Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O

Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n 

®ç tuyÕt nhung

ChÊt l−îng thÓ chÕ qu¶n trÞ vµ t¨ng tr−ëng

kinh tÕ ®Þa ph−¬ng cÊp tØnh ë ViÖt Nam

Hµ Néi - 2021

Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O

Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n 

®ç tuyÕt nhung

ChÊt l−îng thÓ chÕ qu¶n trÞ vµ t¨ng tr−ëng

kinh tÕ ®Þa ph−¬ng cÊp tØnh ë ViÖt Nam

kinh tÕ ph¸t triÓn Chuyªn ngµnh: kinh tÕ ph¸t triÓn Chuyªn ngµnh: kinh tÕ ph¸t triÓn kinh tÕ ph¸t triÓn Chuyªn ngµnh: Chuyªn ngµnh:

9310105 M· sè: 9310105 M· sè: 9310105 9310105 M· sè: M· sè:

Ng−êi h−íng dÉn khoa häc: PGS.TS. Lª Quang C¶nh

Hµ Néi - 2021

LỜI CAM KẾT

Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi cam kết bằng danh dự cá nhân rằng luận án này do tôi tự thực hiện và không vi phạm quy định về sự trung thực trong học thuật.

Hà Nội, ngày 31 tháng 5 năm 2021

Tác giả luận án

i

Đỗ Tuyết Nhung

LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Khoa Kế hoạch và Phát triển, Viện Đào tạo Sau đại học đã giảng dạy, trang bị cho tôi các kiến thức, kỹ năng nghiên cứu và hỗ trợ tôi trong toàn bộ chương trình đào tạo tiến sĩ của Trường.

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS. Lê Quang Cảnh, người thầy đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn và đóng góp những ý kiến quý báu cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án này.

Sau cùng, tôi xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ, động viên và tạo điều kiện của

gia đình và đồng nghiệp trong thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án.

Tác giả luận án

ii

Đỗ Tuyết Nhung

MỤC LỤC

LỜI CAM KẾT .................................................................................................................i

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................. ii

MỤC LỤC ..................................................................................................................... iii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .........................................................................................vi

DANH MỤC BẢNG .................................................................................................... vii

DANH MỤC HÌNH .................................................................................................... viii

GIỚI THIỆU .................................................................................................................... 1

1. Lý do lựa chọn đề tài ............................................................................................... 1

2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu .............................................................................. 3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 3

4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 4

5. Đóng góp mới của luận án ....................................................................................... 5

6. Kết cấu của luận án .................................................................................................. 5

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THỂ CHẾ QUẢN TRỊ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ĐỊA PHƯƠNG ...................................... 6

1.1. Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế và kinh tế học thể chế mới .............................. 6

1.2. Khái niệm ............................................................................................................. 8

1.2.1. Thể chế quản trị ............................................................................................. 8

1.2.2. Chất lượng thể chế quản trị ......................................................................... 10

1.2.3. Chất lượng thể chế quản trị địa phương ...................................................... 11

1.3. Thước đo chất lượng thể chế quản trị ................................................................. 12

1.3.1. Ở cấp quốc gia ............................................................................................. 12

1.3.2. Ở cấp địa phương ........................................................................................ 16

1.3.3. Ở Việt Nam .................................................................................................. 18

1.4. Mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế 21

1.4.1. Ở cấp quốc gia ............................................................................................. 21

1.4.2. Ở cấp địa phương ........................................................................................ 24

1.5. Nghiên cứu về vai trò của thể chế tại Việt Nam................................................. 26

1.6. Kết luận Chương 1.............................................................................................. 27

CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................................... 29

2.1. Xây dựng chỉ số chất lượng thể chế quản trị ...................................................... 29

iii

2.1.1. Lý do xây dựng chỉ số chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh .... 29

2.1.2. Phương pháp xây dựng chỉ số chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh ......................................................................................................................... 30

2.2. Phân tích thống kê mô tả .................................................................................... 32

2.3. Kiểm định quan hệ nhân quả .............................................................................. 32

2.3.1. Lý do cần kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế ............................................................................................ 32

2.3.2. Phương pháp kiểm định quan hệ nhân quả ................................................. 33

2.4. Phân tích hồi quy ................................................................................................ 35

2.4.1. Mô hình ước lượng ...................................................................................... 35

2.4.2. Biến số và nguồn số liệu .............................................................................. 36

2.5. Kết luận Chương 2.............................................................................................. 41

CHƯƠNG 3. CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ QUẢN TRỊ ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH TẠI VIỆT NAM ............................................................................................................ 43

3.1. Bối cảnh thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh của Việt Nam ............................. 43

3.1.1. Tổng quan về phân cấp hành chính địa phương tại Việt Nam .................... 43

3.1.2. Các khía cạnh của thể chế quản trị địa phương tại Việt Nam ..................... 44

3.2. Xây dựng thước đo chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh ................. 54

3.2.1. Đề xuất các khía cạnh và thang đo cho thước đo chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh tại Việt Nam ......................................................................... 54

3.2.2. Kiểm định độ tin cậy của thang đo .............................................................. 57

3.2.3. Phân tích nhân tố khám phá......................................................................... 59

3.2.4. Xây dựng chỉ số thể chế quản trị địa phương tổng hợp .............................. 61

3.2.5. So sánh PGI với PAPI và PCI ..................................................................... 63

3.3. Thực trạng chất lượng thể chế quản trị của các tỉnh/thành phố Việt Nam ......... 64

3.3.1. Tổng quan về chất lượng thể chế quản trị của các tỉnh/thành phố Việt Nam ............................................................................................................................... 64

3.3.2. Thể chế quản trị của các tỉnh/thành phố theo từng chỉ số thành phần ........ 70

3.3.3. Chất lượng thể chế quản trị theo các vùng kinh tế ...................................... 79

3.3.4. Thể chế quản trị theo vùng kinh tế trọng điểm và không trọng điểm ......... 81

3.3.5. Thể chế quản trị của các tỉnh/thành phố theo thu nhập ............................... 83

3.4. Kết luận Chương 3.............................................................................................. 85

CHƯƠNG 4. CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ QUẢN TRỊ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH TẠI VIỆT NAM ......................................................... 87

4.1. Phân tích thống kê mô tả .................................................................................... 87

iv

4.1.1. Thống kê mô tả các biến số ......................................................................... 87

4.1.2. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh ................................................................. 88

4.1.3. Tương quan giữa mức thu nhập và các biến khác trong mô hình nghiên cứu ............................................................................................................................... 90

4.2. Kiểm định quan hệ nhân quả giữa thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh tại Việt Nam ................................................................................... 93

4.2.1. Kiểm định Granger ...................................................................................... 93

4.2.2. Kiểm định Durbin-Wu-Hausman ................................................................ 94

4.3. Kết quả hồi quy ảnh hưởng của chất lượng thể chế quản trị đến tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh tại Việt Nam ................................................................. 95

4.3.1. Kết quả hồi quy GMM ................................................................................ 95

4.3.2. Kết quả hồi quy sau khi điều chỉnh mô hình ............................................... 97

4.4. Thảo luận về kết quả hồi quy ............................................................................. 99

4.4.1. Tác động chung của chất lượng thể chế quản trị đến tăng trưởng kinh tế .. 99

4.4.2. Ảnh hưởng của kiểm soát tham nhũng và chất lượng chính sách đến tăng trưởng kinh tế ...................................................................................................... 100

4.4.3. Ảnh hưởng của dân chủ và dịch vụ công đến tăng trưởng kinh tế ............ 101

4.5. Mở rộng nghiên cứu tác động của chất lượng thể chế quản trị ........................ 103

4.5.1. Tác động của chất lượng thể chế quản trị theo sáu vùng kinh tế .............. 103

4.5.2. Tác động của chất lượng thể chế quản trị theo tỉnh kinh tế trọng điểm và không trọng điểm ................................................................................................. 106

4.5.3. Tác động của chất lượng thể chế quản trị theo các nhóm thu nhập .......... 107

4.5.4. Tác động của chất lượng thể chế quản trị theo mức chi tiêu ngân sách .... 109

4.5.5. Tác động của chất lượng thể chế quản trị theo độ mở của nền kinh tế ..... 111

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH ............................................ 113

5.1. Kết luận............................................................................................................. 113

5.2. Hàm ý chính sách ............................................................................................. 116

5.3. Các hạn chế của đề tài cần tiếp tục nghiên cứu ................................................ 121

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................................................ 122

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 123

v

PHỤ LỤC .................................................................................................................... 135

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ADB Ngân hàng Phát triển Châu Á

CECODES Trung tâm Nghiên cứu Phát triển-Hỗ trợ Cộng đồng

FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP Tổng sản phẩm quốc nội

GMM Generalized Method of Moments

GRDP Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh

ICRG Tổ chức Hướng dẫn Quốc tế về Rủi ro Quốc gia

IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế

IQI Chỉ số Chất lượng Thể chế

IQIM Chỉ số chất lượng thể chế của đô thị

IV Biến công cụ

OLS Bình phương nhỏ nhất

PAPI Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh

PCI Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

PGI Chỉ số Thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh

UNDP Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc

VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

VHLSS Điều tra mức sống hộ gia đình

VND Đồng

WEF Diễn đàn Kinh tế Thế giới

Chỉ số Thể chế Quản trị Toàn cầu

vi

WGI

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1. Các khía cạnh của chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh ............ 55

Bảng 3.2. Phân nhóm các chỉ số thành phần của PAPI và PCI ..................................... 56

Bảng 3.3. Kiểm định Cronbach’s Alpha về độ phù hợp của số liệu ............................. 58

Bảng 3.4. Kiểm định KMO and Bartlett về điều kiện thực hiện phân tích nhân tố ...... 58

Bảng 3.5. Ma trận xoay các nhân tố thể chế .................................................................. 59

Bảng 3.6. Các nhân tố và chỉ số thành phần .................................................................. 60

Bảng 3.7. Tổng phương sai được giải thích (Total Variance Explained) ..................... 61

Bảng 3.8. Thống kê mô tả chuỗi chỉ số thể chế quản trị (giai đoạn 2011-2018) .......... 62

Bảng 3.9. Hệ số tương quan Pearson giữa các biến thể chế quản trị được xây dựng ... 62

Bảng 3.10. PGI và các chỉ số thành phần theo khu vực trung bình giai đoạn 2011-2018 ....................................................................................................................................... 79

Bảng 4.1. Thống kê mô tả các biến số kinh tế vĩ mô của các tỉnh/thành phố Việt Nam giai đoạn 2011-2018 ...................................................................................................... 87

Bảng 4.2. Thống kê mô tả các số liệu nghiên cứu sau khi lấy logarith ......................... 87

Bảng 4.3. Kết quả kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa GRDP và các chỉ số PCI .... 93

Bảng 4.4. Kết quả kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa GRDP và các chỉ số PGI .... 95

Bảng 4.5. Ảnh hưởng của các khía cạnh thể chế tới tăng trưởng kinh tế ...................... 96

Bảng 4.6. Ảnh hưởng của các khía cạnh thể chế tới tăng trưởng kinh tế (Mô hình điều chỉnh) ............................................................................................................................. 98

Bảng 4.7. Ảnh hưởng của chỉ số thể chế quản trị (PGI) tới tăng trưởng kinh tế .......... 99

Bảng 4.8. Ảnh hưởng của các khía cạnh chất lượng thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế tại từng vùng kinh tế ........................................................................................ 104

Bảng 4.9. Ảnh hưởng của các khía cạnh thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế tại các nhóm tỉnh kinh tế trọng điểm và không trọng điểm .................................................... 106

Bảng 4.10. Ảnh hưởng của các khía cạnh thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế theo các nhóm thu nhập ....................................................................................................... 108

Bảng 4.11. Ảnh hưởng của biến tương tác giữa mức chi tiêu ngân sách và các khía cạnh thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế ............................................................... 110

vii

Bảng 4.12. Ảnh hưởng của biến tương tác giữa độ mở nền kinh tế và các khía cạnh thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế ....................................................................... 111

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1. Các cấp độ của thể chế .................................................................................... 9

Hình 1.2. Sáu khía cạnh của chỉ số Thể chế Quản trị Toàn cầu (WGI) ........................ 13

Hình 1.3. Năm khía cạnh của chỉ số Chất lượng Thể chế Quản trị (IQI)...................... 17

Hình 1.4. Khung nghiên cứu của luận án ...................................................................... 28

Hình 2.1. Các thước đo chất lượng thể chế cấp tỉnh điển hình tại Việt Nam ................ 30

Hình 2.2. Các bước trong quy trình xây dựng chỉ số thể chế quản trị cấp tỉnh ............. 31

Hình 2.3. Quy trình nghiên cứu ..................................................................................... 42

Hình 3.1. So sánh PGI và các chỉ số PAPI, PCI, tính trung bình giai đoạn 2011-2018 63

Hình 3.2. Chỉ số thể chế quản trị trung bình 2011-2018 của các tỉnh/thành phố .......... 66

Hình 3.3. Biểu đồ hình sao mô tả các chỉ số thành phần PGI ....................................... 67

Hình 3.4. Biểu đồ hình sao mô tả các chỉ số thành phần PGI (tiếp) ............................. 68

Hình 3.5. Xu thế biến đổi PGI của các tỉnh/thành phố giai đoạn 2011-2018 ............... 69

Hình 3.6. PGI và các chỉ số thành phần tính trung bình cả nước, 2011-2018 .............. 70

Hình 3.7. Chỉ số dân chủ và PGI trung bình trong giai đoạn 2011-2018 ...................... 71

Hình 3.8. Chỉ số dân chủ của các thành phố trực thuộc trung ương, 2011-2018 .......... 72

Hình 3.9. Chỉ số kiểm soát tham nhũng và PGI trung bình trong giai đoạn 2011-2018 ....................................................................................................................................... 73

Hình 3.10. Chỉ số kiểm soát tham nhũng của các thành phố trực thuộc trung ương, 2011-2018 ...................................................................................................................... 74

Hình 3.11. Chỉ số dịch vụ công và PGI trung bình trong giai đoạn 2011-2018 ............ 74

Hình 3.12. Chỉ số dịch vụ công của các thành phố trực thuộc trung ương, 2011-2018 75

Hình 3.13. Chỉ số Chất lượng chính sách và PGI trung bình trong giai đoạn 2011-2018 ....................................................................................................................................... 76

Hình 3.14. Chỉ số chất lượng chính sách của các thành phố trực thuộc trung ương, 2011-2018 ...................................................................................................................... 77

Hình 3.15. Chỉ số Thủ tục hành chính công và PGI trung bình trong giai đoạn 2011- 2018 ............................................................................................................................... 78

viii

Hình 3.16. Chỉ số thủ tục hành chính công của các thành phố trực thuộc trung ương, giai đoạn 2011-2018 ...................................................................................................... 79

Hình 3.17. PGI và các chỉ số thành phần theo khu vực, tính trung bình giai đoạn 2011- 2018 ............................................................................................................................... 80

Hình 3.18. PGI và các chỉ số thành phần theo hai miền (tính trung bình giai đoạn 2011-2018)..................................................................................................................... 81

Hình 3.19. So sánh PGI trung bình của nhóm các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm và nhóm các tỉnh không thuộc vùng kinh tế trọng điểm ............................................... 82

Hình 3.20. So sánh các khía cạnh thể chế giữa nhóm các tỉnh thuộc và không thuộc vùng kinh tế trọng điểm (tính trung bình giai đoạn 2011-2018) ................................... 83

Hình 3.21. So sánh PGI trung bình của ba nhóm tỉnh chia theo mức thu nhập ............ 84

Hình 3.22. So sánh các khía cạnh thể chế giữa các nhóm tỉnh/thành phố chia theo ba mức thu nhập (tính trung bình giai đoạn 2011-2018).................................................... 84

Hình 4.1. Mức thu nhập và tốc độ tăng trưởng kinh tế của các tỉnh/thành phố Việt Nam (tính trung bình trong giai đoạn 2011-2018) ................................................................. 88

Hình 4.2. Mức thu nhập và tốc độ tăng trưởng kinh tế của các vùng kinh tế Việt Nam (tính trung bình trong giai đoạn 2011-2018) ................................................................. 89

Hình 4.3. Mức thu nhập và tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nhóm tỉnh/thành phố chia theo vùng kinh tế trọng điểm hoặc thu nhập (tính trung bình trong giai đoạn 2011- 2018) .............................................................................................................................. 90

Hình 4.4. Mức thu nhập và các chỉ số thể chế quản trị của các tỉnh/thành phố Việt Nam trong giai đoạn 2011-2018 ............................................................................................. 91

Hình 4.5. Mức thu nhập và các biến số kinh tế vĩ mô khác của các tỉnh/thành phố Việt Nam trong giai đoạn 2011-2018 .................................................................................... 92

Hình 4.6. Mối quan hệ giữa dân chủ và mức thu nhập bình quân lao động hiệu quả . 102

ix

Hình 4.7. Mối quan hệ giữa dịch vụ công và mức thu nhập bình quân lao động hiệu quả ............................................................................................................................... 102

DANH MỤC PHỤ LỤC

Phụ lục 1. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) ................................................. 135

Phụ lục 2. Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) ................... 139

Phụ lục 3. Kết quả trích và xoay nhân tố ..................................................................... 143

Phụ lục 4. Kết quả kiểm tra Cronbach's Alpha về độ tin cậy của thang đo ................ 146

Phụ lục 5. Kết quả KMO and Bartlett's Test về điều kiện thực hiện phân tích nhân tố ..................................................................................................................................... 147

Phụ lục 6. Bản đồ sáu vùng kinh tế của Việt Nam ...................................................... 148

Phụ lục 7. Danh mục các tỉnh/thành phố của mỗi vùng .............................................. 149

Phụ lục 8. Các tỉnh/thành phố thuộc bốn vùng kinh tế trọng điểm ............................. 150

Phụ lục 9. Các tỉnh/thành phố chia theo từng nhóm thu nhập ..................................... 151

Phụ lục 10. Kết quả kiểm định tính dừng (Fisher-type unit-root test) ........................ 152

Phụ lục 11. Kết quả kiểm định đồng tích hợp (Westerlund ECM panel cointegration tests) ............................................................................................................................. 152

Phụ lục 12. Quy trình kiểm định tính nội sinh Durbin-Wu-Hausman ........................ 153

Phụ lục 13. Kết quả kiểm định đa cộng tuyến bằng ma trận hệ số tương quan Pearson (Pearson correlation coeffients matrix) và nhân tố phóng đại phương sai (VIF) ........ 153

Phụ lục 14. So sánh kết quả ước lượng giữa mô hình GMM và hiệu ứng cố định ..... 154

Phụ lục 15. So sánh kết quả hồi quy của mô hình ở Bảng 4.6 với mô hình lấy biến trễ hai kỳ của lnYL ........................................................................................................... 155

Phụ lục 16. So sánh kết quả hồi quy của mô hình ở Bảng 4.7 với mô hình lấy biến trễ hai kỳ của lnYL ........................................................................................................... 156

Phụ lục 17. So sánh kết quả hồi quy theo mô hình ở Bảng 4.7 trước và sau khi bổ sung biến đại diện các vùng kinh tế ..................................................................................... 156

Phụ lục 18. So sánh kết quả hồi quy theo mô hình ở Bảng 4.6 trước và sau khi bổ sung biến đại diện các vùng kinh tế ..................................................................................... 157

Phụ lục 19. Ảnh hưởng của chỉ số thể chế quản trị (PGI) tới tăng trưởng kinh tế tại từng vùng kinh tế ......................................................................................................... 158

x

Phụ lục 20. Ảnh hưởng của các khía cạnh thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế tại từng vùng kinh tế (mô hình gốc) ................................................................................. 159

Phụ lục 21. Ảnh hưởng của chỉ số thể chế quản trị (PGI) tới tăng trưởng kinh tế tại các nhóm tỉnh trọng điểm và không trọng điểm ................................................................ 160

Phụ lục 22. Ảnh hưởng của các khía cạnh thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế tại các nhóm tỉnh trọng điểm và không trọng điểm (mô hình gốc) .................................. 161

Phụ lục 23. Ảnh hưởng của chỉ số thể chế quản trị (PGI) tới tăng trưởng kinh tế theo 3 nhóm thu nhập ............................................................................................................. 162

xi

Phụ lục 24. Ảnh hưởng của các khía cạnh thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế theo 3 nhóm thu nhập (mô hình gốc) .................................................................................. 163

GIỚI THIỆU

1. Lý do lựa chọn đề tài

Vai trò của chất lượng thể chế đối với tăng trưởng kinh tế đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách trong hai thập kỷ qua. Các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng có nhiều điểm chưa được giải quyết ở các mô hình tăng trưởng tân cổ điển (Solow, 1956; Swan, 1956) và tăng trưởng nội sinh (Barro và Lee, 1994; Lucas, 1988; Romer, 1986, 1990). Đặc biệt, các mô hình này cũng được cho là thất bại trong việc giải thích sự khác biệt về tăng trưởng kinh tế giữa các quốc gia dựa trên tích lũy vốn hay tiến bộ công nghệ (Asghar và cộng sự, 2015). Bởi vậy, khi kinh tế học thể chế ra đời và phát triển, như một gợi ý về hướng giải thích nguồn gốc của tăng trưởng, các nhà nghiên cứu trên thế giới đã cố gắng mở rộng các mô hình tăng trưởng tân cổ điển hoặc tăng trưởng nội sinh bằng cách đưa vào đó yếu tố thể chế trong việc xem xét ảnh hưởng của chúng đến tăng trưởng dài hạn (Acemoglu và cộng sự, 2001; Rodrik và cộng sự, 2004). Furubotn và Richter (2005) cho rằng nghiên cứu về thể chế trong tăng trưởng kinh tế ngày càng trở nên phong phú hơn theo thời gian.

Tại Việt Nam, nghiên cứu thực nghiệm về tăng trưởng kinh tế đã được thực hiện trong một số ngành cụ thể và trên bình diện toàn nền kinh tế. Những công trình của Klump và Nguyễn Thị Tuệ Anh (2004), Scott và Trương Thị Kim Chuyên (2004), Chen (2005), Phan Minh Ngọc và Ramstetter (2006), Trần Thọ Đạt và Đỗ Tuyết Nhung (2008)... đã tìm cách giải thích nguồn gốc tăng trưởng của Việt Nam từ sau thời kỳ Đổi mới, dựa trên các mô hình tăng trưởng hiện đại và các biến số kinh tế - xã hội. Trong những năm gần đây, mối quan hệ giữa chất lượng thể chế và tăng trưởng kinh tế là chủ đề gây được sự chú ý của cả giới học thuật và chính sách trong nước. Rất nhiều nghiên cứu đã khẳng định thể chế yếu kém là rào cản của tăng trưởng kinh tế nói chung (Lê Quốc Lý, 2014; Nguyễn Văn Phúc, 2013; Trần Du Lịch, 2013; Võ Trí Thành, 2014).

1

Trong các cấp bậc của thể chế theo phân loại của Williamson (1998), thể chế quản trị (governance) dường như được giới nghiên cứu quan tâm nhiều hơn cả do hàm ý chính sách cao mà các kết quả nghiên cứu có thể mang lại cho các quốc gia và các tổ chức quốc tế (Kaufmann và Kraay, 2003; Kurtz và Schrank, 2007; Wilson, 2016). Cấp bậc thể chế này gắn liền với vai trò của nhà nước nên có thể càng quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam - một đất nước theo đuổi cơ chế thị trường nhưng có định hướng của nhà nước. Khi xác định các nút thắt tăng trưởng và các giải pháp đột phá, Chính phủ Việt Nam đã khẳng định cải thiện chất lượng thể chế quản trị (cụ thể là

nâng cao năng lực và trách nhiệm giải trình của Nhà nước) là một trong ba trụ cột trong khung chính sách nhằm hướng tới năm 2035 Việt Nam trở thành nước có mức thu nhập trung bình cao (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2018; World Bank và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2016).

Từ những nội dung trên đây, có thể thấy rõ tầm quan trọng của chất lượng thể chế quản trị đối với tăng trưởng kinh tế trong khoa học kinh tế và thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Cũng cần lưu ý rằng Việt Nam đã có những thay đổi cơ bản về thể chế quản trị và cũng có tốc độ tăng trưởng kinh tế đáng kể trong những thập kỷ gần đây, bởi vậy so với nhiều quốc gia khác, Việt Nam là một trường hợp khá lý tưởng để tìm hiểu việc cải thiện chất lượng thể chế quản trị đóng góp như thế nào vào sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, ngoài hai công trình của Lê Quang Cảnh và Đỗ Tuyết Nhung (2018) và Nguyễn Việt Cường và cộng sự (2021), hầu chưa có nghiên cứu nào khác tại Việt Nam tiếp cận mối quan hệ giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế ở góc độ lượng hóa trực tiếp sự tác động giữa chúng. Đa số các nghiên cứu chỉ lượng hóa tác động của chất lượng thể chế quản trị tới việc thu hút FDI, năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp như một kênh truyền dẫn ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến sự tăng trưởng của nền kinh tế.

Bên cạnh đó, thực tế là các chỉ số đo lường chất lượng thể chế quản trị phổ biến tại Việt Nam hiện nay chỉ tập trung vào một số góc độ đánh giá cụ thể và chưa thể hiện đầy đủ, toàn diện các khía cạnh thể chế quản trị địa phương. Đồng thời, các nghiên cứu về vai trò của chất lượng thể chế quản trị đối với sự phát triển kinh tế và doanh nghiệp thường chỉ sử dụng một số chỉ số thành phần của PAPI hoặc PCI bởi việc đưa toàn bộ các chỉ số này vào một mô hình hồi quy khó khả thi do các chỉ số thành phần có thể tương quan với nhau, theo đó tại Việt Nam vẫn thiếu vắng các nghiên cứu về tác động tổng thể của chất lượng thể chế đến các yếu tố kinh tế - xã hội.

2

Những lý do trên đây là cơ sở lý thuyết và thực tiễn cho việc lựa chọn đề tài ‘Chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh ở Việt Nam’. Nghiên cứu này được thực hiện với mong muốn cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm cho mối quan hệ giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế địa phương tại một quốc gia đang phát triển và đang trong thời kỳ chuyển đổi, cũng như đóng góp những gợi ý chính sách liên quan đến thể chế và tăng trưởng kinh tế trong thực tiễn Việt Nam. Nghiên cứu được kỳ vọng có thể trả lời cho các câu hỏi mà các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam còn băn khoăn, đồng thời làm phong phú hơn kho tư liệu nghiên cứu khoa học về tăng trưởng kinh tế cũng như thể chế trong bối cảnh một quốc gia đang phát triển và trong thời kỳ chuyển đổi.

2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu

Mục tiêu tổng thể của đề tài: tìm hiểu mối quan hệ giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh Việt Nam, từ đó đánh giá tác động của chất lượng thể chế đến tăng trưởng kinh tế. Dựa trên kết quả nghiên cứu thực nghiệm, luận án đề xuất những gợi ý chính sách liên quan đến chất lượng thể chế quản trị nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.

Mục tiêu cụ thể của đề tài:

i. Xây dựng thước đo chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh phù hợp

cho bối cảnh Việt Nam;

ii. Chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng

trưởng kinh tế;

iii. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của chất lượng thể chế quản trị đối với tăng trưởng

kinh tế địa phương cấp tỉnh tại Việt Nam;

iv. Gợi ý chính sách liên quan đến chất lượng thể chế quản trị nhằm thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế tại Việt Nam.

Mục tiêu nghiên cứu được cụ thể hóa thành các câu hỏi nghiên cứu sau:

i. Đo chất lượng thể chế quản trị ở cấp tỉnh Việt Nam bằng những tiêu chí nào?

ii. Chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế ở cấp tỉnh tại Việt Nam có

mối quan hệ nhân quả như thế nào?

iii. Mức độ ảnh hưởng của chất lượng thể chế quản trị đối với tăng trưởng kinh tế ở

cấp tỉnh tại Việt Nam như thế nào?

iv. Dựa trên kết quả nghiên cứu, có thể gợi ý những nội dung chính sách gì liên quan đến chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế ở cấp tỉnh tại Việt Nam?

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế địa

phương cấp tỉnh của Việt Nam.

- Phạm vi nghiên cứu: sử dụng dữ liệu mảng 63 tỉnh/thành phố Việt Nam giai

đoạn 2011-2018.

3

Việc lấy dữ liệu nghiên cứu từ 2011 là để đảm bảo khả năng thu thập được số liệu thống nhất từ các bộ chỉ số liên quan đến thể chế quản trị cấp tỉnh có uy tín ở Việt Nam là PAPI (lần đầu tiên được triển khai cả nước vào 2011) và PCI. Trên thực tế, một nghiên cứu tăng trưởng chỉ lấy trong giai đoạn 8 năm là khá hạn chế, bởi vì các lý

thuyết tăng trưởng cơ bản đều không nhằm vào giải thích những biến động chu kỳ kinh doanh ngắn hạn. Hơn nữa, những phản ứng kinh tế mang tính thời điểm (ví dụ, phản ứng của tăng trưởng kinh tế trước sự thay đổi về thể chế) không thể hiện rõ rệt bằng những phản ứng trong dài hạn (Barro, 2001). Tuy nhiên, nghiên cứu này không có ý định tìm hiểu sự “biến đổi” tăng trưởng GDP của các tỉnh/thành phố (vốn đòi hỏi chuỗi thời gian dài). Thay vào đó, mục đích của đề tài là giải thích khoảng cách kinh tế giữa các địa phương dựa trên sự khác biệt về thể chế quản trị và các biến số kinh tế - xã hội khác. Đồng thời, việc áp dụng dữ liệu mảng cho một giai đoạn 8 năm và mô hình phân tích sử dụng dữ liệu mảng là cách giúp các ước lượng trở nên hiệu quả hơn. Cuối cùng, với kỳ vọng về mối quan hệ hai chiều giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế, nghiên cứu cũng giới hạn phân tích sâu đối với chiều tác động từ chất lượng thể chế đến tăng trưởng dựa trên mô hình tăng trưởng kinh tế, nhằm tìm ra các khuyến nghị chính sách hợp lý với điều kiện Việt Nam hiện nay.

4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

Với cách tiếp cận từ góc độ kinh tế học thể chế ở cấp vĩ mô, nghiên cứu này phân tích các khía cạnh thể chế quản trị kết hợp với các số liệu kinh tế - xã hội của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Cách tiếp cận này đã được sử dụng trong những nghiên cứu thể chế và tăng trưởng kinh tế địa phương trên thế giới.

Trên cơ sở nguồn dữ liệu thứ cấp chủ yếu là các bộ chỉ số PAPI, PCI và dữ liệu từ Niên giám Thống kê các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra, cụ thể như sau:

- Phương pháp xây dựng chỉ số: nhằm đo lường chất lượng thể chế quản trị địa

phương cho các tỉnh, thành phố Việt Nam

- Phương pháp phân tích thống kê mô tả: nhằm phân tích mô tả thực trạng chất lượng thể chế quản trị cùng các biến số kinh tế - xã hội khác, đặt trong tương quan so sánh với tình hình tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh.

- Phương pháp kiểm định quan hệ nhân quả: nhằm tìm hiểu mối quan hệ qua lại

lẫn nhau giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh.

- Phương pháp phân tích hồi quy với số liệu mảng: nhằm đo lường tác động của

thể chế tới tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh ở Việt Nam.

4

Các kỹ thuật phân tích số liệu được thực hiện thông qua ứng dụng trong các phần mềm thống kê SPSS phiên bản 22.0 và STATA phiên bản 14.0. Chi tiết về phương pháp nghiên cứu của luận án được trình bày tại Chương 2.

5. Đóng góp mới của luận án

Luận án mang lại những đóng góp vào kho tri thức về thể chế quản trị và tăng

trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển.

Trước hết, nghiên cứu này cung cấp một thước đo chất lượng thể chế quản trị cấp tỉnh Việt Nam, từ đó có thể mang lại một nguồn dữ liệu tổng hợp về chất lượng thể chế quản trị cấp tỉnh, có thể sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu về chất lượng thể chế quản trị địa phương trong mối quan hệ với các biến kinh tế - xã hội khác.

Thứ hai, nghiên cứu này khẳng định chiều của mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế ở cấp tỉnh tại Việt Nam, từ đó làm cơ sở cho các phương pháp ước lượng phù hợp để tìm ra bằng chứng và mức độ ảnh hưởng giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế ở cấp tỉnh tại Việt Nam.

Thứ ba, trên cơ sở kết quả phân tích về thực trạng chất lượng thể chế địa phương cấp tỉnh và mối quan hệ với kinh tế kinh tế, luận án chỉ ra những gợi ý chính sách liên quan đến chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế ở cấp tỉnh tại Việt Nam.

6. Kết cấu của luận án

Luận án được kết cấu gồm phần Giới thiệu và năm chương:

Chương 1 - Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý thuyết về thể chế quản trị và tăng

trưởng kinh tế địa phương

Chương 2 - Phương pháp nghiên cứu

Chương 3 - Chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh tại Việt Nam

Chương 4 - Mối quan hệ giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế

địa phương cấp tỉnh tại Việt Nam

5

Chương 5 - Kết luận và hàm ý chính sách

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THỂ CHẾ QUẢN TRỊ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ĐỊA PHƯƠNG

1.1. Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế và kinh tế học thể chế mới

Câu hỏi tại sao một số vùng giàu có và một số khác lại nghèo đã trở thành tâm điểm của kinh tế học kể từ khi Adam Smith xuất bản cuốn “Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia” vào năm 1776, với sự tập trung vào các yếu tố phân chia lao động, quy mô thị trường, năng suất lao động… Tuy nhiên, phải đến giữa thế kỷ XX, trên cơ sở lý thuyết kinh tế học tân cổ điển, mô hình tăng trưởng kinh tế đầu tiên mới ra đời từ nghiên cứu của Solow (1956) và Swan (1956), trong đó sản lượng kinh tế là một hàm toán học của các đầu vào là vốn và lao động, và khi được kiểm định thực nghiệm, mô hình này khá phù hợp với dữ liệu sẵn có của Hoa Kỳ. Kể từ khi ra đời cho đến những năm 1980, với việc xác định sự tích lũy vốn hoặc đầu tư là yếu tố trung tâm để giải thích mức thu nhập bình quân đầu người của các quốc gia, mô hình Solow-Swan là lý thuyết vượt trội về tăng trưởng kinh tế và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các chính sách công được cộng đồng phát triển quốc tế ủng hộ (Easterly, 2001). Mặc dù vậy, nỗ lực tiếp theo để kiểm định mô hình tân cổ điển trên thực nghiệm đạt được những kết quả không rõ ràng, các nhà nghiên cứu không thể tìm kiếm bằng chứng về sự hội tụ dựa trên các hồi quy sử dụng dữ liệu cấp quốc gia theo một dự báo then chốt của mô hình tăng trưởng tân cổ điển. Điều này dẫn đến việc xem xét lại khái niệm "các yếu tố sản xuất", để đưa vào đó vốn con người và tiếp đó là sự phát triển các mô hình tăng trưởng nội sinh vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, có kết hợp mức độ công nghệ và tốc độ đổi mới (Barro và Lee, 1994; Lucas, 1988; Mankiw và cộng sự, 1992; Romer, 1986, 1990)

6

Mặc dù vậy, ngay cả khi sự tích lũy vốn hoặc đổi mới công nghệ đã giải thích được sự khác biệt đáng kể về mức sản lượng bình quân đầu người trong dài hạn giữa các quốc gia, thì vẫn có câu hỏi đặt ra là tại sao có những xã hội đã thành công, trong khi những xã hội khác không thể thực hiện các hành động cần thiết để đạt được sự tích lũy hay đổi mới đó. Trong bối cảnh này, một dòng nghiên cứu mới của kinh tế học đã xuất hiện như một phần của việc tiếp tục tìm kiếm các yếu tố quyết định đến tăng trưởng, được gọi là "kinh tế học thể chế mới" (NIE). Có khởi điểm từ công trình của North (1981) và North (1990), "kinh tế học thể chế mới" được coi là một nhánh phát triển kinh tế học hiện đại, với mục tiêu tìm hiểu thể chế xã hội bên trong các hoạt động kinh tế mà kinh tế học tân cổ điển đã xây dựng. Mặc dù kinh tế học thể chế cũ đặt mục tiêu thay thế hoặc phủ định các lý thuyết kinh tế học tân cổ điển, nhưng sự hình thành và phát triển của kinh tế học thể chế mới dựa trên cơ sở mở rộng các lý thuyết này, với

kỳ vọng giải đáp cho những bài toán được đặt ra trong kinh tế học nói chung và trong các lý thuyết tăng trưởng kinh tế nói riêng. Sihag (2007) cho rằng nhờ sự pha trộn của những hiểu biết sâu sắc từ các nghiên cứu về thể chế với những lý thuyết tăng trưởng nội sinh và tân cổ điển, mà chúng ta có thể đạt được cách tiếp cận thực tế hơn để hiểu được quá trình tăng trưởng kinh tế. Theo Acemoglu và cộng sự (2005), các yếu tố thể chế được coi là “động lực sâu xa” của tăng trưởng vì chúng đóng vai trò trung tâm trong việc hình thành động lực của các tác nhân kinh tế và cách thức phân bổ nguồn lực trong xã hội.

North (1981, 1990) định nghĩa các thể chế là "các quy tắc của trò chơi", nghĩa

là những ràng buộc chính thức và phi chính thức do con người tạo ra, tạo nên các

tương tác của con người. Các thể chế chính thức bao gồm các hiến pháp, luật lệ, và các

quy tắc và quy định rõ ràng của chính phủ, được soạn thảo và thực thi bởi các cơ chế

chung - trong đó, quan trọng nhất là nhà nước với tổ chức và quyền lực cưỡng chế của

nó. Mặt khác, các thể chế phi chính thức bao gồm các quy tắc bất thành văn, chẳng hạn

như truyền thống, chuẩn mực và quy tắc hành vi, những điều cấm kị và các cơ chế xã

hội khác dựa trên và được thực hiện thông qua các ràng buộc và quan hệ cá nhân.

Cross (2002) cho rằng, trong một nền kinh tế hiện đại, các thể chế chính thức do nhà

nước thiết lập và thực hiện có ảnh hưởng sâu sắc đến tăng trưởng, trong khi đó các thể

chế kinh tế phi chính thức ảnh hưởng đến động cơ và hành vi của các tác nhân kinh tế

một cách chậm hơn.

Theo Zhuang và cộng sự (2010), sự nhấn mạnh của "kinh tế học thể chế mới"

đối với các thể chế chính thức bắt nguồn từ tầm quan trọng của việc khẳng định và bảo

vệ quyền sở hữu và hợp đồng, từ đó cho phép mở rộng trao đổi thị trường, đầu tư và

đổi mới trên các lĩnh vực kinh tế và khu vực địa lý rộng hơn với chi phí thấp vừa phải.

Việc thực thi hợp đồng và bảo vệ quyền sở hữu có thể dự đoán được là đặc biệt quan

trọng đối với các giao dịch nằm ngoài việc trao đổi trực tiếp một cách đơn giản, nếu

không thì sẽ gặp đầy bất trắc và chủ nghĩa cơ hội có thể xảy ra bởi vì sự ngăn cách về

không gian hoặc thời gian có thể gây ra chi phí giao dịch đáng kể. Vì lý do này, việc

thực thi hiệu quả các quy tắc và trừng phạt đối với vi phạm là cần thiết. Chỉ với những

chế tài xử phạt thì các thể chế mới có thể khiến các hành động của cá nhân có thể dự

đoán trước được (Kasper và Streit, 1998). Tuy vậy, các biện pháp chế tài hiệu quả chỉ

hỗ trợ tăng trưởng khi được nằm trong chính phủ của một nhà nước. Giả thiết ngầm

định là chỉ có một tổ chức rộng lớn như vậy mới có khả năng nội hóa (internalize) các

7

nền kinh tế quy mô gắn liền với việc xác định các quy tắc, và có sự kiểm soát tiềm ẩn

về quyền lực cưỡng chế cần thiết để thực thi các quy tắc. Mặt khác, việc mang lại cho

nhà nước quyền lực bao quát tạo ra một vấn đề ngược lại, đó là có thể xảy ra thành

kiến, chủ nghĩa cơ hội, tham nhũng và chiếm đoạt nhân danh quyền lực nhà nước của

những người có vị trí lãnh đạo (Troilo, 2011; Weingast, 1993). Nghịch lý cố hữu này

cho thấy lý do phải có trách nhiệm giải trình, sự minh bạch, kiểm tra và cân bằng, và

sự tham gia rộng rãi của các tổ chức khác nhau như là một phần của các yêu cầu về trật

tự và kiểm soát xã hội.

Do đó, theo khuôn khổ này, trách nhiệm giải trình, pháp quyền, ổn định chính trị, năng lực hành chính, bảo vệ quyền sở hữu và thực thi hợp đồng, và kiểm soát tham nhũng là những khía cạnh tăng cường lẫn nhau của các thể chế thúc đẩy tăng trưởng. Lập luận lý thuyết rộng này dẫn đến một giả thuyết cho rằng nếu không thiết lập được các thể chế chính thức như vậy một cách có hiệu quả thì các xã hội sẽ phải đối mặt với chi phí rất cao trong các giao dịch của thị trường và không thể kiểm soát được "bàn tay chiếm đoạt của nhà nước" (grabbing hand of the state) và do đó không thể hỗ trợ các sáng kiến tư nhân, trao đổi thị trường, đầu tư và phát triển kinh tế. Mặc dù vậy, cách suy luận trên đây không loại trừ khả năng có quan hệ nhân quả ngược lại. Trên thực tế, một quan điểm khác được các bằng chứng thực nghiệm ủng hộ lại dự đoán rằng mức độ phát triển cao hơn sẽ tạo ra nhu cầu và dẫn đến các thể chế tốt hơn (Paldam và Gundlach, 2008).

1.2. Khái niệm

1.2.1. Thể chế quản trị

Quản trị (governance) theo Từ điển Anh ngữ Oxford, là "cách thức quản lý". Cụm “govern” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp "κυβερναν" (kyvernan), nghĩa là "chỉ đạo" (Zhuang và cộng sự, 2010). Có thể nói, việc sử dụng khái niệm thể chế quản trị bắt nguồn từ các nghiên cứu của World Bank, với định nghĩa quản trị là "việc thực thi quyền lực chính trị để quản lý các công việc của một quốc gia" (World Bank, 1989); hoặc "cách thức thực hiện quyền lực trong việc quản lý các nguồn lực kinh tế và xã hội của đất nước để phát triển" (World Bank, 1992). Đến Huther và Shah (1996) và Huther và Shah (2005), mối liên kết giữa quản trị với thể chế mới được thể hiện qua định nghĩa quản trị là "tất cả các khía cạnh của việc thực thi quyền lực thông qua các thể chế chính thức và phi chính thức trong việc quản lý nguồn lực của một quốc gia."

8

Ở một khía cạnh khác, Williamson (1998) coi thể chế quản trị là một cấp bậc thể chế, tại đó cuộc chơi được vận hành trong một môi trường thể chế đã xác định (xem Hình 1.1). Cấu trúc của hợp đồng, các mối quan hệ giao dịch, ranh giới giữa các

giao dịch nội bộ trung gian và những trung gian thông qua thị trường, tổ chức tài chính hỗ trợ đầu tư và tín dụng, quản trị doanh nghiệp... đều được xác định ở cấp độ thể chế quản trị này. Trong thực tiễn, cấp độ quản trị của thể chế là rất khác nhau, mặc dù giữa các quốc gia có thể có chung “luật chơi”. Quan điểm của Williamson (1998) khá tương đồng với khái niệm thể chế quản lý điều hành với nội hàm là “cấu trúc và hoạt động của các thể chế luật pháp và xã hội để hỗ trợ các hoạt động và giao dịch kinh tế thông qua việc bảo vệ các quyền tài sản, đảm bảo các qui định của nhà nước về thực thi hợp đồng, và thực hiện các hành động tập thể nhằm cung cấp cơ sở hạ tầng vật chất và tổ chức” (Dixit, 2009).

Hình 1.1. Các cấp độ của thể chế

Nguồn: Williamson (1998)

9

Từ Hình 1.1, có thể nhận thấy cấp độ 1 và 2 của thể chế là rất khó can thiệp, và

dù can thiệp thì cũng rất lâu mới đạt được kết quả. Cấp độ 4 là thị trường thay đổi liên

tục, sự can thiệp sẽ dẫn đến những méo mó thị trường, có thể gây hậu quả tiêu cực cho

sự phát triển bền vững của quốc gia. Chỉ cấp độ 3 - thể chế quản trị - được giới học

thuật và chính sách công nhận là công cụ có thể sử dụng để thúc đẩy tăng trưởng kinh

tế (Davis và Trebilcock, 2001; Kaufmann và Kraay, 2003; Kurtz và Schrank, 2007;

Wilson, 2016).

Kaufmann và cộng sự (1999) và Kaufmann và cộng sự (2003) đã tổng hợp một

định nghĩa về thể chế quản trị: đó là các truyền thống và thể chế mà qua đó quyền lực

của một quốc gia được thực hiện. Điều này bao gồm (i) quá trình lựa chọn, theo dõi và

thay thế các cơ quan có thẩm quyền; (ii) năng lực của chính phủ trong việc xây dựng

và thực hiện có hiệu quả các chính sách tốt và cung cấp các dịch vụ công; và (iii) sự

tôn trọng của công dân và nhà nước đối với các thể chế chi phối các mối tương tác

kinh tế và xã hội giữa họ. Định nghĩa này được công bố trên website của World Bank

ngày nay như một sự nhìn nhận tính chính thống của nó.

Ngoài ra, một số tổ chức khác cũng có các định nghĩa gần tương đồng về thể chế

quản trị. Ví dụ, UNDP (1997) định nghĩa thể chế quản trị là việc thực thi quyền lực

chính trị, kinh tế, hành chính trong việc quản lý các công việc của một quốc gia ở mọi

cấp. Hoặc ADB (2013) định nghĩa thể chế quản trị là cách thức thực hiện quyền lực

trong việc quản lý các nguồn lực kinh tế và xã hội cho sự phát triển. Zhuang và cộng sự

(2010) cho rằng, từ một khái niệm yếu về mặt lý thuyết, chủ yếu được những nhà thực

tiễn sử dụng, ngày nay “thể chế quản trị” đã gắn liền với dòng phát triển của "kinh tế

học thể chế mới".

1.2.2. Chất lượng thể chế quản trị

IGI Global (2020) đưa ra một định nghĩa về chất lượng quản trị, đó là việc đo

lường mức độ hoạt động của một tổ chức ở các khía cạnh quản trị, cụ thể là kiểm soát

tham nhũng, hiệu quả của chính phủ, ổn định chính trị và không có bạo lực/khủng bố,

chất lượng quy định, pháp quyền, tiếng nói và trách nhiệm giải trình. Khái niệm này

xuất phát từ định nghĩa thể chế quản trị của World Bank. Kaufmann và cộng sự (2010)

đã phân tích rằng trong ba khía cạnh thể chế quản trị của World Bank, khía cạnh thứ

hai thể hiện chất lượng quy định và hiệu quả của chính phủ. Một mặt, chất lượng quy

10

định cho thấy khả năng của chính phủ trong việc xây dựng và thực hiện những chính

sách và quy định hợp lý, chất lượng xây dựng và thực thi chính sách cũng như cam kết

của chính phủ về các chính sách đó. Mặt khá, hiệu quả của chính phủ được thể hiện

qua chất lượng của các dịch vụ công và dịch vụ dân sự, cũng như mức độ độc lập của

các dịch vụ này với sự can thiệp chính trị. Khía cạnh thứ ba nêu bật yếu tố pháp quyền

và mức độ kiểm soát tham nhũng, trong khi khía cạnh đầu tiên thể hiện sự ổn định

chính trị, trách nhiệm giải trình của chính phủ và tiếng nói của người dân.

UNDP (1997) cho rằng thể chế quản trị tốt là nỗ lực của pháp quyền, minh bạch,

công bằng, hiệu lực/hiệu quả, trách nhiệm giải trình, và tầm nhìn chiến lược trong việc

thực thi quyền lực chính trị, kinh tế và hành chính. Hoặc các nguyên tắc (đặc điểm) của

thể chế quản trị tốt thường bao gồm: kiểm soát tham nhũng, trách nhiệm giải trình, hiệu

quả, công bằng, sự tham gia, ổn định chính trị, tính dự báo, phản hồi, pháp quyền và

minh bạch (ADB, 2013).

1.2.3. Chất lượng thể chế quản trị địa phương

Theo United Nations (2006), thể chế gồm nhiều cấp bậc, ví dụ như các thể chế

cấp quốc gia, cấp vùng, cấp địa phương... Thể chế khác biệt không chỉ giữa các quốc

gia mà ngay bên trong một quốc gia và giữa các ngành (Gao và cộng sự, 2010). Điều

này không chỉ đúng ở các nước phát triển mà sự khác biệt về thể chế giữa các địa

phương càng đặc biệt nổi trội ở các nền kinh tế đang phát triển, ví dụ như Trung Quốc,

Hàn Quốc (Cho và Tansuhaj, 2013). Chabowski và cộng sự (2010) cho rằng giới

nghiên cứu mới bắt đầu tìm hiểu khái niệm thể chế địa phương (sub-national

institutions) trong những năm gần đây.

Quay trở lại với các cấp bậc thể chế của Williamson (2000), nếu như cấp thứ

nhất hầu như không được đề cập trong các nghiên cứu nói chung về thể chế do tính

chất khó đo đếm, khó đánh giá chuẩn mực và ít biến đổi theo thời gian, thì cấp bậc thứ

hai thường chỉ được sử dụng để đánh giá ở cấp quốc gia, cho dù một số quốc gia cho

phép chính quyền địa phương thiết lập một số loại luật nhất định, như trường hợp các

bang Hoa Kỳ. Tuy nhiên, cấp bậc thứ ba của thể chế rõ ràng có sự khác biệt giữa các

địa phương trong một quốc gia do sự khác biệt về các khía cạnh quy định, nhận thức

và triển khai thực hiện. Trong bối cảnh ở cấp địa phương, sự hiểu và vận dụng các

chính sách của trung ương ở mỗi địa phương lại khác nhau, kết quả là làm cho thể chế

quản trị ở mỗi địa phương có sự khác biệt nhất định. Ngoài ra, ở những nền kinh tế

11

mới nổi, các thể chế liên tục thay đổi với những quá trình chuyển đổi cả ở cấp quốc gia

và địa phương phụ thuộc lẫn nhau. Khi khung khổ quy định thay đổi ở cấp trung ương,

điều này ảnh hưởng trực tiếp đến các thể chế chính thức ở cấp địa phương nhưng với

những độ trễ đáng kể (Meyer và Nguyen, 2005).

Tương tự với khái niệm thể chế quản trị, có thể hiểu thể chế quản trị địa phương

(sub-national governance) là việc thực thi quyền lực chính trị, kinh tế, hành chính trong

việc quản lý các công việc của chính quyền địa phương trong một quốc gia. Xuất phát

từ khái niệm thể chế quản trị địa phương và chất lượng thể chế quản trị, trong khuôn

khổ của nghiên cứu này, với bối cảnh địa phương cấp tỉnh Việt Nam, chất lượng thể

chế quản trị được xác định là việc đo lường mức độ hoạt động của chính quyền địa

phương các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương Việt Nam ở các khía cạnh quản trị

(quản lý điều hành). Phần tiếp theo sẽ phân tích cụ thể các khía cạnh của thể chế quản

trị thể hiện ở các thước đo chất lượng thể chế quản trị cấp quốc gia và địa phương.

1.3. Thước đo chất lượng thể chế quản trị

1.3.1. Ở cấp quốc gia

Tầm quan trọng ngày càng cao của thể chế nói chung và thể chế quản trị nói

riêng đã thúc đẩy các nghiên cứu thực nghiệm nhằm đo lường chất lượng thể chế quản

trị của các cơ quan đa phương, các tổ chức phi chính phủ và các viện nghiên cứu, dẫn

tới việc công bố một khối lượng lớn các chuỗi chỉ số thể chế quản trị. UNDP (2007)

trình bày các thông tin cơ bản về 35 nguồn chỉ số thể chế quản trị, bao gồm phương

pháp luận, ví dụ kết quả, sử dụng hợp lý/không hợp lý và các giả định. Trong đó, một

số chỉ số thể chế quản trị thường được trích dẫn trên các phương tiện truyền thông và

trong nghiên cứu học thuật, bao gồm:

a. Chỉ số Thể chế Quản trị Toàn cầu (WGI) do World Bank đưa ra, xuất phát từ

các công trình của Kaufmann và cộng sự (1999) và Kaufmann và cộng sự (2003), đo

lường chất lượng thể chế quản trị ở trên 200 quốc gia trong giai đoạn 1996-2015. WGI

được cấu thành trên sáu khía cạnh liên quan đến một số đặc điểm chất lượng thể chế

quản trị chính của một hệ thống quốc gia, như được mô tả tại Hình 1.2.

Mỗi khía cạnh này là kết quả tập hợp từ nhiều chỉ số đơn, được thu thập được

từ khoảng 30 cuộc điều tra dựa trên ý kiến/nhận thức về các thước đo thể chế quản trị

khác nhau, từ điều tra doanh nghiệp, nhà đầu tư, dân số đến các đánh giá chuyên gia và

12

tổ chức quốc tế.

1. Tiếng nói và trách nhiệm giải trình, được đo bằng mức độ công dân của một quốc gia có thể tham gia vào việc lựa chọn chính phủ của họ, cũng như tự do ngôn luận, hiệp hội và báo chí.

2. Sự ổn định chính trị và không có bạo lực, được đo bằng xác suất một chính phủ bị

mất ổn định bởi các hình thức bạo lực (nội chiến, khủng bố) hoặc đảo chính.

3. Hiệu quả của chính phủ, được đo bằng chất lượng của các dịch vụ công, năng lực của cơ quan dân sự và sự độc lập của nó trước áp lực chính trị, và chất lượng của việc xây dựng và thực hiện chính sách.

4. Chất lượng quy định, được đo lường bởi khả năng của chính phủ trong việc cung cấp các chính sách và các quy định phù hợp, cho phép và thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp và khu vực tư nhân nói chung.

5. Pháp quyền, được đo bằng mức độ mà những người đại diện tin tưởng và tuân thủ các quy tắc của xã hội, bao gồm chất lượng của thực thi hợp đồng, quyền sở hữu, lực lượng cảnh sát, các hoạt động của bộ máy pháp luật, cũng như nguy cơ tội phạm.

6. Kiểm soát tham nhũng, được đo bằng mức độ quyền lực công được thực hiện vì lợi

ích cá nhân, bao gồm cả các hình thức tham nhũng lớn và nhỏ.

Hình 1.2. Sáu khía cạnh của chỉ số Thể chế Quản trị Toàn cầu (WGI)

Nguồn: Kaufmann và cộng sự (2010).

b. Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) do Diễn đàn Kinh tế Thế giới

(WEF) xây dựng và công bố cho 134 quốc gia. Được đưa ra lần đầu tiên vào năm

2004, chỉ số này đo tính cạnh tranh quốc gia, có tính đến các cơ sở vĩ mô và vi mô về

khả năng cạnh tranh của quốc gia. Tổng 113 biến số được tổng hợp thành trung bình

gia quyền gồm 12 trụ cột, bao gồm các thể chế, kinh tế vĩ mô, cơ sở hạ tầng, y tế và

giáo dục tiểu học, giáo dục đại học và đào tạo nghề, hiệu quả thị trường lao động, hiệu

quả của thị trường hàng hóa, quy mô thị trường, sự phức hợp của thị trường tài chính,

sự phức hợp về kinh doanh và đổi mới, sự sẵn sàng về công nghệ.

c. Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng (CPI - Corruption Perceptions Index) của Tổ

chức Minh bạch Quốc tế (IT), lần đầu tiên được công bố vào năm 1995, đánh giá mức

độ nhận thức về tham nhũng của khu vực công đối với 180 quốc gia. Chỉ số này được

tính dựa trên dữ liệu từ 13 nguồn của 11 tổ chức độc lập, bao gồm cả các cơ quan rủi

ro/phân tích quốc gia.

d. Chỉ số Liêm chính Toàn cầu của Tập đoàn Thách thức Thiên niên kỷ của Hoa

Kỳ và World Bank, phản ánh tính hiệu quả của các cơ chế quản trị và chống tham

13

nhũng chủ chốt, cũng như sự tiếp cận công dân đối với các cơ chế này. Chỉ số này tổng

hợp hơn 300 chỉ số phụ về tính liêm chính, được tổ chức thành sáu loại thể chế quản trị

chính: xã hội dân sự, thông tin và phương tiện truyền thông đại chúng; bầu cử; trách

nhiệm giải trình của chính phủ; hành chính và dịch vụ công; giám sát và điều chỉnh;

chống tham nhũng và pháp quyền.

e. Chỉ số Tự do Kinh tế Thế giới của Viện Fraser, bao gồm 141 quốc gia, lần đầu

tiên được đưa ra vào năm 1986 và được tổng hợp từ 42 biến số thu thập dựa trên các

nguồn bên ngoài như IMF, World Bank và WEF. Chỉ số này đánh giá mức độ chính

sách và thể chế của một quốc gia ủng hộ tự do kinh tế trong các lĩnh vực sau: quy mô

của chính phủ; cơ cấu pháp lý và bảo đảm quyền sở hữu; tiếp cận với đồng tiền lành

mạnh; quy định về tín dụng, lao động và kinh doanh; và tự do thương mại quốc tế.

f. Chỉ số Tự do Kinh tế, được xây dựng bởi Heritage Foundation và The Wall

Street Journal, được công bố lần đầu vào năm 1995 và hiện nay bao gồm 162 quốc

gia. Chỉ số này đo lường và tổng hợp dữ liệu về 10 quyền tự do cá nhân, được coi là

những yếu tố rất quan trọng đối với sự phát triển thịnh vượng cá nhân và quốc gia: Tự

do kinh doanh, Tự do thương mại, Tự do tiền tệ, Quy mô của chính phủ, Tự do công

khố, Quyền sở hữu, Tự do đầu tư, Tự do tài chính, Tự do không bị tham nhũng, Tự do

lao động.

