệu quả vào
quá trình học tập của bản thân.
Ý nghĩa của biện pháp: Nhóm biện pháp này có ý nghĩa quan trọng trong
việc giáo dục ý thức học tập và rèn luyện kỹ năng GQVĐ cũng như các kỹ năng
khác trong hoạt động học tập cho sinh viên năm thứ nhất, khẳng định tính hiệu quả
của phương pháp học tập đặc thù của bậc học Đại học – Cao đẳng đó là phương
pháp tự học.
Cách thức thực hiện biện pháp:
+ Giúp sinh viên xác định được động cơ, nhiệm vụ học tập đúng đắn, từ đó
hình thành thái độ tích cực, chủ động trong học tập. Cung cấp cho sinh viên những
kiến thức cần thiết về môi trường, điều kiện, các phương pháp học tập ở Đại học –
Cao đẳng để sinh viên không bỡ ngỡ khi đối diện với các vấn đề trong học tập.
+ Tự học, tự nghiên cứu, rèn luyện là phương pháp học tập đặc thù của bậc
học Đại học – Cao đẳng, tuy nhiên khả năng tự học, tự rèn luyện của sinh viên năm
thứ nhất còn nhiều hạn chế. Vì thế sinh viên cần chủ động tự trau dồi, rèn luyện các
kỹ năng cần thiết, xây dựng kế hoạch học tập cụ thể. Xây dựng kế hoạch tự học, tự
rèn luyện là quá trình hình thành một biểu tượng rõ ràng các công việc sinh viên cần
hoàn thành, tạo ra sự chủ động, tích cực cho sinh viên trong quá trình học tập. Chủ
97
động, tích cực tham gia các hoạt động của đoàn thể, qua đó rèn luyện cho bản thân
các kỹ năng như kỹ năng giao tiếp, hoạt động nhóm…
+ Khuyến khích sinh viên mạnh dạn, chủ động giao tiếp, trao đổi, bày tỏ
những suy nghĩ, những khó khăn hay những thắc mắc trong học tập, trong cuộc
sống với giáo viên, cán bộ các phòng ban.
2.4.2.2. Nhóm biện pháp tác động vào giáo viên và cán bộ các phòng ban
Trong hoạt động học tập không thể phủ nhận vai trò của giáo viên, mối quan
hệ giao tiếp với cán bộ các phòng ban trong việc hình thành và phát triển kỹ năng
GQVĐ cho sinh viên. Do vậy để cải thiện kỹ năng GQVĐ thì việc đề ra các biện
pháp tác động vào giáo viên, cán bộ các phòng ban là rất quan trọng, đóng vai trò
hỗ trợ, hướng dẫn, giúp đỡ sinh viên.
Mục đích của biện pháp: Biện pháp này nhằm mục đích giúp sinh viên có
những phương pháp học tập hiệu quả, thiết lập các mối quan hệ giao tiếp giữa sinh
viên với giáo viên và cán bộ phòng ban, cải thiện kỹ năng GQVĐ trong học tập.
Ý nghĩa của biện pháp: Nhóm biện pháp này có ý nghĩa lớn trong việc xây
dựng mối quan hệ tốt đẹp, thân thiện giữa sinh viên với giáo viên và cán bộ các
phòng ban, tạo ra các nguồn lực hỗ trợ, giúp đỡ sinh viên trong suốt quá trình học
tập.
Cách thức thực hiện:
+ Với bậc học Đại học – Cao đẳng phương pháp học tập của sinh viên chủ
yếu là tự học, tự nghiên cứu, giáo viên chỉ là người tổ chức, dẫn dắt quá trình tự lĩnh
hội của sinh viên. Chính vì thế, giáo viên cần quan tâm tới việc đổi mới các phương
pháp dạy học theo hướng khơi gợi nhu cầu tìm tòi học tập của sinh viên, phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo ở người học.
+ Tổ chức các buổi trao đổi với sinh viên về những phương pháp dạy – học
hiệu quả: Phương pháp học nhóm, phương pháp tự học hiệu quả, … Sinh viên lắng
nghe, trình bày những khó khăn hay những vấn đề mình còn gặp phải trong học tập
như nội dung học tập quá nhiều, chưa kịp thích ứng với phương pháp học tập ở Đại
học – Cao đẳng hay mối quan hệ giao tiếp giữa sinh viên với giáo viên, cán bộ các
phòng ban… Giáo viên, cán bộ các phòng ban lắng nghe ý kiến của sinh viên và có
98
những hỗ trợ, giúp đỡ cần thiết nhằm giúp sinh viên giải quyết các khó khăn, thiết
lập mối quan hệ gần gũi, gắn kết với sinh viên.
+ Ngoài ra, giáo viên và cán bộ các phòng ban cũng cần quan tâm tới việc
trang bị cho sinh viên các kỹ năng cần thiết để nâng cao hiệu quả học tập như : Kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng GQVĐ… thông qua các giờ học
trên lớp hay các hoạt động ngoại khoá, sinh hoạt tập thể….
2.4.2.3. Nhóm biện pháp tác động vào nhà trường
Các biện pháp tác động vào nhà trường là các biện pháp phải được thực hiện
một cách toàn diện và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng, các tổ bộ môn, tập
thể lớp học theo một định hướng chung.
Mục đích của nhóm biện pháp: Biện pháp này có mục đích tạo môi trường,
điều kiện học tập tốt cho hoạt động học tập của sinh viên, trang bị cho sinh viên
những kỹ năng cần thiết để nâng cao hiệu quả học tập.
Ý nghĩa của nhóm biện pháp: Nhóm biện pháp này có ý nghĩa thực tiễn trong
việc tạo ra môi trường với các điều kiện tốt phục vụ cho hoạt động học tập của sinh
viên, tạo điều kiện cho sinh viên nâng cao nhận thức, rèn luyện các phương pháp
học tập và kỹ năng cần thiết.
Cách thức thực hiện:
+ Xây dựng môi trường với các điều kiện về cơ sở vật chất tốt để phục vụ
hoạt động giảng dạy và học tập. Nhà trường phối hợp với các đơn vị, các phòng ban
phổ biến đầy đủ cho sinh viên về các nội quy, quy chế, các thông tin có liên quan
đến hoạt động học tập để sinh viên năm thứ nhất không bỡ ngỡ.
+ Nhà trường kết hợp với Đoàn thanh niên, Hội sinh viên… thường xuyên tổ
chức các hoạt động tập thể, hoạt động ngoại khoá, qua đó giúp sinh viên hình thành
và rèn luyện các kỹ năng: Kỹ năng GQVĐ, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao
tiếp, …
+ Tổ chức các buổi hội thảo, báo cáo chuyên đề về phương pháp học tập hiệu
quả ở Đại học – Cao đẳng, mở các lớp rèn luyện kỹ năng cho sinh viên như: Kỹ
năng GQVĐ, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng giao tiếp …
99
2.4.3. Đánh giá tính cần thiết và khả thi của một số biện pháp cụ thể
Để xem xét tính cần thiết và khả thi của một số biện pháp cụ thể, chúng tôi
đã tiến hành khảo sát ở cả ba nhóm biện pháp tác động vào sinh viên, nhóm biện
pháp tác động vào giáo viên, cán bộ phòng ban và nhóm biện pháp tác động vào nhà
trường ở cả hai nhóm đối tượng: Sinh viên và giáo viên.
2.4.3.1. Các biện pháp tác động vào sinh viên
Bảng 2.33. Đánh giá mức độ cần thiết và khả thi của các biện pháp từ phía bản
thân sinh viên (ĐTB)
TT Các biện pháp Tính cần thiết Tính khả thi
Sinh Giáo Sinh Giáo
viên viên viên viên
1 Xác định được động cơ, nhiệm vụ học tập 2.73 2.87 2.47 2.53
đúng đắn
2 Tìm hiểu về môi trường học tập ở Đại học, 2.27 2.13 2.17 2.13
Cao đẳng
3 Mạnh dạn tiếp xúc, trao đổi với giáo viên, 2.32 2.18 2.40 2.87
cán bộ phòng ban về những vấn đề còn
thắc mắc
4 Tích cực tham gia các hoạt động của lớp, 2.36 2.53 2.38 2.10
khoa, trường…
5 Tự trau dồi và rèn luyện các kỹ năng cần 2.46 2.83 2.36 2.43
thiết (kỹ năng GQVĐ, giao tiếp, làm việc
nhóm…)
ĐTB chung 2.42 2.64 2.31 2.31
• Tính cần thiết
Khi xem xét tính cần thiết của 5 biện pháp cụ thể tác động vào sinh viên
nhằm cải thiện kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của mình, kết quả cho thấy
sinh viên đánh giá biện pháp “xác định được động cơ, nhiệm vụ học tập đúng đắn”
là cần thiết và ưu tiên nhất (ĐTB = 2.73), có đến 73.3% sinh viên đánh giá là rất cần
100
thiết. Xác định được động cơ, nhiệm vụ học tập đúng đắn sẽ thúc đẩy sinh viên tích
cực, chủ động trong học tập, rèn luyện các kỹ năng cần thiết. Giáo viên cũng đánh
giá đây là biện pháp cần thiết nhất với ĐTB=2.87, đánh giá này cũng phù hợp với
đánh giá của giáo viên về những yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng GQVĐ của sinh
viên chính là do sinh viên không có hứng thú với học tập [bảng 2.30].
