Lựa chọn chính sách cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay
lượt xem 2
download
Trên cơ sở phân tích những thay đổi của các lý thuyết kinh tế đương đại, học tập kinh nghiệm nước ngoài và từ thực tế Việt Nam, bài viết đề xuất một số mục tiêu có thể lựa chọn cho chính sách cạnh tranh của nước ta.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Lựa chọn chính sách cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay
- CHÑNH SAÁCH LÛÅA CHOÅN CHÑNH SAÁCH CAÅNH TRANH TRONG BÖËI CAÃNH HÖÅI NHÊÅP KINH TÏË HIÏåN NAY ĐÀO NgọC Báu* Luật Cạnh tranh của bất cứ quốc gia nào cũng là sự thể hiện cụ thể chính sách cạnh tranh của quốc gia đó. Luật Cạnh tranh Việt Nam hiện nay hướng đến bảo vệ cạnh tranh tự do, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, đồng thời hướng đến mục tiêu công bằng đối với các chủ thể cạnh tranh. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế, nếu quá tập trung vào cạnh tranh tự do sẽ không thể hình thành các doanh nghiệp quy mô lớn, đủ sức cạnh tranh quốc tế và vì vậy, không nâng cao được năng lực cạnh tranh quốc gia. Trên cơ sở phân tích những thay đổi của các lý thuyết kinh tế đương đại, học tập kinh nghiệm nước ngoài và từ thực tế Việt Nam, bài viết đề xuất một số mục tiêu có thể lựa chọn cho chính sách cạnh tranh của nước ta. 1. Từ cạnh tranh tự do đến cạnh tranh xây dựng chế độ kiểm soát trạng thái cạnh hữu hiệu tranh (còn được gọi là “chủ nghĩa kết cấu”), Cạnh tranh hữu hiệu (workable competition) không chỉ tiến hành kiểm soát đối với hành là chỉ cạnh tranh có thể mang lại kết quả thị vi hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp, mà trường hoặc thành tích thị trường hữu hiệu. còn cho phép điều chỉnh đối với kết cấu thị Trong quá trình tìm kiếm biện pháp thực trường không có lợi cho sự triển khai cạnh hiện cạnh tranh hữu hiệu, kinh tế học có tranh. Phương pháp chủ yếu của “chủ nghĩa hai trường phái nổi bật, đó là trường phái kết cấu” là phân chia doanh nghiệp lũng Harvard và trường phái Chicago. Trường đoạn thành những doanh nghiệp nhỏ hơn và phái Harvard thông qua phân tích mô hình cấm sáp nhập…, từ đó có thể phục hồi và S-C-P (Structure – Conduct – Performance), duy trì trật tự thị trường cạnh tranh. Từ sau còn được gọi là mô hình Cấu trúc – Hành vi Thế chiến thứ hai đến những năm 70 của thế – Kết quả, cho rằng mức độ tập trung thị kỷ 20, nước Mỹ đã từng là quốc gia thực trường càng cao thì sức thống lĩnh của các hiện “chủ nghĩa kết cấu” triệt để nhất. Tuy doanh nghiệp lớn càng mạnh, nền kinh tế sẽ nhiên, từ sau những năm 1970, trường phái phải chịu sự xâm hại ác tính của lũng đoạn. Chicago ngày càng phát huy vai trò quan Chính vì vậy, trường phái Harvard chủ trọng và dần thay thế trường phái Harvard. trương để duy trì cạnh tranh hữu hiệu thì cần Trường phái này không thừa nhận lý luận * TS. Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. NGHIÏN CÛÁU Söë 11(315) T6/2016 LÊÅP PHAÁP 43
- CHÑNH SAÁCH Cấu trúc - Hành vi - Kết quả, cho rằng lợi kinh tế để có được cạnh tranh tự do. Thực nhuận lũng đoạn là kết quả của cạnh tranh tiễn tư pháp giai đoạn này cho thấy, Tòa án thị trường, doanh nghiệp đại quy mô là kết đã nhiều lần đưa ra phán quyết về việc phân quả của sự tiến bộ của doanh nghiệp về mặt tách một số công ty lũng đoạn hóa, điển hình tổ chức và kỹ thuật, đối với nhà sản xuất và như Công ty chứng khoán phương Bắc người tiêu dùng đều có những điểm tốt như (Northern Securities Company), Công ty nhau. Standard Oil, Công ty Atlantic Telephone Độc quyền và cạnh tranh đều có tính hai and Telegraph. Nhiều học giả cho