Trong số các chỉ số thể chế quản trị này, WGI có ảnh hưởng lớn nhất và được

sử dụng rộng rãi nhất, bởi nó thể hiện độ tin cậy hợp lý và có phạm vi rộng hơn nhiều

chỉ số khác, do đó sẽ tránh các vấn đề lựa chọn mẫu ở cấp quốc gia (Kurtz và Schrank,

2007). Tuy nhiên, cũng như nhiều chỉ số thể chế quản trị dựa trên nhận thức khác,

WGI vấp phải một số chỉ trích, và người ta yêu cầu phải sử dụng các chỉ số này một

cách thận trọng hơn. Những phê bình chính đối với các chỉ số này, bao gồm:

(i) Các vấn đề liên quan đến tính có thể so sánh theo thời gian và giữa các quốc

gia: các chỉ số không phù hợp để so sánh giữa các quốc gia và theo thời gian do việc

sử dụng các tập hợp nguồn dữ liệu cơ bản khác nhau trong những năm khác nhau;

không thể phát hiện các thay đổi về hiệu quả thể chế quản trị của một quốc gia theo thời gian1; biên độ sai số khá lớn (Kaufmann và Kraay, 2008).

(ii) Những thành kiến trong đánh giá chuyên gia: Những chuyên gia đánh giá từ

1 Sự biến đổi của chỉ số của một quốc gia theo thời gian thường chỉ phản ánh những thay đổi về vị trí tương đối của chỉ số đó trên thang xếp hạng tất cả các quốc gia, bất kể chất lượng thể chế quản trị thực tế có được cải thiện hay không.

14

bên ngoài (nước ngoài) chịu ảnh hưởng bởi văn hóa quốc gia của họ, trong khi các tổ

chức định hướng kinh doanh và chính những doanh nhân được khảo sát có thể có

khuynh hướng phản đối hầu hết các hình thức can thiệp của chính phủ (Kurtz và Schrank, 2007)2…

(iii) Những vấn đề về khái niệm: Những người trả lời khảo sát ở các quốc gia

khác nhau thì có những định nghĩa và quan điểm khác nhau về các khái niệm được hỏi,

ví dụ như "tham nhũng".

(iv) Sự phụ thuộc vào dữ liệu "chủ quan": Nhận thức chủ quan có thể không

phản ánh thực tế khách quan cụ thể. Ví dụ, dữ liệu chất lượng thể chế quản trị của một

quốc gia dựa trên việc lấy ý kiến có thể chịu tác động bởi hiệu quả kinh tế tại quốc gia đó trong giai đoạn gần đây (Seligson, 2006).3

(v) Các vấn đề về chọn mẫu: Ví dụ, dữ liệu dựa trên điều tra doanh nghiệp có

thể đối mặt các rủi ro như mẫu chỉ gồm các doanh nghiệp đang “tồn tại”, thậm chí

đang cạnh tranh thành công trên thị trường, nhưng đó có thể là những đối tượng hưởng

lợi từ tham nhũng và chủ nghĩa thân hữu. Trong khi đó, mẫu sẽ thiếu những doanh

nghiệp không thành công, không thể tham gia vào thị trường địa phương bởi các vấn

đề quản trị tồi hoặc tham nhũng tràn lan. Vì thế, nhóm doanh nghiệp được khảo sát có

thể thiếu tính đại diện (Kurtz và Schrank, 2007).

Bởi những vấn đề nêu trên, Klitgaard và cộng sự (2005) mô tả các nghiên cứu

về thể chế quản trị là "một vụ nổ các loại thước đo, với sự tiến bộ rất nhỏ về mặt giá trị

lý thuyết hoặc thực tiễn”. Với việc thừa nhận rằng đo lường chất lượng thể chế quản trị

rất khó khăn, và tất cả các thước đo thể chế quản trị đều không chính xác một cách cần

thiết, mắc phải các biên độ sai số và đòi hỏi diễn giải thận trọng, các tác giả của WGI

công nhận rằng có thể phải xây dựng các chỉ số thể chế quản trị mới và tốt hơn để giải

quyết những điểm yếu đã được chỉ ra của các thước đo hiện tại (Kaufmann và Kraay,

2 Ví dụ, các một chính phủ có hiệu quả trong việc áp thuế hoặc các yêu cầu về quy định, như các quy định về chứng khoán và ngân hàng thận trọng, luật lao động, tiêu chuẩn công nghiệp, kiểm soát môi trường, hoặc hành động chống độc quyền…, thì có thể sẽ bị nhiều doanh nhân đánh giá là "nặng nề" và “ngăn chặn tăng trưởng" (Kurtz và Schrank, 2007).

3 Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, một chính phủ đang điều hành một giai đoạn tăng trưởng mạnh có thể được nhiều người trả lời phỏng vấn cho là tương đối có hiệu quả và hiệu lực bất kể thực tế như thế nào. Ngược lại, một chính phủ lãnh đạo một đất nước đang trải qua khủng hoảng gần như chắc chắn sẽ bị coi là thiếu năng lực và tham nhũng cho dù mức độ thể chế quản trị yếu kém đã thực sự thay đổi so với thời kỳ trước (ví dụ, xem Seligson (2006) về trường hợp Argentina).

15

2008; Kaufmann và cộng sự, 2009).

1.3.2. Ở cấp địa phương

Các chỉ số thể chế quản trị ở cấp quốc gia (coi các quốc gia có chủ quyền là đơn vị phân tích) là thành tựu lớn của thế giới, mang lại cơ hội thực hiện các nghiên cứu thực nghiệm sử dụng số liệu chéo ở cấp quốc gia. Tuy nhiên, nhìn ở một góc độ thực tế hơn, các chỉ số này không mấy ý nghĩa đối với một quốc gia, bởi người ta không thể nhìn vào các vấn đề thể chế quản trị ở một cấp độ duy nhất khi mà nhiều vấn đề xảy ra do sự tương tác giữa các cấp chính quyền. Một chính phủ tồi ở cấp quốc gia có thể làm giảm hiệu suất của một địa phương tốt, và ngược lại (Fukuyama, 2013).

Từ cách tiếp cận thực tế đó, nhiều nước đã phát triển những bộ chỉ số thể chế quản trị ở cấp địa phương để có cái nhìn sâu sát hơn về chất lượng thể chế quản trị ở từng đơn vị hành chính của nước đó. Cũng có thể nhận thấy rằng, các chuỗi số liệu thể chế quản trị cấp địa phương ưu việt hơn cấp quốc gia bởi sự thống nhất hơn về các yếu tố văn hóa - xã hội và nền tảng kinh tế - chính trị, sự giản đơn hơn về quy trình thực hiện thu thập dữ liệu, do đó giúp khắc phục đa số các nhược điểm của thước đo thể chế quản trị cấp quốc gia như đã nêu ở trên.

Ví dụ một số bộ chỉ số thể chế quản trị cấp địa phương đã được các nhà nghiên

cứu sử dụng, bao gồm:

Trung Quốc

Theo Wilson (2016), Trung Quốc hiện có một chỉ số tổng hợp cho chất lượng

thể chế quản trị ở cấp tỉnh, dựa trên các thước đo:

- Kiểm soát tài chính (chi tiêu và thu thuế của chính quyền địa phương),

- Chất lượng hành chính công và cung cấp các dịch vụ công, và

- Duy trì an ninh và bảo vệ quyền sở hữu.

Chỉ số này nằm trong khoảng từ 0 đến 100 và được chuẩn hoá để đạt được mức trung bình của tất cả các tỉnh là 50 mỗi năm, do đó chỉ số này cung cấp một thước đo chất lượng tương đối cho nền hành chính mỗi tỉnh so với mức trung bình của cả nước.

Brazil

Chỉ số chất lượng thể chế của đô thị (IQIM) của Brazil bao gồm trung bình ba

thước đo về phát triển thể chế:

- Mức độ tham gia: cho thấy mức độ tham gia của dân số trong hành chính công;

16

- Năng lực tài chính: đo bằng số lượng tổ chức liên kết giữa các thành phố trong việc cung cấp dịch vụ công, tỷ lệ giữa nợ chính phủ địa phương và doanh thu thuần, và mức tiết kiệm thực trên đầu người;

- Năng lực quản lý: dựa trên việc đánh giá cơ sở dữ liệu hỗ trợ IPTU (thuế tài sản đô thị Brazil do chính quyền thành phố thu) được cập nhật cách đây bao lâu; phần trăm IPTU mặc định; số lượng công cụ quản lý và công cụ lập kế hoạch được chính quyền thành phố sử dụng (Nakabashi và cộng sự, 2013).

Hoa Kỳ và Canada

Viện Fraser không chỉ công bố Chỉ số Tự do Kinh tế cấp quốc gia mà cho cả các bang của Hoa Kỳ và các tỉnh của Canada, gọi tắt là EFNA. Ba thành phần cốt lõi của chỉ số EFNA là quy mô của chính phủ, thu thuế và phân biệt đối xử về thuế, và tự do thị trường lao động. Các tác giả tập hợp chỉ số trên thang điểm từ 0 đến 10, trong đó 10 là mức độ tự do kinh tế cao nhất (Hall và Sobel, 2008).

Italia

Dựa trên WGI, Nifo và Vecchione (2014) phát triển chỉ số chất lượng thể chế

1. Tiếng nói và trách nhiệm giải trình thể hiện việc tham gia vào các cuộc bầu cử công, các hiện tượng của các hiệp hội, số lượng các tổ chức hợp tác xã hội và sự sống động văn hoá được đo lường bằng số sách được xuất bản và được mua trong các hiệu sách;

2. Hiệu quả của chính phủ đo lường sự đóng góp của các cấu trúc kinh tế xã hội ở các tỉnh Italia và năng lực hành chính của các chính quyền địa phương liên quan đến các chính sách về y tế, quản lý chất thải và môi trường;

3. Chất lượng quy định bao gồm thông tin liên quan đến độ mở của nền kinh tế, môi trường kinh doanh, và theo đó là khả năng của các nhà quản trị địa phương trong việc thúc đẩy và bảo vệ hoạt động kinh doanh;

4. Pháp quyền tóm tắt dữ liệu về tội phạm đối với người hoặc tài sản, về năng suất của

thẩm phán, số lượng phiên tòa, mức độ trốn thuế và nền kinh tế ngầm;

5. Tham nhũng tóm tắt dữ liệu về (i) các vi phạm pháp luật về hành chính công; (ii) số lần hệ thống quản trị địa phương bị các cơ quan liên bang giải thể; và (iii) Chỉ số Golden- Picci, đo lường mức độ tham nhũng.

(IQI) cho các tỉnh của Italia gồm năm khía cạnh như mô tả tại Hình 1.3.

Hình 1.3. Năm khía cạnh của chỉ số Chất lượng Thể chế Quản trị (IQI)

Nguồn: Nifo và Vecchione (2014).4

4 Hệ thống quản trị địa phương: Thuật ngữ Italia được sử dụng ở đây là "commissariamento". Khi có bằng chứng cụ thể về vi phạm hành chính hoặc sự can thiệp của mafia (Mafiainfiltration), chính quyền địa phương sẽ bị giải thể và một ủy viên đặc biệt (commissario) được Bộ Nội vụ bổ nhiệm để điều hành đơn vị hành chính này (Nifo và Vecchione, 2014).

17

Trong các ví dụ kể trên, Brazil, Hoa Kỳ, Canada đều là các nhà nước liên bang. Ngay cả Trung Quốc, thực chất là sự kết hợp giữa nhà nước đơn nhất với chế độ ủy trị có điều kiện, tạo ra một khái niệm "chế độ liên bang trên thực tế với đặc trưng Trung Hoa". Duy nhất Italia là một nhà nước đơn nhất (tập quyền), với vị thế tối cao của chính quyền trung ương, trong khi đó các chính quyền địa phương (các đơn vị hành chính cấp dưới) chỉ được chính quyền trung ương ủy thác một số quyền hạn nhất định. Sự khác biệt này khiến các chỉ số chất lượng thể chế giữa các quốc gia có sự khác biệt. Ví dụ, tại Brazil, Hoa Kỳ, Canada và Trung Quốc, thể chế quản trị địa phương bao hàm cả yếu tố năng lực quản lý tài chính, nhưng khía cạnh này không xuất hiện trong bộ chỉ số IQI áp dụng cho các tỉnh và thành phố của Italia.

1.3.3. Ở Việt Nam

Có thể nói, Việt Nam đang có sự phát triển khá bùng nổ về các chỉ số thể chế quản trị địa phương, trong đó nổi bật nhất là Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) cùng Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI). Chính phủ đã ghi nhận hai bộ chỉ số này là “nguồn dẫn chứng phục vụ giám sát tiến trình thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững tới 2030” của Việt Nam, cụ thể là mục tiêu số 16: “Hòa bình, Công lý và Thể chế vững mạnh” (CECODES và cộng sự, 2019)5. Bên cạnh đó, với thể chế nhà nước đơn nhất tương tự như Italia, các chỉ số thành phần PAPI và PCI của Việt Nam có sự tương đồng đáng kể với IQI và không bao hàm khía cạnh năng lực quản lý tài chính của tỉnh/thành phố.

1.3.3.1. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI)

PCI (Provincial Competitiveness Index) là “chỉ số đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh/thành phố của Việt Nam trong việc xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển khối doanh nghiệp dân doanh”, do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) xây dựng cùng sự hợp tác và trợ giúp của Cơ quan hợp tác Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (US-Aid). PCI được công bố thí điểm lần đầu tiên vào năm 2005 cho 47 tỉnh/thành phố của Việt Nam. Từ năm 2006 đến nay, tất cả các tỉnh/thành phố Việt Nam có tên trong bảng xếp hạng PCI. Theo VCCI và USAID (2018), từ năm 2013, PCI gồm 10 chỉ số thành phần (và trên 100 tiêu chí):

(1) Chi phí gia nhập thị trường,

5 Mục tiêu số 16 về phát triển bền vững: “Thúc đẩy xã hội hòa bình và công bằng cho phát triển bền vững, mang lại công lý cho tất cả mọi người và xây dựng thể chế hiệu quả, có trách nhiệm và công bằng ở tất cả các cấp”.

18

(2) Tiếp cận đất đai và Sự ổn định trong sử dụng đất;

(3) Tính minh bạch và tiếp cận thông tin;

(4) Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước;

(5) Chi phí không chính thức;

(6) Cạnh tranh bình đẳng;

(7) Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh;

(8) Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp;

(9) Đào tạo lao động;

(10) Thiết chế pháp lý.

1.3.3.2. Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI)

PAPI (Provincial Governance and Public Administration Performance Index) là kết quả nghiên cứu hợp tác giữa Trung tâm Nghiên cứu Phát triển - Hỗ trợ Cộng đồng (CECODES) cùng Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam. Sau hai năm thử nghiệm, PAPI được triển khai toàn quốc từ năm 2011, với các chỉ số chính được giữ cố định nhằm so sánh kết quả qua từng năm. PAPI được coi là “công cụ theo dõi thực thi chính sách, phản ánh chân thực tiếng nói của người dân về mức độ hiệu quả điều hành, quản lý nhà nước, thực thi chính sách và cung ứng dịch vụ công của chính quyền các cấp”. PAPI là một chỉ số tổng hợp về hiệu quả quản trị và hành chính công của 63 tỉnh/thành phố Việt Nam, bao gồm 6 chỉ số lĩnh vực, 22 chỉ số thành phần và trên 90 chỉ tiêu thành phần. Theo CECODES và cộng sự (2018), sáu chỉ số lĩnh vực bao gồm:

(1) Tham gia của người dân ở cấp cơ sở;

(2) Công khai, minh bạch;

(3) Trách nhiệm giải trình với người dân;

(4) Kiểm soát tham nhũng;

(5) Thủ tục hành chính công; và

(6) Cung ứng dịch vụ công

1.3.3.3. Các chỉ số khác

Bên cạnh PCI và PAPI, Việt Nam còn các loại chỉ số đo chất lượng thể chế

quản trị cấp địa phương trên các khía cạnh khác nhau như:

19

- Chỉ số cải cách hành chính (PAR index): đánh giá, theo dõi hoạt động cải cách hành chính hàng năm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các tỉnh/thành phố (Bộ Nội vụ, 2018).

- Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính (SIPAS): đo lường “sự hài lòng của

người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước” (Bộ Nội vụ

và cộng sự, 2019).

- Chỉ số công lý (JUPI) là một “công cụ định lượng được xây dựng để chuyển tải

ý kiến và đánh giá của người dân về hiệu quả hoạt động của các định chế nhà nước trong

việc đảm bảo công lý và các quyền cơ bản” (Hội Luật gia Việt Nam và cộng sự, 2016).

- Chỉ số sẵn sàng cho chính phủ điện tử (ICT index): có quan hệ chặt chẽ với

cải cách hành chính và dịch vụ công, dù không phải là một loại chỉ số giám sát xã hội

(Bộ Thông tin và Truyền thông và Hội Tin học Việt Nam, 2019).

- Chỉ số đánh giá công tác phòng, chống tham nhũng cấp tỉnh (PACA) (Thanh

tra Chính phủ, 2018)

- Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp huyện, thị và sở, ngành (DDCI): đo lường chất

lượng quản lý, điều hành kinh tế của các cơ quan chính quyền cấp huyện, thị và sở

ngành - những cấp chính quyền có quan hệ trực tiếp với các cơ sở kinh tế trên địa bàn

như hộ kinh doanh, doanh nghiệp, hợp tác xã và các nhà đầu tư (Economica, 2020).

- Chỉ số hài lòng người bệnh (PSI): khảo sát sự hài lòng của bệnh nhân về chất

lượng phục vụ khám, chữa bệnh tại một số bệnh viện công lập (Bộ Y tế và Sáng kiến

Việt Nam, 2019)…

Ngày nay, tại Việt Nam, các chỉ số thể chế quản trị địa phương không chỉ là

mối quan tâm của cả người dân và doanh nghiệp - đối tượng trực tiếp thụ hưởng dịch

vụ từ nhà nước, mà còn được các cấp chính quyền từ trung ương cho đến địa phương

đặc biệt chú trọng. Các báo cáo PCI và PAPI hàng năm phản ánh bức tranh tổng thể về

năng lực cạnh tranh, hiệu quả quản trị, hiệu quả cải cách hành chính của từng

tỉnh/thành phố trên bàn cân so sánh với 62 địa phương còn lại, qua đó nhận thấy điểm

mạnh, điểm yếu của từng tỉnh/thành phố và sự chuyển biến về thể chế quản trị qua thời

gian. Đây là những tư liệu tham khảo cho các quyết định đầu tư, từ đó tạo cơ hội phát

triển kinh tế - xã hội cho địa phương, đồng thời là kênh truyền tải tiếng nói của người

dân và doanh nghiệp, với hi vọng nâng cao chất lượng cuộc sống cũng như cơ hội phát

triển sản xuất - kinh doanh.

Tuy vậy, bên cạnh vấn đề về phương pháp xây dựng có thể còn gây tranh luận,

mỗi chỉ số hiện nay tập trung vào một góc độ đánh giá cụ thể và chưa thể hiện đầy đủ,

20

toàn diện các khía cạnh của chất lượng thể chế quản trị địa phương ở Việt Nam.

1.4. Mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế

1.4.1. Ở cấp quốc gia

Từ những năm 1990, giới học thuật bắt đầu dành nhiều nỗ lực trí tuệ vào việc

nghiên cứu bản chất của mối quan hệ giữa thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế ở cấp

quốc gia (Sihag, 2007). North (1981, 1990) là người khởi xướng với lập luận rằng: bởi

vì sự phát triển khuôn khổ thể chế trong lịch sử đã thúc đẩy sự thay đổi về kinh tế của

các quốc gia, nên nó có thể được xem như là một thành phần quyết định vào các quỹ

đạo khác nhau của sự phát triển, trì trệ hoặc suy giảm. Đến nay, cả hai hướng phát

triển của mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế

đều nhận được sự ủng hộ trong các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm.

1.4.1.1. Chất lượng thể chế quản trị tác động đến tăng trưởng kinh tế

Lý thuyết cho thấy rằng chất lượng thể chế ảnh hưởng đến mức thu nhập thông

qua phân bổ quyền lực chính trị, đảm bảo quyền sở hữu, tạo ra các cơ hội kinh tế, kích

thích sự đổi mới, bồi dưỡng sự tích lũy vốn vật chất và vốn con người…. Do vậy, ý

tưởng cơ bản được nhấn mạnh trong các nghiên cứu trước đây là các thể chế có vai trò

then chốt trong quá trình phát triển kinh tế (Nakabashi và cộng sự, 2013). Một số

lượng đáng kể các nghiên cứu thực nghiệm đã tìm hiểu mối quan hệ giữa chất lượng

thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế, và khi kiểm soát các biến số khác trong mô

hình nghiên cứu, đa số đều tìm ra bằng chứng cho thấy các quốc gia có thể chế tốt hơn

thì sẽ có mức độ và tốc độ tăng trưởng cao hơn các nước có thể chế kém (Hall và

Sobel, 2008).

Nghiên cứu thực nghiệm tiên phong trong lĩnh vực này là của Barro (1991), với

kết luận rằng, sau khi kiểm soát các biến số khác trong mô hình tăng trưởng tiêu

chuẩn, sự bất ổn về chính trị (được đại diện bằng tần suất đảo chính, các vụ ám sát

chính trị, và các cuộc cách mạng) có tác động tiêu cực và có ý nghĩa thống kê đối với

tăng trưởng GDP bình quân đầu người giai đoạn 1965-1985. Tuy vậy, có thể coi

Knack và Keefer (1995) là những người đầu tiên sử dụng thước đo thể chế quản trị là chỉ số tổng hợp từ các bộ dữ liệu (cụ thể ở đây là ICRG6) để đưa vào mô hình hồi quy.

Các tác giả phát hiện chỉ số này dương và có ý nghĩa thống kê trong phương trình tăng

6 Xếp hạng ICRG (International Country Risk Guide) bao gồm 22 biến thuộc 3 nhóm nguy cơ: chính trị, tài chính và kinh tế.

21

trưởng kiểu Barro với việc sử dụng dữ liệu chéo cấp quốc gia.

Ngoài các vấn đề liên quan đến việc đo lường chất lượng thể chế quản trị, các nghiên cứu nhằm kiểm định thực nghiệm mối quan hệ giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng đã gặp phải bài toán "tính đồng thời". Aron (2000) kết luận các nghiên cứu trước đây "thường không giải quyết triệt để các thước đo thể chế nội sinh", do vậy không thể phân biệt liệu thể chế quản trị tốt hơn đã khiến tăng trưởng cao, hay là ngược lại. Vấn đề này không dễ giải quyết, chủ yếu là do không đủ số liệu thống kê về chất lượng thể chế quản trị trước thời kỳ tăng trưởng đang được tìm hiểu. Acemoglu và cộng sự (2001) đã tìm cách sử dụng một biến lịch sử - tỷ lệ tử vong của những người định cư tại các thuộc địa châu Âu (thời kỳ thuộc địa) - làm biến công cụ cho chất lượng thể chế quản trị hiện nay, cụ thể là đại diện cho “nguy cơ bị tước đoạt”. Các tác giả thực hiện kiểm định một mô hình đồng thời, ở đó (i) tăng trưởng sản lượng bình quân đầu người hiện nay bị ảnh hưởng bởi nguy cơ bị tước đoạt và các yếu tố khác; và (ii) nguy cơ bị tước đoạt hiện tại phụ thuộc vào tỷ lệ tử vong của người định cư trong quá khứ và các yếu tố khác. Tác động có ý nghĩa thống kê của tỷ lệ tử vong của người định cư trong việc dự báo tăng trưởng sau này đã ủng hộ việc cho rằng tỷ lệ tử vong thấp khuyến khích một khu định cư người châu Âu đông đúc hơn và tham gia nhiều hơn vào việc hình thành các thể chế tôn trọng quyền sở hữu. Các thể chế ban đầu này được nhận định là tiếp tục tồn tại cho đến nay và ảnh hưởng đến nền kinh tế hiện tại, do đó gián tiếp chứng minh mối liên hệ giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng. Các kết quả này được Rodrik và cộng sự (2004) chứng minh tính vững chắc khi sử dụng tỷ lệ tử vong của người định cư như là một biến công cụ để nắm bắt các biến đổi ngoại sinh trong chỉ số tổng hợp WGI.

Tuy nhiên, trong khi việc công cụ hóa các biến thể chế quản trị dường như có thể giúp giải quyết bài toán đồng thời, thì nó lại gây ra vấn đề quy kết tác động của (các) biến công cụ, và do đó ảnh hưởng tới việc giải thích lý thuyết cho mối quan hệ nhân quả. Glaeser và cộng sự (2004) lập luận rằng biến công cụ được sử dụng (cụ thể là tỷ lệ tử vong của người định cư) thực sự gắn kết chặt chẽ với các thước đo hiện tại về vốn con người hơn là so với các biến thể chế. Bởi vậy, việc sử dụng các biến công cụ vẫn không thể khiến các cuộc tranh luận về quan hệ nhân quả chấm dứt.

22

Mặc dù vậy, một khối lượng nghiên cứu đáng kể và ngày càng tăng vẫn cho rằng chất lượng thể chế quản trị là nguyên nhân nhiều hơn là kết quả của tăng trưởng (Kaufmann, 2005). Đa số các nhà phân tích đồng ý rằng thể chế quản trị tồi (mal governance) là một trong những rào cản chính đối với sự phát triển kinh tế và cải thiện xã hội ở các nước đang phát triển. Theo các nhà nghiên cứu như Narayan và cộng sự (2000) hay Samaratunge và Pillay (2011), thể chế quản trị ở các nước đang phát triển

bị thách thức bởi sự phân tán và chia rẽ xã hội, với bối cảnh có nhiều bên liên quan, phân tán và phân chia lợi ích, sự tập trung hóa, chủ nghĩa độc đoán, thứ bậc và bảo thủ đều cản trở các chủ thể khác tham gia vào quá trình hoạch định cũng như thực hiện chính sách. Bởi vậy, Hope (2009) cho rằng các nước đang phát triển cần tăng cường thể chế quản trị để khắc phục các vấn đề quan trọng như tham nhũng và nghèo đói. Tương tự như vậy, có rất nhiều lập luận cho rằng thể chế quản trị tốt thúc đẩy tăng trưởng và phát triển, từ đó tạo thành một giả định khung trong một loạt các phân tích học thuật, một phần cốt lõi của tư vấn do các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp và lý do cho các điều kiện mới áp đặt đối với các bên nhận viện trợ song phương và đa phương. Tuy vậy, có thể là các phân tích đã tìm ra một liên kết mạnh mẽ như vậy là bởi vì bản chất chúng dựa trên số liệu chéo (Kurtz và Schrank, 2007).

1.4.1.2. Tăng trưởng kinh tế tác động đến thể chế quản trị

Mặc dù các nghiên cứu trước đây chủ yếu cho rằng nhà nước cần cải thiện chất lượng thể chế để đạt được hiệu quả phát triển kinh tế tốt hơn, nhưng một quan điểm khác cho rằng phát triển kinh tế sẽ thúc đẩy cải thiện thể chế, và hướng quan hệ nhân quả này có thể còn quan trọng hơn. Paldam và Gundlach (2008) kiểm định thực nghiệm cả hai hướng quan hệ nhân quả thông qua việc sử dụng biến dân chủ đại diện cho thể chế vĩ mô và biến tham nhũng đại diện cho thể chế vi mô, trong các mô hình lần lượt sử dụng các thước đo thể chế và tăng trưởng kinh tế làm biến phụ thuộc. Sau khi cân nhắc kỹ, hai nhà khoa học thấy rằng việc dự đoán sự gia tăng mức thu nhập dẫn đến cải thiện chất lượng thể chế là phù hợp với dữ liệu hơn so với hướng ngược lại. Với phát hiện này, họ cảnh báo cần thận trọng đối với những đề xuất cải cách thể chế để cải thiện hiệu quả kinh tế trong việc xây dựng các chính sách phát triển.

23

Việc đảo ngược chiều của mối quan hệ nhân quả này cũng có cơ sở lý thuyết của riêng nó. Lý thuyết về thể chế đề xuất rằng phát triển kinh tế có thể nâng cao hiệu quả tương đối của các cơ chế quản trị chính thức (Dixit, 2003). Các nghiên cứu tiếp sau đã đề xuất một số cơ chế mà thông qua đó việc nâng cao hiệu quả kinh tế có thể dẫn đến những thay đổi về chất lượng thể chế quản trị của một quốc gia. Chẳng hạn, cải cách thể chế quản trị toàn diện là một đề xuất tốn kém và đòi hỏi về mặt kỹ thuật, và nhiều nước đang phát triển thiếu nguồn lực tài chính và năng lực hành chính để có thể thành công xúc tiến và thực hiện một gói cải cách như vậy (Rodrik, 2007). Bởi vậy, những người ủng hộ cho một chương trình "thể chế quản trị đủ tốt" (thay thế cho cách tiếp cận "thể chế quản trị tốt" của các cơ quan phát triển đa phương) lập luận rằng sự tăng trưởng có thể được tạo nên bởi những cải cách tương đối nhỏ nhằm khuyến khích đầu tư (Hausmann và cộng sự, 2005), và rằng sự tăng trưởng như vậy có thể cho

phép các nước đang phát triển có thời gian và nguồn lực để thiết lập các thể chế quản trị chất lượng cao hơn ở giai đoạn phát triển kinh tế sau này (Grindle, 2007). Wilson (2016) cũng chỉ ra một số nghiên cứu tình huống lịch sử cho kết luận rằng, trong giai đoạn phát triển ban đầu, chất lượng thể chế quản trị không bắt buộc là điều kiện cho tăng trưởng kinh tế, thay vào đó cải thiện thể chế quản trị có thể là kết quả của tăng trưởng kinh tế. Rõ ràng là nếu sự phát triển kinh tế chịu trách nhiệm chủ yếu cho những tiến bộ lịch sử về thể chế chứ không phải ngược lại, thì chúng ta nên mong đợi những cải cách thể chế (mà không đi kèm với sự chuyển đổi đáng kể của xã hội hoặc nền kinh tế chính trị) chỉ là tác động phụ trong quá trình tìm kiếm chính phủ tốt và phát triển kinh tế (Kurtz và Schrank, 2007).

1.4.2. Ở cấp địa phương

Mặc dù phân tích sử dụng số liệu cấp quốc gia giúp làm sáng tỏ các khía cạnh khác nhau của mối quan hệ giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế, ngày nay có nhiều cuộc tranh luận về ảnh hưởng của chất lượng thể chế quản trị đối với mức thu nhập của các địa phương trong một quốc gia (Pande và Udry, 2005).

Các học giả đã chỉ ra những lợi thế của việc giới hạn phân tích trong một quốc

gia (sử dụng số liệu địa phương cấp vùng/tỉnh):

- Các nghiên cứu về phát triển thể chế và tăng trưởng kinh tế mà sử dụng cơ sở dữ liệu trong một nước có thể giúp gia tăng sự hiểu biết về các vấn đề đã được thảo luận trong các nghiên cứu quốc tế sử dụng số liệu cấp quốc gia (Pande và Udry, 2005).

- Các nguồn gốc của sự thay đổi về thể chế có thể được xác định và so sánh dễ dàng hơn so với phân tích cấp quốc gia bởi vì độ chệch do thiếu biến trong nghiên cứu ở phạm vi một nước có xu hướng thấp hơn so với nghiên cứu giữa các nước (Nakabashi và cộng sự, 2013).

- Vấn đề so sánh dữ liệu trong một quốc gia trở nên ít nghiêm trọng hơn là giữa các quốc gia. Trong khi việc so sánh các đặc điểm về thể chế giữa các quốc gia có thể khó khăn do sự đa dạng về kinh nghiệm lịch sử, các chuẩn mực văn hoá và bối cảnh chính trị, thì dữ liệu của các địa phương có thể kiểm soát đối với các bối cảnh đó và tập trung vào các khía cạnh cụ thể của thể chế quản trị cũng như mối quan hệ mang tính thời điểm với tăng trưởng (Hasan và cộng sự, 2009).

24

- Sử dụng địa phương như là một đơn vị phân tích cho phép sử dụng các phương pháp dữ liệu mảng mạnh hơn các phương pháp chuỗi thời gian đơn nhất, đặc

biệt là trong điều kiện các nước đang phát triển có chuỗi dữ liệu thời gian ngắn (Wilson, 2016).

Bởi vậy, các nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ giữa chất lượng thể chế và mức thu nhập có xu hướng mang lại những kết quả đáng tin cậy hơn nhờ sử dụng dữ liệu trong một quốc gia (Nakabashi và cộng sự, 2013). Trên cơ sở những lập luận này, các nghiên cứu về mối quan hệ giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế ở cấp địa phương được thực hiện cả ở các nước phát triển và đang phát triển, với một số ví dụ dưới đây.

Hall và Sobel (2008) sử dụng Chỉ số Tự do Kinh tế của Bắc Mỹ (EFNA) để kiểm tra hiệu ứng của thể chế đối với sự khác biệt giữa các bang Hoa Kỳ về tinh thần khởi nghiệp, thu nhập và tăng trưởng kinh tế thông qua mô hình tự hồi quy theo không gian (SAR) bậc 1 và mô hình sai số theo không gian (SEM). Các kết quả của nghiên cứu này khẳng định rằng các thể chế phù hợp với chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, hoặc "tự do kinh tế", dẫn tới các hoạt động kinh doanh có năng suất cao hơn, từ đó tạo ra thu nhập bình quân đầu người cao hơn và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn.

Hasan và cộng sự (2009) sử dụng dữ liệu mảng của các tỉnh Trung Quốc để nghiên cứu vai trò của các thể chế pháp lý, tài chính và chính trị đối với tốc độ tăng trưởng. Các tác giả phát triển thước đo cho các loại hình thể chế này và đưa vào mô hình hồi quy tăng trưởng cùng các biến kiểm soát thường thấy trong các nghiên cứu về tăng trưởng (hiệu ứng hội tụ, đầu tư vốn con người và độ mở của nền kinh tế địa phương). Kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng môi trường pháp lý, nhận thức về quyền sở hữu, sự phát triển của thị trường tài chính và đa nguyên chính trị có liên quan đến tăng trưởng mạnh mẽ hơn ở các tỉnh của Trung Quốc.

Nakabashi và cộng sự (2013) sử dụng chỉ số chất lượng thể chế đô thị (IQIM) và dựa trên hồi quy 2SLS để đo lường mối quan hệ giữa chất lượng thể chế và GDP bình quân đầu người của các đô thị Brazil. Các kết quả kinh tế lượng cho thấy sự khác biệt về thể chế giữa các đô thị đóng vai trò rất quan trọng trong việc giải thích sự đa dạng về thu nhập bình quân đầu người giữa các đô thị Brazil.

25

Wilson (2016) sử dụng chỉ số tổng hợp cho chất lượng thể chế quản trị cấp tỉnh và các kiểm định Granger trên dữ liệu mảng để tìm hiểu mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế ở cấp tỉnh tại Trung Quốc trong thời kỳ cải cách. Những phát hiện của tác giả chứng minh rằng sự cải tiến trong thể chế quản trị chính thức không phải là nhân tố chính cho sự tăng trưởng nhanh của các địa

phương Trung Quốc và ủng hộ đề xuất rằng cải cách thể chế quản trị là kết quả chứ không phải là nguyên nhân của sự tăng trưởng kinh tế.

1.5. Nghiên cứu về vai trò của thể chế tại Việt Nam

Trong những năm gần đây, thể chế là chủ đề nghiên cứu, bàn luận thời sự của cả giới học thuật và chính sách tại Việt Nam. Quốc gia này cung cấp một bối cảnh nghiên cứu điển hình thú vị để tìm hiểu tác động của chất lượng thể chế quản trị đối với các biến đổi kinh tế - xã hội, trong đó có tăng trưởng kinh tế. Việt Nam đã rất thành công trong việc đạt được tăng trưởng kinh tế khá cao trong suốt 30 năm qua, nhưng thành công này đang gặp nhiều thách thức (Nguyễn Việt Cường và cộng sự, 2021). Rất nhiều công trình đã khẳng định thể chế yếu kém là rào cản của tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện nay. Các nghiên cứu này có thể chia thành các nhóm sau:

Thứ nhất, các nghiên cứu mang tính chuyên gia tư vấn, thường dựa trên các chỉ số thể chế quản trị cấp quốc gia để so sánh chất lượng thể chế của Việt Nam với thế giới, hoặc dựa trên kinh nghiệm chuyên gia để phân tích những mặt yếu kém về thể chế của Việt Nam, từ đó nhận định mức độ chất lượng thể chế của Việt Nam chưa cao và cảnh báo về việc thể chế có thể kìm hãm sự tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia (Lê Quốc Lý, 2014; Nguyễn Văn Phúc, 2013; Trần Du Lịch, 2013; Võ Trí Thành, 2014). Các nghiên cứu này trên thực tế chưa xây dựng cơ sở lý thuyết và chưa có kiểm chứng thực nghiệm cho bối cảnh Việt Nam.

Thứ hai, các nghiên cứu lượng hóa tác động riêng lẻ của một yếu tố đại diện (phần nào) cho chất lượng thể chế đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam, ví dụ như nghiên cứu về tác động của tham nhũng tới tăng trưởng kinh tế (Nguyễn Ngọc Anh và cộng sự, 2016), tác động của sự gia nhập thị trường, bảo đảm quyền tài sản và các cơ chế chống tham nhũng tới tăng trưởng (Bùi Thành Trung và Diệp Gia Luật, 2017), hay tác động của minh bạch và kiểm soát tham nhũng tới tăng trưởng (Nguyễn Thanh Hùng và cộng sự, 2020). Các nghiên cứu này sử dụng mô hình tăng trưởng nhưng mới nhìn nhận vấn đề thể chế trên những góc độ riêng lẻ, thiếu tính tổng hợp.

26

Thứ ba, các nghiên cứu lượng hóa tác động của chất lượng thể chế đối với việc thu hút FDI hoặc đầu tư tư nhân, đối với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp hay gia tăng năng suất lao động… (Diệp Gia Luật và Bùi Thành Trung, 2019; Malesky và cộng sự, 2015; Nguyễn Văn Thắng và cộng sự, 2013; Phạm Thế Anh và Nguyễn Đức Hùng, 2014; Phạm Thị Minh Lý, 2011; Sử Đình Thành và Bùi Thị Mai Hoài, 2017; Sử Đình Thành và cộng sự, 2019; Trần Quang Tuyến và cộng sự, 2016; Trần Thị Bích và cộng sự, 2009). Các công trình này dừng ở mức độ nghiên cứu một

kênh truyền dẫn ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến sự tăng trưởng của nền kinh tế và chưa dựa trên một mô hình tăng trưởng kinh tế.7

Cuối cùng, các nghiên cứu gần gũi nhất với đề tài này là công trình của Lê Quang Cảnh và Đỗ Tuyết Nhung (2018) và Nguyễn Việt Cường và cộng sự (2021). Nhưng cả hai nghiên cứu này lại thiếu vắng việc xây dựng một chỉ số thể chế quản trị tổng hợp, từ đó chưa phân tích đầy đủ tác động tổng thể cũng như của từng khía cạnh thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng cũng chưa được kiểm định rõ ràng trong các nghiên cứu này. Đồng thời, phương pháp đánh giá ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với tăng trưởng kinh tế mà các nghiên cứu này sử dụng dường như chưa thực sự kiểm soát vấn đề nội sinh của các yếu tố thể chế.

1.6. Kết luận Chương 1

Một lượng đáng kể và ngày càng tăng các công trình thực nghiệm đã tìm cách chứng minh mối quan hệ kỳ vọng giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng. Những công trình thực nghiệm như vậy thường liên quan đến việc áp dụng hồi quy sử dụng số liệu cấp quốc gia, trong đó liên kết tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người (là biến phụ thuộc) với các thước đo thể chế quản trị (là các biến giải thích), trong khi kiểm soát các biến khác mà cũng có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người. Mặc dù vậy, loại nghiên cứu thực nghiệm này thường bị chỉ trích vì những điểm yếu về phương pháp luận của chúng. Hai vấn đề được thảo luận nhiều nhất là việc đo lường chất lượng thể chế quản trị và hướng của mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng thể chế và hiệu quả kinh tế.

7 Bên cạnh đó, một chiều hướng nghiên cứu ngược lại về tác động của tăng trưởng kinh tế đến một khía cạnh thể chế quản trị, sử dụng số liệu của Việt Nam, cũng xuất hiện trong thời gian gần đây. Ví dụ, Bai và cộng sự (2013) nghiên cứu ảnh hưởng của sự tăng trưởng trong khu vực doanh nghiệp tới việc giảm mức độ tham nhũng của chính quyền cấp tỉnh tại Việt Nam, và kết luận rằng các quốc gia có thể không cần phải loại bỏ tận gốc tham nhũng để thúc đẩy tăng trưởng. Theo đó, các tác giả này cho rằng khi các nước nghèo phát triển, tham nhũng có thể “tự giảm bớt”, và chúng thể hiện một loại phản hồi tích cực giữa tăng trưởng kinh tế và các thể chế tốt.

27

Những nhược điểm trong đo lường chất lượng thể chế quản trị cấp quốc gia có thể là một nguyên nhân đưa đến sự phát triển các nghiên cứu về chất lượng thể chế quản trị cấp địa phương, đặc biệt ở góc độ đo lường thể chế qua những bộ chỉ số thể chế quản trị cấp địa phương. Tuy vậy, nghiên cứu liên quan đến mối quan hệ giữa hai biến này sử dụng cơ sở dữ liệu cấp địa phương mới chỉ ở bước đầu (Nakabashi và cộng sự, 2013). Nhìn chung, đa phần các nghiên cứu đưa đến kết luận là chất lượng

thể chế quản trị có vai trò tích cực đối với tăng trưởng kinh tế cả trong ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên, một số phát hiện về hướng ngược lại của mối quan hệ giữa thể chế quản trị với tăng trưởng cho thấy nhu cầu cần thêm nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực này. Bên cạnh vấn đề phương pháp kiểm định, sự mâu thuẫn về hướng của mối quan hệ có thể xuất phát từ thước đo chất lượng thể chế quản trị được sử dụng trong nghiên cứu hoặc bối cảnh nghiên cứu cụ thể.

Do vậy, có thể nói thước đo chất lượng thể chế và mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế ở cấp địa phương vẫn là mối quan tâm của giới học thuật trên thế giới. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam, hiện chưa có nghiên cứu nào đề cập đến việc xây dựng một thước đo thể chế quản trị địa phương, vừa phù hợp với đặc điểm thu thập số liệu, vừa đảm bảo bao hàm đầy đủ các khía cạnh của thể chế quản trị, từ đó làm cơ sở cho việc tìm hiểu mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng thể chế quản trị với tăng trưởng kinh tế, cũng như lượng hóa tác động của chất lượng thể chế quản trị tới tăng trưởng. Các vấn đề nêu trên cho thấy khoảng trống nghiên cứu trên bình diện quốc tế cũng như ở Việt Nam.

Các biến kiểm soát (vốn vật chất, lao động, vốn con người…)

Chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh

Tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh

Các khía cạnh của thể chế quản trị: - Trách nhiệm giải trình - Minh bạch - Kiểm soát tham nhũng - Chất lượng quy định - Pháp quyền....

Từ kết luận này, khung nghiên cứu đề xuất được trình bày tại Hình 1.4.

Hình 1.4. Khung nghiên cứu của luận án

Nguồn: Đề xuất của tác giả

28

CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Xây dựng chỉ số chất lượng thể chế quản trị

2.1.1. Lý do xây dựng chỉ số chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh

Như đã trình bày ở Chương 1, từ những năm cuối thế kỷ XX, do tầm quan trọng ngày càng cao của thể chế nói chung và thể chế quản trị nói riêng, các cơ quan đa phương, các viện nghiên cứu và các tổ chức phi chính phủ.... đã công bố rất nhiều loại chỉ số thể chế quản trị ở cấp quốc gia. Sang đầu thế kỷ XXI, nhiều nước đã phát triển những bộ chỉ số thể chế quản trị ở cấp địa phương để có cái nhìn sâu sát hơn về chất lượng thể chế quản trị ở từng đơn vị hành chính của nước đó. Cũng có thể nhận thấy rằng, các chuỗi số liệu thể chế quản trị cấp địa phương ưu việt hơn cấp quốc gia bởi sự thống nhất hơn về các yếu tố văn hóa - xã hội và nền tảng kinh tế - chính trị, sự giản đơn hơn về quy trình thực hiện thu thập dữ liệu, do đó giúp khắc phục đa số các nhược điểm của thước đo thể chế quản trị cấp quốc gia.

Ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy rất rõ sự phát triển của các loại chỉ số thể chế quản trị địa phương, ví dụ như PAPI, PCI, PAR index, JUPI, ICT index, SIPAS, PACA... Một số loại do các cơ quan nhà nước xây dựng và thu thập dữ liệu như Bộ Nội vụ, Bộ Thông tin và Truyền thông, Thanh tra Chính phủ. Nhưng hai chỉ số nổi bật nhất là PCI và PAPI, với phương pháp xây dựng khoa học và quy trình thu thập dữ liệu có thể đảm bảo tính khách quan, là do các tổ chức độc lập thực hiện, như VCCI (một tổ chức quốc gia tập hợp và đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, chủ lao động và các hiệp hội doanh nghiệp ở Việt Nam), CECODES (một tổ chức nghiên cứu tư vấn phi chính phủ), với sự hỗ trợ, phối hợp của các tổ chức quốc tế như US-Aid, UNDP.

Tuy vậy, bên cạnh vấn đề về phương pháp xây dựng hay quá trình thu thập dữ liệu có thể còn gây tranh luận, mỗi chỉ số hiện nay chỉ tập trung vào một góc độ đánh giá cụ thể và chưa thể hiện đầy đủ, toàn diện các khía cạnh thể chế quản trị địa phương ở Việt Nam. Ví dụ với hai bộ chỉ số nổi bật nhất, như thể hiện tại Hình 2.1, PAPI không đề cập đến khía cạnh chất lượng chính sách nhằm đảm bảo môi trường kinh doanh và thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, mặc dù đây là vai trò không thể thiếu của khu vực công. Trong khi đó, PCI hoàn toàn thiếu vắng khía cạnh trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương, vốn là thành phần không thể thiếu của các chỉ số WGI và IQI. Chi tiết về các chỉ số thành phần của PAPI và PCI xem tại Phụ lục 1 và 2.

29

Mặt khác, cho đến nay, các nghiên cứu về vai trò của chất lượng thể chế quản trị đối với sự phát triển kinh tế và doanh nghiệp thường chỉ sử dụng một số chỉ số thành phần của PAPI hoặc PCI. Việc đưa toàn bộ các chỉ số này vào một mô hình hồi quy

cũng khó khả thi do các chỉ số thành phần có thể tương quan với nhau, đặc biệt là với các chỉ số của PAPI (Nguyễn Việt Cường và cộng sự, 2021).

Hình 2.1. Các thước đo chất lượng thể chế cấp tỉnh điển hình tại Việt Nam

Nguồn: CECODES và cộng sự (2018), VCCI và USAID (2018)

Bởi vậy, nhu cầu trước hết đặt ra cho nghiên cứu này là xây dựng một chỉ số đảm bảo đầy đủ các khía cạnh của thể chế quản trị, đồng thời hệ số tương quan giữa các chỉ số thành phần phải xấp xỉ 0 để có thể đồng thời đưa các chỉ số này vào một mô hình hồi quy. Dựa trên thước đo thể chế quản trị đã được xây dựng, chúng ta có thể phân tích tổng quan về nền thể chế quản trị của các tỉnh/thành phố Việt Nam giai đoạn vừa qua, cũng như đánh giá vai trò của chất lượng thể chế quản trị đối với tăng trưởng kinh tế địa phương, từ đó có những gợi ý chính sách phù hợp nhằm nâng cao chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh.

2.1.2. Phương pháp xây dựng chỉ số chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh

30

Dựa trên khái niệm và các thước đo thể chế quản trị địa phương trên thế giới và ở Việt Nam như đã trình bày tại Chương 1, nghiên cứu có thể bắt đầu với việc đề xuất các khía cạnh cụ thể của thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh Việt Nam. Từ đó, các chỉ số cấp tỉnh hiện hành của Việt Nam được phân tích và chọn lọc ra các chỉ số đáng tin cậy (về phương pháp thu thập dữ liệu) và thực sự thể hiện chất lượng thể chế quản trị, để lập nên một bộ số liệu đa dạng gồm nhiều biến (chỉ số thành phần) liên quan đến thể chế quản trị từ các nguồn dữ liệu khác nhau. Từ bộ số liệu này, dựa trên cách tiếp cận của Givens (2010), bước tiếp theo của nghiên cứu là ước lượng mô hình nhân tố để đưa tập hợp các biến về một số nhân tố cơ bản (tương đương với các chỉ số nội dung) và độc lập với nhau, đặt tên và gán trọng số cho từng nhân tố trước khi tổng hợp

về một chỉ số thống nhất đo lường chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh của Việt Nam. Hình 2.2 tóm tắt quy trình xây dựng chỉ số chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh (PGI).

Hình 2.2. Các bước trong quy trình xây dựng chỉ số thể chế quản trị cấp tỉnh

Nguồn: Đề xuất của tác giả dựa trên cách tiếp cận của Givens (2010)

Việc ước lượng mô hình nhân tố ở đây xuất phát từ thực tế là dựa vào một thước đo đơn lẻ và gộp chung tất cả các khía cạnh về chất lượng thể chế quản trị thì không thể ước lượng được đóng góp kinh tế cận biên của các khía cạnh thể chế quản trị khác nhau và có thể làm mờ đi các điểm mạnh và điểm yếu của một tỉnh. Thay vào đó, mục đích của nghiên cứu là đưa tất cả các nhân tố (chỉ số nội dung) vào mô hình để ước lượng/kiểm định mối quan hệ của chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế. Việc sử dụng mô hình nhân tố cho phép phân rã thể chế quản trị thành các thành phần khác biệt (và không tương quan với nhau) để có thể cùng đưa vào mô hình hồi quy, nhờ đó cho phép chúng ta có thêm thông tin phân tích trong nghiên cứu.

31

Với kỳ vọng sử dụng chỉ số thành phần của các thước đo thể chế quản trị cấp tỉnh dựa trên khảo sát ý kiến (hoặc đánh giá nhận thức) hiện nay của Việt Nam, cụ thể là của PCI và PAPI, nghiên cứu này có thể xây dựng được chuỗi số liệu cho 63 tỉnh/thành phố Việt Nam giai đoạn 2011-2018. Chỉ số này nằm trong khoảng từ 0 đến 10 và được chuẩn hoá để có đạt được mức trung bình của tất cả các tỉnh xấp xỉ là 5, do đó chỉ số này cung cấp một thước đo chất lượng tương đối cho thể chế quản trị của mỗi tỉnh so với mức trung bình của cả nước. Trên cơ sở các chỉ số thể chế quản trị được xây dựng, nghiên cứu sẽ tiếp tục được triển khai theo hướng phân tích thống kê trong tương quan so sánh với PCI và PAPI, để tìm hiểu thực trạng chất lượng thể chế quản trị của các tỉnh/thành phố Việt Nam giai đoạn 2011-2018.

2.2. Phân tích thống kê mô tả

Trên cơ sở bộ dữ liệu về chất lượng thể chế quản trị được hình thành theo

phương pháp xây dựng chỉ số nêu tại mục 2.1, các phân tích thống kê mô tả qua hệ

thống bảng và đồ thị được sử dụng nhằm đánh giá thực trạng chất lượng thể chế quản

trị ở địa phương cấp tỉnh ở Việt Nam.

Đồng thời, phương pháp thống kê mô tả cũng được sử dụng nhằm đánh giá mối

quan hệ tương quan giữa chất lượng thể chế quản trị cùng một số biến số kinh tế - xã

hội khác với tình hình tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh Việt Nam.

2.3. Kiểm định quan hệ nhân quả

2.3.1. Lý do cần kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế

Như đã nhắc đến ở Chương 1, từ cuối thế kỷ XX giới học giả bắt đầu quan tâm nghiên cứu bản chất của mối quan hệ giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế ở cấp quốc gia (Sihag, 2007). Đến nay, cả hai hướng phát triển của mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế đều nhận được sự ủng hộ trong các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm. Đặc biệt, các nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ giữa chất lượng thể chế và tăng trưởng kinh tế ở cấp địa phương dường như mang lại những kết quả đáng tin cậy hơn, với rất nhiều công trình được thực hiện cả ở các nước phát triển và đang phát triển. Kết quả của một số nghiên cứu ủng hộ chiều tác động từ chất lượng thể chế tới tăng trưởng (Hall và Sobel, 2008; Hasan và cộng sự, 2009), một số cho thấy chiều tác động ngược lại (Bai và cộng sự, 2013; Wilson, 2016), và một số lại chứng minh tính nội sinh của chất lượng thể chế trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế (Nakabashi và cộng sự, 2013).

32

Tại Việt Nam, các công trình của Lê Quang Cảnh và Đỗ Tuyết Nhung (2018) và Nguyễn Việt Cường và cộng sự (2021) có thể coi là hai nghiên cứu tiên phong về ảnh hưởng trực tiếp của chất lượng thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các nghiên cứu này còn một số hạn chế như: chưa kiểm định rõ ràng mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng thể chế và tăng trưởng, chưa phân tích đầy đủ tác động tổng thể cũng như của từng khía cạnh thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế, đồng thời phương pháp đánh giá tác động của chất lượng thể chế đối với tăng trưởng kinh tế trong các nghiên cứu này dường như chưa thật sự kiểm soát vấn đề nội sinh của các yếu tố thể chế. Bên cạnh đó, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng các chỉ số thể chế như PAPI hay PCI được xây dựng dựa trên nhận thức của người dân nên có thể bị ảnh hưởng bởi các kết quả kinh tế (Nguyễn Việt Cường và cộng sự, 2021).

Như vậy, xét cả góc độ lý thuyết và thực nghiệm, khả năng xảy ra quan hệ nhân

quả lẫn nhau giữa các biến số được quan tâm là rất lớn và điều này có thể ảnh hưởng

trực tiếp đến việc lựa chọn phương pháp ước lượng nhằm giải quyết mục tiêu nghiên

cứu cuối cùng. Bởi vậy, yêu cầu tiếp theo đặt ra cho nghiên cứu này là kiểm định lại

mối quan hệ giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế địa phương cấp

tỉnh tại Việt Nam, từ đó khẳng định tính nội sinh (có thể có) của chất lượng thể chế

trong một mô hình tăng trưởng kinh tế. Từ kết quả này, mức độ ảnh hưởng giữa chất

lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế ở cấp tỉnh tại Việt Nam được đo lường

bằng các mô hình và phương pháp hồi quy phù hợp.