Kế đến là biện pháp “tự trau dồi và rèn luyện các kỹ năng cần thiết (kỹ năng
GQVĐ, giao tiếp, làm việc nhóm…)” ĐTB=2.46, với 98.4% sinh viên đánh giá là
cần thiết và rất cần thiết. Sự hình thành nhân cách nói chung, trong đó có năng lực,
các kỹ năng nói riêng phụ thuộc vào sự tự tu dưỡng rèn luyện của chính bản thân
sinh viên. Sinh viên muốn có những kỹ năng cần thiết thì một mặt cần có sự hỗ trợ
từ phía nhà trường, giáo viên nhưng quan trọng nhất vẫn chính là ở bản thân mỗi
sinh viên phải tự trau dồi, tự rèn luyện, bổ sung các kỹ năng cho bản thân.
Xếp thứ ba là biện pháp “tích cực tham gia các hoạt động của lớp, khoa,
trường…” ĐTB=2.36, tiếp theo là “mạnh dạn tiếp xúc, trao đổi với giáo viên, cán
bộ phòng ban về những vấn đề còn thắc mắc” ĐTB=2.32 và cuối cùng là biện pháp
“tìm hiểu về môi trường học tập ở Đại học, Cao đẳng” ĐTB=2.27. Tuy nhiên có tới
87.6% giáo viên cho rằng biện pháp “mạnh dạn tiếp xúc, trao đổi với giáo viên,
cán bộ phòng ban về những vấn đề còn thắc mắc” (ĐTB =2.87) là rất cần thiết
trong khi đó chỉ có 34.4% sinh viên cho rằng biện pháp này rất cần thiết. Điều này
cho thấy sinh viên nên chủ động gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi với giáo viên, cán bộ các
phòng ban về những vấn đề còn vướng mắc, những khó khăn, hoặc những phương
pháp học tập phù hợp để có hướng giải quyết các vấn đề hiệu quả. Mạnh dạn tiếp
xúc với mọi người, tạo các mối quan hệ cần thiết, tích cực tham gia vào các hoạt
động tập thể cũng là một điều kiện thuận lợi để sinh viên rèn luyện kỹ năng GQVĐ,
kỹ năng về giao tiếp và các kỹ năng khác.
• Tính khả thi
Khi khảo sát mức độ khả thi của các biện pháp từ phía sinh viên cho thấy
sinh viên đều đánh giá các biện pháp này ở mức khả thi. Cũng có sự tương đồng
trong đánh giá về mức độ cần thiết và khả thi của các biện pháp. Trong đó biện
pháp “xác định được động cơ, nhiệm vụ học tập đúng đắn” có mức độ khả thi cao
101
nhất với ĐTB=2.47, với 97% sinh viên đánh giá biện pháp này ở mức độ khả thi và
rất khả thi, đây cũng chính là biện pháp mang tính cần thiết nhất. 93.3% giáo viên
được khảo sát cũng cho rằng biện pháp này là khả thi và rất khả thi (ĐTB=2.53). Kế
đến là biện pháp “tích cực tham gia các hoạt động của lớp, khoa, trường…”
ĐTB=2.38, “tự trau dồi và rèn luyện các kỹ năng cần thiết (kỹ năng GQVĐ, giao
tiếp, làm việc nhóm…)” ĐTB=2.36, “mạnh dạn tiếp xúc, trao đổi với giáo viên, cán
bộ phòng ban về những vấn đề còn thắc mắc” ĐTB=2.18, “tìm hiểu về môi trường
học tập ở Đại học, Cao đẳng” ĐTB=2.17. Để cải thiện kỹ năng GQVĐ trong hoạt
động học tập từ phía chính bản thân sinh viên, ta thấy sinh viên có xu hướng chọn
các biện pháp từ: Tích cực tham gia các hoạt động, tự trau dồi, bổ sung các kỹ năng,
mạnh dạn giao tiếp, tìm hiểu về môi trường học tập. Các biện pháp càng về sau
càng đòi hỏi sự chủ động, tích cực hơn của sinh viên.
2.4.3.2. Các biện pháp tác động vào giáo viên, cán bộ các phòng ban
Sau đây là bảng khảo sát mức độ cần thiết và khả thi của các biện pháp tác
động vào giáo viên, cán bộ các phòng ban.
Bảng 2.34. Đánh giá mức độ cần thiết và khả thi của các biện pháp từ phía giáo
viên, cán bộ các phòng ban (ĐTB)
TT Các biện pháp Tính cần thiết Tính khả thi
Sinh viên Giáo viên Sinh viên Giáo viên
1 Quan tâm tới việc đổi mới phương pháp 2.45 2.77 2.34 2.53
dạy học
2 Gần gũi, thân thiện, giúp đỡ khi sinh viên 2.23 2.13 2.57 2.42
gặp khó khăn
3 Trao đổi với sinh viên về các phương pháp 2.44 2.26 2.50 2.83
dạy – học phù hợp
2.50 2.63 2.32 2.30
4 Quan tâm tới việc rèn luyện các kỹ năng cho sinh viên (kỹ năng GQVĐ, giao tiếp, làm việc nhóm...)
ĐTB chung 2.49 2.61 2.33 2.36
102
• Tính cần thiết
Trong 4 biện pháp cụ thể để khảo sát tính cần thiết thì ĐTB của các biện
pháp đều ở mức cần thiết, trong đó biện pháp “gần gũi, thân thiện, giúp đỡ khi sinh
viên gặp khó khăn” có ĐTB=2.57, có thứ hạng cao nhất, với 58.1% sinh viên cho
rằng biện pháp này là rất cần thiết. Tuy nhiên biện pháp này không được giáo viên
đánh giá cao, chỉ có 23.3% giáo viên đánh giá ở mức độ rất cần thiết. Nếu như giáo
viên, cán bộ các phòng ban gần gũi, thân thiện, quan tâm giúp đỡ khi sinh viên gặp
khó khăn hay vấn đề còn thắc mắc trong học tập thì đó sẽ là điều kiện thuận lợi để
cải thiện kỹ năng GQVĐ của sinh viên. Biện pháp tiếp theo đó là “quan tâm tới
việc rèn luyện các kỹ năng cho sinh viên” có ĐTB =2.50 với 52.5% sinh viên đánh
giá biện pháp này rất cần thiết, 76.7% giáo viên cũng cho rằng biện pháp này là rất
cần thiết để cải thiện kỹ năng GQVĐ trong học tập cho sinh viên. Các biện pháp
“quan tâm tới việc đổi mới phương pháp dạy học” với ĐTB =2.45, “trao đổi với
sinh viên về các phương pháp dạy – học phù hợp” có ĐTB=2.44. Theo đánh giá của
giáo viên thì biện pháp “trao đổi với sinh viên về các phương pháp dạy – học phù
hợp” là cần thiết nhất với ĐTB = 2.83, bởi vì theo giáo viên thì vấn đề sinh viên
thường xuyên gặp phải nhất chính là vấn đề liên quan tới phương pháp học tập
(ĐTB=3.83 [bảng 2.2]). Trong quá trình giảng dạy ngoài việc đảm bảo nội dung tri
thức của bài giảng thì giáo viên cũng cần quan tâm tới việc đổi mới phương pháp
giảng dạy, tạo hứng thú học tập, phát huy sự chủ động, tích cực ở sinh viên, giúp
sinh viên có phương pháp học tập hiệu quả, quan tâm đến việc phát triển các kỹ
năng cần thiết trong hoạt động học tập cho sinh viên. Ý kiến của bạn M.T.N.L (lớp
Giáo dục Tiểu học): “mong muốn được giáo viên chỉ cho phương pháp ghi chép bài
giảng tốt nhất và cách tổng hợp kiến thức sau khi đọc sách”.
• Tính khả thi
Tương đồng với cách đánh giá của sinh viên về mức độ cần thiết của các
biện pháp từ phía giáo viên và cán bộ phòng ban, thì biện pháp có mức độ khả thi
nhất là “gần gũi, thân thiện, giúp đỡ khi sinh viên gặp khó khăn” (ĐTB=2.34) cũng
là biện pháp có mức độ cần thiết cao nhất, có 49.6% sinh viên đánh giá biện pháp
này là rất khả thi. Các biện pháp tiếp theo lần lượt là “quan tâm tới việc đổi mới
103
phương pháp dạy học”, “quan tâm tới việc rèn luyện các kỹ năng cho sinh viên”,
“trao đổi với sinh viên về các phương pháp dạy – học phù hợp”. Nhưng về phía
giáo viên, là những người trực tiếp giảng dạy sinh viên thì có 60% giáo viên đánh
giá biện pháp “quan tâm tới việc đổi mới phương pháp dạy học” là rất khả thi. Kế
đến là biện pháp “trao đổi với sinh viên về các phương pháp dạy – học phù hợp”.
