HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỒ THANH THỦY
A NHÀ NƯỚCCCC
HHHHỖ TRTRTRTRỢ CCCCỦA NHÀ N
A NHÀ N
A NHÀ N
NÔNG DÂN VIỆT T T T NNNNAMAMAMAM
ĐĐĐĐỐI VI VI VI VỚI I I I NÔNG DÂN VI
NÔNG DÂN VI
NÔNG DÂN VI
SAU GIA NHẬP P P P WTOWTOWTOWTO
SAU GIA NH
SAU GIA NH
SAU GIA NH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2014
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỒ THANH THỦY
A NHÀ NƯỚCCCC
HHHHỖ TRTRTRTRỢ CCCCỦA NHÀ N
A NHÀ N
A NHÀ N
T NAM
NÔNG DÂN VIỆT NAM
ĐĐĐĐỐI VI VI VI VỚI I I I NÔNG DÂN VI
T NAM
T NAM
NÔNG DÂN VI
NÔNG DÂN VI
P WTO
SAU GIA NHẬP WTO
SAU GIA NH
P WTO
P WTO
SAU GIA NH
SAU GIA NH
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 62 31 01 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1) GS, TS Nguyễn Đình Kháng
2) TS Mai Văn Bảo
HÀ NỘI – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu sử dụng trong luận
án là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
HỒ THANH THỦY
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
AFTA : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
BHNN : Bảo hiểm nông nghiệp
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ĐBSH : Đồng bằng sông Hồng
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
: Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
: Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt GAP
: Tổng sản phẩm quốc nội GDP
: Hợp tác xã HTX
IPSARD : Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn
KH - CN : Khoa học - công nghệ
: Nhân dân tệ NDT
: Ngân hàng Nhà nước NHNN
: Ngân hàng thương mại NHTM
: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn NN&PTNT
: Ngân sách nhà nước NSNN
: Đô la Mỹ USD
: Hiệp hội Lương thực Việt Nam VFA
: Tổ chức Thương mại thế giới WTO
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
Trang Tên bảng, hình
I. BẢNG
Bảng 2.1: Các loại hình hỗ trợ nông nghiệp trong nước theo Hiệp định 24
Nông nghiệp của WTO
Bảng 3.1: Hạn mức giao đất theo quy định của Luật Đất đai 2013 57
Bảng 3.2: Dân số nông thôn và bình quân đất nông nghiệp trên đầu 62
người
Bảng 3.3: Những khó khăn khi nông dân tiếp cận với các nguồn vốn 74
của các tổ chức tín dụng
Bảng 3.4: Số xã, thôn có điện chia theo vùng 77
Bảng 3.5: Giao thông nông thôn theo vùng 78
Bảng 3.6: Nhà văn hóa, hệ thống loa truyền thanh ở nông thôn phân 80
theo vùng
Bảng 3.7 Vốn đầu tư trực tiếp ngoài trong nông nghiệp sau gia nhập 83
WTO
Bảng 3.8: Danh sách các nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta từ 88
2006 - 2013
Bảng 3.9: Tỷ trọng của giá trị nông sản xuất khẩu/tổng giá trị xuất khẩu 95
Bảng 3.10: Mức độ đáp ứng của một số chính sách hỗ trợ đối với nông dân 107
II. HÌNH
Hình 3.1: Ý kiến của nông dân về nguyên nhân khiến chính sách thu 62
hồi đất không thỏa đáng
Hình 3.2: Tỷ lệ xã có trường học phân theo vùng 79
Hình 3.3: Đánh giá tác động của hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng đối 81
với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời
sống nông dân
Hình 3.4: Cơ cấu FDI phân theo ngành, giai đoạn 2008 - 2012 83
Hình 3.5: Giá trị của một số nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta 89
từ 2006 - 2013
Hình 3.6: Tác động của chính sách phát triển KH - CN đối với sự 91
phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống
nông dân
Hình 3.7: Tăng trưởng tổng giá trị nông sản xuất khẩu và giá trị xuất 96
khẩu chung
Hình 3.8: Nhận xét của cán bộ các cấp về cơ chế, chính sách của Nhà 108
nước đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn
Hình 3.9: Tỷ lệ cán bộ các cấp tự đánh giá mức độ hiểu biết về WTO 114
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN HỖ
6
1.1.
6
1.2.
7
1.3.
17
TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NÔNG DÂN
Tình hình nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài
Tình hình nghiên cứu của một số tác giả trong nước
Khái quát kết quả các công trình nghiên cứu đã công bố và vấn đề
đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Chương 2.
NHỮNG CĂN CỨ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỖ TRỢ CỦA NHÀ
20
2.1.
20
2.2.
35
2.3.
46
NƯỚC ĐỐI VỚI NÔNG DÂN SAU GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG
MẠI THẾ GIỚI
Hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân trong thực hiện các cam kết
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
Căn cứ để Nhà nước thực hiện hỗ trợ đối với nông dân sau gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới
Kinh nghiệm quốc tế về hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân và
bài học có ý nghĩa đối với Việt Nam
Chương 3.
THỰC TRẠNG HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI
56
NÔNG DÂN TRONG THỰC HIỆN CAM KẾT GIA NHẬP TỔ
3.1.
56
3.2.
104
CHƯC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Tình hình thực hiện hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân sau gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới
Đánh giá chung về hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới
Chương 4.
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỖ TRỢ CỦA NHÀ
117
NƯỚC ĐỐI VỚI NÔNG DÂN VIỆT NAM SAU GIA NHẬP TỔ CHỨC
4.1.
117
4.2.
121
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Quan điểm hoàn thiện hỗ trợ đối với nông dân Việt Nam sau gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới
Giải pháp hoàn thiện chính sách hỗ trợ nông dân Việt Nam trong
thực hiện cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
KẾT LUẬN
158
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
160
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
161
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn lịch sử Việt Nam đã cho thấy nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn
chiếm một vị trí trọng yếu trong quá trình xây dựng phát triển đất nước. Bởi vì, không
có sự ổn định của đất nước khi nông thôn còn bất ổn; không có sự sung túc của quốc
gia khi nông dân còn nghèo, đói; không có hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân khi nông
nghiệp còn lạc hậu, kém phát triển. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là những vấn
đề luôn được Đảng, Nhà nước Việt Nam quan tâm trong suốt quá trình xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc cũng như trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước. Điều đó
đã được khẳng định qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc cũng như trong các Nghị
quyết của Đảng. Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7
(khóa X) ngày 5/8/2008 thể hiện quyết tâm chính trị cao nhất của Đảng và Nhà nước
về vai trò của nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Đây cũng là Nghị quyết hợp với ý
Đảng, lòng dân, đã thực sự tạo ra những động lực mới cho khu vực này. Nhờ đó đã
khơi dậy tính tích cực, năng động, sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu vượt bậc của nông
dân, làm cho nông nghiệp nước ta đạt được những bước tiến quan trọng về nhiều
mặt, Việt Nam trở thành quốc gia có vị thế trên thị trường thế giới với một số mặt
hàng nông sản chủ lực như lúa gạo, thủy sản, cà phê, tiêu, cao su… Kim ngạch xuất
khẩu nông, lâm, thủy sản luôn xuất siêu và ngày càng tăng, kể cả trong những giai
đoạn khó khăn, góp phần cân đối cán cân thương mại của Việt Nam. Người nông
dân Việt Nam có thể tự hào vì đã và đang làm tốt vai trò của mình trong việc xây
dựng và phát triển nền nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững, đảm bảo an ninh
lương thực.
Tuy vậy, những tiến bộ và kết quả đã đạt được chưa tương xứng với tiềm năng,
lợi thế của nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta. Qua thực tế sau gần 30 năm đổi
mới và 8 năm thực hiện cam kết của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cho thấy: sản
xuất nông nghiệp, đời sống nông dân, kinh tế nông thôn nước ta phát triển chưa bền
vững, tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp có xu hướng giảm dần, năng lực cạnh tranh
thấp, chưa phát huy tốt các nguồn lực. Khi phải tuân thủ các luật chơi chung của WTO
2
thì nông nghiệp nước ta ngày càng bộc lộ rõ những hạn chế, yếu kém. Mặt khác, nông
nghiệp Việt Nam còn phải đối mặt với những thách thức không nhỏ đến từ tác động tiêu
cực của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và những tác động bất lợi của sự biến đổi
thời tiết, khí hậu cùng những mặt trái của quá trình CNH, HĐH, đô thị hóa.
Các số liệu đã công bố cho thấy, sau gần 8 năm gia nhập WTO, GDP của
ngành nông nghiệp không ngừng tăng trong giai đoạn 2000-2012, song tốc độ có xu
hướng giảm đi. Giai đoạn 2000-2006 đạt 3,81%/năm nhưng giai đoạn 2007-2012 lại
có xu hướng giảm nhẹ với con số 3,26%/năm và chỉ còn 2,81% năm 2013. Về thương
mại ngành nông nghiệp, tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu giai đoạn 5 năm trước gia
nhập WTO đạt 18,4%/năm, cao hơn hẳn so với con số 15,6%/năm của 5 năm sau khi
gia nhập WTO. Trong đó, tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu của lâm sản giảm
mạnh, nhất từ 36,8%/năm giai đoạn trước xuống còn 13,1%/năm giai đoạn sau. Giá trị
xuất khẩu thủy sản và nông sản giảm nhẹ hơn (thủy sản từ 13,1%/năm xuống
10,1%/năm và nông sản từ 17,3%/năm xuống 13,1%/năm) [12], [92].
Thực tế, sau gia nhập WTO đời sống nông dân có nhiều thay đổi nhưng nhiều
hộ còn nghèo hơn cả trước khi gia nhập WTO. Tốc độ tăng về thu nhập của nông dân
có xu hướng chững lại và không đều nhau giữa các khu vực, giảm dần so với các lĩnh
vực kinh tế khác, số tiền tiết kiệm được của hộ gia đình ở nông thôn đạt rất thấp, chỉ
vào khoảng 5 - 8 triệu đồng/hộ/năm, chiếm từ 10 - 15% tổng thu nhập của hộ. Đáng
nói là, trong giai đoạn 2010 - 2012, tỷ lệ hộ nghèo không giảm và số hộ tái nghèo lại
tăng lên [86]. Dường như một bộ phận không nhỏ người nông dân vẫn đang đứng
“bên lề” trong thụ hưởng thành quả của công cuộc đổi mới, sự hy sinh của họ chưa
được đền đáp xứng đáng.
Hơn thế nữa, trong tiến trình hội nhập WTO, nhiều ưu đãi trong lĩnh vực nông
nghiệp và các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu nông sản không phù hợp WTO đã và đang
phải bãi bỏ. Trong khi chúng ta vừa phải thích ứng với các hệ thống mới đang hình
thành thì thách thức cạnh tranh lại đến ngay trên sân nhà. Các mặt hàng nông sản nước
ngoài đã và đang xâm nhập thị trường trong nước, vì vậy việc cạnh tranh với nông sản
nước ngoài ở thị trường trong nước cũng như cạnh tranh trong xuất khẩu sẽ ngày càng
khó khăn hơn. Hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, thực hiện cam kết WTO của nền
nông nghiệp Việt Nam đã và đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc, cần có sự phối hợp
đồng bộ của các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý, các doanh nghiệp và kể
cả người nông dân thì mới đảm bảo thành công. Nhiều chuyên gia cho rằng: Thắng lợi
3
hay thất bại trong tiến trình hội nhập WTO phụ thuộc vào tầm nhìn, trước hết là tầm
nhìn của các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và sau đó nhân tố then chốt
là người nông dân. Sự phát triển của ngành nông nghiệp đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ
và nhịp nhàng giữa “các nhà”. Đã đến lúc, nền nông nghiệp và người nông dân nước
ta đang rất cần một cách nhìn, một tầm nhìn mới để không chỉ chống chọi được trước
những mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế mà còn mạnh dần lên, thích ứng
với những điều kiện, môi trường cạnh tranh mới.
Với những lý do trên đây, đề tài: “Hỗ trợ của Nhà nước đối với nông Việt
Nam sau gia nhập WTO” được nghiên cứu sinh lựa chọn để nghiên cứu viết luận án
tiến sĩ, chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu: Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về hỗ
trợ của Nhà nước đối với nông dân nói chung, nông dân Việt Nam nói riêng, đối chiếu
với thực trạng hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân từ khi Việt Nam gia nhập WTO đến
nay, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp tiếp tục hỗ trợ nông dân phù hợp với điều
kiện đất nước và tương thích với các cam kết của Việt Nam trong WTO.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, luận án có các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân
sau khi gia nhập WTO.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân Việt
Nam sau gia nhập WTO đến nay.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp tiếp tục hỗ trợ của Nhà nước Việt Nam đối
với nông dân trong giai đoạn hiện nay, giúp nông dân tham gia vào chuỗi giá trị sản
xuất nông sản, phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cho
nông dân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước
đối với nông dân sau gia nhập WTO trong hoạt động sản xuất, tiêu thụ các nông sản
chủ yếu, phù hợp với điều kiện đất nước và đặc biệt là tương thích với các cam kết của
Việt Nam trong WTO.
4
Ở góc độ nghiên cứu của luận án, các hỗ trợ được đề cập chủ yếu là hỗ trợ phát
triển kinh tế, còn hỗ trợ xã hội như y tế, giáo dục... sẽ không đề cập đến hoặc rất ít. Do
đó, đối tượng nghiên cứu chính của luận án là các hỗ trợ của Nhà nước đối với nông
dân sau gia nhập WTO trong sản xuất và tiêu thụ các nông sản chủ yếu, phù hợp với
điều kiện đất nước và đặc biệt là tương thích với các cam kết của Việt Nam trong WTO,
góp phần tạo điều kiện nâng cao năng lực sản xuất cũng như đời sống cho nông dân.
Một điều cần lưu ý đó là nông dân là nhóm xã hội có địa bàn sinh sống ở nông
thôn và hoạt động kinh tế chủ yếu của họ là sản xuất nông nghiệp nên tác động hỗ trợ
của Nhà nước đối phát triển nông nghiệp, nông thôn có thể được coi là những hỗ trợ
gián tiếp đối với nông dân bởi vì nông dân chính là đối tượng được thụ hưởng các hỗ
trợ đó.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Luận án chỉ tập trung nghiên cứu những biện pháp hỗ trợ của
Nhà nước đối với nông dân trong sản xuất và tiêu thụ nông sản ở các vùng sản xuất
nông nghiệp trọng điểm như đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long
+ Về thời gian: khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO
(11/1/2007).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề nông dân.
- Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sinh sử dụng các phương pháp: trừu tượng
hóa, phân tích - tổng hợp, lôgic kết hợp với lịch sử, thống kê, phân tích định lượng,
phương pháp chuyên gia, phương pháp so sánh, đồng thời tiếp thu có chọn lọc một số kết
quả của các công trình khoa học đã công bố trong quá trình nghiên cứu luận án.
5. Đóng góp về khoa học của luận án
- Đưa ra khái niệm về hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân sau gia nhập WTO.
Từ khái niệm hỗ trợ, luận án đã làm rõ nội dung, hình thức, nguyên tắc thực hiện hỗ
trợ của Nhà nước đối với nông dân sau gia nhập WTO cũng như các tiêu chí đánh giá
kết quả thực hiện các hỗ trợ đó.
- Trên cơ nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia có điều kiện tương đồng
trong thực hiện hỗ trợ đối với nông dân, luận án đã rút ra một số bài học bổ ích có giá
5
trị tham khảo nhằm thực hiện có hiệu quả sự hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân
trong điều kiện mới.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân sau khi
Việt Nam gia nhập WTO, thông qua đó làm rõ những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất quan điểm chủ yếu định hướng cho các giải pháp nhằm hoàn thiện sự
hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Trên cơ sở đó
đưa ra một hệ thống giải pháp đồng bộ có căn cứ khoa học và có tính khả thi nhằm hỗ
trợ nông dân trong điều kiện phải tuân thủ các cam kết về nông nghiệp của Việt Nam
sau khi gia nhập WTO.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục; nội dung
của luận án được kết cấu gồm 4 chương.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Nông nghiệp là ngành ra đời sớm nhất trong các ngành kinh tế. Đồng thời là
ngành rất nhạy cảm, còn nhiều bất đồng trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước
công nghiệp và các nước đang phát triển. Vì lẽ đó, nghiên cứu về nông nghiệp, trong đó
có nghiên cứu về phát triển nông nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế được nhiều tổ
chức và nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ NƯỚC NGOÀI
David Colman và Trevor Youg trong tác phẩm “Nguyên lý kinh tế nông nghiệp - thị
trường và giá cả trong các nước đang phát triển” [16] đã phân tích nhiều nội dung liên
quan đến phát triển nông nghiệp hàng hoá gắn với phúc lợi của nông dân ở các nước đang
phát triển. Điểm nổi bật của tác phẩm là xem xét sự liên hệ, tác động tương quan giữa các
chính sách đến thương mại nông sản trong điều kiện nền nông nghiệp hàng hoá. Cuốn
sách đã nêu cách thức lượng hoá để xác định sự ảnh hưởng của các chính sách, phương
pháp quản lý đến phát triển nông nghiệp và thương mại nông sản. Nội dung của cuốn
sách đã cung cấp nhiều thông tin bổ ích cho việc nghiên cứu giải quyết những vấn đề phát
triển nông nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân của các nước đang phát triển.
Frank Elliss trong “Chính sách nông nghiệp trong các nước đang phát triển” [34]
đã khảo cứu công phu về chính sách nông nghiệp của các nước đang phát triển được
tổng kết thông qua thực tiễn phát triển nông nghiệp của nhiều quốc gia. Tác giả đã đề
cập đến những vấn đề thời sự trong quản lý nhà nước đối với nông nghiệp Việt Nam
như chính sách tác động đến đầu vào (như thuỷ lợi, phân bón, cơ giới hoá), tác động
đến đầu ra (như chế biến, thương mại), tác động đến thương mại nông sản biên giới,...
Harry T.O Shima trong tác phẩm “Tăng trưởng kinh tế châu Á gió mùa” [60] đã
luận giải có sức thuyết phục về vai trò của nền nông nghiệp lúa nước và “văn minh
7
cầm đũa” của các nước châu Á trong quá trình công nghiệp hoá, con đường phát triển
nông nghiệp và nông thôn, các chính sách mà các quốc gia châu Á áp dụng có nhiều
gợi mở về mặt lý luận và thực tiễn mà người nghiên cứu đề tài này quan tâm.
Hafiz A.Pasha và T.Palanivel trong “Chính sách và tăng trưởng vì người nghèo:
Kinh nghiệm châu Á [56] cho rằng cần tăng chi tiêu công cho kinh tế nông thôn, nông
dân để đa dạng hóa sản phẩm, cải cách chế độ thương mại và tiếp thị trong nước giúp
cho việc giá cả trong nước được cải thiện. Theo các tác giả, chính sách thúc đẩy phát
triển nông nghiệp cần phải tập trung vào những điểm chủ yếu: Thứ nhất, đa dạng hóa
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa nông nghiệp sử dụng nhiều lao động và có
giá trị cao; thứ hai, phát triển các doanh nghiệp nông thôn vừa và nhỏ về chế biến nông
sản và cung cấp đầu vào cho nông nghiệp, mở rộng tiếp cận tín dụng nông thôn cho cả
hoạt động nông nghiệp vầ phi nông nghiệp; thứ ba, đặt ưu tiên cao hơn về phân bổ
nguồn lực công cho phát triển nông thôn, đầu tư vào đường, thủy lợi, điện khí hóa,
nghiên cứu phát triển nông nghiệp và khuyến nông; thứ tư, phân bổ lại tài sản cho người
nghèo thôn qua chính sách ruộng đất và các chương trình tín dụng vi mô nông thôn.
Tuy những công trình nghiên cứu ở nước ngoài có nhiều gợi mở tốt, nhưng việc
vận dụng nó không dễ dàng bởi đặc thù của Việt Nam, đặt ra trong tiến trình phát triển
nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam, đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu
thấu đáo và vận dụng phù hợp.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
Hiện nay trong nước chưa có nhiều công trình nghiên cứu độc lập về hỗ trợ của
Nhà nước đối với nông dân Việt Nam trong điều kiện thực hiện các cam kết của WTO
mặc dù xung quanh đề tài này có khá nhiều công trình khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ
và nhiều tác giả được xuất bản, đăng tải trên tạp chí và các phương tiện khác nhau.
1.2.1. Những nghiên cứu liên quan đến chính sách của Nhà nước đối với nông
nghiệp, nông dân trong hội nhập kinh tế quốc tế
* Sách tham khảo và chuyên khảo
TS. Đặng Kim Sơn trong cuốn sách “Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam - 20 năm
đổi mới và phát triển” [61] cho rằng, qua 20 mươi năm đổi mới, thắng lợi rõ rệt nhất
8
của nông nghiệp Việt Nam là tạo ra và duy trì được một quá trình tăng trưởng sản xuất
với tốc độ nhanh, trong thời gian dài; đã đảm bảo an ninh lương thực; hình thành các
vùng sản xuất hàng hoá tập trung, tăng nhanh xuất khẩu. Tuy vậy, quá trình đổi mới
nông nghiệp, nông thôn vẫn còn một số yếu kém, tồn tại như: chuyển dịch cơ cấu chậm,
sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán, tăng trưởng theo chiều rộng, chất lượng hiệu quả,
khả năng cạnh tranh nhiều loại nông sản còn thấp... Để tiếp tục đưa công cuộc đổi mới
nông nghiệp, nông thôn nước ta tiến những bước vững chắc, cần quan tâm giải quyết
một số vấn đề đặt ra: xác định mối quan hệ nông nghiệp - công nghiệp trong quá trình
công nghiệp hóa, đầu tư thích đáng cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển
phải phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường chủ trương chính sách phải xuất phát từ
thực tiễn, phải đổi mới căn bản quản lý nhà nước.
TS Trịnh Thị Ái Hoa trong cuốn “Chính sách xuất khẩu nông sản Việt Nam - Lý luận
và thực tiễn” [41] đã đi vào phân tích những chính sách xuất khẩu nông sản của Việt
Nam từ năm 1989, thực trạng tác động của các chính sách đồng thời cũng đã đưa ra
những đánh giá chung về chính sách xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Qua đó, tác giả
đưa ra những quan điểm, giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những hạn chế trong chính
sách xuất khẩu nông sản hiện hành, trong đó có tính đến những cam kết gia nhập WTO.
TS Đặng Kim Sơn trong “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam - Hôm nay
và mai sau” [62] đã khẳng định, trong gần 30 năm đổi mới ở Việt Nam, nông nghiệp,
nông dân, nông thôn có vai trò rất quan trọng, đã đi trước mở đường trong quá trình
đổi mới, tạo điều kiện để đất nước vươn lên. Song đó cũng lại là đối tượng chậm phát
triển nhất trong nền kinh tế. Sản xuất nông nghiệp vẫn là sản xuất nhỏ, manh mún.
Thu nhập của người nông dân tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn khoảng cách khá
xa so với khu vực thành thị. Người nông dân không có nhiều cơ hội tiếp cận với các
thành tựu của sự phát triển, các dịch vụ xã hội. Hệ thống hạ tầng nông thôn còn lạc
hậu. Từ đó, tác giả kiến nghị những chính sách với nông dân, nông nghiệp, nông thôn
như hỗ trợ đất đai, vốn, khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng, đào tạo nhân lực chất
lượng cao, giúp nông dân quy hoạch sản xuất, nâng cao hiệu quả canh tác và có thể
phát triển kinh tế trang trại hoặc nông hộ lớn.
GS, TS Vũ Dũng trong cuốn“Cơ chế, chính sách hỗ trợ nông dân yếu thế trong
quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường” [22] đã chỉ ra các nhóm nông dân yếu
9
thế do hạn chế về năng lực sản xuất như thiếu vốn, thiếu đất, thiếu sức lao động, thiếu
kiến thức sản xuất… là những nhóm rất khó khăn trong việc thích ứng với cơ chế thị
trường hiện nay. Sự thích ứng này là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu
giúp họ phát triển sản xuất và tổ chức cuộc sống gia đình, giúp vượt qua những trở
ngại, khó khăn để hòa nhập và tồn tại một cách có hiệu quả. Các nhóm này rất cần
được sự giúp đỡ, quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua các cơ chế chính sách.
Cuốn sách cũng đã đề cập tới hiểu biết của nông dân về các chính sách của Đảng và
Nhà nước đối với nông dân, nông nghiệp và nông thôn; tác động của các chính sách
đến nông dân yếu thế; những khó khăn trở ngại của việc thực hiện các chính sách hỗ
trợ nông dân yếu thế. Từ đó đề ra các giải pháp xây dựng cơ chế, chính sách nhằm hỗ
trợ nông dân yếu thế trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở khu vực nông
thôn giai đoạn 2011-2020.
* Các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành và báo điện tử
Bài báo “Hỗ trợ nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” của GS, TS Hoàng Ngọc Hòa [38].
Bài báo đã nêu lên sự cần thiết khách quan và những căn cứ xuất phát của việc hỗ trợ
nông nghiệp, nông dân, nông thôn đồng thời đã đưa ra một số giải pháp thực hiện hỗ
trợ cho “tam nông” mang tính khả thi.
Bài báo “Nông dân và nông nghiệp Việt Nam nhìn từ sản xuất - thị trường” của
GS, TS Võ Tòng Xuân [90]. Sau 25 năm đổi mới nông nghiệp đã đạt được nhiều
thành tựu, song đời sống người nông dân - những người trực tiếp làm ra hạt thóc vẫn
còn nhiều điều trăn trở. Tác giả cũng đã chỉ ra nguyên nhân khó khăn, vướng mắc của
người nông dân sản xuất lúa hiện nay, làm thế nào để người trồng lúa có lãi, nâng cao
thu nhập, ổn định được cuộc sống, đồng thời đảm bảo an ninh lương thực. Từ đó, dưới
góc nhìn từ sản xuất - thị trường, tác giả bài báo đề xuất một số giải pháp để ngành
nông nghiệp phải đổi mới nhằm tăng trưởng nhanh và hiện đại hơn các nước trong
khu vực, người nông dân cũng cần đổi mới ra sao để tăng tính cạnh tranh.
Chu Thanh Vân trong “Tạo cơ chế thu hút các thành phần kinh tế đầu tư cho “tam
nông” phát triển bền vững” [85] cho rằng, để đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn, việc phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn phải được
triển khai đồng bộ trên phạm vi cả nước, từng ngành, từng vùng và từng địa phương;
10
Nhà nước hỗ trợ một phần và có cơ chế đẩy mạnh xã hội hóa, huy động nguồn lực xã
hội để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt đối với Chương
trình xây dựng nông thôn mới, cần xây dựng khung cơ chế, chính sách hỗ trợ để tạo
điều kiện thu hút các thành phần kinh tế, đa dạng hóa nguồn lực, huy động nội lực trong
dân tập trung xây dựng nông thôn mới.
GS, TS Nguyễn Đình Kháng, trong bài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế độ sở
hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam” [45] đã luận giải từ lý luận của chủ nghĩa Mác đến
thực tiễn cũng như khái quát lịch sử chế độ sở hữu đất đai ở Việt Nam để khẳng định
tính tất yếu của sở hữu toàn dân về đất đai. Điều quan trọng cần giải quyết là làm thế
nào trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, vẫn thực hiện được quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng đất cho các chủ thể liên quan - trong đó có người nông dân có lợi ích
một cách hài hòa.
1.2.2. Những công trình nghiên cứu về sự hỗ trợ của Nhà nước đối với nông
nghiệp, nông dân trong thực hiện cam kết gia nhập WTO
* Các sách chuyên khảo và tham khảo
Cuốn sách “WTO và ngành nông nghiệp Việt Nam” [5] trình bày tóm tắt những
quy định và luật định liên quan của WTO, gồm các nội dung của Hiệp định Nông
nghiệp, Hiệp định SPS và một số Hiệp định khác của WTO, nghiên cứu điển hình về
bảo hộ nông nghiệp của một số nước và cơ chế tranh chấp trong WTO. Ngoài những
nội dung đó, cuốn sách đánh giá chính sách nông nghiệp của Việt Nam và những hạn
chế đối với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế trên những nội dung: thuế đối với nông
sản, các biện pháp phi thuế, hỗ trợ trong nước, trợ cấp xuất khẩu…
Lê Bộ Lĩnh trong cuốn “Vòng đàm phán Doha nội dung, tiến triển và những vấn
đề đặt ra cho các nước đang phát triển” [46] đã phân tích 3 nội dung chính: bối cảnh
ra đời, mục tiêu của vòng đàm phán, nội dung và tiến triển của vòng Doha trong phạm
vi thời gian từ Hội nghị Doha đến kết thúc Hội nghị Giơnevơ. Trong đó, đề cập đến
những tiến triển trong đàm phán của hàng nông sản, những kết quả và vấn đề của Hội
nghị Bộ trưởng WTO ở Hồng Kông (12/2005). Đưa ra phán đoán và thách thức của
Vòng Doha và kiến nghị những điều chỉnh chính sách cần thiết để hội nhập thành
công đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
11
TS Nguyễn Từ trong cuốn sách “Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với
phát triển nông nghiệp Việt Nam” [82] đã trình bày khái quát về hội nhập kinh tế quốc
tế, các hiệp định thương mại khu vực và Hiệp định WTO về nông nghiệp; những ảnh
hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển nông nghiệp Việt Nam trong những
năm qua. Đồng thời đã có sự đánh giá tác động của gia nhập WTO đến nông nghiệp
Việt Nam sau hơn 1 năm Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức này. Từ đó, tác
giả đã đề ra những quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nông nghiệp Việt
Nam trong những năm tới.
GS, TS Hoàng Ngọc Hòa trong cuốn sách “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn
trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta” [39] đã làm rõ những căn cứ lý luận và thực
tiễn về CNH, HĐH đất nước phải bắt đầu từ sự phát triển của nông nghiệp, nông dân,
nông thôn. Do đó, phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa nông nghiệp với công nghiệp,
giữa công nhân với nông dân, giữa thành thị với nông thôn trong quá trình CNH,
HĐH đất nước. Tác giả đã chỉ ra trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà
nước ta đã giải quyết mối quan hệ đó như thế nào, đã đạt được những thành tựu như
thế nào và còn những hạn chế, yếu kém ra sao. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn
nước ta đang đứng trước những thời cơ, thuận lợi cũng như đang phải đối mặt với
những khó khăn, thách thức, nguy cơ do những hạn chế, yếu kém chủ quan và những
tác động khách quan về điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và những tác động tiêu cực của
CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, thực hiện các cam kết gia nhập
WTO nói riêng. Từ đó đã đề xuất một hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm giúp nông
nghiệp, nông dân, nông thôn phát huy những tiềm năng, lợi thế, vượt qua những khó
khăn, thách thức để phát triển bền vững trong quá trình CNH, HĐH và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế.
PGS, TS Vũ Văn Phúc và PGS, TS Trần Thị Minh Châu trong “Chính sách hỗ trợ
của Nhà nước đối với nông dân trong điều kiện hội nhập WTO” [57] đã đi vào phân
tích hệ thống các chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã được Nhà
nước ban hành kể từ khi đổi mới, đánh giá những tác dụng tích cực cũng như những
hạn chế của của các chính sách. Trên cơ sở đó, các tác giả đã đưa ra một hệ thống các
giải pháp đổi mới để giúp nông sân Việt Nam vững bước tiến vào thị trường thế giới.
12
PGS, TS Nguyễn Cúc - TS Hoàng Văn Hoan trong “Chính sách của Nhà nước đối
với nông dân trong điều kiện thực hiện các cam kết của WTO” [17] đã trình bày những
luận cứ khoa học về chính sách của Nhà nước đối với nông dân trong điều kiện thực hiện
cam kết của WTO. Các tác giả đã tập trung phân tích thực trạng chính sách của Nà nước
đối với nông dân Việt Nam từ đổi mới đến nay và đã có những đánh giá về các chính sách
hiện hành. Từ đó đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách của nhà nước đối với
nông dân trong điều kiện Việt Nam thực hiện các cam kết WTO giai đoạn 2007 - 2020.
TS Đoàn Xuân Thủy khi nghiên cứu “Chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp ở
Việt Nam hiện nay” [69] đã phân tích, đánh giá mức độ phù hợp của các chính sách hỗ
trợ sản xuất nông nghiệp ở nước ta thời gian qua so với yêu cầu của thông lệ quốc tế,
đặc biệt là các quy định của WTO, đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm tiếp tục
hoàn thiện các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp theo hướng vừa phù hợp với
các cam kết quốc tế, vừa thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp hiện đại, tạo cơ sở bền
vững cho giải quyết vấn đề nông dân, nông thôn trong thời gian tới, đặc biệt là đến
năm 2018 khi Việt Nam trở thành một quốc gia có nền kinh tế thị trường đầy đủ.
* Các báo cáo, đề tài khoa học, luận án tiến sĩ
Báo cáo “Đánh giá sự phù hợp của chính sách nông nghiệp Việt Nam với các qui
định trong hiệp định khu vực và đa phương” [4] tăng cường sự hiểu biết về các chính
sách nông nghiệp Việt Nam, từ đó xác định cụ thể những chính sách nào có thể tạo ra
mâu thuẫn với qui định trong các hiệp định thương mại khu vực và đa phương. Mục tiêu
tổng quát của báo cáo là đề xuất những sửa đổi về mặt chính sách, pháp luật phù hợp với
những nghĩa vụ mà Việt Nam sẽ phải thực hiện với các đối tác thương mại của mình và
đồng thời thúc đẩy sự phát triển bền vững cho ngành nông nghiệp của đất nước.
Báo cáo “Gia nhập WTO: Liệu Việt Nam có giành được điều kiện có lợi cho phát
triển?” [54] cho rằng, Việt Nam không những có thể sử dụng các hình thức và định
mức hỗ trợ sản xuất nông nghiệp theo quy tắc de minimis là các nước đang phát triển
được phép sử dụng tới 10% giá trị sản xuất cho trợ cấp (trừ phần thanh toán theo “hộp
xanh” theo định mức trần và những trợ cấp cho nông dân nghèo thu nhập thấp và thiếu
nguồn lực, không nằm trong cam kết cắt giảm), mà còn có thể sử dụng những hình
thức hỗ trợ nội địa khác có lợi cho nông dân thu nhập thấp và thiếu nguồn lực mà
không có tác động làm biến dạng thương mại.
13
Báo cáo của Oxfam“Vun trồng một tương lai no đủ” [55] đi sâu phân tích tình
hình an ninh lương thực của Việt Nam, những vấn đề thực trạng nóng bỏng và đưa ra
những đề xuất thay đổi chính sách nhằm cải thiện quyền, tiếng nói và lựa chọn cho
người nông dân sản xuất quy mô nhỏ tại Việt Nam. Báo cáo đã phác họa một cách đầy
đủ và sinh động cả thành công và khiếm khuyết trong công cuộc phát triển kinh tế - xã
hội ở Việt Nam. Vai trò của người nông dân cần phải được nhìn nhận hơn. Với gần 8
triệu nông hộ nhỏ - chiếm hơn 80% tổng số nông hộ trên cả nước - đang sở hữu không
đến nửa héc-ta đất, nông dân quy mô nhỏ và lĩnh vực nông nghiệp phải được coi là
thành phần quan trọng trong quá trình phát triển nông nghiệp của đất nước. Nếu Việt
Nam muốn giải quyết được ba thách thức bao gồm sản xuất bền vững, công bằng và
khả năng phục hồi thì đầu tư vào những mô hình sản xuất nhỏ bền vững chính là chìa
khóa thành công. Để vun trồng một tương lai no đủ, Oxfam đã đưa ra năm đề xuất
thay đổi chính sách: chấm dứt đói nghèo, suy dinh dưỡng và giải quyết căn bản các
nguyên nhân gây mất an ninh lương thực; chấm dứt mọi hình thức loại trừ, gạt bỏ;
tăng đầu tư của Nhà nước và tư nhân cho nông dân sản xuất quy mô nhỏ; đảm bảo
quyền về đất đai của nông dân quy mô nhỏ; hỗ trợ các sáng kiến, tổ nhóm hợp tác và
tiếng nói của người dân.
Đề tài “Gia nhập WTO và điều chỉnh chính sách trong ngành nông nghiệp Việt
Nam”, [21] đã phân tích một cách chi tiết các quy định của WTO về thuế quan và trợ
cấp trong ngành nông nghiệp cũng như một số vấn đề thương lượng đang đặt ra trong
vòng đàm phán Doha cũng như phân tích quá trình điều chỉnh chính sách nông nghiệp
của Việt Nam (chính sách thuế quan và trợ cấp) trong quá trình gia nhập WTO. Trên
cơ sở phân tích thực trạng, các yêu cầu và mục tiêu phát triển chính sách nông nghiệp
của Việt Nam, đề tài đã đưa ra một số phương hướng và một số khuyến nghị để hoàn
thiện chính sách nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng trong những năm tới đây.
- Đề tài “Chính sách đất đai ở Việt Nam sau khi gia nhập WTO”, [59] trên cơ sở
phân tích những thành công cũng như chỉ ra những hạn chế trong thực thi chính sách
đất đai ở Việt Nam, đã kiến nghị chính sách đất đai nên tiếp tục thay đổi theo hướng
sau: 1. Đổi mới chính sách đất đai phải phù hợp với thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế,
được thể hiện trên các mặt: lợi ích kinh tế của người dân, của doanh nghiệp và quản lý
14
hiệu quả của Nhà nước; 2. Đảm bảo tính nhất quán của quan điểm sở hữu toàn dân về
đất đai, đồng thời mở rộng quyền và nghĩa vụ của chủ thể sử dụng đất trên cơ sở hài
hòa lợi ích quốc gia với lợi ích của từng tổ chức, hộ gia đình và cá nhân; 3. Chính sách,
pháp luật về đất đai phải mang tính chiến lược thể hiện tầm vóc của một chính sách lớn;
4. Chính sách đất đai phải xuất phát từ quy luật hình thành và phân phối địa tô của đất
đai; 5. Quan hệ ruộng đất trong nông thôn nước ta hiện nay phải đảm bảo các yêu cầu:
nông dân yên tâm bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất và tạo điều kiện tập trung ruộng đất
và ruộng đất thực sự trở thành một yếu tố kinh tế quan trọng vận động theo xu hướng
kinh doanh sản xuất hàng hóa.
Đề tài “Nghiên cứu các giải pháp, chính sách bảo hộ sản xuất nông nghiệp trong
nước phù hợp với các cam kết quốc tế và quy định của WTO” [39] đã xác định cơ sở
khoa học của việc đề xuất các chính sách và giải pháp bảo hộ sản xuất trong nước trên
cơ sở tổng quan các chính sách và biện pháp bảo hộ sản xuất nông nghiệp một số
nước trên thế giới và rút ra bài học áp dụng cho Việt Nam. Các tác giả cũng đi vào
phân tích, đánh giá các chính sách bảo hộ sản xuất nông nghiệp trong nước thời gian
qua, những mặt làm được, chưa làm được và khả năng áp dụng các chính sách, biện
pháp bảo hộ sản xuất nông nghiệp ở nước ta phù hợp với các cam kết quốc tế và các
quy định của WTO. Từ đó, đã đề xuất các chính sách, biện pháp bảo hộ sản xuất nông
nghiệp trong nước phù với các cam kết quốc tế, quy định của WTO và đưa ra các giải
pháp thực hiện.
Luận án “Chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam
kết với Tổ chức thương mại thế giới” [43] đã xây dựng khung lý thuyết về chính sách
tiêu thụ nông sản trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO. Sự can thiệp của Nhà
nước nhằm thúc đẩy tiêu thụ nông sản trên thị trường nội địa cũng như xuất khẩu, đưa
nông sản thâm nhập vào thị trường toàn cầu, tăng khả năng cạnh tranh của nông sản,
của doanh nghiệp kinh doanh và tăng vị thế của đất nước. Luận án phân tích thực trạng
tiêu thụ nông sản và đánh giá chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trước và sau gia
nhập WTO, chỉ ra thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của hạn chế. Hầu hết các chính
sách Nhà nước đưa ra tác động đến thị trường nông sản là hợp lý và sát với những biến
15
động của thị trường, dựa trên bảo vệ lợi ích của đất nước, của các chủ thể kinh tế Việt
Nam nhưng cũng đảm bảo các cam kết với WTO, không vi phạm các quy định của tổ
chức này. Tuy nhiên, các chính sách còn chưa đồng bộ, chưa theo kịp với những biến
động của thị trường,... Từ đó, luận án phân tích những xu hướng mới của thị trường nông
sản thế giới để từ đó đưa ra một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện chính
sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO.
* Các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành và báo điện tử
TS. Phan Minh Ngọc trong bài báo “Gia nhập WTO tác động thế nào đến nông
dân?” [51] để giảm bớt khó khăn cho người nông dân thời kỳ hậu WTO, một số giải pháp
chính sách hỗ trợ khác mà Nhà nước có thể thực hiện là: cải thiện chất lượng giáo dục,
đào tạo nghề, chăm sóc y tế, sức khỏe cho dân cư nông thôn để giúp giảm được rủi ro đói
nghèo và giúp họ hòa nhập được vào lực lượng lao động công nghiệp (thành thị), nâng
cao năng suất lao động, kể cả khi họ ở lại với nông thôn; cải thiện cơ sở hạ tầng nông
thôn để tăng liên kết nông thôn - thành thị, thu hút đầu tư công nghiệp về nông thôn; tăng
cường công tác nghiên cứu ứng dụng nông nghiệp, khuyến nông, sản xuất và marketing
sản phẩm mới để tăng thu nhập cho hộ nông dân sản xuất nông nghiệp, đặc biệt từ các
hoạt động sản xuất hướng xuất khẩu; trợ cấp cho những hộ nghèo các phương tiện để
tham gia vào sản xuất, trong một thời gian ngắn. Những trợ cấp này được phép của WTO
với điều kiện không vượt quá 10% tổng trị giá sản phẩm làm ra; cải thiện công tác tài
chính nông thôn, cắt giảm thuế và các nghĩa vụ tài chính trả từ nông dân.
Nguyễn Huyền trong bài “Giúp nông dân hội nhập WTO” [44], cho rằng để giúp
nông dân sản xuất hàng nông sản đáp ứng thị trường xuất khẩu trong thời hội nhập,
cách tốt nhất là hỗ trợ cho nông dân thông tin thị trường cần thiết, đó là cách tốt nhất
giúp cho nông dân trong thời hội nhập. Hiện nay, nông dân rất thiếu thông tin thị
trường, không nắm được thông tin. Vậy họ cần sản xuất loại trái cây gì, nông sản gì,
bán ở đâu, nước nào và lúc nào, loại gì và bán với giá nào? Những nông dân lên mạng
truy cập thông tin làm kinh tế chỉ đếm được trên đầu ngón tay?
Nguyễn Thiện trong bài báo “Làm gì để bảo vệ nhà nông khi gia nhập WTO?”
[68], để giải quyết vấn đề ổn định chất lượng và số lượng hàng nông sản xuất khẩu và
16
thế mạnh của thương mại nông sản, Việt Nam cần giải quyết được những vấn đề gốc là
đất đai và di dân. Quá trình dồn điền đổi thửa tại Việt Nam đang là một chiều hướng tốt;
Tuy nhiên không phải là giải pháp duy nhất. Trong khuôn khổ những biện pháp xúc tiến
thương mại hợp pháp, các chuyên gia khuyến cáo Việt Nam nên tăng cường việc hỗ trợ
xúc tiến thương mại thông qua các hiệp hội hàng hoá.
Theo Đỗ Hồng Quân - tác giả bài báo “Đổi mới chính sách hỗ trợ nông dân sản
xuất nông nghiệp”, [58] sau 4 năm gia nhập WTO, Nhà nước đã có nhiều chính sách
hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, cả khoa học kỹ thuật và tài chính nhằm nâng cao đời
sống cho người nông dân,... nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn tăng giảm thất thường.
Tác giả đã đặt ra câu hỏi, phải chăng chính sách của chúng ta chưa đủ, hay còn nhiều
bất cập, chưa tạo động lực cho phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững, đồng thời đề
xuất một số giải pháp để các chính sách phát huy được hiệu quả.
Bài báo “Chính sách hỗ trợ tài chính phát triển “tam nông” ở Việt Nam: Thành
tựu và thách thức” [47] đề cập đến những thành tựu của chính sách tài chính đã được
thực hiện đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn; chỉ ra những thách thức, tồn tại
cũng như đề ra một số giải pháp tài chính hỗ trợ “tam nông” sau khi Việt Nam gia
nhập WTO.
Bài báo “5 năm gia nhập WTO: Nông nghiệp “nhận” được quá ít” [36] đã trích
dẫn nhận định của ông Lưu Đức Khải - Trưởng ban Chính sách Nông nghiệp thuộc
CIEM, ngành nông nghiệp vẫn nhận quá ít từ những chính sách do WTO đem lại,
thậm chí gặp nhiều khó khăn do sức ép cạnh tranh. Còn theo ông Trương Đình Tuyển
- nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, để tránh những “cú sốc” cho ngành nông nghiệp,
Việt Nam cần sớm đưa ra các biện pháp phòng ngừa khi phải cắt giảm thuế nhập khẩu
nông sản xuống thấp theo cam kết. Người nông dân phải được hỗ trợ để ngoài kiến
thức nông học còn phải biết hợp tác, liên kết sản xuất, phối hợp với các tổ chức kinh
doanh nông sản để cùng sản xuất - chế biến - tiêu thụ sản phẩm khép kín.
Bài “Nông nghiệp Việt Nam hội nhập: Người nông dân “đứng mũi chịu sào” [63]
cho thấy, trong cuộc chơi WTO, người nông dân Việt Nam đã giành được thắng lợi
bước đầu nhưng phải trả giá rất đắt: thu nhập không cao, môi trường suy thoái nghiêm
17
trọng, hàng loạt rủi ro xuất hiện… Để phát huy được “sức mạnh Việt Nam”, điều cốt
yếu là phải tập trung đầu tư đúng mức cho nông nghiệp nói chung.
Bài báo “Một chính sách nông nghiệp vì nông dân” [101] cho rằng, nguyên nhân
làm người nông dân bỏ ruộng đồng thì có nhiều nhưng có lẽ điều dễ thấy nhất là vì thu
nhập từ đồng đất không đủ nuôi sống bản thân họ. Đã đến lúc phải ngồi lại để xem xét
một cách nghiêm túc rằng chúng ta đã làm gì để người nông dân được thể hiện rõ vai
trò của mình trong hành trình đưa đất nước tiến lên CNH, HĐH. Thực tế này cho thấy,
không thể ứng xử với nông dân bằng suy nghĩ chủ quan của những người làm chính
sách. Một khi “chính sách nông nghiệp vì nông dân” được triển khai có hiệu quả sẽ
giúp nông dân nâng cao tri thức, kỹ năng để nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống
nông dân, giữ dân ở lại với đất.
Nguyễn Thái Nguyên trong bài viết “Chính sách và trách nhiệm với nông dân và
nông thôn” [52], đã đến lúc chúng ta phải đánh giá lại một cách thật khoa học và thực
tiễn những gì thuộc truyền thống của nền “văn minh lúa nước” phải phát huy và những
gì cần phải thay đổi một cách căn bản, triệt để nền nông nghiệp của chúng ta. Tác giả
cũng cho rằng việc Chính phủ giao cho Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) “điều
hành xuất khẩu gạo” thì có nghĩa Bộ Nông nghiệp và Chính phủ đã khẳng định cơ chế
độc quyền trong xuất khẩu gạo như thời chưa đổi mới. Không thể đặt trách nhiệm bảo
đảm an ninh lương thực cho cả quốc gia này lên cái vai gầy của người nông dân được.
Nếu biết vấn đề an ninh lương thực cho quốc gia là một vấn đề có tầm chiến lược thì
trách nhiệm và chính sách đối với người nông dân và nông thôn phải rất khác.
1.3. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ
VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Khái quát kết quả của các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan
đến hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân
Trên cơ sở tổng quan nội dung của các công trình nghiên cứu có liên quan đến
vấn đề hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân, bước đầu luận án rút ra một số kết
luận sau:
18
Thứ nhất, công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài có nhiều gợi mở tốt,
nhưng việc vận dụng nó không dễ dàng bởi đặc thù của Việt Nam, đặt ra trong tiến
trình phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam, đòi hỏi phải có thời
gian nghiên cứu thấu đáo và vận dụng phù hợp.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu trong nước nêu trên đã đề cập nhiều nội
dung liên quan đến quá trình đổi mới và phát triển của ngành nông nghiệp cũng như
những đóng góp của nông dân vào sự phát triển đó; chỉ ra thành công, hạn chế và
nguyên nhân cũng như những giải pháp phát triển trong thời gian tới. Các tác giả đã
tập trung đánh giá tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến nông nghiệp và nông dân,
đặc biệt nhấn mạnh sự yếu thế của người nông dân trong sân chơi toàn cầu, đòi hỏi phải
có sự hỗ trợ của Nhà nước để nông nghiệp, nông dân thực sự đứng vững được.
Thứ ba, những vấn đề liên quan đến hỗ trợ của Nhà nước cho nông dân trong điều
kiện thực hiện các cam kết gia nhập WTO đã được nhiều công trình nghiên cứu, giải
quyết ở nhiều phương diện và mức độ khác nhau. Những công trình nghiên cứu kể
trên, ở các góc nhìn khác nhau đã đánh giá toàn diện hay từng mặt, về cơ bản đã cung
cấp nhiều tư liệu quý cho việc nghiên cứu đề tài này. Tuy nhiên, nhiều tài liệu nghiên
cứu chủ yếu dừng lại ở thời điểm Việt Nam chưa gia nhập WTO hoặc trong hội nhập
quốc tế nói chung, do đó chưa gắn với việc thực hiện các cam kết của WTO cũng như
việc thực thi các hỗ trợ như thế nào khi các cam kết này được thực hiện đầy đủ.
Thứ tư, đã có một số công trình được khảo cứu đã đề cập đến các chính sách hỗ trợ
của Nhà nước đối với nông dân trong điều kiện thực hiện cam kết gia nhập WTO như
“Chính sách hỗ trợ của Nhà nước ta đối với nông dân trong điều kiện hội nhập WTO”
của các tác giả Vũ Văn Phúc - Trần Thị Minh Châu và “Chính sách của nhà nước đối
với nông dân trong điều kiện thực hiện các cam kết của WTO” của các tác giả Nguyễn
Cúc - Hoàng Văn Hoan. Các tác giả đã nghiên cứu tương đối đồng bộ các chính sách
của Nhà nước đối với nông dân. Tuy nhiên, cả hai công trình cũng chỉ mới nghiên cứu
các chính sách được ban hành từ khi đổi mới đến khi Việt Nam gia nhập WTO (1989 -
2007). Thời điểm xuất bản các công trình nói trên là khi Việt Nam mới tham gia WTO
được một thời gian ngắn, do đó chưa có thời gian để kiểm nghiệm những tác động cũng
như tính hợp lý của các chính sách hỗ trợ. Hơn nữa, các chính sách được ban hành sau
19
khi Việt Nam tham gia WTO hầu như chưa được nghiên cứu trong hai công trình trên.
Vấn đề này cần phải được tiếp tục nghiên cứu để có những đánh giá cụ thể hơn.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu
- Về mặt lý luận: Cho đến nay, hầu như chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu,
luận giải một cách sâu sắc, có tính hệ thống về cơ sở lý luận hỗ trợ của Nhà nước đối
với nông dân sau gia nhập WTO. Theo hướng này, luận án sẽ: (1) Xây dựng khái niệm,
nội dung, hình thức, nguyên tắc và các tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện hỗ trợ của
Nhà nước đối với nông dân sau gia nhập WTO; (2) Rút những bài học kinh nghiệm về
thực hiện hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân của một số quốc gia châu Á có thể vận
dụng vào điều kiện của Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn: thời gian qua đã có những hỗ trợ của Nhà nước đối với nông
dân đã không phát huy được tác dụng như mong đợi do đó cần phải có những hỗ trợ
mới phù hợp. Theo hướng này, luận án đã: (1) Phân tích, thực trạng hỗ trợ của Nhà
nước đối với nông dân từ khi Việt Nam gia nhập WTO đến nay, chỉ ra những ưu điểm
và hạn chế của những hỗ trợ đó; (2) Đề xuất mục tiêu, quan điểm và các giải pháp
thực hiện hỗ trợ đối với nông dân để vừa thực hiện các cam kết gia nhập WTO, vừa
bảo vệ được lợi ích của nông dân và đất nước, góp phần nâng cao vị thế của nông dân
trong xã hội.
20
Chương 2
CĂN CỨ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỖ TRỢ
CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NÔNG DÂN SAU GIA NHẬP
TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
NÔNG DÂN SAU GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
2.1.1. Khái niệm về hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân
Theo Đại từ điển Tiếng Việt do GS, TS Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản
Văn hóa - Thông tin xuất bản năm 1998 thì hỗ trợ có nghĩa là giúp đỡ nhau, giúp
thêm vào [91, tr.835]. Như vậy theo cách hiểu phổ biến hỗ trợ là mang hàm ý “trợ
giúp” bằng cách đem lại những điều kiện thuận lợi hơn cho đối tượng được trợ giúp
trong việc tiếp cận các cơ hội nhằm thay đổi hoàn cảnh hiện tại.
Trong WTO, trợ cấp được hiểu là “những lợi ích mà chính phủ đem lại cho một
đối tượng nhất định và có thể lượng hóa về mặt tài chính. Trong nông nghiệp, WTO
phân chia trợ cấp thành hai nhóm chính là hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu. Hỗ
trợ trong nước là những lợi ích được chính phủ dành cho một hoặc một số đối tượng mà
không trực tiếp gắn với hoạt động hay kết quả xuất khẩu của đối tượng đó. Trợ cấp xuất
khẩu có thể hiểu một cách đơn giản là những lợi ích gắn với hoạt động hoặc kết quả
xuất khẩu. Hỗ trợ trong nước gồm những biện pháp, chính sách được chính phủ sử dụng
để giúp duy trì giá nông sản mà người sản xuất trong nước nhận được ở mức cao hơn
mức giá thông thường phổ biến trên thị trường thế giới; các khoản chi trả trực tiếp cho
người sản xuất trong nước, kể cả các khoản chi trả để ngừng sản xuất nông nghiệp; và
các biện pháp giảm chi phí tiếp thị, chi phí đầu vào trong sản xuất nông nghiệp.
PGS, TS Nguyễn Cúc và PGS, TS Trần Thị Minh Châu trong các nghiên
cứu của mình đều thống nhất quan điểm: Chính sách hỗ trợ của Nhà nước
đối với nông dân là tổng thể các quan điểm, chủ trương, đường lối, phương
pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động vào lĩnh vực nông
nghiệp, nông dân, nông thôn nhằm thực hiện các mục tiêu mà Nhà nước
mong muốn ở nông dân [17, tr.60], [57, tr.34].
21
TS Đoàn Xuân Thủy cho rằng: “Chính sách hỗ trợ nông nghiệp được sử
dụng theo nghĩa là bộ phận chính sách kinh tế của Nhà nước, bao gồm
tổng thể những quan điểm chủ trương, hình thức, công cụ và biện pháp
mà Nhà nước sử dụng để tạo thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp trong
phạm vi quốc gia nhằm đảm bảo cho nông nghiệp phát triển ổn định, hiệu
quả trước sức ép cạnh tranh kinh tế quốc tế” [69, tr.21].
Có thể nói rằng, vấn đề “nông nghiệp, nông dân, nông thôn” có mối quan hệ chặt
chẽ và không tách rời nhau. Phát triển nông nghiệp là quá trình gia tăng giá trị và cải
biến cấu trúc ngành nông nghiệp theo hướng tiến bộ, góp phần thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, đóng góp quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển của các quốc gia.
Nông dân là lực lượng lao động chủ yếu trong ngành nông nghiệp và công nghiệp,
dịch vụ ở nông thôn; đồng thời là chủ thể của đời sống chính trị, kinh tế xã hội ở khu
vực nông thôn. Sự đòi hỏi đó là cơ sở khách quan hình thành nên chính sách đối với
nông dân. Chính sách phát triển nông nghiệp tác động đến người nông dân với tư cách
là quá trình cải biến tổ chức lao động sản xuất đối với người nông dân, góp phần nâng
cao năng suất lao động, hiện đại hóa nền sản xuất nông nghiệp và người nông dân
được hưởng thụ tương xứng với những thành quả do sự phát triển của ngành nông
nghiệp tạo ra. Do đó các chính sách cần tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để người
nông dân được hưởng thụ đầy đủ hơn giá trị gia tăng được tạo ra trong quá trình sản
xuất. Chính sách phát triển nông thôn bao hàm những biện pháp thúc đẩy phát triển
sản xuất nông nghiệp, đầu tư kết cấu hạ tầng, tổ chức sản xuất nông nghiệp và phi
nông nghiệp, đời sống chính trị xã hội khu vực nông thôn. Người nông dân được
hưởng thụ thành quả của quá trình phát triển nông thôn với tư cách sử dụng các hàng
hóa công cộng như kết cấu hạ tầng, dịch vụ xã hội cơ bản, an ninh, môi trường... Sự
hội tụ chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn đem lại lợi ích cho nông dân khi
người nông dân được coi là mục tiêu của chính sách, không thể có chính sách nông
nghiệp, phát triển nông thôn mà không hướng vào mục tiêu phát triển toàn diện đời
sống vật chất và tinh thần cho người nông dân, tạo năng lực nội sinh để người nông
dân là chủ thể của quá trình chính sách ấy. Nếu nói “con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển” thì thật dễ hiểu khi cho rằng “nông dân vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển nông nghiệp, nông thôn”. Nghị quyết Trung ương 7
22
khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã chỉ rõ “trong mối quan hệ mật thiết
giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát
triển” [33, tr.3]. Đó là triết lý cơ bản để xác định tầm nhìn dài hạn, xây dựng chiến
lược phát triển và hoạch định chính sách đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
Hỗ trợ Nhà nước đối với nông dân bao hàm trong nó chủ định của Nhà nước,
mục tiêu mà Nhà nước mong muốn đạt tới trong cải thiện thu nhập, chất lượng sống
và địa vị của giai cấp nông dân, xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, bối cảnh cụ thể
của nông nghiệp, nông thôn cũng như hệ quan điểm lý thuyết mà Nhà nước tin tưởng.
Hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân không chỉ để giảm thiểu tác động tiêu cực của
thị trường đến thu nhập và đời sống của nông dân mà còn tạo ra sự bình đẳng và công
bằng giữa nông dân và các tầng lớp dân cư khác trong hưởng thụ thành quả phát triển
kinh tế. Hỗ trợ nông dân là một trong những nghĩa vụ chính trị của Nhà nước nhằm
tạo sự ổn định về chính trị, xã hội và củng cố lòng tin của nông dân vào chế độ. Nhà
nước thực hiện các hoạt động hỗ trợ đối với nông dân là nhằm để quá trình sản xuất và tái
sản xuất nông nghiệp có thể diễn ra ổn định, từ đó vừa tạo việc làm, vừa không ngừng
nâng cao thu nhập cho nông dân với tư cách là chủ thể sản xuất và là lực lượng nòng cốt,
chủ công của sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Như vậy, có thể hiểu hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân trước hết phải là
trách nhiệm và nghĩa vụ của Nhà nước, và để thực hiện được điều đó Nhà nước sử
dụng các công cụ chính sách và các lực lượng vật chất nhằm tác động vào nông
nghiệp, nông dân, nông thôn thực hiện các mục tiêu góp phần tạo thuận lợi cho sản
xuất nông nghiệp phát triển ổn định, hiện đại, cải thiện thu nhập, chất lượng sống và
địa vị của giai cấp nông dân.