2.3.2. Phương pháp kiểm định quan hệ nhân quả

Theo cách tiếp cận của Wilson (2016), các kiểm định quan hệ nhân quả

Granger dạng mảng không đồng nhất (heterogeneous panel Granger causality tests) sẽ

được sử dụng để tìm hiểu mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng thể chế quản trị và

tăng trưởng kinh tế ở cấp tỉnh Việt Nam giai đoạn 2011-2018.

Mô hình được sử dụng trong kiểm định là mô hình tự hồi quy vectơ (VAR) dạng

(cid:18)

(cid:24)

mảng không đồng nhất với các tỉnh/thành phố i = 1, …, N và thời gian t = 1, …, T.

((cid:16)) ln ((cid:5)(cid:6),(cid:8)) = (cid:11)(cid:12),(cid:6) + (cid:14) (cid:15)(cid:12),(cid:6)

(cid:16)(cid:19)(cid:12)

((cid:21)) (cid:14) (cid:20)(cid:12),(cid:6) (cid:21)(cid:19)(cid:12)

(cid:18)

(cid:24)

ln ((cid:5)(cid:6),(cid:8)(cid:17)(cid:16)) + ln ((cid:22)(cid:6),(cid:8)(cid:17)(cid:21)) + (cid:23)(cid:12),(cid:6),(cid:8)

((cid:21)) ln ((cid:22)(cid:6),(cid:8)) = (cid:11)(cid:25),(cid:6) + (cid:14) (cid:15)(cid:25),(cid:6)

(cid:21)(cid:19)(cid:12)

((cid:16)) (cid:14) (cid:20)(cid:25),(cid:6) (cid:16)(cid:19)(cid:12)

ln ((cid:22)(cid:6),(cid:8)(cid:17)(cid:21)) + ln ((cid:5)(cid:6),(cid:8)(cid:17)(cid:16)) + (cid:23)(cid:25),(cid:6),(cid:8)

Trong đó, Yi,t và Pi,t lần lượt thể hiện mức thu nhập và chất lượng thể chế quản

(cid:25) . Tính không đồng nhất giữa các tỉnh được đưa vào

trị của tỉnh/thành phố thứ i vào năm thứ t, αi là hiệu ứng cấp tỉnh và εi,t là phần dư phân

phối chuẩn và độc lập với trung bình bằng 0 và phương sai không đồng nhất hữu hạn (finite heterogeneous variances) (cid:26)(cid:27),(cid:6) mô hình bằng cách cho phép các hệ số γ(k) và β(k) thay đổi giữa các tỉnh/thành phố, G

và H lần lượt là chiều dài độ trễ của Y và P được lấy trong kiểm định.

Trước khi tiến hành kiểm định Granger, hai kiểm định ban đầu cần được thực

hiện để xác định định dạng mô hình, bao gồm kiểm định tính dừng (stationary) và

kiểm định đồng tích hợp đối với các biến Y và P. Sau đó, hai giả thuyết cần được kiểm

33

định như sau:

((cid:12))

((cid:24)) , … , (cid:20)(cid:12),(cid:6)

((cid:12))

H1: Sự cải thiện chất lượng thể chế quản trị tác động đến tăng trưởng kinh tế, ) lần lượt bằng 0 với mọi khác 0 với ít nhất một tỉnh). tương ứng với giả thuyết các hệ số (cid:20)(cid:12),(cid:6) = ((cid:20)(cid:12),(cid:6) tỉnh/thành phố (đối lập với giả thuyết (cid:20)(cid:12),(cid:6)

((cid:18)) , … , (cid:20)(cid:25),(cid:6) khác 0 với ít nhất một tỉnh).

H2: Tăng trưởng kinh tế được nâng cao sẽ dẫn đến việc cải thiện chất lượng thể ) lần lượt bằng 0

chế quản trị, tương ứng với giả thuyết các hệ số (cid:20)(cid:25),(cid:6) = ((cid:20)(cid:25),(cid:6) với mọi tỉnh/thành phố (đối lập với giả thuyết (cid:20)(cid:25),(cid:6)

Để ước lượng mô hình trong phương trình ở trên và kiểm định hai giả thuyết này, theo cách tiếp cận của Wilson (2016), các kiểm định nhân quả Granger được thực hiện cho từng đơn vị không gian (tỉnh/thành phố) một cách độc lập và xây dựng các thống kê kiểm định dựa trên mức trung bình của các thống kê kết quả Wald. Đối với mỗi giả thuyết, chúng ta có hai báo cáo thống kê kiểm định. Đầu tiên là thống kê Wald trung bình chuẩn hóa xấp xỉ. Thống kê này hội tụ đến phân phối chuẩn theo tiêu chuẩn khi số đơn vị không gian (cid:29) tiến tới vô cùng và các giá trị p (p value) được báo cáo dựa trên sự phân phối tiệm cận này. Kiểm định thứ hai dựa trên thống kê Wald trung bình (không chuẩn hóa), và báo cáo các giá trị (cid:30) từ một thủ tục khởi động khối (block bootstrap) do Dumitrescu và Hurlin (2012) gợi ý để cho phép tính đến sự phụ thuộc theo không gian có thể xảy ra. Các kiểm định này có các tính chất thống kê tốt, rất phù hợp với các nghiên cứu có chuỗi thời gian ngắn.

Bên cạnh kiểm định Granger, thủ tục kiểm định tính nội sinh Durbin-Wu- Hausman cũng được tiến hành để khẳng định kết luận về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chất lượng thể chế quản trị. Những kiểm định này dựa trên thực tiễn nhiều nghiên cứu sử dụng hồi quy biến công cụ (IV) đều cần kiểm định Durbin-Wu- Hausman, nhằm kiểm tra sự hiện diện của biến nội sinh bằng cách so sánh ước lượng bình phương nhỏ nhất (OLS) của các tham số cấu trúc trong hồi quy IV với bình phương tối thiểu hai giai đoạn (2SLS). Theo Davidson và MacKinnon (1993), kiểm định Durbin-Wu-Hausman thường được sử dụng để quyết định có nên sử dụng phân tích IV thay cho với phân tích OLS tiêu chuẩn hay không, bởi phân tích IV sẽ có độ lệch thấp hơn khi thực sự tồn tại biến nội sinh trong hồi quy IV.

Các tình huống kết quả kiểm định nhân quả có thể xảy ra bao gồm:

34

- Mối quan hệ nhân quả một chiều từ chất lượng thể chế quản trị đến tăng trưởng: Trong trường hợp này, nghiên cứu có thể tiếp tục triển khai bằng việc đi sâu tìm hiểu tác động của chất lượng thể chế quản trị trong khi kiểm soát các nguồn tăng trưởng thông thường và tính đến sự không đồng nhất giữa các đơn

vị không gian (tỉnh/thành phố) và các hiệu ứng thời gian bằng cách sử dụng mô hình các hiệu ứng cố định và các hiệu ứng ngẫu nhiên.

- Mối quan hệ nhân quả một chiều từ tăng trưởng đến chất lượng thể chế quản trị: Trong trường hợp này, theo cách tiếp cận của Wilson (2016), nghiên cứu có thể đi sâu hơn vào các khía cạnh tăng trưởng theo nhóm ngành, theo khu vực địa lý, ... để tìm hiểu tác động của tăng trưởng đến từng chỉ số thành phần trong thước đo thể chế quản trị.

- Mối quan hệ nhân quả hai chiều (hai biến nội sinh và tác động lẫn nhau): Trong trường hợp này, các phương pháp hồi quy GMM cho mô hình số liệu mảng động với biến công cụ của Arellano và Bond (1991) có thể được áp dụng, nhằm giải quyết vấn đề nội sinh khi ước lượng tác động của thể chế tới tăng trưởng kinh tế. Phương pháp này rất phù hợp trong trường hợp dữ liệu mảng có số đơn vị thời gian nhỏ hơn số đơn vị không gian nhiều lần.

- Không có quan hệ giữa hai biến: Trong trường hợp này, một nghiên cứu định tính (dựa trên phỏng vấn sâu các chuyên gia) cần được tiến hành để khám phá sâu hơn bản chất của thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam, qua đó đưa ra lời giải hợp lý cho hiện tượng này.

2.4. Phân tích hồi quy

2.4.1. Mô hình ước lượng

Hầu hết mô hình ước lượng trong nghiên cứu về tác động của chất lượng thể chế đối với tăng trưởng kinh tế đều xuất phát từ nền tảng của lý thuyết tăng trưởng Tân cổ điển mở rộng, với biến thể chế là một yếu tố tác động tới tăng trưởng. Xuất phát từ mô hình của Nakabashi và cộng sự (2013), bổ sung nhóm biến kiểm soát là các tham số cơ cấu đặc thù của nền kinh tế chuyển đổi (Ng và Leung, 2004; Trần Thọ Đạt và Đỗ Tuyết Nhung, 2008) và mức chi tiêu ngân sách của các tỉnh/thành phố (Lê Quang Cảnh và Đỗ Tuyết Nhung, 2018), chúng ta có hàm sản xuất Cobb-Douglass tuyến tính mở rộng đã lấy logarit hai vế như sau:

ln(cid:5)(cid:31)(cid:6)(cid:8) = (cid:11)(cid:6) + (cid:20) ln!(cid:31)(cid:6)(cid:8) + (cid:20)(cid:18)ln"(cid:31)(cid:6)(cid:8) + #ln (cid:22)(cid:6)(cid:8) + (cid:15)$(cid:6)(cid:8) + %(cid:6)(cid:8)

Trong đó:

YL là GRDP (tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh) bình quân lao động hiệu quả

KL là mức vốn vật chất bình quân lao động hiệu quả

35

GL là mức chi tiêu chính phủ bình quân lao động hiệu quả

P là một vectơ các chỉ số chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh (PGI) được xây dựng theo phương pháp tại mục 2.1.

Z là một vectơ các biến tham số cơ cấu đặc thù của nền kinh tế chuyển đổi, bao gồm: FDI là độ mở của nền kinh tế, AGR là tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế, GOV là tỷ trọng của chi tiêu ngân sách của chính quyền địa phương trên GRDP.

Tất cả các biến đều thay đổi theo tỉnh/thành phố (i) và theo năm (t).

Trong mô hình này, do hạn chế về thước đo vốn con người của các tỉnh/thành phố Việt Nam trong giai đoạn 2011-2018, biến số lao động hiệu quả được sử dụng để thay thế cho cả số lao động và mức vốn con người trong mô hình gốc của Nakabashi và cộng sự (2013). Các tham số cơ cấu đặc thù của nền kinh tế chuyển đổi là khá quan trọng đối với tăng trưởng trong ngắn hạn, điều này đã được chứng minh bởi Trần Thọ Đạt và Đỗ Tuyết Nhung (2008). Ngoài ra biến mức chi tiêu chính phủ bình quân lao động hiệu quả được đưa vào để kiểm soát tốt hơn các hiệu ứng tăng trưởng trong ngắn hạn, đặc biệt ở nền kinh tế có quy mô nhỏ và còn phụ thuộc lớn vào khu vực công như Việt Nam (Lê Quang Cảnh và Đỗ Tuyết Nhung, 2018).

Tùy theo mối quan hệ giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế, các tham số tương ứng với các biến giải thích của phương trình trên sẽ được ước lượng bằng các mô hình hiệu ứng cố định, hay hiệu ứng ngẫu nhiên, hay mô hình GMM sử dụng biến công cụ, sử dụng dữ liệu mảng của 63 tỉnh/thành phố Việt Nam giai đoạn 2011-2018 để tìm được các hệ số δ tương ứng từng chỉ số thành phần của PGI.

Nghiên cứu có thể phát triển thêm ở các góc độ phân nhóm các tỉnh/thành phố Việt Nam theo quy mô, theo vùng kinh tế…để tìm hiểu sâu hơn tác động của chất lượng thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh ở Việt Nam.

2.4.2. Biến số và nguồn số liệu

2.4.2.1. Tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế thường được hiểu là mức tăng thu nhập thực tế của một quốc gia, một vùng hay một ngành kinh tế. Trong nghiên cứu này, biến Y được xây dựng trên chuỗi số liệu GRDP (tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh), tính theo giá so sánh 2010 của 63 tỉnh/thành phố trong giai đoạn nghiên cứu, với nguồn số liệu lấy từ Niên giám thống kê của 63 Cục thống kê trên toàn quốc, đơn vị tính là triệu VND.

Ở đây cần lưu ý, do các phản ánh gần đây của xã hội về sự chính xác của dữ

36

liệu GRDP, nên Tổng cục Thống kê đã tiến hành tính toán lại GRDP các tỉnh/thành

phố giai đoạn 2015-2018. Tuy nhiên, các số liệu này không tương thích với số liệu của

Niên giám thống kê của các tỉnh/thành phố giai đoạn trước 2015, cũng như có thể

không tương thích với các biến số kinh tế vĩ mô khác (chi tiêu chính phủ, đầu tư, lao

động…) mà Niên giám thống kê các tỉnh công bố hàng năm trong giai đoạn nghiên

cứu. Do vậy nghiên cứu này vẫn sử dụng dữ liệu công bố của Niên giám thống kê của

các tỉnh/thành phố nhằm đảm bảo sự tương thích về số liệu. Dù sao, tính sai số của số

liệu Niên giám thống kê của các tỉnh/thành phố Việt Nam là mang tính hệ thống, và

trong một nghiên cứu mang tính xu hướng (đã chuyển từ số liệu tuyệt đối sang dạng

logarit) như đề tài này, thì yếu tố sai số này không ảnh hưởng quá nhiều tới kết quả

nghiên cứu.

2.4.2.2. Chất lượng thể chế quản trị

Như mô tả tại mục 2.1.2, chuỗi số liệu PGI được xây dựng dựa trên các chỉ số

thành phần của PAPI và PCI giai đoạn 2011-2018. Nguồn số liệu cho việc xây dựng

các chỉ số P trong mô hình là công bố chính thức về chỉ số PAPI giai đoạn 2011-2018 và chỉ số PCI giai đoạn 2006-2018.8 Đây là các nguồn dữ liệu chính thức, đáng tin cậy

và được chấp nhận chung.

Theo lý thuyết của kinh tế học thể chế, biến chất lượng thể chế quản trị được kỳ

vọng là có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.

2.4.2.3. Vốn vật chất

Vốn vật chất là một trong những nguồn cơ bản của tăng trưởng kinh tế. Nghiên

cứu này sử dụng phương pháp xây dựng K của Trần Thọ Đạt và Đỗ Tuyết Nhung

(2008) dựa trên GRDP thời kỳ đầu và số liệu đầu tư thực tế qua các năm, cụ thể như

sau: tính K ban đầu bằng hai lần mức GRDP tại thời điểm gốc. Trong nghiên cứu này,

GRDP 1995 được dùng để tính mức K ban đầu (K0). Từ K0 và lượng đầu tư thực tế

hàng năm của các tỉnh/thành phố, mức vốn vật chất cho mỗi địa phương theo thời gian

được tính dựa trên công thức:

Kt = (1−δ) Kt−1 + λIt

8 Kiểm định Granger yêu cầu chuỗi thời gian đủ dài, nên các chỉ số của PCI giai đoạn 2006-2018 được sử dụng để kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế.

37

trong đó δ = 5% = tỷ lệ khấu hao, λ = 95% = mức độ hình thành vốn vật chất từ đầu tư, tương đương với mức độ hao hụt đầu tư là 5%; It = đầu tư thực tế.

Số liệu đầu tư thực tế là giá trị đầu tư xã hội của các tỉnh/thành phố Việt Nam trong giai đoạn 1996-2018, do Niên giám thống kê của các tỉnh/thành phố Việt Nam công bố, được quy về giá so sánh 2010, đơn vị tính là triệu VND.

Tỷ lệ khấu hao δ có thể thay đổi theo tỉnh/thành phố, nhưng để đơn giản hóa, đại lượng này được ấn định ở mức 5% theo giả định của một số nghiên cứu tại Việt Nam về các nguồn tăng trưởng kinh tế (Trần Thọ Đạt, 2002).9

Theo lý thuyết tăng trưởng kinh tế, ta có thể kỳ vọng mối quan hệ thuận chiều

giữa Y và K trong kết quả ước lượng.

2.4.2.4. Số lao động hiệu quả

Không chỉ yếu tố số lao động thông thường, các nghiên cứu từ lâu đã chứng minh tầm quan trọng của vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế (Barro, 1991; Mankiw và cộng sự, 1992; Schultz, 1997). Do giới hạn về số liệu cấp tỉnh/thành phố giai đoạn 2011-2018, nghiên cứu này chỉ có thể dựa trên số liệu tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đang làm việc trong nền kinh tế làm đại diện cho yếu tố vốn con người. Trên cơ sở ý tưởng thước đo vốn con người dựa trên thu nhập từ lao động của Mulligan và Sala-i-Martin (1997) và Trần Thọ Đạt và Đỗ Tuyết Nhung (2008), tổng số lao động hiệu quả được xác định bằng việc tính tổng gia quyền toàn bộ số lao động của mỗi tỉnh thành theo công thức sau:

(cid:31)(cid:6)(cid:8)&(cid:6)(cid:8) &(cid:31)(cid:6)(cid:8) = (cid:31)(cid:6)(cid:8)(1 − &(cid:6)(cid:8)) + )(cid:8)*+(cid:6),-. )/,(cid:8)*+(cid:6),-.

trong đó: HL là số lao động hiệu quả, H là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, L là số lao động đang làm việc trong nền kinh tế. Wtrained là thu nhập trung bình của một người lao động đã qua đào tạo và Wuntrained là thu nhập trung bình của một người lao động chưa qua đào tạo (còn gọi là lao động phổ thông).

9 Một số phân tích độ nhạy đã được tiến hành để tìm hiểu sự thay đổi tỷ lệ khấu hao và mức độ hình thành vốn vật chất từ đầu tư đối với các kết quả hồi quy, ví dụ thay đổi δ = 10% và λ = 90%, nhưng kết quả hầu như không thay đổi. Điều này cho thấy sự thay đổi nhỏ trong tỷ lệ khấu hao và mức độ hình thành vốn không gây ảnh hưởng về mặt ý nghĩa thống kê của mô hình.

38

Nghiên cứu này chỉ xét đến số lao động đang làm việc chứ không phải toàn bộ dân số hay lực lượng thất nghiệp, bởi việc tính đến các lực lượng tiềm năng cho tăng trưởng kinh tế không thích hợp với chuỗi thời gian nghiên cứu ngắn. Theo định nghĩa của Cục Thống kê Hà Nội (2018), số lao động đang làm việc trong nền kinh tế (L) là "những người từ 15 tuổi trở lên trong thời kỳ tham chiếu (7 ngày trước thời điểm quan

sát) có làm bất cứ việc gì (không bị pháp luật cấm) từ 1 giờ trở lên để tạo ra các sản phẩm hàng hóa hoặc cung cấp các dịch vụ nhằm mục đích tạo thu nhập cho bản thân và gia đình. Người đang làm việc bao gồm cả những người không làm việc trong tuần nghiên cứu nhưng đang có một công việc và vẫn gắn bó chặt chẽ với công việc đó (vẫn được trả lương/công trong thời gian không làm việc hoặc chắc chắn sẽ quay trở lại làm sau thời gian không quá 1 tháng)".10

Tỷ lệ lao động đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo (H) là tỷ lệ số lao động đang làm việc đã qua đào tạo trên tổng số lao động đang làm việc trong kỳ. "Số lao động đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo bao gồm những người thỏa mãn cả hai điều kiện sau đây: (i) Đang làm việc trong nền kinh tế; (ii) Đã được đào tạo ở một trường hay một cơ sở đào tạo chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ 3 tháng trở lên, đã tốt nghiệp, được cấp bằng/chứng chỉ chứng nhận đã đạt một trình độ chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ nhất định, bao gồm: sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng chuyên nghiệp, đại học và trên đại học (thạc sĩ, tiến sĩ)" (Cục Thống kê Hà Nội, 2018).

10 “Ngoài ra, những trường hợp cụ thể sau đây đều được coi là người đang làm việc (có việc làm): (1) Những người đang tham gia các hoạt động tập huấn, đào tạo hoặc các hoạt động nâng cao kỹ năng do yêu cầu của công việc trong cơ sở tuyển dụng; (2) Những người học việc, tập sự (kể cả bác sĩ thực tập) làm việc và có nhận được tiền lương, tiền công; (3) Những người làm việc trong các hộ/cơ sở kinh tế của chính họ để sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa và cung cấp dịch vụ; (4) Những người làm việc vì mục đích tiền công, tiền lương hoặc lợi nhuận nhưng các khoản tiền lương, tiền công và lợi nhuận đó có thể không trả trực tiếp cho họ mà được tích lũy vào thu nhập chung của gia đình họ, bao gồm: (i) Người làm việc trong các đơn vị kinh doanh được tổ chức bởi 1 thành viên gia đình đang sống cùng hộ hoặc khác hộ; và (ii) (ii) Người thực hiện các phần việc, nhiệm vụ của 1 công việc làm công ăn lương được tổ chức bởi 1 thành viên gia đình đang sống cùng hộ hoặc khác hộ.” (Cục Thống kê Hà Nội, 2018)

39

Trong khi L và H được thu thập trực tiếp từ Niên giám thống kê các tỉnh/thành phố Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu, thì biến đại diện cho sự chênh lệch năng suất lao động giữa hai nhóm đã qua đào tạo và chưa qua đào tạo có vẻ phức tạp hơn. Theo Griliches (1997), tiền lương của mỗi người lao động không chỉ phụ thuộc vào vốn con người của người đó, nhưng tiền lương tương đối lại phản ánh trực tiếp vốn con người tương đối của mỗi cá nhân. Mặc dù Mulligan và Sala-i-Martin (1997) sử dụng tiền lương trung bình để làm quyền số trong thước đo vốn con người xây dựng cho các bang Hoa Kỳ, nhưng cách làm như vậy không thể áp dụng cho nghiên cứu này, bởi vì số lượng lao động tự doanh (self-employment) chiếm phần lớn số lao động có việc ở Việt Nam. Do đó, theo cách tiếp cận của Trần Thọ Đạt và Đỗ Tuyết Nhung (2008), các biến W được sử dụng trong công thức trên được tính từ tổng thu nhập của

hộ gia đình dựa trên số liệu điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS). Việc tính toán được thực hiện dựa trên một số giả định sau:

(i) Trong một hộ gia đình, thông thường khoảng cách trình độ đào tạo giữa các

thành viên đã tham gia lực lượng lao động không quá lớn, và thu nhập trung bình của

mỗi thành viên trong hộ gia đình có tham gia vào lực lượng lao động được tính bằng

phép chia tổng thu nhập của hộ cho số lao động trong hộ. Giả định này là cần thiết bởi

số liệu VHLSS không cho phép tách rời thu nhập của hộ thành thu nhập của từng

thành viên, nhất là đối với lao động tự doanh.

(ii) Thu nhập của một hộ gia đình được tính bằng tổng của (1) thu nhập từ tiền

công, tiền lương của các thành viên, (2) thu nhập từ việc cho thuê đất đai và nhà ở, (3)

thu nhập từ sản xuất nông nghiệp, (4) thu nhập từ dịch vụ trang trại, (5) thu nhập từ

nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, (6) thu nhập từ săn bắt, khai thác lâm sản, (7) thu

nhập từ các hoạt động sản xuất – kinh doanh phi nông nghiệp, và (8) thu nhập từ các

khoản lương hưu, bảo hiểm xã hội, lãi suất ngân hàng...

(iii) Do VHLSS được điều tra hai năm một lần, nên số liệu thu nhập chỉ tính

được cho các năm 2012, 2014, 2016 (trong độ dài chuỗi nghiên cứu là 2011-2018), do

vậy giả định cuối cùng là mức thu nhập 2012 được sử dụng cho các năm 2011, 2012;

mức thu nhập 2014 được sử dụng cho các năm 2013, 2014 và 2015; mức thu nhập

2016 được sử dụng cho các năm 2016, 2017 và 2018.

Mặc dù những giả định trên đây có thể dẫn tới hạn chế nhất định trong việc đảm

bảo tính chính xác của số liệu, nhưng chúng có thể chấp nhận được vì thu nhập bình

quân lao động được tính ở đây chỉ được sử dụng như một loại trọng số trong phương

trình nêu trên.

Cuối cùng, tương tự biến vốn vật chất, lý thuyết tăng trưởng cho phép đặt giả

thuyết về mối quan hệ thuận chiều giữa Y và HL.

2.4.2.5. Các biến số kinh tế vĩ mô khác

Các biến số còn lại trong mô hình được lấy nguồn từ Niên giám thống kê của

63 tỉnh/thành phố trong giai đoạn nghiên cứu, bao gồm:

G là tổng chi tiêu ngân sách của chính quyền tại từng tỉnh/thành phố hàng năm,

cũng được tính theo giá so sánh năm 2010. Như đã nói ở trên, việc đưa biến số này vào

mô hình là nhằm kiểm soát tốt hơn hiệu ứng tăng trưởng trong ngắn hạn có thể được

40

gây ra bởi chính sách của chính phủ (ví dụ kích cầu), đặc biệt ở một nền kinh tế có quy

mô nhỏ và còn phụ thuộc lớn vào khu vực công như Việt Nam. Do là một yếu tố của

tổng cầu, sự gia tăng của G được kỳ vọng tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.

FDI là biến đại diện cho độ mở của nền kinh tế tỉnh, được đo bằng tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong GRDP của địa phương (theo giá so sánh 2010).11 Thông thường, độ mở của nền kinh tế trong nước góp phần nâng cao trình độ công nghệ thông qua việc thúc đẩy các dòng nhập khẩu kỹ thuật và công nghệ tiên tiến cũng như kinh nghiệm quản lý của nước ngoài vào nền kinh tế trong nước (Kukeli và cộng sự, 2006; Lucas, 1988). Do vậy, nghiên này có thể dự báo mối quan hệ thuận chiều giữa độ mở và tăng trưởng kinh tế của các tỉnh/thành phố.

GOV là sự can thiệp của chính phủ, được đo bằng tỷ trọng chi tiêu chính phủ trong GRDP của mỗi tỉnh (tính theo giá so sánh 2010). Theo Barro (1997), sự can thiệp của chính phủ thường dẫn đến méo mó thị trường và cản trở tiến bộ công nghệ. Nhận định đó cũng được khẳng định qua kết quả nghiên cứu của Ng và Leung (2004) cũng như Trần Thọ Đạt và Đỗ Tuyết Nhung (2008). Điều này đưa đến giả thuyết hệ số của GOV mang dấu âm trong mô hình ước lượng ở mục 2.4.1.

AGR là vai trò của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế, được đo bằng tỷ trọng của nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GRDP các tỉnh/thành phố (theo giá so sánh 2010). Việc mở rộng các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp chính là bước đi quan trọng để các nước đang phát triển thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các địa phương dựa nhiều vào sản xuất nông nghiệp có ít cơ hội gia tăng năng suất hơn các địa phương dựa vào sản xuất công nghiệp (Ng và Leung, 2004). Nói cách khác, giảm tỷ trọng hoạt động nông nghiệp trong GDP được dự báo mang lại tác động tích cực cho tăng trưởng kinh tế.

2.5. Kết luận Chương 2

11 Thước đo cơ bản được sử dụng cho độ mở của nền kinh tế là tỷ lệ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trên GDP. Tuy nhiên, trong một phân tích sử dụng số liệu cấp tỉnh, thước đo này không thể sử dụng bởi ngành thống kê chưa thể xác định các nguồn hàng hóa được đưa vào hay đưa ra ở mỗi tỉnh, thay vào đó giá trị xuất khẩu hay nhập khẩu chỉ được thống kê tại các cửa khẩu biên giới hay hải quan (hàng không, hàng hải). Trên thực tế, Cục thống kê tại các tỉnh/thành phố Việt Nam cũng không công bố số liệu này. Do vậy, nghiên cứu này sử dụng thước đo (proxy) khác cho độ mở của nền kinh tế là vai trò của FDI.

41

Chương này trước hết khẳng định sự cần thiết phải xây dựng một thước đo chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh mới cho Việt Nam, nhằm khắc phục những nhược điểm của các bộ chỉ số thể chế quản trị hiện có, đồng thời cho thấy ý nghĩa của việc phải kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế trước khi đưa các biến thể chế vào một mô hình tăng trưởng. Các

phương pháp xây dựng chỉ số thể chế quản trị và các biến số kinh tế vĩ mô, phương pháp thực hiện kiểm định và phân tích hồi quy của Chương 2 được khai thác từ rất nhiều nghiên cứu khác nhau trong và ngoài nước, và có điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện số liệu của Việt Nam. Sự tổng hợp các phương pháp nghiên cứu phong phú được kỳ vọng sẽ mang đến những kết quả nghiên cứu có giá trị về mối quan hệ giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh tại Việt Nam. Hình 2.3 thể hiện quy trình nghiên cứu của luận án.

Xây dựng chỉ số chất lượng thể chế

Phân rã các chỉ số thành phần PAPI và PCI

Ước lượng mô hình phân tích nhân tố

Tổng hợp thành bộ chỉ số thể chế quản trị

Phân tích thống kê mô tả

Sử dụng hệ thống bảng và đồ thị để phân tích thực trạng chất lượng thể chế quản trị ở địa phương cấp tỉnh

Kiểm định quan hệ nhân quả

Kiểm định quan hệ nhân quả Granger

Kiểm định tính nội sinh Durbin-Wu-Hausman

Phân tích thống kê mô tả

Sử dụng hệ thống bảng và đồ thị nhằm đánh giá tương quan giữa chất lượng thể chế quản trị (cùng các biến số kinh tế xã hội) với tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh

Phân tích hồi quy

Sử dụng mô hình tăng trưởng tân cổ điển mở rộng

Dữ liệu mảng gồm 63 tỉnh/thành phố trong 8 năm

Phương pháp hồi quy FEM, REM, GMM...

Hình 2.3. Quy trình nghiên cứu

Nguồn: Đề xuất của tác giả

42

CHƯƠNG 3. CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ QUẢN TRỊ ĐỊA PHƯƠNG

CẤP TỈNH TẠI VIỆT NAM

3.1. Bối cảnh thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh của Việt Nam

3.1.1. Tổng quan về phân cấp hành chính địa phương tại Việt Nam

Việt Nam là một nhà nước đơn nhất với một chính quyền trung ương, phân cấp

hành chính gồm cấp tỉnh (và tương đương), cấp huyện (và tương đương), cấp xã (và

tương đương). Tính đến tháng 12 năm 2020, Việt Nam được chia thành 63 đơn vị hành

chính cấp tỉnh và tương đương (gồm 58 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc trung ương),

707 đơn vị cấp huyện và tương đương (gồm các quận, huyện, thị xã và thành phố trực

thuộc tỉnh). Tiếp dưới là các đơn vị hành chính như phường, xã, thị trấn (gọi chung là

cấp xã), rồi đến các khu vực không chính thức với nhiều tên gọi như khu phố, tổ dân

phố, làng, thôn, buôn, bản, xóm...

Trong hơn 30 năm đổi mới, việc giao quyền tự chủ cho chính quyền địa phương

các cấp đã được thực hiện từng bước. Trong thập kỷ đầu tiên sau đổi mới, các

tỉnh/thành phố đã được phân cấp đáng kể trong thẩm quyền quyết định các vấn đề về

đất đai và quy trình lập kế hoạch. Từ thập kỷ thứ hai sau khi triển khai chính sách đổi

mới, các địa phương tiếp tục được tăng cường vai trò trong các quyết định đầu tư công

và quy trình lập ngân sách, đồng thời có thêm ảnh hưởng trong các quyết định quản lý

nhân sự. Trong những năm gần đây, phân cấp quản lý nhân sự, trao quyền quyết định

về đầu tư công cho địa phương, mở rộng các hình thức đầu tư kết hợp nhà nước và tư

nhân là xu hướng chính trong quá trình phân cấp cho địa phương. Dưới góc độ lý

thuyết, “việc chuyển giao quyền hạn và trách nhiệm từ chính quyền trung ương cho

các chính quyền địa phương đưa cấp chính quyền ra quyết định đến gần dân hơn, từ đó

giúp tăng cường hiệu quả, tính công bằng, sự minh bạch, và trách nhiệm giải trình của

khu vực công” (Vũ Thành Tự Anh, 2012).

Đặc điểm địa lý Việt Nam khá hẹp và trải dài trên 2.000 km dẫn đến sự khác

biệt đáng kể về chuẩn mực, truyền thống, văn hóa giữa các địa phương. Đặc điểm địa

lý như vậy cũng gây khó khăn cho một số khu vực trong việc tiếp cận công nghệ và

thông tin. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến việc thực hiện các chính sách của nhà

nước mà còn hạn chế việc kiểm tra, thanh tra từ chính quyền. Theo đó, rất có thể các

quy định chính sách quốc gia không được áp dụng nhất quán giữa các địa phương (Bùi

Thành Trung và Diệp Gia Luật, 2017), nói cách khác chúng ta có thể dự báo sự khác

43

biệt về thể chế quản trị giữa các tỉnh/thành phố Việt Nam.

3.1.2. Các khía cạnh của thể chế quản trị địa phương tại Việt Nam

Tổng hợp từ các nghiên cứu về thể chế quản trị tại Việt Nam, có thể nhận thấy

nền thể chế quản trị địa phương tại Việt Nam thể hiện trên các khía cạnh sau:

3.1.2.1. Trách nhiệm giải trình

World Bank (2009) phân biệt trách nhiệm giải trình theo hai nhóm:

- Hệ thống trách nhiệm giải trình hướng lên trên (đảm bảo việc tuân thủ): “Cá nhân hay tổ chức chú trọng tới các nguyên tắc, quy định và kiểm soát đưa từ trên xuống, nhấn mạnh tới sự tuân thủ các quy định và hướng dẫn trong một hệ thống cấp bậc”.

- Hệ thống trách nhiệm giải trình hướng xuống dưới (đối với kết quả hoạt động): “Cá nhân hay tổ chức chú trọng tới các kết quả họ được giao thực hiện, và có các cơ chế để đảm bảo rằng cá nhân hay tổ chức nào làm không đúng sẽ phải chịu hệ quả, và cá nhân hay tổ chức nào làm tốt sẽ được thưởng”.

Nhóm thứ nhất có đặc trưng là hệ thống cấp bậc và các hình thức thưởng/phạt mang tính hành chính, trong khi nhóm thứ hai thể hiện qua sự tham gia của các bên vào quá trình ra quyết định, các thông tin cung cấp cho khách hàng và ý kiến phản hồi từ khách hàng. Có thể nói, khía cạnh trách nhiệm giải trình hướng xuống dưới được hình thành ở Việt Nam từ trước năm 2010, đến nay đã trở nên khá phổ biến, bao trùm nhiều khu vực trong nền kinh tế - xã hội.

12 Một mặt, các cơ quan dân cử ở địa phương (Hội đồng Nhân dân các cấp) được trao quyền phê duyệt phân bổ ngân sách địa phương cho các cấp dưới, quyền xác định các tiêu chí và cơ chế thu phí và lệ phí, đóng góp của người dân…. Mặt khác, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam được thành lập, với chức năng kiểm toán độc lập tất cả các hạng mục thu chi ngân sách nhà nước, từ đó cũng thực thi công tác giám sát tài chính đối với chính quyền địa phương cấp tỉnh. Ngoài ra, các tổ chức dựa vào cộng đồng (CBO) như ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư cộng đồng đều là các tổ chức có thẩm quyền giám sát. Tuy nhiên, hai loại hình CBO này chưa được phát triển đầy đủ tiềm năng, thậm chí một số tổ chức tham gia giám sát chính sách đã phải giải thể.

44

Sự chuyển đổi của Việt Nam từ nhà nước tập trung quan liêu cùng cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang một cơ chế linh hoạt và phù hợp hơn với thị trường cũng bao hàm việc phân cấp trách nhiệm và quyền hạn cho các chính quyền cấp dưới. Khi mức độ phân cấp từ chính quyền trung ương xuống cho các tỉnh/thành phố gia tăng, thì cũng kèm theo việc tăng cường cơ chế giám sát.12 Bên cạnh đó, việc áp dụng cơ chế phản hồi qua các cuộc điều tra đối với người dân và doanh nghiệp, nhằm phản ánh hiện trạng của nền quản trị địa phương, cũng góp phần cải thiện trách nhiệm giải trình hướng xuống dưới. Từ trước 2010, loạt điều tra về quản trị nhà nước trong VHLSS

2008 và PCI thực hiện lần đầu vào 2005 đều do các cơ quan Việt Nam là Tổng cục Thống kê và Phòng Công nghiệp và Thương mại phối hợp với các nhà tài trợ thực hiện. Từ năm 2009, PAPI ra đời, đánh dấu sự tham gia của một đơn vị độc lập là CECODES (phối hợp với UNDP), trong việc phản ánh tiếng nói của người dân về mức độ hiệu quả trong điều hành, quản lý nhà nước của chính quyền các cấp, trong đó có khía cạnh trách nhiệm giải trình.

Trong các chỉ số thành phần của PAPI, có chỉ số về mức độ và hiệu quả tương tác với chính quyền địa phương và đáp ứng kiến nghị của người dân. Ví dụ, tỷ lệ người dân liên hệ với trưởng thôn (hoặc tổ trưởng tổ dân phố), hay cán bộ UBND xã/phường, cán bộ đoàn thể, cán bộ HĐNHD xã/phường để được hỗ trợ giải quyết khúc mắc đã gia tăng trong các năm 2016-2018 và trên 80% đánh giá việc tiếp xúc với chính quyền địa phương là có hiệu quả. Mặc dù vậy, Vũ Thành Tự Anh (2012) cho rằng với thiết kế câu hỏi hiện nay, PAPI không thể đo lường (chứ chưa nói đến việc đo lường chính xác) trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương, và Việt Nam chưa có nghiên cứu định lượng đủ tin cậy để đánh giá trách nhiệm giải trình của các đối tượng được phân cấp, ví dụ với chính quyền địa phương cấp tỉnh.

3.1.2.2. Sự tham gia của người dân

Có thể thấy mối quan hệ thuận chiều trực tiếp giữa trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương với sự tham gia của người dân. Sự tham gia của người dân càng cao thì đòi hỏi trách nhiệm giải trình từ chính quyền địa phương càng lớn. Mặc dù nhiều người có thể không muốn tham gia tích cực vào các kế hoạch phân tích địa phương, phân bổ ngân sách hay thực thi chính sách…, nhưng ngay cả một số ít người dân quan tâm cũng có khả năng mang đến thành công cho quá trình tham vấn. Do vậy, việc đảm bảo cơ hội tham gia là hết sức cần thiết.

45

Hiến pháp Việt Nam 2013 đã quy định “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.” Trước đó, Nhà nước cũng ban hành các Pháp lệnh về Dân chủ cơ sở (được ban hành lần đầu vào năm 1998, được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2003 và 2007). Pháp lệnh này tập trung vào bốn quyền cơ bản: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Pháp lệnh được thực hiện trong nhiều hoạt động cấp xã, từ việc sử dụng ngân sách, dự án và kế hoạch đầu tư công, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quản lý sử dụng đất, cho đến các thủ tục hành chính và văn bản pháp lý... Tuy vậy, Bộ Nội vụ

(2020) cho rằng Pháp lệnh 2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã “bộc lộ một số hạn chế, bất cập và không còn phù hợp với xu hướng đất nước đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế”. Đặc biệt, Pháp lệnh này còn thiếu các biện pháp bảo đảm thực thi dân chủ, chưa có quy định về trách nhiệm và các biện pháp cụ thể xử lý với các vi phạm về thực hiện dân chủ ở cơ sở, dẫn đến việc tổ chức thực hiện còn lúng túng, hình thức.

Trên thực tế, lĩnh vực này cần tiếp tục cải thiện khi sự tham gia của người dân vào các quy trình hoạch định chính sách hay xây dựng văn bản luật pháp là rất ít, do người dân không được hỏi ý kiến, hoặc được hỏi nhưng không tham gia ý kiến do vấn đề quá phức tạp, hoặc cho rằng các ý kiến của họ sẽ không được quan tâm. Theo khảo sát PAPI, trong giai đoạn 2011-2018, chỉ hơn 30% dân số có cơ hội tham gia góp ý cho các quy hoạch hay kế hoạch sử dụng đất tại địa phương (CECODES và cộng sự, 2019). World Bank (2009) cho rằng, việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở gặp nhiều khó khăn, không chỉ bởi hạn chế của chính quyền địa phương, mà còn xuất phát từ việc thiếu quan tâm và ngần ngại trong việc bày tỏ quan điểm của người dân.

Ở các khía cạnh khác như lập kế hoạch hay quy hoạch đầu tư xây dựng cơ bản tại địa phương, sự tham gia của người dân được cải thiện theo thời gian, tuy nhiên hoạt động tham vấn đối với cộng đồng vẫn còn hạn chế, chủ yếu được thực hiện ở những hoạt động có tác động lớn đến người dân. Nguyên nhân cơ bản là các chỉ tiêu đưa ra trong kế hoạch còn theo kiểu kế hoạch hóa tập trung truyền thống, hệ thống thông tin hỗ trợ yếu kém, hạn chế về kỹ năng và nhân lực lập kế hoạch chuyên trách, thiếu cơ chế phối hợp giữa ban ngành chức năng và đặc biệt là nhận thức sai lầm của một bộ phận cán bộ khi cho rằng người dân không đủ hiểu biết, hay việc tham vấn gây tốn kém về thời gian và kinh phí.

Việc tham gia giám sát của người dân thậm chí còn thấp hơn so với việc tham gia quyết định và góp ý vào quá trình thiết kế khi xây mới hoặc tu sửa công trình công cộng tại địa phương.13 Theo World Bank (2009), điều này có thể xuất phát từ thái độ và động cơ của người dân đối với việc tham gia giám sát. Những người dân địa phương thường không coi đây là quyền và trách nhiệm của mình, mặt khác, họ thường phải đương đầu với chính quyền địa phương vốn cũng không mặn mà với việc bị giám

46

13 Mặc dù “tỷ lệ người trả lời cho biết Ban Thanh tra nhân dân hoặc Ban giám sát đầu tư cộng đồng giám sát việc xây mới/tu sửa công trình gia tăng gấp 3,5 lần từ năm 2011 tới 2018, như là kết quả của việc huy động cộng đồng tham gia giám sát các dự án xây dựng Nông thôn mới và/hoặc những hiệu ứng ban đầu của Luật Đầu tư công năm 2014”, nhưng nếu tính trung bình, con số này chỉ đạt dưới 20% trong giai đoạn 2011-2018 (CECODES và cộng sự, 2019; CECODES và cộng sự, 2017).

sát. Bởi vậy, xây dựng lòng tin và động cơ thúc đẩy người dân địa phương tham gia vào quá trình giám sát là điều quan trọng, từ đó tăng cường trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương.

3.1.2.3. Minh bạch

Minh bạch là một khía cạnh thể chế liên quan tới cả sự tham gia của người dân và trách nhiệm giải trình. Một nền thể chế có tính minh bạch cao không chỉ giúp gia tăng trách nhiệm giải trình hướng xuống dưới, mà còn đảm bảo quyền “dân biết”. Để người dân biết về quyền và nghĩa vụ của mình, có thể đòi hỏi được thực hiện quyền và nghĩa vụ đó, từ đó tham gia tích cực vào các vấn đề của nhà nước, họ cần phải có thông tin. Để doanh nghiệp có thể hoạt động trên một sân chơi bình đẳng, họ cần có thông tin. Và để báo chí có thể chuyển tải được chính xác những thông tin quan trọng tới công chúng, họ cũng cần thông tin.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam từ đầu những năm 2010, chính quyền địa phương phải công khai thu chi ngân sách cấp xã; danh sách hộ nghèo; quy hoạch sử dụng đất, cũng như khung giá bồi thường thu hồi đất.14 Nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng bộ máy nhà nước công khai, minh bạch, đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của nhân dân, Luật Tiếp cận thông tin của Việt Nam đã được dự thảo từ trước 2010, nhưng đến 2016 mới được ban hành, có hiệu lực từ tháng 7/2018 và sẽ còn cần nhiều thời gian để thực sự đi vào cuộc sống.

Thực tiễn đánh giá qua các chỉ số PAPI và PCI cho thấy, việc phổ biến thông tin trong những năm qua vẫn chưa đồng đều, nơi đầy đủ, nơi thiếu thốn. Mức độ sử dụng cổng thông tin điện tử phụ thuộc nhiều vào trình độ học vấn, điều kiện tiếp cận Internet và cả lòng tin của người dân. Để có thông tin về chính sách, pháp luật, quy trình, thủ tục do Nhà nước ban hành và thực hiện, nhiều người vẫn đi qua kênh quen biết cá nhân với cán bộ, công chức, hoặc người thân, hoặc hỏi trên mạng xã hội. Tỉ lệ sử dụng cổng thông tin điện tử của chính quyền địa phương chỉ đạt 22% số người trả lời. Rất ít người tìm thông tin qua các kênh chính thức của chính quyền địa phương như gửi thư điện tử hoặc viết thư tay để đề nghị được cung cấp thông tin (CECODES và cộng sự, 2018).

14 Theo Pháp lệnh Thực hiện dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn 2007; Luật Đất đai sửa đổi năm 2013 và Luật Ngân sách nhà nước năm 2015.

47

Hoặc một ví dụ được nêu trong công bố của CECODES và cộng sự (2019), “điểm đánh giá PAPI cho phần ‘Công khai, minh bạch quy hoạch/kế hoạch sử dụng đất và giá bồi thường thu hồi đất’ gia tăng dần trong 5 năm qua, một phần nhờ những

quy định cụ thể liên quan trong Luật Đất đai (sửa đổi) năm 2013 có tác dụng làm hạn chế phần nào sự tùy tiện của chính quyền địa phương trong thu hồi đất”. Nhưng một số nghiên cứu cho thấy các địa phương “chưa thực sự công khai hóa kế hoạch sử dụng đất và khung giá bồi thường thu hồi đất hoặc nếu có, thì nhiều địa phương lại niêm yết bên trong hội sở, khiến người dân không thể tiếp cận thông tin dễ dàng, thuận tiện”. Theo kết quả khảo sát PAPI 2011-2018, chưa đầy một phần tư số người được hỏi cho rằng họ có thể tiếp cận thông tin liên quan đến quy hoạch hay kế hoạch sử dụng đất của địa phương, trong khi gần 70% người trả lời cho biết mức đền bù cho hộ gia đình bị thu hồi đất không theo giá thị trường (CECODES và cộng sự, 2019; CECODES và cộng sự, 2017). Rõ ràng, điểm số liên tục ở mức thấp trong giai đoạn 2011-2018 cho thấy vấn đề minh bạch của chính quyền địa phương tại Việt Nam còn nhiều hạn chế, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý đất đai.

3.1.2.4. Kiểm soát tham nhũng

Một biểu hiện của yếu kém trong thể chế quản trị là tham nhũng. Tham nhũng tồn tại trong mọi quốc gia nhưng tham nhũng không bị kiểm soát có thể cản trở đầu tư, làm thất thoát nguồn lực và làm xói mòn lòng tin của người dân. Trong nhiều năm qua, tham nhũng được cho là một vấn nạn tại Việt Nam, cho dù Chính phủ đã thực hiện một số chương trình cải cách (World Bank, 2009). Tình trạng tham nhũng có lẽ gây bức xúc cho người dân nhất là trong các vấn đề về đất đai (các hành vi trục lợi trong thu hồi đất đai, giải phóng mặt bằng và tái định cư) và dịch vụ công (hiện tượng đòi hỏi hoặc nhận “tiền phong bì” từ những người sử dụng dịch vụ). Do đó, kiểm soát tham nhũng là việc tất yếu mà chính quyền địa phương phải thực hiện để nâng cao chất lượng thể chế.

15 Theo Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và UNDP (2017), “thiếu tham vấn ý kiến người dân và cộng đồng khi lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và thiếu thông tin về khung giá bồi thường thu hồi đất là một trong những nguyên nhân dẫn tới tham nhũng trong lĩnh vực đất đai, tranh chấp đất đai diễn ra ở một số địa phương, cũng là nguyên nhân của nhiều khiếu kiện đất đai, nhất là trong bối cảnh đô thị hóa nhanh chóng trong thời gian qua”.

48

Kiểm soát tham nhũng có mối quan hệ trực tiếp với minh bạch cùng trách nhiệm giải trình, bởi tham nhũng khó ẩn mình trong một môi trường có tính minh bạch và giải trình cao15. Từ những cơ quan chịu trách nhiệm phát hiện và phòng chống tham nhũng đến các cơ quan dân cử, các tổ chức xã hội dân sự, các phương tiện truyền thông đại chúng và người dân, tất cả đều cần tham gia vào hệ thống kiểm soát tham nhũng và đảm bảo trách nhiệm giải trình. Việc đảm bảo tiếp cận đối với thông tin sẽ giúp cho các cơ quan, tổ chức này hoạt động có hiệu quả hơn trong việc kiểm soát tham nhũng. Đồng thời, người dân có được thông tin, hiểu rõ thủ tục tố cáo tham

nhũng và quyền được pháp luật bảo vệ, có nhận thức đúng đắn về các loại hình tham nhũng sẽ góp phần hữu ích vào hệ thống chống tham nhũng của Việt Nam.

Bên cạnh đó, nhiều cải cách chính sách cũng có tác động hạn chế tham nhũng, dù mục đích chính không phải là chống tham nhũng. Ví dụ, các cải cách hành chính một mặt giúp đơn giản hóa gánh nặng thủ tục cho người dân và doanh nghiệp, mặt khác có thể làm giảm cơ hội của tham nhũng. Hoặc các cải cách trong quản lý tài chính công làm tăng sự minh bạch và hiệu quả của chi tiêu công, đồng thời khiến các hành vi tham nhũng trở nên khó che giấu hơn. Việc trao quyền nhiều hơn cho các tổ chức xã hội dân sự và phương tiện truyền thông đại chúng trong cuộc chiến chống tham nhũng cũng là một biện pháp hữu ích. Cuối cùng, cơ chế đảm bảo trách nhiệm giải trình được thực hiện qua các cuộc khảo sát ý kiến phản hồi của người sử dụng dịch vụ cũng góp phần tích cực vào việc kiểm soát tham nhũng tại địa phương.

Trong thời gian qua, người dân Việt Nam đã chứng kiến nhiều nỗ lực của chính quyền trung ương trong đấu tranh chống tham nhũng lớn, cùng việc thực hiện một số biện pháp hạn chế hiện tượng tham nhũng vặt trong hoạt động công vụ. Việc xét xử các đại án tham nhũng liên quan tới một số cán bộ cao cấp của Nhà nước được đưa tin rộng rãi trong những năm gần đây. Song song với đó là các cuộc thảo luận về việc sửa đổi Luật Phòng, chống tham nhũng 2015, việc Quốc hội thông qua luật sửa đổi vào 20/10/2018, chính thức thực hiện từ tháng 7/2019… Tất cả các thông tin này có thể “tác động tích cực tới cảm nhận của người dân về quyết tâm giải quyết vấn nạn tham nhũng trong bộ máy chính quyền các cấp” (CECODES và cộng sự, 2019). Dữ liệu khảo sát PAPI cũng cho thấy sự cải thiện về mức độ kiểm soát tham nhũng tại địa phương, tỷ lệ người dân đồng ý với nhận định rằng phải đưa hối lộ mới xin được việc làm ở khu vực công, để được chăm sóc tốt hơn ở bệnh viện công, hay để lấy được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đã giảm đáng kể trong các năm 2017-2018 sau khi tăng liên tục trong giai đoạn trước đó.16

Tuy vậy, tỷ lệ người bị vòi vĩnh và đã tố giác hành vi đòi hối lộ rất thấp (luôn

dưới mức 10%), đồng thời mức độ người dân chịu đựng sự vòi vĩnh đã tăng gấp 5 lần trong giai đoạn 2011-2018 (CECODES và cộng sự, 2018, 2019)17, điều này cho thấy

16 Ví dụ, theo CECODES và cộng sự (2019), số người phải đưa lót tay khi làm thủ tục đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã giảm đáng kể từ 44% xuống còn 15% trong giai đoạn 2015-2018.

17 Mức đòi hối lộ mà người dân bắt đầu tố cáo tăng từ 5,5 triệu đồng năm 2011 lên 27,5 triệu đồng năm 2017 (CECODES và cộng sự, 2018, 2019), gần gấp 15 lần giá trị 2 triệu đồng để một hành vi đưa hối lộ được cấu thành tội phạm theo Luật Hình sự 2015.

49

cơ chế hiện tại dường như không thúc đẩy người dân lên tiếng. Theo khảo sát PAPI

2017, 53% số người trả lời chọn im lặng vì không thấy được ích lợi từ việc tố giác

hành vi vòi vĩnh; 13,5% cho rằng quy trình tố giác tham nhũng quá phức tạp, 11% e

ngại bị trả thù. Có thể thấy, Nhà nước chưa tạo được môi trường và cơ chế để người

dân có thể lên tiếng tố giác, đồng thời tin tưởng mình được bảo vệ sau khi tố giác hành

vi tham nhũng. Các chuyên gia quốc tế cho rằng, chống tham nhũng tại Việt Nam

“không chỉ là xử lý một nhóm các quan chức sai phạm mà cần giải quyết các lỗ hổng

trong hệ thống quản trị, pháp quyền và một nền văn hóa chung chi đã ăn sâu” ở Việt

Nam (An Điền, 2018).

3.1.2.5. Các dịch vụ hành chính công

Mô hình một cửa, Đề án 30 của giai đoạn trước 2010, Chương trình tổng thể cải

cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ… đều hướng tới mục

tiêu giảm gánh nặng về thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp và người dân. Như đã

nhắc đến ở trên, những cải cách này góp phần kiểm soát tham nhũng, tạo môi trường

minh bạch và tăng tính giải trình.

Từ những năm 1990, một loạt cải cách được thực hiện thí điểm đã tạo điều kiện

thuận lợi hơn cho người dân và doanh nghiệp trong các hoạt động giao dịch với cơ

quan nhà nước, đặc biệt là việc áp dụng cơ chế “một cửa” đối với các dịch vụ hành

chính. Sau khi được nhân rộng thành công tại các sở chuyên ngành và đơn vị cấp địa

phương, mô hình thí điểm này được phát triển thành mô hình một cửa liên thông,

nhằm liên kết giữa các ngành, các cấp. Tiếp đó, Đề án 30 được ban hành với mục tiêu

đơn giản hóa và giảm bớt các thủ tục hành chính hiện hành. Nhờ sự ủng hộ và thúc

đẩy tích cực từ Chính phủ, Đề án 30 đã mang lại những tác động tích cực đối với hoạt

động cung cấp dịch vụ hành chính công. Chương trình tổng thể cải cách hành chính

nhà nước giai đoạn 2011-2020 tiếp nối thành công này, đặc biệt với các quy định về

ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực hành chính công.

Các cuộc điều tra doanh nghiệp và người dân từ trước 2010 đến nay đều đưa

đến chung kết luận, thủ tục hành chính ở tất cả các địa phương được cải thiện, nhờ đó

giúp người dân và doanh nghiệp có thể tập trung vào hoạt động sản xuất - kinh doanh

hơn là mất thời gian xếp hàng chờ đợi hoặc điền thông tin vào các biểu mẫu hành

chính nặng nề. Cụ thể, khảo sát PAPI cho thấy, người sử dụng nhìn chung hài lòng

hơn với dịch vụ ‘một cửa’ và quy trình, thủ tục hành chính của một số nhóm dịch vụ

hành chính, ví dụ như dịch vụ chứng thực, xác nhận; dịch vụ hành chính cấp

50

xã/phường, hay dịch vụ cấp phép xây dựng. Tuy nhiên, đánh giá của người dân chưa

cao đối với dịch vụ hành chính liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

(CECODES và cộng sự, 2018).

Tuy vậy, khi thu nhập của người dân Việt Nam tăng lên thì chi phí thời gian của

việc chờ đợi cũng tăng theo, từ đó tiếp tục gây áp lực cho chính quyền địa phương

phải cải thiện hơn nữa những dịch vụ này.