Qua trao đổi với giáo viên thì có ý kiến: “trong giảng dạy giáo viên phải tạo hứng
thú học tập, tạo không khí thoải mái trong giờ dạy, vận dụng các phương pháp
giảng dạy như dùng giáo án điện tử, thảo luận nhóm…làm cho bài giảng hấp dẫn,
sinh động hơn”.
2.4.3.3. Các biện pháp tác động vào nhà trường
Bảng 2.35. Đánh giá mức độ cần thiết và khả thi của các biện pháp từ phía nhà
trường (ĐTB)
TT Các biện pháp Tính cần thiết Tính khả thi
Sinh Giáo Sinh Giáo
viên viên viên viên
1 Tạo điều kiện tốt về môi trường, cơ sở vật 2.60 2.43 2.68 2.47
chất cho hoạt động học tập của sinh viên
2 Phổ biến rõ ràng, đầy đủ các thông tin liên 2.54 2.23 2.41 2.03
quan đến hoạt động học tập của sinh viên
năm thứ nhất
3 Tổ chức các buổi hội thảo/báo cáo chuyên 2.23 2.22 2.63 2.47
đề về các phương pháp học tập và kỹ năng
GQVĐ trong hoạt động học tập
4 Tổ chức các hoạt động ngoại khoá, cung 2.43 2.20 2.38 2.10
cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng cần
thiết cho sinh viên (kỹ năng GQVĐ, tự
học, giao tiếp…)
ĐTB chung 2.47 2.41 2.37 2.25
104
• Tính cần thiết
Từ bảng 2.35 chúng tôi nhận thấy có sự khác nhau trong việc đánh giá mức
độ cần thiết của các biện pháp tác động vào nhà trường giữa sinh viên và giáo viên.
Về phía sinh viên cho rằng biện pháp“tạo điều kiện tốt về môi trường, cơ sở vật
chất cho hoạt động học tập của sinh viên” là cần thiết nhất với ĐTB =2.68, 69.6%
sinh viên đánh giá ở mức độ rất cần thiết. Về phía giáo viên thì biện pháp này có vị
trí thứ hai, nhưng cũng có tới 60% giáo viên cho rằng nó rất cần thiết. Kết quả này
cho thấy nhà trường cần tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động học tập của sinh
viên, xây dựng đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động giảng
dạy và học tập của sinh viên.
Biện pháp tiếp theo là “phổ biến rõ ràng, đầy đủ các thông tin liên quan đến
hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất” ĐTB =2.54 cũng ở mức rất cần
thiết. Điều này cũng dễ hiểu, vì là sinh viên năm thứ nhất nên các em rất cần được
cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến hoạt động học tập, khi đó sinh viên sẽ
chủ động hơn trong học tập, có hướng để giải quyết được các khó khăn hay vấn đề
gặp phải. Hai biện pháp tiếp theo là “tổ chức các buổi hội thảo/báo cáo chuyên
đề…”, “tổ chức các hoạt động ngoại khoá, cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ
năng…”. Hai biện pháp này nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức, rèn
luyện các kỹ năng cần thiết giúp cho hoạt động học tập của sinh viên hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, ở nhóm giáo viên được khảo sát thì lại đánh giá biện pháp “tổ chức các
buổi hội thảo/báo cáo chuyên đề…” là cần thiết nhất với ĐTB =2.63, có tới 63.3%
giáo viên đánh giá ở mức độ rất cần thiết.
• Tính khả thi
Theo đánh giá của sinh viên thì hai biện pháp có thứ hạng cao là “tạo điều
kiện tốt về môi trường, cơ sở vật chất” ĐTB=2.47, với 52.3% sinh viên đánh giá ở
mức độ rất khả thi và biện pháp “phổ biến rõ ràng, đầy đủ các thông tin liên quan
đến hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất” ĐTB=2.41, 45.3% sinh viên lựa
chọn ở mức rất khả thi. Đây cũng là hai biện pháp được sinh viên đánh giá là rất cần
thiết. Tuy nhiên, về phía giáo viên thì lại đánh giá biện pháp “tổ chức các buổi hội
thảo/báo cáo chuyên đề về các phương pháp học tập và kỹ năng GQVĐ trong hoạt
105
động học tập” có thứ hạng cao nhất với ĐTB=2.47, có đến 46.7% giáo viên đánh
giá ở mức độ rất khả thi (theo đánh giá của sinh viên thì biện pháp này có thứ hạng
thấp nhất). Bởi vì giáo viên cho rằng khi sinh viên được cung cấp đầy đủ các thông
tin về những phương pháp học tập hiệu quả, các kỹ năng cần thiết trong học tập, khi
đó sinh viên sẽ chủ động và tích cực hơn để lĩnh hội tri thức, từ đó xây dựng cho
mình phương pháp học tập hiệu quả nhất, hoàn thành nhiệm vụ học tập.
Các biện pháp về phía nhà trường mà chúng tôi đưa ra mang tính chất lâu dài
theo chiến lược trọng tâm, phát triển ổn định, bền vững của nhà trường trong tương
lai để xây dựng một môi trường học tập chuyên nghiệp, hiện đại cho sinh viên.
Kỹ năng giải quyết vấn đề là kỹ năng cần thiết trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất, giúp cho sinh viên giải quyết tốt các vấn đề trong học tập,
trong cuộc sống góp phần nâng cao hiệu quả học tập. Do vậy, việc cung cấp và rèn
luyện kỹ năng này cần được tổ chức trong khoảng thời gian nào để đem lại hiệu quả
nhất trong hoạt động học tập. Chúng ta hãy cùng xem xét bảng thống kê sau:
Bảng 2.36. Lựa chọn thời điểm phù hợp nhất để hướng dẫn kỹ năng GQVĐ
TT Thời điểm Sinh viên Giáo viên
Tần số Tần số % %
1 Tháng đầu tiên của năm học 61.9 23 76.7 232
2 Giữa học kì I 19.2 7 23.3 72
3 Hết học kì I 18.9 0 0 71
Với tỷ lệ 61.9% sinh viên lựa chọn thời điểm phù hợp nhất để hướng dẫn kỹ
năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất là
“tháng đầu tiên của năm học”. Đây cũng là lựa chọn của giáo viên khi có tới 76.7%
giáo viên đồng ý với ý kiến của sinh viên. Có thể lý giải điều này là do, tháng đầu
tiên của năm học là thời điểm sinh viên đang nhập học và làm quen với môi trường
học tập mới, với điều kiện, hoàn cảnh sống mới. Chắc hẳn sinh viên sẽ gặp nhiều
vấn đề về nội dung chương trình, phương pháp học tập, thiết lập mối quan hệ giao
tiếp với Thầy Cô, bạn bè,…Việc cung cấp cho sinh viên các thông tin về hoạt động
học tập, những phương pháp học tập hiệu quả, hình thành và rèn luyện kỹ năng giải
quyết vấn đề là hết sức cần thiết.
106
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Kết quả nghiên cứu thực trạng kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An cho thấy:
Có năm nhóm vấn đề mà sinh viên thường gặp phải trong hoạt động học tập
đó là: Vấn đề liên quan đến nội dung học tập, phương pháp học tập, phương pháp
giảng dạy của giáo viên, mối quan hệ giao tiếp, các điều kiện học tập khác. Trong
năm nhóm vấn đề đó, vấn đề mà sinh viên đánh giá ở mức thường xuyên là nhóm
vấn đề liên quan đến phương pháp học tập (ĐTB=3.76, có thứ hạng cao nhất), tiếp
theo là vấn đề liên quan đến nội dung học tập (ĐTB=3.49), điều kiện học tập khác
(ĐTB=3.33), phương pháp giảng dạy của giáo viên (ĐTB=3.21), vấn đề về giao tiếp
(ĐTB=3.11).
Sinh viên đã có những hiểu biết khá chính xác về kỹ năng GQVĐ, có đến
91.1% sinh viên đánh giá kỹ năng GQVĐ là quan trọng – rất quan trọng đối với
hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất. Không có sự khác biệt ý nghĩa trong
việc đánh giá về vai trò của kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập giữa các ngành
học được khảo sát.
Kết quả nghiên cứu thực trạng cho thấy kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học
tập của sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An ở mức độ trung
bình (ĐTB=3.39). Trong đó có 235 sinh viên (63.0%) có mức độ kỹ năng GQVĐ
trong hoạt động học tập ở mức độ trung bình, 104 sinh viên (27.9%) ở mức tốt và
rất tốt, chỉ có 34 sinh viên (9.1%) ở mức độ yếu và không có sinh viên nào có kỹ
năng GQVĐ trong hoạt động học tập ở mức kém. Trong đó mức độ nhận thức
chung của sinh viên về kỹ năng GQVĐ ở mức trung bình (ĐTB=3.43), mức độ giải
quyết vấn đề trong các tình huống giả định cũng chỉ ở mức trung bình (ĐTB=3.36).
Tuy không có sự khác biệt về mức độ kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập theo
phương diện giới tính nhưng qua kiểm nghiệm ANOVA cho thấy có sự khác biệt ý
nghĩa về mặt thống kê giữa các ngành học. Trong đó ngành Tin học và Giáo dục
Thể chất có kỹ năng GQVĐ tốt hơn các ngành còn lại.