rằng, đây mặt. Trên phương diện độc quyền, ảnh chính là nguyên nhân dẫn đến nước Mỹ hưởng tiêu cực của nó là dễ tạo thành hiện không có doanh nghiệp đủ lớn, và hệ quả là tượng giảm sản lượng, tăng giá, từ đó làm sự thất sủng của các doanh nghiệp Mỹ so giảm hiệu suất phân phối tài nguyên. Tuy với các doanh nghiệp Nhật Bản và Tây Âu nhiên, độc quyền vẫn có những tác dụng tích trong quá trình cạnh tranh quốc tế những cực như có thể hình thành nên kinh tế quy năm 70, 80 của thế kỷ trước. Chính vì vậy, mô, doanh nghiệp có kinh tế quy mô sẽ có nước Mỹ đã nhanh chóng điều chỉnh chính khả năng thúc đẩy tiến bộ và sáng tạo kỹ sách cạnh tranh, không xem cạnh tranh tự thuật. Trong một số ngành đòi hỏi kỹ thuật do là mục tiêu hàng đầu nữa mà thay vào đó cao như sản xuất máy bay, máy tính, viễn là chính sách cạnh tranh hữu hiệu. thông…, các doanh nghiệp cần phải có quy Do độc quyền và cạnh tranh đều có hai mô lớn mới có thể đầu tư cho nghiên cứu và mặt ưu điểm và nhược điểm nên việc đồng khai phá, từ đó mới có khả năng sản xuất ra thời phát huy vai trò tổng hợp của hai yếu tố những sản phẩm mới, số lượng nhiều, chi này là nhu cầu tất yếu. Tuy nhiên, vấn đề là phí sản xuất được giảm thiểu. Như vậy, nếu giữa độc quyền và cạnh tranh luôn tồn tại sử dụng Luật Cạnh tranh để tiêu trừ các “xung đột Marshall” (Marshall Dilema), tức doanh nghiệp độc quyền thì cũng giống như là trong quá trình tìm kiếm kinh tế quy mô, “giết con ngỗng đẻ trứng vàng”, là cách suy doanh nghiệp do tập trung sản xuất sẽ dẫn nghĩ thiếu tầm nhìn xa trông rộng1. Trên đến xuất hiện độc quyền, mà độc quyền là phương diện cạnh tranh, không thể phủ nhận sự phủ định của cạnh tranh, cuối cùng làm cạnh tranh có vai trò tối ưu hóa phân phối cho giá cả trên thị trường chịu sự khống chế tài nguyên, giảm giá thành, khuyến khích nhân tạo và toàn bộ nền kinh tế mất đi hoạt sáng tạo…, nhưng nếu quá đề cao cạnh lực cạnh tranh. Cạnh tranh hữu hiệu thực tranh sẽ dẫn đến cạnh tranh tự do quá mức, chất là sự dung hòa tối ưu giữa kinh tế quy không có lợi đối với việc nâng cao sức cạnh mô và hoạt lực cạnh tranh, từ đó có thể tối tranh của ngành và của doanh nghiệp, kết ưu hóa việc phân phối tài nguyên và nâng quả sẽ ảnh hưởng đến sức cạnh tranh quốc cao hiệu suất kinh tế. gia. Hiện trạng kinh tế Mỹ những năm 70, Kinh tế quy mô là chỉ hiện tượng chi phí 80 của thế kỷ 20 là ví dụ rõ nét. Do khi đó bình quân của doanh nghiệp sẽ giảm xuống nước Mỹ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do theo sự mở rộng của quy mô sản xuất, là một kinh tế và dân chủ kinh tế, cơ quan tư pháp trong những biện pháp để nâng cao hiệu suất Mỹ chủ trương “bảo vệ cạnh tranh chứ kinh tế của doanh nghiệp và tối ưu hóa phân không phải bảo vệ chủ thể cạnh tranh”2, phối tài nguyên xã hội. Hoạt lực cạnh tranh không ngần ngại hy sinh hiệu quả, lợi ích là chỉ cường độ và sức cạnh tranh của doanh 1 Samuelson, William D. Nordhaus, Kinh tế học, Nxb. Phát triển, Trung Quốc, 1993, tái bản lần thứ 12, tr. 913 (bản tiếng Trung). 2 Vụ án Brown Shoe Co. v. United States, 370 US 294, (1962). NGHIÏN CÛÁU 44 LÊÅP PHAÁP Söë 11(315) T6/2016