3.1.2.6. Các dịch vụ công

Cung cấp các dịch vụ công là một chức năng cơ bản của nhà nước, trong đó nổi

bật nhất các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và giáo dục - đào tạo, nơi diễn ra sự tương tác

thường xuyên và trực tiếp giữa nhà nước và người dân. Theo World Bank (2009),

“việc cung cấp các dịch vụ này một cách có hiệu quả không chỉ là vấn đề đảm bảo tính

công bằng và thể hiện trách nhiệm xã hội như một cam kết của mình mà còn có ý

nghĩa kinh tế trực tiếp vì dịch vụ này đảm bảo cho người dân được chăm lo, được hài

lòng và phát triển lành mạnh.” So với nhiều quốc gia khác, việc đảm bảo chất lượng

dịch vụ công để phục vụ cho khối lượng dân số lớn, trong khuôn khổ tài chính còn hạn

hẹp, luôn là thách thức không nhỏ đối với Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là

từ đầu thế kỷ XXI đến nay, các đơn vị cung cấp dịch vụ công dần được trao quyền tự

chủ từ các vấn đề tài chính đến các vấn đề quản lý. Nhờ cơ chế tự chủ, các đơn vị này

có thể tăng nguồn thu và thực hiện những chính sách khuyến khích hoạt động hiệu quả

hơn, từ đó cải thiện chất lượng dịch vụ công.

Trong giai đoạn gần đây, chính phủ Việt Nam đã đưa ra những cam kết mạnh

mẽ nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công, coi đây là yếu tố quan trọng đóng góp vào

sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Chương trình tổng thể Cải cách hành chính

Nhà nước giai đoạn 2011-2020 nêu rõ “cải cách và triển khai trên diện rộng cơ chế tự

chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; chất lượng dịch vụ

công từng bước được nâng cao, nhất là trong các lĩnh vực giáo dục, y tế; bảo đảm sự

hài lòng của cá nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các lĩnh

vực giáo dục, y tế đạt mức trên 60% vào năm 2015 và 80% vào năm 2020” (Chính

phủ, 2011). Tiếp đó, Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung

ương Đảng Cộng sản lần thứ 6 (khóa XII) yêu cầu “tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức,

quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập

theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm lớn hơn” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2017).

Khảo sát của PAPI từ 2011 trở lại đây có đánh giá mức độ hiệu quả cung ứng

51

bốn loại hình dịch vụ công cơ bản, gồm “y tế công lập, giáo dục tiểu học công lập, cơ

sở hạ tầng căn bản, và an ninh, trật tự tại địa bàn khu dân cư”. Khảo sát PCI cũng có

những chỉ số đánh giá tương tự đối với dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, đào tạo lao động

và giới thiệu việc làm. Kết quả đánh giá cho thấy chiều hướng nâng cao hiệu quả cung

ứng dịch vụ công của các cấp chính quyền ngày càng được người dân ghi nhận ở hầu

hết tất cả các tỉnh/thành phố. Tuy vậy, tương tự như với các dịch vụ hành chính công,

ở mức thu nhập càng cao thì người dân càng có đòi hỏi lớn hơn về chất lượng dịch vụ

công. CECODES và cộng sự (2018) cho rằng, vẫn có khoảng cách lớn giữa thực tế

chất lượng và điều kiện giáo dục tiểu học và chăm sóc y tế ở các địa phương so với

điểm tối đa mong đợi, bởi vậy hai ngành giáo dục và y tế cần có nhiều nỗ lực hơn để

đáp ứng mong đợi của người dân.

3.1.2.7. Thực thi chính sách để đảm bảo môi trường kinh doanh

Bên cạnh việc cải thiện các dịch vụ hành chính phục vụ doanh nghiệp, chính

quyền địa phương còn nhiều hoạt động nhằm đảm bảo môi trường kinh doanh và thúc

đẩy sự phát triển của doanh nghiệp và khu vực tư nhân nói chung. Cuộc điều tra năng

lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) phản ánh rõ ràng nhất sự đánh giá của khối doanh nghiệp

tư nhân về khía cạnh thể chế này.

Bằng cách phân cấp thẩm quyền quyết định một số chính sách và tài khóa cho

chính quyền địa phương, các địa phương có thể linh hoạt hơn trong hoạch định chính

sách, có động cơ để thử nghiệm các chính sách, và cuối cùng sẽ thúc đẩy phát triển

kinh tế trong vùng. Bên cạnh đó, ngay cả việc thực thi chính sách được ban hành từ

trung ương giữa các tỉnh/thành phố cũng có sự khác nhau. Khi các địa phương nhận ra

môi trường kinh doanh tốt sẽ tạo sức hút lớn đối với đầu tư, thì việc thực thi một cách

tích cực các chính sách tốt của chính phủ, hoặc sự tự chủ trong việc ban hành các

chính sách thân thiện với tăng trưởng thuộc thẩm quyền của địa phương, có thể tạo ra

cạnh tranh lành mạnh giữa các tỉnh/thành phố. Chỉ số PCI ngày càng nhận được sự chú

ý từ chính quyền địa phương, bởi các tỉnh/thành phố đều muốn cải thiện xếp hạng

năng lực cạnh tranh của môi trường kinh doanh.

Theo đánh giá của cộng đồng doanh nghiệp, nhìn chung môi trường kinh doanh

của các địa phương đã được cải thiện theo thời gian, nhờ những cải cách hành chính,

sự năng động và hỗ trợ tích cực của chính quyền địa phương. Ví dụ, tỷ lệ doanh

nghiệp đồng ý rằng thái độ của chính quyền cấp tỉnh đối với khu vực doanh nghiệp tư

nhân là tích cực, tỷ lệ doanh nghiệp tán đồng với các nhận định như “UBND

52

tỉnh/thành phố linh hoạt trong khuôn khổ pháp luật nhằm tạo môi trường kinh doanh

thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân” hay “UBND tỉnh/thành phố rất năng động và

sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề mới phát sinh”… đã tăng liên tục trong

những năm gần đây (VCCI và USAID, 2019). Kết quả khảo sát của PCI cũng cho thấy

các địa phương có mức thu nhập cao hơn thì thường cũng có mức độ cải thiện môi

trường kinh doanh tốt hơn. Mặc dù vậy, mức điểm thấp của các chỉ số PCI về tính

năng động của chính quyền địa phương, hao phí thời gian và chi phí không chính thức

(so với các chỉ số về cung cấp dịch vụ công) cho thấy chính quyền các tỉnh/thành phố

còn nhiều việc cần làm để đáp ứng kỳ vọng từ khối doanh nghiệp.

3.1.2.8. Hệ thống tư pháp

Liên hiệp quốc coi pháp quyền (the rule of law) là “một nguyên tắc quản trị mà

trong đó tất cả mọi cá nhân, tổ chức, thiết chế, cả công và tư, bao gồm cả Nhà nước,

đều phải tuân thủ pháp luật được công bố công khai, được áp dụng bình đẳng và được

phán quyết một cách độc lập, phù hợp với các nguyên tắc và tiêu chuẩn nhân quyền

quốc tế” (UN Security Council, 2004). Trong một nền kinh tế, các thiết chế pháp lý

được hình thành nhằm đảm bảo các hoạt động và giao dịch kinh tế thông qua việc bảo

vệ các quyền tài sản, đảm bảo các qui định của nhà nước về thực thi hợp đồng, từ đó

các doanh nghiệp mới có thể sẵn sàng mở rộng hoạt động kinh doanh và tăng trưởng

mạnh mẽ hơn (VCCI và USAID, 2019).

So với nhiều quốc gia khác, dù ở cả khối doanh nghiệp và người dân, mức độ

sử dụng tòa án ở Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp hành chính với cơ quan

nhà nước hay tranh chấp thương mại thấp hơn rất nhiều. Điều này xuất phát từ nhiều

nguyên nhân, trong đó có yếu tố văn hóa, nhưng cơ bản là do người dân và doanh

nghiệp còn thiếu lòng tin vào tòa án. Theo phân tích của CECODES và cộng sự

(2019), người dân không sử dụng tòa án địa phương trong việc giải quyết tranh chấp

dân sự là do lo ngại về năng lực của cán bộ tòa án, e ngại tình trạng “chạy án”, thời gian giải quyết tranh chấp quá dài, hoặc chi phí tốn kém...18 Tất nhiên, khó khăn trong

việc tìm hiểu và tiếp cận thông tin, hạn chế trong hiểu biết của người dân về pháp luật,

cung dịch vụ pháp lý vẫn hạn chế… cũng là những nguyên nhân khiến người dân ít

tìm đến các thiết chế tư pháp. Tương tự như vậy, VCCI và USAID (2019) thống kê chỉ

18 Thay vì sử dụng tòa án địa phương, người dân có thể “sử dụng trung tâm hòa giải (hòa giải viên), nhờ người có uy tín trong cộng đồng ở địa phương, hay nhờ người có ảnh hưởng trong chính quyền tác động”.... (CECODES và cộng sự, 2019)

53

2% doanh nghiệp FDI và 39% doanh nghiệp tư nhân trong nước sẵn sàng sử dụng tòa

án khi muốn giải quyết tranh chấp. Những nguyên nhân lớn nhất nằm ở thời gian giải

quyết tranh chấp quá dài, chi phí giải quyết tranh chấp cao, và lo ngại về tình trạng “chạy án” phổ biến.19

Nhận thức rõ vấn đề này, trong những năm qua Việt Nam đã cố gắng tăng

cường các thiết chế nhằm giải quyết tranh chấp tại địa phương. Luật Trọng tài Thương

mại năm 2010 đã thiết lập thêm một phương thức giải quyết tranh chấp là thông qua

các trung tâm trọng tài địa phương. Bên cạnh đó, Nhà nước đã và đang tăng cường cho

“công tác đào tạo thẩm phán và kiểm sát viên để cải thiện chất lượng và tính công

bằng của quy trình tố tụng”. Mặc dù vậy, đến nay người dân, doanh nghiệp và các nhà

đầu tư nước ngoài dường như vẫn chưa tin tưởng vào các thiết chế pháp lý trong nước.

Một nguyên nhân được nêu ra là do mối quan hệ gần gũi đặc thù giữa chính quyền,

Đảng và tòa án, nên cơ chế trọng tài địa phương thường được cho là “có thể bị can

thiệp vì mục đích chính trị” (VCCI và USAID, 2019). Sự độc lập với các cơ quan kinh

tế và hành chính là điều kiện quan trọng để đảm bảo tính tin cậy của hệ thống tư pháp.

Theo World Bank (2009), trách nhiệm giải trình của hệ thống này “có thể được nâng

cao mà không mất đi tính độc lập bằng cách chú trọng vào tính minh bạch”. Xu hướng

chung là khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng và các hoạt động kinh tế ngày càng

tuân thủ theo cơ chế thị trường, thì áp lực đối với tòa án trong việc cung cấp dịch vụ tư

pháp một cách công bằng và hiệu quả sẽ ngày càng tăng.

3.2. Xây dựng thước đo chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh

3.2.1. Đề xuất các khía cạnh và thang đo cho thước đo chất lượng thể chế quản trị

địa phương cấp tỉnh tại Việt Nam

Dựa trên các khái niệm của World Bank và UNDP, cũng như kết cấu của các chỉ

số thể chế quản trị thường được sử dụng trên thế giới (đặc biệt là WGI và IQI) như đã

nêu tại Chương 1, dựa trên những phân tích về bối cảnh thể chế quản trị tại Việt Nam ở

mục 3.1, các khía cạnh của thước đo chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh

19 Thay vì sử dụng tòa án địa phương, ngoài phương thức thông qua trọng tài thương mại, đa phần các doanh nghiệp trong nước phải “vận dụng thực thi từ bên ngoài xã hội, nghĩa là nhờ một người có ảnh hưởng mà cả hai bên tin tưởng giải quyết tranh chấp, hoặc sử dụng các nhóm biện pháp phi chính thức”. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp FDI lại có xu hướng sử dụng những cách thức khác như “lập hợp đồng có điều khoản khuyến khích và tổ chức thực hiện để đảm bảo việc tuân thủ hợp đồng” (VCCI và USAID, 2019).

54

cho Việt Nam được tổng hợp theo Bảng 3.1 dưới đây.

Bảng 3.1. Các khía cạnh của chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh

STT Khía cạnh

Được phản ánh qua

1

Sự tham gia của người dân

Mức độ tham gia của người dân vào nền hành chính công, chất lượng bầu cử

2

Trách nhiệm giải trình

Sự tương tác và đáp ứng nhu cầu người dân của chính quyền địa phương

3

Minh bạch

Mức độ công khai thông tin của chính quyền địa phương

4

Kiểm soát tham nhũng

Cảm nhận về mức độ kiểm soát tham nhũng của chính quyền tại địa phương

5

Chất lượng chính sách

Sự năng động, sáng tạo của chính quyền trong việc thực hiện các quy định chính sách, đảm bảo môi trường kinh doanh thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp và khu vực tư nhân nói chung

6

Hiệu quả chính quyền

Chất lượng dịch vụ công: gồm thủ tục hành chính công và cung ứng các dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo nghề, tòa án, cung cấp cơ sở hạ tầng, đảm bảo an ninh, trật tự…

Nguồn: Đề xuất của tác giả

Xét điều kiện chuỗi thời gian công bố và độ tin cậy của thang đo, các chỉ số

thành phần của PAPI và PCI giai đoạn 2011-2018 được khai thác cho việc xây dựng

thước đo thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh tại Việt Nam. Lưu ý rằng, Bảng 3.1

không bao hàm các khía cạnh về tính ổn định chính trị (có trong WGI) và pháp quyền

(có trong WGI và IQI). Tính ổn định chính trị giữa các địa phương không có nhiều

khác biệt và số liệu Việt Nam không cho phép thu thập dữ liệu thuộc khía cạnh này.

Khía cạnh pháp quyền dù được nhắc tới trong PCI, nhưng chỉ số thành phần thiết chế

pháp lý của PCI chỉ đo lường lòng tin của doanh nghiệp tư nhân đối với hệ thống tòa

án, tư pháp của tỉnh/thành phố, nên chỉ có thể coi như một loại dịch vụ công, thay vì

thể hiện khía cạnh hiệu lực của hệ thống pháp luật trên đầy đủ các mặt như chất lượng

của thực thi hợp đồng, quyền sở hữu, lực lượng cảnh sát, các hoạt động của bộ máy

pháp luật, nguy cơ tội phạm… Trong khi đó, như đã phân tích ở mục 3.1.2, hệ thống

tòa án của Việt Nam hầu như chưa được người dân và doanh nghiệp tin tưởng.

Căn cứ các khía cạnh nêu trên của thể chế quản trị địa phương, đối chiếu với

các chỉ số thành phần của PAPI và PCI, các chỉ số thành phần được phân nhóm theo

55

từng khía cạnh và mô tả tại Bảng 3.2.

Bảng 3.2. Phân nhóm các chỉ số thành phần của PAPI và PCI

STT Khía cạnh Các chỉ số của PAPI và PCI phản ánh khía cạnh thể chế quản trị

1

Sự tham gia của người dân

PAPI11: Tri thức công dân (sự hiểu biết của công dân về quyền và hệ thống bầu cử) PAPI12: Cơ hội tham gia (tỷ lệ tham gia của người dân về các hoạt động bầu cử tại địa phương) PAPI13: Chất lượng bầu cử (mức độ dân chủ trong bầu cử) PAPI14: Đóng góp tự nguyện (mức độ tham gia đóng góp tài chính và đóng góp cho các quyết sách tại địa phương)

2

Trách nhiệm giải trình

PAPI31: Tiếp xúc với chính quyền (mức độ và hiệu quả tiếp xúc với chính quyền địa phương trong việc giải quyết khúc mắc) PAPI32: Đáp ứng kiến nghị của người dân (Mức độ đóng góp của người dân trong việc xây dựng chính quyền, mức độ gửi khiếu nại tố cáo của người dân và hiệu quả giải quyết của chính quyền địa phương) PAPI33: Hiệu quả của Ban thanh tra nhân dân (hoạt động thành lập và mức độ hoạt động hiệu quả của Ban Thanh tra nhân dân) PAPI3: Tổng hợp dữ liệu PAPI31, PAPI32, PAPI33

3

Minh bạch PAPI21: Công khai danh sách hộ nghèo (mức độ công bố và độ chính xác

của thông tin về hộ nghèo tại địa phương) PAPI22: Công khai thu, chi ngân sách cấp xã/phường (mức độ công bố và độ chính xác của thông tin về thu chi ngân sách) PAPI23: Quy hoạch/kế hoạch sử dụng đất, khung giá đền bù (mức độ thực hiện đúng quy hoạch/kế hoạch sử dụng đất tại địa phương)

4

Kiểm soát tham nhũng

PAPI41: Kiểm soát tham nhũng trong chính quyền (mức độ phải chi các khoản chi phí không chính thức trong những thủ tục hành chính công như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy phép xây dựng) PAPI42: Kiểm soát tham nhũng trong cung ứng dịch vụ công (mức độ phải chi các khoản chi phí không chính thức cho các dịch vụ công như khám chữa bệnh, học tiểu học) PAPI43: Công bằng trong tuyển dụng vào nhà nước (mức độ phải chi các khoản chi phí không chính thức hoặc sử dụng quan hệ cá nhân cho việc xin việc làm trong cơ quan nhà nước) PAPI44: Quyết tâm chống tham nhũng (Mức độ người dân bị vòi vĩnh hối lộ, mức độ tố cáo và xử lý đối với hành vi vòi vĩnh hối lộ)

5

Chất lượng chính sách

PCI2: Tiếp cận đất đai (một khía cạnh phản ánh chính sách địa phương liên quan đến mặt bằng sản xuất, kinh doanh) PCI4: Chi phí thời gian (đo mức độ thanh tra, kiểm tra của chính quyền địa phương đối với hoạt động doanh nghiệp) PCI5: Chi phí không chính thức (đo các khoản chi phí mà doanh nghiệp phải trả một cách không chính thức và các trở ngại do những khoản chi phí không chính thức này gây ra đối với hoạt động của doanh nghiệp) PCI7: Tính năng động (mức độ nắm bắt quy định và thực hiện quy định một cách linh hoạt, sáng tạo; sáng kiến của chính quyền địa phương, khả năng giải quyết vướng mắc khó khăn cho doanh nghiệp)

56

STT Khía cạnh Các chỉ số của PAPI và PCI phản ánh khía cạnh thể chế quản trị

6

Hiệu quả chính quyền

Có thể tách thành 2 nhóm 6.1. Thủ tục hành chính công PCI1: Chi phí gia nhập thị trường (đánh giá về thủ tục và thời gian đăng ký kinh doanh) PAPI51: Dịch vụ chứng thực/xác nhận (chất lượng dịch vụ và mức độ hài lòng của người dân đối với hoạt động chứng thực/xác nhận tại địa phương) PAPI52: Dịch vụ cấp giấy phép xây dựng (chất lượng dịch vụ và mức độ hài lòng của người dân đối với hoạt động cấp giấy phép xây dựng) PAPI53: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (chất lượng dịch vụ và mức độ hài lòng của người dân đối với hoạt động cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) PAPI54: Thủ tục hành chính cấp xã/phường (chất lượng dịch vụ và mức độ hài lòng của người dân đối với các thủ tục hành chính ở cấp xã/phường) 6.2. Cung ứng dịch vụ công PCI3: Dịch vụ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp (đánh giá mức độ cung cấp thông tin về kế hoạch và các văn bản pháp lý cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp) PCI8: Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp (đánh giá số lượng và mức độ hiệu quả của các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp của chính quyền địa phương) PCI9: Đào tạo lao động (đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông và đào tạo nghề, dịch vụ giới thiệu việc làm tại địa phương) PCI10: Thiết chế pháp lý (mức độ tin tưởng vào hệ thống pháp luật, hoạt động của tòa án, tình hình an ninh trật tự) PAPI61: Y tế công lập (chất lượng bệnh viện, các chính sách bảo hiểm y tế và dịch vụ y tế công ở địa phương) PAPI62: Giáo dục tiểu học công lập (chất lượng trường học và việc dạy học tiểu học tại địa phương) PAPI63: Cơ sở hạ tầng căn bản (chất lượng cung ứng điện, nước, đường xá, dịch vụ thu gom rác thải tại địa phương) PAPI64: Đảm bảo an ninh, trật tự (mức độ an ninh và tội phạm tại tại địa phương)

Ghi chú: Trong bảng 3.2, chỉ số PCI6 - Cạnh tranh bình đẳng được loại bỏ do thiếu dữ liệu giai đoạn 2011-2012. Các chỉ số PAPI31, PAPI32 và PAPI33 được loại bỏ do PAPI32 thiếu dữ liệu 2011-2015, PAPI33 thiếu dữ liệu 2018. Thay vào đó, chỉ số nội dung PAPI3 được sử dụng để đại diện cho khía cạnh trách nhiệm giải trình.

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

3.2.2. Kiểm định độ tin cậy của thang đo

57

Trước khi tiến hành phân tích nhân tố, các kiểm định về độ phù hợp của số liệu với phương pháp phân tích nhân tố (Cronbach’s Alpha) và điều kiện thực hiện phân tích nhân tố (KMO test và Bartlett test) cần được thực hiện. Bảng 3.3 thể hiện hệ số

Cronbach's Alpha của các nhóm biến theo từng khía cạnh. Theo thông lệ, Cronbach's Alpha có thể chấp nhận ở mức lớn hơn 0,6. Ở đây, duy nhất nhóm biến cung ứng dịch vụ công có Cronbach's Alpha dưới 0,6.

Bảng 3.3. Kiểm định Cronbach’s Alpha về độ phù hợp của số liệu

Các chỉ số của PAPI và PCI được đo Cronbach's Alpha

STT Khía cạnh 1 2 3 4 5 6

0,626 0,624 0,819 0,759 0,621 0,582

Sự tham gia của người dân PAPI11, PAPI12, PAPI13, PAPI14 Trách nhiệm giải trình PAPI3 Minh bạch PAPI21, PAPI22, PAPI23 Kiểm soát tham nhũng PAPI41, PAPI42, PAPI43, PAPI44 Chất lượng chính sách PCI2, PCI4, PCI5, PCI7 Thủ tục hành chính công: PCI1 Hiệu quả chính quyền PAPI51, PAPI52, PAPI53, PAPI54 Cung ứng dịch vụ công PCI3, PCI8, PCI9, PCI10 PAPI61, PAPI62, PAPI63, PAPI64

Nguồn: Tính toán của tác giả

Tuy nhiên, nếu các chỉ số PAPI61-64 được loại bỏ, Cronbach's Alpha của nhóm biến cung ứng dịch vụ công là 0,684, đạt mức yêu cầu. Nội dung này cần được lưu ý trong phần phân tích nhân tố tiếp theo.

Bảng 3.4 là kết quả kiểm định điều kiện thực hiện phân tích nhân tố. Trong đó, KMO test là kiểm định tính tương thích của số liệu và yêu cầu tối thiểu hệ số KMO phải lớn hơn 0,6. Kết quả ở Bảng 3.4 cho thấy hệ số KMO là 0,784, nghĩa là kiểm định cho kết quả đạt yêu cầu, số liệu phù hợp để sử dụng phương pháp phân tích nhân tố.

Bảng 3.4. Kiểm định KMO and Bartlett về điều kiện thực hiện phân tích nhân tố

Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. Bartlett's Test of Sphericity

Approx. Chi-Square df Sig.

0,784 6203,134 406 0,000

Nguồn: Tính toán của tác giả

58

Bartlett’s test of sphericity là kiểm định về việc các biến phải có tương quan cao với nhau hay không (kiểm tra xem ma trận các biến có phải ma trận đơn vị không). Nếu các biến không tương quan hoặc tương quan ít thì phân tích nhân tố không có ý nghĩa. Giả thuyết Ho trong kiểm định này là ma trận các biến là ma trận đơn vị (identity matrix). Kết quả ở Bảng 3.4 cho thấy p-value (Sig.) của Bartlett test là 0.00, ta có thể bác bỏ Ho. Như vậy các kiểm định đều cho kết quả thỏa mãn điều kiện phân tích nhân tố.

3.2.3. Phân tích nhân tố khám phá

Từ phân tích tại mục 3.2.2, 8 chỉ số thành phần của PCI và 20 chỉ số PAPI được đưa vào mô hình nhân tố. Sau một số thử nghiệm, nhóm các chỉ số thành phần PAPI61- 64 lần lượt được loại bớt để giảm độ phân tán, đồng thời các chỉ số PCI1 và PAPI44 được bỏ ra khỏi mô hình để tránh làm nhiễu kết quả tính toán (chi tiết về quá trình thử nghiệm xem tại Phụ lục 3). Kết quả cuối cùng là bảng ma trận xoay gồm 5 nhân tố như mô tả tại Bảng 3.5. Lưu ý rằng, khi kiểm tra lại Cronbach Alpha, KMO test và Bartlett test với nhóm biến được giữ lại cuối cùng, chúng ta có kết quả hoàn toàn ủng hộ việc sử dụng phương pháp phân tích nhân tố (xem Phụ lục 4 và 5).

Bảng 3.5. Ma trận xoay các nhân tố thể chế

Component

1

2

3

4

5

0,783

PCI2

0,584

PCI4

0,833

PCI5

0,680

PCI7

0,622

PCI3

0,693

PCI8

0,748

PCI9

0,561

PCI10

PAPI11

0,788

PAPI12

0,649

PAPI13

0,546

PAPI21

0,744

PAPI22

0,790

PAPI3

0,607

PAPI41

0,878

PAPI42

0,864

PAPI43

0,843

PAPI51

0,578

PAPI52

0,742

PAPI53

0,566

PAPI54

0,593

Nguồn: Tính toán của tác giả

59

Năm nhân tố này được diễn giải tại Bảng 3.6 như sau:

Bảng 3.6. Các nhân tố và chỉ số thành phần

Các chỉ số thành phần được nhóm vào nhân tố

Nhân tố

Định danh cho nhóm biến

1

Dân chủ (gồm các khía cạnh Sự tham gia của người dân, Minh bạch và Trách nhiệm giải trình) Tên biến: DEM

PAPI11: Tri thức công dân (sự hiểu biết của công dân về quyền và hệ thống bầu cử) PAPI12: Cơ hội tham gia (tỷ lệ tham gia của người dân về các hoạt động bầu cử tại địa phương) PAPI13: Chất lượng bầu cử (mức độ dân chủ trong bầu cử) PAPI21: Công khai danh sách hộ nghèo (mức độ công bố và độ chính xác của thông tin về hộ nghèo tại địa phương) PAPI22: Công khai thu, chi ngân sách cấp xã/phường (mức độ công bố và độ chính xác của thông tin về thu chi ngân sách) PAPI3: Trách nhiệm giải trình đối với người dân (tiếp xúc với chính quyền, đáp ứng kiến nghị của người dân, hiệu quả của Ban thanh tra nhân dân)

2

Tham nhũng (tương đương khía cạnh Kiểm soát tham nhũng) Tên biến: COR

PAPI41: Kiểm soát tham nhũng trong chính quyền (mức độ phải chi các khoản chi phí không chính thức trong thủ tục hành chính công như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy phép xây dựng) PAPI42: Kiểm soát tham nhũng trong cung ứng dịch vụ công (mức độ phải chi các khoản chi phí không chính thức cho các dịch vụ công như khám chữa bệnh, học tiểu học) PAPI43: Công bằng trong tuyển dụng vào nhà nước (mức độ phải chi các khoản chi phí không chính thức hoặc sử dụng quan hệ cá nhân cho việc xin việc làm trong cơ quan nhà nước)

3

Dịch vụ công (hiệu quả của chính quyền trong việc cung ứng dịch vụ công) Tên biến: SER

PCI3: Dịch vụ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp (đánh giá mức độ cung cấp thông tin về kế hoạch của tỉnh và các văn bản pháp lý cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp) PCI8: Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp (đánh giá số lượng và hiệu quả của các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp của chính quyền địa phương) PCI9: Đào tạo lao động (đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông và đào tạo nghề, dịch vụ giới thiệu việc làm tại địa phương) PCI10: Thiết chế pháp lý (mức độ tin tưởng vào hệ thống pháp luật, hoạt động của tòa án, tình hình an ninh trật tự)

4

Chính sách (tương đương khía cạnh chất lượng chính sách) Tên biến: POL

PCI2: Tiếp cận đất đai (một khía cạnh phản ánh chính sách địa phương liên quan đến mặt bằng sản xuất, kinh doanh) PCI4: Chi phí thời gian (đo mức độ thanh tra, kiểm tra của chính quyền địa phương đối với hoạt động doanh nghiệp) PCI5: Chi phí không chính thức (đo các khoản chi phí mà doanh nghiệp phải trả một cách không chính thức và các trở ngại do những khoản chi phí này gây ra đối với hoạt động của doanh nghiệp) PCI7: Tính năng động (mức độ nắm bắt quy định và thực hiện quy định một cách linh hoạt, sáng tạo; sáng kiến của chính quyền địa phương, khả năng giải quyết vướng mắc khó khăn cho doanh nghiệp)

60

Các chỉ số thành phần được nhóm vào nhân tố

Nhân tố

Định danh cho nhóm biến

5

Hành chính công (hiệu quả của chính quyền trong việc giải quyết thủ tục hành chính công) Tên biến: PUB

PAPI51: Dịch vụ chứng thực/xác nhận (chất lượng dịch vụ và mức độ hài lòng của người dân đối với hoạt động chứng thực/xác nhận tại địa phương) PAPI52: Dịch vụ cấp giấy phép xây dựng (chất lượng dịch vụ và mức độ hài lòng của người dân đối với hoạt động cấp giấy phép xây dựng) PAPI53: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (chất lượng dịch vụ và mức độ hài lòng của người dân đối với hoạt động cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) PAPI54: Thủ tục hành chính cấp xã/phường (chất lượng dịch vụ và mức độ hài lòng của người dân đối với các thủ tục hành chính ở cấp xã/phường)

Nguồn: Tính toán của tác giả

3.2.4. Xây dựng chỉ số thể chế quản trị địa phương tổng hợp

Năm nhân tố này được thuật toán tính toán và được chuẩn hóa để đưa về thang

điểm 10 theo phương pháp của VCCI & USAID (2018) như sau:

(cid:22)(cid:6)(cid:8) = 9 × + 1 (2(cid:6)(cid:8) − 3452(cid:6)(cid:8)) 3672(cid:6)(cid:8) − 3452(cid:6)(cid:8)

Trong đó:

P là giá trị biến thể chế quản trị của tỉnh/thành phố sau khi chuẩn hóa F là điểm nhân tố được tính toán bởi phương pháp phân tích nhân tố MinF là điểm nhân tố thấp nhất trong chuỗi số liệu MaxF là điểm nhân tố cao nhất trong chuỗi số liệu i đại diện cho tỉnh và t đại diện cho năm.

Sử dụng tỷ trọng của các nhân tố trong việc giải thích sự thay đổi của tập hợp giá trị (dựa trên Rotation Sums of Squared Loadings được chuẩn hóa để tổng bằng 1 theo Bảng 3.7)20, chỉ số thể chế quản trị địa phương tổng hợp (PGI - Provincial Governance Index) được tính toán theo công thức sau:

PGI = 0,255 x Dân chủ + 0,208 x Kiểm soát tham nhũng + 0,192 x Dịch vụ công + 0,190 x Chính sách + 0,155 x Hành chính công

Thống kê mô tả chuỗi PGI và các chỉ số thành phần được thể hiện trong Bảng 3.8. Do các chỉ số thành phần biến đổi từ 1 đến 10, với công thức tính ở trên, PGI của

61

20 Theo Givens (2010), các biến càng tương quan cao hơn với tập hợp các biến thể chế quản trị thì cần được gán trọng số lớn hơn.

các tỉnh/thành phố Việt Nam trong giai đoạn 2011-2018 biến thiên trong khoảng 3,1 đến 7,7 điểm và mức trung bình là 5,7 điểm. Chỉ số càng nhỏ có nghĩa thể chế quản trị tại địa phương càng yếu kém và ngược lại.

Bảng 3.7. Tổng phương sai được giải thích (Total Variance Explained)

Rotation Sums of Squared Loadings

Component

Tỷ trọng nhân tố điều chỉnh (%)

% of Variance

Cumulative %

Total

1

3,518

15,298

15,298

25,461

2

2,874

12,496

27,793

20,798

3

2,659

11,560

39,353

19,240

4

2,626

11,416

50,769

19,001

5

2,142

9,312

60,082

15,500

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 3.8. Thống kê mô tả chuỗi chỉ số thể chế quản trị (giai đoạn 2011-2018)

Obs

Mean

Std. Dev.

Min

Max

Dân chủ

500

5,063

1,715

1,000

10,000

Kiểm soát tham nhũng

500

5,765

1,630

1,000

10,000

Dịch vụ công Chính sách

500 500

6,663 4,553

1,289 1,461

1,000 1,000

10,000 10,000

Hành chính công

500

6,576

1,447

1,000

10,000

PGI

500

5,654

0,703

3,094

7,681

Ghi chú: Số liệu PAPI 2014 thiếu 2 tỉnh Đồng Tháp và Bắc Giang, PAPI 2018 thiếu dữ liệu PAPI2 của Quảng Ninh và Đồng Tháp, do vậy chuỗi chỉ số chỉ gồm 500 quan sát thay vì 504 quan sát như kỳ vọng.

Nguồn: Tính toán của tác giả

Do sử dụng phương pháp phân tích nhân tố, nên hệ số tương quan giữa các chỉ số thành phần là gần như bằng 0 (kiểm định với hệ số tương quan Pearson, Kendall, Spearman đều ủng hộ giả thuyết này), như minh chứng tại Bảng 3.9. dưới đây.

Bảng 3.9. Hệ số tương quan Pearson giữa các biến thể chế quản trị được xây dựng

Dân chủ (DEM) Tham nhũng (COR) Dịch vụ công (SER) Chính sách (POL) Hành chính công (PUB) PGI

DEM 1,000 0,000 0,000 0,000 0,000 0,621**

COR 1,000 0,000 0,000 0,000 0,482**

SER 1,000 0,000 0,000 0,353**

POL 1,000 0,000 0,395**

PUB 1,000 0,319**

PGI 1,000

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

Nguồn: Tính toán của tác giả

62

3.2.5. So sánh PGI với PAPI và PCI

Có thể nhận thấy, trong 5 chỉ số thành phần của PGI tại Bảng 3.6, có 2 chỉ số chỉ gồm các chỉ số thành phần của PCI và 3 chỉ số chỉ gồm các chỉ số của PAPI. Điều này cho thấy góc nhìn của doanh nghiệp và người dân là khá khác biệt khi cùng nhận định về năng lực quản trị của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, thông qua phương pháp phân tích nhân tố, chúng ta vẫn có thể nhận biết rõ ràng xu hướng phản ánh các khía cạnh của thể chế quản trị để lập nên 5 chỉ số thành phần tại Bảng 3.6.

Hình 3.1 cho ta so sánh tương quan giữa PGI và các chỉ số PAPI, PCI (tính trung bình trong giai đoạn 2011-2018). Rõ ràng, việc có 3 chỉ số thành phần được tạo thành từ các chỉ số PAPI khiến PGI gần gũi với PAPI hơn, thể hiện ở việc các điểm rất tập trung quanh đường xu thế. Ngược lại, các điểm khá phân tán trong biểu đồ tương quan giữa PGI và PCI đã cho thấy tỷ trọng của PCI trong PGI thấp hơn PAPI khá nhiều. Tuy nhiên, điểm quan trọng là giữa PGI và PCI tồn tại mối tương quan thuận chiều. Một vài tỉnh/thành phố nằm cách xa đường xu thế ở hai đồ thị thể hiện sự chênh lệch giữa PAPI và PCI tại các địa phương này, ví dụ Đồng Tháp có PCI đứng thứ hai cả nước, nhưng PAPI xếp trong nhóm 10 tỉnh cuối bảng xếp hạng, do vậy khoảng cách của điểm Đồng Tháp với đường xu thế trên biểu đồ thứ nhất là xa nhất. Ngược lại, Hà Tĩnh xếp thứ hai về chỉ số PAPI, nhưng chỉ đạt thứ hạng 29 về PCI, khiến khoảng cách của điểm Hà Tĩnh cũng cách khá xa đường xu thế trên biểu đồ thứ hai.

Hình 3.1. So sánh PGI và các chỉ số PAPI, PCI, tính trung bình giai đoạn 2011-2018

Nguồn: Tính toán của tác giả

63

Sự ưu việt của PGI so với PAPI và PCI là các chỉ số thành phần của PGI phản ánh toàn diện hơn các khía cạnh của chất lượng thể chế quản trị tại Việt Nam. Ví dụ,

Bảng 3.2 cho thấy PAPI rõ ràng không đề cập đến khía cạnh chất lượng chính sách đảm bảo môi trường kinh doanh và phát triển kinh tế tư nhân, vốn là vai trò không thể thiếu của khu vực công. Trong khi đó, PCI hoàn toàn thiếu vắng khía cạnh trách nhiệm giải trình, vốn là thành phần không thể thiếu của các chỉ số WGI và IQI. Hơn thế, như đã minh chứng tại Bảng 3.9, do sử dụng phương pháp phân tích nhân tố, nên hệ số tương quan giữa các chỉ số thành phần là bằng 0, điều hoàn toàn không có được giữa các chỉ số thành phần của PCI hay PAPI. Do vậy, cả 5 chỉ số thành phần của PGI có thể đưa vào mô hình phân tích hồi quy để nghiên cứu đầy đủ các khía cạnh tác động của chất lượng thể chế quản trị đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam mà không cần e ngại vấn đề đa cộng tuyến.

3.3. Thực trạng chất lượng thể chế quản trị của các tỉnh/thành phố Việt Nam

3.3.1. Tổng quan về chất lượng thể chế quản trị của các tỉnh/thành phố Việt Nam

Hình 3.2 trình bày bảng xếp hạng PGI trung bình giai đoạn 2011-2018 với điểm số sắp xếp từ cao xuống thấp của 63 tỉnh/thành phố. Dễ nhận thấy bốn vị trí dẫn đầu lần lượt là Long An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Đà Nẵng. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, bởi các tỉnh/thành phố này thường dẫn đầu trên các bảng xếp hạng PAPI (Long An 3 lần đứng trong top 5, Hà Tĩnh 4 lần, Quảng Bình 7 lần, Đà Nẵng 2 lần) và PCI (Long An 3 lần đứng trong top 5, Đà Nẵng 4 lần xếp hạng nhất).

Mười ba tỉnh ở vị trí kế tiếp trên bảng xếp hạng (có chỉ số PGI thuộc nhóm tốt) lần lượt là Quảng Trị, Bến Tre, Thái Bình, Đồng Tháp, Bình Định, Cần Thơ, Nam Định, Quảng Nam, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Lào Cai, Thanh Hóa và Bà Rịa - Vũng Tàu. Đây cũng là những tỉnh có chỉ số PAPI và/hoặc PCI thuộc nhóm cao trong giai đoạn 2011-2018, ví dụ Quảng Trị có 7/8 năm đứng trong nhóm 10 tỉnh dẫn đầu về PAPI, hoặc Đồng Tháp liên tục đứng trong tốp 5 PCI của cả nước.

Trong nhóm 8 tỉnh đứng cuối bảng, nếu như những cái tên như Lai Châu, Hà Giang, Cao Bằng, Kon Tum không gây thắc mắc, thì sự xuất hiện của Hải Phòng hay Khánh Hòa có thể đặt ra câu hỏi với người đọc. Trên thực tế, dù PCI của Hải Phòng và Khánh Hòa không quá thấp, nhưng PAPI của hai địa phương này hầu như luôn ở nhóm 20 tỉnh cuối bảng.

64

Hai địa phương cũng cần lưu ý là TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội, đều đứng ở nửa cuối của nhóm các tỉnh có PGI ở mức trung bình. Mặc dù TP. Hồ Chí Minh có 6 năm trong tốp 10 PCI, Hà Nội cũng có chỉ số PCI liên tục được cải thiện trong giai đoạn 2011-2018, nhưng PAPI của hai địa phương lớn nhất Việt Nam lại liên tục sụt giảm về

xếp hạng (thấp nhất là thứ tự 59 của TP. Hồ Chí Minh vào năm 2018 và thứ tự 58 của Hà Nội vào năm 2016).

Hình 3.3 và 3.4 là biểu đồ hình sao, mô tả chi tiết 5 khía cạnh thể chế quản trị

của từng địa phương trong giai đoạn 2011-2018, trong đó mỗi chiều cạnh của biểu đồ

thể hiện điểm trung bình (trên thang điểm 10) của một chỉ số thành phần PGI. Biểu đồ

này cho chúng ta nhận diện điểm mạnh và điểm yếu về thể chế của từng tỉnh/thành

phố. Ví dụ, cùng trong nhóm 4 tỉnh đứng đầu, Long An có các khía cạnh thể chế tương

đối đồng đều, nhưng rõ ràng Hà Tĩnh và Quảng Bình còn rất yếu về chất lượng chính

sách, trong khi kiểm soát tham nhũng tại Đà Đẵng có phần hạn chế. Tương tự như vậy,

hai trung tâm kinh tế - xã hội lớn nhất quốc gia là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đều

được đánh giá nổi trội về chất lượng dịch vụ công, nhưng lại yếu kém ở khía cạnh chất

lượng chính sách của chính quyền địa phương.

Hình 3.5 cho thấy sự biến đổi của chỉ số thể chế quản trị của các tỉnh/thành phố

Việt Nam trong giai đoạn 2011-2018 thông qua điểm % thay đổi PGI. Theo đồ thị này,

¼ số tỉnh/thành phố Việt Nam có chất lượng thể chế quản trị giảm sút trong giai đoạn

2011-2018. Điều đáng ngạc nhiên là trong số 10 tỉnh/thành phố có PGI giảm từ 5 điểm

% trở lên, xuất hiện những cái tên thuộc nhóm có chất lượng thể chế quản trị tốt nhất

Việt Nam trong cả giai đoạn nghiên cứu như Long An, Quảng Bình, Hà Tĩnh. Ngay cả

Đà Nẵng cũng chỉ tăng điểm PGI hơn 1% trong giai đoạn nghiên cứu. Tuy vậy, xu thế

chung của cả nước là chất lượng thể chế quản trị được cải thiện theo thời gian. Trong

số 14 tỉnh/thành phố đạt mức tăng điểm PGI cao nhất (trên 20 điểm %), đa phần thuộc

về các tỉnh phía bắc (thuộc Đồng bằng sông Hồng và Trung du và miền núi phía Bắc),

trong đó có khá nhiều địa phương thuộc nhóm có chất lượng thể chế quản trị yếu hay

trung bình như Hải Phòng, Cao Bằng, Lâm Đồng, Ninh Thuận...

Khoảng cách giữa tỉnh đứng cuối và tỉnh đứng đầu về PGI đã thu hẹp đáng kể

trong giai đoạn 2011-2018: từ 3,6 điểm (giữa Cao Bằng và Bà Rịa - Vũng Tàu)

xuống còn 1,9 điểm (giữa Khánh Hòa và Bến Tre). Thực tế này được VCCI và

USAID (2019) lý giải như sau: Những địa phương đứng cuối bảng xếp hạng thường

có lợi thế của “người đi sau” nhờ việc tham khảo, học hỏi và ứng dụng những cách

làm hay và thực tiễn tốt đã có từ những địa phương ở tốp đầu, từ đó giúp cải thiện

môi trường thể chế của họ. Ngược lại, sau một vài năm thực hiện nhiều sáng kiến đối

với những khâu dễ đột phá, dường như những tỉnh đi đầu lại gặp phải hiện tượng

“đụng trần thể chế”, nên khó có thể tiếp tục tăng tốc cải cách và nâng cao chất lượng

65

thể chế quản trị.

t

6.71 6.65

t t

ấ R

6.55 6.53

6.43 6.40 6.36 6.32

t

ố T

á h K

6.20 6.15 6.13 6.12 6.09 6.09 6.07 6.02 6.00 5.95 5.90 5.90 5.90 5.90 5.85 5.81 5.78 5.76 5.73 5.68 5.67 5.66 5.64 5.59 5.58 5.57 5.57 5.57 5.55 5.52 5.51 5.50 5.48 5.48 5.48 5.46 5.42 5.42

h n ì b g n u r T

u ế Y

5.31 5.30 5.29 5.28 5.25 5.23 5.14 5.08 5.03 4.96 4.94 4.93 4.91 4.91

Long An 1 Hà Tĩnh 2 Quảng Bình 3 Đà Nẵng 4 Quảng Trị 5 Bến Tre 6 Thái Bình 7 Đồng Tháp 8 Bình Định 9 Cần Thơ 10 Nam Định 11 Quảng Nam 12 Bắc Ninh 13 Thái Nguyên 14 Lào Cai 15 Thanh Hóa 16 Bà Rịa - Vũng Tàu 17 Hải Dương 18 Vĩnh Phúc 19 Hà Nam 20 Phú Thọ 21 Vĩnh Long 22 Bình Phước 23 Ninh Bình 24 Tiền Giang 25 Bắc Giang 26 Hòa Bình 27 Bình Dương 28 Nghệ An 29 Sóc Trăng 30 Tuyên Quang 31 Hậu Giang 32 Gia Lai 33 Sơn La 34 Bắc Kạn 35 Thừa Thiên - Huế 36 Quảng Ngãi 37 Quảng Ninh 38 Trà Vinh 39 Tây Ninh 40 Lạng Sơn 41 Đồng Nai 42 Đắk Nông 43 Yên Bái 44 An Giang 45 Bạc Liêu 46 Lâm Đồng 47 Cà Mau 48 TP. Hồ Chí Minh 49 Kiên Giang 50 Hưng Yên 51 Ninh Thuận 52 Bình Thuận 53 Đắk Lắk 54 Hà Nội 55 Điện Biên 56 Phú Yên 57 Hải Phòng 58 Khánh Hòa 59 Kon Tum 60 Cao Bằng 61 Hà Giang 62 Lai Châu 63

4.80 4.72 4.66

0.00

1.00

2.00

3.00

4.00

5.00

6.00

7.00

8.00

Hình 3.2. Chỉ số thể chế quản trị trung bình 2011-2018 của các tỉnh/thành phố

Nguồn: Tính toán của tác giả

66

Nhóm PGI cao nhất

Nhóm PGI thấp nhất

Hình 3.3. Biểu đồ hình sao mô tả các chỉ số thành phần PGI

Nguồn: Tính toán của tác giả

67

Hình 3.4. Biểu đồ hình sao mô tả các chỉ số thành phần PGI (tiếp)

Nguồn: Tính toán của tác giả

68

Lâm Đồng Thái Nguyên Ninh Thuận Cao Bằng Trà Vinh Tuyên Quang Thái Bình Ninh Bình Hải Phòng Quảng Ninh Tây Ninh Bắc Giang Nghệ An Hà Nam Bình Thuận An Giang Phú Yên Hà Giang Hưng Yên Vĩnh Long Vĩnh Phúc Phú Thọ Kiên Giang Đắk Lắk Lai Châu Thừa Thiên - Huế Kon Tum Bạc Liêu Bến Tre Hải Dương Điện Biên Cần Thơ Lạng Sơn Sóc Trăng Bắc Ninh Đắk Nông Nam Định Cà Mau Hà Nội Bắc Kạn Quảng Ngãi Thanh Hóa Gia Lai Hậu Giang Đà Nẵng Bình Dương Khánh Hòa Hòa Bình Quảng Nam Yên Bái Quảng Trị Đồng Nai Hà Tĩnh Đồng Tháp Lào Cai Bình Phước Quảng Bình TP. Hồ Chí Minh Sơn La Bình Định Tiền Giang Long An Bà Rịa - Vũng Tàu

-30.0%

-20.0%

-10.0%

0.0%

10.0%

20.0%

30.0%

40.0%

Hình 3.5. Xu thế biến đổi PGI của các tỉnh/thành phố giai đoạn 2011-2018

Nguồn: Tính toán của tác giả

69

9

8

7

6

5

4

3

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Dân chủ

Kiểm soát tham nhũng

Dịch vụ công

Chính sách

Hành chính công

PGI

Hình 3.6 thể hiện sự thay đổi của PGI và từng khía cạnh chất lượng thể chế quản trị tính trung bình cả nước giai đoạn 2011-2018. Chúng ta dễ nhận thấy các xu hướng khác nhau: khía cạnh dịch vụ công và thủ tục hành chính công được nâng cao đáng kể, kiểm soát tham nhũng chỉ được cải thiện chút ít, chất lượng chính sách giảm mạnh trong giai đoạn 2011-2014 và trên đà phục hồi trong vài năm trở lại đây, riêng khía cạnh dân chủ ngày càng giảm sút. Kết quả chung là qua 8 năm, điểm PGI trung bình cả nước chỉ tăng từ 5,6 lên 6,0.

Hình 3.6. PGI và các chỉ số thành phần tính trung bình cả nước, 2011-2018

Nguồn: Tính toán của tác giả

Dường như các hoạt động cải cách hành chính công của chính phủ trong những năm qua đã có tác dụng rõ rệt. Sự gia tăng chất lượng dịch vụ công theo thời gian cũng là kết quả tất yếu với các nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh quốc gia. Vấn đề kiểm soát tham nhũng tuy đạt được kết quả bước đầu nhưng vẫn còn hạn chế. Đáng lo ngại là sự tham gia của người dân, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương có xu hướng đi xuống khá rõ ràng, nhưng đây cũng có thể là hạn chế của thước đo cảm nhận của người dân, khi mà trình độ dân trí gia tăng có thể khiến người dân đòi hỏi quyền dân chủ cao hơn. Riêng với chất lượng chính sách, sự cải thiện về điểm số trong giai đoạn 2014-2018 đã thể hiện sự quan tâm của chính quyền địa phương trong việc đáp ứng kỳ vọng từ phía doanh nghiệp.

3.3.2. Thể chế quản trị của các tỉnh/thành phố theo từng chỉ số thành phần

3.3.2.1. Dân chủ

70

Như trình bày tại Bảng 3.6, khía cạnh dân chủ trong nghiên cứu này là sự tổng hợp của ba nhóm chỉ số PAPI: Sự tham gia của người dân (vào hoạt động bầu cử và

8.5

Hà Tĩnh

Thái Bình

Quảng Trị

7.5

Thái Nguyên

Quảng Bình

6.5

Đà Nẵng

5.5

Hà Nội

Hải Phòng

Cần Thơ

TP. Hồ Chí Minh

4.5

Vĩnh Long

Đồng Tháp

Tiền Giang

Hậu Giang

3.5

Bạc Liêu

An Giang

Cà Mau

Sóc Trăng

Bình Thuận

Trà Vinh

Kiên Giang

2.5

Dân chủ

PGI

Expon. (Dân chủ)

tính dân chủ trong bầu cử), Minh bạch (mức độ công khai thông tin của chính quyền địa phương) và Trách nhiệm giải trình. Hình 3.7 cho ta nhận biết chung về chỉ số dân chủ của các tỉnh/thành phố Việt Nam trong tương quan với PGI.

Hình 3.7. Chỉ số dân chủ và PGI trung bình trong giai đoạn 2011-2018

Nguồn: Tính toán của tác giả

Điểm số dân chủ của các địa phương có xu hướng hội tụ trong khoảng 3,2 đến 6,3 điểm, ở mức rất thấp trên thang điểm 10. Khoảng cách giữa hai tỉnh/thành phố có điểm thấp nhất và điểm cao nhất lên tới 5 điểm, thể hiện sự chênh lệch lớn về đánh giá của người dân giữa các địa phương đối với các khía cạnh sự tham gia của người dân, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của chính quyền các tỉnh/thành phố.

Khi so sánh với PGI, một điều dễ nhận thấy là chỉ có 21 tỉnh/thành phố có mức điểm dân chủ cao hơn PGI, cho thấy dân chủ là khía cạnh thể chế yếu của 2/3 địa phương trên cả nước. Điều này có thể dự báo trước, bởi Hình 3.6 đã cho thấy xu hướng giảm sút điểm dân chủ của cả nước trong giai đoạn 2011-2018.

Đa số các tỉnh bị đánh giá yếu nhất về mặt thể chế này đều thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long (như Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu, An Giang…), ngay cả Đồng Tháp - vốn trong tốp 10 đứng đầu PGI cả nước - cũng có xếp hạng dân chủ đứng thứ 48. Kết quả là khu vực này có điểm số dân chủ thấp nhất toàn quốc.

71

Mặt khác, 5 tỉnh có thứ hạng tốt nhất về khía cạnh dân chủ đều trong nhóm 15 tỉnh đứng đầu PGI của cả nước, bao gồm: Hà Tĩnh, Thái Bình, Quảng Trị, Quảng Bình và Thái Nguyên. Trong số 5 thành phố trực thuộc trung ương, Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Hải Phòng đều có điểm dân chủ dưới mức trung bình cả nước. Ngay cả đối

với Cần Thơ và Đà Nẵng, dân chủ cũng là một trong hai mặt yếu nhất trong năm khía cạnh thể chế tại hai địa phương này.

Hình 3.8 cho chúng ta nhận biết xu thế thay đổi theo thời gian của chỉ số dân

chủ tại các thành phố trực thuộc trung ương. Cũng như xu hướng chung của cả nước

tại Hình 3.6, rõ ràng điểm dân chủ của Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh giảm sút rất mạnh

trong giai đoạn 2011-2018. Sự suy giảm của khía cạnh thể chế này tại Đà Nẵng có vẻ

nhẹ nhàng hơn. Hải Phòng và Cần Thơ có biến động rất lớn về chỉ số dân chủ trong 8

năm qua, kết quả cuối cùng cho thấy mức điểm năm 2018 của Cần Thơ thấp hơn hẳn

năm 2011, trong khi chênh lệch giữa hai mốc thời gian này tại Hải Phòng lại không

8

7

6

5

4

3

2

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Cần Thơ

Đà Nẵng

Hà Nội

Hải Phòng

TP. Hồ Chí Minh

đáng kể.

Hình 3.8. Chỉ số dân chủ của các thành phố trực thuộc trung ương, 2011-2018

Nguồn: Tính toán của tác giả

3.3.2.2. Kiểm soát tham nhũng

Cũng được hình thành từ các chỉ số PAPI, biến kiểm soát tham nhũng trong nghiên cứu này bao gồm các nội dung kiểm soát tham nhũng trong chính quyền, trong cung ứng dịch vụ công và công bằng trong tuyển dụng vào khu vực nhà nước (theo Bảng 3.6). Hình 3.9 mang đến bức tranh hầu như trái ngược với Hình 3.7.

72

Trong nhóm 10 tỉnh kiểm soát tham nhũng tốt nhất có tới 9 tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đây là lý do khu vực này đứng đầu cả nước về kiểm soát tham nhũng. Các địa phương đứng cuối bảng về khía cạnh thể chế này hầu như nằm ở vùng Đồng bằng sông Hồng (như Hải Phòng, Hà Nội, Quảng Ninh, Bắc Ninh), khiến khu vực này cũng có thứ hạng thấp nhất về kiểm soát tham nhũng. Trừ Cần Thơ, bốn

Tiền Giang

8.5

Long An

Sóc Trăng

Cần Thơ

Bến Tre

Cà Mau

7.5

Tây Ninh

Vĩnh Long

Trà Vinh

An Giang

Đồng Tháp

6.5

5.5

TP. Hồ Chí Minh

Đà Nẵng

4.5

Bình Phước

Bắc Ninh

Lào Cai

Kon Tum

Quảng Ninh

Hà Nội

3.5

Hải Phòng

2.5

PGI

Kiểm soát tham nhũng

Linear (Kiểm soát tham nhũng)

thành phố trực thuộc trung ương còn lại đều có điểm kiểm soát tham nhũng dưới mức trung bình, thậm chí đây có thể coi là vấn đề khủng hoảng tại Hải Phòng.

Hình 3.9. Chỉ số kiểm soát tham nhũng và PGI trung bình trong giai đoạn 2011-2018

Nguồn: Tính toán của tác giả

Xem xét chi tiết hơn về khoảng cách giữa các địa phương, điểm kiểm soát tham nhũng phần lớn dao động từ 4,5 đến 7,2 điểm. Tuy nhiên, khoảng cách giữa tỉnh đứng đầu và đứng cuối bảng xếp hạng lên tới gần 5,8, lớn nhất trong số 5 khía cạnh thể chế. Điều này cho thấy mức độ hiệu quả trong kiểm soát tham nhũng khá chênh lệch giữa các địa phương, hay nói cách khác điều này cũng thể hiện tính cục bộ và địa phương của vấn nạn tham nhũng21. Khi so sánh với PGI, số địa phương có mức điểm kiểm soát tham nhũng cao hơn PGI chiếm 52% cả nước, cho thấy khía cạnh thể chế này đạt ở mức trung bình so với các khía cạnh khác. Điều này cũng gợi nhớ đến tính ổn định tương đối của chỉ số này theo thời gian tại Hình 3.6.