Trong điều kiện Việt Nam đã là thành viên của WTO, hỗ trợ của Nhà nước đối
với nông dân không được vi phạm các nguyên tắc cam kết. Do đó, hỗ trợ của Nhà
nước đối với nông dân sau gia nhập WTO là sự hỗ trợ của Nhà nước nhằm góp phần
nâng cao năng lực của nông dân để chủ động hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế
toàn cầu, theo luật pháp và thông lệ quốc tế.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, khi đề cập đến hỗ trợ của Nhà nước đối
với nông dân, tác giả tập trung vào một số điểm sau đây:
23
Thứ nhất, chủ thể của hoạt động hỗ trợ đối với nông dân được đề cập trong
nghiên cứu này là Nhà nước trung ương, mà cụ thể là Quốc hội, Chính phủ, các bộ,
không đề cập đến hỗ trợ cụ thể của các chính quyền địa phương. Còn chủ thể nhận hỗ
trợ là các cá nhân, tổ chức, hộ gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất trong
các ngành nông nghiệp và sử dụng đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu. Cũng cần lưu ý,
do Đảng ta có vai trò lãnh đạo Nhà nước thực hiện đường lối phát triển kinh tế - xã
hội, nên chính sách đối với nông dân của Nhà nước cũng chính là thể hiện quan điểm
và triển khai thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Do đó, khi trình bày thực
trạng hỗ trợ đối với nông dân ở Việt Nam, luận án sẽ đồng nhất hoạt động hỗ trợ của
Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, nông dân là nhóm xã hội có địa bàn sinh sống ở nông thôn và hoạt động
kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp nên tác động hỗ trợ của Nhà nước đối nông
dân phải được xem xét trên nhiều mặt, trong đó quan trọng nhất là xem xét hỗ trợ của
Nhà nước đối với nông dân thông qua hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn bởi vì
nông dân chính là đối tượng thụ hưởng các hỗ trợ đó. Hơn nữa, không thể hỗ trợ nông
dân bằng con đường cho không bởi không có ngân sách nào có thể bao cấp cho một số
lượng dân cư lớn như vậy. Vì thế, nông dân chỉ có thể cải thiện thu nhập của mình
thông qua phát triển một ngành nông nghiệp hiệu quả, năng suất lao động cao. Do đó
hỗ trợ xây dựng nền nông nghiệp hiện đại cũng chính là hỗ trợ nông dân.
Thứ ba, mỗi nhà nước có hệ quan điểm riêng và có xuất phát lịch sử riêng trong
đối xử với nông dân, đến lượt nó, hệ quan điểm này lại ảnh hưởng sâu sắc đến cách
thức, phương tiện và công cụ để thực thi chính sách đối với nông dân. Chẳng hạn, các
nhà nước tư bản phát triển hỗ trợ nông dân nhằm giữ chân họ làm việc trong nông
nghiệp, do đó hỗ trợ thu nhập được coi trọng. Còn ở các nước đang phát triển, nhà
nước không có khả năng hỗ trợ thu nhập thường xuyên cho nông dân nên thiên về hỗ
trợ sản xuất nông nghiệp và đầu vào.
2.1.2. Hình thức hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân sau gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới
Theo Hiệp định Nông nghiệp, hỗ trợ trong nước đối với nông nghiệp được chia
24
làm 03 nhóm với các cơ chế áp dụng khác nhau. Là thành viên WTO, Việt Nam sẽ phải
tuân thủ các cơ chế này. Về cơ bản các loại trợ cấp này đều được phép thực hiện, nhưng
theo các điều kiện và giới hạn cụ thể, thể hiện ở bảng 2.1.
Bảng 2.1. Các loại hình hỗ trợ nông nghiệp trong nước theo Hiệp định Nông
Tính chất
nghiệp của WTO
Loại hỗ trợ
Hộp xanh lá
cây
Cơ chế áp dụng
Được phép áp dụng không
bị hạn chế, nghĩa là hoàn
toàn được miễn trừ không
phải cam kết cắt giảm mức
hỗ trợ.
Hộp xanh lơ
Được miễn trừ không phải
cam kết cắt giảm mức hỗ trợ,
không bị giới hạn về mức hỗ
trợ tài chính.
Phải cam kết cắt giảm nếu
Lượng hỗ
tính gộp
trợ
(AMS) vượt quá một mức
nhất định gọi là mức hỗ trợ
cho phép (de minimis)1.
hổ
Hộp
phách
(hay
còn gọi hộp
vàng)
Chương trình
phát triển
Phải là các trợ cấp:
- Không gây bóp méo thương mại hoặc ít
gây bóp méo thương mại;
- Không phải là hình thức trợ giá cho người
sản xuất;
- Kinh phí hỗ trợ phải do ngân sách Chính
phủ chi trả thông qua các chương trình tài
trợ công, không được liên quan đến các
khoản thu từ người tiêu dùng.
- Các khoản chi trả trực tiếp từ ngân sách
nhà nước theo các chương trình
- Đây là hình thức trợ cấp mà hầu như chỉ
các nước phát triển đã áp dụng
- Là các biện pháp hỗ trợ trong nước gây
bóp méo thương mại
- Các dạng hỗ trợ thuộc Hộp hổ phách:
+ Hỗ trợ giá thị trường;
+ Các khoản chi trả trực tiếp từ ngân sách
không được miễn trừ cắt giảm;
+ Các biện pháp hỗ trợ cho sản phẩm cụ thể
hoặc không cho sản phẩm cụ thể khác mà
không thuộc cả Hộp xanh lá cây và Hộp
xanh da trời.
Đây là những đối xử đặc biệt và khác biệt
dành cho các nước đang phát triển
Được miễn trừ không phải
cam kết cắt giảm mức hỗ
trợ.
Đánh giá mức độ hỗ trợ trong nước của Việt Nam so với AoA giai đoạn cơ sở
1999 - 2001 cho thấy, các chính sách thuộc nhóm “hộp xanh” của Việt Nam chiếm
1 Tổng lượng hỗ trợ tính gộp (AMS) là cách tính mức tổng chi phí hàng năm mà Chính phủ dành cho các biện pháp hỗ trợ
nông nghiệp trong nước gây bóp méo thương mại thuộc Hộp hổ phách. Tổng AMS được chia thành hai loại là hỗ trợ cho sản
phẩm cụ thể (product – specific AMS) và hỗ trợ không cho sản phẩm cụ thể (non – product – specific AMS
84,5% tổng nhóm hỗ trợ trong nước, tập trung chủ yếu trong xây dựng kết cấu hạ tầng
25
nông nghiệp, dịch vụ khuyến nông, các chương trình hỗ trợ vùng, hỗ trợ khắc phục
thiên tai, dự trữ công vì mục đích đảm bảo an ninh lương thực. Các chính sách hỗ trợ
đào tạo, nghiên cứu khoa học, dịch vụ kiểm tra giám sát dịch bệnh và sâu bệnh, hỗ trợ
điều chỉnh cơ cấu còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số chi hỗ trợ trong nhóm “hộp
xanh”, 1 - 3%. Hỗ trợ theo dạng hộp Hổ phách khoảng 1% trong tổng hỗ trợ trong
nước. Như vậy là với mức hỗ trợ trong nông nghiệp thuộc biện pháp hộp Hổ phách
1% của Việt Nam là rất thấp so với mức mức cho phép thông thường cho các nước
đang phát triển là dưới 10%. Các chính sách hỗ trợ trong nhóm chương trình phát triển
Việt Nam đang áp dụng chiếm 10,7% tổng nhóm hỗ trợ trong nước. Bên cạnh đó, để
hỗ trợ nông dân sản xuất giảm thiểu các thiệt hại, Việt Nam được phép áp dụng các
chính sách chi trả trực tiếp cho người sản xuất thông qua việc hỗ trợ riêng cho thu
nhập, các chương trình bảo hiểm thu nhập và mạng lưới an sinh thu nhập. Chính phủ
cấp thêm thu nhập hoặc miễn thuế cho nông dân, chi trả cho các chương trình môi
trường để hỗ trợ sản xuất tại các vùng khó khăn.
Tuy nhiên, có những vấn đề nhất định có thể gây ra mối quan tâm cho các nước
thành viên WTO là:
- Các biện pháp hỗ trợ thuộc hộp Hổ phách dường như là rất đặc biệt, chúng
hầu như là không thể dự đoán trước được. Vì vậy, các nước thành viên WTO có thể
yêu cầu Việt Nam xây dựng một hệ thống giám sát những hỗ trợ thuộc Hộp Hổ phách
để đảm bảo tổng AMS sẽ không vượt quá mức cam kết của Việt Nam, cho dù mức độ
có thể là bao nhiêu. Hiện tại, vẫn chưa có hệ thống bảo đảm này để có thể hoạt động
như là một “van an toàn”;
- Các khoản hỗ trợ của Chính phủ cũng tập trung một lượng nhỏ vào hàng nông
sản, bao gồm gạo, đường, bông.
- Các nhóm mục tiêu cho các biện pháp hộp Hổ phách chủ yếu là các doanh
nghiệp nhà nước. Điều này cho thấy không có sự minh bạch lắm trong hoạt động của
hệ thống.
Trong điều kiện là thành viên WTO, để thực hiện hỗ trợ đối với nông dân mà
không vi phạm các quy định của WTO, Việt Nam phải duy trì và đẩy mạnh các biện
pháp hỗ trợ phù hợp với WTO. Đồng thời sử dụng các hỗ trợ cho phép của WTO dành
26
cho các nước đang phát triển cũng như khai thác các hỗ trợ phù hợp với quy định của
WTO mà Việt Nam chưa sử dụng. Chẳng hạn như:
- Nhà nước có thể chuyển số tiền hỗ trợ xuất khẩu trước đây sang để tăng
cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp nông thôn (hệ thống thủy lợi,
đê, kè, giao thông, điện, bưu chính, viễn thông, hệ thống chợ nông thôn...), nâng cao
chất lượng giống, phát triển công nghệ sau thu hoạch, xây dựng các hệ thống kho chứa
trữ đạt tiêu chuẩn cao và kho đệm để dự trữ lúa, phát triển những vùng chuyên canh
sản xuất nông nghiệp trên quy mô lớn....
- Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tiếp tục đầu tư cho công tác nghiên
cứu, lai tạo, tuyển chọn, nhập khẩu giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, chất
lượng tốt phù hợp với điều kiện của từng vùng sinh thái.
- Tăng cường hỗ trợ khuyến nông, đào tạo, xây dựng chính sách hỗ trợ nông
nghiệp, phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh.
- Tiếp tục ưu tiên đầu tư cho phát triển khoa học - công nghệ làm cơ sở đảm
bảo sản xuất nông nghiệp với năng suất - chất lượng - hiệu quảvà khả năng cạnh tranh
cao. Xây dựng hệ thống khoa học công nghệ nông nghiệp mạnh và đồng bộ đủ khả
năng tiếp thu và làm chủ khoa học công nghệ hiện đại nước ngoài, tạo ra ngày càng
nhiều các tiến bộ kỹ thuật có chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
- Tăng cường đầu tư nghiên cứu khoa học, đẩy mạnh các hoạt động khuyến
nông, hỗ trợ nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật canh tác và giống mới vào sản xuất
nhằm tăng sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu.
- Tăng mức cung cấp nguồn lực để cải tiến kỹ thuật cho cho giống cây trồng và
giống vật nuôi, các dự án cơ sở hạ tầng nông thôn, thông tin thị trường kịp thời.
- Hỗ trợ thông qua chương trình nghỉ dưỡng tài nguyên nhằm bảo vệ môi
trường, hỗ trợ việc sản xuất ở các vùng có điều kiện bất lợi, hỗ trợ các khoản thanh
toán trực tiếp cho người sản xuất.
- Hỗ trợ thông qua chương trình “chuyển mục đích sử dụng đất” để chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp, phát triển kinh tế vùng, giảm bớt việc sản xuất các mặt hàng
có lợi thế so sánh thấp, chẳng hạn như mía đường.
27
- Tăng cường hỗ trợ đầu vào thay cho hỗ trợ đầu ra để hỗ trợ trực tiếp cho
người sản xuất, loại bỏ được việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất nông sản - là biện
pháp hỗ trợ không phù hợp với quy định của WTO.
2.1.3. Nguyên tắc hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân Việt Nam sau gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới
Trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO, thực hiện các hoạt động hỗ trợ
đối với các chủ thể kinh tế, trong đó có nông dân cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
2.1.3.1. Hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân phải phù hợp với quy định và
lộ trình thực hiện các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam
Cam kết mà một quốc gia tham gia theo nguyên tắc song phương và đa phương
là giới hạn quốc tế cho các hành động của Nhà nước nói chung và trong hỗ trợ nông
dân nói riêng. Mặc dù, WTO không có cơ quan cưỡng chế thi hành phán quyết của
Hội đồng xử lý tranh chấp, nhưng áp lực trong WTO cũng như hành động trả đũa
thương mại buộc chính phủ các nước phải chú ý đến các vùng cấm trong quy định của
WTO. Hơn nữa, tuân thủ các quy định chung của WTO thì thương mại nông sản có
lợi cho nông dân hơn là không tuân thủ. Chính vì vậy, giờ đây hầu hết các chính phủ
đều cố gắng điều chỉnh các chính sách thương mại đối ngoại của mình theo các
nguyên tắc của WTO.
Trong cam kết đa phương, Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và
các quy định mang tính ràng buộc của WTO, nông dân Việt Nam phải đối diện ngay
với những quy định chặt chẽ của thế giới về an toàn thực phẩm, về chất lượng, về số
lượng sản phẩm quy mô lớn và phải đảm bảo chính xác về thời gian giao hàng, về trợ
giá cho nông dân, về mức thuế xuất nhập khẩu ... trong khi nông nghiệp nước ta chủ
yếu là sản xuất phân tán, quy mô nhỏ lẻ, biệt lập năng suất, chất lượng thấp, nhiều
thành viên của WTO có nền nông nghiệp sản xuất lớn phát triển ở trình độ cao. Để có
thể đứng vững trong cạnh tranh, ngoài việc tự bản thân nông dân phải nỗ lực vươn lên,
còn cần có vai trò hỗ trợ của Nhà nước với sự tác động đồng bộ, có hiệu quả từ trong
hoạch định chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển đến tạo môi trường pháp lý, cơ
chế, chính sách thúc đẩy và đầu tư phát triển. Tuy nhiên, hoạt động hỗ trợ này không
được trái với những quy định quốc tế mà Việt Nam đã cam kết thực hiện. Thí dụ, không
được áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập WTO. Tuy
28
nhiên ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước
đang phát triển trong lĩnh vực này, như đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt
giảm, riêng nước ta vẫn được phép hỗ trợ, nhưng chỉ duy trì ở mức không quá 10% giá
trị sản lượng. Chỉ các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát
triển nông nghiệp mới được WTO cho phép được áp dụng không hạn chế...
Cho nên, những hình thức hỗ trợ nông nghiệp, nông dân, nông thôn và phải phù
hợp với những quy định và cam kết gia nhập WTO của Việt Nam về nông nghiệp, vừa
sát hợp với thực trạng và yêu cầu bức xúc đang đặt ra nhằm thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp, nâng cao đời sống nông dân và kinh tế nông thôn phát triển bền vững trong
quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
2.1.3.2. Hỗ trợ nông dân phải phù hợp với thực tiễn, tạo lập được cơ sở cho nông
dân xóa đói, giảm nghèo và phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững
Trên thực tế còn nhiều chính sách do Nhà nước ban hành chưa phù hợp với điều
kiện thực tiễn do chưa khảo sát, thu thập ý kiến đầy đủ từ cơ sở nên tính khả thi của
chính sách chưa cao. Do vậy cần tăng cường tính thực tiễn trong việc hoạch định và
thực thi chính sách đối với nông dân, quy trình hoạch định chính sách cần được cải
tiến để “đưa cuộc sống vào chính sách”.
Nếu như các hiệp hội doanh nghiệp hiện nay có tiếng nói rất quan trọng trong
việc hoạch định chính sách thì người nông dân, tuy rằng chiếm một tỷ lệ lớn nhưng lại
hạn chế trong việc tham gia đóng góp ý kiến và đề xuất chính sách. Đây cũng là vấn
đề mấu chốt trong đổi mới chính sách của Nhà nước đối với nông dân. Nhằm giúp
nông dân thích nghi với chính sách mới, phải cung cấp cho họ đầy đủ thông tin về
chính sách mới. Các chính sách phải đáng tin cậy và người nông dân phải được quyền
đánh giá các cơ hội mới do những chính sách này tạo ra. Chính sách đối với nông dân
đúng thì không chỉ thúc đẩy phát triển khu vực nông nghiệp, nông thôn mà còn tạo
điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp và đô thị, cũng như toàn bộ nền kinh tế.
Chính sách đối với nông dân cần được cụ thể hóa theo đặc điểm từng vùng, đối với tỉnh
cần cụ thể hóa theo khu vực: đô thị hóa mạnh, phát triển làng nghề, công nghiệp nông
thôn; phát triển nông nghiệp với các vùng chuyên canh, nông nghiệp công nghệ cao,
nông nghiệp đô thị; những vùng sản xuất còn gặp nhiều khó khăn…
29
2.1.3.3.Hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân không phải bằng con đường
cho không mà nhằm góp phần nâng cao nội lực và vị thế làm chủ của nông dân
Ở Việt Nam hiện nay đa số các hộ nghèo tập trung ở khu vực nông thôn, nơi thu
nhập bình quân đầu người vào khoảng 4,2 triệu đồng/người/năm. Xóa đói giảm nghèo
bền vững là mục đích chính trong việc nâng cao đời sống của bộ phận dân cư nghèo.
Việt Nam đã được thế giới thừa nhận là đạt được “thành tích ngoạn mục” trong việc
xóa đói giảm nghèo theo đánh giá của Tổ chức Nông Lương thế giới. Thành tích ấy có
được là nhờ truyền thống thương yêu, đùm bọc, san sẻ với tình nghĩa đồng bào và
cũng là do hiệu quả của những chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên,
bộ phận dân cư nghèo ở nước ta vẫn rất đông, đáng chú ý là bộ phận tái nghèo cũng
rất lớn. Bên cạnh đó, những hộ cận nghèo cũng rất dễ trở thành hộ nghèo; khiến cho
công cuộc xóa đói giảm nghèo càng thêm khó khăn. Số liệu đăng tải trên
www.laodongxahoionline.vn ngày 11/4/2013 cho biết, trong 2 thập kỷ qua, tỷ lệ hộ
nghèo cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống dưới 10% (theo chuẩn nghèo quốc
gia). Tuy nhiên, tốc độ giảm nghèo lại không đồng đều, chưa bền vững. Nhiều nơi tỷ
lệ nghèo vẫn còn trên 50%, cá biệt còn trên 60-70%; khoảng cách chênh lệch giàu
nghèo tăng từ 9,2 lần (năm 2010) lên khoảng 9,4-9,5 lần (năm 2012).
Chính sách hỗ trợ cho người nghèo thoát nghèo chủ yếu là chính sách hỗ trợ trực
tiếp, người trong diện nghèo được hỗ trợ kinh phí học tập, bảo hiểm y tế, cho vay vốn
và nhiều lợi ích theo dạng “cho không” khác, đã làm cho không ít người dân “bị động
hưởng lợi”, không muốn thoát nghèo, thậm chí phản ứng dữ dội nếu bị ra khỏi diện
nghèo như nhận định được đưa ra tại phiên giải trình về phân bổ nguồn lực và cơ chế
điều hành thực hiện chính sách giảm nghèo của Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc
hội ngày 24/9/2013. Việc người nghèo có biểu hiện ỷ lại vào các chương trình, chính
sách hỗ trợ đã làm cho động lực tích cực bị triệt tiêu, do đó cần phải giảm những hỗ
trợ trực tiếp “cho không” các hộ nghèo, thay vào đó là hỗ trợ có điều kiện. Rõ ràng,
của cho đã quan trọng nhưng cách cho cũng quan trọng không kém. Việc hỗ trợ nông
dân chỉ mang lại hiệu quả khi bản thân người nông dân ý thức được vai trò, trách
nhiệm của mình và Nhà nước chỉ nên hỗ trợ khi cần thiết. Sự ỷ lại này không chỉ gây
lãng phí tiền của Nhà nước, mà còn tác động trực tiếp đến sự phát triển của chính
người nông dân. Như việc sản xuất không đúng quy trình, kỹ thuật, ngoài việc tốn hao
chi phí mua thuốc dập dịch, còn làm ảnh hưởng đến năng suất, nguy hại đến môi
30
trường. Hoặc nếu hộ nghèo không muốn thoát nghèo mà cứ trông chờ vào các chính
sách hỗ trợ của Nhà nước thì khó vươn lên để “đổi đời”. Và kéo theo đó là những hệ
quả mà các thế hệ sau của hộ nghèo phải gánh chịu…
Trong mọi chính sách hỗ trợ thì nguyên lý “cho cần câu chứ không cho con cá”
là đúng đắn và cần thiết. Hỗ trợ của Nhà nước là phải xuất phát từ nhu cầu thiết yếu
thực tế nhất của những người nghèo, phát huy nội lực của chính người nghèo, đem lại
cho họ cơ hội để tự họ thay đổi cuộc sống của chính mình.
2.1.4. Nội dung hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân sau gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới
2.1.4.1. Hỗ trợ xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển nông nghiệp, kinh
tế nông thôn phù hợp với xu hướng phát triển nhu cầu của thị trường và tiềm
năng, lợi thế của đất nước trên từng vùng, miền
Nông nghiệp và nông thôn chỉ phát triển mạnh mẽ, hiệu quả, bền vững và đời
sống nông dân chỉ được cải thiện, nâng cao khi sản phẩm của sản xuất nông nghiệp và
kinh tế nông thôn có thị trường tiêu thụ thuận lợi với giá cả hợp lý. Muốn vậy, quan
hệ giữa sản xuất và tiêu dùng những mặt hàng của lĩnh vực này phải luôn đảm bảo
được sự cân đối hài hòa, hướng tới sản lượng hiệu quả của sản xuất nông nghiệp và
kinh tế nông thôn nước ta. Để đạt được yêu cầu đó, Nhà nước phải là người tổ chức
việc nghiên cứu, phân tích, dự báo xu hướng phát triển nhu cầu của thị trường trong
và ngoài nước về sản phẩm nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Đồng thời tiến hành
đánh giá chuẩn xác tiềm năng, lợi thế của đất nước về các mặt của sản xuất nông
nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Trên cơ sở đó mà lập quy hoạch, kế hoạch định
hướng việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh tế
nông thôn một cách phù hợp. Mặt khác, phải luôn theo sát những động thái của thị
trường để điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch và cơ cấu kinh tế đảm bảo cân
đối quan hệ cung - cầu về sản phẩm nông nghiệp, kinh tế nông thôn sao cho vừa phát
huy tốt tiềm năng, lợi thế của đất nước trên mọi vùng, miền; vừa phù hợp với dung
lượng và yêu cầu của thị trường cả về số lượng, chất lượng, chủng loại các sản phẩm
hàng hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
31
2.1.4.2. Hỗ trợ xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp, nông thôn
Kết cấu hạ tầng là đường dẫn của sự phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện để
phân bổ lực lượng sản xuất, thúc đẩy lưu thông hàng hóa. Một hệ thống kết cấu hạ
tầng phát triển đồng bộ sẽ mở rộng không gian phát triển, kết nối các vùng kinh tế,
làm tăng tính hiệu quả nhờ quy mô. Trong khi quy mô kinh tế ngày càng tăng, quá
trình đô thị hoá ngày càng mạnh mẽ càng bộc lộ những bất cập trong kết cấu hạ tầng
nói chung, kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn nói riêng làm tăng chi phí, giảm
sức cạnh tranh và là một trong những điểm nghẽn tăng trưởng. Chính vì vậy, Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 xác định: Xây dựng kết cấu hạ tầng tương
đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ
tầng đô thị lớn là một khâu đột phá.
Để tạo thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp trong cơ chế kinh tế thị trường cần có
hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật phù hợp và đồng bộ như hệ thống thủy lợi, hệ thống
đường giao thông, hệ thống điện nông thôn… Bên cạnh đó, sản phẩm nông nghiệp
thường là những sản phẩm sinh học, dễ bị hư hỏng do tác động của môi trường, cho
nên cần có đủ những điều kiện vật chất cần thiết sau thu hoạch để bảo quản và chế
biến nông sản.
Tuy nhiên, nông dân là giai cấp yếu thế về kinh tế và chính trị trong xã hội, là bộ
phận dân cư sở hữu ít nhất nguồn của cải được tích lũy trong xã hội nên năng lực tài
chính của họ còn hạn chế. Bên cạnh đó, do đặc tính cư trú gắn liền với không gian sản
xuất nông nghiệp nên cư dân nông thôn thường sống phân tán, hoạt động sản xuất
nông nghiệp trải ra trong một không gian rộng. Vì thế, việc bản thân nông dân tự xây
dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn là không thể do chi phí xây dựng các
công trình này rất lớn, Nhà nước cần phải đứng ra gánh vác công việc này. Và kinh
nghiệm thực tiễn cũng đã cho thấy, nơi nào có kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, nơi đó
nông nghiệp phát triển thuận lợi và người nông dân có thu nhập tốt.
2.1.4.3. Hỗ trợ nông dân tiếp cận và sử dụng các nguồn lực đầu vào có hiệu quả
Đối với người làm nông nghiệp, đất đai là một trong những nguồn lực quý giá
nhất. Để đảm bảo tạo động lực cho sản xuất nông nghiệp, trước hết cần có chính sách
thừa nhận và khẳng định tư cách làm chủ của người sản xuất đối với những tư liệu sản
xuất chủ yếu, đặc biệt là đối với đất đai. Hộ nông dân được giao quyền sử dụng đất đai
32
lâu dài, ổn định với nhiều quyền rộng rãi hơn. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, thế
chấp quyền sử dụng đất của nông dân được thực hiện thuận lợi. Chính sách đất đai
phải từng bước thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá gắn với hội nhập kinh tế quốc tế. Chính sách đất đai phải làm cho nông dân
tích cực mở rộng quy mô sản xuất bằng nhiều cách như nhận khoán đất, thuê, đấu thầu
đất, tự khai hoang... Hơn nữa, họ còn yên tâm đầu tư cải tạo đất để nâng cao năng suất
cây trồng, đưa sản xuất nông nghiệp nước ta phát triển rất mạnh cả về sản lượng và
năng suất, sản xuất nhiều loại nông sản với khối lượng lớn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu mang lại giá trị kinh tế cao. Trong điều kiện đất đai đã được
giao cho người nông dân sử dụng ổn định, Nhà nước phải cung cấp dịch vụ quản lý
đất để đảm bảo an toàn cho người sử dụng đất nông nghiệp.
Cùng với đất đất, vốn là một trong những nguồn lực quan trọng đối với hoạt
động sản xuất nông nghiệp. Nhưng nông dân thường khó tiếp cận được với nguồn lực
này. Thị trường tín dụng khó phát triển ở nông thôn do việc cung cấp tín dụng cho
nông dân không hấp dẫn các tổ chức tín dụng vì mức độ rủi ro cao và chi phí lớn. Nếu
không có tín dụng, nông dân không thể tổ chức sản xuất có hiệu quả. Hỗ trợ tín dụng
cho nông dân nhằm đạt được 2 mục tiêu chính: chuyển vốn về cho vay trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn theo cơ chế cho vay thương mại với lãi suất phù hợp; khách
hàng dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng, thông qua việc đơn giản hoá
thủ tục, giảm bớt những điều kiện kém lợi thế cho khách hàng… và có chính sách hỗ
trợ nông dân khi gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng như thực hiện
bảo hiểm nông nghiệp, bù lãi suất hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ mua dự trữ nông sản...
Một nguồn lực khác cũng rất quan trọng đối với nền nông nghiệp hiện đại là
khoa học - công nghệ (KH-CN). Với đặc điểm sản xuất ở quy mô nhỏ và phân tán,
nông dân không thể tự mình tài trợ cho nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật.
Do đó chuyển giao ứng dụng KH-CN là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng
trong hoạt động hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân. Hỗ trợ KH-CN để phát triển
nền nông nghiệp bền vững, trong đó tập trung đáp ứng yêu cầu nâng cao năng suất,
chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, đồng thời tạo ra nhiều mặt hàng mới, quý hiếm,
trái vụ để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam. Nhà nước cũng
khuyến khích áp dụng những thành tựu mới về KH-CN vào một số lĩnh vực như
giống, chăm sóc bảo vệ cây trồng, vật nuôi (trong đó đặc biệt quan tâm phát triển các
33
loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật sinh học, các loại hình công nghệ phục vụ sản
xuất các sản phẩm nông nghiệp sạch), tưới tiêu và cơ giới hóa, bảo quản và chế biến
nông sản (nhất là chế biến nông sản sau thu hoạch, nâng cao giá trị và đa dạng hóa sản
phẩm, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế).
Ngoài ra, thị trường máy móc nông nghiệp, vật tư nông nghiệp cũng phải được
Nhà nước hỗ trợ về phương diện tổ chức, quản lý, tạo dựng cơ sở ban đầu để nông dân
không phải chịu thiệt thòi trong giao dịch với đối tác cung ứng.
2.1.4.4. Hỗ trợ nông dân trong việc tiêu thụ sản phẩm gắn với nâng cao năng
lực cạnh tranh trên thị trường
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tính chất hàng hoá của nông sản ngày
càng phát triển. Ngay cả khi sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính tự cung tự cấp,
để đảm bảo có tiền chi tiêu cho nhiều nhu cầu cấp thiết của mọi người trong gia đình,
người nông dân đã phải tìm cách tiêu thụ những sản phẩm do mình làm ra. Vì vậy tiêu
thụ nông sản sao cho tốt, không chỉ để đáp ứng đúng yêu cầu của nông dân, mà còn là
phương thức hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế nói chung. Việc tiêu thụ nông sản của
nông dân không còn đơn giản là chuyện bán mua nhỏ lẻ ngoài chợ, mà đã cần đến vai
trò của các doanh nghiệp kinh doanh thương mại, dịch vụ, hay có nhà máy mà nguyên
liệu đầu vào là nông sản. Dĩ nhiên, các doanh nghiệp loại này cũng luôn cần được
nông dân bán nông sản cho để có hàng mà kinh doanh, có nguyên liệu chế biến, sản
xuất hàng hoá công nghiệp. Thực tế vài ba chục năm nay, theo sự đổi mới của nền
kinh tế đất nước, đã xuất hiện nhiều doanh nghiệp mà hoạt động sản xuất, kinh doanh
liên quan và cần thiết gắn bó với việc tiêu thụ nông sản của nông dân. Vấn đề chỉ còn
là ở chỗ làm sao cho quan hệ bán, mua nông sản giữa nông dân và doanh nghiệp ngày
càng tốt hơn. Chính vì thế, Nhà nước cần phải đóng vai trò cầu nối để tạo lập được
mối liên kết bền vững giữa nông dân với doanh nghiệp trong tiêu thụ nông sản.
Nhà nước định hướng mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, duy trì phát triển
quan hệ với thị trường truyền thống, đồng thời mở rộng các thị trường mới; tìm thị
trường tiêu thụ lớn, ổn định, lâu dài cho những mặt hàng quan trọng như gạo, cao su,
chè, cà phê, rau quả; thực hiện các biện pháp mở rộng thị trường xuất khẩu; có chính
sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các đơn vị sản xuất thuộc các thành
phần kinh tế đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu nông sản.
34
2.1.4.5. Hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho nông dân
Trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay đòi hỏi những
người làm việc trong ngành nông nghiệp phải đó đầy đủ tri thức, sự hiểu biết về hội
nhập, luật pháp, khoa học kỹ thuật và tổ chức quản lý. Người nông dân trong nền nông
nghiệp hiện đại cần phải có trình độ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, kỹ năng canh
tác tiên tiến. Do đó, cần phải không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông
qua các chính sách đào tạo nghề cho nông dân nhằm bồi dưỡng kiến thức về khoa học
kỹ thuật để sản xuất nông nghiệp có năng suất cao, chất lượng tốt, giá thành hạ, đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phù hợp với yêu cầu của thị trường và đạt hiệu quả cao.
Bên cạnh đó, trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, xu hướng giải phóng lao
động nông nghiệp là tất yếu, từ đó cần có chính sách đào tạo nghề mới, nhất là cho
thanh niên nông thôn nhằm tạo quá trình chuyển đổi hoạt động sang các nghề phi
nông nghiệp, trong đó có dạy nghề, ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp phục vụ cho nhu cầu
xuất khẩu lao động. Để phát triển hệ thống đào tạo nghề cần có những hỗ trợ và ưu đãi
đặc biệt đảm bảo lợi ích cho các cơ sở đào tạo nghề, đồng thời hỗ trợ bằng nhiều hình
thức đa dạng như cấp học bổng, cho vay vốn đối với thanh niên nông thôn học nghề.
2.1.5. Những tiêu chí đánh giá kết quả hỗ trợ của Nhà nước đối với nông
dân sau gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
Đánh giá kết quả hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân là một nỗ lực để xác
định lợi ích về mặt kinh tế - xã hội của hỗ trợ đó. Đó là quá trình tìm hiểu sự hỗ trợ
của Nhà nước đối với nông dân đã đạt được mức độ cao hay thấp trong hoạt động
không chỉ dựa trên lợi ích của hỗ trợ đó mang lại mà còn đòi hỏi đầu ra của hỗ trợ đó
thực sự là kết quả của những hành động được thực thi để giải quyết vấn đề hỗ trợ của
Nhà nước đối với nông dân.
Đánh giá kết quả hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân sẽ góp phần cung cấp
những thông tin có hiệu lực và tin cậy về hoạt động của các hỗ trợ, về những nhu cầu,
giá trị và cơ hội đã được hiện thực hóa trong và sau khi thực hiện chính sách hỗ trợ
nông dân. Việc đánh giá đó cũng đóng góp vào sự lựa chọn và phê phán những giá trị
đạt được và chưa đạt được của các đối tượng chịu sự tác động của các hỗ trợ.
Đánh giá kết quả hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân sau gia nhập WTO có
thể dựa trên những tiêu chí sau:
35
- Tính phù hợp: Hỗ trợ của Nhà nước có phù hợp với điều kiện nguồn lực hiện có?
Có phù hợp các cam kết với các tổ chức tham gia? Hướng đến đối tượng nào?
- Tính hiệu lực: Hỗ trợ của Nhà nước có hiệu lực trong thực tế không?
- Tính hiệu quả: Mỗi hoạt động hỗ trợ cần phải được đo lường, cân đối giữa tỷ lệ
lợi ích/chi phí là bao nhiêu? Có tương xứng với nguồn lực cho việc thực hiện hỗ trợ
- Tính công bằng: Những lợi ích và chi phí khi thực hiện hỗ trợ có được phân
phối công bằng cho các đối tượng thụ hưởng?
- Tính đồng bộ: Các hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân đó mâu thuẫn nhau
không, có mâu thuẫn với các chính sách trong nền kinh tế nói chung không?
Tóm lại, đánh giá kết quả hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân sau gia nhập
WTO là công việc quan trọng, cần thiết để thấy được hỗ trợ đó đã đạt được mục đích,
mục tiêu đề ra hay chưa, nó có phục vụ cho đối tượng mà nó hướng tới, có nâng cao
được vị thế của nông dân và quốc gia trên thị trường nông sản thế giới hay không.
Điều này đòi hỏi sự hỗ trợ của Nhà nước phải sát với thực tế, trong quá trình thực hiện
cần có giám sát và điều chỉnh cho phù hợp với tính hình thị trường và đặc biệt trong
điều kiện Việt Nam đã là thành viên của WTO.
2.2. CĂN CỨ ĐỂ NHÀ NƯỚC THỰC HIỆN HỖ TRỢ ĐỐI VỚI NÔNG DÂN
SAU GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Trong bài viết “Gia nhập WTO: Cơ hội, thách thức và hành động của chúng ta”,
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu khái quát những cơ hội và thách thức đối với
Việt Nam sau gia nhập WTO. So với công nghiệp, dịch vụ và cư dân thành thị thì
“tam nông” có những đặc điểm riêng và nhất là trình độ phát triển thấp hơn, do đó
những khó khăn, thách thức có phần đậm nét hơn.
2.2.1. Những khó khăn và thách thức của việc gia nhập Tổ chức Thương
mại thế giới đến nông nghiệp, nông dân
2.2.1.1. Cạnh tranh trong nông nghiệp ngày càng gay gắt hơn
Cạnh tranh được coi là thử thách đầu tiên của nông nghiệp Việt Nam khi gia
nhập WTO. Gia nhập WTO, động thái đầu tiên ảnh hưởng đến nông nghiệp nước ta
đó là tất cả những công cụ bảo hộ trước đây dần bị dỡ bỏ theo lộ trình thực hiện cam
kết. Trước hết là thuế nhập khẩu, tiếp theo là trợ cấp cho nông nghiệp bị cắt giảm dần,
36
đó là chưa kể một số hình thức trợ cấp còn bị cấm. Cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn
không chỉ là hệ quả tất yếu của một nền nông nghiệp còn non kém khi gia nhập WTO mà
còn là một khó khăn, thử thách vô cùng lớn đối với ngành nông nghiệp. Các nước thành
viên không những phải mở cửa thị trường trong nước cho hàng hoá mà còn mở cửa cho
thương gia, vốn và lao động nước ngoài, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ. Chính vì thế,
nông dân không những phải cạnh tranh về đầu ra trên thị trường nội địa mà còn phải cạnh
tranh với doanh nghiệp và lao động nước ngoài. Nếu Nhà nước không hỗ trợ để nông
dân mau chóng trưởng thành, có được kỹ năng lao động cần thiết thì nông dân sẽ mất
cơ hội đầu tư và việc làm ngay trong ngành nông nghiệp và ở chính quê hương mình.
2.2.1.2. Gia tăng sự phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới
Trong một nền kinh tế thị trường theo cơ cấu kinh tế mở thì việc các chủ thể
chịu sự ràng buộc lẫn nhau là điều tất yếu. Do các quốc gia mở rộng tối đa các quan
hệ kinh tế đối ngoại nên nền kinh tế các nước có sự liên hệ ràng buộc lẫn nhau cũng là
điều dễ hiểu.
Việt Nam gia nhập WTO, tức là chấp nhận tham gia vào một sân chơi của nhiều
quốc gia, với những luật chơi đã giao ước do đó phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới là
tất yếu. Để thích ứng với môi trường mới, Việt Nam đã phải điều chỉnh các hoạt động
kinh tế của mình sao cho phù hợp. Càng ngày kinh tế Việt Nam càng chịu nhiều sự
ràng buộc hơn. Sự ràng buộc càng lớn thì kinh tế nước ta càng bị phụ thuộc nhiều hơn
và tính tự chủ của nền kinh tế càng giảm. Chính vì vậy mà kinh tế nước ta thường hay
bị động trước những diễn biến phức tạp của thị trường thế giới.
Biểu hiện phụ thuộc của nông nghiệp Việt Nam vào thị trường thế giới chủ yếu
ở thị trường các yếu tố sản xuất (thị trường đầu vào) và thị trường tiêu thụ nông sản
(thị trường đầu ra). Sự biến động bất lợi của hai loại thị trường này thường xuyên gây
ra khó khăn cho sản xuất nông nghiệp. Giá của các yếu tố đầu vào tăng lên sẽ đẩy chi
phí sản xuất lên cao, sản xuất không thu được lãi, thậm chí lỗ, buộc người nông dân
phải thu hẹp quy mô sản xuất, thậm chí chuyển sang lĩnh vực sản xuất khác.
Cũng tương tự, sự bấp bênh về lượng cầu và giá cả làm cho người sản xuất
không yên tâm với đầu ra của nông sản. Trình độ của công nghiệp chế biến nước ta
còn thấp nên nông sản khó bảo quản hoặc chế biến thành các sản phẩm khác. Giá cả
37
thấp, nông dân còn bị thương gia ép giá nhưng vẫn phải chấp nhận bán nông sản với
giá thấp, thậm chí lỗ.
Có thể nói sự phụ thuộc của nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế thế giới và các
nước thành viên của WTO không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người nông
dân mà còn là một trong những khó khăn, thử thách của ngành nông nghiệp trong bối
cảnh hội nhập.
2.2.1.3. Những khó khăn, thách thức do các quy định về thương mại nông sản
của WTO
Thương mại nông sản trong WTO không những được thực hành trong điều kiện
các nước đi trước có quyền duy trì các mức thuế và hạn ngạch thuế quan cao, mà Hiệp
định nông nghiệp còn cho phép các chính phủ duy trì hệ thống trợ cấp và hỗ trợ nhiều
mặt cho nông sản và nông dân, nhất là ở các nước phát triển, nhằm bảo hộ cho ngành
nông nghiệp ở nước họ. Chính vì thế, thương mại nông sản hiện là lĩnh vực thương
mại bất bình đẳng nhất, đặc biệt là bất bình đẳng giữa các nước giàu và nước nghèo.
Những quy định về tiêu chuẩn nông sản, nhất là tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và
phòng dịch trong thực hành thương mại nông sản với các nước phát triển rất phức tạp.
Trong khi đó, cả Nhà nước và nông dân nước ta hầu như chưa biết, chưa quen và chưa
quan tâm đến việc đề ra và thực thi các tiêu chuẩn nông sản quốc tế. Tình hình đó dẫn
đến hai bất lợi: một là, nông sản của nước ta khó xâm nhập các thị trường phát triển do
chưa có uy tín, chưa được công nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế; hai là, nông sản kém chất
lượng của các nước có điều kiện xâm nhập thị trường nội địa nước ta làm ảnh hưởng đến
sức khoẻ của dân cư và cạnh tranh không lành mạnh với nông sản trong nước.
Để giúp nông dân đứng chân được trên thị trường thế giới, Nhà nước cần chủ động
đề hệ thống các biện pháp tổng thể, một mặt, hỗ trợ nông dân để họ hiểu, quan tâm và có
năng lực đáp ứng các tiêu chuẩn hàng hoá quốc tế nhằm tăng năng lực cạnh tranh của
nông sản xuất khẩu; mặt khác, thiết lập hệ thống tiêu chuẩn chất lượng quốc gia, tăng
cường năng lực quản lý chất lượng hàng hoá ở thị trường trong nước, hạn chế sức cạnh
tranh của hàng hoá nhập khẩu kém chất lượng.
2.2.2. Những hạn chế do sự yếu kém của nông nghiệp và nông dân Việt Nam
Đi lên từ xuất phát điểm thấp, bị chiến tranh tàn phá nặng nề và duy trì quá lâu
cơ chế tập trung bao cấp đã kéo lùi sự phát triển của Việt Nam nói chung, của nông
38
nghiệp Việt Nam nói riêng. Từ khi Đổi mới, diện mạo nông nghiệp, nông thôn, nông
dân có sự thay đổi lớn. Tuy nhiên, khi gia nhập vào sân chơi chung của WTO thì nông
nghiệp Việt Nam vẫn tụt hậu xa so với thế giới. Sự cách biệt đó được thể hiện ở
những mặt hạn chế sau:
2.2.2.1. Nguồn lực sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn suy giảm và đã đến
lúc tới hạn, chi phí sản xuất cao
Điều này thể hiện ở chính sự tới hạn của một nguồn lực sản xuất hết sức quan
trọng của sản xuất nông nghiệp là đất đai (diện tích giảm và chất lượng đất kém) cộng
với nguồn nước cung cấp cho nông nghiệp không ổn định do hiện tượng biến đổi khí
hậu nên đất nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Cửu Long – vùng có khả năng phát
triển về nông nghiệp (cây ăn trái và vựa lúa lớn của cả nước) sẽ giảm rất nhanh.
Bên cạnh đó, chi phí đầu vào của nông nghiệp ngày càng cao so với giá đầu ra
khiến giá trị thu nhập của nông dân ngày càng giảm sút. Giai đoạn 2000 – 2006, nếu
giá đầu ra của nông nghiệp tăng 4,2% thì giá đầu vào tăng 10%. Điều này có nghĩa
nông dân phải đổi nhiều nông sản hơn để có được một đơn vị đầu vào dùng cho nông
nghiệp. Trên thực tế, các giống cây, con mới nhập vào nước ta có giá rất cao, người
nông dân không thể tùy tiện nhân giống vì vấn đề bản quyền đang là những trở ngại
lớn cho ngành nông nghiệp. Giá cả các yếu tố đầu vào khác cho sản xuất nông nghiệp
cũng ngày càng không ngừng tăng lên khiến cho giá thành sản xuất nông nghiệp của
Việt Nam bị đẩy lên, hiệu quả sản xuất thấp đi, tính cạnh tranh của sản phẩm càng trở
nên bấp bênh khiến thu nhập từ sản phẩm nông nghiệp có thể tăng về giá trị tuyệt đối
song thực tế thu nhập lại giảm đi.
2.2.2.2. Trình độ KH - CN trong sản xuất và công nghiệp, dịch vụ liên quan
đến sản xuất nông nghiệp hàng hóa còn chậm phát triển dẫn đến hàm lượng chất
xám của nông sản còn thấp
Nhìn chung, trình độ KH - CN trong nông nghiệp nước ta còn thấp. Phần lớn các
tiến bộ kỹ thuật áp dụng trong sản xuất (giống cây, giống con, mẫu máy móc…) có
nguồn gốc nhập khẩu từ nước ngoài. Hoạt động nghiên cứu chưa được xã hội hóa
rộng rãi, các mảng nghiên cứu chính sách, thị trường, môi trường, nông thôn, nông
dân chưa được chú ý đáng kể. Nghiên cứu ứng dụng cho các vùng sinh thái (nhất là
ven biển miền Trung, miền núi) và nghiên cứu cơ bản chưa được đầu tư thích đáng.
39
Công nghệ sinh học (ngoài một số giống mới), công nghệ thông tin chưa được áp
dụng rộng rãi để đóng góp đáng kể cho sự phát triển nông nghiệp. Hoạt động nghiên
cứu chưa gắn với thực tiễn chưa nhiều.
Nông sản Việt Nam trong nền kinh tế tự nhiên chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu
của chính người bản thân người sản xuất và được tạo ra chủ yếu nhờ vào sức lao động
thủ công của người nông dân. Năng suất, chất lượng kém lại rất bấp bênh. Ngày nay,
mặc dù đã có những thành tựu khoa học kỹ thuật được áp dụng trong sản xuất nông
nghiệp nhưng nhìn chung còn chưa nhiều, chưa hiệu quả và thiếu tính đồng bộ. Người
nông dân sản xuất nông nghiệp vẫn còn dựa nhiều trên kinh nghiệm nên năng suất
thấp, chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm không đảm bảo, hàm lượng chất xám
trong nông sản còn thấp. Hàm lượng chất xám thấp là sự phản ánh một năng suất thấp,
chất lượng kém, trình độ khoa học kỹ thuật và trình độ lao động lạc hậu. Một điều dễ
nhận thấy nhất là nông nghiệp Việt Nam phải chấp nhận bán các loại nông sản thế
mạnh của mình với giá rẻ dưới dạng thô như: cà phê, cao su, lúa gạo,…
Điều này gây khó khăn rất lớn cho quá trình hội nhập trong lĩnh vực nông nghiệp,
làm giảm năng lực cạnh tranh của nông sản cũng như uy tín, thương hiệu hàng hoá của
nước ta trên thị trường thế giới. Hàm lượng chất xám trong nông sản là một chỉ tiêu
tổng hợp và muốn tăng hàm lượng này so với các nước thành viên phát triển không phải
là một việc đơn giản. Nó đòi hỏi đến một hệ thống giải pháp tổng thể, đồng bộ và chắc
chắn chúng ta không thể làm được điều này trong một sớm, một chiều.
Công nghiệp chế biến có vai trò rất quan trọng đối với ngành nông nghiệp
nhưng vẫn còn ở trong tình trạng kém phát triển, vẫn chưa phát huy hết tiềm năng của
ngành và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành cũng như chưa góp phần
cải thiện, nâng cao đời sống của nông dân. Công nghệ còn lạc hậu do đó công suất
hoạt động của ngành thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu chế biến nông sản, chất lượng
sản phẩm chưa cao; phân tán, thiếu tập trung nên gây khó khăn rất lớn cho việc thu
mua nông sản và hình thành các khu công nghiệp chế biến. Sự phát triển của ngành
công nghiệp chế biến ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị nông sản và đời sống của nông
dân. Có tình trạng nông dân bị tư thương ép giá là do phần lớn nông sản sản xuất ra
không được chế biến, không bảo quản được. Những sản phẩm mang tính mùa vụ như:
vải, nhãn, cá tra, cá basa, thậm chí cả lúa, cà phê đều bị ép giá vào mùa thu hoạch,
40
nhất là khi được mùa làm cho người nông dân rơi vào cảnh “được mùa ngoài đồng,
mất mùa trong nhà”. Nhiều nông dân đã phải chặt phá những loại cây trồng mà họ đã
mất rất nhiều công sức, tiền bạc và sự kì vọng vào nó.
Công nghiệp sản xuất, cung ứng các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp như
cơ khí, hóa chất, các loại hình dịch vụ nhất là dịch vụ vận tải, thương mại phát triển còn
chậm và chưa đồng bộ. Công nghiệp chế tạo máy nông cụ vừa chưa cung cấp đầy đủ
máy móc cho thị trường nông thôn, vừa không cạnh tranh được cả về tính năng lẫn giá
cả với máy nông nghiệp nhập ngoại. Do đó, các hỗ trợ tín dụng mua máy nông nghiệp
do Việt Nam sản xuất rất khó phát huy được hiệu quả.
2.2.2.3. Sản xuất vẫn còn mang tính manh mún, tự phát
Ở cả nước, nhất là các tỉnh miền Bắc không còn lạ gì với hình ảnh mỗi hộ gia
đình canh tác trên nhiều mảnh ruộng, với độ lớn nhỏ của các mảnh là khác nhau. Tại
đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), 90 - 95% số hộ nông dân có diện tích 0,2 - 0,3ha, bình
quân mỗi hộ có từ 8 – 12 thửa ruộng với diện tích trung bình 200-400m2/thửa. Hộ có
diện tích dưới 0,5 ha vẫn chiếm trên 70% tổng số hộ. Đa số nông hộ tại ĐBSH có diện
tích canh tác trung bình dưới 600m/người [62, tr.49-50]. Trên những thửa ruộng như
vậy, khó có thể áp dụng hiệu quả thành tựu khoa học vào sản xuất cũng như đầu tư để
hình thành các khu vực chuyên canh sản xuất tập trung được. Đây là khó khăn rất lớn
cản trở quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Hiện nay, chỉ có các vùng chuyên canh lúa, cao su, cà phê và chè là tương đối ổn
định, trong khi đó các vùng chuyên canh khác mới đang trong quá trình hình thành, ít
về số lượng, nhỏ về quy mô và chưa ổn định. Các vùng cây ăn quả, chăn nuôi gia súc,
gia cầm chủ yếu phát triển dựa trên cơ sở các vùng truyền thống, thiếu sự tác động
tích cực của KH - CN, trình độ cơ giới hoá thấp và luôn gặp khó khăn về thị trường.
Trong khi đó, công tác quy hoạch phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung
lại rất yếu kém. Hàng loạt các quy hoạch sai về sản xuất mía đường, cà phê, nuôi cá
lồng bè,… đã gây ra những hậu quả tiêu cực không nhỏ.
Bên cạnh tính thiếu tập trung, sản xuất nông nghiệp cũng phải đối mặt với cách
làm tự phát của nông dân. Việc giao khoán ruộng đất cho người nông dân, tuy làm cho
họ tự chủ cao hơn trong sản xuất, song cũng là nguyên nhân nảy sinh tình trạng tự phát.
41
Người dân tự ý trồng loại cây mà bằng suy nghĩ cảm tính họ nghĩ rằng sẽ hứa hẹn lợi
ích lớn. Điều này nhìn về lâu dài và tổng thể thì đây chính là sự yếu kém trong ngành.
Khi thiếu sự quy hoạch thì hậu quả sẽ rất khó lường, đặc biệt là vấn đề năng suất, chất
lượng và tiêu thụ sản phẩm và những ảnh hưởng về lâu dài đến môi trường sinh thái.
Người nông dân rơi vào trạng thái mạnh ai người ấy làm, điều này dẫn đến nguy cơ sụt
giảm năng suất, chất lượng sản phẩm và khó tiêu thụ hàng hóa. Với tư duy quen thuộc
của người nông dân là chỉ quan tâm tới cái mình có chứ ít quan tâm tới cái mà thị
trường cần, nên sản xuất rất khó để đáp ứng nhu cầu thị trường, tình trạng hàng hoá ế
thừa cũng là dễ hiểu.
2.2.2.4. Trình độ chuyên môn cũng như ý thức của nông dân trong hội nhập
WTO còn thấp
Các hoạt động sản xuất của người nông dân nước ta cho đến nay chủ yếu vẫn
dựa trên nền tảng kinh nghiệm cha truyền con nối từ đời này sang đời khác. Người
nông dân rất ít được đào tạo về mặt chuyên môn, nghiệp vụ. Theo kết quả điều tra lao
động, việc làm năm 2011, tỷ lệ lao động nông thôn được đào tạo chuyên môn nghiệp
vụ mới hơn 9%. Nhiều nông dân không coi trọng học hỏi kỹ năng sản xuất kinh
doanh, ngại đọc sách. Trình độ thấp kém của lao động dẫn đến rất nhiều vấn đề. Vấn đề
khó khăn nhất đó là việc tiếp cận với KH - CN, nhất là công nghệ hiện đại. Với tư duy
của một xã hội tiểu nông đã làm cho người nông dân khó thích ứng với một nền nông
nghiệp hàng hoá lớn, hiện đại trong xu thế hội nhập hiện nay. Đó là chưa kể đến trình
độ tin học và ngoại ngữ và những hiểu biết về pháp luật của lao động trong khu vực
kinh tế này.
Nông dân chưa hiểu rõ các quy tắc thương mại trong WTO và còn thiếu nhiều
kỹ năng cơ bản. Người nông dân và các chủ trang trại, các chủ doanh nghiệp nông dân
hiện hiểu biết rất ít về những quy định, quy tắc, các chế tài pháp lý trong môi trường
cạnh tranh toàn cầu, còn thiếu thông tin về thị trường, về quyền sở hữu trí tuệ, về
nguồn gốc xuất xứ sản phẩm, về thương hiệu, nhãn mác sản phẩm... nhất là, thiếu
thông tin kịp thời về sự bảo trợ nông nghiệp của các đối thủ cạnh tranh ở châu Âu,
Nhật Bản và Mỹ... Hiện nay, do trình độ học vấn, trình độ chuyên môn và khoa học -
kỹ thuật còn rất thấp, do năng lực tư duy kinh tế, tư duy pháp lý và năng lực pháp
quyền còn nhiều hạn chế, do thất nghiệp, mất đất, bệnh tật, thiếu kinh nghiệm làm ăn,
do còn chịu ảnh hưởng nhiều của tập quán sản xuất nông nghiệp lạc hậu, những thói
42
quen tùy tiện, đại khái của phần lớn nông dân, nên nông dân vẫn là đối tượng khó tiếp
cận được với những cơ hội để hội nhập có hiệu quả, thậm chí họ còn trở thành đối
tượng dễ bị tổn thương, chịu nhiều thiệt thòi nhất khi nước ta tham gia toàn cầu hoá.
2.2.2.5. Năng lực tài chính của nông dân Việt Nam còn yếu kém
Mặc dù sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn
tượng về xóa đói, giảm nghèo, đời sống kinh tế của người nông dân dần được cải
thiện. Nhưng hiện nay đang có xu hướng chững lại. Theo kết quả điều tra mới nhất về
nông hộ tại 12 tỉnh đại diện cho các vùng, miền trên cả nước vừa được Viện Chính
sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn (IPSARD) công bố tháng
6/2013, tiết kiệm của hộ gia đình nông dân mỗi năm chỉ được từ 5 - 8 triệu đồng/hộ,
thậm chí còn không có tiền để tích lũy, vì thế mà nhiều người rất nghèo. Phần lớn tiết
kiệm của họ (khoảng 80%) được giữ dưới dạng vàng hoặc tiền mặt và sử dụng cho
mục đích dự phòng khi có rủi ro về thiên tai, dịch bệnh, ốm đau, tuổi già, rất ít tiết
kiệm được giữ cho mục đích đầu tư (chỉ chiếm 15%) [87].
Địa bàn nông thôn, tuy đã có những bước đổi thay đáng kể, nhưng nhìn chung
vẫn còn rất nghèo nàn, lạc hậu và chậm phát triển không chỉ về đời sống vật chất, mà
còn cả về đời sống văn hoá, tinh thần. Đặc biệt là kinh tế nông thôn đang và sẽ phải
đối mặt với tình trạng các cơ sở sản xuất còn phổ biến là thủ công lạc hậu, năng suất
thấp, sức cạnh tranh kém, quy mô vốn nhỏ, cung cách quản lý lạc hậu, yếu kém, nhất
là những rào cản về tiêu chuẩn chất lượng quốc tế với tình trạng thiếu thương hiệu,
xúc tiến thương mại chậm, mẫu mã sản phẩm nghèo nàn, đơn điệu, với tình trạng
ruộng đất manh mún, phân tán đã gây ra nhiều khó khăn trong việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn… Hơn thế, do kết cấu hạ tầng nông thôn còn rất
yếu kém, nên rất khó mời gọi đầu tư của các đối tác để phát triển kinh tế nông thôn
theo hướng hiện đại, tiên tiến.
Ngoài ra, bản thân kinh doanh nông nghiệp chứa đựng nhiều rủi ro hơn các lĩnh
vực khác do giá cả biến động không lợi cho người sản xuất, do phụ thuộc vào điều
kiện tự nhiên, do trải ra trên diện rộng nên khó bảo vệ, khó thu hồi vốn… Chính vì
thế, các tổ chức tài chính, ngân hàng không thu được nhiều lợi ích khi cho nông dân
và doanh nghiệp nông nghiệp vay vốn. Nông thôn cũng thường ở xa các trung tâm
thương mại và đô thị nên vận chuyển và phân phối thường chiếm phần đáng kể trong
43
chuỗi giá trị của ngành mà người nông dân riêng lẻ khó lòng tham gia một cách hiệu
quả. Với rất nhiều khó khăn như vậy, nông nghiệp trở nên lĩnh vực kém hấp dẫn lao
động có kỹ năng. Đến lượt mình, sự thiếu vắng lao động có kỹ năng cao làm cho năng
suất và thu nhập của nông dân càng thấp hơn các lĩnh vực khác trong nền kinh tế.
Do thu nhập thấp và ít tích luỹ, thiếu điều kiện thu hút lao động có kỹ năng nên
nông nghiệp và nông dân không thể tự mình nghiên cứu, ứng dụng thành tựu KH-CN,
kỹ thuật vào sản xuất. Trong khi đó, nền nông nghiệp hiện đại đòi hỏi hàm lượng chất
xám trong sản phẩm ngày càng cao, đòi hỏi thâm canh và liên tục cải tiến kỹ thuật
không chỉ để có năng suất cao mà còn để tiết kiệm tài nguyên và bảo tồn môi trường
sinh thái.