- CHÑNH SAÁCH nghiệp. Độc quyền thường có tính kinh tế thường của toàn bộ ngành hàng không. Sau quy mô, vì vậy quan hệ giữa kinh tế quy mô đó, Hội đồng Cạnh tranh đã sửa đổi đề nghị và hoạt lực cạnh tranh thường được xem là của Hội đồng Xử lý vụ việc cạnh tranh thành quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh. Để đề nghị cho phép các công ty khác tham gia đạt được sự dung hòa giữa kinh tế quy mô thị trường nhiên liệu hàng không. Không lâu và hoạt lực cạnh tranh, trường phái Chicago sau đó, Bộ Giao thông vận tải đã cấp giấy chủ trương chỉ điều chỉnh các hành vi hạn phép cho Công ty cổ phần nhiên liệu bay chế cạnh tranh, trạng thái lũng đoạn đơn (Petrolimex) tham gia thị trường, hình thành thuần không đương nhiên bị cấm. Vì vậy, nên cục diện cạnh tranh mới của thị trường phương pháp của trường phái Chicago còn xăng dầu hàng không Việt Nam. Như vậy có được gọi là “chủ nghĩa hành vi”, bắt đầu có thể thấy, kiến nghị của Hội đồng Xử lý vụ ảnh hưởng rất lớn ở Mỹ từ những năm 1980. việc cạnh tranh và kiến nghị của Hội đồng Đến nay, “chủ nghĩa hành vi” đã trở thành Cạnh tranh đều có mục tiêu tạo sự thay đổi trào lưu chủ yếu của việc thực hiện cạnh về kết cấu thị trường, đả phá kết cấu thị tranh hữu hiệu, được pháp luật chống lũng trường độc quyền, hướng đến kết cấu thị đoạn ở nhiều nước trên thế giới sử dụng. trường cạnh tranh tự do. Điều không thể phủ Luật Cạnh tranh Việt Nam không trực nhận là hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp nhà tiếp quy định mục tiêu của chính sách cạnh nước của Việt Nam có hiệu quả kinh doanh tranh mà chỉ đề cập một cách gián tiếp tại rất kém, dẫn đến hiểu lầm rằng kinh tế khó Điều 4, cụ thể là “Doanh nghiệp được tự do khăn chính là hậu quả của độc quyền, trong kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Nhà khi nguyên nhân thực chất là do sự yếu kém nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp của cơ chế quản lý doanh nghiệp độc quyền. trong kinh doanh”. Từ quy định này có thể Từ quan điểm cạnh tranh hữu hiệu, chúng tôi thấy mục tiêu của Luật Cạnh tranh là duy trì có đề xuất như sau: cạnh tranh tự do mà không phải là cạnh tranh - Thứ nhất, cần thận trọng khi sử dụng hữu hiệu. Nói cách khác, Luật này chú trọng chế tài chia tách doanh nghiệp. Nhìn về vào bảo hộ cạnh tranh mà không phải là nhấn tổng thể, kết cấu thị trường Việt Nam hiện mạnh vào thúc đẩy cạnh tranh hữu hiệu. Từ nay vẫn thuộc loại hình cạnh tranh phân tán, vụ Vinapco3 có thể thấy thực tiễn tư pháp mức độ tập trung thấp, vừa không có lợi đối Việt Nam cũng dựa trên quan điểm này. với hoạt động sáng tạo kỹ thuật của doanh Trong vụ việc này, đồng thời với việc ra nghiệp, vừa không tạo ra được sức cạnh Quyết định phạt tiền ở mức rất lớn, Hội đồng tranh quốc gia trong điều kiện toàn cầu hóa Xử lý vụ việc cạnh tranh còn đề xuất với cơ kinh tế. Vì vậy, nếu phản đối kết cấu độc quan quản lý nhà nước phân tách Vinapco quyền cũng có nghĩa là phản đối kinh tế quy thành công ty độc lập với công ty mẹ là Hãng mô, kinh tế phạm vi và cản trở sáng tạo kỹ Hàng không quốc gia Việt Nam (Vietnam thuật, toàn bộ nền kinh tế sẽ mất đi nguồn Airlines). Sau đó, Vietnam Airlines đã ra động lực tăng trưởng4. Trong số các hình thông báo phản đối biện pháp phân tách nói thức chế tài được quy định tại Điều 117 Luật trên, bởi vì nếu như vậy sẽ làm tổn hại cơ sở Cạnh tranh có biện pháp chia tách doanh thiết yếu của hãng này và sẽ tạo ra ảnh hưởng nghiệp, là một trong những biểu hiện điển nghiêm trọng đối với sự vận hành bình hình của chủ nghĩa kết cấu. Chúng tôi cho 3 Vụ kiện phát sinh từ việc Vinapco ngưng cung cấp xăng cho các máy bay của Jetstar vào ngày 1/4/2008 dẫn đến hậu quả hàng loạt máy bay của Jetstar phải “nằm sân” còn hành khách của Jetstar thì phải “nằm vạ nằm vật” tại các sân bay do hoãn, hủy chuyến. 4 Thạch Tuấn Hoa, Chống lũng đoạn và sự phát triển kinh tế Trung Quốc: Nghiên cứu chính sách chống lũng đoạn Trung Quốc thời kỳ chuyển đổi, Nxb. Khoa học kinh tế, 2013, tr. 250. NGHIÏN CÛÁU Söë 11(315) T6/2016 LÊÅP PHAÁP 45