107
Trong các yếu tố ảnh hưởng tới kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An thì các yếu tố từ phía
bản thân sinh viên (ĐTB=2.15) có thứ hạng cao nhất gồm các yếu tố: Chưa có
phương pháp học tập phù hợp, thiếu kiến thức về các kỹ năng cần thiết, bản thân
chưa tích cực, thiếu tự tin khi GQVĐ. Các yếu tố từ phía giáo viên, cán bộ phòng
ban (ĐTB=2.06) gồm: Phương pháp giảng dạy của giáo viên, mối quan hệ giao tiếp
giữa giáo viên, cán bộ phòng ban với sinh viên. Các yếu tố từ phía nhà trường
(ĐTB=2.02) gồm: Chưa cung cấp đủ thông tin, cơ sở vật chất chưa đầy đủ, chưa
quan tâm tới việc trang bị các kỹ năng trong học tập cho sinh viên.
Để cải thiện kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ
nhất thì cần tiến hành một cách đồng bộ nhiều biện pháp tác động từ phía sinh viên,
từ giáo viên, cán bộ các phòng khoa và từ phía nhà trường, giúp sinh viên giải quyết
tốt các vấn đề gặp phải trong học tập, góp phần nâng cao hiệu quả học tập của sinh
viên.
108
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Kỹ năng giải quyết vấn đề là sự giải quyết có kết quả những vấn đề nảy sinh
trong hoạt động hàng ngày của con người bằng cách tiến hành đúng đắn các bước,
các thao tác trên cơ sở vận dụng những tri thức và kinh nghiệm của chủ thể.
Kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ
nhất là khả năng thực hiện đúng các bước, các thao tác của quá trình GQVĐ để giải
quyết có kết quả và hợp lý những vấn đề trong hoạt động học tập dựa trên nền tảng
tri thức và kinh nghiệm của mỗi sinh viên. Kỹ năng giải quyết vấn đề là một hệ
thống cấu trúc gồm sáu bước với những thao tác cụ thể. Hoạt động học tập là một
hoạt động có mục đích của chủ thể nhằm lĩnh hội, tiếp thu tri thức, kinh nghiệm của
xã hội loài người, qua đó giúp chủ thể phát triển và hoàn thiện nhân cách. Các vấn
đề cơ bản mà sinh viên năm thứ nhất có thể gặp phải trong hoạt động học tập là
những vấn đề liên quan tới nội dung học tập, phương pháp học tập, phương pháp
giảng dạy, mối quan hệ giao tiếp và các điều kiện học tập khác.
Trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư
phạm Long An còn gặp nhiều vấn đề khác nhau. Trong năm nhóm vấn đề liên quan
đến hoạt động học tập thì vấn đề mà sinh viên đánh giá ở mức thường xuyên là
nhóm vấn đề liên quan đến phương pháp học tập, tiếp theo là vấn đề liên quan đến
nội dung học tập, điều kiện học tập khác, phương pháp giảng dạy của giáo viên, vấn
đề về giao tiếp. Trong những vấn đề cụ thể sinh viên cần giải quyết trong hoạt động
học tập thì ở mỗi một nhóm vấn đề sinh viên gặp phải những vấn đề khác nhau. Nổi
bật ở nhóm vấn đề liên quan đến phương pháp học tập là vấn đề chưa kịp thích ứng
với những phương pháp học tập mới. Nhóm vấn đề liên quan tới nội dung học tập
thì vấn đề nổi trội là kiến thức đòi hỏi suy luận nhiều. Ở nhóm vấn đề liên quan tới
phương pháp giảng dạy của giáo viên thì vấn đề thường xuyên gặp phải nhất là vấn
đề chưa kịp thích ứng với phương pháp giảng dạy của giáo viên. Trong nhóm vấn
đề liên quan đến giao tiếp thì vấn đề sinh viên hay gặp là có ít thời gian trò chuyện
109
với giáo viên và không dám trình bày thắc mắc với cán bộ các phòng ban. Còn ở
nhóm vấn đề liên quan tới các điều kiện học tập khác thì vấn đề áp lực trong thì cử
và khó khăn trong tìm tài liệu tham khảo được sinh viên đánh giá là thường xuyên
gặp phải.
Thực trạng kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ
nhất trường Cao đẳng Sư phạm Long An chỉ ở mức trung bình. Trong đó mức độ
nhận thức chung của sinh viên về kỹ năng GQVĐ ở mức trung bình, mức độ giải
quyết vấn đề trong các tình huống giả định cũng chỉ ở mức trung bình. Không có sự
khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê giữa nam và nữ trong mức độ kỹ năng giải quyết
vấn đề trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất. Có sự khác biệt ý nghĩa
về mặt thống kê của kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh
viên năm thứ nhất trên phương diện ngành học. Trong đó ngành Tin học và Giáo
dục Thể chất có mức độ kỹ năng GQVĐ tốt hơn các ngành còn lại.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động
học tập của sinh viên năm thứ nhất, trong đó có ba nhóm yếu tố chính là nhóm yếu
tố xuất phát từ phía bản thân sinh viên, từ phía giáo viên và cán bộ các phòng ban,
từ phía nhà trường. Với yếu tố xuất phát từ phía sinh viên thì yếu tố liên quan đến
phương pháp học tập là nổi trội nhất. Từ phía giáo viên và cán bộ các phòng ban thì
sinh viên đánh giá yếu tố liên quan đến phương pháp giảng dạy của giáo viên có
ảnh hưởng nhiều tới kỹ năng GQVĐ của sinh viên. Nhóm yếu tố từ phía nhà trường
thì yếu tố nổi rõ lên nhất đó là nhà trường chưa quan tâm trang bị kiến thức và rèn
luyện kỹ năng GQVĐ cho sinh viên.
Với kết quả nghiên cứu thu được như trên thì nhiệm vụ nghiên cứu đã hoàn
thành, giả thuyết nghiên cứu đã được chứng minh.
2. Kiến nghị
Đối với ban giám hiệu nhà trường
Kết quả nghiên cứu thực trạng cho thấy sinh viên năm thứ nhất có kỹ năng
giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập ở mức trung bình, vì vậy để cải thiện kỹ
năng giải quyết vấn đề cho sinh viên thì Ban giám hiệu nhà trường cần đề ra các
110
biện pháp phù hợp với thực trạng tại nhà trường. Ví dụ như tổ chức các buổi hội
thảo, báo cáo chuyên đề về phương pháp học tập hiệu quả, cung cấp các kiến thức
và rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp…
cho sinh viên toàn trường, tạo môi trường, điều kiện học tập thuận lợi cho sinh viên.
Đối với giáo viên và cán bộ các phòng ban
Sinh viên còn gặp nhiều vấn đề liên quan đến phương giảng dạy vì vậy giáo
viên cần chú trọng đến phương pháp giảng dạy, truyền đạt theo hướng kích thích
hứng thú học tập của sinh viên, quan tâm tới việc hình thành các kỹ năng cần thiết
trong học tập cho sinh viên. Giáo viên cũng cần hướng dẫn sinh viên các phương
pháp học tập hiệu quả.
Trong giao tiếp sinh viên năm nhất còn nhiều e ngại vì vậy giáo viên cũng
nên điều chỉnh hành vi giao tiếp ứng xử sao cho thân thiện và gần gũi với sinh viên
hơn hỗ trợ, giúp đỡ sinh viên giải quyết các vấn đề gặp phải.
Sinh viên năm thứ nhất thường không mạnh dạn, không dám trình bày thắc
mắc với cán bộ phòng ban, vì thế cán bộ phòng ban cũng nên lưu ý đến kết quả
nghiên cứu thực trạng này và điều chỉnh hành vi giao tiếp ứng xử cho phù hợp, giải
đáp tận tình các thắc mắc, giúp đỡ khi sinh viên gặp khó khăn.
Phòng công tác sinh viên, Đoàn sinh viên cần phối hợp, tổ chức các hoạt
động xã hội, các buổi giao lưu thiết thực và có hiệu quả.
Đối với bản thân sinh viên
Kỹ năng được hình thành thông qua nhận thức và rèn luyện. Do vậy sinh
viên cần nhận thức đúng, hiểu rõ vai trò kỹ năng giải quyết vấn đề với hoạt động
học tập, từ đó tích cực trau dồi kiến thức, rèn luyện kỹ năng của bản thân.
Sinh viên cần xác định được mục tiêu, nhiệm vụ học tập, xây dựng động cơ,
thái độ học tập đúng đắn. Sinh viên phải chủ động, tích cực trong quá trình lĩnh hội
tri thức, rèn luyện kỹ năng, khắc phục những khó khăn, cố gắng và nỗ lực để giải
quyết tốt các vấn đề gặp phải trong học tập.
Sinh viên cũng cần chủ động, cởi mở hơn trong việc thiết lập mối quan hệ
giao tiếp với bạn bè, Thầy Cô và các cán bộ phòng ban.
111
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Hoàng Anh (2007), Hoạt động-Giao tiếp-Nhân cách, Nxb Đại học Sư phạm Hà
Nội.
2. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Chỉ thị số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị
Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
3. B.Ph.Lomov (2000), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Nguyễn Minh Châu (2012), Kỹ năng thích ứng với môi trường học tập của sinh
viên năm nhất trường Đại học An Ninh Nhân Dân, Luận văn Thạc sĩ Tâm lý
học, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
5. Vũ Dũng (2000), Từ điển Tâm lý học, Viện Tâm lý học.
6. Phan Dũng (2004), Phương pháp luận sáng tạo, Nxb TP.HCM
7. Nguyễn Kim Dung (2012), Báo cáo tổng kết khảo sát kỹ năng giải quyết vấn đề
của học sinh tiểu học tại TP Hồ Chí Minh và Hà Nội, Viện nghiên cứu giáo
dục, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
8. Nguyễn Thị Thuý Dung (2000), Kỹ năng giải quyết tình huống quản lý của học
viên các lớp bồi dưỡng hiệu trưởng tiểu học, Luận án Tiến sĩ Tâm lý học,
Đại học Sư phạm Hà Nội.
9. Đoàn Văn Điều (2013), “Thực trạng khó khăn của sinh viên học kì 3 Trường
Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh trong quá trình học tập theo hệ thống tín
chỉ”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, (50), tr 68-77.
10. Phạm Minh Hạc (2002), Tuyển tập Tâm lý học, Nxb Giáo dục.
11. Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thuỷ (1998), Tâm lý học tập 1, Nxb
Giáo dục.
12. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2012), Kỹ năng thích ứng của sinh viên năm nhất trong
hoạt động học tập tại một số trường đại học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh, Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí
Minh.
112
13. Cao Đình Trung Hậu (2003), Hình thành năng lực giải quyết vấn đề qua dạy
học phần cơ học lớp 10, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ
Chí Minh.
14. Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (1999), Tâm lý học lứa tuổi và
sư phạm, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
15. Nguyễn Thị Thiên Kim (2007), Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, Luận
văn Thạc sĩ Tâm lý học, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
16. Hoàng Khuê (1992), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội.
17. Leonchiev.A.N (1989), Hoạt động-Ý thức-Nhân cách, Nxb Giáo dục.
18. N.Đ.Levitốp (1970), Tâm lý học trẻ em và Tâm lý học sư phạm, Nxb Giáo dục.
19. Nguyễn Hữu Nghĩa, Bùi Ngọc Oánh và Triệu Xuân Quýnh (1985), Tâm lý học,
Nxb Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
20. Vũ Thị Nho (2003), Tâm lý học phát triển, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
21. Petrovski (1982), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm (Người dịch: Đỗ
Văn), Nxb Giáo dục.
22. Huỳnh Văn Sơn (2009), Nhập môn kỹ năng sống, Nxb Giáo dục.
23. Huỳnh Văn Sơn (2009), Bạn trẻ và kỹ năng sống, Nxb Lao động xã hội.
24. Huỳnh Văn Sơn (2013), “Thử nghiệm một vài biện pháp phát triển một số kỹ
năng mềm cho sinh viên Đại học Sư phạm”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư
phạm TP. Hồ Chí Minh, (50), tr 68-77.
25. Shozo Hibino và Gerald Nadler (2009), Tư duy đột phá: 7 nguyên tắc GQVĐ
một cách sáng tạo và tối ưu (Người dịch: Vương Long), Nxb Trẻ TP. Hồ Chí
Minh.
26. Stephen Worchel và Way Shebilsue (2007), Tâm lý học nguyên lý và ứng dụng
(Người dịch: Trần Tiến Đức), Nxb Lao động và xã hội, Hà Nội.
27. Dương Thiệu Tống (2005), Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và tâm
lý, Nxb Khoa học và Xã hội, TP. Hồ Chí Minh.
113
28. Nguyễn Thị Tứ (2013), “Những khó khăn trong cuộc sống của sinh viên năm
nhất Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học Đại học
Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, (50), tr.120-130.
29. Phan Trịnh Hoàng Dạ Thy (2010), Kỹ năng giải quyết vấn đề trong quá trình
thực tập nhận thức của sinh viên trường Đại học Hoa Sen, Luận văn Thạc sĩ
Tâm lý học, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
30. Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2005), Phân tích dữ liệu nghiên cứu
với SPSS, Nxb Thống kê.
31. Nguyễn Xuân Thức (2007), Tâm lý học đại cương, Nxb Đại học Sư phạm Hà
Nội.
32. Lê Trung Thành (2004), Vận dụng dạy học nêu vấn đề vào dạy học tác phẩm
văn chương ở bậc trung học, Luận án Tiến sĩ Giáo dục học, Đại học Sư
phạm Hà Nội.
33. Nguyễn Anh Tuấn (2003), Bồi dưỡng năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề
cho học sinh Trung học cơ sở trong dạy học khái niệm toán học, Viện khoa
học giáo dục.
34. Nguyễn Lý Thuyết (2006), Trường Cao đẳng Sư phạm Long An - 30 năm hình
thành và phát triển, Cao đẳng Sư phạm Long An.
35. Nguyễn Quang Uẩn (2008), “Khái niệm kỹ năng sống xét theo góc độ tâm lý
học”, Tạp chí Tâm lý học, (6), tr.1-4.
36. Phạm Viết Vượng (2004), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
37. Nguyễn Thị Vân (2013), Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên
năm thứ nhất trường Sĩ Quan Lục Quân 2, Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học,
Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
38. V.Okon (1976), Những cơ sở của dạy học nêu vấn đề, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Tiếng Anh
39. Corsini, R (1999), The diction of psychology, New York.
114
40. Donald J.Treffinger (2003), Practice Problem of creative problem solving,
NewYork.
41. Gierl, Mark J, Wang, Changjiang and Zhou, Jiawen (2008), Using the attribute
hierarchy method to make diagnostic inferences about Examine’s problem –
solving skill in Algebra on SAT, Techonoly and Assessment study
collaborative, Boston college, American.
42. Howard Senter (2003), Super Series – Solving Problem, Institude of Leadership
and Management, London.
43. J.D.Bransford,Sharon L.Foster (2002), How to sovle a problem, International
university of Alliant, San Diego.
44. Loren C.Larson (1997), Problem-Solving through problems, New York.
45. Steven Kneedland (1999), Solving problem – things that really matter about,
New York.
46. White S and Graesser, A.C (2005), Comprehension of text in problem solving –
The psychology of problem solving, Cambridge Unversity Press.
47. Woolfolk.A.E (1995), Education Psychology, Boston, American.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN
(Dành cho sinh viên)
Các bạn sinh viên thân mến!
Kỹ năng giải quyết vấn đề (GQVĐ) trong hoạt động học tập là một kỹ năng
quan trọng với sinh viên năm thứ nhất. Với môi trường học tập mới các bạn gặp
không ít vấn đề. Việc tìm hiểu kỹ năng giải quyết vấn đề và đề ra biện pháp phù hợp
hỗ trợ cho sinh viên là cần thiết. Các bạn vui lòng giúp đỡ bằng cách trả lời những
câu hỏi dưới đây theo suy nghĩ của bạn!
Câu 1. Theo bạn sinh viên năm thứ nhất thường gặp những vấn đề (những khó
khăn) nào trong hoạt động học tập?
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
Câu 2. Theo bạn, vì sao bạn gặp phải những vấn đề đó trong hoạt động học tập?
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
Câu 3. Bạn hiểu kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ
nhất là như thế nào?
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
Câu 4. Khi gặp những vấn đề trong hoạt động học tập bạn đã giải quyết như thế
nào?
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
Câu 5. Theo bạn, để cải thiện kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên
năm thứ nhất cần có những biện pháp gì?
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
Chân thành cảm ơn các bạn sinh viên đã hỗ trợ, hợp tác nghiên cứu!
Phụ lục 2
PHIẾU ĐIỀU TRA (Dành cho sinh viên)
Các bạn sinh viên thân mến!
Để có cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu đề tài “Kỹ năng giải quyết vấn
đề (GQVĐ) trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Cao
đẳng Sư phạm Long An” cũng như góp phần nâng cao hiệu quả học tập cho sinh
viên năm thứ nhất. Xin bạn vui lòng giúp đỡ bằng cách trả lời các câu hỏi sau đây:
THÔNG TIN CHUNG:
1.Giới tính: Nam Nữ
2.Bạn hiện đang học chuyên ngành:
SP Tiếng anh SP Mĩ thuật SP Tiểu học
SP GD Thể chất SP Âm nhạc SP Toán
SP GD Mầm non SP Tin học SP Ngữ Văn
NỘI DUNG CHI TIẾT:
Câu 1. Bạn hiểu như thế nào về kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập?
1. Là kỹ năng quan trọng đảm bảo cho sự thành công của sinh viên trong học
tập.
2. Là kỹ năng cần thiết để con người tồn tại trong cuộc sống.
3. Là việc giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh trong hoạt động học tập.
4. Là việc giải quyết có hiệu quả các vấn đề nảy sinh trong hoạt động học tập
dựa trên việc vận dụng những tri thức và kinh nghiệm của mỗi sinh viên.
