
Lịch triều hiến chương loại chí QUYỂN II
SỰ KHÁC NHAU VỀ PHONG THỔ CÁC ĐẠO
THANH HOA
Nguyên trước là đất Tượng Quận, Tần, Hán gọi là
Quận Cửu Chân,Lương đặt là châu Ái, Tuỳ lại gọi là
Cửu Chân, Đường lại đổi là châu Ái. Thời nhà Đinh
cũng theo như thế. Nhà Lý đổi làm trại, rồi đổi làm
phủ. Nhà Trần đổi là Thanh Hoa, hoặc cũng gọi là
phủ (a). Tới khi nhà Trần dời về đóng ở Tây Đô, đổi
làm trấn Thanh Đô. Nhà Hồ đỏi làm phủ Thiên
Xương, gồm cả Cửu Chân, Ái Châu gọi là Kinh kì
tam phụ (b). Khi thuộc Minh lại gọi là phủ Thanh

Hoa và phủ Ái Châu. Nhà Lê cũng theo thế. Trong
đời Quang Thuận [1460 - 1669] đặt là thừa tuyên
Thanh Hoa. Có 6 phủ, 22 huyện, 4 châu.
Thanh Hoa mạch núi cao vót, sông lớn lượn quanh,
biển ở phía đông, Ai Lao sát phía tây, bắc giáp trấn
Sơn Nam, nam giáp đạo Nghệ An. Núi sông rất đẹp,
là một chỗ đất có cảnh đẹp ở nơi xung yếu. Các triều
trước vẫn gọi là một trấn rất quan trọng, đến Lê lại là
nơi căn bản. Vẻ non sông tốt tươi chung đúc nên sinh
ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ họp lại, nảy
ra nhiều văn nho. Đến những sản vật quí, cũng khác
mọi nơi (c). Bởi vì đất thiêng thì người giỏi nên nảy
ra những bậc phi thường ; vượng khí chung đúc nên
xứng đáng đứng đầu cả nước.
_________________________
(a) Có những phủ Ái Châu, Cửu Chân

(b) Từ đấy mới đổi Thanh Hoa làm Tây Đô, Thăng
Long làm Đông Đô.
(c) Như nhục quế, đá đẹp ở Thanh Hoa rất tốt.
__________________
Phủ Thiệu Thiên
Có 8 huyện :
Huyện Thụy Nguyên (a)
Huyện Vĩnh Phúc (b)
Huyện Đông Sơn (c)
Huyện Lôi Dương (d)
Huyện Yên Định (e)
Huyện Cẩm Thủy (f)
Huyện Thạch Thành (g)
Huyện Quảng Bình (h)
Phủ Thiệu Thiên ở phía tây bắc đạo Thanh Hoa, dải
đất ở vào miền thượng du, núi sông quanh bọc.
Huyện Thụy Nguyên ở quảng giữa của phủ. Huyện

Vĩnh Phúc ở phía bắc, liền với huyện Thạch Thành.
Huyện Đông Sơn ở phía nam giáp giới huyện Nông
Cống. Huyện Lôi Dương ở ven núi, có nhiều người
núi chập chồng. Huyện Yên Định thì giáp huyện
Vĩnh Phúc và huyện Thụy Nguyên. Ba huyện Thạch
Thành, Cẩm Thuỷ, Quảng Bình đều là đất giáp ven
núi, địa giới liền với nước Ai Lao. Có một con sông
phát nguyên từ Ai Lao chảy sang tức là sông Mã ;
một con sông phát nguyên từ huyện Quảng Bình đổ
về tức là sông Lương. Hai sông này hợp lại một
dòng, quanh vòng ôm lấy bốn huyện miền dưới. Cuối
đời Trần, Hồ Quý Ly dời kinh đô đến động An Tôn,
huyện Vĩnh Phúc (i) gọi là Tây Đô, đắp thành đào
hào, nền móng bền vững (j). Bên tả bên hữu thành,
gần sát núi đá, sông Mã sông Lương hợp lại chảy về
phía trước. Triều thần khi ấy là [Nguyễn] Nhữ
Thuyết cho rằng đất ấy ở về cuối nước đầu núi, can
Quý Ly không nên đóng đô ở đấy. Nhưng Quý Ly
không nghe. Rồi sau hai cha con Quý Ly bị quân

Minh bắt được, thành ấy phải bỏ.
___________________
(a) Trước là huyện Lương Giang, có 1 hương, 44 xã,
5 trang, 1 vạn, 8 phường, trại. Đường đi đến Kinh đô
phải 5 ngày. Các huyện chép sau đây cũng thế.
(b) Trước là huyện Vĩnh Ninh, có 2 hương, 24 xã, 2
trại, 1 sở, 1 vạn.
(c) Có 75 xã.
(d) Có 63 xã, 30 châu, sở , trang.
(e) Có 57 xã, 16 trang, 8 phường, 1 vạn.
(f) Có 42 sách, 1 trang
(g) Có 1 xã, 49 sách, 2 trang, 1 trại.
(h) Có 4 xã, 24 sách, 3 trang.
(i) Nay là những xã Hoa Nhai, Phương Nhai, Tây
Nhai.
(j) Thành rộng ước hơn 30 mẫu, đường đi lối ngang
lối dọc đều lát đá hoa, móng thành bốn mặt đều xây