- CHÑNH SAÁCH rằng, biện pháp này chỉ nên hạn chế áp dụng tiếp nhập để cải cách doanh nghiệp loại đối với việc kiểm soát tập trung kinh tế. Căn hình “public utilities” (doanh nghiệp chuẩn cứ vào quy định của Điều 18 và Điều 20 công ích hoạt động trong các lĩnh vực như Luật Cạnh tranh, nếu thị phần kết hợp của cung cấp điện, nước, khí đốt, viễn thông, các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế giao thông công cộng…)5. Có hai con đường chiếm trên 50% trên thị trường liên quan thì chủ yếu để thực hiện cải cách thị trường hóa việc tập trung kinh tế sẽ bị cấm, nếu chiếm doanh nghiệp chuẩn công ích, một là, mô từ 30% đến 50% thị phần thì doanh nghiệp thức phân ly kết cấu theo chiều dọc, tức là phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh phân tách quyền nắm giữ mạng lưới cơ sở tranh và chỉ sau khi được cơ quan này đồng thiết yếu ra khỏi quyền cung cấp dịch vụ dựa ý thì việc tập trung kinh tế mới được tiến trên cơ sở thiết yếu đó, từ đó bảo đảm cho hành. Nếu doanh nghiệp không thực hiện tất cả các nhà cung ứng đều có quyền sử đúng quy định này thì cơ quan chấp pháp dụng cơ sở thiết yếu một cách bình đẳng; hai cạnh tranh có thể sử dụng biện pháp chế tài là, mô thức nhất thể hóa theo chiều dọc kết hành chính phục hồi nguyên trạng. Trong hợp với tự do gia nhập, còn được gọi là mô trường hợp này, việc chia tách doanh nghiệp thức quản chế tiếp nhập, tức là không yêu là biện pháp trừng phạt đối với hành vi tập cầu tiến hành tổ chức lại đối với doanh trung kinh tế vi phạm pháp luật mà không nghiệp độc quyền hiện có nhưng cho phép phải là biện pháp chế tài theo cách hiểu của các đối thủ cạnh tranh khác gia nhập lĩnh chủ nghĩa kết cấu. vực thị trường có tính cạnh tranh6 (xem sơ - Thứ hai, sử dụng mô thức quản chế đồ dưới đây). 5 “Public Utilities” là khái niệm chỉ các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền tự nhiên, cung cấp các sản phẩm có tính dịch vụ phổ biến cho xã hội như điện, nước, viễn thông, giao thông công cộng... “Public Utilities” không phải là doanh nghiệp công ích mà là chủ thể kinh doanh có mục đích lợi nhuận. Tuy nhiên, do sản phẩm mà nó cung cấp có tính dịch vụ phổ biến nên có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống kinh tế - xã hội và lợi ích của người tiêu dùng. Vì vậy, hàng hóa do loại hình doanh nghiệp này cung cấp có tính “chuẩn công ích”, tức là tựa hồ như công ích nhưng lại có tinh chất lợi nhuận. Hơn nữa, loại hình doanh nghiệp này thường lạm dụng vị trí chi phối thị trường mang tính đặc thù của độc quyền tự nhiên để gây hạn chế cạnh tranh, thu lợi nhuận siêu ngạch. 6 Ngụy Chính Văn, Vương Hiểu Phương, Sái Khánh Châu, Nghiên cứu so sánh chính sách định giá gia nhập mạng lưới ngành “puclic utilities”, Tạp chí Lý luận và thực tiễn giá cả, Trung Quốc, số ngày 20/9/2003. 7 Vương Tuấn Hào, Đào sâu nghiên cứu cải cách ngành độc quyền của Trung Quốc, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, 2010, tr. 109. NGHIÏN CÛÁU 46 LÊÅP PHAÁP Söë 11(315) T6/2016
- CHÑNH SAÁCH Ngoài hai phương thức nói trên, còn có hướng đến một giá trị) và đa nguyên giá trị một số phương pháp cải cách doanh nghiệp (cùng lúc hướng đến nhiều giá trị). Trường chuẩn công ích khác như chế độ liên hợp sở phái Chicago là đại diện cho nhất nguyên hữu, phân ly quyền kinh doanh, chia tách giá trị, cho rằng mục tiêu duy nhất của Luật thành nhiều chủ thể độc lập với nhau8. Kinh Chống lũng đoạn là “hiệu suất”. Đó là vì bản nghiệm của Trung Quốc về vấn đề này đáng thân mục tiêu đa nguyên giá trị không phải để chúng ta tham khảo. Thông qua phương lúc nào cũng nhất trí