5. Là khả năng thực hiện đúng yêu cầu các bước, các thao tác của quá trình
GQVĐ để giải quyết có kết quả và hợp lý những vấn đề trong hoạt động học
tập dựa trên nền tảng tri thức và kinh nghiệm của mỗi sinh viên.
Câu 2. Bạn đánh giá như thế nào về vai trò của kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học
tập của sinh viên năm thứ nhất?
4. Quan trọng 1. Hoàn toàn không quan trọng
5. Rất quan trọng 2. Không quan trọng
3. Bình thường
Câu 3. Bạn quan tâm tới việc rèn luyện kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập ở
mức độ nào?
4. Quan tâm 1. Hoàn toàn không quan tâm
5. Rất quan tâm 2. Không quan tâm
3. Bình thường
Câu 4. Bạn đánh giá như thế nào về mức độ hiểu biết của bản thân đối với các bước
của quá trình GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất ? Đánh
dấu X vào lựa chọn của bạn.
TT Các bước của quá trình Mức độ
GQVĐ trong hoạt động học Hoàn Hiểu Phân Hiểu Hiểu
tập toàn biết vân biết rõ Biết
không rất ít rất rõ
biết
1 Nhận thức về vấn đề
2 Hiểu vấn đề
3 Đề ra phương án giải quyết
4 Lựa chọn phương án tối ưu
5 Tổ chức thực hiện
6 Kiểm tra đánh giá
Câu 5. Dưới đây là các thao tác của quá trình GQVĐ. Đánh dấu X vào câu trả lời
của bạn.
TT Nội Dung Hoàn Sai Phân Đúng Hoàn
toàn vân toàn
sai đúng
1 Nhận ra vấn đề là việc tìm hiểu những
thông tin liên quan đến vấn đề
2 Xác định chủ thể vấn đề là xác định ai
có trách nhiệm và nghĩa vụ GQVĐ
3 Mô tả khái quát các chi tiết giúp chủ
thể hiểu vấn đề
4 Xác định mục tiêu là xác định mục
tiêu trước mắt khi GQVĐ
5 Xác định nguyên nhân của vấn đề là xác định những nguyên nhân trực tiếp của vấn đề
6 Đề ra phương án giải quyết là liệt kê những giải pháp có thể thực hiện
7 Phân tích ưu và khuyết điểm của các phương án, chủ thể sẽ chọn được phương án tối ưu
8 Phương án tối ưu là phương án chứa nhiều ưu điểm nhất
9 Thực hiện phương án tối ưu là xác định các công việc cụ thể cần làm để GQVĐ
10 So sánh kết quả thực tế với mục tiêu đề ra là một cách giúp xác định mức độ thành công của quá trình GQVĐ
Câu 6. Dưới đây là những vấn đề có liên quan đến hoạt động học tập của sinh viên
năm thứ nhất. Bạn hãy đánh giá về mức độ gặp phải những vấn đề đó. Đánh dấu X
vào ô tương ứng với câu trả lời của bạn.
TT CÁC VẤN ĐỀ Mức độ
Không gặp Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên Rất thường xuyên
NỘI DUNG HỌC TẬP
1 Nội dung học tập đa đạng
2 Nhiều bài học khó nên không nắm bắt kịp
3 Kiến thức đòi hỏi phải suy luận nhiều
4 Nhiều môn học còn tập trung lý thuyết, thiếu thực tế
PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP
5
Chưa kịp thích ứng với những phương pháp học tập mới
6 Khả năng tự học ở nhà còn yếu
7 Thiếu kỹ năng học tập
8 Gặp khó khăn trong việc học nhóm
9 Chưa biết cách tự nghiên cứu giáo trình
lập kế 10 Chưa biết cách hoạch học tập
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
CỦA GIÁO VIÊN
11 Chưa kịp thích nghi với phương pháp giảng dạy của giáo viên
12 Một số giáo viên dạy quá nhanh
13 Một số giáo viên dạy không trọng tâm, không liên hệ thực tiễn
14 Một số giáo viên dạy không gây hứng thú cho sinh viên trong học tập
15 Giáo viên không áp dụng nhiều phương pháp giảng dạy mới
GIAO TIẾP
16 Bạn bè ít gần gũi, thân thiện
17 Dễ nảy sinh mâu thuẫn với bạn bè
18 Chưa có nhóm bạn học tập, vui chơi
19 Ít thời gian để trò chuyện cùng giáo viên
20 Giáo viên không thân thiện với sinh viên
21 Khó liên hệ với các cán bộ phòng ban
22 Không dám trình bày thắc mắc với cán bộ phòng ban
23 Bản thân thiếu kỹ năng giao tiếp
ĐIỀU KIỆN HỌC TẬP KHÁC
24 Cơ sở vật chất trường chưa đầy đủ (máy chiếu, micro, quạt…)
25 Phòng học nóng bức, phải di chuyển nhiều
26 Thời khóa biểu học tập chưa hợp lí
27 Áp lực trong thi cử
28 Thiếu phương tiện học tập (máy tính, internet…)
29 Khó khăn trong việc tìm tài liệu tham khảo
Câu 7. Bạn đánh giá như thế nào về mức độ thực hiện các thao tác trong kỹ năng
GQVĐ của bản thân. Đánh dấu X vào ô phù hợp với bạn nhất.
TT Các thao tác Mức độ thực hiện
Kém Yếu Trung Tốt Rất
bình tốt
1 Xác định kiểu vấn đề trong hoạt động
học tập
2 Xác định người có trách nhiệm
GQVĐ
3 Xác định được những thông tin cần
tìm hiểu để làm rõ vấn đề
4 Phát hiện ra các mâu thuẫn của vấn đề
5 Xác định nguyên nhân của vấn đề
6 Xác định hậu quả nếu vấn đề không
được giải quyết
7 Xác định mục tiêu cần đạt được khi
GQVĐ
8 Liệt kê nhiều phương án khác nhau để
GQVĐ
9 Phân tích ưu, khuyết điểm và những
rủi ro của từng phương án
10 Lựa chọn phương án tối ưu
11 Xác định những công việc cụ thể cần
làm để GQVĐ
12 Đánh giá kết quả dựa trên các mục
tiêu đã đặt ra
13 Bạn đánh giá như thế nào về kỹ năng
GQVĐ nói chung của bản thân?
Câu 8. Theo bạn, những yếu tố dưới đây có mức độ ảnh hưởng như thế nào tới kỹ
năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất. Đánh dấu X vào
lựa chọn của bạn.
TT Các yếu tố ảnh hưởng Mức độ ảnh hưởng
Không Ảnh Ảnh
ảnh hưởng hưởng
hưởng ít nhiều
CÁC YẾU TỐ TỪ PHÍA BẢN THÂN SINH VIÊN
1 Chưa nắm vững kiến thức và phương pháp học
tập
2 Quen với cách học tập ở phổ thông
3 Thiếu kiến thức và kỹ năng GQVĐ
4 Bản thân chưa được trang bị các kỹ năng cần
thiết (kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự học, kỹ
năng làm việc nhóm…)
5 Bản thân chưa tích cực trong việc GQVĐ
6 Thiếu tự tin, ngại ngùng khi trình bày phương
án GQVĐ
7 Bản thân không hứng thú với việc học tập
CÁC YẾU TỐ TỪ PHÍA GIÁO VIÊN,
CÁN BỘ PHÒNG BAN
8 Phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa tạo
hứng thú học tập ở sinh viên
9 Giáo viên, cán bộ phòng ban ít thân thiện,
không giải đáp tận tình thắc mắc của sinh viên
10 Giáo viên, cán bộ phòng ban còn thơ ơ khi sinh
viên gặp khó khăn
11 Giáo viên chỉ quan tâm tới nội dung bài dạy
chưa quan tâm đến việc hình thành kỹ năng (kỹ
năng giao tiếp, làm việc nhóm…) cho sinh viên
CÁC YẾU TỐ TỪ PHÍA NHÀ TRƯỜNG
12 Nhà trường chưa trang bị cho sinh viên kiến
thức về kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập
13 Cơ sở vật chất và phương tiện phục vụ hoạt
động học tập chưa tốt
14 Chương trình đào tạo chưa hợp lý
15 Chưa quan tâm tới việc trang bị các kỹ năng (kỹ
năng giao tiếp, làm việc nhóm…) cho sinh viên
16 Không phổ biến rõ ràng, đầy đủ, kịp thời các
thông tin liên quan đến hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất
Câu 9. Bạn sẽ làm gì khi gặp các tình huống sau đây? Đánh dấu X vào câu trả lời
của bạn.
Tình huống Lựa chọn
9.1. Trong giờ lên lớp, giáo viên a. Cuối buổi học, bạn trình bày ý kiến của
giảng bài hơi nhanh, bạn không mình với giáo viên, nhờ giáo viên giải thích
kịp hiểu hết bài học, ghi chép thêm về bài học và ghi chép lại.
không đầy đủ. Khi đó bạn sẽ b b. Nhờ bạn bè cùng lớp giải thích cho bạn
làm như thế nào? hiểu, mượn tập các bạn chép lại bài học.
c.Về nhà bạn đọc tài liệu, tự tìm hiểu sau.
d.d. Bỏ qua, không quan tâm đến những nội
dung đó nữa.
e. Nhờ lớp trưởng trình bày ý kiến với giáo
viên.
9.2. Đã gần hết học kì I, mà khối a. a.Vẫn còn nhiều thời gian ôn bài nên học
lượng kiến thức các môn học rất được tới đâu thì học.
nhiều, bài tập thì khó. Bạn cảm b b. Lập kế hoạch học tập cụ thể cho từng môn
thấy rất áp lực và căng thẳng vì học.
sắp đến kì thi hết học kì. Bạn sẽ c. Sát ngày thi môn nào mới ôn tập môn học
làm như thế nào trong thời gian đó.
này? d. d. Lập kế hoạch học tập cụ thể, ôn lại các
kiến thức trọng tâm của từng môn học, đọc
thêm các tài liệu tham khảo.
e. Không quan tâm.
9.3. Khi thảo luận nhóm, mỗi a. Im lặng, mặc kệ mọi người tranh luận.
bạn đưa ra một ý kiến khác b. Dung hoà nhóm và đặt ra các câu hỏi định
hướng vào vấn đề đang thảo luận, sau đó tổng nhau. Là nhóm trưởng bạn sẽ
hợp các ý kiến và ghi chép có chọn lọc. làm như thế nào?
c. Lôi kéo những ý kiến phù hợp về phía
mình, phản đối các ý kiến còn lại.
d. Nhờ giáo viên giúp đỡ.
e. Ghi chép lại toàn bộ các ý kiến.
9.4. Bạn muốn biết về học bổng a. Tự tìm hiểu thông tin từ sinh viên khoá
của trường dành cho sinh viên trước.
năm thứ nhất. Khi đó bạn sẽ làm b. Nhờ bạn bè hỏi dùm vì mình chưa tiếp
gì? xúc với cán bộ phòng công tác sinh viên bao
giờ.
c. Trực tiếp lên phòng công tác sinh viên nhờ
cán bộ phòng hướng dẫn.
d. Hỏi lớp trưởng.
e. Không quan tâm tới nữa.
9.5. Bạn có một bài tiểu luận của a. Thư viện của trường.
môn học. Để chuẩn bị tốt cho b b. Internet, báo, tạp chí.
c. Mượn tài liệu các sinh viên khóa trước. bài tiểu luận đó thì bạn sẽ tìm tài
d. Không cần dùng tới tài liệu tham khảo . liệu tham khảo ở đâu?
e. Cả a, b, c.
Chân thành cảm ơn sự hợp tác của các bạn!
Chúc các bạn thành công trong học tập và cuộc sống!
Phụ lục 3
PHIẾU ĐIỀU TRA
(Dành cho Giảng viên)
Kính thưa Quý Thầy/Cô!
Để có cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu đề tài “Kỹ năng giải quyết vấn
đề (GQVĐ) trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Cao
đẳng Sư phạm Long An” cũng như tìm ra biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả học
tập của sinh viên năm thứ nhất. Xin Quý Thầy/Cô vui lòng giúp đỡ bằng cách trả lời
các câu hỏi sau đây:
Câu 1. Thầy/Cô đánh giá như thế nào về vai trò của kỹ năng GQVĐ trong hoạt
động học tập của sinh viên năm thứ nhất?
4. Quan trọng 4. Hoàn toàn không quan trọng
5. Rất quan trọng 5. Không quan trọng
6. Bình thường
Câu 2. Dưới đây là những vấn đề có liên quan đến hoạt động học tập của sinh viên
năm thứ nhất. Thầy/Cô hãy đánh giá về mức độ gặp phải những vấn đề đó của sinh
viên. Vui lòng đánh dấu X vào ô phù hợp.
TT CÁC VẤN ĐỀ Mức độ
Không Hiếm Thỉnh Thường Rất
gặp khi thoảng xuyên thường
xuyên
NỘI DUNG HỌC TẬP
1 Nội dung học tập đa đạng
2 Nhiều bài học khó nên
không nắm bắt kịp
3 Kiến thức đòi hỏi phải suy
luận nhiều
4 Nhiều môn học còn tập
trung lý thuyết, thiếu thực
tế
PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP
5 Chưa kịp thích ứng với
những phương pháp học
tập mới
6 Khả năng tự học ở nhà còn
yếu
7 Thiếu kỹ năng học tập
8 Gặp khó khăn trong việc
học nhóm
9 Chưa biết cách tự nghiên
cứu giáo trình
10 Chưa biết cách lập kế
hoạch học tập
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
CỦA GIÁO VIÊN
11 Chưa kịp thích nghi với
phương pháp giảng dạy của
giáo viên
12 Một số giáo viên dạy quá
nhanh
13 Một số giáo viên dạy
không trọng tâm, không
liên hệ thực tiễn
14 Một số giáo viên dạy
không gây hứng thú cho
sinh viên trong học tập
15 Giáo viên không áp dụng
nhiều phương pháp giảng
dạy mới
GIAO TIẾP
16 Bạn bè ít gần gũi, thân
thiện
17 Dễ nảy sinh mâu thuẫn với
bạn bè
18 Chưa có nhóm bạn học tập,
vui chơi
19 Ít thời gian để trò chuyện
cùng giáo viên
20 Giáo viên không thân thiện
với sinh viên
21 Khó liên hệ với các cán bộ
phòng ban
22 Không dám trình bày thắc
mắc với cán bộ phòng ban
23 Bản thân thiếu kỹ năng
giao tiếp
ĐIỀU KIỆN HỌC TẬP KHÁC
24 Cơ sở vật chất trường chưa
đầy đủ (máy chiếu, micro,
quạt…)
25 Phòng học nóng bức, phải
di chuyển nhiều
26 Thời khóa biểu học tập
chưa hợp lí
27 Áp lực trong thi cử
28 Thiếu phương tiện học tập
(máy tính, internet…)
29 Khó khăn trong việc tìm tài
liệu tham khảo
Câu 3. Thầy/Cô đánh giá như thế nào về mức độ thực hiện các thao tác của kỹ năng
GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất? Vui lòng đánh dấu X
vào ô phù hợp.
TT Các thao tác Mức độ thực hiện
Kém Yếu Trung Tốt Rất
bình tốt
1 Xác định kiểu vấn đề trong hoạt động
học tập
2 Xác định người có trách nhiệm
GQVĐ
3 Xác định được những thông tin cần
tìm hiểu để làm rõ vấn đề
4 Phát hiện ra các mâu thuẫn của vấn đề
5 Xác định nguyên nhân của vấn đề
6 Xác định hậu quả nếu vấn đề không
được giải quyết
7 Xác định mục tiêu cần đạt được khi
GQVĐ
8 Liệt kê nhiều phương án khác nhau để
GQVĐ
9 Phân tích ưu, khuyết điểm của từng
phương án
10 Lựa chọn phương án tối ưu
11 Xác định những công việc cụ thể cần
làm để GQVĐ
12 Đánh giá kết quả dựa trên các mục
tiêu đã đặt ra
13 Thầy/Cô đánh giá như thế nào về kỹ
năng GQVĐ nói chung của sinh viên
năm thứ nhất
Câu 4. Theo Thầy/Cô các yếu tố dưới đây có mức độ ảnh hưởng như thế nào tới kỹ
năng GQVĐ trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất? Đánh dấu X vào
ô phù hợp.
TT Các yếu tố ảnh hưởng Mức độ ảnh hưởng
Không Ảnh Ảnh
ảnh hưởng hưởng
hưởng ít nhiều
CÁC YẾU TỐ TỪ PHÍA BẢN THÂN SINH VIÊN
1 Chưa nắm vững kiến thức và phương pháp học
tập
2 Quen với cách học tập ở phổ thông
3 Thiếu kiến thức và kỹ năng GQVĐ
4 Bản thân chưa được trang bị các kỹ năng cần
thiết (kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự học, kỹ
năng làm việc nhóm…)
5 Bản thân chưa tích cực trong việc GQVĐ
6 Thiếu tự tin, ngại ngùng khi trình bày phương
án GQVĐ
7 Bản thân không hứng thú với việc học tập
CÁC YẾU TỐ TỪ PHÍA GIÁO VIÊN,
CÁN BỘ PHÒNG BAN
8 Phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa tạo
hứng thú học tập ở sinh viên
9 Giáo viên, cán bộ phòng ban ít thân thiện,
không giải đáp tận tình thắc mắc của sinh viên
10 Giáo viên, cán bộ phòng ban còn thơ ơ khi sinh
viên gặp khó khăn
11 Giáo viên chỉ quan tâm tới nội dung bài dạy
chưa quan tâm đến việc hình thành kỹ năng (kỹ
năng giao tiếp, làm việc nhóm…) cho sinh viên
CÁC YẾU TỐ TỪ PHÍA NHÀ TRƯỜNG
12 Nhà trường chưa trang bị cho sinh viên kiến
thức về kỹ năng GQVĐ trong hoạt động học tập
13 Cơ sở vật chất và phương tiện phục vụ hoạt
động học tập chưa tốt
14 Chương trình đào tạo chưa hợp lý
15 Chưa quan tâm tới việc trang bị các kỹ năng (kỹ
năng giao tiếp, làm việc nhóm…) cho sinh viên
16 Không phổ biến rõ ràng, đầy đủ, kịp thời các
thông tin liên quan đến hoạt động học tập của
sinh viên năm thứ nhất
Trân trọng cảm ơn sự hỗ trợ rất quý báu của Thầy/Cô.