2.2.3. Vai trò và trách nhiệm của Đảng và Nhà nước trong hỗ trợ nông dân
Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy
định: 1) Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2) Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, Đảng và Bác Hồ kính yêu luôn luôn đánh giá
vị trí to lớn của giai cấp nông dân và đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trí
chiến lược quan trọng, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế - xã hội bền
vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái. Theo Hồ Chí Minh, “nền tảng của vấn
đề dân tộc là vấn đề nông dân… Nền tảng của cách mạng dân chủ cũng là vấn đề
nông dân… Muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ nhân dân thật thà thực
hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân [48,
tr.15 – 16]. Cho nên, giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ
sống còn của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, phải “xây dựng xã hội nông thôn ổn
định, hòa thuận, dân chủ, có đời sống văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo
động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống
nông dân” [33, tr.3].
44
Trong điều kiện đất nước vẫn còn nhiều khó khăn như hiện nay, Đảng và Nhà
nước không thể gác việc hỗ trợ nông dân để sau khi hoàn thành CNH, HĐH mới làm.
Quan điểm tạo điều kiện thực hiện công bằng, tiến bộ trong từng bước tăng trưởng,
phát triển kinh tế, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, thực hiện xóa đói
giảm nghèo ngay trong giai đoạn đầu CNH, HĐH chính là thể hiện quyết tâm và trách
nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với nông dân. Bên cạnh đó, bối cảnh quốc tế diễn
biến hết sức phức tạp, các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng sự thua thiệt, nghèo
đói của nông dân, sự bất bình đẳng trong thụ hưởng và đóng góp của nông dân để thực
hiện “diễn biến hòa bình” nhằm kích động gây rối, chống phá Đảng và Nhà nước. Cho
nên, chăm lo, quan tâm hỗ trợ nông dân không chỉ là chính sách kinh tế thông thường
mà còn mang bản chất chính trị, xã hội sâu sắc.
Bản chất của chế độ XHCN là giải phóng người lao động khỏi mọi áp bức
chính trị, xã hội của xã hội có bóc lột bằng cách tôn vinh giá trị lao động, đưa lao
động và người lao động trở lại địa vị là trung tâm tạo ra của cải cho xã hội loài người
như vốn có ban đầu. Nhưng để thực hiện được điều đó, phải xây dựng quan hệ sản
xuất mới, tiến bộ, qua đó mới cho phép phát triển không ngừng lực lượng sản xuất
hiện đại. Người nông dân Việt Nam không thể mãi mãi đi sau cái cày và con trâu như
trước đây, nông nghiệp phải được hỗ trợ để dần hiện đại hóa, nông dân phải trở thành
người lao động hiện đại, sử dụng máy móc và công cụ sản xuất hiện đại trong quá
trình lao động của mình.
Trong điều kiện của nước ta hiện nay, cấu trúc xã hội của các quá trình kinh tế
là kinh tế thị trường, do đó, quá trình hiện đại hoá nông nghiệp và hiện đại hoá người
nông dân vẫn phải dựa trên quan hệ sản xuất hàng hoá, trong đó hộ nông dân là đơn vị
kinh tế tự chủ. Trong điều kiện đó, hàng hoá, động lực phát triển nông nghiệp nói
chung, kinh tế hộ nông dân nói riêng phụ thuộc rất lớn vào các quyết định của bản
thân nông hộ. Nhưng hộ phải có quy mô hợp lý có năng lực nội sinh và chủ quyền để
quyết định của mình về giá cả, nhu cầu thị trường và chi phí sản xuất sao cho có lợi
nhất. Chính sách của Nhà nước không còn hiệu lực ép buộc đối với nông dân như thời
bao cấp mà trở thành một trong những căn cứ để nông hộ quyết định sản xuất, chính
sách hỗ trợ của Nhà nước chỉ có hiệu lực đối với nông dân nếu đem lại lợi ích cho họ.
45
Tuy nhiên, nông dân thường coi trọng lợi ích ngắn hạn, chính sách của Nhà nước phải
hướng người nông dân đến các mục tiêu dài hạn, trong đó quan trọng nhất là xây dựng
nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả. Hơn nữa, chính sách Nhà nước phải phù hợp với
kinh tế thị trường và sử dụng các công cụ thị trường để tác động đến nông dân.
Mặt khác, thị trường nông sản thường biến động khó lường, nhất là trong điều
kiện giới đầu cơ và các tổ chức phân phối của các nước phát triển có khả năng lũng
đoạn thị trường thế giới như hiện nay thì người nông dân, mặc dù có quyền tự do
quyết định sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất với chi phí như thế nào và bán
cho ai, nhưng lại hoàn toàn phụ thuộc thụ động vào biến động của thị trường. Có thể
nói, nông dân Việt Nam hiện nay còn đi sau biến động thị trường nên gánh chịu thua
thiệt và được chia xẻ lợi ích ít ỏi. Đã không ít lần nông dân Việt Nam thiệt thòi khi
được mùa rớt giá, hoặc bán ồ ạt khi giá thấp, lúc giá cao lại hết hàng… Để hỗ trợ nông
dân trong việc thích nghi với thị trường, Nhà nước cần hỗ trợ nông dân thông tin dự
báo về thị trường, hỗ trợ nông dân tích cực tham gia chuỗi giá trị từ cung ứng đầu tư
vào, sản xuất đến chế biến và phân phối đầu ra. Ngoài ra, cần đào tạo hỗ trợ để nông
dân trưởng thành về tổ chức xã hội, làm chủ các tổ chức ngành nghề của họ nhằm tăng
sức mạnh đàm phán trên thị trường.
Song song các hỗ trợ mang tính chủ động như trên, nông dân còn cần Nhà nước
trong những lúc khó khăn do khủng hoảng buộc phải tái cơ cấu ngành nghề. Các hỗ
trợ này rất đa dạng như đào tạo để nông dân, một số có thể tiến hành sản xuất trong
ngành nông nghiệp theo các phương thức hiện đại, một số khác chuyển sang làm việc
ở các ngành khác để tìm kiếm thêm thu nhập cho dân cư nông thôn; như hỗ trợ thu
nhập khi thiên tai, khi buộc phải chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng; như cung cấp
dịch vụ kiểm dịch, khuyến nông…
Ngoài ra, trong quá trình phân phối lại qua ngân sách nhà nước (NSNN), nông
dân phải được coi trọng là đối tượng ưu tiên của các chính sách an sinh xã hội, phát
triển văn hoá và giáo dục cộng đồng, chính sách sức khỏe, môi trường… để tạo điều
kiện cho con em nông dân có điểm xuất phát công bằng như con em các tầng lớp dân
cư khác…
46
Như vậy, hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân không chỉ để giảm thiểu tác
động tiêu cực của thị trường đến thu nhập và đời sống của nông dân mà còn tạo ra sự
bình đẳng và công bằng giữa nông dân và các tầng lớp dân cư khác trong hưởng thụ
thành quả phát triển kinh tế. Hỗ trợ nông dân không những là một trong những nghĩa
vụ chính trị của Nhà nước nhằm tạo sự ổn định về chính trị, xã hội và củng cố lòng tin
của nông dân vào chế độ xã hội chủ nghĩa, mà còn là điều kiện, tiền đề và bản chất
của Nhà nước ta.
2.3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
NÔNG DÂN VÀ BÀI HỌC CÓ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM
2.2.1- Kinh nghiệm của Trung Quốc về hỗ trợ nông dân trong thực thi các
cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
Tháng 12/2001, Trung Quốc gia nhập WTO và đã đạt được những thành tựu
phát triển to lớn, vượt qua nhiều khó khăn, quản ngại. Nguyên nhân cơ bản ở đây là
do Trung Quốc đã kịp thời điều chỉnh và thực thi nhiều biện pháp chính sách, trong đó
có các chính sách đối với nông dân. Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định rằng,
hiện nay và trong một thời gian dài nữa, nông nghiệp Trung Quốc vẫn giữ vị trí hàng
đầu trong chiến lược phát triển kinh tế; hiện đại hóa nông nghiệp là một bộ phận trọng
yếu trong tiến trình CNH, HĐH của Trung Quốc và phải thực hiện các biện pháp hỗ
trợ nông dân.
Thứ nhất, hỗ trợ nông dân tăng thu nhập
Trung Quốc coi việc tăng thu nhập cho nông dân là nhiệm vụ chính trị lớn. Nhằm
đạt được điều đó, nước này đã ban hành một loạt chính sách chủ yếu là tăng vốn đầu tư
và hỗ trợ cho tam nông, giảm gánh nặng đóng góp của nông dân, tạo công ăn việc làm và
hỗ trợ áp dụng kỹ thuật vào nông nghiệp. Có thể nói rằng, đây là biểu hiện cao nhất của
phương châm “cho nhiều, lấy ít” với hai nội dung cơ bản: tăng đầu tư và hỗ trợ, hướng tới
nền nông nghiệp hiệu quả cao; bãi bỏ thuế nông nghiệp, giảm mạnh các lệ phí khác, trợ
giá trực tiếp cho các sản phẩm nông nghiệp.
Nếu xét từ góc độ lợi nhuận thuần túy, tuy tỷ suất sinh lời trong đầu tư vào tam
nông không cao, nhưng nếu xét tổng thể về hiệu quả kinh tế - xã hội thì hiệu quả đầu
tư lại không hề thấp. Trên nhận thức đó, Trung Quốc ngày càng tăng cường đầu tư cho
47
tam nông. Nếu năm 2005, Nhà nước đã chi 297,5 tỷ NDT, thì năm 2006 là 339,7 tỷ
NDT và năm 2007 là 391,7 tỷ NDT [81]. Hỗ trợ từ vốn nhà nước cũng lớn và tăng
liên tục. Hệ thống hỗ trợ nông nghiệp, nông dân của Trung Quốc là hệ thống hỗ trợ
trực tiếp, với mức hỗ trợ trực tiếp cho sản xuất lương thực lên đến 50% của quỹ rủi ro
lương thực. Ngoài ra, Nhà nước còn hỗ trợ cho việc mua hạt giống chất lượng cao và
máy nông nghiệp.
Trung Quốc còn chú trọng giảm gánh nặng của người dân nông thôn bằng cách
giảm và xóa thuế trong nông nghiệp. Nhiều loại phí ngoài thuế và các loại thuế trong
nông nghiệp đã được miễn, giảm. Đặc biệt, từ năm 2006, Trung Quốc đã quyết định
xóa bỏ hoàn toàn thuế nông nghiệp, thuế đặc sản và miễn thuế chăn nuôi. Nhờ có
những chính sách mới này, mỗi năm nông dân Trung Quốc đã giảm được các khoản
đóng góp tương đương hơn 133,5 tỷ Nhân dân tệ để cho họ có điều kiện cải thiện cuộc
sống [1, tr.28]. Ngoài ra, năm 2005, Trung Quốc còn chi thêm 14 tỷ Nhân dân tệ trợ
cấp cho nông dân, nâng tổng số tiền trợ cấp giai đoạn 2002 - 2005 lên 66,4 tỷ Nhân
dân tệ (khoảng 8 tỷ USD theo tỷ giá thời điểm đó). Năm 2006, nông dân Trung Quốc
giảm chi hơn 100 tỷ NDT, trung bình khoảng 100 NDT/người. Con số này tuy không
lớn nhưng theo đánh giá của nhiều chuyên gia nó đã giải quyết được một trong số
những bất bình đẳng dễ thấy nhất trong xã hội Trung Quốc. Việc bãi bỏ thuế đã diễn
ra sớm hơn 4 năm so với lịch trình và lập tức tác động tích cực đến thu nhập của nông
dân, làm tăng sức cạnh tranh cho nông sản Trung Quốc. Nhờ cải cách thuế và các
khoản trợ cấp sản xuất lúa gạo, thu nhập của nông dân Trung Quốc tăng 6% - mức
tăng cao nhất kể từ năm 1997. Cũng nhờ có thêm vốn dôi dư, người nông dân có thể
tái đầu tư, mở rộng sản xuất và có thêm khả năng tạo việc làm mới [1, tr.29].
Thứ hai, hỗ trợ nông dân gia tăng sản lượng nông nghiệp
Để thúc đẩy phát triển sản xuất, Trung Quốc thực hiện đầu tư tài chính trực tiếp
để tăng sản lượng nông nghiệp. Chính phủ Trung Quốc chi ngân sách quốc gia để hỗ
trợ trực tiếp cho nông dân về giống cây trồng, vật nuôi, lương thực, mua sắm thiết bị,
máy móc nông nghiệp và các chi phí đầu vào khác.
Trung Quốc tiến hành đầu tư tài chính cho nông thôn để phát triển sản xuất
nông nghiệp tổng thể trên quy mô lớn. Nguồn vốn chính được tập trung để xây dựng
các công trình thuỷ lợi, hạ tầng giao thông nông thôn….
48
Nguồn lực tài chính cũng được tập trung để đầu tư phát triển KH - CN trong
lĩnh vực nông nghiệp. Một mặt, Nhà nước hỗ trợ nông dân tiền vốn để mua sắm các
máy móc nông nghiệp lớn, phục vụ hiện đại hoá sản xuất. Mặt khác, nguồn ngân sách
được dùng để đầu tư, khuyến khích sự sáng tạo của nông dân trong phát minh và cải
tiến các loại máy móc. Đầu tư tài chính cho KH - CN để thúc đẩy phát triển sản xuất
nông nghiệp là một chính sách lớn của Trung Quốc nhằm đẩy nhanh quá trình phát
triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại.
Để thực hiện tốt chính sách hỗ trợ tài chính cho nông nghiệp, nông thôn, Trung
Quốc cũng đã xây dựng một mạng lưới tín dụng nông thôn với nhiều loại hình, nhiều
tổ chức cùng tham gia. Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc được xem là nòng cốt
phát triển tín dụng ở nông thôn, liên tục tăng cường mức độ hỗ trợ cho nông thôn.
Ngân hàng cho nông dân vay với nhiều mục đích khác nhau, trong đó quan trọng nhất
là cho vay xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn và cho doanh nghiệp vay để đầu tư vào
lĩnh vực nông nghiệp. Năm 2007, hệ thống bưu điện mở rộng hoạt động sang lĩnh vực
tín dụng, thực hiện các hoạt động cho vay vốn, thay vì chỉ thực hiện nhận tiền gửi tiết
kiệm như trước. Thông qua kênh phân phối vốn này, Nhà nước đã hỗ trợ hết sức tích
cực và hiệu quả cho khu vực nông thôn, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa. Ngoài ra, ở
nông thôn Trung Quốc cũng đã hình thành các hợp tác xã tín dụng thực hiện kinh
doanh vốn.
Thứ ba, hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp
Hỗ trợ giải phóng nguồn lực: Trung Quốc là một nước có tốc độ đô thị hóa tăng
nhanh đến chóng mặt, vào thời điểm gia nhập WTO tỷ lệ đô thị hóa của Trung Quốc là
37,7%, đến năm 2007 tăng lên 44,9%. Đô thị hóa cũng kéo theo vấn đề trợ cấp giải
phóng hai nguồn lực là đất đai canh tác và lao động trong nông nghiệp. Phía Nhà nước
đã tiến hành điều chỉnh chính sách theo định hướng: hạn chế và thắt chặt việc biến đất
nông nghiệp thành phi nông nghiệp nhằm đảm bảo ổn định xã hội và sản xuất; ấn định
đúng cơ chế giá đền bù tránh tình trạng nông dân chỉ được hưởng 10 - 20% tổng lợi
nhuận do mảnh đất mang lại; và giải quyết việc làm và trợ cấp hợp lí cho nông dân bị
mất đất rơi vào tình trạng thất nghiệp thông qua việc trích NSNN và các khoản bảo
hiểm xã hội; mặt khác, từ năm 2004, các Bộ ngành chức năng chung tay tiến hành công
49
trình “Ánh sáng mặt trời” chuyển dịch sức lao động nông thôn, đẩy mạnh quá trình
nông dân mất tư liệu sản xuất đi “kiếm lương”.
Hỗ trợ nhằm hợp tác hóa sâu hơn khu vực nông nghiệp: Có hai mô hình chính:
1) Mô hình các Hiệp hội nông dân chuyên nghiệp (FPA) là một điển hình, hình thành
và phát triển nhằm cung cấp cho các nông dân thành viên những hỗ trợ về kĩ thuật
công nghệ cũng như các thông tin cần thiết cho xuất nông nghiệp. Năm 2004, có 290
FPA hoạt động tại Trung Quốc và nhận sự hỗ trợ về tài chính cũng như chính sách từ
chính phủ. Năm 2005, chính phủ Trung Quốc thông qua Bộ Tài chính và Bộ Nông
nghiệp chi 100 triệu NDT cho việc phát triển và mở rộng mô hình này. Trên phạm vi
tỉnh, thành, Sở tài chính các tỉnh chi tổng cộng 140 triệu NDT để thành lập thêm 600
FPA, tăng 67 triệu NDT so với năm 2004; 2) Trên cơ sở của các FPA, Trung Quốc
đang phát triển một mô hình sản xuất mới có mức độ hợp tác hóa cao hơn nhiều, đó là
mô hình Xí nghiệp Đầu rồng. Đây là một mô hình kết hợp hoàn hảo tất cả các biện
pháp trợ cấp nông nghiệp nói trên. Bộ Nông nghiệp Trung Quốc năm 2006 hỗ trợ các
xí nghiệp Đầu rồng một khoản ngân sách trị giá 30 tỷ NDT, thông qua các xí nghiệp
này và trung gian là các tổ hợp tác, nông dân được hỗ trợ tiếp cận với giống tốt và
máy móc hiện đại, và ngược lại, Xí nghiệp Đầu rồng là đầu mối tiêu thụ nông sản chủ
yếu của nông dân trực thuộc, nhờ đó, rủi ro cho nông dân giảm xuống.
Thứ tư, hỗ trợ nông thôn phát triển
Cùng với với việc hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp, Chính phủ Trung
Quốc còn đầu tư xây dựng nông thôn toàn diện.
Từ năm 2006, Trung Quốc miễn hoàn toàn tiền học phí cho học sinh giai đoạn
giáo dục bắt buộc ở những vùng nông thôn khu phía tây, năm 2007 mở rộng sang phía
đông và khu trung tâm; Cung cấp sách giáo khoa và hỗ trợ phí sinh hoạt tại nhà trọ;
Giúp những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn chi trả khoản vay khi còn theo học đại
học nếu họ nhận công tác tại những vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển.
Xây dựng chế độ hợp tác chữa bệnh kiểu mới ở nông thôn (bình quân 150
NDT/người, trong đó tài chính của Chính phủ là 120 NDT, của nông dân là 30 NDT)
để thành lập một hệ thống bảo hiểm y tế trợ giúp cho nông dân. Nước này còn đặt mục
tiêu phấn đấu đến năm 2020 tất cả nông dân đều được hưởng trợ cấp bảo hiểm y tế.
Xây dựng chế độ bảo đảm sinh sống tối thiểu ở nông thôn. Bắt đầu từ 2009, triển khai
50
thí điểm bảo hiểm dưỡng lão nông dân (toàn quốc có 1/10 số huyện tham gia, năm
2010 mở rộng tới 20% huyện, năm 2020 thực hiện trên cả nước).
Những giải pháp trên đây đã được tuyên bố rõ ràng và khẳng định quyết tâm
chính trị. Thực tế đã diễn ra sau khi Trung Quốc gia nhập WTO cho thấy ngành nông
nghiệp, nông dân, nông thôn và những người nghèo trong xã hội đã không lâm vào
“kịch bản u ám” như nhiều người dự đoán. Tuy nhiên, việc triển khai các hoạt động
chính sách còn chậm, nông dân Trung Quốc vẫn còn gặp nhiều khó khăn như về cơ
bản thu nhập của nông dân chưa được hỗ trợ nâng cao thoả đáng, nông thôn còn là nơi
vắng bóng nhiều dịch vụ xã hội hiện đại, số lượng nông dân tiếp tục tăng gây sức ép
về đất nông nghiệp và tăng quy mô di dân vào thành phố, trình độ nông dân nhìn
chung chưa cao, tỷ lệ được đào tạo nghề thấp, nông dân còn ở địa vị yếu thế cả trong
chính trị, xã hội lẫn đàm phán về quyền lợi kinh tế. Vì thế chính sách đối với nông dân
của Nhà nước Trung Quốc còn phải tiếp tục đổi mới.
2.2.2. Kinh nghiệm của Thái Lan trong thực thi các chính sách hỗ trợ nông
dân khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
Thái Lan là thành viên tham gia sáng lập WTO (1/1/1995). Từ những năm 60
của thế kỉ trước, Thái Lan đã tiến hành cơ cấu lại nền nông nghiệp theo hướng xuất
khẩu và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Cùng với quá trình công nghiệp hóa, vai
trò của nông nghiệp Thái Lan có xu hướng giảm tỷ trọng trong GDP, từ 40% năm 1960
xuống còn 8% năm 2007. Tuy nhiên, nền nông nghiệp Thái Lan vẫn được đánh giá là
một nền nông nghiệp ưu thế trong khu vực, phát triển với nhiều tiềm năng và thế mạnh.
Thành công này của Thái Lan trước tiên phải kể tới vai trò của Nhà nước do đã định
hướng chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn. Nhà nước Thái Lan xác định lấy ưu tiên
phát triển nông nghiệp làm chiến lược cơ bản cho phát triển toàn bộ nền kinh tế.
Thứ nhất, có chính sách phù hợp phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp
Cơ sở hạ tầng nông nghiệp luôn là vấn đề được quan tâm của Thái Lan. Ngay
sau khi gia nhập WTO, trung bình hàng năm chi ngân sách cho cơ sở hạ tầng nông
nghiệp chiếm 70% giá trị hỗ trợ thuộc hộp xanh lá cây, những khoản đầu tư công này
bào gồm các khoản xây dựng đường xá, cầu cống, hệ thống phòng chống lụt bão, hệ
thống đập chống hạn, hệ thống tưới tiêu trên phạm vi toàn quốc. Về hệ thống giao
51
thông, năm 2002, Thái Lan đã khởi công dự án đường cao tốc 4 làn nối liền Đông -
Tây, Bắc - Nam, và tiếp tục tăng chi cho dự án này song song với cải thiện mạng lưới
hệ thống giao thông tiểu vùng sông Mê Kông. Về chương trình điện khí hóa nông
nghiệp thì sau hàng loạt đóng góp từ những dự án đầu tư các nhà máy thủy điện vừa
và nhỏ, đến nay Thái Lan về cơ bản đã hoàn thành chương trình này trong toàn quốc,
hạn chế nhập khẩu năng lượng từ Lào. Hiện nay, cơ sở hạ tầng của nông thôn Thái
Lan vào loại hiện đại bậc nhất ở Đông Nam Á.
Thứ hai, đầu tư áp dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất nông nghiệp
Quan niệm của người Thái về sản xuất nông nghiệp hiện giờ đã thay đổi, họ
trồng lúa không chỉ để ăn mà để xuất khẩu, họ không chỉ trồng lúa mà còn đang chung
sức chung lòng phát triển nhiều loại cây có giá trị kinh tế cao như ngô, cao su và cả
những loài hoa. Có thể nói, chính việc đầu tư áp dụng công nghệ mới đã quyết định tốc
độ tăng trưởng nông nghiệp của quốc gia Đông Nam Á này trong suốt thời gian qua.
Do diện tích đất nông nghiệp có hạn nên Thái Lan không thể mãi tiếp tục theo
đuổi phát triển nông nghiệp theo hướng mở rộng đất canh tác, mà thay vào đó, đưa
công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cải tạo đất trồng, lai tạo các giống cây
trồng mới siêu năng suất có khả năng thích ứng với những vùng đất canh tác bạc màu,
khô hạn. Hữu cơ hóa đất nông nghiệp thông qua sử dụng các loại phân bón hữu cơ,
phân vi sinh và thuốc trừ sâu sinh học cải tạo đất thoái hóa, nâng cao độ màu mỡ đã
triển khai trong nhiều năm qua. Điều này vừa giúp sử dụng quỹ đất hiệu quả, giảm
nhập khẩu phân bón lại nâng cao xuất khẩu nông sản hữu cơ sạch. Bên cạnh đó, Thái
Lan khuyến khích các tổ chức tư nhân tham gia vào các chương trình khuyến nông. Bí
quyết thành công của nông dân Thái Lan chính là sự kết hợp khéo léo giữa kinh
nghiệm canh tác truyền thống với việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ mới. Kể từ sau khi gia nhập WTO, khoản chi ngân sách cho các chương trình
này tăng mạnh từ 3 tỷ bạt năm 1997 lên tới 8,7 tỷ bath năm 2004. Các cơ quan chức
năng như Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã Thái Lan đã phối kết hợp với các trường đại
học và các cơ quan nghiên cứu độc lập khác tiến hành nghiên cứu cải tạo đất đai, áp
dụng côn nghệ sinh học để lai tạo giống cây trồng vật nuôi, các công nghệ bảo quản
sau thu hoạch. Thái Lan hỗ trợ phòng thí nghiệm trung bình khoảng 2 tỷ bath/năm.
52
Bên trong các viện nghiên cứu, trường đại học trên khắp đất nước Thái Lan,
nhà khoa học đang nghiên cứu những thế hệ cây trồng siêu năng suất, cải thiện chất
lượng giống thông qua kỹ thuật chuyển gene; kỹ thuật chọn tạo, công nghệ di truyền
và công nghệ nuôi cấy mô. Những “nút thắt cổ chai” trong việc nâng cao chất lượng
nông sản theo hướng phát triển bền vững đã được các nhà khoa học tháo gỡ bằng công
nghệ sinh học. Chẳng hạn, Trung tâm Công nghệ gene Quốc gia Thái Lan, từ Ngân
hàng gene sẵn có, đã nghiên cứu ra những giống lúa chịu mặn cao có thể gieo trồng ở
vùng Đông Bắc, nơi đang đối mặt với tình trạng người dân bỏ nghề nông vì đất nhiễm
bị nhiễm mặn.
Khi đã hoàn thành các nghiên cứu thì việc giúp nông dân tiếp xúc và áp dụng
những thành tựu này vào trong sản xuất cũng rất quan trọng, chính sách này được thực
hiện song song với việc tư vấn nông nghiệp. Chính phủ Thái Lan cũng chú tâm đầu tư
tài chính trên toàn quốc, trung bình khoảng 5 tỷ bath/năm. Riêng khu vực kiểm định
và kiểm soát dịch bệnh được Thái Lan chú trọng vào tiêm phòng hàng loạt cho các
nhóm gia súc gia cầm nhỏ ở nông thôn.
Thứ ba, phát triển công nghiệp chế biến và tiếp thị
Ngay từ năm 1977, Thái Lan đã đặt định hướng điều chỉnh tăng cường đầu tư
vào ngành chế biến nông sản xuất khẩu làm mũi nhọn công nghiệp hóa nông nghiệp,
nông thôn. Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm ở Thái Lan phát triển rất mạnh
nhờ chính sách phát triển nông trong đó có kế hoạch cơ cấu lại mặt hàng nông sản của
Bộ Nông nghiệp Thái Lan nhằm mục đích nâng cao chất lượng và sản lượng của nông
sản chế biến và chính sách đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Chính phủ Thái Lan
thường xuyên thực hiện chương trình quảng bá vệ sinh an toàn thực phẩm, tăng mạnh
ngân sách cho quá trình kiểm định chất lượng vệ sinh nông sản. Bên cạnh đó, Chính
phủ thường xuyên hỗ trợ cho doanh nghiệp cải thiện chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm, năm 1997 lượng hỗ trợ kiểm định chất lượng vệ sinh là 165 triệu bath và lên tới
1,7 tỷ năm 2004. Do đó, thực phẩm chế biến của Thái Lan được người tiêu dùng ở
các thị trường khó tính chấp nhận. Công nghiệp chế biến phát triển giúp Thái Lan dần
vươn lên vị trí dẫn đầu trong các ngành hàng xuất khẩu.
53
Nhằm mục tiêu tiếp thị xúc tiến xuất khẩu sau chế biến, Thái Lan cũng tiến
hành xây dựng hệ thống thông tin thị trường và hỗ trợ tiếp thị cho nông hộ và các tổ
chức nông dân với trị giá ngân sách tăng vọt từ 62,5 triệu bạt năm 1997 lên 400 triệu
bạt năm 2004. Thái Lan hỗ trợ các chương trình tiếp thị, tìm kiếm địa chỉ xuất khẩu
những sản phẩm sau thu hoạch và chế biến nhằm tạo điều kiện tốt nhất việc tiêu thụ
nông sản, tổ chức các lần hội chợ, liên hoan, quảng bá trên các phương tiện thông tin
đại và đẩy mạnh hình thức hợp đồng “chính phủ với chính phủ”.
2.3.4. Những bài học có ý nghĩa đối với Việt Nam
Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia về giải quyết vấn đề hỗ trợ
nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp và nâng cao đời sống, có thể rút ra một số
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:
Thứ nhất: Cần làm cho mọi cấp, mọi ngành, mọi người đều phải nhận thức sâu
sắc về vị trí chiến lược, vai trò trọng yếu cùng những đóng góp to lớn của nông
nghiệp, nông dân, nông thôn và sự cần thiết khách quan, vừa cơ bản, vừa cấp bách
phải hỗ trợ mạnh mẽ lĩnh vực này. Do đó, phải “chung tay, góp sức” để tạo được sự
chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời
sống nông dân. Chỉ có như vậy mới tạo được cơ sở kinh tế - xã hội vững chắc để đảm
bảo ổn định chính trị - xã hội - môi trường sinh thái cho sự phát triển bền vững của đất
nước và sự an bình cho mọi người, mọi nhà trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước và chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai: Tăng cường tính thực tiễn trong việc hoạch định và thực thi chính
sách đối với nông dân.
Trên thực tế còn nhiều chính sách do Nhà nước ban hành chưa phù hợp với điều
kiện thực tiễn do chưa khảo sát, thu thập ý kiến đầy đủ từ cơ sở nên chậm đi vào cuộc
sống. Do vậy cần phải cải tiến quy trình hoạch định chính sách để “đưa cuộc sống vào
chính sách”. Nếu như các hiệp hội doanh nghiệp hiện nay có tiếng nói rất quan trọng
trong việc hoạch định chính sách thì người nông dân, tuy rằng chiếm một tỷ lệ lớn
nhưng lại hạn chế trong việc tham gia đóng góp ý kiến và đề xuất chính sách. Đây cũng
là vấn đề mấu chốt trong đổi mới chính sách của Nhà nước đối với nông dân.
54
Chính sách của Nhà nước đối với nông dân cần phát huy, đón nhận những ảnh
hưởng lan tỏa trong chính sách phát triển công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Chính sách
không chỉ thúc đẩy phát triển khu vực nông nghiệp, nông thôn mà còn tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển công nghiệp và đô thị, cũng như toàn bộ nền kinh tế. Chính
sách đối với nông dân cần được cụ thể hóa theo đặc điểm từng vùng, đối với tỉnh cần
cụ thể hóa theo khu vực: đô thị hóa mạnh, phát triển làng nghề, công nghiệp nông
thôn; phát triển nông nghiệp với các vùng chuyên canh, nông nghiệp công nghệ cao,
nông nghiệp đô thị; những vùng sản xuất còn gặp nhiều khó khăn…
Thứ ba: Nâng cao nội lực của nông dân bằng những giải pháp từ cơ chế chính sách.
Để nâng cao nội lực của nông dân, cần phải hoàn thiện hệ thống chính sách, tạo
môi trường thuận lợi cho sự phát triển bền vững, xây dựng chiến lược, quy hoạch,
chính sách để chuyển từ sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ thành nông nghiệp hàng hóa lớn
có sức cạnh tranh. Xác định đúng lợi thế của các sản phẩm cạnh tranh, hình thành các
vùng chuyên canh lớn gắn liền với chính sách đầu tư kết cấu hạ tầng chủ yếu từ Nhà
nước vì nông dân còn nghèo. Đầu tư tập trung vào hệ thống thủy lợi, giao thông nông
thôn, các cơ sở sản xuất giống, phân bón, các viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm, các
cơ sở chuyển giao công nghệ, các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm. Nhà nước cũng
cần có sự hỗ trợ để nâng cao giá trị, hình thành thương hiệu cho các nông sản phẩm do
nông nghiệp là một ngành khó tạo ra giá trị gia tăng.
Tăng năng lực nội sinh cho nông dân cũng đồng nghĩa với việc chấm dứt tình
trạng tự phát, buông lỏng, khắc phục tình trạng thiếu thông tin dự báo mang tính định
hướng về thị trường trong nước và thế giới, xử lý những khó khăn do biến động cung
cầu giá cả. Tổ chức lại sản xuất trên nền kinh tế hộ bằng con đường hợp tác, kết nối
hộ với doanh nghiệp; khuyến khích phát triển các HTX dịch vụ đầu vào, đầu ra, chế
biến nông sản. Nhà nước tạo khung khổ pháp lý cho liên kết bền vững, xử lý hài hòa
các qụan hệ lợi ích trong chuỗi giá trị gia tăng để bảo đảm quyền lợi của mọi thành
viên. Hiện nay các quan hệ lợi ích không được xử lý thỏa đáng là do độc quyền, nông
dân chưa đủ năng lực tham gia thị trường, buông lỏng giám sát nên doanh nghiệp thu
mua, chế biến, xuất khẩu có lợi còn nông dân thua thiệt.
Thứ tư: Tạo sự thích ứng cho nông dân Việt Nam trong việc thực hiện các cam
kết của WTO, hình thành tư duy mới và cách làm mới trong phát triển nông nghiệp.
55
Gia nhập WTO với những cam kết đã được ghi nhận trong các hiệp định đa
phương, song phương phản ánh mức độ hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng
của nước ta nói chung, nông nghiệp nói riêng. Những cam kết đó và quá trình triển
khai thực hiện chúng trong hơn 5 năm qua đã tác động rất mạnh mẽ đến hình thành
cách nghĩ, cách làm nông nghiệp theo một tư duy mới - tư duy của người nông dân
sản xuất nông phẩm hàng hóa lớn, hiện đại - sản xuất những nông sản hàng hóa mà thị
trường trong, ngoài nước có nhu cầu lớn và địa phương, đất nước mình có nhiều tiềm
năng, lợi thế và sản xuất theo công nghệ ngày càng hiện đại. Đồng thời phải hướng tới
phát triển một nền nông nghiệp sản xuất sản phẩm sạch và một nền nông nghiệp sinh
thái. Bởi vì theo các cam kết của Việt Nam trong gia nhập WTO và nhiều hiệp định
song phương, đa phương khác, chúng ta phải tham gia và đảm bảo thực hiện tốt vệ
sinh kiểm dịch động, thực vật; đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Nông sản hàng
hóa của nước ta phải đạt khối lượng lớn, chất lượng tốt, đáp ứng đầy đủ những điều
kiện để cạnh tranh xuất khẩu thì mới có thị trường tiêu thụ rộng lớn và đạt hiệu quả
cao. Không chỉ cạnh tranh trong xuất khẩu mà ngay trên thị trường nội địa, trong bối
cảnh có sự cạnh tranh của nông sản nhập khẩu, nếu nông sản hàng hóa của nước ta
không đảm bảo chất lượng và giá cả hợp lý đủ sức cạnh tranh thì đã bị thua ngay trên
sân nhà. Trong trường hợp đó, duy trì sự tồn tại đã khó thì làm sao có thể phát triển
được. Chính vì vậy mà gia nhập WTO vừa đặt ra yêu cầu bức bách, vừa hối thúc
chúng ta phải đổi mới mạnh mẽ tư duy và cách thức làm nông nghiệp nhằm phát triển
một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, hiện đại, bền vững, trong đó yêu cầu đảm bảo
nông sản sạch, có sức cạnh tranh cao phải được đặt lên hàng đầu. Nhằm giúp nông
dân thích nghi với chính sách mới, phải cung cấp cho họ đầy đủ thông tin về chính
sách mới. Các chính sách phải đáng tin cậy và người nông dân phải được quyền đánh
giá các cơ hội mới do những chính sách này tạo ra.
56
Chương 3
THỰC TRẠNG HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NÔNG DÂN
SAU GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
3.1. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NÔNG DÂN
SAU GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
3.1.1. Hỗ trợ nông dân trong tiếp cận và sử dụng đất nông nghiệp
3.1.1.1. Thực trạng hỗ trợ nông dân trong tiếp cận và sử dụng đất nông nghiệp
Vấn đề đất nông nghiệp được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Trong
thời kỳ đổi mới, một loạt các chính sách và văn bản luật liên quan đến sử dụng đất đai
đã ra đời như Luật đất đai năm 1993, Luật đất đai sửa đổi, bổ sung năm 1998, Luật đất
đai năm 2003, Luật đất đai sửa đổi 2013...
Trong Luật đất đai năm 2003, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất được
quy định rõ ràng và mở rộng hơn. Lần đầu tiên, đất đai được chính thức xem là như
“hàng hóa đặc biệt” và có thể chuyển nhượng. Các chính sách đất đai liên quan đến
việc giao đất và các quyền của người sử dụng đất, cho phép từng bước phát triển thị
trường đất đai đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân bổ lại nguồn lực cho nông
nghiệp theo hướng hiệu quả. Quyền thế chấp và chuyển nhượng đã tạo thuận lợi hơn
cho nông dân về cơ hội tiếp cận các nguồn vốn tín dụng chính thức để phát triển sản
xuất, đồng thời tạo ra điều kiện cho sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả hơn. Thời hạn
giao đất tương đối lâu dài đã tạo thuận lợi kích thích hoạt động đầu tư dài hạn của các
chủ thể sản xuất nông nghiệp để làm tăng độ phì của đất.
Đặc biệt, việc ban hành Luật đất đai sửa đổi 2013 và bắt đầu có hiệu lực từ
ngày 01/7/2014 đã có nhiều điểm mới. Thời hạn sử dụng đất nông nghiệp nói chung là
50 năm, thời hạn này cũng được áp dụng khi cho hộ gia đình, cá nhân thuê đất. Như
vậy, đất trồng lúa, đất nuôi trồng thủy sản đã được nới rộng thời hạn sử dụng từ 20
năm lên thành 50 năm. Về hạn mức chuyển nhượng đất nông nghiệp quy định cụ thể
hạn mức chuyển quyền đất nông nghiệp là không quá mười lần hạn mức giao đất nông
nghiệp. Luật tiếp tục thực hiện chính sách bảo vệ đất trồng lúa, hạn chế chuyển đất
trồng lúa sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp. Để thực hiện chính sách này
Luật bổ sung quy định người được giao đất sử dụng vào mục đích khác từ đất trồng
lúa thì phải có phương án sử dụng lớp đất mặt và bù bổ sung diện tích đất chuyên
trồng lúa nước bị mất do chuyển mục đích sử dụng.
57
Bảng 3.1. Hạn mức giao đất theo quy định của Luật Đất đai 2013
Vùng Loại đất Hạn mức (ha) Thời hạn (năm)
Đất trồng cây hàng năm 50
Đất trồng cây lâu năm 50
50
Đất trồng cây lâu năm giao
thêm
Đất rừng phòng hộ
Đất rừng sản xuất
Đất rừng sản xuất giao thêm ĐBSCL
Vùng còn lại
Đồng bằng
Trung du, miền núi
Đồng bằng
Trung du, miền núi 3
2
10
30
5
25
30
30
25 50
50
50
Nguồn: Luật đất đai sửa đổi năm 2013
Có thể nói, chính sách giao ruộng đất lâu dài cùng với những ưu đãi về thuế đất
nông nghiệp của Nhà nước đã thực sự có tác động mạnh mẽ tới khai thác và phát huy
nguồn lực như lao động, đất đai.... cho sản xuất nông nghiệp cũng như người nông
dân. Điều này thể hiện ở những điểm sau:
Nông dân chủ động lao động, sản xuất, kinh doanh nhằm tăng sản lượng trên đất
và tăng thu nhập và cải thiện cuộc sống. Chính sách đất nông nghiệp thời kỳ đổi mới ở
Việt Nam đã thể hiện chủ trương mang tính nhân văn của Nhà nước, đó là hỗ trợ nông
dân phát triển sản xuất. Do chính sách giao đất nông nghiệp không thu tiền của Nhà
nước nên nông dân Việt Nam được ưu tiên trong tiếp cận nguồn lực đất đai so với các
tầng lớp dân cư khác. Hầu hết các gia đình nông dân Việt Nam đều được nhận đất để
chủ động canh tác và bán nông sản theo nguyên tắc thị trường nhờ chế độ giao đất
nông nghiệp bình quân cho nông dân. Ưu tiên của chính sách đất nông nghiệp đổi mới
là tạo được động lực lao động tự chủ, sáng tạo trên mảnh đất được giao để đem lại sản
phẩm nhiều hơn. Việc sử dụng đất nông nghiệp trong cả nước được tập trung hơn thể
hiện ở sự hình thành và phát triển nhiều trang trại trong cả nước. Chính sách đất đai
cũng dẫn tới kết quả là nông dân đã tích cực mở rộng quy mô sản xuất bằng nhiều
cách như nhận khoán đất, thuê, đấu thầu đất, tự khai hoang... Hơn nữa, họ còn yên tâm
đầu tư cải tạo đất để nâng cao năng suất cây trồng. Thực tế đó đã đưa lại hệ quả là sản
xuất nông nghiệp nước ta phát triển rất mạnh cả về sản lượng và năng suất, nhiều loại
nông sản được sản xuất với khối lượng lớn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và
xuất khẩu mang lại giá trị kinh tế cao. Nhờ đó đời sống của đa số nông dân được cải
thiện, đời sống của nông dân Việt Nam không ngừng được nâng cao.
58
Chính sách đất đai tạo điều kiện để nông dân chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao
hiệu quả sử dụng đất và giải phóng sức sản xuất. Chế độ giao đất cho hộ nông dân và coi
hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, cho phép họ lựa chọn cơ cấu cây trồng, vật nuôi có
lợi nhất trên đất được giao đã làm xuất hiện nhiều gia đình, nhiều xã, nhiều huyện, tỉnh
làm ăn giỏi. Trong cả nước, số hộ độc canh lúa giảm đi. Phong trào chuyển đất lúa năng
suất thấp sang nuôi trồng thủy sản còn phát triển cả ở những vùng đất trũng, nội đồng xa
biển theo các hình thức và quy mô khác nhau: nuôi cá ruộng, cá bè, cá lồng, chuyển từ
ruộng 2, 3 vụ lúa trước đây sang 1 vụ cá 1 vụ lúa có hiệu quả cao hơn.
Các chính sách liên quan đến việc giao đất, thời hạn giao đất và quyền sử dụng
đất đã đưa lại cho người nông dân một loại tài sản có giá trị. Điều này đã tạo thuận lợi
hơn cho nông dân về cơ hội tiếp cận các nguồn tín dụng chính thức để phát triển sản
xuất. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp đã trở thành vật thế chấp vay
vốn ở ngân hàng. Nông dân có thể tiến hành giao dịch quyền sử dụng đất an toàn, nhất
là cho thuê, góp vốn sản xuất khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp.
Nói cách khác, quyền sử dụng đất đã trở thành tài sản để nông dân không chỉ thế chấp
mà còn chuyển hoá thành tiền đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của họ. Đây là bước
tiến bộ về mặt tiếp cận nguồn lực đất đai phù hợp với kinh tế thị trường của nông dân
Việt Nam với các giai đoạn trước. Thời hạn giao đất được đánh giá tương đối lâu dài đã
tạo thuận lợi kích thích hoạt động đầu tư dài hạn của các chủ thể sản xuất nông nghiệp,
không ngừng làm tăng độ phì nhiêu, màu mỡ của đất và bảo vệ đất. Sự điều chỉnh giá
quyền sử dụng đất theo hướng gần sát với mức giá thị trường vừa góp phần lành mạnh
hóa thị trường đất đai vừa giúp cho Nhà nước quản lý nguồn tài nguyên đất đai tốt hơn,
tạo điều kiện cho việc thực hiện các chính sách chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất
nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp, phục vụ phát triển các ngành công nghiệp, dịch
vụ trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
3.1.1.2. Những hạn chế của chính sách đất đai đối với nông dân
Mặc dù có nhiều tác động tích cực tới hoạt động sản xuất nông nghiệp như đã
được phân tích, chính sách đất đai và việc thực hiện chính sách đất đai ở nhiều địa
phương vẫn còn có những hạn chế và nhiều vấn đề bức xúc đòi hỏi phải giải quyết:
Thứ nhất, chính sách đất đai chưa đảm bảo cho người nông dân được lợi nhiều từ
quyền sử dụng đất nông nghiệp và được tự chủ hoàn toàn trong việc chuyển đổi mục
đích canh tác trên đất đã được giao sao cho có hiệu quả nhất, nhất là đối với đất trồng
lúa. Do nông dân không được tự ý chuyển đất nông nghiệp sang các loại đất khác,
59
đồng thời do đất nông nghiệp sinh lợi thấp nên giá quyền sử dụng đất nông nghiệp
thấp hơn giá quyền sử dụng các loại đất khác rất nhiều. Trên thực tế, mặc dù nông dân
được nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp không mất tiền, nhưng giá trị của quyền đó
không lớn. Xét về mặt sở hữu tài sản, nông dân vẫn thuộc lớp nghèo nhất, vấn đề sở
hữu đất đai chưa thực sự giúp cho đảm bảo an ninh về quyền tài sản đất đai. Mặc dù
người dân được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất nhưng tính sở hữu về
quyền, tài sản đất đai chưa được phân định rõ. Phần lớn số chủ trang trại hiện nay lo
lắng đất đai họ đang canh tác không được cấp sổ đỏ, làm hạn chế khả năng tiếp cận
các nguồn vốn vay, góp vốn để sản xuất kinh doanh, hạn chế sự phát triển nông
nghiệp theo hướng hàng hóa. Hơn nữa, quyền sử dụng đất nông nghiệp của nông dân
dễ bị thu hồi nhất. Ở nước ta, đa phần đất xây dựng đô thị, khu công nghiệp tập trung,
làm đường đều là đất nông nghiệp do Nhà nước thu hồi của nông dân. Theo Luật đất
đai, người nông dân không những chỉ được sử dụng đất nông nghiệp với kỳ hạn ngắn
nhất, mà cũng chỉ được hưởng lợi ít nhất khi chuyển đất nông nghiệp sang sử dụng
vào mục đích khác.
Thứ hai, chính sách quy định mức hạn điền và thời gian giao đất đối với đất lúa
theo Luật đất đai 2003 không phù hợp với một số vùng nên không kích thích người dân
đầu tư lâu dài vào đất đai, cải tạo đất và thâm canh, hình thành các trang trại lớn, các
doanh nghiệp lớn trong nông nghiệp. Về thời hạn giao đất 20 năm đối với từng loại đất
là quá ngắn. Nhà nước chỉ giao quyền sử dụng đất có thời hạn ngắn cho hộ gia đình
nông dân nên không khuyến khích họ đầu tư lâu dài nhằm bảo tồn đất nông nghiệp.
Cộng với xu hướng chạy theo sản lượng, đã xuất hiện tình trạng nông dân lạm dụng hoá
chất để thâm canh, không chú trọng đầu tư cải tạo đất lâu dài nên dẫn đến thoái hoá đất
nông nghiệp, thậm chí gây ô nhiễm đất. Với quy định mức hạn điền 3 hecta là quá nhỏ,
đặc biệt trong bối cảnh chúng ta thực hiện chiến lược CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn và Nghị quyết 26/NQ-TW (khóa X). Quy định hạn điền như vậy sẽ dẫn tới hạn chế
phát triển sức sản xuất trong nông nghiệp và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng sản xuất hàng hóa cũng như sự phân công lại lao động trong nông nghiệp, nông
thôn. Hạn mức sử dụng đất nông nghiệp giao cho nông dân quá thấp khiến hầu hết các
hộ nông dân đều canh tác bằng lao động thủ công của gia đình, không có nhu cầu mua
máy móc và hợp tác với nhau trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, trong giao dịch
tư liệu sản xuất và tiêu thụ nông sản, trong áp dụng đồng bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất nông nghiệp.
60
Thứ ba, tác động hỗ trợ nông dân tập trung đất chưa đạt yêu cầu. Chính sách
giao đất nông nghiệp trước đây đã làm cho ruộng đất manh mún, không đủ độ lớn để
phát triển kinh tế hàng hóa. Tình hình đó đã gây nhiều lãng phí về thời gian di chuyển
của người lao động, vận chuyển vật tư và sản phẩm, lãng phí diện tích đất do có quá
nhiều bờ vùng, bờ thửa, nhất là cản trở việc triển khai ứng dụng cơ giới hóa và công
nghệ mới vào sản xuất nông sản, nhất là nông sản xuất khẩu.
Phong trào dồn điền đổi thửa được chính quyền các tỉnh ĐBSH hưởng ứng,
nhưng kết quả đạt được không mấy khả quan. Số thửa ruộng của một hộ có giảm đi,
nhưng quy mô đất canh tác của một số hộ nông dân tăng không đáng kể do các hộ
nông dân không muốn nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp cho người khác vì
nhiều lý do như quy mô đất nông nghiệp nhỏ, mỗi gia đình đều đủ lao động để đảm
đương công việc đồng áng nhằm tự cung cấp lương thực cho gia đình hoặc là giá đất
nông nghiệp thấp nên chuyển nhượng không thu hút hết lượng lao động dư thừa ở
nông thôn, thậm chí, nhiều lao động thất nghiệp ở thành thị lại quay về làm ruộng. Vì
thế, tâm lý chung của các gia đình nông dân là muốn giữ lại đất nông nghiệp để làm
chỗ dựa khi thất cơ, lỡ vận.
Ở các vùng chuyên canh phía Nam tình hình chuyển nhượng quyền sử dụng đất
nông nghiệp có khá hơn ở phía Bắc, nhưng cũng chưa tạo được sức mạnh để hình
thành các trang trại lớn. Ngược lại, đã xuất hiện tình trạng người nghèo, nhất là vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, nông dân bán đất để trang trải nợ nần và trở thành nông dân
không có đất nông nghiệp. Nhà nước đã phải giúp đỡ họ bằng cách mua lại quyền sử
dụng đất để giao cho họ canh tác. Tuy nhiên cách làm này gặp trở ngại lớn về tài
chính và kết quả không bền vững.
Mặc dù Nhà nước có chính sách khuyến khích phát triển các vùng chuyên canh
quy mô lớn thông qua việc xây dựng, chỉ đạo thực hiện các quy hoạch vùng và đã
hình thành một số vùng chuyên canh lúa, cao su, cà phê, tiêu, chè… Tuy nhiên, trong
vùng chuyên canh, sản xuất vẫn được tiến hành chủ yếu ở quy mô gia đình, thiếu vắng
sự phối hợp giữa các gia đình nông dân về giống, kỹ thuật, phòng dịch, chế biến và
tiêu thụ. Vùng chuyên canh chủ yếu hình thành theo lợi thế tự nhiên hơn là theo tính
chất liên kết ngành.
61
Cho đến nay chính sách khuyến khích sử dụng đất tập trung ở quy mô lớn của
Nhà nước Việt Nam có thể nói là chưa thành công. Thị trường chuyển nhượng quyền
sử dụng đất nông nghiệp vừa chưa phát triển, vừa chưa đi vào giao dịch có tổ chức.
Theo điều tra của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn
(IPSARD), chỉ có 9,5% diện tích đất mà hộ nông dân đang sử dụng hiện nay có nguồn
gốc mua của nhau, 0,58% diện tích mà các hộ tham gia chuyển đổi.
Thứ tư, quá trình đô thị hóa và công nghiệp hoá nông thôn trong bối cảnh chưa
có quy hoạch tổng thể, rõ ràng về sử dụng đất dẫn đến tình trạng thu hồi đất ồ ạt, kéo
theo hệ lụy là nông dân không có đất sản xuất.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Tài nguyên - Môi trường, hơn
10 năm qua, diện tích đất nông nghiệp trên cả nước bị thu hồi để phục vụ các dự án làm
đường giao thông, khu công nghiệp, khu đô thị, thậm chí sân golf, sân bay… đã lên tới
hơn 650.000ha và theo nhận định sẽ còn nhân lên trong thời gian tới. Vì những lợi ích
cục bộ địa phương, đất lúa cũng đã và đang bị xẻ thịt không thương xót, 50% số đất
nông nghiệp bị thu hồi trong thời gian qua nằm trong những vùng kinh tế trọng điểm.
Trong đó, 80% diện tích đất này thuộc loại “bờ xôi, ruộng mật” cho 2 vụ lúa/năm với cơ
sở hạ tầng, thủy lợi rất tốt. Tuy nhiên, trong khi, người nông dân không có đất để sản
xuất nông nghiệp thì đất thu hồi do doanh nghiệp, chủ đầu tư chưa đủ năng lực để san
lấp mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng lại để hoang. Điều đó đã làm diện tích đất nông
nghiệp bình quân đầu người giảm nhanh chóng, thể hiện ở số liệu bảng 3.2.
Bảng 3.2: Dân số nông thôn và bình quân đất nông nghiệp trên đầu người
Năm
1990
2000
2005
2011
2012 Dân số nông thôn
(triệu người)
45,143
59,065
63,750
59,951
60,026 Tỷ lệ dân số nông
thôn (%)
80,6
76,5
75,0
68,2
67,7 Đất nông
nghiệp/khẩu (m2)
829
680
630
437
*
Nguồn: Số liệu dựa trên Niên giám thông kê hàng năm của Tổng cục Thống kê.
Thứ năm, chính sách thu hồi đất và giá bồi thường đất nông nghiệp không sát với
thị trường khiến nông dân thiệt thòi
Luật Đất đai của Việt Nam quy định khi thu hồi đất nông nghiệp, đất ở của nông
dân, Nhà nước phải đền bù cho nông dân đất mới theo diện tích và hạng đất tương
đương. Nếu không có đất đền bù hoặc đất đền bù ít hơn đất bị thu hồi, Nhà nước đền
62
tiền cho nông dân theo giá đất do Nhà nước quy định tại từng thời điểm. Tuy nhiên,
người dân không có quyền quyết định giá đất khi Nhà nước chuyển mục đích sử dụng
đất nông nghiệp. Điều đó đã đặt người nông dân bị thu hồi đất vào thế bị thiệt thòi, đó
là Nhà nước không đủ quỹ đất nông nghiệp để đền bù cho nông dân, họ không có
nghề để sinh sống; các vùng đất dành để đền bù cho nông dân thường không thuận lợi
bằng đất bị thu hồi nên đời sống của họ trở nên khó khăn hơn; nông dân không được
quyền lựa chọn nhận đền bù hay không, thậm chí họ còn bị cưỡng chế. Trong thực
tiễn, việc đền bù đất nông nghiệp theo giá Nhà nước đưa ra còn nhiều vấn đề bức xúc:
một là, trong khi giá đền bù đất nông nghiệp thấp hơn rất nhiều so với giá thị trường thì
giá đầu ra của các nhà đầu tư vào bất động sản lại theo giá thị trường và cao gấp hàng
chục, hàng trăm lần so với giá bồi thường đất; hai là, do giá đền bù liên tục được điều
chỉnh tăng, nên nông dân cố tình làm chậm quá trình nhận tiền đền bù để được nhận
nhiều hơn; ba là, do không được tham gia thoả thuận giá đền bù nên nông dân không ủng
hộ việc thu hồi đất của Nhà nước. Một nguyên nhân nữa dẫn đến việc chưa thoả đáng
trong chính sách thu hồi đất là giá đền bù đất thấp. Trên thực tế, bản thân mức giá quy
định đã thấp, nhiều địa phương còn lấy khung giá thấp nhất để tính giá bồi thường cho
dân. Thêm vào đó, ở một số địa phương việc thu hồi đất nhiều khi không công bằng,
minh bạch; thực hiện đền bù một giá không nhất quán nên càng làm cho người nông
dân chịu nhiều thiệt thòi.
Hình 3.1: Ý kiến của nông dân về biểu hiện khiến chính sách thu hồi đất
không thoả đáng
Gi¸ ®Òn bï thÊp
100%
80%
ChÝnh s ¸c h k h«ng c «ng
b»ng, m inh b¹c h
60%
40%
ChÝnh s ¸c h m ét gi¸ k h«ng
nhÊt qu¸n
20%
K h«ng c ã c hÝnh s ¸c h hç
trî gi¶i quy Õt v iÖc lµm ,
c huy Ón ®æi nghÒ nghiÖp
0%
Nh÷ng nguy ªn nh©n k h¸c
B ¾c
Giang
§iÖn
B iªn
Th¸i
B ×nh
Hµ
TÜnh
Qu¶ng
Nam
§¨k
L¨k
§ång
Nai
CÇn
Th¬
Nguồn: [13, tr.210]
63
3.1.2. Hỗ trợ về tài chính đối với nông dân
3.1.2.1. Thực trạng hỗ trợ về tài chính đối với nông dân
Hỗ trợ tài chính cho nông dân của Nhà nước ta được thực hiện chủ yếu thông qua
tín dụng ưu đãi và miễn giảm thuế, phí, rất ít các khoản hỗ trợ trực tiếp thu nhập, trừ
chương trình xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn. Điều này hoàn toàn phù hợp với các
cam kết gia nhập WTO.
Thời gian qua, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập WTO và thực hiện Nghị quyết
26-NQ/TW, chúng ta đã thực hiện một số chính sách tài chính nhằm hỗ trợ nông dân
trong sản xuất nông nghiệp và đã góp phần tạo sức bật cho phát triển “tam nông”:
Một là, miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp và thủy lợi phí
Nhằm khuyến khích phát triển nông nghiệp, giảm nhẹ đóng góp cho nông dân,
Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 15/2003/QH11 về miễn, giảm thuế sử dụng đất
nông nghiệp giai đoạn 2003 - 2009 và Nghị quyết số 55/2010/QH12 về miễn, giảm thuế
sử dụng đất nông nghiệp giai đoạn 2011 - 2020. Nông dân sử dụng đất sản xuất nông
nghiệp được miễn giảm 50% thuế (phần diện tích ngoài hạn điền) và 100% thuế (trong
hạn điền). Theo số liệu thống kê, trung bình mỗi năm, Nhà nước đã miễn giảm cho trên
11,2 triệu hộ nông dân với tổng số thuế miễn, giảm 1,85 triệu tấn quy thóc, thành tiền là
2.837 tỷ đồng (tính bình quân theo giá thực tế). Cùng với thuế sử dụng đất nông
nghiệp, thuỷ lợi phí cũng được miễn giảm. Với chính sách này, bình quân mỗi năm
Nhà nước đầu tư miễn giảm khoảng trên 3.000 tỷ đồng cho lĩnh vực này và các tỉnh tự
cân đối kinh phí đầu tư khoảng 3.400 tỷ đồng [58].
Có thể nhận thấy rằng, chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp và
thủy lợi phí được coi là “cú hích” để nông nghiệp, nông thôn phát triển và giảm dần
các khoản đóng góp cho nông dân, “khoan sức dân” nhằm “dưỡng kế lâu dài”.