với nhau. Chính vì vậy, thức quản chế tiếp nhập nói trên, Trung việc theo đuổi mục tiêu đa nguyên giá trị rất Quốc đã ngày càng có nhiều doanh nghiệp dễ dẫn đến trạng thái làm cho Luật Chống gia nhập đội ngũ 500 doanh nghiệp mạnh lũng đoạn trở nên không ổn định và không nhất trên thế giới. Theo công bố của Tạp chí rõ ràng. Do quan điểm này đáp ứng được Fortune Mỹ, năm 2010, trong số 500 doanh nhu cầu nâng cao sức cạnh tranh quốc gia nghiệp mạnh nhất thế giới, Trung Quốc chỉ trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, bắt đầu có 34 doanh nghiệp, nhưng đến năm 2013, từ những năm 1980, mục tiêu nhất nguyên con số này đã nhanh chóng tăng lên 95 giá trị của trường phái Chicago đã liên tục doanh nghiệp, trong khi đó Việt Nam không chiếm vị trí chủ đạo trong lựa chọn chính có bất cứ doanh nghiệp nào lọt vào danh sách chống lũng đoạn của Mỹ. Khác với sách này. Trên thực tế, Việt Nam chỉ có một điều này, những người theo trường phái đa công ty lọt vào danh sách 2.000 doanh nguyên giá trị cho rằng, ngoài việc theo đuổi nghiệp mạnh nhất thế giới. Từ kinh nghiệm mục tiêu hiệu suất kinh tế, Luật Chống lũng của Trung Quốc, chúng tôi cho rằng, trong đoạn còn cần phải theo đuổi nhiều mục tiêu quá trình thực hiện thị trường hóa doanh khác như tự do kinh tế, phúc lợi người tiêu nghiệp chuẩn công ích, Việt Nam cần thận dùng, bảo vệ doanh nghiệp nhỏ và vừa, thúc trọng sử dụng mô thức phân ly kết cấu theo đẩy nhất thể hóa thị trường, công khai và chiều dọc, ngược lại, cần ưu tiên sử dụng mô công bằng… Đó là vì các chủ thể khác nhau thức nhất thể hóa theo chiều dọc kết hợp với có những quan điểm giá trị khác nhau, vì tự do gia nhập. Đồng thời, với việc thực hiện vậy sẽ không có bất cứ giá trị duy nhất nào biện pháp này, cần áp dụng nguyên tắc luôn là áp đảo, có khả năng thay thế các giá “mạng lưới cùng hưởng”, tức là doanh trị khác. Hiện nay, xuất phát từ yêu cầu thực nghiệp nắm giữ cơ sở thiết yếu nếu không hiện nhất thể hóa thị trường, Liên minh châu có lý do chính đáng thì phải mở cửa hoàn Âu và nhiều nước thành viên đều ủng hộ toàn thiết bị mạng lưới cho tất cả các chủ thể mục tiêu đa nguyên giá trị. Đối với các quốc kinh doanh gia nhập mạng lưới đó. Nhà gia chuyển đổi kinh tế, bao gồm cả Việt nước cũng cần có quy định đối với phí gia Nam, ngoài nhiệm vụ kiến lập môi trường nhập, từ đó đảm bảo quyền được đối đãi cạnh tranh tự do, bình đẳng, Luật Chống bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh. lũng đoạn còn phải giải quyết rất nhiều vấn 2. Từ ưu tiên công bằng đến ưu tiên hiệu đề như kiểm soát độc quyền hành chính, bảo suất kinh tế vệ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước Thông qua lịch sử phát triển của luật tránh khỏi sự tổn hại do các hành vi “cá lớn chống lũng đoạn, có thể phân quan điểm về nuốt cá bé” của các công ty xuyên quốc gia mục tiêu giá trị của Luật Chống lũng đoạn gây ra. Vì vậy, thể chế kinh tế và giai đoạn thành hai loại: nhất nguyên giá trị (chỉ phát triển kinh tế hiện nay đã quyết định đến 8 Như trên, tr. 109 - 115. NGHIÏN CÛÁU Söë 11(315) T6/2016 LÊÅP PHAÁP 47