Chúc Thầy/Cô nhiều sức khoẻ và thành công trong công tác giảng dạy!
Phụ lục 4
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
(Dành cho Sinh viên)
Các bạn sinh viên thân mến!
Để có cơ sở trong việc đưa ra các biện pháp nhằm cải thiện kỹ năng giải
quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Cao
Đẳng Sư Phạm Long An. Các bạn vui lòng giúp đỡ nhóm nghiên cứu bằng cách
trả lời các câu hỏi sau đây.
Câu 1. Bạn đánh giá như thế nào về tính cần thiết và tính khả thi của một số biện
pháp nhằm cải thiện kỹ năng giải quyết vấn đề (GQVĐ) trong hoạt động học tập
của sinh viên năm thứ nhất. Đánh dấu X vào lựa chọn phù hợp.
TT Biện pháp Tính cần thiết Tính khả thi
Không Cần Rất Không Khả Rất
cần thiết cần khả thi khả
thiết thiết thi thi
VỀ PHÍA SINH VIÊN
1 Xác định được động cơ,
nhiệm vụ học tập đúng đắn
2 Tìm hiểu về môi trường
học tập ở Đại học, Cao
đẳng
3 Mạnh dạn tiếp xúc, trao đổi
với giáo viên, cán bộ phòng
ban về những vấn đề còn
thắc mắc
4 Tích cực tham gia các hoạt
động của lớp, khoa,
trường…
5 Tự trau dồi và rèn luyện
các kỹ năng cần thiết (kỹ
năng GQVĐ, giao tiếp, làm
việc nhóm…)
6 Các biện pháp khác (nếu có):
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
VỀ PHÍA GIÁO VIÊN,
CÁN BỘ PHÒNG BAN
1 Quan tâm tới việc đổi mới
phương pháp dạy học
2 Gần gũi, thân thiện, giúp
đỡ khi sinh viên gặp khó
khăn
3 Trao đổi với sinh viên về
các phương pháp dạy – học
phù hợp
4 Quan tâm tới việc rèn luyện
các kỹ năng cho sinh viên
(kỹ năng GQVĐ, giao tiếp,
làm việc nhóm...)
5 Các biện pháp khác (nếu có):
………………………………………………………………………………
…….……………..……………………………………………………………
……………………………………..…………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
VỀ PHÍA NHÀ TRƯỜNG
1 Tạo điều kiện tốt về môi
trường, cơ sở vật chất cho
hoạt động học tập của sinh
viên
2 Phổ biến rõ ràng, đầy đủ
các thông tin liên quan đến
hoạt động học tập của sinh
viên năm thứ nhất
3 Tổ chức các buổi hội
thảo/báo cáo chuyên đề về
các phương pháp học tập
và kỹ năng GQVĐ trong
hoạt động học tập
4 Tổ chức các hoạt động
ngoại khoá, cung cấp kiến
thức và rèn luyện kỹ năng
cần thiết cho sinh viên (kỹ
năng GQVĐ, giao tiếp…)
5 Các biện pháp khác (nếu có):
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
Câu 2. Theo bạn thời điểm nào là phù hợp nhất để hướng dẫn kỹ năng GQVĐ cho
sinh viên năm thứ nhất?
Tháng đầu tiên của năm học Giữa học kì I Hết học kì I
Chân thành cảm ơn sự hợp tác của các bạn!
Chúc các bạn thành công trong học tập và cuộc sống!
Phụ lục 5
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
(Dành cho Giảng viên)
Kính thưa quý Thầy/Cô!
Để có cơ sở trong việc đưa ra các biện pháp nhằm cải thiện kỹ năng giải
quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Cao
Đẳng Sư Phạm Long An. Xin quý Thầy/Cô vui lòng giúp đỡ nhóm nghiên cứu
bằng cách trả lời các câu hỏi sau đây.
Câu 1. Thầy/Cô đánh giá như thế nào về tính cần thiết và tính khả thi của một số
biện pháp nhằm cải thiện kỹ năng giải quyết vấn đề (GQVĐ) trong hoạt động học
tập của sinh viên năm thứ nhất. Vui lòng đánh dấu X vào lựa chọn phù hợp.
TT Biện pháp Tính cần thiết Tính khả thi
Không Cần Rất Không Khả Rất
cần thiết cần khả thi khả
thiết thiết thi thi
VỀ PHÍA SINH VIÊN
1 Xác định được động cơ,
nhiệm vụ học tập đúng đắn
2 Tìm hiểu về môi trường
học tập ở Đại học, Cao
đẳng
3 Mạnh dạn tiếp xúc, trao đổi
với giáo viên, cán bộ phòng
ban về những vấn đề còn
thắc mắc
4 Tích cực tham gia các hoạt
động của lớp, khoa,
trường…
5 Tự trau dồi và rèn luyện
các kỹ năng cần thiết (kỹ
năng GQVĐ, giao tiếp, làm
việc nhóm…)
6 Các biện pháp khác (nếu có):
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
VỀ PHÍA GIÁO VIÊN,
CÁN BỘ PHÒNG BAN
1 Quan tâm tới việc đổi mới
phương pháp dạy học
2 Gần gũi, thân thiện, giúp
đỡ khi sinh viên gặp khó
khăn
3 Trao đổi với sinh viên về
các phương pháp dạy – học
phù hợp
4 Quan tâm tới việc rèn luyện
các kỹ năng cho sinh viên
(kỹ năng GQVĐ, giao tiếp,
làm việc nhóm...)
5 Các biện pháp khác (nếu có):
………………………………………………………………………………
…….……………..……………………………………………………………
……………………………………..…………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
VỀ PHÍA NHÀ TRƯỜNG
1 Tạo điều kiện tốt về môi
trường, cơ sở vật chất cho
hoạt động học tập của sinh
viên
2 Phổ biến rõ ràng, đầy đủ
các thông tin liên quan đến
hoạt động học tập của sinh
viên năm thứ nhất
3 Tổ chức các buổi hội
thảo/báo cáo chuyên đề về
các phương pháp học tập
và kỹ năng GQVĐ trong
hoạt động học tập
4 Tổ chức các hoạt động
ngoại khoá, cung cấp kiến
thức và rèn luyện kỹ năng
cần thiết cho sinh viên (kỹ
năng GQVĐ, giao tiếp…)
5 Các biện pháp khác (nếu có):
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
Câu 2. Theo Thầy/Cô thời điểm nào là phù hợp nhất để hướng dẫn kỹ năng GQVĐ
cho sinh viên năm thứ nhất?
Tháng đầu tiên của năm học Giữa học kì I Hết học kì I
Trân trọng cảm ơn sự hỗ trợ rất quý báu của Thầy Cô.
Chúc Thầy Cô nhiều sức khoẻ và thành công trong công tác giảng dạy!
Phụ lục 6
BẢNG PHỎNG VẤN SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM LONG AN
Chào bạn. Bạn có thể cho biết bạn tên gì? Bạn hiện đang là sinh viên ngành nào?
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Câu 1. Khi vào học trong một môi trường học tập mới chắc hẳn bạn sẽ gặp những vấn đề (khó khăn). Trong các vấn đề liên quan đến hoạt động học tập (nội dung học tập, phương pháp học tập, phương pháp giảng dạy của giáo viên, giao tiếp, các điều kiện học tập khác) bạn gặp khó khăn với vấn đề nào nhất? Tại sao?
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Câu 2. Khi gặp những vấn đề đó, bạn đã giải quyết như thế nào?
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Câu 3. Để cải thiện kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất bạn có đề xuất hoặc kiến nghị gì với nhà trường và giáo viên, cán bộ phòng ban không?
Với nhà trường
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Với giáo viên, cán bộ các phòng ban
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Xin cảm ơn bạn đã tham gia trả lời bảng phỏng vấn này!
Phụ lục 7
BẢNG PHỎNG VẤN GIÁO VIÊN ĐANG GIẢNG DẠY SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM LONG AN
Xin Thầy/Cô vui lòng cho biết một số thông tin cá nhân như: Tên, Thầy/Cô hiện
đang giảng dạy tại khoa nào?
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Câu 1. Với tư cách là người đang trực tiếp giảng dạy các bạn sinh viên năm thứ
nhất, Thầy/Cô đánh giá như thế nào về kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động
học tập của sinh viên.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Câu 2. Theo Thầy/Cô sinh viên năm thứ nhất hiện nay đang gặp những vấn đề gì
trong hoạt động học tập?
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Câu 3. Để cải thiện kỹ năng giải quyết vấn đề trong hoạt động học tập của sinh viên
năm thứ nhất Thầy/Cô có đề xuất hay kiến nghị gì với lãnh đạo nhà trường và sinh
viên không?
Với nhà trường
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Với sinh viên
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………… Xin cảm ơn Thầy/Cô đã tham gia trả lời bảng phỏng vấn này!