Hai là, hỗ trợ lãi suất cho các khoản vay mua máy móc thiết bị, vật tư phục vụ sản
xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn
Chủ trương này được thực hiện theo Quyết định số 497/QĐ-TTg ngày 17/4/2009,
theo đó, thực hiện hỗ trợ 100% cho các khoản vay mua máy móc, hỗ trợ 4% lãi suất
vay cho các khoản vay mua thiết bị vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp trong thời
64
gian tối đa là 24 tháng và hỗ trợ 4% cho các khoản vay mua vật liệu xây dựng ở khu
vực nông thôn trong thời gian tối đa là 12 tháng. Chính sách này trong quá trình thực
hiện đã được điều chỉnh bằng quyết định 2213/QĐ-TTg ban hành ngày 31/12/2009, kéo
dài thời hạn giải ngân thêm 1 năm. Đồng thời mức lãi suất hỗ trợ cụ thể cũng được điều
chỉnh từ 4% xuống còn 2%. Quyết định 2213 bổ sung quy định tạo điều kiện cho hộ
nông dân tiếp cận được nguồn vốn nhanh hơn và thuận tiện hơn.
Theo Ngân hàng Nhà nước, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất theo Quyết định 497 đến
ngày 9/7/2009 là 375.926 tỷ đồng. Trong đó các NHTM nhà nước và Quỹ tín dụng trung
ương là 266.767 tỷ đồng, NHTM cổ phần 87.165 tỷ đồng. Dư nợ hỗ trợ lãi suất tính đến
30/9/2009 là 597 tỷ đồng chiếm 0,15%, đến 31/12/2009 con số này là 776,17 tỷ đồng,
kinh phí hỗ trợ lãi suất là 17,2 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 0,16% tổng số kinh phí hỗ trợ lãi suất.
Đối tượng cho vay chủ yếu là các hộ gia đình và cá nhân, chiếm 95% tương đương 739,5
tỷ đồng; đối tượng doanh nghiệp chiếm 4,3%, tương đương 33,92 tỷ đồng; hợp tác xã
chiếm 0,3%, tương đương 2,69 tỷ đồng [83, tr.42].
Đối với tiêu thụ hàng hóa, cho vay mua sản phẩm máy móc, thiết bị cơ khí,
phương tiện phục vụ sản xuất, chế biến nông nghiệp đạt 659,42 tỷ đồng (85%), các
loại vật liệu xây dựng để xây nhà ở nông thôn đạt 103,65 tỷ đồng (13,3%), vật tư phục
vụ sản xuất nông nghiệp đạt 16,1 tỷ đồng (2%). Về tình hình tiêu thụ máy kéo các loại
phục vụ làm đất canh tác và vận chuyển nông thôn năm 2009 tăng 65,11%; máy cắt
lúa và máy gặt đập liên hợp tăng 12,86%; máy phun thuốc trừ sâu tăng 484,5%
[6, tr.6]. Trong 7 tháng đầu năm 2009, Tổng Công ty Máy động lực và máy nông
nghiệp Việt Nam có sản lượng sản xuất và tiêu thụ máy kéo, xe vận chuyển tăng
84,77%, máy phun thuốc trừ sâu tăng 342,23%, máy bơm nước các loại tăng 159%,
máy cắt lúa, gặt đập liên hợp tăng 50,74% [7, tr.5].
Sau khi triển khai thực hiện quyết định 2213/QĐ-TTg cũng đã thu thêm được
những kết quả: nhiều địa phương giải ngân theo quyết định 2213 cao hơn 8 tháng thực
hiện quyết định 497, trong đó hai địa phương thực hiện hiệu quả nhất là Hải Dương và
Hà Tĩnh. Tính đến 31/3/2010, dư nợ hỗ trợ lãi suất theo Quyết định 2213 đạt mức
146,95 tỷ đồng, chiếm 3,75% tổng dư nợ được hỗ trợ lãi suất. Trong đó, dư nợ cho vay
mua sản phẩm, máy móc thiết bị cơ khí, phương tiện phục vụ sản xuất, chế biến nông
65
nghiệp đạt 26,21 tỷ đồng, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp đạt 33,5 tỷ đồng [7, tr.5].
Nhóm vật tư nông nghiệp cũng có mức giải ngân cao so với các nhóm hàng khác, từ chỉ
chiếm khoảng 6% dư nợ tín dụng cho vay hỗ trợ lãi suất theo Quyết định 497, khi
Quyết định 2213 được ban hành thì con số này khoảng 40,1%. Đến tháng 4 mức dư nợ
hỗ trợ lãi suất tăng lên đến 319 tỷ đồng, chiếm 7,4% tổng dư nợ cho vay [7, tr.5].
Ba là, thực hiện chính sách tín dụng nông nghiệp rộng khắp trên cả nước
Tín dụng ngân hàng là một trong những công cụ quan trọng được Ðảng, Nhà nước
đặc biệt quan tâm để phát triển nông nghiệp, nông thôn đối với một nước nông nghiệp
truyền thống như nước ta. Trong những năm qua, nhiều chính sách tín dụng đã được
hình thành để thực hiện công tác an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông
thôn mới trên toàn quốc như chính sách tín dụng cho các đối tượng thuộc diện chính
sách xã hội… Đặc biệt, nhằm tăng cường những ưu đãi về tín dụng đối với nông
nghiệp, nông thôn ngày 12/4/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 41/2010/NĐ-
CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Theo chính
sách tín dụng, kể từ ngày 1/6/2010, cá nhân, hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp
có thể được xem xét cho vay không có bảo đảm bằng tài sản tối đa đến 50 triệu đồng.
Cũng với hình thức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, các hộ kinh doanh, sản
xuất ngành nghề hoặc làm dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn được xem xét cho
vay tối đa đến 200 triệu đồng; hợp tác xã, chủ trang trại được xem xét cho vay tối đa
đến 500 triệu đồng. Các đối tượng trên phải nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(đối với các đối tượng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) hoặc được
UBND cấp xã xác nhận chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đất
không có tranh chấp. Đây là một trong những nội dung quan trọng của Nghị định
41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn
vừa được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành.
Tính đến ngày 31/12/2012, tổng nguồn vốn của Ngân hàng Chính sách Xã hội đạt
119.026 tỷ đồng; tổng dư nợ đạt 113.919 tỷ đồng, tăng 10.188 tỷ đồng so với năm
2011 với hơn 7 triệu khách hàng còn dư nợ, tập trung chủ yếu vào 6 chương trình tín
dụng là: cho vay hộ nghèo 41.560 tỷ đồng, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn
35.802 tỷ đồng, hộ gia đình sản xuất kinh doanh vùng khó khăn 12.871 tỷ đồng, nước
66
sạch và vệ sinh môi trường nông thôn 10.631 tỷ đồng, giải quyết việc làm 5.662 tỷ
đồng và cho vay hỗ trợ hộ nghèo làm nhà ở 3.833 tỷ đồng. Dư nợ 6 chương trình này
chiếm gần 97% tổng dư nợ… [100].
Theo báo cáo của NHNo&PTNT, tính đến 31/8/2013 dư nợ cho vay đối với lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn đạt 359.474 tỷ đồng, tăng 39.398 tỷ đồng (tăng 12,3%) so
với cuối năm 2012, chiếm tỷ lệ gần 70,1% tổng dư nợ cho vay. Dư nợ cho vay hộ sản
xuất và cá nhân tăng 29.369 tỷ đồng (tăng 12%), chiếm tỷ trọng 53,6%/tổng dư nợ.
Dư nợ cho vay các chương trình tăng trưởng tốt: Cho vay thu mua, chế biến, xuất
khẩu thủy sản đạt 26.529 tỷ đồng, tăng 2.597 tỷ đồng (tăng 10,9%); cho vay lương
thực đạt 16.922 tỷ đồng, tăng 1.035 tỷ đồng( tăng 6,5%); cho vay chăn nuôi 68.024 tỷ
đồng, tăng 8.612 tỷ đồng (tăng 14,5%) [92].
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tính đến cuối tháng 5/2013, dư nợ cho vay
trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đạt khoảng 585.000 tỷ đồng, tăng 4,2% so với
cuối năm 2012. Trong đó, dư nợ cho vay tại khu vực ĐBSCL đạt khoảng 117.489 tỷ
đồng, tăng 6% so với cuối năm 2012, chiếm 41% tổng dư nợ tại các tổ chức tín dụng
trong khu vực. Cụ thể, tính đến hết tháng 5/2013 dư nợ cho vay thu mua lúa gạo cả
nước đạt khoảng 28.993 tỷ đồng. Riêng tại khu vực ĐBSCL, dư nợ cho vay thu mua lúa
gạo đạt khoảng 22.167 tỷ đồng, tăng 30% so với thời điểm cuối năm 2012; cho vay xuất
khẩu gạo đạt khoảng 9.552 tỷ đồng, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm 2012. Đối với
chương trình cho vay thu mua tạm trữ 1 triệu tấn quy gạo vụ hè thu 2013, tính đến
01/7/2013, các tổ chức tín dụng trên địa bàn khu vực ĐBSCL đã cho vay đạt 2.644,46
tỷ đồng, tương đương với khối lượng thu mua là 342.961 tấn quy gạo [92].
Nhằm khuyến khích các cá nhân, tổ chức, hộ gia đình tham gia áp dụng quy trình
thực hành sản xuất nông nghiệp tốt VietGAP, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 01/QĐ-TTg ngày 09/01/2012 về một số chính sách hỗ trợ việc áp dụng Quy
trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) trong nông nghiệp, lâm nghiệp và
thủy sản.. Theo đó, các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình sản xuất, sơ chế các loại sản phẩm
nông lâm thủy sản an toàn thuộc danh mục sản phẩm được hỗ trợ do Bộ NN&PTNT và
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định thuộc đối tượng được hưởng
chính sách hỗ trợ. Khi đáp ứng đủ 2 điều kiện: (i) Áp dụng VietGAP trong sản xuất, sơ
67
chế sản phẩm; (ii) Có hợp đồng tiêu thụ và phương án tiêu thụ sản phẩm, thì tổ chức, cá
nhân, hộ gia đình được hưởng chính sách hỗ trợ của Chính phủ. Cụ thể: NSNN đầu tư
100% kinh phí về điều tra cơ bản, khảo sát địa hình, phân tích mẫu đất, mẫu nước, mẫu
không khí để xác định các vùng sản xuất tập trung thực hiện các dự án sản xuất nông
lâm thủy sản áp dụng VietGAP do cấp có thẩm quyền phê duyệt; NSNN hỗ trợ: Không
quá 50% tổng vốn đầu tư xây dựng, cải tạo: đường giao thông, hệ thống thủy lợi, trạm
bơm, điện hạ thế, hệ thống xử lý chất thải, hệ thống cấp thoát nước của vùng sản xuất
tập trung để phù hợp với yêu cầu kỹ thuật VietGAP; Hỗ trợ một lần kinh phí thuê tổ
chức chứng nhận đánh giá để được cấp Giấy chứng nhận sản phẩm an toàn;… Ngoài
các chính sách ưu đãi trên, các tổ chức, cá nhân có dự án đầu tư sản xuất, sơ chế sản
phẩm áp dụng VietGAP còn được hưởng các chính sách hỗ trợ và ưu đãi khác theo các
quy định hiện hành.
Bốn là, thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo: Chương trình xoá đói giảm
nghèo đã được thực hiện ở Việt Nam từ năm 1998 và vẫn tiếp tục được thực hiện sau
khi Việt Nam gia nhập WTO. Mục tiêu của chương trình là giảm tỷ lệ hộ nghèo theo
các mốc thời gian và tăng việc làm có thu nhập cao hơn ở nông thôn. Chính phủ đã
ban hành các hệ thống chính sách về giảm nghèo toàn diện cho các huyện nghèo, xã
nghèo, thôn bản đặc biệt khó khăn, hộ nghèo. Một số chương trình lồng ghép như:
Các chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng xã hội, các chính sách hỗ trợ cho hộ nghèo...
được triển khai đồng bộ, có hiệu quả.
Điểm nổi bật trong chính sách giảm nghèo mà Chính phủ hướng tới là các hộ cận
nghèo, hộ mới thoát nghèo, nhằm hạn chế tình trạng tái nghèo, bảo đảm giảm nghèo
bền vững. Thủ tướng Chính phủ cũng đã quyết định nâng mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y
tế cho một số đối tượng cận nghèo, chính sách vay vốn tín dụng ưu đãi đối với hộ mới
thoát nghèo, cho vay ưu đãi có tính lãi suất với hộ nghèo để nâng cao ý thức và trách
nhiệm sử dụng vốn. Mặc dù điều kiện suy thoái kinh tế, NSNN có nhiều khó khăn,
song giai đoạn 2006-2012 đã bố trí cho các chương trình, chính sách vùng dân tộc và
miền núi với tổng kinh phí trên 54.770 tỷ đồng, trong đó, giai đoạn 2006 - 2010 là
34.175 tỷ, giai đoạn 2011 - 2012 là 20.601 tỷ đồng [65, tr.6]. Các chương trình giảm
nghèo trong năm 2011, 2012 đã đạt được những kết quả đáng mừng, vượt chỉ tiêu, kế
hoạch đề ra. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước bình quân giảm hơn 2%/năm; tỷ lệ hộ nghèo ở 62
68
huyện nghèo bình quân giảm hơn 7%/năm; hơn 1 triệu lượt hộ nghèo được vay vốn tín
dụng ưu đãi để phát triển sản xuất; hơn 500 nghìn hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở [65,
tr.8]. Ngân hàng Thế giới cũng đã đánh giá tỷ lệ giảm nghèo ở Việt Nam giảm từ 60%
xuống còn 20,7% trong 20 năm (1990-2010) với khoảng 30 triệu người. Nhiều nước
và tổ chức quốc tế coi Việt Nam là điểm sáng thành công trong xóa đói, giảm nghèo.
Năm là, thực hiện ưu đãi nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào
nông nghiệp
Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tư
vào nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể, Nghị định số 61/2010/NĐ-CP miễn giảm 70%
tiền sử dụng đất cho các nhà đầu tư có dự án nông nghiệp ưu đãi đầu tư; miễn, giảm,
hỗ trợ tiền thuê đất, thuê mặt nước của Nhà nước; hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực từ 50
- 100% đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ có dự án nông nghiệp đặc biệt ưu
đãi đầu tư; hỗ trợ 50 - 70% chi phí quảng cáo, phát triển thị trường; hỗ trợ 30 - 50%
kinh phí tư vấn thực tế để thuê tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ; hỗ trợ 50%
kinh phí thực hiện đề tài nghiên cứu và 30% tổng kinh phí đầu tư mới để thực hiện dự
án sản xuất thử nghiệm; hỗ trợ cước phí vận tải).
Sau hơn 3 năm triển khai, Nghị định 61 chưa thực sự thể hiện vai trò được kỳ vọng là
đột phá thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn. Vì vậy, Nghị định
210/2013/NĐ-CP, bên cạnh việc giữ lại những ưu điểm của Nghị định 61, đã bổ sung
những điểm mới: Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan thực hiện; quy trình nhận hỗ
trợ, điều kiện nhận ưu đãi hỗ trợ rõ ràng, minh bạch; có văn bản cam kết hỗ trợ, khi khi
doanh nghiệp hoàn thành đầu tư thì được hưởng chính sách để doanh nghiệp an tâm đầu
tư; những hỗ trợ nhỏ (đào tạo, quảng cáo..) được trừ vào chi phí của doanh nghiệp khi
quyết toán thuế, không cần hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách; có hỗ trợ trực tiếp từ ngân
sách Trung ương cho các địa phương còn khó khăn về ngân sách để xây dựng cơ sở hạ
tầng thiết yếu. Những sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 210 là một bước chuyển biến tích
cực, là cơ sở để kỳ vọng việc thu hút doanh nghiệp sẽ đạt kết quả khả quan hơn, góp
phần tăng nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn; phát triển thị trường tiêu thụ
nông sản; thúc đẩy công nghệ sản xuất và chế biến nông sản; đổi mới hình thức tổ
chức sản xuất và liên kết giữa các thành phần kinh tế ở nông thôn. Ngoài ra Chính
sách này sẽ đưa được doanh nghiệp về nông thôn, miền núi, giảm sức ép dân số lên
69
các đô thị lớn, phân bố lại dân cư theo hướng không tập trung dân quá đông vào các
trung tâm, hình thành các vùng nông thôn gắn với công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của cả nước; giảm sức ép đối với bảo vệ rừng đặc dụng và bảo tồn biển.
Sáu là, hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch
Hiện nay, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch của mặt hàng lúa gạo nước ta là 12%-13%, còn
rất cao so với tỷ lệ 4%-5% của Nhật, 7%-10% của Thái Lan. Nguyên nhân là do thiếu
điều kiện bảo quản sản phẩm sau khai thác, thiếu máy móc, thiết bị làm sạch, sấy khô lúa,
kho dự trữ gây tổn thất sau thu hoạch lúa gạo… Để giảm thiểu những tổn thất trên, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 63/QĐ-TTg ngày 15/10/2010 về chính sách hỗ
trợ giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản và Quyết định 65/QĐ-TTg
ngày 02/12/2011 sửa đổi, bổ sung Quyết định 63. Nông dân sẽ được hỗ trợ 100% lãi suất
trong hai năm đầu và 50% lãi suất trong năm thứ ba khi vay vốn ưu đãi mua máy móc có
tỷ lệ nội địa từ 60% trở lên (theo danh mục do Bộ NN&PTNT quy định). Quyết định 63
là chính sách tín dụng được người dân kỳ vọng là đòn bẩy để giảm tổn thất sau thu hoạch
trong chuỗi sản xuất nông nghiệp. Theo số liệu tổng hợp của NHNN Việt Nam đến
31/3/2013, tổng dư nợ cho vay theo Quyết định 63 và 65 là 1.328,7 tỷ đồng. Trong đó:
Dư nợ cho vay hỗ trợ 100% lãi suất tại các NHTM nhà nước đạt 687,2 tỷ đồng, tăng
13,14% so với cuối năm 2012. Số khách hàng còn dư nợ gồm 16 doanh nghiệp, 3 hợp tác
xã và 7.300 lượt hộ gia đình và cá nhân. Dư nợ cho vay áp dụng lãi suất tín dụng đầu tư
tại NHNN đạt 641,56 tỷ đồng, tăng 20% so với thời điểm 31/12/2012 với 28 doanh
nghiệp, 3 cá nhân đang có dư nợ [8, tr.3].
Bảy là, thí điểm thực hiện bảo hiểm nông nghiệp
Nhằm giúp nông dân bớt thiệt hại khi gặp rủi ro, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 315/QÐ-TTg về việc thí điểm thực hiện bảo hiểm nông nghiệp (BHNN)
giai đoạn 2011 - 2013 tại 20 tỉnh. Mức hỗ trợ của Nhà nước và đối tượng được cụ thể
như sau: Hỗ trợ 100% phí bảo hiểm cho hộ nông dân, cá nhân nghèo; 80% phí bảo
hiểm cho hộ nông dân, cá nhân cận nghèo; 60% phí bảo hiểm cho hộ nông dân, cá nhân
không thuộc diện nghèo, cận nghèo và 20% phí bảo hiểm cho tổ chức sản xuất nông
nghiệp sản xuất nông nghiệp tham gia thí điểm bảo hiểm nông nghiệp.
70
Sau hơn 2 năm triển khai hoạt động thí điểm BHNN, những kết quả đạt được cho
thấy đây là đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Dù BHNN là một lĩnh vực hoàn toàn
mới, song vượt qua những khó khăn, thách thức, Bộ Tài chính, Bộ NN&PTNT đã khẩn
trương xây dựng các quy định pháp lý quan trọng, nghiên cứu, tiếp thu và sửa đổi, bổ
sung kịp thời nhằm nhanh chóng tháo gỡ những vướng mắc, những quy định chưa phù
hợp với thực tiễn ở một số địa phương, đặc biệt bảo đảm cao nhất quyền lợi bảo hiểm cho
bà con nông dân tham gia bảo hiểm. Chẳng hạn như mở rộng rủi ro được bảo hiểm; bổ
sung đối tượng được bảo hiểm, làm rõ quy trình công bố, xác nhận thiệt hại làm căn cứ
bồi thường thiệt hại được nhanh chóng; sửa đổi, bổ sung một số điều của quy tắc, biểu phí
và mức trách nhiệm BHNN... Trong quá trình triển khai thí điểm, nghiên cứu những thực
tế phát sinh và những ý kiến phản ánh từ những người trong cuộc, các cơ quan quản lý đã
tiếp tục nâng quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. Cụ thể, nâng mức năng suất được
bảo hiểm đối với cây lúa lên 90% năng suất bình quân xã hoặc của đơn vị được bảo hiểm
và áp dụng cho tất cả các địa phương triển khai thí điểm BHNN đối với cây lúa (thay cho
mức 80% quy định tại Quyết định 3035/QĐ-BTC). Cùng với đó, phí bảo hiểm cũng được
giảm từ 4,97% đến 20% áp dụng cụ thể đối với cây lúa trên từng địa bàn. Với vật nuôi,
phí này được giảm từ 10% đến 50% phí bảo hiểm áp dụng cụ thể đối với từng đối tượng
vật nuôi. Mức bảo hiểm của bò sữa cũng được nâng lên 60 triệu đồng thay cho mức 35
triệu đồng trước đó. Những quy định mới này đã tăng thêm quyền lợi cho người được bảo
hiểm, do vậy người dân đã bày tỏ sự phấn khởi, tin tưởng vào chính sách BHNN của Nhà
nước, đồng thời mong muốn BHNN sẽ được tiếp tục thực hiện trên diện rộng với thời
gian lâu dài hơn.
Ngày 06/5/2013, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 57/TT-BTC sửa đổi, bổ
sung Thông tư 121/2011/TT-BTC, theo đó mức hỗ trợ phí BHNN đối với hộ nông
dân, cá nhân cận nghèo được nâng lên 90% từ mức 80% hiện hành. Chính nhờ việc
kịp thời ban hành các chính sách liên quan nên đã nhận được sự đánh giá rất cao của
các tỉnh tham gia thí điểm, doanh nghiệp bảo hiểm và bà con nông dân. Theo Ban Chỉ
đạo thí điểm BHNN, tính đến tháng 5/2013, đã có hơn 234 nghìn hộ dân tham gia ký
hợp đồng bảo hiểm (trong đó có hơn 80% là hộ nghèo), với giá trị bảo hiểm cây trồng,
vật nuôi và thủy sản là 5 nghìn tỷ đồng.
Tám là, thực hiện tạm trữ lúa gạo với mục đích hỗ trợ trực tiếp cho nông dân
71
Chính sách thu mua tạm trữ lúa, gạo của nông dân với mục tiêu giúp nông dân có
lãi 30% mà Chính phủ thực hiện mỗi khi bước vào thời điểm thu hoạch trong nhiều
năm qua được nhìn nhận là một chủ trương đúng và phù hợp với tình hình, giúp tạo
điều kiện cho nông dân, doanh nghiệp chủ động trong thu hoạch, tiêu thụ lúa, góp
phần kiềm chế tình trạng sụt giá. Mỗi năm Chính phủ dành nhiều nghìn tỷ đồng không
tính lãi cho các doanh nghiệp tham gia thu mua tạm trữ lúa gạo thực hiện chủ trương
này, Không thể phủ nhận sự cần thiết của chính sách thu mua tạm trữ lúa gạo, bởi nó
không chỉ bảo đảm thu nhập cho nông dân mà còn là biện pháp bảo vệ gạo Việt Nam
trước sự biến động về giá trên thị trường quốc tế.
Mục đích của chính sách này nhằm tạo những điều kiện thuận lợi tối đa hỗ trợ
người trồng lúa và các doanh nghiệp tạm trữ lúa gạo trong vụ thu hoạch đông xuân và
hè thu hàng năm, giảm áp lực tiêu thụ trong chính vụ sản xuất, nâng cao giá bán cũng
như thu nhập cho người trồng lúa, tránh được nghịch cảnh được mùa rớt giá vì lúa ế.
Chủ trương quy định vào các tháng 2 và 3 hàng năm sẽ triển khai mua tạm trữ khoảng
1 triệu tấn quy gạo của vụ đông xuân. Đến tháng 7, 8, 9 hàng năm sẽ tiếp tục mua tạm
trữ thêm 1 - 1,5 triệu tấn quy gạo của vụ hè thu. Thu mua tạm trữ lúa gạo được tổ chức
định kỳ hàng năm cho người nông dân chứ không phải cứ khi nào giá lúa gạo bị rớt thì
mới tạm trữ.
3.1.2.2. Những hạn chế trong hỗ trợ tài chính cho nông dân
Mặc dù có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất của nông dân, nhưng hỗ trợ
tài chính của Nhà nước đối với nông dân thời gian cũng còn có một số hạn chế:
Chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp chưa gắn được trách nhiệm
của nông dân với quy hoạch và trách nhiệm với xã hội về chất lượng nông lâm thủy
sản, dẫn đến phổ biến tình trạng lúc thừa, lúc thiếu, dư lượng chất độc hại trong nông
sản lớn, ảnh hưởng đến kinh tế và sức khỏe của toàn dân. Tương tự như vậy, chính
sách miễn, giảm thủy lợi phí còn thiếu chế tài trong quản lý, tạo ra tâm lý ỷ lại trong
nông dân, không sử dụng nước tiết kiệm, không phù hợp với nhu cầu nước của cây
trồng (ví dụ như cây lúa, tưới phải có thời gian để phơi, lộ ruộng, nhưng nông dân
luôn đòi hỏi tưới ngập cả vụ), thậm chí có tình trạng lấy nước kênh tưới xả xuống
kênh tiêu… coi nước như của “trời cho”.
72
Chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn cơ chế
tài chính quy định còn chưa rõ, chưa quy định nguồn cụ thể để đầu tư; thủ tục để nhận
các khoản hỗ trợ còn rườm rà và phức tạp; một số nội dung hỗ trợ (vận tải, tư vấn, phát
triển thị trường…) chưa phù hợp với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp; thiết kế còn
phức tạp, khó tính toán các khoản hỗ trợ nên chưa tạo đột phá thu hút doanh nghiệp đầu
tư vào “tam nông”. Qua số liệu tổng hợp chưa đầy đủ của 40 tỉnh, thành phố từ tháng
4/2011 đến nay, hiện mới chỉ có 9/40 tỉnh cấp “Giấy xác nhận ưu đãi, hỗ trợ đầu tư bổ
sung cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn” cho 42 dự án của 42 doanh
nghiệp trên tổng số 25.760 doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn [53].
Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nguyên nhân chính khiến Nghị định
61 chưa đi vào thực tế đời sống là do suy thoái kinh tế thế giới cùng với nền kinh tế
trong nước gặp nhiều khó khăn. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới bộ phận doanh
nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa là đối tượng tác động của Nghị định.
Thêm vào đó, mức hỗ trợ từ ngân sách và các chính sách về thuế, thuê đất, hỗ trợ đào
tạo, công nghệ, tư vấn… chưa đủ hấp dẫn để thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là các vùng khó khăn gần như không thu hút được
doanh nghiệp.
Tác dụng của tín dụng ngân hàng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn và cải thiện đời sống nông dân chưa đạt mục tiêu mong muốn. Tỷ trọng công
nghiệp, dịch vụ trong GDP của nông nghiệp và kinh tế nông thôn cũng như thu nhập
của nông dân từ các hoạt động phi nông nghiệp còn thấp, chưa gắn kết được nông
nghiệp với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ, tiềm năng kinh tế đồi rừng và
miền ven biển ở nhiều vùng chưa được khai thác. Quá trình triển khai các chính sách hỗ
trợ lãi suất vốn vay vẫn tồn tại không ít khó khăn, vướng mắc. Cơ chế chính sách đối
với nông thôn hiện còn nhiều bất cập khiến cho người nông dân khó khăn khi tiếp cận
nguồn vốn vay. Đơn cử điển hình là chính sách hỗ trợ cho nông dân mua máy móc nông
nghiệp theo Quyết định 63. Điều kiện quá cao, đòi hỏi tỷ lệ nội địa hóa của các loại máy
móc phải trên 60%, trong khi đó chất lượng công nghệ máy móc sản xuất trong nước
chưa đáp ứng được yêu cầu. Thực tế nông dân khu vực ĐBSCL rất khổ sở với một số
73
máy nội địa. Họ lại phải mua máy móc ngoại để đáp ứng kịp thời mùa vụ cũng như
không dám “làm phép thử” đối với máy nội địa. Rõ ràng, bên cạnh việc hỗ trợ nông
dân, với Quyết định 63, những người hoạch định chính sách hy vọng sẽ khuyến khích
tiêu thụ sản phẩm cơ khí nội địa. Kinh nghiệm từ các nước có nền nông nghiệp tiên
tiến cho thấy, muốn nông nghiệp phát triển luôn cần ngành cơ khí chế tạo máy hiện
đại. Phát triển ngành cơ khí nông nghiệp là việc phải làm, nhưng trách nhiệm đó
không thể “đặt lên đôi vai vốn đã chịu quá nhiều sức nặng” của nông dân. Quyết định
63 nhằm mục đích giảm tổn thất sau thu hoạch và khi lồng ghép thêm những sứ mệnh
về bảo hộ ngành cơ khí trong nước, sẽ chỉ dồn thêm khó khăn cho nông dân.
Theo Nghị định 41, mức vay đối tượng kinh tế trang trại đến 500 triệu đồng bằng
hình thức vay tín chấp nhưng cũng phải nộp sổ đỏ. Vấn đề này khiến nhiều nông dân
băn khoăn bởi nộp sổ đỏ mà vay tín chấp thì chẳng khác nào là hình thức thế chấp.
Những khó khăn trên đang là trở lực ảnh hưởng tới quá trình triển khai vốn tín dụng
cho nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy rất cần đến sự phối hợp tham gia tích cực từ phía
các cấp, ngành, địa phương để cùng tháo gỡ giúp khơi thông nguồn vốn này. Đặc biệt,
các địa phương cần đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ
gia đình, cá nhân, bởi đây là một trong những điều kiện để nông dân tiếp cận được
nguồn vốn của ngân hàng.
Hiệu quả của gói kích cầu nông nghiệp về hỗ trợ lãi suất vay vốn theo Quyết định
497 và Quyết định 2213 của Chính phủ, do vướng nhiều thủ tục nên vẫn chưa phát
huy hiệu quả, rất ít nông dân tiếp cận nguồn vốn này. Phần lớn nông dân ngại vay vốn
kích cầu, bởi còn nhiều thủ tục ràng buộc. Với vốn vay ưu đãi nếu hộ nào có đủ điều kiện
theo quy định thì mới được cho vay và được hưởng chế độ ưu đãi. Phần lớn số hộ đều
nằm trong diện có nhu cầu vay vốn, trước đó đã vay và đang có hồ sơ thế chấp tại ngân
hàng nên khi có chủ trương mới và muốn vay theo chế độ hưởng lãi suất hỗ trợ phải trả
hết nợ cũ hoặc nếu không thì phải làm hồ sơ mới và có tài sản khác thế chấp thì mới đủ
điều kiện được vay. Mặt khác, các loại máy móc, thiết bị mà nông dân vùng trồng lúa
thường sử dụng phần lớn sản xuất ở nước ngoài, nhiều loại máy móc sản xuất trong nước
lại lắp ráp một số linh kiện của nước ngoài. Trong khi đó, muốn được hưởng hỗ trợ lãi
suất, nông dân phải mua theo đúng danh mục hàng hóa sản xuất trong nước. Đây cũng là
74
một trong những bất cập gây khó khăn cho người nông dân khi tiếp cận nguồn vốn. Thêm
một lý do khiến gói kích cầu cho nông nghiệp, nông thôn chưa thông là thông tin đến
người dân còn chưa đủ, thực tế, đa phần nông dân còn hiểu ít về chủ trương này...
Bảng 3.3: Những khó khăn khi nông dân Việt Nam tiếp cận với
các nguồn vốn của các tổ chức tín dụng
Các khó khăn Tỷ lệ (%)
Thủ tục hành chính phức tạp 55,2
Điều kiện cho vay chặt chẽ 35,0
Chi phí vay vốn không chính thức lớn 16,2
Nông dân thiếu năng lực xây dựng dự án và phương án trả nợ vốn vay 77,4%
Nguồn: [17, tr.418 - 419]
Các sản phẩm tín dụng cung ứng của đa phần các trung gian tài chính còn đơn
điệu. Các sản phẩm tín dụng của hệ thống TCTD cung cấp cho khu vực nông thôn chủ
yếu là các sản phẩm truyền thống như cho vay theo món, cho vay hạn mức và cho vay
tài trợ dự án. Các sản phẩm tín dụng chuyên biệt cho khu vực nông nghiệp, nông thôn
thường được nhắc đến chỉ gồm cho vay lưu vụ, cho vay thu mua nông sản vụ hè thu.
Hình thức cho vay qua tổ nhóm đôi khi còn mang tính hình thức, sự liên kết giữa các
thành viên trong nhóm không cao, và trách nhiệm của nhóm trưởng chủ yếu chỉ là đại
diện. Xét về số lượng các loại hình dịch vụ sẵn có, tính hiệu quả và chi phí của các
dịch vụ tài chính, cũng như một số yếu tố khác, chất lượng tiếp cận đang còn ở mức
thấp. Đặc biệt, nguồn tài chính trung và dài hạn dành cho mọi đối tượng không sẵn
có. Hơn nữa, các vấn đề về chính sách, pháp lý và thể chế đã dẫn đến tình trạng kém
hiệu quả trong việc huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính, tạo ra nguy cơ kém
bền vững cho các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính nông thôn và tới sự sẵn có của
các loại hình dịch vụ này.
Nông dân chưa thực sự được đảm bảo lợi ích từ chủ trương mua tạm trữ lúa gạo.
Có thể nhận thấy rằng, chính sách tạm trữ lúa gạo là một cách làm không mang lại
hiệu quả trực tiếp cho nông dân. Thực tế là Nhà nước hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp
xuất khẩu mua gạo trên thị trường, việc làm này tác động tăng cầu tiêu thụ gạo đẩy giá
lúa trên thị trường tăng 100 - 200 đồng/kg. Đây là cái lợi gián tiếp mà nông dân có thể
75
được hưởng. Tuy nhiên, không phải hộ nông dân nào cũng đợi được đến lúc triển khai
chương trình mới bán thóc. Vì vậy lợi ích mang lại cho nông dân nghèo rất ít ỏi. Việc
hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp xuất khẩu giúp họ giảm chi phí cho việc thu mua
gạo, tức là mua được giá rẻ, và đương nhiên doanh nghiệp cũng sẵn sàng xuất khẩu
với giá rẻ hơn mà lợi nhuận không bị suy giảm. Thêm nữa, nhà xuất khẩu sẵn sằng
bán giá rẻ vì họ có một chân hàng rất dồi dào trong nước, và họ sẽ tiếp tục xuất khẩu
lô thứ 2, 3… tổng hợp lại là lợi nhuận của họ cao hơn nhiều so với việc họ dự trữ và
chờ giá cao mới xuất hàng. Vì vậy, chính sách hỗ trợ tạm trữ gạo lại vô tình đẩy giá
xuất khẩu gạo Việt Nam xuống thấp. Với giá thấp đó lợi ích nhà xuất khẩu không hề
suy giảm, còn người nông dân chịu mọi thua thiệt, càng làm càng lỗ.
3.1.3. Hỗ trợ phát triển cơ sở kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn
3.1.3.1. Thực trạng hỗ trợ phát triển cơ sở kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn
Về cơ bản, xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH. Đó cũng là yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh, mạnh và bền vững. Xuất phát từ thực tiễn tiến hành
công nghiệp hoá trước đây và căn cứ vào thực trạng kinh tế của nước ta cũng như yêu
cầu đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong thời kỳ mới, đòi hỏi phải không
ngừng phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là kết cấu hạ tầng nông thôn làm yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững. Thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều chính sách,
chương trình, dự án đẩy mạnh kết cấu hạ tầng nông thôn thông qua hàng loạt những
chương trình mục tiêu: Nước sạch, cứng hoá kênh mương, phát triển hệ thống giao
thông nông thôn, chương trình kiên cố hoá trường học, chương trình phát triển mạng
lưới điện nông thôn; chương trình phát triển hệ thống chợ nông thôn với chủ trương
Nhà nước và nhân dân cùng làm…đã làm cho bộ mặt của nông thôn thay đổi, nâng
cao đời sống nông dân, tạo điều kiện cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn phục vụ CNH, HĐH đất nước. Việc sửa đổi Thông tư liên tịch số
26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC ngày 13/4/2011 về hướng dẫn một số nội
dung thực hiện QĐ số 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 là việc
làm hết sức cần thiết để phù hợp với tình hình mới, góp phần đẩy nhanh tiến độ thực
hiện chương trình xây dựng nông thôn mới trên toàn quốc và là một bước tiến quan trọng
trong công tác chỉ đạo của Nhà nước. Các nội dung sửa đổi bao gồm: sửa đổi, bổ sung
76
căn cứ thực hiện theo Quyết định 695/QĐ-TTG ngày 8/6/2012 sửa đổi nguyên tắc cơ chế
hỗ trợ vốn thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Quyết
định sửa đổi bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới; sửa đổi nội dung về dự án hỗ trợ phát
triển sản xuất và ngành nghề nông thôn theo hướng giao cho địa phương quyết định nội
dung thực hiện, chính sách và mức hỗ trợ cho phù hợp thực tiễn nhằm thúc đẩy phát triển
sản xuất hàng hoá tập trung, nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập... Về nguồn vốn
thực hiện chương trình, sửa đổi, bổ sung theo Quyết định 695/QĐ-TTG ngày 8/6/2012,
giao quyền chủ động cho HĐND, UBND tỉnh, đảm bảo mục tiêu của các chương trình,
tăng tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của địa phương, tăng cường vai trò giám sát
của HĐND... Theo số liệu tổng hợp, giai đoạn 2006-2011, sau khi Việt Nam chính thức
trở thành thành viên của WTO, tổng vốn đầu tư công cho phát triển kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo ở nông thôn là 279.240 tỷ đồng, bằng 64,52%
tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn Bên cạnh đó, hàng năm Nhà nước chi
khoảng 8.000 tỷ đồng từ nguồn thu từ xổ số kiến thiết cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh
tế - xã hội phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn [42]. Kết cấu hạ tầng nông thôn
tiếp tục được nâng cấp và hoàn thiện, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, bộ mặt
nông thôn có nhiều đổi mới.
Trong những năm gần đây, thực hiện đường lối đẩy nhanh CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn, Nhà nước đã ưu tiên đầu tư xây dựng mới và nâng cấp hệ thống
các công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nhiều công trình thủy lợi quan
trọng đã và đang được đầu tư xây dựng góp phần tăng cường năng lực tưới tiêu, góp
phần ngăn mặn, phát triển sản xuất nông nghiệp. Thời gian qua, các địa phương đã
xây dựng, tu bổ, sửa chữa và nâng cấp hơn 3.000 công trình thủy lợi gồm: bờ bao,
cống, trạm bơm phục vụ tưới tiêu; trong đó nạo vét, tu sửa gần 7.000 km kênh mương.
Đến năm 2011 cả nước có gần 16 nghìn trạm bơm nước phục vụ sản xuất NLTS trên
địa bàn xã, tăng 7.130 trạm (+81%) so với năm 2001. Năm 2011, bình quân 1 xã có
1,8 trạm bơm nước (2006 là 1,5 trạm), trong đó: những vùng nhiều nhất là ĐBSH (3,7
trạm/xã), ĐBSCL (2,5 trạm/xã), Bắc Trung Bộ - Duyên hải miền Trung (1,4 trạm/xã);
thấp nhất là vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ chỉ đạt mức 0,2 trạm/xã. Thực hiện
chủ trương kiên cố hoá kênh mương, những năm qua, hệ thống kênh mương do
xã/hợp tác xã quản lý đã được kiên cố hóa trên 40 nghìn km, chiếm 23,2% tổng chiều
dài kênh mương (năm 2001 là 12,4%, năm 2006 là 18,8%) [71, tr.22].
77
Nhờ những nỗ lực đó, tính đến nay, hệ thống thủy lợi đã đáp ứng được gần
74% nhu cầu sản xuất, dân sinh, với tổng năng lực tưới của hệ thống đạt 3,45 triệu ha
đất canh tác, đảm bảo tưới cho 6,92 triệu ha trồng lúa, khoảng 1,5 triệu ha rau màu và
cây công nghiệp ngắn ngày. Tỷ lệ tưới tiêu chủ động đã tăng từ 80% năm 2008 lên
hơn 90% vào năm 2013, đảm bảo tiêu thoát nước cho 1,72 triệu ha đất nông nghiệp,
góp phần đáng kể vào việc tăng năng suất, sản lượng và chất lượng các loại cây trồng.
Hệ thống điện đến các xã được đầu tư, mở rộng và đạt được nhiều kết quả khích lệ.
Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược xoá đói giảm nghèo
và thực hiện công bằng xã hội nhằm không ngừng nâng cao điều kiện sống, phát triển
sản xuất và cung cấp dịch vụ tốt hơn cho nông thôn. Theo báo cáo sơ bộ về kết quả tổng
điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản năm 2011 của Ban Chỉ đạo Tổng điều tra
nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản Trung ương, nếu như năm 1994, cả nước mới có
60,4% số xã và 50% số thôn có điện, thì đến năm 2006, con số tương ứng này là 98,9%
và 92,4%. Trong vòng 5 năm tiếp theo, con số này không ngừng được nâng cao. Đến
năm 2011, đã có tới 99,8% số xã và 95,5% số thôn có điện [71, tr.20].
Bảng 3.4: Tỷ lệ xã, thôn có điện và hộ nông thôn sử dụng điện (%)
Năm
Cả nước
Đồng bằng sông Hồng
Trung du và miền núi phía
Bắc
Bắc Trung bộ và DHMT
2006
2011
2006
2011
2006
2011
2006
2011 Tỷ lệ thôn
có điện
92,39
95,55
98,59
99,34
84,1
89,19
96,2
98,14 Tỷ lệ hộ nông
thôn sử dụng điện
94,2
98,0
99,8
99,9
88,4
94,5
97,0
98,9 Tỷ lệ xã
có điện
98,9
99,8
98,9
99,85
96,7
99,69
99,0
99,72
Tây Nguyên 2006 89,36 97,0 99,3
2011 98,04 97,0 100,0
Đông Nam bộ
2006
2011
Đồng bằng sông Cửu Long 2006
2011 97,04
98,67
97,92
99,44 93,9
98,7
90,2
97,1 100,0
100,0
99,92
100,0
Nguồn: [71, tr.20-21]
78
Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, hệ thống giao thông nông
thôn cũng không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đây là tiền đề rất
quan trọng để các địa phương thu hút các nhà đầu tư về khu vực nông thôn, góp phần
giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động và giải quyết được nhiều
vấn đề về kinh tế - xã hội khác. Tính đến tháng 7 năm 2011, cả nước đã có 8.940 xã
có đường ô tô đến trụ sở UBND xã, chiếm 98,6 tổng số xã trong cả nước. Trong đó có
8.803 số xã có đường ô tô đi lại được quanh năm; 7.917 số xã có đường ô tô được
nhựa hoá, bê tông hoá. Điểm đáng chú ý, hệ thống giao thông đến cấp thôn được chú
trọng và phát triển mạnh, với 89,5% số thôn có đường ô tô có thể đi đến [71, tr.22].
Đây cũng là điều kiện rất quan trọng để giúp khu vực nông thôn phát triển kinh tế và
nâng cao khả năng giao lưu về văn hoá, giáo dục,… của cư dân nông thôn.
Bảng 3.5: Giao thông nông thôn theo vùng
Thôn có
Xã có đường
Xã có đường
Xã có đường đến
ô tô đến trụ
ô tô đến
UBND xã được
đường xe ô tô
sở UBND xã
quanh năm
nhựa/bê tông hoá
đi đến được
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
8.940
98,6
8.803
97,1
7.917
87,3
72.367 89,5
Cả nước
Đồng bằng sông Hồng
1.937
99,6
1.935
99,5
1.909
98,2
14.806 97,2
Trung du và miền núi phía bắc 2.259
99,5
2.167
95,4
1.602
70,5
22.892 85,4
Bắc Trung bộ và DHMT
2.455
99,2
2.430
98,1
2.251
90,9
20.226 95,8
Tây Nguyên
598
100,0
588
98,3
517
86,5
5.870 96,7
Đông Nam bộ
478
99,8
478
99,8
473
98,8
2.971 98,7
ĐBSCL
1.213
93,1
1.205
92,5
1.165
89,4
5.602 64,8
Nguồn: [71, tr.22]
Hệ thống trường học, giáo dục mầm non ở nông thôn tiếp tục được mở rộng và
phát triển. Nếu như năm 1994, chỉ có 76,6% số xã có trường trung học cơ sở, thì đến
năm 2011, tỷ lệ này đã lên tới 93,2%. Cũng đến năm 2011, số xã có trường tiểu học
đạt tới 99,5%. Cùng với sự phát triển của hệ thống trường học tại cấp xã, các cơ sở
nhà trẻ, mẫu giáo đã phát triển và mở rộng đến cấp thôn. Đến nay, đã có 45,5% số
thôn có lớp mẫu giáo, 15,6% số thôn có nhà trẻ [71, tr.23].
79
120
100
80
Xã có tru?ng ti?u
h?c (%)
60
40
Xã có tru?ng
THCS (%)
20
Xã có tru?ng
PTTH (%)
0
Hình 3.2: Tỷ lệ xã có trường học phân theo các vùng
C? nu?c
ÐBSH
ÐNB
ÐBSCL
TD-
MNPB
BTB-
DHMT
Tây
Nguyên
Nguồn: [71, tr.23]
Từ 2006 đến nay, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết 26 về “tam nông”, Nhà nước
đã ưu tiên đầu tư xây dựng mới và nâng cấp hệ thống các công trình thuỷ lợi phục vụ
sản xuất. Nhờ đó thêm nhiều diện tích canh tác được tưới, tiêu góp phần tăng năng
suất, sản lượng cây trồng. Đến năm 2011 cả nước có gần 16 nghìn trạm bơm nước
phục vụ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã, tăng 7.130 trạm, bình quân 1 xã có 1,8
trạm bơm nước (2006 là 1,5 trạm), trong đó: những vùng nhiều nhất là ĐBSH (3,7
trạm/xã), ĐBSCL (2,5 trạm/xã), Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (1,4
trạm/xã); thấp nhất là vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ chỉ đạt mức 0,2 trạm/xã.
Thực hiện chủ trương kiên cố hoá kênh mương, những năm qua, hệ thống kênh
mương do xã/hợp tác xã quản lý đã được kiên cố hóa trên 40 nghìn km, chiếm 23,2%
tổng chiều dài kênh mương (năm 2001 là 12,4%, năm 2006 là 18,8%). Đến 01/7/2011
có 6.682 xã chiếm 73,6% tổng số xã cả nước có hệ thống thuỷ lợi cơ bản đáp ứng
yêu cầu sản xuất và dân sinh, trong đó xã đồng bằng, trung du đạt 85,4%, xã miền núi
đạt 67,6%, xã vùng cao đạt 53,9% và xã hải đảo đạt gần 25,5% [71, tr.22 - 23].
Hệ thống mạng lưới thông tin, văn hoá, thể thao nông thôn cũng có sự phát triển
mạnh mẽ, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đến năm 2011,
đã có 81,5% số xã có hệ thống loa truyền thanh đến thôn; 38,7% số xã có nhà văn hoá
xã; 48% số xã có sân thể thao xã. Cùng với việc xây dựng các nhà văn hoá xã, hệ thống
nhà văn hoá thôn, khu thể thao thôn đã hình thành và phát triển nhanh. Đến năm 2011,
đã có 61,7% số thôn có nhà văn hoá; 21,9% số thôn có khu thể thao thôn [71, tr.26].
80
Bảng 3.6: Nhà văn hóa, hệ thống loa truyền thanh ở nông thôn phân theo vùng
Thôn có nhà
Xã có nhà văn
Xã có hệ thống loa
hóa
văn hóa
truyền thanh đến thôn
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ (%)
lượng
(%)
lượng
(%)
3.511
38,7 49.897
61,7
7.389
81,5
Cả nước
Đồng bằng sông Hồng
1.014 0
52,2 10.825
71,1
1.925
99,0
Trung du và miền núi phía Bắc
665
29,3 16.282
60,8
1.194
52,6
Bắc Trung bộ và DHMT
1.013
40,9 16.559
78,4
2.068
83,5
Tây Nguyên
149
24,9 3.331
54,9
478
79,9
Đông Nam bộ
244
50,9
1.316
43,8
471
98,3
ĐBSCL
426
32,7 1.584
18,3
1.253
96,2
Nguồn: [71, tr.23]
Hệ thống y tế ở vùng nông thôn cũng được đặc biệt quan tâm đầu tư mở rộng và
nâng cấp về chất lượng. Đến năm 2011, đã có 9.016 xã (chiếm tỷ lệ 99,39%) có trạm
y tế với 7.055 xã (chiếm 77,8%) đạt chuẩn quốc gia về y tế xã. Để phục vụ và chăm
sóc sức khoẻ cộng đồng nhân dân tốt hơn, hệ thống y tế cơ sở tiếp tục được chú ý và
mở rộng đến cấp thôn. Đến năm 2011, có 94,2% số thôn có cán bộ y tế thôn. Điểm
đáng chú ý, việc mở rộng mạng lưới y tế của Nhà nước, hệ thống khám, chữa bệnh tư
nhân đã hình thành và từng bước phát triển, đã góp phần quan trọng trong công tác xã
hội hoá chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Đến nay, cả nước có 33,2% số xã có cơ sở
khám, chữa bệnh tư nhân trên địa bàn và 68,5% xã có cơ sở kinh doanh thuốc tây y.
Cùng với việc mở rộng hệ thống chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, việc cung cấp
nước sạch cũng có bước phát triển mới. Đến năm 2011, cả nước có 45,5% số xã có
công trình cấp nước sinh hoạt tập trung. Tỷ lệ dân được dùng nước sạch đến năm 2012
là 82%. Vệ sinh môi trường từng bước được cải thiện. Tính đến 01/7/2011 cả nước có
1.674 xã và 6.891 thôn đã xây dựng hệ thống thoát nước thải chung, chiếm tỷ lệ 18,5%
số xã và 8,5% số thôn (năm 2006 các tỷ lệ tương ứng là 12,2% và 5,6%) [71, tr.27].
81
Chợ nông thôn đã được kiên cố hoá một bước, nhưng tỷ lệ chợ trên địa bàn xã đạt
tiêu chuẩn còn thấp. Chợ nông thôn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển nền
kinh tế hàng hoá, kích thích trao đổi hàng hoá giữa các vùng và trong nội bộ nhân dân
trên địa bàn. Năm 2011 cả nước có hơn 5,2 nghìn xã có chợ, chiếm 57,6% số xã. Số
chợ trên địa bàn xã được xây dựng kiên cố và bán kiên cố trên địa bàn xã tăng so với
năm 2006. Năm 2011 số chợ được xây dựng kiên cố và bán kiên cố đạt 66,6% (năm
2006 đạt 53,3%). Tỷ lệ chợ xây dựng kiên cố và bán kiên cố không chênh lệch nhiều
giữa các vùng. Tại các vùng miền núi, vùng cao và hải đảo tuy có nhiều khó khăn
nhưng năm 2011 tỷ lệ xã có chợ đạt như sau: xã miền núi 54,5%; xã vùng cao 31% và
xã hải đảo 37%, trong đó: chợ được xây dựng kiên cố và bán kiên cố lần lượt là 65%,
73% và 69% [71, tr.27]. Nhờ đó đồng bào các dân tộc vùng miền núi, vùng cao, hải
đảo có điều kiện thuận lợi hơn để trao đổi hàng hoá và giao lưu văn hoá với các xã
trong vùng cũng như các xã miền xuôi, góp phần phát triển sản xuất, nâng cao đời
sống vật chất và văn hoá, tinh thần.
Hình 3.3: Đánh giá tác động của hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng đối với sự phát
5.70%
31.50%
Có tác động tốt
Chưa có chuyển biến
Ý kiến khác
62.80%
triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân
Nguồn: [17, tr.427]
3.1.3.2. Hạn chế trong hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn
Tuy kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đã đạt được nhiều kết quả tích cực,
nhưng vẫn còn những tồn tại cần sớm được giải quyết.
Phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn chưa thực sự đồng đều giữa
các vùng. Vùng ĐBSH và Đông Nam Bộ có bước phát triển nhanh nhất, trong khi các
vùng ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên phát triển chậm hơn.
82
Điều này là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự phát triển không đồng đều giữa
các vùng, làm gia tăng khoảng cách về phát triển chung. Nhiều ý kiến cho rằng, sự tụt
hậu về phát triển kinh tế của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là khu vực miền núi
phía Tây Bắc rất nghiêm trọng; khoảng cách giàu nghèo ngày càng xa hơn. Tỷ lệ đói
nghèo của địa bàn này lớn. Theo số liệu của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, cả
nước hiện còn trên 3 triệu hộ nghèo và trên 1,6 triệu hộ cận nghèo. Bốn tỉnh có tỷ lệ
hộ nghèo cao nhất đều tập trung ở miền núi phía Bắc, trong đó Điện Biên là tỉnh có tỷ
lệ hộ nghèo cao nhất, ở mức 50%. Các tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang, tỷ lệ hộ
nghèo vẫn chiếm từ 40-50%.
Nguồn lực đầu tư cho “tam nông” còn hạn chế, hiện mới đáp ứng 55%-60% nhu
cầu do đó tỷ lệ dành cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn không nhiều. Mặc
dù đã có những nỗ lực từ phía nhà nước, nhưng đầu tư xã hội cho khu vực này giảm
cả về tỷ trọng từ 6,45% năm 2008 xuống còn 4,7% năm 2012 và giảm về giá trị thực.
Vẫn còn những thiên lệch trong đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng trong các ngành
nông, lâm nghiệp và trong các vùng sinh thái. Việc quá tập trung cho thuỷ lợi, trong
thuỷ lợi lại tập trung vào cây lúa dẫn đến các cây trồng khác chưa được chú trọng
đúng mức, nhất là các cây công nghiệp và cây ăn quả. Tình trạng trên đã ảnh hưởng
tiêu cực đến sản xuất như cà phê, cây ăn quả bị khô hạn, năng suất thấp…
Nguồn lực đầu tư vẫn chủ yếu dựa vào NSNN, chưa huy động được nguồn lực
đầu tư của toàn xã hội. Vốn FDI trong nông nghiệp, nông thôn còn thấp và có xu
hướng giảm dần, chỉ chiếm 1,63% trên tổng vốn đầu tư. Đặc biệt, đầu tư trực tiếp
nước ngoài giảm từ 8% năm 2001, thì đến năm 2006 con số này chỉ còn 7,4%, năm
2007 còn 5,37%, năm 2008 là 3% và các năm 2009, 2010, 2011 chỉ còn 1% và xuống
còn chưa đầy 1% trong năm 2012. Tính chung trong vòng 20 năm, từ 1990 đến 2010,
FDI cho nông nghiệp chỉ đạt 4,3 tỷ USD (chiếm 2,3%), tức bình quân mỗi năm chỉ thu
hút được 215 triệu USD. Đây chỉ là vốn đăng ký, vốn thực tế thực hiện dự án còn thấp
hơn nhiều. Trong tổng vốn 218,84 tỷ USD còn hiệu lực tính lũy kế đến cuối tháng
6/2013 chỉ có 3,3 tỷ USD đầu tư vào nông, lâm nghiệp, thủy sản với xấp xỉ 500 dự án,
bằng 3% so với tổng số dự án đang được đầu tư (15.067 dự án) [53].
83
Năm
2007
2008
2009
2010
2011
2012
5/2013
Tổng vốn FDI đăng ký (triệu USD) 21.348,8 71.725,8 23.107,5 18.590,0 15.618,7 16.348 8.170
Số dự án FDI
1.544
1.171
1.208
1.237
1.191
1.287
398
Vốn FDI đăng ký trong nông
10,71
1.146,43 331,98 134,5
141,5
99,4
*
nghiệp (triệu USD)
Số dự án FDI trong nông nghiệp
*
53
29
21
17
4
*
Tỷ trọng vốn FDI cho nông nghiệp (%)
5,37
4,63
0,6
0,91
0,61
0,13
*
Bảng 3.7: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp sau gia nhập WTO
Nguồn: [77, tr.167-168].
40%
Công nghiệp - Xây
dựng (58,4%)
Nông nghiệp (1,6%)
Dịch vụ (40%
58.40%
1.60%
Hình 3.4: Cơ cấu FDI phân theo ngành kinh tế 2008 - 2013
Nguồn: [77, tr.167, 173]
Không chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ về dự án và tổng vốn đầu tư mà các dự án FDI
trong nông nghiệp còn nhỏ về quy mô. Nếu như quy mô vốn đầu tư bình quân một dự
án FDI vào khoảng 14,7 triệu USD thì một dự án FDI nông nghiệp chỉ chiếm chưa tới
6,6 triệu USD, thấp xa so với quy mô bình quân một dự án kinh doanh bất động sản
(130 triệu USD) hoặc dự án trong lĩnh vực điện, khí (92,6 triệu USD) hay dự án trong
lĩnh vực tài chính, ngân hàng (17,6 triệu USD). Đáng chú ý là dù nước ta thu hút 42
quốc gia, vùng lãnh thổ tham gia đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nhưng
chủ yếu là các nhà đầu tư đến từ châu Á. Việt Nam vẫn chưa thu hút được các nhà đầu
tư từ các nước có thế mạnh về nông nghiệp như Hoa Kỳ, Canada, Australia... Vốn ODA
đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn cũng chẳng khá hơn. Giai đoạn 2006 -
2011, tổng giá trị hiệp định về tổng ODA đã được ký kết đạt hơn 26,897 tỉ USD, trong
đó trên 94% là nguồn vốn vay ưu đãi, tuy nhiên, vốn đầu tư dành cho nông nghiệp, thủy
lợi, lâm nghiệp, thủy sản chỉ có 3,833 tỉ USD (14,25%) [53].
Phân bổ vốn đầu tư luôn dàn trải, tiến độ dự án kéo dài,.. đi kèm theo đó là việc
đồng vốn đầu tư sẽ không phát huy được hiệu quả theo như dự kiến gây lãng phí cho
84
NSNN. Nhiều công trình hiệu quả đạt thấp do bố trí vốn đầu tư không đáp ứng tiến độ
theo kế hoạch được duyệt, đầu tư thiếu đồng bộ, thi công kéo dài gây lãng phí nguồn
lực; chất lượng công tác khảo sát, thiết kế còn chưa đạt yêu cầu ảnh hưởng tới chất
lượng và hiệu quả của công trình. Những khó khăn về giải phóng mặt bằng, giá cả
nguyên vật liệu biến động bất thường, Nhà nước thực hiện chính sách cắt giảm đầu tư
công, thời tiết bất thường, mưa lũ kéo dài, năng lực của chủ đầu tư và nhà thầu thi
công còn hạn chế, phải bổ sung, điều chỉnh nhiều lần đã làm tăng mức đầu tư.
Công tác quản lý nhà nước trong đầu tư nói chung và trong đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp nói riêng còn rất nhiều sơ hở, chưa thống nhất
từ trung ương đến địa phương về phương thức quản lý kém hiệu lực, thủ tục đầu tư
phức tạp,...Trong quản lý, thực hiện đầu tư vẫn còn nhiều sai phạm, nhiều dự án ODA
thời gian chuẩn bị kéo dài từ khâu đề xuất đến ký kết điều ước quốc tế cụ thể mất 2-3
năm; khi thực hiện phải điều chỉnh, bổ sung nhiều lần, tốc độ giải ngân nguồn vốn
chậm, làm giảm hiệu quả đầu tư. Cơ chế phân cấp về quyết định đầu tư và phân bổ vốn
theo hướng tăng cường quyền quyết định cho các cấp là phù hợp, nhưng thiếu các biện
pháp đồng bộ và tăng cường kiểm tra, kiểm soát đã dẫn tới tình trạng phê duyệt quá
nhiều dự án đầu tư mà không tính đến khả năng cân đối về nguồn vốn dẫn tới tình trạng
đầu tư bị phân tán, dàn trải, thời gian thi công kéo dài gây lãng phí, thất thoát nguồn lực
tài chính của Nhà nước.
3.1.4. Hỗ trợ nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ trong sản xuất
và chế biến nông sản
3.1.4.1. Thực trạng hỗ trợ nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ
trong sản xuất và chế biến nông sản
Vai trò của nghiên cứu KH - CN đối với việc tạo ra sự chuyển biến mạnh về năng
suất, chất lượng nông sản đã được Đảng và Nhà nước ta nhận thức rất rõ. Do vậy, đã
có nhiều nghị quyết, chính sách về nghiên cứu KH - CN phục vụ nông nghiệp được
ban hành.
Chính sách nghiên cứu KH - CN cho thời kỳ 1998 - 2010 được xác định rõ hơn
trong Nghị quyết 06-NQ/TW ngày 10/11/1998. Nghị quyết nhấn mạnh, cần phải đầu tư
đúng mức cho việc phát triển KH-CN trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn như
nghiên cứu và áp dụng giống mới tạo ra khâu đột phá về năng suất, chất lượng và khả
năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường khu vực và thế giới; phát
85
triển công nghệ chế biến, bảo quản để giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng cao chất lượng
sản phẩm; hỗ trợ và tạo điều kiện để đẩy mạnh việc nghiên cứu, sản xuất các loại máy
móc, thiết bị, công cụ phục vụ sản xuất chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản...
Nhà nước đã có chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học phục vụ mục tiêu
phát triển nền nông nghiệp bền vững, trong đó tập trung đáp ứng yêu cầu nâng cao
năng suất, chất lượng hàng hóa và hạ giá thành sản phẩm, đồng thời tạo ra nhiều mặt
hàng mới, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam. Nhà nước cũng
khuyến khích áp dụng những thành tựu mới về KH - CN vào một số lĩnh vực như
giống, chăm sóc bảo vệ cây trồng, vật nuôi (trong đó đặc biệt quan tâm phát triển các
loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật sinh học, các loại hình công nghệ phục vụ sản
xuất các sản phẩm nông nghiệp sạch), tưới tiêu và cơ giới hóa, bảo quản và chế biến
nông sản (nhất là chế biến nông sản sau thu hoạch, nâng cao giá trị và đa dạng hóa sản
phẩm, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế).
Nhà nước có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động
KH - CN như nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các kết quả nghiên cứu, đổi mới công
nghệ, sản xuất sản phẩm mới… Các doanh nghiệp này sẽ được miễn giảm thuế thu
nhập doanh nghiệp, ưu đãi tiền sử dụng đất, tiền thuế đất,… Nhà nước cũng đã chỉ đạo
thực hiện việc điều chỉnh và tổ chức lại các trường đại học, các viện nghiên cứu có
liên quan đến nông nghiệp như thành lập thêm một số trường đại học nông nghiệp, các
ngành học nông nghiệp, sáp nhập các viện nghiên cứu nhỏ lẻ, rải rác thành những viện
nghiên cứu lớn, đa ngành và được đặt ở những vùng trọng điểm của đất nước. Bước
đầu, Nhà nước đã quan tâm đầu tư về nguồn lực con người và phương tiện, nhất là
việc nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các phòng thí nghiệm.
Phát triển hệ thống khuyến nông nhà nước, xây dựng các mô hình trình diễn; tập
huấn, đào tạo nông dân về kỹ thuật, giống mới và kinh nghiệm tổ chức sản xuất, kinh
doanh; tổ chức hội thảo có sự tham gia của nông dân để họ trao đổi kinh nghiệm cho
nhau kết hợp tham quan thực điạ; cung cấp thông tin, tài liệu hướng dẫn thực hành kỹ
thuật nông nghiệp cho nông danh; tổ chức hội thi, tôn vinh nông dân làm ăn giỏi; phối
hợp với các cơ quan nghiên cứu, các tổ chức đoàn thể, công ty triển khai công tác
khuyến nông.
Hiện nay, tất cả 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều có trung tâm khuyến
nông (hoặc trung tâm khuyến nông - khuyến ngư) thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn. Ở cấp huyện hiện 596 huyện, thị xã có sản xuất nông nghiệp (chiếm 95,5% số
86
huyện, thị xã trong toàn quốc) đã có trạm khuyến nông (hoặc trạm khuyến nông - khuyến
ngư). Cấp xã hiện có 51 tỉnh, thành phố có mạng lưới khuyến nông viên cơ sở; ngoài ra
toàn quốc hiện có gần 10.000 câu lạc bộ khuyến nông cấp xã với khoảng 300.000 nông
dân tham gia [80, tr.3]. Nội dung hoạt động khuyến nông luôn bám sát thực tiễn sản xuất
và sự phát triển của KH - CN. Nhất là sau khi Việt Nam gia nhập WTO, bên cạnh việc
tiếp tục hỗ trợ ứng dụng kỹ thuật tăng năng suất, sản lượng để xoá đói giảm nghèo, nội
dung hoạt động khuyến nông đã chuyển dần sang chú trọng hỗ trợ các đối tượng nông
dân sản xuất hàng hoá, áp dụng kỹ thuật thâm canh hợp lý và công nghệ hiện đại để
tăng chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời chú trọng bồi dưỡng nâng
cao kỹ năng quản lý nông trại và kiến thức về thị trường cho nông dân để tiết kiệm chi
phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam
trên thị trường quốc tế, tăng thu nhập cho nông dân và đảm bảo phát triển bền vững.
Các chương trình khuyến nông về áp dụng thực hành nông nghiệp tốt (GAP) trong sản
xuất nông, lâm, thủy sản, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, liên kết chuỗi giá trị
nông sản từ sản xuất đến tiêu thụ theo mô hình “cánh đồng mẫu”, “trang trại mẫu” …
được triển khai rộng rãi và đạt kết quả rất tích cực. Trong những năm gần đây, hệ
thống khuyến nông cả nước đang tích cực tham gia các chương trình mục tiêu quốc
gia trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn như: chương trình đào tạo nghề
nông nghiệp cho lao động nông thôn, chương trình xây dựng nông thôn mới, chương
trình vệ sinh an toàn thực phẩm, chương trình phòng tránh và thích ứng với biến đổi
khí hậu. Kinh phí hỗ trợ từ nguồn NSNN đầu tư cho hoạt động khuyến nông thời kỳ
1993-2008 là 1.040,428 tỷ đồng. Như vậy, kinh phí dành cho hoạt động này trong
vòng 15 năm đã tăng 12,7 lần, bình quân tăng 8,5%/năm. Nhất là từ khi Việt Nam gia
nhập WTO, kinh phí từ NSNN dành cho hoạt động khuyến nông theo có sự gia tăng
qua các năm, bình quân 12%/năm, cụ thể: Năm 2007 151,26 tỷ đồng; năm 2008
172,74 tỷ đồng; năm 2009 là 178,2 tỷ đồng; năm 2010 198 tỷ đồng, năm 2011 là 222
tỷ đồng [80, tr.6].
Nhờ chính sách khuyến nông của Nhà nước, hệ thống khuyến nông được xây dựng
từ Trung ương đến cấp xã, thôn bản khắp các tỉnh trong cả nước và đạt được kết quả
đáng ghi nhận. Công tác thông tin tuyên truyền khuyến nông đã góp phần quan trọng
giúp hàng triệu hộ nông dân nắm bắt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về
lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, tiếp cận được các tiến bộ KH - CN mới,
87
các thông tin về thị trường, giá cả nông, lâm, thủy sản, các kinh nghiệm và các điển
hình sản xuất kinh doanh giỏi để tiếp tục nhân rộng ra sản xuất đại trà. Trong các
chương trình khuyến nông trọng điểm, đáng chú ý là chương trình khuyến nông phát
triển cây công nghiệp dài ngày (cà phê, chè, cao su, tiêu, điều…) được triển khai trên
nhiều tỉnh, góp phần mở rộng diện tích theo quy hoạch và cung cấp nguyên liệu cho các
cơ sở chế biến nông sản xuất khẩu. Chương trình khuyến nông lúa chất lượng cao, cây
công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả,… góp phần đẩy mạnh xuất khẩu lúa gạo, rau quả ở
vùng ĐBSCL và ĐBSH…, đặc biệt làm đa dạng hóa cây trồng, làm phong phú các mặt
hàng nông sản vùng ĐBSH và nhiều vùng khác, góp phần tăng thu nhập cho nông dân
nhờ gia tăng xuất khẩu nông sản… Kết quả khảo sát 2.400 hộ nông dân tại 30 tỉnh,
thành phố trong cả nước cuối năm 2012 của Trung tâm Khuyến nông quốc gia cho thấy:
74% nông dân được hỏi đánh giá các diễn đàn khuyến nông có tác dụng tốt đối với sản
xuất; 86% nông dân đánh giá các hội thi khuyến nông có tác dụng thiết thực; 80% nông
dân đánh giá các hội chợ nông nghiệp có tác dụng thúc đẩy giao lưu thương mại cho các
sản phẩm nông nghiệp ở các địa phương; 98% nông dân đánh giá các tài liệu khuyến
nông có nội dung phù hợp và thiết thực đối với sản xuất; khoảng 70% nông dân đánh
giá các chuyên mục, chuyên trang, tin bài khuyến nông trên các phương tiện thông tin
đại chúng của Trung ương và địa phương có nội dung thiết thực và tác dụng tốt đối với
sản xuất [80, tr.8].
Những đổi mới trong chính sách của Đảng và Nhà nước về KH - CN đối với
nông nghiệp, nông thôn thời gian qua đã tác động rất tích cực đối với sự phát triển của
khu vực này. Theo Bộ NN&PTNT trong giai đoạn 2001-2011, các hoạt động KH -
CN nông nghiệp và phát triển nông thôn đã đóng góp trực tiếp vào GDP của ngành
khoảng 35%. KH - CN được ứng dụng rộng rãi trong nông nghiệp đã có hiệu quả lớn,
góp phần đáng kể làm tăng năng suất và chất lượng của nông nghiệp trong những năm
qua. Đến nay, đã có trên 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô, 60% diện tích mía,
bông, cây ăn quả,... được dùng giống mới. Khoảng gần 90% giống cây trồng, vật nuôi
được chọn tạo, đưa tỷ trọng áp dụng giống tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp
lên 35%. Hiện tại, đã có nhiều địa phương đã và đang thực hiện tốt những ứng dụng
khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp do Nhà nước và doanh nghiệp đầu tư.
Điển hình như tỉnh Thái Bình, đã tập trung gieo trồng những cánh đồng mẫu lớn, cho
88
sản lượng lúa cao, tỉnh Hưng Yên liên tục đưa nhiều giống lúa có chất lượng cao, khả
năng chống chịu sâu bệnh tốt vào sản xuất. Còn tại tỉnh Hậu Giang, hiện có 88 máy
gặt đập liên hợp và 31 máy gặt lúa. Khi nông dân thu hoạch lúa bằng máy, chi phí thu
hoạch sẽ giảm 1/3 so với thu hoạch thủ công.
Trong 5 năm từ 2008-2012, có 4.386 đề tài nghiên cứu khoa học và dự án sản xuất
thử nghiệm tạo ra 273 giống cây trồng; lai tạo và chọn lọc thành công 29 dòng, giống
vật nuôi mới; 20 quy trình công nghệ về bảo vệ thực vật, chưa kể hơn 24 nghìn mẫu
nguồn gene quý hiếm của các loài cây trồng có ở Việt Nam với gần 20 nghìn gene đang
bảo tồn tại Ngân hàng gene quốc gia và trên 5 nghìn gene lưu giữ tại cơ quan mạng lưới
đang được Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam quản lý, đáp ứng cao nhất nhu cầu
sản xuất trong nước. Kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp nhờ đó không ngừng gia tăng
với tốc độ 24%/năm, và ước tính mỗi năm tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản cả nước
thu về khoảng 14 - 16 tỷ USD. Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã và đang có
nhiều mặt hàng có thị phần lớn và chiếm vị thế cao trên thế giới như: hạt điều, hạt tiêu,
lúa gạo, cà phê, cao su, chè và một số mặt hàng thủy sản… Điều đó thể hiện ở bảng 3.8.
Bảng 3.8: Các nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta từ năm 2007 – 2013
Đơn vị: tỷ USD
2007
2008
2009
2010
2011
2013
Nội dung
2012
Thủy sản
3,76
4,51
4,25
5,01
6,11
6,15
6,70
Gỗ và sản phẩm gỗ
2,40
2,83
2,59
3,43
3,95
4,68
5,37
Gạo
1,49
2,89
2,66
3,24
3,65
3,7
2,95
Cao su
1,39
1,60
1,20
2,38
3,23
2,85
2,75
Cà phê
1,91
2,11
1,73
1,85
2,75
3,74
2,52
Hạt điều
0,65
0,91
0,85
1,13
1,47
1,48
1,63
Sắn và sản phẩm
-
-
0,57
0,56
0,96
1,35
1,11
Hạt tiêu
0,27
0,31
0,35
0,42
0,74
0,80
0,90
Rau, quả
0,30
0,40
0,44
0,45
0,62
0,77
1,03
Nguồn: Tổng hợp từ www.gso.gov.vn và agroviet.gov.vn.
Hình 3.5: Giá trị của một số nông sản xuất khẩu chủ lực nước ta từ 2007 - 2013
Đơn vị: tỷ USD
Tỷ USD
7
6
2007
5
2008
2009
4
2010
3
2011
89
Nguồn: Tổng hợp từ www.gso.gov.vn và agroviet.gov.vn.
3.1.4.2. Những hạn chế trong hỗ trợ khoa học - công nghệ đối với nông dân
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chính sách hỗ trợ KH-CN còn có một số
hạn chế cần hoàn thiện:
Thứ nhất, việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp còn hạn chế. Phần lớn nông sản
xuất khẩu ở dạng sơ chế nên giá trị gia tăng thấp. Nhiều đề tài sau khi nghiệm thu
không triển khai được vào sản xuất do chất lượng kém và không xuất phát từ yêu cầu
thực tiễn; thậm chí có đề tài nghiệm thu xong rồi… để đó. Trong giai đoạn 2006 -
2010 có hơn 110 đề tài khoa học nhưng số lượng ứng dụng được vào thực tế chỉ
chiếm một phần nhỏ, số còn lại “cất trong ngăn kéo” sau khi được phê duyệt và tổ
chức nghiệm thu. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do cơ
chế chính sách còn bất cập, đầu tư thấp. Theo điều tra sơ bộ của Ngân hàng Thế giới
mới đây cho thấy, tổng đầu tư cho một cán bộ nghiên cứu ở Việt Nam chỉ bằng 9%
của Indonesia và Thái Lan, bằng 2,5% của Malaysia. Nếu nhìn vào con số trên, thật
khó để cán bộ KH-CN có động lực, hăng hái, dốc toàn tâm cho việc nghiên cứu.
Thứ hai, hỗ trợ của Nhà nước chưa đủ mạnh thu hút tư nhân tham gia nghiên cứu
KH-CN phục vụ sản xuất nông sản, đặc biệt là nông sản xuất khẩu. Do đó chưa huy
động và khai thác hết tiềm năng của các thành phần kinh tế trong lĩnh vực này. Trong
khi đó, hệ thống doanh nghiệp nhà nước, tuy có năng lực đầu tư cho nghiên cứu và ứng
dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất kinh doanh, song do chính sách bao cấp quá
lớn của Nhà nước nên họ không thực sự quan tâm đến việc đầu tư cho lĩnh vực này.
Thứ ba, kể từ khi chúng ta tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đến nay, chính sách
nghiên cứu khoa học đã được điều chỉnh song vẫn chưa chú trọng đúng mức tới nghiên
cứu lai tạo giống từ những giống đặc sản truyền thống mà vẫn quan tâm nhiều hơn tới
90
nhập khẩu giống từ nước ngoài. Do đó, tuy chất lượng nông sản xuất khẩu của Việt Nam
được cải thiện nhanh hơn nhưng vẫn phải cạnh tranh khó khăn với những nước mà ta
nhập khẩu giống của họ và những nước khác có giống nông sản chất lượng cao. Việt
Nam vẫn chưa có nhiều sản phẩm độc đáo mà các nước khác không có. Theo Bộ
NN&PTNT, hiện mỗi năm nước ta phải chi tới 200 triệu USD nhập khẩu các loại hạt
giống phục vụ ngành trồng trọt trong nước, rất nhiều loại hạt giống rau củ có thể sản xuất
trong nước như cà chua, dưa leo, đậu bắp, khổ qua... nhưng Việt Nam vẫn ồ ạt nhập khẩu.
Trong 60 giống cam trồng ở nước ta có tới 54 giống nhập khẩu, có 21/24 giống đủ đủ,
54/100 giống xoài cũng là giống nhập khẩu.
Thứ tư, chính sách nghiên cứu KH-CN sau thu hoạch chưa tạo được sự chuyển
biến vượt bậc về trình độ công nghệ, vẫn còn thua kém các nước trong khu vực. Ở
nước ta, tính trung bình tổn thất sau thu hoạch đối với cây có hạt khoảng 10%, đối với
cây củ là 10-20%, và đối với rau quả là 10-30%. Như vậy với tỷ lệ tổn thất này, ước
tính mỗi năm chúng ta bị mất khoảng 3.000 tỷ đồng - số tiền lớn hơn tổng thu ngân
sách trên địa bàn nhiều tỉnh. Ngay việc hoạch định chiến lược về phát triển công nghệ
sau thu hoạch cũng chưa được quan tâm đúng mức, công nghệ bảo quản, chế biến vẫn
còn thấp, chưa theo kịp được trình độ và năng lực sản xuất của nông dân. Bên cạnh
đó, tổn thất này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trước thu hoạch như: giống, phân bón,
cách thức chăm sóc, và việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật… Ngay chính nông dân,
những người trực tiếp sản xuất cũng chưa nhận thức được tầm quan trọng về bảo quản
nông sản sau thu hoạch, khiến cho mức độ và giá trị tổn thất lớn hơn rất nhiều so với
các nước trong khu vực. Đơn cử, giá trị gạo xuất khẩu của Việt Nam lại luôn thường
thấp hơn loại cùng phẩm cấp Thái Lan từ 20-30 USD/tấn, gây thiệt hại cho nhà sản
xuất mỗi năm tới 50-60 triệu USD. Đó là vì công nghệ sấy thóc gạo của chúng ta chưa
phát triển, thóc thường phơi trên các sàn đất, bê tông hay trên đường rải nhựa dẫn đến
độ rạn, gãy rất cao (30-40%), bên cạnh đó tỷ lệ sạn, cát vượt qua tiêu chuẩn cho phép.
Thứ năm, chính sách cung cấp thông tin chưa được ưu tiên đúng mức nên gây
khó khăn cho người sản xuất, thậm chí gây thiệt hại cho họ. Do thiếu thông tin, nông
dân đã mua nhầm giống kém chất lượng như nho không có quả, ngô không hạt, mua
nhầm thuốc diệt cỏ nhưng không chết cỏ mà lúa chết… Tình trạng sản xuất nông sản
theo phong trào của nông dân để rồi khi thu hoạch không biết tiêu thụ ở đâu là hệ quả
của tình trạng thiếu thông tin cho người sản xuất. Người nông dân luôn đứng trước
91
tình trạng “được mùa lại lo rớt giá”. Cho nên, tình trạng “trồng -chặt, chặt - trồng”
không ít loại cây đã xảy ra ở nhiều vùng trong cả nước.
Thứ sáu, chính sách của Nhà nước cũng chưa tạo được động lực mạnh khuyến
khích các đơn vị nghiên cứu, các nhà khoa học dồn hết tâm lực cho việc nghiên cứu
và chuyển giao các kết quả nghiên cứu. Đầu tư của Nhà nước cho các trường đại học,
các viện nghiên cứu cũng như cho các chương trình, các đề tài còn hạn chế; cơ sở vật
chất - kỹ thuật phục vụ cho nghiên cứu ứng dụng còn quá nghèo nàn, lạc hậu; chính
sách sử dụng, đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ khoa học thật sự chưa thỏa đáng; cơ chế
quản lý các hoạt động KH-CN vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến cả trong nghiên cứu cơ
bản và triển khai ứng dụng đều còn khá hạn chế, tất yếu dẫn đến kết quả là chúng ta
chưa tạo ra được nhiều sản phẩm KH-CN có giá trị đối với nền kinh tế nước nhà.
Thứ sáu, hoạt động khuyến nông Việt Nam trong thời gian qua cũng bộc lộ một
số tồn tại, hạn chế. Chất lượng và năng lực của cán bộ khuyến nông, nhất là cán bộ
khuyến nông cơ sở chưa đồng đều; nguồn lực đầu tư của Nhà nước cho khuyến nông
còn thấp, hoạt động khuyến nông theo kế hoạch hàng năm nên thiếu định hướng chiến
lược, thiếu sự lồng ghép gắn kết chặt chẽ giữa nguồn lực của trung ương và địa
phương, nguồn lực của nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, giữa nguồn lực trong
nước và quốc tế nên đầu tư vừa phân tán, dàn trải, vừa chồng chéo, nhiều nội dung
đầu tư hiệu quả chưa cao; Cơ chế, chính sách khuyến nông còn một số bất cập, chưa
có sự phân biệt rõ về khuyến nông phục vụ xóa đói giảm nghèo và khuyến nông phục
vụ sản xuất hàng hóa, cơ chế hỗ trợ khuyến nông hiện tại chủ yếu phù hợp với mô
hình nông hộ sản xuất quy mô nhỏ và trình độ công nghệ trung bình khá, chưa tạo
động lực mạnh đối với hộ sản xuất hàng hóa quy mô lớn và trình độ công nghệ cao.
Hình 3.6: Tác động của chính sách phát triển KH-CN đến sự phát triển nông
32.80%
4%
Có tác động tốt
Chưa có chuyển biến
Không áp dụng
Ý kiến khác
58.30%
nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân
4.90%
Nguồn: [17, tr.429]
3.1.5. Hỗ trợ nông dân tiêu thụ nông sản và tiếp cận thị trường
3.1.5.1. Thực trạng hỗ trợ nông dân tiêu thụ nông sản và tiếp cận thị trường
92
Phát triển thị trường, giải quyết vấn đề đầu ra cho nông sản được đặt ra như là
nhiệm vụ vừa cơ bản có tính chiến lược, vừa bức xúc nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế và luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Theo đó, nhiều
chính sách phát triển thị trường nông sản nhằm thúc đẩy việc tiêu thụ hàng hóa cho
nông dân được điều chỉnh, sửa đổi và ban hành mới. Đã có nhiều đổi mới trong lưu
thông và tiêu thụ nông sản. Chẳng hạn, theo Nghị định số 35/NĐ-CP ngày 24/5/1994,
Chỉ thị số 33/CT-CP ngày 25/4/994, nông sản hàng hóa được phép tự do lưu thông,
mọi thành phần kinh tế đều có quyền tham gia hoạt động xuất nhập khẩu nông sản,
thay đổi hệ thống và biểu thuế xuất nhập khẩu phù hợp với thông lệ quốc tế. Quyết
định 46/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 về việc quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ
2001-2005 là bước cải cách quan trọng trong chính sách thương mại. Qua đó, quy chế
điều hành xuất nhập khẩu ổn định và lâu dài hơn, doanh nghiệp được quyền chủ động
hơn trong xây dựng và thực hiện kế hoạch, công khai danh mục hàng hóa xuất nhập
khẩu cần giấy phép của Bộ Thương mại và một số điều kiện xuất nhập khẩu hàng hóa
đặc biệt, các hàng rào phi thuế được giảm bớt, tăng những công cụ kinh tế phù hợp
với tiến trình hội nhập.
Đặc biệt, Quyết định 80/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 về một số chính sách khuyến
khích tiêu thụ nông sản qua hợp đồng với các hỗ trợ của Nhà nước như: nông dân có thể
dùng quyền sử dụng đất để tham gia góp vốn, tham gia liên doanh, liên kết với doanh
nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản; Nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, doanh
nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản được thuê đất với giá ưu đãi; được vay vốn ưu đãi 0%
từ Qũy Hỗ trợ phát triển, Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu… đã mở ra hướng đi tích cực giúp cho
nông dân yên tâm sản xuất, sản xuất nông nghiệp gắn với chế biến, tiêu thụ, thu hút nhiều
doanh nghiệp và nông dân tham gia.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện Quyết định 80/QĐ-TTg cũng đã gặp một số vướng
mắc. Để khắc phục những vướng mắc đó, Bộ NN&PTNT chủ trương mở rộng phong
trào xây dựng “Cánh đồng mẫu lớn” trên cả nước, không chỉ trên cây lúa mà các cây
trồng khác. Mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” cụ thể hóa chủ trương xây dựng vùng sản
xuất hàng hóa tập trung gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm thông qua hợp đồng tại
Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg và Chỉ thị số 24/2003/CT-TTg về xây dựng vùng
nguyên liệu gắn với chế biến tiêu thụ, với mục tiêu là sẽ dần hình thành những vùng
nguyên liệu lúa chất lượng cao cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Sản xuất lúa theo
hướng VietGAP nhằm tiến tới việc nâng cao giá trị và chất lượng của hạt gạo Việt
93
Nam đối với thị trường tiêu thụ trong nước và thế giới. Mô hình còn mang ý nghĩa
“cánh đồng lớn nhưng trong đó có nhiều nông dân nhỏ” hay nói cách khác là một hình
thức tổ chức lại sản xuất trên cơ sở liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp, tập hợp
những nông dân nhỏ lẻ tạo điều kiện áp dụng những kỹ thuật mới và giải quyết đầu ra
ổn định và có lợi cho nông dân. Để áp dụng rộng rãi mô hình “cánh đồng mẫu lớn”
trong sản xuất, Bộ NN&PTNT đã có Chỉ thị số: 1965/CT-BNN-TT ngày 13/06/2013 đề
nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các đơn vị có liên
quan thuộc Bộ tập trung chỉ đạo đẩy mạnh liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo mô
hình “cánh đồng mẫu lớn” với các nội dung chủ yếu sau đây: 1) Đối với sản xuất lúa
gạo: Vùng ĐBSCL định hướng xây dựng “cánh đồng mẫu lớn” là tiến tới hình thành
vùng nguyên liệu lúa hàng hóa xuất khẩu chất lượng. Các vùng khác mở rộng áp dụng
đối với lúa gạo chất lượng cao để phục vụ thị trường trong nước là chủ yếu và một số
thị trường nước ngoài yêu cầu gạo đặc sản, gạo Japonica; ưu tiên tập trung đối với
vùng quy hoạch 300 nghìn ha lúa chất lượng cao tại ĐBSH; 2) Đối với sản xuất các
cây trồng khác: Tổng kết các mô hình liên kết 4 nhà trên mía, bông, thuốc lá theo
Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg và các mô hình “cánh đồng mẫu lớn” trên lúa để có
cơ sở bổ sung, hoàn thiện các mô hình đang triển khai; xây dựng đề án cho năm 2013
và các năm tiếp theo nhằm mở rộng liên kết sản xuất, tiêu thụ thông qua hợp đồng
theo mô hình “cánh đồng mẫu lớn”, ưu tiên đối với cây trồng sản xuất hàng hóa tập
trung như mía đường, cà phê, điều, chè, rau, quả an toàn. 3) Áp dụng các chính sách
hỗ trợ hiện có, đồng thời chủ động ban hành một số chính sách mới hỗ trợ các đối
tượng liên kết trong sản xuất, tiêu thụ một số sản phẩm nông nghiệp chủ lực, trong đó
ưu tiên thực hiện mô hình “cánh đồng mẫu lớn”.
Cũng để nhằm tăng cường chỉ đạo tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng, ngày
25/8/2008, Thủ tướng đã ra Chỉ thị số 25/CT-TTg yêu cầu các Bộ, Ban, ngành có liên
quan thực hiện tốt các chính sách có liên quan đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông
sản. Ngoài ra, còn có một loạt các chính sách khuyến khích khác như hỗ trợ lãi suất
vay vốn nhập khẩu phân bón dự trữ, phát triển thương mại miền núi, hải đảo và các
vùng dân tộc…
Cùng với việc phát triển thị trường trong nước, tìm kiếm thị trường quốc tế cho
nông sản Việt Nam cũng được chú trọng. Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Nhà
nước mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, duy trì phát triển quan hệ với thị trường
truyền thống, đồng cho những mặt hàng quan trọng như gạo, cao su, chè, cà phê, tơ
94
tằm, thịt, rau quả. Cuối những năm 90, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày
10/11/1998 xác định: thực hiện các biện pháp mở rộng thị trường xuất khẩu; có chính
sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các đơn vị sản xuất thuộc các thành
phần kinh tế đẩy mạnh xuất khẩu nông sản.
Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng hóa, Thủ tướng Chính phủ đã
ra Chỉ thị số 31/2001/CT-TTg ngày 13/11/2001 trong đó xác định định hướng chính
sách thị trường của Việt Nam: thực hiện phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa thị
trường và đối tác, hạn chế việc xuất khẩu một mặt hàng bị phụ thuộc vào một số ít thị
trường. Theo hướng đó, cần duy trì và mở rộng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào các
thị trường sẵn có, đồng thời có biện pháp phù hợp để thâm nhập các thị trường mới,
chú trọng thị trường có khả năng và dung lượng lớn như EU, Nhật Bản, Trung Quốc,
Nga, Hoa Kỳ, tìm cách thâm nhập và gia tăng sự hiện diện của hàng hóa Việt Nam ở
các thị trường châu Phi, Mỹ Latinh… Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu các bộ, ban
ngành hữu quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc xây dựng các
chương trình dự xuất khẩu có mục tiêu, trong đó xác định chính sách mặt hàng với
mức tăng trưởng cụ thể, để trong thời gian ngắn tạo được các sản phẩm xuất khẩu có
sức cạnh tranh.
Cục xúc tiến thương mại trực thuộc Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương) đã
được thành lập với nhiệm vụ, chức năng là giúp Bộ trưởng định hướng công tác xúc
tiến thương mại, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện chính sách xúc tiến thương mại;
nghiên cứu dự báo và định hướng thị trường trong và ngoài nước để phát triển thị
trường, sản phẩm thương mại, thu thập, xử lý và cung cấp thông tin thương mại, hỗ
trợ các doanh nghiệp xúc tiến thương mại. Để thực hiện chính sách này, Chính phủ đã
cho phép thành lập thí điểm các trung tâm giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại một số
nước, cho phép sử dụng Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu để hỗ trợ các doanh nghiệp và các hiệp
hội trong phát triển thị trường và đẩy mạnh xúc tiến thương mại. Các chương trình
xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia đã được tiến hành bao gồm: khảo sát thị
trường, cung cấp thông tin thương mại hỗ trợ doanh nghiệp, xây dựng thương hiệu
quốc gia, hội chợ triển lãm, điều tra tổng thể thị trường, mua thông tin, tham gia hội
chợ, festival quốc tế, tuyên truyền xuất khẩu, thu thập thông tin, quảng bá, giới thiệu
hàng xuất khẩu chủ lực…
95
Nhờ những nỗ lực trong hỗ trợ tiếp cận thị trường quốc tế, hàng nông sản Việt
Nam đã có mặt ở nhiều thị trường, đặc biệt là những thị trường có yêu cầu cao về chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm như EU, Hoa Kỳ… Việc chuyển hướng mạnh sang
các thị trường ở Đông Nam Á, Đông và Đông Bắc Á, Trung Đông (chiếm 50% tổng
kim ngạch xuất khẩu nông sản) đã tích cực khai thác được ưu thế về khoảng cách địa lý,
giảm chi phí hàng xuất khẩu. Một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực là thế mạnh
của đất nước, đồng thời là những mặt hàng có nhu cầu lớn trên thị trường thế giới như
gạo, cà phê, chè, tiêu, điều, cao su… luôn đạt tốc độ tăng trưởng kim ngạch khá cao.
Nhờ đó, giá trị nông sản xuất khẩu của Việt Nam luôn có sự tăng trưởng qua các năm.
Bảng 3.9: Tỷ trọng của giá trị nông sản xuất khẩu/tổng giá trị xuất khẩu
2008 2011 2007 2009 2010 2013 Nội dung 2012
12,60 16,07 15,34 19,15 25,10 27,54 27,48
48,6 62,9 56,6 71,6 96,6 114,6 132,17
Tổng giá trị nông sản xuất
khẩu (tỷ USD)
Tổng giá trị xuất khẩu
chung (tỷ USD)
Tỷ trọng (%) 25,9 25,6 27,0 26,7 26,0 24,0 20,8
Nguồn: Tổng hợp từ www.gso.gov.vn và agroviet.gov.vn.
Hệ thống thông tin thương mại quốc gia được hình thành, đáp ứng yêu cầu thông
tin thương mại cho người sản xuất, kinh doanh nông sản xuất khẩu, giúp các doanh
nghiệp có nhiều cơ hội tìm đối tác, xúc tiến giới thiệu, quảng bá hình ảnh và sản phẩm
của mình. Các doanh nghiệp được tham gia khảo sát thị trường mới, tham gia hội chợ
triển lãm quốc tế ở nước ngoài. Nhiều vấn đề nảy sinh đối với doanh nghiệp trong quá
trình thực hiện hiệp định thương mại được giải quyết thông qua các cuộc gặp gỡ giữa
các đoàn thương mại cấp Chính phủ. Việc ký kết hiệp định song phương được ký kết
trong những chuyến viếng thăm của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ với một số
nước Mỹ Latinh, châu Phi, Tây Nam Á… là sự khai thông rất quan trọng, mở ra nhiều
cơ hội cho các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sang những khu vực thị trường này,
nơi thị phần của doanh nghiệp Việt Nam còn ở mức hạn hẹp, nhất là đối với hàng nông
sản. Việc đổi mới phương thức xây dựng và thực hiện các chương trình xúc tiến thương
mại quốc gia từ năm 2006 với sự tham gia của nhiều bộ, đơn vị đã đảm bảo những hỗ
trợ của Chính phủ sát yêu cầu thực tế của các doanh nghiệp hơn, khách quan hơn.
96
Hình 3.7: Tăng trưởng kim ngạch nông sản xuất khẩu và tổng kim ngạch xuất
khẩu chung giai đoạn 2006 - 2013
140
120
100
80
Kim ngạch nông
sản
D
S
U
ỷ
T
60
40
Kim ngạch
chung
20
0
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
Nguồn: Tổng hợp từ www.gso.gov.vn và www.argoviet.gov.vn
Nhiều doanh nghiệp đã triển khai thực hiện tương đối tốt việc ký kết hợp đồng
sản xuất, tiêu thụ nông sản với nông dân; bước đầu xác lập mối quan hệ bền chặt giữa
sản xuất và chế biến, tạo ra vùng nguyên liệu ổn định cho chế biến xuất khẩu. Nhờ đó
sản phẩm sản xuất ra đảm bảo chất lượng, phẩm cấp đồng đều để chế biến, tiêu thụ và
xuất khẩu. Mặt khác doanh nghiệp chủ động kế hoạch sản xuất kinh doanh và sử dụng
có hiệu quả các trang thiết bị máy móc. Nông dân thông qua hợp đồng sản xuất, tiêu
thụ đã yên tâm đầu tư sản xuất, thực hiện tốt các biện pháp kỹ thuật và mạnh dạn đầu
tư chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, tăng năng suất sản lượng. Đặc biệt tạo động
lực cho các hộ nông dân tổ chức sản xuất theo mô hình trang trại, tạo ra khối lượng
sản phẩm hàng hóa lớn, hạ giá thành sản phẩm và tăng thu nhập. Tiêu thụ nông sản
thông qua hợp đồng cũng giúp người nông dân thay đổi cách thức làm ăn, thấy được
sự cần thiết và tự nguyện hợp tác với nhau. Mặt khác, bản thân các doanh nghiệp cũng
muốn ký hợp đồng với nông dân thông qua các tổ chức hợp tác để giảm thiểu các chi
phí quản lý. Từ đó hình thành các tổ chức hợp tác mới (tổ hợp tác, hợp tác xã), liên
doanh liên kết góp vốn cổ phần của nông dân trong các doanh nghiệp.
3.1.5.2. Những hạn chế trong hỗ trợ nông dân tiêu thụ nông sản và tiếp cận thị trường
97
Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nông dân vẫn chưa thực sự bền vững, liên kết
“4 nhà” chưa phát huy được tác dụng
Tỷ lệ nông sản hàng hóa được tiêu thụ thông qua hợp đồng giữa người sản xuất và
doanh nghiệp còn thấp. Mục tiêu “mở rộng phương thức ký hợp đồng tiêu thụ nông sản
để đến năm 2005 ít nhất 30% số lượng nông sản hàng hóa được tiêu thụ thông qua hợp
đồng” như được nêu tại Điều 7 của Quyết định 80/QĐ-TTg chỉ đạt được đối với một số
nông sản bao gồm mía, bông, sữa, chè, cao su. Hình thức hợp đồng chủ yếu được ký kết ở
một số doanh nghiệp và một số ngành hàng đã có kinh nghiệm áp dụng hình thức liên kết
thông qua hợp đồng từ nhiều năm trước, với những nông sản được sản xuất ở những vùng
sản xuất tập trung, quy mô lớn và do đặc tính của sản phẩm đòi hỏi phải có sự gắn kết
chặt chẽ giữa sản xuất và chế biến. Ở nhiều địa phương, đối với nhiều nông sản hàng hóa,
hình thức hợp đồng hầu như chưa được áp dụng và còn rất xa lạ đối với người sản xuất
cũng như doanh nghiệp.
Nhiều nông dân không thực hiện đúng hợp đồng, bán nông sản cho tư thương
hoặc doanh nghiệp khác với giá cao hơn hoặc các điều kiện khác hấp dẫn trước mắt.
Một số nông dân cố tình bán ra bên ngoài để lẩn tránh việc thanh toán các khoản đầu
tư ứng trước của doanh nghiệp theo hợp đồng. Nhiều doanh nghiệp chưa tôn trọng lợi
ích của người nông dân, không thực hiện đúng các điều khoản đã ký kết như cung ứng
vật tư không đúng chất lượng, đơn phương phá bỏ hợp đồng, không quan tâm đầu tư
cho vùng nguyên liệu…. Một số doanh nghiệp đã lạm dụng thế độc quyền để ép cấp,
ép giá trong thu mua nông sản, như đưa ra những yêu cầu quá cao về chất lượng để
khi thu mua giảm giá sản phẩm; sử dụng việc đánh giá phẩm cấp để ép giá (phân loại
quá nhiều phẩm cấp hoặc không rõ ràng, nhân viên thu mua đánh giá phẩm cấp sản
phẩm không đồng nhất…); trì hoãn việc thu mua khi chính vụ làm giảm chất lượng
nông sản; việc soạn thảo hợp đồng do áp đặt từ phía doanh nghiệp; thanh toán hợp
đồng chậm, chưa thật sòng phẳng. Đối với nhiều hợp đồng tiêu thụ đã được ký kết, tỷ
lệ thu hồi sản phẩm theo hợp đồng còn hạn chế, hiện tượng phá vỡ hợp đồng khá phổ
biến; các tranh chấp hợp đồng chậm giải quyết và không dứt điểm.
Nhiều doanh nghiệp chưa có chiến lược kinh doanh, đặc biệt chiến lược về thị
trường nên chưa gắn được sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp với người sản xuất
98
và vùng nguyên liệu; chưa đặt lợi ích của người sản xuất hài hoà với lợi ích của doanh
nghiệp; chưa tích cực đổi mới cơ chế tổ chức quản lý phù hợp với phương pháp làm ăn
mới; chậm đổi mới công nghệ nên năng lực cạnh tranh, năng lực sản xuất còn nhiều hạn
chế; thiếu cán bộ nông vụ, mạng lưới thu gom nông sản đến người nông dân dẫn tới
việc thực hiện liên kết với nông dân còn nhiều khó khăn.
Trình độ sản xuất, quản lý của người nông dân vẫn mang tính tiểu nông, chưa đáp
ứng kịp kiến thức theo yêu cầu sản xuất hàng hóa. Tiềm lực sản xuất, tiềm lực kinh tế
của hộ nông dân còn thấp, thiếu thông tin thị trường, các kiến thức về pháp luật, trong
khi thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước, của các tổ chức của nông dân. Các cơ quan chuyên
môn như Viện nghiên cứu, trường đại học còn chưa thực sự gắn giữa nghiên cứu khoa
học với sản xuất; chưa có kế hoạch cụ thể gắn kết với doanh nghiệp, người sản xuất
trong quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, mối liên kết giữa nông
dân, doanh nghiệp với các nhà khoa học còn lỏng lẻo.
Nhiều cơ chế chính sách trong Quyết định 80 không còn phù hợp với các quy
định hiện hành sau khi Việt Nam gia nhập WTO cần tiếp tục bổ sung hoàn thiện
Trong Quyết định 80, nhiều chính sách có liên quan đến việc tiêu thụ nông sản
hàng hóa thông qua hợp đồng không còn phù hợp với các quy định của tổ chức Thương
mại thế giới (WTO), như chính sách thuế, tín dụng, đầu tư, đất đai, xúc tiến thương mại,
chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật... cần được bãi bỏ và tiếp tục hướng dẫn những
vấn đề phát sinh như: chế độ bảo hiểm, bảo lãnh hợp đồng; các hình thức mua bán hiện
đại như thị trường giao dịch, quyền mua, quyền bán; thành lập hệ thống thông tin thị
trường; công tác kiểm soát chất lượng, xuất xứ hàng nông sản.... Đối với các quy định
về hợp đồng, mặc dù đã có các chế tài đủ mạnh nhưng vẫn còn khá chung chung, cần có
những văn bản dưới luật để cụ thể hóa các chế tài xử lý tranh chấp vi phạm hợp đồng.
Chiến lược thị trường chưa được xây dựng trên thế chủ động. Chẳng hạn, việc
chuyển hướng sang thị trường EU, Hoa Kỳ, châu Á khi gặp khó khăn do thị trường
Đông Âu tan rã, hoặc do khủng hoảng tài chính, tiền tệ gây ra khó có thể coi là một
chiến lược chủ động. Trong khi đó, nhiều thị trường gần như bị bỏ trống (châu Phi),
thị trường truyền thống chưa được khôi phục (các nước SNG) hay chưa được khai
thác tốt (Mỹ Latinh)… Điều đó không chỉ đặt xuất khẩu nông sản vào thế bị động về
thị trường do quá lệ thuộc vào một khu vực thị trường, mà còn hạn chế cơ hội chủ
99
động vươn xa của hàng nông sản Việt Nam. Chúng ta cũng chưa hình thành chính
sách xây dựng bạn hàng vững chắc, lâu dài với từng thị trường, nhất là các thị trường
trọng điểm. Do đó, các bạn hàng lớn chưa có nhiều và không ổn định. Nhiều trường
hợp phải xuẩt khẩu qua thị trường trung gian, làm giảm lợi ích, hạn chế việc thúc đẩy
xuất khẩu nông sản. Hơn nữa, chính sách xây dựng thị trường quốc tế hiện hành của
Việt Nam chưa đảm bảo tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về giá trị xuất khẩu nhờ
khai thác được lợi thế của từng khu vực thị trường mà vẫn thiên về ưu tiên mục tiêu
gia tăng khối lượng, chỉ tìm cách mở rộng thị trường mà chưa quan tâm đúng mức đến
việc xây dựng chính sách thị trường trên cơ sở phân đoạn thị trường theo các tiêu chí
khác nhau như khả năng thanh toán, nhu cầu giá rẻ, yêu cầu về chất lượng…
Kết cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam còn đơn điệu, thiếu linh hoạt, chưa
thích ứng với những biến động của thị trường nông sản thế giới, sản phẩm chế biến
sâu còn ít, chủ yếu là sản phẩm thô, nguyên liệu, sơ chế nên làm giảm giá trị xuất
khẩu. Xuất khẩu nông sản của Việt Nam hiện vẫn là những mặt hàng sẵn có và sản
phẩm có quy mô dễ khai thác.
Việc cung cấp thông tin về thị trường đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng
đầy đủ, kịp thời, chính xác, nhất là các dự báo dài hạn. Chẳng hạn, đầu năm 2009, Trung
Quốc áp dụng tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định của WTO nhưng
các doanh nghiệp Việt Nam không được biết, do đó hàng trăm tấn dưa hấu Việt Nam xuất
khẩu sang Trung Quốc bị ứ đọng ở cửa khẩu, gây thiệt hại lớn cho các doanh nghiệp xuất
khẩu. Nhiều loại cao su của Việt Nam có chất lượng tốt nhưng vẫn phải bán thấp hơn giá
thế giới do không có thông tin đầy đủ, chính xác.
Chưa có mạng lưới làm công tác xúc tiến thương mại sâu rộng ở các thị trường trên
thế giới, chính sách xây dựng thương hiệu nông sản chưa được quan tâm đúng mức. Do
đó, người tiêu dùng thế giới dùng nông sản Việt Nam mang nhãn hiệu, thương hiệu nước
khác mà họ rất ít hiểu biết về nông sản Việt Nam. Chính sách xúc tiến thương mại chưa
đảm bảo cho nông sản Việt Nam chen chân được vào các “ngách” của thị trường, còn
nhiều “khoảng trống” trên thị trường thế giới mà Việt Nam chưa có cơ hội lấp đầy. Chính
sách xúc tiến thương mại cũng mới tập trung vào cầu xuất khẩu mà chưa chú trọng tới
cung xuất khẩu, tức là chưa quan tâm đúng mức tới chất lượng nông sản, khả năng cung
ứng với khối lượng và chất lượng ổn định của các doanh nghiệp.
3.1.6. Hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho nông dân
100
3.1.6.1. Thực trạng hỗ trợ đào tạo đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho
nông dân
Hiện nay, tỷ lệ lao động đang làm việc ở nông thôn chiếm gần 70%, làm việc trong
lĩnh vực nông nghiệp chiếm 51%. Để đáp ứng nhu cầu nhân lực của một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, cần phải chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu lao động trong nông
thôn (mục tiêu đến năm 2020 chỉ còn 30% lao động trong nông nghiệp) và đào tạo nghề
có sứ mạng rất lớn, góp phần rất quan trọng vào việc chuyển dịch này. Nghị quyết số 26-
NQ/TW ngày 5-8-2008 của Ban chấp hành Trung ương (khóa X) đề ra: “Giải quyết việc
làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi chương trình phát triển kinh
tế - xã hội của cả nước”. Chính vì thế, hỗ trợ giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho lao
động nông thôn đã được Đảng và Nhà nước quan tâm. Trong những năm gần đây, nhờ
nền kinh tế của nước ta liên tục tăng trưởng cao, cân đối thu chi NSNN bước đầu đã có
những chuyển biến theo hướng tích cực, vì vậy Nhà nước có điều kiện thực hiện một số
chính sách xã hội hỗ trợ khu vực nông thôn, nhất là những xã vùng sâu, vùng xa, vùng
đặc biệt khó khăn. Nhiều chủ trương, chính sách và chương trình hành động về hỗ trợ
việc làm và đào tạo nghề cho nông dân đã và đang được thực hiện.
Một trong những nhiệm vụ chủ yếu trong Chương trình hành động của Chính phủ
là: Xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nguồn nhân lực nông thôn.
Tập trung xây dựng kế hoạch và giải pháp đào tạo cho bộ phận con em nông dân đủ
trình độ, năng lực vào làm việc ở các cơ sở công nghiệp, thủ công nghiệp và dịch vụ và
chuyển nghề; bộ phận nông dân còn tiếp tục sản xuất nông nghiệp được đào tạo về kiến
thức và kỹ năng để thực hành sản xuất nông nghiệp hiện đại; đồng thời tập trung đào tạo
nâng cao kiến thức cho cán bộ quản lý, cán bộ cơ sở.
Một số mô hình dạy nghề đã bước đầu triển khai có hiệu quả, như mô hình đào
tạo nghề cho lao động ở các vùng chuyên canh, vùng nguyên liệu cho các cây công
nghiệp như thuốc lá, chè… (có sự phối hợp giữa địa phương và các doanh nghiệp); mô
hình dạy nghề cho lao động trong các làng nghề (sự phối hợp giữa địa phương, các cơ
sở dạy nghề và các làng nghề); mô hình dạy nghề ngắn hạn cho người nông dân ở cộng
đồng (sự phối hợp giữa địa phương, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các trung tâm
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư)… Kỹ năng nghề của người nông dân đã được
nâng lên, do đó năng suất lao động, chất lượng cây trồng và thu nhập đã tăng lên rõ
rệt. Đặc biệt, trong quá trình đào tạo, người nông dân còn được cung cấp những kỹ
năng về hội nhập kinh tế, về các tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh thực phẩm của thế giới và
101
Việt Nam; về cách ứng xử với môi trường (công nghệ sạch) và bước đầu còn được trang
bị những kiến thức về khởi sự doanh nghiệp. Bản thân người nông dân và lao động
nông thôn là những đối tượng được thụ hưởng chính sách cũng đã tích cực, ủng hộ chủ
trương của Chính phủ, từ việc xác định được nhu cầu học nghề của mình phù hợp với
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đến việc tham gia đầy đủ các khóa
đào tạo. Cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc hỗ trợ giáo dục và đào tạo nghề
miễn phí, trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông thôn đã
nâng lên. Số liệu của Điều tra lao động và việc làm 2011 cho thấy, tỷ lệ 92,5% số người
từ 15 tuổi trở nên ở nông thôn biết chữ so với tỷ lệ 97, 3% ở thành phố là một con số
đáng tự hào. Số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động đã qua đào tạo năm
2011 chiếm tỷ lệ 9% (năm 2001 là 6, 2%).
Một trong những khác biệt của đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Đề án
1956 so với các chương trình, dự án trước đó về dạy nghề cho nông dân, là yêu cầu cao
về “đầu ra”. Theo mục tiêu của Đề án 1956, đến năm 2015, 70% số lao động nông
thôn sau khi được đào tạo nghề có việc làm phù hợp với nghề được đào tạo và tỷ lệ này
đạt được là 80% vào những năm sau đó. Để đạt được yêu cầu này, ngay sau khi có
Quyết định số 1956 QĐ-TTg, tất cả các địa phương trong cả nước đã đồng loạt tổ chức
điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu học nghề của lao động nông thôn; nhu cầu sử dụng
lao động qua đào tạo nghề của các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ; năng lực đào tạo của các cơ sở dạy nghề trên địa bàn. Công tác điều tra được thực
hiện từ các thôn, bản, xóm, ấp, tới từng hộ gia đình, trên cơ sở nhu cầu nghề nghiệp
thực tiễn của người dân nông thôn. Tính đến nay 63/63 tỉnh, thành phố đã hoàn thành
việc điều tra, khảo sát nhu cầu và có 33 tỉnh, thành phố đã tổng hợp số liệu điều tra.
Theo thống kê sơ bộ, hiện có khoảng 12% - 15% số lao động nông thôn có nhu cầu
được đào tạo nghề với trên 600 nghề khác nhau, trong đó nhóm nghề nông nghiệp
chiếm trên 42%. Đây là căn cứ rất quan trọng để các cơ sở dạy nghề trong cả nước tổ
chức xây dựng chương trình và mở các khóa dạy nghề phù hợp. Các doanh nghiệp, các
cơ sở dạy nghề tham gia dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn, không chỉ
thuần túy dạy nghề mà còn tư vấn, hướng dẫn người nông dân cách thức tổ chức sản
xuất kinh doanh, bảo đảm “đầu ra” hoặc là sản phẩm hoặc là tiếp nhận lao động sau khi
được học nghề. Sau 3 năm triển thực hiện đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn,
đã tổ chức dạy nghề cho 1.088.393 lao động nông thôn theo chính sách của Đề án
(trong đó nghề nông nghiệp: 480.897 người, chiếm 44,2 % và nghề phi nông nghiệp:
102
607.496 người, chiếm 55,8%), đạt 77,74% kế hoạch và bằng 16,64% kế hoạch 11 năm
thực hiện Đề án. Đã có 1.042.059 người học nghề xong, trong đó 822.460 người có việc
làm mới hoặc tiếp tục làm nghề cũ có năng suất, thu nhập cao hơn, đạt 78,9%; 55.288
người thuộc hộ nghèo, sau học nghề có việc làm, thu nhập đã thoát nghèo, chiếm 44,1%
so với số người nghèo tham gia học nghề; 88.222 người sau học nghề có việc làm, thu
nhập cao hơn mức thu nhập trung bình của các hộ dân trong vùng (hộ có thu nhập khá),
chiếm 10,7% so với số người có việc làm [66].
Mặc dù diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp, số lao động ở nông thôn tăng lên,
nhờ các chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm của Nhà nước và nỗ lực tạo việc làm
của nông dân, tỷ lệ thời gian làm việc được sử dụng của lao động trong độ tuổi ở khu
vực nông thôn đã tăng lên. Nếu như tỷ lệ này của năm 2000 là 74,16% thì năm 2006
đã tăng lên 79%. Nhờ đó thu nhập của hộ gia đình ở nông thôn được cải thiện. Năm
2007, kinh tế phi nông nghiệp đã tạo ra hơn 60% giá trị gia tăng ở nông thôn. Hiện
nay, trên địa bàn nông thôn đã có hơn 32% hộ gia đình có thu nhập chính từ các
ngành phi nông nghiệp. Nông thôn Việt Nam đã khôi phục và phát triển mới được
2.971 làng nghề, thu hút 1.423 hộ với hơn 11 triệu lao động. Ngoài ra các loại hình
kinh tế trang trại và hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới cũng phát triển khá nhanh, tạo
thêm hàng nghìn chỗ làm việc mới.
3.1.6.2. Những hạn chế trong hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho
nông dân
Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn chưa sát với tình hình phát triển
đất nước cũng như từng địa phương và đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh có hiệu
quả thiết thực
Thời gian qua, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã có những
chuyển biến tích cực, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng hiện có, chưa
đáp ứng được yêu cầu đặt ra và chưa gắn với nhu cầu sản xuất, kinh doanh, nhiều
trường hợp doanh nghiệp phải đào tạo lại mới có thể sử dụng được. Một số địa
phương, nhu cầu về công nhân kỹ thuật công nghiệp tại các huyện thị khá cao, trong
khi ngành nghề đào tạo cho lao động nông thôn của tỉnh lại thiên về kỹ thuật nông
nghiệp. Có tỉnh, hệ thống các khu công nghiệp phát triển nhanh, nhu cầu công nhân
103
lành nghề về công nghiệp nặng tăng nhưng tỉnh lại mở các lớp may công nghiệp,
trồng cây cảnh, hoặc nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, có tình trạng đúng chuyên
môn đào tạo nhưng chất lượng nguồn nhân lực thấp không đáp ứng được nhu cầu lao
động của doanh nghiệp. Thực trạng đó đã gây ra tình trạng vừa thừa, vừa thiếu không
đáp ứng được nhu cầu lao động thực tế của địa phương. Nhiều lao động đã được đào
tạo nghề nhưng khi làm việc tại các doanh nghiệp, khu công nghiệp lại không đáp ứng
đủ tiêu chuẩn. Do đó, thời gian tới công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn cần
phải bám sát với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và từng địa phương,
đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh để có hiệu quả thiết thực.
Đại bộ phận lao động nông thôn chưa có nhận thức đúng về đào tạo nghề, học
nghề. Một phần do tập quán và thói quen canh tác, nông dân tiến hành sản xuất nông
nghiệp theo kinh nghiệm, nông dân coi sản xuất nông nghiệp nói riêng và các hoạt
động khác trong khu vực nông thôn nói chung là công việc giản đơn không phải học.
Lao động trong các ngành sản xuất nông, lâm, thủy sản vẫn chủ yếu là lao động thủ
công theo kiểu cha truyền con nối từ đời này sang đời khác. Tuy công nghiệp và dịch
vụ đã được phát triển ở nông thôn giúp thu hút và giải quyết việc làm cho một số nông
dân, song kết quả vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó nông dân nhận thức về việc học tập
để sản xuất chưa thực sự cần cho bản thân họ. Nhu cầu học tập của họ được dồn vào
cho thế hệ con cháu với mục đích là tìm lối thoát khỏi nghề nông và cuộc sống ở nông
thôn. Trên thực tế chúng ta thiếu chiến lược, thiếu quy hoạch và đặc biệt là thiếu
những chính sách và giải pháp hữu hiệu để giải quyết một cách bài bản vấn đề này.
Quy mô và chất lượng của công tác dạy nghề và hỗ trợ việc làm cho nông dân
còn nhiều hạn chế so với nhu cầu; phương thức tổ chức hoạt động còn đơn điệu, chưa
có nhiều hình thức phù hợp với từng địa bàn, khu vực và nhóm đối tượng. Nguyên
nhân của tình trạng này là do cơ sở vật chất và nguồn nhân lực còn yếu; kinh phí phục
vụ dạy nghề và hỗ trợ việc làm cho nông dân thiếu, có nơi hầu như chưa có. Đặc biệt,
đội ngũ giáo viên chưa đạt tiêu chuẩn dẫn đến tình trạng ở một số nơi, công tác này chỉ
dừng ở mức độ vận động chứ chưa thực sự tạo nghề. Ngay cả tài liệu phục vụ nghiên
cứu, giảng dạy và học tập vẫn còn thiếu. Ngoài một số giáo trình dạy nghề ngắn hạn do
Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, sở Lao động - Thương binh và Xã hội một số địa
phương tự xây dựng, đa số các đơn vị chưa xây dựng được giáo trình chuẩn. Hơn nữa,
104
tại nhiều địa phương, chính quyền cơ sở chưa thực sự quan tâm hoặc tìm nguồn hỗ trợ
tạo điều kiện cho nông dân được học nghề một cách chính quy.
3.2- ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NÔNG DÂN
SAU GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
3.2.1. Những kết quả đạt được
3.2.1.1. Các hỗ trợ đối với nông dân góp phần phát triển nông nghiệp, nâng
cao đời sống nông dân, xây dựng nông thôn văn minh, hiện đại
Nhờ sự quan tâm của Nhà nước thể hiện bằng các chủ trương, chính sách đúng
đắn, trong những năm đổi mới, nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển vượt bậc,
đạt được nhiều thành tựu. Những thành tựu đạt được của chính sách hỗ trợ đối với
nông dân bao gồm cả về đảm bảo cho quá trình sản xuất và tái sản xuất trong nông
nghiệp diễn ra ổn định cả về nâng cao năng lực các yếu tố đầu vào của sản xuất và
năng suất, chất lượng nông sản đầu ra. Từ chỗ là một nước thường xuyên thiếu lương
thực, hàng năm phải nhập hàng triệu tấn lương thực của nước ngoài, hơn thập niên
qua Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn, đồng thời bảo đảm an ninh lương
thực quốc gia. Ngoài gạo, Việt Nam còn chiếm vị thế cao trong số các nước xuất khẩu
về cà phê, cao su, hạt điều. Giá trị xuất khẩu những mặt hàng nông sản khác như thủy
sản, chế biến gỗ cũng ngày càng cao và trở thành các sản phẩm chủ lực trong cơ cấu
xuất khẩu của đất nước. Cơ cấu nông nghiệp cũng chuyển dịch theo hướng tích cực,
gia tăng sản phẩm có giá trị kinh tế, có lợi thế cạnh tranh. Trong nông nghiệp đã hình
thành được một số vùng sản xuất tập trung quy mô lớn. Bên cạnh đó, kết cấu hạ tầng
trong nông nghiệp và nông thôn được tăng cường. Chẳng hạn, công tác thủy lợi đã
được thực hiện hết sức mạnh mẽ, đến nay 94% diện tích lúa, 41% diện tích hoa màu
trong cả nước được tưới tiêu. Việc áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp
triển khai khá rộng rãi (70% diện tích lúa được sử dụng máy móc). Công nghệ tiên
tiến, nhất là công nghệ sinh học được ứng dụng góp phần tăng chất lượng, hiệu quả
sản xuất nông nghiệp. Tỷ trọng sản xuất nông nghiệp tuy giảm đi trong cơ cấu kinh tế,
song giá trị tuyệt đối ngày càng tăng và đóng góp 20% GDP cho đất nước... Sự phát
triển trong nông nghiệp thực sự là cơ sở quan trọng tạo tiền đề vật chất để nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho đại bộ phận nông dân, góp phần xóa đói giảm nghèo
và làm thay đổi bộ mặt nông thôn theo hướng ngày càng văn minh, hiện đại hơn.
105
3.2.1.2. Hỗ trợ đối với nông dân nhìn chung đã phù hợp với nguyện vọng của
nông dân
Ở Việt Nam, thu nhập, đời sống, vị thế chính trị của người nông dân đều không
bằng những nhóm người khác. Nông dân, nông nghiệp đã có những đóng góp rất lớn
cho sự phát triển của đất nước. Thế nhưng, dường như ngày nay họ là những người ít
được hưởng lợi nhất trong công cuộc đổi mới của đất nước. Có thể nói rằng, các hỗ
trợ của Nhà nước đối với nông dân thời gian qua nhận được sự đồng tình rất cao của
xã hội cũng như của chính bản thân người nông dân. Các hoạt động hỗ trợ của Nhà
nước, một mặt, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước đối với nông nghiệp, nông
dân, mặt khác, đã dần xóa bỏ được tính chất bao cấp phi hiệu quả cho sản xuất nông
nghiệp, hướng đến tạo môi trường thuận lợi cho các chủ thể đầu tư vào nông nghiệp,
xích lại gần môi trường đầu tư của nông nghiệp, nông thôn với các ngành, lĩnh vực
khác sao cho nông dân có thể có vị thế bình đẳng hơn trong giao dịch hàng hóa trên
thị trường. Các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đều đặt mục tiêu trọng yếu là bảo vệ
lợi ích của nông dân. Chính sách giao đất cho hộ gia đình nông dân vừa đảm bảo chế
độ sở hữu toàn dân, vừa tạo quyền tự chủ cho nông dân đã không chỉ đem lại động lực
cho phát triển nông nghiệp mà còn giúp nông dân tiếp cận và sử dụng hiệu quả đất đai
theo cơ chế thị trường. Nhờ xử lý đúng chính sách đất đai, Nhà nước ta vẫn duy trì
được sự kiểm soát đối với nguồn tài nguyên quan trọng này, góp phần ổn định xã hội
nông thôn, đồng thời kích thích sản xuất nông nghiệp phát triển đạt thành tích ấn tượng.
Hỗ trợ về tín dụng đã định hướng các NHTM quốc doanh hỗ trợ nông dân theo hướng
sản xuất hàng hoá, nhất là hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hỗ trợ những lúc nông dân
gặp khó khăn, xóa bỏ sự can thiệp hành chính theo hướng phân phối lại trong cấp tín
dụng cho nông nghiệp. Phương thức hỗ trợ này tỏ ra hiệu quả hơn, kích thích tính sáng
tạo, tự chủ trong sản xuất kinh doanh của hộ nông dân, đồng thời vẫn đảm bảo mức hỗ
trợ cần thiết giúp nông dân vượt qua giới hạn tích lũy thấp. Các chính sách tài trợ giống,
phân bón, bảo vệ thực vật, thú y cho các vùng khó khăn, nhất là Nhà nước đã kịp thời
xóa nợ cho nông dân vùng lũ, vùng gặp thiên tai, hỗ trợ nông dân bù đắp tổn thất khi
gặp dịch bệnh, hỗ trợ áp dụng kỹ thuật mới... đã thể hiện sự quan tâm, chia sẻ của Nhà
nước với nông dân. Chính sách đào tạo, chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách
khuyến nông đã đặt người nông dân vào vị thế tự do lựa chọn, tự định đoạt hoạt động
sản xuất và đời sống của mình, Nhà nước chỉ hỗ trợ ở những khâu nông dân yếu thế
nhằm tạo vị thế bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực.
106
3.2.1.3. Các hỗ trợ đối với nông dân về cơ bản là phù hợp với cam kết gia nhập WTO
Sau khi gia nhập WTO, nhận thức của các ngành, các cấp về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn đã có bước chuyển tích cực theo hướng quan tâm nhiều hơn, đầu tư tập
trung hơn cho các khâu quan trọng trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản để
tăng hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân. Hàng loạt cơ chế, chính sách của
Nhà nước đối với nông nghiệp đã được ban hành hỗ trợ nông nghiệp phù hợp với cam
kết WTO. Các chính sách thuộc “hộp xanh lá cây” đã được quan tâm thực hiện như
chính sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, miễn giảm thuế sử dụng đất
nông nghiệp trong mức hạn điền, bỏ thuỷ lợi phí, giảm các khoản đóng góp cho nông
dân, khuyến khích ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chế biến nông
sản, nhất là công nghệ sinh học và công nghệ sau thu hoạch, nông nghiệp công nghệ
cao vùng ven thành phố lớn. Nhờ đó nền nông nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội để
tham gia vào sân chơi “toàn cầu”. Các chính sách thuộc “hộp xanh lơ” cũng được chú
trọng để nâng cao năng lực sản xuất, đảm bảo thu nhập và giúp nông dân xóa đói,
giảm nghèo như hỗ trợ lãi suất tín dụng, hỗ trợ nông dân nghèo…
Từ thực tiễn giải quyết vướng mắc, tranh chấp trong thương mại quốc tế, kể cả bị
nước ngoài kiện bán phá giá, Nhà nước và các doanh nghiệp tích lũy được nhiều kinh
nghiệm. Ngoài việc nâng cao chất lượng, tạo ra sự liên kết trong nước, liên kết với các
quốc gia trên thế giới để giải quyết tranh chấp một cách khôn khéo, vừa theo những
quy định của WTO vừa bảo vệ quyền lợi quốc gia và doanh nghiệp là những định
hướng, cách làm rất cần thiết trong hội nhập kinh tế quốc tế của ngành nông nghiệp.
Theo cam kết trong lĩnh vực nông nghiệp, Nhà nước đã ban hành, sửa đổi nhiều chính
sách phù hợp với các cam kết gia nhập WTO và thông lệ quốc tế.
3.2.2. Một số vấn đề hạn chế trong hỗ trợ nông dân sau gia nhập WTO
3.2.2.1. Mức độ đáp ứng của các hỗ trợ còn thấp so với nhu cầu của nông dân
Người nông dân Việt Nam vốn chỉ sản xuất theo kinh nghiệm truyền thống và từ
những xã viên hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ chỉ biết làm theo mệnh lệnh của cấp
trên trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nay chuyển sang nền kinh tế thị trường,
hội nhập, cạnh tranh với các sản phẩm đã đạt đến trình độ sản xuất hiện đại ở các
nước phát triển phải đối mặt với không ít khó khăn. Họ thiếu đủ mọi thứ cần thiết để
có thể sản xuất hiệu quả và cạnh tranh thắng lợi như vốn, công nghệ, tri thức, kỹ năng,
bản lĩnh, tổ chức, thông tin thị trường, hạ tầng kinh tế... Nhà nước đã có nhiều nỗ lực
107
hỗ trợ nông dân vượt qua những thiếu thốn đó, tuy nhiên những hỗ trợ đó còn quá
thấp so với nhu cầu cần đáp ứng. Chẳng hạn, hỗ trợ về tài chính mang tính nhỏ giọt,
hoặc là quá ít, hoặc là được khâu này, bỏ khâu khác, vừa làm giảm hiệu quả hỗ trợ,
vừa không đủ sức hấp dẫn nông dân. Quy mô vay vốn ưu đãi cũng quá thấp và theo
quan điểm bình quân, không phù hợp với quan điểm sản xuất của người vay. Các hỗ
trợ khuyến nông chỉ đủ sức tổ chức mô hình trình diễn, mà không đủ hỗ trợ nông dân
áp dụng đại trà nên tác dụng lan tỏa của khuyến nông còn thấp. Hỗ trợ đào tạo nghề
mới đáp ứng được tỷ lệ nhỏ những người muốn chuyển nghề ở nông thôn. Cơ cấu đầu
tư không hợp lý, tỷ trọng đầu tư cho KH-CN trong nông nghiệp mới đạt 0,13% GDP,
trong khi đó các nước khác là 4%. Chính sách của Nhà nước về đầu tư nói chung, thu
hút đầu tư nước ngoài nói riêng vẫn chưa phù hợp nhưng lại chậm đổi mới, kể cả khi
Việt Nam đã gia nhập WTO. Các chính sách hỗ trợ đào tạo, nghiên cứu khoa học, dịch vụ
kiểm tra giám sát dịch bệnh và sâu bệnh, hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu còn chiếm tỷ trọng rất
nhỏ trong tổng số cho hỗ trợ trong nhóm hộp xanh, mới chiếm tỷ lệ khoảng 1 - 3% .
Bảng 3.10: Mức độ đáp ứng của một số chính sách hỗ trợ đối với nông dân
Mức độ đáp ứng
TT
Các hỗ trợ
Ý kiến
khác
Có tác
động tốt
Chưa có
chuyển biến
Không có
áp dụng
1 Hỗ trợ về đất đai
45,8%
46,7%
0,5%
7%
2 Hỗ trợ về đầu tư KH-CN
32%
59,3%
6,4%
2,4%
3
Phát triển thị trường
22,9%
68,4%
4,3%
4,5%
4 Đào tạo nguồn nhân lực
21,8%
70,4%
5,2%
2,5%
5 Xây dựng kết cấu hạ tầng
62,8%
31,5%
-
5,7%
Nguồn: [17, tr.423-426]
3.2.2.2. Một số chính sách, phương thức hỗ trợ đã không còn phù hợp nhưng
chậm được đổi mới đã kìm hãm cơ hội để nông dân phát triển kinh tế
Một số chính sách đã có tác dụng trong thời kỳ đầu đổi mới, đến nay không còn
phù hợp nhưng chậm được sửa đổi. Chẳng hạn, chính sách giao quyền sử dụng đất
chưa đảm bảo cho người nông dân được tự chủ hoàn toàn trong việc chuyển đổi mục
đích canh tác trên đất đã được giao sao cho có hiệu quả, nhất là đối với đất trồng lúa;
chính sách “hạn điền” đã tỏ ra mâu thuẫn với sản xuất hàng hóa lớn nhưng vẫn chưa
được sửa chữa dẫn đến tình trạng nông dân ai cũng có đất, nhưng đất không đảm bảo
đủ sống, không đủ sản xuất, kinh doanh ở quy mô hiệu quả khiến nông dân trả ruộng,
108
bỏ ruộng đi tìm việc làm ở thành phố, cá biệt có nơi bỏ đất hoang hóa; chính sách chia
bình quân đất đai có tác dụng tốt nhằm ổn định tình hình khi giao đất nhưng kéo dài
quá lâu sẽ dẫn tới hiện tượng manh mún, cản trở quá trình cơ giới hóa, cản trở hoạt
động phối hợp trong bảo vệ thực vật... Mặc dù Nhà nước có chủ trương tháo gỡ bằng
phong trào dồn điền đổi thửa, nhưng chi phí tổ chức khá lớn, đi đôi với thủ tục chuyển
nhượng phức tạp khiến phong trào này không có tác động đáng kể trong tập trung đất.
Hoặc chính sách hỗ trợ KH-CN chưa đủ mạnh thu hút tư nhân tham gia nghiên cứu
phục vụ sản xuất nông sản, đặc biệt là nông sản xuất khẩu. Do mới chú trọng chọn tạo,
nhập khẩu những giống có năng suất cao mà chưa tập trung cho các giống có chất
lượng cao nên chất lượng nông sản của Việt Nam chưa cao, làm giảm tương đối giá trị
xuất khẩu nông sản trong khi khối lượng xuất khẩu tăng, chưa tạo được động lực
mạnh khuyến khích các đơn vị nghiên cứu, các nhà khoa học dồn hết tâm lực cho việc
nghiên cứu và chuyển giao các kết quả nghiên cứu.
Chính sách hỗ trợ tiêu thụ nông sản đưa ra chưa thực sự phù hợp và bám sát
những thay đổi của kinh tế, xã hội. Với mục tiêu nhằm gia tăng giá trị mà người nông
dân nhận được trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu nên lợi ích của nông dân cần phải
được đặt ở vị trí trung tâm. Các hỗ trợ đã và đang thực hiện mặc dù về cơ bản đã đảm
bảo gia tăng lợi ích của đối tượng này nhưng thực tế chưa đạt hiệu quả như mong
muốn. Điển hình là cách điều hành kinh doanh lúa gạo chưa sát với tình hình biến
động của thị trường nông sản thế giới và trong nước khiến cho việc xuất khẩu gạo
chưa đạt được lợi ích lớn nhất cho đất nước.
Hình 3.8: Nhận xét của cán bộ các cấp về cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với
8 0 %
C ¸ n b é c Ê p t Øn h
7 0 %
6 0 %
5 0 %
4 0 %
C ¸ n b é c Ê p h u y Ö n
nông nghiệp, nông dân và nông thôn
C ¸ n b é c Ê p x (cid:17)
0 %
§ Ç y ® ñ
C ß n t h i Õ u
V õ a t h i Õ u v õ a
c h å n g c h Ð o
3 0 %
2 0 %
1 0 %
Nguồn: [17, tr.288]
109
3.2.2.3. Tính hiệu quả, hiệu lực và đồng bộ của một số hỗ trợ của Nhà nước
còn thấp
Hỗ trợ nông dân trong liên kết và tiêu thụ nông sản (theo quyết định 80) không có
hiệu lực khi nó không có tác dụng trong thực tế: nông dân chạy theo lợi ích trước mắt
mà phá bỏ hợp đồng; doanh nghiệp thì không thực hiện đúng cam kết về giống, phân
bón và đặc biệt là bao tiêu sản phẩm đầu ra, nhà khoa học không không có sản phẩm
giống cây, con cũng như có nhiều nghiên cứu có tính ứng dụng cao; Nhà nước không
có trách nhiệm rõ ràng trong chuỗi liên kết này khiến cho liên kết trở nên hình thức và
phi thực tế. Ngay cả chủ trương xây nhà máy chế biến nông sản tại vùng nguyên liệu
cũng không ngoài tình trạng trên. Khi có nhà máy rồi thì không có nguyên liệu vì
nông dân trồng loại nông sản khác, có chỗ có nguyên liệu thì không có nhà máy chế
biến. Điều này vừa gây lãng phí nguồn lực vừa khiến cho sản xuất của nông dân ở
những vùng này lâm vào khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống. Hoặc quy
định của Nhà nước về giá sàn của gạo xuất khẩu nhằm mục tiêu an ninh lương thực
quốc gia là đúng đắn, song ở một số thời điểm nó lại làm giảm sản lượng và kim
ngạch xuất khẩu do các doanh nghiệp không ký được hợp đồng vì giá doanh nghiệp
đưa ra thấp hơn giá sàn. Hơn nữa, khi các doanh nghiệp tìm cách “lách quy định” sẽ
làm cho chính sách không có hiệu lực.
Cũng chính vì tính hiệu lực của một số hỗ trợ đã và đang thực hiện còn thấp nên
hiệu quả của các hỗ trợ đó cũng trong tình trạng tương tự. Mặc dù Việt Nam vị trí cao
trên thế giới về xuất khẩu nông sản (gạo, cà phê, tiêu…) nhưng mới chỉ dừng lại ở
việc gia tăng sản lượng, kim ngạch có tăng nhưng vẫn chưa tương xứng với vị thế
trên. Phần giá trị trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu mà nông dân Việt Nam nhận
được rất thấp do nông sản xuất khẩu chủ yếu ở dạng thô, sản phẩm đã qua chế biến
chiếm tỷ trọng rất thấp như cà phê (khoảng 3- 5%), gạo Việt Nam luôn bán thấp hơn
so với gạo Thái Lan, thậm chí một số nông sản xuất hiện ở thị trường nước ngoài dưới
tên gọi thương hiệu của quốc gia khác. Thực tế nhiều năm qua, nông dân Việt Nam
vẫn đang loay hoay với tình trạng “trồng, chặt”, “chặt, trồng”, “được mùa ngoài đồng,
mất mùa trong nhà”. Trong bối cảnh hội nhập WTO, sản xuất nông nghiệp cần phải
quan tâm thấu đáo vấn đề thị trường tiêu thụ, sản xuất phải gắn chặt với vấn đề đầu ra.
Việc xác định mặt hàng nào cần sản xuất cần phải được nghiên cứu thị trường một
cách thấu đáo và khoa học, không thể chạy theo phong trào.
110
Không thể phủ nhận rằng, các hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân thời gian
qua là khá đồng bộ và bước đầu tạo nên những thành tựu vượt bậc cho sản xuất nông
nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn đó những hạn chế cần phải được hoàn thiện trong điều
kiện mới. Hỗ trợ cho vay vốn và lãi suất đối với các chủ thể luôn được Nhà nước quan
tâm nhưng nông dân lại là chủ thể chịu nhiều thiệt thòi nhất trong cuộc cạnh tranh
nhằm vay vốn mở rộng sản xuất. Các quy định của Luật đất đai về mức hạn điền và
thời gian sử dụng đất vẫn còn bất hợp lý làm cho người sản xuất khó có thể mở rộng
quy mô sản xuất cũng như đầu tư các trang thiết và công nghệ hiện đại. Do thuế VAT
đối với các nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nông nghiệp còn cao đã làm tăng chi phí
sản xuất nông sản, lợi nhuận thu được của nông dân rất thấp, thậm chí còn bị thua lỗ.
3.2.2.4. Một số hỗ trợ chưa đem lại lợi ích trực tiếp cho phần lớn nông dân
Có rất nhiều chính sách hỗ trợ nông dân và chủ yếu thông qua hai hình thức là
trực tiếp hoặc gián tiếp. Song, trên thực tế, nông dân hưởng lợi từ những chính sách
này không nhiều, thậm chí không thể tiếp cận được.
Ở nước ta, các chính sách trợ cấp thu nhập trực tiếp do nông dân đã được thực
hiện nhưng chưa có tính chất hệ thống. Thường trợ cấp trực tiếp được áp dụng cho các
trường hợp nông dân phải tiêu hủy sản phẩm trong dịch bệnh hoặc do thiên tai. Mức
hỗ trợ không căn cứ vào mức thiệt hại thực tế của nông dân mà căn cứ vào khả năng
của Nhà nước. Hơn nữa, các khoản hỗ trợ này không đáng kể so với thiệt hại thực tế
của nông dân. Nhiều trường hợp nông dân điều chỉnh sản xuất theo chương trình của
Nhà nước nhưng không thu được kết quả (ví dụ chương trình trồng cà phê ở miền núi
phía Bắc) mà vẫn không nhận được đền bù của Nhà nước và nhiều trường hợp hỗ trợ
của Nhà nước không đến được tay nông dân.
Đối với hình thức hỗ trợ gián tiếp thông qua các doanh nghiệp, hay các ngành,
địa phương, hiệu quả mang lại cũng không cao. Đơn cử như việc thu mua tạm trữ lúa
gạo cho nông dân, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi về vốn, lãi suất cho
các doanh nghiệp thu mua lương thực, đồng thời yêu cầu các doanh nghiệp không
được mua thấp hơn giá sàn quy định. Mục đích của việc làm này nhằm giúp nông dân
giảm bớt khó khăn trong tiêu thụ lúa gạo và bảo đảm sản xuất có lãi trên 30%. Nhưng
việc thu mua lúa gạo của các doanh nghiệp đầu mối hiện nay đều thông qua hệ thống
thương lái (chiếm trên 90%). Do vậy, thương lái không thể thu mua lúa của nông dân
111
theo giá sàn để rồi phải bán lại doanh nghiệp với giá sàn để chịu lỗ. Vì lẽ đó, thương lái
phải ép giá nông dân bán lúa thấp hơn giá sàn quy định. Còn người nông dân cũng
không thể không bán, vì việc thu mua lúa lâu nay đều lệ thuộc vào thương lái. Nếu
muốn doanh nghiệp thu mua theo đúng giá sàn quy định, người nông dân phải tự chở
lúa đến Công ty Lương thực. Điều đó sẽ làm cho chi phí sản xuất tăng cao, lại mất
nhiều thời gian, nên nông dân đành chấp nhận bán lúa cho thương lái. Vì vậy lợi ích
mang lại cho nông dân nghèo rất ít ỏi. Rõ ràng, người trồng lúa Việt Nam trong suốt
thời gian qua luôn bị xếp cuối bảng về lợi ích trong chuỗi giá trị sản xuất và kinh
doanh lúa gạo. Một quốc gia xuất khẩu gạo vào hàng đầu thế giới lại có thể xếp lợi ích
của nông dân, những chủ nhân đích thực của hạt gạo vào vị trí thứ yếu. Thậm chí,
nông dân còn phải hứng chịu hầu hết các rủi ro của thị trường đến mức nản lòng với
chính nghề trồng lúa đã tồn tại bao đời nay và mang lại nhiều lợi ích cho đất nước.
3.2.2.5. Bất cập của năng lực thể chế thực hiện chính sách đối với nông dân
Việc xây dựng hệ thống luật pháp thực hiện chính sách đối với nông dân còn hạn
chế. Quá trình triển khai các chương trình việc làm, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã
hội và cung cấp các dịch vụ cơ bản trong nông thôn chưa được phối hợp một cách chặt
chẽ, do đó hiệu quả chung của chính sách chưa tương xứng với kinh phí mà xã hội đầu
tư cho các chương trình. Trình độ tổ chức, năng lực công tác của đội ngũ cán bộ thực
thi nhiệm vụ trong lĩnh vực chính sách đối với nông dân, nhất là cán bộ cấp huyện, xã
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Điều này cùng với cơ chế, chính sách tài chính và
thu nhập hiện hành làm cho các chính sách đối với nông dân được triển khai một cách
kém hiệu quả. Công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong việc thực hiện chính
sách đối với nông dân còn hạn chế. Việc xây dựng chính sách chính sách đối với nông
dân nói riêng đang đứng trước mắt khó khăn là các nguồn số liệu thiếu liên tục và
thống nhất. Hiện nay có rất nhiều nguồn số liệu được phát ra từ các cơ quan nhà nước,
các viện nghiên cứu... nhưng rất mâu thuẫn nhau. Do đó, khi phân tích, đánh giá thực
trạng tình hình để hoạch định chính sách thường mang tính chủ quan, thiếu cơ sở phân
tích khoa học, phát hiện các mối quan hệ nội tại thông qua các phương pháp phân tích
hiện đại (xây dựng các mô hình, sử dụng các hàm nhiều biến, phân tích hồi quy...);
phương pháp dự báo và tổ chức dự báo các vấn đề xã hội nói chung, nông thôn nói
riêng, không được tiến hành ở cấp quốc gia và thường xuyên, do đó, thiếu cơ sở dữ
liệu đầu vào để hoạch định chính sách cho sát với thực tiễn.
112
3.2.3. Nguyên nhân của hạn chế
3.2.3.1. Tiềm lực tài chính và năng lực hạn chế của bộ máy Nhà nước.
Từ thập kỉ 90 của thế kỉ thứ XX trở lại đây Nhà nước đã dồn đa phần nguồn lực
cho phát triển công nghiệp và dịch vụ, giảm đầu tư cho nông, lâm, thủy sản. Trong
tổng đầu tư xã hội nói chung cũng như trong đầu tư từ NSNN nói riêng, đầu tư cho
nông nghiệp nông thôn thường chiếm tỉ trọng nhỏ, thậm chí có xu hướng giảm đi. Từ
năm 2001 đến nay, tỷ lệ đầu tư vào nông, lâm, thủy sản từ NSNN giảm từ 10,7% năm
2001 xuống 8,6% năm 2008. Chi tiêu công cho nông nghiệp chỉ băng 1-1,5% GDP,
mặc dù nông nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP cả nước.
Ngoài ra, để duy trì sức hút đầu tư, Nhà nước thi hành chính sách bình ổn giá
lương thực thực phẩm ở mức thấp đã tạo cánh kéo bất lợi cho nông dân, nhất là khi giá
vật tư nông nghiệp tăng nhanh hơn giá bán nông sản như năm 2008. Đáng lẽ Nhà nước
phải bù đắp thu nhập cho nông dân bằng cách trợ cấp thu nhập trực tiếp hoặc mua nông
sản viện trợ để duy trì giá cao thì trong những năm qua, do năng lực tài chính yếu kém,
Nhà nước ta lại làm ngược lại, để bù tổn thất cho doanh nghiệp phi nông nghiệp và
người tiêu dùng bằng cách buộc nông dân phải bán giá thấp mà không có trợ cấp. Chính
sách chuyển thu nhập từ nông dân qua các nhóm dân cư khác là bất đắc dĩ trong giai
đoạn đầu công nghiệp hóa ở tất cả các nước, nhưng nếu kéo quá dài sẽ làm kiệt quệ
nông dân và đào sâu chênh lệch mức sống ở nông thôn và thành thị.
Nông nghiệp, nông thôn nước ta có xuất phát điểm thấp, lại chịu nhiều thiệt hại do
chiến tranh kéo dài đi đôi với các khó khăn của bản thân quá trình chuyển đổi sang kinh
tế thị trường. Chính vì luôn phải đối phó với các tình huống của nền kinh tế chưa phát
triển nên các chính sách của Nhà nước chưa thể hoạch định một cách bài bản, hệ thống.
Trong rất nhiều trường hợp, Nhà nước phải ưu tiên yêu cầu cấp bách hơn là đề ra một
chính sách có thể áp dụng lâu dài. Mặt khác, do trình độ sản xuất nông nghiệp còn thấp
nên thu nhập và tích lũy của hộ nông dân cũng thấp đã cản trở quá trình hiện đại hóa và
chuyển nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa lớn. Trong điều kiện nguồn vốn có hạn,
nhưng phải đầu tư cho nhiều dự án, chương trình mục tiêu khác nhau nên Nhà nước
không thể hỗ trợ đủ mức tài chính cho nông dân chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp. Phân tích về các chính sách hỗ trợ nông dân cho thấy, phần lớn chính sách chỉ
tập trung giải quyết khó khăn trước mắt, hay hỗ trợ theo kiểu “chữa cháy” chứ chưa thật
sự bền vững.
113
Những năm gần đây dịch bệnh xuất hiện thường xuyên và phức tạp, khó chống
đỡ, nhất là các dịch bệnh trên gia cầm, gia súc khiến các cấp chính quyền lao đao,
ngân sách thâm hụt hơn nữa. Biến đổi khí hậu làm cho các quy luật sinh trưởng của
cây trồng, vật nuôi bị điều chỉnh sai lệch làm cho quá trình chỉ đạo của Nhà nước khó
khăn, kinh phí dự phòng ngày càng đòi hỏi phải trích lập lớn. Ngoài ra, tình trạng trái
đất nóng lên còn đe dọa gây ngập lụt nhiều nơi, gây sức ép lên kinh phí cho xây dựng
hệ thống thủy lợi. Thiên tai xuất hiện với tần số lớn và mức thiệt hại nhiều hơn càng
làm tăng thêm các khó khăn cho Nhà nước vốn dĩ đã bị quá tải bởi các nhiệm vụ
chuyển đổi và cải cách. Trong khi đó, kinh nghiệm và kỹ năng đối phó với các biến
đổi thất thường của thiên tai còn hạn chế càng làm cho chính sách của Nhà nước thiếu
tính bài bản và độ sâu bền.
3.2.3.2. Biến động phức tạp của thị trường thế giới.
Mặc dù Việt Nam đã trở thành quốc gia xuất khẩu nông sản mạnh, nhưng chất
lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn gây nhiều bức xúc trong xã hội, cản trở nông
sản Việt thâm nhập thị trường thế giới, khiến việc tiêu thụ nông sản bị ách tắc, giá
xuất khẩu bị ép xuống thông qua những rào cản kỹ thuật và phòng vệ thương mại.
Sự dao động về giá cả các sản phẩm nông nghiệp trên thị trường thế giới luôn ở
mức độ cao và xảy ra thường xuyên, bởi nguyên nhân chủ yếu là sự bất ổn định của
sản xuất nông nghiệp (sự phụ thuộc vào thiên nhiên). Các sản phẩm trồng trọt và sản
phẩm thô có biên độ dao động cao hơn các sản phẩm chăn nuôi và sản phẩm chế biến.
Trong hoàn cảnh nông nghiệp Việt Nam vẫn còn nặng về các sản phẩm trồng trọt, xuất
khẩu chủ yếu là các sản phẩm thô, ít qua chế biến, sự tác động của tính chất giá cả các
sản phẩm nông nghiệp trên thị trường thế giới và các xu hướng thứ sinh đối với sản xuất
các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam có phần không thuận lợi. Xu hướng giảm giá diễn
ra phổ biến ở hầu hết các mặt hàng nông sản chủ yếu của nước ta như lúa, gạo, cà phê,
hạt tiêu, hạt điều và một số mặt hàng khác đã gây ra tác động tiêu cực, đó là nông sản
tồn đọng lớn, thu nhập của nông dân giảm tương đối, kéo theo giảm sức mua thị trường
nông thôn, giảm khả năng đầu tư vốn của họ vào phát triển sản xuất nông sản. Ở tầm vĩ
mô, chỉ số giá lương thực, thực phẩm giảm kéo theo xu hướng giảm sút của chỉ số giá
và làm gia tăng tình trạng giảm phát của toàn bộ nền kinh tế. Điều này đòi hỏi Nhà
nước phải có những khoản hỗ trợ rất lớn khi rớt giá, thực thi các biện pháp điều tiết sản
114
lượng khi giá tăng. Nhìn chung, NSNN của nước ta còn quá yếu để đáp ứng đầy đủ các
yêu cầu hỗ trợ nông dân thích ứng với sự bấp bênh của thị trường.
3.2.3.3. Chính sách hỗ trợ nông dân trong điều kiện hội nhập WTO là lĩnh vực
mới đối với Nhà nước Việt Nam
Mặc dù đã chuẩn bị từ năm 1995, nhưng cho đến nay cả Nhà nước và nông dân
Việt Nam đều chưa trang bị đủ lực và kỹ năng để hành động có lợi trong môi trường
WTO. Một bộ phận lớn nông dân - chủ thể trong nông nghiệp và đại bộ phận kinh tế
nông thôn còn thờ ơ với các quy định và luật lệ của WTO, coi đó là công việc của Nhà
nước và doanh nghiệp. Nhà nước thì chưa chuẩn bị tốt về tiêu chuẩn chất lượng sản
phẩm cũng như các chế tài cần thiết để đảm bảo sự tuân thủ. Chính vì thế người tuân
thủ thường chịu thiệt và không có gì khuyến khích họ tuân thủ tiêu chuẩn chất lượng
hàng hóa. Hơn nữa, ở Việt Nam còn khá hiếm các dịch vụ kiểm nghiệm chất lượng
hàng hóa, vì thế, trên thị trường, nhất là thị trường lương thực, thực phẩm, thật giả rất
khó phân biệt. Vì là lĩnh vực mới, lại chưa được chuẩn bị tốt nên các chính sách được
WTO cho phép sử dụng Nhà nước ta chưa quen áp dụng. Một số chính sách đã quen
dùng lại buộc phải tháo bỏ. Chính vì thế, hỗ trợ trong nước của Nhà nước ta vừa quá
nhỏ so với mức cho phép vừa kém hiệu quả.
Hơn nữa, các năng lực cần thiết như kiểm soát rủi ro, dịch bệnh, chương trình bù
đắp thu nhập khi giá nông sản xuống thấp hơn giá trần, các điều tra chống bán phá giá,
xuất xứ sản phẩm… là những khoảng trống cả trong bộ máy Nhà nước lẫn trong hộ
gia đình nông dân. Thiếu các kỹ năng này, chính sách hỗ trợ của Nhà nước sẽ giảm
hiệu lực và thu hẹp phạm vi tác động.
HiÓu
BiÕt s¬ s¬
70%
60%
50%
40%
30%
20%
10%
0%
Hình 3.9: Tỷ lệ cán bộ các cấp tự đánh giá mức độ hiểu biết về WTO
Cán bộ cấp tỉnh Cán bộ cấp huyện C¸n bé cÊp x·
Nguồn: [17, tr.295].
115
3.2.3.4. Nông dân chưa được chủ động tham gia xây dựng các chính sách hỗ trợ
Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông
thôn nhưng các chính sách hoạch định cho nông dân vẫn còn xa rời cuộc sống của
nông dân. Vẫn còn có các chính sách được ban hành theo kiểu “ngồi phòng máy lạnh”
mà không trực tiếp xuống với dân, gặp gỡ, trao đổi, tìm hiểu cái họ cần và cái họ thiếu
để hoạch định chính sách cho thực tế. Người nông dân lại không hề được tham khảo ý
kiến trong các quy trình soạn thảo chính sách. Đơn cử là chính sách thu hồi đất nông
nghiệp. Trong quá trình thu hồi đất, các doanh nghiệp thường đàm phán giá cả đền bù
với chính quyền địa phương chứ không phải với nông dân - chủ thể của quá trình giao
dịch hàng hóa và họ phải chấp nhận với các quyết định “đền bù” không hợp lý. Có thể
nói, với một chính sách pháp luật về đất đai có nhiều bất cập, cộng thêm những biểu
hiện của nhóm lợi ích giữa doanh nghiệp và chính quyền kết cấu, trục lợi từ đất đai
diễn ra ở nhiều nơi với tính chất và quy mô khác nhau khiến cho việc khiếu kiện,
khiếu nại về đất đai trở nên phức tạp. Nhiều quyết định của chính quyền không hợp
lòng dân khiến người dân bất bình, nhiều nơi cán bộ vô cảm làm ngơ trước lợi ích của
dân. Rất nhiều vụ việc tố cáo có liên quan đến tiêu cực, tham nhũng và có nguyên
nhân do cấp trên nể nang, bao che cho cấp dưới làm sai, dẫn đến khiếu kiện kéo dài,
gây nên tình trạng bất ổn định xã hội, làm cho mâu thuẫn giữa Nhà nước và nông dân
trở thành một vấn đề xã hội.
Kinh nghiệm cho thấy, các chính sách hỗ trợ của Nhà nước chỉ đem lại hiệu quả khi
có cơ chế để nông dân tham gia, để họ phản ánh nguyện vọng cho các nhà hoạch định
chính sách cũng như giám sát chính sách khi triển khai.
3.2.3.5. Thiếu các tổ chức hợp tác hay tổ chức hiệp hội hoạt động thực sự có hiệu
quả vì lợi ích nông dân
Đây là một nguyên nhân khiến thu nhập và lợi ích kinh tế của nông dân không được
đảm bảo. Kinh nghiệm thành công và thất bại từ các nước công nghiệp hóa đi trước cho
thấy, cách tốt nhất để nông dân đứng vững được trước sóng gió của cơ chế thị trường là
họ phải được tổ chức thành các hiệp hội quy củ. Những hiệp hội đó phải hiệu quả để tổ
chức nông dân lại thành lực lượng thống nhất, đủ mạnh có thể đại diện cho nông dân đàm
phán, xử lý tranh chấp với các đối tác và tiến đến chủ động khống chế việc cung ứng vật
tư nông nghiệp cho sản xuất. Tổ chức hợp tác được đề cập đến là tổ chức được phát triển
116
trong điều kiện kinh tế thị trường, phù hợp với chế độ doanh nghiệp do nông dân làm chủ
và kinh doanh theo cơ chế thị trường, là thể chế doanh nghiệp kết hợp giữa tập trung lao
động với tập trung tư bản, chứ không phải là các tổ chức tập thể truyền thống. Địa vị của
người nông dân trong tổ chức hợp tác kiểu này là người chủ thực sự - điều hoàn toàn khác
với địa vị của nông dân trong tổ chức hợp tác truyền thống. Hiện nay ở nước ta cũng có
những tổ chức như vậy nhưng thực tế hoạt động chưa hiệu quả, chưa đủ mạnh để giúp
nông dân đứng vững và làm giàu trong bối cảnh kinh tế thị trường toàn cầu.
117
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỖ TRỢ CỦA
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NÔNG DÂN VIỆT NAM SAU GIA NHẬP
TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
4.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN HỖ TRỢ ĐỐI VỚI NÔNG DÂN SAU GIA
NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Hỗ trợ đối với nông dân là một trong những chính sách quan trọng nhất của mọi
quốc gia trong thế giới ngày nay. Đối với một nước đang trong quá trình CNH, HĐH
như Việt Nam thì điều đó lại càng thiết yếu hơn. Trong bối cảnh là thành viên đầy đủ
của WTO, việc hoàn thiện chính sách hỗ trợ đối với nông dân ở Việt Nam cần quán
triệt các quan điểm sau:
4.1.1.1. Hỗ trợ nông dân là sự đầu tư trở lại của Nhà nước và xã hội tương
xứng với vị trí trọng yếu và sự đóng góp to lớn của nông dân
Trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nông dân là lực lượng chủ yếu,
trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc. Trong hơn 20
năm đổi mới, vai trò và sự đóng góp của người nông dân là không thể thiếu đối với sự
phát triển của đất nước. Ngành nông nghiệp đã liên tiếp 2 lần “cứu” nền kinh tế thoát
khỏi bờ vực khủng hoảng. Năm 1989, công nghiệp tăng trưởng âm, nhưng nông
nghiệp phát triển mạnh nên cứu được khủng hoảng. Đến năm 1999, công nghiệp -
dịch vụ đều giảm, chỉ có nông nghiệp tăng trưởng tốt nên đã cứu được nền kinh tế
đang bên bờ vực khủng hoảng. Đặc biệt trong tình hình nền kinh tế đang suy giảm như
hiện nay, nông nghiệp vẫn là mặt trận hàng đầu, trở thành “trụ đỡ”, giúp đất nước
vượt qua khó khăn. Cùng với việc nỗ lực giữ vững được nhịp độ tăng trưởng kinh tế,
đảm bảo được an ninh lương thực cho toàn xã hội và có một sản lượng lương thực lớn
xuất khẩu, thời gian qua nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn góp phần rất đáng kể
vào giữ vững an sinh xã hội. Đó là việc giải quyết tạm thời công ăn việc làm cho hàng
chục nghìn lao động bị nhỡ việc, bị mất việc làm từ các nhà máy, công trường khi
những hợp đồng lao động của họ bị đình trệ do các ông chủ không ký kết được hợp đồng
118
mua bán, tiêu thụ sản phẩm. Từ những thành tựu chủ yếu đạt được cho thấy lĩnh vực
nông nghiệp, nông dân, nông thôn mà trung tâm là nông dân quan trọng đến mức nào đối
với toàn xã hội. Nếu chúng ta không có những quyết sách đúng đắn về vấn đề này,
không đảm bảo đời sống cho người nông dân thì rất khó đảm bảo được tăng trưởng
kinh tế và ổn định xã hội. Chính vì lẽ trên, giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân,
nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, phải coi việc hỗ trợ nông
nghiệp, nông dân, nông thôn về thực chất là sự đầu tư trở lại của xã hội cho nông dân,
nhằm bù đắp những cống hiến mà nông dân đã đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
4.1.1.2. Hỗ trợ đối với nông dân nằm trong chính sách “cả gói” giải quyết
vấn đề “tam nông” phù hợp với điều kiện Việt Nam trong khuôn khổ thực hiện các
cam kết WTO
Là thành viên của WTO, Việt Nam phải đồng thời giải quyết hai việc: Thứ
nhất, tiếp tục các chính sách kinh tế mà dù có là thành viên WTO hay không, vẫn phải
làm, vì đây là chính sách cơ bản. Thứ hai, thực hiện một số công tác mới trong tư cách
thành viên WTO với tính cách là chính sách đáp ứng. Hai công việc này hỗ trợ lẫn
nhau, cái sau thúc đẩy cái trước và cái trước tạo điều kiện cho cái sau. Điều đó cũng
có nghĩa là, Nhà nước cần tiến tới một phương án mang tính cơ bản, lâu dài với tính
cách là một “chiến lược” hoàn chỉnh đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân -
tạm gọi là chính sách “Tam nông”. Chính sách đó cần quán triệt sâu sắc các quan
điểm, mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nhưng được đặt
trong điều kiện thực tiễn mới - các nội dung đã cam kết của nước ta khi gia nhập
WTO và đã đến thời điểm thực hiện, đồng thời tính đến những vấn đề thực tế của
“tam nông” nước ta hiện nay. Một nền nông nghiệp phát triển bền vững là điều kiện
cơ bản để đưa hàng chục triệu hộ nông dân thoát nghèo vươn lên làm giàu.
Nội dung cốt lõi của “chiến lược” này phải bao hàm các vấn đề: khắc phục nếp
nghĩ, cách làm của người nông dân sản xuất nhỏ; xây dựng hệ thống chính sách
khuyến khích phát triển “tam nông”, chính sách phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá
nông nghiệp, nông thôn, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn;
chính sách về tích tụ ruộng đất, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, phát triển nông nghiệp sinh
119
thái, phát triển làng nghề; những chủ trương lớn về đổi mới, nâng cao chất lượng đào
tạo nguồn nhân lực, xây dựng môi trường văn hoá mới…với một hệ thống những điều
kiện đảm bảo tính khả thi tương ứng.
4.1.1.3. Hỗ trợ đối với nông dân phải tạo lập được những điều kiện cần thiết
giúp nông dân nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh trong gia nhập WTO
Bên cạnh sự nỗ lực của nông dân, vai trò của Nhà nước là vô cùng quan trọng
trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới của nền nông nghiệp nước ta. Khoảng cách
giữa thành thị và nông thôn ở nước ta hiện nay đang còn xa. Vẫn còn nhiều hộ nông
dân chưa thoát khỏi đói nghèo. Những chăm sóc y tế, giáo dục, văn hoá… với bà con
nông dân vẫn còn phải nỗ lực lớn để vượt qua. Những điệp khúc “được mùa mất giá”
luôn thường trực trên đôi vai người nông dân nước ta. Những hàng rào kỹ thuật dựng
lên ngày càng nhiều ở các nước khác đang là rào cản đối với hàng nông sản xuất khẩu
của chúng ta. Những điều này đòi hỏi cần có một chiến lược đồng bộ từ khâu lập
chính sách vĩ mô, sự phối hợp giữa các ngành đến quy hoạch, đào tạo cho người nông
dân. Nhà nước cần chủ động trong việc quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp, vùng
chuyển đổi sang công nghiệp, dịch vụ rõ ràng và mang tính dài hạn để việc hoạch định
kế hoạch sản xuất mang tính ổn định, lâu dài. Nếu có được những định hướng đúng đắn
và quy hoạch tổng thể xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp sẽ giúp cho người
nông dân chủ động trong sản xuất, bố trí “trồng cây gì, nuôi con gì” để không phải lo
“được mùa mất giá”. Nhà nước cần hỗ trợ người nông dân trong đào tạo từ kiến thức kỹ
thuật trong sản xuất, tay nghề và kỹ năng chuyên môn đến kiến thức về thị trường để họ
có thể chủ động trong sản xuất và hội nhập thành công.
Cùng với những chính sách của Nhà nước, các đoàn thể, các nhà khoa học, hiệp
hội ngành nghề và các doanh nghiệp cần hỗ trợ nông dân trong quá trình liên kết sản
xuất và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất. Cần thiết phải tổ chức lại sản xuất
nông nghiệp, tăng cường khuyến nông, đào tạo nghỉ cho nông dân. Khi đã liên kết với
nhau, người nông dân dễ dàng tiếp cận được với tiến bộ kỹ thuật mới, các giống cây
trồng, vật tư, phân bón và biện pháp thâm canh mới để từ đó nâng cao năng suất và
chất lượng nông sản. Khi tạo thành tổ liên kết sản xuất, hợp tác xã hay doanh nghiệp,
người nông dân sẽ có được lợi thế cạnh tranh từ việc được các doanh nghiệp cung cấp
các yếu tố đầu vào như giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… với giá cả hợp lý (vì
120
mua với số lượng lớn). Họ cũng được lợi thế trong việc triển khai sản xuất vì qui mô
lớn sẽ giảm suất đầu tư và thuận lợi trong việc tiêu thụ do có thể ký được hợp đồng
trước với các doanh nghiệp. Kết quả của quá trình này là nông dân có chi phí sản xuất
thấp, năng suất cao, sản lượng đủ lớn, chất lượng ổn định và đầu ra thuận lợi từ đó có
đạt hiệu quả cao.
4.1.1.4. Hỗ trợ để nông dân có khả năng và điều kiện khai thác tối đa những
ưu đãi của WTO đối với các nước thành viên đang phát triển để nông nghiệp, nông
thôn và nông dân nước ta hội nhập có hiệu quả
Để thực hiện được điều này, cần phải tạo sự thích ứng nông dân Việt Nam trong
việc thực hiện các cam kết của WTO, hình thành tư duy mới và cách làm mới trong
phát triển nông nghiệp.
Gia nhập WTO với những cam kết đã được ghi nhận trong các hiệp định đa
phương, song phương phản ánh mức độ hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng
của nước ta nói chung, nông nghiệp nói riêng. Những cam kết đó và quá trình triển
khai thực hiện chúng trong 7 năm qua đã tác động rất mạnh mẽ đến hình thành cách
nghĩ, cách làm nông nghiệp theo một tư duy mới - tư duy của người nông dân sản xuất
nông phẩm hàng hóa lớn, hiện đại - sản xuất những nông sản hàng hóa mà thị trường
trong, ngoài nước có nhu cầu lớn và địa phương, đất nước mình có nhiều tiềm năng,
lợi thế và sản xuất theo công nghệ ngày càng hiện đại. Đồng thời phải hướng tới phát
triển một nền nông nghiệp sản xuất sản phẩm sạch và một nền nông nghiệp sinh thái.
Bởi vì theo các cam kết của Việt Nam trong gia nhập WTO và nhiều hiệp định song
phương, đa phương khác, chúng ta phải tham gia và đảm bảo thực hiện tốt vệ sinh
kiểm dịch động, thực vật; đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Nông sản hàng hóa của
nước ta phải đạt khối lượng lớn, chất lượng tốt, đáp ứng đầy đủ những điều kiện để
cạnh tranh xuất khẩu thì mới có thị trường tiêu thụ rộng lớn và đạt hiệu quả cao.
Không chỉ cạnh tranh trong xuất khẩu mà ngay trên thị trường nội địa, trong bối cảnh
có sự cạnh tranh của nông sản nhập khẩu, nếu nông sản hàng hóa của nước ta không
đảm bảo chất lượng và giá cả hợp lý đủ sức cạnh tranh thì đã bị thua ngay trên sân
nhà. Trong trường hợp đó, duy trì sự tồn tại đã khó thì làm sao có thể phát triển được.
Chính vì vậy mà gia nhập WTO vừa đặt ra yêu cầu bức bách, vừa hối thúc chúng ta
phải đổi mới mạnh mẽ tư duy và cách thức làm nông nghiệp nhằm phát triển một nền
121
nông nghiệp hàng hoá lớn, hiện đại, bền vững, trong đó yêu cầu đảm bảo nông sản
sạch, có sức cạnh tranh cao phải được đặt lên hàng đầu. Nhằm giúp nông dân thích
nghi với chính sách mới, phải cung cấp cho họ đầy đủ thông tin về chính sách mới.
Các chính sách phải đáng tin cậy và người nông dân phải được quyền đánh giá các cơ
hội mới do những chính sách này tạo ra.
4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỖ TRỢ NÔNG DÂN VIỆT NAM SAU GIA
NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
4.2.1. Nhóm giải pháp về hỗ trợ nông dân tiếp cận các nguồn lực đầu vào
4.2.1.1. Về chính sách đất đai
Đất đai và xử lý vấn đề đất đai đối với mọi nước trên thế giới đều là vấn đề lớn và
vô cùng quan trọng, nhưng rất khó khăn và phức tạp, đối với mọi loại đất, ở nông thôn
và thành thị. Do những điều kiện lịch sử riêng biệt, ở nước ta, vấn đề đất đai, trong đó
có đất nông nghiệp và đất ở nông thôn, lại càng quan trọng và phức tạp. Không nên
coi sự nghiên cứu và các chính sách, các luật lệ về đất đai hiện nay đã là đủ mà cần
phải tiếp tục nghiên cứu tình hình và chính sách đất đai sâu sát hơn nữa. Quá trình
thực hiện các luật lệ hiện hành về đất đai phải nghiêm túc, kiên quyết và chặt chẽ hơn.
Thứ nhất, đổi mới và hoàn thiện chính sách đất đai nhằm tạo cơ sở kinh tế, đảm
bảo vị thế làm chủ của nông dân. Để thực hiện được điều đó, cần chú ý:
- Hạn chế tối đa lấy đất nông nghiệp trồng lúa và cây lương thực cho mục đích
công nghiệp và đô thị hoá. Nếu lấy, phải tính tới chi phí cơ hội giữa đất trồng lúa, đất
đồi gò và đất hoang hoá cho phát triển công nghiệp - dịch vụ. Nghiên cứu ban hành
sắc thuế đánh vào việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp đủ mạnh để
ngăn chặn việc lấy đất trồng lúa làm công nghiệp và đô thị hoá quá dễ dãi như hiện
nay. Phải quản lý, sử dụng đất theo đúng quy hoạch, kế hoạch, nhất là khu vực sẽ
chuyển mục đích sử dụng; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử
dụng đất đai theo quy hoạch nhằm ngăn chặn và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; các trường hợp đã được giao đất, cho thuê đất
nhưng không sử dụng…
- Nới rộng hơn nữa mức hạn điền lớn hơn Luật Đất đai sửa đổi quy định nhằm
khuyến khích kinh tế trang trại quy mô lớn. Chúng ta không sợ xu hướng hình thành
122
tầng lớp “địa chủ” mới và “tá điền” mới ở nông thôn vì ta có hệ thống chính trị hoạt
động mạnh ở các cấp. Chúng ta có nhiều chế tài khác để chặn được tình trạng tiêu cực
này như đánh thuế cao vào người có nhiều đất nhưng không trực tiếp sản xuất; tịch
thu, sung công đất khi có hành vi phát canh thu tô. Điều quan trọng là chính quyền địa
phương phải quyết tâm ngăn chặn việc hình thành tầng lớp địa chủ mới. Trong thời
đại công nghiệp hiện nay, nếu địa chủ mới có hình thành thì cũng sẽ núp dưới dạng
chủ một doanh nghiệp nông nghiệp tư nhân.
- Về thời hạn giao đất 50 năm cũng cần làm rõ vùng nông nghiệp nào có tính
chiến lược quốc gia, an ninh lương thực, thì nên giao lâu dài. Những đối tượng thực sự
là nông dân trực canh và sử dụng đất hiệu quả nên mạnh dạn giao đất thời hạn lâu dài
cho họ. Để khuyến khích sản xuất hàng hóa, nên nghiên cứu từng vùng, quy mô thế
nào thì được giao 50 năm, từ đó thúc đẩy tập trung ruộng đất. Cần gắn chủ trương này
với khuyến khích tập trung ruộng đất, thúc đẩy sản xuất hàng hóa, nâng cao giá trị gia
tăng và phát triển bền vững sản xuất nông nghiệp. Về nguyên tắc, giao đất càng dài thì
sự ổn định hiệu quả của đầu tư nông nghiệp càng cao, cả về hạ tầng thủy lợi, điện,
đường, đầu tư sản xuất và nhà đầu tư sẽ càng yên tâm đầu tư. Tuy nhiên, phải quản lý
chặt, tạo công bằng trong sử dụng đất. Việc mở rộng thời hạn giao đất nông nghiệp
cũng phải tính toán nhằm tạo công bằng trong sử dụng đất đai, tránh tình trạng người
cần thì không có, người có lại không cần. Đối với trường hợp có đất nhưng không sử
dụng hoặc có đất nhưng cho thuê, phải có chính sách nhất định để xử lý nhằm tạo công
bằng trong đất đai.
- Coi trọng lợi ích nông dân trong đền bù thu hồi đất. Thu hồi đất để phát triển
công nghiệp và đáp ứng nhu cầu đô thị hóa diễn ra là điều tất yếu của quá trình phát
triển. Tuy nhiên, cần bảo đảm lợi ích các bên, đặc biệt lợi ích của người dân bị thu hồi
đất, bảo đảm cho những người bị thu hồi đất có thể khôi phục lại hoặc cải thiện mức
sống so với trước khi bị thu hồi đất. Nên tính toán theo hướng, khi Nhà nước thu hồi
đất thì người nào sử dụng đất sau đó sẽ có trách nhiệm bồi thường. Mức bồi thường
cho giải tỏa mặt bằng được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm cho người dân có cuộc
sống bằng hoặc cao hơn nơi ở cũ. Với người dân nông thôn, cần tính toán đầy đủ, bên
cạnh tiền bồi thường về sử dụng đất đai cần có tiền bồi thường về hoa màu, tài sản
trên đất. Trong đền bù đất đai, cần thực hiện nhiều biện pháp để người dân cảm thấy
123
được tôn trọng và được lợi khi họ phải nhường đất cho các dự án của Chính phủ.
Trong suốt quá trình thu hồi đất, người dân phải có quyền và nghĩa vụ “tương tác” với
chính quyền địa phương, thông qua đó giám sát những người thực thi quá trình thẩm
định giá, đền bù, tái định cư.
- Tính giá đất theo giá thị trường. Hiện nay, vẫn còn sự khác biệt lớn giữa “giá đất
do Nhà nước quy định” với “giá thị trường” - đây là nguyên nhân gây ra những trở
ngại lớn trên thị trường đất đai. Hệ thống hai mức giá này có thể đem đến những giá
trị và lợi ích lớn cho các doanh nghiệp xây dựng phát triển bất động sản (thường là
doanh nghiệp nhà nước), nhà đầu tư và nhà đầu cơ. Ngoài ra, các quyết định phân bổ,
các giao dịch liên doanh, thuế phí đầu tư thường dựa trên giá trị đất đã bị giảm giá một
cách giả tạo; điều này có nghĩa là Chính phủ đang gây thiệt hại cho lợi ích của người
dân bằng cách hạ thấp giá trị của một trong những tài sản quý giá nhất thuộc sở hữu
của người dân.
Thứ hai, hoàn thiện cơ sở lý luận, mô hình thực tiễn và cơ chế nông dân góp vốn
bằng giá trị quyền sử dụng đất được làm việc tại nơi góp vốn
Mục tiêu của cách làm này là đảm bảo cho những lao động nông nghiệp bị thu hồi
đất tuy không còn điều kiện cơ bản để tiếp tục sản xuất nông nghiệp nữa, nhưng vẫn có
cơ sở kinh tế để duy trì vị thế là người lao động làm chủ, được chuyển đổi nghề nghiệp
từ lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp hay dịch vụ và có cuộc sống ổn
định, bền vững. Những lao động nông nghiệp bị thu hồi đất được quyền góp vốn vào
công ty bằng giá trị quyền sử dụng đất của mình theo mức giá hợp lý trong từng thời kỳ
được Nhà nước quy định cho từng vùng sát với giá thực tế trên thị trường. Giá trị và số
lượng cổ phiếu của doanh nghiệp đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng hay các loại doanh
nghiệp khác được giao cho nông dân bằng với giá trị quyền sử dụng đất trên thực tế của
từng hộ bàn giao đất cho công ty hay doanh nghiệp. Cùng với việc được quyền góp vốn,
những lao động nông nghiệp bị thu hồi đất phải được hỗ trợ đào tạo nghề và được tiếp
nhận vào làm việc tại các công ty, doanh nghiệp mà họ góp vốn, nhất là những người
lao động trong độ tuổi dưới 40. Đối với những người lãnh đạo lớn tuổi thì tham gia các
hoạt động dịch vụ thích hợp. Còn những người đã hết tuổi lao động thì tiếp tục canh tác
trên phần đất còn lại và dựa một phần vào nguồn thu nhập có được từ cổ tức.
124
Trường hợp nông dân không muốn góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất mà
muốn nhận tiền đền bù để thực hiện cách đầu tư khác thì số cổ phiếu đó được quy ra
thành tiền theo trị giá cổ phiếu để chuyển qua quỹ đầu tư phát triển nhằm giúp cho các
hộ nông dân chuyển hướng đầu tư theo thế mạnh của họ. Đây sẽ là biện pháp giúp nông
dân sử dụng số tiền đền bù, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, ổn định cuộc sống một cách
có hiệu quả và bền vững trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
Thứ ba, đẩy nhanh thực hiện chính sách “dồn điền, đổi thửa” để có những cánh đồng
lớn, tạo nền tảng cho phát triển sản xuất hàng hoá hiện đại
Tập trung làm tốt công tác tuyên truyền vận động để người dân nhận thức đúng
đắn về vai trò, tầm quan trọng của công tác dồn điền, đổi thửa từ đó tích cực hưởng
ứng, tham gia. Phải thực hiện nguyên tắc công khai, dân chủ, công bằng, bình đẳng và
tự nguyện, trong đó, đội ngũ, cán bộ đảng viên ở các xã phải là những người tiền
phong gương mẫu đi trước trong thực hiện dồn điền, đổi thửa. Tăng cường công tác
thanh tra, kiểm ra trong thực hiện dồn điền, đổi thửa nhằm uốn nắn kịp thời những sai
sót, lệch lạc, bảo đảm việc thực hiện đúng tiến độ, hiệu quả, đồng thời phát hiện xử lý
những tổ chức cá nhân lợi dụng chủ trương, chính sách để làm trái pháp luật, vi phạm
quy chế dân chủ cơ sở.
Tập trung hỗ trợ vốn, giúp đỡ kỹ thuật và thị trường… cho các hộ và những khu
vực dồn điền, đổi thửa sao cho hiệu quả sản xuất ở những nơi đó cao hơn hẳn những
khu vực ruộng đất còn manh mún để tạo sự hấp dẫn, làm thay đổi cách nghĩ của người
dân trong việc dồn điền, đổi thửa. Đồng thời phải làm tốt công tác quy hoạch để hình
thành những vùng sản xuất theo từng cây, con ổn định, lâu dài. Các ban ngành hữu
quan cần phải xây dựng bản quy hoạch tổng thể về các loại đất, điều kiện tự nhiên, khí
hậu của từng vùng. Trên cơ sở đó, các địa phương nghiên cứu xây dựng kế hoạch chi
tiết, cụ thể trong sử dụng từng loại đất phù hợp với từng loại cây trồng, vật nuôi để có
phương án đổi điền, dồn thửa khoa học, phù hợp với điều kiện thực tiễn và được nông
dân đồng thuận, tránh gây những thiệt hại đáng tiếc cho người nông dân.
Quy mô đất đai càng lớn thì càng phải giám sát sản xuất chặt để hạn chế rủi ro,
đảm bảo liên kết trong sản xuất. Những nông dân, doanh nghiệp nông nghiệp nào
không tuân thủ điều kiện cấp phép sản xuất đối với quy mô lớn, Nhà nước có thể rút
giấy phép sản xuất và tổ chức đấu thầu cho nông dân, doanh nghiệp khác mua lại.
125
4.2.1.2. Về hỗ trợ hông dân tiếp cận vốn tín dụng thuận lợi
Vốn đầu tư vào nông nghiệp có độ rủi ro cao, vốn giải ngân nhỏ nhưng chi phí giám
sát lớn, trong khi về phía người nông dân do cơ chế, thủ tục cho vay phức tạp và một số
lĩnh vực có thời gian thu hồi vốn dài. Chính vì thế, các tổ chức tín dụng không tích cực
cho nông dân vay vốn sản xuất. Trong khi đó nông dân nước ta đa phần có mức tích lũy
thấp, nếu không vay được vốn thì khó mở rộng quy mô sản xuất, khó đầu tư cho thâm
canh, hiện đại hóa sản xuất hoặc thay thế giống mới. Do đó, Nhà nước cần hỗ trợ tích
cực để nông dân có thể tiếp cận nguồn vốn thuận lợi.
Thứ nhất, mở rộng tín dụng cho nông dân
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần nghiên cứu, tiếp tục linh hoạt hơn nữa một số
cơ chế khuyến khích các NHTM cạnh tranh mở rộng cho vay đối với khu vực nông
nghiệp, nông thôn, như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cho vay tái cấp vốn, sử dụng nguồn vốn
huy động trên thị trường cấp II… Đồng thời, tiếp tục có biện pháp cụ thể hơn nhằm
khuyến khích các tổ chức tín dụng cạnh tranh, mở rộng mạng lưới hoạt động ở nông
thôn. Ngân hàng Nhà nước trao đổi với Bộ Tài chính, trình Chính phủ nên có cơ chế
chủ động hơn về nguồn vốn cho Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam để mở rộng
hơn các chương trình tín dụng chính sách, mở rộng hơn cho vay đối với các đối tượng
cận nghèo ở vùng nông thôn. Bên cạnh đó, cần có cơ chế về chính sách, về nguồn vốn
để hệ thống Quỹ Tín dụng nhân dân cơ sở tại các vùng nông thôn nói chung tiếp cận
được kênh vay tái cấp vốn (như NHNo&PTNT), cũng như các nguồn vốn ủy thác,
nguồn vốn của các dự án khác.
Khuyến khích khai thác triệt để các nguồn vốn ủy thác từ các định chế tài chính
quốc tế, các ngân hàng nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ thông qua các dự án mà
NHNo&PTNT ký kết. Đây là nguồn vốn thường được đầu tư dự án phát triển theo
loại cây, con hoặc theo vùng, tiểu dự án. Các nguồn vốn ủy thác từ nước ngoài có tính
chất ổn định trong một thời gian dài, rất phù hợp với nhu cầu cho vay trung, dài hạn
phục vụ cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đang đòi hỏi nhiều vốn có lãi suất
thấp, vừa có thời gian dài phù hợp với các đối tượng cần đầu tư về kinh tế trang trại.
Xây dựng tổ chức tín dụng của nông dân sản xuất. Hiện tại, chủ yếu nông dân vay
vốn từ ngân hàng. Nhưng vay ngân hàng không dễ, lãi suất cũng cao. Nhiều nông dân
còn phải vay lãi cao ngoài hệ thống ngân hàng. Do đó, muốn hỗ trợ nông dân trong
126
quá trình tái cơ cấu nông nghiệp có hiệu quả, cần xây dựng tổ chức tín dụng của nông
dân. Tổ chức tín dụng này là do các nông dân góp vốn lập nên rồi cho vay lại chính
nông dân, lãi thu được lại chia cho nông dân (tất nhiên, mức vay và lãi… thiết thực,
sát với điều kiện của nông dân). Từ đó, sẽ chấm dứt nạn “tín dụng đen” ở nông thôn.
Bên cạnh đó, cần có tổ chức hợp tác xã để làm một chỗ dựa cho nông dân không phải
tự bơi nữa. Thông qua tổ chức hợp tác xã này, các nhà đầu tư, doanh nghiệp đầu tư tài
trợ bằng hình thức cho nông dân vay vốn để sản xuất. Thậm chí, có doanh nghiệp ứng
trước tiền cho nông dân để họ làm ra sản phẩm rồi doanh nghiệp mua lại thông qua
vai hợp tác xã.
Thứ hai, đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng đối với khách hàng nông dân
Đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng của hệ thống các trung gian tài chính nông
thôn cũng là giúp các hộ nông dẫn tiếp cận dễ dàng và hiệu quả nguồn vốn tín dụng.
Để đạt được điều đó, cần thực hiện:
Kết hợp nhiều phương thức cho vay linh hoạt như phương thức cho vay dự án đầu
tư, cho vay hạn mức tín dụng,... nhằm giúp cho người vay chủ động hơn trong việc sử
dụng vốn phù hợp với chu kỳ sản xuất trong nông nghiệp, giảm thiểu các thủ tục vay,
tiết kiệm được các chi phí gián tiếp khi tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng. Đặc biệt,
phát triển loại hình tín dụng cho thuê tài chính trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Mở rộng thị trường cho thuê tài chính nông thôn nhằm khắc phục hạn chế về tài sản
đảm bảo nợ vay (cho vay không cần tài sản thế chấp như vay ngân hàng). Hoạt động
cho thuê tài chính giúp các hộ sản xuất đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ với qui mô
vốn lớn, thời gian cho thuê trung, dài hạn (5 - 10 năm) đáp ứng nhu cầu vốn, thực hiện
cơ giới hóa nông nghiệp, nông thôn.
Phát triển sản phẩm cho vay hoạt động tiếp thị nông sản cho các hộ nông dân có
hàng hoá có thể tiêu thụ, các nhóm đầu tư chung và hợp tác xã kinh doanh nông sản do
nông dân góp vốn. Về mục đích, sản phẩm tín dụng này hỗ trợ cho các đối tượng trên
có điều kiện tích trữ nông sản sau thu hoạch, thực hiện tiếp thị và bán các sản phẩm đó
tại mức giá nhất định để đảm bảo ổn định đầu ra và tăng thu nhập cho người nông dân.
Thời hạn vay từ 3 đến 6 tháng sau thu hoạch, với lãi suất theo quy định của ngân hàng.
Tài sản thế chấp chính là nông sản hàng hoá. Các trung gian tài chính sử dụng biên bản
lưu kho làm chứng từ vay vốn hoặc có thể chọn phương thức uỷ quyền cho một đơn vị
127
kinh doanh kho bãi cất giữ hàng hoá được cầm cố theo một hợp đồng tay ba. Hàng hoá
chỉ được giải chấp khi có thư chấp nhận của các trung gian tài chính.
Phát triển phương thức tài trợ thay thế cho tín dụng bảo đảm bằng tài sản đối với
tất cả các khách hàng có thể đưa ra các hình thức thay thế tài sản đảm bảo nhằm giảm
việc phụ thuộc vào tài sản thế chấp hữu hình có giá trị thanh khoản thấp, không đầy
đủ giá trị pháp lý đồng thời định hướng cho ngân hàng nhận các loại tài sản thế chấp
an toàn và có khả năng thanh khoản. Thời hạn vay và lãi suất cho vay tương tự như
các hình thức cho vay khác. Đối với hình thức cho vay này, các trung gian tài chính
cần quan tâm đến các loại hình tài sản đảm bảo có thể thay thế đất và các tài sản gắn
liền với đất như thư bảo lãnh, tín dụng thư, đơn đặt hàng, hợp đồng mua bán, thỏa
thuận thu mua nông sản, phiếu nhập kho, bảo lãnh của tổ vay vốn. Các trung gian tài
chính phân tích tính chất pháp lý của các loại hình thay thế này và đề ra phương pháp
xác định giá trị của các hình thức đó với tư cách là hàng hoá, bất động sản khi các
hình thức này được sử dụng để thay thế bảo đảm bằng tài sản.
Thứ ba, hoàn thiện chương trình bảo hiểm nông nghiệp thực sự trở thành “chỗ dựa
của nhà nông”
Việt Nam là quốc gia sản xuất nông nghiệp, có đến 70% dân số sống ở nông thôn.
Gần đây, mỗi năm, thiên tai, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi đã làm nông dân Việt
Nam thiệt hại ước tính từ 13 đến 15 nghìn tỷ đồng. Trong khi đó, NSNN hằng năm chỉ
dành từ 200 - 400 tỷ đồng (chưa tính ngân sách địa phương) để hỗ trợ nông dân đối
phó dịch bệnh. Nhưng đây mới là chi tối thiểu chứ chưa giúp nông dân khôi phục và
bù đắp chi phí sản xuất. Do vậy, áp dụng bảo hiểm nông nghiệp (BHNN) sẽ trở thành
cứu cánh cho người nông dân khi họ gặp rủi ro trong sản xuất. Tuy nhiên, thời gian
thực hiện thí điểm BHNN, bên cạnh những kết quả đạt được, đang còn không ít vấn
đề đặt ra. Bản thân ngành nông nghiệp đã chứa đựng rất nhiều khó khăn và rủi ro, phụ
thuộc phần lớn vào những nhân tố khó kiểm soát là thời tiết, khí hậu. Mặt khác, nông
dân còn nghèo, tập quán sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, thói quen và kinh nghiệm còn
hạn chế thì bảo hiểm nông nghiệp cũng sẽ gặp phải không ít khó khăn rủi ro trước
mắt. Như vậy vấn đề đặt ra cho loại hình bảo hiểm đặc thù này là cần có cơ chế hỗ trợ
của Nhà nước một cách thích hợp mới hy vọng đạt hiệu quả. Để BHNN phát triển
hơn, có một số giải pháp sau:
128
Phổ biến sâu rộng những quyền lợi của chính sách BHNN mang lại cho nông dân.
Khó khăn nhất hiện nay trong việc triển khai BHNN là làm thế nào để nông dân hiểu
được những ưu đãi họ được hưởng, quyền lợi của họ khi tham gia bảo hiểm với sự hỗ trợ
gần như tối đa của Chính phủ để thu hút số đông tham gia. Ở nước ta, BHNN là một
chính sách mới, không chỉ nông dân - đối tượng tham gia bảo hiểm mà ngay cả doanh
nghiệp thực hiện bảo hiểm, cơ quan tham mưu cho Nhà nước, các cấp lãnh đạo và tổ
chức đoàn thể xã hội địa phương cũng chưa nhận thức, hiểu biết một cách thấu đáo. Do
vậy, trước mắt cần phải thông tin một cách đầy đủ, minh bạch, cụ thể, dễ hiểu loại hình
BHNN này với nhiều hình thức. Các địa phương cần thành lập ban chỉ đạo, các tổ công
tác để tổ chức hướng dẫn lại cho người nông dân tiếp cận được dễ dàng với BHNN, cần
thông tin cho họ đầy đủ thế nào là BHNN, vì sao cần tham gia, thủ tục ra sao và cơ quan
nào tư vấn giúp đỡ; để được bảo hiểm bồi thường cần những điều kiện gì…
Các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp các sản phẩm bảo hiểm đạt được một số những
điều kiện sau: Các sản phẩm cần đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với nhận thức và
trình độ của người nông dân; Phạm vi bảo hiểm thiết thực; Phí bảo hiểm thấp, cách thức
đóng phí phù hợp với thu nhập và thói quen của người nông dân; Thủ tục tham gia bảo
hiểm và bồi thường cần đơn giản, nhanh chóng.
Xây dựng cơ chế chính sách riêng cho BHNN mang tính bền vững. Để thực hiện
được điều đó, cần có sự tham gia, quan tâm của của các doanh nghiệp bảo hiểm, các
cấp, các ngành và toàn xã hội. Do đó, cần phải xây dựng cơ chế chính sách riêng cho
BHNN bao gồm: hỗ trợ người dân; hỗ trợ doanh nghiệp, Nhà nước nhận tái bảo hiểm
cho doanh nghiệp kinh doanh BHNN; nghiên cứu các mức độ rủi ro cho từng đối
tượng, từng vùng để có chính sách phát triển bảo hiểm phù hợp: phương châm đi từ dễ
đến khó (lựa chọn các đối tượng có mức độ rủi ro đồng nhất, mức độ vừa phải, sản
phẩm bảo hiểm đơn giản dễ thực hiện, lựa chọn rủi ro dễ kiểm soát …), sau cùng sẽ là
áp dụng sự đa dạng hoá các hình thức bảo hiểm, bảo hiểm chỉ số và bảo hiểm theo
phương pháp truyền thống… Tuy nhiên, sự hỗ trợ phải mang tính bền vững, có định
hướng, tăng tính chủ động từ nông dân chứ không phải cách làm “giật gấu vá vai”
theo kiểu thiệt hại đến đâu khắc phục hậu quả tới đó như hiện nay. Chẳng hạn, Nhà
nước vừa hỗ trợ chính sách mở cho doanh nghiệp, vừa đầu tư khoa học kỹ thuật cho
nông dân; đặt doanh nghiệp bảo hiểm ở vị trí trung gian, đứng ra bán dịch vụ cho
129
nông dân. Khi gặp thiên tai, dịch bệnh... dẫn tới thiệt hại thì bảo hiểm chịu một phần
theo khả năng trách nhiệm đã đăng ký, còn lại sẽ do Nhà nước đảm nhận.
Tạo được sự đồng thuận giữa người dân và doanh nghiệp bảo hiểm. Quá trình
thực hiện thí điểm chương trình BHNN đã nảy sinh một số vấn đề bất cập. Doanh
nghiệp bảo hiểm than thua lỗ, chậm trễ trong việc bồi thường tiền bảo hiểm cho nông
dân vì họ cho rằng một số hộ dân có dấu hiệu trục lợi qua việc bồi thường bảo hiểm,
các hộ dân, tổ chức sản xuất nông nghiệp vẫn tham gia mang tính chất thăm dò (tham
gia ít hoặc không tham gia), hoặc lựa chọn các đối tượng được bảo hiểm có rủi ro cao
để tham gia. Còn nông dân được bảo hiểm thì lại cho biết công ty bảo hiểm tìm cách
làm khó nông dân trong việc bồi thường, thậm chí ngưng hợp đồng bảo hiểm do e ngại
rủi ro… Sự nhùng nhằng này khiến cho ý nghĩa của việc thí điểm BHNN không đạt kết
quả như mong muốn. BHNN thực chất là một chính sách tốt, nhưng để thành công thì
cần phải có được sự ủng hộ từ phía người dân. Về phía doanh nghiệp, có thể nhân rộng
hình thức thu phí bảo hiểm của Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt, Công ty Bảo hiểm
Đông Đô… là đã cho phép thu phí làm nhiều kỳ tạo điều kiện cho các chủ hộ chăn nuôi
tham gia bảo hiểm. Đây là cách làm sáng tạo và thu hút được sự quan tâm của người
dân. Đồng thời, cần tích cực chủ động đẩy nhanh công tác rà soát, giải quyết các hồ sơ
yêu cầu bồi thường, phối hợp với ban chỉ đạo địa phương, các cơ quan chức năng xác
nhận thiệt hại, xác định cụ thể loại dịch bệnh, mức độ tổn thất và giải quyết bồi thường
kịp thời cho người được bảo hiểm để khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thực hiện tốt công tác giám sát rủi ro và phòng chống trục lợi bảo để bảo đảm ý
nghĩa và sự phát triển bền vững của chương trình BHNN. Nếu như ban chỉ đạo BHNN
địa phương và doanh nghiệp bảo hiểm không chú trọng và nâng cao vai trò trong công
tác, đồng thời người dân không nắm hết được nguyên tắc cũng như quy trình bảo
hiểm, dẫn tới khiếu kiện, thắc mắc kéo dài thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình
triển khai trên quy mô diện rộng. Và người chịu thiệt thòi trước nhất chính là các hộ
nông dân vì không được đảm bảo nếu xảy ra rủi ro. Cùng với sự cố gắng nỗ lực của
Chính phủ, của các cấp, các ngành có liên quan, các công ty bảo hiểm trong việc ngăn
chặn động cơ trục lợi BHNN, cũng cần sự hợp tác của những người tham gia BHNN
trong việc nâng cao nhận thức về BHNN. BHNN thực chất là bảo hiểm tương hỗ và
việc triển khai thí điểm cũng vì mục tiêu ổn định, phát triển ngành nghề cũng như đời
130
sống của nông dân, Chính vì vậy không nên có tâm lý ỷ lại hoặc có hành vi gian dối
để kiếm lời từ chương trình đầy ý nghĩa này.
Thứ tư, đảm bảo nông dân thực sự có lợi ích khi thực hiện chính sách tạm trữ
lúa gạo
Như đã phân tích ở chương 3, hỗ trợ nông dân tạm trữ lúa gạo mà Nhà nước đang
thực hiện không hoàn toàn đem lại lợi ích cho người dân trồng lúa như mục đích của
nó. Vì vậy, để chính sách hỗ trợ này đúng là chính sách vì nông dân, theo chúng tôi
cần thực hiện:
Xây dựng một hệ thống doanh nghiệp chế biến lớn, hiện đại, đóng vai trò chủ đạo
trong chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo, từ trồng trọt qua thu mua chế biến cho tới tiêu
thụ và xuất khẩu. Nhà nước cần hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp này, để họ trở
thành những doanh nghiệp đầu đàn trong ngành công nghiệp lúa gạo. Để có nhà máy
lớn chúng ta cũng có thể gom các nhà chế biến nhỏ hiện nay lại với nhau thành một
công ty cổ phần trang bị máy móc hiện đại, xây kho có thể dự trữ thóc 6 tháng, 1 năm
phục vụ cho chế biến.
Tạo một mối liên kết kinh tế chặt chẽ giữa các doanh nghiệp chế biến gạo với
nông dân mới giải quyết được cơ bản khâu tiêu thụ thóc gạo cho nông dân. Các nhà
máy chế biến lớn sẽ hợp đồng với nông dân về sản xuất, tiêu thụ và họ cũng định
hướng cho nông dân trong sản xuất. Có thể nhân rộng mô hình của Công ty Bảo vệ
thực vật An Giang bán cổ phiếu cho nông dân và nông dân trở thành cổ đông của công
ty, tức đã từ thân phận làm thuê bước lên vị trí làm chủ. Khi đó, những cổ đông - nông
dân này đến vụ thu hoạch có thể bán lúa lại cho chính công ty của mình, cuối kỳ - cuối
quý tiền lãi có được công ty cũng sẽ chia lại cho nông dân, không mất đi đâu cả. Từ
đó sẽ không còn cảnh bán lúa non, bị thương lái ép giá như lâu nay.
Tạo một sân chơi bình đẳng trong thực hiện thu mua tạm trữ lúa gạo cũng như
trong xuất khẩu gạo, hạn chế vai trò độc quyền của VFA. VFA về danh nghĩa gắn với
thị trường nhưng lợi ích kinh tế của họ rất lớn, có quá nhiều lợi thế trong việc đề xuất
chính sách. Việc mua gạo tạm trữ là do VFA đề xuất với Chính phủ, đối tượng được
quyền cầm tiền thu mua cũng do họ phân phối chỉ tiêu, giá mua lúa của nông dân và
giá sàn xuất khẩu cũng là do VFA quyết định. Tình trạng độc quyền xuất khẩu gạo của
VFA có thể làm thị trường bị bóp méo, làm mất đi vai trò, sự sáng tạo của doanh
131
nghiệp tư nhân (hiện nay, Tổng công ty Lương thực miền Bắc và Tổng công ty Lương
thực miền Nam thuộc VFA chiếm tới hơn 50% thị phần xuất khẩu gạo). Do vậy, cần
mở rộng đối tượng tham gia tạm trữ và tạo sự cạnh tranh bình đẳng trong hoạt động
xuất khẩu gạo thông qua việc tăng lượng doanh nghiệp bên ngoài VFA nhằm tăng
nguồn lực cho thu mua lúa gạo.
Tổ chức các hộ nông dân lại thành các hợp tác xã hoặc tổ nhóm gắn với từng vùng
chuyên canh. Các doanh nghiệp lớn thay vì ngồi thu mua sản phẩm lúa gạo từ các tư
thương thì phải xây dựng kho, sân phơi, cung cấp vật tư cho các tổ chức nông dân…
theo từng vùng chuyên canh. Chính phủ sẽ căn cứ vào sự bắt tay hợp tác giữa người
nông dân và doanh nghiệp mà hỗ trợ chính sách. Hoặc là khi chưa có sự hợp tác này,
Nhà nước phải hỗ trợ bằng cách chuyển số vốn tạm trữ sang ngân hàng, sau đó ngân
hàng sẽ dãn nợ cho dân trong vòng 3 tháng, đồng thời hỗ trợ lãi suất giống như áp
dụng cho doanh nghiệp thu mua lúa gạo. Không còn áp lực trả nợ, nông dân sẽ tự tạm
trữ chờ giá lúa lên.
4.2.1.3. Về hỗ trợ nông dân ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lĩnh vực nông nghiệp
Nông nghiệp nước ta không thể phát triển và hội nhập WTO được nếu như thiếu
vai trò của KH - CN hiện đại. Đó là lí do vì sao nhà nông phải gắn bó với nhà khoa
học, sản xuất nông nghiệp phải gắn với công tác nghiên cứu, ứng dụng những thành
tựu của KH - CN. Trong những năm gần đây, hệ thống các viện, các trung tâm nghiên
cứu phục vụ cho ngành nông nghiệp không ngừng được mở rộng. Tuy nhiên, việc mở
rộng này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của nông nghiệp nước ta trong xu
thế hội nhập WTO. Giá trị nông sản hiện nay, không chỉ do người lao động tạo ra mà
phần lớn bị chi phối bởi hàm lượng KH - CN trong nông sản. Hàm lượng KH - CN
trong sản phẩm không chỉ để khẳng định thương hiệu của mặt hàng mà còn là tiêu chí
để xác định trình độ phát triển của mỗi quốc gia.
Ngoài ra, còn một lĩnh vực rất quan trọng mà Nhà nước phải làm, đó là đầu tư cho
nghiên cứu để cải tạo chất lượng giống cây trồng. Hiện nay, dù thu nhập của nông dân
Việt Nam rất thấp nhưng không ít sản phẩm làm ra lại không thể cạnh tranh về giá với
nông sản đến từ những nước phát triển. Nghịch lý này một phần là do chất lượng
giống kém nên năng suất thu hoạch thấp.
132
Sự liên kết giữa bốn nhà: nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước
ngày càng trở nên quan trọng. Trong đó, mối quan hệ giữa nhà nông và nhà khoa học
được coi là mối quan hệ nền tảng, nòng cốt. Chính vì vậy muốn củng cố mối quan hệ
này và nâng cao hiệu quả nghiên cứu, ứng dụng KH - CN trong ngành nông nghiệp,
cần chú ý những điểm sau:
Một là, Nhà nước đầu tư nhiều hơn cho các trường và các viện, nhất là những cơ sở
có vai trò đầu tàu trong từng vùng hay từng lĩnh vực để nó làm tròn sứ mệnh và nhiệm
vụ được giao, đặc biệt là đầu tư các loại máy móc, trang thiết bị hiện đại phục vụ công
tác nghiên cứu, giảng dạy và đầu tư cho việc đào tạo đội ngũ các nhà khoa học có trình
độ cao, khoảng năm 2015 một số trường và viện của chúng ta trong lĩnh vực này đạt
được trình độ chung của các trường và viện của các nước phát triển trong khu vực.
Khuyến khích các trường đại học, các viện nghiên cứu và các nhà khoa học tạo ra ngày
càng nhiều các sản phẩm KH - CN có chất lượng cao phục vụ nông nghiệp.
Hai là, đầu tư theo hướng tập trung, đồng bộ cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
nghiên cứu, thí nghiệm, chuyển giao với các trang thiết bị nghiên cứu, chuyển giao
tiên tiến, hiện đại. Đến năm 2020, có ít nhất 10 tổ chức KHCN trong lĩnh vực nông
nghiệp đạt trình độ ngang tầm khu vực và thế giới. Lĩnh vực ưu tiên đầu tư nghiên
cứu, chuyển giao tập trung vào ứng dụng công nghệ sinh học để tạo giống cây trồng,
vật nuôi, thủy sản chất lượng cao. Công nghệ sinh học không chỉ là hướng mũi nhọn
của nông nghiệp trong xu thế hội nhập, nó còn là điều kiện cần thiết nhất để đưa nông
nghiệp Việt Nam hướng tới hội nhập. Trong thời gian tới công nghệ sinh học cần tiếp
tục tạo ra những giống cây trồng vật nuôi mới có năng suất cao, chất lượng tốt, đáp
ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, có khả năng đề kháng tốt trước dịch bệnh. Công
nghệ sinh học tập trung giải quyết vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Chỉ có công
nghệ sinh học mới giải quyết tận gốc vấn đề này. Sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ
thực vật vi sinh, thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc từ tự nhiên, bảo quản thực phẩm
bằng thuốc vi sinh không gây hại cho người tiêu dùng. Công nghệ sinh học góp phần
cải thiện môi trường nông nghiệp, nông thôn. Có như vậy mới tạo ra một nền nông
nghiệp sạch, bền vững. Đặc biệt, ưu tiên đầu tư cho vùng sản xuất nông nghiệp hàng
hóa trọng điểm, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, vùng có nguy cơ
xảy ra thiên tai, dịch bệnh.
133
Ba là, có chính sách, cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế, nhất là các doanh nghiệp chế biến nông sản tham gia nghiên cứu, chuyển giao
KH - CN phục vụ nông nghiệp, nông thôn như là một sự đầu tư trở lại của công
nghiệp trong lĩnh vực này đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Khuyến khích
những nghiên cứu cải tiến kỹ thuật, phát minh, sáng chế đáp ứng nhu cầu thực tiễn của
những “kỹ sư nông dân”. Có chính sách ưu đãi để thu hút nhiều trí thức trẻ về công tác
và lập nghiệp ở nông thôn, nhất là những trí thức trẻ thuộc các ngành nông - lâm
nghiệp, thủy hải sản, nghề muối, giáo dục, y tế, văn hóa và các vùng sâu, vùng xã, các
vùng có nhiều khó khăn. Khuyến khích hình thành các doanh nghiệp KH-CN, chú
trọng kết hợp công nghệ cao với công nghệ truyền thống đã được hình thành.
Hằng năm, các ngành chức năng và các đoàn thể cần phối hợp tổ chức các hội thi tìm
hiểu kiến thức KH-CN, hội thi sáng tạo kỹ thuật nhằm khuyến khích các tầng lớp nhân
dân hăng hái tham gia các hoạt động KH-CN. Thực tế đã chứng minh rằng, không
phải chỉ có các nhà khoa học mới có khả năng nghiên cứu KH-CN mà ngay cả người
dân bình thường vẫn giàu khả năng tư duy và những sản phẩm do họ phát minh, sáng
chế có giá trị thực tiễn cao.
Bốn là, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và có chế độ đãi ngộ tốt đội ngũ cán bộ làm
công tác nghiên cứu. Nước ta hiện nay rất cần đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu
về số lượng và chất lượng. Chúng ta thiếu cán bộ nghiên cứu ngành nông nghiệp ở
khu vực nông thôn và miền núi rất nhiều. Một phần vì công tác đào tạo chưa đáp ứng,
mặt khác do những cán bộ nghiên cứu được đào tạo ra nhưng không đến những nơi đó
làm việc. Ngoài ra, do khu vực nông thôn và miền núi còn thiếu cơ sở nghiên cứu và
các trang thiết bị cần thiết nên không chỉ không thu hút được người tài mà còn gây
lãng phí nguồn lực quan trọng này. Về chất lượng, nông nghiệp nước ta thiếu đội ngũ
những nhà khoa học thật sự giỏi về chuyên môn và niềm say mê nghiên cứu. Phần lớn
các kỹ sư vừa ra trường phải mất một thời gian và một chi phí đào tạo tiếp theo nhất
định mới có thể bắt tay vào công tác nghiên cứu. Nhiều nhà khoa học do thiếu những
sự đồng thuận cần thiết đã không phục vụ cho các viện nghiên cứu mà phục vụ cho
các đơn vị khác.
Năm là, rút ngắn thời gian từ thời điểm phát minh đến thời điểm ứng dụng và ứng
dụng đồng loạt. Làm được điều này sẽ tránh được những lãng phí không cần thiết, mặt
134
khác tận dụng được lợi thế của một phát minh mới khi chưa bị phát minh mới hơn
thay thế. Khắc phục được sự hao mòn vô hình trong sản xuất nông nghiệp. Khi ứng
dụng thấy hiệu quả thì nên nhân rộng ra trên quy mô lớn.
Thứ hai, đổi mới cơ chế quản lý KH - CN trong nông nghiệp
Chuyển từ quản lý theo nhiệm vụ KH - CN sang khoán, đặt hàng sản phẩm khoa
học công nghệ. Giảm bớt thủ tục hành chính, quản lý chặt chẽ sản phẩm đầu ra của
nhiệm vụ nghiên cứu; tăng cường cơ chế đặt hàng, khoán sản phẩm. Trao quyền tự chủ
nhiều hơn, mạnh hơn nữa cho các trường đại học và các viện nghiên cứu thuộc khu vực
tam nông. Nhà nước cần có thái độ dứt khoát, rõ ràng trong yêu cầu đối với các trường và
các viện cũng như bảo đảm cho họ được những vấn đề gì. Trên cơ sở đó giao cho các
trường và các viện tự quyết định toàn bộ các hoạt động của mình, từ hướng đào tạo và
nghiên cứu, đội ngũ cán bộ, lương bổng, đối nội và đối ngoại. Khi Nhà nước có những
yêu cầu đào tạo và nghiên cứu đặc biệt thì tiến hành đặt hàng cho các trường, các viện,
hoặc thông qua con đường đấu thầu công khai (tất nhiên các trường và các viện phải có
trách nhiệm bảo tồn và phát triển các cơ sở vật chất được Nhà nước trang bị và có trách
nhiệm đóng góp theo các qui định của pháp luật).
Phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ thể cho các bộ, ngành tránh tình trạng nhiều đề
tài, dự án chồng chéo, không mang lại hiệu quả cao. Đây là điều rất quan trọng, bởi
như thế sẽ tránh được sự lãng phí trong nghiên cứu, mới khai thác được hết các trang
thiết bị sẵn có và mới sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học, từ đó mới có điều
kiện giải quyết những vấn đề khoa học lớn do sự phát triển của nông nghiệp, nông
thôn và nông dân đặt ra.
Các trường và các viện cũng phải chủ động xây dựng cơ chế phối hợp trong
nghiên cứu và chuyển giao các kết quả nghiên cứu với các doanh nghiệp, làm sao cho
việc đến với nhau trở thành nhu cầu không thể thiếu được của mỗi bên. Đây là việc
mà các trường, các viện và các doanh nghiệp phải chủ động, không nên chờ đợi Nhà
nước. Một khi các trường và các viện được tự chủ thực sự, họ sẽ có nhiều giải pháp
hữu hiệu để sử dụng hợp lý và có hiệu quả các cơ sở vật chất - kỹ thuật được trang bị,
cũng như huy động và khích lệ được đội ngũ các nhà khoa học của đơn vị làm tốt
công tác nghiên cứu khoa học, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao phục vụ cho
nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
135
Thứ ba, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học phục vụ nông nghiệp
Hiện nay, nhiều nước đã đạt được những thành tựu nghiên cứu khoa học cơ bản
và ứng dụng vượt trội có thể đem lại năng suất và hiệu quả cao trong kinh doanh nông
nghiệp. Nhà nước có thể tranh thủ sự hợp tác với các nước để tạo dựng con đường
ngắn nhất đến vị thế làm chủ được các thành tựu khoa học đó. Có nhiều phương pháp
để đạt được mục tiêu:
Nhà nước có chiến lược và mục tiêu rõ ràng trong đề xuất và tranh thủ sự chuyển
giao tiến bộ khoa học trong nông nghiệp, kêu gọi hỗ trợ về nguồn lực, về tư vấn hoạch
định chiến lược, phương pháp triển khai, giám sát đánh giá ứng dụng KH - CN trong
nông nghiệp. Nhiều tổ chức kinh tế và nghiên cứu quốc tế về nông nghiệp có thể hỗ
trợ nông dân nước ta về phương diện này, nhất là dưới khía cạnh xóa đói, giảm nghèo
cho nông dân.
Xây dựng các chương trình hợp tác với các tổ chức nông nghiệp quốc tế trong
việc nâng cao năng lực khuyến nông và hỗ trợ nông dân xóa đói giảm nghèo thông
qua hoạt động khuyến nông. Tích cực tổ chức các diễn đàn hợp tác, hội thảo trao đổi
kinh nghiệm, chia sẻ thông tin, hội chợ, triển lãm quốc tế, liên kết đào tạo, huấn luyện
về lĩnh vực khoa học nông nghiệp với các nước trong khu vực và thế giới.
Mở rộng các tổ chức phối hợp với một số tổ chức phi chính phủ để nghiên cứu,
nhân rộng và phổ cập một số phương pháp cánh tác, nghiên cứu một số giống cây con
hoặc xây dựng các quy trình GAP cho các loại cây, con thích hợp với từng vùng, trong
đó chú trọng các hình thức hợp tác hiệu quả như hình thức xây dựng mô hình mẫu có
sự tham gia của nông dân, hình thức hợp tác hỗ trợ nông dân lập kế hoạch ứng dụng
thành tựu KH - CN từ cộng đồng...
Kêu gọi và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn ODA để tăng năng lực nghiên cứu và
triển khai các thành tựu KH - CN trong nông nghiệp, nhất là tạo điều kiện cho công
tác khuyến nông, nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế của ngành nông nghiệp, phát triển kỹ
năng lao động sáng tạo cho nông dân, bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển nông
nghiệp bền vững.
Thứ tư, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động khuyến nông
136
Đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn, công tác khuyến nông có vai trò đặc biệt
quan trọng. Khuyến nông là cầu nối của nông dân với KH - CN, nó giúp nông dân tiếp
cận với KH - CN hiện đại. Khuyến nông giúp người nông dân mở rộng giao lưu để có
thể học tập kiến thức, kinh nghiệm của nhau. Nông dân thông qua khuyến nông không
chỉ tiếp cận với KH - CN hiện đại mà còn được tiếp cận với đội ngũ những nhà khoa
học trong lĩnh vực nông nghiệp. Tăng cường công tác khuyến nông nhằm phục vụ
mục dích nâng cao hiệu quả sản xuất, lưu thông, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, tăng
cường vai trò thực sự của nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau khi gia nhập WTO
với nhiều cơ hội, thách thức mới. Những biện pháp cụ thể thúc đẩy hoạt động của công
tác khuyến nông đạt hiệu quả:
- Nâng cao được nhận thức hiểu biết của người nông dân về công nghệ, kỹ thuật
mới, kinh nghiệm trong sản xuất, bảo quản, kinh doanh sản phẩm nông nghiệp và các
kiến thức, thông tin về các mặt quản lý, kinh tế – xã hội khác, để cải thiện đời sống
nông dân về vật chất, tinh thần nhằm phátt triển bền vững nông nghiệp và nông thôn;
- Giúp đỡ, hỗ trợ các tổ chức khuyến nông các cấp, các tổ chức liên quan về thu
nhận, lưu giữ, xử lý thông tin, liên kết chặt chẽ hơn giữa tổ chức thực hiện truyền thông
khuyến nông với các tổ chức nói trên, giữa họ với nhau và với nông dân;
- Nâng cao kỹ năng truyền thông; kỹ năng nói, viết, thuyết phục vận động, quan
hệ công chúng, cách tiếp cận với giới báo chí để truyền thông,… cho cán bộ khuyến
nông và cho chính những người nông dân;
- Góp phần thực hiện tốt chương trình khuyến nông địa phương, tạo diễn đàn
trao đổi học tập giữa nông dân và các bên liên quan. Tạo thói quen cho nông dân tìm
hiểu và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật - công nghệ qua phương tiện truyền
thông đại chúng (báo, đài, quảng cáo, sách, quan hệ công chúng, Internet, báo
mạng,…) và truyền thông gián tiếp;
- Đa dạng hóa các hình thức khuyến nông, chuyển giao công nghệ cho nông dân
và dân cư nông thôn. Kinh nghiệm ở các nước phát triển và thực tiễn nước ta cho thấy,
có thể vận dụng các kênh sau đây để chuyển giao công nghệ cho nông dân: từ hệ
thống khuyến nông của Nhà nước; từ hệ thống các cơ sở nghiên cứu như viện, trung
tâm nghiên cứu, trường đại học; từ các tổng công ty, công ty theo ngành hàng (Tổng
137
công ty mía đường Lam Sơn, Tổng công ty Chè…); từ các nhà đầu tư, dự án có vốn
đầu tư nước ngoài như các chương trình Sida, Oxfam…
- Hoạt động truyền thông cũng phải lồng ghép hoặc đi sâu riêng vào chủ đề liên
quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn và WTO ở những tầm lớn nhưng nông
dân cũng phải biết (chủ trương, chiến lược của Đảng, Nhà nước ta về tam nông, các
quy định của WTO tác động thế nào đến nông dân Việt Nam; cung cách và phương
hướng sản xuất, lưu thông, tiêu thụ, cạnh tranh,...)
Công việc truyền thông đối với khuyến nông cũng có vai trò rất quan trọng. Bởi
hiện nay là thành viên của WTO, không thể hội nhập mà không hiểu rõ các quy định,
cam kết, luật lệ, tiêu chuẩn liên quan đến nông nghiệp, không thể không biết quảng bá
thương hiệu các nông phẩm của Việt Nam,... Sách báo tuy nhiều nhưng chưa phát huy
hết hiệu quả truyền thông về tam nông, đời sống nông dân nhiều vùng còn khó khăn;
khoảng cách giữa đô thị và nông thôn ngày càng xa, áp lực di dân về đô thị vẫn rất
cao; hiểu biết của nhà chức trách, nông dân, doanh nghiệp về nghĩa vụ, thời cơ, thách
thức khi Việt Nam tham gia WTO vẫn chưa đầy đủ, hệ thống,…
Những thiếu sót này phải sớm được khắc phục bằng nhiều giải pháp, song trước
hết vẫn cần phương tiện truyền thông phát huy sức mạnh của mình, cũng như kết hợp
truyền thông với lực lượng khuyến nông mới có tác dụng nhanh, sâu rộng tới mọi
người nông dân.
4.2.1.4. Hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn
Trong qui định của WTO, các chi tiêu của Chính phủ đối với cơ sở hạ tầng nông
thôn được coi là “hộp xanh” nên không có bất kỳ một giới hạn nào đối với các quốc
gia thành viên về mức độ chi tiêu.
Thứ nhất, tăng cường NSNN phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn
đồng thời có sự điều chỉnh cơ cấu đầu tư
- Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển nông nghiệp, nông dân,
nông thôn. Tăng cường mạnh mẽ đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các
thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn
nhân lực, nâng cao dân trí nông dân. Đồng thời với “đầu tư mồi” của NSNN, cần phải
138
tạo cơ chế thuận lợi nhằm để huy động cao nhất các nguồn lực trong xã hội, kể cả huy
động vốn ODA và FDI để tự phát triển của các vùng còn nhiều tiềm năng.
- Có cơ chế đầu tư phù hợp. Tập trung đầu tư cho các ngành, hàng có lợi thế so
sánh (thủy sản, cây công nghiệp…). Chuyển từ đầu tư tập trung cho trồng trọt sang
đầu tư hợp lý cho cả trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp. Trong trồng trọt,
chuyển từ tập trung cho lương thực sang phát triển rau quả, cây công nghiệp. Trong
chăn nuôi, tập trung đầu tư quy mô lớn, tạo lợi thế cạnh tranh, phòng chống dịch bệnh
và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong thủy sản, chuyển từ đánh bắt sang nuôi
trồng. Trong lâm nghiệp, thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế phát triển rừng sản
xuất ở những nơi thích hợp. Trong tất cả các ngành, chuyển từ chỉ đầu tư cho lĩnh vực
sản xuất (khuyến nông, thủy lợi…) sang đầu tư cho chế biến và sau thu hoạch, dịch vụ
nông nghiệp.
- Phân bổ lại nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng, tập trung vào xây dựng cơ sở hạ
tầng KH - CN thích ứng với nền nông nghiệp thương phẩm chất lượng cao. Để nông
nghiệp Việt Nam thực sự đủ sức cạnh tranh trong môi trường thế giới, chúng ta không
thể duy trì sản xuất ra các nông phẩm giá trị gia tăng thấp như trước đây. Giai đoạn phát
triển tới phải là giai đoạn nông nghiệp hiện đại, trên quy mô rộng lớn. Để thực hiện
những bước chuyển như vậy, điều quyết định chính là khâu chế biến và thương phẩm
hóa hiện đại. Do đó, cần xây dựng các tổ hợp liên kết nông nghiệp, công nghiệp chế
biến nông sản, sản xuất vật tư nông nghiệp, các cơ sở bán hàng, cơ sở cung cấp dịch vụ
nghiên cứu, đào tạo, tư vấn… áp dụng công nghệ, tiêu chuẩn cao, khép kín xử lý chất
thải và tái tạo năng lượng. Xung quanh các trung tâm này là các vùng cung cấp nguyên
liệu đồng bộ, liên kết bằng hợp đồng với khu trung tâm. Các cụm kết nối phục vụ trực
tiếp với thị trường trong và ngoài nước bằng hệ thống phân phối. Đây cũng có thể được
xem là những yếu tố vật chất - kỹ thuật cấu trúc lại nông nghiệp, chuyển nền nông
nghiệp hiện tại của Việt Nam thành nền nông nghiệp thương phẩm, công nghệ cao.
Thứ hai, thay đổi cung cách quản lý đầu tư công cho nông nghiệp:
- Phân cấp đầu tư rõ ràng và không trùng lắp giữa cấp vùng, cấp địa phương và cấp
cơ sở. Cần có các cơ quan quản lý phát triển vùng, tập trung vào các vấn đề quy hoạch
và điều hành các vấn đề về phát triển vùng nhưng không phải là cơ quan quản lý hành
chính như chính quyền địa phương. Các cơ quan cấp vùng có vai trò quản lý và điều
139
hành thống nhất đối với hệ thống giao thông, thủy lợi, bảo vệ thực vật, thú y, kiểm lâm,
phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Phân cấp đầu tư công cho cộng
đồng đối với các công trình xây dựng cơ bản phục vụ cộng đồng, giúp giảm tải gánh
nặng công việc cho chính quyền xã.
- Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động tối đa nguồn lực đầu tư xã hội từ
các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước (bao gồm cả trong và ngoài nước) tham gia vào
lĩnh vực này. Để thực hiện được điều đó, tiếp tục có chính sách ưu đãi, khuyến khích, tạo
cơ chế, động lực thu hút các thành phần kinh tế đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông
thôn đồng thời nhân rộng, phổ biến các mô hình xã hội hóa đầu tư, mô hình quản lý các
công trình hạ tầng có hiệu quả, bền vững cho các vùng nông thôn. Nhà nước hỗ trợ một
phần và có cơ chế huy động kinh phí để thực hiện duy tu, bảo dưỡng công trình nông
nghiệp, nông thôn.
- Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA để tạo tiền đề thu hút FDI, dự án ODA
giải quyết các khó khăn về cơ sở hạ tầng và những khó khăn sơ cấp nảy sinh trong quá
trình sản xuất, qua đó giúp nhà đầu tư FDI hạn chế được các chi phí giao dịch và tập
trung nguồn vốn cho đầu tư kinh doanh.
- Hoàn thiện khung khổ pháp lý về hợp tác công - tư (PPP) nhằm thu hút được
nguồn lực tư nhân cùng với chính quyền vào đầu tư cơ sở hạ tầng cho xã hội. Khả
năng hợp tác, hợp sức giữa Nhà nước và tư nhân để cùng đầu tư phát triển hạ tầng
quốc gia nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng là rất có triển vọng. Trong
điều kiện khả năng Nhà nước đầu tư cho lĩnh vực này chỉ đáp ứng được phần ít nhu
cầu, phát triển hình thức PPP có thể xóa những điểm “nghẽn” trong phát triển hạ tầng.
Chính sách về PPP của Việt Nam nên có cơ chế để khuyến khích phía tư nhân đề xuất
và chuẩn bị dự án; cùng với đó sẽ công khai hóa chính sách/khung giá để giảm thời
gian đàm phán cho các dự án PPP cụ thể; có các quy định đảm bảo cam kết ổn định
môi trường đầu tư cho các dự án PPP, có quy định cụ thể trách nhiệm của Nhà nước
trong dự án PPP, và quan trọng hơn là cơ chế giải quyết tranh chấp phải hết sức rõ
ràng và minh bạch.
4.2.1.5. Hỗ trợ nông dân giảm chi phí vật tư nông nghiệp
Hiện nay, nông dân đều mua vật tư nông nghiệp qua các kênh phân phối trung
gian mà không trực tiếp mua được sản phẩm từ nhà sản xuất. Hơn nữa, doanh nghiệp
140
cũng đều bán hàng thông qua các đại lý. Theo đó, đại lý cấp 1 bán đến 90% sản lượng
cho đại lý cấp 2, 3. Nông dân có quy mô đất đai dưới 1ha thường mua hàng của đại lý
cấp 3. Giữa các đại lý, chênh lệch giá mua - giá bán từ 3.000 - 15.000đồng/sản phẩm,
trong khi giá nông dân mua chênh lệch từ 20.000 - 40.000 đồng/sản phẩm. Với hệ
thống phân phối như trên, giá vật tư nông nghiệp tăng cao, có thể đội lên gấp 3-4 lần
khi tới tay nông dân. Để giúp nông dân giảm bớt chi phí nguyên liệu đầu vào, cần:
- Xây dựng điểm giao dịch cung ứng vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các
điểm giao dịch này cung ứng một phần lớn nhu cầu giống lúa, phân bón của bà con
nông dân trên địa bàn và vùng lân cận. Tổ chức hoạt động của các điểm giao dịch này
là cán bộ khuyến nông viên cấp xã, họ sẽ tư vấn cho người dân sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật, phân bón có chất lượng tốt và các giống lúa phù hợp với cơ cấu bộ giống của
ngành nông nghiệp. Thông qua hệ thống khuyến nông, các điểm giao dịch sẽ kết nối
với các doanh nghiệp cung ứng vật tư tin cậy qua đó giúp người dân tiếp cận với
nguồn vật tư nông nghiệp đảm bảo chất lượng tốt, giá thành sản phẩm thấp hơn thị
trường tự do.
- Giúp nông dân mua vật tư nông nghiệp theo phương thức trả chậm: Nhờ phương
thức này, nông dân được sử dụng sản phẩm bảo đảm chất lượng, giá cả hợp lý, không
phải lo kinh phí đầu tư vật tư nông nghiệp khi chưa có điều kiện chi trả. Được mua
theo phương thức trả chậm, nông dân không phải lo tiền ngay mà vẫn có nguyên liệu
để sản xuất kịp thời vụ. Với vai trò là cầu nối giữa các doanh nghiệp sản xuất phân
bón trong nước với nông dân, các cấp Hội Nông dân sẽ đảm nhận triển khai nhiều
hoạt động cung ứng phân bón trả chậm đến tận tay nông dân.
- Thực hiện kiểm soát chặt chẽ chất lượng vật tư nông nghiệp: Muốn có nông sản
an toàn, chất lượng phụ thuộc lớn vào giống cây trồng, phân bón và thuốc trừ sâu. Tuy
vậy, chất lượng các loại vật tư nông nghiệp này lại bị buông lỏng khi kiểm tra phát
hiện hàng loạt sai phạm. Câu chuyện về giống lúa kém chất lượng hay phân bón giả
đã và đang xảy ra khiến cho nông dân thiệt hại rất lớn đang là vấn đề nóng hổi. Việc
kiểm soát chặt chẽ giá cả và chất lượng vật tư nông nghiệp đầu vào như phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi… là một trong những yếu tố quan
trọng đảm bảo chất lượng nông sản. Các địa phương thực hiện nghiêm túc việc kiểm
tra, đánh giá các cơ sở sản xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp, trong đó tập trung vào
141
nhóm có nguy cơ cao là phân bón, giống và thức ăn chăn nuôi. Ngoài việc kiểm tra định
kỳ, các địa phương còn phải thực hiện tái kiểm tra, nếu cơ sở tiếp tục vi phạm phải có
biện pháp xử lý mạnh tay và công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng
để nhân dân được biết.
- Chính phủ cần ban hành quy định phân bón và thuốc bảo vệ thực vật là mặt hàng
sản xuất, kinh doanh có điều kiện, cần quản lý chặt chẽ và có các điều kiện ràng buộc
nhằm đảm bảo lợi ích cho người sử dụng và bảo vệ môi trường. Bởi hiện nhiều doanh
nghiệp “mang tiếng” nhà sản xuất phân bón, nhưng thực chất chỉ làm các khâu rất đơn
giản là đi nhập hàng xá hoặc nguyên liệu từ nước ngoài về phối trộn lại rồi đóng bao
sản phẩm đem bán ra thị trường trong nước.
4.2.2. Nhóm giải pháp hỗ trợ nông dân tiêu thụ nông sản và tiếp cận thị
trường thuận lợi
4.2.2.1. Xây dựng các cơ sở chế biến nông sản
Nếu nông dân được trang bị phương tiện sơ chế và bảo quản nông sản trước khi
đem tiêu thụ thì họ sẽ lợi hơn trong tham gia phân chia giá trị của ngành. Hơn nữa,
làm chủ khâu sơ chế và bảo quản, nông dân sẽ hạn chế khâu thất thoát sau thu hoạch,
khoản mất mát hiện lên tới 10% - 15% giá trị sản xuất của ngành, nhờ đó tăng thêm
thu nhập cho nông dân. Tuy nhiên, nông dân nước ta gặp khó khăn về vốn đầu tư, về
chuyển giao công nghệ thích hợp với chế biến nông sản đặc thù, về tổ chức quy mô sở
chế có hiệu quả... Chính vì thế Nhà nước cần có chương trình hỗ trợ một cách hệ
thống để các vùng nông thôn có khả năng sơ chế và bảo quản nông sản hiệu quả trước
khi tiêu thụ. Chính sách hỗ trợ có thể hướng vào mục tiêu và giải pháp sau:
- Khuyến khích doanh nghiệp chế biến nông sản đặt cơ sở chế biến ở tại vùng chế
biến để hỗ trợ nông dân vào mùa thu hoạch rộ. Muốn vậy Nhà nước cần tăng đầu tư
cơ sở hạ tầng ở nông thôn, nhất là hệ thống cấp điện sản xuất, giao thông, liên lạc và
cấp thoát nước. Đồng thời, Nhà nước cần có cơ chế điều tiết, hỗ trợ các cơ sở này thực
hiện liên kết chặt chẽ với nông dân theo nguyên tắc cùng có lợi thông qua các hình
thức gửi hàng, tiêu thụ sản phẩm theo hợp đồng hoặc cung cấp vật tư, bao tiêu nông
sản. Ngoài hình thức ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, chính quyền địa phương nên
quan tâm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong các vấn đề tuyên truyền, chế tài để
nông dân giữ kỷ luật hợp đồng, tuyên truyền kỹ thuật mới, bảo quản tài sản cho doanh
142
nghiệp cũng như giải quyết các tranh chấp khác. Đi đôi với hỗ trợ các doanh nghiệp
chế biến, chính quyền địa phương cần hỗ trợ nông dân buộc doanh nghiệp phải thực
hiện nghiêm chỉnh trách nhiệm của họ, nhất là khi nông sản rớt giá.
- Khuyến khích nông dân hợp tác với nhau để mua sắm và sử dụng các dây
chuyền sơ chế nông sản hiện đại, quy mô lớn vừa đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng hàng
hóa sau sơ chế, vừa nhanh chóng khấu hao, đổi mới thế hệ máy mới. Tốt nhất là tạo
điều kiện thành lập các hình thức khác nhau của hợp tác xã trong đó nông dân tự liên
kết về vốn, về tổ chức sơ chế, bảo quản máy móc và phân bổ dịch vụ hợp lý giữa các
gia đình. Hiện nay nông dân có nhu cầu mua sắm phương tiện sản xuất nông sản và có
khả năng hợp tác với nhau để quản lý, sử dụng phương tiện, nhưng họ thiếu vốn, thiếu
tri thức công nghệ cần thiết và thiếu thông tin đầu ra cho nông sản sơ chế. Nhà nước
có thể hỗ trợ nhóm nông dân hình thành hợp tác xã sơ chế nông sản thông qua tín
dụng ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp sản xuất máy móc cho thuê tài sản, hướng
dẫn kỹ thuật cho nông dân sử dụng, khuyến khích doanh nghiệp chế biến và thương
mại hỗ trợ nông dân về tri thức và tiêu thụ nông sản sơ chế. Đối với các phương tiện
sơ chế đơn giản ở quy mô gia đình, khuyến khích các doanh nghiệp cung cấp vật tư
chậm trả kết hợp với bao tiêu nông sản cho nông dân.
- Đảm bảo cho đa số nông sản của nông dân sau thu hoạch đều được chế biến từ
sơ chế đến tinh chế nhằm tăng giá trị của nông sản hàng hóa. Sự hỗ trợ này có tác
động rất lớn, giúp nông dân yên tâm sản suất, ổn định vùng nguyên liệu cho doanh
nghiệp. Muốn vậy, Nhà nước cần xây dựng kho chứa nông sản đáp ứng kịp thời nhu
cầu bảo quản nông sản khi vào mùa vụ, nhất là ở ĐBSCL, nơi người nông dân khó lo
được chỗ chứa thóc gạo sau khi thu hoạch. Về lâu dài, Nhà nước cần quy hoạch phát
triển cơ sở hạ tầng sơ chế và bảo quản nông sản để cho nông dân thuê làm kho chứa tạm
thời hoặc thuê địa điểm sơ chế. Các kho chứa cần phải được tranh bị các thiết bị cần
thiết đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm quốc tế trong khi bảo quản. Hơn nữa, Nhà
nước cần hỗ trợ nông dân thu mua nông sản vào lúc thời vụ thông qua hoạt động thu
mua của Nhà nước, hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp thu mua, cung cấp tín dụng để
nông dân có thể trữ nông sản chờ giá lên, tránh hiện tượng sụt giá khi thu hoạch rộ. Đầu
tư của Nhà nước cần hướng đến đảm bảo đa số nông sản hàng hóa đều được sơ chế tại
gia đình hoặc được các cơ sở sơ chế thu mua hết. Sợ hỗ trợ về kho chứa của Nhà nước
143
sẽ bảo hiểm một phần cho sản xuất nông nghiệp và kích thích sản xuất phát triển, làm
gia tăng thu nhập cho nông dân.
4.2.2.2. Xây dựng thương hiệu cho nông sản xuất khẩu Việt Nam
Xây dựng thương hiệu là một quá trình chứ không phải một sớm một chiều là có
thể làm ngay được. Việc nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý nông sản Việt Nam bị doanh
nghiệp đăng ký nhãn hiệu ở nước ngoài (như trường hợp cà phê Buôn Mê Thuột, nước
mắm Phan Thiết…), sẽ gây ra nhiều hậu quả bất lợi cho doanh nghiệp Việt Nam. Cụ
thể là không thể tự do xuất khẩu sản phẩm nông sản của mình dưới nhãn hiệu hoặc chỉ
dẫn địa lý của mình (đã được đăng ký tại Việt Nam) ngay cả trường hợp trước đây việc
xuất khẩu đó vẫn diễn ra bình thường; nguy cơ mất thị trường, mạng lưới phân phối,
bạn hàng là hiện hữu. Mất thương hiệu là một điều rất đáng tiếc và việc lấy lại cũng
không hề đơn giản. Đây là một cuộc đấu tranh về mặt pháp lý phức tạp và tốn kém. Khi
chuyện đó xảy ra đối với một sản phẩm nông nghiệp Việt Nam, chắc chắn niềm tin của
người tiêu dùng đối với thương hiệu đó cũng bị giảm sút. Người nông dân tự đăng ký,
khai thác thương hiệu là điều rất khó. Nó là tài sản của Nhà nước và Nhà nước cần phải
quan tâm đến vấn đề này. Vì vậy, cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
- Thiết lập và thực hiện ngay Chương trình Quốc gia xây dựng thương hiệu cho
nông sản Việt Nam, nhất là mặt hàng gạo, cà phê và trái cây đặc sản. Bởi vì, chỉ khi
có chương trình đủ tầm mới có thể đầu tư đúng mức, đưa ra được kế hoạch cụ thể. Khi
đó các bên liên quan như Bộ NN&PTNT, Bộ Công thương, nhà khoa học, các doanh
nghiệp và người nông dân mới có cách thức, tiêu chí thực hiện cũng như biết được
mình phải làm gì để xây dựng thương hiệu. Để Chương trình này thực hiện được, Nhà
nước cần phải là nhạc trưởng điều hành, phối hợp và hỗ trợ cho các bên liên quan.
Thống kê mới nhất của Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), Việt Nam
có 933 sản phẩm, dịch vụ đặc thù gắn với 721 địa danh trên cả nước, trong đó có 800
sản phẩm nổi tiếng. Nhưng trên thực tế, tỷ lệ số lượng chỉ dẫn địa lý được đăng ký bảo
hộ rất nhỏ. Chỉ có 136 sản phẩm, trong đó 59 nhãn hiệu tập thể, 24 chỉ dẫn địa lý, 53
sản phẩm được hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm nổi tiếng
trong khuôn khổ Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ. Như vậy, chúng ta đang ở
giai đoạn đầu của việc xây dựng thương hiệu nông sản nổi tiếng, mới đặt cơ sở, nền
móng, điều kiện ban đầu, đó là các nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đã được đăng ký bảo hộ.
144
Và con số 136/800 sản phẩm nông sản nổi tiếng của Việt Nam được đăng ký nhãn hiệu
và chỉ dẫn địa lý quả là còn ít ỏi. Tuy nhiên, tất cả các sản phẩm được đăng ký bảo hộ
trên chỉ có hiệu lực trong nước, nếu các doanh nghiệp nước ngoài ở bất kỳ quốc gia nào
có nhu cầu “mượn tạm” hoặc lấy lại như trường hợp về thương hiệu cà phê Buôn Mê
Thuột, vẫn bị mất một cách đơn giản.
Để nhằm hạn chế tình trạng mất thương hiệu nông sản thời gian tới cần thực hiện
một cách bài bản quy trình khép kín từ ”chủ động tìm thị trường, phát triển thị trường
và cuối cùng là đăng ký sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm, nhãn hiệu”. Thực tế cho thấy,
cần phải đẩy mạnh các hoạt động quản lý và phát triển thương hiệu nông sản nổi tiếng,
là các sản phẩm xuất khẩu chủ lực như gạo, cà phê, tiêu, điều, chè... đừng để đến khi
“mất bò mới lo làm chuồng”.
- Xây dựng vùng nguyên liệu chuyên canh để có sản phẩm thuần nhất. Chỉ khi
nào xây dựng được vùng nguyên liệu mới tạo ra khối lượng nông sản lớn, ổn định, có
chất lượng đồng đều và đảm bảo được thời gian cung ứng trên thị trường. Doanh
nghiệp xuất khẩu nông sản phải kết hợp với các hợp tác xã hoặc chính quyền địa
phương để xây dựng vùng nguyên liệu. Các hợp tác xã hoặc chính quyền địa phương
cần quy hoạch vùng sản xuất cho từng loại giống cây trồng, vận động nông dân tham
gia cánh đồng mẫu lớn. Doanh nghiệp hướng dẫn nông dân sản xuất và quản lý từ
gieo hạt đến thu hoạch, tồn trữ cho đúng tiêu chuẩn nông sản xuất khẩu. Về phía Nhà
nước, cần có chính sách khuyến khích nông dân, doanh nghiệp khi tham gia cánh
đồng mẫu lớn và có chế tài xử lý thích đáng khi doanh nghiệp hoặc nông dân tự ý phá
vỡ hợp đồng.
- Tạo mối liên kết khăng khít giữa các thành phần tham gia chương trình xây dựng
thương hiệu cho nông sản xuất khẩu: Nhà nước, nhà khoa học, nhà nông, thương lái,
nhà máy chế biến và doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Để mối liên kết này thực sự bền
vững và phát triển, Nhà nước cần tạo ra một “cơ chế” vừa khuyến khích, tạo cơ sở và
động lực cho các bên có thể phát huy tốt nhất vai trò và khả năng của mình, vừa tạo ra
hành lang pháp lý buộc họ tuân thủ theo đúng pháp luật. Có như thế, mối liên kết này
mới bền vững, lâu dài và hiệu quả. Ngoài ra, Nhà nước cần đẩy mạnh công tác quy
hoạch, hình thành vùng sản xuất nông sản tập trung, chuyên canh, gắn sản xuất nguyên
liệu với công nghiệp chế biến và thị trường; hướng dẫn, kiểm tra, giám sát các bên tham
145
gia chương trình. Về phía các nhà khoa học, cung cấp giống tốt, sạch bệnh và hướng
dẫn nông dân gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và bảo quản đúng cách để tạo ra nông sản
chất lượng tốt. Về phía nông dân, sản xuất có định hướng và tuân thủ theo chỉ dẫn của
nhà khoa học trong sản xuất, thu hoạch, bảo quản và thực hiện theo đúng hợp đồng đã
kí kết với các nhà máy chế biến. Về phía các nhà máy chế biến, phải thu mua nông sản
hoặc cung cấp dịch vụ bảo quản sau thu hoạch cho nông dân. Về phía doanh nghiệp
xuất khẩu nông sản, đăng ký thương hiệu nông sản với các cơ quan quản lý trong nước
và quốc tế, tích cực tuyên truyền thương hiệu và tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ
cho nông sản thương hiệu, nhất là đối với thị trường các nước đòi hỏi nông sản chất
lượng cao như châu Âu, châu Mỹ và Ảrập. Đồng thời, chú trọng vào khâu đóng gói bao
bì và dịch vụ trước, trong và sau bán hàng…
- Hỗ trợ các hiệp hội ngành nghề sản xuất và tiêu thụ nông sản quảng bá thương hiệu
nông sản Việt Nam dưới nhiều hình thức nhằm tạo thị trường cho các thương hiệu đó. Ví
dụ, hỗ trợ hiệp hội tổ chức hội chợ theo chuyên đề, tuyên truyền, phổ biến kinh nghiệm
trong hiệp hội, kết hợp với với hoạt động du lịch để quảng bá thương hiệu, hỗ trợ hội viên
xây dựng hình ảnh quảng bá cho thương hiệu của họ... Nhà nước cũng cần cải cách hành
chính nhằm cung cấp đa dạng, dể dàng các dịch vụ hỗ trợ nông dân thực thi các thủ tục
liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng cường tính nghiêm
minh của luật pháp trong xử lý các hành vi gian lận hoặc chiếm dụng thương hiệu của
người khác.
4.2.2.3. Đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại và cung cấp thông tin
thị trường cho nông dân
Trong điều kiện toàn cầu hóa, thị trường tiêu thụ nông sản của nước ta có cơ
hội mở rộng ra toàn thế giới. Nông sản nước ta cũng có lợi thế về chủng loại và chất
lượng, dễ được các nước chấp nhận, nhất là các nước có chế độ khí hậu khác biệt với
nước ta. Tuy nhiên, để người nước ngoài, thậm chí cả người trong nước chấp nhận
mua nông sản, cần phải giới thiệu cho họ biết về sự có mặt cũng như chất lượng của
sản phẩm. Với quy mô sản xuất nhỏ bé và tiềm lực tài chính hạn chế, nông dân nước
ta không thể tự mình xúc tiến thương mại, càng không thể tự thu nhập và xử lý thông
tin thị trường. Chính vì thế, hỗ trợ của Nhà nước về phương diện này vừa mang tính
146
cấp thiết, vừa mang lại lợi ích to lớn cho nông dân. Để tăng cường tác động tích cực
về phương diện này, thời gian tới Nhà nước cần triển khai một số biện pháp:
- Xây dựng một kế hoạch quốc gia dài hạn về xúc tiến thương mại hàng nông sản.
Trong đó phân loại các mặt hàng nông sản theo chất lượng vào khả năng cung ứng để
có kế hoạch xúc tiến thương mại đối với từng loại. Đối với mặt hàng có chất lượng
cao, ổn định, khối lượng cung ứng lớn, lâu dài sẽ được hỗ trợ để mở rộng thị trường,
xâm nhập thị trường mới. Đối với những mặt hàng chất lượng cao nhưng khối lượng
không lớn hoặc còn ít, Nhà nước chỉ hỗ trợ giới thiệu mặt hàng. Những mặt hàng mới
có khả năng mở rộng quy mô cũng được ưu tiên hỗ trợ giới thiệu mặt hàng. Những
mặt hàng chất lượng thấp, không ổn định không nên đưa vào kế hoạch. Danh mục
những mặt hàng được hỗ trợ xúc tiến thương mại với những mức độ khác nhau sẽ
được điều chỉnh thường xuyên, tuỳ thuộc mức độ phát triển của các loại mặt hàng. Kế
hoạch xúc tiến thương mại dài hạn được Nhà nước công bố và theo đó khuyến khích
các ngành hàng phấn đấu có sản phẩm chất lượng cao, khối lượng cung ứng lớn, ổn
định. Đồng thời đảm bảo uy tín của Việt Nam với tư cách là một nhà xuất khẩu nông
sản lớn trên thị trường thế giới.
- Chính sách xúc tiến thương mại cần tập trung vào phân tích thông tin thị trường
bao gồm phân tích thị trường giá cả, sản phẩm, đối thủ cạnh tranh, chính sách của các
nước bạn hàng, xu hướng thị trường; tổng hợp các thông tin về luật và các quy chế
thương mại của các tổ chức kinh tế quốc tế, các hiệp định thương mại song phương sẽ
tác động tới xuất khẩu nông sản của Việt Nam;… Những thông tin dự báo dài hạn
đúng đắn là cơ sở hết sức quan trọng cho xây dựng chính sách, điều hành xuất khẩu
nông sản của Chính phủ và cho định hướng, xây dựng chiến lược sản xuất - kinh
doanh của doanh nghiệp, nông dân. Ngoài ra, để đảm bảo ổn định sản xuất và thúc đẩy
xuất khẩu, các cơ quan chức năng cần chủ động theo dõi sát, chủ động đàm phán giải
quyết các vụ đưa tin sai sự thật về hàng nông sản Việt Nam và tháo gỡ rào cản kỹ
thuật của các thị trường nhập khẩu, đồng thời thực hiện nghiêm việc kiểm tra vệ sinh
an toàn thực phẩm đối với hàng hóa có nguồn gốc động vật vào Việt Nam.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân áp dụng các quy định về kiểm dịch và thực
hiện quy trình GAP tiêu thụ hàng hóa thuận lợi thông qua phương thức cung cấp giấy
chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Để tránh áp dụng phương thức này
147
một cách tràn lan gây hiệu ứng vô hiệu hóa giấy xác nhận, cần kiểm soát chặt chẽ việc
cấp giấy xác nhận sao cho đúng đối tượng và thực hiện xử phạt nếu cấp không đúng,
giả mạo giấy xác nhận hoặc có giấy xác nhận rồi lại không thực hiện đúng quy trình.
Đồng thời, Nhà nước thành lập cơ quan có trách nhiệm giúp khách hàng truy tìm
nguồn gốc xuất xứ của nông sản. Hoạt động của cơ quan này vừa giúp bảo hộ các
thương hiệu nông sản đặc thù cho từng vùng, đồng thời tăng tín nhiệm đối với hàng
nông sản Việt Nam.
- Đầu tư thỏa đáng cho công tác thu nhập thông tin thị trường để cung cấp cho
nông dân, coi đây là một trong những trách nhiệm quan trọng của cơ quan phụ trách
nông nghiệp, ngang bằng với chức năng chỉ đạo sản xuất. Trước hết, Nhà nước cần ưu
tiên hơn nữa kinh phí, nhân lực và thời gian cho việc hoàn thiện hệ thống thu nhập, xử
lý và cung cấp thông tin thị trường, thông tin cảnh báo cho nông dân để họ chủ động
trong việc đối phó với các biến động nhu cầu và giá cả trên thị trường thế giới và
trong nước. Bộ NN&PTNT phải được giao đặc trách nhiệm vụ này. Cơ quan này phải
thường xuyên cung cấp thông tin cảnh báo về nhu cầu thị trường nông sản cả trong dài
hạn lẫn trạng thái thị trường ngắn hạn. Nếu mở rộng thông tin dự báo đến mức có thể
đưa ra các khuyến nghị nông dân nên hành động như thế nào thì càng tốt. Nhưng tối
thiểu cơ quan này cũng phải cung cấp được thông tin dự báo đủ để nông dân không bị
hẫng hụt do sản xuất vượt quá nhu cầu. Nhà nước cũng cần khuyến khích các cơ quan
khác thuộc bộ máy nhà nước hỗ trợ cơ quan quản lý nông nghiệp nâng cao năng lực
thông tin và dự báo thị trường. Ví dụ như cơ quan quản lý thương mại, cơ quan ngoại
giao, cơ quan quản lý nhà nước cần được giao thêm nhiệm vụ thu thập thông tin thị
trường nông sản để có được thông tin cập nhật, chính xác cung cấp cho nông dân và các
doanh nghiệp chế biến, kinh doanh nông sản. Nhà nước cũng nên đưa nhiều hơn nữa
các thông tin về chính sách, về thị trường về dự báo các diễn biến kinh tế, xã hội, khí
hậu, quốc tế ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ nông sản lên các trang website, báo
chí, đài phát thanh và chương trình truyền hình phổ cập để thông tin thường xuyên đến
với nông dân, giúp nông dân thay đổi và học cách hoạch định kế hoạch sản xuất kinh
doanh hiện đại.
4.2.2.4. Hỗ trợ nông dân tham gia trực tiếp hơn vào hệ thống tiêu thụ nông sản
Hiện nay, nền kinh tế nông thôn của Việt Nam được đặc trưng bởi sự thiếu vắng
các chợ bán buôn nông thôn đối với các hàng nông sản. Các nhà kinh doanh phải thu
mua phần lớn nông sản ở cửa trại hoặc qua các đại lý thu gom. Nông dân, nhà kinh
148
doanh và các doanh nghiệp nông nghiệp ít có cơ hội gặp nhau trên thị trường để họ có
thể so sánh giá cả, chất lượng, cũng như thiết lập các mối liên hệ. Sự có mặt của những
địa điểm như vậy sẽ thúc đẩy sự phổ biến thông tin giữa các bên có liên quan và cũng sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho kiểm tra chất lượng, áp dụng các biện pháp kiểm dịch động
thực vật cũng như tiêu chuẩn môi trường của các cơ quan có chức năng.
Có thể nhận thấy rằng với hệ thống tiêu thụ nông sản như hiện nay, nông dân phụ
thuộc rất nhiều vào các thành phần tham gia vào hệ thống đó. Với tư thương là hàng
trăm mối quan hệ ràng buộc như cho vay mua vật tư, bao tiêu sản phẩm, mức giá mua
thấp, bao nhiêu chi phí vận chuyển, thu gom, tồn kho đều trừ lùi trong giá nông sản về
phía người nông dân bất chấp chi phí của họ là như thế nào. Tuy nhiên, nếu không có
hoạt động của tư thương thì nông dân còn không thể tiêu thụ được nông sản do không
có hệ thông tiêu thụ riêng của mình. Với doanh nghiệp chế biến, khi gặp khó khăn trong
tiêu thụ sản phẩm chế biến, doanh nghiệp chế biến cũng đẩy chi phí tồn kho, chi phí
nuôi dưỡng để duy trì nông sản về phía người nông dân khiến họ càng chịu thêm nhiều
chi phí mà giá cả thị trường khó chấp nhận. Với doanh nghiệp xuất khẩu, khi xuất khẩu
hoặc đưa vào siêu thị, nông dân không làm chủ thương hiệu nông sản, lợi ích của
thương hiệu chủ yếu dồn vào siêu thị và nhà xuất khẩu. Với hệ thống tiêu thụ như vậy,
người nông dân không có cách gì cải thiện thu nhập, ngược lại, họ bị ép cấp, ép giá một
cách phổ biến, phần được hưởng của nông dân trong chuỗi giá trị ngành quá thấp.
Nhằm khắc phục tình trạng này, Nhà nước, nhất là các cấp chính quyền địa
phương cần hỗ trợ để nông dân có thể tham gia sâu vào hệ thống tiêu thụ nông sản,
qua đó bảo vệ lợi ích của nông dân. Cụ thể là:
- Hỗ trợ nông dân tự tổ chức thành hợp tác xã tiêu thụ nông sản. Đây là hoạt động
mà nông dân ở nhiều nước đã thực hiện khá thành công (Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài
Loan). Vấn đề là nông dân phải ý thức được lợi ích và khả năng của mình để tự quản
tốt các hợp tác xã. Các mô hình hợp tác xã tiêu thụ nông sản, muốn hoạt động tốt, cần
điều kiện: Một là, quyết tâm của các hộ gia đình nông dân ủng hộ và tự quản hợp tác
xã để phục vụ chính họ. Do vậy, Nhà nước phải tạo niềm tin cho họ bằng cách giao
quyền tự quyết về tổ chức và xây dựng ở nông thôn cho nông dân. Hai là, có đội ngũ
quản trị hợp tác xã mang tinh thần cách mạng nông thôn, có ý chí và nguyện vọng
phục vụ lợi ích chung của nông dân, có kinh nghiệm và tri thức quản lý, không coi
149
việc quản trị hợp tác là phương tiện tìm kiếm thu nhập, không có tư tưởng làm giàu
trên lưng nông dân. Ba là, hợp tác xã phải có động lực tích lũy để mở rộng hoạt động
phân loại, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ nông sản. Muốn vậy, cần thay
đổi Luật Hợp tác xã theo hướng khuyến khích xã viên để lại lợi nhuận xây dựng hợp
tác xã như xây kho chứa, xây dựng nhà máy chế biến, mua sắm phương tiện vận
chuyển, làm chủ các trung tâm giao dịch nông sản lớn... Hơn nữa, các hợp tác xã tiêu
thụ nông sản cần liên minh với nhau để tạo thành mạng lưới tiêu thụ nông sản trong
nước có xu hướng hoạt động thống nhất với nhau. Hợp tác xã tiêu thụ cũng nên kết
hợp thêm chức năng cung ứng vật tư để tận dụng năng lực sản xuất đã đầu tư và để
phục vụ trọn gói cho nông dân.
- Chính phủ cần phải xúc tiến thành lập các chợ bán buôn ở nông thôn hay những
sàn giao dịch hiện đại ở các vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung. Nhà nước tích
cực xây dựng các trung tâm kiểm dịch và xác nhận chất lượng sản phẩm để nông dân có
thể tự mình xin xác nhận nông sản sạch, tạo điều kiện để nông dân trực tiếp đưa sản
phẩm vào các thị trường có giá tiêu thụ cao như siêu thị, nhà hàng, khách sạn. Nhà nước
đầu tư hơn nữa cho xây dựng các trung tâm giao dịch nông sản lớn để nông dân có địa
chỉ tiêu thụ nông sản, khắc phục hiện tượng phụ thuộc hoàn toàn vào tư thương như
hiện nay.
4.2.3. Nhóm giải pháp về hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho nông dân
4.2.3.1. Nâng cao nhận thức và kỹ năng lao động cho nông dân trong phát triển
sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế
Nguồn lực to lớn nhất, cơ bản nhất để phát triển nông nghiệp, kinh tế - xã hội
nông thôn và nâng cao đời sống nông dân một cách nhanh, mạnh, bền vững là nguồn
nhân lực chất lượng cao và năng lực khoa học - công nghệ của nông nghiệp, nông dân,
nông thôn. Do đó, cần phải tạo được bước tiến mới mang tính đột phát trong việc nâng
cao nhận thức và kỹ năng lao động cho nông dân trong phát triển sản xuất và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Phát triển rộng khắp ở các tụ điểm dân cư trên địa bàn nông thôn hệ thống
trường, lớp phổ thông phù hợp; sắp xếp, phân bố hợp lý hệ thống đào tạo từ sơ cấp
đến cao đẳng, đại học gắn với địa bàn nông thôn, hướng vào các yêu cầu sau: Một là,
nâng cao học vấn và dân trí cho cư dân nông thôn nói chung, nông dân nói riêng nhằm
150
phổ cập học vấn phổ thông theo lộ trình từ thấp đến cao; Hai là, đào tạo nâng cao trình
độ và kỹ năng lao động cho nguồn nhân lực ở nông thôn đáp ứng các yêu cầu của sản
xuất nông nghiệp và các hoạt động phi nông nghiệp; Ba là, đào tạo đội ngũ lao động
trình độ cao nhằm trí thức hóa một bộ hóa con em nông dân để đáp ứng yêu cầu phát triển
nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Đổi mới mạnh mẽ cơ chế tuyển sinh, chính sách học phí, học bổng, chế độ đãi ngộ
và nội dung, chương trình, phương thức đào tạo, cách dạy, cách học phù hợp với nhu
cầu thực tiễn phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn trên từng vùng, miền
để sớm đào tạo cung cấp cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn một đội ngũ lao động có
chất lượng, trình độ cao, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu gắn bó mật thiết với đồng
ruộng, quê hương.
Tăng cường các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho nông dân kiến thức khoa học,
kỹ thuật tiên tiến, hiện đại về sản xuất nông - lâm - ngư - diêm nghiệp; đào tạo nghề
cho con em nông dân để chuyển nghề. Đồng thời phải tập trung đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao kiến thức và năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội cho đội ngũ cán bộ cơ
sở, đảm bảo hằng năm đào tạo 1 triệu lao động nông thôn.
4.2.3.2. Nhà nước hỗ trợ phát triển ngành nghề và dịch vụ phi nông nghiệp để
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tiến bộ
Trong kinh tế nông thôn, cùng với phát triển nông nghiệp, thì phát triển các
ngành, nghề phi nông nghiệp là nội dung then chốt để đạt được các mục tiêu CNH,
HĐH. Ở nước ta, xu thế hướng tới một cơ cấu kinh tế nông thôn có hiệu quả là tăng
nhanh tỷ trọng các ngành, nghề phi nông nghiệp, đồng thời tạo ra sự liên kết hữu hiệu
giữa nông nghiệp và phần phi nông nghiệp. Việc phát triển các loại hình tổ chức sản
xuất, kinh doanh đa dạng và phát triển các loại thị trường ở nông thôn sẽ chi phối cơ
cấu ngành, nghề của kinh tế nông thôn, trong đó các ngành, nghề phi nông nghiệp là
mục tiêu hướng tới của nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh. Để thực hiện được điều
đó, cần nghiên cứu xây dựng một chiến lược quốc gia về phát triển các ngành, nghề
phi nông nghiệp ở nông thôn. Chiến lược cần nêu ra được những định hướng cơ bản
về phát triển các ngành, nghề trên cơ sở khai thác những lợi thế về nguồn lực của các
vùng nông thôn và đáp ứng yêu cầu có mối liên kết có hiệu quả giữa nông nghiệp và
phần phi nông nghiệp.
151
Trong quá trình xây dựng chiến lược, quy hoạch và hoạch định chính sách, cần xác
định rõ và bám sát những định hướng phát triển quan trọng sau đây:
Một là, định hướng ngành, nghề, bao gồm: Các ngành, nghề chế biến nông sản;
các ngành, nghề phục vụ sản xuất nông nghiệp như: sản xuất vật tư, thiết bị máy móc,
thiết bị nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến, các dịch vụ…
Hai là, định hướng hình thành các trung tâm công nghiệp - thương mại ở nông thôn,
có thể dưới các dạng: Các khu chế xuất, khu - hoặc cụm công nghiệp, tập trung tại đó
các cơ sở chế biến có mối quan hệ dây chuyền với nhau về nguyên liệu, vật tư, và các
kết cấu hạ tầng phục vụ tiếp thị, như kho tàng, bến bãi, cảng, sân bay,… để nâng cao giá
trị gia tăng của sản phẩm, giảm chi phí sản xuất và lưu thông, tăng kết nối thị trường.
Các đặc khu kinh tế, với hệ thống chính sách ưu đãi thu hút lao động có trình độ, trí
thức từ thành phố về nông thôn, từ miền xuôi lên miền núi làm việc, thu hút các nhà đầu
tư trong và ngoài nước đầu tư tại nông thôn và các vùng khó khăn, khuyến khích và
phát triển kinh doanh trên các địa bàn định hướng. Các khu du lịch - làng nghề truyền
thống, tạo sản phẩm có nội dung văn hoá cao, có đặc thù dân tộc, gắn với hoạt động
kinh doanh du lịch sinh thái, du lịch văn hoá,...
Ba là, định hướng phát triển về quy mô và lựa chọn công nghệ hợp lý: Đối với
những ngành có lợi ích kinh tế nhờ quy mô như nhà máy chế biến mía đường, nhà
máy chế biến gỗ ván nhân tạo,… cần đầu tư trên quy mô lớn, áp dụng công nghệ hiện
đại để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Tính chất này ảnh hưởng đến việc
quy hoạch vùng nguyên liệu, cân đối cung - cầu, và phải được chú ý cân nhắc trước
khi xem xét các nhu cầu khác như tạo việc làm cho nông dân, xoá đói giảm nghèo,
bảo vệ môi trường,… Đối với những ngành không có lợi ích kinh tế nhờ quy mô, cần
cần tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể để xem xét áp dụng các loại công nghệ cao phù hợp với
tiêu chuẩn thị trường nhưng có quy mô sản xuất nhỏ và vừa để có thể phát triển phân
tán, gắn với vùng nguyên liệu nông thôn, cân đối với khả năng đầu tư và quản lý của
các thành phần kinh tế. Đối với những ngành khác, cần chú ý đầu tư công nghệ hiện
đại ở những khâu cần thiết kết hợp với việc huy động lao động thủ công để tạo giá trị
gia tăng và việc làm cho người lao động.
4.2.3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo nghề cho nông dân và lao động
nông thôn
Phải có sự “vào cuộc” mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị ở địa phương. Nhận
thức đúng về đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn là cơ hội để nâng cao
152
chất lượng nguồn nhân lực cho địa phương, nâng cao chất lượng, năng suất lao động;
góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trên thị trường
quốc tế. Thực tế thời gian vừa qua cho thấy, ở địa phương nào có sự quan tâm của cấp
uỷ đảng, sự chỉ đạo quyết liệt của chính quyền và sự tham gia tích cực của các tổ chức
chính trị - xã hội… thì ở đó công tác dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn
đạt được kết quả mong muốn.
Đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn phải xuất phát từ nhu cầu sử
dụng lao động thực sự của các cơ sở sản xuất, kinh doanh - dịch vụ trên địa bàn; từ nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương; đồng thời dựa trên nhu cầu thực tế
về nghề nghiệp của người dân, chứ không phải là các hoạt động có tính phong trào, nhất
thời. Vì vậy, công tác điều tra, khảo sát nhu cầu phải thực hiện thường xuyên; nắm chắc
các nhu cầu thực tế (theo từng nghề, nhóm nghề, vị trí công việc…) của người dân ở
từng địa phương (xã, huyện) và của doanh nghiệp. Để làm tốt việc này, ngoài việc huy
động các cơ quan chuyên môn (lao động, nông nghiệp và phát triển nông thôn, thống
kê…) cần kết hợp với công tác tuyên truyền, tư vấn nghề nghiệp, thông tin đến từng
người dân về nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp...
Do tính đa dạng vùng miền và tính đặc thù của người nông dân và lao động nông
thôn (trình độ học vấn không đồng đều, lao động theo mùa vụ, thói quen canh tác…),
nên việc tổ chức các khóa đào tạo phải rất linh hoạt về chương trình đào tạo, hình thức
đào tạo, phương thức đào tạo, phương pháp truyền đạt… Chương trình đào tạo phải gắn
với học liệu sinh động, đa dạng và thiết thực, phù hợp với trình độ của người học.
Đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn phải gắn với giải quyết việc
làm, chuyển dịch cơ cấu lao động; gắn với xóa đói, giảm nghèo và góp phần bảo đảm
an sinh xã hội ở nông thôn; gắn với xây dựng nông thôn mới. Vì vậy, trong quá trình
thực hiện, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, các cơ sở đào tạo
và doanh nghiệp, nhất là vai trò của chính quyền cấp xã, cấp huyện. Thực tế thời gian
qua cho thấy, ở nơi nào có sự phối hợp tốt giữa các đối tác này thì ở đó công tác đào
tạo nghề đạt được kết quả rất tích cực (người dân có việc làm, năng suất lao động và
thu nhập của người dân được nâng lên, giảm nghèo bền vững…). Đặc biệt, dạy nghề
cho nông dân và lao động nông thôn phải gắn kết chặt chẽ với Chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 của Chính phủ.
153
Để những người nông dân trở thành những lao động nông nghiệp hiện đại, song
song với việc truyền đạt kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp cần trang bị cho họ những
kiến thức tiêu chuẩn an toàn sản phẩm, về thị trường, kiến thức kinh doanh trong điều
kiện hội nhập.
4.2.4. Nhóm giải pháp liên quan đến hoạch định và thực thi chính sách hỗ trợ
đối với nông dân
4.2.4.1. Đổi mới phương thức hoạch định chính sách đối với nông dân
Hoạch định chính sách hỗ trợ nông dân dựa trên quan điểm nông dân là chủ thể
của chính sách. Cần thay đổi quan niệm cho rằng, chỉ cần Nhà nước tốt với nông dân
và chính sách có lợi cho nông dân là được nông dân hưởng ứng. Trên thực tế, cơ quan
nhà nước thường xuyên ở tình trạng thiếu thông tin, nhất là thông tin về nhu cầu và
cách thức mà nông dân có thể thực hiện. Do đó, đôi khi chính sách được Chính phủ
cho là tốt lại không được nông dân đánh giá tốt. Muốn thay đổi cách làm chính sách,
cần giao quyền rộng rãi cho nông dân trực tiếp xây dựng, thực hiện và kiểm tra những
chính sách tác động đến họ. Chẳng hạn, nên tham khảo ý kiến của nông dân về cách
thức hỗ trợ có tác dụng với họ để hoạch định chính sách hỗ trợ cho trúng. Đặc biệt,
cần giao quyền cho nông dân đề xuất nhu cầu về hỗ trợ của Nhà nước đầu tư cơ sở hạ
tầng kinh tế - xã hội và giao cho họ quyền giám sát thực hiện các công trình này. Để
nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn,
nông dân cần lấy ý kiến góp ý của nông dân trước khi ban hành. Hơn nữa, mỗi chính
sách đều nên xác định mục tiêu ưu tiên rõ ràng và xây dựng phương án thực hiện chu
đáo để có thể chỉ đạo, đánh giá và vận hành tốt. Cần đổi mới tư duy lập chính sách
theo hướng quan tâm nhiều hơn tới đối tượng hưởng lợi, tới mức độ ảnh hưởng và xác
lập quy chế giám sát rõ ràng, minh bạch. Nhà nước cần cải cách hành chính theo
hướng phục vụ dân cư, nhất là đối với những nông dân thiếu kinh nghiệm trong tiết
cận dịch vụ công.
Điều chỉnh hệ thống chính sách, quy định liên quan đến nông nghiệp, nông
dân, nông thôn theo hướng dài hạn, bài bản, có cân nhắc đến hậu quả của tác động
chính sách. Cần tăng cường hệ thống nghiên cứu, thu thập thông tin chuyên ngành từ
Trung ương đến địa phương để có thể điều chỉnh và chỉ đạo thực hiện chính xác.
Nhanh chóng xây dựng cơ chế giám sát, cảnh báo khi xảy ra tranh chấp hoặc tình
trạng khẩn cấp khi nông sản nước ngoài tràn ngập thị trường trong nước đe dọa các
154
ngành sản xuất nông sản trong nước, nhất là làm quen với các thủ tục, quy trình kiện
bán phá giá… Hiện tại ngành nông nghiệp không có lợi thế cạnh tranh về khá nhiều
nông sản như bông vải, đỗ tương, mía, chăn nuôi… Song việc sản xuất các loại nông
sản này cung cấp cho thị trường trong nước đang là nguồn thu nhập chính của rất
nhiều gia đình nông dân. Nhà nước cần dự liệu trước ảnh hưởng của mở cửa thị
trường đối với các loại nông sản này đến thu nhập của nông dân để có chính sách hỗ
trợ họ chuyển nghề hoặc chuyển đổi cơ cấu sản xuất hợp lý…
Tăng cường cơ sở khoa học cho hoạch định chính sách đối với nông dân. Cần
đầu tư đủ mức cho hoạt động nghiên cứu, điều tra khoa học, khách quan trước khi xây
dựng chính sách. Nên sử dụng hình thức tư vấn của các nhà kinh doanh, các nhà hoạt
động xã hội, các nhà khoa học và bản thân nông dân trong hoạch định chính sách. Cơ
quan nhà nước nên thay cách hoạch định chính sách theo kiểu xử lý tình huống lâu nay
bằng hoạch định các chính sách dài hạn, có mục tiêu và phương án lựa chọn rõ ràng.
4.2.4.2. Đổi mới công tác triển khai thực hiện chính sách
Kết quả của một số chính sách không chỉ phụ thuộc vào nội dung, tinh thần của
chính sách mà còn phụ thuộc ở mức độ lớn hơn vào hiệu lực, hiệu quả thực thi chính
sách. Tổ chức thực hiện chính sách đối với nông dân cũng là khâu yếu trong quản lý
kinh tế của Nhà nước ta.
Để góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách hỗ trợ nông dân, trong thời
gian tới Nhà nước cần ưu tiên nhiều hơn cho các giải pháp sau:
- Tăng cường quyết tâm chính trị và năng lực, nguồn lực của bộ máy thực thi
chính sách hỗ trợ nông dân, nhất là các cơ quan quản lý nông nghiệp, nông thôn, các
tổ chức chính trị xã hội của nông dân và các hợp tác xã nông nghiệp. Trước hết, cần
tăng cường tiếng nói của nông dân và các hợp tác xã nông nghiệp. Trước hết, cần tăng
cường tiếng nói của nông dân trong Quốc hội, trong các cơ quan tham mưu cho chính
sách Nhà nước. Tiếp theo, Đảng và Nhà nước cần đặt vấn đề nông nghiệp, nông dân,
nông thôn ở vị trí ưu tiên hơn nữa trong chiến lược CNH, HĐH đất nước. Với đặc
điểm thu hút ít lao động từ nông thôn của công nghiệp hóa hiện nay, trong tương lai
nhiều năm nữa, dân số ở nông thôn, sống nhờ nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng
lớn, do đó phải giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân ngay trong quá
trình công nghiệp hóa, không thể hy sinh quá lâu lợi ích của nông dân để công nghiệp
hóa như các nước đi trước. Để làm như vậy, Nhà nước cần cân đối nguồn lực lớn hơn
155
để đầu tư thích đáng cho nông nghiệp, nông thôn, không được coi những dự án ở nông
thôn kém quan trọng hơn các dự án công nghiệp. Cần ưu tiên cấp vốn cho xây dựng
cơ sở hạ tầng ở nông thôn chí ít cũng ngang bằng thành thị. Các cơ quan chỉ đạo và
quản lý nông nghiệp, nông thôn cần được giao nguồn lực lớn hơn để thực hiện các
chương trình mục tiêu có lợi cho nông nghiệp, nông dân. Ngoài ra, cần thu hút các tổ
chức của nông dân tham gia thực hiện chính sách.
- Xây dựng cơ chế để nông dân tham gia giám sát, đánh giá chính sách. Cơ chế
này phải được cụ thể hóa thành quy chế lấy ý kiến của nông dân về tác động của chính
sách; thiết lập các đường dây điện thoại nóng để tiếp nhận thông tin từ nông dân; tổ
chức các cơ quan và lực lượng giữ trật tự trị an bảo vệ nông dân phát giác sai phạm
của cán bộ quản lý nông nghiệp, nông thôn; mời đại diện nông dân thụ hưởng chính
sách tham gia các hội đồng đánh giá chính sách…
- Tăng cường kỷ luật thực thi chính sách hỗ trợ nông dân thông qua việc thực
hiện nghiêm túc quá trình phân tích, đánh giá chính sách, điều chỉnh chính sách kịp
thời và tổng kết, rút kinh nghiệm cho từng chương trình mục tiêu. Kiên quyết xóa bỏ
cách làm đại khái, phát động phong trào, đánh trống bỏ dùi, chỉ chỉ đạo lúc ban đầu,
về sau không đánh giá đúng sai, thành công hay không thành công… Nên gắn việc
thực hiện các chính sách hỗ trợ nông dân với trách nhiệm cá nhân và tập thể công
chức nhà nước. Mỗi chính sách đề ra dù đúng, dù sai đều phải thực hiện dứt điểm
hoặc tuyên bố đình chỉ kịp thời. Các cá nhân, tổ chức có thành tích cần được khen
thưởng công khai. Các cá nhân, tổ chức phạm khuyết điểm cần được phê phán và xử
phạt nghiêm khắc. Có làm được như vậy nông dân mới thấy được kết quả thực sự của
chính sách để có thái độ ủng hộ hay khước từ.
4.2.4.3. Tăng cường năng lực và đạo đức công chức thực thi chính sách đối
với nông dân
Cán bộ, công chức nhà nước các cấp cần được đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao
năng lực, trình độ công tác và không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức công chức
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để ngày càng thực thi chính sách hỗ trợ đối với
nông dân tốt hơn. Cần tận tình hướng dẫn nông dân trong việc thực hiện các chính
sách của Nhà nước. Đây là hướng cải cách công vụ cần được nhấn mạnh. Bởi vì số
lượng nông dân khá đông, địa điểm ở phân tán, năng lực tài chính yếu kém, trình độ
văn hóa thấp nên công chức quản lý họ thường gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó lợi
156
ích cá nhân công chức thu được từ cung cấp dịch vụ cho nông dân là quá nhỏ. Vì thế,
đi đôi với việc lựa chọn người tâm huyết, Nhà nước cần có chế độ hỗ trợ các công
chức quản lý nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước cần có chế độ hỗ trợ các công chức
quản lý nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước cần có cơ chế giám sát công chức để đảm
bảo các hoạt động của họ không xa rời mục tiêu Nhà nước mong muốn và không làm
giảm uy tín của Nhà nước trong con mắt của người nông dân.
Đặc biệt, công chức thực thi chính sách hỗ trợ nông dân cần có tâm và có cách
hành xử phù hợp với phong tục, tập quán và trình độ của nông dân. Nông dân Việt
Nam tuy thật thà, chất phác, trọng tình nghĩa, nhưng cũng rất thiển cận, hẹp hòi và bảo
thủ. Chính vì thế khi tiếp xúc với nông dân, công chức nhà nước phải tận tụy, kiên trì,
nhẫn nại và nhập gia tùy tục. Cần kiên trì vận động để người nông dân tự vượt qua
những hạn chế của họ. Chỉ khi nào nông dân nhận thức được lợi ích và tính hợp lý của
đổi mới, cải cách họ mới hành động. Nhưng khi đã hành động họ đều làm hết mình và
gắn bó với kết quả cuối cùng. Chính vì thế công chức cần vận động nông dân trên cơ
sở để họ nhận thức vấn đề và tự chủ thực hiện. Tránh bệnh thành tích, cố gắng gây áp
lực buộc nông dân phải làm theo chính sách của Nhà nước. Vì làm như vậy sẽ dẫn đến
hiệu quả thấp hoặc mục tiêu không đạt được. Cũng nên tránh cách làm kiểu "đem con
bỏ chợ", vận động nông dân thực hiện chính sách nhưng không cùng chịu tác động
của chính sách, bỏ mặc nông dân khi chính sách sai lầm.
Khắc phục hiện tượng quan cách, hạch sách, nhũng nhiễu hoặc quan liêu, xa
rời nông dân của công chức nhà nước. Vấn đề ở đây không phải là công chức nhà
nước ban phát trợ cấp của Nhà nước cho nông dân. Hỗ trợ nông dân là trách nhiệm
của Nhà nước và người nông dân có quyền được hưởng vì họ đã hy sinh lợi ích quá
nhiều và hiện vẫn là giai cấp chịu thiệt thòi nhất. Do đó cần giáo dục công chức thực
thi chính sách hỗ trợ nông dân để họ có thái độ ân cần, tôn trọng nông dân.
Hơn nữa, cần quy định rõ trách nhiệm của công chức trong quan hệ với nông
dân, tôn trọng quyền lưc của nông dân, đảm bảo quyền lợi cho họ. Quy định cụ thể
các chuẩn mực đạo đức của công chức trong giao dịch với nông dân. Công chức có
nghĩa vụ tạo điều kiện cho nông dân được hưởng quyền lợi và cơ hội để họ thực hiện
nghĩa vụ. Giảm bệnh quan liêu, giấy tờ trong giao tiếp với nông dân. Đảm bảo chính
sách của Nhà nước đối với nông dân được thực thi nhanh nhất, hiệu quả nhất.
157
4.2.4.4. Coi trọng công tác tổng kết, đánh giá các chính sách đã được ban
hành và triển khai thực hiện
Đánh giá chính sách là công việc khó khăn và là công việc dễ bị bỏ qua ở nước
ta. Đặc biệt, đánh giá các chính sách hỗ trợ nông dân càng dễ bị bỏ qua do nông dân
thiếu tổ chức để gây áp lực chính trị. Vì thế, Nhà nước phải chủ động tạo điều kiện
cho đánh giá chính sách và tạo áp lực buộc các chủ thể triển khai thực hiện chính sách
phải đánh giá chính sách kịp thời, nghiêm túc. Đánh giá tốt chính sách không những
cung cấp thông tin để phán xét hành động đã qua mà còn cung cấp thông tin phòng
ngừa trước khi chính sách được thực hiện. Nhà nước nên áp dụng nhiều hình thức
đánh giá linh hoạt và đánh giá có hệ thống.
Nhà nước cần tổ chức đánh giá chính sách thông quan tư vấn độc lập với sự
tham gia của các chuyên gia nhằm có được các nhận xét có chất lượng đối với các dự
án, chương trình thuộc chính sách trên các mặt: tác động của chính sách; hiệu quả của
chính sách; mức độ hoàn thành mục tiêu; tác động không mong muốn và nguyên
nhân; mức độ không phù hợp với điều kiện mới; kiến nghị chỉnh sửa, thay thế, chấn
chỉnh việc thực thi;… Tiêu chí đánh giá chính sách phải được xây dựng chuẩn mực
trước khi đánh giá.
Khắc phục cách điều hành chính sách theo kiểu "đầu voi đuôi chuột" hiện nay.
Trong khi phần chuẩn bị chính sách đã được cải thiện ở khá nhiều khâu thì phần kiểm
tra, giám sát và đánh giá chính sách hỗ trợ nông dân ở nước ta vẫn có nhiều lạc hậu và
bất cập. Cách đánh giá theo kiểu "thành công có hàng trăm người xưng là cha, thất bại
tìm không ra mẹ đẻ" cần nhanh chóng xóa bỏ.
Để nâng cao chất lượng và kỷ luật đánh giá chính sách cần cải tổ hoạt động
kiểm tra, giám sát thực thi chính sách, tăng cường vài trò giám sát thực chất của Quốc
hội, tạo điều kiện cho nông dân tham gia giám sát và đánh giá chính sách đối với họ.
Ngoài ra cần gắn trách nhiệm của cán bộ thực thi chính sách với kết quả thực hiện
chính sách, coi đó là một tiêu chuẩn quan trọng đánh giá cán bộ.
Thu hút các đoàn thể liên quan đến nông dân hỗ trợ thực hiện chính sách nhằm
tăng tính tự giác, chủ động của nông dân. Tuy nhiên, trách nhiệm cuối cùng trong thực
hiện chính sách phải quy về cơ quan nhà nước và cá nhân cụ thể để có đánh giá đúng
trách nhiệm của cá nhân và tổ chức đó.
158
KẾT LUẬN
Hỗ trợ nông dân là một chính sách công được thực hiện ở nhiều quốc gia khác
nhau. Ở nước ta, nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong đó nông dân đóng vai trò
chủ thể là vấn đề lớn có tính chiến lược trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta. Gần 30
năm đổi mới và 8 năm gia nhập WTO, nông nghiệp, nông thôn đã có sự phát triển
mạnh mẽ, đời sống nông dân được cải thiện, nhưng vẫn là lĩnh vực còn nhiều khó
khăn. Gia nhập WTO mang lại nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng có những thách
thức không nhỏ đối với sản xuất nông nghiệp và nông dân. Sự biến động giá cả, các
rào cản kỹ thuật sẽ nhiều hơn, các sản phẩm thay thế nhập khẩu phải cạnh tranh hơn
khi hàng rào bảo hộ hạ xuống. Gia nhập WTO là việc khó, càng khó hơn khi nông
nghiệp nước ta có điểm xuất phát thấp, thiếu kinh nghiệm, có trường hợp phải chấp
nhận trả giá. Điều đó đòi hỏi Nhà nước luôn phải đặt vấn đề hỗ trợ nông dân vào vị trí
ưu tiên trong chương trình nghị sự.
Tuy việc hỗ trợ đối nông dân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là phức
tạp nhưng phải được Nhà nước thực hiện hết sức tích cực. Nội dung các hỗ trợ nông
dân phải bao quát được các vấn đề: Hỗ trợ xây dựng chiến lược, quy hoạch phát
triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn phù hợp với xu hướng phát triển nhu cầu của
thị trường và tiềm năng, lợi thế của đất nước trên từng vùng, miền; hỗ trợ xây dựng
và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cho nông dân; hỗ trợ nông dân tiếp cận
và sử dụng các nguồn lực đầu vào có hiệu quả; hỗ trợ nông dân trong việc tiêu thụ
sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường; hỗ trợ đào tạo nâng cao năng
lực của nông dân.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế, thực hiện hỗ trợ đối với nông dân phải phù hợp
với các cam kết quốc tế về nông nghiệp, đặc biệt là cam kết gia nhập WTO. Là quốc
gia đi sau, Việt Nam buộc phải thực hiện những cam kết nặng nề hơn. Tuy nhiên, kinh
nghiệm của các quốc gia có điều kiện tương đồng như Trung Quốc và Thái Lan cho
thấy, Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động thực hiện hỗ trợ nông dân mà không vi
phạm những cam kết về nông nghiệp trong WTO.
159
Nghiên cứu thực trạng các hỗ trợ đối với nông dân được thực hiện thời gian qua
cho thấy, các chính sách hỗ trợ đã được điều chỉnh dần phù hợp với các cam kết về
nông nghiệp của WTO, thậm chí có chính sách còn được điều chỉnh trước khi gia
nhập tổ chức này. Tuy vậy, quá trình xây dựng và thực hiện vẫn còn nhiều bất cập đòi
hỏi phải tiếp tục được nghiên cứu và giải quyết như các hỗ trợ thuộc hộp hổ phách chủ
yếu vẫn mang tính tình thế, không theo một kế hoạch hay chương trình được phê
duyệt trước, nhiều chính sách được WTO cho phép nhưng chưa được thực hiện, nhiều
chính sách hỗ trợ thực thi không hiệu quả, đối tượng thụ hưởng chính sách không
đúng…
Để khắc phục những tồn tại trên, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách hỗ trợ đối với
nông dân trong thời gian tới. Một số những giải pháp quan trọng là: hỗ trợ nông dân
tiếp cận các nguồn lực đầu vào: gồm các giải pháp về chính sách đất đai, chính sách
tín dụng, ứng dụng KH-CN vào sản xuất nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng; hỗ
trợ phát triển thị trường “đầu vào” và “đầu ra” cho nông dân; hỗ trợ đào tạo và nâng
cao năng lực của nông dân.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do hạn chế về nguồn thông tin, tư liệu và hạn
chế chủ quan về phía NCS nên luận án không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất
định. NCS rất mong nhận được những đóng góp quý báu của các nhà khoa học và
những ai quan tâm đến vấn đề này. NCS xin trân trọng cảm ơn!
160
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA NCS CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
NỘI DUNG LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
1. Hồ Thanh Thủy (2006), “Giải pháp tài chính - tiền tệ đối với phát triển thị
trường tiêu thụ sản phẩm làng nghề”, Tạp chí Tài chính, số 12.
2. Hồ Thanh Thủy (2009), “Hỗ trợ nông dân trong quá trình CNH, HĐH và hội
nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 6.
3. Hồ Thanh Thủy (2010), “Đền bù, hỗ trợ cho nông dân bị thu hồi đất trong quá
trình CNH, HĐH”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 6.
4. Hồ Thanh Thủy (2010), “Kinh nghiệm của Trung Quốc về hỗ trợ nông dân
trong hội nhập kinh tế quốc tế và bài học có nghĩa đối với Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế
và dự báo, số 11 tháng 6.
5. Hồ Thanh Thủy (2010), Hỗ trợ giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất
vùng đồng bằng sông Hồng, Chủ nhiệm đề tài cơ sở, đã nghiệm thu đạt loại khá.
6. Hồ Thanh Thủy (2010), Chính sách của Nhà nước đối với nông dân trong thực
hiện các cam kết gia nhập WTO (thành viên tham gia), Sách tham khảo do PGS, TS
Nguyễn Cúc và TS Hoàng Văn Hoan đồng chủ biên, Nxb Khoa học và kỹ thuật.
7. Hồ Thanh Thủy (2012), “Một số giải pháp nâng cao giá trị gia tăng của nông
sản Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và quản lí, số 4, tháng 12.
8. Hồ Thanh Thủy (2013), “Tạo sự thích ứng cho nông nghiệp và nông dân Việt
Nam trong thực hiện các cam kết gia nhập WTO”, Tạp chí Giáo dục lí luận, số tháng 3.
9. Hồ Thanh Thủy (2013), “Hỗ trợ tài chính cho “tam nông” theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 7 khóa X”, Tạp chí Kinh tế và quản lý, số 7, tháng 9.
10. Hồ Thanh Thủy (2014), “Đảm bảo lợi ích của người nông dân trong thực hiện
chính sách tạm trữ lúa gạo”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số tháng 6.
161
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Thế Anh (2009), “Phát triển xã hội ở nông thôn Trung Quốc - Nhìn từ
góc độ tư duy, chính sách của Nhà nước”, Nghiên cứu Trung Quốc, số
5, tr.28.
2. Ban chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia (2014), Báo cáo kết
quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2010 - 2014 và phương hướng, nhiệm vụ đến năm 2015.
3. Ban chỉ đạo sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khoá x (2014),
Báo cáo sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 Khóa
X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và AUSAID (2004), Đánh giá sự
phù hợp của chính sách nông nghiệp Việt Nam với các qui định trong
hiệp định khu vực và đa phương.
5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và AUSAID (2005), WTO và ngành
nông nghiệp Việt Nam.
6. Bộ Kế hoạch - Đầu tư (2009), Báo cáo gói kích thích kinh tế trình đại biểu
Quốc hội, ngày 14/10/2009
7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010), Hội nghị Tổng kết thực hiện Quyết định số
497/QĐ-TTg và sơ kết thực hiện Quyết định số 2213/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ, ngày 12/5/2010.
8. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2013), Tờ trình Thủ tướng Chính
phủ Quyết định thay thế các Quyết định 63/2010/QĐ-TTg và
65/2011/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu
hoạch đối với nông sản, thuỷ sản, Hà Nội.
9. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Trung tâm Thông tin phát triển
nông nghiệp nông thôn (2012), Báo cáo thường niên ngành nông
nghiệp Việt Nam 2011 và triển vọng 2012, Hà Nội.
10. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Trung tâm Thông tin phát triển
nông nghiệp nông thôn (2013), Báo cáo thường niên ngành nông
nghiệp Việt Nam 2012 và triển vọng 2013, Hà Nội.
162
11. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2005), Khoa học công nghệ phục vụ
phát triển nông nghiệp, nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội.
12. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2012), Tình hình nông nghiệp năm
2011 và định hướng năm 2012.
13. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2013), Báo cáo “Đánh giá tác động
của việc thực hiện các cam kết WTO và khu vực đối với ngành
NN&PTNT”.
14. Trần Thị Minh Châu (2007), Về chính sách đất nông nghiệp ở nước ta hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ (2001), Việt Nam quản lý tốt hơn
nguồn lực nhà nước - Đánh giá chi tiêu công 2000, Báo cáo của nhóm
công tác chung, Hà Nội.
16. David Colman và Trevor Youg (1994), Nguyên lý kinh tế nông nghiệp - thị
trường và giá cả trong các nước đang phát triển” Nhà xuất bản Nông
nghiệp.
17. Nguyễn Cúc – Hoàng Văn Hoan (2010), Chính sách của Nhà nước đối với
nông dân trong điều kiện thực hiện cam kết gia nhập WTO, Nhà xuất
bản Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
18. Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn thời kỳ đổi mới 1986 -
2002, Nxb Thống kế, Hà Nội
19. Hồ An Cương (2003), Trung Quốc những chiến lược lớn, Nhà xuất bản
Thông tấn, Hà Nội.
20. Nguyễn Lân Dũng (2006) “Vào WTO nông dân ta được gì và mất gì”,
Vietsciences ngày 25/06.
21. Nguyễn Tiến Dũng (2010), Gia nhập WTO và điều chỉnh chính sách trong
ngành nông nghiệp Việt Nam, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc
gia Hà Nội.
22. Vũ Dũng (2012), Cơ chế, chính sách hỗ trợ nông dân yếu thế trong quá trình
chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
163
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành
Trung ương khóa VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành
Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Các nghị quyết của Trung ương Đảng từ
1996 - 2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết số 26/NQ-TW của Hội nghị lần
thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa X, Báo Nhân dân, số ra ngày
17/8, Hà Nội.
34. Frank Elliss (1994), Chính sách nông nghiệp trong các nước đang phát triển,
Nxb Nông nghiệp, 1994.
35. Lại Ngọc Hải, “Tam nông” trong thực hiện các cam kết WTO” Tạp chí Cộng
sản, số 7 (127), năm 2007.
36. Đức Hiệp (2013) “5 năm gia nhập WTO: Nông nghiệp “nhận” được quá ít”,
http://www/nongnghiep.vn
37. Hoàng Ngọc Hòa (2007), Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.
38. Hoàng Ngọc Hòa (2008), “Hỗ trợ nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong
quá trình CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí
Lý luận chính trị, số 12, Hà Nội
164
39. Hoàng Ngọc Hòa (2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình
CNH, HĐH ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Huỳnh Thị Liên Hoa (2011), Nghiên cứu các giải pháp, chính sách bảo hộ
sản xuất nông nghiệp trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế và
quy định của WTO, Viện Quy hoạch và thiết kết nông nghiệp chủ trì,
Hà Nội.
41. Trịnh Thị Ái Hoa (2007), Chính sách xuất khẩu nông sản Việt Nam - Lý luận
và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Vương Đình Huệ (2012), “Định hướng, giải pháp tăng cường và nâng cao
hiệu quả đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn”,
www.tapchitaichinh.vn/, ngày 10/7
43. Vũ Văn Hùng (2013), Chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình
thực hiện các cam kết với Tổ chức thương mại thế giới, Luận án tiến sĩ
kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
44. Nguyễn Huyền (2007), “Giúp nông dân hội nhập WTO”, www.vneconomy.vn
45. Nguyễn Đình Kháng (2013), “Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 853.
46. Lê Bộ Lĩnh (2006), Vòng đàm phán Doha nội dung, tiến triển và những vấn
đề đặt ra cho các nước đang phát triển Nxh Khoa học xã hội, Hà Nội.
47. Đỗ Đức Minh - Hà Thị Hương Lan (2012), “Chính sách hỗ trợ tài chính phát
triển “tam nông” ở Việt Nam: Thành tựu và thách thức”, Tạp chí Tài
chính, số 8/2012.
48. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Đăng Nam (2013), “Đổi mới quản lý phát triển khoa học và công nghệ trong
nông nghiệp”, www.daibieunhandan.vn, ngày 13/06
50. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (2010), Báo cáo
tổng kết 10 năm thực hiện Quyết định số 67/1999/QĐ-Ttg và Giải
pháp triển khai Nghị định số 41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng
phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn.
51. Phan Minh Ngọc (2010), “Gia nhập WTO tác động thế nào đến nông dân?”,
Thời báo kinh tế Việt Nam, số ra ngày 20/10.
52. Nguyễn Thái Nguyên (2013), “Chính sách và trách nhiệm với nông dân và
nông thôn”, http://www.tiasang.com.vn, ngày 3/9.
165
53. Hồng Nhung (2012), “Tái cấu trúc đầu tư cho nông nghiệp”, Tạp chí Tài
chính online, ngày 28/9
54. Oxfam Quốc tế (2004), Gia nhập WTO: Liệu Việt Nam có giành được điều
kiện có lợi cho phát triển?
55. Oxfam Quốc tế (2012), Vun trồng một tương lai no đủ.
56. Hafiz A.Pasha và T.Palanivel (2004), Chính sách và tăng trưởng vì người
nghèo: Kinh nghiệm châu Á.
57. Vũ Văn Phúc - Trần Thị Minh Châu (2010), Chính sách hỗ trợ của Nhà nước
ta đối với nông dân trong điều kiện hội nhập WTO, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
58. Đỗ Hồng Quân (2011), “Đổi mới chính sách hỗ trợ nông dân sản xuất nông
nghiệp”, www.giamngheo.mpi.gov.vn, ngày 7-9-2011.
59. Harry T.O Shima, Tăng trưởng kinh tế châu Á gió mùa.
60. Đặng Kim Sơn (2006), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam - 20 năm đổi mới
và phát triển , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
61. Đặng Kim Sơn (2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam - Hôm
nay và mai sau, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
62. Đặng Kim Sơn (2013), “Nông nghiệp Việt Nam hội nhập: Người nông dân
“đứng mũi chịu sào”, bài phỏng vấn đăng trên chuyên san Hồ sơ sự
kiện của Tạp chí Cộng sản, ngày 22/4.
63. Nguyễn Đình Tài - Nguyễn Văn Hưởng (2009), “Thu hút đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn: Thêm cú hích mới”, Tạp chí Tài chính, số 6, tr.10-14
64. Tạp chí Cộng sản - Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội - Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn (2013), Báo cáo Hội thảo “Mười năm thực
hiện Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo ở
Việt Nam: Thành quả -cơ hội -thách thức”.
65. Kim Thanh (2013), “Nhìn lại sau 3 năm đào tạo nghề cho lao động nông
thôn”, www.cpv.org.vn, ngày 17/7.
66. Lê Đình Thắng (1998), Chính sách nông nghiệp, nông thôn sau Nghị Quyết
10 của Bộ Chính trị” Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
67. Nguyễn Thiện (2008), “Làm gì để bảo vệ nhà nông khi gia nhập WTO?”,
http://www.dddn.com.vn
166
68. Đoàn Xuân Thủy (2011), Chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. “Tín dụng nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Thực trạng và định hướng phát
triển sau khi gia nhập WTO” (2009), Tạp chí Ngân hàng, số 3, tr.23-29.
70. Tổng cục Thống kê (2012), Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và
thủy sản 2011, Nxb Thống kê, Hà Nội.
71. Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám thống kê 2007, Nxb Thống kê, Hà Nội.
72. Tổng cục Thống kê (2009), Niên giám thống kê 2008, Nxb Thống kê, Hà Nội.
73. Tổng cục Thống kê (2010), Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, Hà Nội.
74. Tổng cục Thống kê (2011), Niên giám thống kê 2010, Nxb Thống kê, Hà Nội.
75. Tổng cục Thống kê (2012), Niên giám thống kê 2011, Nxb Thống kê, Hà Nội.
76. Tổng cục Thống kê (2013), Niên giám thống kê 2012, Nxb Thống kê, Hà Nội.
77. Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám thống kê 2013, Nxb Thống kê, Hà Nội.
78. Trần Trọng Triết (2012), “Thu hút FDI vào nông nghiệp: Cần tư duy mới”,
www.kinhtenongthon.com.vn, ngày 8/8
79. Trung tâm khuyến nông quốc gia (2013), Báo cáo Tổng kết hoạt động 20 năm
(1993- 2013) và định hướng phát triển đến năm 2020 của hệ thống
khuyến nông Việt Nam
80. Đào Thế Tuấn: Chính sách nông thôn, nông dân và nông nghiệp mới ở Trung
Quốc, Website Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp,
nông thôn - IPSARD, cập nhật ngày 4/1/2008.
81. Nguyễn Từ (2008), Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển
nông nghiệp Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
82. Ủy ban Kinh tế Quốc hội (2011), Chuyên đề nghiên cứu khoa học Đánh giá
tác động của gói kích thích kinh tế tại Việt Nam, Hà Nội.
83. Ủy ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quôc tế (2007), Sổ tay về các quy định của
WTO và cam kết gia nhập của Việt Nam, Nxb Đại học Kinh tế quốc
dân, Hà Nội.
84. Chu Thanh Vân (2012),”Tạo cơ chế thu hút các thành phần kinh tế đầu tư cho
“tam nông” phát triển bền vững”, www.agroviet.gov.vn/, ngày 20/4
85. Viện Khoa học thủy lợi (2004), Khoa học công nghệ thủy lợi phục vụ
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH¸ Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội.
167
86. Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông thôn Việt Nam (2013), Báo
cáo kết quả điều tra “Bức tranh nông thôn, nông dân Việt Nam nhìn từ
cuộc điều tra tiếp cận nguồn lực hộ gia đình”.
87. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (1999), Báo cáo kết quả khảo sát
về phát triển nông nghiệp và nông thôn tại Thái Lan, Hà Nội.
88. Vụ Tài chính - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006), Báo cáo đánh
giá chi tiêu công cho ngành nông nghiệp thời kỳ 1996 - 2006, Hà Nội.
89. Võ Tòng Xuân (2010), “Nông dân và nông nghiệp Việt Nam nhìn từ sản xuất
- thị trường”, Tạp chí Cộng sản, số 812, tháng 6.
90. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn
hóa - Thông tin.
91. http://www.agribank.com.vn//tin-tuc/hoatdongagribank, cập nhật ngày 6/9/2013
92. http://www.agroviet.gov.vn
93. http://www.gso.gov.vn
94. http://www.ipsard.gov.vn
95. http://www.laodongxahoionline.vn, cập nhật ngày 11/4/2013
96. http://www.moit.gov.vn
97. http://www.mpi.gov.vn
98. http://www.nciec.gov.vn
99. http://www.sbv.gov.vn/, cập nhật ngày 8/7/2013
100. http://www.vov.vn, “Một chính sách nông nghiệp vì nông dân”, cập nhật
ngày 28/6/2013.
101. http://www.wto.org