- CHÑNH SAÁCH tính đa nguyên giá trị trong mục tiêu chính xuất là tỷ lệ giá trị giữa sản xuất và đầu tư sách chống lũng đoạn của các quốc gia của doanh nghiệp, nó đòi hỏi trong điều kiện chuyển đổi kinh tế9. Tuy nhiên, cần phải kỹ thuật hiện có phải tổ chức nguồn lực ở thừa nhận rằng tùy từng trường hợp, một giá mức chi phí thấp nhất để tạo ra sản phẩm. trị nào đó sẽ có tính ưu tiên hơn. Vì vậy, Thông thường, hiệu suất sản xuất liên quan chính sách chống lũng đoạn cần lựa chọn đến kinh tế quy mô (economy of scale), theo đưa ra được một mục tiêu ưu tiên phù hợp. đó, cùng với việc mở rộng quy mô doanh Trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế, Việt Nam nghiệp thì chi phí trên một đơn vị sản phẩm chủ trương thông qua thu hút đầu tư nước sẽ giảm xuống. Hiệu suất sáng tạo là hiệu ngoài, nhất là đầu tư của các công ty xuyên suất về tổ chức, quản lý kỹ thuật, sáng tạo quốc gia để cải thiện sản xuất trong nước và sản xuất. Trạng thái độc quyền thường rất giải quyết vấn đề vốn, thất nghiệp… Đồng khó đạt được hiệu suất sáng tạo bởi vì ngoài thời, Chính phủ cũng hy vọng thông qua sản phẩm do nhà độc quyền sản xuất, người cạnh tranh để thúc đẩy sự phát triển của các tiêu dùng không có bất cứ sự lựa chọn nào doanh nghiệp trong nước, từ đó nâng cao khác, vì vậy nhà độc quyền không cần thiết sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt phải sáng tạo vẫn có thể thu được lợi nhuận Nam. Ngoài ra, cần chú ý là số lượng doanh độc quyền. Hiệu suất phân phối, còn được nghiệp nhà nước loại hình “public utilities” gọi là hiệu suất Pareto (Pareto Efficiency), (chuẩn công ích) của Việt Nam vẫn còn là chỉ việc dựa vào tài nguyên xã hội để sản tương đối lớn, vị trí thống lĩnh thị trường của xuất ra hàng hóa, dịch vụ tốt nhất ở mức chi những doanh nghiệp này chủ yếu do pháp phí cận biên (còn gọi là chi phí biên tế). Khi luật trao cho mà không phải là kết quả của hiệu suất phân phối đạt tới trạng thái tối ưu quá trình cạnh tranh. Vì vậy, đối với loại thì được gọi là tối ưu Pareto, đó là một trạng hình doanh nghiệp này cần áp dụng các biện thái phân phối tài nguyên mà trong trường pháp quy chế nghiêm khắc hơn. Từ kinh hợp không làm cho điều kiện của bất cứ nghiệm quốc tế và đặc thù quốc gia, chính người nào khác trở nên xấu hơn thì sẽ không sách cạnh tranh của Việt Nam hiện nay nên thể làm cho điều kiện của những người khác ưu tiên mục tiêu hiệu suất, đồng thời có tính trở nên tốt hơn (xem đồ thị dưới đây). đến công bằng ở một mức độ nhất định. Hiệu suất kinh tế là chỉ lợi ích kinh tế có thể đạt được trên cơ sở chi phí kinh tế nhất định, bao gồm hiệu suất sản xuất, hiệu suất sáng tạo và hiệu suất phân phối. Hiệu suất sản 9 Thạch Tuấn Hoa, “Chống lũng đoạn và phát triển kinh tế Trung Quốc: Nghiên cứu chính sách chống lũng đoạn của Trung Quốc thời kỳ chuyển đổi”, Sđd, tr. 57. NGHIÏN CÛÁU 48 LÊÅP PHAÁP Söë 11(315) T6/2016
- CHÑNH SAÁCH Trong ba loại hiệu suất kinh tế nói trên, doanh khác, nhưng nếu nhìn từ góc độ hiệu suất sản xuất và hiệu suất sáng tạo chủ doanh nghiệp lũng đoạn thì đó mới là sự yếu liên quan đến kết cấu thị trường, là yếu công bằng. Ngoài ra, trên phương diện kết tố rất quan trọng đối với việc lựa chọn chính cấu thị trường, bản thân lợi nhuận lũng đoạn sách cạnh tranh. Tuy nhiên, từ góc độ hành (đặc biệt là lợi nhuận độc quyền) cũng sẽ vi cạnh tranh, hiệu suất Pareto là quan trọng thúc đẩy đối thủ cạnh tranh tiềm năng gia nhất. Ở đồ thị trên, F được gọi là điểm cải nhập cuộc chơi cạnh tranh, từ đó lại có tác tiến Pareto bởi vì nếu từ trạng thái phân phối dụng tích cực đối với việc thực hiện mục ở điểm này tới trạng thái phân phối ở điểm tiêu cạnh tranh hữu hiệu. Thị trường xe máy khác, trong trường hợp không làm cho điều Việt Nam là một ví dụ điển hình. Đầu những kiện của bất cứ người nào khác trở nên xấu năm 1990, Honda là công ty tiên phong gia đi nhưng ít nhất vẫn có thể làm cho điều nhập thị trường xe máy Việt Nam, nhanh kiện của một người nào đó trở nên tốt hơn. chóng tạo nên “cơn sốt Honda”, đã có lúc Đường cong trên đồ thị được gọi là trạng chiếm đến 90% thị