Sự thay đổi theo thời gian của khía cạnh kiểm soát tham nhũng tại các thành phố trực thuộc trung ương được thể hiện tại Hình 3.10. Khác với xu thế giảm chung của chỉ số dân chủ ở Hình 3.8, tình hình kiểm soát tham nhũng tại các thành phố lớn rất khác nhau: gia tăng tại Cần Thơ và Hà Nội, sụt giảm tại TP. Hồ Chí Minh, có biến động nhưng mức điểm giữa năm 2011 và 2018 hầu như không thay đổi tại Đà Nẵng. Hải Phòng là địa phương xếp hạng kiểm soát tham nhũng trung bình giai đoạn 2011- 2018 thấp nhất quốc gia, nhưng khi so sánh giữa hai mốc thời gian này thì kết quả chung là chỉ số này đã có phần được cải thiện.

73

21 Thực trạng này được một số nghiên cứu trước đây khẳng định. Ví dụ, theo Bai và cộng sự (2013), một số nghiên cứu cho thấy tham nhũng cũng được “phân cấp” ở Việt Nam.

10

9

8

7

6

5

4

3

2

1

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Cần Thơ

Đà Nẵng

Hà Nội

Hải Phòng

TP. Hồ Chí Minh

Hình 3.10. Chỉ số kiểm soát tham nhũng của các thành phố trực thuộc trung ương, 2011-2018

Nguồn: Tính toán của tác giả

3.3.2.3. Dịch vụ công

Cũng được chỉ ra tại Bảng 3.6, chỉ số dịch vụ công trong nghiên cứu này được

hình thành từ một số chỉ số PCI, bao gồm các mặt dịch vụ cung cấp thông tin, đào tạo

lao động, hỗ trợ doanh nghiệp hay thiết chế pháp lý. Đây có lẽ là khía cạnh chất lượng

thể chế quản trị thể hiện tốt nhất sự phát triển của địa phương, điều này được minh

9

Đà Nẵng

Lào Cai

8.5

Quảng Ninh

8

Bắc Ninh

Hà Nội

TP. Hồ Chí Minh

7.5

Hải Phòng

7

Cần Thơ

6.5

6

Phú Yên

Lai Châu

Trà Vinh

5.5

Tiền Giang

Cà Mau

Điện Biên

5

4.5

Dịch vụ công

PGI

Expon. (Dịch vụ công)

chứng khá rõ trong Hình 3.11.

Hình 3.11. Chỉ số dịch vụ công và PGI trung bình trong giai đoạn 2011-2018

Nguồn: Tính toán của tác giả

74

Các tỉnh/thành phố trong tốp 10 hầu như đều là các trung tâm kinh tế của cả nước, hoặc nổi bật về thành tựu thu hút FDI trong những năm gần đây. Trừ Cần Thơ,

bốn thành phố trực thuộc trung ương có điểm dịch vụ công trên mức trung bình, chưa kể Đà Nẵng, Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đều có mặt trong tốp 10. Ngược lại, các vị trí cuối bảng xếp hạng hầu như hội tụ tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long hoặc vùng Trung du và miền núi phía Bắc, vốn là các khu vực có trình độ phát triển thấp hơn của đất nước. Đa số các tỉnh này cũng có PGI thuộc nhóm yếu hoặc trung bình.

Mặt khác, khoảng cách về chỉ số dịch vụ công giữa địa phương cao nhất và thấp nhất chưa đầy 3 điểm, trong khi 86% các tỉnh/thành phố chỉ dao động trong khoảng điểm 5,9 và 7,5. Điều này cho thấy sự khác biệt về hiệu quả cung ứng dịch vụ công giữa đa số các địa phương trên toàn quốc là không đáng kể. Ngoài ra, dịch vụ công cũng có thể coi là điểm sáng về chất lượng thể chế quản trị của hầu hết các địa phương, khi 61 tỉnh/thành phố có điểm dịch vụ công cao hơn PGI trung bình trong giai đoạn nghiên cứu.

10.0

9.0

8.0

7.0

6.0

5.0

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Cần Thơ

Đà Nẵng

Hà Nội

Hải Phòng

TP. Hồ Chí Minh

Đối với xu thế biến đổi theo thời gian, Hình 3.12 cho thấy chỉ số dịch vụ công tại 5 thành phố trực thuộc trung ương nói chung đều gia tăng trong giai đoạn 2011- 2018. Sự biến động của các địa phương này khá giống nhau: đều giảm mạnh vào năm 2012, gia tăng khá đều trong giai đoạn 2013-2017 (trừ Cần Thơ có một lần giảm mạnh vào 2015 và Đà Nẵng vào 2016), rồi đều giảm vào 2018 (trừ Đà Nẵng lại tăng nhẹ). Như đã nhắc đến ở trên, dường như sự biến đổi của dịch vụ công đi đôi với tình hình phát triển kinh tế, khi đà tăng trưởng quốc gia có phần giảm sút vào các năm 2011- 2012 cũng đi đôi với việc chỉ số dịch vụ công các địa phương giảm vào 2012, hay phải chăng sự suy giảm chỉ số này trong năm 2018 là hậu quả trễ của tăng trưởng kinh tế có phần đi xuống vào năm 2016.

Hình 3.12. Chỉ số dịch vụ công của các thành phố trực thuộc trung ương, 2011-2018

Nguồn: Tính toán của tác giả

75

3.3.2.4. Chất lượng chính sách

Tương tự như khía cạnh dịch vụ công, chất lượng chính sách cũng là chỉ số

được hình thành từ một nhóm các chỉ số PCI, bao gồm tính năng động của chính

quyền địa phương, chi phí thời gian hao phí cho hoạt động thanh tra, kiểm tra, chính

sách liên quan đến đất đai… Hình 3.13 cho thấy Đồng bằng sông Cửu Long một lần

nữa đứng đầu cả nước về một khía cạnh chất lượng thể chế khi có tới 8 đại diện trong

nhóm 10 tỉnh được đánh giá cao nhất về chất lượng chính sách. Ngược lại, vùng Trung

du và miền núi phía Bắc lại góp mặt 6 tỉnh trong nhóm cuối bảng, dẫn tới toàn khu vực

7.5

Đồng Tháp

7.0

Trà Vinh

Sóc Trăng

6.5

Kiên Giang

Bến Tre

Đà Nẵng

Bạc Liêu

6.0

Hậu Giang

Long An

Lào Cai

Vĩnh Long

An Giang

5.5

Cần Thơ

5.0

4.5

4.0

Hòa Bình

Phú Thọ

3.5

TP. Hồ Chí Minh

Bắc Kạn

Điện Biên

Tuyên Quang

Hải Phòng

3.0

Lạng Sơn

2.5

Hà Nội

Cao Bằng

2.0

PGI

Chất lượng chính sách

Linear (Chất lượng chính sách)

được đánh giá có chất lượng chính sách yếu kém nhất quốc gia.

Hình 3.13. Chỉ số Chất lượng chính sách và PGI trung bình trong giai đoạn 2011-2018

Nguồn: Tính toán của tác giả

Khi xem xét 5 thành phố trực thuộc trung ương, Hà Nội có thể coi là hiện tượng

gây sốc khi ở vị trí cuối cùng của bảng xếp hạng 63 tỉnh/thành phố. Hải Phòng và TP.

Hồ Chí Minh cũng có điểm chất lượng chính sách dưới mức trung bình của cả nước.

Dường như các thành phố này đã trở nên trì trệ hơn nhiều địa phương khác và chưa thể

đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp trên khía cạnh chất lượng chính sách.

Khoảng cách 4,1 điểm về chất lượng chính sách giữa Hà Nội và Đồng Tháp

thấp hơn mức chênh lệch giữa địa phương xếp đầu và cuối của các chỉ số dân chủ và

kiểm soát tham nhũng. Tuy nhiên, 89% các tỉnh/thành phố có điểm chất lượng chính

76

sách nằm trong khoảng 3,5 và 6,3 điểm; và 89% các địa phương đạt điểm chất lượng

chính sách thấp hơn PGI trung bình trong giai đoạn 2011-2018. Những con số này khá

tương đồng với khía cạnh dân chủ và hoàn toàn trái ngược với khía cạnh dịch vụ công,

thể hiện chất lượng chính sách là điểm yếu về thể chế của đa số các tỉnh/thành phố

Việt Nam, và hầu hết doanh nghiệp vẫn đang thất vọng với các chính sách của chính

quyền địa phương.

Một lần nữa, sự thay đổi theo thời gian của chỉ số chất lượng chính sách tại các

thành phố trực thuộc trung ương được xem xét tại Hình 3.14. Giống như tình hình

chung của cả nước, chỉ số này của các địa phương nhìn chung giảm xuống trong giai

đoạn 2011-2014 trước khi được phục hồi trong những năm gần đây. Tình hình được

cải thiện mạnh mẽ nhất là ở Hà Nội và Hải Phòng, giúp cho hai thành phố này phần

8.5

7.5

6.5

5.5

4.5

3.5

2.5

1.5

0.5

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Cần Thơ

Đà Nẵng

Hà Nội

Hải Phòng

TP. Hồ Chí Minh

nào lấy lại lại vị thế phải có của các trung tâm kinh tế quốc gia.

Hình 3.14. Chỉ số chất lượng chính sách của các thành phố trực thuộc trung ương, 2011-2018

Nguồn: Tính toán của tác giả

3.3.2.5. Thủ tục hành chính công

Mặc dù cũng là một thước đo về hiệu quả của chính quyền địa phương như

chính sách công, nhưng thủ tục hành chính công lại được hình thành từ nhóm các chỉ

số PAPI đánh giá chất lượng dịch vụ chứng thực/xác nhận, cấp giấy phép xây dựng,

chứng nhận quyền sử dụng đất, thủ tục hành chính... Từ Hình 3.15, ta có thể nhận thấy

các tỉnh bị đánh giá yếu kém nhất về mặt thể chế này (Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Hậu

77

Giang, Sóc Trăng) đều có PGI ở khoảng giữa (mức khá). Ngược lại, các tỉnh có điểm

thủ tục hành chính công cao nhất lại trải dài từ nhóm PGI thấp nhất (Hải Phòng), trung

bình (Yên Bái), khá (Ninh Bình), đến rất tốt (Quảng Bình, Hà Tĩnh).

Trong số 5 thành phố trực thuộc trung ương, chỉ có Cần Thơ và TP. Hồ Chí

Minh bị đánh giá thủ tục hành chính công ở dưới mức trung bình cả nước. Ngược lại,

đây là một trong hai khía cạnh nổi trội của Hải Phòng và Hà Nội. Với mức điểm cao

khá đồng đều ở năm khía cạnh thể chế, Đà Nẵng không hề gây thất vọng khi nằm

trong tốp 7 tỉnh được đánh giá tốt nhất về thủ tục hành chính công.

Tương tự khía cạnh dịch vụ công, chỉ số thủ tục hành chính công trung bình

giai đoạn 2011-2018 ở 55 tỉnh/thành phố cao hơn PGI, với điểm số khá cao và đa phần

biến thiên trong khoảng 6,6 đến 7,5 điểm. Khoảng cách giữa tỉnh đạt điểm thấp nhất

và cao nhất cũng không lớn (3,4 điểm). Những điều này cho thấy hiệu quả trong việc

cung cấp dịch vụ thủ tục hành chính công của chính quyền các địa phương là khá

8.5

Quảng Bình

8.0

Ninh Bình

Yên Bái

Hà Tĩnh

Hải Phòng

Đà Nẵng

7.5

7.0

Hà Nội

6.5

Long An

Cần Thơ

6.0

TP. Hồ Chí Minh

5.5

Hậu Giang

Quảng Nam

Sóc Trăng

5.0

Quảng Ngãi

Quảng Ninh

4.5

PGI

Thủ tục hành chính công

Linear (Thủ tục hành chính công)

4.0

tương đồng và nói chung đã đáp ứng được kỳ vọng của người dân.

Hình 3.15. Chỉ số Thủ tục hành chính công và PGI trung bình trong giai đoạn 2011-2018

Nguồn: Tính toán của tác giả

Cũng như xu hướng tại Hình 3.6 thủ tục hành chính công của các thành phố trực

thuộc trung ương đều được cải thiện trong giai đoạn 2011-2018 nhờ những cải cách lớn

của chính quyền trung ương và địa phương. Điểm chênh lệch giữa hai mốc thời gian đầu

và cuối giai đoạn lớn nhất tại Cần Thơ và Hà Nội, giúp hai thành phố này được vào

78

tốp đầu về chất lượng thủ tục hành chính công của cả nước năm 2018 (Hình 3.16).

10.0

9.0

8.0

7.0

6.0

5.0

4.0

3.0

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Cần Thơ

Đà Nẵng

Hà Nội

Hải Phòng

TP. Hồ Chí Minh

Hình 3.16. Chỉ số thủ tục hành chính công của các thành phố trực thuộc trung ương, giai đoạn 2011-2018

Nguồn: Tính toán của tác giả

3.3.3. Chất lượng thể chế quản trị theo các vùng kinh tế

Theo cách phân vùng kinh tế hiện tại, cả nước được chia thành 6 vùng kinh tế

(xem mô tả tại Phụ lục 6 và 7). Bảng 3.10 và Hình 3.17 thể hiện điểm trung bình của

PGI và 5 chỉ số thành phần theo sáu vùng kinh tế trong giai đoạn 2011-2018. Vùng

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung dù không xếp hạng đầu về bất kỳ khía cạnh

thể chế nào, nhưng đứng thứ 2 ở ba chỉ số thành phần. Thậm chí, khu vực này có ba

tỉnh đứng đầu cả nước về các khía cạnh dân chủ (Hà Tĩnh), dịch vụ công (Đà Nẵng) và

hành chính công (Quảng Bình). Kết quả là PGI trung bình của vùng Bắc Trung Bộ và

duyên hải miền Trung xếp hạng nhất trong giai đoạn 2011-2018.

Bảng 3.10. PGI và các chỉ số thành phần theo khu vực trung bình giai đoạn 2011-2018

PGI

Vùng\ Khía cạnh

Dịch vụ công

Chính sách

Hành chính công

Dân chủ

Kiểm soát tham nhũng

Trung du và miền núi phía Bắc

5,34

6,42

6,67

5,46

5,30

3,82

Đồng bằng sông Hồng

4,22

6,73

5,72

5,80

7,14

4,92

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung

5,44

6,87

4,49

6,58

5,98

5,82

Tây Nguyên

4,83

4,04

4,81

6,27

6,87

5,27

Đông Nam Bộ

4,84

6,82

4,78

6,46

5,63

5,67

Đồng bằng sông Cửu Long

6,38

5,79

3,91

5,80

6,28

7,18

Nguồn: Tính toán của tác giả

79

7.5

7.0

6.5

6.0

5.5

5.0

4.5

4.0

3.5

3.0

Tây Nguyên

Đông Nam Bộ

Trung du và miền núi phía Bắc

Đồng bằng sông Hồng

Đồng bằng sông Cửu Long

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung

Chính sách

Hành chính công

PGI

Dân chủ

Kiểm soát tham nhũng

Dịch vụ công

Hình 3.17. PGI và các chỉ số thành phần theo khu vực, tính trung bình giai đoạn 2011-2018

Nguồn: Tính toán của tác giả

Như đã chỉ ra ở các phần trên, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đứng đầu về

các khía cạnh kiểm soát tham nhũng và chất lượng chính sách, nhưng lại có điểm dân

chủ thấp nhất. Bảng 3.10 còn cho thấy thêm một thực tế là Đồng bằng sông Cửu Long

xếp hạng thấp nhất về khía cạnh thủ tục hành chính công, tuy nhiên sự chênh lệch giữa

các khu vực về mặt này không đáng kể. Về tổng thể, PGI của Đồng bằng sông Cửu

Long đứng thứ hai toàn quốc.

Ở một thái cực khác, vùng Đồng bằng sông Hồng đứng vị trí cuối về kiểm soát

tham nhũng nhưng bù lại với khía cạnh dân chủ và dịch vụ công đứng đầu cả nước. PGI

trung bình của khu vực này đứng ở vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng các vùng kinh tế.

Tương tự như Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, vùng Đông Nam Bộ

cũng không đứng đầu hay cuối ở bất kỳ khía cạnh thể chế nào. Khu vực này chỉ có

điểm nổi trội rõ rệt là vị trí thứ 2 về dịch vụ công với những tỉnh/thành phố thuộc nhóm

phát triển nhất quốc gia hiện nay. Điểm PGI của Đông Nam Bộ thậm chí đứng sau

Đồng bằng sông Hồng trên Bảng 3.10.

Cũng được chỉ ra ở mục 3.3.2.4, vùng Trung du và miền núi phía Bắc bị đánh

giá yếu kém nhất về chất lượng chính sách, đồng thời Bảng 3.10 cho thấy các khía cạnh

thể chế khác của khu vực này đều thuộc nhóm xếp dưới. Do đó, không có gì đáng ngạc

nhiên khi vùng Trung du và miền núi phía Bắc đứng áp chót trên bảng xếp hạng.

Cuối cùng, dù hầu như không có tỉnh nào của Tây Nguyên được nhắc đến ở các

80

phần trên, khu vực này lại khá nổi bật trên Bảng 3.10 khi dẫn đầu về khía cạnh thủ tục

hành chính công, đồng thời xếp cuối bảng về khía cạnh dịch vụ công. Đáng tiếc là sự

chênh lệch về thủ tục hành chính công giữa các khu vực không lớn, trong khi điểm số

về ba khía cạnh còn lại của Tây Nguyên đều thấp, nên PGI trung bình giai đoạn 2011-

2018 của khu vực này cũng thấp nhất trong 6 vùng kinh tế.

Nhìn một cách tổng quan hơn, nếu không tính vùng Tây Nguyên tương đối biệt

lập, chúng ta có thể nhận thấy khu vực phía bắc (gồm các tỉnh/thành phố thuộc Đồng

bằng sông Hồng; Trung du và miền núi phía Bắc; Bắc Trung Bộ và duyên hải miền

Trung tính từ Thừa Thiên - Huế trở ra) được đánh giá mức độ dân chủ cao hơn, nhưng

kiểm soát tham nhũng và chất lượng chính sách kém hơn khu vực phía nam (gồm các

tỉnh/thành phố thuộc Đồng bằng sông Cửu Long; Đông Nam Bộ; Bắc Trung Bộ và

duyên hải miền Trung tính từ Đà Nẵng trở vào). Về chất lượng dịch vụ công và thủ

tục hành chính công, tính trung bình, khu vực phía bắc nhỉnh hơn so với khu vực phía

nam. Kết quả cuối cùng là PGI tổng thể của hai miền hầu như không chênh lệch

PGI

Hành chính công

Chính sách

Miền Nam

Miền Bắc

Dịch vụ công

Kiểm soát tham nhũng

Dân chủ

0

1

2

3

4

5

6

7

8

(Hình 3.18).

Hình 3.18. PGI và các chỉ số thành phần theo hai miền

(tính trung bình giai đoạn 2011-2018)

Nguồn: Tính toán của tác giả

3.3.4. Thể chế quản trị theo vùng kinh tế trọng điểm và không trọng điểm

Hiện tại cả nước có bốn vùng kinh tế trọng điểm gồm 24 tỉnh/thành phố (chi tiết

xem tại Phụ lục 8). Năm 2018, bốn vùng kinh tế trọng điểm chỉ chiếm xấp xỉ 50% lực

lượng lao động nhưng chiếm hơn 70% GDP cả nước. Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch

và Đầu tư (2015), các vùng kinh tế trọng điểm thuộc các khu vực có bề dày lịch sử và

81

tiềm năng phát triển lớn: là các trung tâm giao thương (đường biển, đường sắt và đường

hàng không quốc nội và quốc tế), có tiềm năng lớn về du lịch, có một số khoáng sản

quan trọng (than đá, dầu khí). Nhờ đó, hệ thống đô thị, các cơ sở công nghiệp, đội ngũ

lao động có trình độ và tiềm lực khoa học - công nghệ tại các vùng kinh tế trọng điểm

6.4

Vùng trọng điểm

Vùng không trọng điểm

6.2

6.0

5.8

5.6

5.4

5.2

5.0

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

đều phát triển hơn hẳn các vùng khác.

Hình 3.19. So sánh PGI trung bình của nhóm các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm và

nhóm các tỉnh không thuộc vùng kinh tế trọng điểm

Nguồn: Tính toán của tác giả

Tính trung bình các tỉnh/thành phố theo hai nhóm tỉnh thuộc và không thuộc

vùng kinh tế trọng điểm, Hình 3.19 cho thấy vùng kinh tế trọng điểm ban đầu nổi trội

hơn về thể chế quản trị so với nhóm các địa phương còn lại, nhưng khoảng cách giữa

hai nhóm tỉnh dần thu hẹp, thậm chí PGI của nhóm tỉnh không thuộc vùng kinh tế trọng

điểm đã vượt lên vào các năm 2016 và 2018. Xem xét chi tiết hơn vào từng khía cạnh

thể chế, tính trung bình trong giai đoạn 2011-2018, các vùng kinh tế trọng điểm vượt

hơn nhóm các tỉnh còn lại ở chỉ số dịch vụ công và chất lượng chính sách, nhưng lại

thấp hơn về chỉ số thủ tục hành chính công và dân chủ, trong khi chỉ số kiểm soát tham

nhũng của hai nhóm tỉnh gần như tương đương (Hình 3.20).

Đối với khía cạnh dịch vụ công, như đã nói ở trên, chỉ số này tương quan rất

lớn đến trình độ phát triển của địa phương, do vậy chúng ta hoàn toàn có thể hiểu được

sự vượt trội của các vùng kinh tế trọng điểm so với nhóm tỉnh còn lại ở khía cạnh thể

chế này. Bảng 3.10 cũng cho thấy, điểm chất lượng chính sách vốn cao nhất ở hai khu

vực là vùng Đồng bằng sông Cửu Long và vùng Đông Nam Bộ, trong khi hai khu vực

này chiếm tới 1/2 số các tỉnh thuộc nhóm các vùng kinh tế trọng điểm. Điều này có thể

82

giải thích vì sao điểm chất lượng chính sách trung bình của các vùng kinh tế trọng

điểm vẫn cao so với nhóm các tỉnh còn lại, cho dù một số địa phương như Hà Nội, Hải

8

7

6

5

4

3

2

1

0

PGI

Dân chủ

Dịch vụ công

Kiểm soát tham nhũng

Chất lượng chính sách

Thủ tục hành chính công

Vùng trọng điểm

Vùng không trọng điểm

Phòng có chỉ số chất lượng chính sách thuộc nhóm thấp nhất cả nước.

Hình 3.20. So sánh các khía cạnh thể chế giữa nhóm các tỉnh thuộc và không thuộc

vùng kinh tế trọng điểm (tính trung bình giai đoạn 2011-2018)

Nguồn: Tính toán của tác giả

Hoàn toàn trái ngược với khía cạnh chất lượng chính sách, điểm thủ tục hành

chính công và dân chủ ở các vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ lại

thấp nhất cả nước. Với việc chiếm 50% số các tỉnh thuộc nhóm các vùng kinh tế trọng

điểm, mức điểm thấp của vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ đã kéo

theo sự yếu thế của các vùng kinh tế trọng điểm nói chung ở hai khía cạnh thể chế này.

3.3.5. Thể chế quản trị của các tỉnh/thành phố theo thu nhập

Để chia 63 tỉnh/thành phố Việt Nam theo ba mức thu nhập cao, trung bình và

thấp, nghiên cứu này dựa trên mức trung bình của tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh

(GRDP) bình quân lao động hiệu quả của các địa phương trong giai đoạn 2011-2018.

Theo đó, có 20 tỉnh/thành phố thuộc nhóm thu nhập cao (GRDP/lao động hiệu quả trên

48 triệu VND), 22 tỉnh thuộc nhóm thu nhập trung bình (GRDP/lao động hiệu quả từ

34 đến 48 triệu VND) và 21 tỉnh thuộc nhóm thu nhập thấp (GRDP/lao động hiệu quả

dưới 34 triệu đồng), chi tiết xem tại Phụ lục 9.

Khi so sánh PGI của ba nhóm tỉnh này, ta có thể phần nào nhận thấy sự tương

quan giữa PGI và mức thu nhập của các tỉnh/thành phố từ các Hình 3.21 và 3.22. PGI

lần lượt xếp theo thứ tự: cao nhất ở nhóm thu nhập cao, tiếp đó là nhóm thu nhập trung

83

bình và thấp nhất ở nhóm thu nhập thấp. Trong khi khoảng cách về PGI giữa nhóm thu

nhập cao và nhóm thu nhập trung bình không đáng kể (0,01 điểm), thì nhóm thu nhập

thấp dường như có chất lượng thể chế quản trị yếu hơn khá nhiều so với hai nhóm còn

6.5

6.0

5.5

5.0

4.5

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Nhóm thu nhập cao

Nhóm thu nhập trung bình

Nhóm thu nhập thấp

lại (chênh lệch 0,16-0,17 điểm).

Hình 3.21. So sánh PGI trung bình của ba nhóm tỉnh chia theo mức thu nhập

Nguồn: Tính toán của tác giả

8

7

6

5

4

3

2

1

0

PGI

Dân chủ

Dịch vụ công

Kiểm soát tham nhũng

Chất lượng chính sách

Thủ tục hành chính công

Nhóm thu nhập cao

Nhóm thu nhập trung bình

Nhóm thu nhập thấp

Hình 3.22. So sánh các khía cạnh thể chế giữa các nhóm tỉnh/thành phố chia theo ba

mức thu nhập (tính trung bình giai đoạn 2011-2018)

Nguồn: Tính toán của tác giả

Khi xem xét từng khía cạnh thể chế ở ba nhóm tỉnh, chúng ta có thể dự báo

ngay, nhờ trình độ phát triển kinh tế, nhóm tỉnh/thành phố có mức thu nhập cao đặc

84

biệt nổi trội về chỉ số dịch vụ công so với hai nhóm tỉnh còn lại. Nhưng Hình 3.22

cũng cho thấy đây là khía cạnh thể chế duy nhất mà nhóm địa phương thu nhập cao có

thể tự hào. Chỉ số dân chủ chỉ ngang bằng nhóm thu nhập thấp, chất lượng chính sách

thua nhóm thu nhập trung bình, thậm chí kiểm soát tham nhũng và thủ tục hành chính

công phải đứng cuối bảng xếp hạng. Lưu ý rằng, vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông

Nam Bộ chiếm 70% số tỉnh thuộc nhóm thu nhập cao, nhưng trừ dịch vụ công, hai khu

vực này rất trái chiều về các chỉ số thể chế khác do sự khác biệt nam - bắc đã nêu ở

trên. Các chỉ số kiểm soát tham nhũng và chất lượng chính sách khá tốt của Đông Nam

Bộ hầu như bị triệt tiêu bởi mức điểm thấp của vùng Đồng bằng sông Hồng, hay chỉ số

dân chủ tương đối ổn (so với cả nước) của vùng Đồng bằng sông Hồng không thể bù

đắp cho thứ hạng thấp của Đông Nam Bộ ở khía cạnh thể chế này.

Trong nhóm thu nhập trung bình, 73% các tỉnh/thành phố thuộc về hai khu vực

là vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung và vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Nhóm này nổi bật về chỉ số kiểm soát tham nhũng và chất lượng chính sách so với hai

nhóm còn lại. Điều này cũng không gây bất ngờ vì ở cả hai khía cạnh này, vùng Đồng

bằng sông Cửu Long đứng đầu cả nước, trong khi Bắc Trung Bộ và duyên hải miền

Trung cũng xếp thứ 2 hoặc thứ 3, không tạo nên sự đối lập lớn như nhóm tỉnh/thành

phố có mức thu nhập cao. Tương tự như vậy, nhóm thu nhập trung bình lại đứng cuối

bảng về khía cạnh dân chủ, cũng do ảnh hưởng từ mức điểm xếp hạng chót của vùng

Đồng bằng sông Cửu Long.

Nhóm tỉnh có mức thu nhập thấp tập trung ở vùng Trung du và miền núi phía

Bắc (chiếm 52%) nên cũng mang theo mức điểm thấp nhất ở khía cạnh chất lượng

chính sách của khu vực này. Lý do nhóm tỉnh này đứng cuối về chỉ số dịch vụ công

cũng khá rõ ràng. Tuy vậy, nhóm lại đứng đầu về khía cạnh thủ tục hành chính công

(dù mức điểm không mấy chênh lệch với hai nhóm còn lại), đồng thời có chỉ số kiểm

soát tham nhũng và dân chủ tốt hơn hoặc xấp xỉ nhóm thu nhập cao.

3.4. Kết luận Chương 3

Với thước đo chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh được xây dựng

theo phương pháp phân tích nhân tố từ các chỉ số thành phần của PAPI và PCI, nghiên

cứu này mang lại một bộ chỉ số PGI và 5 chỉ số thành phần cho các tỉnh/thành phố Việt

Nam trong giai đoạn 2011-2018. Nhìn trên tổng thể cả nước, chất lượng thể chế quản

trị của chính quyền các địa phương đã được cải thiện, với PGI trung bình cả nước tăng

0,4 điểm trong giai đoạn nghiên cứu. Tuy vậy, rõ ràng xu thế biến đổi của các khía cạnh

85

thể chế theo thời gian và theo địa phương rất khác nhau.

Nếu xét theo góc độ thời gian, một mặt, chất lượng cung cấp dịch vụ công và thủ

tục hành chính công đã đạt được sự tiến bộ đáng kể trong giai đoạn 2011-2018. Bên

cạnh đó, những phân tích ở mục 3.2 cũng cho thấy một bức tranh sáng dần về hiệu quả

kiểm soát tham nhũng kể từ năm 2011. Mặt khác, sự biến đổi các khía cạnh còn lại của

thể chế quản trị cho thấy, chỉ số dân chủ là một vấn đề đáng lo ngại với chiều hướng

giảm sút trong giai đoạn 2011-2018, đồng thời điểm chất lượng chính sách ở mức dưới

mức trung bình thể hiện nhu cầu cấp bách cần cải thiện khía cạnh thể chế này.

Xét theo góc độ từng địa phương cụ thể, các biểu đồ hình sao tại Hình 3.3 và 3.4

giúp chúng ta nhận thấy sự chênh lệch rất lớn về các khía cạnh thể chế tại các

tỉnh/thành phố trong giai đoạn 2011-2018, không có địa phương nào nằm trong nhóm

có điểm cao nhất ở cả 5 khía cạnh thể chế. Ngay cả tỉnh đứng đầu PGI cả nước và có

các khía cạnh thể chế tương đối đồng đều như Long An, thì cũng đứng thứ 36 trên bảng

xếp hạng về thủ tục hành chính công.

Những kết luận này sẽ mang tới các hàm ý chính sách quan trọng cho các địa

86

phương để tiếp tục cải thiện thể chế quản trị về mọi khía cạnh.

CHƯƠNG 4. CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ QUẢN TRỊ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH TẠI VIỆT NAM

4.1. Phân tích thống kê mô tả

4.1.1. Thống kê mô tả các biến số

Với cách tiếp cận số liệu mảng, trong đó gộp số liệu chéo của 63 tỉnh/thành phố và số liệu chuỗi thời gian qua 8 năm, nghiên cứu này có được 504 quan sát, đảm bảo đủ cho các phân tích kinh tế lượng. Bảng 4.1 trình bày thống kê mô tả các số liệu kinh tế vĩ mô được sử dụng trong nghiên cứu này và Bảng 4.2 là thống kê mô tả các số liệu sau khi lấy logarith.

Bảng 4.1. Thống kê mô tả các biến số kinh tế vĩ mô của các tỉnh/thành phố Việt Nam giai đoạn 2011-2018

Biến YL KL GL FDI GOV AGR

Số quan sát 567 504 504 504 504 504

Mean 53999 149863 19149 0,101 0,374 0,234

Std. Dev. 59403 97873 8100 0,148 0,230 0,124

Min 13330 38451 5491 0,000 0,035 0,006

Max 581523 642695 55382 0,683 1,376 0,583

Ghi chú: Do mô hình ước lượng GMM theo phương pháp của Arellano và Bond (1991) phải sử dụng biến trễ của YL, nên số liệu GRDP bình quân lao động hiệu quả được lấy trong giai đoạn 2010-2018, theo đó tổng số quan sát của YL là 567.

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 4.2. Thống kê mô tả các số liệu nghiên cứu sau khi lấy logarith

Số quan sát Trung bình Độ lệch chuẩn Giá trị thấp nhất Giá trị cao nhất

Biến LnYL LnKL LnGL FDI GOV AGR LnDEM LnCOR LnSER LnPOL LnPUB

567 504 504 504 504 504 500 500 500 500 500

10,653 11,760 9,528 0,101 0,374 0,234 1,555 1,703 1,875 1,459 1,856

9,498 10,557 8,489 0,000 0,035 0,006 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000

13,273 13,373 10,842 0,683 1,376 0,583 2,303 2,303 2,303 2,303 2,303

0,607 0,534 0,383 0,148 0,230 0,124 0,388 0,339 0,222 0,356 0,247

Ghi chú: Như trình bày tại Bảng 3.8, chuỗi các chỉ số thể chế quản trị chỉ gồm 500 quan sát thay vì 504 quan sát như kỳ vọng.

Nguồn: Tính toán của tác giả

87

4.1.2. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh

19

16.5%

Ln(GDP/lao động hiệu quả)

Tốc độ tăng trưởng GDP/lao động hiệu quả

17

13.0%

15

9.5%

Từ Hình 4.1, chúng ta có thể nhận thấy 3 tỉnh/thành phố đứng đầu cả nước về GRDP bình quân lao động hiệu quả lần lượt là Bà Rịa - Vũng Tàu, Bắc Ninh và TP. Hồ Chí Minh, với mức thu nhập trên 150 triệu VND/lao động hiệu quả tính trung bình trong giai đoạn 2011-2018. Sau các địa phương này là nhóm 7 tỉnh/thành phố Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc và Hải Phòng, tất cả đều có mức GRDP bình quân lao động hiệu quả trên 80 triệu VND. Ở những vị trí cuối danh sách, GRDP bình quân lao động hiệu quả của Điện Biên, Hà Giang, Bắc Kạn và Cao Bằng chỉ đạt chưa đầy 20 triệu VND. Nếu không tính đến Bà Rịa - Vũng Tàu với mức thu nhập cao vượt trội dựa vào khai thác dầu khí, khoảng cách thu nhập bình quân lao động hiệu quả giữa các tỉnh/thành phố đã tăng gấp đôi trong giai đoạn nghiên cứu, từ gần 100 triệu VND năm 2011 (giữa TP. Hồ Chí Minh và Cao Bằng) lên tới hơn 200 triệu VND năm 2018 (giữa Bắc Ninh và Cao Bằng).

ả u q u ệ i h g n ộ đ o a l /

13

6.0%

) ả u q u ệ i h g n ộ đ o a l

11

2.5%

ì

9

-1.0%

n â u q h n b P D G ( n L

P D G g n ở ư r t g n ă t ộ đ c ố T

i

i

i

i

i

i

7

-4.5%

i

i

i

i

i

i

i

ế u H

i

i

i

i

i

i

h n ì B

h n M

i

u â h C

g n ò h P

ộ N à H

a L a G

g n ơ ư D

a L n ơ S

n ê y u g N

a C o à L

u a M à C

á B n ê Y

h n ĩ T à H

e r T n ế B

i

i

m a N à H

k ắ L k ắ Đ

n A g n o L

h n V à r T

n ạ K c ắ B

ọ h T ú h P

n ê Y ú h P

n A ệ h g N

u ê L c ạ B

g n ẵ N à Đ

ơ h T n ầ C

i a L

h n N y â T

i

h n N c ắ B

m u T n o K

h n ì B a ò H

g n a G n A

a N g n ồ Đ

g n a G à H

i

i á h T

i

n ê B n ệ Đ

u à T g n ũ V

h n ì B h n N

n ơ S g n ạ L

h n Đ h n ì B

h n Đ m a N

g n ằ B o a C

g n ô N k ắ Đ

i

ị r T g n ả u Q

n ê Y g n ư H

g n o L h n ĩ V

c ú h P h n ĩ V

g n ồ Đ m â L

g n ă r T c ó S

i ả H

g n a G c ắ B

ì

g n a G u ậ H

ì

g n a G n ề T

i ả H

a ó H h n a h T

g n a G n ê K

p á h T g n ồ Đ

a ò H h n á h K

n ậ u h T h n N

n ậ u h T h n ì B

h n N g n ả u Q

h n ì B g n ả u Q

ã g N g n ả u Q

m a N g n ả u Q

c ớ ư h P h n B

g n ơ ư D h n B

í h C ồ H

i á h T

g n a u Q n ê y u T

.

P T

- n ê h T a ừ h T

- a R à B

Đồng bằng sông Hồng

Trung du và miền núi phía Bắc

Tây Nguyên Đông Nam Bộ

Đồng bằng sông Cửu Long

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung

Hình 4.1. Mức thu nhập và tốc độ tăng trưởng kinh tế của các tỉnh/thành phố Việt Nam (tính trung bình trong giai đoạn 2011-2018)

Nguồn: Tính toán của tác giả

88

Tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 2011-2018 của đa số các tỉnh/thành phố biến thiên trong khoảng từ 3% đến 11%/năm. Tuy nhiên, sự chênh lệch giữa địa phương có mức tăng trưởng cao nhất (Thái Nguyên) và thấp nhất (Bà Rịa -

Vũng Tàu) lên tới gần 14%. Sau Thái Nguyên, nhóm dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng kinh tế (trên 10%/năm) gồm Quảng Nam, Hà Tĩnh, Quảng Ninh, Hà Nam, Bắc Ninh, Hải Phòng và Thanh Hóa. Trong khi đó, ba tỉnh Tuyên Quang, Kon Tum và Yên Bái chỉ xếp trên Bà Rịa - Vũng Tàu, với tốc độ tăng trưởng chưa đầy 2%/năm.

10.0%

12.0

11.5

8.5%

11.0

10.5

Khi so sánh giữa các vùng kinh tế, Hình 4.2 cho thấy mức GRDP bình quân lao động hiệu quả đạt cao nhất ở Đông Nam Bộ (với 4 đại diện trong tốp 10 địa phương có thu nhập cao nhất) và Đồng bằng sông Hồng (với 5 đại diện trong tốp 10). Sự tương phản giữa hai vùng đồng bằng này với các vùng miền núi ngày càng có chiều hướng gia tăng, khi khoảng cách về thu nhập giữa Đông Nam Bộ và vùng Trung du và miền núi phía Bắc đã tăng từ 93 triệu VND năm 2011 lên 130 triệu VND bình quân lao động hiệu quả năm 2018. Tuy vậy, Đông Nam Bộ có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá thấp trong giai đoạn 2011-2018, chỉ đứng trên Tây Nguyên. Khi không tính đến Bà Rịa - Vũng Tàu, tốc độ tăng trưởng của khu vực này đạt trên 6,6%/năm, nhưng vẫn thấp hơn các vùng phía bắc. Bởi vậy, mặc dù khoảng cách thu nhập giữa vùng giàu nhất và vùng nghèo nhất gia tăng về số tuyệt đối, nhưng lại giảm về số tương đối. Năm 2011, GRDP bình quân lao động hiệu quả của Đông Nam Bộ cao gấp 5 lần so với vùng Trung du và miền núi phía Bắc, nhưng chênh lệch giữa hai vùng chỉ còn 4,35 lần vào năm 2018.

ả u q u ệ i h g n ộ đ o a l /

7.0%

10.0

) ả u q u ệ i h g n ộ đ o a l /

9.5

5.5%

9.0

P D G ( n L

8.5

4.0%

8.0

Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng

P D G g n ở ư r t g n ă t ộ đ c ố T

Đồng bằng sông Hồng

sông Cửu Long

Trung du và miền núi phía Bắc

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung

Ln(GDP/lao động hiệu quả)

Tốc độ tăng trưởng GDP/lao động hiệu quả

Hình 4.2. Mức thu nhập và tốc độ tăng trưởng kinh tế của các vùng kinh tế Việt Nam

(tính trung bình trong giai đoạn 2011-2018)

Nguồn: Tính toán của tác giả

89

Kết luận tương tự được rút ra khi so sánh các nhóm tỉnh theo vùng kinh tế trọng điểm hay theo mức thu nhập. Hình 4.3 cho thấy nhóm tỉnh/thành phố thuộc vùng kinh

12.0

8.0%

11.5

7.5%

tế trọng điểm hay thuộc nhóm thu nhập cao lại có tốc độ tăng trưởng thấp hơn so với nhóm địa phương còn lại, điều này hàm ý hiện tượng hội tụ tăng trưởng kinh tế trong dài hạn cũng xảy ra với các tỉnh/thành phố Việt Nam.

i

11.0

i

7.0%

10.5

ả u q u ệ h g n ộ đ o a

l /

10.0

6.5%

) ả u q u ệ h g n ộ đ o a

l /

9.5

6.0%

9.0

P D G ( n L

5.5%

P D G g n ă t ộ đ c ố T

8.5

5.0%

8.0

Nhóm tỉnh có thu nhập cao

Nhóm tỉnh có thu nhập trung bình

Nhóm tỉnh có thu nhập thấp

Nhóm tỉnh thuộc các vùng kinh tế trọng điểm

Nhóm tỉnh nằm ngoài vùng kinh tế trọng điểm

Ln(GDP/lao động hiệu quả)

Tốc độ tăng trưởng GDP/lao động hiệu quả

Hình 4.3. Mức thu nhập và tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nhóm tỉnh/thành phố chia

theo vùng kinh tế trọng điểm hoặc thu nhập (tính trung bình trong giai đoạn 2011-2018)

Nguồn: Tính toán của tác giả

4.1.3. Tương quan giữa mức thu nhập và các biến khác trong mô hình nghiên cứu

Như thể hiện trong Hình 4.4, chuỗi GRDP bình quân lao động hiệu quả không có nhiều tương đồng với các chuỗi chỉ số thể chế quản trị. Trong khi đường xu thế của PGI và chỉ số dịch vụ công cho thấy khá rõ mối quan hệ tuyến tính thuận chiều giữa mức thu nhập và thể chế, thì dường như mối quan hệ giữa thu nhập và các chỉ số thể chế còn lại là phi tuyến. Riêng với chỉ số thủ tục hành chính công, mối quan hệ này hầu như không đáng kể.

90

Khác với các chỉ số thể chế quản trị, các biến số kinh tế vĩ mô khác thể hiện rõ mối quan hệ tuyến tính với mức thu nhập trong Hình 4.5. Nếu như mức vốn vật chất bình quân lao động hiệu quả, mức chi tiêu ngân sách bình quân lao động hiệu quả, tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong GRDP có quan hệ tuyến tính thuận chiều, thì tỷ lệ của chi tiêu ngân sách trên GRDP và tỷ trọng của khu vực nông nghiệp trong GRDP lại quan hệ tuyến tính ngược chiều với GRDP bình quân lao động hiệu quả. Những điều này cũng phù hợp với lý thuyết về tăng trưởng và kỳ vọng về kết quả nghiên cứu như phân tích tại Chương 2.

13.5

12

14.0

7.5

13.5

13.0

7.0

10

13.0

12.5

6.5

12.5

12.0

8

6.0

12.0

11.5

5.5

11.5

6

11.0

5.0

11.0

10.5

4

4.5

10.5

10.0

4.0

10.0

2

3.5

9.5

9.5

9.0

3.0

9.0

0

LnYL

DEM

Poly. (DEM)

LnYL

PGI

Linear (PGI)

13.5

13.5

12

12

13.0

13.0

10

10

12.5

12.5

12.0

12.0

8

8

11.5

11.5

6

6

11.0

11.0

10.5

10.5

4

4

10.0

10.0

2

2

9.5

9.5

0

9.0

9.0

0

LnYL

COR

Poly. (COR)

LnYL

SER

Linear (SER)

13.5

13.5

12

12

13.0

13.0

10

10

12.5

12.5

8

12.0

12.0

8

11.5

11.5

6

6

11.0

11.0

4

4

10.5

10.5

10.0

10.0

2

2

9.5

9.5

0

0

9.0

9.0

LnYL

POL

Poly. (POL)

LnYL

PUB

Linear (PUB)

Hình 4.4. Mức thu nhập và các chỉ số thể chế quản trị của các tỉnh/thành phố Việt Nam trong giai đoạn 2011-2018

Nguồn: Tính toán của tác giả

91

14.0

11.0

13.5

13.5

13.5

13.0

13.0

10.5

13.0

12.5

12.5

12.5

12.0

12.0

10.0

12.0

11.5

11.5

11.5

9.5

11.0

11.0

11.0

10.5

10.5

9.0

10.5

10.0

10.0

10.0

8.5

9.5

9.5

9.5

9.0

9.0

9.0

8.0

LnYL

LnKL

Linear (LnKL)

LnYL

LnGL

Linear (LnGL)

0.7

12.0

1.6

12.0

1.4

0.6

11.5

11.5

1.2

0.5

11.0

11.0

1

0.4

10.5

10.5

0.8

0.3

0.6

10.0

10.0

0.2

0.4

9.5

9.5

0.1

0.2

9.0

9.0

0

0

LnYL

FDI

Linear (FDI)

LnYL

GOV

Linear (GOV)

0.7

12.0

0.6

11.5

0.5

11.0

0.4

10.5

0.3

10.0

0.2

9.5

0.1

9.0

0

LnYL

AGR

Linear (AGR)

Hình 4.5. Mức thu nhập và các biến số kinh tế vĩ mô khác của các tỉnh/thành phố Việt Nam trong giai đoạn 2011-2018

Nguồn: Tính toán của tác giả

92

4.2. Kiểm định quan hệ nhân quả giữa thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh tại Việt Nam

4.2.1. Kiểm định Granger

Như đã nhắc đến ở Chương 2, do kiểm định Granger yêu cầu chuỗi thời gian đủ dài, nên nghiên cứu này chỉ có thể sử dụng các chỉ số thành phần của PCI để kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh tại Việt Nam. Điều này có thể chấp nhận được do 2 chỉ số thành phần của PGI được xây dựng theo phương pháp phân tích nhân tố bao hàm tới 8 chỉ số thành phần của PCI. Kết quả của mục 4.2 mang tính chất định hướng cho các phần nghiên cứu tiếp theo để đo lường mức độ ảnh hưởng giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế.

Theo phương pháp nghiên cứu được mô tả tại Chương 2, các chuỗi số liệu GRDP và 8 chỉ số thành phần của PCI trong giai đoạn 2006-2018 được sử dụng cho kiểm định này. Kết quả cho thấy:

- Các kiểm định tính dừng và đồng tích hợp đều đạt kết quả tốt (chi tiết tại Phụ

lục 10 và 11).

- Nhìn chung, Y (GRDP) và các chỉ số PCI có mối tác động qua lại lẫn nhau khi mô hình kiểm định lấy biến trễ 1 đến 2 kỳ, điều này được thể hiện cụ thể qua Bảng 4.3 dưới đây.

Bảng 4.3. Kết quả kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa GRDP và các chỉ số PCI

Z-bar tilde

Kết luận

Ghi chú

Z-bar

Không có tác động

lag=2

lnPCI2  lnY

1,5584

-0,9277

(0,1191)

(0,3536)

lnY  lnPCI2

11,4481

2,8789

Có tác động

lag=2

(0,0000)

(0,0040)

lnPCI3  lnY

4,3314

0,1396

Có tác động

lag=2

(0,0000)

(0,8889)

lnY  lnPCI3

17,234

9,6109

Có tác động

lag=1

(0,0000)

(0,0000)

lnPCI4  lnY

5,9307

2,6607

Có tác động

lag=1

(0,0000)

(0,0078)

lnY  lnPCI4

13,0162

7,0175

Có tác động

lag=1

(0,0000)

(0,0000)

lnPCI5  lnY

10,5827

5,5211

Có tác động

lag=1

(0,0000)

(0,0000)

93

Z-bar tilde

Kết luận

Ghi chú

Z-bar

Có tác động

lag=1

lnY  lnPCI5

9,1614

4,6472

(0,0000)

(0,0000)

lnPCI7  lnY

6,1887

0,8545

Có tác động

lag=2

(0,0000)

(0,3928)

lnY  lnPCI7

10,8159

5,6645

Có tác động

lag=1

(0,0000)

(0,0000)

lnPCI8  lnY

6,1972

2,8246

Có tác động

lag=1

(0,0000)

(0,0047)

lnY  lnPCI8

15,9074

8,7952

Có tác động

lag=1

(0,0000)

(0,0000)

9,7875

5,0322

Có tác động

lag=1

(0,0000)

(0,0000)

lnPCI9  lnY lnY  lnPCI9

29,3593

17,0667

Có tác động

lag=1

(0,0000)

(0,0000)

4,5567

0,2263

Có tác động

lag=2

(0,0000)

(0,8209)

lnPCI10  lnY lnY  lnPCI10

18,9669

10,6765

Có tác động

lag=1

(0,0000)

(0,0000)

Ghi chú: Số trong ngoặc là p-value.

Nguồn: Tính toán của tác giả

So sánh Bảng 4.3 với kết quả nghiên cứu của Wilson (2016), có thể thấy sự khác biệt phần nào giữa tăng trưởng kinh tế địa phương của Việt Nam và Trung Quốc. Dường như hiệu ứng tăng trưởng từ các yếu tố khác (đặc biệt là vốn) của Trung Quốc lấn át hoàn toàn hiệu ứng tăng trưởng của thể chế, do đó chiều tác động từ thể chế đến tăng trưởng hoàn toàn không có ý nghĩa thống kê, trong khi chiều tác động từ tăng trưởng đến thể chế có ý nghĩa thống kê và mang dấu dương. Ngược lại, trừ PCI2, các chỉ số khác đều có ít nhất một chỉ số thống kê có tác động hai chiều với GRDP. Tuy vậy, kết luận này cũng cần xem xét một cách thận trọng do sự khác biệt về thước đo thể chế giữa hai nghiên cứu.

4.2.2. Kiểm định Durbin-Wu-Hausman

94

Kiểm định tính nội sinh Durbin-Wu-Hausman theo thủ tục do Davidson và MacKinnon (1993) đề xuất cũng cho kết luận về tính nội sinh của cả 5 biến thể chế quản trị trong mô hình nghiên cứu (Bảng 4.4). Nhìn chung, nếu xét rời từng biến thể chế quản trị, chúng ta có thể nhận thấy mối quan hệ hai chiều giữa tăng trưởng kinh tế và các biến thể chế quản trị, trừ PUB dường như hoàn toàn không có tác động đến lnY và chiều tác động từ COR tới lnY cũng không đảm bảo ý nghĩa thống kê. Chi tiết về quy trình kiểm định được trình bày tại Phụ lục 12.

Bảng 4.4. Kết quả kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa GRDP và các chỉ số PGI

F-test

Kết luận

Tăng trưởng  Thể chế 1338,2420

Thể chế  Tăng trưởng 8,1845

DEM

Nội sinh

(0,0000)

(0,0044)

COR

788,1000

1,6655

Nội sinh

(0,0000)

(0,1976)

SER

1432,6140

21,0992

Nội sinh

(0,0000)

(0,0000)

POL

1607,3500

22,9318

Nội sinh

(0,0000)

(0,0000)

PUB

2568,7850

0,0185

Nội sinh

(0,0000)

(0,8918)

PGI

2104,57

3,3857

(0,0000)

(0,0664)

Nội sinh

Ghi chú: Số trong ngoặc là p-value.

Nguồn: Tính toán của tác giả

Kết quả kiểm định này cũng được một số nghiên cứu trước đây ủng hộ, ví dụ Bai và cộng sự (2013) đã cung cấp bằng chứng nhân quả về tác động của tăng trưởng đối với mức độ tham nhũng trong nền kinh tế Việt Nam.

4.3. Kết quả hồi quy ảnh hưởng của chất lượng thể chế quản trị đến tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh tại Việt Nam

4.3.1. Kết quả hồi quy GMM

Với kết luận khá chắc chắn về tính nội sinh của các biến thể chế tại mục 4.2, phương pháp hồi quy hai giai đoạn được lựa chọn cho nghiên cứu này, cụ thể là phương pháp GMM cho mô hình số liệu mảng động hai giai đoạn, với biến công cụ là biến trễ của biến phụ thuộc và sai phân của các biến độc lập. Phương pháp ước lượng này có thể giúp giải quyết vấn đề nội sinh khi ước lượng tác động của thể chế tới tăng trưởng kinh tế (Arellano và Bond, 1991). Phương pháp này cũng rất phù hợp với một nghiên cứu sử dụng số liệu mảng địa phương cấp tỉnh Việt Nam, do số đơn vị thời gian (năm) thường nhỏ hơn số đơn vị không gian (63 tỉnh/thành phố) nhiều lần.

Tuy nhiên, kết quả hồi quy GMM 2 giai đoạn trong Bảng 4.5 cho thấy biến trễ của GRDP không có ý nghĩa thống kê. Hơn nữa kết quả hồi quy hai giai đoạn được phần mềm thống kê STATA cảnh báo là bị chệch (gmm two-step standard errors are biased).

95

Điều này khiến việc điều chỉnh phương pháp bằng việc ước lượng số liệu mảng động có khai báo biến nội sinh trở nên cần thiết, khi đó biến công cụ là biến trễ của

biến phụ thuộc và các biến thể chế đã được xây dựng ở Chương 3, cùng với sai phân của các biến độc lập còn lại. Lần này, kết quả cho thấy các biến kinh tế vĩ mô (biến trễ của GRDP bình quân lao động hiệu quả, vốn bình quân lao động hiệu quả, tỷ lệ của chi tiêu chính phủ trên GRDP, tỷ trọng của nông nghiệp trong GRDP, tỷ trọng của khu vực có vốn FDI trong GRDP) đều có ý nghĩa thống kê và dấu của hệ số đều đúng theo lý thuyết về tăng trưởng (như phân tích tại mục 2.4.2). Các kết quả tại Bảng 4.5 cho thấy phương pháp hồi quy GMM với biến nội sinh là phù hợp.

Riêng với các biến thể chế, chỉ ba chỉ số kiểm soát tham nhũng, dịch vụ công và chất lượng chính sách có ý nghĩa thống kê, nhưng hệ số của dịch vụ công lại mang dấu âm. Hệ số của các biến dân chủ và thủ tục hành chính công không có ý nghĩa.

Bảng 4.5. Ảnh hưởng của các khía cạnh thể chế tới tăng trưởng kinh tế

Hồi quy GMM 2 giai đoạn (1) Hồi quy GMM với biến nội sinh (2)

Biến trễ của LnYL

0,1810***

0,0193

(0,0310)

(0,0325)

lnKL

0,4240***

0,5650***

(0,0244)

(0,0275)

lnGL

0,2520***

0,2050***

(0,0218)

(0,0242)

GOV

-0,4830***

-0,4560***

(0,0528)

(0,0672)

AGR

-0,3220**

-0,4880***

(0,1310)

(0,1450)

FDI

0,3800***

0,4660***

(0,0796)

(0,0813)

lnDEM

-0,0038

0,0019

lnCOR

(0,0080) 0,0171*

(0,0034) 0,0033

(0,0101)

(0,0044)

lnSER

-0,0406**

-0,0277***

(0,0171)

(0,0064)

lnPOL

0,0345***

0,0235***

(0,0080)

(0,0036)

lnPUB

-0,0169***

-0,0200

(0,0122)

(0,0036)

1,6190***

2,1680***

Hệ số chặn

(0,2880)

(0,3280)

435

435

Số quan sát điều chỉnh

Ghi chú: Số trong ngoặc là sai số chuẩn; * p-value<0.10, ** p-value <0.05, *** p-value <0.01

Nguồn: Tính toán của tác giả

96

4.3.2. Kết quả hồi quy sau khi điều chỉnh mô hình

Trong 5 biến thể chế, kết quả ở Hình 4.4 và Bảng 4.4 đã dự báo trước việc biến thủ tục hành chính công hầu như không tác động đến tăng trưởng kinh tế của các tỉnh/thành phố. Nếu quay lại Chương 3, chúng ta có thể nhận thấy hai vấn đề:

- Thủ tục hành chính công và dịch vụ công đều là các biến đại diện cho khía cạnh

hiệu quả của chính quyền địa phương;

- Sự chênh lệch về điểm số thủ tục hành chính công giữa các địa phương là rất

thấp so với các chỉ số thể chế khác.

Những nhận định này có thể cho phép rút biến thủ tục hành chính công ra khỏi mô hình nghiên cứu mà vẫn đảm bảo tương đối đầy đủ các khía cạnh thể chế. Theo đó, mô hình nghiên cứu còn lại bốn biến thể chế: dân chủ (gồm các khía cạnh sự tham gia của người dân, minh bạch và trách nhiệm giải trình), kiểm soát tham nhũng, chất lượng chính sách, chất lượng dịch vụ công (đại diện cho khía cạnh hiệu quả của chính quyền).

Bên cạnh đó, hệ số không có ý nghĩa thống kê hoặc mang dấu âm của các biến dân chủ và dịch vụ công ở mô hình (2) của Bảng 4.5 gợi ý về mối quan hệ phi tuyến giữa các biến thể chế này với tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, xét đặc trưng của biến dân chủ đặc biệt thấp ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nơi có tỷ trọng nông nghiệp trên GRDP cao nhất cả nước, biến AGR được rút khỏi mô hình để giảm độ tương quan giữa các biến thể chế và các biến tham số cơ cấu kinh tế.

Kết quả cuối cùng là mô hình tại Bảng 4.6, trong đó, trừ các hệ số của dân chủ và kiểm soát tham nhũng có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, tất cả các hệ số còn lại đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1%.

Trước khi tiến hành giải thích ý nghĩa của kết quả ước lượng, nghiên cứu tiến hành thêm một kiểm định cần thiết nhằm khẳng định độ tin cậy của mô hình tại Bảng 4.6. Với dữ liệu thu được từ ma trận hệ số tương quan Pearson (Pearson correlation coeffients matrix) và nhân tố phóng đại phương sai (VIF), có thể kết luận rằng giữa các biến độc lập trong mô hình ước lượng không tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến. Cụ thể kết quả kiểm định được đề cập trong Phụ lục 13.

97

Cũng có một điểm lưu ý, so với kết quả thu được từ mô hình ước lượng hiệu ứng cố định (Fixed-effects regression) thường được áp dụng với dữ liệu mảng thông thường (xem Phụ lục 14), dấu và ý nghĩa thống kê của các hệ số ước lượng khá giống mô hình tại Bảng 4.6. Điểm khác biệt duy nhất là hệ số của dân chủ trong mô hình hiệu ứng cố định hoàn toàn không có ý nghĩa thống kê. Rõ ràng, việc kiểm soát tính

nội sinh của các biến thể chế giúp đạt được kết quả có ý nghĩa hơn hơn về tác động của thể chế đến tăng trưởng kinh tế.

Bảng 4.6. Ảnh hưởng của các khía cạnh thể chế tới tăng trưởng kinh tế (Mô hình điều chỉnh)

Hồi quy GMM với biến nội sinh

Biến trễ của LnYL

0,1420***

(0,0305)

lnKL

0,3910*** (0,0244)

lnGL

0,3000***

(0,0237)

GOV

-0,6880***

(0,0589)

FDI

0,3890***

(0,0789)

lnDEM

-0,0500*

(0,0256)

lnDEM bình phương

0,0168*

(0,0101)

lnCOR

0,0207*

(0,0106)

lnSER

-0,4120***

lnSER bình phương

(0,0974) 0,1170***

(0,0286)

lnPOL

0,0260***

(0,0077)

Hệ số chặn

2,2470***

(0,2530)

435

Số quan sát điều chỉnh

Ghi chú: Số trong ngoặc là sai số chuẩn; * p-value<0.10, ** p-value <0.05, *** p-value <0.01

Nguồn: Tính toán của tác giả

98

Cuối cùng, bốn chỉ số thành phần được thay thế bằng chỉ số thể chế quản trị tổng hợp đã được xây dựng tại Chương 3 trong mô hình ước lượng theo phương pháp GMM có xét đến biến nội sinh. Kết quả tại Bảng 4.7 cho thấy, dù có khía cạnh thủ tục hành chính công bao hàm trong PGI, và bốn khía cạnh thể chế còn lại có tác động khác nhau (tuyến tính và phi tuyến) tới lnYL, nhưng xét tổng thể, PGI có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng kinh tế các tỉnh/thành phố Việt Nam.

Bảng 4.7. Ảnh hưởng của chỉ số thể chế quản trị (PGI) tới tăng trưởng kinh tế

Hồi quy GMM với biến nội sinh

Biến trễ của LnYL

0,0711**

(0,0289)

lnKL

0,5220***

(0,0229)

lnGL

0,2080***

(0,0204)

GOV

-0,4090***

(0,0492)

FDI

0,5480***

(0,0769)

lnPGI

0,0609***

(0,0233)

Hệ số chặn

1,7970***

(0,1390)

Số quan sát điều chỉnh

435

Ghi chú: Số trong ngoặc là sai số chuẩn; * p-value<0.10, ** p-value <0.05, *** p-value <0.01

Nguồn: Tính toán của tác giả

Nghiên cứu cũng thử nghiệm mô hình ước lượng tại Bảng 4.6 và 4.7 với biến trễ hai kỳ của GRDP bình quân lao động hiệu quả. Kết quả tại Phụ lục 15 cho thấy có một chút thay đổi, so với Bảng 4.6, hệ số của biến dân chủ (lnDEM) bình phương không còn ý nghĩa thống kê, nhưng hệ số của biến kiểm soát tham nhũng (lnCOR) có ý nghĩa thống kê ở mức 1% như đa số biến còn lại trong mô hình. Trong khi đó, theo Phụ lục 16, biến trễ hai kỳ của lnYL trong mô hình tương ứng Bảng 4.7 không có ý nghĩa thống kê nhưng các hệ số còn lại vẫn có ý nghĩa thống kê ở mức 1% hoặc 5%. Như vậy, tất cả các biến thể chế có tác động đối với tăng trưởng kinh tế ngay ở năm kế tiếp và tác động này được kéo dài đến năm thứ hai (trừ biến dân chủ). Biến kiểm soát tham nhũng thậm chí có tác động lớn hơn ở năm thứ hai với hệ số và ý nghĩa thống kê cao hơn.

4.4. Thảo luận về kết quả hồi quy

4.4.1. Tác động chung của chất lượng thể chế quản trị đến tăng trưởng kinh tế

99

Kết quả trong Bảng 4.7 cho thấy ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tăng trưởng kinh tế đúng theo giả thuyết được đặt ra ở Chương 2, phù hợp với lý thuyết và nhiều kết quả nghiên cứu thực nghiệm. Xét về thời gian, trong điều kiện các yếu tố

khác không đổi, khi chỉ số thể chế quản trị được cải thiện thì kinh tế tăng trưởng tốt hơn. Tương tự như vậy, xét về không gian, các địa phương có thể chế quản trị tốt hơn thì sẽ có mức thu nhập cao hơn, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi.

Nhìn bề ngoài, mức độ ảnh hưởng của chất lượng thể chế rõ ràng không lớn như các biến số kinh tế vĩ mô. Ví dụ, mức vốn vật chất bình quân lao động hiệu quả tăng 1% thì có thể làm GRDP bình quân lao động hiệu quả tăng tới 0,522%, nhưng sự gia tăng 1% của chỉ số thể chế quản trị chỉ giúp GRDP bình quân lao động hiệu quả tăng thêm 0,061%. Ví dụ, một tỉnh/thành phố có PGI là 5 điểm, quy mô GRDP khoảng 40 nghìn tỷ VND và số lao động hiệu quả đạt 700 nghìn người, thì sự gia tăng 1% PGI (từ 5 điểm lên 5,05) sẽ giúp GRDP của tỉnh này tăng thêm 24,4 tỷ VND.

Phân tích sâu hơn, kết quả này đáng ghi nhận ở các địa phương có chỉ số thể chế quản trị thấp, nhưng lại rất thấp ở các tỉnh/thành phố có chỉ số thể chế quản trị cao. Ví dụ, nếu một tỉnh có PGI là 2, thì việc tăng 1 điểm PGI (từ 2 lên 3) sẽ khiến GRDP bình quân lao động hiệu quả của tỉnh đó tăng tới 3% trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Tuy nhiên, với tỉnh có PGI đạt tới 8 điểm, thì việc tăng PGI lên 9 điểm chỉ mang lại 0,8% gia tăng GRDP bình quân lao động hiệu quả. Phân tích ở Chương 3 cho thấy, chỉ số thể chế quản trị trung bình của đa số các tỉnh/thành phố Việt Nam dao động trong khoảng 5-6 điểm, do vậy khi PGI tăng thêm 1 điểm thì có thể dự báo thu nhập của các địa phương tăng thêm 1-1,2%.

Khi giải thích khoảng cách thu nhập giữa các tỉnh/thành phố, chúng ta cũng có thể lập luận tương tự: 1% chênh lệch về PGI giữa hai tỉnh có thể giải thích được 0,061% khoảng cách GRDP bình quân lao động hiệu quả giữa hai tỉnh đó. Kết quả này là khá cao ở nhóm các địa phương có PGI thấp nhưng hầu như không đáng kể ở nhóm các địa phương có PGI cao. Ví dụ, nếu PGI của hai tỉnh lần lượt là 2 và 3, thì khoảng cách thu nhập giữa hai tỉnh này là 3% trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Tuy nhiên, khoảng cách thu nhập giữa một tỉnh có PGI là 8 và một tỉnh có PGI là 9 chỉ là 0,8%. Tính bình quân ở các tỉnh/thành phố Việt Nam, chênh lệch 1 điểm PGI có thể giải thích được 1-1,2% khoảng cách thu nhập giữa các địa phương.

4.4.2. Ảnh hưởng của kiểm soát tham nhũng và chất lượng chính sách đến tăng trưởng kinh tế

100

Tương tự như PGI, kết quả trong Bảng 4.6 cho thấy kiểm soát tham nhũng và chất lượng chính sách đều tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng kinh tế. Việc nâng cao kiểm soát tham nhũng và chất lượng chính sách sẽ giúp thúc đẩy kinh tế của một địa phương tăng trưởng theo thời gian; đồng thời tại cùng một thời

điểm, các địa phương có mức độ kiểm soát tham nhũng và chất lượng chính sách tốt hơn thì sẽ có mức thu nhập cao hơn (trong điều kiện các nhân tố khác không đổi). So với kết luận rút ra một cách trực quan từ Hình 4.4 (thể hiện hai biến này có quan hệ phi tuyến theo hình chữ U ngược với tăng trưởng kinh tế), rõ ràng việc kiểm soát yếu tố biến nội sinh cho các kết quả tốt hơn và phù hợp với lý thuyết kinh tế học thể chế.

Với các hệ số thu được từ Bảng 4.6, kết luận có thể rút ra là: sự gia tăng 1% của chỉ số kiểm soát tham nhũng hay chất lượng chính sách sẽ giúp GRDP bình quân lao động hiệu quả của một tỉnh/thành phố tăng thêm 0,02-0,03%. Xét theo khía cạnh không gian, 1% chênh lệch về chỉ số kiểm soát tham nhũng hay chất lượng chính sách sẽ giải thích được 0,02-0,03% khoảng cách thu nhập bình quân lao động hiệu quả giữa hai tỉnh/thành phố. Một ví dụ khá phù hợp cho nhận định này là trường hợp Bắc Giang và Long An. Hai tỉnh này tương đối giống nhau về các số liệu kinh tế vĩ mô năm 2018: mức vốn vật chất (theo tính toán của nghiên cứu này) xấp xỉ 170 nghìn tỷ VND, số lao động hiệu quả khoảng 1 triệu lao động, tỷ trọng FDI 20% và tỷ lệ chi tiêu ngân sách trên GRDP trong khoảng 20-30%. Tuy nhiên, Long An vượt hơn hẳn Bắc Giang về mức độ kiểm soát tham nhũng (6,51 điểm so với 5,93 điểm) và chất lượng chính sách (6,73 điểm so với 5,15 điểm). Và thực tế là GRDP của Long An cũng cao hơn Bắc Giang khoảng 11 nghìn tỷ VND, tương đương với mức chênh lệch thu nhập giữa hai tỉnh là 11 triệu VND bình quân lao động hiệu quả trong năm 2018.

4.4.3. Ảnh hưởng của dân chủ và dịch vụ công đến tăng trưởng kinh tế

Hai biến đáng xem xét là dân chủ và dịch vụ công bởi mối quan hệ phi tuyến với mức thu nhập bình quân lao động hiệu quả. Bảng 4.6 cho thấy DEM và SER có tác động âm, còn DEM bình phương và SER bình phương có tác động dương và đều có ý nghĩa thống kê (ở mức 1% hoặc 10%), nghĩa là tác động của dân chủ và dịch vụ công tới tăng trưởng kinh tế các tỉnh/thành phố tuân theo hình chữ U. Một lần nữa, khi so sánh với Hình 4.4 về mối quan hệ trực quan giữa mức thu nhập và các biến thể chế này, kết quả với biến dân chủ khá tương đồng (đều phi tuyến theo hình chữ U) trong khi biến dịch vụ công đã có sự chuyển biến từ quan hệ tuyến tính thành phi tuyến, đây chính là sự khác biệt khi yếu tố nội sinh được kiểm soát trong mô hình nghiên cứu.

101

Xét theo khía cạnh thời gian, trong giai đoạn đầu, mức độ thấp của dân chủ (chính quyền địa phương chuyên quyền, sự minh bạch và giải trình chưa được đảm bảo) và dịch vụ công (mức độ hỗ trợ doanh nghiệp, dịch vụ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp và thiết chế pháp lý chưa tốt) lại kích thích cho tăng trưởng. Tuy nhiên, sau khi vượt qua một ngưỡng nhất định (đáy của chữ U), tăng trưởng kinh tế lại được thúc đẩy nhờ việc tăng cường dân chủ và thúc đẩy chất lượng dịch vụ công. Xét theo

khía cạnh không gian, ở những địa phương có mức thu nhập còn thấp, việc tăng cường dân chủ và dịch vụ công ban đầu có thể khiến tăng trưởng giảm đi. Nhưng khi đạt đến ngưỡng thu nhập nhất định, địa phương bắt buộc phải nâng cao dân chủ và cải thiện chất lượng dịch vụ công để tiếp tục đạt được tăng trưởng kinh tế. Tất cả những phân tích này hàm ý, việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế địa phương trong dài hạn cuối cùng vẫn phải dựa trên các yếu tố “thể chế tốt”, bao hàm cả các khía cạnh dân chủ và dịch vụ công.

9.5

8.0

9.5

7.8

9.4

7.6

9.4

7.4

9.3

7.2

9.3

7.0

Để nhìn một cách trực quan và dễ hiểu hơn, khi đưa dữ liệu vào một mô hình kinh tế giả tưởng, ngoài chỉ số dân chủ, không có yếu tố nào khác tác động đến tăng trưởng kinh tế (hay các yếu tố khác không đổi), chúng ta có thể tính được điểm đáy của chữ U là ở mức chỉ số dân chủ khoảng 4,4 điểm (Hình 4.6). Tương tự, với trường hợp chỉ số dịch vụ công, điểm đáy của chữ U là 5,8 điểm (Hình 4.7). Điều này hàm ý 4,4 điểm và 5,8 điểm lần lượt là ngưỡng chỉ số dân chủ và chỉ số dịch vụ công mà từ đó tăng trưởng được thúc đẩy nhờ cải thiện các khía cạnh thể chế này.

ả u q u ệ i h g n ộ đ o a l

ả u q u ệ i h g n ộ đ o a l

9.2

6.8

9.2

ì

ì

6.6

9.1

6.4

9.1

n â u q h n b P D G

n â u q h n b P D G

6.2

9.0

0

2

4

6

8

10

0

2

4

6

8

10

Chỉ số dân chủ

Chỉ số dịch vụ công

Hình 4.7. Mối quan hệ giữa dịch vụ công và mức thu nhập bình quân lao động hiệu quả

Hình 4.6. Mối quan hệ giữa dân chủ và mức thu nhập bình quân lao động hiệu quả

Ghi chú: Xây dựng mô hình giả tưởng dựa trên các hệ số thu được từ Bảng 4.6:

Ghi chú: Xây dựng mô hình giả tưởng dựa trên các hệ số thu được từ Bảng 4.6:

lnY = 2,247 – 0,05 * lnDEM + 0,0168 * lnDEM2

lnY = 2,247 – 0,412 * lnSER + 0,117 * lnSER2

102

Tính trung bình trong giai đoạn 2011-2018, mức điểm dân chủ bình quân của cả nước vào khoảng 5,06 và chỉ 18 tỉnh có điểm dân chủ dưới mức 4,4. Đồng thời, mức điểm dịch vụ công bình quân của cả nước là 6,67 và chỉ có 5 địa phương có điểm dịch vụ công dưới mức 5,8. Như vậy, với các ngưỡng đáy của chữ U nêu trên, chúng ta có

thể kết luận về sự tác động tích cực của khía cạnh thể chế này đối với tăng trưởng kinh tế nói chung của các tỉnh/thành phố Việt Nam.

4.5. Mở rộng nghiên cứu tác động của chất lượng thể chế quản trị

4.5.1. Tác động của chất lượng thể chế quản trị theo sáu vùng kinh tế

Như trình bày tại Chương 3, Việt Nam hiện được chia thành 6 vùng kinh tế. Nếu đưa thêm một biến giả đại diện cho yếu tố vùng kinh tế (với các giá trị từ 1 đến 6) vào mô hình, kết quả cho thấy biến này có ý nghĩa thống kê và tác động lớn tới tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng rất quan trọng trong việc giải thích khoảng cách phát triển giữa các tỉnh/thành phố. Cần lưu ý rằng, việc bổ sung yếu tố vùng kinh tế không làm hệ số của các biến khác thay đổi, mà chỉ ảnh hưởng đến sai số chuẩn và triệt tiêu giá trị của hệ số chặn (bảng so sánh chi tiết tại Phụ lục 17 và 18).

Các phân tích tại Chương 3 cho thấy sự khác biệt về chất lượng thể chế quản trị tại 6 vùng kinh tế khá rõ ràng, nhưng việc thêm biến giả không cho phép ta nhận biết xem hiệu ứng tăng trưởng của chất lượng thể chế quản trị có khác nhau giữa các vùng hay không. Để trả lời câu hỏi này, mô hình tại Bảng 4.6 và Bảng 4.7 được ước lượng theo từng vùng, mang lại 12 phương trình hồi quy cho 6 vùng kinh tế (kết quả chi tiết được trình bày tại Phụ lục 19 và 20).

Dễ nhận thấy rằng, việc giảm số quan sát có ảnh hưởng khá nhiều đến kết quả ước lượng, thể hiện ở việc PGI dù vẫn mang hệ số dương nhưng không còn có ý nghĩa thống kê ở 5 vùng kinh tế. Riêng tại Đông Nam Bộ, PGI có ý nghĩa thống kê nhưng lại có hệ số âm, cho thấy động lực tăng trưởng của khu vực này dường như hoàn toàn dựa trên các nhân tố khác chứ không phải nhờ nâng cao thể chế quản trị. Khi xét đến từng khía cạnh thể chế, rất nhiều hệ số thể chế cũng không có ý nghĩa thống kê ở từng vùng. Nếu chỉ giữ lại những hệ số có ý nghĩa và điều chỉnh một chút về mô hình (bỏ hoặc bổ sung các biến thể chế bình phương), thì kết quả tại Bảng 4.8 mang lại những bức tranh rất khác nhau về ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tăng trưởng ở các vùng kinh tế.

103

Tại vùng Đồng bằng sông Hồng, yếu tố thể chế duy nhất tác động có ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng kinh tế là chất lượng chính sách. Tác động này là tích cực nhưng thấp hơn mức chung của cả nước (so với hệ số của lnPOL tại Bảng 4.6). Phân tích tại Chương 3 cho thấy chất lượng chính sách của khu vực này đứng thứ 4 trong 6 vùng kinh tế. Thậm chí tính trung bình trong giai đoạn 2011-2018, Hà Nội còn đứng cuối bảng xếp hạng cả nước về chất lượng chính sách. Như vậy, vùng Đồng bằng sông Hồng còn nhiều việc cần làm để cải thiện khía cạnh thể chế này, và đáng mừng là điều đó sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của khu vực.

Bảng 4.8. Ảnh hưởng của các khía cạnh chất lượng thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế tại từng vùng kinh tế

Tây Nguyên

Đông Nam Bộ

Đồng bằng sông Hồng

Đồng bằng sông Cửu Long

Trung du và miền núi phía Bắc

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung

Biến trễ của LnYL

0,1840***

0,1810***

0,2150***

0,0324

-0,0208

0,1750***

(0,0558)

(0,0407)

(0,0355)

(0,0861)

(0,0711)

(0,0492)

0,2870***

0,2620***

0,0732**

0,3510***

0,5180***

0,1640***

lnKL

(0,0576)

(0,0507)

(0,0287)

(0,1150)

(0,0614)

(0,0351)

0,4340***

0,4750***

0,7330***

0,3300**

0,2410***

0,5600***

lnGL

(0,0588)

(0,0496)

(0,0418)

(0,1290)

(0,0696)

(0,0530)

-1,6800***

-0,7180***

-1,3580***

-0,5370*

-3,5640***

-1,9700***

GOV

(0,2180)

(0,0748)

(0,0887)

(0,2760)

(0,6510)

(0,2020)

0,4380***

0,2300**

2,0080***

FDI

(0,1450)

(0,1050)

(0,3900)

0,0220*

-0,0693**

0,5670***

lnDEM

(0,0118)

(0,0278)

(0,1790)

lnDEM bình phương

0,0238**

-0,1920***

(0,0114)

(0,0616)

-0,0533***

lnCOR

(0,0180)

-0,1500**

-0,9830***

-0,1250***

-0,3260*

lnSER

(0,0654)

(0,2620)

(0,0474)

(0,1900)

0,0410**

0,1000*

0,3090***

lnSER bình phương

(0,0209)

(0,0542)

(0,0807)

-0,3750**

-0,2740*

0,0366***

lnPOL

(0,1490)

(0,1450)

(0,0136)

0,1210**

0,0887**

lnPOL bình phương

(0,0505)

(0,0429)

Hệ số chặn

1,6720***

1,3380***

0,9880***

3,5460***

3,6950***

2,6540***

(0,2730)

(0,3980)

(0,2060)

(0,8190)

(0,5680)

(0,2990)

Số quan sát điều chỉnh

76

96

98

35

42

88

Ghi chú: Số trong ngoặc là sai số chuẩn; * p-value<0.10, ** p-value <0.05, *** p-value <0.01

Nguồn: Tính toán của tác giả

Vùng Trung du và miền núi phía Bắc cho thấy ảnh hưởng lớn hơn của chất

lượng thể chế quản trị đến tăng trưởng kinh tế, khi có hai chỉ số có ý nghĩa thống kê là

104

dân chủ và dịch vụ công. Nếu như tác động của dịch vụ công tới tăng trưởng ở khu

vực này cũng tương tự cả nước (theo hình chữ U, với điểm đáy là 6,2), thì dân chủ lại

có tác động tích cực và tuyến tính tới tăng trưởng. Hai khía cạnh thể chế này của vùng

Trung du và miền núi phía Bắc chỉ xếp thứ 3 và thứ 4 trong 6 vùng kinh tế, do vậy khu

vực này còn nhiều động lực để cải thiện thể chế quản trị, đặc biệt ở các khía cạnh dân

chủ và dịch vụ công, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Kết quả hồi quy cho vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung chỉ cho một

chỉ số thể chế có ý nghĩa thống kê là dân chủ. Mối quan hệ của khía cạnh thể chế này

với mức thu nhập cũng theo dạng phi tuyến như mô hình hồi quy cho 63 tỉnh/thành

phố, và đáy của chữ U nằm ở khoảng 4,3 điểm dân chủ. Hiện nay mức điểm dân chủ

trung bình của vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung là 5,44, do đó chúng ta

cũng có thể dự báo việc gia tăng chỉ số dân chủ sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng

kinh tế của khu vực này.

Các vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ có 2 đến 3 chỉ số thể chế có ý nghĩa

thống kê nhưng dấu của một số hệ số dường như không theo kỳ vọng. Dân chủ tác

động đến thu nhập của Tây Nguyên theo hình chữ U ngược, kiểm soát tham nhũng và

chất lượng dịch vụ công ảnh hưởng tuyến tính nhưng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế

của Đông Nam Bộ. Tuy vậy, số lượng quan sát quá ít tại hai khu vực này và việc hệ số

của biến trễ lnYL không có ý nghĩa thống kê cho thấy các kết quả nêu trên không đáng

tin cậy.

Cuối cùng, kết quả hồi quy cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long mang lại 2 chỉ

số thể chế có ý nghĩa thống kê là dịch vụ công và chất lượng chính sách. Mối quan hệ

giữa dịch vụ công với thu nhập bình quân lao động hiệu quả tại khu vực này là phi

tuyến giống như trong hồi quy cả nước. Nhưng tác động của chất lượng chính sách đến

tăng trưởng ở đây lại theo hình chữ U, chứ không có dạng tuyến tính như kết quả tại

Bảng 4.6. Nhưng dù sao, với các điểm đáy của chữ U là 5,1 (với dịch vụ công) và 4,7

(với chất lượng chính sách), trong khi các tỉnh/thành phố khu vực này đã đạt mức

trung bình là 6,38 điểm dịch vụ công và 5,8 điểm chất lượng chính sách, ta hoàn toàn

có thể kết luận về ảnh hưởng tích cực của hai khía cạnh thể chế này tới tăng trưởng

kinh tế. Điều này trở nên càng có ý nghĩa trong bối cảnh khu vực này chỉ đứng thứ 5

về chỉ số dịch vụ công và chỉ số chính sách dù đứng đầu cả nước nhưng vẫn ở mức rất

thấp trên thang điểm 10. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ còn nhiều khả năng để

tiếp tục cải thiện nền thể chế quản trị tại các địa phương trong khu vực và từ đó thúc

105

đẩy tăng trưởng kinh tế.

4.5.2. Tác động của chất lượng thể chế quản trị theo tỉnh kinh tế trọng điểm và không trọng điểm

Tương tự như cách làm ở mục 4.5.1, các hồi quy được xây dựng cho từng nhóm 24 tỉnh/thành phố thuộc các vùng kinh tế trọng điểm và nhóm 39 tỉnh còn lại. Một lần nữa, hệ số của PGI và nhiều chỉ số thành phần không có ý nghĩa thống kê (Phụ lục 21 và 22). Giữ lại các biến có hệ số đủ ý nghĩa thống kê, ta thu được kết quả tại Bảng 4.9.

Bảng 4.9. Ảnh hưởng của các khía cạnh thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế tại các nhóm tỉnh kinh tế trọng điểm và không trọng điểm

Nhóm tỉnh thuộc các vùng kinh tế trọng điểm

Nhóm tỉnh không thuộc các vùng kinh tế trọng điểm

0,1720***

Biến trễ của LnYL

0,1280***

(0,0367)

(0,0404)

0,3760***

lnKL

0,5390***

(0,0287)

(0,0385)

0,3610***

lnGL

0,2050***

(0,0305)

(0,0324)

-0,6290***

GOV

-0,7530***

(0,0573)

(0,1220)

0,2830***

FDI

0,5530***

(0,0903)

(0,1790)

lnDEM

-0,1370**

(0,0539)

lnDEM bình phương

0,04870**

(0,0192)

-0,2210**

lnCOR

(0,0923)

0,0566**

lnCOR bình phương

(0,0285)

0,0205**

lnPOL

(0,0098)

1,2890***

Hệ số chặn

1,4140***

(0,1980)

(0,2580)

268

Số quan sát điều chỉnh

167

Ghi chú: Số trong ngoặc là sai số chuẩn; * p-value<0.10, ** p-value <0.05, *** p-value <0.01

Nguồn: Tính toán của tác giả

106

Đối với nhóm tỉnh/thành phố thuộc các vùng kinh tế trọng điểm, dân chủ là khía cạnh thể chế duy nhất có ý nghĩa thống kê, và mối quan hệ giữa dân chủ với mức thu nhập cũng giống trong hồi quy cả nước (theo hình chữ U, với điểm đáy là 4,1). Phân tích ở Chương 3 cho thấy điểm dân chủ của nhóm tỉnh trọng điểm thấp hơn so với nhóm 39 địa phương còn lại, nhưng trung bình vẫn đạt 4,97 điểm, cao hơn ngưỡng đáy của chữ U. Do vậy, cải thiện dân chủ là điều mà nhóm các tỉnh/thành phố này cần thực hiện để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn tới.

Trong hồi quy đối với nhóm tỉnh không thuộc các vùng kinh tế trọng điểm, hai chỉ số có ý nghĩa thống kê là kiểm soát tham nhũng và chất lượng chính sách. Nếu như chất lượng chính sách vẫn tương quan dương tuyến tính với mức thu nhập (giống như hồi quy 63 tỉnh/thành phố), thì kiểm soát tham nhũng giờ đây lại có quan hệ phi tuyến theo hình chữ U với GRDP bình quân lao động hiệu quả. Tương tự như trên, ta cũng có thể kết luận về ảnh hưởng tích cực của kiểm soát tham nhũng và chất lượng chính sách đối với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn tại nhóm 39 tỉnh này. Trong bối cảnh điểm của cả hai khía cạnh thể chế này của nhóm các tỉnh không trọng điểm đều thấp hơn so với nhóm tỉnh trọng điểm (dù chênh lệch về chỉ số kiểm soát tham nhũng không đáng kể), việc nâng cao kiểm soát tham nhũng và chất lượng chính sách là việc mà 39 địa phương này cần đặc biệt quan tâm.

4.5.3. Tác động của chất lượng thể chế quản trị theo các nhóm thu nhập

Khi chia 63 tỉnh và thành phố theo mức thu nhập (như trình bày tại mục 3.3.5) và chạy hồi quy tương ứng với từng nhóm, kết quả cũng cho thấy hệ số của PGI và nhiều chỉ số thành phần không có ý nghĩa thống kê (Phụ lục 23 và 24). Bảng 4.10 là kết quả cuối cùng khi chỉ các biến có hệ số đủ ý nghĩa thống kê được giữ lại.

107

Đối với nhóm các tỉnh có mức thu nhập cao, kết quả ước lượng cho thấy hệ số của kiểm soát tham nhũng và dịch vụ công có ý nghĩa thống kê. Mặc dù kiểm soát tham nhũng vẫn tương quan dương tuyến tính với mức thu nhập như kỳ vọng, nhưng dịch vụ công giờ đây lại có quan hệ hình chữ U ngược với GRDP bình quân lao động hiệu quả. Kết quả này trái ngược với ước lượng chung của cả nước và không theo kỳ vọng của nghiên cứu này. Ở Chương 3 ta đã kết luận một cách trực quan về việc dịch vụ công là biến thể chế tương quan mạnh nhất với trình độ phát triển kinh tế của địa phương, đồng thời nhóm tỉnh có mức thu nhập cao đã đạt điểm dịch vụ công trung bình tới 7,14, vượt xa hai nhóm tỉnh còn lại. Như vậy, phải chăng đối với nhóm tỉnh có mức thu nhập cao, dịch vụ công không còn là yếu tố thể chế cần tiếp tục quan tâm. Kết luận tương tự cũng từng được nhắc đến trong nghiên cứu của Nguyễn Việt Cường và

cộng sự (2021): khi chất lượng thể chế quản trị (đặc biệt là chất lượng dịch vụ công) được cải thiện, các tỉnh có thu nhập thấp có khả năng được hưởng lợi nhiều hơn so với các tỉnh có thu nhập cao. Bởi vậy, thay vì tiếp tục đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ công, chính quyền các địa phương có mức thu nhập cao nên đặc biệt chú ý đến vấn đề kiểm soát tham nhũng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cũng cần lưu ý rằng điểm kiểm soát tham nhũng của nhóm tỉnh/thành phố có mức thu nhập cao thua kém hơn hẳn hai nhóm còn lại trong giai đoạn 2011-2018.

Bảng 4.10. Ảnh hưởng của các khía cạnh thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế theo các nhóm thu nhập

Nhóm tỉnh có thu nhập cao

Nhóm tỉnh có thu nhập trung bình

Nhóm tỉnh có thu nhập thấp

Biến trễ của LnYL

0,138***

0,252***

0,147***

(0,0419)

(0,0382)

(0,0418)

lnKL

0,567***

0,131***

0,372***

(0,0457)

(0,0290)

(0,0328)

lnGL

0,207***

0,541***

0,361***

(0,0424)

(0,0361)

(0,0385)

GOV

-0,892***

-1,313***

-0,593***

(0,1710)

(0,1070)

(0,0674)

FDI

0,161*

(0,0918)

lnDEM

-0,0640**

0,0252**

(0,0279)

(0,0112)

lnDEM bình phương

0,0199*

(0,0114)

lnCOR

0,0219*

(0,0115)

lnSER

0,892***

-0,226***

(0,2630)

(0,0777)

lnSER bình phương

-0,260***

0,0682***

(0,0737)

(0,0251)

lnPOL

0,0186*

(0,0110)

Hệ số chặn

1,766***

1,482***

(0,2200)

(0,3390)

149

147

Số quan sát điều chỉnh

139

Ghi chú: Số trong ngoặc là sai số chuẩn; * p-value<0.10, ** p-value <0.05, *** p-value <0.01

Nguồn: Tính toán của tác giả

108

Kết quả hồi quy cho nhóm tỉnh có mức thu nhập trung bình mang lại hai chỉ số có ý nghĩa thống kê là dân chủ và chất lượng chính sách, và quan hệ của chúng với mức thu nhập giống như trong hồi quy cả nước. Một mặt, điểm dân chủ của nhóm tỉnh này đang đứng cuối bảng, mặt khác chất lượng chính sách dù vượt trội hai nhóm còn lại nhưng vẫn ở mức thấp (5,08 điểm). Vì vậy, các địa phương thuộc nhóm thu nhập trung bình sẽ còn nhiều khả năng cải thiện các khía cạnh thể chế này và nhờ đó tạo thêm động lực cho tăng trưởng kinh tế.

Hồi quy với nhóm tỉnh có mức thu nhập thấp cho kết quả là mối quan hệ dương tuyến tính của dân chủ và quan hệ hình chữ U của dịch vụ công với mức thu nhập. Dù có phần khác biệt so với hồi quy cả nước, nhưng kết quả tại Bảng 4.8 khẳng định rõ hơn ảnh hưởng tích cực của các khía cạnh thể chế này đến tăng trưởng kinh tế của các địa phương thuộc nhóm thu nhập thấp, đặc biệt trong bối cảnh yếu tố dịch vụ công của nhóm thấp hơn hẳn hai nhóm còn lại, trong khi điểm dân chủ cũng không cao (5,3 điểm).

4.5.4. Tác động của chất lượng thể chế quản trị theo mức chi tiêu ngân sách

Theo cách tiếp cận của Lê Quang Cảnh và Đỗ Tuyết Nhung (2018), mô hình hồi quy ở Bảng 4.7 được bổ sung thêm một biến tương tác của mức chi tiêu ngân sách bình quân lao động hiệu quả với PGI. Chúng ta cũng có thể chạy hồi quy riêng lẻ cho từng khía cạnh thể chế và bổ sung biến tương tác của mức chi tiêu ngân sách bình quân lao động hiệu quả với các chỉ số thể chế thành phần. Kết quả ước lượng được trình bày tại Bảng 4.11.

Theo kết quả này, hệ số của biến tương tác giữa thể chế và chi ngân sách có ý nghĩa thống kê ở 4 trên 5 mô hình hồi quy. Biến này mang dấu âm trong hồi quy với biến thể chế là PGI, kiểm soát tham nhũng và chất lượng chính sách, thể hiện tác động của thể chế tới tăng trưởng ở các tỉnh có mức chi ngân sách thấp sẽ lớn hơn tác động ở các địa phương có mức chi ngân sách lớn hơn. Nói cách khác, một tỉnh/thành phố càng chi ngân sách lớn, thì ảnh hưởng (tích cực) của thể chế tới tăng trưởng càng ít hơn.

109

Cũng cần lưu ý rằng, các địa phương có mức chi ngân sách bình quân lao động hiệu quả cao chưa chắc đã có mức GRDP bình quân lao động hiệu quả cao, mà đây có thể là những tỉnh/thành phố phải phụ thuộc vào nguồn chi từ chính quyền để duy trì tăng trưởng kinh tế. Ví dụ, khi chia 63 tỉnh/thành phố thành 3 nhóm theo mức chi tiêu ngân sách bình quân lao động hiệu quả, thì các địa phương thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ chỉ chiếm 26% trong nhóm tỉnh có mức chi tiêu ngân sách cao, trong khi hai khu vực này chiếm tới 70% số tỉnh/thành phố có mức thu nhập cao.

Bảng 4.11. Ảnh hưởng của biến tương tác giữa mức chi tiêu ngân sách và các khía cạnh thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế

Biến thể chế

lnPGI

lnDEM

lnCOR

lnSER

lnPOL

Biến trễ của LnYL

0,1060***

0,0870***

0,1140***

0,0634**

0,1600***

(0,0311)

(0,0306)

(0,0325)

(0,0317)

(0,0326)

lnKL

0,5710***

0,4320***

0,5560***

0,4820***

0,5490***

(0,0277)

(0,0250)

(0,0272)

(0,0252)

(0,0276)

lnGL

0,3800***

0,1530***

0,3520***

0,1770***

0,3190***

(0,0550)

(0,0495)

(0,0574)

(0,0498)

(0,0622)

GOV

-0,3870***

-0,6160***

-0,3980***

-0,5670***

-0,4060***

(0,0511)

(0,0475)

(0,0508)

(0,0498)

(0,0497)

FDI

0,4750***

0,5170***

0,4600***

0,4670***

(0,0817)

(0,0802)

(0,0824)

(0,0773)

Ln(Biến thể chế)

0,2430***

-0,1910***

0,1540**

-0,1260

0,1410**

(0,0610)

(0,0549)

(0,0608)

(0,0787)

(0,0627)

Ln(Biến thể chế) bình phương

0,0317***

0,0048

(0,0103)

(0,0208)

Ln(Biến thể chế * Chi NS)

-0,1910***

0,1190**

-0,156***

0,0828

-0,1230*

(0,0562)

(0,0480)

(0,0590)

(0,0507)

(0,0640)

Hệ số chặn

1,0860***

2,2610***

1,210***

2,0700***

0,8210***

(0,2570)

(0,2340)

(0,2710)

(0,2830)

(0,2600)

Số quan sát điều chỉnh

435

435

435

435

435

Ghi chú: Số trong ngoặc là sai số chuẩn; * p-value<0.10, ** p-value <0.05, *** p-value <0.01

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bởi vậy, kết quả ở Bảng 4.11 cho thấy, với đa số các khía cạnh thể chế, ở các

địa phương mà nền kinh tế ít phụ thuộc vào chi tiêu ngân sách của chính phủ, bộ máy

hành chính địa phương thường bớt cồng kềnh hơn, việc quản trị và điều hành kinh tế

thường tốt hơn, khuyến khích được đầu tư từ khu vực tư nhân, từ đó làm cho tác động

(tích cực) của thể chế tới tăng trưởng lớn hơn so với các tỉnh phải phụ thuộc nhiều vào

chi tiêu ngân sách (và kéo theo bộ máy hành chính phức tạp hơn). Cùng với hệ số của

GOV (tỷ trọng của chi tiêu ngân sách trên GRDP) luôn âm và có ý nghĩa thống kê

trong tất cả các ước lượng ở Chương 4, kết quả của hệ số tương tác tại Bảng 4.11

khiến ta càng có thể đặt ra nghi ngờ về tính hiệu quả của các khoản chi tiêu của chính

phủ đối với tăng trưởng, bao gồm cả chi ngân sách cho đầu tư phát triển lẫn chi ngân

110

sách cho bộ máy hành chính của chính quyền địa phương.

4.5.5. Tác động của chất lượng thể chế quản trị theo độ mở của nền kinh tế

Tương tự như trên, mô hình hồi quy ở Bảng 4.7 cũng có thể mở rộng bằng cách bổ sung biến tương tác của độ mở nền kinh tế (biến FDI) với các biến thể chế. Theo kết quả ước lượng được trình bày tại Bảng 4.12, hệ số của biến tương tác mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê ở cả 5 mô hình hồi quy tương ứng với 5 loại biến thể chế. Điều này thể hiện tác động của chất lượng thể chế tới tăng trưởng ở các tỉnh/thành phố có độ mở thấp hơn (tỷ trọng của khu vực FDI trong nền kinh tế thấp hơn) sẽ lớn hơn tác động ở các địa phương có độ mở cao hơn. Nói cách khác, tại những tỉnh có mức độ đầu tư của khu vực FDI càng thấp thì ảnh hưởng (tích cực) của chất lượng thể chế tới tăng trưởng càng cao.

Bảng 4.12. Ảnh hưởng của biến tương tác giữa độ mở nền kinh tế và các khía cạnh thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế

Biến thể chế

lnPGI

lnDEM

lnCOR

lnSER

lnPOL

Biến trễ của LnYL

0,0743**

0,1150***

0,0902***

0,0924***

0,1050***

(0,0291)

(0,0297)

(0,0290)

(0,0310)

(0,0286)

lnKL

0,5280***

0,4620***

0,5110***

0,4850***

0,5140***

(0,0235)

(0,0235)

(0,0245)

(0,0237)

(0,0237)

lnGL

0,2200***

0,2640***

0,2300***

0,2710***

0,2180***

(0,0208)

(0,0216)

(0,0209)

(0,0233)

(0,0206)

GOV

-0,4690***

-0,6130***

-0,4860***

-0,6350***

-0,4670***

(0,0497)

(0,0500)

(0,0481)

(0,0695)

(0,0477)

FDI

0,8950***

0,8440***

0,8650***

0,5730***

0,8650***

(0,1090)

(0,1110)

(0,1180)

(0,1040)

(0,1080)

Ln(Biến thể chế)

0,0766***

-0,0175

0,0293*

-0,1750

0,0613***

(0,0244)

(0,0315)

(0,0159)

(0,1470)

(0,0102)

Ln(Biến thể chế) bình phương

0,0233**

0,0463

(0,0112)

(0,0415)

Ln(Biến thể chế * FDI)

-0,0474***

-0,0470***

-0,0405***

-0,0197**

-0,0446***

(0,0091)

(0,0091)

(0,0101)

(0,0084)

(0,0093)

Hệ số chặn

1,4630***

1,5310***

1,5010***

1,7310***

1,3490***

(0,1500)

(0,1850)

(0,1560)

(0,3080)

(0,1530)

Số quan sát điều chỉnh

417

417

417

417

417

Ghi chú: Số trong ngoặc là sai số chuẩn; * p-value<0.10, ** p-value <0.05, *** p-value <0.01

Nguồn: Tính toán của tác giả

111

Khác với phần trên, kết quả này không hàm ý các tỉnh nên tìm cách giảm thu

hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà chỉ thể hiện hiệu ứng tăng trưởng của FDI trong

nền kinh tế Việt Nam là rất lớn và có thể lấn át hiệu ứng tăng trưởng của các yếu tố

khác, ví dụ như thể chế. Hệ số dương rất cao của biến FDI đã chứng minh điều đó.

Thực tế là 8/11 tỉnh có tỷ trọng của khu vực FDI trong nền kinh tế xấp xỉ bằng 0 thuộc

nhóm thu nhập thấp; và 9/10 tỉnh có độ mở cao nhất cả nước thuộc nhóm thu nhập

cao. Mặt khác, 7/10 tỉnh có FDI lớn nhất nằm ở nhóm 1/3 các tỉnh có PGI cao nhất;

đồng thời 7/11 tỉnh có FDI nhỏ nhất thuộc nhóm 1/3 các tỉnh có PGI thấp nhất. Bởi

vậy, kết quả ở Bảng 4.12 gợi ý rằng, khi nền kinh tế ít phụ thuộc vào khu vực FDI, các

địa phương có thêm động lực cải thiện thể chế để thu hút đầu tư và thúc đẩy khu vực

tư nhân phát triển, từ đó làm cho tác động (tích cực) của chất lượng thể chế quản trị tới

tăng trưởng lớn hơn so với các tỉnh phụ thuộc nhiều hơn vào khu vực có vốn đầu tư

112

trực tiếp nước ngoài.

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH

5.1. Kết luận

Theo World Bank (2019), Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể về chất lượng thể chế quản trị trong giai đoạn 2011-2018. Trong sáu khía cạnh của WGI năm 2018, Việt Nam đạt được kết quả khá tốt ở các khía cạnh hiệu lực của nhà nước, ổn định chính trị và pháp quyền, ngang bằng với các quốc gia có thu nhập trung bình cao. Tuy nhiên khía cạnh chất lượng quy định và kiểm soát tham nhũng còn thấp, đặc biệt chỉ số tiếng nói của người dân và trách nhiệm giải trình rất đáng lo ngại khi chỉ xếp thứ 185 trên 214 quốc gia và vùng lãnh thổ có trên bảng xếp hạng.

Ở cấp độ địa phương, với chỉ số thể chế quản trị cấp tỉnh (PGI) được xây dựng dựa trên phương pháp phân tích nhân tố từ nhóm các chỉ số thành phần của PAPI và PCI, kết quả nghiên cứu ở Chương 3 cũng cho thấy những vấn đề tương tự. Một mặt, hiệu quả của chính quyền địa phương, thể hiện qua chất lượng dịch vụ công và thủ tục hành chính công, dường như được đánh giá cao nhất trong các khía cạnh thể chế, với mức điểm trung bình đều trên 6,5 theo thang điểm 10. Mặt khác, các khía cạnh chất lượng chính sách và dân chủ (bao hàm sự tham gia của người dân, minh bạch và trách nhiệm giải trình) có mức điểm trung bình rất thấp, lần lượt là 4,6 và 5,1 điểm. Kiểm soát tham nhũng đứng giữa hai thái cực này, với mức điểm trung bình gần 5,8 điểm. Nhìn trên tổng thể, thể chế quản trị của các địa phương đã được cải thiện, với PGI trung bình cả nước tăng 0,4 điểm trong giai đoạn nghiên cứu. Tuy vậy, rõ ràng xu thế biến đổi của các khía cạnh thể chế theo thời gian và theo địa phương rất khác nhau.

Nếu xét theo góc độ thời gian, một mặt, chất lượng cung cấp dịch vụ công và

thủ tục hành chính công được nâng cao đáng kể trong giai đoạn 2011-2018. Sự chuyển

biến tích cực này cho thấy những cố gắng của chính quyền địa phương trong việc hỗ

trợ doanh nghiệp và người dân để có được môi trường kinh doanh tốt hơn và nền hành

chính công mang tính phục vụ hơn. Bên cạnh đó, kết quả phân tích của Chương 3 cũng

cho thấy xu hướng cải thiện của hiệu quả kiểm soát tham nhũng. Dường như nỗ lực

chống tham nhũng của trung ương và địa phương trong những năm qua có ảnh hưởng

tích cực tới đánh giá của người dân về khía cạnh thể chế này. Mặc dù vậy, mức điểm

trung bình của chỉ số kiểm soát tham nhũng (xấp xỉ 5,8), cùng khẳng định của

CECODES và cộng sự (2019) rằng tỷ lệ người dân lo ngại về tham nhũng còn cao, cho

thấy các địa phương còn nhiều việc phải làm để nâng cao hiệu quả kiểm soát tham

nhũng. Mặt khác, sự biến đổi các khía cạnh còn lại của thể chế quản trị cho thấy,

113

người dân đặc biệt mong đợi chính quyền quan tâm hơn đến việc tăng cường sự tham

gia của người dân, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Rõ ràng chỉ số dân chủ là một

vấn đề đáng lo ngại với chiều hướng giảm sút trong giai đoạn 2011-2018. Về phía

phản ánh của doanh nghiệp, điểm chất lượng chính sách ở mức dưới mức trung bình

thể hiện nhu cầu cấp bách cần cải thiện khía cạnh thể chế này. Chính quyền địa

phương sẽ cần năng động hơn, cần giảm thời gian hao phí cho hoạt động thanh tra,

kiểm tra, giảm các khoản chi phí không chính thức, hay cần cải thiện chính sách về đất

đai phục vụ sản xuất, kinh doanh.

Xét theo góc độ từng địa phương cụ thể, các biểu đồ hình sao tại Hình 3.3 và

3.4 giúp ta nhận thấy sự chênh lệch rất lớn về các khía cạnh thể chế tại các tỉnh/thành

phố trong giai đoạn 2011-2018, không có địa phương nào nằm trong nhóm đạt điểm

cao nhất ở tất cả 5 khía cạnh thể chế. Ví dụ, Sóc Trăng thuộc nhóm điểm cao nhất ở

hai chỉ số kiểm soát tham nhũng và chất lượng chính sách, nhưng đồng thời cũng

thuộc nhóm điểm thấp nhất ở các chỉ số dân chủ và thủ tục hành chính công. Một

trường hợp khác là Lào Cai, vừa nằm trong tốp 10 đứng đầu cả nước về dịch vụ công

và chất lượng chính sách, vừa trong tốp 10 cuối bảng về kiểm soát tham nhũng và thủ

tục hành chính công. Có thể thấy, ngay cả những tỉnh/thành phố đứng đầu bảng xếp

hạng vẫn còn rất nhiều không gian để cải cách và nâng cao chất lượng thể chế quản trị.

Khi phân tích mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng

trưởng kinh tế, trên cơ sở đó đánh giá tác động cụ thể của chất lượng thể chế quản trị

tới tăng trưởng kinh tế và khoảng cách phát triển giữa các tỉnh/thành phố Việt Nam

giai đoạn 2011-2018, Chương 4 mang lại những kết luận dưới đây:

Trước hết, có thể chứng thực rằng chất lượng thể chế quản trị có mối quan hệ

nhân quả với mức thu nhập bình quân lao động hiệu quả. Hay nói cách khác, chất

lượng thể chế quản trị là biến nội sinh trong một mô hình tăng trưởng.

Thứ hai, dựa trên phương pháp ước lượng GMM số liệu mảng động có khai báo

biến nội sinh của Arellano và Bond (1991), nghiên cứu này chứng minh chất lượng thể

chế quản trị đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của các tỉnh, thành phố trong

dài hạn, đồng thời cũng giúp giải thích phần nào khoảng cách thu nhập giữa các địa

phương. Lưu ý rằng, với phương pháp nghiên cứu này, kết quả đạt được có thể đảm

bảo chính xác, hợp lý hơn so với các nghiên cứu trước đây, thường sử dụng phương

pháp ước lượng với mô hình hiệu ứng cố định như của Nguyễn Việt Cường và cộng sự

(2021) hay mô hình GMM không kiểm soát biến nội sinh như của Lê Quang Cảnh và

114

Đỗ Tuyết Nhung (2018).

Thứ ba, tác động của chất lượng thể chế quản trị tới mức thu nhập bình quân lao động hiệu quả khác nhau theo từng khía cạnh thể chế, cụ thể là kiểm soát tham nhũng và chất lượng chính sách có quan hệ tuyến tính thuận chiều với mức thu nhập, trong khi dân chủ và chính sách công có quan hệ hình chữ U, nhưng điểm đáy của chữ U thấp hơn hẳn so với mức điểm trung bình của các địa phương. Chỉ duy nhất khía cạnh thủ tục hành chính công không ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế các tỉnh/thành phố. Đối với hai biến kiểm soát tham nhũng và chất lượng chính sách, chúng ta dễ lượng hóa sự gia tăng 10% của chỉ số lần lượt sẽ dẫn đến sự gia tăng 0,21 và 0,26% của GRDP bình quân lao động hiệu quả (trong điều kiện các yếu tố khác không đổi). Còn với hai biến dân chủ và dịch vụ công, sau khi vượt qua điểm đáy của chữ U (lần lượt ở mức 4,4 và 5,8 điểm chỉ số), thì ở mức điểm chỉ số càng cao, sự tác động của việc nâng cao chất lượng thể chế đối với mức thu nhập càng lớn. Tính toán ở Chương 3 cho thấy đa số các tỉnh/thành phố Việt Nam có chỉ số dân chủ dao động trong khoảng 3,2-6,3 điểm, còn chỉ số dịch vụ công chủ yếu biến thiên trong khoảng 5,9-7,5 điểm. Công thức được nêu tại mục 3.3.3 cho phép ta tính được sự gia tăng 10% của chỉ số dân chủ có thể làm GRDP bình quân lao động hiệu quả của các tỉnh/thành phố thay đổi từ chỗ giảm 0,09% lên tới tăng 0,13% (trong điều kiện các yếu tố khác không đổi). Tương tự như vậy, chỉ số dịch vụ công tăng 10% có thể nâng mức thu nhập bình quân lao động hiệu quả của các địa phương lên tới 0,14-0,68% (trong điều kiện các yếu tố khác không đổi).

Thứ tư, kết quả kiểm định cho thấy hiệu ứng tăng trưởng của chất lượng thể chế quản trị thay đổi theo từng vùng kinh tế. Nếu không tính đến Tây Nguyên và Đông Nam Bộ (do không đảm bảo số quan sát), chất lượng chính sách dường như chỉ có ảnh hưởng tại vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Dân chủ thể hiện tác động tích cực tại hai vùng Trung du và miền núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung. Dịch vụ công vẫn có quan hệ phi tuyến hình chữ U với mức thu nhập ở hai khu vực Trung du và miền núi phía Bắc và Đồng bằng sông Cửu Long. Riêng chỉ số kiểm soát tham nhũng không có ý nghĩa thống kê trong hồi quy cho 4 vùng kinh tế.

115

Thứ năm, hiệu ứng tăng trưởng của chất lượng thể chế quản trị giữa các nhóm tỉnh chia theo vùng kinh tế trọng điểm cũng không giống nhau. Tại các vùng kinh tế trọng điểm, dân chủ dường như là khía cạnh thể chế quản trị duy nhất có ý nghĩa, trong khi kiểm soát tham nhũng và chất lượng chính sách có tác động tích cực trong dài hạn đến tăng trưởng kinh tế tại các địa phương không thuộc các vùng kinh tế trọng điểm.

Thứ sáu, giữa các nhóm có mức GRDP khác nhau, ảnh hưởng của chất lượng thể chế quản trị cũng khác nhau. Kiểm soát tham nhũng tác động tích cực nhưng việc nâng cao chất lượng dịch vụ công không còn ảnh hưởng tốt đến tăng trưởng của nhóm các tỉnh có mức thu nhập cao. Cải thiện các chỉ số dân chủ và chất lượng chính sách vẫn tạo hiệu ứng tốt với nhóm tỉnh có mức thu nhập trung bình. Ảnh hưởng tích cực của các khía cạnh dân chủ và dịch vụ công tới tăng trưởng cũng xuất hiện ở nhóm tỉnh có mức thu nhập thấp.

Thứ bảy, các hệ số âm của đa số biến tương tác giữa chất lượng thể chế quản trị và mức chi tiêu ngân sách cho thấy ảnh hưởng tích cực của chất lượng thể chế quản trị tới tăng trưởng có thể giảm đi khi mức chi tiêu ngân sách của địa phương gia tăng. Tương tự, các hệ số âm của tất cả các biến tương tác giữa chất lượng thể chế quản trị và độ mở của nền kinh tế cho thấy ảnh hưởng tích cực của chất lượng thể chế quản trị tới tăng trưởng dường như lớn hơn ở những địa phương ít phụ thuộc vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

5.2. Hàm ý chính sách

Từ các kết luận rút ra của nghiên cứu trên đây, một số hàm ý chính sách được đề

xuất như sau:

Thứ nhất, cải thiện chất lượng thể chế quản trị trên tất cả các khía cạnh là cách thức khả thi để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong dài hạn. Những kết quả nêu trên đã khẳng định vai trò của chất lượng thể chế quản trị đối với tăng trưởng kinh tế của các tỉnh/thành phố Việt Nam. Hơn thế, do mối quan hệ nhân quả giữa hai biến số này mà chúng ta càng kỳ vọng về một quá trình tương tác qua lại và ảnh hưởng tích cực lẫn nhau giữa chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế.

116

Cần lưu ý rằng, Việt Nam từng đặt mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020 nhưng mục tiêu này không thành hiện thực, thậm chí hiện nay quốc gia còn tụt hậu so với Trung Quốc 20 năm, Hàn Quốc và Malaysia 30-35 năm (Trần Thọ Đạt, 2020). Chính phủ Việt Nam đã xác định cải thiện chất lượng thể chế quản trị (cụ thể là nâng cao năng lực và trách nhiệm giải trình của Nhà nước) là một trong ba trụ cột trong khung chính sách nhằm hướng tới năm 2035 Việt Nam trở thành nước có mức thu nhập trung bình cao (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2018; World Bank và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2016). Kết quả nghiên cứu này cung cấp bằng chứng ủng hộ quyết sách trên, nhưng để không bỏ lỡ tiếp các mục tiêu đã nêu, việc cải cách và nâng cao chất lượng thể chế phải được thực hiện quyết liệt hơn, từ đó giúp quốc gia đạt được tăng trưởng bền vững.

Như đã chỉ ra Chương 3, trong 5 chỉ số thành phần của thể chế quản trị địa phương, dân chủ (bao gồm sự tham gia của người dân, minh bạch và trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương) và chất lượng chính sách là hai vấn đề đáng quan ngại nhất của thể chế quản trị địa phương ở Việt Nam hiện nay. Khía cạnh đầu tiên được đánh giá từ sự cảm nhận của người dân trong khi khía cạnh thứ hai là tiếng nói của doanh nghiệp về nền quản trị và điều hành của chính quyền các tỉnh/thành phố, và cả hai dường như chưa đáp ứng được kỳ vọng của người dân và doanh nghiệp trong nhiều năm qua.

Bên cạnh đó, hiệu quả kiểm soát tham nhũng dường như còn nhiều hạn chế, vẫn cần những hành động tích cực hơn ở các cấp chính quyền. Chất lượng cung ứng các dịch vụ công có thể được coi là khía cạnh thể chế quản trị thành công nhất hiện nay ở Việt Nam, nhưng mức điểm thấp ở một số tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long hoặc vùng Trung du và miền núi phía Bắc vẫn cho thấy những địa phương này còn nhiều việc phải làm để nâng cao chất lượng thể chế quản trị và từ đó gia tăng thu nhập.

Thứ hai, để đảm bảo sự phát triển toàn diện, các tỉnh/thành phố trước mắt có thể chú trọng đến các khía cạnh kinh tế của thể chế, nhưng trong dài hạn vẫn cần đảm bảo các khía cạnh xã hội, đặc biệt là sự tham gia của người dân, minh bạch và trách nhiệm giải trình của chính quyền. Do các mối quan hệ phức tạp của từng khía cạnh thể chế đến tăng trưởng (tuyến tính hoặc phi tuyến), rất khó đánh giá khía cạnh nào là quan trọng nhất với tăng trưởng kinh tế hiện nay ở từng địa phương cụ thể. Nhưng xét tổng thể, tác động của dịch vụ công đối với tăng trưởng kinh tế được coi là lớn nhất, sau đó lần lượt là chất lượng chính sách, kiểm soát tham nhũng và cuối cùng là dân chủ. Như vậy, để thúc đẩy tăng trưởng, dường như các địa phương trước hết nên ưu tiên vào các khía cạnh thể chế có thể ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế (dịch vụ công, chất lượng chính sách và kiểm soát tham nhũng), sau đó mới dành nguồn lực để cải thiện các khía cạnh như sự tham gia của người dân, minh bạch và trách nhiệm giải trình của chính quyền. Tuy nhiên, vẫn phải lưu ý rằng, nghiên cứu này đã bỏ qua khía cạnh ổn định chính trị trong chỉ số WGI do bản chất chính trị giữa các địa phương không có nhiều khác biệt và số liệu Việt Nam không cho phép thu thập dữ liệu thuộc khía cạnh này. Trong khi đó, dân chủ là một vấn đề tương đối nhạy cảm, có thể ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị, từ đó tác động xấu tới tăng trưởng kinh tế của địa phương. Nói cách khác, nghiên cứu này có thể đã đánh giá thấp tầm quan trọng của yếu tố dân chủ tới sự phát triển kinh tế của các tỉnh/thành phố Việt Nam.

117

Như tổng kết của CECODES và cộng sự (2017), thách thức lớn nhất cho nền thể chế quản trị Việt Nam hiện nay đều thuộc khía cạnh dân chủ trong nghiên cứu này,

cụ thể là “thiếu tham vấn ý kiến công dân trong quá trình ra quyết định và xây dựng chính sách, và thiếu tính công khai, minh bạch, tuân thủ và nghiêm túc trong quá trình thực thi chính sách, pháp luật.” Để vượt qua những thách thức này, CECODES và cộng sự (2017) cũng gợi ý chính quyền các cấp cần áp dụng “cách tiếp cận ba hướng đồng thời” dưới đây:

(i) Người dân và doanh nghiệp cần được khuyến khích chủ động tham gia vào mọi công đoạn của chính sách: “ra quyết định, xây dựng, thực thi và giám sát thực thi chính sách”. Qua quá trình này, người dân và doanh nghiệp sẽ có trách nhiệm hơn khi nhận thấy vai trò làm chủ của họ được đề cao, đồng thời chính quyền cũng nhận biết sâu sắc hơn kỳ vọng từ người dân và doanh nghiệp để có những cải tiến phù hợp cho các hoạt động chính sách.

(ii) Thái độ cũng như kỹ năng phục vụ người dân và doanh nghiệp của đội ngũ công chức, viên chức cần được nâng cao thông qua các “khóa đào tạo và thực hành công việc được thiết kế dựa trên dẫn chứng từ thực tế”. Nhờ những khóa đào tạo này, công chức, viên chức sẽ được cung cấp kiến thức và trang bị những kỹ năng mới, để có thể thực hiện vai trò là “nhà kiến tạo, nhà thương thuyết, người cộng sự” khi tương tác với người dân và doanh nghiệp (các khách hàng). Giải pháp này cũng cần gắn với việc “áp dụng đầy đủ biên bản giao việc và đánh giá hiệu quả công vụ, trong đó có các tiêu chí đánh giá năng lực tương tác với khách hàng ở từng công đoạn chính sách”.

(iii) Chính quyền các cấp cần tạo dựng và phát huy “văn hóa công khai, minh bạch”. Văn hóa này phải được xây dựng trên một nền tảng pháp lý đủ mạnh trong việc “đảm bảo quyền tự do thông tin, công khai, minh bạch trong quá trình ra quyết định”, cũng như một cơ chế “đảm bảo chính quyền đáp ứng yêu cầu hợp pháp của công dân”, và các thiết chế “đảm bảo tính giải trình đầy đủ với người dân và xã hội”.

118

Thứ ba, ưu tiên của từng địa phương trong việc cải thiện các chỉ số thể chế quản trị sẽ khác nhau do hiệu ứng tăng trưởng của chất lượng thể chế quản trị đối với mức GRDP bình quân lao động hiệu quả của các tỉnh/thành phố không đồng nhất giữa các vùng và các nhóm tỉnh chia theo vùng kinh tế trọng điểm hoặc mức thu nhập. Mặc dù kết quả phân tích không rõ ràng với Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, nhưng nghiên cứu này có thể đề xuất vùng Đồng bằng sông Hồng cần nỗ lực cải thiện chất lượng chính sách, vùng Trung du và miền núi phía Bắc nên tập trung vào các khía cạnh dân chủ và dịch vụ công, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung cũng cần nâng cao chỉ số dân chủ, còn vùng Đồng bằng sông Cửu Long nên thúc đẩy chất lượng chính sách và dịch vụ công của các tỉnh/thành phố trong khu vực. Trong khi nhóm địa phương thuộc các vùng kinh tế trọng điểm cần lưu ý đến việc nâng cao các mặt sự

tham gia của người dân, minh bạch và trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương, thì các tỉnh không thuộc vùng kinh tế trọng điểm phải chú trọng vào kiểm soát tham nhũng và nâng cao chất lượng chính sách. Các tỉnh/thành phố có mức thu nhập cao cần đặc biệt tăng cường kiểm soát tham nhũng, các địa phương có mức thu nhập trung bình nên cải thiện các chỉ số dân chủ và chất lượng chính sách, còn các tỉnh/thành phố có mức thu nhập thấp cần nâng cao chất lượng dịch vụ công bên cạnh việc chú trọng đến vấn đề dân chủ tại địa phương.

Thứ tư, các địa phương nên chú trọng đến việc giảm chi thường xuyên của ngân sách bằng việc thúc đẩy cải cách hành chính công với các biện pháp giảm biên chế và sự cồng kềnh trong bộ máy quản lý. Kết quả nghiên cứu cho thấy tác động tích cực của chất lượng thể chế quản trị tới tăng trưởng sẽ giảm đi khi mức chi tiêu ngân sách của địa phương gia tăng. Chi ngân sách gồm chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Đầu tư công khó có thể giảm trong thời gian tới, nhưng hoạt động này chịu ảnh hưởng đặc biệt của các yếu tố thể chế như minh bạch và kiểm soát tham nhũng, nên việc cải thiện thể chế quản trị sẽ giúp nâng cao hiệu quả của phần chi đầu tư trong ngân sách nhà nước. Bởi vậy, trước mắt các địa phương nên giảm chi thường xuyên thông qua giảm biên chế và cải cách bộ máy hành chính. Như gợi ý của Lê Quang Cảnh và Đỗ Tuyết Nhung (2018), tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản trị và điều hành tại địa phương, phát triển chính phủ điện tử, xây dựng một chính quyền chuyên nghiệp phục vụ và kiến tạo sẽ là giải pháp giúp tăng cường tác động tích cực của chất lượng thể chế tới tăng trưởng kinh tế của các tỉnh/thành phố Việt Nam.

Thứ năm, với các địa phương có tỷ trọng đầu tư trực tiếp nước ngoài càng thấp, thì nhu cầu cải thiện thể chế để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế càng trở nên cấp bách. Ở các địa phương này, hiệu ứng tăng trưởng của khu vực FDI hầu như không tồn tại, thay vào đó cách thức duy nhất để thu hút vốn đầu tư và tăng trưởng là khuyến khích khu vực tư nhân phát triển. Kết quả nghiên cứu trên đây cho thấy hiệu ứng tích cực của chất lượng thể chế đối với tăng trưởng ở những địa phương này cao hơn so với những tỉnh/thành phố có tỷ trọng FDI lớn. Đây chính là động lực để các địa phương có tỷ trọng FDI thấp phải nỗ lực nâng cao các chỉ số thể chế, tạo lập môi trường kinh doanh năng động và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ khu vực tư nhân, kiểm soát tham nhũng và thúc đẩy dân chủ, từ đó tăng trưởng kinh tế có thể được cải thiện trong dài hạn.

119

Thứ sáu, các tỉnh/thành phố cần xem xét từng khía cạnh thể chế cụ thể của địa phương để tìm ra những lĩnh vực đã hoặc còn chưa đáp ứng yêu cầu của người dân và doanh nghiệp, trên cơ sở này tìm ra giải pháp phù hợp nhằm đề xuất đổi mới chính sách hoặc cải thiện hiệu quả hoạt động, từ đó có thể phục vụ người dân và doanh

nghiệp tốt hơn, bởi không phải mô hình hay giải pháp quản lý, điều hành nào cũng có thể áp dụng với tất cả các địa phương. Thậm chí, những khác biệt giữa các vùng miền về chất lượng thể chế quản trị cũng có thể gợi mở cho cấp chính quyền trung ương nhận biết những vấn đề cần ưu tiên về thể chế quản trị trong phát triển vùng, từ đó hỗ trợ các địa phương khắc phục hạn chế và khuyến khích việc học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm giữa các tỉnh/thành phố và giữa các vùng kinh tế. Cũng cần nhận thức rằng, nền kinh tế Việt Nam càng phát triển thì chính quyền địa phương càng gặp nhiều thách thức và cơ hội trong đảm bảo quản trị tốt với bối cảnh trình độ dân trí ngày càng cao và nhu cầu tương tác của người dân ngày càng lớn.

22 Trên thực tế, chính việc thu thập và công bố dữ liệu các chỉ số thể chế quản trị thường niên như PAPI và PCI đã có tác dụng như những “diễn đàn mở” để người dân và doanh nghiệp tham gia đánh giá hiệu quả quản lý và điều hành của chính quyền địa phương. Các chỉ số này cũng đồng thời “vận động chính quyền học hỏi kinh nghiệm từ các địa phương có chất lượng quản trị, điều hành, cung ứng dịch vụ công tốt hơn nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của mỗi địa phương”. Bên cạnh đó, các dữ liệu được công bố còn giúp các tỉnh/thành phố “soi chiếu lại hiệu quả hoạt động của mình theo thời gian, lựa chọn đúng những vấn đề ưu tiên cải thiện trong những năm tiếp theo”. Theo đánh giá của các chuyên gia, hai cuộc khảo sát toàn quốc hàng năm từ phía người dân và doanh nghiệp là PAPI và PCI có vai trò ngày càng lớn. Ví dụ, trong số 63 tỉnh/thành phố, có tới 59 địa phương đã ban hành các văn bản với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý và điều hành, nhằm phục vụ và đáp ứng yêu cầu của người dân tốt hơn, từ đó đạt được điểm PAPI cao hơn (CECODES và cộng sự, 2019). Toàn bộ 63 tỉnh/thành phố Việt Nam đã ban hành những văn bản liên quan đến PCI, đặt mục tiêu cải thiện các chỉ tiêu của PCI, từ đó cải thiện môi trường kinh doanh cấp tỉnh (VCCI và USAID, 2018).

120

Cuối cùng, điều mà chính quyền các cấp địa phương luôn cần lưu ý là phải sâu sát tìm hiểu mong muốn của người dân và phản ánh của doanh nghiệp, khi tìm giải pháp để đáp ứng sự hài lòng của doanh nghiệp và người dân về hiệu quả quản trị và điều hành của chính quyền. Như khẳng định của CECODES và cộng sự (2017), “với tư cách là ‘khách hàng’ sử dụng ‘hàng hóa công’ do bộ máy công quyền cung ứng, người dân có đủ khả năng đánh giá chất lượng phục vụ của nhà nước và chính quyền các cấp, đồng hành cùng nhà nước trên bước đường xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam”. Bởi vậy, những đánh giá và góp ý của người dân và doanh nghiệp về chất lượng thể chế quản trị địa phương phải luôn được chú trọng, chính quyền các cấp cần chủ động và nhanh chóng tiếp nhận và phản hồi ý kiến của người dân và doanh nghiệp. Đây chính là cơ sở để phát triển các chiến lược, chính sách tổng thể cũng như các giải pháp cụ thể, nhằm thúc đẩy chính quyền các tỉnh/thành phố thực hiện quản trị và điều hành theo “nguyên tắc chính quyền phục vụ”, lấy người dân và doanh nghiệp là trung tâm.22 Cùng việc thay đổi tư duy trong quản trị, từ nhà nước quản lý sang nhà nước kiến tạo, “chính quyền mở” có thể coi là giải pháp thiết yếu về thể chế quản trị, nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân và doanh nghiệp Việt Nam về một nền quản trị công minh bạch và hiệu quả.

5.3. Các hạn chế của đề tài cần tiếp tục nghiên cứu

Nghiên cứu “Chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh ở Việt Nam” đã đạt được một số kết quả như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, đề tài này còn một số hạn chế cần tiếp tục nghiên cứu trong tương lai.

- Thước đo dựa trên sự cảm nhận vốn gây nhiều tranh cãi và thiếu hụt thông tin, một số khía cạnh của thước đo có thể trở nên lạc hậu theo thời gian, do đó có thể chưa thực sự phản ánh chất lượng thể chế của Việt Nam hiện nay.

- Bản thân các chỉ số thành phần của PAPI và PCI được điều chỉnh hàng năm, việc so sánh theo thời gian phải dựa trên chỉ số gốc, nhưng dữ liệu này hoặc không còn được thu thập, hoặc không được công bố rộng rãi.

- Do thiếu dữ liệu, chỉ số PGI của nghiên cứu này còn thiếu hụt khía cạnh pháp quyền, chính xác hơn là không phân rã được yếu tố pháp quyền khỏi nhóm dịch vụ công. Điều này có thể do dịch vụ tư pháp của Việt Nam chưa phát triển như nhiều nước trên thế giới, người dân và doanh nghiệp chưa mấy tin tưởng để sử dụng hệ thống tư pháp trong các tranh chấp hành chính và thương mại.

- Mô hình được sử dụng trong nghiên cứu này có nhược điểm là tồn tại sự phụ thuộc chéo giữa các địa phương, điều này có thể khắc phục bằng cách sử dụng mô hình kinh tế lượng không gian bên cạnh các mô hình dữ liệu mảng.

- Sau khi kiểm định quan hệ nhân quả giữa tăng trưởng kinh tế và chất lượng thể chế, nghiên cứu triển khai theo hướng đánh giá tác động của chất lượng thể chế đến tăng trưởng với việc kiểm soát biến nội sinh, mà chưa khai thác chiều hướng tác động ngược lại. Việc xây dựng một mô hình đánh giá các nhân tố (trong đó có tăng trưởng) tác động tới chất lượng thể chế sẽ là một đề tài thú vị và dựa trên cơ sở lý thuyết kinh tế học thể chế nhiều hơn là lý thuyết tăng trưởng kinh tế như nghiên cứu này.

121

- Nghiên cứu này đơn thuần ở góc độ định lượng với điểm mới nằm ở cách xây dựng chỉ số và phương pháp ước lượng. Do vậy, kết quả mang lại chủ yếu khẳng định tác động tích cực của thể chế tới tăng trưởng kinh tế, có thể chưa mang lại nhiều nội dung tranh luận thú vị về hàm ý chính sách. Một nghiên cứu định tính về chất lượng thể chế Việt Nam có thể giúp mở rộng thêm tính thực tiễn và ý nghĩa chính sách của kết quả nghiên cứu.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Lê Quang Cảnh và Đỗ Tuyết Nhung (2018), ‘Ảnh hưởng của thể chế quản trị địa phương tới tăng trưởng kinh tế cấp tỉnh ở Việt Nam', Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á, Số 29(9), tr. 5-18.

2. Đỗ Tuyết Nhung and Lê Quang Cảnh (2020), ‘Sub-national governance quality and economic growth in Vietnam', 12th NEU-KKU International Conference: Socio- economic and Environmental Issues in Development, National Economics University, 16-17 July, 2020.

3. Đỗ Tuyết Nhung và Lê Quang Cảnh (2020), ‘Thước đo chất lượng thể chế quản trị địa phương cấp tỉnh của Việt Nam', Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số 278, tháng 8/2020.

4. Đỗ Tuyết Nhung và Lê Quang Cảnh (2020), ‘Chất lượng thể chế quản trị và tăng trưởng kinh tế địa phương cấp tỉnh Việt Nam', Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số 280, tháng 10/2020.

122

5. Lê Quang Cảnh and Đỗ Tuyết Nhung (2021), ‘Sub-national governance quality and economic growth: a cross-region study in Vietnam’, Global Business and Economics Review, Vol. 24, No. 3, pp. 279-295.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Acemoglu, D., Johnson, S. & Robinson, J. A. (2001), 'The Colonial Origins of Comparative Development: An Empirical Investigation', The American Economic Review, Vol. 91(5), pp. 1369-1401.

Acemoglu, D., Johnson, S. & Robinson, J. A. (2005), 'Institutions as a fundamental cause of long-run growth', In P. Aghion & S. Durlauf (Eds.), Handbook of economic growth, Vol. 1A, pp. 385-472, Elsevier, Amsterdam.

ADB (2013), Supporting Good Governance: A Thematic Evaluation Study of ADB, https://www.adb.org/sites/default/files/evaluation- from:

Retrieved document/36108/files/eap-tes-governance.pdf.

An Điền (2018), Cuộc chiến chống tham nhũng ở Việt Nam qua góc nhìn quốc tế, Truy cập từ: https://zingnews.vn/cuoc-chien-chong-tham-nhung-o-viet-nam- qua-goc-nhin-quoc-te-post839407.html.

Arellano, M. & Bond, S. (1991), 'Some tests of specification for panel data: Monte Carlo evidence and an application to employment equations', The review of economic studies, Vol. 58(2), pp. 277-297.

Aron, J. (2000), 'Growth and Institutions: A Review of the Evidence', The World Bank

Research Observer, Vol. 5(1), pp. 99-135.

Asghar, N., Qureshi, S. & Nadeem, M. (2015), 'Institutional Quality and Economic Growth: Panel ARDL Analysis for Selected Developing Economies of Asia', Journal of South Asian Studies, Vol. 30(2), pp. 381-404.

Bai, J., Jayachandran, S., Malesky, E. J. & Olken, B. A. (2013), 'Does Economic Growth Reduce Corruption? Theory and Evidence from Vietnam', NBER Working Paper No. 19483, National Bureau of Economic Research, Cambridge.

Barro, R. J. (1991), 'Economic Growth in a Cross-section of Countries', Quarterly

Journal of Economics, Vol. 106(2), pp. 407-443.

Barro, R. J. (1997), 'Determinants of economic growth: a cross-country empirical

study', NBER Working Paper No. 5698, pp. 1-118.

Barro, R. J. (2001), Education and Economic Growth, A research supported by the

National Science Foundation, Harvard University.

Barro, R. J. & Lee, J. W. (1994), 'Sources of economic growth', Carnegie-Rochester

123

Conference Series on Public Policy, Vol. 40, pp. 1-46.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Giới thiệu chung về các vùng kinh tế trọng điểm, Truy

cập từ: http://www.mpi.gov.vn/Pages/gtvungkttd.aspx.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), 'Khung chính sách kinh tế Việt Nam', Diễn đàn Cải cách và Phát triển Việt Nam 2018: Tầm nhìn mới, động lực mới cho tăng trưởng kinh tế trong kỷ nguyên mới, Hà Nội.

Bộ Nội vụ (2018), Báo cáo Chỉ số Cải cách Hành chính (PAR Index) 2017, Truy cập

từ: https://www.moha.gov.vn/DATA/DOCUMENT/2018/05/NewFolder/PAindex %202017%20(Final)/BAO%20CAO%20PAR%20INDEX%202017.final.pdf.

Bộ Nội vụ (2020), Đề nghị xây dựng Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, Truy cập từ: https://www.moha.gov.vn/tin-tuc-su-kien/diem-tin/de-nghi-xay-dung-luat-thuc- hien-dan-chu-o-co-so-44785.html.

Bộ Nội vụ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam & Hội Cựu chiến binh Việt Nam (2019), Báo cáo Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính Nhà nước năm 2018 (SIPAS 2018), Truy cập từ: https://moha.gov.vn/DATA/DOCUMENT/2019/05/SIPAS2018_banin.pdf.

Bộ Thông tin và Truyền thông & Hội Tin học Việt Nam (2019), Kết quả Xếp hạng Vietnam ICT Index 2019 (các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố), Truy cập từ: http://egov.chinhphu.vn/Resources/2019_08_30/37749/Bao%20cao%20VN%2 0ICT%20Index%202019%20-%20Ban%20tom%20tat.pdf.

Nam Việt Bộ Y tế & Sáng kiến Việt Nam (2019), Báo cáo chính sách: Chỉ số hài lòng người từ: 2018, Truy cập

bệnh https://hailongnguoibenh.vn/sites/default/files/bao-cao/report_cshlnb2018.pdf.

Bùi Thành Trung & Diệp Gia Luật (2017), 'A Provincial Analysis of Formal Economic Institutions and Growth in Vietnam', International Conference on Business and Economics (ICBE2017) and the 12th International Conference of the Korea Distribution Science Association and Allied Academies (KODISA), pp. 191-193, Ho Chi Minh City, Vietnam, July 06 - 08.

người của Truy dân, cập từ:

CECODES, VFF-CRT, RTA & UNDP (2018), Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) 2017: Đo lường từ kinh nghiệm thực tiễn http://papi.org.vn/wp- content/uploads/2018/04/BAOCAO_PAPI2017_FINAL-2.pdf.

người của Truy dân, cập từ:

124

CECODES, VFF-CRT, RTA & UNDP (2019), Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) 2018: Đo lường từ kinh nghiệm thực tiễn http://papi.org.vn/wp- content/uploads/2019/03/2018PAPIREPORT_VIE_FINAL.pdf.

Truy dân, từ:

CECODES, VFF-CRT & UNDP (2017), Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) 2016: Đo lường từ kinh nghiệm thực tiễn của người cập http://papi.org.vn/wp- content/uploads/2017/04/PAPI2016_Report_Final_VIE-1-1.pdf.

Chabowski, B. R., Hult, G. T. M., Kiyak, T. & Mena, J. A. (2010), 'The structure of JIBS's social network and the relevance of intra-country variation: A typology for future research', Journal of International Business Studies, Vol. 41(5), pp. 925-934.

Retrieved Building,

Chen, X. (2005), 'Magic or Myth? Social Capital and Its Consequences in the Asian, Chinese, and Vietnamese Contexts, Modernization và Social Transformation', In G. Mutz & R. Klump (Eds.), Vietnam: Social Capital Formation and Institutional from: http://www.uic.edu/depts/soci/xmchen/xmchen_social%20capital.pdf.

Truy cập

Chính phủ (2011), Nghị quyết số 30c/NQ-CP ban hành ngày 8/11/2011 của Chính phủ, ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, từ: https://noichinh.vn/upload/others/201205/Nghi_quyet_so_30c_ve_cai_cach_ha nh_chinh.docx.

Cho, H. & Tansuhaj, P. S. (2013), 'Becoming a Global SME: Determinants of SMEs' in Export Marketing', Thunderbird to Use E‐Intermediaries

Decision International Business Review, Vol. 55(5), pp. 513-530.

Cross, F. B. (2002), 'Law and economic growth', Texas Law Review, Vol. 80(7), pp.

1737-1776.

Cục Thống kê Hà Nội (2018), Niên giám Thống kê Thành phố Hà Nội 2017, Nxb.

Thống kê, Hà Nội.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (khóa XII) về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, Truy cập từ: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu- ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xii/nghi-quyet-so-19-nqtw-ngay- 25102017-hoi-nghi-lan-thu-sau-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-ve- tiep-tuc-doi-moi-va-569.

Davidson, R. & MacKinnon, J. G. (1993), Estimation and inference in econometrics,

OUP Catalogue, Oxford University Press.

Davis, K. E. & Trebilcock, M. J. (2001), 'Legal reforms and development', Third

125

World Quarterly, Vol. 22(1), pp. 21-36.

Diệp Gia Luật & Bùi Thành Trung (2019), 'A provincial analysis of formal economic institutions and private investment in Vietnam', Journal of Asian Business and Economic Studies, Vol. 26(S01), pp. 29-44.

Dixit, A. K. (2003), 'Trade expansion and contract enforcement', Journal of Political

Economy, Vol. 111, pp. 1293-1317.

Dixit, A. K. (2009), 'Governance institutions and economic activity', American

Economic Review, Vol. 99(1), pp. 5-24.

Dumitrescu, E. I. & Hurlin, C. (2012), 'Testing for Granger non-causality in

heterogeneous panels', Economic Modelling, Vol. 29, pp. 1450-1460.

Easterly, W. (2001), The elusive quest for growth: Economists’ adventures and

misadventures in the tropics, MIT Press, Cambridge.

Economica (2020), Giới thiệu DDCI, Truy cập từ: https://www.ddci.org.vn/.

Fukuyama, F. (2013), 'What Is Governance?', CGD Working Paper 314, Center for

Global Development, Washington, DC.

Furubotn, E. G. & Richter, R. (2005), Institutions and economic theory: The

contribution of the new institutional economics, University of Michigan Press.

Gao, G. Y., Murray, J. Y., Kotabe, M. & Lu, J. (2010), 'A “strategy tripod” perspective on export behaviors: Evidence from domestic and foreign firms based in an emerging economy', Journal of International Business Studies, Vol. 41(3), pp. 377-396.

Givens, D. M. (2010), Four essays in the measurement of governance institutions,

PhD Dissertation, University of Maryland, College Park.

Glaeser, E., LaPorta, R., Lopez-de-Silanes, F. & Shleifer, A. (2004), 'Do Institutions

Cause Growth?', Journal of Economic Growth, Vol. 9(3), pp. 271-303.

Griliches, Z. (1997), 'Education, human capital, and growth: a personal perspective', Journal of Labor Economics, Vol. 15(1), pp. 330-344, ABI/INFORM Research, University of Chicago.

Grindle, M. S. (2007), 'Good enough governance revisited', Development Policy

Review, Vol. 25, pp. 553-574.

126

Hall, J. C. & Sobel, R. S. (2008), 'Institutions, Entrepreneurship, and Regional Differences in Economic Growth', Southern Journal of Entrepreneurship, Vol. 1(1), pp. 69-96.

Hasan, I., Wachtel, P. & Zhou, M. (2009), 'Institutional development, financial deepening and economic growth: Evidence from China', Journal of Banking and Finance, Vol. 33(1), pp. 157-170.

Hausmann, R., Pritchett, L. & Rodrik, D. (2005), 'Growth accelerations', Journal of

Economic Growth, Vol. 10, pp. 303-329.

Hội Luật gia Việt Nam, CECODES & UNDP (2016), 2015 Justice Index - Towards a justice system for the people, Truy cập từ: https://congly.b-cdn.net/wp- content/uploads/2016/06/EN-Justice-Index_2015.pdf.

Hope, K. R. (2009), 'Capacity development for good governance in developing countries: some lessons from the field', International Journal of Public Administration, Vol. 32(8), pp. 728-740.

Huther, J. & Shah, A. (1996), A Simple Measure of Good Governance, Operations

Evaluation Department, World Bank, Washington, DC.

Huther, J. & Shah, A. (2005), 'A simple measure of good governance', In A. Shah (Ed.), Public Sector Governance and Accountability Series: Public services delivery, pp. 39-62, World Bank.

IGI Global (2020), What is Governance Quality, Retrieved from: https://www.igi-

global.com/dictionary/corporate-social-performance-and-governance-quality- across-the-brics-countries/93968.

Kasper, W. & Streit, M. (1998), Institutional Economics: Social Order and Public

Policy, Edward Elgar, Cheltenham.

Kaufmann, D. (2005), '10 Myths about Governance and Corruption', Finance and from: Retrieved 41-43, 42(3), Vol. pp.

Development, http://www1.worldbank.org/publicsector/anticorrupt/feb06course/10_myths__e nglish.pdf.

Kaufmann, D. & Kraay, A. (2003), Growth without governance, World Bank,

Washington, DC.

Kaufmann, D. & Kraay, A. (2008), 'Governance Indicators: Where Are We, Where Should We Be Going?', Research Working Paper No. 4370, World Bank, Washington, DC.

Kaufmann, D., Kraay, A. & Mastruzzi, M. (2003), 'Governance Matters III: Governance Indicators for 1996-2002', Policy Research Working Paper No. 3106, World Bank, Washington, DC.

127

Kaufmann, D., Kraay, A. & Mastruzzi, M. (2009), Governance Matters 2009: Learning from over a Decade of the Worldwide Governance Indicators,

Retrieved from: https://www.brookings.edu/opinions/governance-matters-2009- learning-from-over-a-decade-of-the-worldwide-governance-indicators/.

Kaufmann, D., Kraay, A. & Mastruzzi, M. (2010), 'The Worldwide Governance Indicators: Methodology and Analytical Issues', Policy Research Working Paper Series Number 5430, World Bank, Washington, DC.

Kaufmann, D., Kraay, A. & Zoido-Lobatón, P. (1999), 'Aggregating Governance Indicators', Policy Research Working Paper No. 2195, World Bank, Washington, DC.

Klitgaard, R., Fedderke, J. & Akramov, K. (2005), 'Choosing and Using Performance Criteria', In R. Klitgaard & P. Light (Eds.), High Performance Government: Structure, Leadership, Incentives, RAND Corporation, Santa Monica, CA.

Klump, R. & Nguyễn Thị Tuệ Anh (2004), 'Patterns of Provincial Growth in Vietnam, 1995-2000: Empirical Analysis and Policy Recommendations', A paper funded by German Development Agency (GTZ).

Knack, S. & Keefer, P. (1995), 'Institutions and economic performance: Cross-country tests using alternative institutional indicators', Economics and Politics, Vol. 7(3), pp. 207-228.

Kukeli, A., Fan, C. M. & Fan, L. S. (2006), 'FDI and Growth in Transition Economies: Does the Mode of Transition Make A Difference?', Rivista Internazionale Di Scienze Economiche E Commerciali, Vol. 53(2), pp. 302-322.

Kurtz, M. J. & Schrank, A. (2007), 'Growth and governance: Models, measures, and

mechanisms', Journal of Politics, Vol. 69, pp. 538-554.

Lê Quang Cảnh & Đỗ Tuyết Nhung (2018), 'Ảnh hưởng của thể chế quản trị địa phương tới tăng trưởng kinh tế cấp tỉnh ở Việt Nam', Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á, Số 29(9), Trang 05-18.

Lê Quốc Lý (2014), 'Đổi mới thể chế để có tăng trưởng kinh tế cao, chất lượng và bền

vững', Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 9, Trang 5-8.

Lucas, R. E. (1988), 'On the Mechanics of Economic Development', Journal of

Monetary Economics, Vol. 22(1), pp. 3-42.

Malesky, E., McCulloch, N. & Nguyen Duc Nhat (2015), 'The impact of governance and transparency on firm investment in Vietnam', The Economics of Transition, Vol. 23(4), pp. 677-715.

128

Mankiw, N. G., Romer, D. & Weil, N. (1992), 'A Contribution to the Empirics of Economic Growth', Quarterly Journal of Economics, Vol. 107(2), pp. 407–437, Retrieved from: https://doi.org/10.2307/2118477.

Meyer, K. E. & Nguyen, H. V. (2005), 'Foreign Investment Strategies and Sub‐ national Institutions in Emerging Markets: Evidence from Vietnam', Journal of Management Studies, Vol. 42(1), pp. 63-93.

Mulligan, C. & Sala-i-Martin, X. (1997), 'A Labor Income Based Measure of Human

Capital', Japan and the World Economy, Vol. 9, pp. 159-191.

Nakabashi, L., Gonçalves Pereira, A. E. & Sachsida, A. (2013), 'Institutions and growth: a developing country case study', Journal of Economic Studies, Vol. 40(5), pp. 614-634.

Narayan, D., Patel, R., Schafft, K. & Rademacher, A. (2000), Can Anyone Hear Us?:

Voices of the Poor, The World Bank, Washington DC.

Ng, Y. C. & Leung, C. M. (2004), 'Regional Economic Performance in China: A Panel Data Estimation', RBC Papers on China, Hong Kong Baptist University.

Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Minh Ngọc & Trần Nam Bình (2016), 'Corruption and economic growth, with a focus on Vietnam', Crime, Law and Social Change, Vol. 65(4), pp. 307-324.

Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Thị Hoàng Yến, Lê Đoàn Minh Đức, Võ Hoàng Ngọc Thúy & Nguyễn Thanh Vũ (2020), 'Relationship between government quality, economic growth and income inequality: Evidence from Vietnam', Cogent Business & Management, Vol. 7(1), Article: 1736847, Retrieved from: https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/23311975.2020.1736847.

Nguyễn Văn Phúc (2013), 'Thể chế và tăng trưởng kinh tế: Lý thuyết và thực tiễn', Tạp

chí Kinh tế và Phát triển, Số 191, Trang 23-29.

Nguyễn Văn Thắng, Lê Thị Bích Ngọc & Bryant, S. E. (2013), 'Sub-national institutions, firm strategies, and firm performance: A multilevel study of private manufacturing firms in Vietnam', Journal of World Business, Vol. 48, pp. 68- 76.

Nguyễn Việt Cường, Giang Thanh Long, Trần Ngọc Anh & Đỗ Thanh Huyền (2021), 'Do Good Governance and Public Administration Improve Economic Growth and Poverty Reduction? The Case of Vietnam', International Public Management Journal, Vol. 24(1), pp. 131-161, Published online: 10 May 2019, from: Retrieved https://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/10967494.2019.1592793.

Nifo, A. & Vecchione, G. (2014), 'Do Institutions Play a Role in Skilled Migration?

129

The Case of Italy', Regional Studies, Vol. 48(10), pp. 1628-1649.

North, D. (1981), Structure and Change in Economic History, W.W. Norton, New

York.

North, D. (1990), Institutions, Institutional Change, and Economic Performance,

Cambridge University Press, Cambridge.

Paldam, M. & Gundlach, E. (2008), 'Two Views on Institutions and Development: The Grand Transition vs. the Primacy of Institutions', Kyklos, Vol. 61(1), pp. 65- 100.

Pande, R. & Udry, C. (2005), 'Institutions and development: a view from below', Center Discussion Paper No. 928, Yale University, Retrieved from: http://www.econ.yale.edu/growth_pdf/cdp928.pdf.

Phạm Thế Anh & Nguyễn Đức Hùng (2014), 'Tác động của thể chế môi trường kinh doanh đến kết quả hoạt động của các doanh nghiệp ở Việt Nam', Diễn đàn kinh tế mùa xuân 2014 - Động lực phát triển mới từ cải cách thể chế, Ủy ban Kinh tế Quốc hội và UNDP, Hà Nội.

Phạm Thị Minh Lý (2011), 'Phân tích tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thừa Thiên Huế', Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Đà Nẵng, Số 2(43), Trang 151-157.

Phan Minh Ngọc & Ramstetter, E. D. (2006), 'Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces', ICSEAD Working Paper Series, Vol. 2006-18.

Rodrik, D. (2007), One economics, many recipes: Globalization, institutions, and

economic growth, Princeton University Press, Princeton, NJ.

Rodrik, D., Subramanian, A. & Trebbi, F. (2004), 'Institutions rule: the primacy of institutions over geography and integration in economic development', Journal of Economic Growth, Vol. 9(2), pp. 131-165.

Romer, P. M. (1986), 'Increasing returns and long-run growth', Journal of Political

Economy, Vol. 94, pp. 1002-1037.

Romer, P. M. (1990), 'Human capital and growth: theory and evidence', Carnegie Rochester Conference Series on Public Policy, Vol. 32, pp. 251-286, North- Holland.

130

Samaratunge, R. & Pillay, S. (2011), 'Governance in developing countries: Sri Lanka and South Africa compared', International Journal of Public Administration, Vol. 34(6), pp. 389-398.

Schultz, T. P. (1997), 'Assessing the Productive Benefits of Nutrition and Health: An Integrated Human Capital Approach', Journal of Econometrics, Vol. 77(1), pp. 141-148, Retrieved from: https://doi.org/10.1016/S0304-4076(96)01810-6.

Retrieved

Scott, S. & Trương Thị Kim Chuyên (2004), 'Behind the numbers: Social mobility, regional disparities and new trajectories of development in rural Vietnam', In P. Taylor (Ed.), Social Inequality in Vietnam: Challenges to Reform, ISAS, Singapore, from: http://manu.uwaterloo.ca/u/sdscott/03_ScottChuyen.pdf.

Seligson, M. (2006), 'The Measurement and Impact of Corruption Victimization: Survey Evidence from Latin America', World Development, Vol. 34(2), pp. 381-404.

Sihag, B. S. (2007), 'Empirical studies on institutions, governance and economic

growth: A review', Humanomics, Vol. 23(4), pp. 204-220.

Solow, R. M. (1956), 'A contribution to the theory of economic growth', Quarterly

Journal of Economics, Vol. 34, pp. 1-26.

Retrieved 651–666, pp.

Sử Đình Thành & Bùi Thị Mai Hoài (2017), 'Government size, public governance and private investment: The case of Vietnamese provinces', Economic Systems, Vol. 41(4), from: https://doi.org/10.1016/j.ecosys.2017.01.002.

Sử Đình Thành, Nguyễn Phúc Cảnh & Christophe, S. (2019), 'Impact of foreign direct investment, trade openness and economic institutions on growth in emerging countries: The case of Vietnam', Journal of International Studies, Vol. 12(3), pp. 243-264, Retrieved from: https://doi.org/10.14254/2071-8330.2019/12-3/20.

Swan, T. W. (1956), 'Economic Growth and Capital Accumulation', Economic Record,

Vol. 32, pp. 334-361.

2017 (PACA 2017), Truy cập

Thanh tra Chính phủ (2018), Báo cáo đánh giá công tác phòng, chống tham nhũng cấp tỉnh Index từ: http://thanhtra.gov.vn/ct/news/nh%20bi%20vit%20012019%20%20062019/B% C3%A1o%20c%C3%A1o%20%C4%91%C3%A1nh%20gi%C3%A1%20PCT N%202017%20(c%E1%BB%95ng%20th%C3%B4ng%20tin)%20(1).doc.

Số liệu thống Tổng cục Thống kê (2020), kê. Truy cập từ:

https://gso.gov.vn/default.aspx?tabid=713

131

Trần Du Lịch (2013), 'Đổi mới thể chế kinh tế nhằm thúc đẩy tiến trình tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam', Tạp chí Phát triển kinh tế, Số 267, Trang 17-22.

Trần Quang Tuyến, Vũ Văn Hưởng, Đoàn Thanh Tình & Trần Đức Hiệp (2016), 'Corruption, provincial institutions and manufacturing firm productivity: New evidence from a transitional economy', Estudios de Economía, Vol. 43(2), pp. 199-215.

Trần Thị Bích, Grafton, R. Q. & Kompas, T. (2009), 'Institutions matter: The case of Vietnam', The Journal of Socio-Economics, Vol. 38(1), pp. 1-12, Retrieved from: https://doi.org/10.1016/j.socec.2008.05.012.

Trần Thọ Đạt (2002), Determinants of TFP growth in Vietnam in the period 1986-

2000, Survey Report, APO.

Trần Thọ Đạt (2020), Báo cáo Nhiệm vụ Chiến lược 41 - Xây dựng đất nước Việt Nam có nền kinh tế thịnh vượng, xã hội hài hoà và tương lai bền vững trong bối cảnh mới, Nghiên cứu thực hiện theo đặt hàng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Trần Thọ Đạt & Đỗ Tuyết Nhung (2008), Vai trò của vốn con người đối với tăng trưởng các tỉnh, thành phố Việt Nam giai đoạn 2000-2004, Nxb. Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

Troilo, M. (2011), 'Legal institutions and high-growth aspiration entrepreneurship',

Economic Systems, Vol. 35(2), pp. 158–175.

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân & UNDP (2017), Cải cách hành chính công và Chống tham nhũng - Loạt báo cáo nghiên cứu thảo luận chính sách: Nghiên cứu chuyên ngành về minh bạch và tham nhũng trong thu đất ở Việt Nam, Truy từ: cập https://www.vn.undp.org/content/vietnam/en/home/library/democratic_governa nce/a-sectorial-study-of-transparency-and-corruption-in-land-acquisition-in- viet-nam/.

UN Security Council (2004), The rule of law and transitional justice in conflict and post-conflict societies: Report of the Secretary-General, Retrieved from: https://www.refworld.org/docid/45069c434.html.

Executive - UNDP (1997), Governance for sustainable human development: A UNDP Policy from: Summary, Retrieved

Document www.pogar.org/publications/other/undp/governance/undppolicydoc97-e.pdf.

UNDP (2007), Governance Indicators: A Users’ Guide, Retrieved

132

from: https://www.un.org/ruleoflaw/files/Governance%20Indicators_A%20Users%20 Guide.pdf.

environment capital and United Nations (2006), United Nations Economic Report on Africa: Economic policy, from: Retrieved flow,

institutional http://www.uneca.org/publications/economic-report-africa-2006.

tranh cấp

VCCI & USAID (2018), Sổ tay hướng dẫn sử dụng kết quả điều tra Chỉ số năng lực cạnh (PCI), Truy cập tỉnh từ: http://pcivietnam.org/wp- content/uploads/2018/10/So-tay-2018-PCI.pdf.

VCCI & USAID (2019), Giới thiệu chung về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI,

Truy cập từ: http://www.pcivietnam.org/gioi-thieu-pci-c2.html.

Võ Trí Thành (2014), 'Thể chế, kinh tế học thể chế và cải cách ở Việt Nam', Diễn đàn kinh tế mùa xuân 2014 - Động lực phát triển mới từ cải cách thể chế, Ủy ban Kinh tế Quốc hội và UNDP, Hà Nội.

Vũ Thành Tự Anh (2012), 'Phân cấp kinh tế ở Việt Nam nhìn từ góc độ thể chế', Kỷ yếu Diễn đàn Kinh tế mùa thu 2012, Ủy ban Kinh tế Quốc hội và Viện Khoa học - Xã hội Việt Nam.

Weingast, B. (1993), 'Constitutions as General Structures: The Political Foundations of Secure Markets', Journal of Institutional and Theoretical Economics, Vol. 146(1), pp. 286-331.

Williamson, O. E. (1998), 'Transaction Cost Economics: How It Works; Where It Is

Headed', De Economist, Vol. 146(1), pp. 23-58.

Williamson, O. E. (2000), 'The new institutional economics: Taking stock, looking

ahead', Journal of Economic Literature, Vol. 38(3), pp. 595-613.

Wilson, R. (2016), 'Does Governance Cause Growth? Evidence from China', World

Development, Vol. 79, pp. 138-151.

Perspective Retrieved Study,

World Bank (1989), Sub-Saharan Africa - From Crisis to Sustainable Growth: A Long-term from: http://documents1.worldbank.org/curated/en/498241468742846138/pdf/multi0p age.pdf.

World Bank (1992), Governance and Development, Retrieved from:

https://doi.org/10.1596/0-8213-2094-7.

World Bank (2009), Báo cáo phát triển Việt Nam 2010: Các thể chế hiện đại, Truy từ: cập https://openknowledge.worldbank.org/bitstream/handle/10986/3175/535730WP 0P11221ng0reduced0file0size.pdf?sequence=1&isAllowed=y.

World Bank (2019), Worldwide Governance Indicators, Retrieved from:

133

https://info.worldbank.org/governance/wgi/.

sáng công dân và tạo, World Bank & Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2016), Việt Nam 2035 - Hướng tới thịnh bằng từ: chủ, Truy cập

vượng, https://openknowledge.worldbank.org/bitstream/handle/10986/23724/Vietnam %202035_Full_VN_Ban%20cuoi_Chat%20luong%20thap.pdf?sequence=14&i sAllowed=y.

Development Retrieved Bank,

134

Zhuang, J., De Dios, E. & Martin, A. L. (2010), 'Governance and institutional quality and the links with economic growth and income inequality: With special reference to Developing Asia', Economics Working Paper Series No. 193, from: Asian https://www.adb.org/sites/default/files/publication/28404/economics- wp193.pdf.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI)

PCI (Provincial Competitiveness Index) là chỉ số đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh, thành của Việt Nam trong việc xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển doanh nghiệp dân doanh, do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) được hợp tác nghiên cứu và trợ giúp của Cơ quan hợp tác Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ US-Aid. Chỉ số PCI được xây dựng theo quy trình ba bước gọi tắt là “3T”: 1) thu thập dữ liệu điều tra doanh nghiệp bằng phiếu hỏi và dữ liệu từ các nguồn đã công bố, 2) tính toán 10 chỉ số thành phần và chuẩn hóa kết quả theo thang điểm 10, và 3) tính trọng số cho chỉ số PCI trung bình của 10 chỉ số thành phần trên thang điểm 100. PCI được công bố thí điểm lần đầu tiên vào năm 2005 gồm 8 chỉ số thành phần, cho 47 tỉnh/thành phố của Việt Nam. Từ năm 2006 trở đi, tất cả các tỉnh thành của Việt Nam đều được đưa vào bảng xếp hạng.

Từ năm 2013, PCI gồm 10 chỉ số thành phần:

STT Chỉ tiêu cụ thể 1. 2. 3. 4. 5. 6.

STT Chỉ số thành phần Chi phí gia nhập thị 1 trường: được xây dựng nhằm đánh giá sự khác biệt về chi phí gia nhập thị trường của các doanh nghiệp mới thành lập giữa các tỉnh với nhau

7.

8.

Không có lập luận nào ở trên là đúng (% đồng ý)

2

Thời gian đăng ký doanh nghiệp số ngày Thời gian thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp số ngày % Doanh nghiệp cần thêm giấy phép kinh doanh khác Tổng số giấy đăng ký và giấy phép cần thiết để chính thức hoạt động Thời gian chờ đợi để được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất % DN phải chờ hơn một tháng để hoàn thành tất cả các thủ tục để chính thức hoạt động % DN phải chờ hơn ba tháng để hoàn thành tất cả các thủ tục để chính thức hoạt động % DN đăng ký hoặc sửa đổi đăng ký kinh doanh thông qua bộ phận Một cửa Thủ tục tại bộ phận Một cửa được niêm yết công khai 9. Hướng dẫn về thủ tục tại bộ phận Một cửa rõ ràng và đầy đủ 10. Cán bộ tại bộ phận Một cửa am hiểu về chuyên môn (% đồng ý) 11. Cán bộ tại bộ phận Một cửa nhiệt tình, thân thiện (% đồng ý) 12. 13. Ứng dụng công nghệ thông tin tại bộ phận Một cửa tốt (% đồng ý) 14. 15. % doanh nghiệp có mặt bằng kinh doanh và có Giấy chứng nhận Quyền

sử dụng đất

16. % diện tích đất trong tỉnh có Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất 17.

18. 19.

20.

Doanh nghiệp ngoài quốc doanh không gặp cản trở về tiếp cận đất đai hoặc mở rộng mặt bằng kinh doanh Doanh nghiệp đánh giá rủi ro bị thu hồi đất Nếu bị thu hồi đất, doanh nghiệp sẽ được bồi thường thỏa đáng (% Luôn luôn hoặc Thường xuyên) Sự thay đổi khung giá đất của tỉnh phù hợp với sự thay đổi của giá thị trường (% Đồng ý).

Tiếp cận đất đai và Sự ổn định trong sử dụng đất: Đo lường về hai khía cạnh của vấn đề đất đai mà doanh nghiệp phải đối mặt: việc tiếp cận đất đai có dễ dàng không và doanh nghiệp có thấy yên tâm và được đảm bảo về sự ổn định khi có được mặt bằng kinh doanh hay không

21. % DN thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai trong vòng 2 năm qua

nhưng không gặp bất kỳ khó khăn nào về thủ tục

22. % DN có nhu cầu được cấp GCNQSDĐ nhưng không có do thủ tục

hành chính rườm rà/ lo ngại cán bộ nhũng nhiễu

135

STT Chỉ số thành phần 3

STT Chỉ tiêu cụ thể 23. 24. 25.

26.

Tính minh bạch và tiếp cận thông tin: Đo lường khả năng tiếp cận các kế hoạch của tỉnh và các văn bản pháp lý cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

27.

Tiếp cận tài liệu quy hoạch (1: tiếp cận dễ dàng; 5: không thể tiếp cận) Tiếp cận tài liệu pháp lý (1: tiếp cận dễ dàng; 5: không thể tiếp cận) Cần có "mối quan hệ" để có được các tài liệu kế hoạch của tỉnh (% Rất quan trọng hoặc Quan trọng) Thương lượng với cán bộ thuế là phần thiết yếu trong hoạt động kinh doanh (% Hoàn toàn đồng ý hoặc Đồng ý) Khả năng có thể dự đoán được trong thực thi của tỉnh đối với quy định pháp luật của Trung ương (% Luôn luôn hoặc Thường xuyên)

28. % Doanh nghiệp tham gia góp ý kiến về quy định, chính sách của Nhà nước 29. 30.

Độ mở và chất lượng của trang web tỉnh Vai trò của các hiệp hội DN địa phương trong việc xây dựng và phản biện chính sách, quy định của tỉnh (% quan trọng hoặc vô cùng quan trọng)

31. % DN truy cập vào website của UBND tỉnh 32.

33.

Các tài liệu về ngân sách đủ chi tiết để DN sử dụng cho hoạt động kinh doanh (% Đồng ý) Các tài liệu về ngân sách được công bố ngay sau khi cơ quan, cá nhân có thẩm quyền phê duyệt (% Đồng ý)

4

34. % doanh nghiệp sử dụng hơn 10% quỹ thời gian để tìm hiểu và thực

35. 36. 37.

38. 39.

Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước: Đo lường thời gian doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện các thủ tục hành chính cũng như mức độ thường xuyên và thời gian doanh nghiệp phải tạm dừng kinh doanh để các cơ quan Nhà nước của địa phương thực hiện việc thanh tra, kiểm tra

40. 41. 42.

5

43.

hiện các quy định pháp luật của Nhà nước Số cuộc thanh tra, kiểm tra trung vị (tất cả các cơ quan) Số giờ trung vị làm việc với thanh tra, kiểm tra thuế Cán bộ nhà nước giải quyết công việc hiệu quả hơn (% Đồng ý hoặc hoàn toàn đồng ý) Cán bộ nhà nước thân thiện (% hoàn toàn đồng ý hoặc đồng ý) DN không cần phải đi lại nhiều lần để lấy dấu và chữ ký (% hoàn toàn đồng ý hoặc đồng ý) Thủ tục giấy tờ đơn giản (% hoàn toàn đồng ý hoặc đồng ý) Phí, lệ phí được công khai (% hoàn toàn đồng ý hoặc đồng ý) Không thấy bất kì sự thay đổi đáng kể nào (% hoàn toàn đồng ý hoặc đồng ý) Các DN cùng ngành thường phải trả thêm các khoản chi phí không chính thức (% Đồng ý hoặc Hoàn toàn đồng ý)

44. % doanh nghiệp phải chi hơn 10% doanh thu cho các loại chi phí không

chính thức

45.

Hiện tượng nhũng nhiễu khi giải quyết thủ tục cho DN là phổ biến (% Đồng ý hoặc Hoàn toàn đồng ý)

46.

Công việc đạt được kết quả mong đợi sau khi đã trả chi phí không chính thức (% thường xuyên hoặc luôn luôn)

47.

Các khoản chi phí không chính thức ở mức chấp nhận được (% Đồng ý hoặc Hoàn toàn đồng ý)

6

Chi phí không chính thức: Đo lường các khoản chi phí không chính thức mà doanh nghiệp phải trả và các trở ngại do những chi phí không chính thức này gây ra đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc trả những khoản chi phí không chính thức có đem lại kết quả hay “dịch vụ” như mong đợi và liệu các cán bộ Nhà nước có sử dụng các quy định của địa phương để trục lợi hay không Cạnh tranh bình đẳng

48.

49.

50.

51.

52.

Việc tỉnh ưu ái cho các tổng công ty, tập đoàn của Nhà nước gây khó khăn cho doanh nghiệp của ban” (% Đồng ý hoặc Hoàn toàn đồng ý) Thuận lợi trong tiếp cận đất đai là đặc quyền dành cho các tập đoàn kinh tế của Nhà nước (% đồng ý) Thuận lợi trong tiếp cận các khoản tín dụng là đặc quyền dành cho các tập đoàn kinh tế của Nhà nước (% đồng ý) Thuận lợi trong cấp phép khai thác khoáng sản là đặc quyền dành cho các tập đoàn kinh tế của Nhà nước (% đồng ý) Thủ tục hành chính nhanh chóng và đơn giản hơn là đặc quyền dành cho các tập đoàn kinh tế của Nhà nước (% đồng ý)

136

STT Chỉ số thành phần

STT Chỉ tiêu cụ thể 53.

54.

55.

56.

Dễ dàng có được các hợp đồng từ cơ quan Nhà nước là đặc quyền dành cho các tập đoàn kinh tế của Nhà nước (% đồng ý) Tỉnh ưu tiên giải quyết các vấn đề, khó khăn cho DN nước ngoài hơn là DN trong nước (% đồng ý hoặc Hoàn toàn đồng ý) Tỉnh ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài hơn là phát triển khu vực tư nhân (% đồng ý hoặc Hoàn toàn đồng ý) Thuận lợi trong việc tiếp cận đất đai là đặc quyền dành cho các doanh nghiệp FDI (% đồng ý)

57. Miễn giảm thuế TNDN là đăc quyền dành cho các doanh nghiệp FDI

58.

59.

60.

(% đồng ý) Thủ tục hành chính nhanh chóng và đơn giản hơn là đặc quyền dành cho các doanh nghiệp FDI (% đồng ý) Hoạt động của các doanh nghiệp FDI nhận được nhiều quan tâm hỗ trợ hơn từ tỉnh (% đồng ý) Hợp đồng, đất đai,… và các nguồn lực kinh tế khác chủ yếu rơi vào tay các DN có liên kết chặt chẽ với chính quyền tỉnh” (% đồng ý) 61. Ưu đãi với các công ty lớn (nhà nước và tư nhân) là trở ngại cho hoạt

7

62.

63.

64.

65.

66.

67.

8

68.

69. 70.

71. 72.

Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh: Đo lường tính sáng tạo, sáng suốt của lãnh đạo tỉnh trong quá trình thực thi chính sách Trung ương cũng như trong việc đưa ra các sáng kiến riêng nhằm phát triển khu vực kinh tế tư nhân, đồng thời đánh giá khả năng hỗ trợ và áp dụng những chính sách đôi khi chưa rõ ràng của Trung ương theo hướng có lợi cho doanh nghiệp. Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp (tên gọi trước: Chính sách phát triển kinh tế tư nhân): đo lường các dịch vụ của tỉnh để phát triển khu vực tư nhân như xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp, hỗ trợ tìm kiếm đối tác kinh doanh, phát triển các khu/cụm công nghiệp tại địa phương và cung cấp các dịch vụ công nghệ cho doanh nghiệp.

73. 74. 75. 76. 77. 78.

79. 80. 81.

82. 83. 84.

động kinh doanh của bản thân DN (% đồng ý) Cảm nhận của DN về thái độ của chính quyền tỉnh đối với khu vực tư nhân (% Tích cực hoặc Rất tích cực) UBND tỉnh linh hoạt trong khuôn khổ pháp luật nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân (% hoàn toàn đồng ý hoặc đồng ý) UBND tỉnh rất năng động và sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề mới phát sinh (% hoàn toàn đồng ý hoặc đồng ý) Có những sáng kiến hay ở cấp tỉnh nhưng chưa được thực thi tốt ở các Sở, ngành (% hoàn toàn đồng ý hoặc đồng ý) Lãnh đạo tỉnh có chủ trương, chính sách đúng đắn nhưng không được thực hiện tốt ở cấp huyện (% hoàn toàn đồng ý hoặc đồng ý) Phản ứng của tỉnh khi có điểm chưa rõ trong chính sách/văn bản trung ương: “trì hoãn thực hiện và xin ý kiến chỉ đạo” và “không làm gì” (% lựa chọn) Số hội chợ thương mại do tỉnh tổ chức trong năm trước hoặc đăng ký tổ chức cho năm nay. Tỉ lệ số nhà cung cấp dịch vụ trên tổng số DN (%) Tỉ lệ số nhà cung cấp dịch vụ tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài trên tổng số nhà cung cấp dịch vụ (%) DN đã từng sử dụng dịch vụ tìm kiếm thông tin thị trường (%) DN đã sử dụng nhà cung cấp dịch vụ tư cho dịch vụ tìm kiếm thông tin thị trường (%) DN có ý định tiếp tục sử dụng dịch vụ tìm kiếm thông tin thị trường (%) DN đã từng sử dụng dịch vụ tư vấn về pháp luật (%) DN đã sử dụng nhà cung cấp dịch vụ tư cho dịch vụ tư vấn về pháp luật (%) DN có ý định tiếp tục sử dụng dịch vụ tư vấn về pháp luật (%) DN đã từng sử dụng dịch vụ hỗ trợ tìm đối tác kinh doanh (%) DN đã sử dụng nhà cung cấp dịch vụ tư cho dịch vụ hỗ trợ tìm đối tác kinh doanh (%) DN có ý định tiếp tục sử dụng dịch vụ hỗ trợ tìm đối tác kinh doanh (%) DN đã từng sử dụng dịch vụ xúc tiến thương mại (%) DN đã sử dụng nhà cung cấp dịch vụ tư cho dịch vụ xúc tiến thương mại (%) DN có ý định tiếp tục sử dụng dịch vụ xúc tiến thương mại (%) DN đã từng sử dụng các dịch vụ liên quan đến công nghệ (%) DN đã sử dụng nhà cung cấp dịch vụ tư cho các dịch vụ liên quan đến công nghệ (%)

137

STT Chỉ số thành phần

STT Chỉ tiêu cụ thể 85.

86. 87.

88. 89. 90.

9

91. 92.

93.

94. 95.

Đào tạo lao động: Đo lường các nỗ lực của lãnh đạo tỉnh để thúc đẩy đào tạo nghề và phát triển kỹ năng nhằm hỗ trợ cho các ngành công nghiệp tại địa phương và giúp người lao động tìm kiếm việc làm

DN có ý định tiếp tục sử dụng nhà cung cấp dịch vụ tư trên cho các dịch vụ liên quan đến công nghệ (%) DN đã từng sử dụng dịch vụ đào tạo về kế toán và tài chính(%) DN đã sử dụng nhà cung cấp tư nhân cho dịch vụ đào tạo về kế toán và tài chính (%) DN có ý định tiếp tục sử dụng dịch vụ đào tạo về kế toán và tài chính (%) DN đã từng sử dụng dịch vụ đào tạo về quản trị kinh doanh (%) DN đã sử dụng nhà cung cấp tư nhân cho dịch vụ đào tạo về quản trị kinh doanh (%) DN có ý định tiếp tục sử dụng dịch vụ đào tạo về quản trị kinh doanh (%) Dịch vụ do các cơ quan Nhà nước tại địa phương cung cấp: Giáo dục phổ thông (% Rất tốt hoặc Tốt) Dịch vụ do các cơ quan Nhà nước tại địa phương cung cấp: Giáo dục hướng nghiệp dạy nghề (% Rất tốt hoặc Tốt) Doanh nghiệp đã từng sử dụng dịch vụ giới thiệu việc làm (%) Doanh nghiệp đã sử dụng dịch nhà cung cấp tư nhân cho dịch vụ tuyển dụng và giới thiệu việc làm (%) Doanh nghiệp sẽ tiếp tục sử dụng dịch vụ giới thiệu việc làm (%)

96. 97. % tổng chi phí kinh doanh dành cho đào tạo lao động 98. % tổng chi phí kinh doanh dành cho tuyển dụng lao động 99. Mức độ hài lòng với lao động (% đồng ý rằng lao động đáp ứng được

nhu cầu sử dụng của DN)

100. Tỉ lệ người lao động tốt nghiệp trường đào tạo nghề/số lao động chưa

qua đào tạo (%) (BLĐTBXH)

101. Tỉ lệ lao động tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đào tạo

nghề ngắn và dài hạn trên tổng lực lượng lao động (%)

102. % số lao động của DN đã hoàn thành khóa đào tạo tại các trường dạy

nghề

10

103. Hệ thống pháp luật có cơ chế giúp DN tố cáo hành vi tham nhũng của

cán bộ (% thường xuyên hoặc luôn luôn)

104. Doanh nghiệp tin tưởng và khả năng bảo vệ của pháp luật về vấn đề bản quyền hoặc thực thi hợp đồng (% Đồng ý hoặc Hoàn toàn đồng ý) 105. Số lượng các vụ tranh chấp của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh do

Tòa án kinh tế cấp tỉnh xét xử trên 100 doanh nghiệp

106. Doanh nghiệp sử dụng tòa án hoặc các thiết chế pháp lý khác để giải

quyết tranh chấp (%)

107. Tỉ lệ % nguyên đơn ngoài quốc doanh trên tổng số nguyên đơn tại Toàn

án kinh tế tỉnh

108. Số tháng trung vị để giải quyết vụ kiện tại tòa 109. % Chi phí chính thức và không chính thức để giải quyết tranh chấp

Thiết chế pháp lý: Đo lường lòng tin của doanh nghiệp tư nhân đối với hệ thống tòa án, tư pháp của tỉnh, liệu các thiết chế pháp lý này có được doanh nghiệp xem là công cụ hiệu quả để giải quyết tranh chấp hoặc là nơi doanh nghiệp có thể khiếu nại các hành vi nhũng nhiễu của cán bộ công quyền tại địa phương.

trong tổng giá trị tranh chấp

110. Tòa án các cấp của tỉnh xét xử các vụ kiện kinh tế đúng pháp luật (%

đồng ý hoặc hoàn toàn đồng ý)

111. Tòa án các cấp của tỉnh xử các vụ kiện kinh tế nhanh chóng (% đồng ý

hoặc hoàn toàn đồng ý)

112. Phán quyết của tòa án được thi hành nhanh chóng (% đồng ý hoặc hoàn

toàn đồng ý)

113. Các cơ quan trợ giúp pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp dùng luật để khởi

kiện khi có tranh chấp (% đồng ý)

114. Các chi phí chính thức và không chính thức là chấp nhận được (% đồng

ý hoặc hoàn toàn đồng ý)

115. Phán quyết của toà án là công bằng (% đồng ý hoặc hoàn toàn đồng ý) 116. DN sẵn sàng sử dụng tòa án để giải quyết các tranh chấp (% có)

138

Nguồn: VCCI và USAID (2018)

Phụ lục 2. Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI)

PAPI (Provincial Governance and Public Administration Performance Index) là sản phẩm thường niên của hoạt động hợp tác nghiên cứu giữa Trung tâm Nghiên cứu Phát triển-Hỗ trợ Cộng đồng (CECODES) và Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam. Sau hai năm thử nghiệm, nghiên cứu PAPI lần đầu tiên được triển khai trên toàn quốc vào năm 2011 với các chỉ báo chính được cố định để phục vụ việc so sánh kết quả qua các năm. PAPI là công cụ theo dõi thực thi chính sách, phản ánh chân thực tiếng nói của người dân về mức độ hiệu quả điều hành, quản lý nhà nước, thực thi chính sách và cung ứng dịch vụ công của chính quyền các cấp.

STT

STT

Chỉ tiêu thành phần

Chỉ số nội dung – Chỉ số thành phần

I

PAPI bao gồm 6 chỉ số lĩnh vực nội dung, 22 chỉ số nội dung thành phần và trên 90 chỉ tiêu thành phần về hiệu quả quản trị và hành chính công của toàn bộ 63 tỉnh/thành phố. Chỉ số PAPI được cấu thành từ việc tính toán, tổng hợp từ 5.796 biến số cấu thành chỉ tiêu, nhóm thành 1.368 biến số cấu thành chỉ số thành phần và 378 biến số cấu thành sáu lĩnh vực nội dung.

Tham gia của người dân ở cấp cơ sở

Hiểu biết của người trả lời về các vị trí dân cử

1.

2.

1 Tri thức công dân về việc tham gia

Tỉ lệ người trả lời nêu đúng thời hạn nhiệm kỳ của vị trí trưởng thôn và đại biểu Quốc hội (%)

2 Cơ hội tham

Tỉ lệ người trả lời đã tham gia bầu cử đại biểu HĐND lần gần đây nhất (%)

3.

gia

Tỉ lệ người trả lời đã tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội lần gần đây nhất (%)

4.

Tỉ lệ người trả lời cho biết trưởng thôn/tổ trưởng tổ dân phố là do dân bầu (%)

5.

Tỉ lệ người trả lời trực tiếp bầu trưởng thôn/tổ trưởng tổ dân phố (%)

6.

7.

3 Chất lượng bầu cử

Tỉ lệ người trả lời cho biết có từ hai ứng cử viên trở lên để dân bầu trưởng thôn/tổ trưởng tổ dân phố (%)

8.

Tỉ lệ người trả lời cho biết gia đình được mời đi bầu trưởng thôn/tổ trưởng tổ dân phố (%)

9.

Tỉ lệ người trả lời cho biết biết hình thức bầu trưởng thôn/tổ trưởng tổ dân phố là bỏ phiếu kín (%)

10.

Tỉ lệ người trả lời cho biết kết quả bầu cử trưởng thôn/tổ trưởng tổ dân phố được niêm yết công khai (%)

11.

Tỉ lệ người trả lời cho biết chính quyền không gợi ý bầu cho một ứng viên cụ thể (%)

Tỉ lệ người trả lời cho biết họ đã bầu cho người đã trúng cử (%)

12.

13.

4 Đóng góp tự nguyện

Tỉ lệ người trả lời cho biết đã đóng góp tự nguyện cho một công trình công cộng ở xã/phường nơi sinh sống (%)

14.

Tỉ lệ người trả lời cho biết Ban Thanh tra nhân dân hoặc Ban giám sát đầu tư cộng đồng giám sát việc xây mới/tu sửa công trình (%)

15.

Tỉ lệ người trả lời cho biết đóng góp của họ được ghi chép vào sổ sách của xã/phường (%)

16.

Tỉ lệ người trả lời cho biết đã tham gia vào việc quyết định xây mới/tu sửa công trình công cộng ở xã/phường (%)

139

STT

STT

Chỉ tiêu thành phần

Chỉ số nội dung – Chỉ số thành phần

17.

Tỉ lệ người trả lời cho biết có tham gia đóng góp ý kiến trong quá trình thiết kế để xây mới/tu sửa công trình (%)

II

Công khai, minh bạch

5 Danh sách hộ

18.

nghèo

Tỉ lệ người trả lời cho biết danh sách hộ nghèo được công bố công khai trong 12 tháng qua (%)

19.

Có những hộ thực tế rất nghèo nhưng không được đưa vào danh sách hộ nghèo (% người trả lời cho là đúng)

20.

Có những hộ thực tế không nghèo nhưng lại được đưa vào danh sách hộ nghèo (% người trả lời cho là đúng)

21.

Thu chi ngân sách của xã/phường được công bố công khai (%)

22.

Tỉ lệ người trả lời cho biết đã từng đọc bảng kê thu chi ngân sách (%)

6 Thu, chi ngân sách cấp xã/phường

23.

Tỉ lệ người trả lời cho biết họ tin vào tính chính xác của thông tin về thu chi ngân sách đã công bố (%)

24.

Tỉ lệ người trả lời được biết về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hiện thời của xã/phường (%)

25.

7 Quy hoạch/kế hoạch sử dụng đất, khung giá đền bù

Tỉ lệ người trả lời cho biết họ có dịp góp ý kiến cho quy hạch, kế hoạch sử dụng đất của xã/phường (%)

26.

Tỉ lệ người trả lời cho biết chính quyền địa phương đã tiếp thu ý kiến đóng góp của người dân cho quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (%)

27.

Ảnh hưởng của kế hoạch/quy hoạch sử dụng đất tới hộ gia đình

28.

Tỉ lệ người trả lời cho biết hộ gia đình không bị thu hồi đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất gần đây (%)

29.

Tỉ lệ người trả lời cho biết hộ gia đình bị thu hồi đất được đền bù với giá xấp xỉ giá thị trường (%)

30.

Tỉ lệ người trả lời cho biết khi bị thu hồi đất, gia đình được thông báo cụ thể về mục đích sử dụng đất (%)

31.

Tỉ lệ người trả lời cho biết đất bị thu hồi hiện đang được sử dụng đúng với mục đích quy hoạch ban đầu (%)

32.

Tỉ lệ người trả lời biết nơi cung cấp thông tin bảng giá đất được chính thức ban hành ở địa phương (%)

III

Trách nhiệm giải trình với người dân

8 Mức độ và

33.

Tỉ lệ người trả lời cho biết họ đã liên hệ với trưởng thôn/tổ trưởng tổ dân phố để giải quyết khúc mắc (%)

34.

hiệu quả tiếp xúc với chính quyền

Tỉ lệ người trả lời cho biết cuộc gặp với trưởng thôn/tổ trưởng tổ dân phố để giải quyết khúc mắc có kết quả tốt (%)

35.

Tỉ lệ người trả lời cho biết họ đã liên hệ cán bộ UBND xã/phường để giải quyết khúc mắc (%)

36.

Tỉ lệ người trả lời cho biết cuộc gặp với cán bộ UBND xã/phường để giải quyết khúc mắc có kết quả tốt (%)

37.

Tỉ lệ người trả lời cho biết họ đã liên hệ cán bộ đoàn thể để giải quyết khúc mắc (%)

38.

Tỉ lệ người trả lời cho biết cuộc gặp với cán bộ đoàn thể để giải quyết khúc mắc có kết quả tốt (%)

39.

Tỉ lệ người trả lời cho biết họ đã liên hệ cán bộ HĐND xã/phường để giải quyết khúc mắc (%)

40.

Tỉ lệ người trả lời cho biết cuộc gặp với cán bộ HĐND xã/phường để giải quyết khúc mắc có kết quả tốt (%)

140

STT

STT

Chỉ tiêu thành phần

Chỉ số nội dung – Chỉ số thành phần

41.

Tỉ lệ người trả lời cho biết đã góp ý xây dựng với chính quyền (%)

42.

9 Đáp ứng kiến nghị của người dân

Tỉ lệ người trả lời cho biết việc góp ý xây dựng với chính quyền đem lại kết quả tốt (%)

43.

Tỉ lệ người trả lời cho biết đã gửi khiếu nại cán bộ lên chính quyền (%)

44.

Tỉ lệ người trả lời cho biết khiếu nại của họ đã được trả lời thỏa đáng (%)

45.

Tỉ lệ người trả lời cho biết đã gửi tố cáo cán bộ lên chính quyền (%)

46.

Tỉ lệ người trả lời cho biết tố cáo của họ đã được trả lời thỏa đáng (%)

47.

Tỉ lệ người trả lời cho biết đã cùng người khác ký đơn tập thể khiếu nại chính quyền (%)

48.

Tỉ lệ người trả lời cho biết xã/phường có ban thanh tra nhân dân (%)

49.

Tỉ lệ người trả lời cho biết ban thanh tra nhân dân được nhân dân bầu (%)

10 Hiệu quả của Ban thanh tra nhân dân

50.

Tỉ lệ người trả lời cho biết ban thanh tra nhân dân hoạt động có hiệu quả (%)

IV

Kiểm soát tham nhũng

11 Kiểm soát

51.

Tỉ lệ người trả lời cho biết cán bộ chính quyền không dùng tiền công quỹ vào mục đích riêng (% đồng ý)

52.

Tỉ lệ người trả lời cho biết người dân không phải chi thêm tiền để được nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (% đồng ý)

tham nhũng trong chính quyền địa phương

53.

Tỉ lệ người trả lời cho biết người dân không phải chi thêm tiền để nhận được giấy phép xây dựng (% đồng ý)

12 Kiểm soát

54.

Tỉ lệ người trả lời cho biết người dân không phải chi thêm tiền để được quan tâm hơn khi đi khám chữa bệnh (% đồng ý)

55.

Tỉ lệ người trả lời cho biết phụ huynh học sinh tiểu học không phải chi thêm tiền để con em được quan tâm hơn (% đồng ý)

tham nhũng trong cung ứng dịch vụ công

56.

Tỉ lệ người trả lời cho biết không phải đưa tiền "lót tay" để xin được việc làm trong cơ quan nhà nước (% đồng ý)

57. Mối quan hệ cá nhân với người có chức quyền là không quan trọng khi xin vào

13 Công bằng trong tuyển dụng vào nhà nước

làm 1 trong số 5 vị trí được hỏi

58.

14 Quyết tâm

Tỉ lệ người dân cho biết không bị vòi vĩnh đòi hối lộ trong 12 tháng vừa qua (%)

59.

Tỉ lệ người dân biết về Luật Phòng chống tham nhũng (%)

60.

Tỉ lệ người dẫn cho biết chính quyền tỉnh/thành phố đã xử lý nghiêm túc việc tham nhũng ở địa phương (%)

chống tham nhũng của chính quyền địa phương

61. Mức tiền đòi hối lộ người dân bắt đầu tố cáo (đơn vị 1000 VNĐ)

62.

Người bị vòi vĩnh đã tố cáo hành vi đòi hối lộ (%)

V

Thủ tục hành chính công

63.

15 Dịch vụ chứng thực/xác nhận

Tỉ lệ người dân được hỏi đã đi lấy chứng thực, xác nhận của chính quyền địa phương trong 12 tháng qua (%)

64.

Tổng chất lượng dịch vụ chứng thực, xác nhận của chính quyền (4 tiêu chí)

65. Mức độ hài lòng với dịch vụ nhận được (5 điểm)

16 Thủ tục xin

Tỉ lệ hộ gia đình của người được hỏi đã làm thủ tục xin cấp phép xây dựng (%)

66.

67.

cấp phép xây dựng

Tỉ lệ người đi làm thủ tục cho biết không phải đi qua nhiều "cửa" để làm thủ tục xin cấp phép xây dựng (%)

68.

Tỉ lệ người đi làm thủ tục cho biết đã nhận được giấy phép xây dựng (%)

69.

Tổng chất lượng dịch vụ hành chính về giấy phép xây dựng (4 tiêu chí)

70. Mức độ hài lòng với dịch vụ nhận được (5 điểm)

141

STT

STT

Chỉ tiêu thành phần

Chỉ số nội dung – Chỉ số thành phần

17 Thủ tục liên

71.

Tỉ lệ hộ gia đình của người được hỏi đã làm thủ tục liên quan đến giấy CNQSD đất (%)

72.

Tỉ lệ người đi làm thủ tục cho biết không phải đi qua nhiều "cửa" để làm xong các thủ tục liên quan đến giấy CNQSD đất (%)

quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

73.

Tỉ lệ người đi làm thủ tục cho biết đã nhận được kết quả liên quan đến giấy CNQSD đất (%)

74.

Tổng chất lượng dịch vụ hành chính về thủ tục liên quan đến giấy CNQSD đất (4 tiêu chí)

75. Mức độ hài lòng với dịch vụ nhận được (5 điểm)

18 Thủ tục hành

76.

Tỉ lệ hộ gia đình của người được hỏi đã đi làm >= 1 loại thủ tục ở UBND xã/phường (%)

Tổng chất lượng dịch vụ hành chính của UBND xã/phường (4 tiêu chí)

77.

chính được cấp ở cấp xã/phường

78.

Tỉ lệ người đi làm thủ tục cho biết không phải đi qua nhiều "cửa" để làm xong thủ tục (%)

79. Mức độ hài lòng với dịch vụ nhận được (5 điểm)

VI

Cung ứng dịch vụ công

19 Y tế công lập

Tỉ lệ người được hỏi có bảo hiểm y tế (%)

80.

Tác dụng của thẻ bảo hiểm y tế

81.

Dịch vụ khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ dưới 6 tuổi

82.

83.

Tỉ lệ người được hỏi cho biết người nghèo được hỗ trợ để mua bảo hiểm y tế (%)

84.

Tỉ lệ người được hỏi cho biết trẻ em dưới 6 tuổi được miễn phí khám chữa bệnh (%)

Tổng chất lượng bệnh viện tuyến huyện/quận (10 tiêu chí)

85.

Quãng đường đi bộ tới trường

86.

20 Giáo dục tiểu học công lập

Quảng thời gian tới trường

87.

Nhận xét về chất lượng dạy học của trường tiểu học công lập

88.

Tổng chất lượng trường tiểu học tại địa bàn xã/phường (9 tiêu chí)

89.

Tỉ lệ người được hỏi cho biết hộ gia đình mình đã dùng lưới điện (%)

90.

21 Cơ sở hạ tầng căn bản

Loại đường giao thông gần hộ gia đình nhất (đường đất; đường trải nhựa)

91.

92. Mức độ thường xuyên của dịch vụ thu gom rác thải của chính quyền địa

phương

93.

Tỉ lệ người được hỏi cho biết hộ gia đình mình dùng nước máy là nguồn thức ăn chính (%)

94.

Tỉ lệ người được hỏi cho biết hộ gia đình mình dùng nước chưa hợp vệ sinh (nước mưa, nước sông/hồ/suối) (%)

22 An ninh, trật

95. Mức độ an toàn, trật tự ở địa bàn đang sinh sống

tự

96.

Tỉ lệ người được hỏi cho biết có thay đổi về mức độ an ninh theo hướng tốt lên sau 3 năm (%)

97.

Tỉ lệ người được hỏi cho biết là nạn nhân của một trong 4 loại tội phạm về an ninh, trật tự (%)

142

Nguồn: CECODES và cộng sự (2018)

Phụ lục 3. Kết quả trích và xoay nhân tố

Phương pháp sử dụng

- Sử dụng phương pháp mặc định là Principle components (PCA), chọn số nhân

tố để trích dựa trên Eigen value > 1

- Sử dụng phương pháp xoay nhân tố là varimax (tối đa hóa tổng biến thiên) để

việc trùng lặp biến được giảm thiểu.

- Chỉ chọn những biến có đóng góp nhất định vào nhân tố (hệ số tải - factor

loading phải từ 0,5 trở lên)

Dữ liệu sử dụng

Từ phân tích tại mục 2.1, trước hết chúng ta đưa các chỉ số sau vào mô hình nhân tố:

- 9 chỉ số thành phần của PCI, trong đó loại trừ PCI6 - Cạnh tranh bình đẳng (do

thiếu dữ liệu giai đoạn 2011-2012).

- Tất cả các chỉ số thành phần của PAPI được liệt kê trong Bảng 2.2, trừ nhóm PAPI31, PAPI32 và PAPI33 (do PAPI32 thiếu dữ liệu 2011-2015, PAPI33 thiếu dữ liệu 2018), thay vào đó chỉ số nội dung PAPI3 được sử dụng để đại diện cho khía cạnh trách nhiệm giải trình. Như vậy, có 20 chỉ số nhóm PAPI được sử dụng.

Kết quả phân tích

Bảng ma trận xoay cho thấy 29 chỉ số thành phần được nhóm về 8 nhân tố (component) dưới đây.

Rotated Component Matrixa

Component

1

2

3

4

5

6

7

8

PCI1

PCI2

PCI3

,652

PCI4

PCI5

PCI7

PCI8

PCI9

PCI10

PAPI11

PAPI12

PAPI13

PAPI14

,702 ,751 ,539

,770 ,578 ,833 ,690

,768

PAPI21

,789 ,576 ,561 ,760

143

PAPI22

PAPI23

PAPI3

,800 ,615

PAPI41

PAPI42

PAPI43

PAPI44

PAPI51

PAPI52

PAPI53

PAPI54

PAPI61

,768

PAPI62

,595 ,622 ,699

PAPI63

-,526

,890 ,862 ,822

,634

PAPI64

Extraction Method: Principal Component Analysis.

Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization.

a. Rotation converged in 19 iterations.

Dễ nhận thấy các chỉ số PAPI61-64 rất phân tán, không tạo thành nhóm nhân tố như kỳ vọng và cần được loại bỏ để tránh làm kết quả phân tán. Ước lượng phân tích nhân tố đối với 25 chỉ số thành phần mang lại bảng ma trận xoay gồm 7 nhân tố sau:

Rotated Component Matrixa

Component

1

2

3

4

5

6

7

PCI1

,675

PCI2

PCI3

,664

PCI4

PCI5

PCI7

PCI8

PCI9

PCI10

PAPI11

PAPI12

PAPI13

PAPI14

PAPI21

PAPI22

,820 ,662 ,683 ,662 ,669

PAPI23

PAPI3

,509

,617

,768 ,613 ,789 ,734

,823 ,772 ,551

144

PAPI41

PAPI42

PAPI43

PAPI44

PAPI51

PAPI52

PAPI53

PAPI54

,892 ,880 ,838

,583 ,721 ,540 ,680

,610

Extraction Method: Principal Component Analysis. Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization. a. Rotation converged in 10 iterations.

Đối chiếu với bảng 2.2, hai chỉ số PCI1 và PAPI44 tiếp tục được loại bớt để tránh làm nhiễu kết quả tính toán. Kết quả EFA cuối cùng là bảng ma trận xoay gồm 5 nhân tố:

Rotated Component Matrixa

Component

1

2

3

4

5

PCI2

PCI3

,622

PCI4

PCI5

PCI7

PCI8

PCI9

PCI10

PAPI11

PAPI12

PAPI13

PAPI14

PAPI21

PAPI22

PAPI23

PAPI3

,788 ,649 ,546 ,744 ,790 ,607

PAPI41

PAPI42

,783 ,584 ,833 ,680

PAPI43

PAPI51

,578

PAPI52

,742

PAPI53

,566

,878 ,864 ,843

,693 ,748 ,561

PAPI54

,593

Extraction Method: Principal Component Analysis.

Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization.

a. Rotation converged in 6 iterations.

145

STT Khía cạnh

Các chỉ số của PAPI và PCI được đo Cronbach's Alpha

Kiểm soát tham nhũng

PAPI41, PAPI42, PAPI43, PAPI44

0,819

1

Minh bạch & Giải trình

0,751

2

PAPI11, PAPI12, PAPI13, PAPI21, PAPI22, PAPI23, PAPI3

Chất lượng chính sách

PCI2, PCI4, PCI5, PCI7

0,750

3

PCI3, PCI8, PCI9, PCI10

0,685

4

Hiệu quả chính quyền (Cung ứng dịch vụ công)

PAPI51, PAPI52, PAPI53, PAPI54

0,619

5

Hiệu quả chính quyền (Thủ tục hành chính công)

Phụ lục 4. Kết quả kiểm tra Cronbach's Alpha về độ tin cậy của thang đo

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted

Scale Variance if Item Deleted

Corrected Item-Total Correlation

Squared Multiple Correlation

Cronbach's Alpha if Item Deleted

PAPI41

4,511897465794471

,182

,705

,713

,794

PAPI42

4,223232151879199

,228

,756

,703

,845

PAPI43

5,075215214587548

,213

,602

,748

,722

PAPI44

4,312361841975975

,320

,115

,898

,321

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted

Scale Variance if Item Deleted

Corrected Item-Total Correlation

Squared Multiple Correlation

Cronbach's Alpha if Item Deleted

PAPI11

36,746779074958930

36,008

,560

,675

,703

PAPI12

36,358901796049270

39,475

,362

,733

,411

PAPI13

35,538709511300100

37,515

,339

,721

,475

PAPI14

37,671748392228245

44,698

,284

,767

,200

PAPI21

36,945644824642564

36,799

,454

,696

,587

PAPI22

37,058572984366010

36,809

,502

,697

,582

PAPI23

36,022786152084876

42,179

,183

,748

,321

PAPI3

36,411185048606310

47,008

,346

,745

,412

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted

Scale Variance if Item Deleted

Corrected Item- Total Correlation

Squared Multiple Correlation

Cronbach's Alpha if Item Deleted

17,240627089767670

5,499

,440

,649

,620

PCI2

17,029704297994820

5,647

,239

,713

,473

PCI4

17,717633359230746

4,560

,409

,670

,558

PCI5

18,432690338872085

4,791

,298

,691

,522

PCI7

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted

Scale Variance if Item Deleted

Corrected Item-Total Correlation

Squared Multiple Correlation

Cronbach's Alpha if Item Deleted

17,654306558604310

16,204

,152

,679

,383

PCI3

18,338468443725368

10,115

,486

,490

,644

PCI8

19,501357087355668

10,862

,459

,553

,566

PCI9

PCI10

18,356420684353026

14,007

,150

,704

,337

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted

Scale Variance if Item Deleted

Corrected Item-Total Correlation

Squared Multiple Correlation

Cronbach's Alpha if Item Deleted

PAPI51

5,295419085948647

,053

,245

,502

,404

PAPI52

5,227339604337399

,072

,170

,506

,390

PAPI53

5,407910866450191

,064

,139

,549

,335

PAPI54

5,137595329874561

,080

,243

,508

,438

146

Phụ lục 5. Kết quả KMO and Bartlett's Test về điều kiện thực hiện phân tích nhân tố

KMO and Bartlett's Test

Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy.

,788

Bartlett's Test of Sphericity

Approx. Chi-Square

4961,277

253

df

,000

Sig.

* KMO test là kiểm định tính tương thích của số liệu. Tối thiểu hệ số KMO phải lớn hơn 0,5. Kết quả bảng trên cho thấy hệ số KMO là 0,788, nghĩa là kiểm định cho kết quả đạt yêu cầu, số liệu phù hợp để sử dụng phương pháp phân tích nhân tố.

* Bartlett’s test of sphericity là kiểm định về việc các biến phải có tương quan cao với nhau hay không (kiểm tra xem ma trận các biến có phải ma trận đơn vị không?). Nếu các biến không tương quan hoặc tương quan ít thì phân tích nhân tố không có ý nghĩa.

Ho: ma trận các biến là ma trận đơn vị (identity matrix)

Nếu p-value của kết quả kiểm định nhỏ hơn 0,05 thì ta có thể bác bỏ Ho.

Kết quả bảng trên cho thấy p-value (Sig.) của Bartlett test là 0.00 < 0.05.

147

Như vậy các kiểm định đều cho kết quả thỏa mãn điều kiện phân tích nhân tố.

148

Phụ lục 6. Bản đồ sáu vùng kinh tế của Việt Nam

Phụ lục 7. Danh mục các tỉnh/thành phố của mỗi vùng

Đồng bằng sông Hồng Trung du và miền núi phía Bắc Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung

Bắc Giang Bắc Ninh Bình Định

Bắc Kạn Hà Nam Bình Thuận

Cao Bằng Hà Nội Đà Nẵng

Điện Biên Hải Dương Hà Tĩnh

Hà Giang Hải Phòng Khánh Hòa

Hòa Bình Hưng Yên Nghệ An

Lai Châu Nam Định Ninh Thuận

Lạng Sơn Ninh Bình Phú Yên

Lào Cai Quảng Ninh Quảng Bình

Phú Thọ Thái Bình Quảng Nam

Sơn La Vĩnh Phúc Quảng Ngãi

Thái Nguyên Quảng Trị

Tuyên Quang Thanh Hóa

Yên Bái Thừa Thiên - Huế

Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long

Đắk Lắk Bà Rịa - Vũng Tàu An Giang

Đắk Nông Bình Dương Bạc Liêu

Gia Lai Bình Phước Bến Tre

Kon Tum Đồng Nai Cà Mau

Lâm Đồng Tây Ninh Cần Thơ

TP. Hồ Chí Minh Đồng Tháp

Hậu Giang

Kiên Giang

Long An

Sóc Trăng

Tiền Giang

Trà Vinh

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2020)

149

Vĩnh Long

Phụ lục 8. Các tỉnh/thành phố thuộc bốn vùng kinh tế trọng điểm

I - Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ

1

Hà Nội

2

Hưng Yên

3

Hải Phòng

4

Quảng Ninh

5

Hải Dương

6

Bắc Ninh

7

Vĩnh Phúc

II- Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ

1

Thừa Thiên - Huế

2

Đà Nẵng

3

Quảng Nam

4

Quảng Ngãi

5

Bình Định

III- Vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ

1

TP. Hồ Chí Minh

2

Bình Dương

3

Bà Rịa - Vũng Tàu

4

Đồng Nai

5

Tây Ninh

6

Bình Phước

7

Long An

8

Tiền Giang

IV- Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long

1

TP. Cần Thơ

2

An Giang

3

Kiên Giang

4

Cà Mau

Tổng số: 24 tỉnh/thành phố

150

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015)

Phụ lục 9. Các tỉnh/thành phố chia theo từng nhóm thu nhập

Nhóm tỉnh có mức thu nhập cao

Nhóm tỉnh có mức thu nhập trung bình

Nhóm tỉnh có mức thu nhập thấp

1 Bắc Ninh

1 An Giang

1 Bắc Kạn

2 Bình Dương

2 Bắc Giang

2 Bến Tre

3 Bình Phước

3 Bạc Liêu

3 Cao Bằng

4 Bà Rịa - Vũng Tàu

4 Bình Định

4 Đắk Lắk

5 Cần Thơ

5 Bình Thuận

5 Điện Biên

6 Đà Nẵng

6 Cà Mau

6 Hà Giang

7 Đồng Nai

7 Đắk Nông

7 Hậu Giang

8 Hà Nam

8 Đồng Tháp

8 Hòa Bình

9 Hà Nội

9 Gia Lai

9 Kon Tum

10 Hải Dương

10 Hà Tĩnh

10 Lai Châu

11 Hải Phòng

11 Kiên Giang

11 Lạng Sơn

12 Hưng Yên

12 Lâm Đồng

12 Nam Định

13 Khánh Hòa

13 Lào Cai

13 Nghệ An

14 Long An

14 Ninh Bình

14 Ninh Thuận

15 Quảng Ngãi

15 Phú Yên

15 Phú Thọ

16 Quảng Ninh

16 Quảng Nam

16 Quảng Bình

17 Tây Ninh

17 Quảng Trị

17 Sơn La

18 Thái Nguyên

18 Sóc Trăng

18 Thái Bình

19 Thanh Hóa

19 TP. Hồ Chí Minh

19 Tiền Giang

20 Vĩnh Phúc

20 Trà Vinh

20 Tuyên Quang

21 Thừa Thiên - Huế

21 Yên Bái

22 Vĩnh Long

Ghi chú: Việc phân nhóm dựa trên GRDP bình quân lao động hiệu quả của các tỉnh/thành phố tính trung bình trong giai đoạn 2011-2018, trong đó:

- Các tỉnh có thu nhập cao: GRDP/lao động hiệu quả đạt trên 48 triệu đồng - Các tỉnh có thu nhập trung bình: GRDP/lao động hiệu quả từ 34 đến 48 triệu đồng - Các tỉnh có thu nhập thấp: GRDP/lao động hiệu quả đạt dưới 34 triệu đồng

151

lnY lnPCI2 lnPCI3 lnPCI4 lnPCI5 lnPCI7 lnPCI8 lnPCI9 lnPCI10

P 729.8405 (0.0000) 427.1197 (0.0000) 614.1917 (0.0000) 927.2913 (0.0000) 277.6695 (0.0000) 410.4292 (0.0000) 237.2256 (0.0000) 150.6103 (0.0667) 454.1566 (0.0000)

Z -13.9105 (0.0000) -12.7873 (0.0000) -15.3005 (0.0000) -22.5153 (0.0000) -7.8784 (0.0000) -12.5928 (0.0000) -7.0048 (0.0000) -1.9772 (0.0240) -13.8804 (0.0000)

L* -22.3851 (0.0000) -14.1633 (0.0000) -20.5698 (0.0000) -32.0070 (0.0000) -8.2884 (0.0000) -13.6249 (0.0000) -6.8607 (0.0000) -2.1041 (0.0181) -15.2689 (0.0000)

Pm 38.0384 (0.0000) 18.9688 (0.0000) 30.7532 (0.0000) 50.4766 (0.0000) 9.5543 (0.0000) 17.9174 (0.0000) 7.0066 (0.0000) 1.5503 (0.0605) 20.6719 (0.0000)

Kết luận Chuỗi dừng Chuỗi dừng Chuỗi dừng Chuỗi dừng Chuỗi dừng Chuỗi dừng Chuỗi dừng Chuỗi dừng Chuỗi dừng

P: Inverse chi-squared; Z: Inverse normal; L*: Inverse logit; Pm: Modified inv. chi-squared

Ghi chú: số trong ngoặc kép là p-value

Phụ lục 10. Kết quả kiểm định tính dừng (Fisher-type unit-root test)

lnY & lnPCI2 lnY & lnPCI3 lnY & lnPCI4 lnY & lnPCI5 lnY & lnPCI7 lnY & lnPCI8 lnY & lnPCI9 lnY & lnPCI10

Gt -2.9350 (0.0000) -3.0550 (0.0000) -3.2000 (0.0000) -2.7220 (0.0000) -2.8150 (0.0000) -3.3630 (0.0000) -2.6520 (0.0020) -2.7730 (0.0000)

Ga -65.6970 (0.0000) -84.3380 (0.0000) -56.4990 (0.0000) -52.7870 (0.0000) -69.0500 (0.0000) -69.2110 (0.0000) -54.5800 (0.0000) -54.1780 (0.0000)

Pa -42.8500 (0.0000) -40.5840 (0.0000) -39.2840 (0.0000) -37.1200 (0.0000) -40.1580 (0.0000) -34.4860 (0.0000) -36.2540 (0.0000) -35.8160 (0.0000)

Kết luận Đồng tích hợp Đồng tích hợp Đồng tích hợp Đồng tích hợp Đồng tích hợp Đồng tích hợp Đồng tích hợp Đồng tích hợp

Ghi chú lags(1) lags(1) lags(0) lags(0) lags(1) lags(1) lags(0) lags(0)

Pt -18.8020 (0.0090) -16.1040 (0.7810) -20.6060 (0.0000) -19.1850 (0.0030) -19.4120 (0.0010) -18.1880 (0.0490) -18.6430 (0.0150) -19.0350 (0.0040)

Ghi chú: số trong ngoặc kép là p-value

152

Phụ lục 11. Kết quả kiểm định đồng tích hợp (Westerlund ECM panel cointegration tests)

Phụ lục 12. Quy trình kiểm định tính nội sinh Durbin-Wu-Hausman

Davidson & MacKinnon (1993) đề xuất thủ tục tiến hành kiểm định Durbin-Wu- Hausman như sau:

Mô hình: Y = β X + γ U + ε, chúng ta nghi ngờ X là nội sinh

Bước 1: Hồi quy X theo các biến công cụ Z và U theo mô hình X = α Z + μ U + υ

Bước 2: Lưu chuỗi giá trị sai số (residuals) của mô hình ước lượng hồi quy (vx)

Bước 3. Hồi quy mô hình Y = β X + γ U + δ vx + ε

Bước 4. Kiểm định t-test đối với δ. Nếu ước lượng của δ khác 0 có ý nghĩa thống kê thì nghĩa là mô hình OLS không phù hợp.

lnKL

lnGL

GOV

FDI

lnDEM

lnCOR

lnSER

lnPOL

lnKL lnGL GOV FDI lnDEM lnCOR lnSER lnPOL

1 0.4982 -0.4445 0.5237 -0.0014 -0.0648 0.4598 0.0061

1 0.3784 0.2780 0.1615 -0.1248 0.278 -0.1505

1 -0.3523 0.1417 -0.0934 -0.2786 -0.2539

1 0.1503 -0.0639 0.2511 0.0911

1 -0.0186 0.0072 -0.0074

1 0.0686 -0.0165

1 0.0013

1

VIF 3.58 3.48 3.69 1.59 1.08 1.04 1.36 1.10

153

Phụ lục 13. Kết quả kiểm định đa cộng tuyến bằng ma trận hệ số tương quan Pearson (Pearson correlation coeffients matrix) và nhân tố phóng đại phương sai (VIF)

Biến trễ của LnYL

lnKL

lnGL

GOV

FDI

lnDEM lnDEM bình phương

lnCOR

lnSER

lnSER bình phương lnPOL Hệ số chặn Số quan sát điều chỉnh

Phụ lục 14. So sánh kết quả ước lượng giữa mô hình GMM và hiệu ứng cố định

Hồi quy GMM với biến nội sinh 0.142*** (0.0305) 0.391*** (0.0244) 0.300*** (0.0237) -0.688*** (0.0589) 0.389*** (0.0789) -0.0500* (0.0256) 0.0168* (0.0101) 0.0207* (0.0106) -0.412*** (0.0974) 0.117*** (0.0286) 0.0260*** (0.0077) 2.247*** (0.2530) 435

Hồi quy hiệu ứng cố định 0.403*** (0.0225) 0.387*** (0.0246) -0.742*** (0.0553) 0.427*** (0.0870) -0.0405 (0.0302) 0.0125 (0.0113) 0.0224** (0.0102) -0.200*** (0.0595) 0.0648*** (0.0188) 0.0395*** (0.0098) 2.569*** (0.2160) 500

Ghi chú: Số trong ngoặc là sai số chuẩn; * p-value<0.10, ** p-value <0.05, *** p-value <0.01

154

Phụ lục 15. So sánh kết quả hồi quy của mô hình ở Bảng 4.6 với mô hình lấy biến trễ hai kỳ của lnYL

Kết quả hồi quy của Bảng 4.6

Biến trễ của LnYL

Biến trễ 2 kỳ của LnYL lnKL

lnGL

GOV

FDI

lnDEM lnDEM bình phương

lnCOR

lnSER

Kết quả hồi quy sau khi lấy biến trễ hai kỳ 0.190*** (0.0373) -0.0547** (0.0276) 0.397*** (0.0270) 0.302*** (0.0249) -0.664*** (0.0557) 0.456*** (0.0914) -0.0515* (0.0271) 0.0173 (0.0107) 0.0328*** (0.0121) -0.519*** (0.1090) 0.147*** (0.0325) 0.0204** (0.0091) 2.295*** (0.3000) 372

lnSER bình phương lnPOL Hệ số chặn Số quan sát điều chỉnh

0,1420*** (0,0305) 0,3910*** (0,0244) 0,3000*** (0,0237) -0,6880*** (0,0589) 0,3890*** (0,0789) -0,0500* (0,0256) 0,0168* (0,0101) 0,0207* (0,0106) -0,4120*** (0,0974) 0,1170*** (0,0286) 0,0260*** (0,0077) 2,2470*** (0,2530) 435

Ghi chú: Số trong ngoặc là sai số chuẩn; * p-value<0.10, ** p-value <0.05, *** p-value <0.01

155

Phụ lục 16. So sánh kết quả hồi quy của mô hình ở Bảng 4.7 với mô hình lấy biến trễ hai kỳ của lnYL

Kết quả hồi quy của Bảng 4.7

Kết quả hồi quy sau khi lấy biến trễ hai kỳ

Biến trễ của LnYL

0,0711**

0.0901**

(0,0289)

(0.0356)

Biến trễ 2 kỳ của LnYL

-0.0351

lnKL

0,5220***

(0.0232) 0.544***

(0,0229)

(0.0249)

lnGL

0,2080*** (0,0204)

0.220*** (0.0216)

GOV

-0,4090***

-0.399***

(0,0492)

(0.0524)

FDI

0,5480***

0.580***

(0,0769)

(0.0862)

lnPGI

0,0609***

0.0550**

(0,0233)

(0.0242)

Hệ số chặn

1,7970*** (0,1390)

1.593*** (0.1590)

Số quan sát điều chỉnh

435

372

Phụ lục 17. So sánh kết quả hồi quy theo mô hình ở Bảng 4.7 trước và sau khi bổ sung biến đại diện các vùng kinh tế

Kết quả hồi quy của Bảng 4.7 Kết quả hồi quy (thêm biến region)

Biến trễ của LnYL

lnKL

lnGL

GOV

FDI

lnPGI Region Số quan sát điều chỉnh

0.0711** (0.0289) 0.522*** (0.0229) 0.208*** (0.0204) -0.409*** (0.0492) 0.548*** (0.0769) 0.0609*** (0.0233) 435

0.0711** (0.0289) 0.522*** (0.0229) 0.208*** (0.0204) -0.409*** (0.0493) 0.548*** (0.0770) 0.0609*** (0.0234) 0.542*** (0.0421) 435

Ghi chú: Số trong ngoặc là sai số chuẩn; * p-value<0.10, ** p-value <0.05, *** p-value <0.01

156

Phụ lục 18. So sánh kết quả hồi quy theo mô hình ở Bảng 4.6 trước và sau khi bổ sung biến đại diện các vùng kinh tế

Kết quả hồi quy của Bảng 4.6 Kết quả hồi quy (thêm biến region)

Biến trễ của LnYL

lnKL

lnGL

GOV

FDI

lnDEM lnDEM bình phương

lnCOR

lnSER

lnSER bình phương lnPOL Region Số quan sát điều chỉnh

0.142*** (0.0305) 0.391*** (0.0244) 0.300*** (0.0237) -0.688*** (0.0589) 0.389*** (0.0789) -0.0500* (0.0256) 0.0168* (0.0101) 0.0207* (0.0106) -0.412*** (0.0974) 0.117*** (0.0286) 0.0260*** (0.0077) 435

0.142*** (0.0306) 0.391*** (0.0245) 0.300*** (0.0237) -0.688*** (0.0590) 0.389*** (0.0790) -0.0500* (0.0256) 0.0168* (0.0101) 0.0207* (0.0106) -0.412*** (0.0975) 0.117*** (0.0286) 0.0260*** (0.0077) 0.678*** (0.0765) 435

Ghi chú: Số trong ngoặc là sai số chuẩn; * p-value<0.10, ** p-value <0.05, *** p-value <0.01

157

Tây Nguyên

Đông Nam Bộ

Đồng bằng sông Hồng

Đồng bằng sông Cửu Long

Trung du và miền núi phía Bắc

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung

Biến trễ của LnYL

0.161***

0.190***

0.209***

0.1050

(0.0177)

0.167***

(0.0575)

(0.0469)

(0.0409)

(0.0788)

(0.0727)

(0.0496)

0.290***

0.314***

0.0826** 0.516***

0.471***

0.161***

lnKL

(0.0646)

(0.0529)

(0.0325)

(0.1030)

(0.0636)

(0.0347)

0.447***

0.405***

0.723***

0.205*

0.190***

0.578***

lnGL

(0.0619)

(0.0529)

(0.0434)

(0.1200)

(0.0736)

(0.0512)

-1.704***

-0.552***

-1.326***

(0.3880)

-3.167***

-1.943***

GOV

(0.2290)

(0.0748)

(0.0930)

(0.2580)

(0.6550)

(0.1950)

0.363**

0.225*

0.0461

(1.8720)

2.178***

0.1360

FDI

(0.1490)

(0.1200)

(0.1390)

(1.6180)

(0.5040)

(0.2390)

Phụ lục 19. Ảnh hưởng của chỉ số thể chế quản trị (PGI) tới tăng trưởng kinh tế tại từng vùng kinh tế

lnPGI

0.0450

0.0528

0.0150

0.0439

-0.191***

0.0062

(0.0621)

(0.0361)

(0.0337)

(0.0357)

(0.0657)

(0.0314)

Hệ số chặn

1.753***

1.052***

0.954***

1.624***

4.357***

2.121***

(0.2810)

(0.3730)

(0.1850)

(0.3800)

(0.5480)

(0.1900)

Số quan sát điều chỉnh

76

96

98

35

42

88

Ghi chú: Số trong ngoặc là sai số chuẩn; * p-value<0.10, ** p-value <0.05, *** p-value <0.01

158

Tây Nguyên

Đông Nam Bộ

Đồng bằng sông Hồng

Đồng bằng sông Cửu Long

Trung du và miền núi phía Bắc

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung

Biến trễ của LnYL

0.131**

0.206***

0.211***

0.0345

0.0031

0.181***

(0.0593)

(0.0416)

(0.0389)

(0.0930)

(0.0768)

(0.0497)

0.208***

0.259*** 0.0779*** 0.358***

0.530***

0.137***

lnKL

(0.0626)

(0.0507)

(0.0265)

(0.1270)

(0.0709)

(0.0349)

0.530***

0.460***

0.701***

0.287*

0.233***

0.578***

lnGL

(0.0638)

(0.0469)

(0.0421)

(0.1500)

(0.0760)

(0.0543)

-1.852***

-0.664***

-1.298***

-0.4320

-3.386***

-2.038***

GOV

(0.2320)

(0.0702)

(0.0950)

(0.3250)

(0.7300)

(0.2080)

0.471***

0.258**

-0.0588

0.2970

1.496***

-0.0345

FDI

(0.1500)

(0.1090)

(0.1350)

(2.0800)

(0.5150)

(0.2350)

lnDEM

-0.0269

0.0171

-0.0544*

0.575***

-0.1320

0.0206

(0.1490)

(0.0401)

(0.0282)

(0.1830)

(0.1470)

(0.0308)

lnDEM bình phương

0.0011

0.0024

0.0162

-0.197***

0.0575

-0.0106

(0.0452)

(0.0150)

(0.0111)

(0.0617)

(0.0514)

(0.0140)

0.0214

-0.0004

-0.0008

0.0177

-0.0619***

-0.0089

lnCOR

(0.0163)

(0.0179)

(0.0146)

(0.0196)

(0.0198)

(0.0154)

-0.1840

-0.147**

-0.1850

-1.010***

0.1230

-0.2040

lnSER

(0.2950)

(0.0714)

(0.2310)

(0.2970)

(0.3840)

(0.1670)

lnSER bình phương

0.0585

0.0448*

0.0599

0.320***

-0.0585

0.0660

(0.0853)

(0.0229)

(0.0638)

(0.0931)

(0.1100)

(0.0486)

lnPOL

0.0519***

0.0047

0.0178

0.0087

-0.0281

0.0232

(0.0159)

(0.0109)

(0.0120)

(0.0184)

(0.0259)

(0.0154)

Hệ số chặn

2.445***

1.208***

1.371***

3.784***

3.062***

2.422***

(0.5740)

(0.4170)

(0.3560)

(0.9360)

(0.8630)

(0.3050)

Số quan sát điều chỉnh

76

96

98

35

42

88

Ghi chú: Số trong ngoặc là sai số chuẩn; * p-value<0.10, ** p-value <0.05, *** p-value <0.01

159

Phụ lục 20. Ảnh hưởng của các khía cạnh thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế tại từng vùng kinh tế (mô hình gốc)

Nhóm tỉnh thuộc các vùng kinh tế trọng điểm

Nhóm tỉnh không thuộc các vùng kinh tế trọng điểm

Biến trễ của LnYL

0.0375

0.200***

(0.0413)

(0.0359)

lnKL

0.599***

0.335***

(0.0400)

(0.0268)

lnGL

0.193***

0.344***

(0.0329)

(0.0307)

GOV

-0.707***

-0.605***

(0.1180)

(0.0591)

FDI

0.792***

0.331***

(0.1630)

(0.0849)

lnPGI

-0.0288

0.0163

(0.0338)

(0.0300)

Hệ số chặn

1.701***

1.419***

(0.2100)

(0.1960)

Số quan sát điều chỉnh

167

268

Ghi chú: Số trong ngoặc là sai số chuẩn; * p-value<0.10, ** p-value <0.05, *** p-value <0.01

160

Phụ lục 21. Ảnh hưởng của chỉ số thể chế quản trị (PGI) tới tăng trưởng kinh tế tại các nhóm tỉnh trọng điểm và không trọng điểm

Nhóm tỉnh thuộc các vùng kinh tế trọng điểm

Nhóm tỉnh không thuộc các vùng kinh tế trọng điểm

Biến trễ của LnYL

0.115***

0.212***

(0.0341)

(0.0405)

0.329***

lnKL

0.482***

(0.0250)

(0.0430)

0.399***

lnGL

0.252***

(0.0294)

(0.0361)

-0.726***

GOV

-0.957***

(0.0586)

(0.1280)

0.327***

FDI

0.2450

(0.0758)

(0.1650)

-0.0303

lnDEM

-0.0468

(0.0234)

(0.0500)

0.0084

lnDEM bình phương

0.0200

(0.0097)

(0.0176)

-0.0141

lnCOR

0.0197

(0.0130)

(0.0122)

-0.336***

lnSER

0.1610

(0.0799)

(0.2390)

0.104***

lnSER bình phương

-0.0580

(0.0238)

(0.0658)

0.0261***

lnPOL

0.0166

(0.0091)

(0.0117)

2.199***

Hệ số chặn

0.5970

(0.2670)

(0.3990)

268

167

Số quan sát điều chỉnh

Ghi chú: Số trong ngoặc là sai số chuẩn; * p-value<0.10, ** p-value <0.05, *** p-value <0.01

161

Phụ lục 22. Ảnh hưởng của các khía cạnh thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế tại các nhóm tỉnh trọng điểm và không trọng điểm (mô hình gốc)

Nhóm tỉnh có thu nhập cao

Nhóm tỉnh có thu nhập trung bình

Nhóm tỉnh có thu nhập thấp

Biến trễ của LnYL

0.266***

0.157***

0.0768*

(0.0465)

(0.0425)

(0.0416)

lnKL

0.181***

0.365***

0.568***

(0.0366)

(0.0330)

(0.0430)

lnGL

0.476***

0.347***

0.166***

(0.0406)

(0.0384)

(0.0375)

GOV

-1.199***

-0.550***

-0.667***

(0.1220)

(0.0658)

(0.1530)

FDI

-0.1080

0.1690

0.569***

(0.1320)

(0.4190)

(0.0914)

lnPGI

0.0174

0.0206

-0.0021

(0.0360)

(0.0315)

(0.0376)

Hệ số chặn

1.573***

1.390***

1.901***

(0.1970)

(0.2570)

(0.2220)

149

147

Số quan sát điều chỉnh

139

Ghi chú: Số trong ngoặc là sai số chuẩn; * p-value<0.10, ** p-value <0.05, *** p-value <0.01

162

Phụ lục 23. Ảnh hưởng của chỉ số thể chế quản trị (PGI) tới tăng trưởng kinh tế theo 3 nhóm thu nhập

Nhóm tỉnh có thu nhập cao

Nhóm tỉnh có thu nhập trung bình

Nhóm tỉnh có thu nhập thấp

Biến trễ của LnYL

0.151***

0.222***

0.143***

(0.0389)

(0.0389)

(0.0424)

0.552***

lnKL

0.141***

0.318***

(0.0413)

(0.0287)

(0.0331)

0.180***

lnGL

0.533***

0.397***

(0.0374)

(0.0375)

(0.0370)

-0.816***

GOV

-1.297***

-0.655***

(0.1550)

(0.1110)

(0.0622)

0.223***

FDI

-0.0619

0.3750

(0.0851)

(0.1280)

(0.3600)

-0.0317

lnDEM

-0.0504*

-0.0011

(0.0438)

(0.0263)

(0.0361)

0.0097

lnDEM bình phương

0.0161

0.0015

(0.0153)

(0.0104)

(0.0145)

0.0082

lnCOR

-0.0101

0.0017

(0.0108)

(0.0139)

(0.0171)

0.493**

lnSER

-0.321*

-0.279***

(0.2110)

(0.1860)

(0.0798)

-0.142**

lnSER bình phương

0.0981*

0.0863***

(0.0592)

(0.0519)

(0.0253)

0.0070

lnPOL

0.0166

0.0155

(0.0118)

(0.0116)

(0.0105)

0.808**

Hệ số chặn

2.307***

1.874***

(0.3960)

(0.2980)

(0.3370)

139

Số quan sát điều chỉnh

149

147

Ghi chú: Số trong ngoặc là sai số chuẩn; * p-value<0.10, ** p-value <0.05, *** p-value <0.01

163

Phụ lục 24. Ảnh hưởng của các khía cạnh thể chế quản trị tới tăng trưởng kinh tế theo 3 nhóm thu nhập (mô hình gốc)