phần xe máy Việt Nam. thái “tối ưu Pareto”, theo đó tất cả các điểm Khi đó, giá một chiếc xe máy Honda đặc nằm trên đường cong này đều là điểm “tối biệt cao, rất ít người có thể mua được. Tuy ưu Pareto”. Ở vị trí điểm A, lợi ích của nhiên, chính lợi nhuận siêu ngạch này đã thu doanh nghiệp lũng đoạn là tối thiểu còn lợi hút các nhà sản xuất Nhật Bản khác như ích của người tiêu dùng và các chủ thể kinh Suzuki, Yamaha… nhanh chóng gia nhập thị doanh khác đạt được mức tối đa. Vị trí điểm trường này. Đặc biệt là năm 1999, dựa trên B biểu thị kết quả ngược lại, tối đa hóa lợi ưu thế mỗi chiếc xe chỉ có giá bằng 30% đến ích của doanh nghiệp lũng đoạn nhưng lại 50% xe máy Nhật Bản, những hãng xe tối thiểu hóa lợi ích của người tiêu dùng. Vị Trung Quốc đã nhanh chóng chiếm lĩnh trí điểm D được xem là điểm công bằng 50% thị phần thị trường xe máy Việt Nam. nhất, theo đó lợi ích của doanh nghiệp lũng Kết quả là thị trường xe máy Việt Nam bước đoạn và lợi ích của người tiêu dùng có xu vào thời kỳ hoàng kim, từ nông thôn tới hướng tiến tới cân bằng 50-50. Tuy nhiên, thành thị người người đều có xe máy, làm cần chú ý là công bằng chỉ là khái niệm cho Việt Nam trở thành “vương quốc xe tương đối và có tính không xác định. Chẳng máy”. Rõ ràng là sự gia nhập thị trường của hạn, doanh nghiệp dựa vào các biện pháp các hãng xe máy Trung Quốc đã phá vỡ cục như sáng tạo kỹ thuật, nghiên cứu khai phá, diện lũng đoạn thị trường Việt Nam của xe hợp lý hóa sản xuất mà đạt được thành công máy Nhật Bản và đã mang lại lợi ích cho trong quá trình cạnh tranh khốc liệt và trở người tiêu dùng. Ở điểm này có thể nói cục thành chủ thể lũng đoạn, sau đó doanh diện thị trường những năm 1990 có tính nghiệp thực hiện hành vi định giá lũng đoạn, công bằng đối với công ty Honda, còn cục từ đó đạt được lợi nhuận lũng đoạn, nhưng diện thị trường những năm 2000 có tính đồng thời lại tạo ra tổn hại nhất định đối với công bằng đối với người tiêu dùng. Như vậy, lợi ích người tiêu dùng. Trên đồ thị, trường hành vi định giá cao lũng đoạn của Honda hợp này thuộc vào vị trí của điểm B. Ở điểm hoàn toàn không phải là vi phạm pháp luật này, lợi nhuận lũng đoạn cần phải được xem mà ngược lại cần được xem là hành vi đã là hồi thu tương ứng đối với thắng lợi mà mang lại hiệu ích kinh tế, không thuộc đối doanh nghiệp đã đạt được trong quá trình tượng điều chỉnh của Luật Chống lũng đoạn. cạnh tranh. Như thế, mặc dù nhìn từ góc độ Không giống với hành vi của công ty tổng thể xã hội, hành vi này tạo ra tổn hại Honda, hành vi định giá lũng đoạn của các cho người tiêu dùng và các chủ thể kinh doanh nghiệp chuẩn công ích lại là một NGHIÏN CÛÁU Söë 11(315) T6/2016 LÊÅP PHAÁP 49
- CHÑNH SAÁCH trường hợp khác. Hiện nay, hầu hết các ích mà xem nó là đối tượng điều chỉnh của doanh nghiệp chuẩn công ích ở Việt Nam các luật chuyên ngành như Luật Điện lực, đều là doanh nghiệp nhà nước, vị trí lũng Luật Viễn thông, Luật Đường sắt… Hiện đoạn hoàn toàn không phải do tự thân đạt nay, rất nhiều nước đã sử dụng mô thức này được mà là dựa trên quy định của pháp luật bởi vì bản thân Luật Chống lũng đoạn trong mà thành. Vì vậy, đối với loại hình doanh các lĩnh vực chuyên môn có thể không đủ nghiệp này không cần đưa ra vấn đề hồi thu để kiểm soát vị trí trên thị trường của doanh kinh doanh. Ngoài ra, do hàng hóa và dịch nghiệp chuẩn công ích; ngược lại, quy tắc vụ do doanh nghiệp chuẩn công ích cung ngành lại có tính mục tiêu rõ ràng, trong cấp có tính chuẩn công ích và tính dịch vụ nhiều trường hợp đều trao cho cơ quan quản phổ biến nên các thành viên xã hội bất luận lý ngành thực thi việc kiểm soát giá, từ đó giàu hay nghèo, bất luận cư trú ở khu vực có thể giải quyết tốt hơn các vấn đề phát sinh nào cũng đều cần được tạo điều kiện tiếp cận trong nội bộ ngành10. Ở điểm này có thể nói, các hàng hóa, dịch vụ này. Nói cách khác, quy định của pháp luật Việt Nam tương đối trong các ngành loại hình chuẩn công ích, phù hợp với trào lưu của thế giới hiện nay. lợi ích của người tiêu dùng là điều bất khả Tóm lại, từ quan điểm ưu tiên hiệu suất hy sinh. Trong trường hợp này, Chính phủ kinh tế có tính đến công bằng ở mức độ nhất cần đảm bảo hài hòa hai yếu tố, đó là nhu định, chúng tôi kiến nghị tiếp tục duy trì cơ cầu của người tiêu dùng và lợi nhuận hợp lý chế kiểm soát định giá đối với các doanh của nhà sản xuất. Trên đồ thị, D chính là nghiệp chuẩn công ích như hiện nay. Đối với điểm cân bằng của hai yếu tố này. Do doanh các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị nghiệp luôn mong muốn đạt đến trạng thái trường nhưng không phải doanh nghiệp B nên vai trò của Chính phủ là đảm bảo hình chuẩn công ích thì cần trao quyền tự do định thành và duy trì trạng thái D. Chính phủ cần giá cho doanh nghiệp, ngay cả khi doanh sử dụng các biện pháp kiểm soát giá như cơ nghiệp tăng giá làm tổn hại đến lợi ích của chế giá chỉ đạo hoặc cơ chế giá trần đối với người tiêu dùng thì hành vi này vẫn phải các doanh nghiệp chuẩn công ích. Về vấn đề được xem là hợp pháp. Vì vậy, quy định tại này, pháp luật Việt Nam sử dụng mô thức khoản 2, Điều 13 Luật Cạnh tranh về giá quy tắc ngành, tức là Luật Cạnh tranh không lũng đoạn, coi hành vi định giá lũng đoạn là có quy định trực tiếp đối với việc kiểm soát vi phạm Luật Cạnh tranh, là không cần thiết, định giá của các doanh nghiệp chuẩn công cần loại bỏ11 n 10 Diêu Bảo Tùng, Nghiên cứu quy chế pháp luật chống lũng đoạn doanh nghiệp loại hình “public uitilities”, Nxb. Pháp luật, Trung Quốc, 2014, tr. 61. 11 Điều 13 Luật Cạnh tranh: [Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm] Cấm doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện hành vi sau đây: 1. Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh; 2. Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng; 3. Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng; 4. Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh; 5. Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng. 6. Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới. NGHIÏN CÛÁU 50 LÊÅP PHAÁP Söë 11(315) T6/2016
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Kinh tế vi mô - PGS.TS Lê Thế Giới (chủ biên)
238 p | 809 | 355
-
câu hỏi - bài tập - trắc nghiệm kinh tế vĩ mô (tái bản lần thứ x, có chỉnh sửa, bổ sung): phần 1
196 p | 292 | 49
-
Việt nam và Thái Lan Cách lựa chọn khác nhau trong quá trình hội nhập khu vực và yếu tố Trung Quốc
35 p | 159 | 35
-
Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành thủy sản bằng việc nâng cao chất lượng nuôi trồng và chế biến - 8
8 p | 97 | 13
-
Bài giảng Kinh tế vi mô 2 (Bậc Đại học) - ĐH Phạm Văn Đồng
178 p | 65 | 12
-
Giáo trình Kinh tế vĩ mô 2: Phần 1 - PGS. TS Nguyễn Văn Dần
163 p | 19 | 6
-
AEC: Cơ hội và thách thức, chính sách của nhà nước và lựa chọn của doanh nghiệp Việt Nam
13 p | 33 | 3
-
Ngành có lợi thế phát triển trong điều kiện hội nhập: Theo lý thuyết và quan điểm thực tiễn Việt Nam
5 p | 28 | 2
-
khuôn khổ chính sách thúc đẩy tăng trưởng xanh cacbon thấp ở các nước đang phát triển Châu Á
72 p | 43 | 2
-
Mở rộng cơ sở thuế đối với thu nhập ở Việt Nam hiện nay
4 p | 52 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn