BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN THƯƠNG
ĐẶC ĐIỂM GIAI THOẠI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN THƯƠNG
ĐẶC ĐIỂM GIAI THOẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 62 22 01 21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. HỒ QUỐC HÙNG
2. TS. TRẦN MINH HƯƠNG
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của tôi.
Các tài liệu, số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào khác.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm
Người nghiên cứu
Nguyễn Văn Thương
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các sơ đồ
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU GIAI THOẠI
VÀ TƯ LIỆU GIAI THOẠI VIỆT NAM ........................................... 5
1.1. Tình hình nghiên cứu giai thoại ........................................................................... 5
1.1.1. Giai thoại - thuật ngữ và quan niệm ............................................................ 5
1.1.2. Đặc điểm thể loại của giai thoại ................................................................ 19
1.1.3. Một số khía cạnh thi pháp thể loại của giai thoại ...................................... 23
1.1.4. Phân định ranh giới và vấn đề chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và
các thể loại của tự sự dân gian .................................................................. 28
1.1.5. Phân loại giai thoại .................................................................................... 32
1.2. Tình hình tư liệu, đánh giá và xử lý tư liệu giai thoại Việt Nam ...................... 40
1.2.1. Tình hình tư liệu giai thoại Việt Nam ....................................................... 40
1.2.2. Đánh giá tư liệu và vấn đề xử lý tư liệu giai thoại Việt Nam ................... 52
Tiểu kết Chương 1 .................................................................................................... 57
Chương 2. ĐỊNH VỊ THỂ LOẠI GIAI THOẠI VIỆT NAM ............................. 58
2.1. Các tiêu chí xác định giai thoại Việt Nam ......................................................... 58
2.1.1. Đề tài của giai thoại .................................................................................... 59
2.1.2. Nhân vật của giai thoại ............................................................................... 66
2.1.3. Cảm hứng của giai thoại ............................................................................. 68
2.2. Phân loại giai thoại Việt Nam ............................................................................ 71
2.2.1. Phân loại giai thoại Việt Nam theo tiêu chí đề tài ...................................... 71
2.2.2. Phân loại giai thoại Việt Nam theo tiêu chí nhân vật ................................. 73
2.3. Đặc trưng thể loại và khái niệm giai thoại Việt Nam ........................................ 76
2.3.1. Đặc trưng thể loại của giai thoại Việt Nam ................................................ 76
2.3.2. Khái niệm giai thoại ................................................................................... 96
Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................... 99
Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN ĐẶC TRƯNG THI PHÁP
THỂ LOẠI CỦA GIAI THOẠI VIỆT NAM ..................................................... 100
3.1. Kết cấu của giai thoại....................................................................................... 100
3.1.1. Kết cấu của giai thoại văn học.................................................................. 101
3.1.2. Kết cấu của giai thoại văn hóa dân gian ................................................... 115
3.2. Nhân vật của giai thoại .................................................................................... 124
3.2.1. Nhân vật của giai thoại văn học ............................................................... 127
3.2.2. Nhân vật của giai thoại văn hóa dân gian ................................................. 135
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................... 147
Chương 4. MỐI QUAN HỆ GIỮA GIAI THOẠI VIỆT NAM VÀ
CÁC THỂ LOẠI TRONG TỰ SỰ DÂN GIAN, LỊCH SỬ, VĂN HỌC ........ 148
4.1. Mối quan hệ giữa giai thoại và các thể loại trong tự sự dân gian .................... 149
4.1.1. Mối quan hệ giữa giai thoại và truyền thuyết ........................................... 149
4.1.2. Mối quan hệ giữa giai thoại và truyện cười ............................................. 162
4.1.3. Mối quan hệ giữa giai thoại và cổ tích ..................................................... 169
4.2. Mối quan hệ giữa giai thoại và lịch sử ............................................................. 172
4.2.1. Lịch sử là cội nguồn sản sinh giai thoại ................................................... 173
4.2.2. Giai thoại bổ khuyết cho lịch sử ............................................................... 174
4.3. Mối quan hệ giữa giai thoại và văn học thành văn .......................................... 180
4.3.1. Sự tương tác giữa tính dân gian và tính bác học trong giai thoại ............ 180
4.3.2. Lý giải sự tương tác giữa tính dân gian và tính bác học trong
giai thoại ............................................................................................................. 184
Tiểu kết chương 4 ................................................................................................... 187
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 188
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 191
PHỤ LỤC
QUY ƯỚC VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Trong luận án này, chúng tôi dùng quy ước viết tắt đối với một số từ ngữ
dùng nhiều lần như sau:
1. Nhân vật chính: NVC
2. Nhân vật đối thủ: NVĐT
3. Trang: tr.
4. Giáo sư: GS
5. Phó giáo sư: PGS
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. So sánh truyện cười và truyện trạng của Trần Thanh Mại ...................... 28
Bảng 1.2. So sánh giai thoại lịch sử và truyền thuyết lịch sử .................................. 29
Bảng 1.3. Tình hình giới thiệu và nghiên cứu giai thoại Viêt Nam ........................ 52
Bảng 2.1. Đề tài trong giai thoại Việt Nam ............................................................. 59
Bảng 2.2. Kết quả thống kê các hoạt động chủ yếu trong giai thoại Việt Nam ...... 60
Bảng 2.3. Kết quả khảo sát cảm hứng trong giai thoại Việt Nam ........................... 68
Bảng 2.4. Tính chất sự việc trong giai thoại Việt Nam ........................................... 75
Sơ đồ 2.5. Khuynh hướng lịch sử hóa trong sáng tạo giai thoại Việt Nam .............. 83
Sơ đồ 2.6. Khuynh hướng địa phương hóa trong sáng tạo giai thoại Việt Nam ...... 83
Bảng 3.1. Khung kết cấu của giai thoại Việt Nam ................................................ 101
Bảng 3.2. Mô hình kết cấu của giai thoại thách đố văn chương ............................ 102
Bảng 3.3. Cấu tạo của motif thách đố văn chương ................................................ 102
Bảng 3.4. Mô hình kết cấu của nhóm giai thoại ứng tác văn chương ................... 109
Bảng 3.5. Cấu tạo của motif ứng tác văn chương .................................................. 110
Bảng 3.6. Hệ thống truyện và nhân vật của giai thoại văn hóa dân gian............... 115
Bảng 3.7. Mô hình kết cấu của nhóm giai thoại văn nghệ dân gian ...................... 115
Bảng 3.8. Cấu tạo của motif thách đố về hò hát của nhóm giai thoại văn nghệ
dân gian ................................................................................................. 116
Bảng 3.9. Thống kê các kiểu nhân vật trong giai thoại Việt Nam ......................... 125
Bảng 4.1. Công thức sinh thức sinh nở thẩn kỳ trong tự sự dân gian.................... 153
Bảng 4.2. Nhân vật chuyển hóa từ giai thoại sang truyền thuyết .......................... 158
Bảng 4.3. So sánh giữa giai thoại và truyện cười .................................................. 163
Bảng 4.4. So sánh tư duy phản ánh nhân vật trong giai thoại và sử
quan phương ........................................................................................................... 175
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Phân loại giai thoại Việt Nam của tác giả Kiều Thu Hoạch ................ 33
Sơ đồ 1.2. Giai thoại Việt Nam phân loại theo tiêu chí thuộc văn học và
không thuộc văn học ............................................................................. 35
Sơ đồ 1.3. Giai thoại Việt Nam phân loại theo tiêu chí đề tài ................................ 37
Sơ đồ 2.1. Giai thoại Việt Nam phân loại theo tiêu chí đề tài (ở hai cấp độ) ........ 72
Sơ đồ 2.2. Sự trùng lặp của giai thoại văn học khi phân loại theo tiêu chí
nhân vật ................................................................................................. 72
Sơ đồ 2.3. Giai thoại văn học Việt Nam phân loại theo tiêu chí nhân vật ............. 74
Sở đồ 2.4. Khuynh hướng dân tộc hóa trong sáng tạo giai thoại Việt Nam .......... 82
Sơ đồ 3.1. Mô hình tình huống đối đáp liên hoàn ................................................ 117
Sơ đồ 4.1. Motif sinh nở thần kỳ trong truyền thuyết anh hùng chiến trận ......... 152
Sơ đồ 4.2. Motif sinh nở thần kỳ trong truyền thuyết anh hùng văn hóa ............. 152
Sơ đồ 4.3. Motif sinh nở thần kỳ trong giai thoại ................................................ 152
Sơ đồ 4.4. Sự chuyển hóa hình thức câu đố từ cổ tích sang giai thoại ................. 171
Sơ đồ 4.5. Quy luật chuyển hóa thể loại từ cổ tích sang giai thoại ...................... 172
Sơ đồ 4.6. Sự tác động của sử quan phương lên giai thoại .................................. 179
Sơ đồ 4.7. Sự tác động của giai thoại lên sử quan phương .................................. 180
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu văn học dân gian dưới góc độ thể loại từ lâu là nhiệm vụ quan trọng
của folklore học. Điều này không chỉ có nghĩa trong việc xác định bản chất, đặc trưng
của từng thể loại mà còn cung cấp cho chúng ta một cái nhìn toàn diện trong sự đối
sánh mang tính quy luật vận động với các thể loại tương cận trong cùng một loại hình,
hệ thống. Khuynh hướng tiếp cận theo hướng thể loại đã giúp các nhà nghiên cứu bóc
tách, chỉ ra được những cấu trúc đặc trưng cơ bản của các thể loại trong tự sự dân gian
ở Việt Nam như truyền thuyết, cổ tích, sử thi, truyện cười, ngụ ngôn,... Những thành
tựu nghiên cứu lý thuyết thể loại vì thế giữ một vai trò quan trọng hình thành khung
tham chiếu hữu ích không chỉ gói gọn phạm vi folklore mà còn có những tác động nhất
định đến những ngành nghiên cứu tương cận với nó trong mối quan hệ liên ngành.
Theo nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh, ở Việt Nam, việc sưu tầm, giới thiệu và
nghiên cứu về giai thoại đã trải qua hơn một thế kỷ. Tuy nhiên, thực tế vẫn tồn tại một
sự thật khách quan là các công trình tuyển chọn, giới thiệu về giai thoại Việt Nam
ngày càng đa dạng, phong phú bao nhiêu, thì lý thuyết nghiên cứu về thể loại này vẫn
còn đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết cho các nhà nghiên cứu.
Và vì vậy, những nhận xét, đánh giá về thể loại này mang tính gợi mở cho các
công trình nghiên cứu chuyên sâu về sau; chẳng hạn như: giai thoại là thể loại thuộc
văn học dân gian hay văn học viết; quan hệ giữa chúng thế nào; đặc điểm và bản chất
thể loại của giai thoại là gì,... vẫn luôn là vấn đề đáng quan tâm. Khoảng trống lý luận
đó làm nảy sinh nhiều câu hỏi lý thú về thể loại giai thoại, đòi hỏi những người nghiên
cứu tiếp tục tìm hiểu nhằm xác định sự hiện tồn của giai thoại trong hệ thống tự sự dân
gian Việt Nam với tư cách là một thể loại. Điều này mở ra những gợi ý cho quá trình
nghiên cứu giai thoại ở đề tài chúng tôi thực hiện. Mặt khác, việc nghiên cứu giai thoại
có thể giúp ích cho sự tham khảo, học tập cho sinh viên Đại học và Sau đại học thuộc
chuyên ngành Ngữ văn. Đó là ý nghĩa thực tiễn thiết thực của đề tài.
Xuất phát từ những yêu cầu thiết yếu về mặt lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi
đã mạnh dạn chọn đề tài Đặc điểm giai thoại Việt Nam làm đề tài nghiên cứu của luận
án. Từ góc nhìn thực tế giai thoại này có thể xem lại những tương đồng, dị biệt của các
hướng tiếp cận thể loại trong và ngoài nước để hiểu sâu hơn lý thuyết thể loại. Đấy là
định hướng khoa học của đề tài.
2. Mục đích nghiên cứu
Như vậy, những vẫn đề mà luận án cần thực hiện là:
2
- Xây dựng cơ sở khoa học để xác định thể loại giai thoại;
- Đưa ra một khái niệm giai thoại bao hàm các đặc trưng hình thức, nội dung
cũng như các tiểu loại của giai thoại (hiện có trong kho tàng giai thoại Việt Nam);
- Định vị giai thoại trong hệ thống tự sự dân gian;
- Đi sâu nghiên cứu thêm hai kiểu nhân vật của giai thoại Việt Nam mà các nhà
nghiên cứu chưa đề cập là: nhân vật nghệ nhân dân gian và nhân vật nhà nho tài tử;
- Khảo sát kết cấu của giai thoại theo hướng nghiên cứu motif, điều mà các nhà
nghiên cứu đi trước thể hiện chưa rõ.
3. Đối tượng nghiên cứu
Từ mục đích trên, có thể xác định khách thể nghiên cứu chính là hệ thống giai
thoại người Việt qua các thời đại. Nhưng đối tượng chính của nhiệm vụ nghiên cứu là
tập trung vào đặc trưng và bản chất thể loại giai thoại.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong luận án này, chúng tôi cố gắng đạt được những nhiệm vụ nghiên cứu chính
sau đây:
- Dựa vào thành quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước, luận án hướng
tới phân loại giai thoại;
- Xây dựng hệ thống tiêu chí nhằm xác định thể loại giai thoại: giai thoại là một
thể loại nằm trong tự sự dân gian;
- Chỉ ra các đặc trưng thể loại của giai thoại;
- Phân tích mô hình kết cấu, các tình tiết chính tạo nên cốt truyện và hệ thống
nhân vật của các tiểu loại cơ bản của giai thoại.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung vào tìm hiểu hệ thống các tác phẩm tự sự dân gian được xem là
giai thoại người Việt trên cơ sở nguồn tư liệu bằng văn bản từ trước đến nay.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung chủ yếu vào 3 tiểu loại của giai thoại
là: giai thoại văn học, giai thoại văn hóa dân gian và giai thoại lịch sử đã được các nhà
nghiên cứu trước đây khảo cứu. Theo đó, đề tài sẽ đi sâu nghiên cứu một số vấn đề sau
đây: Đưa ra bộ tiêu chí xác định thể loại giai thoại; đặc trưng và bản chất thể loại giai
thoại; chỉ ra được đặc trưng về kết cấu và các kiểu loại nhân vật chính yếu của giai
thoại. Các công trình giai thoại chủ yếu mà luận án khảo sát gồm:
+ Giai thoại văn học Việt Nam [65] của nhóm Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch;
3
+ Giai thoại văn học Việt Nam (Tổng tập Văn học dân gian Việt Nam, Tập 11)
[67] của Kiều Thu Hoạch;
+ Kho tàng giai thoại Việt Nam (2 tập) [89] và Giai thoại folklore Việt Nam [91]
của Vũ Ngọc Khánh;
+ Giai thoại văn hoá dân gian người Việt [114] của Triều Nguyên;
+ Giai thoại làng Nho [34] của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc;
+ Giai thoại Nguyễn Công Trứ [58] của Phan Thư Hiền.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề có liên quan đến luận án, chúng tôi sử dụng những
phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
6.1. Phương pháp loại hình lịch sử
Nghiên cứu sự vận động của loại hình trong tiến trình của lịch sử. Nó thay đổi
như thế nào trong quá trình ấy. Phương pháp này giúp cho việc lý giải một số đặc
trưng về nội dung và hình thức có tính hỗn dung của giai thoại.
6.2. Phương pháp thống kê, mô tả
Căn cứ vào số liệu thống kê để xác lập sự tồn tại của các tình tiết tiêu biểu trong
hệ thống giai thoại cũng như từng tiểu loại của nó, luận án sẽ mô tả kết cấu, đặc điểm
nội dung của từng tiểu loại cũng như từng mảng, nhóm truyện tiêu biểu của giai thoại.
6.3. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Đây là phương pháp nghiên cứu rất quan trọng, giúp luận án tiếp cận, lý giải một
số vấn đề còn nhập nhằng về ranh giới thể loại và cơ sở hình thành kiểu nhân vật giai
thoại. Chẳng hạn, việc hình thành các kiểu nhân vật tiêu biểu của giai thoại (nhân vật
trí thức khoa bảng, nhân vật ngông, nhân vật nghệ nhân dân gian, nhân vật đạo
đức,…). Theo đó, các bộ môn liên ngành mà chúng tôi vận dụng để giải quyết các vấn
đề đặt ra trong luận án là: lịch sử, văn hóa học, triết học,…
7. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài sẽ có những đóng góp cụ thể như sau:
- Xây dựng khung tiêu chí nhằm xác định thể loại giai thoại;
- Hệ thống hóa và phân loại giai thoại;
- Xác định đặc trưng và bản chất thể loại giai thoại;
- Chỉ ra mối quan hệ của giai thoại với tự sự dân gian cũng như với văn học và
lịch sử.
4
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu giai thoại và tư liệu giai thoại Việt
Nam.
Chương 2: Định vị thể loại giai thoại Việt Nam
Chương 3: Một số phương diện đặc trưng thi pháp thể loại của giai thoại
Việt Nam.
Chương 4: Mối quan hệ giữa giai thoại Việt Nam với các thể loại trong tự sự dân
gian, lịch sử và văn học.
5
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU GIAI
THOẠI VÀ TƯ LIỆU GIAI THOẠI VIỆT NAM
Trong giới nghiên cứu folklore thế giới, giai thoại từ lâu đã được quan tâm
nghiên cứu. Ở những nước có nền folklore phát triển như Phần Lan, Nga, Pháp, Đức,
Hoa Kỳ,... giai thoại đều được khảo sát sâu và đạt được nhiều thành tựu đáng tham
khảo. Ở nước ta, giai thoại là một thể loại được thừa nhận khá muộn màng trong giới
nghiên cứu folklore. Mặc dù đã có nhiều công trình tuyển chọn, nghiên cứu nhưng đến
nay vẫn chưa có sự nhất trí cao từ phía các nhà nghiên cứu ở một số đặc điểm cơ bản
của thể loại. Như vậy, trên thực tế, các vấn đề về lý thuyết thể loại ở phương Tây mặt
nào đó có thể chưa hẳn phù hợp với thực tế giai thoại ở Việt Nam. Bởi vậy, việc khảo
sát lại toàn bộ vấn đề trên phải bắt đầu từ các quan niệm và đánh giá như: định nghĩa,
phân loại, các bình diện thi pháp,... Ở đây, chúng tôi bước đầu điểm qua một số ý kiến
quan trọng từ các công trình đó. Những đánh giá dưới đây của chúng tôi về mặt thể
loại được xem như tiền giả định, nhằm sàng lọc đối tượng khảo sát hơn là định danh
thể loại cho các tư liệu.
1.1. Tình hình nghiên cứu giai thoại
1.1.1. Giai thoại - thuật ngữ và quan niệm
Trước khi đi vào vấn đề quan niệm, xin điểm qua vài nét về nguồn gốc thuật ngữ
giai thoại ở châu Âu cũng như tình hình sưu tầm, giới thiệu giai thoại đã diễn ra như
thế nào (qua một số quốc gia tiêu biểu). Ở phương Tây, về nguồn gốc thuật ngữ
“Anecdote”, trong tiếng Anh có nguồn gốc từ tiếng “Anekdotos”, gốc Hy Lạp và tiếng
“Anecdota” (có cách viết khác là “Anekdota”), gốc La tinh, có nghĩa gốc là không/
chưa công bố. Theo tác giả Tamarchenko (người Nga) trong bài viết Giai thoại là gì?,
thuật ngữ giai thoại “có gốc gác từ cuốn “Mật sử” của Procopius Caesarensis (một
tác phẩm còn đang có nhiều tranh cãi, được viết vào những năm 550)” [132].
Tác giả Lionel Gossman – nhà nghiên cứu người Mỹ (gốc Scotland) trong bài
viết Giai thoại và lịch sử (Anecdote and history) [179] nói rõ hơn thời điểm xuất hiện
của thuật ngữ giai thoại ở Châu Âu. Theo đó, thuật ngữ “Anecdota” (với ý nghĩa cốt
lõi là “chưa được xuất bản”) thực ra đã xuất hiện từ thời cổ đại qua các tác phẩm của
Ciero, Diodorus Siculus – những sử gia người Hy Lạp. Tuy xuất hiện sớm như vậy
nhưng phải đến năm 1623, thuật ngữ này mới chính thức được sử dụng trong một văn
bản của bộ Suda, một bách khoa toàn thư của nhà thờ Vatican, nước Ý. Trong những
năm từ 1697 đến 1713, Ludovico Mutatori – một học giả Khai sáng người Ý đã xuất
bản 2 cuốn sách có tiêu đề giai thoại. Đó là Anecdota Latina (Giai thoại Latina) và
6
Anecdota Graeca (Giai thoại Graeca).
Ở Pháp, thuật ngữ giai thoại được sử dụng chính thức vào năm 1650. Kèm theo
đó, các sách dưới nhan đề giai thoại (chủ yếu là giai thoại lịch sử) liên tiếp được xuất
bản. Có thể dẫn ra như: Anecdotes des Républiques (Giai thoại của các nước Cộng
hòa) (1771), Anecdotes Arabes et Musulmanes (Giai thoại người Ả Rập và người Hồi
giáo) (1772), Anecdotes Espagnoles et Portugaises depuis l’origine de la nation
jusqu’à nos jours (Giai thoại Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha từ thời lập quốc cho đến
ngày nay) (1773), Anecdotes Américaines (Giai thoại Hoa Kỳ) (1776),... Cũng theo
Gossman, ở Hoa Kỳ, trong khoảng thời gian từ 1750 đến 1830, danh mục của thư viện
Firestone, Đại học Princeton liệt kê hơn 200 đầu sách được xuất bản với các tiêu đề có
liên quan đến giai thoại. Ví dụ, Anecdotes Africaines (Giai thoại Châu Phi), Anecdotes
Américaines (Giai thoại Hoa Kỳ),...
Còn ở nước Anh, thuật ngữ này xuất hiện muộn hơn. Một trong những cuốn sách
giới thiệu giai thoại đầu tiên được xuất bản là quyển Biographical and literary
anecdotes of William Bowyer (Tiểu sử và giai thoại văn học của William Bowyer)
[183] của John Nichols, xuất bản lần đầu vào năm 1782, cả thảy có 6 tập. Đến năm
1812 trở đi, sách này được tái bản lại với các ấn bản khác nhau (7 tập, 9 tập) với tên
gọi khác là Literary anecdotes of the eighteenth century (Giai thoại văn học của thế kỷ
XVIII) [184]. Vào năm 1821, một quyển sách khác với tiêu đề giai thoại cũng đã được
xuất bản, đó là cuốn The Percy anecdotes: Original and select (Giai thoại Percy:
Nguyên bản và chọn lọc) [185] (các ấn bản tiếp theo xuất bản vào các năm 1830, 1868,
1869). Các tập sách được phát hành thành 44 phần hằng tháng, do Sholto và Reuben
Percy sưu tầm, tập hợp những giai thoại đã được đăng tải trên thờ báo The Star trong
nhiều năm.
Quyển sách trên cũng được phát hành ở Mỹ với những ấn bản khác. Ví dụ, The
Percy anecdotes, revised edition: To which is added, a valuable collection of
American anecdotes, original and select (Giai thoại Percy, ấn bản sửa đổi: Có bổ
sung, một bộ sưu tập có giá trị của các giai thoại Hoa Kỳ, nguyên bản và chọn lọc)
(New York: Harper & Brothers, 1838) [186]; The Percy anecdotes: To which is added
a valuable collection of American anecdotes, original and select (Giai thoại Percy: Có
bổ sung thêm một bộ sưu tập có giá trị về các giai thoại Hoa Kỳ, nguyên bản và chọn
lọc) (New York: Harper & Brothers, 1845);...) [187].
Ở trên, chúng tôi vừa điểm qua nguồn gốc của thuật ngữ giai thoại cũng như vấn
đề giới thiệu tác phẩm giai thoại ở một số nước châu Âu, Hoa Kỳ. Đến đây, luận án sẽ
7
điểm qua vài nét về quan niệm giai thoại trong một số từ điển cũng như một số nhà
nghiên cứu trên thế giới. Nhìn chung, hầu hết các tác giả đều ít nhiều nhấn mạnh đến ý
nghĩa gốc của giai thoại – tính chất “chưa được công bố” của nó. Theo Tamarchenko,
Từ điển tiếng Anh (1775) của Samuel Johnson từng giải thích: “Giai thoại là câu
chuyện chưa được công bố”, có nghĩa, đó là chuyện riêng tư của nhân vật quan
phương” [132]. Còn Từ điển Oxford cũng định nghĩa giai thoại là: “Những câu
chuyện hoặc chi tiết lịch sử bí mật, riêng tư hoặc cho đến nay chưa được công bố cũng
như câu chuyện về một sự việc tách rời, hoặc về một sự kiện đơn lẻ, được xem là thú vị
hoặc nổi bật” (Dẫn theo Gossman, “Giai thoại và lịch sử”, [179, tr.148]).
Tác giả Nicolaisen – một nhà nghiên cứu văn hóa dân gian người Đức trong bài
viết Giai thoại (Anecdote) ngoài việc nhấn mạnh đến nét nghĩa “chưa công bố”,
“không được nói ra”, còn chỉ ra tính chất “sự cố có tính đại diện cho cá nhân hoặc
cộng đồng” của giai thoại. Tác giả viết: “Giai thoại là những truyện kể tập trung vào
các sự cố có tính đại diện cho cá nhân hoặc cộng đồng được nêu đích danh”. Do từ
nguyên của thuật ngữ này đã ám chỉ nghĩa “những chuyện chưa được công bố” (tiếng
La tinh Anecdota) và cũng có nghĩa “không được nói ra” (mượn từ khái niệm
Anekdotos của Hy Lạp) nên giai thoại có mối quan hệ gần với truyền thống truyền
miệng” [107]. Còn tác giả Lionel Gossman trong bài viết Giai thoại và lịch sử
(Anecdote and history), ở mục IV. Thời điểm được sử dụng của giai thoại, đã chỉ ra
hai nét nghĩa quan trọng của giai loại là: 1. Bất kỳ tác phẩm nào, thuộc thể loại nào
chưa được xuất bản và 2. Giai thoại là “lịch sử bí mật” (hay mật sử) [179].
Như vậy, quan niệm về giai thoại của các nhà nghiên cứu ở Châu Âu nổi lên hai
điểm đáng chú ý: 1. Giai thoại là những câu chuyện chưa được công bố; 2. Giai thoại
là lịch sử bí mật. Dù xuất hiện từ khá sớm trong văn hóa châu Âu, nhưng không phải
ngay từ lúc đầu, giai thoại đã được các nhà nghiên cứu quan tâm đúng mức. Bởi lẽ,
giai thoại có thực sự là một thể loại hay không vẫn còn là một câu hỏi lớn vào thời
điểm xuất hiện của nó. Ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII, giai thoại chủ yếu được nhìn
nhận ở khía cạnh văn học và lịch sử. Một trong những luận án đầu tiên ở châu Âu trực
tiếp bàn về giai thoại là công trình A dissertation on Anecdotes (Luận văn về giai
thoại, 1793) [172] của Isaac D’Israeli – một tác giả người Anh (gốc Do Thái). “Trong
đó, ông thể hiện sự quan tâm của mình đối với lịch sử giai thoại. Ông viết về nguồn
gốc và bản chất của giai thoại và cho rằng chúng không chỉ là một phần thú vị của
văn học mà còn cung cấp một số sự thật nhất định về con người và thời đại của họ.
“Những giai thoại – ông ấy viết – là những phần dễ hiểu nhất của lịch sử” (Dẫn lại từ
8
bài giới thiệu “Isaac D’Israeli's Literary Works” (Tác phẩm văn học của Isaac
D’Israeli), The Victorian Web, http://www.victorianweb.org/, [171]). Như vậy, từ cuối
thế kỷ XVIII, giai thoại đã được chú ý ở góc độ văn học và lịch sử. Và chính những
gợi ý của tác giả trong công trình này đã có ít nhiều tác động đến hướng nghiên cứu
giai thoại ở các giai đoạn về sau.
Khuynh hướng thứ hai xác lập sự tồn tại của thể loại giai thoại ở châu Âu là sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu folklore. Ở khuynh hướng này, giai thoại được xem
là một thể loại của tự sự dân gian (hoặc là một tiểu loại của cổ tích) qua quan niệm của
các nhà nghiên cứu nổi tiếng như Aarne (The types of the folklore: A classitification
and bibliography, Các loại truyện dân gian: Phân loại và thư mục, 1910) [169]; V.
Propp (Folklore và thực tại – 1963) [44]; Guxev (Mỹ học folkore, 1967) [51];...
Khuynh hướng thứ ba trong nghiên cứu về giai thoại là khuynh hướng nghiên
cứu mối quan hệ giữa giai thoại và lịch sử của trường phái Chủ nghĩa Lịch sử Mới.
Trường phái này xuất phát từ nước Pháp, sau đó lan tỏa sang các nước châu Âu cũng
như Hoa Kỳ. Theo Lionel Gossman (“Giai thoại và lịch sử” [179]), ở Đức, từ giữa thế
kỷ XIX, đã có hàng loạt những công trình bàn về mối quan hệ giữa giai thoại và lịch
sử. Tiêu biểu có thể kể ra là: Lý thuyết giai thoại Đức (in trong Câu chuyện ngắn, hình
thức và sự phát triển của chúng, Klaus Doderer, 1953); Giai thoại – phản giai thoại:
Về sự thay đổi của một hình thức văn học hiện nay (Water Ernst Schäfer, 1977); Giai
thoại: Lý thuyết, phân tích, biện chứng (Rudolf Schäfer, 1982); Giai thoại (Heinz
Grothe, 1984); Giai thoại – câu chuyện khác (Volker Weber, 1993); Kể chuyện giai
thoại trong thời đại Khai sáng: Về sự thay đổi cấu trúc và chức năng thể loại trong sử
học, báo chí và văn học thế kỷ XVIII (Sonja Hilzinger, 1997),...
Đến những năm 80 thế kỷ trước, trường phái này có những tác động đến giới
nghiên cứu Hoa Kỳ, trong đó có thể kể ra một số tác giả tiêu biểu như Stephen
Greenblatt, Joel Fineman, April London, Jane Gallop,... Một trong những bài viết tiêu
biểu và quan trọng nhất, góp phần đặt nền móng cho lý thuyết về giai thoại của Chủ
nghĩa Lịch sử Mới là bài viết The history of the Anecdote: Fiction and fiction (Lịch sử
của giai thoại: Hư cấu và hư cấu, in trong The New Historicism, 1989) [176] của tác
giả Joel Fineman.
Quan điểm cốt lõi của trường phái Chủ nghĩa Lịch sử Mới là các tác giả thừa
nhận và tập trung sự chú ý vào yếu tố lịch sử của giai thoại (sự kiện, nhân vật, thời
đại,...). Theo đó, các nhà nghiên cứu nhấn mạnh vào tính chất ngẫu nhiên của tình
huống: “Các giai thoại sau đó là một trong những sản phẩm chính của công nghệ đại
9
diện cho một nền văn hóa, trung gian giữa sự liên tiếp không phân biệt của các
khoảnh khắc địa phương và một chiến lược lớn hơn mà họ chỉ có thể thực hiện. Chúng
(tức các giai thoại – chúng tôi nhấn mạnh) bị cuốn theo vòng xoáy của kinh nghiệm và
được tạo ra một số hình dạng, một hình dạng mà tạm thời vẫn đánh giá đó là ngẫu
nhiên – nếu không, chúng tôi sẽ đặt cho chúng một cái tên lớn hơn, hay hơn của lịch
sử – nhưng cũng chỉ để chúng có thể được kể lại mà thôi” (Những điều kỳ diệu,
Stephen Greenblatt, 1991, tr.3). (Dẫn theo Paul Fleming, “The perfect story: Anecdote
and exemplarity in Linnaeus and Blumenberg”, Câu chuyện hoàn hảo: Giai thoại và sự
mẫu mực ở Linnaeus và Blumenberg, [177]).
Ngoài hai hướng nghiên cứu giai thoại trong mối quan hệ với văn học dân gian
và lịch sử nói trên thì cũng có hướng nghiên cứu khác. Đó là đặt giai thoại trong mối
quan hệ với văn học viết và văn hóa học. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu mối quan hệ
giữa giai thoại và văn học viết là tác giả Richard Coe (Úc) với bài viết The anecdote
and the novel: A brief inquiry into the origins of Stendhal’s narrative technique (Giai
thoại và tiểu thuyết: Một nghiên cứu ngắn gọn về nguồn gốc nghệ thuật tự sự của
Stendhal, 1985) [170]. Các nhà nghiên cứu phương Tây quan niệm giai thoại như là
chất liệu để các nhà văn có thể dựa vào đó mà sáng tác nên những tác phẩm văn học
như tiểu thuyết, truyện ngắn, tự truyện,... Tiêu biểu cho khuynh hướng này là cuốn Lý
thuyết giai thoại (Anecdotal theory, Duke University Press, 2002) [178] của Jane
Gallop. Đây là một tác phẩm độc đáo, được viết theo lối tự truyện, trong đó Gallop
(một nhà nghiên cứu theo trường phái nữ quyền của Hoa Kỳ) kể lại các câu chuyện
của đời mình. Bà soi chiếu những câu chuyện đó bằng lý thuyết phân tâm học của
Freud, Lacan và từ đó khái quát nên lý thuyết về giai thoại. Gần đây, cũng xuất hiện
một hướng nghiên cứu hoàn toàn mới mẻ, mang tính chất liên ngành về giai thoại. Đó
là công trình The use of the anecdote in the critical study of aboriginal literature
(2009) [182] (Vấn đề sử dụng giai thoại trong nghiên cứu phê bình văn học thổ dân)
của tác giả Robyn Moore. Trong công trình này, tác giả đề xuất áp dụng một số lý
thuyết như bối cảnh, văn hóa học,... để có thể tiếp cận và lý giải văn học thổ dân thông
qua thể loại giai thoại được lưu truyền trong cộng đồng của người bản địa.
Trên đây, chúng tôi vừa điểm qua quan niệm, tư liệu và một số hướng nghiên cứu
tiêu biểu về giai thoại ở một số nước trên thế giới. Sau đây, luận án xin điểm qua vài
nét sơ lược về quan niệm giai thoại cũng như tình hình nghiên cứu giai thoại ở một số
nước phương Đông, tiêu biểu là Trung Quốc và Việt Nam. Ở Trung Quốc, thuật ngữ
giai thoại thường được hiểu theo nghĩa chiết tự. Giai có nghĩa là đẹp, thoại là câu
10
chuyện. Như vậy, giai thoại hiểu theo nghĩa chung nhất là những câu chuyện đẹp, thú
vị. Thuật ngữ giai thoại đã được sử dụng khá lâu. Theo tư liệu của PGS Vũ Ngọc
Khánh, từ thời Đường – Tống, thuật ngữ này đã được sử dụng để đặt tên cho những
quyển sách tập hợp những câu chuyện xoay quanh các văn nhân, thi sĩ dưới các tiêu đề
văn thoại, thi thoại, nhưng chưa thấy nêu vấn đề lý thuyết thể loại. Ở Việt Nam, từ thời
phong kiến, thuật ngữ giai thoại mặc dù chưa được sử dụng một cách chính thức
nhưng nếu căn cứ vào tính chất bên lề, phi chính thống, tính chất chuyện vặt của nó,
thì có thể xem một số truyện trong các sách như: Công dư tiệp ký (Vũ Phương Đề),
Kiến văn tiểu lục (Lê Quý Đôn), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh), Tang thương ngẫu
lục (Nguyễn Án, Phạm Đình Hổ),... cũng đã mang dáng dấp của những câu chuyện
giai thoại. Các sách Truyện đời xưa (1866), Chuyện khôi hài (1882) của học giả
Trương Vĩnh Ký đã ghi một số văn bản kể có tính chất giai thoại (văn học) như: Răng
cắn lưỡi, Học trò sửa liễn cửa ngõ phủ ông hoàng, Câu đối có chí khí,...
Theo tư liệu của PGS Vũ Ngọc Khánh (nêu trong phần Tiểu luận Kho tàng giai
thoại Việt Nam và Giai thoại folklore Việt Nam), thì trong 45 năm đầu của thế kỷ
trước, tình hình sưu tầm, giới thiệu giai thoại chỉ phát triển khi chữ quốc ngữ thịnh
hành, vào thập niên ba mươi trở đi. Tác giả viết: “Rải rác trên những cuốn hợp tuyển
văn học, đặc biệt là cuốn Văn đàn bảo giám của Trần Trung Viên, in và tái bản những
năm đầu của thập niên ba mươi, ghi chép được nhiều chuyện thú vị trong đối đáp văn
chương nhưng cũng không dùng tiêu đề giai thoại (...). Vào khoảng từ 1940 trở đi,
chính thức được mang tên là giai thoại là cuốn Việt sử giai thoại, gồm những tiểu
luận (có cả phần tường thuật và khảo cứu) và một số hiện tượng (hay sự kiện) lịch sử
đặc biệt của nước nhà hồi đầu thế kỷ XIX. Cùng lúc đó, có những cuốn sách thuật lại
những mẩu chuyện cũ, có tính cách giai thoại như tập san viết riêng để tưởng nhớ Tản
Đà, hoặc như tập Người xưa (Việt Thường), song vẫn không thấy quyển nào mang tên
là giai thoại” [91, tr.13 – 14].
Qua ý kiến trên của PGS Vũ Ngọc Khánh, có thể thấy các vấn đề sau: 1. Thuật
ngữ giai thoại được dùng rất hạn chế ở nửa đầu thế kỷ trước, mặc dù, về tính chất,
những quyển sách giới thiệu có thể đã tập hợp những mẩu chuyện là giai thoại; 2. Chỉ
có công trình Việt sử giai thoại của Đào Trinh Nhất là sử dụng giai thoại với tư cách
một thuật ngữ chính thức. Tuy nhiên, trong phần tựa quyển sách này, tác giả Ứng Hòe
Nguyễn Văn Tố (người giới thiệu quyển sách) cũng không bàn về thể loại mà chỉ nêu
một cách vắn tắt ý nghĩa của thuật ngữ giai thoại như sau: “Người ta gọi giai thoại là
việc tốt, chuyện hay thường truyền tụng ở dân gian. Sách làm ngày xưa cũng có một
11
quyển đề là “Tùy Đường thi thoại”, chép những chuyện hay trong đời Tùy Đường.
Theo nghĩa chữ Pháp thì giai thoại (anecdotes) là chuyện vặt, chuyện dật sử, có cái
không đáng tin” (Lời giới thiệu Việt sử giai thoại).
Còn về sách giới thiệu giai thoại như một thể loại độc lập, từ thập niên 60 thế kỷ
trước, ở nước ta có hai công trình chính thức dùng thuật ngữ giai thoại để định danh
đối tượng. Đó là công trình Giai thoại văn học Việt Nam của Hoàng Ngọc Phách, Kiều
Thu Hoạch (với lời giới thiệu của Trần Thanh Mại, hoàn thành năm 1963, xuất bản
năm 1965) và công trình Giai thoại làng Nho của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc (xuất bản
lần đầu vào năm 1963, với lời tựa của Đoàn Thêm). Trên lĩnh vực báo chí, thuật ngữ
giai thoại được chính thức sử dụng với hình thức ghi thành tiểu mục hoặc thành lời chú
thích dưới các đề tài trên các báo Quốc ngữ thì phải đến giai đoạn 1865 – 1965 như:
Khuyến học, Nước Nam, Tiếng dân, Tri Tân,…
Ở các phần trên, chúng tôi chủ yếu xem quan điểm của các nhà nghiên cứu giai
thoại trong và ngoài nước như một tiền giả định khoa học mà chưa đi sâu khảo sát nội
hàm khái niệm thể loại để định vị nó trong hệ thống tự sự dân gian. Sau đây, xin đi sâu
vào vấn đề này. Thực ra, việc viện dẫn lý thuyết thể loại của các nhà nghiên cứu giai
thoại ở Việt Nam đều ít nhiều dựa vào hệ lý thuyết của thế giới. Để đi đến một khái
niệm về thể loại, xin đi vào một số cách tiếp cận giai thoại qua sự phân hóa thành 4
khuynh hướng cơ bản:
- Xem giai thoại như một thể loại tự sự dân gian;
- Xem giai thoại như một thể loại trung gian giữa văn học dân gian và văn học
viết;
- Xem giai thoại là một thể loại của văn học viết;
- Xem giai thoại là một thể loại tổng hợp.
1.1.1.1. Khuynh hướng xem giai thoại là thể loại thuộc văn học dân gian
Khuynh hướng xem giai thoại là thể loại thuộc văn học dân gian phân hóa thành
các nhánh: xem giai thoại như một bộ phận của cổ tích và xem giai thoại là một thể
loại độc lập, có vị trí tương đương với các thể loại khác trong tự sự dân gian.
a. Khuynh hướng xem giai thoại là một bộ phận của cổ tích
Khuynh hướng này chủ yếu xuất hiện ở Nga. Một số nhà nghiên cứu Nga xem
giai thoại tương đương với truyện cười và xếp nó vào tiểu loại cổ tích sinh hoạt. Trong
đó, tiêu biểu nhất là quan niệm của V. Ja Propp. Ở công trình Folklore và thực tại,
trong phần Cơ cấu thành phần thể loại, khi bàn về cổ tích sinh hoạt, học giả người
Nga xem giai thoại như một bộ phận của cổ tích sinh hoạt. Theo ông: “Nói về cổ tích
12
sinh hoạt hay truyện cổ tích hiện thực, cần phải đề cập tới vấn đề giai thoại (…). Theo
ý chúng tôi, nó không phải là một loại hình riêng của sáng tác dân gian, khác biệt với
loại truyện cổ tích đoản thiên về con người (…). Nghiên cứu kĩ càng hơn nữa những
truyện cổ tích sinh hoạt về con người, thì có thể khẳng định được rằng trong folklore
không có ranh giới giữa truyện cổ tích sinh hoạt về con người và truyện giai thoại. Có
chăng thì cũng chỉ có thể xếp giai thoại thành một tiểu loại riêng trong truyện cổ tích
sinh hoạt” [44, tr.325].
b. Khuynh hướng xem giai thoại là thể loại độc lập
Khuynh hướng xem giai thoại là thể loại độc lập thuộc văn học dân gian lại chia
thành 2 nhánh: 1. Đặt giai thoại trong truyện hài hước (truyện cười) và 2. Tách giai
thoại ra khỏi truyện hài hước. Quan điểm đặt giai thoại bên cạnh truyện hài hước có
thể tìm thấy ở trường phái Phần Lan và một số nhà folklore học hiện đại của Mỹ. Còn
nhánh thứ hai chủ yếu xuất hiện ở các nhà nghiên cứu người Nga.
Khuynh hướng đặt giai thoại trong truyện hài hước (truyện cười)
Ở trường phái Phần Lan, trong công trình The types of the folklore: A
classitification and bibliography (Các loại truyện dân gian: Phân loại và thư mục)
động vật, II. Truyện dân gian thông thường và III. Truyện hài hước. Trong đó, giai thoại
được xếp vào loại truyện hài hước cùng với truyện cười (mục III. Jokes and
(1910), Aarne đã phân loại truyện kể dân gian theo chủ đề, gồm 3 loại lớn là: I. Truyện
Anecdotes, Truyện cười và Giai thoại,) [169, tr.374]. Còn ở Mỹ, Alan Dundes, một
trong những học giả folklore nổi tiếng của Hoa Kỳ, trong bài viết Who are the folk?
(Ai là người sáng tác văn hóa dân gian?, in trong cuốn Interpreting Folklore (Lý giải
Folklore), Indian University – Bloomington, 1980) cũng có cùng quan điểm như
Aarne khi ông đặt giai thoại (Anecdotes) trong hệ thống truyện cười (Jokes) [175].
Khuynh hướng tách giai thoại ra khỏi truyện hài hước (truyện cười)
Guxev trong công trình Mỹ học folklore (1967) xem giai thoại như một thể loại
độc lập thuộc tự sự dân gian sau khi so sánh và phân biệt so với những nhóm khác:
“Chúng tôi tách giai thoại ra khỏi cổ tích sinh hoạt và cổ tích trào phúng (loại này dĩ
nhiên có thể mang những yếu tố giai thoại), vì nó có một số đặc điểm cho phép nó như
một thể loại độc lập. Chúng tôi gọi là giai thoại tác phẩm tự sự trào phúng hoặc hài
hước, được xây dựng trên một tình tiết có sự tăng tiến đến điểm cao, biểu hiện rõ rệt
và kết thúc bất ngờ” [51, tr.233]. Như vậy, nguyên nhân khiến Guxev tách giai thoại
ra khỏi cổ tích là do tính trào phúng và hài hước của nó. Soi chiếu quan niệm ấy vào
tình hình giai thoại Việt Nam, có thể thấy vì sao các nhà nghiên cứu nước ta từ trước
13
tới nay vẫn cho rằng đó là truyện cười.
Một số nhà nghiên cứu khác ở Nga cũng trình bày ý kiến về thể loại này. Nhìn
chung, các ý kiến vẫn thiên về tính hài, trào phúng. Gipkop cho rằng: “Giai thoại là
một truyện kể ngắn gọn và bất ngờ, là một sản phẩm chân chính của các nhà trào
phúng” (Những giai thoại về Khotgia) (Dẫn theo [91, tr.12]). Davlevtop cũng khẳng
định: “Cái gì đã tạo ra bản chất của giai thoại, của các hình thức quan trọng và phổ
biến nhất? Cũng dễ quan niệm rằng bản chất đó dẫn đến sự biểu thị có tính hài hước
của một cái mâu thuẫn duy nhất trong cuộc sống. Trong giai thoại, không có cái gì
ngoài cái đó” (Sáng tác dân gian, một loại hình nghệ thuật) (Dẫn theo [91, tr.12]).
Trong các quan niệm trên, quan niệm của Guxev có ảnh hưởng nhất định đến các nhà
nghiên cứu Việt Nam, tiêu biểu là Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch. Các tác giả này
đã tiếp thu định nghĩa trên (về giai thoại) của Guxev để triển khai luận điểm: Giai
thoại là một thể loại độc lập thuộc văn học dân gian.
Ở Việt Nam, nhà nghiên cứu khẳng định giai thoại là thể loại văn học dân gian
sớm nhất là Cao Huy Đỉnh (tuy ông chưa lý giải vấn đề). Trong công trình Tìm hiểu
tiến trình văn học dân gian, ông nhận định như sau: “Chung quanh Tô Hiến Thành,
Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu,… và sau này có Nguyễn Trãi nữa,
nhân dân có những lời ngợi khen, mến phục hoặc tin tưởng tự hào. Tiểu sử của những
ông quan như thế thường lẫn lộn với tình tiết hư cấu trùng lặp về “các nhân tài nước
Nam” và trở thành giai thoại” [36, tr.53]. Nghĩa là giai thoại về các danh nhân lịch sử
do lòng ái mộ, tôn vinh của nhân dân đã kéo các huyền thoại về với giai thoại.
Trong hai công trình khá đồ sộ giới thiệu về giai thoại là Kho tàng giai thoại Việt
Nam (2 tập) và Giai thoại folklore Việt Nam, xuất phát từ góc nhìn folklore, cũng như
tiếp thu định nghĩa giai thoại của Guxev, Vũ Ngọc Khánh đã xem giai thoại như một
thể loại tự sự dân gian. Tác giả cho rằng không thể hiểu được giai thoại nếu ta không
đặt nó vào trong môi trường sinh hoạt văn hóa của nhân dân thời phong kiến. Theo
ông: “Nhân vật lịch sử hay tác gia văn học được xem chấp nhận thành nhân vật dân
gian. Tác phẩm văn học bác học được xem như tác phẩm dân gian và có thể sống
trong quần chúng, cùng với ca dao, câu đố, truyện nôm, tuồng, chèo” [91, tr.18]. Qua
ý kiến trên, ta thấy Vũ Ngọc Khánh muốn nhấn mạnh đến quá trình dân gian hóa một
nhân vật quan phương (trong văn học và lịch sử) và dân gian chính là cầu nối đưa văn
học bác học về với giai thoại.
Mặc dù không đưa ra một định nghĩa về giai thoại nhưng Vũ Ngọc Khánh cũng
lưu ý về sự khác biệt về nội hàm giữa giai thoại phương Đông và phương Tây, ông
14
viết: “Thuật ngữ này là dùng theo ngôn ngữ Trung Quốc, có nghĩa là câu chuyện đẹp.
Câu chuyện – thoại – là một chuyện! Chuyện thì có chuyện dài, chuyện ngắn, chuyện
giàu hoặc ít tình tiết lại và chủ yếu được kể bằng lời. Chúng ta đã quan niệm giai
thoại là tương đương với thuật ngữ anecdotes của phương Tây. Anecdotes không phải
là câu chuyện, mà là mẩu chuyện. Mẩu chuyện này bao giờ cũng ngắn, có khi rất
ngắn” [91, tr. 9 – 10]. Theo cách hiểu của Vũ Ngọc Khánh, rõ ràng, khó thể áp dụng
thuật ngữ anecdotes của phương Tây vào tình hình giai thoại ở nước ta. Nói cách khác,
không thể xem dung lượng như một tiêu chí xác đáng để xác định thể loại.
Gần với quan niệm của Vũ Ngọc Khánh, trong công trình Giai thoại văn học Việt
Nam [67], Kiều Thu Hoạch cũng xem giai thoại là thể loại độc lập thuộc tự sự dân
gian. Ở phần Khái luận, tác giả viết: “Về cơ bản và trên đại thể, chúng tôi đồng tình
với lập luận của Vũ Ngọc Khánh; tuy nhiên, có một số điểm chúng tôi nhận thấy cần
làm sáng rõ hơn” [67, tr.25]. Theo đó, Kiều Thu Hoạch đã dẫn chứng rất nhiều ca dao,
tục ngữ có chứa yếu tố Hán Việt để chứng minh rằng: văn học dân gian không chỉ là
sáng tác của người bình dân mà còn là sáng tác của những người biết chữ nghĩa và
tầng lớp trí thức. Ở một chỗ khác, tác giả cũng khẳng định: “Chúng ta đã thấy rõ giai
thoại là các sáng tác folklore, là văn học dân gian, mà các tác giả nước ngoài có
người còn gọi rõ là giai thoại dân gian” [67, tr.29]. Trên cơ sở quan niệm như vậy,
Kiều Thu Hoạch đã đưa ra định nghĩa của ông về giai thoại như sau: “Giai thoại vốn
là một thuật ngữ gốc Hán. Giai có nghĩa là hay, đẹp, thoại là câu chuyện kể. Như vậy
giai thoại là câu chuyện kể hay, đẹp, mà lâu nay giới nghiên cứu vẫn coi thuật ngữ
này tương đương với anecdotes của phương Tây” [67, tr.23]. Ninh Viết Giao qua phần
tổng thuật tư liệu về giai thoại trong Giai thoại xứ Nghệ cũng khẳng định giai thoại là
một thể loại của văn học dân gian. Tác giả cho rằng: “Giai thoại là những văn bản
đẹp, hay, ngắn, gọn, vui, thú vị, có khả năng gây cho người nghe, người đọc một cảm
giác thoải mái, sảng khoái, nhẹ nhàng, trong đó ẩn giấu một suy nghĩ, một tính cách,
một thái độ… của nhân vật nào đó” [48, tr.307].
Như vậy, ở Việt Nam, khuynh hướng xem giai thoại là thể loại độc lập của văn
học dân gian dựa trên cơ sở tổng hợp tư liệu, đánh giá tình hình từ các nhà nghiên cứu.
Dù tiếp thu định nghĩa của các tác giả nước ngoài nhưng các tác giả Việt Nam không
rập khuôn áp dụng mà vẫn căn cứ vào tình hình thực tiễn giai thoại Việt Nam để khái
quát. Chẳng hạn, giai thoại trong quan niệm của Guxev là thiên về hài hước, trào
phúng (tương đương với truyện cười ở Việt Nam), còn giai thoại Việt Nam, đúng như
nhận xét của Vũ Ngọc Khánh và Kiều Thu Hoạch thì không chỉ có tính hài mà còn có
15
cả sự nghiêm túc, thậm chí bi ai, nghĩa là có nhiều sắc thái, cung bậc.
1.1.1.2. Khuynh hướng xem giai thoại là thể loại trung gian giữa văn học dân
gian và văn học viết
Khuynh hướng xem giai thoại là thể loại trung gian giữa văn học dân gian và
văn học viết cũng khá phổ biến. Ta có thể tìm thấy khuynh hướng này ở Nga, Đức
(qua quan niệm của Tamarchenko và Nicolaisen) và ở Việt Nam (qua quan niệm của
các nhà biên soạn từ điển). Quan niệm của Tamarchenko được trình bày trong bài viết
Giai thoại là gì?. Đây là bài viết mang tính tổng quát về khái niệm cũng như đặc trưng
thể loại của giai thoại. Theo đó, về khái niệm giai thoại, Tamarchenko nhấn mạnh đến
tính chất lưỡng diện, vừa là văn học dân gian, vừa là văn học viết của giai thoại. Ông
viết như sau: “Giai thoại có hai nét nghĩa: 1. “Câu chuyện lưu truyền rộng rãi trong
dân gian, thuật lại một cách ngôn lí thú, một cảnh độc đáo, hay một trang tiểu sử
riêng tư của một nhân vật lịch sử” (M. Petrovski). 2. Thể tự sự cỡ nhỏ nửa truyền
miệng, bán văn học, đặc điểm nổi bật của nó là mô tả các nhân vật hành động một
cách hàm súc, sơ lược, tập trung vào một tình huống được suy ngẫm lại, đánh giá lại
bằng cách thay đổi hoàn toàn điểm nhìn (“point”, bước ngoặt, đột biến). Ở cả phía
đối tượng của sự kể (đời sống riêng tư của nhân vật lịch sử, tức là nhân vật quan
phương, hoặc một trường hợp nào đó rút ra từ đời sống của những người bình
thường), lẫn ở phía chức năng, tức là ở cả hai ý nghĩa của thuật ngữ, giai thoại là thể
loại không chính thức: vì thế, truyện kể bao giờ cũng mang tính phi văn học, nó là thứ
“văn học rỉ tai, bí mật” (E. Kurganov)...” [132].
Trong luận giải này, chúng ta có thể chú ý một số điểm nhấn quan trọng về mặt
nội hàm: 1. Câu chuyện với tính chất như một cảnh – một tình huống độc đáo mang
tính chất riêng tư của nhân vật; 2. Tình huống được đánh giá lại bằng cách thay đổi
hoàn toàn điểm nhìn của người tiếp nhận về nhân vật quan phương; 3. Giai thoại là thể
loại không chính thức, là “văn học rỉ tai, bí mật”, tức là tác giả nhấn mạnh đến tính
chất phi chính thống của giai thoại đặt trong sự đối sánh ngầm với văn học chính
thống. Chúng tôi sẽ trở lại nhận xét một cách cụ thể hơn ý kiến này ở phần đặc điểm
của giai thoại.
Lưu ý đến tính chất trung gian, vừa mang những đặc điểm của văn học dân gian
vừa có xu hướng trở thành một thể loại của văn học viết, tác giả Nicolaisen nhấn
mạnh: “Bất chấp sự phổ biến của giai thoại trong truyền thống truyền miệng, các nhà
nghiên cứu dân gian hầu như ít chú ý đến nó (tức giai thoại – chúng tôi nhấn mạnh)
như một thể loại độc lập. Nên không có gì đáng ngạc nhiên, với sự giống nhau sâu sắc
16
về mặt cấu trúc với truyện ngắn, giai thoại cũng đã trở thành một thể loại văn học
được gọt giũa” [107].
Ở Việt Nam, trong Từ điển Văn học (Bộ mới) (Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi,
Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (Chủ biên)), ở mục giai thoại, các tác giả định nghĩa thể
loại như sau: “Một thể loại chuyện kể truyền miệng, lưu truyền chủ yếu trong giới nhà
văn và lớp công chúng ưa thích thơ văn, nhất là những người có hiểu biết Hán học và
văn chương chữ Hán. Thuật ngữ giai thoại được mượn từ Trung Hoa (thoại: truyện
kể; giai: hay, đẹp, thú vị). Mỗi giai thoại là một truyện kể ngắn gọn, lý thú, xoay
quanh những nhân vật có thực, thường là những danh nhân (…). Tuy vậy giai thoại
vẫn mang tính độc lập như một thể loại độc đáo; nó thuộc về văn chương bác học, gắn
với sinh hoạt văn học thành văn, nhưng lại tồn tại dưới dạng truyền miệng, tức là
dạng thức tồn tại của các truyện kể dân gian” [45, tr.519].
Như vậy, về mặt nội hàm khái niệm, ta thấy sự gặp gỡ giữa quan niệm này với ý
kiến của Tamarchenko ở trên (tính chất nửa truyền miệng, bán văn học của giai thoại).
Trên đại thể, các ý kiến trên có tính thuyết phục riêng. Bởi lẽ, các nhà nghiên cứu đã
bám sát vào thực tế văn bản của giai thoại có nguồn gốc bác học (liên quan đến thơ
văn, câu đối, điển tích, chữ nghĩa,...). Tuy nhiên, nhận định ấy chỉ đúng đối với tiểu
loại giai thoại văn học chứ chưa hẳn phù hợp với các tiểu loại còn lại của giai thoại.
1.1.1.3. Khuynh hướng xem giai thoại là thể loại thuộc văn học viết
Bên cạnh xu hướng trung dung xem giai thoại là thể loại trung gian giữa văn học
dân gian và văn học viết, cũng có khuynh hướng khẳng định giai thoại thuộc lĩnh vực
văn học viết. Khuynh hướng này chỉ xuất hiện ở Việt Nam. Trong công trình Giai
thoại văn học Việt Nam [65], ở phần Tiểu luận, Trần Thanh Mại cho rằng: “Giai thoại
văn học là một thể loại văn học truyền miệng, nhưng trừ một số trường hợp cá biệt,
nói chung thì giai thoại văn học không thuộc phạm vi văn học dân gian (…). Thoại có
nhiều nghĩa nhưng trong trường hợp chúng ta xét đây, thì thoại là một truyện kể ngắn
gọn, nhẹ nhàng, nói chung chỉ gồm những sự việc diễn biến với một vài tình tiết đơn
giản. Giai thoại là một truyện kể nhỏ mà hay, lý thú, có khả năng gây cười cho người
nghe, người đọc một cảm giác vui thích thoải mái một cảm giác sảng khoái nhẹ
nhàng” [65, tr.9].
Trong định nghĩa trên, Trần Thanh Mại đã thừa nhận hình thức truyền miệng của
giai thoại, nhưng vẫn khẳng định giai thoại không phải là văn học dân gian mà là văn
học bác học. Nguyên nhân dẫn đến quan điểm ấy là do tiêu chí về mặt nội dung: mặc
dù có hình thức truyền miệng như các truyện kể dân gian nhưng về mặt nội dung, các
17
truyện kể ấy rất khó để cho người bình dân có thể sáng tác và thưởng lãm bởi tính chất
bác học, chữ nghĩa uyên bác của nó. Tuy nhiên, quan điểm nghiên cứu hiện đại về
folklore cho thấy cách hiểu như vậy là không còn phù hợp nữa. Chẳng hạn, trong bài
viết Ai là người sáng tác văn hóa dân gian, sau khi kể lại một số truyện cười và giai
thoại hiện đại, Alan Dundes cho rằng: “Bây giờ chúng ta có thể thấy sự không phù hợp
của định nghĩa thế kỷ XIX về người sáng tác dân gian là những người mù chữ trong xã
hội có chữ viết (...). Đối với nhà nghiên cứu văn hóa dân gian hiện đại, không có cái
gì là ngược đời khi nói về người sáng tác dân gian thành thị. Có những người sáng tác
dân gian thành thị và cũng có những người sáng tác dân gian nông thôn (...). Chúng ta
là những người sáng tác văn hóa dân gian trong số những người sáng tác văn hóa dân
gian khác” (Ai là người sáng tác văn hóa dân gian, Nguyễn Thị Hiền dịch từ sách
Interpreting Folklore (Lý giải Folklore) của Alan Dundes (đã dẫn nguồn ở trên), dẫn
lại theo Kiều Thu Hoạch, trong phần Khái luận Tổng tập Văn học dân gian người Việt,
Tập 11, Giai thoại văn học Việt Nam, [67, tr.28 – 29]). Thực ra, ngay từ thập niên 60
của thế kỷ trước, trong các giáo trình văn học dân gian ở các trường Đại học (miền
Bắc), các học giả vẫn cho rằng văn học dân gian vẫn có sự tham gia sáng tác của các
tầng lớp có học dần được dân gian hóa. Như vậy, quan niệm sáng tác dân gian thuộc
về các tầng lớp nhân dân dễ chấp nhận hơn.
1.1.1.4. Khuynh hướng xem giai thoại là thể loại tổng hợp
Ở Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh là nhà nghiên cứu đầu tiên xem giai thoại là một
thể loại tổng hợp (Giai thoại folklore Việt Nam). Theo ông: “Thể loại này (tức giai
thoại – chúng tôi nhấn mạnh) có đặc tính bao trùm và ở mỗi phạm trù nó đều có vị trí
của nó. Có thể tìm giai thoại trong văn chương bác học, trong văn học dân gian, trong
lịch sử và trong nhiều lĩnh vực khác. Ở mỗi nơi có thể có mặt, đồng thời nó lại có
những tính chất chung (mixte), đa thanh, rất phong phú” [91, tr.64]. Theo đó, giai
thoại thuộc ba lĩnh vực cơ bản là văn học, lịch sử và folklore (chữ dùng của tác giả).
Dù là thể loại mang tính tổng hợp, gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng như đã trình
bày, trên đại thể, Vũ Ngọc Khánh vẫn xem giai thoại là một thể loại độc lập của văn
học dân gian.
Gần đây, trong công trình mới nhất nghiên cứu về giai thoại là Luận về giai thoại
(2016), Triều Nguyên đã tiếp thu quan niệm giai thoại là một thể loại tổng hợp (của
Vũ Ngọc Khánh). Tuy nhiên, Triều Nguyên không xem giai thoại là một thể loại văn
học dân gian thuần túy mà đưa ra quan điểm: giai thoại là một thể loại tổng hợp (gồm
3 lĩnh vực là lịch sử, văn học và văn hóa dân gian). Trên đại thể, Triều Nguyên cho
18
rằng quan niệm giai thoại thuộc về văn học dân gian hoặc văn học viết là không hợp
lý. Triều Nguyên đã đưa ra định nghĩa giai thoại như sau: “Giai thoại là một loại hình
văn hóa, dạng tự sự ngắn bằng văn xuôi, có kết cấu thông dụng gồm một sự việc cốt
lõi và các sự việc phụ trợ, nội dung kể về người thật việc thật, bao gồm các lĩnh vực
lịch sử, văn học, và văn hóa dân gian” [115, tr.365]. Tác giả diễn giải định nghĩa trên
như sau:
“– Giai thoại là một loại hình văn hóa, dạng tự sự ngắn bằng văn xuôi: Thuật
ngữ loại hình văn hóa đã bao trùm các loại hình nghệ thuật (được dùng để chỉ những
hình thức tồn tại ổn định của nghệ thuật trong lịch sử, như hội họa, điêu khắc, văn
học, sân khấu, điện ảnh,…) với ý nghĩa bao hàm nghệ thuật, đồng thời cũng bao gồm
trong đó các đối tượng không phải nghệ thuật (như ngôn ngữ, lịch sử, tôn giáo…).
– Dạng tự sự bằng văn xuôi giúp việc khoanh vùng giai để nhận dạng giai thoại;
– Có kết cấu thông dụng gồm một sự việc cốt lõi và các sự việc phụ trợ: Nhằm đề
cập đến một vấn đề quan trọng ở hình thức nghệ thuật của giai thoại là kết cấu;
– Nội dung kể về người thật việc thật, bao gồm các lĩnh vực lịch sử, văn học, và
văn hóa dân gian: Cho thấy nội dung và đồng thời là phương thức thể hiện của giai
thoại, là kể về người thật việc thật (lối hư cấu chỉ có phạm vi hạn chế). Vế này cũng
giới thiệu ba loại giai thoại lớn là giai thoại lịch sử, giai thoại văn học, giai thoại văn
hóa dân gian (mỗi loại lớn này gồm các giai thoại trực thuộc; như giai thoại văn học
có giai thoại văn học viết và giai thoại văn học dân gian…)” [115, tr.365].
Trong định nghĩa trên, tác giả Triều Nguyên không nhắc đến hai đặc điểm của
giai thoại là tính lý thú và tính truyền miệng vì các lý do sau: Tính lý thú là tính chất
có mặt ở hầu hết các thể loại tự sự dân gian (như ngụ ngôn, truyện cười,…) chứ không
riêng gì giai thoại; còn tính truyền miệng chỉ là một trong hai phương thức lưu hành,
bên cạnh phương thức văn bản hóa của văn học dân gian nên đưa vào là không cần
thiết. Như vậy, từng khuynh hướng xem giai thoại thuộc lĩnh vực nào đều có cơ sở
khoa học riêng của nó. Đó có thể là người sáng tác – thưởng thức, nội dung phản ánh,
hình thức lưu truyền, đặc điểm nghệ thuật,… Tuy nhiên, nếu chỉ đặt giai thoại vào
trong một phạm vi cụ thể (chẳng hạn, chỉ thuộc văn học, lịch sử hay văn hóa) vẫn khó
phản ánh chính xác thực tiễn giai thoại trong kho tàng giai thoại Việt Nam. Do vậy,
cần phải xem giai thoại là một thể loại mang tính chất đa diện, thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau, và mỗi lĩnh vực như vậy tương đương với một tiểu loại của giai thoại (như
quan niệm của Vũ Ngọc Khánh) thì mới có thể bao quát hết được tính chất đa diện và
phong phú của thể loại. Cố nhiên, từng tiểu loại của giai thoại không thể nào tồn tại
19
một cách độc lập tuyệt đối, mà sẽ có những vùng chồng lấn, xuyên thấm, thậm chí
chuyển hóa cho nhau. Đây cũng là quy luật vận động của các thể loại tự sự nói chung.
1.1.2. Đặc điểm thể loại của giai thoại
Các nhà nghiên cứu Việt Nam đã tập trung nhấn mạnh một số đặc điểm của giai
thoại gồm: tính dân gian và tính bác học (xét trong mối quan hệ với văn học); tính hư
cấu; tính sai lệch (xét trong mối quan hệ với lịch sử); tính lý thú; tính đối thoại (xét về
mặt tình huống của giai thoại),... Theo chúng tôi, tính lý thú; tính đối thoại dù là đặc
điểm dễ nhận thấy của giai thoại nhưng nó cũng xuất hiện trong hầu hết các thể loại tự
sự dân gian khác (có chăng là ở giai thoại, sự lý thú được thể hiện qua tình huống đối
đáp bằng văn chương, thơ phú; qua ứng xử của các nhân vật trong các huống cảnh cụ
thể,…). Do vậy, nếu xem đây là đặc trưng thể loại thì có lẽ chưa thực sự thuyết phục.
Do đó, việc quan trọng cần phải giải quyết là lý giải những tác động của văn học, lịch
sử, văn hóa lên giai thoại để từ đó hình thành các đặc trưng cho thể loại.
Còn các nhà nghiên cứu trên thế giới, khi bàn về bản chất thể loại của giai thoại
đã tập trung sự chú ý vào một điểm, có thể được xem như đặc điểm thể loại quan trọng
của giai thoại (dù không phải tất cả giai thoại đều có tính chất này). Đó là tính phản
biện của giai thoại. Tính chất này có thể hiểu như sau: đối lập với quan niệm chính
thống, giai thoại đưa ra cách đánh giá mới mẻ về nhân vật quan phương, khiến cho
quan niệm truyền thống, phổ biến về người nổi tiếng trở nên bị lung lay. Sau đây, luận
án sẽ điểm qua một số quan niệm của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cũng như trên
thế giới về đặc điểm thể loại của giai thoại.
1.1.2.1. Tính lý thú của giai thoại
Tác giả Kiều Thu Hoạch trong phần Khái luận về giai thoại (trong Giai thoại văn
học Việt Nam, Tập 11, Tổng tập Văn học dân gian người Việt) đã nhấn mạnh đến tính
lý thú của giai thoại văn học. Tác giả xem khái niệm này tương đương với thuật ngữ
“kịch tính” mà Guxev từng đề cập khi phân tích giai thoại trong Mỹ học folklore. Nhà
nghiên cứu viết như sau: “Nói riêng về giai thoại văn học thì khi nói đến tính lý thú là
nói một cách toàn diện, đó là tính lý thú ở bản thân thơ văn cũng như tính lý thú ở tình
huống của giai thoại. Nếu chỉ có bài thơ hoặc câu đối lý thú thì vẫn chưa thể thành
giai thoại. Ở đây đòi hỏi phải có tình huống lý thú nữa mới thành một giai thoại.” [67,
tr.31]. Nhận xét trên của Kiều Thu Hoạch là hoàn toàn xác đáng. Bởi lẽ, đối với giai
thoại văn học, thì nội dung văn chương, chữ nghĩa cũng như tình huống dẫn đến sự đối
chọi, ứng biến văn chương của các nhân vật là hồn cốt không thể thiếu của tiểu loại
này.
20
Cùng một ý kiến như trên nhưng Trần Thanh Mại có những kiến giải có phần cụ
thể hơn khi ông đi vào bản chất của những tình huống văn chương. Tác giả cho rằng:
“Nhìn chung mà nói, thơ văn, câu đối trong giai thoại toàn là thơ ứng đáp, đối phó.
Nó là thơ tức cảnh, linh hoạt, biến hóa, làm ngay tại chỗ, đáp ngay tại chỗ, hoặc để
gây cái ấn tượng như thế, vì quả tình có nhiều bài thơ tác giả vô danh đã phải mất
nhiều thời gian mới nghĩ ra. Nó không giống như thơ trữ tình, thơ lãng mạn chính
tông. Yếu tố chính của thơ giai thoại là trào phúng, hài hước, châm biếm; đó là những
yếu tố thích hợp với tính chất vui tươi, lý thú của giai thoại” [65, tr.54].
Theo chúng tôi, nhận xét trên của Trần Thanh Mại không chỉ dúng đối với giai
thoại văn học mà còn đúng cả với tiểu loại giai thoại văn hóa với nhóm giai thoại sinh
hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian của các nghệ nhân dân gian, các nhà nho tài tử. Bởi
lẽ, tình huống cơ bản của nhóm giai thoại sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian vẫn là
tình huống đối đáp tức thời. Do vậy, tình huống khoảnh khắc (hay tình huống tức thời)
có vai trò vô cùng quan trọng trong cách tổ chức cốt truyện của giai thoại nói chung.
Nhìn chung, các tác giả đi trước đều tập trung sự chú ý vào tính lý thú của giai
thoại qua tiểu loại giai thoại văn học, cụ thể là tình huống đối đáp văn chương, chưa
thấy bàn đến tính lý thú (hay sự hấp dẫn) của hai tiểu loại còn lại là giai thoại văn hoá
dân gian và giai thoại lịch sử. Đây rõ ràng là những điểm cần bổ sung thêm mà luận án
đang hướng đến.
1.1.2.2. Tính dân gian và tính bác học của giai thoại
Đây là đường ranh gây nhiều ngộ nhận và tranh luận của các học giả về bản chất
thể loại của giai thoại. Ở Việt Nam, Trần Thanh Mại là người đầu tiên nhấn mạnh đến
tính bác học của giai thoại. Trong phần Tiểu luận công trình Giai thoại văn học Việt
Nam (1965), Trần Thanh Mại cho rằng giai thoại là “một loại văn chương bác học mà
lại truyền miệng” [65, tr.9]. Mặc dù thừa nhận tính chất trên nhưng trong quan niệm
của tác giả, giai thoại vẫn nằm trong phạm vi của văn học viết: “Giai thoại văn học là
một thể loại văn học truyền miệng, nhưng trừ một số cá biệt nói chung thì giai thoại
văn học không thuộc phạm vi văn học dân gian” [65, tr.9]. Qua nhận xét trên, tác giả
đã gián tiếp khẳng định tính chất bác học là yếu tố cốt lõi, quyết định đến bản chất thể
loại chứ không phải là tính chất dân gian của giai thoại. Vì quan niệm giai thoại là một
thể loại thuộc văn học viết nên Trần Thanh Mại đã tập trung phân tích tính bác học của
giai thoại ở một số khía cạnh như: cách dùng điển tích, điển cố; câu đối chữ Hán,
Nôm; cách chiết tự chữ Hán;... Nguyên nhân dẫn đến quan niệm trên xuất phát từ vấn
21
đề tác giả sáng tác và người thưởng thức giai thoại. Tác giả viết: “Giai thoại văn học
chủ yếu là truyện của những người có điều kiện biết đọc, biết viết, biết thưởng thức
thơ văn chữ Hán và chữ Nôm” [65, tr.9]. Như vậy, góc nhìn của Trần Thanh Mại là
xuất phát từ điểm nhìn của văn học viết, dùng lý thuyết của văn học viết để soi chiếu
giai thoại. Nói đúng hơn đấy là môi trường tương tác giữa sáng tác và tiếp nhận của
văn học thành văn.
Cùng đề cập đến tính chất bác học và dân gian của giai thoại nhưng các tác giả
Vũ Ngọc Khánh và Kiều Thu Hoạch lại có cái nhìn khác hơn so với Trần Thanh Mại.
Theo đó, hai tác giả đã xuất phát từ góc nhìn của folklore để lý giải vấn đề này. Vũ
Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch đặc biệt quan tâm, chú ý đến tính dân gian của giai
thoại (các tác giả định danh tính dân gian của giai thoại là “phong cách dân gian”) thể
hiện qua các trường hợp: nói lái; dùng thổ âm, thổ ngữ; dùng ca dao, tục ngữ; cách
diễn giải chữ nghĩa theo kiểu dân gian,... Trong phần giới thiệu công trình Kho tàng
giai thoại Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh nhận xét: “Những câu thơ, câu đối ở đây có vẻ
giàu chữ nghĩa, điển tích như ở văn chương bác học, song điều bắt buộc là phải được
vận dụng theo phong cách dân gian, lấy chất liệu và cả biện pháp nghệ thuật của ca
dao, câu đối” [89, tr.18]. Ở một chỗ khác, tác giả viết: “Giai thoại văn học có tính
chất bác học nhưng nó nâng cao mà không cách biệt với dân gian. Cái đặc sắc và ý vị
của nó là ở đó” [89, tr.31]. Kiều Thu Hoạch trong Khái luận công trình Giai thoại văn
học Việt Nam cũng khẳng định: “Để đạt được tính lý thú đối với thể loại giai thoại văn
học (chúng tôi nhấn mạnh và in đậm từ “thể loại” – chữ dùng của tác giả) thì người kể
chuyện thường cũng phải sử dụng một số biện pháp nghệ thuật dân gian quen thuộc
như: khoa trương, ngoa dụ, phóng đại, và đặc biệt là lối chơi chữ” [67, tr.35].
Theo chúng tôi, vấn đề không chỉ nằm ở chỗ chỉ ra được đâu là tính dân gian, đâu
là tính bác học của giai thoại (để làm cơ sở cho việc xếp một văn bản giai thoại vào
nhóm giai thoại văn học dân gian hay nhóm giai thoại văn học viết như một số nhà
nghiên cứu từng làm) mà còn phải tìm hiểu sự tương tác, thâm nhập, xuyên thấm của
hai yếu tố trên. Có như vậy, chúng ta mới có thể trả lời cho câu hỏi: Có nên phân chia
giai thoại văn học một cách tách bạch thành hai nhóm (hay bộ phận) như trên hay
không và giai thoại thực chất là thể loại thuộc văn học dân gian hay văn học viết? Đây
cũng là vấn đề mà các nhà nghiên cứu đi trước chưa tìm hiểu, lý giải một cách cặn kẽ,
cần phải trao đổi thêm.
22
1.1.2.3. Tính sai lệch của giai thoại
Xét trong mối quan hệ với lịch sử, một số thông tin được nêu ra trong giai thoại ít
nhiều sẽ có độ vênh, độ lệch so với quan niệm chính thống. Từ đó, tạo nên sự sai lệch.
Tính chất này xuất phát từ tư duy hư cấu yếu tố sử (hay kỹ xảo nhào nặn yếu tố sử)
của giai thoại. Hầu hết các tác giả nghiên cứu giai thoại ở Việt Nam như Trần Thanh
Mại, Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch, Triều Nguyên,… đều bàn đến điểm này.
Chung quy, các tác giả trên đều lưu ý rằng khi tiếp nhận giai thoại, cần lưu ý và phải
soi chiếu những thông tin (người, việc) trong giai thoại với sử quan phương để tránh
tình trạng ngộ nhận, quy chụp một cách chủ quan, vội vàng. Để chứng minh cho đặc
điểm trên, các tác giả đã dùng một số giai thoại có liên quan đến các nhân vật nổi tiếng
để luận giải, tiêu biểu là các nhân vật: Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Lê Quý Đôn,…
Ở một phương diện khác, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã chỉ ra được
nguyên nhân của sự sai lệch trong giai thoại. Theo đó, ở khía cạnh sáng tạo, giai thoại
được xây dựng theo các khuynh hướng chủ yếu sau: Dân tộc hóa (hút và tái tạo những
giai thoại chủ yếu của Trung Quốc thành giai thoại Việt Nam), địa phương hóa (thay
đổi tên NVC trong giai thoại thành tên của nhân vật địa phương, vùng miền cụ thể nào
đó), lịch sử hóa (dựa vào những tác phẩm có sẵn trong kho tàng tự sự dân gian, các tác
giả dân gian thay đổi tên NVC từ nhân vật phiếm chỉ biến thành nhân vật là người nổi
tiếng). Hiển nhiên, những điểm trên sẽ có ý nghĩa quan trọng, mang tính chất gợi mở
cho luận án trong việc lý giải sự giao thoa và chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và
một số thể loại khác trong tự sự dân gian.
1.1.2.4.Tính phản biện (hay thách thức) quan niệm truyền thống của giai thoại
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu như Trần Thanh Mại, Vũ Ngọc Khánh, Kiều
Thu Hoạch, Triều Nguyên,… khi bàn về cảm hứng trong giai thoại đều ít nhiều nhắc
đến tính chất đấu tranh giai cấp của giai thoại. Sự đấu tranh ấy thể hiện một cách trực
tiếp hay gián tiếp qua ứng xử của các nhân vật nổi tiếng (hay khuyết danh) đối với các
đại diện của giai cấp thống trị qua xu hướng: đả kích, phê phán; giải thiêng, hạ bệ
(thường là bằng đối đáp văn chương), tức là vạch ra, chỉ ra được những thiếu sót,
khuyết điểm, tính xấu,... của một người nổi tiếng được nhiều người kính phục, tôn
sùng. Còn ở phương Tây, các tác giả như Tamarchenko, Nicolaisen, Gossman,… quan
niệm một cách cụ thể hơn. Trong bài viết Giai thoại là gì?, Tamarchenko nhấn mạnh
đến “tình huống được suy ngẫm lại, đánh giá lại bằng cách thay đổi hoàn toàn điểm
nhìn” [132]. Ở một chỗ khác, tác giả lưu ý đến tình huống hai mặt của giai thoại. Ông
viết: “Chức năng làm nổi bật tính hai mặt của tình huống truyện kể rốt cuộc quyết
23
định toàn bộ tổ hợp đặc trưng thể loại giai thoại, bao gồm cả tính hàm súc trong việc
mô tả các sự kiện một cách khách quan. Thoạt đầu, nhân vật giai thoại được đặt ở vị
thế bình thường, ai cũng biết rõ, về sau diễn ra sự thay đổi hoàn toàn trong việc tiếp
nhận và đánh giá nó, tức là xuất hiện “point” (một khái niệm thi pháp học, nghĩa là
đột biến, đỉnh điểm – Lã Nguyên nhấn mạnh), đột biến (ví như đột ngột chuyển từ
điểm nhìn bên trong ra điểm nhìn bên ngoài) – di chuyển về phía cái đặc biệt mới mẻ,
khác lạ: điểm nhìn mới đối với tình huống ban đầu hoá ra hoàn toàn hợp qui luật”
[132]. Qua các nhận xét trên của Tamarchenko, ông muốn nhấn mạnh đến sự thay đổi
cách đánh giá về nhân vật quan phương qua tình huống được nhắc đến trong giai thoại.
Cũng bàn về sự thay đổi cách đánh giá về nhân vật quan phương trong giai thoại
nhưng tác giả Nicolaisen (trong bài viết Giai thoại, 2013) có cách lý giải khác. Ông
cho rằng, bên cạnh sự củng cố quan niệm truyền thống về nhân vật quan phương thì
giai thoại cũng có tính chất đấu tranh, nói rõ hơn là phản biện, thậm chí là thách thức
lại quan niệm truyền thống về nhân vật. Theo đó, sự thay đổi cách đánh giá về nhân
vật quan phương mà giai thoại đưa ra chính là “một sự cố có tính đại diện cho cá nhân
hoặc cộng đồng được nêu đích danh” và “giai thoại là thủ pháp phù hợp để công khai
hoặc che đậy sự chỉ trích xã hội” [107].
Như vậy, mặc dù có cách diễn đạt khác nhau (hạ bệ, giải thiêng, thay đổi điểm
nhìn, sự cố có tính đại diện,…) nhưng chung quy lại, đã thấy được tính chất phản biện
chính là một trong những đặc trưng quan trọng của giai thoại. Do vậy, vấn đề đặt ra
cho luận án là: Quá trình các tiểu diễn ngôn (tức giai thoại) đối lập và thách thức các
đại diễn ngôn (tức dòng quan điểm chính thống) đã được hình thành như thế nào và
góp phần định hình quan điểm về các vấn đề liên quan theo thời gian ra sao? Chung
quy, về đặc điểm thể loại của giai thoại, các nhà nghiên cứu Việt Nam và thế giới đã
chỉ ra một số đặc điểm là: tính lý thú, tính hư cấu và sai lệch, tính dân gian và bác học,
tính phản biện. Đấy là những đúc kết khoa học giá trị mà luận án sẽ tiếp thu và phát
triển thêm.
1.1.3. Một số khía cạnh thi pháp thể loại của giai thoại
1.1.3.1. Kết cấu của giai thoại Việt Nam
Kết cấu của truyện là phương diện quan trọng về hình thức nghệ thuật. Sự ổn
định về kết cấu tạo ra các mô thức cho từng thể loại chính là yếu tố thi pháp của giai
thoại. Ở đây, xin điểm qua một số quan niệm về kết cấu của giai thoại mà các nhà
nghiên cứu đi trước ở Việt Nam đã chỉ ra. Trong công trình Giai thoại văn học Việt
Nam (1965), Trần Thanh Mại quan niệm kết cấu của giai thoại văn học gồm 3 phần:
24
mở đầu, diễn biến và kết thúc với các chức năng cụ thể là:
– Mở đầu: Giới thiệu rất tóm tắt về tiểu sử NVC
– Diễn biến: Tình huống đối đáp văn chương
– Kết thúc: Sự khâm phục đối với nhân vật
Trên thực tế, một giai thoại có thể không có phần giới thiệu đặc điểm của NVC,
đặc biệt là đối với nhóm giai thoại văn học kết chuỗi. Ở đấy, các giai thoại nương vào
nhau. Do vậy, đặc điểm, tính tình, sở học,... của NVC đơn giản chỉ được giới thiệu ở
truyện mở đầu, các giai thoại tiếp theo không cần lặp lại điều đó. Trong kho tàng giai
thoại văn học Việt Nam, ta có thể thấy rõ điều này qua các chùm giai thoại có liên
quan đến: Mạc Đĩnh Chi, Lê Quý Đôn, Trạng Quỳnh, Đoàn Thị Điểm, Cao Bá Quát,
Nguyễn Công Trứ, Phan Văn Trị,... Tuy nhiên, phần lớn các giai thoại đều mang tính
độc lập.
Trong phần Khái luận công trình Giai thoại văn học Việt Nam (Tổng tập Văn học
dân gian người Việt, tập 11), Kiều Thu Hoạch tuy không trực tiếp nêu lên quan niệm
về kết cấu của giai thoại văn học nhưng qua sự phân tích dẫn chứng (giai thoại Hóa ra
dưa – Tú Xương), ông đã gián tiếp bộc lộ quan điểm. Ông cho rằng giai thoại văn học
gồm hai phần: phần giai và phần thoại. Trong đó, phần giai là phần thơ văn, câu đối,
còn phần thoại là lời đối đáp của các nhân vật. Đây cũng chính là tiêu chí để tác giả
chọn lọc, sắp xếp một văn bản tự sự vào giai thoại. Sau khi trích dẫn văn bản trên, tác
giả nhận xét: “Phải nói rằng bài thơ rất lý thú, rất dí dỏm. Nhưng mấy lời kể ở trên
chỉ có thể xem như một tiểu dẫn về hoàn cảnh sáng tác bài thơ của Tú Xương, chứ
chưa phải là một mẩu chuyện có tình tiết mang kịch tính để trở thành giai thoại. Hơn
nữa, thông thường đã gọi là giai thoại, là phải có đối thoại, đối đáp (dialogue) giữa
hai nhân vật. Ở đây, mới chỉ có Tú Xương làm thơ đùa chơi, còn phía cô gái hàng xóm
đáp lại thế nào thì không có lời kể chuyện.
Do đó, chỉ có giai mà chưa có thoại. Cũng như thế, truyện “Hóa ra dưa” hay
“Muốn hóa dưa hồng” đều chưa thành giai thoại, như đúng nghĩa của thuật ngữ” [67,
tr.32 – 33].
Quan niệm một giai thoại văn học phải có 2 phần hẳn hoi (gồm giai và thoại)
như trên của Kiều Thu Hoạch tỏ ra chưa sát với thực tiễn giai thoại văn học Việt Nam,
đặc biệt là đối với nhóm giai thoại ứng tác văn chương. Nếu nhóm giai thoại thách đố
văn chương tất yếu có phần đối đáp bằng hình thức thách đố và giải đố (bằng thơ văn)
của các nhân vật, thì trong nhóm giai thoại ứng tác văn chương, sự thách đố này không
có mặt. Thay vào đó là NVC đứng trước một tình huống thực tế và cảm hứng làm thơ
25
mà thôi. Vấn đề nằm ở chỗ đó. Trong nhiều trường hợp, NVC không cần đối đáp mà
vẫn sáng tác ra bài thơ hay, để lại một câu chuyện thú vị. (Xin xem cụ thể phần văn
bản giai thoại ở nhóm ứng tác văn chương trong Phụ lục của luận án).
Gần đây, trong công trình Luận về giai thoại (2016), Triều Nguyên cũng đưa ra
một quan niệm khá mới mẻ về kết cấu của giai thoại so với các nhà nghiên cứu đi
trước. Tác giả cho rằng kết cấu của giai thoại nói chung, trong đó có giai thoại văn học
gồm một sự việc mang tính cốt lõi và những sự việc phụ trợ xoay quanh sự việc cốt lõi
này. Về khái niệm sự việc then chốt, tác giả diễn giải như sau: “Sự việc then chốt của
phần lớn văn bản giai thoại là sự việc tiêu biểu, cốt lõi, thể hiện điều thường được gọi
là có vấn đề của một mẩu truyện kể, và vì nó mà văn bản giai thoại được dựng nên”
[115, tr.138].
Với quan niệm như vậy, Triều Nguyên đã chia kết cấu của giai thoại nói chung
(gồm cả 3 tiểu loại của giai thoại) gồm các loại sau: “1. Kiểu kết cấu thông dụng, phổ
biến: văn bản giai thoại gồm một sự việc then chốt và một số sự việc phụ trợ; và 2.
Kiểu kết cấu đặc biệt, ít gặp, gồm 3 dạng: kết cấu “chung cuộc một đời người”; kết
cấu lưỡng diện và kết cấu đa diện” [115, tr.142].
Chúng tôi tóm lược lại từng kiểu kết cấu theo quan niệm của tác giả như sau:
– Kết cấu chung cuộc một đời người là dạng kết cấu mà trong đó giai thoại kể
tường tận về nhân vật từ lúc sinh thành, tạo lập công danh, sự nghiệp cho đến khi mất
(thường thấy ở giai thoại lịch sử).
– Kết cấu lưỡng diện là dạng kết cấu đề cập đến hai hành động, ứng xử khác
nhau của một nhân vật (đáng khen hay đáng trách) trong cùng một giai thoại.
– Kết cấu đa diện nghĩa là trong truyện có kể đến nhiều hành động khác nhau của
cùng một nhân vật.
Để chứng minh cho “Kiểu kết cấu thông dụng, phổ biến: văn bản giai thoại gồm
một sự việc then chốt và một số sự việc phụ trợ”, Triều Nguyên đã dẫn ra văn bản
Khóc mướn kiếm ăn (Cao Bá Quát) để minh chứng (Xin xem Phụ lục). Nếu xâu chuỗi
lại những nhận xét của Triều Nguyên, ta có sơ đồ kết cấu của văn bản trên như sau:
Nguyên nhân dẫn đến sự việc (Cao Bá Quát đi thăm bạn) → điều kiện, cơ hội của sự
việc (Bạn không có ở nhà, đi ngang qua đám tang) → sự việc (câu đối của Cao Bá
Quát) → hệ quả của sự việc (được ca tụng, ngưỡng mộ). Cách khái quát kết cấu của
giai thoại (gồm các dạng kết cấu: các sự việc phụ trợ xoay quanh một sự việc then
chốt; kết cấu chung cuộc một đời người; kết cấu lưỡng diện và đa diện) nêu trên của
Triều Nguyên có ưu điểm khá rõ là tác giả đã bước đầu khái quát nên kết cấu dựa trên
26
cơ sở tình tiết sự việc cấu tạo tác phẩm. Tuy nhiên, chúng tôi có đôi điều băn khoăn về
kiểu kết cấu thông dụng nhất trong giai thoại (theo quan điểm của Triều Nguyên là “sự
việc cốt lõi xoay quanh một số sự việc phụ trợ”) của tác giả ở mấy điểm sau:
– Cách định danh “sự việc then chốt” này chưa có chức năng phân nhóm giai
thoại văn học (cụ thể là nhóm thách đố và ứng tác văn chương);
– Chưa định danh được các tên tình tiết cốt yếu cấu tạo nên giai thoại văn học là
gì;
– Chưa chỉ ra được sự liên kết bên trong giữa các tình tiết để tạo thành cốt
truyện.
Chung quy lại, vấn đề kết cấu của giai thoại đã được các nhà nghiên cứu đi trước
bàn đến ở 2 mức độ: các phần tạo nên giai thoại (dựa vào nội dung chính của truyện)
và các mô hình kết cấu dựa vào hành động của NVC. Và như đã nêu ở phần Mở đầu,
trong luận án này, chúng tôi đề xuất đưa ra hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu kết
cấu của giai thoại. Đó là tìm hiểu kết cấu theo hướng tình tiết, motif.
1.1.3.2. Nhân vật của giai thoại
Vấn đề các kiểu nhân vật đặc trưng trong giai thoại từng được bàn đến trong hầu
hết những tuyển tập giới thiệu giai thoại ở nước ta. Tùy theo tính chất, phạm vi tiểu
loại được đề cập, giới thiệu đến trong các tuyển tập mà sự bàn luận, lý giải của các tác
giả cũng có những mức độ đậm nhạt khác nhau. Vì chỉ giới hạn phạm vi tiểu loại là
giai thoại văn học nên trong các công trình Giai thoại văn học Việt Nam (1965) và
Giai thoại văn học Việt Nam (2004), Trần Thanh Mại và Kiều Thu Hoạch tập trung sự
chú ý vào kiểu nhân vật trí thức, tức là những nhà nho, nhà khoa bảng nổi tiếng (và có
phần nào nhắc đến vai trò của các nhà nho ẩn dật ở nhóm giai thoại khuyết danh). Các
tác giả cũng đã bước đầu chỉ ra được những căn rễ lịch sử, xã hội góp phần hình thành
nên kiểu nhân vật này. Cụ thể, đó là tư duy sùng bái chữ nghĩa (trọng Nho) trong tâm
thức Việt thời phong kiến.
Cũng bàn về các kiểu nhân vật tiêu biểu của giai thoại nhưng tác giả Vũ Ngọc
Khánh có sự khái quát hóa và phân tích cặn kẽ hơn. Qua hai công trình Kho tàng giai
thoại Việt Nam (2 tập, 1994) và Giai thoại folklore Việt Nam (1996), ông đã đưa ra
những kiểu loại nhân vật (tác giả gọi là “motif nhân vật”) như sau: nhân vật trí thức,
mưu trí; nhân vật ngông; nhân vật dị nhân; nhân vật đạo đức, nhân vật nghệ nhân dân
gian. Tác giả đã bóc tách các khía cạnh sau:
- Khuynh hướng xây dựng nhân vật (tuyệt đối hóa tài năng, trí tuệ; giải thiêng, hạ
bệ,...);
27
- Cơ sở lịch sử, xã hội hình thành nên một số kiểu nhân vật (trí thức, ngông, dị
nhân, nghệ nhận dân gian).
Như vậy, khía cạnh nhân vật của giai thoại đã được chú ý, tìm hiểu ở hầu hết
những kiểu loại của nó. Trong đó, có các kiểu nhân vật chưa thực sự được quan tâm,
bàn luận đúng mức là kiểu nhân vật nhà nho tài tử, nhà nho ẩn dật và nghệ nhân dân
gian.
1.1.3.2. Cảm hứng của giai thoại
Bên cạnh các đặc điểm về kết cấu, nhân vật, các nhà nghiên cứu đi trước đều ít
nhiều bàn đến khía cạnh cảm hứng của giai thoại. Ở Việt Nam, Trần Thanh Mại là nhà
nghiên cứu đầu tiên bàn về vấn đề này. Và nhìn chung, các nhà nghiên cứu giai thoại
về sau (như Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch,...) đều đồng thuận với quan niệm của
ông. Trong phần Tiểu luận công trình Giai thoại văn học Việt Nam (1965), Trần Thanh
Mại cho rằng trong giai thoại, “sự đả kích bao giờ cũng gắn liền với đề cao (đả kích
Minh Mạng, Tự Đức đồng thời cũng đề cao Cao Bá Quát; đả kích sư mô, quan lại,
đồng thời đề cao Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Quý Tân, Hoàng Phan Thái,...)” [65,
tr.16]. Như vậy, cảm hứng trong giai thoại là cảm hứng mang tính lưỡng diện, vừa đề
cao vừa đả kích, phê phán nhân vật quan phương.
Hai dạng cảm hứng trên, xét về mặt lịch đại, theo Trần Thanh Mại, có thể chia
thành hai thời kỳ khá tách bạch: thời kỳ đầu, khi mà giai cấp thống trị phong kiến còn
giữ được vai trò lãnh đạo (với những vua hiền, tôi trung) thì giai thoại có xu hướng đề
cao những ông vua, những ông quan tài giỏi, thanh liêm, yêu nước; và thứ hai, khi mà
giai cấp thống trị bắt đầu bộc lộ những mặt tệ đoan, xấu xa thì sự đề cao không còn
nữa, thay vào đó là xu hướng phê phán, hạ bệ. Chúng tôi cho rằng cách đánh giá trên
của Trần Thanh Mại là hoàn toàn xác đáng.
Như đã đề cập ở tính phản biện của giai thoại, xu hướng phê phán, hạ bệ nhân vật
quan phương chắc hẳn xuất phát từ những căn rễ lịch sử, xã hội cụ thể, hướng đến
những mục đích cụ thể. Các vấn đề cần làm rõ thêm ở đây là:
– Tư duy phản biện đó có xuất hiện trong truyền thống truyền miệng hay không,
nếu có thì đâu là điểm tương đồng và dị biệt;
– Trong hai biểu hiện của cảm hứng (đề cao, ca ngợi và phản biện) thì dạng cảm
hứng nào đóng vai trò chủ đạo.
– Ý nghĩa của sự phản biện đặt trong bối cảnh của thời đại cũng như lý giải
những căn rễ lịch sử, văn hóa góp phần làm sinh tư duy phản biện của giai thoại.
28
1.1.4. Phân định ranh giới và vấn đề chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và các
thể loại của tự sự dân gian
1.1.4.1. Phân định ranh giới và vấn đề chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và
truyện cười
Về vấn đề phân định ranh giới giữa giai thoại và truyện cười, các nhà nghiên cứu
đi trước cũng đã đề cập, bóc tách ở những khía cạnh, mức độ khác nhau. Sau đây,
chúng tôi sẽ điểm qua những điều cơ bản mà các tác giả đã giải quyết trong các công
trình đó. Trong công trình Giai thoại văn học Việt Nam [65, tr.14 – 18], Trần Thanh
Mại đã so sánh giai thoại văn học và truyện cười trên một số phương diện. Có thể tóm
lược bằng bảng tóm tắt dưới đây:
Bảng 1.1. So sánh truyện cười và truyện trạng của Trần Thanh Mại
Tiêu chí so sánh Truyện cười Giai thoại (văn học)
Lĩnh vực
Cảm hứng
Yếu tố thơ văn, câu đối Văn học viết
Đả kích (vương quyền) gắn
liền với cảm hứng đề cao
NVC người nổi tiếng
Phải có thơ văn, câu đối
Mục đích thể loại Văn học dân gian
Đả kích vương quyền và
những thói hư, tật xấu trong
xã hội
Phần lớn truyện cười không
sử dụng
Phải tạo được tiếng cười
Mâu thuẫn, kịch tính Là bản chất thể loại Không nhất thiết phải có
tiếng cười, gây cười
Không nhất thiết phải có
kịch tính
Khác với Trần Thanh Mại, Vũ Ngọc Khánh tập trung vào mức độ của tiếng cười
trong hai thể loại để phân biệt. Ông viết: “Ở truyện cười, tiếu lâm, người ta cần cái
cười, thậm chí là cười ào ạt, cái cười đập phá; ở giai thoại chỉ cần cái cười vui. Ở
truyện cười, người ta cần cái cười nghịch, giai thoại chỉ cần sự cười đùa, tiếu lâm cự
tuyệt cái cười buồn vui lẫn lộn” [91, tr.24]. Hai ý kiến tiêu biểu trên bước đầu cho
thấy những mặt tương đồng và dị biệt về hình thức và nội dung của hai thể loại. Tuy
nhiên, cần suy nghĩ thêm về một số khía cạnh như sau:
– Khó có thể lượng hóa được mức độ của tiếng cười và nhất là ý nghĩa của nó
một cách khách quan. Điều này có phần cảm tính, do đó khó có thể là tiêu chí để phân
định thể loại;
– Giai thoại và truyện cười còn có những điểm tương đồng, dị biệt trên các khía
cạnh khác như: ngôn ngữ nhân vật, kiểu nhân vật, chức năng thể loại,…
Các tác giả chưa đặt ra cũng như tìm hiểu vấn đề thâm nhập và chuyển hóa thể
loại giữa giai thoại và truyện cười (ở hai tiểu loại của nó là truyện cười không kết
29
chuỗi và truyện cười kết chuỗi – mà có một số nhà nghiên cứu gọi là truyện trạng).
Đây cũng là một trong những nội dung mà luận án sẽ triển khai, làm rõ trong các phần
sau.
1.1.4.2. Phân định ranh giới và vấn đề chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và
truyền thuyết
Đây là một trong những vấn đề mang tính chất lý luận quan trọng, không chỉ có ý
nghĩa trong việc xác lập thể loại của giai thoại mà còn mang tính định hướng cho việc
phân biệt giai thoại và truyền thuyết. Qua đó, giúp tránh tình trạng nhầm lẫn về mặt
thể loại trong các tuyển tập giai thoại và truyền thuyết. Trong các công trình giới thiệu
về giai thoại, các tác giả Trần Thanh Mại, Kiều Thu Hoạch và Vũ Ngọc Khánh đều ít
nhiều bàn đến sự hiện diện của yếu tố kỳ ảo trong giai thoại, tức là thừa nhận sự tác
động của truyền thuyết đến giai thoại, chưa thấy bàn về sự phân định ranh giới của hai
thể loại này. Mặt khác, ý kiến của các tác giả trên chỉ dừng lại ở mức độ những nhận
xét ban đầu và chưa được luận giải một cách cặn kẽ, cụ thể bằng tác phẩm. Trong một
chừng mực nào đó, những ý kiến trên sẽ mang tính chất gợi mở cho việc đào sâu, bóc
tách thêm cho các tác giả nghiên cứu ở giai đoạn sau.
Một trong những bài viết có giá trị, góp phần phân biệt giai thoại và truyền
thuyết là bài viết Bước đầu phân biệt truyền thuyết và giai thoại [23] của tác giả Võ
Phúc Châu. Bài viết với các tiêu chí so sánh cụ thể (ở hai tiểu loại là truyền thuyết lịch
sử và giai thoại lịch sử) như: quy mô tác phẩm, hình thức thể hiện, ngôn ngữ kể, giọng
kể, nhân vật, cách miêu tả, chức năng, thái độ tiếp nhận,…
Chúng tôi xin trích dẫn ra đây bảng so sánh của tác giả Võ Phúc Châu:
Bảng 1.2. So sánh giai thoại lịch sử và truyền thuyết lịch sử
TIÊU CHÍ SO SÁNH GIAI THOẠI
LỊCH SỬ TRUYỀN THUYẾT
LỊCH SỬ
Tự sự dân gian
Chủ yếu truyền miệng và ghi chép thành văn bản Dạng thức
Cách lưu
truyền
Nội dung ĐIỂM
GIỐNG
NHAU
Liên quan đến các sự kiện, nhân vật lịch sử, có liên hệ
chặt chẽ đến tiến trình tồn vong của đất nước.
Nhân vật gần với đời thực, ít yếu tố siêu nhiên, thần kỳ;
có thể còn yếu tố hư cấu, tưởng tượng
Luôn ngắn, rất ngắn Có ngắn lẫn dài
ĐIỂM
KHÁC
NHAU Ít hoặc không có đối thoại
giữa các nhân vật
Giàu tính biểu cảm
Phương pháp
phản ánh
Quy mô tác
phẩm
Hình thức thể
hiện
Ngôn ngữ kể
Giọng kể Luôn có đối thoại giữa
các nhân vật
Giàu tính trí tuệ
Đôi khi dí dỏm, hài Luôn trang trọng, thành kính
30
TIÊU CHÍ SO SÁNH GIAI THOẠI
LỊCH SỬ TRUYỀN THUYẾT
LỊCH SỬ
Đặc điểm của
sự kiện, tình
tiết Luôn gắn với không gian
thiêng, thời gian thiêng, liên
quan đến vận mệnh nhân vật
và dân tộc
Vị trí, vai trò
của sự kiện lịch
sử - Là nội dung chính của tác
phẩm
- Nhằm phản ánh, đánh giá
lịch sử hước, phê phán
Luôn gắn với không
gian,
thời gian sinh
hoạt đời thường, hàng
ngày
- Không phải nội dung
chính của tác phẩm
- Phác họa chân dung,
cách đối nhân xử thế
của nhân vật lịch sử
Phải là người nổi tiếng Đặc điểm nhân
vật Có thể chỉ là người xuất thân
bình thường hoặc vô danh
Cách miêu tả
nhân vật Cuộc đời từ chỗ bình thường
hóa thành bất tử, thiêng liêng
xu hướng nâng nhân vật
lên ngưỡng tôn thờ
Chức năng tác
phẩm Cuộc đời đi từ chỗ bí
ẩn trở về gần gũi với
mọi người xu hướng
kéo nhân vật xuống đời
thường
- Tạo cảm giác lý thú
- Rút ra bài học triết lý
nhân sinh
Thái độ người
tiếp nhận Có thể tin hoặc không
tin - Đánh giá lịch sử
-Biết ơn, tôn thờ, ngưỡng mộ
người có công đức
- Luôn có niềm tin
- Có nhu cầu gắn tác phẩm
với một chứng tích văn hóa
nào đó
Qua các tiêu chí phân biệt khá cụ thể, bao quát như trên, có thể thấy bài viết tác
giả Võ Phúc Châu đã có những mặt khả thủ trong việc kiến giải, phân tích, bước đầu
chỉ ra sự tương đồng và dị biệt giữa truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử. Đó là
những gợi ý quý báu mà luận án sẽ kế thừa và phát triển thêm. Tuy nhiên, về mặt lý
luận còn một số vấn đề cần làm rõ thêm, đó là:
– Sự giao thoa, tương tác giữa truyền thuyết và giai thoại không chỉ xảy ra ở cấp
độ tiểu loại mà còn ở cấp độ thể loại;
– Về mặt cảm hứng, cùng một đối tượng người nổi tiếng, giai thoại không chỉ
kéo nhân vật về cuộc sống đời thường mà còn cảm hứng khác là đề cao nhân vật,
thiêng hóa nhân vật (Đây chính là điểm giao thoa về mặt cảm hứng với truyền thuyết
và giả thuyết đặt ra là: phải chăng giai thoại cũng tiếp biến một số motif để xây dựng
hình tượng nhân vật trung tâm theo hướng thiêng hóa từ truyền thuyết?);
– Cần làm rõ thêm sự chuyển hóa về mặt thể loại giữa giai thoại và truyền thuyết
cũng như lý giải căn nguyên của sự chuyển hóa đó là gì.
31
1.1.4.3. Phân định ranh giới và vấn đề chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và cổ
tích
Các nhà nghiên cứu đi trước như Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch đã từng lưu ý
đến vấn đề giao thoa và chuyển hóa thể loại giữa cổ tích và giai thoại. Trong phần
Khái luận công trình Giai thoại văn học Việt Nam, Kiều Thu Hoạch viết: “Ngoài mối
quan hệ gần gũi với truyện cười, thể loại giai thoại cũng còn có mối tương quan với
một số thể loại khác trong loại hình tự sự dân gian, như truyền thuyết, cổ tích, song số
lượng những giai thoại loại này không nhiều (…). Chùm giai thoại văn học về Trạng
Quỳnh, có thể thấy thấp thoáng motif anh chàng khôn ngoan, cơ trí của truyện cổ tích.
Qua một vài ví dụ vừa nêu, cũng cho thấy ở giai thoại văn học, rõ ràng là có vấn đề
giao thoa, thâm nhập và chuyển hóa thể loại” [67, tr.51].
Nhận xét trên của Kiều Thu Hoạch đã lưu ý đến điểm giao nhau giữa giai thoại
(văn học) và cổ tích ở kiểu nhân vật cơ trí. Đây là một ý kiến hoàn toàn xác đáng.
Dưới góc độ nhân vật của mỗi thể loại mà nói, thì khó có thể dẫn đến sự nhập nhằng,
thâm nhập thể loại giữa giai thoại và cổ tích. Bởi lẽ, nhân vật của giai thoại phần lớn là
những con người nổi tiếng. Con người nổi tiếng ấy có tên tuổi, hành trạng, địa vị hẳn
hoi. Nó hoàn toàn khác với kiểu con người chung chung – con người mang tính biểu
trưng, đại diện cho giai tầng nào đó trong xã hội như trong cổ tích. Nhưng tại sao có sự
nhập nhằng về thể loại giữa cổ tích và giai thoại? Vấn đề này nhất định cần được bàn
bạc nhiều hơn.
Tóm lại, khi nghiên cứu về giai thoại, các nhà nghiên cứu đi trước cũng đã bước
đầu đặt ra vấn đề chuyển hóa thể loại giữa giai thoại với một số thể loại trong tự sự
dân gian nhưng chủ yếu là ở thể loại cổ tích. Các tác giả Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu
Hoạch từng lưu ý sự thâm nhập, chuyển hóa thể loại từ cổ tích (sinh hoạt) sang giai
thoại văn học ở kiểu truyện về nhân vật cơ trí (mà tiêu biểu nhất là kiểu truyện Em bé
thông minh). Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ dừng lại ở mức độ nêu luận điểm gợi ý
chứ chưa đi vào phân tích, lý giải cụ thể. Vả chăng, còn một số kiểu truyện khác cũng
cho thấy sự thâm nhập, chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và cổ tích như: kiểu truyện
Kén rể, kiểu truyện Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng, kiểu truyện Người học trò và
ba con quỷ,... cần phải phân tích, đào sâu thêm. Như vậy, về vấn đề phân định ranh giới
và sự chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và các thể loại tự sự dân gian đã được đặt ra
nhưng còn một số khía cạnh cần phải làm rõ hơn là:
– Cụ thể hóa sự phân định ranh giới giữa giai thoại và các thể loại tự sự dân gian
qua các tiêu chí cụ thể;
– Chỉ ra biểu hiện của sự thâm nhập, chuyển hóa thể loại và lý giải quy luật của
sự xâm nhập, chuyển hóa đó;
32
– Tập trung nhiều hơn vào motif sinh nở thần kỳ, bởi lẽ đó chính là motif chịu
ảnh hưởng nhiều nhất, đậm nét nhất của tự sự dân gian đến giai thoại.
1.1.5. Phân loại giai thoại
Những quan niệm về giai thoại đã dẫn ra ở trên cho thấy tính phức tạp của vấn đề
quan niệm về giai thoại và đương nhiên tác động đến cách phân loại thể loại này.
Trong công trình Mỹ học folklore, chính Guxev cũng đã thừa nhận: “Các tiểu loại giai
thoại chưa phân hóa rõ rệt” [51, tr.284]. Còn ở Việt Nam, khi nghiên cứu về giai
thoại, các tác giả cũng đã đưa ra sự phân loại. Tuy tiêu chí và cách phân loại có khác
nhau nhưng cũng đã cho thấy việc phân hóa giai thoại Việt Nam có những mặt khả
thủ. Ở đây, chúng tôi chỉ xin điểm qua những ý kiến tiêu biểu nhất.
Trong công trình Giai thoại văn học Việt Nam (1965), do đối tượng giới thiệu là
giai thoại văn học nên Trần Thanh Mại chỉ phân loại tiểu loại này gồm: giai thoại văn
học về các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng và giai thoại văn học khuyết danh. Như vậy, tiêu
chí để phân loại giai thoại (văn học) Việt Nam của Trần Thanh Mại là xuất phát từ
nhân vật (có tính danh cụ thể và khuyết danh). Trong các công trình biên soạn về giai
thoại (gồm Kho tàng giai thoại Việt Nam (2 tập, 1994) và Giai thoại folklore Việt Nam
(1996)), Vũ Ngọc Khánh chia giai thoại thành 3 tiểu loại là giai thoại văn học, giai
thoại lịch sử và giai thoại folklore. Tiêu chí phân loại của tác giả là dựa vào lĩnh vực
phản ánh của giai thoại. Cách phân loại này hợp lý ở chỗ nó đã bước đầu chỉ ra được
những lĩnh vực phản ánh quan trọng, tiêu biểu của giai thoại Việt Nam, qua đó định
hình nên các tiểu loại chính yếu. Vũ Ngọc Khánh cũng là tác giả đầu tiên đi sâu vào sự
phân chia nhóm của từng tiểu loại giai thoại Việt Nam. Sự phân chia này xuất phát từ
tình hình thực tiễn của tư liệu về giai thoại hiện có trong kho tàng.
Về tiểu loại giai thoại văn học, trong công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam
(1994), Vũ Ngọc Khánh chia thành các nhóm: “1. Những sáng tác thơ ca, câu đối; 2.
Những giai thoại chung quanh các tác giả” [89, tr.32]. Ở tiểu loại giai thoại lịch sử,
nhà nghiên cứu phân thành các nhóm sau: “1. Những sự kiện lịch sử (bao gồm: những
câu danh ngôn, những chiến công, những hành động hoặc những ý kiến đánh giá về
người và việc; 2. Những trang tình sử; 3. Những nhân vật lịch sử” [89, tr.534]. Về tiểu
loại giai thoại folklore, tác giả chia thành các nhóm: “1. Những giai thoại chung quanh
các sinh hoạt văn nghệ dân gian (folklore); 2. Giai thoại về những nhân vật trong
cuộc sống folklore: những ông trạng, những nghệ nhân, những nhân vật hài hước, láu
lỉnh” [89, tr.906]. Về cách phân nhóm này, dễ thấy tác giả chủ yếu dựa vào tiêu chí đề
tài, nội dung của các giai thoại.
Trong công trình Giai thoại folklore Việt Nam (1996), ở phần Biên tập đại ý, Vũ
Ngọc Khánh chủ định không phân nhóm (ông dành phần này cho người đọc), nhưng
33
thông qua sự sắp xếp văn bản ở phần mục lục, chúng ta cũng có thể hiểu được ý định
của tác giả. Căn cứ vào mục lục công trình này, chúng tôi khái quát lên các nhóm của
giai thoại folklore theo quan niệm của Vũ Ngọc Khánh như sau: 1. Giai thoại folklore
về các ngành nghề (thợ thêu, thợ nhuộm, thầy thuốc, thợ đồng hồ, thợ điêu khắc, hội
họa,...); 2. Giai thoại folklore về nói khoác ở một số vùng miền; 3. Giai thoại folklore
về sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian của các vùng miền (hát phường vải, hát ả
đào, hát ví giặm, hò khoan, hát bả trạo,...); 4. Giai thoại folklore về sân khấu, tuồng,
chèo; 5. Giai thoại folklore giải thích ý nghĩa, nguồn gốc của những câu phương
ngôn, ca dao, tục ngữ, thành ngữ; 6. Giai thoại folklore về tập Kiều, đố Kiều, lẩy
Kiều; 7. Giai thoại folklore về các ông trạng. Như vậy, qua công trình này, Vũ Ngọc
Khánh đã có sự phân chia giai thoại folklore thành các nhóm dựa vào lĩnh vực hoạt
động xã hội, so với công trình trước đó của ông có phần cụ thể hơn.
Cũng căn cứ vào lĩnh vực phản ánh của giai thoại, Kiều Thu Hoạch đề nghị nhận
dạng giai thoại qua 2 tiểu loại chính là: giai thoại văn học và giai thoại lịch sử. Trong
từng tiểu loại, tác giả phân thành các nhóm sau: “Như giai thoại văn học có thể có
nhóm giai thoại về các tác gia văn học, và có nhóm giai thoại về các sáng tác văn học
khuyết danh, vô danh. Còn giai thoại lịch sử, thì có thể có nhóm giai thoại về danh
nhân lịch sử, danh nhân văn hóa và nhóm giai thoại đi sứ” [67, tr.53]. Chúng tôi khái
Giai thoại
(GT)
GT văn
GT lịch
học
sử
GT về
GT văn
GT danh
GT danh
GT
tác gia
học
nhân
nhân văn
đi sứ
khuyết
văn học
lịch sử
hoá
danh
quát quan niệm phân loại của Kiều Thu Hoạch qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1. Phân loại giai thoại Việt Nam của tác giả Kiều Thu Hoạch
34
Qua sơ đồ phân loại trên, chúng tôi đưa ra một số đánh giá ban đầu như sau:
Ở cấp độ tiểu loại: Tiêu chí phân loại của Kiều Thu Hoạch là dựa vào tiêu chí
lĩnh vực phản ánh (như cách phân loại của Vũ Ngọc Khánh trước đó). Tuy nhiên, sự
phân loại của Kiều Thu Hoạch rõ ràng đã bỏ qua tiểu loại giai thoại văn hóa dân gian
(hay folklore);
Ở cấp độ nhóm của từng tiểu loại: Tiêu chí phân loại có sự thay đổi, chuyển từ
lĩnh vực phản ánh sang nhân vật của từng nhóm. Như vậy, là đã có sự không thống
nhất về mặt tiêu chí trong cách phân loại giữa tiểu loại và nhóm của từng tiểu loại. Sự
thiếu thống nhất về mặt tiêu chí phân loại nêu trên còn lặp lại ở các tác giả về sau.
Trong bài viết “Giai thoại – một thể loại văn học dân gian”, tác giả Nguyễn Thị
Bích Hà nêu ý kiến chia giai thoại thành 3 tiểu loại: giai thoại văn học, giai thoại danh
nhân và giai thoại cười [45]. Tác giả cũng không đưa vào tiểu loại giai thoại lịch sử và
có quan niệm đồng nhất một bộ phận của giai thoại với truyện cười kết chuỗi (còn
được quan niệm là truyện trạng). Căn cứ vào cách phân loại của tác giả, ta thấy có sự
không đồng nhất ở tiêu chí phân loại: giai thoại văn học là căn cứ vào lĩnh vực được
phản ánh, giai thoại danh nhân là căn cứ vào tiêu chí nhân vật (tức là những con người
nổi tiếng, được nhiều người biết đến), giai thoại cười (hay hài hước) là căn cứ vào tiêu
chí tình huống của giai thoại.
Rõ ràng tiêu chí phân loại không thống nhất nên sẽ dễ dẫn đến tình trạng nhập
nhằng, khó phân định về mặt tiểu loại. Cụ thể, với một giai thoại có thơ văn (văn học)
mà nhân vật của nó là người nổi tiếng (danh nhân), lại có tình huống hài hước (hài) thì
nên xếp vào tiểu loại nào cho đúng? Thử lấy một ví dụ tiêu biểu như giai thoại Ghẹo
sư (số 34 trong Phụ lục). Nội dung giai thoại này nói về cuộc đối chọi thơ văn giữa nhà
nho Hoàng Phan Thái với sư hổ mang (thích ăn thịt chó). Vế đối của sư: “Dầu vương
cả đế”, với ngụ ý chơi chữ qua chữ vương và đế, thể hiện “khẩu khí đế vương”. Thái
đáp lại: “Ỉa vãi vào sư”. Thế rồi, thay vì khẩu chiến thơ văn, sư động thủ, rượt đánh
Thái. “Nhưng Thái tinh nghịch, đã vừa chạy vừa kêu: “Ối, làng nước ới! Ối, làng
nước ơi!”. Người xung quanh nghe kêu đổ xô ra hỏi duyên cớ. Thái bèn mượn câu
chuyện tiếu lâm quen thuộc ở vùng đó, trả lời: “Đậu phụ chùa cắn tôi!””. Giai thoại
trên có nhân vật nổi tiếng là Hoàng Phan Thái, có tình huống thơ văn đối đáp và có cả
tính hài (cách nói tục và tình tiết đậu phụ chùa mà chúng ta vẫn bắt gặp trong truyện
cười dân gian). Như vậy, giai thoại này xếp vào tiểu loại nào cho đúng?
Tác giả Triều Nguyên trong công trình Luận về giai thoại, sau khi phân tích,
điểm qua cách phân loại của các nhà nghiên cứu đi trước, đã đề nghị chia giai thoại
thành hai phương án (tương ứng với hai sơ đồ). Phương án thứ nhất được tác giả đưa
35
ra là chia giai thoại thành hai hệ thống: thuộc lĩnh vực văn học và không thuộc lĩnh
vực văn học:
Hệ thống
giai thoại
(GT)
GT thuộc lĩnh vực
GT không thuộc
văn học
lĩnh vực văn học
GT
GT
GT
GT
GT
GT
nghệ
lịch sử
không
nhân
Văn
Văn
nhân,
thuộc
vật
học
học
nhà
lịch sử
tên
dân
viết
văn
tuổi
gian
Sơ đồ 1.2. Giai thoại Việt Nam phân loại theo tiêu chí thuộc văn học
và không thuộc văn học
Tác giả diễn giải lý do của cách phân loại này như sau: “Người phân loại muốn
nó (tức sơ đồ trên) giúp việc nhận ra một cách rõ ràng, điều cho tổng thể giai thoại
thuộc văn học dân gian là không hợp lẽ” [115, tr.346]. Tiêu chí phân loại của Triều
Nguyên ở sơ đồ này (gồm hai hệ thống: giai thoại thuộc lĩnh vực văn học và giai thoại
không thuộc lĩnh vực văn học) là dựa theo phương pháp loại suy trong Logic học
(dùng cái A và cái không A để loại trừ nhau). Nhìn tổng thể có vẻ ổn nhưng thực ra lại
chất chứa những mâu thuẫn nội tại.
Cấp độ thứ nhất: tiểu loại của giai thoại
Nhìn vào sơ đồ trên, có thể thấy tiêu chí cốt lõi để phân loại của tác giả là tiêu chí
văn chương (cái A), còn lại hiển nhiên là các lĩnh vực khác ngoài văn chương. Các
lĩnh vực khác ấy được ngầm hiểu là lĩnh vực lịch sử và văn hóa dân gian. Ba lĩnh vực
văn chương – lịch sử – văn hóa dân gian tồn tại một cách đồng đẳng, ngang hàng với
nhau, cho nên, có thể khẳng định: nhánh giai thoại không thuộc lĩnh vực văn học đã
bao gồm hai tiểu loại là giai thoại lịch sử và giai thoại văn hóa dân gian. Và như vậy
thì cách chia này đã vi phạm nguyên tắc đồng đẳng – tức là đem xếp giai thoại văn hóa
dân gian và giai thoại lịch sử ở cấp độ thấp hơn giai thoại văn học (chỉ ngang hàng với
36
các nhóm của giai thoại văn học).
Cấp độ thứ hai: các nhóm cụ thể của từng tiểu loại
Ta thấy, tiêu chí để phân nhóm ở đây tiếp tục có vấn đề, cụ thể nhánh giai thoại
không thuộc lĩnh vực văn học gồm giai thoại lịch sử và giai thoại không thuộc lịch
sử là căn cứ vào tiêu chí lĩnh vực phản ánh, trong khi nhóm giai thoại nhân vật tên
tuổi lại căn cứ vào tiêu chí nhân vật. Nhân vật tên tuổi ở đây tức là nhân vật danh nhân
(hay người nổi tiếng). Như vậy, nhánh này vi phạm nguyên tắc phân loại cơ bản là:
cùng một cấp nhưng có đến hai tiêu chí khác nhau. Và lẽ dĩ nhiên, sẽ có những giai
thoại nhập nhằng nhau, khó xếp loại vào nhóm nào cho thuyết phục. Ví dụ, giai thoại
Thuyền quyên ứ hự kể về tình sử của Nguyễn Công Trứ (là người nổi tiếng), lại có thơ
văn (đối đáp của ông với giai nhân) thì nên xếp vào nhóm nào cho đúng: giai thoại văn
học, giai thoại lịch sử hay giai thoại danh nhân?
Ở nhánh còn lại, nhánh giai thoại văn học, tác giả cũng mắc lỗi tương tự về mặt
logic, đưa ra hai tiêu chí phân loại khác nhau: nhóm giai thoại văn học viết và giai
thoại văn học dân gian là căn cứ vào tiêu chí lĩnh vực trong khi nhóm giai thoại thứ ba
là giai thoại nghệ nhân (tức nghệ nhân dân gian) và nhà văn lại căn cứ vào tiêu chí
nhân vật. Điều không thuyết phục rõ nhất của sự phân nhóm này nằm ở chỗ tác giả đã
xếp giai thoại nghệ nhân (đúng hơn là nghệ nhân dân gian – những con người giỏi về
hát hò, diễn xướng dân gian) vào trong lĩnh vực văn học, trong khi đó, trên thực tế,
lĩnh vực văn học và văn hóa dân gian lại tồn tại đồng đẳng với nhau, không thể xem
văn hóa dân gian là một nhánh của văn học. Vì vi phạm nguyên tắc logic nên sự phân
nhóm trên sẽ dẫn đến hệ lụy là rất khó xếp một văn bản giai thoại cụ thể vào trong
nhóm nào của 3 nhóm. Ví dụ, với các giai thoại về các cuộc hò hát đối đáp của các nhà
nho tài tử như Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu, Nguyễn Du,… thì xếp vào nhóm
giai thoại nào cho thuyết phục (dân gian, nghệ nhân hay nhà văn)? Tóm lại, sơ đồ phân
loại thứ nhất này của Triều Nguyên chưa thật sự khiến chúng ta thỏa mãn, bởi lẽ nó
còn tồn tại nhiều chỗ mâu thuẫn như đã nêu rõ ở trên.
Ở phương án thứ hai, tác giả tiếp thu cách chia của nhà nghiên cứu Vũ Ngọc
Khánh, chỉ sửa lại thuật ngữ “giai thoại folklore” thành “văn hóa dân gian”. Ông cũng
chỉ rõ ưu và khuyết điểm của cách chia này: “Ưu điểm của cách phân loại này là nhấn
mạnh vai trò của giai thoại folklore qua các lĩnh vực của nó (các lĩnh vực ấy không
vượt qua ngoài quan niệm của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian hiện nay). Đồng
thời khuyết điểm cũng không khó nhận ra, là có sự đan xen, có phần giao nhau giữa
các yếu tố được phân” [115, tr.347]. Sơ đồ này như sau:
37
Hệ thống giai thoại
(GT)
GT văn hóa dân
GT lịch sử
GT văn học
gian
GT
GT
GT
GT
GT
(
văn
sự kiện
văn
sân
các
(…)
vật
học
học
khấu
lịch sử
nghề
dân
dân
viết
thủ
GT
nhân
gian
gian
công
lịch sử
Sơ đồ 1.3. Giai thoại Việt Nam phân loại theo tiêu chí đề tài
Điểm mới trong cách phân loại của Triều Nguyên so với cách phân loại trước đó
của Vũ Ngọc Khánh là ở chỗ chỉ ra được giai thoại gồm hai bộ phận (giai thoại văn
học viết và giai thoại văn học dân gian) và hơn nữa, mặc dù là một bộ phận của văn
học dân gian nhưng giai thoại văn học dân gian cũng là một bộ phận của văn hóa dân
gian (bên cạnh giai thoại sân khấu, giai thoại về các ngành nghề thủ công,…).
Về phân loại tiểu loại giai thoại văn hóa dân gian, trong công trình Giai thoại văn
hóa dân gian người Việt [114], Triều Nguyên phân chia tiểu loại này thành các nhóm,
tiểu nhóm như sau:
1. Giai thoại về tín ngưỡng, phong tục;
2. Giai thoại về ngữ văn dân gian, gồm các loại: a. Giai thoại về văn học dân
gian; b. Giai thoại về hò hát dân gian; c. Giai thoại liên quan đến một số thể, dạng thơ
văn cũng dùng trong văn học viết; d. Giai thoại về ngữ nghĩa, lời ăn tiếng nói;
3. Giai thoại về sân khấu truyền thống nói chung gồm các tiểu nhóm: a. Giai
thoại về chèo; b. Giai thoại về tuồng; c. Giai thoại về cải lương;
4. Giai thoại về một số ngành nghề thủ công truyền thống; về sức khỏe, ẩm thực,
giải trí và về tri thức dân gian.
Điều đáng chú ý là ở nhóm thứ 1. Giai thoại về tín ngưỡng, phong tục, Triều
38
Nguyên đưa vào cả những văn bản về Trạng Tả Ao (vốn được xem là truyền thuyết)
vào trong hệ thống giai thoại. Các nhóm còn lại, nhìn chung đều ít nhiều dựa trên sự
phân nhóm của Vũ Ngọc Khánh trước đó. Chúng ta sẽ nhận xét về sơ đồ thứ hai này
của Triều Nguyên.
Ở cấp độ thứ nhất: tiểu loại của giai thoại
Cách phân loại giai thoại thành 3 tiểu loại: văn học, lịch sử và văn hóa dân gian
(mang tính kế thừa thành tựu nghiên cứu của Vũ Ngọc Khánh) tỏ ra hợp lý vì nó bao
hàm 3 lĩnh vực cơ bản của giai thoại.
Ở cấp độ thứ hai: nhóm của các tiểu loại
Với tiểu loại giai thoại lịch sử, cách phân nhóm: giai thoại về nhân vật lịch sử và
sự kiện lịch sử tỏ ra chưa hợp lý vì một nhóm thì căn cứ vào tiêu chí nhân vật, nhóm
còn lại căn cứ vào tiêu chí tính chất sự việc. Cách chia này sẽ gây ra rất nhiều khó
khăn khi phân nhóm giai thoại lịch sử. Ví dụ, với các giai thoại lịch sử có liên quan
đến triều đại nhà Nguyễn như: Xâu chuỗi trăm hoa, Vụ loạn luân trong mưu đồ sâu
sắc, Người đẹp cứ yên tâm,… (Kho tàng giai thoại Việt Nam – Vũ Ngọc Khánh) thì
nên xếp vào nhóm nào cho đúng? Bởi chúng đều gắn liền với các nhân vật lịch sử hẳn
hoi (Trương Phúc Loan, Tống thị, chúa Nguyễn Phúc Khoát, Nguyễn Thị Ngọc Cầu,
chúa Nguyễn Ánh,…) và cả sự kiện lịch sử: các mưu đồ phản loạn của Trương Phúc
Loan, Tống thị, Nguyễn Thị Ngọc Cầu; Nguyễn Ánh chiếm kinh đô Phú Xuân của
triều Tây Sơn,... Không những thế, các giai thoại này còn dính dáng đến cả chuyện
tình yêu cá nhân của các nhân vật ấy (loạn luân, lấy hoàng hậu của tiền triều). Như
vậy, việc xếp các giai thoại nêu trên vào nhóm nào là cả một vấn đề chứ không hề đơn
giản. Do vậy, theo chúng tôi, cách chia giai thoại lịch sử thành 2 nhóm như trên chưa
thuyết phục, cần phải suy nghĩ thêm.
Với tiểu loại giai thoại văn học, tác giả chia thành giai thoại văn học viết và giai
thoại văn học dân gian. Trên đại thể, cách chia này chưa có gì mới so với quan niệm
của Trần Thanh Mại (Giai thoại văn học Việt Nam, 1965). Điểm mới của Triều
Nguyên là ông đã thấy được sự giao thoa giữa văn học và văn hóa dân gian qua nhóm
giai thoại văn học dân gian (mặc dù chưa đi vào lý giải). Tuy nhiên, theo quan điểm
của chúng tôi, sự phân định một cách rạch ròi giữa giai thoại văn học viết và giai thoại
văn học dân gian là không cần thiết về mặt lý luận và thực tiễn (chúng tôi sẽ trình bày
lý do ở các phần sau của luận án). Cho nên, sự phân nhóm này sẽ rất nhập nhằng khi
áp dụng vào thực tiễn giai thoại, đặc biệt là những giai thoại có sự pha trộn giữa chất
liệu bác học và dân gian. Thử lấy một ví dụ, chẳng hạn như giai thoại Bò đen bò vàng
39
có NVC là nhà nho Nguyễn Xuân Ôn. Nội dung tóm lược như sau: Ông Nguyễn Xuân
Ôn thấy hai nho sinh nửa mùa đố chữ nhau nên tức cười, bèn ra câu đố: “Bò đen húc
lộn bò vàng/ Hai con húc chắc té quàng xuống sông”. Hỏi con nào đực, con nào cái?
Nhân vật của giai thoại trên hiển nhiên là người nổi tiếng, còn hình thức câu đố (thể
lục bát) và cách thức chơi chữ (theo cách phát âm địa phương vùng Nghệ Tĩnh, thanh
dấu nặng phát âm thành dấu huyền) thì rõ ràng là lấy chất liệu từ dân gian. Như vậy thì
nên xếp vào nhóm nào cho thuyết phục? Với tiểu loại giai thoại văn hóa dân gian, cách
chia của Triều Nguyên ít nhiều chịu ảnh hưởng từ quan niệm của Vũ Ngọc Khánh (có
bổ sung thêm đôi chỗ), trên đại thể là hợp lý và có thể áp dụng vào phân loại giai thoại
Việt Nam.
Trở lại vấn đề phân loại giai thoại, điều khó khăn nhất trong việc phân loại, như
đã từng nhấn mạnh ở các phần trên của luận án là sự giao thoa, chồng lấn ranh giới của
các lĩnh vực chủ yếu trong giai thoại. Không nắm bắt được đặc điểm này, sự phân loại
sẽ rất khó đứng vững, thậm chí mâu thuẫn, chồng chéo lên nhau. Thử lấy một ví dụ
tiêu biểu về trường hợp giai thoại đi sứ. Với nhóm giai thoại đi sứ, có hai quan niệm
khác nhau: xếp hẳn vào giai thoại văn học và giai thoại lịch sử. Điểm chung của giai
thoại lịch sử và giai thoại văn học có liên quan đến đề tài đi sứ là đều dựa vào sức
mạnh trí tuệ thiên về văn chương để làm nên tính hấp dẫn, lôi cuốn. Nói như Vũ Ngọc
Khánh: “Đúng ra thì việc đi sứ thuộc hiện tượng lịch sử, nhưng hầu hết các cuộc giao
thiệp này đều xoay quanh những câu chuyện đối đáp, thử tài (…). Trường hợp kể
chuyện dồi dào nhất có lẽ là của Mạc Đĩnh Chi, thì toàn là câu đối và câu đối” [89,
tr.38]. Sự xen lẫn hai yếu tố trên khiến cho cách nhìn nhận và phân loại chưa thống
nhất là vậy.
Việc phân định thiếu rõ ràng này từng được V. Propp đề cập: “Trong trường hợp
ấy, ta có hai thể loại cùng sử dụng chung một cốt truyện. Điều đó có liên quan đến
những yếu tố bền vững và những yếu tố thay đổi trong folklore nói chung” [44, tr.318].
Thế thì, một câu hỏi được đặt ra là: trong giai thoại lịch sử (về đề tài đi sứ) và giai
thoại văn học; điểm chung, điểm bền vững của chúng là gì, và yếu tố nào bất biến, khả
biến? Giải đáp được điều này, chúng ta phần nào trả lời được câu hỏi nên xếp mảng
giai thoại đi sứ vào tiểu loại nào của giai thoại.
Chúng ta thấy các nhân vật đi sứ có thể khác nhau về thời đại, xuất thân,…
nhưng họ đều là những bậc văn tài, có tài ứng phó, luôn hoàn thành những thử thách
được đưa ra. Họ đều là những ông trạng nguyên, những nhà khoa bảng, có xuất thân từ
con đường khoa cử, nổi tiếng về văn chương trong thời đại của mình. Chuỗi giai thoại
40
đi sứ của Mạc Đĩnh Chi là một minh chứng sinh động cho những trường hợp như thế.
Như vậy, yếu tố khả biến ở đây là yếu tố lịch sử, sự kiện, hoàn cảnh lịch sử, còn yếu tố
bất biến chính là tài năng ứng phó của các nhân vật trong từng huống cảnh riêng biệt
đó.
Xét về mặt tư tưởng, các giai thoại này tuy có liên quan đến sự kiện lịch sử cụ thể
(địa điểm, thời gian, danh tính nhân vật,…), nhưng phần cốt lõi nhất vẫn là các diễn
ngôn mang tính văn học của các nhân vật. Trong đó, yếu tố lịch sử đóng vai trò làm
nền để làm nổi bật tính văn học, bác học của câu chuyện. Chẳng hạn, nếu xâu chuỗi lại
hàng loạt những giai thoại đi sứ của Mạc Đĩnh Chi (Ra đối dễ, đối đối khó; Lưỡng
quốc trạng nguyên; Bốn chữ nhất, Ruột vuông,…), ta có thể tìm thấy yếu tố vận mệnh
nào của dân tộc được khúc xạ qua hàng loạt biến cố của nhân vật? Giai thoại Bốn chữ
nhất chẳng hạn. Vua nhà Nguyên đưa ra một thử thách khó khăn, hoàn thành bài văn
tế khi chỉ có bốn chữ nhất trên tờ giấy trắng. Và với tài ứng phó tinh diệu, sở trường
văn chương trác việt, Mạc Đĩnh Chi đã ứng khẩu đọc liền một mạch bài văn. Phải
chăng đây là trường hợp văn học hóa, bác học hóa các sự kiện lịch sử, mà cụ thể là
việc đi sứ? Nếu chúng ta gạt đi những câu đối, bài thơ ra khỏi lãnh địa giai thoại đi sứ,
thì tất cả những gì còn lại, theo chúng tôi, không gì khác hơn những sự kiện lịch sử
đơn thuần. Và các giai thoại đó sẽ mất đi tính lý thú mà nhân dân muốn đề cao, tôn
vinh nhân vật. Do đó, nếu căn cứ vào đặc trưng tính bác học, văn học (hay yếu tố bất
biến của cốt truyện), chúng tôi đồng tình với quan điểm xếp giai thoại đi sứ vào tiểu
loại giai thoại văn học, như ý kiến của Vũ Ngọc Khánh và Kiều Thu Hoạch đã đặt ra
trong Kho tàng giai thoại Việt Nam [89] và Giai thoại văn học Việt Nam [67].
Tóm lại, về mặt phân loại, chúng tôi thấy quan niệm của Vũ Ngọc Khánh (chia
giai thoại thành 3 tiểu loại) tỏ ra phù hợp với tình hình tư liệu giai thoại ở nước ta hiện
nay hơn cả. Tuy nhiên, dựa trên thành quả đó, chỉ cần bổ sung thêm vài điểm để có thể
hoàn thiện hơn. Ở trên, chúng tôi đã chỉ ra một số bất cập cụ thể trong cách phân loại
của từng tác giả. Nguyên nhân cơ bản của vấn đề nằm ở chỗ các tác giả đưa ra tiêu chí
chưa hợp lý khi phân loại cho các cấp độ tiểu loại và nhóm của tiểu loại, từ đó dẫn đến
tình trạng nhập nhằng, chồng chéo. Do vậy, cần phải đưa ra một tiêu chí phân loại duy
nhất để có thể khắc phục tình trạng này. Đó cũng là một trong những vấn đề đặt ra với
luận án ở khía cạnh phân loại giai thoại Việt Nam.
1.2. Tình hình tư liệu, đánh giá và xử lý tư liệu giai thoại Việt Nam
1.2.1. Tình hình tư liệu giai thoại Việt Nam
Ở mục trên, luận án đã điểm qua tình hình nghiên cứu giai thoại ở Việt Nam
41
cũng như một số nước tiêu biểu trên thế giới ở góc độ tiếp cận theo vấn đề gồm: thuật
ngữ, đặc điểm thể loại, một số phương diện thi pháp thể loại, phân loại. Trong mục
này, luận án tập trung đi vào tình hình tư liệu giai thoại Việt Nam qua các thời kỳ đã
được sưu tầm, giới thiệu như thế nào. Vì tư liệu là cơ sở để khái quát nên lý thuyết thể
loại nên khi điểm qua tư liệu của các thời kỳ, chúng tôi cũng sẽ lưu ý khuynh hướng lý
thuyết nào đã được khái quát nên từ nguồn tư liệu đó. Nói khác đi, mục này sẽ đi vào
vấn đề tư liệu giai thoại và lý thuyết thể loại về giai thoại gắn liền với nó theo tiến
trình lịch sử.
Tính từ Chuyện đời xưa (1866) [82], công trình giới thiệu về giai thoại có thể
xem là sớm nhất, đến nay, trải qua 135 năm, đã có trên dưới 30 công trình sưu tầm,
khảo cứu về giai thoại Việt Nam. Trong số đó, các công trình nghiên cứu về lý thuyết
thể loại chỉ có vài ba công trình, còn lại phần lớn là các sách sưu tầm và biên soạn tác
phẩm giai thoại Việt Nam nói chung và giai thoại theo từng nhân vật hoặc từng địa
phương nói riêng, trong đó có thể hiện ít nhiều quan điểm lý thuyết thể loại của tác
giả. Qua các công trình này, chúng tôi nhận thấy sự khái quát lý thuyết từ thực tiễn tác
phẩm được tìm thấy, nhận diện qua những giai đoạn khác nhau. Do vậy, phần trình
bày lịch sử sưu tầm, nghiên cứu giai thoại Việt Nam sẽ trải ra theo các giai đoạn lịch
sử sau đây:
– Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX đến 1945;
– Giai đoạn 1945 đến 1975;
– Giai đoạn 1975 đến nay.
Lẽ cố nhiên, việc phân định và chọn mốc thời gian chỉ mang tính chất tương đối.
Mỗi giai đoạn như vậy tương ứng với một bước phát triển trong quá trình sưu tầm và
khảo cứu về giai thoại Việt Nam. Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX đến 1945 gắn với
khuynh hướng sưu tầm là chính, còn về lý thuyết thể loại, giai thoại chưa thực sự được
quan tâm. Giai đoạn 1945 – 1975 gắn với khuynh hướng giới thiệu giai thoại văn học
là chủ yếu và nghiên cứu giai thoại từ góc nhìn của văn học viết. Giai đoạn từ 1975
đến nay, giai thoại được giới thiệu ở tất cả các tiểu loại và lĩnh vực của nó một cách
toàn diện, bao quát và gắn với sự đa dạng về tư liệu, trong đó, có sự thay đổi trong
quan niệm về giai thoại: giai thoại được nhìn từ góc độ folklore và góc độ tổng hợp,
không đơn thần chỉ dưới góc độ văn học viết.
1.2.1.1. Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX đến 1945
Giai đoạn này có thể chia thành hai giai đoạn nhỏ là: từ nửa cuối thế kỷ XIX đến
1900 và từ 1900 – 1945.
42
Giai đoạn từ nửa cuối thế kỷ XIX đến 1900
Nổi bật nhất trong các công trình giới thiệu giai thoại nửa cuối thể kỷ XIX là
công trình Chuyện đời xưa của học giả Trương Vĩnh Ký. Theo lời của NXB Khai Trí
(tái bản sách này vào năm 1962 ở Sài Gòn), quyển Chuyện đời xưa [82] được in lần
đầu vào năm 1866, với ba ngôn ngữ là tiếng Pháp, Hán tự và chữ quốc ngữ. Từ đó về
sau, sách đã được tái bản rất nhiều lần. Sách này tập hợp nhiều thể loại khác nhau
(truyện cười, cổ tích, ngụ ngôn, giai thoại,...) gồm cả thảy 74 đơn vị tác phẩm. Về bản
chất, đây là công trình giới thiệu những câu chuyện cổ bao gồm nhiều thể loại. Trong
đó, qua khảo sát, chúng tôi thống kê có 06 truyện là giai thoại. Như vậy, có thể khẳng
định, việc sưu tầm, giới thiệu giai thoại Việt Nam thực ra đã diễn ra từ trước 1900,
nhưng nó lại nằm lẫn lộn cùng với nhiều thể loại văn học dân gian khác. Vả chăng,
những câu chuyện mang tính chất giai thoại trong quyển này phần lớn là những giai
thoại văn học khuyết danh (chỉ có 01 giai thoại văn học gắn với nhân vật khoa bảng
nổi tiếng thời trung đại là Nguyễn Đăng Giai). Do vậy, việc giới thiệu giai thoại xét
cho cùng là một việc chưa mang tính chủ đích cụ thể về mặt thể loại. Cho nên rất khó
tìm ra những điểm nhấn mạnh về đặc trưng giai thoại.
Giai đoạn từ 1900 – 1945
Việc sử dụng phổ biến chữ quốc ngữ trong giai đoạn này có tác động mạnh mẽ
đến tình hình sưu tầm và giới thiệu văn học truyền miệng, trong đó có bộ phận giai
thoại. Năm 1912, Phan Kế Bính công bố công trình Nam Hải dị nhân liệt truyện (Lê
Văn Phúc hiệu chính) [17]. Công trình này gồm 8 chương, được sắp xếp theo các
nhóm nhân vật (Các đấng bậc: đại anh kiệt, danh nhân, danh hiền, văn tài, mãnh
tướng,…). Quan khảo sát, chúng tôi nhận thấy phần lớn các tác phẩm được giới thiệu
tập trung ở thể loại truyền thuyết và giai thoại.
Từ năm 1925 đến 1930, Trần Trung Viên đã sưu tầm, giới thiệu nhiều thơ văn
cổ, tập hợp lại trong sách Văn đàn bảo giám [160]. Đến năm 1931, ông cùng với các
tác giả Dương Bá Trác, Trần Tuấn Khải, Nguyễn Khắc Hiếu sưu tầm thêm, in lại, có
bổ sung, thành 3 tập. Sách được trình bày thành 05 phần với nhiều nội dung, từ vấn đề
văn học sử, đến các thể loại thơ ca và văn xuôi trung đại Việt Nam. Trong đó, tác giả
dành phần 2 (Giai thoại làng văn) để giới thiệu 88 đơn vị tác phẩm giai thoại văn học
xoay quanh những tác giả văn học (hoặc các nhân vật lịch sử có sáng tác văn chương,
không xếp theo lịch đại) từ đời Lý trở về sau như: Lý Công Uẩn, Lê Thánh Tông,
Nguyễn Hiền, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Bà
Huyện Thanh Quan, Tú Xương, Nguyễn Hòe,...
43
Năm 1931, tác giả Nguyễn Văn Ngọc giới thiệu quyển Câu đối [108] (Vĩnh
Hưng Long Thư quán xuất bản). Sách được chia thành 06 chương mục trình bày các
loại câu đối như: câu đối toàn Nôm, câu đối Nôm pha chữ, câu đối chữ Hán, câu đối
liều, câu không đối được, câu đối không giải nghĩa. Công trình này có 261 tác phẩm,
trong đó có 60 tác phẩm đủ tiêu chí của văn bản tự sự (có cốt truyện) và giai thoại văn
học (có tình huống đối đáp văn chương), còn lại chỉ mang tính chất liệt kê và giảng
giải ý nghĩa câu đối, chưa phải là giai thoại theo đúng nghĩa chặt chẽ. Điều đáng lưu ý
là các sách giới thiệu giai thoại ở giai đoạn sau (như Giai thoại văn học Việt Nam
(1965) của nhóm Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh Mại; Kho tàng
giai thoại Việt Nam (1994) của Vũ Ngọc Khánh; Giai thoại văn học Việt Nam (2004)
của Kiều Thu Hoạch,…) có nhiều tác phẩm được dẫn lại từ quyển này, tuy có thay đổi
về tên gọi. Như vậy, giá trị lớn nhất của quyển sách là ở việc giới thiệu tác phẩm giai
thoại, với một nhóm nhỏ là giai thoại về câu đối (thuộc tiểu loại giai thoại văn học).
Công trình tiếp theo là Chuyện cổ nước Nam (1934) (2 tập) [109] của Ôn Như
Nguyễn Văn Ngọc. Tuy phần lớn quyển sách giới thiệu cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười
nhưng tác giả cũng giới thiệu lẫn vào đó một số giai thoại. Chẳng hạn, trong quyển 1
(còn gọi là Quyển thượng, có tựa đề “Người ta”, gồm 120 đơn vị tác phẩm), qua khảo
sát, chúng tôi xác định có 09/120 đơn vị tác phẩm là giai thoại văn học (trường hợp
ứng tác và thách đố văn chương).
Công trình có ý nghĩa đặc biệt phải kể đến Việt sử giai thoại (NXB Cộng Lực,
1934) [117] của Đào Trinh Nhất. Đây là lần đầu tiên giai thoại được xác định trực diện
ở tựa sách. Quyển sách này gồm 7 đề mục, kể những mẩu chuyện liên quan đến các
nhân vật (vua Gia Long, khai quốc công thần Nguyễn Văn Thành, công chúa Huyền
Trân, nàng Chiêm Rao Luật, nữ sĩ Đoàn Thị Điểm,…) và sự kiện lịch sử từ thời phong
kiến cho đến thời kỳ cận hiện đại của Việt Nam (về trận hải chiến với Hà Lan thời Lê -
Trịnh, việc chế tạo đồng hồ báo thức và tàu thủy như người phương Tây,…). Mặc dù
có phần bàn luận, khảo cứu nhưng nó hoàn toàn tách biệt với truyện. Và do vậy, các
câu chuyện được chép trong Việt sử giai thoại vẫn mang tính chất của những giai thoại
lịch sử.
Tóm lại, việc sưu tầm, giới thiệu giai thoại ở giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến
1945 chỉ đóng góp về mặt tư liệu, chưa thấy đề cập, phân tích về mặt lý thuyết thể loại.
Trong đó, các tác giả đã giới thiệu được hai tiểu loại chính của giai thoại là: giai thoại
văn học và giai thoại lịch sử (chưa giới thiệu được giai thoại văn hóa dân gian). Số
lượng các công trình giới thiệu giai thoại cũng khá mỏng. Vả chăng, về mặt văn bản,
giai thoại còn nằm lẫn lộn với những thể loại tự sự dân gian khác (như truyện cười, cổ
44
tích, ngụ ngôn), nghĩa là chưa có sự phân biệt, ý thức về mặt thể loại. Riêng chỉ có
công trình Việt sử giai thoại của Đào Trinh Nhất có sử dụng thuật ngữ giai thoại một
cách chính thức và tỏ ra hợp lý khi định danh tiểu loại giai thoại lịch sử (với cấu trúc
Hán Việt nhưng chưa giới thuyết về thể loại). Tất cả những biểu hiện trên cho thấy giai
thoại chưa thực sự nhận được sự quan tâm từ các nhà nghiên cứu và cũng chưa được
nhìn nhận như một thể loại độc lập.
1.2.1.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975
Ở giai đoạn này, về mặt lịch sử, nước ta có sự chia cắt hai miền Nam Bắc. Tình
hình sưu tầm, giới thiệu và nghiên cứu về giai thoại ở hai miền cũng có những đặc
điểm khác nhau. Sau đây, luận án điểm qua những công trình tiêu biểu về giai thoại
trong giai đoạn 1945 – 1975. Ở miền Bắc, vào năm 1965, nhóm tác giả Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh Mại cho ra mắt công trình Giai thoại văn học
Việt Nam [65]. Sách giới thiệu tiểu loại giai thoại văn học với 254 đơn vị tác phẩm,
chia thành 2 phần: Tiểu luận và giới thiệu văn bản. Đây là công trình giới thiệu tác
phẩm giai thoại văn học đầu tiên ở nước ta. Tác giả Trần Thanh Mại đã chấp bút phần
Tiểu luận và đưa ra quan điểm về giai thoại ở các khía cạnh: định nghĩa, đặc trưng thể
loại. Nhưng phần quan niệm này chỉ gói gọn trong phạm vi bộ phận giai thoại văn học
nên cũng chưa bao quát hết được những đặc trưng thể loại của giai thoại (ở hai tiểu
loại còn lại là giai thoại lịch sử và giai thoại văn hóa dân gian). Đây là công trình đầu
tiên đưa ra quan niệm cụ thể về giai thoại Việt Nam và có sự ảnh hưởng nhất định đến
các tác giả sau này như Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch.
Ở miền Nam, có hai công trình giới thiệu giai thoại đáng chú ý là Giai thoại văn
chương Việt Nam (1958) của Thái Bạch và Giai thoại làng nho (xuất bản lần đầu vào
năm 1963) của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc. Cả hai công trình này đều chỉ giới hạn giới
thiệu giai thoại ở phạm vi văn học. Trong công trình Giai thoại văn chương Việt Nam
[12], tác giả Thái Bạch giới thiệu 62 giai thoại văn học, gồm các tác giả nhà nho nổi
tiếng thời trung đại và nhân vật khuyết danh. Truyện được sắp xếp theo lịch đại, từ
thời Tiền Lê (vua Lê Đại Hành) đến thời hiện đại (trường hợp nhà văn Hồ Biểu
Chánh). Tác giả có trình bày cả Hán tự bên cạnh phần phiên âm nhưng không chú
thích dị bản. Mở đầu tác phẩm là phần giới thiệu của tác giả về nhân vật sắp kể, sau đó
là phần câu chuyện có liên quan đến nhân vật, cuối cùng là phần giảng giải, bình luận
của người biên soạn. Trong phần Lời tựa, Thái Bạch đã nêu đôi nét về đặc điểm của
giai thoại như sau: “Giai thoại là những chuyện hay và lạ được truyền tụng phổ thông
trong khắp các từng lớp nhân dân. Cùng với các chuyện cổ tích, tiếu lâm và phong
dao, tục ngữ, giai thoại cũng là một sản phẩm văn nghệ biểu hiện cho tình cảm và nếp
sống của dân tộc. Nhưng khác hơn, giai thoại là những chuyện có thật, nghĩa là
45
xuất phát từ sự thật, từ những nhân vật có tên tuổi và sự kiện rõ ràng” [12, tr.6].
Trong nhận xét trên, chúng tôi thấy có mấy điểm đáng quan tâm sau: 1. Tác giả mặc
dù không khẳng định giai thoại là một thể loại văn học dân gian nhưng đã thừa nhận
hình thức truyền miệng (“được truyền tụng phổ thông trong khắp các từng lớp nhân
dân”) và đặt giai thoại trong hệ thống các thể loại văn học dân gian (“chuyện cổ tích,
tiếu lâm và phong dao, tục ngữ”); 2. Thái Bạch quan niệm giai thoại là một thể loại kể
về người thật việc thật (“giai thoại là những chuyện có thật, nghĩa là xuất phát từ sự
thật, từ những nhân vật có tên tuổi và sự kiện rõ ràng”).
Nối tiếp công trình trên của Thái Bạch là công trình Giai thoại làng Nho (1963)
[34] của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc (lời tựa của Đoàn Thêm). Khác với những công
trình sưu tầm khác, ở công trình này, tác giả giới thiệu giai thoại theo tên của nhân vật
(nhà văn, nhà thơ, nhà khoa bảng), trình bày một cách liền mạch, từ nhân vật này đến
nhân vật khác, cả thảy gồm 94 nhân vật. Các truyện kể được viết liền kề nhau, ngăn
cách bằng hình thức ba dấu sao (***), hoặc không cần đánh dấu. Do vậy, trong nhiều
trường hợp, người đọc phải tự phán đoán nội dung để tự chuyển sang truyện khác.
Công trình này không có phần Tiểu luận và phân tích về đặc trưng thể loại của giai
thoại. So với công trình trước đó của Thái Bạch, đóng góp của công trình này là phần
văn bản, có chua và giải thích cặn kẽ những điển tích, Hán tự, cũng như chú thích
thêm phần dị bản.
Nhìn chung, ở giai đoạn 1945 – 1975, giai thoại đã được thừa nhận về mặt văn
bản, tức là đã được định danh một cách hẳn hoi qua tên của các công trình sưu tầm,
giới thiệu. Tuy nhiên, như đã thấy, các tác giả chỉ tập trung sự chú ý vào tiểu loại giai
thoại văn học, chưa thực sự quan tâm đến giai thoại lịch sử và giai thoại văn hóa dân
gian. Các tác giả ở miền Bắc (nhóm Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh
Mại) có đóng góp rõ rệt về mặt nghiên cứu lý thuyết thể loại của giai thoại so với các
tác giả ở miền Nam. Tuy nhiên, quan niệm về giai thoại của nhóm các tác giả miền
Bắc (mà đại diện là tác giả Trần Thanh Mại) còn thiên về văn chương bác học. Nếu đặt
các công trình ấy trong bối cảnh lịch sử (chiến tranh) và bối cảnh khoa học (nghiên
cứu giai thoại nói riêng, các thể loại văn học dân gian nói chung), thì sự giới hạn này
cũng có thể hiểu được. Nghĩa là, suy cho cùng, vẫn còn nhiều khía cạnh chưa thật sáng
rõ về vấn đề thể loại.
1.2.1.3. Giai đoạn từ 1975 đến nay
Giai đoạn này có thể chia thành hai giai đoạn nhỏ là: từ 1975 – 2000 và từ 2000
đến nay.
Giai đoạn từ 1975 – 2000
Trên cái nhìn khái quát, ở giai đoạn 1975 đến 2000, các tác giả sưu tầm, nghiên
46
cứu giai thoại đã có bước kế thừa, phát triển thành tựu của các giai đoạn trước đó để
xác định và đưa ra một cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn về mặt lý thuyết thể loại của giai
thoại. Về mặt tác phẩm, cả 3 tiểu loại chính của giai thoại (văn học, lịch sử và văn hóa
dân gian) đều được giới thiệu một cách phong phú, đa dạng, qua đó góp phần bổ
khuyết cho các giai đoạn trước. Quan niệm về giai thoại cũng có sự thay đổi so với
giai đoạn trước. Góc nhìn giai thoại từ lý thuyết folklore đã thay thế cho góc nhìn từ
văn học bác học. Chúng tôi xin điểm qua một số công trình tiêu biểu về giai thoại
trong giai đoạn này theo các xu hướng chính là: giai thoại tác gia, giai thoại vùng
miền, địa phương; giai thoại tổng hợp và giai thoại chuyên biệt (tập trung vào một tiểu
loại của giai thoại):
Về các công trình giới thiệu giai thoại theo xu hướng giai thoại tác gia có thể kể
đến:
– Giai thoại Nguyễn Khuyến (1984) [21] của Bùi Văn Cường. Đây là công trình
giới thiệu về những giai thoại xoay quanh Nguyễn Khuyến – một nhà nho nổi tiếng
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Công trình này tập hợp những giai thoại văn học và
văn hóa dân gian mà nhà nho Nguyễn Khuyến có tham gia sáng tác.
– Nguyễn Khắc Xương, Ông thần ngông – Giai thoại Tản Đà (1990) [168]. Công
trình này giới thiệu những giai thoại văn học có liên quan đến nhà thơ Tản Đà, trong
đó nổi bật lên cá tính tài tử, ngao du và tính cách đa tình của “nhà thơ của hai thế kỷ”.
– Chương Thâu, Giai thoại Phan Bội Châu (1991), (tái bản năm 2005) [138].
Công trình này giới thiệu những mẩu chuyện xoay quanh nhà thơ, nhà nho tài tử, nhà
chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu. Sách tập hợp cả 3 tiểu loại giai thoại về Phan Bội
Châu.
– Phan Phụng, Tú Quỳ, văn chương và giai thoại (1992) [123]. Sách tập hợp 29
giai thoại về Tú Quỳ (chủ yếu là giai thoại văn học).
Trên phạm vi vùng miền, địa phương, có thể kể ra một số công trình sưu tầm tiêu
biểu như:
– Vũ Ngọc Khánh, Giai thoại văn học Thanh Hóa (1983) [85]. Sách này giới
thiệu tiểu loại giai thoại văn học của những nhà nho nổi tiếng ở vùng đất Thanh Hóa.
– Vũ Ngọc Khánh, Đỗ Thị Hảo, Giai thoại Thăng Long (Chuyện kẻ chợ, chuyện
kinh kỳ) (1987) [86]. Sách này có 66 giai thoại về các sự kiện, nhân vật được giới hạn
ở phạm vi Thăng Long (Hà Nội), bao gồm cả 3 tiểu loại là giai thoại văn học, giai
thoại lịch sử và giai thoại văn hóa dân gian.
– Vũ Ngọc Khánh, Giai thoại xứ Lạng (1989) [87]. Sách giới thiệu những giai
thoại ở vùng đất Lạng Sơn, gồm cả ba tiểu loại.
– Tôn Thất Bình, Huế, những giai thoại (1987) [18]. Sách tập hợp 59 giai thoại
47
xoay quanh các nhân vật thuộc hoàng phái: giai thoại về các mệ, giai thoại về làng hia
mão, giai thoại từ dân gian đến cung đình. Như vậy, đây là công trình giới thiệu tiểu
loại giai thoại lịch sử ở phạm vi xứ Huế.
– Nguyễn Đắc Xuân, Chuyện cũ cố đô (1987) [167]. Sách đã tập hợp 25 giai
thoại về vùng đất thần kinh, xoay quanh các nhân vật trong hoàng tộc gồm vua chúa
nhà Nguyễn, các quan lại trong sinh hoạt chính trị và văn chương (gồm giai thoại lịch
sử và giai thoại văn học);
– Nguyễn Hữu Hiếu, Giai thoại dân gian Đồng Tháp Mười (1988) [62]. Sách tập
hợp được 42 đơn vị tác phẩm có liên quan về các sự kiện và nhân vật ở địa phương
vùng Đồng Tháp Mười. Tuy có tên là “giai thoại dân gian” nhưng thực ra, phần lớn
văn bản mang màu sắc truyền thuyết hơn là giai thoại.
– Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, Nghìn năm bia miệng, 2 tập (1992)
[151]. Cả hai tập có tổng số lượng tác phẩm là 201, gồm nhiều thể loại khác nhau, đa
phần là truyền thuyết và giai thoại được sưu tầm ở Nam Bộ ở giai đoạn cận đại.
Nhìn chung, trong các tuyển tập này, các tác phẩm đều được tác giả cho là giai
thoại và ngay cả vấn đề thể loại cũng chủ yếu dựa vào tiêu chí nội dung. Riêng quyển
Giai thoại dân gian Đồng Tháp Mười, tác giả Nguyễn Hữu Hiếu đã gộp chung thể loại
giai thoại và truyền thuyết vào trong tên gọi “giai thoại dân gian”. Còn quyển Nghìn
năm bia miệng, tác giả Huỳnh Ngọc Trảng tuy có phân định giai thoại và sự tích
(truyền thuyết) nhưng cũng chưa thấy đưa ra quan niệm về giai thoại cũng như sự phân
biệt giai thoại và truyền thuyết. Chính sự phân định chưa thật thuyết phục về mặt thể
loại này cho thấy đến lúc phải phân định rạch ròi hơn.
Ở xu hướng giới thiệu giai thoại dưới dạng thức tổng hợp (bao gồm cả 3 tiểu
loại), có thể kể đến công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam (2 tập) (1994) [89] của Vũ
Ngọc Khánh. Tuyển tập Kho tàng giai thoại Việt Nam được chia thành hai tập, gồm
893 đơn vị tác phẩm (Giai thoại văn học: 394 tác phẩm, giai thoại lịch sử: 234 tác
phẩm và giai thoại folklore: 263 tác phẩm). Sách được biên soạn theo một quan niệm
mới trong việc nghiên cứu, sưu tầm giai thoại. Đó là quan niệm đánh giá giai thoại từ
góc nhìn của lý thuyết nghiên cứu folklore. Với việc vận dụng lý thuyết folklore, Vũ
Ngọc Khánh đã khẳng định giai thoại là một thể loại độc lập thuộc văn học dân gian.
Đây là công trình sưu tầm, chuyên nghiên cứu giai thoại đầu tiên ở nước ta có chủ
thuyết rõ ràng. Bên cạnh việc phân loại giai thoại, tác giả Vũ Ngọc Khánh đã bước đầu
đưa ra định nghĩa và phân tích một số đặc điểm về nội dung và hình thức của giai
thoại.
Giới thiệu về giai thoại lịch sử, tác giả Nguyễn Khắc Thuần có công trình Việt sử
giai thoại, 8 tập (xuất bản từ 1992 đến 1994) [145]. Theo lời giới thiệu của GS Trần
48
Văn Giàu: “Sách gồm những giai thoại được trích lục từ các bộ chính sử của tổ tiên
như : Đại Việt sử lược, Đại Việt sử kí toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện,... Mọi giai thoại đều có ghi xuất xứ gọn
gàng mà chính xác, đồng thời lại có thêm lời bàn khá hóm hỉnh, vừa như để giải thích
thêm những điều cần giải thích, vừa như để gợi ý cảm nhận và suy nghĩ về lịch sử cho
người đọc” (Lời giới thiệu Việt sử giai thoại, [145, tr.2]). Sách giới thiệu những tác
phẩm được tác giả xem là giai thoại lịch sử từ thời Hùng Vương trở về sau.
Công trình Giai thoại folklore Việt Nam (1996) [91] của Vũ Ngọc Khánh là
tuyển tập được tách ra từ tiểu loại giai thoại folklore – một phần trong Kho tàng giai
thoại Việt Nam (1994) đã được in trước đó. Hướng tiếp cận giai thoại của tác giả vẫn
xuất phát từ góc nhìn lý thuyết folklore. Vũ Ngọc Khánh vẫn quan niệm giai thoại là
một thể loại độc lập thuộc văn học dân gian và so với công trình trước, tác giả có bổ
sung thêm một số đặc điểm khác của giai thoại. Theo đó, những bổ sung mới của tác
giả so với quan niệm trong Kho tàng giai thoại Việt Nam là: 1. Về giai thoại lịch sử:
tính hư cấu và sai lệch của giai thoại lịch sử, nguồn gốc lịch sử của giai thoại, nhóm
giai thoại cung đình có liên quan đến các ông hoàng, bà chúa, nhóm giai thoại đi sứ,
nhóm giai thoại giải thích ca dao, vè lịch sử; 2. Về motif nhân vật: tác giả bổ sung
thêm motif con người trí thức; 3. Về chức năng giai thoại: tác giả đi vào phân tích
chức năng thẩm mỹ, chức năng nhận thức của giai thoại.
Có thể nói, phải đến công trình này thì quan niệm về giai thoại của Vũ Ngọc
Khánh mới thực sự được trình bày một cách bao quát, toàn diện trên hầu hết những
đặc trưng thi pháp thể loại của giai thoại, từ nội dung đến hình thức. Đặc biệt, cách
phân loại giai thoại folklore của tác giả mang tính định hướng thiết thực cho những
nhà nghiên cứu sau này.
Tóm lại, ở giai đoạn 1975 đến 2000, tình hình tư liệu và nghiên cứu về giai thoại
Việt Nam có mấy điểm đáng lưu ý sau:
– So với các giai đoạn trước, nếu các tác giả chủ yếu quan tâm giai thoại ở tiểu
loại giai thoại văn học, thì đến giai đoạn này, các tác giả đã giới thiệu tư liệu giai thoại
một cách khá toàn diện, bao quát được 3 tiểu loại.
– Bên cạnh giới thiệu giai thoại chuyên biệt, đã xuất hiện những xu hướng mới
trong việc giới thiệu tư liệu giai thoại là: Xu hướng tác gia, xu hướng địa phương, xu
hướng tổng hợp.
– Ở đây có sự nhận thức mới: Từ quan niệm giai thoại là thể loại văn học viết
chuyển sang quan niệm giai thoại là một thể loại văn học dân gian. Về vấn đề này, chỉ
có tác giả Trần Thanh Mại quan niệm giai thoại là một thể loại của văn học thành văn.
Theo chúng tôi, sự khác biệt này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó, không thể
49
loại trừ nguyên nhân tư liệu.
Giai đoạn quyển Giai thoại văn học Việt Nam [65] (của nhóm Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh Mại) ra đời là chỉ gói gọn giai thoại trong phạm
vi văn học. Với một nội hàm hẹp như vậy, ta hiểu vì sao Trần Thanh Mại khẳng định
giai thoại thuộc văn học viết. Còn ở giai đoạn 1975 đến 2000, do phạm vi tư liệu giai
thoại đã được giới thiệu toàn diện, bao quát hơn nên dễ thấy quan niệm trên không còn
phù hợp với tình hình thực tiễn nữa. Nó đã được thay thế bằng một quan niệm mới mẻ,
phản ánh việc tiếp cận kho tàng giai thoại ngày càng phong phú hơn. Vũ Ngọc Khánh
đã căn cứ vào lý thuyết folklore (chủ yếu là các nhà nghiên cứu Nga) để khẳng định
giai thoại không phải thuộc về văn học viết mà thuộc về văn học dân gian bởi những
đặc trưng tiêu biểu của một thể loại văn học dân gian.
Giai đoạn từ 2000 đến nay
Từ năm 2000 đến nay, tình hình sưu tầm, giới thiệu giai thoại nhìn chung vẫn đi
theo những xu hướng của giai đoạn 1975 – 2000. Ở xu hướng giới thiệu giai thoại địa
phương, vùng miền, có thể kể ra một số công trình tiêu biểu sau:
– Hoàng Hương Việt, Giai thoại đất Quảng (2004) [161]. Sách tập hợp 109 giai
thoại, được chia thành các lĩnh vực: Học hành thi cử, tâm thế vì nước, vì dân, tài thao
lược, thông minh, cương trực, bài xích bọn tham quan, bán nước, trào lộng, hài hước.
Căn cứ vào các đề tài này, có thể thấy tác giả đã giới thiệu 02 tiểu loại giai thoại văn
học và giai thoại lịch sử ở xứ Quảng.
– Ninh Viết Giao, Văn hóa dân gian xứ Nghệ, Tập 3: Truyện cười và giai thoại
(2012) [49]. Đây là công trình tuyển chọn có quy mô lớn, bao gồm nhiều thể loại thuộc
văn hóa dân gian của vùng đất xứ Nghệ. Ở tập 3, PGS Ninh Viết Giao đã giới thiệu
truyện cười và giai thoại của vùng đất này. Trong đó, phần giai thoại chia thành: a.
Giai thoại xung quanh các nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa, sĩ phu yêu nước và
các nhà nho xứ Nghệ; b. Giai thoại về một nhân vật hoặc một sự kiện; c. Giai thoại
folklore.
Cách phân loại trên của tác giả Ninh Viết Giao là căn cứ vào vai trò nhân vật
(lịch sử và văn hóa) và những hoạt động đời thường mà nhân vật ấy tham gia. Ví dụ,
cụ Phan Bội Châu vừa là nho sĩ yêu nước, vừa là nhà nho tài tử tham gia vào hát
phường vải ở địa phương, cho nên xuất hiện cùng lúc ở giai thoại lịch sử và giai thoại
folklore. Cách phân loại trên có phần tương đồng với Vũ Ngọc Khánh ở chỗ định danh
“giai thoại folklore”. Đóng góp lớn nhất của công trình là đã sưu tầm và đưa ra hệ
thống văn bản giai thoại của xứ Nghệ, đặc biệt nhất là nhóm giai thoại về sinh hoạt
văn nghệ dân gian của các nhà nho tài tử (Phan Bội Châu, Nguyễn Công Trứ,...) và các
nghệ nhân dân gian nổi tiếng của vùng đất này.
50
Xu hướng giới thiệu giai thoại ở dạng thức chuyên biệt cũng đánh dấu những
thành tựu đáng ghi nhận, đặc biệt là tiểu loại giai thoại lịch sử. Nếu ở giai đoạn 1975 –
2000, giai thoại lịch sử còn nằm trong hệ thống tổng hợp (cùng với giai thoại văn học
và giai thoại văn hóa dân gian, nổi bật nhất là công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam
[82] của Vũ Ngọc Khánh), thì đến giai đoạn này, tiểu loại giai thoại lịch sử đã được
quan tâm nhiều hơn, được tập trung sưu tầm, giới thiệu một cách toàn diện, sâu sát
hơn. Tiêu biểu là các công trình Giai thoại lịch sử Việt Nam, 2 tập (2002) của Kiều
Văn [159]. Cũng giống như Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần, sách này tập
hợp giai thoại lịch sử từ kho tàng lịch sử dân tộc.
Về các công trình giới thiệu tiểu loại giai thoại văn hóa dân gian, có thể kể ra một
số sách tiêu biểu nhất như:
– Giai thoại Truyện Kiều (2005) [95] của Vũ Ngọc Khánh. Sách này tập hợp
những giai thoại có liên quan đến Truyện Kiều trong sinh hoạt văn hóa của nhân dân
gồm tập Kiều, lẩy Kiều, đố Kiều. Đa phần những giai thoại trong quyển này đã được
tác giả giới thiệu trong công trình Giai thoại folklore Việt Nam (1996) đã xuất bản ở
giai đoạn trước.
– Giai thoại văn hóa dân gian người Việt, (2 tập, 2016) [114] của Triều Nguyên.
Đây là công trình tuyển chọn, giới thiệu về giai thoại văn hóa gần nhất. Sách được chia
thành hai phần: Phần 1 trình bày những vấn đề lý luận chung về giai thoại cũng như
giai thoại văn hóa dân gian, phần 2 giới thiệu văn bản giai thoại văn hóa dân gian.
Chúng tôi tóm lược lại quan niệm của Triều Nguyên như sau:
Về quan niệm giai thoại, tác giả tiếp thu quan niệm của Vũ Ngọc Khánh, xem
giai thoại là thể loại tổng hợp, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó trọng tâm
là ba lĩnh vực chủ yếu: Văn học, lịch sử và văn hóa. Tuy nhiên, Triều Nguyên không
cho rằng giai thoại là thể loại tự sự dân gian, mà chỉ thừa nhận tính chất tổng hợp của
nó.
Về đặc điểm giai thoại, tác giả căn cứ vào các tiêu chí khác nhau để khái quát
nên đặc điểm của giai thoại gồm: tính hiển nhiên người thật việc thật, tính trọng tâm
của sự việc then chốt (xét về mặt văn bản); tính phi chính thống, tính sai biệt, tính phụ
thuộc (xét trong mối quan hệ với chỉnh thể); tính ngoài lề, tính mục đích (xét trong
quan hệ với người dựng truyện); tính thuyết phục, tính lý thú (xét trong quan hệ với
người tiếp nhận).
Về vị trí, phân loại và giá trị của tiểu loại giai thoại văn hóa dân gian, Triều
Nguyên đã tìm hiểu, xác định: 1. Về vị trí, giai thoại văn hóa dân gian là một bộ phận
của giai thoại, thuộc phạm trù văn hóa; 2. Về phân loại, giai thoại văn hóa dân gian
được chia thành các nhóm, tiểu nhóm sau: a. Giai thoại về tín ngưỡng phong tục; b.
51
Giai thoại về ngữ văn dân gian; c. Giai thoại về sân khấu truyền thống; d. Giai thoại
về một số lĩnh vực khác; 3. Giá trị của giai thoại văn hóa dân gian.
Nhìn chung, đóng góp lớn nhất của Triều Nguyên qua công trình này là phần
phân loại giai thoại văn hóa. Nét mới của Triều Nguyên là mặc dù tiếp thu quan niệm
của Vũ Ngọc Khánh nhưng tác giả đã có sự bổ sung thêm trong cách phân loại qua ba
nhóm của giai thoại văn hóa dân gian là giai thoại về tín ngưỡng phong tục, giai thoại
về ngữ văn dân gian và giai thoại về một số lĩnh vực khác.
Xu hướng giới thiệu giai thoại về danh nhân cũng được nối tiếp qua các công
trình khác như:
– Lương Cao Rính, Giai thoại Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (2001) [131].
Sách tập hợp 85 tác phẩm, gồm giai thoại văn học và giai thoại lịch sử về Nguyễn
Bỉnh Khiêm, chia thành các giai đoạn: Thời thơ ấu, Tuổi thanh niên, Bạch Vân cư sĩ,
Âm vang lời trạng.
– Phan Trung Nghĩa, Công tử Bạc Liêu – Sự thật và giai thoại (2009) [116].
– Phan Thư Hiền, Phan Hồng Lam, Giai thoại về các bậc tiền nhân mê hát ca trù
và các đào nương lưu danh sử sách, (2011) [57]. Sách này tập hợp, giới thiệu giai
thoại văn hóa dân gian, gồm những nhân vật lịch sử thích hát ca trù nổi tiếng trong lịch
sử dân tộc từ thời Lý, Trần trở về sau.
– Phan Thư Hiền, Nguyễn Thị Thân sưu tầm, Giai thoại Nguyễn Du và những
mối tình dang dở (2012) [59]. Sách này tập hợp những tình sử có liên quan đến thi hào
Nguyễn Du.
– Huyền Li (2009), 36 giai thoại về Nguyễn Công Trứ [103] và Phan Thư Hiền
(2012), Giai thoại Nguyễn Công Trứ [58]. Hai công trình này giới thiệu những giai
thoại có liên quan đến Nguyễn Công Trứ, gồm cả 3 tiểu loại là giai thoại văn học, giai
thoại lịch sử và giai thoại văn hóa dân gian.
Ngoài ra, xu hướng giới thiệu giai thoại ở dạng thức tổng hợp cũng xuất hiện,
tiêu biểu là công trình Giai thoại Việt Nam: Ông vua làm vè (giai thoại nhân vật lịch
sử, văn học) (2009) [106] của Trần Đình Nam. Sách này tập hợp, giới thiệu 40 tác
phẩm, gồm giai thoại lịch sử và giai thoại văn học.
Tóm lại, về mặt tư liệu, ở giai đoạn 2000 đến nay, giai thoại Việt Nam đã được
giới thiệu chủ yếu ở ba lĩnh vực chính là: Văn học, lịch sử và văn hóa dân gian. Trong
từng tiểu loại, các tác giả đã chia nhỏ ra thành từng nhóm, tiểu nhóm. Những người
tiên phong đi sâu vào lý thuyết vẫn tập trung vào Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch,
Triều Nguyên,... Lý thuyết đó được bổ sung và sắp xếp một cách khoa học hơn.
Chung quy lại, căn cứ mốc thời gian từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nay, giai thoại
Việt Nam đã được giới thiệu, nghiên cứu như sau:
52
Bảng 1.3. Tình hình giới thiệu và nghiên cứu giai thoại Viêt Nam
Lý thuyết về giai thoại
Chưa được quan tâm, bàn
luận Stt Giai đoạn
1 Nửa cuối thế
kỷ XIX đến
1945
Tư liệu về giai thoại
- Giai thoại nằm lẫn lộn với các
thể loại khác của văn học dân
gian
- Chưa được định danh chính
thức (trừ công trình Việt sử giai
thoại)
- Gồm giai thoại văn học và giai
thoại lịch sử
1945 đến 1975 - Đã được định danh chính thức 2
- Chủ yếu là giai thoại văn học ở
hai miền Nam, Bắc
3
1975 đến nay Bao quát 3 tiểu loại của giai
thoại (văn học, lịch sử, văn hóa
dân gian)
Được bàn luận dưới góc nhìn
văn học thành văn, dẫn đến
quan niệm: Giai thoại là thể
loại thuộc văn học thành văn
(Trần Thanh Mại)
- Tiếp cận giai thoại từ lý
thuyết
folklore, đưa đến
quan niệm: Giai thoại là thể
loại thuộc văn học dân gian
(Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu
Hoạch)
- Tiếp cận giai thoại từ nhiều
góc nhìn (văn học viết,
folklore) dẫn đến quan niệm:
Giai thoại là thể loại mang
tính tổng hợp, bao gồm 3
lĩnh vực văn học, văn hóa
dân gian và lịch sử (Triều
Nguyên)
1.2.2. Đánh giá tư liệu và vấn đề xử lý tư liệu giai thoại Việt Nam
1.2.2.1. Đánh giá tư liệu giai thoại Việt Nam
Ở trên, chúng tôi đã nêu một số quan niệm thể loại của các công trình cũng như
việc xử lý phân loại. Sau đây, xin đi vào cụ thể thống kê việc phân loại cũng như đánh
giá tư liệu giai thoại Việt Nam.
Về các công trình giới thiệu giai thoại trước 1945:
– Quyển Chuyện đời xưa [82] của Trương Vĩnh Ký gồm cả thảy 74 đơn vị tác
phẩm. Qua khảo sát văn bản, chúng tôi thống kê có 06 tác phẩm là giai thoại.
– Quyển Nam Hải dị nhân liệt truyện (Phan Kế Bính) [17] gồm 8 chương, giới
thiệu theo nhân vật, bao gồm các thể loại tự sự dân gian (chủ yếu là truyền thuyết và
giai thoại) và cả truyện truyền kỳ. Trong 59 tác phẩm, sách này có: 02 truyện truyền
kỳ; 34 truyền thuyết và 23 giai thoại (văn học và lịch sử).
53
– Quyển Văn đàn bảo giám [160] của Trần Trung Viên gồm các phần: Phần 1:
Giới thiệu các thể loại trữ tình và tự sự của các tác giả văn học trung đại; Phần 2: Giai
thoại làng văn (phần này giới thiệu được 88 đơn vị tác phẩm giai thoại văn học); Phần
3: Những câu tạp đối; Phần 4: Hán Việt văn biểu; Phần 5: Tiểu sử các bậc thi hào Việt
Nam. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy chỉ có phần Giai thoại làng văn của công
trình đảm bảo tiêu chí của thể loại giai thoại (có nhân vật, cốt truyện, thơ văn,...), các
phần còn lại chủ yếu giới thiệu cung cấp các thông tin về văn học sử, chưa đảm bảo
tiêu chí của một văn bản tự sự (có nhân vật, cốt truyện,...) cho nên không thể xem là
giai thoại.
– Quyển Câu đối [108] của tác giả Nguyễn Văn Ngọc có cả thảy 261 tác phẩm,
trong đó chúng tôi xác định có 60/261 tác phẩm là giai thoại văn học.
– Quyển Chuyện cổ nước Nam (1934) (2 tập) [109] của Ôn Như Nguyễn Văn
Ngọc có 09/120 đơn vị tác phẩm là giai thoại văn học.
– Công trình Việt sử giai thoại (1934) [117] của Đào Trinh Nhất gồm 7 mục, có
cả giai thoại lịch sử và giai thoại văn học.
Về các công trình giới thiệu giai thoại từ 1945 đến nay:
Ở trên là phần đánh giá về tư liệu giai thoại giai đoạn trước 1945. Đến đây,
chúng tôi điểm qua tình hình tư liệu giai thoại từ 1945 đến nay. Trước hết là công trình
Giai thoại văn học Việt Nam (1965) [65]. Công trình gồm cả thảy 254 tác phẩm, trong
đó, theo khảo sát của chúng tôi, có 35/254 tác phẩm nằm ở ranh giới giữa giai thoại
văn học và giai thoại văn hóa dân gian. Tác giả đã căn cứ vào yếu tố thơ văn để xếp
vào giai thoại văn học. Điều đó cũng có cái lý riêng, cụ thể như sau:
– 20/33 tác phẩm nằm trong nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân
dân;
– 15/33 tác phẩm là giai thoại về sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian (hát ví,
hát phường vải, hát ả đào,...).
Do đây là công trình đầu tiên giới thiệu tác phẩm giai thoại nên các công trình về
sau có tham khảo sách này hầu như bị ảnh hưởng của quan niệm người đi trước. Khảo
sát công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam (2 tập) (1994) [89] của Vũ Ngọc Khánh
(chúng tôi chỉ khảo sát 2 tiểu loại là giai thoại văn học và giai thoại lịch sử, vì tiểu loại
giai thoại folklore đã được tác giả tách ra thành công trình riêng, sẽ khảo sát sau),
chúng tôi thống kê được có 81/629 tác phẩm. Trong đó, chúng tôi ngờ rằng có một số
tác phẩm xếp loại chưa thật chuẩn xác, cụ thể như sau:
– 44/81 tác phẩm không phải là giai thoại văn học mà là giai thoại văn hóa dân
54
gian;
– 35/81 tác phẩm không phải giai thoại lịch sử mà là giai thoại văn học (34
trường hợp) và giai thoại văn hóa dân gian (01 trường hợp);
– 02/81 tác phẩm không có cốt truyện (Xin xem Phụ lục).
Công trình xuất bản tiếp theo của Vũ Ngọc Khánh là Giai thoại folklore Việt
Nam (1996) [91] cũng có 154/461 tác phẩm giai thoại xếp chưa hợp lý. Cụ thể như
sau:
- 18/154 tác phẩm không có cốt truyện (chỉ đưa ra những thông tin bên lề, nhằm
giải thích cho câu thành ngữ, phương ngôn);
– 67/154 tác phẩm là giai thoại văn học;
– 47/154 tác phẩm là giai thoại lịch sử;
– 01/154 tác phẩm là truyền thuyết địa danh;
– 21/154 tác phẩm là truyện trạng (Xin xem Phụ lục)
Tương tự như công trình Giai thoại folklore của Vũ Ngọc Khánh, công trình Giai
thoại văn học Việt Nam [67] của Kiều Thu Hoạch cũng có 58/442 tác phẩm theo chúng
tôi không phải là giai thoại văn học mà là giai thoại văn hóa dân gian, cụ thể như sau:
– 28/58 tác phẩm thuộc nhóm giai thoại văn hóa dân gian về phong tục tập quán
của nhân dân (trường hợp câu đối trong tập quán của nhân dân gồm: các câu đối Tết,
tân gia, đám tang, đám cưới, thờ phụng, mừng thăng chức, đỗ đạt,...)
– 29/58 tác phẩm thuộc nhóm giai thoại văn hóa dân gian về sinh hoạt văn hóa,
văn nghệ dân gian
– 01/58 tác phẩm thuộc nhóm giai thoại văn hóa dân gian về sân khấu
Ngoài các công trình tập trung giới thiệu giai thoại Việt Nam theo hướng chuyên
sâu ở trên, chúng tôi cũng có đôi điều muốn trình bày về các tuyển tập truyện dân gian
ở khu vực Nam Bộ. Đó là các công trình Truyện kể dân gian Nam Bộ, Giai thoại dân
gian Đồng Tháp Mười của Nguyễn Hữu Hiếu và Nghìn năm bia miệng (2 tập) của
Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường. Quyển Giai thoại dân gian Đồng Tháp
Mười tuy có tên gọi là giai thoại dân gian, tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi, chỉ
có 02/42 tác phẩm được xem là giai thoại (tiểu loại giai thoại văn học, trường hợp Mấy
giai thoại về thơ văn cụ Phó Bảng; Dốt hay nói chữ), còn lại là truyền thuyết và cổ
tích. Còn công trình Truyện kể dân gian Nam Bộ, có tên chung là truyện kể dân gian
(tức tự sự dân gian) theo chúng tôi lại có sự hiện diện của giai thoại trong đó. Cụ thể,
có 09/95 tác phẩm là giai thoại (08 tác phẩm giai thoại văn học và 01 tác phẩm là giai
thoại văn hóa dân gian). Trong công trình Nghìn năm bia miệng (2 tập) của Huỳnh
55
Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, chúng tôi thống kê có 17/199 tác phẩm là giai thoại
văn học và giai thoại văn hóa dân gian (Xin xem Phụ lục 1).
Ở tiểu loại giai thoại lịch sử, cũng có điều đáng bàn về mặt văn bản. Ở đây,
chúng tôi xin nêu 2 công trình tiêu biểu là: Giai thoại lịch sử Việt Nam [159] của Kiều
Văn và Việt sử giai thoại [145] của Nguyễn Khắc Thuần. Công trình Việt sử giai thoại
(8 tập, xuất bản từ năm 1992 đến năm 1994) [145] của Nguyễn Khắc Thuần gồm 8
tập, trong đó, chúng tôi cũng ngờ rằng có một số tác phẩm không phải giai thoại lịch
sử mà là truyền thuyết (lịch sử và phong tục), cụ thể như sau:
- Tập 1 (“40 giai thoại từ thời Hùng Vương đến hết thế kỷ thứ X”): có 14/40 tác
phẩm là truyền thuyết, còn lại là giai thoại lịch sử.
- Tập 2 (“51 giai thoại thời Lý”): cả 51 tác phẩm này đều là giai thoại lịch sử.
- Tập 3 (“71 giai thoại thời Trần”): cả 71 tác phẩm này đều là giai thoại lịch sử.
- Tập 4 (“36 giai thoại thời Hồ và thời thuộc Minh”): có 02/36 tác phẩm là giai
thoại văn học, còn lại 34 văn bản là giai thoại lịch sử.
- Tập 5 (“62 giai thoại thời Lê”): có 03/62 tác phẩm là truyền thuyết lịch sử; 01/62
văn bản là giai thoại văn học.
- Tập 6 (“65 giai thoại thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII”): có 01/65 tác phẩm là truyền
thuyết lịch sử, còn lại là giai thoại lịch sử.
- Tập 7 (“69 giai thoại thế kỷ XVIII”): có 01/69 tác phẩm là truyền thuyết
- lịch sử.
- Tập 8 (“45 giai thoại thế kỷ XIX”): có 01/45 tác phẩm là truyền thuyết lịch sử.
Còn công trình Giai thoại lịch sử Việt Nam [159] của Kiều Văn, về mặt văn bản
chúng tôi cũng nghi ngờ còn lẫn lộn nhiều văn bản là truyền thuyết và giai thoại văn
học chứ không phải là giai thoại lịch sử. Sách này tập hợp, giới thiệu 131 đơn vị tác
phẩm nhưng theo khảo sát của chúng tôi, có đến 65/131 tác phẩm là giai thoại văn học,
14/131 tác phẩm là truyền thuyết lịch sử và 05/131 tác phẩm là giai thoại văn hóa dân
gian. Như vậy, về tiểu loại giai thoại lịch sử được giới thiệu hiện nay, vẫn còn sự nhập
nhằng giữa giai thoại và truyền thuyết, thậm chí chưa có sự tách bạch giữa các tiểu loại
của giai thoại như đã thấy. Đây là một thực tiễn đáng lưu tâm và cần thiết được bổ
khuyết, đính chính lại.
Trong công trình Truyền thuyết dân gian người Việt (Tập 4, 5) (2004) [68] (nằm
trong bộ Tổng tập Văn học dân gian người Việt) do Kiều Thu Hoạch chủ biên cũng có
một số vấn đề về văn bản. Trong tập 5, chúng tôi xác định có 14 văn bản không phải là
truyền thuyết mà là giai thoại. Các tác phẩm này đều đề cập đến các nhà khoa bảng
56
(văn tài) như: Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Lê Quý Đôn, Lương Thế Vinh, Lương
Hữu Khánh,... Thế nhưng, trong công trình về giai thoại – quyển Giai thoại văn học
Việt Nam [67] (cùng xuất bản năm 2004) của chính Kiều Thu Hoạch, thì những tác
phẩm trên được tác giả xếp vào giai thoại (văn học) (chỉ thay đổi tên truyện) (Xin xem
Phụ lục). Như vậy là chưa có sự nhất quán về mặt xác định thể loại.
Tóm lại, tư liệu giai thoại Việt Nam hiện nay rất phong phú, đa dạng về mặt văn
bản nhưng việc phân loại của các tác giả thực sự có vấn đề. Trường hợp này không
phải cá biệt. Ngay như Vũ Ngọc Khánh vẫn rơi vào trường hợp tương tự. Trong hai
công trình đồ sộ về giai thoại, có khá nhiều tác phẩm được tác giả xếp ở những tiểu
loại khác nhau, mặc dù thời gian xuất bản của hai công trình ấy chỉ cách nhau đúng 2
năm. Ví dụ, ở công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam (1994), các tác phẩm có liên
quan đến câu đối trong tập quán của nhân dân như: Thạch Hà – Kim Động; Mạc bất
hà như; Mẫu phối Mạnh Đức; Thể quần thần; Đại lai tiểu vãng,... được tác giả xếp
vào giai thoại văn học, tuy nhiên, trong công trình xuất bản sau đó, Giai thoại folklore
Việt Nam (1996), Vũ Ngọc Khánh lại xếp các tác phẩm trên vào tiểu loại giai thoại
folklore. Tác giả đã có sự thay đổi về quan niệm phân loại giai thoại nhưng không nêu
ra ở phần Tiểu luận. Điều này thực sự gây khó khăn nhất định cho những ai quan tâm,
tìm hiểu về giai thoại Việt Nam. Do vậy, theo chúng tôi, đã đến lúc phải hệ thống lại
sự phân loại tiểu loại, nhóm, tiểu nhóm của giai thoại Việt Nam, để tránh những những
thiếu sót, cũng như có thể trả lại đúng vị trí cho từng tiểu loại giai thoại.
1.2.2.2. Vấn đề xử lý tư liệu giai thoại Việt Nam
Từ việc nêu ra những bất cập trong cách phân loại và sắp xếp tư liệu của các nhà
nghiên cứu, chúng tôi có những đề xuất về việc chọn lọc và hệ thống hóa tiểu loại,
nhóm, tiểu nhóm trong kho tàng giai thoại Việt Nam như sau:
Thứ nhất, cần phải loại bỏ ngay những tác phẩm không đảm bảo các tiêu chí của
thể loại.
Thứ hai, đã đến lúc cần phải đưa ra một bộ khung tiêu chí nhằm xác định sự tồn
tại của giai thoại để tránh tình trạng xác định nhầm/ sai thể loại trong các tuyển tập
giới thiệu về tự sự dân gian có tính chất gần gũi về mặt thể loại với giai thoại. Đây
cũng chính là một trong những nhiệm vụ khoa học đặt ra cho luận án này mà chúng tôi
sẽ tập trung giải quyết ở các chương, mục tiếp theo của luận án.
57
Tiểu kết Chương 1
Ở Chương 1, luận án đã điểm qua hai vấn đề lớn về giai thoại là tình hình nghiên
cứu giai thoại ở Việt Nam cũng như trên thế giới và vấn đề tư liệu của giai thoại Việt
Nam qua các thời kỳ. Qua tìm hiểu, chúng tôi rút ra một số điểm nổi bật như sau:
Thứ nhất, về vấn đề thuật ngữ và quan niệm về giai thoại, hiện tại có 4 khuynh
hướng, quan niệm khác nhau gồm: xem giai thoại là thể loại thuộc văn học viết; xem
giai thoại là thể loại văn học dân gian; xem giai thoại là thể loại trung gian giữa văn
học viết và văn học dân gian và xem giai thoại là thể loại tổng hợp. Thực tế trên cho
thấy quan niệm về giai thoại thực sự là một vấn đề không hề đơn giản, hiện tồn một số
ý kiến trái chiều, cần được bàn luận thêm một cách thấu đáo. Trong luận án này, chúng
tôi xác định giai thoại là một thể loại văn học dân gian và sẽ lý giải, phân tích vấn đề
này ở Chương 2.
Thứ hai, về các phương diện đặc điểm thể loại, các khía cạnh thi pháp thể loại,
phân định ranh giới và vấn đề chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và các thể loại của tự
sự dân gian, các nhà nghiên cứu đi trước đã cơ bản chỉ ra được những dấu hiệu cốt lõi,
quan trọng. Những kết quả nghiên cứu quý báu trên sẽ là những đúc kết, gợi mở khoa
học quan trọng mà chúng tôi sẽ tiếp thu, phát triển thêm trong quá trình nghiên cứu
giai thoại.
Thứ ba, về mặt phân loại giai thoại Việt Nam, mặc dù khác nhau ở tiêu chí nhưng
trên đại thể, các nhà nghiên cứu đi trước đã định hình được 3 tiểu loại quan trọng của
giai thoại là giai thoại văn học, giai thoại lịch sử và giai thoại văn hóa dân gian. Trong
đó, điều đáng lưu tâm là trong quan niệm phân loại của một số tác giả còn có điểm
chưa thật hợp lý (chưa thống nhất một tiêu chí phân loại ở cấp độ tiểu loại và cấp độ
nhóm của từng tiểu loại). Từ đó dẫn đến tình trạng lẫn lộn, nhập nhằng trong việc xác
định và phân biệt thể loại giữa giai thoại và một số thể loại khác trong tự sự dân gian.
Do vậy, cần phải xác lập lại tiêu chí phân loại một cách thống nhất ở các cấp độ tiểu
loại các nhóm của từng tiểu loại.
58
Chương 2. ĐỊNH VỊ THỂ LOẠI GIAI THOẠI VIỆT NAM
Thực tiễn nghiên cứu lý thuyết và sưu tầm, giới thiệu tư liệu về giai thoại ở trên
cho thấy tính chất phức tạp của đối tượng nghiên cứu, đòi hỏi phải xác định tư cách thể
loại của giai thoại cũng như một số khía cạnh quan trọng khác về mặt thể loại như khái
niệm, đặc trưng thể loại, phân loại. Trong các quan niệm về giai thoại, dễ thấy nổi lên
vấn đề chưa thống nhất, thậm chí là mâu thuẫn ở việc xác định giai thoại thuộc lĩnh
vực nào: văn học dân gian, văn học viết, hay là một thể loại tổng hợp (gồm văn học,
văn hóa, lịch sử). Với mục đích xác định và chứng minh giai thoại là một thể loại nằm
trong tự sự dân gian, luận án sẽ đưa ra một bộ khung tiêu chí định vị thể loại cũng như
chỉ ra những tính chất thuộc về đặc trưng thể loại, trong đó làm nổi bật được những
đặc điểm giúp nhận diện “bản chất dân gian” của thể loại. Tiếp theo đó, luận án sẽ tiến
hành phân loại kho tàng giai thoại Việt Nam dựa trên những điểm khả thủ cũng như
khắc phục những mâu thuẫn, chồng chéo trong cách phân loại của các nhà nghiên cứu
đi trước. Và cuối cùng, sau tất cả những thao tác trên, chúng tôi sẽ đưa ra khái niệm
chung nhất về thể loại giai thoại, tức là trả lời cho câu hỏi: Giai thoại là gì?
2.1. Các tiêu chí xác định giai thoại Việt Nam
Để tránh tình trạng nhập nhằng trong việc xác định thể loại của giai thoại với các
thể loại khác của tự sự dân gian, thấy cần xác lập tiêu chí khoa học để có cơ sở nhận
dạng và xử lý tư liệu. Về các tiêu chí để xác định thể loại giai thoại, các nhà nghiên
cứu đi trước đã tìm hiểu các vấn đề sau:
- Tiêu chí tính chất sự việc:
Giai thoại bao giờ cũng xoay quanh một sự kiện/ sự việc. Do đó, việc trước tiên
là xác định tính chất sự việc của giai thoại. Trong các công trình Giai thoại văn học
Việt Nam (1965) [65] và Giai thoại văn học Việt Nam (2004) [67], các tác giả Trần
Thanh Mại và Kiều Thu Hoạch (do chỉ dừng lại ở việc giới thiệu giai thoại văn học) đã
xác định tiêu chí tính chất sự việc của giai thoại văn học là các tình huống đối đáp văn
chương và tình huống sinh hoạt cá nhân, đời tư của các nhà văn, nhà thơ. Trong công
trình Kho tàng giai thoại Việt Nam (1994) và Giai thoại folklore Việt Nam (1996), Vũ
Ngọc Khánh đã điểm qua tiêu chí tính chất sự việc trong giai thoại, cụ thể là sinh hoạt
văn chương; sinh hoạt đời tư, cá nhân; sinh hoạt chính trị và sinh hoạt văn hóa, văn
nghệ dân gian – tức là đã nêu ra các khía cạnh cơ bản của tính chất sự việc trong giai
thoại nói chung (tương ứng với ba tiểu loại của giai thoại).
- Tiêu chí nhân vật:
Mỗi thể loại đều gắn với một kiểu hay nhóm nhân vật đặc thù. Giai thoại cũng
không ngoại lệ. Nhân vật giai thoại được xác định phải là nhân vật nổi tiếng trong một
59
số lĩnh vực, được các tầng lớp nhân dân thừa nhận. Các nhân vật có thể xuất thân từ
nhiều thành phần xã hội khác nhau.
Dù không trực tiếp nêu ra những đề tài chủ yếu của giai thoại nhưng qua cách
phân loại tiểu loại và phân nhóm, tiểu nhóm, các tác giả cũng đã gián tiếp chỉ ra các đề
tài cơ bản trong giai thoại: Giai thoại văn học (người nổi tiếng, khuyết danh (theo
NVC)) trong chùm truyện kể về câu đối, thơ phú (theo hình thức thơ văn)); giai thoại
lịch sử (những trang tình sử, giai thoại xử kiện, giai thoại ngoại giao, giai thoại quân
sự,…); giai thoại văn hóa, văn nghệ dân gian (phong tục tập quán của nhân dân; sinh
hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian; tập Kiều, đố Kiều, lẩy Kiều,…).
- Tiêu chí cảm hứng:
Các nhà nghiên cứu đi trước dù có nhắc đến cảm hứng ngợi ca, tôn vinh và cảm
hứng đả kích, phê phán nhưng cũng cần phải nói thêm rằng, những tiêu chí nêu trên
chưa thật hệ thống, rạch ròi. Thực ra cảm hứng trong giai thoại mang tính lưỡng diện.
Ca ngợi, tôn vinh không có nghĩa là phải cực tả, đại ngôn hay đề cao hoành tráng mà
chỉ cần nhắc đến một tài năng, một tình huống nào đấy cũng là ngợi ca. Những tiêu chí
trên đây giúp cho việc nhận dạng tác phẩm rõ ràng hơn, đặc biệt là đối với việc khảo
cứu. Sau đây, xin đi vào nội dung cụ thể của từng tiêu chí xác định giai thoại.
2.1.1. Đề tài của giai thoại
Tương ứng với ba tiểu loại tiêu biểu của giai thoại là ba lĩnh vực: văn học, lịch sử
và văn hóa. Và trong từng lĩnh vực, có thể chia ra các đề tài gắn liền với các nhóm,
tiểu nhóm của từng tiểu loại. Với cách tiến hành như thế, chúng tôi xác định được các
đề tài tiêu biểu của từng tiểu loại giai thoại như sau:
Giai thoại văn học gồm có ba đề tài lớn là: thách đố văn chương, ứng tác văn
chương và sinh hoạt đời tư của nhà văn, nhà thơ. Giai thoại lịch sử gồm các đề tài:
tình sử của các ông hoàng, bà chúa, các tướng lĩnh; giai thoại ngoại giao; giai thoại
quân sự,... Các đề tài tiêu biểu của giai thoại văn hóa dân gian là: thú tiêu dao các
nghệ nhân dân gian và các nhà nho tài tử; phong tục, tập quán, tín ngưỡng của nhân
dân (câu đối; các giai thoại về tập Kiều, lẩy Kiều, đố Kiều); các giai thoại có liên
quan đến ca dao, đồng dao, tục ngữ, thành ngữ; giai thoại về sân khấu, tuồng, chèo,
cải lương;...
Như vậy, có thể tóm lược các đề tài tiêu biểu của giai thoại qua bảng sau:
Bảng 2.1. Đề tài trong giai thoại Việt Nam
Tiểu loại giai thoại Đề tài
Giai thoại văn học 1. Thách đố văn chương
2. Ứng tác văn chương
60
3. Sinh hoạt đời tư của nhà văn, nhà thơ
Giai thoại lịch sử 1. Tình sử của các ông hoàng, bà chúa, các tướng
lĩnh
2. Giai thoại ngoại giao
3. Giai thoại quân sự
Giai thoại văn hóa dân gian 1. Thú tiêu dao của các nghệ nhân dân gian và các
nhà nho tài tử
2. Phong tục, tập quán, tín ngưỡng của nhân dân
3. Giai thoại có liên quan đến ca dao, đồng dao, tục
ngữ, thành ngữ…
4. Giai thoại về sân khấu, tuồng, chèo, cải lương
10 đề tài Tổng cộng:
Trong phần này, chúng tôi tập trung đi sâu vài khía cạnh tiêu biểu về sinh hoạt
đời tư và các hoạt động công cán, công việc triều chính.
Sinh hoạt đời tư gồm: Tình sử của các vua chúa, nhà nho nổi tiếng; tính tình, thói
quen, sở thích của nhân vật nổi tiếng; tập tục treo câu đối trong sinh hoạt của nhân
dân; chuyện học hành, thi cử của các nhà nho,…
Hoạt động triều chính gồm: Tiếp sứ giả nước ngoài; đi sứ sang Trung Quốc; trao
đổi, liên lạc sự vụ giữa các triều đại phong kiến Việt Nam; mâu thuẫn trong nội bộ
chính quyền phong kiến; việc xử kiện của vua quan phong kiến,...
Căn cứ vào hệ đề tài trên, chúng tôi đã thống kê 03 công trình là: Giai thoại văn
học Việt Nam (1965) [65]; Giai thoại văn học Việt Nam [67] và Giai thoại folklore
Việt Nam [91]. Đối tượng khảo sát ở đây là những văn bản có NVC là người nổi tiếng
trên các lĩnh vực, không xét đến nhân vật khuyết danh. Kết quả như sau:
Bảng 2.2. Kết quả thống kê các hoạt động chủ yếu trong giai thoại Việt Nam
Đề tài
Số lượng
văn bản
Sinh hoạt
văn chương
Sinh hoạt
đời thường
Hoạt động
triều chính
218
116
56
Sinh hoạt
văn hóa,
văn nghệ
11
35
358
219
69
24
46
180
37
45
27
71
folklore
thoại
756
372 (49,2%)
Công trình
Giai thoại văn học
Việt Nam [65]
Giai thoại văn học
Việt Nam [67]
Giai
Việt Nam [91]
Tổng cộng
170
(22,48%)
62
(8,2%)
152
(20,1%)
61
Sinh hoạt đời tư của các nhân vật nổi tiếng
Các sự việc thuộc sinh hoạt đời tư của một nhân vật nổi tiếng thường được xem
là bên lề, phi chính thống. Chính sự phi chính thống đã tạo ra một sức hút đặc biệt cho
giai thoại. Vì trên thực tế, những câu chuyện như vậy trong chính sử là rất ít. Qua
thống kê, chúng tôi xác định có 170/756 (tỉ lệ 22,48%) giai thoại trong 3 tuyển tập giai
thoại đề cập đến khía cạnh sinh hoạt đời tư của các nhân vật nổi tiếng. Sau đây là phần
mô tả cụ thể những biểu hiện của sinh hoạt đời tư trong giai thoại:
- Về tình sử của các nhân vật nổi tiếng
Nhân vật nổi tiếng ở đây là những nhà nho, nhà khoa bảng cũng như hoàng tộc
phong kiến Việt Nam. Như đã nói, trong các sách sử chính thống, những câu chuyện
mang tính chất bên lề rất ít khi xuất hiện. Đa phần, nó được người đời nhắc lại (truyền
văn). Thông qua những mẩu chuyện này, nhân dân muốn kéo nhân vật nổi tiếng trở về
với đời thường, bởi vì, suy cho cùng, dù họ là những con người phi thường (trong văn
chương hay chính trị, quân sự,…) thì ở họ vẫn có những hành động, ứng xử “rất
người”, rất đời thường trong tình yêu.
Về tình sử của các nhà nho, giai thoại đã đi sâu vào khía cạnh riêng tư này và để
lại những câu chuyện đẹp xoay quanh chuyện yêu đương, hôn nhân. Các mối tình này
được khai thác xoay quanh: Các motif quen thuộc trong văn học; các tình huống
không bình thường, thậm chí trái với luân thường. Trên đại thể, chúng tôi khái quát
thành các trường hợp sau:
Duyên kỳ ngộ: Kỳ ngộ ở đây ngụ ý chỉ sự gặp gỡ bất ngờ, mang tính “thiên
duyên tiền định”, có kết cục đẹp. Tiêu biểu có thể kể ra như: Nguyễn Trãi (Thơ đùa ả
bán chiếu), Trịnh Thiết Tường (Bảy mươi mười bảy đang vừa), Vương Toán (Thơ hay
được lòng tiểu thư), Hứa Tam Tỉnh (Câu đối đêm động phòng), Nguyễn Bá Dương
(Thiếu kim văn đỗ tiến sĩ, mất sáu tiền được bà Nghè),…
Tình chung thủy - lỡ làng: Đây cũng là những chuyện tình đẹp (thủy chung)
nhưng kết cục chung là dang dở, lỡ làng. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng chủ yếu là
do ngăn cách về địa vị, đẳng cấp trong xã hội phong kiến (không đáp ứng yêu cầu
“môn đăng hộ đối”). Có thể kể ra các chuyện tình của các bậc đại khoa, nhà nho nổi
tiếng như: Vũ Khâm Lân (Một kiếp lỡ làng), Nguyễn Du (Mối hận tình bên sông Nhị),
Nguyễn Hàm Ninh (với Mai Am công chúa, con của vua Minh Mệnh, Mối tình kín đáo
với nàng công chúa),…
Tình lãng tử: Đây là nhóm tình sử của những nhà nho tài tử. Cuộc đời họ gắn
liền với mỹ nhân trong những chuyện tình đầy lãng mạn, khác thường, tiêu biểu là:
62
Nguyễn Công Trứ (Thuyền quyên ứ hự), Nguyễn Hữu Khanh (Đã cho vào bực bố),
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (Lên bà khó lắm em ơi, Người tình nhân không quen biết,
Rau sắng chùa Hương,…). Trong đó, thi sĩ Tản Đà xuất hiện ở giai đoạn cuối cùng
(giao thời), nâng tầm chất lãng tử từ hiện thực sang chữ Mộng rất riêng và cá tính.
Về tình sử của hoàng tộc phong kiến, cũng có thể chia thành các nhóm như sau:
Duyên kỳ ngộ: Lê Thánh Tông (Hồm bướm mơ tiên; Câu thơ nên nghĩa), Hồ Quý
Ly (Câu thơ kỳ lạ), Nguyễn Ánh (Lao xao quạ nói với diều),…
Tình si: Trịnh Sâm (Mó mít nhựa ra tay), Nguyễn Ánh (Người đẹp cứ yên
tâm),…
Tình sử (hôn nhân) chính trị: Lý Chiêu Hoàng (Hai mối tình của Lý Chiêu
Hoàng), công chúa Huyền Trân (Mối tình Huyền Trân), công chúa Ngọc Vạn (Con giữ
mãi mối tình Việt – Miên),…
Tình sử loạn luân: Đây là những chuyện tình trái với đạo lý, luân thường, xảy ra
trong thâm cung các triều đại phong kiến có thể kể ra như: Đặng Thị Huệ – Quận Huy
(Huệ kia không quả còn mong nỗi gì), Nguyễn Phúc Lan (Chúa Thượng) – Tống Thị
(Xâu chuỗi trăm hoa), Nguyễn Phúc Khoát – Nguyễn Thị Ngọc Cầu (Vụ loạn luân
trong mưu đồ sâu sắc),…
Như vậy, so với nhóm tình sử của các nhà nho ở trên, tình sử của hoàng tộc bên
cạnh sự ngợi ca còn có sự phê phán. Tình sử chính trị có lợi ích thiết thực với quốc
gia, dân tộc, cho nên các NVC được ngợi ca là điều hiển nhiên. Tuy nhiên, đối với tình
sử loạn luân thì sự phê phán đã trở nên nổi trội.
- Về sở thích, tính tình của nhân vật nổi tiếng
Trong giai thoại, có hàng loạt những câu chuyện cốt chỉ kể về một tính tính, sở
thích nào đó của nhân vật qua sinh hoạt đời tư. Ví dụ, về những sở thích đặc biệt của
các nhà nho trung đại, ta có thể kể ra: sở thích ăn mắm sống của cụ Đồ Chiểu; thói
quen thích ăn thịt chó và uống rượu của bậc đại khoa Nguyễn Đăng Cảo; thú ngao du
(giang hồ và thi tửu) của cụ Phan Văn Trị; tính hài hước, bông lơn của Trạng nguyên
Nguyễn Hiền, Trạng Lường Lương Thế Vinh, Nguyễn Công Trứ,… Còn với những
nhà văn, nhà thơ hiện đại, thì có thể nói đến: sở thích đi đêm của nhà văn Thanh Tịnh,
sở thích chơi lan và tài vẽ tranh của Nhất Linh; sự quý trọng kho sách Hán Nôm của
Ngô Tất Tố; thú uống rượu, mê hát ả đào và chủ nghĩa xê dịch – giang hồ của Tản Đà,
Nguyễn Tuân, nhóm Tự lực văn đoàn,…
Khía cạnh sinh hoạt đời tư của nhà văn, nhà thơ cung cấp nhiều điều thú vị xét ở
góc độ cá nhân: trong mối quan hệ với bạn bè, trong phạm vi gia đình, làng xã. Với
63
Nguyễn Du, việc học hành của ông hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của thân phụ
và người anh cả Nguyễn Khản (Mối hận tình bên sông Nhị). Với Nguyễn Công Trứ,
người bạn đường đồng hành cùng ông từ thời thanh niên đến trước khi đỗ đạt là sự
nghèo khó, túng quẫn, phải cầm cố nhiều thứ để qua cơn nguy khốn (Khất nợ tổ tôm;
Ngày Tết cắm đất hương hỏa). Nguyễn Công Trứ có cả thảy 14 bà vợ và phần nhiều
trong số đó là các cô hát ả đào. Với các văn sĩ hiện đại, ta có thể biết được sự nghèo
khổ và tình nghĩa của hàng loạt những tên tuổi nổi tiếng: cụ Ngô Tất Tố – một nhà
nho, văn sĩ – dù nghèo khổ, vất vả nhưng khi lên chiến khu Việt Bắc, ông vẫn mang
theo 2 bà vợ, dựng hai căn nhà lá cho hai bà ở riêng, nhường cả phần ăn của mình cho
đám con nheo nhóc (Nghĩa thê tử, nợ văn chương); nhà thơ Hồ Dzếnh có vợ mất sớm,
phải đi xin sữa cho con, chiều chiều bồng con ra mộ vợ than thở (Gà sống nuôi con);
Vũ Trọng Phụng là trụ cột của gia đình có bốn người phụ nữ, dù nghèo khổ “gia
truyền” nhưng ông rất tự trọng, viết mỗi dòng đúng 32 chữ, như giao ước với nhà xuất
bản,…
Trong mối quan hệ với bằng hữu, chúng ta bắt gặp các cặp tri âm, tri kỷ hay thậm
chí là những người bạn vong niên có cùng sở thích, quan niệm sống. Thời trung đại, có
thể kể đến: Cao Bá Quát – Nguyễn Văn Siêu; Cao Bá Quát – Nguyễn Công Trứ;
Nguyễn Khuyến – Dương Khuê;… Ở thời kỳ hiện đại, có thể nhắc đến: Phan Bội
Châu – Hàn Mặc Tử; Tản Đà – Nguyễn Tuân, Nguyễn Tuân – nhóm Tự lực văn đoàn,
Xuân Diệu – Huy Cận;… Trong mối quan hệ với tập thể, làng xã, với nhân dân, các
nhân vật nổi tiếng ấy không sống tách biệt mà có sự kết nối, gần gũi với quần chúng.
Ở thời kỳ trung đại, dù là nhà nho hành đạo, tài tử hay ẩn dật, họ vẫn là cầu nối giữa
bác học và dân gian. Ví dụ, Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Tú
Xương, Nguyễn Hàm Ninh, Nguyễn Quý Tân,… sẵn sàng cho nhân dân câu đối khi
dân chúng đề nghị vào những dịp cần kíp. Những sáng tác văn chương ấy rõ ràng
không phải là tác phẩm văn học quan phương, chính thống của các nhà nho mà là sinh
hoạt đời thường của họ. Ở đó, đánh dấu mối quan hệ khắng khít giữa nhà nho với nhân
dân và họ được nhân dân tôn vinh, ca ngợi như những biểu tượng về Tài và Trí.
Đối với nhân vật lịch sử, cũng theo tiêu chí nhân vật và đề tài ở trên, hành trạng
của nhân vật không phải bao giờ cũng được ghi chép một cách đầy đủ trong sử quan
phương. Do vậy, trên thực tế vẫn còn tồn tại một vùng nhạy cảm mà lâu nay chúng ta
vẫn gọi là dã sử (hay sử truyền miệng) trong dân gian. Ví dụ, đối với các chuyện thâm
cung bí sử, những chuyện tình của các ông hoàng, bà chúa thời Nguyễn, khó có thể tìm
thấy trong các bộ sử được viết trong thời Nguyễn mà chỉ có thể tìm thấy trong dân
64
gian. Chẳng hạn, quyển Quốc triều chính biên toát yếu (quyển V) viết vua Tự Đức là
người có “tính nhơn hiếu, thông mẫn lại ham học” [31, tr.147] nhưng cũng không
thấy ghi bất cứ cuộc đối chọi thơ văn nào với Cao Bá Quát như giai thoại vẫn truyền
tụng. Sử cũng không chép giai thoại nào về sở thích xem tuồng hát của vua Tự Đức và
bà Từ Dụ. Vùng lịch sử nhạy cảm này được nhân dân truyền tụng bằng những câu
chuyện mang tính chất của truyền thuyết và giai thoại lịch sử. Và hiển nhiên, có một
sự giao thoa, chồng lấn về thể loại trong những câu chuyện kể như vậy (Chúng tôi sẽ
trình bày kỹ phần này ở Chương 4 của luận án).
Nói tóm lại, chính khía cạnh sinh hoạt đời tư của những nhân vật nổi tiếng trong
giai thoại ở trên đã kéo nhân vật lại gần gũi hơn với nhân dân. Đây là xu hướng tạo ra
sự thăng bằng trong tâm thức của nhân dân đối với những người nổi tiếng trên các lĩnh
vực.
- Về con đường học hành, khoa cử của các nhà nho
Nhà nho, nhà khoa bảng hiển nhiên là những người có kiến thức uyên thâm, trí
tuệ. Tuy nhiên, con đường tiến thân của họ cũng chia thành các ngã rẽ khác nhau. Có
người đỗ đạt sớm (và đỗ cao) như: Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Lương Thế Vinh,
Nguyễn Đăng Cảo, Lê Quý Đôn, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Hàm Ninh, Trần Bích
San,… Nhưng cũng có không ít nhà nho tuy nổi tiếng là thần đồng từ nhỏ nhưng con
đường khoa cử lại gặp nhiều trắc trở như: Thời Lê, Trịnh Thiết Tường đỗ Tiến sĩ khi
72 tuổi; thời Nguyễn có Cao Bá Quát (31 tuổi), Nguyễn Công Trứ (36 tuổi), Đoàn Tử
Quang (82 tuổi) mới đỗ đạt,…
Thông qua con đường khoa cử của các nhà nho, nhân dân muốn đề cao tinh thần
hiếu học, vượt qua nghịch cảnh khó khăn của họ. Tiểu sử của họ đã trở thành những
biểu tượng ngàn đời cho tinh thần vượt khó trong học tập của dân tộc như: Mạc Đĩnh
Chi, Nguyễn Hiền, Vũ Duệ, Kiều Phú,… (Chúng tôi sẽ phân tích kỹ cơ sở lịch sử, xã
hội hình thành tư duy đề cao con người trí thức trong giai thoại ở các phần sau của
luận án).
Trong các hoạt động triều chính
Khía cạnh thứ tư của tính chất sự việc trong giai thoại là các hoạt động triều
chính. Qua thống kê, chúng tôi xác định có 152/756 tác phẩm đề cập đến lĩnh vực này
(tỉ lệ 20,1%). Như vậy, so với sinh hoạt đời tư, hành trạng của người nổi tiếng trong
lĩnh vực chính trị có tỉ lệ gần tương đương (22,48%) và thấp hơn so với lĩnh vực văn
học (49,2%). Chúng tôi khái quát lại các hoạt động triều chính trong giai thoại đề cập
đến các việc như sau:
65
- Hoạt động bang giao của các triều đại phong kiến Việt Nam (trong thời kỳ đất
nước phân tranh):
Tiêu biểu cho nhóm này là các giai thoại đề cập đến việc xử lý tình huống một
cách khôn ngoan. Chẳng hạn, qua các giai thoại Ta chẳng chịu phong, Bây giờ em đã
có chồng (số 54, 55 quyển Giai thoại văn học Việt Nam [65]), chúng ta biết được triều
Lê – Trịnh mà đại diện là Thanh Vương Trịnh Tráng muốn chúa Nguyễn đàng trong
hàng phục mình. Tuy nhiên, bằng bản lĩnh hơn người, Đào Duy Từ (một người từng bị
nhà Lê – Trịnh không chấp nhận cho thi cử vì có mẹ làm nghề hát xướng) đã bày kế
giúp chúa Nguyễn khước từ một cách danh chính ngôn thuận.
- Hoạt động bang giao với nước ngoài
Trong giai thoại, hoạt động tiếp sứ giả nước ngoài và đi sứ sang nước ngoài chủ
yếu là Trung Quốc. Như đã đề cập ở các phần trên của luận án, sự hấp dẫn của các giai
thoại có liên quan đến đón tiếp sứ thần nước ngoài hay giai thoại đi sứ nằm ở tình
huống văn chương. Ví dụ, Đoàn Thị Điểm đối lại vế đối của sứ Tàu: “An Nam nhất
thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh/ Bắc quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất”. Chuỗi giai
thoại đi sứ của Mạc Đĩnh Chi, Giang Văn Minh, Nguyễn Đăng Cảo, Lê Quý Đôn,
Trần Danh Án,… đều để lại những câu chuyện hay, thú vị, không chỉ ở khía cạnh văn
chương mà còn ở khía cạnh chính trị: khẳng định vị thế dân tộc, thể hiện tinh thần dân
tộc cao độ và hơn hết là bộc lộ ý thức thoát Trung, kháng lại ý đồ lấy văn hóa Hán làm
trung tâm của các triều đại Trung Quốc.
- Việc xử kiện của những liêm quan trong thời kỳ phong kiến
Việc xử kiện của những liêm quan nổi tiếng được nhiều người truyền tụng cũng
là một trong hoạt động triều chính của bộ máy chính quyền phong kiến. Các vị quan
này thực hiện chức năng trừng ác khuyến thiện, thay mặt cho triều đình phong kiến
giáo hóa nhân dân. Vậy nên, những hành xử công tâm, thông minh của họ đã gầy dựng
nên một tình cảm ngưỡng mộ đặc biệt trong dân chúng. Trong những câu chuyện như
vậy, nhân vật không chỉ thể hiện trí thông minh trong việc phán xử mà còn thể hiện tài
năng văn chương, cá tính của họ. Các vị liêm quan đem lại công bằng cho nhân dân,
được người đời ca tụng (bằng những câu phương ngôn) như: Nguyễn Quán Nho (Tể
tướng vạn hà thiên hạ âu ca), Đề đốc Hộ thành (Quan hộ được tha, quan gia vạn tuế),
Bùi Cầm Hổ (Bát canh lươn), Nguyễn Văn Giai (Người đào ao xử kiện), Nguyễn
Đăng Khoa (Xử kiện ruộng dưa; Giả mù không thoát tội), Phủ Tuấn (Phủ Tuấn xử
kiện; Trâu phải được với chủ nó), Thượng Nành (Đích thị kẻ bắt gà; Tay nào chặt
chuối),… Cũng xử án nhưng đậm cá tính là trường hợp xử/ phê án bằng thơ (tạo thành
66
tình tiết xử/ phê án bằng thơ). Đây là một trường hợp rất đặc biệt, vừa mang tính lịch
sử vừa mang tính văn chương. Một số ví dụ tiêu biểu là: Bà Huyện Thanh Quan hai
lần thay chồng xử án (Cho Thị Đào đi lấy chồng; Ông cống làm trâu), Đỗ Cao Mại
(Hạc đeo bài ngài), vua Thành Thái (Thơ Kiều phê án),…
Tóm lại, đề tài của giai thoại được cụ thể hóa trong tác phẩm gắn với các tình
huống: Sinh hoạt đời tư; sinh hoạt văn chương; sinh hoạt văn nghệ; các hoạt động
triều chính.
2.1.2. Nhân vật của giai thoại
Nhân vật trong giai thoại phần lớn là những nhân vật có thực, hoặc được tin
tưởng là có thực (gắn với câu chuyện của nhân vật đó). Chính sự nổi tiếng của nhân
vật đã khiến cho câu chuyện được kể đến mang một trữ lượng thông tin hấp dẫn, thú
vị, cuốn hút mạnh mẽ đối với người đọc, người nghe. Xung quanh nhân vật có thực
này, nhân dân có thể sáng tạo ra hàng loạt những câu chuyện với các mục đích cụ thể
là đề cao, tôn vinh (trí tuệ, tài năng, đạo đức,…) hoặc giải thiêng, hạ bệ nhân vật.
Những nhân vật có thực ấy là nhân vật nguyên mẫu (prototype). Chẳng hạn như
các nhân vật có thực trong lịch sử: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn,
Mạc Đĩnh Chi, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,… Giai
thoại Ả ở đâu ta bán chiếu gon (còn có tên gọi khác là Thơ đùa ả bán chiếu) giữa
Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ là một trường hợp khá điển hình. Nếu nhân vật chàng
trai trong câu chuyện trên không phải là Nguyễn Trãi, một anh hùng dân tộc mà là một
thư sinh không tên tuổi nào đó, chắc hẳn, tính lý thú của nó sẽ giảm đi rất nhiều.
Tương tự như vậy, nếu giai thoại Tự tiện chữa văn vua có nhân vật chính là anh học
trò (trong sách Truyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký, câu chuyện này có tên là Học trò
sửa liễn cửa ngõ phủ ông hoàng, với NVC khuyết danh) mà không phải là Cao Bá
Quát – người có tính cách ngang tàng, thì một điều hiển nhiên, sự hấp dẫn, lý thú của
câu chuyện sẽ giảm đi ít nhiều. Bởi vì, về mặt tâm lý, nhân dân muốn biết nhiều hơn
về con người được ngưỡng mộ. Việc bổ sung các giai thoại đáp ứng sự ái mộ và phần
nào kích thích trí tưởng tượng của nhân dân.
Trong địa hạt sinh hóa văn hóa, văn nghệ dân gian, theo nguyên tắc này, giai
thoại văn hóa dân gian tập trung sự chú ý vào các nghệ nhân, nhà nho tài tử nổi tiếng
tham gia vào lĩnh vực. Chẳng hạn, nhóm giai thoại về các nhà nho tài tử tham gia sinh
hoạt văn nghệ dân gian cùng quần chúng như: Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Du, Phan
Bội Châu, Tú Xương,… Các giai thoại này không chỉ tô đậm tài năng ứng biến của các
nhân vật trong các cuộc hát xướng mà còn khai thác chuyện đời tư, tình yêu nam nữ
67
của từng nhân vật. Trong đó, trường hợp của Nguyễn Công Trứ là dồi dào, phong phú
nhất.
Đối với các nhân vật nghệ nhân dân gian, giai thoại cũng xây dựng nhân vật ở
khía cạnh tài năng văn nghệ kèm theo những câu chuyện đời tư (gia cảnh, tình yêu,
tính tình,…) làm đường viền cho câu chuyện thêm sinh động. Chẳng hạn như cô Long,
cô Nhẫn, Nhiêu Ngọ, O Tộ, Vũ Thị Nhẫn, Trần Hàn, Bảy Tỏi,… Có một điều khá đặc
biệt là giai thoại còn khéo léo “kéo” vào những câu chuyện sinh hoạt sân khấu, tuồng
chèo những nhân vật đại diện cho chính quyền phong kiến. Đó là những ông hoàng, bà
chúa, những ông quan đam mê hát xướng. Xung quanh các giai thoại về các nghệ sĩ
hài, các nghệ nhân đánh trống, đàn hát,… nổi tiếng (chẳng hạn như: Nhưn Đá, Nhưn
Nguyên, cậu Hai Hót, Tiêu Tán, Hứa Văn,…), ta thấy hình bóng của các nhân vật lịch
sử nổi tiếng như: Bà Từ Dụ, vua Tự Đức, vua Thành Thái, vua Bảo Đại, Tả quân Lê
Văn Duyệt, Nguyễn Thân,… Các nghệ nhân, nghệ sĩ từ dân gian đã được đưa vào biên
giới của nghệ thuật sân khấu cung đình. Điều đó càng cho thấy sự hấp dẫn của loại
hình sinh hoạt văn hóa, văn nghệ này cũng như xác tín thêm tài năng của các nghệ sĩ.
Trong lĩnh vực lịch sử, tiểu loại giai thoại lịch sử cung cấp cho người đọc/nghe
về những khía cạnh đời tư của các nhân vật lịch sử. Các nhân vật này là những người
đại diện cho vương quyền như vua chúa, phi tần, quan lại, tướng lĩnh; các sĩ phu yêu
nước, nhà nho ẩn dật,… Các khía cạnh được giai thoại xoáy sâu vào là tính tình, sở
thích, tình yêu cá nhân, ứng xử của nhân vật trước thời cuộc, ứng xử với bạn bè, gia
đình,… Như vậy, các nhân vật của giai thoại lịch sử chủ yếu được soi chiếu qua các
khía cạnh riêng tư mà chính sử ít hoặc không động chạm đến. Ví dụ sở thích ăn mắm
sống của cụ Đồ Chiểu, thú ăn thịt chó của nhà khoa bảng Nguyễn Đăng Cảo, các câu
chuyện tình yêu nam nữ của các vị vua như Gia Long, Tự Đức, Thành Thái… Bên
cạnh đó, giai thoại lịch sử cũng khắc họa nhân vật ở khía cạnh đạo đức cá nhân và đạo
đức công dân, tức là biểu hiện của chữ Đức theo quan niệm Nho giáo. Nói khác đi,
nhân vật trong giai thoại lịch sử thể hiện qua các khía cạnh thuộc về hành trạng đời tư,
cá nhân qua những câu chuyện mang tính chất rỉ tai, bên lề, phi chính thống. Và mặt
khác, các nhân vật ấy cũng được nhìn ngắm, đánh giá qua lăng kính của ý thức hệ Nho
giáo qua biểu hiện của chữ Đức trong ba mối quan hệ cơ bản là: với quốc gia, với gia
đình, với bạn bè.
Trong tiểu loại giai thoại văn học, giai thoại xây dựng cho mình kiểu nhân vật trí
thức, mưu trí và cả ngông nghênh. Họ đa phần đều xuất thân từ cửa Khổng sân Trình,
đều là những nhà khoa bảng, nhà nho tài năng, cá tính. Ở đây, chữ Trí (hay Tài) của
68
nhân vật trong địa hạt văn chương là trung tâm của sự chú ý. Tài năng ấy thể hiện qua
hai tình huống cơ bản là: đối đáp trong các cuộc thách đố văn chương và ứng xử tình
huống bằng văn chương. Trên thực tế, các nhân vật này cơ bản được xem là danh nhân
văn hóa, đủ tầm phủ sóng qua mọi thời đại, tiêu biểu cho văn hiến dân tộc. Tóm lại,
nhân vật trong giai thoại đều là những người nổi tiếng trong ba lĩnh vực cơ bản là: văn
học, lịch sử và văn hóa. Trong đó, giai thoại văn học và văn hóa dân gian chú ý khắc
họa nhân vật ở chữ Tài, chữ Tính và chữ Tình, giai thoại lịch sử xoáy sâu vào chữ
Đức. Chung quy lại, ta có thể đúc kết ra các kiểu nhân vật tiêu biểu của giai thoại là:
nhân vật trí thức, khoa bảng; nhân vật mưu trí; nhân vật ngông; nhân vật nghệ nhân
dân gian, nhà nho tài tử; nhân vật đạo đức.
2.1.3. Cảm hứng của giai thoại
Cảm hứng là cơ sở, nguồn gốc tạo nên giá trị thẩm mỹ cho thể loại văn học dân
gian. Sự phản ánh nhân vật nổi tiếng trong giai thoại phản ánh thái độ, tình cảm của
nhân dân. Trên đại thể, chúng tôi thấy hai loại cảm hứng quan trọng trong giai thoại là:
cảm hứng ngợi ca, tôn vinh và cảm hứng đả kích, phê phán. Dĩ nhiên, hai cảm hứng
này không tồn tại tách bạch mà đan xen vào nhau. Chúng là hai mặt của một vấn đề
khi đề cập đến nhân vật nổi tiếng trong cách nhìn của nhân dân. Qua khảo sát 03 công
trình tiêu biểu về giai thoại, giới hạn ở NVC người nổi tiếng, chúng tôi có được kết
quả về mặt cảm hứng như sau:
Bảng 2.3. Kết quả khảo sát cảm hứng trong giai thoại Việt Nam
Ngợi ca Giải
thiêng Đả kích,
phê phán Cảm
hứng
Số
lượng
văn
bản Văn
chương Đời
thường Văn
nghệ Chính
trị Vương
quyền Thần
quyền
218 116 56 11 35 45 11 3
358 219 69 24 46 52 17 5
180 37 45 27 71 30 5 1
756
(100%) 372
(49,2%) 170
(22,5%) 62
(8,2%) 152
(20,1%) 9
(1,2%) 127
(16,8) 33
(4,4%)
Công
trình
GTVHVN
[65]
GTVHVN
[67]
GTFLVN
[91]
Tổng
cộng/Tỉ lệ
Trước hết là cảm hứng ngợi ca, tôn vinh nhân vật trong ba lĩnh vực văn học, văn
hóa và lịch sử. Đối tượng mà giai thoại hướng đến sự ngợi ca tôn vinh là những nhà
nho, nhà khoa bảng nổi tiếng (trong lĩnh vực văn học) cũng như những nghệ nhân dân
gian, những nhà nho tài tử tham gia vào sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian với quần
69
chúng nhân dân và những nhân vật lịch sử nổi tiếng. Căn cứ vào NVC, ta thấy trong
giai thoại, gắn liền với lĩnh vực mà người nổi tiếng xuất hiện là thái độ ngợi ca của
nhân dân dành cho họ. Cho nên, số lượng tác phẩm đề cập đến nhân vật bao nhiêu thì
cảm hứng ngợi ca cũng tương đương. Còn sự đả kích, phê phán, thông thường nằm ở
phía NVĐT của NVC người nổi tiếng như Trần Thanh Mại đã đề cập. Số liệu thống kê
cho thấy: trong 756 giai thoại, cảm hứng ngợi ca người nổi tiếng (trong 3 lĩnh vực
trên) xuất hiện trong 586 tác phẩm, tỉ lệ 77,5 %. Còn cảm hứng giải thiêng là 09 tác
phẩm (tỉ lệ 9,2%), cảm hứng phê phán, đả kích là 160 tác phẩm (tỉ lệ 21,2%). Do vậy,
có thể khẳng định rằng: trong giai thoại, cảm hứng ngợi ca người nổi tiếng (chủ yếu
xoay quanh chữ Trí) chiếm vai trò chủ đạo.
Trong hoạt động văn học, sự đề cao nhân vật đều xoay quanh tài trí. Tỉ lệ thống
kê cho thấy, trong 756 giai thoại thì có đến 372 tác phẩm (49,2%) xuất hiện cảm hứng
ngợi ca nhà trí thức, nhà khoa bảng. Tỉ lệ rất cao này cho thấy trong cảm thức của
nhân dân, hình tượng con người tài trí trong văn chương chính là trung tâm điểm của
sự ngưỡng mộ, tôn vinh. Chính cảm hứng này tạo nên sự khác biệt khá rõ so với các
thể loại khác. Trí ở đây được hiểu theo hai khía cạnh: là tài năng văn chương trong
những cuộc đối đáp, thi thố văn chương và khả năng ứng biến một cách nhanh nhạy,
thông minh nhằm thoát khỏi những tình huống khó khăn, thử thách. Hầu hết những
nhân vật khoa bảng, nhà nho nổi tiếng trong thời trung đại đều được triển khai trên cơ
chế đề cao tài năng văn chương, trí tuệ của họ (Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Công Trứ, Cao
Bá Quát, Nguyễn Đăng Cảo, Tú Xương, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương,…).
Chẳng hạn, Nguyễn Công Trứ đối đáp văn chương xuất thần trước Tả quân Lê
Văn Duyệt, rồi được ông này cất nhắc, giúp đỡ chuyện học hành (Anh hùng đè xuống
dưới). Cao Bá Quát mang phong cách phá phách, ngông nghênh đi khắp mọi nơi, từ
việc hạ bệ Minh Mạng lúc nhà vua đi tuần Bắc hà (Cởi truồng xem vua), cho đến việc
chê thẳng thừng thơ văn toàn “mùi nước mắm” của Mạc Vân thi xã (Câu thơ thi xã) và
cả việc chửi xéo, hạ bệ vua Tự Đức qua hàng loạt giai thoại (Trên dưới đều chó; Tự
tiện chữa văn vua; Bịa thơ tài hơn vua;…). Mạc Đĩnh Chi, trong chuỗi giai thoại đi sứ,
đều giành phần ưu thắng trong các cuộc đối chọi văn chương với vua quan nhà
Nguyên cũng như sứ thần các nước (Ra đối dễ, đối đối khó; Chưa biết mèo nào cắn
mỉu nào; Bốn chữ nhất;…).
Thông thường tài năng của các nhân vật phải được thể hiện trong các tình huống
ứng biến nhanh nhạy, thông minh, tưởng chừng như rất khó để xoay chuyển cục diện.
Ở những huống cảnh đó, điều để lại ấn tượng sâu sắc không chỉ tài năng văn chương
70
mà còn là sự mưu trí của nhân vật. Mạc Đĩnh Chi trước sự cười chê về sự thô vụng của
đám quần thần Trung Quốc, đã xoay chuyển tình thế bằng cách xé nát bức tranh thêu
chim sẻ đậu trên cành trúc. Hồ Xuân Hương khéo léo đọc bài thơ lúc bị trượt chân té
ngã, qua đó nhận được sự thán phục từ các anh học trò cùng trang lứa,… Về thực chất,
đấy là cách ứng xử “vụng chèo khéo chống” nhưng vẫn được cho là khôn ngoan.
Trong lĩnh vực sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian, tài trí của các nghệ nhân
dân gian, các nhà nho tài tử dù có tỉ lệ thấp hơn (62/756 văn bản, tỉ lệ 8,2%) nhưng
cũng để lại ấn tượng mạnh mẽ trong việc ứng biến khi hát hò đối đáp. Ngoài tài trí,
lĩnh vực sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian cũng hé lộ chữ Tình của nhân vật nổi
tiếng. Có thể không phải là cuộc tình cụ thể mà chỉ là bối cảnh để người nghe suy
tưởng về nhân vật. Những cô Nhẫn, cô Long, cô Vân, Trần Hàn, Nhiêu Ngọ, o Tộ,…
đều thể hiện sự thông minh, tài năng ứng biến trong các cuộc hát chính thức (ở hội,
phường) cũng như trong đời thường (tình yêu cá nhân, trong lúc lao động, sinh
hoạt,…). Nhờ tham gia vào các cuộc hát mà tên tuổi của Nguyễn Công Trứ đã nổi
tiếng khắp nơi (lúc còn là thanh niên cũng như khi đã đỗ đạt làm quan). Khi còn là
thanh niên với tên gọi Chiêu Bảy, cụ Nguyễn Du cũng đã tham gia rất nhiều vào các
cuộc hát phường vải ở quê nhà. Sự thông minh và sâu sắc của thi hào Nguyễn Du, với
tư cách là một nghệ sĩ trong sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian thể hiện khá rõ trong
giai thoại. Nhà chí sĩ Phan Bội Châu, bên cạnh sự nghiệp chính trị lẫy lừng, cũng là
một nghệ sĩ thực thụ trong văn nghệ dân gian. Lúc chưa đỗ đạt (với tên gọi Phan Văn
San), ông đã là một trong bốn tay hát nổi tiếng nhất vùng Nam Đàn mà người đời xưng
tụng qua câu thành ngữ: “Nam Đàn tứ hổ”.
Nhân vật lịch sử trong giai thoại cũng được xây dựng xoay quanh chữ tài và đức.
Qua khảo sát, chúng tôi xác định có 152/756 tác phẩm (tỉ lệ 20,1%) ca ngợi nhân vật
lịch sử. Tài ở đây là tài năng thuyết khách, tài ứng biến trong đối ngoại, tài năng xử
kiện, tài năng quân sự,… Còn Đức bao gồm đạo đức cá nhân và đạo đức công dân. Đó
là những ông quan thanh liêm từ chối nhận của hối lộ (Vũ Tụ, Tô Hiến Thành,…),
những nhà nho ẩn dật để giữ tiết tháo người quân tử trong thời cuộc nhiễu nhương
(Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị,…), những
nhà chí sĩ yêu nước, xả thân vì nghĩa lớn (Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh,…). Suy cho cùng, phạm trù đạo đức ấy xuất phát từ quan niệm Nho giáo về sự
“xuất” và “xử” của nhà nho trong thực tại. Với tư cách là nhà nho hành đạo, họ không
ngừng phấn đấu, cống hiến cho lý tưởng Tu, Tề, Trị, Bình; Trí quân trạch dân. Nhưng
khi lý tưởng ấy không còn đứng vững nữa, sự lánh đục về trong cũng là một cách ứng
71
xử mang vẻ đẹp cốt cách của một kẻ sĩ. Bên cạnh đó, tinh thần dân tộc, đấu tranh vì
quốc thể cũng được thể hiện sâu sắc qua nhóm giai thoại ngoại giao thời phong kiến
(với Trung Quốc). Tiêu biểu, đó là các cuộc đấu tranh “di biện” để chống lại quan
niệm lấy văn hóa Hán làm trung tâm của các triều đại Trung Quốc (các giai thoại đi sứ
có liên quan đến: Giang Văn Minh, Mạc Đĩnh Chi, Lê Quý Đôn,…). Song song sự
ngợi ca, tôn vinh, giai thoại cũng có cảm hứng phê phán, đả kích. Dạng cảm hứng này
đã làm nảy sinh tính chất phản biện của giai thoại. (Luận án sẽ tách ra tìm hiểu ở mục
sau).
Nhìn chung, trong giai thoại cảm hứng ca ngợi là cảm hứng chủ đạo so với cảm
hứng phê phán, đả kích. Lẽ cố nhiên, hai cảm hứng ấy không hoàn toàn tách bạch
nhau, mà trong nhiều trường hợp, có thể cùng hiện hữu trong một câu chuyện. Bởi
theo cảm quan thông thường, khi phê phán, hạ bệ nhân vật này thì cũng đồng nghĩa
với việc đề cao, tôn vinh nhân vật kia. Như vậy, vấn đề đặt ra là: cảm hứng tôn vinh và
phê phán, đả kích trong giai thoại có gì tương đồng và dị biệt so với các thể loại khác
của tự sự dân gian? Trên đại thể, cảm hứng tôn vinh hay phê phán hiển nhiên không
phải chỉ xuất hiện trong giai thoại mà còn hiện hữu một cách phổ quát trong tự sự dân
gian như truyền thuyết, cổ tích, truyện cười,… Vấn đề này sẽ đề cập ở chương sau.
2.2. Phân loại giai thoại Việt Nam
Ở Chương 1, luận án đã điểm qua và phân tích những mặt khả thủ cũng như một
số bất cập trong cách phân loại giai thoại Việt Nam của các nhà nghiên cứu đi trước.
Trong đó, điểm đáng chú ý nhất trong cách phân loại của các tác giả (Trần Thanh Mại,
Kiều Thu Hoạch, Vũ Ngọc Khánh, Triều Nguyên) là đưa ra hơn một tiêu chí phân loại
ở hai cấp độ tiểu loại và các nhóm của từng tiểu loại. Từ đó, dẫn đến sự chồng chéo,
chưa thuyết phục ở một số điểm. Do vậy, việc đưa ra một tiêu chí phân loại duy nhất
để xác định các tiểu loại giai thoại và các nhóm của nó hiện có trong kho tàng giai
thoại Việt Nam là nhiệm vụ cấp thiết. Điều này vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có
giá trị về mặt tư liệu (áp dụng vào việc tuyển chọn và giới thiệu giai thoại Việt Nam).
Trong mục này, với mục đích kế thừa thành quả nghiên cứu đó, chúng tôi bước đầu
đưa ra quan điểm phân loại của mình. Hai tiêu chí phân loại mà chúng tôi thử áp dụng
để phân loại giai thoại Việt Nam là: tiêu chí đề tài và tiêu chí nhân vật. Mỗi tiêu chí
phân loại như vậy sẽ có những điểm ưu và khuyết riêng biệt. Do vậy, cần phải đưa ra,
lý giải và đi đến sự lựa chọn một tiêu chí khả thủ nhất.
2.2.1. Phân loại giai thoại Việt Nam theo tiêu chí đề tài
Trước hết là tiêu chí đề tài. Giai thoại Việt Nam sẽ phân hóa như sau nếu căn cứ
72
Giai thoại
GT lịch sử
GT văn hóa dân gian
vào tiêu chí đề tài:
Tình
Xử
Ngoại
Quân
Thách
Tính
Tập
Văn
Sân
GT văn học
sự
đố
văn
tình, sở
quán,
nghệ
khấu,
sử
giao
kiện
văn
thích
phong
dân
cải
(…)
chương
lương,
chương
nhà nho
tục
gian
…
Ứng tác
Sơ đồ 2.1. Giai thoại Việt Nam phân loại theo tiêu chí đề tài (ở hai cấp độ)
Trong sơ đồ trên, chúng tôi tiếp thu quan niệm của Vũ Ngọc Khánh ở cấp độ
phân loại tiểu loại. Còn ở cấp độ phân loại nhóm của từng tiểu loại, chúng tôi có quan
niệm khác nhà nghiên cứu ở tiểu loại giai thoại văn học. Vì mặc dù coi giai thoại là thể
loại của văn học dân gian nhưng cũng như những nhà nghiên cứu khác, Vũ Ngọc
Khánh cũng chia giai thoại văn học thành giai thoại văn học về những người nổi tiếng
và giai thoại khuyết danh – tức là đã dùng tiêu chí nhân vật để phân cấp nhóm. Như
vậy là chưa thống nhất về mặt tiêu chí. Vả chăng, dù là người nổi tiếng hay khuyết
danh thì trong phạm vi đề tài của giai thoại văn học cũng chỉ xoáy vào 3 trường hợp cụ
thể là: thách đố văn chương, ứng tác văn chương và tính tình, sở thích của nhà văn,
nhà thơ. Do vậy, chắc chắn sự phân loại ấy sẽ bị trùng lặp. Có thể hình dung sự trùng
GT văn học
Khuyết danh
Nhà khoa
bảng, nhà nho
Thách đố
Ứng tác
Thách
Ứng tác
văn
văn
đố
văn
chương
văn
chương
chương
chương
lặp đó qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.2.Sự trùng lặp của giai thoại văn học khi phân loại theo tiêu chí nhân vật
73
Do vậy, chúng tôi đề xuất phân nhóm giai thoại văn học căn cứ vào mặt đề tài, để
chia ra thành 3 nhóm (như trong sơ đồ 2.1). Sơ đồ trên thể hiện sự nhất quán trong tiêu
chí phân loại giai thoại ở cấp độ tiểu loại và nhóm của nó. Theo đó, các nhóm cụ thể
của từng tiểu loại giai thoại là:
- Giai thoại lịch sử gồm các nhóm chính như sau:
+ Giai thoại về tình sử của các nhân vật nổi tiếng (nhà nho, vua chúa, tướng
lĩnh,...);
+ Giai thoại về xử kiện (các vị quan có tài trong việc phân xử);
+ Giai thoại về ngoại giao (bang giao chính trị với Trung Quốc, bang giao giữa
các triều đại phong kiến Việt Nam thời chia cắt, phân tranh,...);
+ Giai thoại về quân sự (chuyện đánh giặc, dẹp loạn của vua chúa, tướng lĩnh).
- Giai thoại văn học gồm các nhóm:
+ Giai thoại văn học về thách đố văn chương (các chuyện thách đố, đối chọi, thử
tài văn chương giữa các nhà nho, các nhà khoa bảng, các sứ thần,...);
+ Giai thoại văn học về ứng tác văn chương (các chuyện có liên quan đến việc
sáng tác văn chương, thơ phú của các nhà nho tên tuổi, các nhà nho khuyết danh, của
quần chúng nhân dân,...);
+ Giai thoại văn học về tính tình, sở thích của các nhà nho (gồm các chuyện về
sinh hoạt riêng tư của các nhà nho, trong đó nổi lên tính tình, sở thích, thói quen,... của
họ).
- Giai thoại văn hóa dân gian gồm các nhóm chính sau:
+ Giai thoại về tập quán, phong tục của nhân dân (tục treo câu đối, thách cưới,
kết chạ, thi nói khoác,...);
+ Giai thoại về sinh hoạt văn nghệ dân gian (các chuyện về sinh hoạt hò hát của
các vùng miền: hò khoan, hát giặm, hát ả đào, hát phường vải,... của các nhà nho tài tử,
các nghệ nhân dân gian);
+ Giai thoại về sân khấu, cải lương, tuồng, chèo (các chuyện có liên quan đến
nghệ thuật biểu diễn của các loại hình nghệ thuật sân khấu, cải lương, tuồng, chèo
trong dân gian, trong cung đình trong đó có sự tham gia, xuất hiện của các nhân vật
nổi tiếng (vua, quan lại phong kiến, các nghệ sĩ nổi tiếng).
2.2.2. Phân loại giai thoại Việt Nam theo tiêu chí nhân vật
Tiếp theo, thử phân loại giai thoại Việt Nam theo tiêu chí nhân vật:
Giai thoại
GT lịch sử
GT văn học
GT văn hóa dân gian
Hoàng
Những
Những
Nhà
Nhân
Nghệ
Nhà
Nghệ sĩ
Những
tộc
nhà
vị liêm
vị
khoa
vật
nhân
nho
sân
phong
ngoại
tướng
bảng,
khuyết
dân
tài tử,
khấu,
quan
giao
tài
nhà nho
nhà
cải
kiến
danh
gian
tài
nổi
nho
lương,
(…)
tuồng,
năng
tiếng
ẩn dật
chèo,…
…
74
Sơ đồ 2.3. Giai thoại văn học Việt Nam phân loại theo tiêu chí nhân vật
Điểm nổi bật của cách phân loại này là nó đã chỉ ra được các kiểu nhân vật tiêu
biểu trong từng tiểu loại của giai thoại. Chung quy, đó là các kiểu nhân vật: nhân vật
trí thức, nhân vật đạo đức, nhân vật ngông, nhân vật nhà nho tài tử, nhân vật nghệ
nhân dân gian, nhân vật nghệ sĩ sân khấu, cải lương, tuồng, chèo,... Điểm hạn chế dễ
nhận thấy của cách chia trên là chưa cho thấy được các đề tài, nội dung chủ yếu của
từng nhóm.
Qua sự phân tích ở trên, chúng tôi đề xuất dùng một tiêu chí duy nhất là tiêu chí
đề tài (hay tính chất sự việc) để phân loại giai thoại Việt Nam. Như vậy, cần trả lời cho
câu hỏi: Vì sao tiêu chí tính chất sự việc lại có tầm quan trọng trong việc phân loại giai
thoại Việt Nam? Tiêu chí tính chất sự việc được nói đến trong giai thoại chính là tiêu
chí trung tâm của việc phân loại tiểu loại và phân nhóm cho tiểu loại đó. Các sự việc
trong giai thoại chủ yếu đề cập đến là sinh hoạt đời tư, sinh hoạt văn chương, sinh
hoạt văn nghệ và các hoạt động triều chính. Khi đọc/nghe một giai thoại, điều quan
trọng trước tiên là phải trả lời cho câu hỏi: Câu chuyện trên đề cập đến lĩnh vực nào:
sinh hoạt đời tư, sinh hoạt văn chương, sinh hoạt văn nghệ hay hoạt động triều chính.
Sau đó, áp dụng bảng phân loại sau để xếp tiểu loại và nhóm cho văn bản:
75
Bảng 2.4. Tính chất sự việc trong giai thoại Việt Nam
Tiểu loại giai thoại Tính chất sự việc
Giai thoại văn học Sinh hoạt văn chương
Giai thoại văn học Sinh hoạt đời tư
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn hóa dân
gian
Giai thoại lịch sử triều Các hoạt động
chính
Sinh hoạt văn nghệ Giai thoại văn hóa dân
gian
Trường hợp cụ thể của
tỉnh chất sự việc
- Thách đố văn chương
- Ứng tác văn chương
Tính tình, thói quen, sở
thích của nhà văn, nhà thơ
Chuyện học hành, thi cử;
tình yêu của các nhà nho
Tình sử của các vua chúa,
hoàng tộc, tướng lĩnh,…
Tập tục treo câu đối trong
sinh hoạt của nhân dân
- Tiếp sứ giả nước ngoài
- Trao đổi, liên lạc chính trị
giữa các triều đại phong
kiến Việt Nam
- Mâu thuẫn trong nội bộ
chính quyền phong kiến
- Việc xử kiện của vua quan
phong kiến,...
- Sinh hoạt văn nghệ của
của nghệ nhân dân gian và
các nhà nho tài tử
- Sinh hoạt tập Kiều, đố
Kiều, lẩy Kiều của các nhà
nho và nhân dân
- Biểu diễn sân khấu, tuồng,
chèo, cải lương,…
Đến đây, thử áp dụng tiêu chí này để phân loại các giai thoại mang tính khúc mắc
mà luận án đã dẫn ra ở Chương 1. Với giai thoại Ghẹo sư, Bò đen bò vàng, chúng tôi
xác định giai thoại này nói về sinh hoạt văn chương, trong đó có sự thách đố (nhà sư
và Nguyễn Xuân Ôn) và sự giải đố (Hoàng Phan Thái và hai anh học trò). Do vậy, nó
là giai thoại văn học (nhóm thách đố văn chương). Với giai thoại Thuyền quyên ứ hự,
kể về sinh hoạt đời tư của nhà nho Nguyễn Công Trứ, thuộc trường hợp tình sử của
nhà nho thì hiển nhiên nó là giai thoại văn học chứ không thể là giai thoại lịch sử. Bởi
lẽ, Nguyễn Công Trứ xuất hiện trong giai thoại với tư cách cá nhân (nhà nho tài tử)
chứ không phải với tư cách một viên quan triều đình (nó khác hẳn với chuyện ông đem
quân đi dẹp loạn với tư cách một tướng quân đại diện về mặt chính trị cho triều đình
phong kiến. Chẳng hạn như trong giai thoại Bực mình với Nguyễn Công Trứ). Còn các
76
giai thoại về các cuộc hò hát đối đáp của các nhà nho tài tử như Nguyễn Công Trứ,
Phan Bội Châu, Nguyễn Du,… rõ ràng là giai thoại văn hóa dân gian (ứng với nhóm
sinh hoạt văn nghệ dân gian của các nhà nho tài tử). Vì một điều rất rõ ràng, họ đã
thoát khỏi môi trường hành đạo để hòa vào môi trường sinh hoạt văn nghệ dân gian
với quần chúng nhân dân.
Tóm lại, với tiêu chí đề tài, chúng tôi phân loại giai thoại Việt Nam thành 3 tiểu
loại tiêu biểu là giai thoại văn học, giai thoại lịch sử và giai thoại văn hóa dân gian
(cùng với các nhóm cụ thể của nó như đã nêu). Vậy là việc phân loại tùy theo mục
đích nghiên cứu có thể có những cách tiếp cận khác nhau. Rất khó có thể quy các tiểu
loại một cách rạch ròi, bởi nhiều tiêu chí cùng một lúc. Tính chất tương đối này là vấn
đề phổ biến cho việc phân loại một thể loại. Riêng đối với giai thoại lại phức tạp hơn
vì sự giao thoa thể loại trong nó chính là đặc điểm tư duy nhận thức về lịch sử, văn
học, văn hóa của nhân dân.
2.3. Đặc trưng thể loại và khái niệm giai thoại Việt Nam
2.3.1. Đặc trưng thể loại của giai thoại Việt Nam
Từ nhận thức trên cho thấy sự phức tạp trong quan niệm về giai thoại của các nhà
nghiên cứu là có lý do. Sở dĩ có tình trạng như vậy là do cách vận dụng các lý thuyết
khác nhau để soi chiếu vào giai thoại. Trong mục này, chúng tôi áp dụng lý thuyết
folklore để tiếp cận và lý giải một số đặc điểm được xem là đặc trưng thể loại của giai
thoại Việt Nam. Qua đó, củng cố và xác tín thêm luận điểm: giai thoại là một thể loại
của văn học dân gian. Các đặc điểm mà chúng tôi sắp trình bày dưới đây là: tính dân
gian và bác học của giai thoại; kịch tính của giai thoại; tính hư cấu và sai lệch của
giai thoại và tính phản biện quan niệm truyền thống của giai thoại. Trong đó, ba tính
chất đầu đã được bàn nhiều ở Việt Nam. Riêng tính chất thứ tư, chúng tôi tiếp thu và
phát triển thêm từ các nhà nghiên cứu nước ngoài là Nicolaisen, Gossman,…
2.3.2.1. Tính dân gian của giai thoại
Cũng như các thể loại khác trong tự sự dân gian, giai thoại cũng có những tính
chất, đặc điểm để xác lập tư cách văn học dân gian của thể loại. Các đặc điểm đó vừa
mang những nét phổ quát của loại hình tự sự dân gian, vừa hé mở những nét độc đáo
riêng thuộc về bản chất thể loại của giai thoại Việt Nam. Tính dân gian của giai thoại
thể hiện qua các khía cạnh tiêu biểu là: tính tập thể, tính truyền miệng, tính dị bản.
Dưới đây, luận án sẽ điểm qua các tính chất nêu trên.
a. Tính tập thể và tính truyền miệng của giai thoại
Có thể nói, tính tập thể và tính truyền miệng của giai thoại là những đặc điểm
77
quan trọng góp phần xác định giai thoại là một thể loại thuộc tự sự dân gian. Căn cứ
vào lịch sử nghiên cứu thể loại, chúng ta thấy các nhà nghiên cứu dù theo khuynh
hướng khẳng định giai thoại thuộc văn học dân gian hay thuộc văn học bác học đều đã
thừa nhận và đồng thuận với nhau về các tính chất này. Các tác giả Vũ Ngọc Khánh,
Kiều Thu Hoạch đều căn cứ vào tính tập thể và tính truyền miệng (bên cạnh cách vận
dụng một số biện pháp nghệ thuật đặc thù của văn học dân gian) để khẳng định giai
thoại là một thể loại văn học dân gian. Ngoài ra, hai tác giả trên cũng lưu ý đến hai
tính chất khác là tính dị bản (hệ quả của tính truyền miệng) và tính kết chuỗi (có nhiều
giai thoại xoay quanh môt nhân vật quan phương). Còn Trần Thanh Mại tuy xem giai
thoại là một thể loại thuộc văn học viết nhưng ông cũng đã khẳng định hình thức
truyền miệng và sáng tác tập thể của giai thoại.
Như vậy, theo tác giả đi trước (Trần Thanh Mại, Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu
Hoạch), giai thoại thoạt đầu do các nhân vật nổi tiếng sáng tác. Qua quá trình vận
động, nó mất dần dấu vết tác giả và trở thành tài sản chung của nhân dân. Nhưng một
câu hỏi tiếp theo được đặt ra là bằng cách nào những giai thoại đậm chất văn chương
bác học ấy lại có thể len lỏi, bám rễ và có ảnh hưởng một cách sâu rộng trong đời sống
tinh thần của không chỉ người trí thức mà còn đối với cả tầng lớp bình dân? Có lẽ, đến
đây, chúng ta cần điểm qua một chút về môi trường văn hóa, trong đó, giai thoại được
nảy sinh và phát triển. Để có được sự đồng nhất này, các giai thoại phải phù hợp với
nếp nghĩ, cảm của quần chúng nhân dân.
Theo Vũ Ngọc Khánh, hoạt động sinh hoạt văn chương nói chung từng là thước
đo chuẩn mực của không chỉ ý thức hệ phong kiến mà còn là sinh hoạt mang tính cộng
đồng, làng xã: “Chuyện thử tài, thách thức, đối đáp, ví von, bẻ chuyện, nam xướng nữ
họa, ngày nay đối với chúng ta có phần xa lạ, đôi khi còn đáng nghi ngờ, thực ra đã
có một thời gian chiếm lĩnh các môi trường: trường học, sân đình, quán làng, đám
hội... Nhà văn hay nhà khoa bảng nào không thâm nhập vào môi trường ấy chỉ là hạng
mọt sách, tú tài bất tri thiên hạ sự mà thôi...” [89, tr.18]. Thực ra, có một chiều ngược
lại là chính tầng lớp trí thức đã có vai trò nâng cấp cho các sáng tác dân gian. Vì vậy,
vai trò không thể phủ nhận của các nhà nho trong sinh hoạt văn nghệ dân gian là góp
phần hoàn chỉnh, nâng tầm chữ nghĩa cho những câu hò, lời hát qua kiến thức uyên
thâm của họ. Cùng với quần chúng nhân dân, các nhà nho đã tham gia sáng tạo giai
thoại văn hóa dân gian. Những sáng tác mang hơi thở quần chúng nhân dân lao động
nhanh chóng được dân gian hóa.
78
Trong kho tàng giai thoại, các cuộc hò hát của các nhà nho tài tử như Nguyễn
Công Trứ, Nguyễn Du, Phan Bội Châu,... đều diễn ra trong không khí náo nhiệt, hấp
dẫn của hoạt động sinh hoạt văn nghệ dân gian của cộng đồng. Nói cách khác, văn
chương chữ nghĩa trong giai thoại nhất định phải mang “phong cách dân gian”, tức là
phải xuyên thấm từ lớp văn hóa bác học sang lớp văn hóa bình dân, để có thể làm thỏa
mãn “tầm đón đợi” của người thưởng lãm giai thoại. Như vậy, cái được gọi là tính dân
gian của giai thoại cho thấy chủ yếu hình thành từ lộ trình dân gian hóa bác học. Có lẽ,
chỗ nhập nhằng này khiến cho thể loại thường được soi chiếu dưới hai góc độ thể loại
như đã nêu. Trên đây, luận án vừa điểm qua vấn đề tác giả của giai thoại với vai trò
trung tâm là các nhà nho trong việc sáng tạo thể loại.
Đến đây, có một vấn đề khác đặt ra là ngoài con đường lưu truyền trong dân
gian, thì giai thoại Việt Nam đã được ghi chép (văn bản hóa) như thế nào trong thời kỳ
phong kiến? Quá trình văn bản hóa giai thoại từ những câu chuyện lưu truyền trong
dân gian trở thành những văn bản chắc hẳn có phần nhuận sắc ít nhiều của các nhà
nho. Phần triển khai sau đây sẽ làm nổi rõ vấn đề trên.
Trước hết là các sách sưu tầm giai thoại ở Trung Quốc. Sở dĩ phải điểm qua khía
cạnh này trước bởi lẽ, các sách đó có ảnh hưởng nhất định đến cảm quan sáng tạo giai
thoại của người Việt Nam. Trong đó, nổi bật nhất là khuynh hướng dân tộc hóa mà
luận án đã từng đề cập. Theo tài liệu của PGS Vũ Ngọc Khánh (Kho tàng giai thoại
Việt Nam, tập 1), ngay từ thời phong kiến, ở Trung Quốc đã có rất nhiều sách sưu tầm
giai thoại ra đời. Điểm nổi bật là các giai thoại này thường nằm lẫn với truyện cười:
“Đời Đường có Quần cư giải dị, đời Tống có Thiện hước tập, Tiếu ngôn tập, đời Minh
có Quảng tiếu phủ, Thời thường tiếu đàm, đời Thanh có Tiếu lâm quảng ký. Tổng hợp
các giai thoại, truyện vui của nhiều thế kỷ những tập như Cổ kim đàm khái... Người
chép thoại đồng thời là thi sĩ và nhà phê bình văn học. Cuốn Tùy viên thi thoại được
đánh giá cao bên Trung Quốc. Còn về chuyện, có thể kể những mẩu chuyện rất ngắn
trong các sách như Quảng sự loại, Bắc mộng tỏa ngôn, Cố sự quỳnh lâm, Thuyết
uyển,... Nhưng cũng có những chuyện không phải là mẩu mà là thoại. Sách ghi chép
những thoại này có nhiều tên: có khi là Tiễn đăng tân thoại, có khi là Cổ kim tiểu
thuyết, có cả là sử như bộ Tình sử” [89, tr.9].
Còn theo tài liệu của Trần Thanh Mại (ghi trong Tiểu luận cuốn Giai thoại văn
học Việt Nam (1965)), ngay từ thời Lê – Trịnh, nhà bác học Lê Quý Đôn đã lưu ý đến
sự tháo lắp, chắp nối những mẩu giai thoại từ Trung Quốc qua các sách tiêu biểu có
thể kể ra là: Thi liên hợp bích, Minh nho ký văn, Thuyết phu tùng thuyết, Triều dã
79
thiêm tái, Đậu đương tạp trở, Nhất kiến cáp cáp tiếu,... Dễ thấy một điều rằng, trong
thời kỳ phong kiến, đặc biệt là trong những giai đoạn Nho giáo thịnh hành và giữ vai
trò thống trị về mặt tư tưởng ở nước ta, thì bên cạnh những quyển sách được xem là
kinh điển của Nho giáo (về mặt giáo dục), những sách sưu tầm giai thoại như trên ít
nhiều có những tác động nhất định đến tầng lớp trí thức (ở phương diện giải trí hay
biên khảo).
Trở lại vấn đề sưu tầm, ghi chép giai thoại thời phong kiến, nhiều ý kiến cho rằng
phải đến thời Trần thì các quyển sách ghi chép về giai thoại mới xuất hiện. Tuy nhiên,
nó lại nằm lẫn trong các chuyện được xem là giai thoại thiền. Tiêu biểu là quyển Thiền
uyển tập anh. Sách này chép về tiểu sử của các vị thiền sư ở Việt Nam, trong đó có lẫn
vào một số giai thoại (văn học) về một số nhân vật nổi tiếng như: sư Đỗ Thuận, sư
Mãn Giác, sư Không Lộ, sư Vạn Hạnh,... Trong đó, nổi bật nhất có lẽ là giai thoại đối
đáp văn chương giữa sư Đỗ Thuận và Lý Giác – sứ thần nhà Tống (Bác lái đò hay
chữ). Đến thời Lê, giai thoại chủ yếu được chép trong các sách sử, tiêu biểu là quyển
Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên. Chúng ta có thể tìm được hàng loạt những
giai thoại văn học, giai thoại lịch sử về các nhân vật nổi tiếng nằm trong cuốn này như:
Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần Nhật
Duật,... (đa phần các nhà sưu tầm giai thoại Việt Nam thời hiện đại đều trích dẫn lại từ
sách này). Như vậy là, từ xu hướng hòa lẫn vào sách tôn giáo, giai thoại được ghi chép
theo một hướng khác là các sách sử của các sử quan thời phong kiến.
Ngoài ra, còn có thể kể đến xu hướng thứ ba trong việc ghi chép giai thoại. Đó là
xu hướng chép giai thoại được lưu truyền trong dân gian (những mẩu chuyện được lưu
truyền trong dân gian này được xem là truyền ngôn nói chung và dĩ nhiên giai thoại
nằm lẫn lộn với các thể loại khác như truyện truyền kỳ, truyền thuyết). Đến đây, vai
trò của các nhà nho (nói đúng hơn là danh sĩ) mới được thể hiện một cách rõ nét. Tiêu
biểu có thể kể ra: Thời Lê – Trịnh có Kiến văn tiểu lục (Lê Quý Đôn), Công dư tiệp ký
(Vũ Phương Đề), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh); thời Nguyễn có Vũ trung tùy bút
(Phạm Đình Hổ), Tang thương ngẫu lục (Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án), Vân nang tiểu
sử (Phạm Đình Dục), Thoái thực ký văn (Trương Quốc Dụng), Tam khôi bị lục
(Nguyễn Văn Giao),... Trong các sách này, ngoài việc chép lại các cuộc đối đáp văn
chương, mạn đàm, còn có cả những mẩu chuyện sự tích, dã sử, tình sử,... Ngoài ra, các
tác giả cũng đã phần nào chú ý đến tiểu sử riêng tư của các nhân vật quan phương của
thời đại (thể hiện qua các mẩu chuyện) như: Đoàn Thượng, Phạm Ngũ Lão, Phạm Tử
Hư, Phạm Cư Sỹ, Đỗ Uông, Lý Đạo Tái,... (Vũ trung tùy bút); Nguyễn Đăng Giai,
Nguyễn Công Hãng, Nguyễn Bá Dương, Lê Trãi, Bùi Cầm Hổ, Đặng Chất, Tả Ao,
80
Phạm Đình Trọng, Đặng Trần Côn, Nguyễn Đăng Cảo, Bùi Huy Ích,... (Tang thương
ngẫu lục).
Và đúng như nhận xét của Trần Thanh Mại, Vũ Ngọc Khánh, so với Trung Quốc,
các sách chép giai thoại thời phong kiến của Việt Nam khá ít ỏi. Điều này hẳn có
nguyên nhân của nó. Theo đó, trong thời phong kiến, có hai bộ phận hợp thành văn
hóa Việt Nam. Đó là văn hóa bác học (Nho giáo) gắn liền với giai cấp thống trị và văn
hóa dân gian (bình dân) gắn liền với tầng lớp bình dân trong xã hội. Trong đó, văn hóa
bác học được xem là chuẩn mực, nằm ở vị thế chính thống và hiển nhiên được xem là
cao hơn so với văn hóa dân gian. Đặc biệt, khi tư tưởng lưỡng phân về văn hóa ra đời
(phân biệt một cách rạch ròi giữa văn hóa bác học và dân gian), việc ghi chép những
câu chuyện được truyền tụng trong dân gian có gì đó “ngoài lề”, “phi chính thống”. Và
hiển nhiên cảm quan đó có sự chi phối ít nhiều đến tâm lý ghi chép những truyền ngôn
trong dân gian, trong đó có giai thoại.
Ngoài ra, cũng cần chú ý thêm một đặc điểm mang tính thời đại: bối cảnh lịch sử
- xã hội. Bước sang thế kỷ XVI, từ lúc Mạc Đăng Dung lật đổ nhà Lê (năm 1527), xã
hội phong kiến Việt Nam bắt đầu bộc lộ sự suy vi ở những mức độ khác nhau. Đất
nước cũng từ đó rơi vào cảnh chiến tranh, loạn lạc liên miên ( Lê – Mạc; Trịnh –
Nguyễn, các cuộc khởi nghĩa nông dân,...). Trong một bối cảnh xã hội như vậy, dễ
hiểu vì sao tâm thức thời đại ít quan tâm đến cảm quan huyền thoại, thiêng liêng mà
trở về với cảm hứng thế sự. Nhiều thể loại văn học dân gian có xu hướng đi sâu vào
vấn đề thân phận con người có lẽ cũng phần nào liên quan đến bối cảnh chung đó. Như
vậy, trong gần 10 thế kỷ (từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX), giai thoại Việt Nam được ghi
chép lại theo 3 khuynh hướng cơ bản là: tôn giáo, sử biên niên, truyền ngôn với vai trò
chủ đạo của các sử quan và các nhà nho.
Phải đến đầu thế kỷ XX, khi chữ quốc ngữ phổ biến thì các sách giới thiệu về
giai thoại mới nở rộ (như đã điểm qua ở Chương 1). Tầng lớp nho sĩ và trí thức Tây
học như: Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Ngọc, Đào Trinh Nhất, Ngô Tất Tố,... và
nhiều trí thức khác đã cho xuất bản hàng loạt những quyển sách có giá trị “ôn cố nhi tri
tân” với các tiêu đề như: chuyện đời xưa, chuyện giải buồn, chuyện mua vui, chuyện
cổ, chuyện góp, tiếu lâm,... Bên cạnh đó, khá nhiều quyển sách Hán, Nôm được
chuyển ngữ sang quốc ngữ cũng có giá trị trong việc quảng bá, giới thiệu giai thoại
đến với đông đảo quần chúng nhân dân (Nam Hải dị nhân liệt truyện – Hoàng Tâm
biên dịch; Nam Hải dị nhân – Phan Kế Bính biên dịch; Đại Nam kỳ nhân liệt truyện –
Tô Linh Thảo biên dịch,...). Như vậy là, với sự chuyển đổi từ văn hóa trọng Nho (Hán
học với chữ Hán là trung tâm) chuyển sang văn hóa Tây học (với chữ quốc ngữ là
81
trung tâm) thì các thể loại văn học dân gian nói chung (trong đó có giai thoại) mới có
thể đến gần hơn với quần chúng nhân dân thông qua con đường văn bản hóa.
Ở trên, luận án đã điểm qua khía cạnh tác giả sưu tầm, giới thiệu giai thoại qua
các thời kỳ. Đến đây, sẽ nói về môi trường sinh hoạt trong đó giai thoại này sinh và
được truyền tụng. Mỗi thể loại đều có sức sống và bối cảnh riêng của nó. Bối cảnh đó
phải xuất phát từ đời sống tinh thần của nhân dân. Chính bối cảnh sinh hoạt cụ thể mới
tạo nên giá trị thẩm mỹ riêng cho giai thoại, khiến nó xuất phát từ tầng lớp trí thức vẫn
gần gũi với nhân dân. Thử dẫn ra đây 02 ví dụ tiêu biểu về sự ứng tác của nhà nho tài
tử Phan Bội Châu trong các cuộc hát. Trong giai thoại Đoán tên, đứng trước câu hát đố
(về tên tuổi) rất hiểm hóc của nhà nho Cửu Thiện (quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh): “Đào
nguyên một giải thanh thanh/ Tiền triều đã định, liên thành còn in”, tài tử Phan Văn
San đã lục lọi trong trí nhớ về kho tàng sách vở, chữ nghĩa, cuối cùng cũng đoán được
tên của Cửu Thiện: “Hương Sơn là chốn quê nhà/ Phải rằng danh Bích có là đúng
chăng?” [114, tr.271 – 172]. Câu hát giải đố của Phan Bội Châu hoàn toàn không có
sẵn trong truyền thống dân gian mà do ông tự nghĩ ra bằng kiến thức uyên thâm. Do
vậy, có thể nói, trong trường hợp trên, Phan Bội Châu đã thuyết phục được mọi người,
trong đó có Cửu Thiện bằng một câu hát ngoài sách vở, ngoài những điều mà ai cũng
biết. Đến giai thoại thứ hai, Cha thầy Mạnh Tử là ai?, thì bên cạnh cá tính (tiếng chửi:
Thầy Mạnh, cụ Mạnh sinh ra/ Trả lời câu đố, tổ cha thằng bày!) thì truyền thống dân
gian cũng được cụ Phan Bội Châu vận dụng để đáp lại lời hát đố của phường bạn. Câu
hát của phường bạn là: “Đưa chàng mấy nắm ngô rang/ Trồng nơi mô cho mọc, thiếp
theo chàng về ngay!”. Đây rõ ràng là câu hát khá hiểm nhưng không phải là không có
câu trả lời, theo đúng phong cách dân gian: dùng cái tục (ở đây là sinh thực khí) để áp
chế cái nan giải. Thực ra, câu hát đố này đã có sẵn trong ký ức tập thể, chỉ cần biến tấu
lại là có thể giải quyết được tình hình. Thế nên, cụ Phan đã đáp lại ngay: “Nơi nào mà
nắng không khô/ Mà mưa không ướt, đút vô mọc liền” [114, tr.273]. (Câu hát dân gian
là: “Nơi nào mà nắng sáu tháng không khô/ Mưa ba năm không ướt đút vô nó mọc
liền”).
b. Tính dị bản của giai thoại
Ở trên, luận án đã điểm qua vấn đề tính tập thể, tác giả sáng tác giai thoại, các
cách thức ghi chép giai thoại cũng như môi trường văn hóa sản sinh ra giai thoại. Đến
đây, chúng tôi tiếp tục bàn về tính dị bản của giai thoại. Bởi lẽ, đây cũng là một tính
chất quan trọng không chỉ góp phần xác định tư cách thể loại văn học dân gian của giai
thoại mà còn hé mở tư suy sáng tạo giai thoại của dân gian. Trên đại thể, dị bản trong
giai thoại không mang ý nghĩa chặt chẽ như dị bản trong các thể loại khác của văn học
82
dân gian. Đây là đúc kết của các nhà nghiên cứu đi trước (Trần Thanh Mại, Vũ Ngọc
Khánh, Kiều Thu Hoạch,…). Để sáng tạo nên giai thoại, dân gian có cách thức gán
ghép, thêu dệt nên những mẩu chuyện khá giống nhau, chỉ khác biệt đôi chút về tính
danh của NVC, thơ văn, câu đối, câu hát,... Điều này chắc hẳn có liên quan đến tâm lý
sáng tạo của thể loại.
Qua quá trình vận động, giai thoại sẽ tích hợp văn hóa thông qua 3 khuynh
hướng sáng tạo cơ bản là dân tộc hóa, địa phương hóa và lịch sử hóa. Hiện tượng dân
tộc hóa trong giai thoại có xu hướng hút những giai thoại văn học Trung Quốc và
chuyển hoá thành giai thoại văn học Việt Nam. Chỉ có nhân dân mới tạo nên sức hút
mạnh mẽ lớn như vậy. Chẳng hạn, giai thoại Hai cô Điểm, hai ông Luân nói về cuộc
đối đáp văn chương giữa hai anh em Đoàn Doãn Luân và Đoàn Thị Điểm thực chất là
sao chép từ giai thoại tương tự của Tô Đông Pha và Tô Tiểu Muội. Ngay từ thời Lê,
Lê Quý Đôn cũng đã lưu ý về vấn đề sao chép, gán ghép này trong quyển Kiến văn
tiểu lục, ở mục Tùng đàm. Cụ thể, giai thoại Cầm sắt tỳ bà bát đại vương về nhân vật
Vũ Duệ (thời Lê, đỗ Trạng nguyên thứ 21, năm 1490) thực ra được sao chép từ sách
Thi liên hợp bích về nhân vật Giải Tấn đối đáp với Minh Thành Tổ. Còn giai thoại Bốn
chữ nhất nổi tiếng của Mạc Đĩnh Chi lại rất giống (từ nội dung đến thơ văn) với một
giai thoại về nhân vật Dương Ức (nhà Tống) được ghi trong sách Thuyết phu tùng
thuyết. Giai thoại Thánh quân minh đế nói về Lương Thế Vinh bị té xuống sông, rồi
trò chuyện cùng Khuất Nguyên tiên sinh thực ra là hoàn toàn trùng lặp với giai thoại
về Cao Thôi Ngôi với vua Đường (sách Triều dã thiêm tái) và cả Hoàng Phan Xước
với Đường Minh Hoàng (sách Đậu dương tạp trở),…
Đến đây, có thể mô hình hóa khuynh hướng dân tộc hóa qua sơ đồ sau:
Giai thoại Trung Quốc
Giai thoại Việt Nam
Dân tộc hóa
Sở đồ 2.4. Khuynh hướng dân tộc hóa trong sáng tạo giai thoại Việt Nam
Như vậy, dân tộc hóa là một trong 3 khuynh hướng cơ bản nhằm sáng tạo giai
thoại. Nó được triển khai theo cách thức thay đổi tên NVC là người nổi tiếng của
Trung Quốc thành NVC là những nhà khoa bảng, nhà nho Việt Nam (có thể giữ
nguyên thơ văn, hoặc có thay đổi chút ít so với câu chuyện gốc). Ngoài ra, cũng cần
nhắc đến khuynh hướng lịch sử hóa nhân vật, biến nhân vật từ phiếm chỉ trở thành
nhân vật có tên tuổi. Chẳng hạn, sách Truyện đời xưa của học giả Trương Vĩnh Ký có
chép truyện Học trò sửa liễn phủ cửa ngõ của ông hoàng, với hai nhân vật hoàn toàn
phiếm chỉ. Tuy nhiên, trong sách Văn đàn bảo giám lại ghi tên hai nhân vật ấy là Cao
83
Bá Quát và vua Tự Đức. Quá trình lịch sử hóa này chứng tỏ câu chuyện trên đã vận
động trong không gian, thời gian, được nhào nặn lại, với một mục đích rõ ràng là đề
cao cái tôi ngông nghênh của Cao Bá Quát trước thế lực vương quyền đương thời. Và
mặt khác, phải chăng quá trình lịch sử hóa ấy chính là căn nguyên dẫn đến sự di
chuyển thể loại, từ cổ tích sinh hoạt (với NVC phiếm chỉ) thành giai thoại văn học (với
NVC là người nổi tiếng)?
Có thể khái quát tư duy lịch sử hóa giai thoại theo sơ đồ sau:
Cổ tích sinh hoạt
Giai thoại văn học
(NVC khuyết danh)
(NVC là người nổi tiếng)
Lịch sử hóa
Sơ đồ 2.5. Khuynh hướng lịch sử hóa trong sáng tạo giai thoại Việt Nam
Ngoài hai khuynh hướng dân tộc hóa và lịch sử hóa, trong tư duy sáng tạo giai
thoại còn xuất hiện khuynh hướng thứ 3 là khuynh hướng địa phương hóa. Khuynh
hướng địa phương hóa là cách thức thay đổi tên NVC (thường là người nổi tiếng) ở địa
phương này bằng tên một NVC khác (cũng là người nổi tiếng) ở địa phương khác với
mục đích chính là thể hiện niềm tự hào, ngưỡng mộ nhân vật. Ví dụ, một giai thoại
tiêu biểu trong nhóm giai thoại đi sứ, xoay quanh câu đối: “Đồng trụ chí kim đài dĩ
lục/ Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” trước vua nhà Minh (Trung Quốc) có khá nhiều
giả thuyết khác nhau về NVC: Sách Tam khôi bị lục thì cho là Giang Văn Minh, sách
Văn đàn bảo giám lại ghi là Nguyễn Tuấn, còn sách Việt – Hoa thông giám cương mục
thì lại chép NVC là Phùng Khắc Khoan,… Điều đặc biệt là cả ba nhân vật nêu trên đều
có đi sứ sang Trung Quốc. Trên đại thể, sự thay đổi tên NVC nổi tiếng ở địa phương
này bằng tên NVC nổi tiếng của địa phương khác không làm tổn hại đến tinh thần (hay
nội dung tư tưởng) của các giai thoại. Có thể khái quát lại tư duy địa phương hóa trong
sáng tạo giai thoại theo sơ đồ sau:
Giai thoại
Giai thoại
(NVC là người nổi tiếng ở
(NVC là người nổi tiếng ở
địa phương này)
địa phương khác)
Địa phương hóa
Sơ đồ 2.6. Khuynh hướng địa phương hóa trong sáng tạo giai thoại Việt Nam
Theo Trần Thanh Mại, việc hoán chuyển này thực chất là hiện tượng Việt hóa
văn hóa Hán. Và về mặt nào đó, nó chính là hư cấu: “Cần quan niệm tính chân xác
hay tính hư cấu của giai thoại văn học (cũng như mọi giai thoại nói chung) một cách
sinh động và biện chứng. Khăng khăng cho rằng giai thoại văn học Việt Nam là hoàn
84
toàn bịa đặt là không đúng mà bảo rằng đó là sự thật lịch sử, bảo rằng chuyện của
người nào nhất thiết phải là chuyện thật đã xảy ra với người ấy, thơ của người nào
nhất thiết phải là thơ của chính người ấy đã sáng tác ra, như thế lại càng sai” [65,
tr.25].
Chúng tôi cho rằng cơ sở của việc xoay trục (thay đổi, gán ghép NVC của giai
thoại) là căn cứ vào hai tiêu chí: cùng hàng và cùng loại. Hai tiêu chí này có thể hình
dung như những lát cắt đồng đại và lịch đại. Tiêu chí cùng hàng có nghĩa là các nhân
vật ấy phải là những người sống cùng thời đại với nhau (đồng đại). Tiêu chí cùng loại
nhằm khu biệt các nhân vật phải là những người có phong cách, tài năng tương tự
nhau. Chẳng hạn, giai thoại Không biết chữ chi, có hai bản khác nhau, một bản cho
nhân vật chính là Lê Quý Đôn (thời Lê – Trịnh), bản khác lại cho là Cao Bá Quát (thời
Nguyễn). Cả hai nhân vật nảy đều là người đỗ đạt và có tính tình tự phụ. Do vậy, sự
tháo lắp trong trường hợp này hoàn toàn có thể chấp nhận được nếu dựa vào điểm
tương đồng về phong cách sống, cá tính của nhân vật.
Nhìn nhận một cách khái quát hơn, thật ra vấn đề phản ánh trung thực hay hư cấu
trong giai thoại nói chung có liên quan đến yếu tố sử và thao tác nhào nặn yếu tố sử
của thể loại. Đây cũng là điều mà Vũ Ngọc Khánh đã nhận thấy và có những kiến giải
sâu sắc: “Ở giai thoại, người ta có quyền hư cấu, đôi khi hư cấu là đặc điểm bao trùm
nhưng không vì vậy mà ý nghĩa và giá trị lịch sử của nó bị suy giảm. Chuyện không
nhất thiết là có thực nhưng vẫn y như thực hoặc có khả năng là thực. Thực ở con
người ấy với bản lĩnh, tính cách đã quá rõ ràng đã được khẳng định với thời gian.
Thực ở giai đoạn xã hội ấy với những mối tương quan, những điều kiện chủ quan đặt
ra tình huống ấy, phương pháp giải quyết và lề lối ứng xử ấy. Lịch sử trong giai thoại
có thể là lịch sử tự thân, mà cũng có thể là lịch sử với khả năng tất yếu (…). Có thể
hoài nghi xuất xứ nhưng không thể hoài nghi về con người. Con người phải có thực
chất như vậy thì sự gán ghép, hư cấu kia mới có thể đứng vững được” [91, tr.34 – 35].
2.3.2.2. Tính hư cấu và tính sai lệch của giai thoại
Bản thân hư cấu là sáng tạo, tái tạo hiện thực. Vì vậy, nó vừa giống với hiện thực
mà vừa không phải là hiện thực hiểu theo nghĩa đích thực. Khoảng cách giữa sự hư
cấu với đích thực sự việc, nhân vật thực là sự sai lệch. NVC của giai thoại phần lớn là
con người cụ thể, có đặc điểm, hành trạng rõ ràng. Điều này thường nằm trong phần
mở đầu của giai thoại, với tính cách như phần giới thiệu, bước đệm, trước khi trình bày
về những biến cố, sự kiện xảy ra tiếp theo. Do vậy, tính hiển nhiên về mặt thông tin có
liên quan đến nhân vật là điều không thể phủ nhận. Vấn đề ở đây là con người, biến cố
85
ấy có mối quan hệ như thế nào với lịch sử. Nói khác đi là tác giả giai thoại dùng thao
tác nào để tái tạo lịch sử trong câu chuyện.
Gần như đối lập lại với tính chất hiển nhiên của người thật việc thật ở trên, giai
thoại còn có tính chất bên lề, phi chính thống, nghĩa là nó tự rạch lằn ranh xác tín với
chính sử, hay nói một cách nôm na là được tin như những câu chuyện có thật, đã từng
xảy ra trong thực tế khách quan. Những tình tiết, sự kiện, nhân vật,… được đề cập đến
trong giai thoại, trong nhiều trường hợp, chỉ là yếu tố tham khảo, giải trí chứ không thể
xem như một sự thật hiển nhiên. Theo quan sát của chúng tôi, đó là hệ quả của tính
chất hư cấu của thể loại. Tất nhiên, hư cấu cũng là đặc trưng của nhiều thể loại tự sự
dân gian khác chứ không riêng gì giai thoại. Nhưng rõ ràng tính hư cấu trong giai thoại
cũng có những quy luật riêng, gắn liền với tư duy sáng tạo của dân gian (theo 3
khuynh hướng: dân tộc hóa, địa phương hóa, lịch sử hóa mà luận án đã đề cập ở phần
trên).
Do vậy, có thể nói, sự thật trong giai thoại mang tính chất cái thực bản chất của
thể loại, chứ không phải là hiện thực khách quan. Thế nên, khi tiếp nhận giai thoại,
người ta không bao giờ đặt câu hỏi rằng câu chuyện ấy có thật hay không và thật đến
mức độ nào. Điều này rõ ràng có liên quan đến tâm lý tiếp nhận giai thoại: khi nghe/
đọc một giai thoại, vấn đề cốt lõi mà người tiếp nhận quan tâm là câu chuyện đó có thú
vị hay không (thú vị ở tình huống ứng xử, thơ văn, câu đối,…) chứ không phải ở mức
độ phản ánh thực tế khách quan có chân thực hay không. Điều này cũng có nghĩa là
nếu chúng ta quá chú trọng vào xác thực trong giai thoại rồi đánh đồng nó với sự thật
khách quan thì sẽ dẫn đến những ngộ nhận mang tính quy chụp, sai lầm về phương
pháp. Trên thực tế, chúng ta chỉ có thể sử dụng giai thoại như những mẩu chuyện tham
khảo về nhân vật có liên quan, chứ không thể căn cứ vào nó để dựng lại tiểu sử một
nhân vật. Nghĩa là, tính hư cấu là tiền đề dẫn đến tính sai lệch về mặt thông tin được
phản ánh trong giai thoại như nhiều nhà nghiên cứu đi trước đã lưu ý (Vũ Ngọc
Khánh, Triều Nguyên,…).
Tính chất bên lề, hư cấu của giai thoại sẽ làm phát sinh tính sai lệch của thể loại
so với thông tin chính thống. Có cách hiểu khác cho là sử quan phương. Sự sai lệch
này là một hệ quả hiển nhiên, không thể loại trừ. Như trên đã trình bày, tính hư cấu
của giai thoại khiến cho nội dung câu chuyện mà nó đề cập chỉ mang tính chất tham
khảo, mua vui, giải trí là chính chứ không thể xem đó như là sự thật khách quan. Trên
bình diện tiếp nhận giai thoại, tính sai lệch có chức năng điều chỉnh những ngộ nhận.
Đại thể, đó là các xu hướng: đồng nhất hóa nhân vật trong giai thoại với nhân vật
86
nguyên mẫu ngoài đời (prototype) và quy chụp hành động, ứng xử của nhân vật trong
giai thoại với tính cách của con người trong thực tế. Nghĩa là cấu trúc, mô hình ấy có
thể gán cho bất cứ nhân vật nào. Đấy chính là đặc thù sáng tạo của dân gian. Thực ra,
về tâm lý tiếp nhận, người nghe luôn có cảm giác đấy là sự thực. Có lẽ, chính cảm giác
này tạo nên giá trị thẩm mỹ cho thể loại. Chính sự sai lệch là sáng tạo. Vì vậy, mỗi dị
bản là một cách tái sáng tạo.
Chẳng hạn, từng có thời gian người ta đồng nhất nhân vật Chiêu Hổ trong chùm
giai thoại đối đáp với Hồ Xuân Hương với Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), một tác giả
văn học nổi tiếng sống vào giai đoạn cuối Lê đầu Nguyễn. Cho đến thập niên sáu mươi
của thế kỷ trước, sự thật về hai nhân vật mới được bóc tách một cách thuyết phục qua
bài viết của Tảo Trang: “Chiêu Hổ và Phạm Đình Hổ” (Tạp san Nghiên cứu Văn học
số 3/1962, dẫn theo Kiều Thu Hoạch, [67, tr.43]). Một trường hợp nữa, khá nổi tiếng,
đó là phải chăng Nguyễn Quỳnh (tức Cống Quỳnh, 1677 – 1748) là nguyên mẫu của
nhân vật Trạng Quỳnh của văn học dân gian?
Trường hợp tiếp theo là đồng nhất hóa hành động trong giai thoại để đúc kết
thành tính cách của nhân vật trong đời thật. Trong kho tàng giai thoại, chúng ta có thể
chọn ra trường hợp của Cao Bá Quát. Nhân vật này được xây dựng bằng chùm giai
thoại ngông nghênh với người đời, với vương quyền. Nói chung, đi đến đâu họ Cao
cũng ít coi ai ra gì, ứng xử có phần lỗ mãng dù tài năng là không thể phủ nhận. Tiêu
biểu cho các giai thoại ấy là: Câu thơ thi xã, Bịa thơ tài hơn vua, Khí phách ngang
tàng,… Trong các giai thoại này, Cao Bá Quát đã chửi thứ văn chương toàn mùi “nước
mắm Nghệ An” của nhóm thi sĩ trong thi xã Mạc Vân của Tùng Thiện Vương, hạ bệ
vua Tự Đức ngay điện Cần Chánh trước mặt bá quan văn võ; khạc nhổ, bịt mũi khi
nghe quan Đốc học dạy học trò,... Về sự khác biệt giữa tình tiết trong giai thoại và
nguyên mẫu nhân vật, nhiều nhà nghiên cứu đã có những lưu ý. GS Vũ Khiêu trong
Lời giới thiệu quyển Thơ chữ Hán Cao Bá Quát cũng đã viết: “Khác với một số giai
thoại, coi ông như một đứa trẻ ngỗ ngược, Cao Bá Quát qua thơ văn, đã tỏ ra là một
người biết giữ gìn phẩm hạnh, đối xử đúng mực với cha mẹ, anh em, xóm làng (…).
Cao có một cuộc sống thanh sạch, một thái độ đúng đắn về tình yêu, một tấm lòng đằm
thắm với vợ con” [101, tr.11]. Còn Nguyễn Ngọc Quận cũng lưu ý: “Thực ra, Cao Bá
Quát có tỏ ra cao ngạo, ngang tàng nhưng đó là đối với đám vua quan nhà Nguyễn tài
đức kém cỏi. Còn đối với nhân dân lao khổ, ông luôn tỏ lòng thương xót, cảm thông.
Giới nghiên cứu từ nửa thế kỷ nay đều thống nhất điểm đó” [124].
87
Công trình Đố tục giảng thanh và giai thoại chữ nghĩa [15] của Nguyễn Trọng
Báu cũng mắc lỗi tương tự và gây ra một số tranh cãi trong giới nghiên cứu. Bài viết
“Thằng bán tơ và hai ông nghè” của quyển này căn cứ vào tình tiết trong giai thoại văn
học có liên quan đến Chu Mạnh Trinh, rồi quy chụp ông là người phản quốc (hợp tác
với Pháp), người kiêu ngạo, cơ hội, hỗn xược với Nguyễn Khuyến. Trong bài viết “Kể
chuyện giai thoại không được bôi bác và xúc phạm danh nhân”, tác giả Thế Anh đã
căn cứ vào sử liệu để bác lại hoàn toàn những quy chụp thiếu căn cứ trên. Theo đó,
chưa có tài liệu nào chứng minh Chu Mạnh Trinh hợp tác với Pháp để đàn áp dân
chúng, mà ông còn lập mưu để cứu những tù nhân trong cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Sau
đó, ông đã từ chức Án sát Hưng Yên và được chấp nhận (năm 1903). Hơn nữa, cuộc
thi vịnh Kiều được tổ chức năm 1905, tức là sau 2 năm tính từ lúc họ Chu từ chức, nên
không thể nào ông dùng quyền lực để làm thay đổi kết quả cuối cùng. Rõ ràng, ở đây
có sự ngộ nhận giữa tư duy sáng tạo dân gian và ý thức lịch sử. Một bên chú trọng tính
xác thực, một bên chỉ chú trọng cảm hứng toát ra từ câu chuyện. Đây cũng là biểu hiện
sự nhập nhằng giữa tư duy dân gian và bác học.
Như vậy, đối với giới nghiên cứu, cần phải kiểm chứng, so sánh sự kiện, tình tiết
trong giai thoại với chính sử để có thể tránh được những kết luận vội vàng, võ đoán.
Bàn về tính hư cấu và sai lệch của giai thoại, chúng ta sẽ thấy một điểm đáng lưu ý
hơn là mối quan hệ giữa giai thoại và lịch sử. Đây cũng là vấn đề đáng được đào sâu
nhằm chỉ ra quy luật nhào nặn yếu tố sử của giai thoại. Thiết nghĩ, đây là một vấn đề
lớn về mặt lý luận nên chúng tôi sẽ tách ra và trình bày một cách cụ thể ở Chương 4
của luận án.
2.3.2.3. Tinh thần phản biện của giai thoại
Như trong mục cảm hứng đã nêu, bên cạnh xu hướng đề cao, thiêng hóa nhân
vật, trong giai thoại còn có dạng cảm hứng đối lập. Đó là sự phê phán, đả kích, giải
thiêng đối tượng là người nổi tiếng theo cách nhìn nhận của các nhà nghiên cứu giai
thoại Việt Nam. Còn ở phương Tây, Nilaicosen định danh tính chất này là sự “chỉ
trích xã hội” (Giai thoại, [107]), còn Gossman cũng gọi là “lịch sử phản lịch sử”
(“Giai thoại và lịch sử” [179]). Và mặc dù đã được bàn luận đến, song chưa có nhà
nghiên cứu nào ở Việt Nam khẳng định đây là tính chất quan trọng, góp phần hình
thành nên đặc trưng thể loại của giai thoại Việt Nam.
Ở phương Tây, một trong những quan niệm gốc về giai thoại mang nét nghĩa
hàm ý về “những câu chuyện chưa được công bố” (có người còn gọi là “chưa được
xuất bản” với ý nghĩa nhấn mạnh hơn dạng thức tồn tại ở dạng văn bản của giai thoại).
88
Do vậy, cũng cần xem xét giai thoại trong quá trình từ chỗ “chưa được công bố” đến
khi xuất hiện, được truyền miệng (và xuất bản) thì nó có sự tác động gì đến quá trình
chuyển đổi lịch sử, văn hóa, xã hội? Nói khác đi, giai thoại với tư cách là các tiểu diễn
ngôn đối lập và thách thức những đại diễn ngôn (dòng quan điểm chính thống) đã hình
thành trước đó và góp phần định hình quan điểm về vấn đề liên quan theo thời gian
như thế nào? Trong mục này, luận án sẽ bước đầu trình bày, luận giải tính chất trên.
Chúng tôi hiểu nội hàm của thuật ngữ phản biện quan niệm truyền thống như
sau: Phản biện quan niệm truyền thống là những hành vi, ứng xử, lời nói,… có mục
đích chống đối lại những quan niệm được xem là chuẩn mực của cộng đồng, xã hội về
các nhân vật nổi tiếng (như anh hùng văn hóa, anh hùng chiến trận, vua chúa, quan lại,
thần thánh,…) nhằm đưa ra một cái nhìn mới mẻ về nhân vật. Theo tính chất của hành
động, có thể chia sự phản biện quan niệm truyền thống thành các mức độ là: sự phản
biện gay gắt, trực tiếp (mức độ cao – chúng tôi định danh là phê phán, đả kích) và sự
phản biện nhẹ nhàng, gián tiếp (mức độ thấp – chúng tôi định danh mức độ này là sự
giải thiêng nhân vật).
a. Sự phê phán, đả kích của giai thoại
Sự phê phán, đả kích trong giai thoại chủ yếu nhắm vào nhân vật đại diện cho
vương quyền, thần quyền của chế độ phong kiến. Qua thống kê 03 công trình về giai
thoại, chúng tôi xác định có 160/756 tác phẩm xuất hiện tính chất này (tỉ lệ 21,2%).
Trong đó, đả kích, phê phán vương quyền là 127/756 (16,8%) và đả kích, phê phán
thần quyền là 33/756 (4,4%). Như vậy, có thể đưa ra nhận xét chung rằng: trong giai
thoại, đối tượng con người thực tế trong xã hội, mà cụ thể là thế lực vương quyền (vua
quan phong kiến) là đối tượng chủ yếu của sự phê phán đả kích, chứ không phải là
thần quyền (thế lực siêu hình).
Sự phê phán, đả kích vương quyền
Sự phê phán, đả kích vương quyền của giai thoại chủ yếu tập trung vào những
biểu hiện sau của các triều đại phong kiến Việt Nam: Chuyện loạn luân trong hoàng
tộc; những cuộc thanh trừng nội bộ nhằm tranh giành quyền lực; những tên tay sai
phục vụ cho thực dân Pháp.
- Chuyện loạn luân trong các triều đại phong kiến
Vấn đề loạn luân được đặt ra từ thời cổ đại và được đưa vào huyền thoại khá
sớm, được xem như điều cấm kỵ. Nó dần hình thành chuẩn mực sống, liên quan đến
giống nòi. Bất cứ nền văn hóa, văn học nào của nhân loại cũng định hình thành những
motif trong văn học. Tuy nhiên, giữa văn học và cuộc sống có khoảng cách. Thực tế,
89
có khi phải phá vỡ hệ thống. Trong truyền thuyết có hiện tượng này. Trong xã hội
cũng như vậy. Nhưng đó là vấn đề không dễ nói. Sau đây, luận án xin điểm qua một
vài trường hợp tiêu biểu về chuyện loạn luân trong các triều đại phong kiến Việt Nam.
Trong các triều đại phong kiến Việt Nam, thời nhà Trần được biết đến như một
trong những triều đại hùng cường, tạo nên được những chiến công kỳ vĩ (ba lần đánh
thắng giặc Mông Nguyên), làm nên bản hùng ca hoành tráng của thời đại Đông A. Tuy
nhiên, từ sử sách đến miệng thế gian cũng ghi lại không ít những câu chuyện thâm
cung bí sử mang màu sắc chê trách một số nhân vật nổi tiếng. Nổi bật lên trong những
câu chuyện như vậy là những tình tiết loạn luân, khó có thể chấp nhận. Một trong
những nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn, góp phần dựng lên triều đại này là Trần Thủ
Độ. Chính ông là người tạo nên tiền lệ không mấy tự hào: bắt anh em Trần Liễu (An
Sinh Vương) và Trần Cảnh (Trần Thái Tông) hoán đổi vợ cho nhau, từ đó làm phát
sinh hình thức hôn nhân nội tộc của họ Trần về sau. Ghi nhận lại sự việc này, sách Việt
sử giai thoại chép: “Bởi lẽ ấy mà vợ của Trần Hưng Đạo cũng chính là bà cô ruột của
ông (Công chúa Thiên Thành). Sau, Trần Thủ Độ và bà Trần Thị Dung còn buộc Trần
Liễu phải nhường vợ là Thuận Thiên Công chúa cho Trần Cảnh (lúc này đã là vua),
còn Chiêu Thánh Công chúa thì đem gả cho Lê Tần (tức Lê Phụ Trần). Bởi chuyện
này mà Trần Liễu xung đột với Trần Cảnh, bà Trần Thị Dung phải dàn xếp mãi mới
xong” (Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung, Việt sử giai thoại, tập 3, [145, tr.5]). Sự
việc trên bị các sử gia đời sau (Phan Phu Tiên, Ngô Sỹ Liên) phê phán khá nặng nề.
Đấy cũng là nguyên nhân gây ra những mối hiềm khích về sau của con cháu: Trần
Quốc Tuấn với Trần Quang Khải; Trần Quốc Tảng có ý đồ làm loạn,…
Không chỉ giới hạn trong nội bộ hoàng tộc, một số vị tướng lĩnh nổi tiếng của
thời Trần cũng “dính” vào “ải mỹ nhân”, khiến cho thanh danh bị hủy hoại, miệng thế
chê cười. Trần Khánh Dư tài năng hơn người nhưng vì thông dâm với Công chúa
Thiên Thụy mà bị cắt hết chức quyền, phải đi bán than kiếm sống (Thơ bán than, Giai
thoại văn học Việt Nam – Trần Thanh Mại, Kiều Thu Hoạch, Hoàng Ngọc Phách; Hai
chuyện nhỏ về Trần Khánh Dư, Việt sử giai thoại, tập 3, [145, tr.5]). Trần Khắc Chung
từng là một tay hùng biện giỏi, một con người khí khái hơn người trước tướng Ô Mã
Nhi. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình như: Hành Khiển, Tể
tướng, Thiếu bảo,… Nhưng rồi danh dự của vị quan này cũng bị bôi đen với việc tư
thông với Công chúa Huyền Trân sau khi giải cứu công chúa nhà Trần khỏi Chiêm
quốc (tháng 10 năm 1037). Nói về điều này, giai thoại lịch sử chép như sau: “Khắc
Chung dùng thuyền nhẹ, cướp lấy Công chúa đem về, rồi tư thông với Công chúa, đi
90
đường biển loanh quanh chậm chạp, lâu ngày mới về đến kinh đô” (Trần Khắc Chung
mất hết dũng khí, Việt sử giai thoại, tập 3, [145, tr.23]).
Đến thời Lê, một số nhân vật hoàng tộc cũng vướng vào chuyện quan hệ nam nữ
bất chính mà để lại vết nhơ cho hậu thế. Lê Thái Tông có mối quan hệ mờ ám với
Nguyễn Thị Lộ (thiếp của Nguyễn Trãi), giáp tiếp đưa đến kết thúc bi thảm của Ức
Trai (Vụ án Lệ Chi viên, Việt sử giai thoại). Mặc dù, thế lực vương quyền đã tạo ra câu
chuyện Rắn báo oán để “di chuyển điểm nhìn” chỉ trích sang Nguyễn Thị Lộ (tức hiện
thân của con rắn để báo oán Nguyễn Trãi) nhưng khó có thể che đậy được hành xử bất
chính của vua Lê với người thiếp của tôi thần. Ở thời Lê – Trịnh, chuyện dan díu của
Tuyên phi Đặng Thị Huệ và Quận Huy Hoàng Đình Bảo (sau cái chết của Trịnh Sâm)
cũng là một câu chuyện tiêu biểu. Ghi nhận lại sự việc này, dân gian (ở kinh thành
Thăng Long lúc đó) đã có câu hát mỉa mai:
Trăm quan có mắt như mờ,
Để cho Huy Quận vào sờ chính cung.
Tất nhiên, Quận Huy và Tuyên phi tức tối không chịu được. Nhưng làm sao họ
có thể bắt và cắt lưỡi hết những người rêu rao, phỉ báng mình? (Huệ kia không quả còn
mong nỗi gì?, Kho tàng giai thoại Việt Nam – Vũ Ngọc Khánh). Ngoài ra, còn có thể
kể đến vụ thông dâm của Trịnh Giang với vợ lẽ của cha (Trịnh Cương) (Mắc bệnh
kinh quý, Việt sử giai thoại, tập 7, [145, tr.106]). Đến thời nhà Nguyễn, một số cuộc
binh biến gắn với các vụ loạn luân trong hoàng tộc cũng trở thành đề tài làm rúng động
nhân tâm. Tiêu biểu có thể kể ra là Tống thị, Nguyễn Thị Ngọc Cầu (Xâu chuỗi trăm
hoa, Vụ loạn luân trong mưu đồ sâu sắc; Kho tàng giai thoại Việt Nam – Vũ Ngọc
Khánh).
- Những vụ thanh trừng nội bộ của chính quyền phong kiến
Ngoài ánh hào quang của mỗi triều đại sau khi dựng nên, cũng có không ít những
mẩu chuyện tái hiện lại những mâu thuẫn nội bộ, tranh giành quyền lực trong hàng ngũ
hoàng tộc hoặc các thế lực khác nổi lên tiếm ngôi. Lịch sử phong kiến Việt Nam ghi
lại không ít những câu chuyện như vậy (cả chính sử và giai thoại lịch sử). Ở đây, chỉ
xin điểm qua một vài trường hợp tiêu biểu. Đối với họ Trần, Trần Thủ Độ là người có
công lớn trong việc dựng nên triều đại này. Nhưng xét trong mối quan hệ với tiền triều
(tức vua nhà Lý), ông đã gây ra vô số tội lỗi tày trời. Ông giết chết vua Lý Huệ Tông
và hàng loạt tông thất nhà Lý. Cuối thời nhà Trần, Hồ Quý Ly đã làm những việc trái
với đạo lý quân thần, để lại tiếng nhơ ngàn đời. Ông đã mượn tay Thượng hoàng Trần
Nghệ Tông để bức hại vua Trần Phế Đế và một loạt văn thần, võ tướng thân tín khác
91
của nhà vua (Hồ Quý Ly mượn tay Thượng hoàng Nghệ Tông để giết vua Phế Đế;
Cuộc sát hại có quy mô lớn của Hồ Quý Ly; Vụ tru di lớn nhất thế kỷ XIV, Việt sử giai
thoại, tập 4).
Không chỉ thanh trừng những đối thủ chính trị, lịch sử phong kiến Việt Nam
cũng ghi lại không ít những vụ sát hại những bậc khai quốc công thần, mà tiêu biểu
nhất có lẽ là vào thời nhà Lê. Sau khi giúp Lê Lợi lên ngôi (Lê Thái Tổ), hàng loạt câu
chuyện bi thương xảy đến với những bậc được xem là khai quốc công thần của triều
Lê như: Nguyễn Xí, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Sát, Lê Ngân, … Những con
người ấy từng chung vai đấu cật, vào sinh ra tử với vua nhưng đều chịu kết cục bi
thảm theo cách này hay cách khác (Thương thay Trần Nguyên Hãn; Vụ án Lê Sát, Lê
Ngân bị bức tử, Vụ án Lệ Chi viên,… Việt sử giai thoại, tập 4, Giai thoại thời Lê).
- Những ông vua nhu nhược, những tên tay sai cho thực dân Pháp
Cảm hứng phê phán, đả kích chỉ xuất hiện khi xã hội suy vi. Về mặt này có thể
hiểu vì sao triều đình nhà Nguyễn cuối cùng của chế độ phong kiến trở thành đối
tượng cho cảm hứng này. Vua Tự Đức trở thành đối tượng bị phê phán nhiều nhất bởi
ông là một trong những ông vua nhu nhược nhất của triều Nguyễn. Trong các nhà nho
trực tiếp chống đối với nhà vua nổi bật nhất là cụ Phan Văn Trị. Cử Trị sáng tác khá
nhiều bài thơ đả kích gay gắt nhà vua: Thơ ăn thịt Cần Đước, Đái vẽ nên rồng, Cá lia
thia,… Các tên tay sai cho thực dân Pháp là đối thủ không đội trời chung của các nhà
nho, từ khuyết danh đến các tên tuổi nổi tiếng: Hoàng Cao Khải, Từ Đạm, Trần Tử Ca,
Đỗ Hữu Phương, Nguyễn Thân, Tôn Thọ Tường,… Nguyễn Khuyến làm thơ Vịnh
phỗng đá, làm câu đối Tết để xỏ xiên Hoàng Cao Khải (Đòi xem câu đối). Các nhà nho
khuyết danh làm thơ đả kích thói khoe chữ một cách trịch thượng của Từ Đạm, làm
câu đối chế giễu tên ác ôn Trần Tử Ca (Mai xem mên lai). Các nhân vật hề trong tuồng
chửi vào sự phản bội, bán nước cầu vinh của Nguyễn Thân – một tên tay sai đắc lực
của Pháp,…
Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp mặc dù bị dư luận xã hội chỉ trích, lên án
nhưng chung quy lại, hình mẫu những con người tài năng, đức độ vẫn có thể đứng
vững trước dư luận (thậm chí vẫn trường tồn như một biểu tượng toàn mỹ). Nguyên do
là trong tâm thức nhân dân, những con người ấy dù có lỗi lầm ở điểm này hay điểm
khác, nhưng công đức mà họ tạo lập được cho thời đại mình, nhân dân mình đủ sức
che lấp và làm mờ đi những vết nhơ đó. Mặt khác, cũng cần nói thêm rằng, tên tuổi,
hành trạng của họ đã cắm rễ sâu và có vị trí quan trọng trong văn hóa dân gian. Và với
sự bảo vệ của văn hóa dân gian, những “lời đồn” (có thể bịa đặt hay dựa trên một sự
92
thật lịch sử đã xảy ra), “sự cố mang tính đại diện” ấy dù được “tiêm” một cách có chủ
đích vào dòng văn hóa phản biện, vẫn không thể làm lung lay và sụp đổ biểu tượng
của thời đại. Ở đây, xin điểm qua trường hợp của vua Lê Thánh Tông và ba anh em
nhà Tây Sơn.
Chúng ta đều biết rằng Lê Thánh Tông (tức Lê Tư Thành) là người được hưởng
lợi hơn cả (lên ngôi vua) sau vụ loạn Nghi Dân (1460). Một số sử gia về sau có đôi
chỗ khen chê nhà vua ở việc đối xử với huynh đệ không được thấu tình đạt lý. Tuy
nhiên, ông đã vượt qua thử thách bằng bài thơ ứng tác đầy khẩu khí đế vương (thơ về
con cóc). Qua đó, ông đã xua tan mọi sự hoài nghi về tài năng và được lên ngôi vua
(Chúng tôi ngờ rằng đây là một giai thoại mang tính chất đề cao tài năng của Lê Thánh
Tông hơn là một sự thật lịch sử). Xoay quanh Lê Thánh Tông, có hàng loạt những
chuyện dã sử được thêu dệt theo hướng lãng mạn hóa, thi vị hóa tiểu sử riêng tư. Ví
dụ, ở khía cạnh tình yêu cá nhân, có hàng loạt giai thoại đề cập đến tình cảm của ông
với: nàng thôn nữ (Câu thơ nên nghĩa), nàng ca câm (tương truyền là con sót lại của
Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và nàng ca câm), ni cô chùa Ngọc Hồ,… và cả tiên nữ
giáng thế (Hồn bướm mơ tiên). Người ta bắt gặp trong những giai thoại nêu trên một
ông vua si tình, lãng mạn nhưng cũng không kém phần sáng suốt. Ông cũng được ngợi
ca là một đấng minh quân, có sự gần gũi và hài hước trong một số giai thoại với Trạng
Lường Lương Thế Vinh (Ba ông tam Thế; Sư sử sứ, phụ phù phu;…); là một người
sáng suốt biết nhìn người và trọng tài năng (Anh lính hội Tao đàn),…
Nhưng Lê Thánh Tông không chỉ là đối tượng ca ngợi của văn hóa dân gian mà
còn là người góp phần sáng tạo văn hóa (trong đó có văn hóa dân gian). Ông được cho
là người sáng lập các đội Đồng Văn, Nhã Nhạc, hội Tao Đàn,… là người đặt ra lễ
xướng danh, vinh quy cho các sĩ tử. Trong địa hạt giai thoại, ông là tác giả sáng tác
một số câu đối chữ Hán tặng cho tầng lớp bình dân trong các dịp Tết truyền thống
(Tận thu lòng dạ thế gian; Xanh vàng đỏ tía; Câu đối nhà hàng nước;…). Ông cũng
được cho là tác giả của tập Thánh Tông di thảo (một tập truyện ghi chép lại những câu
chuyện được lưu truyền trong dân gian và tất nhiên vấn đề này vẫn phải bàn bạc thêm).
Như vậy, nhân dân muốn đặt ông vào vị trí rất sang trọng trong văn hóa dân gian mà
không phải vị vua nào cũng có thể đạt tới: Vừa là đối tượng ca ngợi, vừa là tác giả
sáng tác văn hóa dân gian.
Sau trường hợp của vua Lê Thánh Tông, câu chuyện về ba huynh đệ nhà Tây
Sơn cũng là một minh chứng khá thú vị. Xoay quanh cuộc khởi nghĩa Tây Sơn của ba
anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ có nhiều câu chuyện mang tính
93
chất truyền ngôn. Phần nhiều trong số đó là những truyền thuyết nhằm mục đích ca
ngợi, tôn vinh tài năng, đức độ của các vị trong công cuộc đánh đuổi ngoại xâm (giặc
Xiêm và quân Thanh) cũng như công cuộc thống nhất nước nhà. Có thể tìm thấy ý
nghĩa đó trong hệ thống truyền thuyết đã được ghi chép lại trong Truyền thuyết dân
gian người Việt (Quyển 4, NXB Khoa học Xã hội, 2009, Kiều Thu Hoạch) qua một số
truyện kể như: Nguyễn Huệ và người thợ rèn; Chúa Xà Đàng và bầy ngựa rừng; Cậu
Lữ trời sinh; Cái chum vàng; Ấn vàng kiếm bạc; Hai con Rồng núi Thơm; Câu sấm
truyền;… Trong địa hạt giai thoại, cảm hứng ca ngợi các nhân vật ấy cũng xuất hiện
qua hàng loạt những giai thoại (có thiên xu hướng khai thác mối quan hệ cá nhân) như:
mối quan hệ giữa Nguyễn Nhạc và bà chúa Hỏa, mối tình của Nguyễn Huệ và công
chúa Ngọc Hân,…
Sự ca ngợi ba vị anh hùng ấy không chỉ có trong tự sự dân gian mà còn xuất
hiện trong một số thể loại khác của folklore như: thơ ca dân gian, vè, các điệu hát
trống quân (trống trận Tây Sơn),… Dẫn ra nhiều như vậy để thấy rằng ca ngợi là cảm
hứng trung tâm của thời đại thế kỷ XVIII đầy biến động dành cho ba anh em nhà Tây
Sơn – những người được tôn vinh là anh hùng khởi nghĩa nông dân. Tuy nhiên, trong
thực tế cũng có một số câu chuyện, câu ca mang tính chất phản biện lại sự chính nghĩa
đó. Những người được cho là tác giả chống lại dòng chủ lưu ca ngợi trên là một số vị
cựu thần của triều Lê (ở ngoài Bắc) và những người ủng hộ công cuộc phục quốc của
chúa Nguyễn (ở miền Nam). Như vậy, xen lẫn dòng quan niệm chính thống, có hẳn
dòng đối lưu, phản ứng lại. Lý do cốt lõi dẫn đến sự chống đối này xuất phát từ quan
niệm: Tây Sơn là ngụy triều, là phản loạn.
Như vậy, những câu chuyện mang màu sắc phản biện, phê phán không hoàn
toàn là thêu dệt, mà có cơ sở lịch sử (ít nhiều có thật và được các sách sử về sau ghi
lại, ví dụ sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, một số khác thì được truyền
tụng trong dân gian). Trong công trình Tiếp cận kho tàng folklore Việt Nam, Vũ Ngọc
Khánh từng phân tích vấn đề này và ông đi đến kết luận rằng: “…Những chuyện đồn
đại hay những sáng tác ngược chiều ấy đã không được chấp nhận như những thành tố
của folklore, và cũng không có khả năng tồn tại hoặc lan truyền. Những gì không đúng
với nhận thức, tình cảm của quần chúng, không phù hợp với cảm quan của quần
chúng sẽ bị đào thải” [92, tr.438].
b. Sự phê phán, đả kích thần quyền
Sự phê phán của giai thoại chủ yếu dành cho những con người cụ thể và một ít
trong kho tàng giai thoại cũng hướng tới thể lực siêu hình: tiên, Phật, thánh mẫu, nữ
94
thần,... Ví dụ, Nguyễn Khuyến (được yêu cầu) làm câu đối ngợi ca công đức của một
vị thánh mẫu nhưng rốt cuộc ông lại xiên xỏ, tục hóa nhân vật thần linh qua cách chơi
chữ thâm thúy (giai thoại Như ngọc hành, dùng sinh thực khí của nam và nữ để tục
hóa vị thánh mẫu). Nguyễn Công Trứ cũng làm thơ hạ bệ nữ thần khi đi ngang qua
ngôi đền thờ nữ thần nọ (Qua đền nữ thần). Hàng loạt những nhà nho như Hồ Tông
Thốc, Nguyễn Đăng Cảo,… cho đến đứa trẻ Lý Công Uẩn (lúc còn ở chùa) cũng ngâm
những vần thơ khẩu khí đại khoa hay đế vương để “cự thần”. Nguyên nhân của tình
tiết này là do quan niệm lấy Nho giáo làm trung tâm, coi những tôn giáo, tín ngưỡng
khác (như Phật, Lão,…) là văn hóa ngoại biên, tất nhiên cần phải lên án, bài trừ.
c. Sự giải thiêng nhân vật quan phương
Bên cạnh sự đả kích vương quyền, thần quyền, trong giai thoại còn có một dạng
cảm hứng khá đặc biệt: cảm hứng giải thiêng. Cảm hứng này có mục đích kéo nhân
vật nổi tiếng, quan phương trở về với đời thường. Nói cho đúng ra, cảm hứng giải
thiêng là sự phản tỉnh của mọi thời đại khi việc tôn thờ đi quá cái mà đối tượng có
được. Cho nên về mặt nào đó, giải thiêng là phương thức lấy lại thăng bằng cho cảm
hứng. Qua khảo sát, chúng tôi xác định có 09/756 tác phẩm xuất hiện cảm hứng giải
thiêng. Điều đáng chú ý là các nhân vật này đều là những nhà khoa bảng nổi tiếng, từ
vua chúa đến các nhà khoa bảng như: vua Minh Mạng, vua Tự Đức, Lê Quý Đôn, Cao
Bá Quát, Phạm Nguyễn Du, Phan Bội Châu,…
Giải thiêng các nhà khoa bảng
Những hình tượng nhân vật trí thức khoa bảng tưởng chừng như toàn mỹ bởi tài
năng hơn người nhưng vẫn còn những điểm khuất lấp mà nhân dân đã khéo léo đưa ra
ánh sáng. Trong giai thoại, sự giải thiêng này được đánh dấu qua tình tiết thất bại của
nhân vật nổi tiếng trong các cuộc thi thố tài năng. Bảng nhãn Lê Quý Đôn hai lần bất
lực trước các câu đố của các vị lão bối (Câu đố chữ nhất; Căng buồm mời rượu -
Gánh gạo lội sông). Người nổi tiếng chữ nghĩa như Cao Bá Quát cũng không biết viết
chữ gì cho phải lẽ (Không biết chữ chi). Nhà nho tài tử Nguyễn Công Trứ trải qua
không biết bao nhiêu cuộc hát, khi về già lại thất bại trước thủ đoạn khôn khéo của tên
lái buôn trong một cuộc thách đố vô tiền khoáng hậu (Vì mê hát mà mất vợ). Còn cụ
Phan Bội Châu cũng đành “bó tay chịu trói” trước câu hát đố của các cô gái được gà
bởi một nhà nho ẩn dật (Cha thầy Mạnh Tử là ai?). Dễ thấy một điều, trong các giai
thoại trên, nhân dân không hề có ý phê phán một cách nặng nề các nhân vật (về thói tự
phụ hay ngông nghênh). Nó khác hẳn với thái độ đối với đối tượng là vua quan, đại
diện cho vương quyền phong kiến. Điều nhân dân hướng đến là muốn kéo nhân vật trí
95
thức, tài tử trở về với thực tại đời thường. Dù họ có tài năng đến đâu thì trong một số
trường hợp, họ vẫn phải nếm trải sự thất bại cũng như bao nhiêu con người bình
thường khác.
Ngoài ra, giai thoại cũng giải thiêng hình tượng chuẩn mực của các nhà nho khi
họ vi phạm đạo lý Thánh hiền trong ứng xử. Họ có thể được xem như những con
người kiệt xuất của thời đại mình (Trí) nhưng một khi vướng vào lỗi này thì khó có thể
đảm bảo được sự chuẩn mực về đạo đức (Đức). Hồ Tông Thốc là người nổi tiếng văn
chương trác việt, thông minh hơn người (trong một buổi tiệc làm được cả trăm bài thơ)
nhưng ông cũng dính dáng đến việc bòn rút của dân, khiến miệng đời chê trách: “Khi
Hồ Tông Thốc còn làm chức An phủ sứ, có bòn rút của dân, việc bị phát giác” (Hai
lần nổi danh của Hồ Tông Thốc, Việt sử giai thoại, tập 3, tr.45). Ngô Thì Nhậm nổi
tiếng uyên thâm, kiến thức ít ai sánh kịp nhưng sau khi tố giác Trịnh Khải, người ta bắt
đầu chú ý đến chữ Đức của ông nhiều hơn. Để đánh đổi lại chức Hữu Thị lang bộ
Công, ông đã giết chết 4 người cha của mình (Bốn người cha đó là: cha ruột – Ngô Thì
Sĩ, 3 người bạn của cha cũng xem như cha là Nguyễn Lệ, Nguyễn Phương Đình và
Nguyễn Khắc Tuân). Dân gian vẫn lưu truyền câu hát: “Sát tứ phụ nhi Thị lang” để
chê trách cho hành động đó (giết 4 người cha để được lên chức Thị lang, Vụ án năm
1780, Việt sử giai thoại, tập 7, [145, tr.163]).
Giải thiêng vua chúa
Ngoài Cử Trị đã nêu ở trên, Cao Bá Quát là người thích châm chọc Tự Đức nhất.
Biết nhà vua yêu thích văn chương (lại có tính hay khoe chữ) nên họ Cao thường hay
đối chọi văn chương với vua. Và có một điều khá đặc biệt là trong các cuộc đối chọi
đó, phần thắng thường nghiêng về họ Cao (Tự tiện chữa văn vua, Trên dưới đều chó,
Bịa thơ tài hơn vua,… Kho tàng giai thoại Việt Nam – Vũ Ngọc Khánh). Ngoài Tự
Đức ra, Minh Mạng cũng bị giải thiêng bởi Cao Bá Quát và Bà Huyện Thanh Quan.
Họ Cao (lúc còn là học trò) cả gan cởi truồng tắm, rồi lên gặp vua (Cởi truồng xem
vua). Còn Bà Huyện Thanh Quan thì “chê khéo” chữ viết của ông vua vừa mập, vừa
xấu (Chê khéo).
Tóm lại, trong giai thoại, tinh thần phản biện mang những ý nghĩa cơ bản sau:
- Trong một xã hội vốn độc tôn về quyền lực như xã hội phong kiến, tiếng nói
phản biện gần như rất khó có thể trở thành đối trọng để thay đổi chính quyền. Nhưng
xét về mặt tâm thức thời đại, có độc tôn thì ắt sẽ có chống đối. Đó là quy luật khách
quan xưa nay. Do vậy, trong một chừng mực nào đó, có thể cho rằng sự phản biện
96
trong địa hạt giai thoại là tiếng nói phản kháng của quần chúng nhân dân, của tầng lớp
trí thức đương thời đối với chuẩn mực theo quan niệm dân gian;
- Sự phản biện của giai thoại nằm trong dòng chảy sự phản biện, đấu tranh xã hội
của tự sự dân gian (tiêu biểu là truyện cười) nhưng nó khác truyện cười ở điểm: Đối
tượng đã được nêu tên tuổi đích danh (cụ thể hóa, cá tính hóa), chứ không phải ở trạng
thái chung chung (khái quát hóa). Do vậy, tính đấu tranh của giai thoại mạnh mẽ hơn,
cứng rắn hơn và cũng quyết liệt hơn. Đặc điểm nêu đích danh nhân vật phản biện của
giai thoại có phần giao thoa với truyện trạng (một tiểu loại của truyện cười, còn gọi là
truyện cười kết chuỗi. Chúng tôi sẽ trình bày ở Chương 4 của luận án);
- Cơ sở triết lý để các phản biện có thể đứng vững cơ bản dựa trên nền tảng Nho
giáo mà trung tâm của nó là Tam cương, Ngũ thường. Nhưng Tam cương, Ngũ thường
ở đây lại mang màu sắc tư duy dân tộc. Vì vậy, những hành động trái ngược với đạo lý
truyền thống đều được xem là không phù hợp với chuẩn mực của dân tộc.
2.3.2. Khái niệm giai thoại
Từ cơ sở của việc tiếp thu thành quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước,
đặc biệt là các định nghĩa giai thoại của Tamarchenko, Nicolaisen, Guxev, Propp, Kiều
Thu Hoạch, Vũ Ngọc Khánh,… chúng tôi bước đầu đưa ra một khái niệm chung nhất
về giai thoại Việt Nam như sau:
Giai thoại là một thể loại tự sự dân gian bằng văn xuôi, mang tính chất tổng hợp
như một hiện tượng độc đáo của văn hóa, nội dung nói về những nhân vật nổi tiếng
chủ yếu trên các lĩnh vực: văn học, lịch sử, văn hóa dân gian. Ngoài ra, giai thoại còn
có một bộ phận nói về những nhân vật khuyết danh trong các lĩnh vực trên. Phương
thức xây dựng nhân vật trong giai thoại chủ yếu dựa trên phương thức hư cấu, từ một
nhân vật có thật trong thực tiễn, được dân gian hóa, trở thành nhân vật của văn học
dân gian. Trong đó thể hiện quan điểm của nhân dân về những nhân vật nổi tiếng theo
các xu hướng đề cao; phê phán, đả kích hay phản biện, giải thiêng; nhằm củng cố lại
quan niệm truyền thống về nhân vật hoặc phản bác lại quan niệm truyền thống đó.
Khi xác định khái niệm giai thoại, chúng tôi muốn đi sâu tường giải một số khía
cạnh nội hàm của nó đồng thời cũng là cơ sở khảo sát sâu và xem là nhiệm vụ khoa
học của luận án.
- Giai thoại là một thể loại tự sự dân gian bằng văn xuôi: Luận án đã xác định
giai thoại là thể loại thuộc tự sự dân gian (bằng hình thức văn xuôi chứ không phải văn
vần).
- Mang tính chất tổng hợp như một hiện tượng độc đáo của văn hóa: Chúng tôi
97
xem giai thoại là thể loại tự sự dân gian mang tính tổng hợp, chứ không phải là một thể
loại riêng của văn học, của lịch sử hay của văn hóa dân gian – ba lĩnh vực thu hút nhiều
văn bản giai thoại nhất. Đây là ý kiến mà chúng tôi tiếp thu từ nhà nghiên cứu Vũ Ngọc
Khánh khi ông cho rằng cần xem giai thoại như một hiện tượng văn hóa độc đáo thì mới
có thể nắm bắt và lý giải hết được sức hấp dẫn của nó.
- Nội dung nói về những nhân vật nổi tiếng trên các lĩnh vực: văn học, lịch sử,
văn hóa dân gian: Luận án tiếp thu quan điểm Vũ Ngọc Khánh và Triều Nguyên, khi
hai nhà nghiên cứu này giới hạn phạm vi phản ánh chủ yếu của giai thoại nằm trên ba
lĩnh vực là văn học, lịch sử và văn hóa dân gian.
- Ngoài ra, giai thoại còn có một bộ phận nói về những nhân vật khuyết danh
trong các lĩnh vực trên: Chúng tôi thừa nhận và lưu ý bên cạnh giai thoại về những
con người nổi tiếng, trong giai thoại còn có một bộ phận giai thoại khuyết danh. Sự
hiện diện của bộ phận này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn kho tàng giai thoại Việt
Nam và sự phân loại giai thoại của các nhà nghiên cứu (gồm hai bộ phận nếu xét theo
NVC là: nhân vật nổi tiếng và nhân vật khuyết danh).
- Phương thức xây dựng nhân vật trong giai thoại chủ yếu dựa trên phương thức
hư cấu, từ một nhân vật có thật trong thực tiễn, được dân gian hóa, trở thành nhân vật
của văn học dân gian: Nhằm khẳng định phương thức sáng tạo giai thoại, NVC (chủ
yếu) trong giai thoại là người nổi tiếng. Tuy nhiên, nhân vật ấy phải trải qua quá trình
dân gian hóa, tức là có sự thêm bớt, gán ghép. Vì vậy, nhân vật trong giai thoại sẽ có
một độ khúc xạ và có một khoảng cách nhất định so với nhân vật ngoài đời thực (hay
nhân vật nguyên mẫu, khởi hình lịch sử - prototype). Đây cũng là quy luật sáng tạo
trong folklore nói chung.
- Thể hiện quan điểm của nhân dân về những nhân vật nổi tiếng theo các xu
hướng đề cao; phê phán, đả kích hay phản biện, giải thiêng: Về vấn đề chức năng thể
loại cho thấy sự tương đồng giữa giai thoại với truyền thuyết (cùng đề cao một nhân
vật nổi tiếng đối với cộng đồng) nhưng cũng khu biệt với truyền thuyết ở chỗ: truyền
thuyết thiên về xu hướng đề cao nhân vật (thiêng hóa) còn giai thoại thì bên cạnh sự đề
cao (công đức hoặc khả năng văn chương, trí tuệ) thì nó còn có xu hướng giải thiêng
nhân vật, kéo nhân vật trở về với đời thường. Ngoài ra, giai thoại còn có chức năng
phản biện quan niệm truyền thống về nhân vật, nhằm đưa ra một cái nhìn mới mẻ về
nhân vật quan phương.
- nhằm củng cố lại quan niệm truyền thống về nhân vật hoặc phản bác lại quan
niệm truyền thống đó: vế này nhấn mạnh đến mục đích sáng tạo giai thoại. Theo đó,
98
khi sáng tạo giai thoại, tác giả dân gian hướng tới 2 mục đích cơ bản là: củng cố lại
quan niệm truyền thống về nhân vật hoặc là phê phán, giải thiêng, phản biện lại quan
niệm truyền thống đó. Và cũng vì lý do này mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng giai
thoại là một thể loại “văn học phi chính thống”, “chưa công bố”, hoặc “rỉ tai”.
Những lý giải trên cho thấy cái nhìn bao quát về thể loại. Tuy nhiên, chính sự
phức tạp đã tạo lằn ranh khá mờ giữa các bộ phận nên rất cần minh định cho nội hàm
từng tiểu loại của thể loại. Bởi vì mỗi tiểu loại sẽ có một khía cạnh đặc thù mà nhờ đó
để phân biệt được từng nhóm giai thoại. Cụ thể, chúng tôi gọi giai thoại văn học là
những câu chuyện có nội dung kể về sinh hoạt văn chương và sinh hoạt đời tư, cá
nhân của những nhà khoa bảng, nhà nho (thời trung đại) và những nhà văn, nhà thơ
(thời hiện đại) ở cả đối tượng nổi tiếng và khuyết danh. Giai thoại văn học phân hóa
thành 3 nhóm cơ bản là: giai thoại văn học về thách đố văn chương; giai thoại văn
học về ứng tác văn chương và giai thoại văn học về tính tình, cá tính của nhà văn, nhà
thơ.
Giai thoại lịch sử là những câu chuyện có nội dung kể về sinh hoạt chính trị của
những nhân vật quan phương và cả sinh hoạt đời thường, bên lề của những nhân vật
chính trị nổi tiếng từ thời phong kiến cho đến thời hiện đại. Giai thoại lịch sử gồm các
nhóm cơ bản là: giai thoại tình sử; giai thoại ngoại giao, giai thoại xử kiện, giai thoại
quân sự,…
Giai thoại văn hóa dân gian là những câu chuyện có nội dung kể về sinh hoạt
văn hóa, văn nghệ dân gian của quần chúng nhân dân, các nhà nho tài tử, nghệ sĩ
sân khấu, cải lương, tuồng, chèo, trí thức, hoàng tộc phong kiến,... Giai thoại văn hóa
dân gian phân hóa thành các nhóm tiêu biểu là: giai thoại văn hóa dân gian về phong
tục tập quán của nhân dân; giai thoại văn hóa dân gian về hò hát của nghệ nhân dân
gian và các nhà nho tài tử; giai thoại văn hóa dân gian về sân khấu, cải lương, tuồng,
chèo,…
99
Tiểu kết chương 2
Chương 2 của luận án đã định vị tư cách thể loại của giai thoại Việt Nam là một
thể loại của tự sự dân gian. Qua quá trình bóc tách, luận án đã tập trung làm rõ một số
vấn đề như sau:
Thứ nhất, trên cơ sở tiếp thu quan niệm của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng
tôi đã đưa ra một bộ khung tiêu chí để xác định giai thoại là: tiêu chí đề tài, tiêu chí
cảm hứng, tiêu chí nhân vật,… Qua sự phân tích, có thể thấy những điểm đặc trưng
của giai thoại ở các khía cạnh nêu trên. Ngoài ra, cũng có dấu hiệu cho thấy sự giao
thoa về cảm hứng, đề tài, nhân vật giữa giai thoại với các thể loại khác trong tự sự dân
gian. Vấn đề này luận án sẽ tiếp tục bàn đến trong các chương sau.
Thứ hai, về mặt phân loại giai thoại, luận án đã đề xuất cách phân loại bám sát
vào một tiêu chí duy nhất là đề tài để phân loại giai thoại Việt Nam trên bình diện tiểu
loại và các nhóm của từng tiểu loại. Chúng tôi không nghĩ rằng đây là cách phân loai
tối ưu nhất, nhưng trong một chừng mực nào đó, cách phân loại mà chúng tôi đưa ra
cơ bản khắc phục được những điểm bất cập mà các nhà nghiên cứu đi trước đã gặp
phải khi phân loại kho tàng giai thoại Việt Nam.
Thứ ba, về đặc trưng thể loại của giai thoại, luận án đã phân tích một số tính chất
tiêu biểu là tính dân gian, tính hư cấu và sai lệch, tinh thần phản biện. Chúng tôi nhận
thấy rằng tính dân gian của giai thoại không thể tách rời với tính bác học cũng như
tính hư cấu và sai lệch cũng có mối quan hệ khắng khít với tư duy nhào nặn yếu tố sử
của thể loại. Rõ ràng các điểm trên nằm trong vấn đề lớn hơn về mặt lý luận đó là: mối
quan hệ giữa giai thoại với văn học và lịch sử. Các mối quan hệ này sẽ được luận án
trình bày ở Chương 4.
Thứ tư, trên cơ sở định vị tư cách thể loại, phân loại và đặc trưng thể loại, luận án
đã đưa ra khái niệm thể loại và các tiểu loại của giai thoại. Theo đó, giai thoại có 3 tiểu
loại cơ bản là: giai thoại văn học, giai thoại lịch sử và giai thoại văn hóa dân gian.
100
Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN ĐẶC TRƯNG
THI PHÁP THỂ LOẠI CỦA GIAI THOẠI VIỆT NAM
Ở Chương 2, luận án đã định vị giai thoại là một thể loại của tự sự dân gian.
Trong quá trình xác định tư cách thể loại văn học dân gian của giai thoại, luận án đã
điểm qua một số phương diện về thi pháp thể loại cơ bản của giai thoại là: cảm hứng,
đề tài, nhân vật trên bình diện khái quát. Chương này sẽ bàn sâu hơn về các kiểu nhân
vật đặc trưng của từng giai thoại cũng như chỉ ra các dạng kết cấu đặc trưng của hai
tiểu loại của giai thoại là giai thoại văn học và giai thoại văn hóa dân gian.
Một trong những đặc điểm nổi bật của một thể loại văn học dân gian là tính công
thức của nó. Công thức ấy thể hiện trên các phương diện cơ bản là: biểu tượng, mẫu
gốc, motif,… Dựa vào những công thức ổn định, có thể khái quát nên những đặc trưng
thi pháp thể loại. Xét trong góc độ nghiên cứu kết cấu của giai thoại, hướng nghiên
cứu kết cấu theo motif hầu như chưa được quan tâm.
3.1. Kết cấu của giai thoại
Cách thức phân tích kết cấu theo hướng tiếp cận tình tiết mà chúng tôi đề xuất sẽ
được triển khai theo những bước sau:
- Bước 1: Căn cứ vào sự lặp đi lặp lại của các tình tiết, chúng tôi sẽ định danh
cho tình tiết
- Bước 2: Hệ thống hóa, xâu chuỗi các tình tiết này lại để xác lập, phân nhóm
giai thoại
- Bước 3: Khái quát hóa mô hình cốt truyện căn cứ vào sự sắp xếp các tình tiết
xoay quanh tình tiết hạt nhân
Việc xác định kết cấu giai thoại theo hướng tình tiết nêu trên sẽ có một số ưu
điểm như sau:
- Chỉ ra được sự liên kết của các tình tiết bên trong tạo nên cốt truyện, qua đó chỉ
ra được mô hình chung nhất của từng nhóm giai thoại văn học
- Chỉ ra được motif hạt nhân của mỗi nhóm truyện (căn cứ vào các tình tiết được
triển khai xoay quanh motif hạt nhân đó)
- Không chỉ có giá trị trong giai thoại văn học mà hoàn toàn có thể áp dụng để
tìm hiểu kết cấu của giai thoại văn hóa dân gian
Chẳng hạn, dựa trên 10 tình tiết tạo nên cốt truyện trong nhóm giai thoại văn học
về thách đố văn chương (xoay quanh tình tiết hạt nhân là thách đố về văn chương)
(Xin xem Phụ lục), sẽ thấy ngay kết cấu của giai thoại Khóc mướn kiếm ăn ở trên như
101
sau: NVC bị thách đố bởi NVĐT → NVC giành chiến thắng trong cuộc chiến văn
chương → NVC được thán phục. Như vậy, mẩu chuyện trên được tạo nên từ sự liên
kết của 3 tình tiết đơn vị cơ bản của một giai thoại văn học về thách đố văn chương.
Trên đây là sự triển khai cụ thể của mô hình khái quát chung nhất của nhóm giai
thoại văn học về thách đố văn chương ứng với văn bản cụ thể. Mô hình khái quát nhất,
ứng với đa số các văn bản giai thoại thách đố văn chương theo hướng tiếp cận tình tiết
là: NVC bị thách đố bởi NVĐT/ NVC chủ động thách đố NVĐT → NVC giành chiến
thắng trong cuộc chiến văn chương/ NVC thất bại trong cuộc chiến văn chương →
NVC được thán phục/ NVC được ban thưởng/ NVC được tha tội/ NVĐT tức tối/ NVC
bị trừng phạt.
Từ sự điểm qua quan niệm về kết cấu giai thoại của các nhà nghiên cứu đi trước,
chúng tôi xin đưa ra khung kết cấu chung nhất của giai thoại Việt Nam như sau:
Bảng 3.1. Khung kết cấu của giai thoại Việt Nam
Phần kết thúc
Thái độ, phản ứng đối với
ứng xử của nhân vật
Phần mở đầu
cảnh
thiệu hoàn
Giới
(không gian, thời gian), đặc
điểm, tính tình, năng lực, tài
năng,… của nhân vật Phần diễn biến
Tình huống ứng xử của
nhân vật trong lĩnh vực cụ
thể (văn chương, chính trị,
đời tư, văn nghệ,…)
Dựa trên nền tảng mô hình khái quát này, khi ứng vào từng tiểu loại/ nhóm giai
thoại khác nhau mà sự triển khai kết cấu của giai thoại sẽ biến đổi (chủ yếu ở phần
diễn biến) theo motif hạt nhân của nó.
3.1.1. Kết cấu của giai thoại văn học
Chúng tôi chia giai thoại văn học thành các nhóm: giai thoại thách đố văn
chương; giai thoại ứng tác văn chương và giai thoại về tính cách, sinh hoạt đời tư của
các nhà văn, nhà thơ. Đây cũng là 3 nhóm chính yếu của tiểu loại giai thoại văn học.
Mỗi nhóm có một kiểu kết cấu riêng. Hai nhóm đầu phổ biến đối với các nhân vật văn
tài của văn học trung đại, nhóm thứ ba xuất hiện nhiều ở các nhà văn hiện đại. Trong
phạm vi của luận án, chúng tôi chỉ khảo sát 2 nhóm đầu của giai thoại văn học, bởi vì
hai nhóm này chiếm số lượng lớn trong kho tàng giai thoại Việt Nam nói chung cũng
như tiểu loại giai thoại văn học nói riêng.
3.1.1.1. Nhóm giai thoại thách đố văn chương
Trước khi đi vào mô tả các tình tiết chủ yếu tạo nên nhóm giai thoại thách đố văn
chương, chúng tôi xin khái quát mô hình kết cấu của nhóm này như sau:
102
Bảng 3.2. Mô hình kết cấu của giai thoại thách đố văn chương
Phần diễn biến
Thách đố - Giải đố
(Motif: Thách đố văn
chương) Phần mở đầu
cảnh
thiệu hoàn
Giới
(không gian, thời gian), đặc
điểm, tính tình, năng lực, tài
năng,… của nhân vật Phần kết thúc
- Thái độ, phản ứng đối
với ứng xử của nhân vật
- Giảng bình thơ văn, câu
đối
Trên đại thể, kết cấu của nhóm giai thoại thách đố văn chương vẫn dựa trên
khung kết cấu chung nhất của giai thoại. Riêng phần diễn biến, nhóm này chỉ giới hạn
trong phạm vi hoạt động (sinh hoạt) văn chương và đã tạo ra dấu ấn riêng qua việc tổ
chức tình tiết xoay quanh motif thách đố (về văn chương).
Nếu nhìn theo phương diện tình tiết, ta có thể thấy sơ đồ cốt truyện của giai thoại
văn học về thách đố văn chương xoay quanh motif thách đố. Lẽ cố nhiên, sự thách đố
ở đây có một nội hàm rất hẹp, không giống như trong truyền thuyết, cổ tích, bởi vì, nó
chỉ gói gọn trong lĩnh vực văn chương (chúng tôi sẽ trình bày kỹ hơn ở phần lịch sử
motif thách đố). Trong lý thuyết về motif, một motif được coi như một đơn vị cốt
truyện và ở đây, motif thách đố cũng như vậy. Xin khái quát cấu tạo của motif thách
đố văn chương trong nhóm giai thoại văn học thách đố văn chương như sau:
Bảng 3.3. Cấu tạo của motif thách đố văn chương
Motif thách đố
Sự thách đố Sự giải đố Thái độ
sau cuộc thách đố
Mục đích Tính chất Kết quả giải đố Âm tính Dương
tính
Thất bại Thử
tài Bị
động Chủ
động Trừng
phạt Chiến
thắng Tức
tối
(…) Khẳng
định
vị thế
(…) Ban
thưởng/
thán
phục
Hạ
bệ,
đả
kích
Theo bảng trên, chúng tôi xác định motif thách đố (văn chương) gồm 3 yếu tố
cấu thành là: Sự thách đố - Sự giải đố - Thái độ sau cuộc thách đố. Từng yếu tố như
vậy sẽ gắn với những tình tiết bộ phận. Ví dụ, xét về mặt tính chất của tình huống
thách đố, ta sẽ có 02 tình tiết chính là: NVC chủ động thách đố NVĐT hoặc NVC bị
thách đố bởi NVĐT; kết quả của sự giải đố gồm 02 tình tiết bộ phận là: NVC giành
chiến thắng và NVC thất bại trong cuộc chiến văn chương; thái độ sau cuộc thách đố
gồm các tình tiết bộ phận tiêu biểu là: trừng phạt, ban thưởng, tức tối,…
Hệ thống truyện về những cuộc thách đố, ứng tác văn chương có NVC là những
người trí thức, trí xảo có cả thảy 94 đơn vị tác phẩm. Chúng tôi bước đầu đi vào mô tả
sự cấu tạo của motif thách đố văn chương trong nhóm giai thoại thách đố văn chương
103
như sau:
* Sự thách đố: thể hiện qua các tình tiết là NVC chủ động thách đố, NVC bị
thách đố bởi NVĐT và NVC được nhờ giải câu đối.
- Tình tiết NVC chủ động thách đố NVĐT (10/94, tỉ lệ 10,6%)
Trong hệ thống giai thoại văn học về thách đố văn chương, chúng tôi nhận thấy
nhóm truyện NVC giữ vai trò chủ động xuất hiện trong 10 giai thoại là: Vế đối hai
nghĩa; Dồn đối phương vào chỗ bí; Miệng kẻ sang, đồ nhà khó; Đối chọi với sư;
Không ưa nịnh bề trên; Câu thơ thi xã; Tể tướng và thầy đồ; Bò đen bò vàng; Khóc
mướn kiếm ăn; Câu đối trên văn hồ.
Mục đích của hành động chủ động thách đố của NVC đối với NVĐT khá đa
dạng. Đó có thể là sự từ chối tình cảm (Đoàn Thị Điểm: Vế đối hai nghĩa, Dồn đối
phương vào chỗ bí); hạ bệ đối thủ theo chủ đích (Trạng Quỳnh: Miệng kẻ sang, đồ nhà
khó; Nguyễn Công Trứ: Đối chọi với sư, Không ưa nịnh bề trên; Cao Bá Quát: Câu
thơ thi xã; Nguyễn Xuân Ôn: Bò đen bò vàng), chứng tỏ tài năng văn chương hơn
người (Câu đối trên văn hồ).
Trong cuộc so tài, Đoàn Thị Điểm chủ động dùng vế đối thách đố hai văn sĩ để
rồi họ phải ngậm ngùi rút lui trong tuyệt vọng và xấu hổ (Vế đối hai nghĩa). Nữ sĩ
cũng chủ động ra vế đối mời gọi Trạng Quỳnh tắm chung, khiến đối thủ đành lẳng
lặng bỏ đi vì không thể tìm ra lời giải (Dồn đối phương vào chỗ bí). Cả hai trường hợp
trên đều là cách thức tạo ra tình huống dồn đối phương vào thế bị động. Đấy là một
dạng trí tuệ. Ở khía cạnh khác, NVC cũng chủ động thách đố NVĐT nhằm mục đích
hạ bệ, xiên xỏ, khiến cho NVĐT tức tối. Ví dụ, Nguyễn Công Trứ vịnh cây vông chửi
xéo quan trên rồi tiện thể chửi xéo luôn cả Hà Tôn Quyền, khiến y giận tím mặt nhưng
không thể làm gì được mình (Không ưa nịnh bề trên). Không chỉ vậy, họ Nguyễn còn
tìm đến tận chùa, đối chọi với sư, không cho sư có cơ hội phản kháng, dù chỉ bằng văn
chương (Đối chọi với sư).
- Tình tiết NVC bị thách đố bởi NVĐT (82/94, tỉ lệ 87,2%)
So với tình tiết NVC chủ động thách đố NVĐT, thì tình tiết NVC bị thách đố bởi
NVĐT xuất hiện với tần số cao (82/94). Điều này chứng tỏ trong nhóm giai thoại về
thách đố văn chương, ngưỡng vọng của người nghe có xu hướng cảm thấy thỏa mãn
hơn khi NVC bộc lộ được tài năng thiên phú trong những tình huống không có sự
chuẩn bị trước, mang tính bất ngờ. Vì chỉ có như vậy, tài năng, trí tuệ của nhân vật
mới thể hiện một cách khách quan và chân thật nhất. Và đây cũng chính là công thức
phổ biến nhất của nhóm giai thoại thách đố, đối chọi văn chương.
104
Vì số lượng giai thoại chứa tình tiết này khá nhiều (82 trường hợp) nên ở đây,
chúng tôi chỉ miêu tả một số trường hợp tiêu biểu nhất. Chẳng hạn, đối với nhóm giai
thoại đi sứ, hầu hết các sứ thần nước ta khi đi sứ sang Trung Quốc, dù không gian cuộc
chiến văn chương ở đâu (trong cung cấm, nơi ải quan, ngoài phố xá,…), thì các nhân
vật sứ thần của ta (tương đương với NVC) thoạt đầu đều nằm ở vị thế thụ động, bị đối
phương thách đố trước. Tức là trong những tình thế đó, NVC đòi hỏi phải bộc lộ hết
tài năng, bản lĩnh mới có thể thoát được những cạm bẫy chữ nghĩa và trên hết là cạm
bẫy chính trị (có thể bị trừng phạt nếu thất bại). Mạc Đĩnh Chi khi bị đối phương châm
chọc về giọng nói líu lo như chim chích đã đáp trả: “Oa minh trì thượng độc Châu
thư, lạc dữ thiểu nhạc lạc, lạc dữ chủng nhạc lạc, thục lạc?” (Nghĩa là: Ếch kêu trên
bờ ao, đọc sách Mạnh Tử, vui cùng ít người vui nhạc, vui cùng nhiều người vui nhạc,
đằng nào vui?). Vế đối của Lưỡng Quốc Trạng Nguyên có ý chê sự hiểu biết của bọn
quan lại triều Nguyên như ếch ộp ở trong ao (giai thoại Chim chếch - ếch ngộp).
Khi bị vua nhà Minh ra vế đối có ý hạ nhục quốc thể (nhắc về trụ đồng Mã Viện)
Giang Văn Minh đã khảng khái nhắc vua Tàu về nỗi nhục trên sông Bạch Đằng:
“Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” (Từ xưa đến nay, máu trên sông Bạch Đằng vẫn
còn nhuộm đỏ) (giai thoại Rêu xanh máu đỏ). Còn Nguyễn Đăng Cảo lúc diện kiến
vua nhà Thanh, liền bị vua châm chọc về tuổi tác già nua. Vua ra một vế đối: “Lão
khuyển lạc mao, do hướng đình tiền phệ nguyệt” (Chó già rụng lông, còn ngóng ra sân
sủa trăng). Biết nhà vua miệt thị mình, Nguyễn Đăng Cảo liền đối lại: “Tiểu oa đoản
cảnh, mạn cư tỉnh khuy thiên” (Ếch con ngắn cổ, cũng dám ngồi đáy giếng coi trời
bằng vung). Nhờ vào ứng biến nhanh nhạy và mang khẩu khí hơn người đó, vua nhà
Thanh đã thay đổi hoàn toàn cách nhìn về sứ thần nước Nam ta (giai thoại Ếch ngồi
đáy giếng). Điểm chung của các tình huống bị thách đố này là vua, quan thiên triều
muốn hạ nhục danh dự cá nhân, cũng như quốc thể của người Việt, xem phương Bắc
là trung tâm văn hóa của trời đất, nên những vế đối của các sứ thần nước ta không chỉ
mang tính chất phản kháng, đối chọi nhằm bảo vệ danh dự bản thân mà còn bảo vệ cho
quốc thể.
* Sự giải đố gồm các tình tiết: NVC giành chiến thắng, NVC thất bại.
- Tình tiết NVC giành chiến thắng trong cuộc chiến văn chương (91/94, tỉ lệ
96,8%)
Đây là tình tiết cốt lõi nhằm đề cao, tuyệt đối hóa trí tuệ, tài năng văn chương của
NVC. Điều này thể hiện qua tần số xuất hiện rất cao của nó: 91/94 trường hợp. Sự
chiến thắng trong cuộc chiến thơ văn của NVC trước NVĐT được đánh dấu qua hai
105
tình tiết phụ thuộc là: NVC được thán phục hoặc được ban thưởng. Cả hai tình tiết này
là phản ứng tích cực của NVĐT dành cho NVC: thán phục tài năng văn chương, trí
tuệ, cảm thấy NVC xứng đáng với phần thưởng cho sự tài trí đó.
Ở đây, xin dẫn ra một số trường hợp tiêu biểu: Lương Thế Vinh nhờ vào tài đối
đáp thông minh với vua Lê Thánh Tông nên được nhà vua yêu mến, kính trọng rất
mực (Sư sử sứ, phụ phù phu); Vũ Duệ làm bài thơ nằm co khiến tên quan ngạc nhiên
và thán phục về tài ứng biến nhanh nhạy (Thơ nằm co); Đoàn Thị Điểm đối đáp với sứ
Tàu, khiến người này đỏ mặt vì thẹn thùng và vô cùng khâm phục nhân tài nước Nam
(Sứ Tàu bị lỡm); Nguyễn Công Trứ đối đáp với thầy học của mình, khiến ông tâm đắc
về tài năng hơn người của ông (Đối đáp với thầy học; Hậu sinh khả quý); Hoàng Phan
Thái khiến các nhà sư phải thất kinh khi thói xấu bị phơi bày (Ghẹo sư; Cọp bắt thầy
tu);… (tình tiết NVC thất bại là thiểu số nên không trình bày).
* Thái độ sau cuộc thách đố gồm các tình tiết tiêu biểu là: NVC được ban
thưởng, NVC bị trừng phạt, NVC được tha tội.
- Tình tiết NVC được ban thưởng (20/94, tỉ lệ 21,3%)
Tình tiết này xuất hiện ở 20 trường hợp. Các hình thức ban thưởng khá đa dạng
nhưng có thể quy về hai khía cạnh hoặc là tước vị (ban mỹ hiệu, chức tước, gả con
gái,…) hoặc là vật chất (ban cho vàng bạc, lụa gấm, sách vở,…). Một cách cụ thể, có
10 trường hợp NVC được ban cho vàng bạc, lụa gấm sau chiến thắng trong cuộc đấu
trí bằng văn chương. Chẳng hạn, Mạc Đĩnh Chi được ban vàng, lụa sau khi đối lại một
cách xuất sắc vế đối của vua Nguyên (Trăng là cung, đạn là sao); Lương Thế Vinh
được thưởng rất hậu sau tình huống đối đáp vô văn tự với Lê Thánh Tông (Sư sử sứ,
phụ phù phu); Nguyễn Quý Đức được thưởng hai nén bạc sau khi nối hai câu thơ
khiếm khuyết trong bài thơ của Lê Thánh Tông; Nguyễn Quỳnh được hỗ trợ tiền ăn
học sau khi đọc vế đối Đất nứt con bọ hung (Tú Cát – Bọ hung); Nguyễn Công Trứ
được thưởng mấy nén bạc trong cuộc đối chọi với các quan võ triều đình (Khinh
thường quan võ) và hai lần được cho một quan tiền (Ứng đối với chủ, Hậu sinh khả
quý); Nguyễn Đăng Hành được thưởng nhiều vàng bạc sau khi ứng khẩu bài thơ về đề
tài răng cắn lưỡi (Thơ răng cắn lưỡi),…
Trường hợp được ban thưởng về tước vị có thể kể ra như: Mạc Đĩnh Chi và
Nguyễn Đăng Cảo được phong tước hiệu Lưỡng Quốc Trạng Nguyên, Hứa Tam Tỉnh
được gả con gái. Chỉ có duy nhất trường hợp của Nguyễn Đăng Hành là xuất hiện
cùng lúc hai tình tiết ban thưởng và trừng phạt. Nhân vật được ban thưởng vì thơ hay,
nhưng lại bị đánh đòn vì vô tình xúc phạm việc riêng tư của nhà vua (việc đấu đá với
106
anh em để giành ngôi của vua Tự Đức) (Thơ răng cắn lưỡi).
- Tình tiết NVC được tha tội (11/94, tỉ lệ 11,7%)
Có 11/94 văn bản xuất hiện tình tiết này. Đây có thể xem như là trường hợp đặc
biệt của tình tiết NVC được ban thưởng. Bởi lẽ, trước đó, NVC đã vi phạm cấm kỵ,
có những hành động, lời nói xúc phạm đến NVĐT (thường là quan chức có quyền thế,
giữ quyền sinh sát). Chẳng hạn, Nguyễn Công Trứ chặn đường đi của Lê Văn Duyệt,
rồi ứng khẩu đọc bài thơ xuất thần nên được Tả quân tha không đánh đòn (Anh hùng
đè xuống dưới). Cao Bá Quát đối lại vế đối của Minh Mạng nên được tha bổng, không
truy cứu tội xúc phạm vua (Cởi truồng xem vua). Lê Quý Đôn cũng được phục chức,
tha tội sau khi lập công giải được câu đối của sứ thần nhà Thanh (Thư mượn áo cừu),...
- Tình tiết NVC bị trừng phạt (5/94, tỉ lệ 5,3%)
Tình tiết NVC bị trừng phạt xuất hiện trong 05 giai thoại: Thơ răng cắn lưỡi,
Ghẹo sư, Cọp bắt thầy tu, Thi câu đối, Da báo như da chó dê. Hình phạt mà các NVC
thường nhận lấy là bị bắt bỏ tù, bị giết chết, bị đánh đòn,… Chẳng hạn, Vũ Hữu Lợi bị
giết chết để rửa hận cho tên quan bị ông xúc phạm, Hoàng Phan Thái sau những lời
cứng cỏi với nhà sư cũng phải thẳng cẳng chạy dài vì sợ bị đánh, Từ Đạm – một trong
những tên tay sai khét tiếng ác ôn phục vụ cho Pháp thì tức tối truy lùng kẻ đã đáp lại
câu đối của y, khiến người này trốn mất tăm.
- Tình tiết NVĐT tức tối/bỏ đi (10/94, tỉ lệ 10,6%)
Bên cạnh sự ban thưởng và trừng phạt mà NVĐT dành cho NVC, trong giai thoại
thách đố văn chương còn xuất hiện tình tiết NVĐT tức tối hoặc bỏ đi ngay sau cuộc
chiến. Phản ứng này mang tính chất tiêu cực, có chức năng đánh dấu sự thua cuộc của
NVĐT trước NVC trong cuộc chiến văn chương.
Hành động lặng lẽ rút lui thường xuất hiện đối với NVĐT là những văn nhân,
nho sĩ, tức là có kiến thức, chữ nghĩa. Họ chọn cách thức rút lui như một phương thức
giữ lại cho mình một chút thể diện, danh dự khi biết rằng không thể xoay chuyển tình
thế bằng khả năng văn chương. Chẳng hạn, Hoàng giáp Vũ Diễm và hai ông tiến sĩ của
nhóm “Tràng An tứ hổ” nổi tiếng văn hay chữ tốt nhưng đứng trước câu đối hai nghĩa
quá hiểm hóc của bà Đoàn Thị Điểm đã cáo lui ngay lập tức (Vế đối hai nghĩa). Viên
quan nhà Nguyên cũng chọn cho mình cách ứng xử như vậy khi chạm mặt Mạc Đĩnh
Chi trên phố (Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào).
Trong nhiều trường hợp, vị thế xã hội không có chức năng điều chỉnh, can dự
vào cuộc chiến văn chương, dù cho NVĐT có là những viên quan quyền cao chức
trọng đi chăng nữa. Điều kiện đặt ra giữa hai nhân vật trước cuộc đối chọi thơ văn là:
107
NVĐT không được bắt tội hay trừng phạt NVC. Đây chính là kim bài miễn tử mà
NVC đã khéo léo đưa vào để phòng thủ cho bản thân. Vì lẽ đó mà Cao Bá Quát đã
thẳng thừng mắng thơ của thi xã Mạc Vân chẳng khác gì mùi nước mắm ở Nghệ An.
Hành động có phần ngạo mạn của họ Cao dù gây ra những tức giận nhất định nhưng
những người ở đấy (toàn những ông vương, dòng họ vua chúa nhà Nguyễn) cũng
không thể làm được gì hơn. Tương tự như thế, Nghè Tân (Nguyễn Quý Tân) cũng chỉa
mũi dùi xỏ xiên những tên quan phụ mẫu, khiến chúng nổi điên nhưng cũng đành
“bấm bụng cho qua” vì đã lỡ rơi vào cạm bẫy văn chương quá quắt của ông Nghè
(Một lũ ăn mày, một lũ quan),…
Tóm lại, ở trên luận án đã đi vào mô tả cấu tạo của motif thách đố văn chương
trong nhóm giai thoại thách đố văn chương qua những tình tiết tiêu biểu của nhóm
này. Qua sự mô tả các tình tiết chính, chúng tôi xác định rằng: mô hình kết cấu trên
của nhóm giai thoại về thách đố văn chương đã góp phần xây dựng nên kiểu nhân vật
đặc trưng cho giai thoại văn học, đó là nhân vật trí thức khoa bảng.
Từ sự mô tả motif và các tình tiết tạo nên motif thách đố văn chương ở trên,
chúng tôi tiến hành bước thứ hai của quá trình phân tích motif, đó là phân tích cấu trúc
chức năng. Về phương diện cấu trúc chức năng, sự thách đố là biểu hiện của chức
năng tạo nên thử thách (bằng văn chương). Đối tượng tạo nên thử thách này trong
giai thoại văn học gồm cả NVC và NVĐT. Như vậy, có sự luân phiên về vai trò của
các nhân vật trong việc tạo nên điểm nút của truyện. Trường hợp thứ nhất, tình tiết
NVC bị thách đố bởi NVĐT là sản phẩm đặc trưng của giai thoại văn học. Bởi nó làm
nổi bật được phẩm tính siêu việt, uyên bác trong lĩnh vực văn chương của nhân vật.
Còn trường hợp thứ hai (NVC chủ động thách đố NVĐT), chúng tôi ngờ rằng tình tiết
này là vay mượn từ truyện trạng với công thức quen thuộc của nó là: NVC (nhân vật
trạng) chủ động đưa NVĐT vào cái bẫy của mình (về điều này, chúng tôi sẽ phân tích
cụ thể ở Chương 4).
Tương tự như vậy, phần giải đố của NVC có chức năng như hoàn thành nhiệm
vụ khó khăn mà chúng ta vẫn bắt gặp trong cổ tích thần kỳ. Chức năng ấy, trong cổ
tích thần kỳ được xây dựng dưới dạng nhân vật chức năng có liên quan đến dạng thức
không gian và tính chất kỳ ảo, siêu nhiên. Mặt khác, kiểu nhân vật chức năng thường
lặp lại các tình huống, còn trong giai thoại, nó mang tính chất đời thường đa dạng mà
điểm nhấn quan trọng nhất là yếu tố văn chương. Nhiệm vụ khó khăn ở đây không gì
khác hơn là giải đáp câu đố về văn chương mà NVĐT đặt ra. Xét trong mối quan hệ
với phần thách đố, phần giải đố có chức năng mở nút, qua đó xác lập tư thế, đẳng cấp
108
của NVC. Phần thái độ sau cuộc thách đố đóng vai trò như phần kết của giai thoại. Ở
đấy, xác lập thêm hai hành động chức năng đáng chú ý từ phía NVĐT là ban thưởng
và trừng phạt.
Ở trên, luận án vừa điểm qua motif thách đố văn chương trong giai thoại ở
phương diện cấu tạo và chức năng. Đến đây, luận án sẽ bàn về phương diện nguồn gốc
lịch sử của motif này. Xét trong mối tương quan giữa NVC và NVĐT, thì sự thử thách
bằng văn chương vừa là một nhiệm vụ khó khăn, vừa mang tính chất của một cuộc thi
tài về trí tuệ (trên địa hạt văn chương). Do vậy, có thể nói, motif thách đố (bằng văn
chương) trong giai thoại văn học chính là sự nối tiếp, một biến thể của một motif rất
quen thuộc trong tự sự dân gian – motif thi tài.
Nếu nhân vật thi tài trong truyện cười là con người chung chung thì trong giai
thoại phần lớn là các nhà trí thức, khoa bảng nổi tiếng. Và đây cũng là kiểu nhân vật
không thể thấy trong cổ tích hay truyền thuyết. Qua tìm hiểu các hình thức thi tài trong
truyền thuyết và cổ tích, có thể thấy hình thức thi tài về thể chất là nội dung chiếm tỉ lệ
cao nhất ở cả hai thể loại. Trong lúc đó, các motif thi tài của giai thoại đều thiên về trí
tuệ. Về nguyên nhân thắng lợi của cuộc thi tài, trong truyền thuyết, cổ tích, các nhân
vật giành chiến thắng chủ yếu nhờ vào trợ thủ, sự mưu mẹo, phẩm chất, tài năng bản
thân. Ở giai thoại văn học, sự chiến thắng của NVC hiển nhiên dựa vào tài năng thực
sự của bản thân nhân vật, đó là tài năng trí tuệ (khả năng văn chương, ứng biến tình
huống bằng văn chương, thơ phú). Motif thi tài trong giai thoại văn học hướng đến
mục đích bảo vệ danh dự bản thân và quốc thể là nét chính yếu, điều mà các thể loại
khác không có.
Trên đây là phần tóm lược những nét tương đồng và dị biệt trong cách thức triển
khai hình thức thi tài giữa giai thoại và truyền thuyết, cổ tích. Đến đây, một câu hỏi đặt
ra là: sự biến đổi của các hình thức thi tài trong tự sự dân gian vận động theo nguyên
tắc nào. Trên cái nhìn tổng thể, có thể thấy motif thi tài khá phổ biến trong các thể loại
tự sự dân gian như cổ tích, truyền thuyết, sử thi,… Nó được triển khai trên khả năng
thần kỳ và phàm tục của các nhân vật. Lẽ cố nhiên, hình thức thi tài bằng khả năng
siêu nhiên (các con vật có khả năng siêu nhiên trong cổ tích hay các cuộc thi giữa thần
và bán thần với nhau hay với người) mang tính chất cổ xưa hơn. Bởi lẽ, nó phản ánh
được thời kỳ tư duy còn thô sơ, ở mức thấp của con người: con người tin rằng các thế
lực siêu nhiên hoàn toàn có thể can dự, tác động vào cuộc sống. Do vậy, sự khiếp sợ,
tôn thờ thế lực siêu nhiên là điều dễ hiểu. Đây là điều mang tính phổ quát, quy luật
trong văn hóa của nhân loại. Còn các hình thức thi tài bằng khả năng thực tế rõ ràng
109
mang tính chất đời thường, gắn với sinh hoạt thường ngày của con người. Nó bắt đầu
khi mà trình độ nhận thức của con người đã giã từ tư duy tôn thờ thần thánh, các thế
lực siêu nhiên để đạt tới tư duy duy lý, tức là không phụ thuộc vào cái siêu hình nữa.
Thay vào đó là căn cứ vào những điều hiện tồn trong thực tiễn cuộc sống. Do vậy, có
thể nói, sự chuyển hóa hình thức thi tài từ năng lực siêu phàm sang khả năng thể chất
tự nhiên của con người, mang tính người, là bước phát triển thứ hai của hình thức thi
tài trong tự sự dân gian. Trong truyền thuyết, cổ tích, ta có thể liệt kê hàng loạt những
cách thức thi tài gắn liền với sức mạnh thể chất như: bắn cung, chạy, đan, đẽo đá, đào
ao,…
Có thể khái quát lại sự thay đổi của hình thức thi tài trong tự sự dân gian bằng
sơ đồ sau: Thi tài bằng khả năng thần kỳ (siêu nhiên) → thi tài bằng khả năng thể chất
tự nhiên → thi tài bằng khả năng trí tuệ. Tình tiết thi tài trong giai thoại nằm ở giai
đoạn biến đổi sau cùng của sự vận động motif thi tài. Và vẻ đẹp trí tuệ này được soi
chiếu qua văn chương và bằng văn chương. Do vậy, đến đây, có thể khẳng định thêm
rằng: motif thi tài bằng văn chương là sản phẩm đặc trưng của giai thoại văn học, là
một trong những hình thức biến thể vô cùng đa dạng của motif thi tài trong tự sự dân
gian. Hình thức này không nhằm vào khả năng siêu nhiên, thần kỳ của nhân vật, không
hướng vào sức mạnh thể chất mà tập trung đề cao khả năng trí tuệ (qua văn chương và
bằng văn chương). Đó chính là biểu hiện của tâm thức đề cao trí thức (chữ Trí) trong
thời phong kiến của người Việt, với sự lên ngôi và thống ngự của Nho giáo trong đời
sống tinh thần dân tộc.
3.1.1.2. Nhóm giai thoại ứng tác văn chương
Mô hình kết cấu của nhóm giai thoại ứng tác văn chương có thể tóm lược theo
bảng sau:
Bảng 3.4. Mô hình kết cấu của nhóm giai thoại ứng tác văn chương
Phần mở đầu
Giới
cảnh
thiệu hoàn
(không gian, thời gian), đặc
điểm, tính tình, năng lực, tài
năng,… của nhân vật Phần kết thúc
- Thái độ, phản ứng đối
với ứng xử của nhân vật
- Giảng bình thơ văn, câu
đối Phần diễn biến
Tình huống đặc biệt – Làm
thơ
(Motif làm thơ tạo tình
huống) Điểm khác biệt lớn nhất trong kết cấu của nhóm giai thoại ứng tác văn chương so
với nhóm thách đố văn chương là: phần diễn biến đã được thay thế bằng motif làm thơ
tạo tình huống (thay vì motif thách đố văn chương). Căn cứ vào mục đích thơ văn,
chúng tôi xác định cấu tạo của motif làm thơ tạo tình huống như sau:
110
Bảng 3.5. Cấu tạo của motif ứng tác văn chương
Motif làm thơ tạo tình huống
Cảm
khái Thử
lòng Tỏ
tình Tiễn
biệt Tuyệt
mệnh Ca
ngợi Tự
trào Phê
án Thù
tạc Đả
kích,
châm
biếm
Như vậy, với hạt nhân cốt lõi là motif làm thơ tạo tình huống, nhóm giai thoại
ứng tác văn chương đã vận hành theo 10 mục đích cụ thể của tình huống văn chương.
10 mục đích cụ thể ấy tương đương với 10 tình tiết cụ thể của motif làm thơ tạo tình
huống. Sau đây, luận án sẽ điểm qua các tình tiết có tần số xuất hiện cao trong số này.
- Tình tiết làm thơ mỉa mai, châm biếm, hạ bệ (100/225, chiếm tỉ lệ 44,4%)
Đây là tình tiết có tỉ lệ cao, gắn liền với cảm hứng phê phán của giai thoại nói
chung. Như đã nói, nhân vật trung tâm của giai thoại văn học là những nhà khoa bảng,
có kiến thức uyên thâm về thơ văn, chữ nghĩa. Do vậy, đối với họ, thơ văn cũng trở
thành vũ khí hữu hiệu để công kích vào những thói tục của cuộc sống, đấu tranh chống
lại những cái xấu, cái ác, kệch cỡm của xã hội. Theo đó, đối tượng chính mà NVC
hướng đến thường là vua chúa, quan lại phong kiến – những người đại diện cho chính
quyền, cho giai cấp thống trị. Dẫu rằng, không ít nhà văn, nhà thơ cũng từng là quan
lại, nằm cùng hàng ngũ với các nhân vật ấy. Chung quy lại, các đối tượng mà NVC
muốn hạ bệ là những nhân vật đại diện cho: vương quyền (vua chúa, quan lại phong
kiến, tay sai cho Pháp), thần quyền (thần thánh), nho sĩ.
Qua khảo sát hệ thống giai thoại văn học, chúng tôi nhận thấy có 06 trường hợp
xuất hiện đối tượng bị hạ bệ, châm biếm đều ở triều Nguyễn là Minh Mạng, Tự Đức:
Chê khéo; Bịa thơ tài hơn vua; Tự tiện chữa văn vua; Trên dưới đều chó; Đái vẽ nên
rồng; Thơ ăn thịt cần đước. Đây là vấn đề đáng suy nghĩ. Vì sao giai thoại đả kích vua
chúa lại xuất hiện nhiều ở giai đoạn này. Có phải do hình thành muộn hay ít nhiều chịu
ảnh hưởng tinh thần dân chủ phương Tây vào đầu thế kỷ XIX.
Sự hạ bệ, châm biếm này thể hiện qua nhiều cách thức khác nhau, hoặc gián tiếp,
nhã nhặn, hoặc trực tiếp, mạnh mẽ, cứng rắn. Bà Huyện Thanh Quan khéo léo chê chữ
viết của vua Minh Mạng – một người rất khó tính lúc đó. Thì ra thiên tử cũng viết chữ
mập ú, dài ngoằng, chẳng khác gì trẻ con đang tập viết cả! Dẫu vậy, Minh Mạng cũng
không bắt bẻ gì ứng xử khéo léo bằng thơ của bà (Chê khéo). Nhưng với Cao Bá Quát
và Phan Văn Trị (Cử Trị) thì mâu thuẫn, sự căm ghét đã lên đến đỉnh điểm, chia cách
hai bên về hai phía đối địch nhau, không thể cùng tồn tại chung một vòm trời. Trước
mặt bá quan văn võ ở ngay điện Cần Chánh, Cao Bá Quát đã thẳng thừng chê bai thơ
111
của Tự Đức, xem đó là trò chữ nghĩa tầm thường. Trong giai thoại Bịa thơ tài hơn vua,
rõ ràng hai câu thơ của vua Tự Đức là do nhà vua tự làm lấy, nhưng họ Cao lại cho
rằng đó chẳng qua là bài thơ trong dân gian, với cách kết hợp chữ Hán và chữ Nôm
một cách tài tình. Rồi Cao đọc một hơi hết cả bài bát cú, khiến ai nấy đều ngỡ ngàng,
ngoại trừ ông vua. Bởi lẽ, Tự Đức biết rằng họ Cao đang xỏ xiên mình.
Trường hợp các quan lại phong kiến bị mỉa mai, châm biếm xuất hiện trong phần
lớn hệ thống giai thoại văn học. Có thể tạm chia thành hai nhóm: quan lại tham ô,
nhũng nhiễu, hách dịch với nhân dân và bọn tay sai, làm ưng khuyển cho thực dân
Pháp. Về nhóm thứ nhất, có thể dẫn ra một số thói tật của nhân vật bị mỉa mai, châm
biếm như: thói tham ô, nhũng nhiễu nhân dân, tham sống sợ chết, dâm ô,… (Dịch thơ
xỏ bạn; Mặc thằng nghe – Trần Tích Phiên; Thơ chửi tri huyện – Kép Trà; Gửi
Nguyễn Khoa Kỳ; Thằng đếch nào chứ không phải quan – Phan Điện; Thăm bạn mất
cướp; Tạ người cho hoa trà – Nguyễn Khuyến; Thơ cục cứt; Thơ con mèo – Phan
Văn Trị; Thơ trả lời người bạn giàu – Nhiêu Tâm; Anh hùng có một ngươi – Tú Quỳ;
Chó chết trôi; Thơ tạ hương đảng – Học Lạc; Trên dưới đều chó; Thầy lý bớt đi rồi –
Cao Bá Quát; Phỉ báng quan Bố chánh Hà Tĩnh – Nguyễn Công Trứ; Trấn uy ba góc
– Hồ Xuân Hương; Câu thơ cảnh tỉnh – Đặng Kim; Cười ông quan hai vợ – Mạc Đĩnh
Chi,…).
Mặc dù cùng mục đích là mỉa mai, hạ bệ bọn quan lại nhưng mỗi nhà thơ lại có
một phong cách thể hiện khác nhau. Hồ Xuân Hương, Phan Văn Trị, Nhiêu Tâm vận
dụng tối đa cách nói tục của dân gian (dùng thứ thải loại của con người và sinh thực
khí của nữ) để chửi xỏ sự giàu có cũng như sự dâm ô của các quan văn, võ. Nhẹ nhàng
hơn một tí là cách so sánh ngầm các quan như những loài thú vật (đa phần là chó, mèo,
cá lia thia,…). Phan Văn Trị dùng hình ảnh con mèo và con cá lia thia để ngụ ý các
quan lại vô dụng, hèn nhát, chấp nhận làm tay sai cho Pháp (giai thoại Thơ con mèo:
có 3 bài thơ liên hoàn gồm Thơ con mèo, Cá lia thia và Hột gạo), và dùng cả hình ảnh
rất tục, rất dân gian là “cục cứt” để chửi bọn quan lại (Thơ cục cứt). Cao Bá Quát vật
hóa các quan tham ăn dẫn đến việc đánh nhau như loài chó (Trên dưới đều chó). Hồ
Xuân Hương dùng phép ẩn dụ, hình tượng hai mặt (đồng hóa tài năng của các quan với
sinh thực khí nữ) để chửi xỏ tên quan võ dưới trướng Gia Long (Trấn uy ba góc). Phan
Điện và Trần Tích Phiên thẳng thừng chửi quan là “thằng” (Mặc thằng nghe; Thằng
đếch nào chứ không phải quan),…
Đối với những tên tay sai của Pháp, vẫn là thái độ đả kích mạnh mẽ của các nho
sĩ. Cụ Nguyễn Khuyến dùng các hình ảnh tương đối nhẹ nhàng là các con phỗng để
112
chửi xéo Hoàng Cao Khải – tay sai cho Pháp ở Bắc Kỳ qua các giai thoại Vịnh phỗng
đá; Thơ ông phỗng sành; Đòi xem câu đối. Phạm Ứng Thuần nhân việc Từ Đạm đục
hết thơ rồi đến chân mình vào núi đá, cũng đã làm bài thơ châm biếm tên quan tay sai
này (Đục chân vào đá). Từ Diễn Hồng cũng làm bài Thơ trung thu gửi Từ Đạm để
vạch mặt tên bán nước. Xiển Ngộ chửi bọn phản quốc bằng bài Thơ điên cuồng ngu
ngộ. Nguyễn Trọng Cẩn viết Bài thơ năm cụ để xỏ xiên các quan một dạ hai lòng.
Huỳnh Mẫn Đạt chủ động trốn tránh nhưng cũng phải ứng tác văn chương với cố nhân
– giờ là tay sai cho Pháp là Tôn Thọ Tường ngay giữa chốn thị thành Sài Gòn (Bài thơ
không họa nổi),…
- Tình tiết làm thơ cảm khái (55/225, chiếm tỉ lệ 24,4%)
Qua khảo sát các tuyển tập giai thoại, chúng tôi xác định tình tiết này xuất hiện ở
55 trường hợp (24,4%). Khái niệm cảm khái ở đây được chúng tôi hiểu theo nghĩa như
sau: cảm xúc thương cảm, ngậm ngùi trước thực tại và bày tỏ ý chí, nguyện vọng để
vượt lên trên thực tại đó. Chẳng hạn, các giai thoại văn chương về các bài thơ Chương
Dương – Hàm Tử, Ngựa đá lấm bùn cũng ghi lại sự kiện quân dân nhà Trần đánh bại
quân Mông Nguyên. Trần Danh Án dù được vua Gia Long mời ra làm quan dưới triều
Nguyễn, nhưng với lòng ưu ái nhà Lê cựu trào, ông đã một mực khước từ, chỉ nhận
chiếc khăn chứ không nhận chức tước, để giữ trọn tấm trung trinh với vua Lê (Tiến sĩ
triều Lê, khăn triều Nguyễn).
Các văn thi sĩ trong giai thoại văn học cũng có không ít những bài thơ, câu đối
nói lên chí khí hơn người. Nếu châm biếm người khác là để chấn chỉnh lại nền giáo lý
Nho giáo, thì sự bày tỏ chí khí ở đây có thể hiểu như sự tự nhủ, tự trui rèn để hướng
đến lý tưởng lập thân, vinh hiển ở tương lai. Những hoàn cảnh bày tỏ chí khí của NVC
trong giai thoại văn học cũng khá đa dạng. Ở đây, chúng tôi xin điểm qua một số
trường hợp tiêu biểu. NVC rơi vào hoàn cảnh lao tù, làm thơ nói lên ý chí kiên cường,
không sợ gian nguy, thậm chí là cái chết. Đó là trường hợp của Nguyễn Biểu và
Nguyễn Hữu Cầu. Nguyễn Biểu sau khi ăn cỗ đầu người mà giặc bày ra thử thách, đã
khảng khái ngâm bài thơ tỏ chí khí. Sau bài thơ đầy khí khái trên, Nguyễn Biểu đã bị
Trương Phụ cho người trói dưới chân cột cầu sông Lam, để cho nước thủy triều dâng
làm chết ông. Trong giai thoại Chim trong lồng, sau khi bị người bạn cố tri, từng là
đồng môn của mình là Phạm Đình Trọng bắt giam, Nguyễn Hữu Cầu đã cảm khái
ngâm liền bài thơ với đề tài chim bị nhốt trong lồng khiến cho họ Phạm tức giận, vào
triều tâu xin xử tử nhanh họ Nguyễn.
Đối với các nhân vật là nhà thơ, sĩ phu yêu nước, trong thơ văn của họ, nội dung
113
bày tỏ chí khí, lòng yêu nước, căm thù giặc, căm thù lũ bán nước thể hiện vô cùng sinh
động, trở thành nội dung quan trọng trong giai thoại. Chẳng hạn như Bạch Xỉ làm thơ
Đề gươm để nói lên quyết tâm chống Pháp; Kỳ Đồng tuy có ngạo mạn nhưng cũng có
tài năng thực sự và lòng yêu nước nồng nàn, tham gia vào phong trào chống Pháp
(Không dùng ta lấy ai giúp nước); Phan Điện tuy không tham gia chống Pháp nhưng
cũng thể hiện cái ngông, chí khí của ông qua màn đối đáp thông minh, láu lỉnh với
quan Pháp (Tớ không phải là phu),…
- Tình tiết đối đáp, thù tạc văn chương (15/225, chiếm tỉ lệ 6,6%)
Tình tiết đối đáp, thù tạc văn chương xuất hiện trong 15 trường hợp. Phần lớn
tình tiết này được tổ chức xoay quanh hai nhà thơ là tri kỷ, bạn vong niên văn chương,
tạo thành những cặp thâm giao: Nguyễn Văn Siêu – Cao Bá Quát, Hàn Mặc Tử – Phan
Bội Châu,… hoặc những nhân vật có ít nhiều bất đồng nhưng trên cơ bản vẫn là những
bạn thơ văn của nhau như: Bạch Xỉ – Phan Đình Phùng. Chẳng hạn như giai thoại Siêu
đồng, siêu đất có nội dung kể về tình huống đối đáp văn chương giữa Nguyễn Văn
Siêu và Cao Bá Quát. Trong một cuộc bình phẩm thơ văn, Cao Bá Quát cao hứng làm
hai câu thơ nói về người bạn vong niên của mình: “Siêu đất siêu đồng cũng là Siêu/
Siêu đất sao mà lắm kẻ yêu”. Đến đây, Nguyễn Văn Siêu bắt được mạch thi tứ của bạn
nên đã yêu cầu ngừng lại, không họa tiếp nữa. Sự thật đúng là họ Cao tuy tài năng phi
thường nhưng đã tỏ ra đuối ý trước cao thủ, khó có thể hoàn thành hai câu còn lại của
bài tứ tuyệt.
- Tình tiết làm thơ tỏ tình (13/225, chiếm tỉ lệ 5,7%)
Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được có 13 trường hợp NVC làm thơ với mục
đích để bày tỏ tình cảm cá nhân, cụ thể là tình yêu trai gái: Nguyễn Trãi làm thơ tỏ tình
với ả bán chiếu Nguyễn Thị Lộ (Thơ đùa ả bán chiếu); Nguyễn Công Trứ làm thơ
tương tư (Thơ tương tư), tả nỗi nhớ của bản thân cũng như làm hộ thơ tình cho người
bạn (mê cô hát ả đào nhưng không được đáp lại - Duyên nợ với hát ả đào); Phan
Hoàng Thái dạo chơi, bỗng thi hứng nổi lên làm Bài phú tức cảnh cô gái đẹp; Tú
Xương nhìn cô hàng xóm ngày ngày tưới dưa, hái dưa mà ước ao Hóa ra dưa cho
người ngọc bế bồng (Hóa ra dưa ); Nguyễn Hữu Khanh tuy tuổi đã xế chiều nhưng rất
thích hát ả đào và cả những cô gái đến nỗi các cô gọi bằng bố mà ông vẫn không tha,
quyết cho vào “bực bố” để thỏa thú bình sinh (Đã cho vào bực bố),…
- Tình tiết làm thơ ca ngợi (12/225, chiếm tỉ lệ 5,3%)
Nếu châm biếm, đả kích là tình tiết thể hiện sự phản đối, căm ghét của NVC đối
với các thế lực hắc ám, tàn bạo, phi nhân… thì tình tiết làm thơ ca ngợi thể hiện sự
114
ngưỡng mộ, trân trọng, tôn vinh đối với nhân cách, đức độ, tài năng của NVC với
những người cùng thời hoặc danh nhân trước đó. Vua Lê Thánh Tông ngưỡng mộ tài
năng văn chương của ba nhân vật có cùng chữ đệm là “Thế”, nên đã có câu đối ca
ngợi trong buổi yến tiệc vinh danh người đỗ đạt: “Thế Lịch, Thế Hiển, Thế Vinh, tam
thế đồng khoa vinh hiển lịch” (Thế Lịch, Thế Hiển, Thế Vinh, ba ông đỗ một khoa,
cùng vẻ vang, rạng rỡ). Trong tiệc mừng thọ của Nguyễn Công Trứ, Nghè Tân có gửi
một bài thơ chữ Nôm để trong khai để mừng thọ bạn thơ, đồng thời họa lại bài thơ tự
thọ trước đó của họ Nguyễn.
- Tình tiết làm thơ tự trào (16/225, chiếm tỉ lệ 7,1%)
Làm thơ tự trào cũng là tình tiết đáng chú ý trong nhóm giai thoại về ứng tác văn
chương. Qua khảo sát, chúng tôi ghi nhận có 17 trường hợp văn bản xuất hiện tình tiết
này. Trong mảng này, những giai thoại về Nguyễn Công Trứ chiếm số lượng nhiều
nhất, gồm các giai thoại: Làm thơ khất nợ, Bỗng chốc nên quan, Có rứa rồi mới ra
được mùa, Ngày Tết cắm đất hương hỏa, Chim bay về núi, Trí sĩ về hưu. Có lần, giữa
ngày sắp sang năm mới, khi chủ nợ kéo đến nhà đòi nợ, rồi nằm vạ không chịu về,
Nguyễn Công Trứ đành chịu cắm cả đất hương hỏa ông bà để lại để được yên thân.
Hoàn cảnh của người nho sĩ quá đáng thương trước sự bủa vây của đồng tiền: “Chiều
ba mươi công nợ rối Mậu Thìn, những muốn mười năm làm một tết/ Sáng mồng Một
rượu chè say Quý Tỵ, trông cho ba bữa hóa mười ngày/ Tết có cóc gì đâu, uống vài be
củ tỏi/ Nợ đâm riêng ra đó, nói ba chuyện cả riêng” (Ngày Tết cắm đất hương hỏa).
Các nhân vật khác cũng làm thơ tự trào bản thân trong những nghịch cảnh, tình
huống thăng trầm của cuộc đời. Bị nhốt trong lao tù, Học Lạc liền làm bài Bị ngồi
trăng để tự cười thói ngông nghênh, còn kép Trà thì làm Câu đối vịnh gông cùm trong
tình huống tương tự. Học Lạc gọi mình là Thằng Lạc để xác lập lằn ranh khu biệt với
những “thằng” quan chức hóng hách khác trong làng. Nhiêu Tâm tự cười cái nghèo
khi so sánh với người bạn cố tri giàu có (Thơ gửi bạn nhà giàu). Trần Danh Án trên
đường bôn ba gửi thư cầu cứu cho Tàu để cứu vua Lê Chiêu Thống, đã họa bài thơ nói
về tình huống lịch sử Sứ thần áo rách nón mê,… Nhìn chung, tình tiết làm thơ tự trào
xuất hiện trong những huống cảnh NVC dùng thơ văn để soi chiếu chính bản thân
mình, lấy bản thân làm đề tài để bộc lộ thái độ trước thời cuộc. Tóm lại, mô hình kết
cấu trên của nhóm giai thoại về thách đố văn chương đã làm nổi rõ các kiểu nhân vật
khác của giai thoại là: Nhân vật nhà nho ẩn dật, nhân vật đạo đức (khía cạnh đạo đức
cá nhân và đạo đức công dân), nhân vật nhà nho tài tử.
115
3.1.2. Kết cấu của giai thoại văn hóa dân gian
Như chúng tôi đã trình bày ở phần phân loại giai thoại, giai thoại văn hóa được
hiểu như những tác phẩm tự sự dân gian, trong đó, nó có chức năng giải thích sự hình
thành địa danh, nguồn gốc ngành nghề, những câu châm ngôn, phương ngôn, tục ngữ,
thành ngữ, ca dao, những hoạt động sinh hoạt văn hóa truyền thống của các vùng miền
(hát hò đối đáp, sân khấu,…), những nhân vật nổi tiếng trên các lĩnh vực đó (nghệ
nhân dân gian, nghệ sĩ tuồng chèo, cải lương,...). Bên cạnh đó, hệ thống giai thoại văn
hóa dân gian cũng có nhóm truyện về phong tục, tín ngưỡng của nhân dân. Sau đây là
bảng tóm lược về hệ thống truyện và nhân vật của giai thoại văn hóa dân gian mà
chúng tôi khảo sát từ các tuyển tập:
Bảng 3.6. Hệ thống truyện và nhân vật của giai thoại văn hóa dân gian
Stt Nhóm truyện Số lượng văn bản
Kiểu nhân vật
- Nhân vật ngông
- Nhân vật dị nhân 1 - Tín ngưỡng: 17
- Tập tục treo câu đối: 61
- Hò hát dân gian: 182
- Tập Kiều, lẩy Kiều: 46 2
- Nghệ nhân dân
gian
- Nhà nho tài tử
- Nhà nho ẩn dật
Nghệ sĩ sân khấu
(tuồng, chèo, 3 Giai thoại về tín ngưỡng,
phong tục, tập quán của nhân
dân
Giai thoại về sinh hoạt văn
nghệ dân gian (hát ví giặm,
hát phường vải, hò khoan, hò
đối đáp…)
Giai thoại về sân khấu truyền
thống
cải
lương…) - Nghệ sĩ sân khấu khuyết
danh: 35
- Nghệ sĩ sân khấu nổi
tiếng: 26
Trong phạm vi của luận án này, chúng tôi chỉ đi vào 01 nhóm truyện tiêu biểu
của tiểu loại này là nhóm truyện về sinh hoạt văn nghệ dân gian với những lí do cụ thể
là: 1. Đây là nhóm tập trung nhiều đơn vị tác phẩm nhất trong 03 nhóm của giai thoại
văn hóa dân gian; 2. Nhóm này tập trung 03 kiểu nhân vật chưa được nghiên cứu sâu
(về kiểu loại nhân vật) là: nhân vật nghệ nhân dân gian, nhân vật nhà nho tài tử và
nhân vật nhà nho ẩn dật. Luận án sẽ trình bày ở phần sau. Mô hình kết cấu của nhóm
giai thoại văn nghệ dân gian như sau:
Bảng 3.7. Mô hình kết cấu của nhóm giai thoại văn nghệ dân gian
Phần diễn biến
Thách đố - Giải đố
(Motif: Thách đố về hò
hát) Phần mở đầu
Giới
cảnh
thiệu hoàn
(không gian, thời gian), đặc
điểm, tính tình, năng lực, tài
năng,… của nhân vật Phần kết thúc
- Thái độ, phản ứng đối
với ứng xử của nhân vật;
- Giảng giải chữ nghĩa lời
ca
Sau đây là bảng mô tả cấu tạo của motif thách đố về hò hát của nhóm giai thoại
văn nghệ dân gian:
116
Bảng 3.8. Cấu tạo của motif thách đố về hò hát của nhóm giai thoại
văn nghệ dân gian
Sự thách đố Motif thách đố (về hò hát)
Sự giải đố Thái độ sau cuộc
thách đố Mục đích Kết quả giải đố Dương Âm tính Tính chất
Chủ
động Bị
động Chiến
thắng tính
Thán
phục Thất
bại Thử
tài
Bất
phân
thắng
bại Chấm
dứt
cuộc
hát Tức
tối/
Bỏ đi
(…) Hạ
bệ,
đả
kích Bày
tỏ
tình
cảm Giao
lưu
văn
nghệ
(…)
Nhóm giai thoại về sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian có cả thảy 182 đơn vị
văn bản, có thể chia thành hai tiểu nhóm như sau:
* Nhóm truyện 1: Giai thoại về các cuộc hò hát của các nghệ nhân dân gian.
* Nhóm truyện 2: Giai thoại về các cuộc hò hát của các nhà nho tài tử.
Dựa vào bảng thống kê tình tiết (xin xem Phụ lục), có thể nhận thấy 7/11 tình tiết
có tần số xuất hiện cao là: NVC chủ động thách đố, NVC bị thách đố, NVC chiến thắng
cuộc hò hát, NVC thất bại trong cuộc hò hát, bất phân thắng bại, NVC dùng câu hát
bày tỏ tình cảm, NVC được thán phục; cuộc hát chấm dứt (do vi phạm cấm kỵ),…
Có thể sơ đồ hóa sơ đồ cốt truyện của nhóm truyện này như sau: NVC chủ động
thách đố NVĐT/ NVC bị NVĐT thách đố → NVC giành chiến thắng/ NVC thất bại/
Bất phân thắng bại → NVC được thán phục/ Cuộc hát chấm dứt/ NVĐT tức tối/ NVĐT
bỏ đi.
Sau đây là phần mô tả cấu tạo của motif thách đố về hò hát trong giai thoại sinh
hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian:
* Sự thách đố (về hò hát): phần này được triển khai qua hai tình tiết cơ bản là
NVC chủ động thách đố và NVC bị thách đố. Về mặt chức năng, sự thách đố (bằng lời
hò hát hoặc một yêu về hò hát) có vai trò như một sự thắt nút, đòi hỏi NVC phải giải
quyết.
- Tình tiết NVC chủ động thách đố (100/182, chiếm tỉ lệ 54,9%)
Tình tiết này xuất hiện trong 100/182 văn bản của hệ thống truyện, bao gồm cả
NVC là nghệ nhân dân gian và các nhà nho tài tử tham gia sinh hoạt văn nghệ dân gian
với quần chúng nhân dân.
Trong nhóm giai thoại văn hóa dân gian có liên quan đến NVC là nghệ nhân dân
gian, có thể liệt kê ra đây những trường hợp NVC chủ động thách đố NVĐT như:
chàng thanh niên chủ động hát chọc ghẹo cô gái họ Vương ở đất chợ Voi (Hà Tĩnh,
117
giai thoại Trai sừng gái sỏ); hai chị em Cô Long và cô Vân giữ vai trò chủ động trong
cuộc hát qua các giai thoại: Quỷ thần không cho, Mùi trầm hương nỏ chộ, Bởi vì ai nên
nỗi để cho nàng đong đưa nhằm ngăn chặn cách tỏ tình thái quá, thô thiễn của các anh
chàng trong cuộc hát; Cô Nhẫn chủ động khước từ tình cảm của các chàng trai qua các
giai thoại: Cô Nhẫn nói về chuyện muộn chồng, Chí còn cách cắp ô lủi đi,…
Về giai thoại sinh hoạt văn nghệ dân gian của các nhà nho tài tử, tần số xuất hiện
của tình tiết NVC chủ động thách đố NVĐT khá ít. Có thể kể ra hai trường hợp:
Nguyễn Du (thời thanh niên thường được gọi là Chiêu Bảy) hát ghẹo cô gái tên Cúc
(Vì chưng tham chút nhụy vàng); Nguyễn Công Trứ chủ động cất lời hò chọc ghẹo cô
gái đang giặt áo trên sông (Hát phường vải).
- Tình tiết NVC bị thách đố (82/182, chiếm tỉ lệ 45,1%)
Ở đây, chúng tôi xin điểm qua một số tình huống thách đố có liên quan đến
những nhân vật là nghệ nhân dân gian nổi tiếng (Cô Long, Cô Vân, Cô Nhẫn, O Tộ,
Bảy Tỏi, Trần Hàn…). Điều đặc biệt trong mảng giai thoại này là, NVC không chỉ bị
thách đố một lần mà là nhiều lần liên tiếp trong cùng một giai thoại, tức là luôn ở tình
thế phải suy nghĩ và đáp lại đối thủ. Chúng tôi định danh cho tình huống này là đối đáp
Cuộc hát 3
Cuộc hát 1
Cuộc hát 2
(…)
liên hoàn. Có thể mô hình hóa tình huống đối đáp liên hoàn bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 3.1. Mô hình tình huống đối đáp liên hoàn
Chính trong những tình huống như vậy, tác giả dân gian đã làm nổi bật sự tài trí
trong ứng biến của NVC. Chẳng hạn, trong giai thoại Nhà nho ba bảy nhà nho, cô
Nhẫn cũng ở tình thế đối đáp liên tục với NVĐT. Một hôm, đang bắt cáy về, có anh
học trò hát ghẹo cô: “Người ta bắt cáy đầy oi/ Răng em bắt được nạm cáy rồi, rứa
em?”. Cô Nhẫn liền đáp lại: “Lòng thương dạ nhớ thầy nho/ Chân buồn tay rũ, ai bắt
cho mà đầy”. Anh chàng này chưa chịu thua, hát thêm một câu: “Em gắng công mà
bắt cá hái rau/ Nuôi lấy chồng nho sĩ để mai sau mà nhờ”. Trước lời bày tỏ quá thẳng
thừng của chàng nho sinh, cô Nhẫn từ chối ngay: “Nhà nho ba bảy nhà nho/ Nửa nho,
nửa lại, ai có nhờ mà em nuôi” [110, tr.257]. Trong giai thoại Đôi đũa quấy trong
bung thằn lằn, cô Vân hai lần bị NVĐT hát thách đố. Ông Xã Kiểm đi bán nước mắm
chẳng may đường trơn, trợt té nên trở thành đề tài châm biếm của các cô gái Quảng
Trạch (Quảng Bình) (Tầm long điểm huyệt). O Ân – một cô gái hò hát có tiếng ở Lệ
Thủy trong một lần đi mót lúa cũng bị châm chọc bởi một nho sinh tên Chè (Đứng sau
118
mà dòm). Ông Cật, người làng Thuận Lý (Quảng Bình) nổi tiếng với những câu hò
thông minh, hóm hỉnh, trong một lần đi đơm đáy trên sông, cũng bị hát ghẹo bởi các
cô gái (Không bát, cũng không cạy),…
Về trường hợp của các nhà nho tài tử tham gia hát hò dân gian, có thể dẫn ra đây
một số dẫn chứng tiêu biểu như: Nguyễn Công Trứ trong một lần hát ví đã bị các cô
gái hát cho phải bỏ về (Nhà đọc sách, gảy đờn), Đinh Nhật Thận bị trượt té, trở thành
đề tài châm biếm cho các cô gái trong một lần hát ví ở Nghệ An (Nằm cùng thì cho).
Nguyễn Kinh hai lần đi thuyền trên sông đều bị các cô gái hát ghẹo, dẫn đến các cuộc
hát thú vị (Cây không trái, gái không chồng; Hai bảy mười một). Tài tử Phan Văn San
trong các cuộc hát thường nằm ở thế bị động: bị các cô gái hát hỏi danh tính (Nam
Đàn tứ hổ là đây), Cửu Thiện thách đố đoán danh tính qua câu hát giới thiệu bản thân
(Đoán tên), các cô gái hát đố tên cha thầy Mạnh Tử (Cha thầy Mạnh Tử là ai?),…
* Sự giải đố (về hò hát)
Đây chính là phần quan trọng nhất, tạo nên sự hấp dẫn cho nhóm giai thoại về
các cuộc hò hát của các nghệ nhân dân gian và nhà nho tài tử. Về mặt chức năng, phần
này đóng vai trò như sự mở nút, giải quyết khúc mắc, cởi trói cho tình huống khó khăn
của cuộc hát. Căn cứ vào kết quả của sự giải đố, ta có thể thấy nổi bật lên 02 tình tiết
tiêu biểu là: NVC giành chiến thắng và NVC thất bại trong cuộc hò hát.
- Tình tiết NVC giành chiến thắng trong cuộc hò hát (67/182, chiếm tỉ lệ
36,8%)
Tình tiết này xuất hiện 67/182 tác phẩm trong nhóm giai thoại hò hát dân gian.
Tần số ở mức cao đó chứng tỏ rằng, trong quan niệm của dân gian, những nghệ nhân
dân gian bao giờ cũng là người có thế ưu thắng, được cộng đồng ngưỡng mộ, tôn vinh,
đề cao, ca ngợi về tài năng ứng biến nhanh nhạy, thông minh của mình. Những nghệ
nhân này, dù là người có tên tuổi hay khuyết danh cũng đều để lại những ấn tượng sâu
sắc bằng những câu hò, lời hát. Hầu hết những nhân vật có tài hò hát ở địa phương như
Cô Long, Cô Vân, Cô Nhẫn, O Ân, O Quy, Bảy Tỏi, Trần Hàn,… đều giành chiến
thắng trong các cuộc thi hát, bất chấp đối thủ của họ là những nhân vật chưa có tên
tuổi hay những tay hò hát có tiếng. Đó chính là sự chi phối của tinh thần dân chủ đến
cấu trúc thể loại. Điều khá thú vị là trong mảng giai thoại này, đã dành hẳn ra một
mảng nhỏ dành riêng cho những cặp bài trùng, những đối thủ thực sự của nhau không
chỉ trong câu hát mà còn trong cả cuộc sống đời thường: cô Long, cô Vân – anh Bần,
Nho Biên – cô Nhẫn, ông Ngụ – bà Hậu, Cửu Hoãn – bà Tùng, O Quy – anh Long,
ông Bơi – bà Bổ, bà Bơi, ông Quán – cô Hảo, Nhiêu Ngọ – O Tộ,… Sợi dây kết nối họ
119
trong các cuộc hò hát, ngoài việc khẳng định tài năng thì còn phải nhắc đến chuyện
tình cảm nam nữ. Trong nhiều trường hợp, những câu hò lời hát không chỉ đơn thuần
mang tính chất công thức (có sẵn) mà còn mang đậm tính sáng tạo của các nhân vật.
Có một nét khá thú vị trong những giai thoại hò hát dân gian là các nhân vật rất
hay sử dụng yếu tố tục. Đây cũng là một trong những đặc trưng cơ bản của tính chất
phi chính thống, ngoài lề của giai thoại nói chung. Qua khảo sát, chúng tôi thống kê
được có 23/182 (12,6%) tác phẩm xuất hiện yếu tố này. Cụ thể, có 02 giai thoại đề cập
đến động tác giao hợp nam nữ, 03 văn bản có ngụ ý chỉ hành động vệ sinh, còn lại 17
văn bản có đề cập một cách trực diện hay ngụ ý sinh thực khí của nam và nữ, 01
trường hợp chửi tục.
Về hành động vệ sinh, ta có thể thấy trong giai thoại Nhiêu Ngọ và O Tộ, Nước
trong khe, Vì thua câu hò mà bỏ quê. Sau khi đứng nhìn O Tộ vệ sinh và bị cô này hò
mấy câu trả đũa, Nhiêu Ngọ cũng không vừa, đáp lại ngay: “Dái ơi, ơi Dái/ Ngủ chi
mãi rứa mồ/ Mi không dậy mi vô/ Thăm con em coi thử/ Đốc mùng màn coi thử”
(Nhiêu Ngọ và O Tộ), [110, tr.231]. Hai giai thoại có ngụ ý nhắc nhớ đến động tác giao
hợp nam nữ là Nhún lên nhún xuống chui ngoài chui vô, Tui cày suông cho chị. Cả hai
giai thoại này đều gắn với hoạt động lao động là nghề đan thúng và nghề cày ruộng
thuê. Khi được các cô gái mớm lời mời mọc, chàng trai làm nghề đan đã mô tả nghề
nghiệp mình như sau: “Anh đây đan cũng giỏi, mà đát cũng tài/ Lận thì nhún lên nhún
xuống, nức thì chui ngoài chui vô” (Nhún lên nhún xuống chui ngoài chui vô) [6,
tr.302]. Lời đáp của chàng trai thật khéo léo, vừa có những từ mô tả nghề đan (“lận”,
“nhún”, “nức”, “chui”) vừa mở ra một chân trời liên tưởng không giới hạn cho người
đọc.
- Tình tiết bất phân thắng bại trong cuộc hò hát (84/182, chiếm tỉ lệ 46,2%)
So với nhóm giai thoại về thách đố văn chương, tình tiết bất phân thắng bại trong
cuộc thách đố (về văn nghệ) của nhóm giai thoại về sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân
gian là một tình tiết mới, chỉ xuất hiện trong lĩnh vực văn nghệ, không thấy xuất hiện
trong lĩnh vực văn học. Trong giai thoại văn học, sự chiến thắng hay thất bại của nhân
vật là rất rõ ràng. Còn trong giai thoại văn hóa dân gian, không phải lúc nào sự chiến
thắng cũng thiên về NVC. Theo chúng tôi, có những lí do cơ bản sau: 1. Trong các
cuộc hát, các nghệ nhân phải đối mặt với không chỉ một mà là rất nhiều những lời hát
liên tiếp của đối thủ (3, 4, thậm chí là 5 lời hát liên tiếp nhau), nói khác đi đó là cách
thức trùng điệp sự thách đố. Tính chất khó khăn đã tăng lên nhiều lần (trong khoảnh
khắc), do vậy, việc “thủ hòa”, tránh đi thất bại đã là một cách ứng biến tài tình rồi (nó
120
khác hẳn với việc giải một vế đố trong giai thoại văn học); 2. Văn nghệ dân gian là
một sân chơi bao gồm nhiều thành phần: nho sĩ, quan lại, dân chúng,… trong đó,
trường hợp những con người ngang tài ngang sức là chuyện bình thường (đặc biệt là
đối với những cặp hò hát kỳ phùng địch thủ của nhau); 3. Yếu tố tâm lý cũng có phần
nào tác động đến kết quả. Ở đấy, mục đích giao lưu là chính yếu nên sự hơn thua, phải
phân định rạch ròi sự thắng – bại đôi khi không còn quan trọng cho lắm; và thứ 4. Sự
vi phạm cấm kỵ cũng là một trong những yếu tố khiến các cuộc hát không đi đến đoạn
kết hoàn chỉnh. Qua khảo sát hệ thống, chúng tôi xác định có 32/182 trường hợp
(17,6%) các cuộc hát phải dừng lại nửa chừng vì đối phương vi phạm điều cấm kỵ của
cuộc chơi.
Về sự cấm kỵ trong đối đáp, trong giai thoại văn học gần như không xuất hiện
vùng cấm kỵ nào. Lý do cơ bản là các NVC đã được cởi trói về mặt vị trí, thứ bậc để
có thể nói những gì mình muốn. Ví dụ, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát chỉ là thứ dân
(thư sinh chưa đỗ đạt) nhưng vẫn có thể được đối đáp với Minh Mạng và Lê Văn
Duyệt khi được họ cho phép. Thậm chí, trong không ít trường hợp, họ còn có thể dùng
yếu tố tục để trỏ vào ngay bộ mặt của giai cấp thống trị (trường hợp các giai thoại của
Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ,…) mà không
phải chịu bất cứ hậu quả gì. Nói khác đi, tính chất dân chủ, không câu nệ trở thành
điều kiện lý tưởng để NVC có thể nói những gì mình nghĩ, mình muốn. (Trường hợp
NVC bị trừng phạt do phạm húy, xúc phạm vua chúa, quan lại chỉ xuất hiện ở tần số
thấp, do vậy không phải là nét đặc trưng),…
Với giai thoại văn hóa dân gian, sự cấm kỵ, chuẩn mực trong lời hò, câu hát là
điều đã được quy định hẳn hoi (dù có thể suồng sã qua cách thức vận dụng yếu tố tục).
Ví dụ, trong hát phường vải, khách (các chàng trai) phải đứng ngoài bờ rào, bờ ao hát
chào (chặng 1) trước, sau khi được gia chủ cho phép bằng lời hát, họ mới được tiếp
cận vào nhà, chứ không thể đột nhiên vào ngay được (theo PGS Ninh Viết Giao). Nếu
lời hò hát có tính chất xúc phạm, không tôn trọng đối thủ, thì đối phương có thể bỏ đi,
chấm dứt cuộc hát ngay lập tức. Sự vi phạm điều cấm này thường là xúc phạm về:
ngoại hình (chột mắt, mặt rỗ, tật chân,…), gia cảnh (nghèo khó); nghề nghiệp (làm
thuê, đi ở,…); tình cảm cá nhân (phụ bạc, đa tình, ly hôn, làm lẽ,…); song thân (cha
mẹ); yếu tố tục,…
Ví dụ, trong Đu đưa đủng đởn như ông già, ông Bảy Tỏi đã dừng cuộc hát sau
khi bị xúc phạm qua lời hò thô tục của Bà Út: “Nửa đêm thức giấc hoảng hồn/ Con chi
nó cựa quậy trong … của tôi/ Tưởng là một dậu thì thôi/ Ngờ đâu bảy dậu, trời ơi là
121
trời!” [114, tr.480]; trong Buôn trầu lỗ lắm, cô gái tức giận với lời hò ác ý của chàng
trai (dùng từ “cứt”), liền đối lại đốp chát: “Buôn trầu lỗ lắm anh ơi/ Để em hốt cứt lần
hồi nuôi anh”, rồi cuộc hát dừng lại ở đấy [114, tr.401 – 402]; trong Mặt trắng mà
lòng đen, chàng trai trong cuộc hò giã gạo đã bị vạch bộ mặt thật (phản bội người yêu)
nên phải dừng chày và bỏ đi ngay; trong Nước trong khe, o Ân và chàng trai sau khi
hò đối đáp đúng một câu đã phải dừng cuộc chơi vì lời lẽ xúc phạm song thân của đối
phương,…
Về nhóm giai thoại hò hát có liên quan đến những nghệ nhân dân gian nổi tiếng,
các nhân vật này cũng không tránh khỏi những thất bại nặng nề trong cuộc đời hò hát.
Trong nhiều trường hợp còn dẫn đến những kết cục bi thảm. Chẳng hạn, Trần Hàn vì
câu hát quá ngạo mạn, xấc xược của cô gái (chửi xéo, sỉ nhục ông và thân phụ) dẫn
đến việc ông lâm bệnh nặng và qua đời không lâu sau đó (Chết vì một câu hò). Anh
Hàng, một tay hò có tiếng ở Khánh Hòa, cũng là nạn nhân bất đắc dĩ của những câu hò
quá trớn, đành ôm uất ức thành bệnh mà chết (Dáng ai như dáng).
- Tình tiết NVC dùng câu hát bày tỏ tình cảm (88/182, chiếm tỉ lệ 48,4%)
Số lượng tác phẩm xuất hiện tình tiết này khá lớn 88/182. Tần số này chứng tỏ
nhận xét: hò hát dân gian là môi trường trong đó, nhân dân lao động được tự do bày tỏ
quan điểm, thái độ của mình về tình yêu đôi lứa, về thời cuộc.
Tình tiết NVC bày tỏ tình cảm không nhằm mục đích thách đố mà nhằm bộc lộ
trạng thái tâm lý, tình cảm (thường là tình yêu nam nữ) qua câu hát, dùng câu hát để
dò xét tâm lý của đối phương, qua đó có thể đưa ra một ứng xử phù hợp trong quan hệ
cá nhân giữa NVC với đối tượng. Với tính chất là những cuộc hát giao duyên, đối đáp,
cho nên việc bày tỏ tình cảm ở đây không thể hiểu theo nét nghĩa nghiêm túc, thật
lòng, mà chỉ là những lời chọc ghẹo, theo những khuôn đúc có sẵn nhằm tạo ra một
duyên cớ cho cuộc hát.
Tình tiết dùng câu hát bày tỏ tình cảm làm nảy sinh một số trường hợp sau:
Câu hát nên duyên: các nhân vật nam nữ hát giao duyên, đối đáp và điều cuối
cùng họ nhận được trong cuộc hát là phần thưởng xứng đáng về mặt tinh thần khi đối
phương chấp nhận lời tỏ tình, kết duyên châu trần. Qua thống kê, chúng tôi xác định
có 20/182 trường hợp (10,9%). Có thể kể ra như: Tay em vít cả đôi cành; Bất đặng cái
khi đang trèo; Cặn kẽ; Lương giáo đạo đồng;… Ví dụ, sau lời hò của anh chài: “Chữ
rằng lương giáo đại đồng, cơ phải tùy cơ/ Giáo em, em giữ, lương anh thờ, mặc anh!”
thì cô gái đã chấp nhận tình cảm “vui vẻ leo lên chòi cùng anh” [114, tr.318].
Trong giai thoại văn học, trường hợp câu đối (bài thơ) nên duyên cũng xuất hiện.
122
Sau khi đối đáp thành công, NVC có thể được gả con gái, tiểu thư (Hứa Tam Tỉnh,
Vương Toán, Lê Quý Đôn,…) hoặc sẽ được chính người đẹp đồng ý chuyện duyên nợ
(Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông,…). Nhưng có điều đặc biệt là trong địa hạt giai thoại
văn hóa dân gian, câu hát nên duyên chỉ xảy ra đối với nghệ nhân dân gian, không thấy
xuất hiện đối với nhà nho tài tử (trừ Nguyễn Công Trứ với Thuyền quyên ứ hự). Phải
chăng quan niệm “môn đăng hộ đối”, “xướng ca vô loài” đã có phần ảnh hưởng nhất
định đến sự tác hợp trong trường hợp này (ví dụ như mối tình của Nguyễn Du với cô
hát tên Cúc trong Vì chưng tham chút nhụy vàng từng bị gia đình ông ngăn cấm)?.
Câu hát nối duyên: là câu hát này có chức năng hàn gắn những mâu thuẫn, giận
hờn, nghi ngờ,… trong tình yêu nam nữ cũng như tình nghĩa vợ chồng. Qua khảo sát,
có 06/182 trường hợp (3,3%) gồm: Ngả bàn tay ra cho anh điểm chi vi bằng; Chẳng
biết vì ai; Em can anh mà anh chẳng hề nghe; Em đà ăn miếng trầu người; Cha tiền
mẹ gạo; Lập mưu để cứu nàng. Chẳng hạn, sau lời hò của người chồng thì: “Hai vợ
chồng cùng nhau thề thốt đồng cam cộng khổ suốt đời, rồi cùng trở lại nhà mình”
[114, tr.334].
Câu hát lỡ duyên: câu hát này thuộc về đối tượng là những đôi vợ chồng đã chia
tay, đường ai nấy đi, nay tình cờ gặp lại rồi hò hát nhắc lại chuyện cũ (hoặc các đôi
nam nữ lỡ duyên gặp lại nhau). Có 17/182 trường hợp (9,3%) xuất hiện câu hát này.
Có 15 trường hợp gắn với nghệ nhân dân gian là: Chỉ vì lời ru; Sợ nam to không chèo;
Ai dè lở dở trăm đàng; Một lạy tạ lời thề xưa; Mặt trắng mà lòng đen; Hai chạc dây
giằng; Gương lồng thủy, thủy lồng gương; Con anh khôn lớn bằng anh; Cái du du tát
nước mà ngờ lọng che; Cự tuyệt; Vật để treo nghi; Trở chứng nhỏ nhen; Em an tâm về
bẻ lá mua than; Ai ở bạc; Lấy chồng làng xa. Các nhà nho tài tử cũng góp 02 giai
thoại là: Vì chưng tham chút nhụy vàng (Nguyễn Du); Thiếu tiền tiêu, thiếu tình yêu
(Ưng Bình Thúc Giạ Thị).
Chẳng hạn, sau thời gian dài xa cách, Thợ Thiềm gặp lại cố nhân trên chuyến đò
dọc, sau hai câu hò ướm lời, Thiềm đã bị người xưa mai mỉa: “Rượu Quỳnh Tương
chờ người lữ thứ/ Té ra đằng bạn cũng muốn rày viếng mai lai/ Chẳng qua là đò xuôi
không đặng, mà đến đò ngang cũng không chèo!”, rồi lặng lẽ rút êm vì chưa thể giao
hòa trong câu hát (Sợ nam to không chèo) [114, tr.375 – 376].
Câu hát quốc sự: Bên cạnh việc mượn câu hát để bộc lộ tình yêu nam nữ, vợ
chồng là cách thức dùng câu hát để biểu lộ, kêu gọi lòng yêu nước thương nòi trong
hoàn cảnh thuộc Pháp. Đây là khuynh hướng thời sự hóa thời cuộc vào lĩnh vực văn
nghệ dân gian. Qua khảo sát, có 10/182 trường hợp (5,5%) đề cập đến vấn đề chính trị
trong câu hát, đó là: Đua tài chính sự, Trai con hồng cháu lạc, gái cũng con hồng cháu
123
lạc (khuyết danh); Ai là ai trong hai lời hò?; Cổ động học chữ quốc ngữ; Câu hò tặng
Tì Bà viện; Cơm độc lập nước tự do; Hai nhà thơ một lời hò; Cấm và cứ (Ưng Bình
Thúc Giạ Thị - Thảo Am Nguyễn Khoa Vi); Mối tình chung, Vui cuộc cờ tàn (Phan Bội
Châu). Chẳng hạn, lời hò của Thúc Giạ Thị và Nguyễn Khoa Vi lúc quân Pháp có lệnh
chặt cây trên núi Ngự (thời điểm 1948 – 1953): “Núi Ngự không cây chim ngủ đất/
Sông Hương vắng khách đĩ kêu trời/ Ai ơi cho hỏi một lời/ Vì sao non nước đổi dời ra
ri?” (Hai nhà thơ một lời hò) [114, tr.383].
* Thái độ sau cuộc thách đố:
Chung cục của giai thoại bao giờ cũng là một thái độ đánh giá, khen chê, tán
thưởng nhân vật.
Cũng giống như giai thoại văn học, phần kết thúc giai thoại sinh hoạt văn hóa,
văn nghệ dân gian cũng rơi vào các trường hợp: NVC được thán phục; NVĐT tức tối/
bỏ đi. Tình tiết ban thưởng không thấy xuất hiện do nó đã hòa lẫn vào sự thán phục và
tán thưởng của khán giả.
- Tình tiết NVC được thán phục (40/182, chiếm tỉ lệ 21,9%)
Đối với các nhà nho tài tử, có thể kể ra các giai thoại: Vì chưng tham chút nhụy
vàng (Nguyễn Du); Nằm cùng thì cho (Đinh Nhật Thận); Đoán tên, Đoán chữ; Cha
thầy Mạnh Tử là ai, Mối tình chung, Vui cuộc cờ tàn (Phan Bội Châu); Gà sẵn những
lời hò mồi (Thúc Giạ Thị); Chữ công có cái quéo (Nguyễn Khoa Vi),… Đối với các
nghệ nhân dân gian, tiêu biểu là: Cái nghĩa chữ duyên đang dài, Nho Biên và cô Nhẫn,
Chỉ còn cách cắp ô lủi đi, Chàng ra tay báo phục (cô Nhẫn); Đứng sau mà dòm (o
Ân); Nhất sơ hiệu ký gặp Trung Am ký (o Quy); Thợ Thiềm phá vây (Thợ Thiềm),…
Hình thức thán phục, tán thưởng ở đây thiên về tinh thần, mang tính chất ghi
nhận tài năng và cổ động cho cuộc hát (tiếng cười ồ, tiếng vỗ tay, thưởng thơ,…) hơn
là giá trị vật chất (tặng tiền bạc, vàng lụa, sách vở,… như trong giai thoại văn học).
Chẳng hạn, sau khi giải được câu đố chữ của của phường hát Thịnh Lạc, Phan Bội
Châu đã được tán thưởng bằng câu thơ của phường bạn: “Văn hay thật thậm là giòn/
Son tàu bút thủy khuyên tròn mười khuyên” [114, tr.271]; hay nghệ nhân dân gian
khuyết danh: “Thế là ào ạt cả một trận cười khoái trá” [114, tr.244],…
- Tình tiết NVĐT tức tối, bỏ đi (36/182, chiếm tỉ lệ 19,8%)
Tình tiết này là phản ứng âm tính của NVĐT khi không thể giành chiến thắng
trong các cuộc hát, hoặc giả phải dừng cuộc hát lại vì bị xúc phạm (vi phạm điều cấm
kỵ như đã trình bày ở các phần trên). Về sự liên kết tình tiết, đây cũng là nguyên nhân
dẫn đến tình tiết bất phân thắng bại ở trên.
Qua khảo sát, chúng tôi ghi nhận có 36/182 trường hợp văn bản xuất hiện tình
124
tiết này. Đối tượng chủ yếu là các nghệ nhân dân gian, không thấy xuất hiện ở các nhà
nho tài tử. Chẳng hạn, các cuộc hát giữa Nhiêu Ngọ và o Tộ luôn diễn ra theo công
thức: “Rồi hai bên ấm ức ra về, để lần khác lại gặp nhau, lại làm lành với nhau, lại
cùng nhau đối đáp, rồi lại gây sự, tức tối, trả đũa,… để lại cho đời nhiều câu hát giặm
thú vị” (Nhiêu Ngọ và o Tộ) [114, tr.231]; hay anh Hạng rỗ sau lời hò châm chọc vào
ngoại hình: “Tóc ngắn rồi lại tóc dài/ Những phường mặt rỗ đá mài không trơn”, thì
anh đã: “cầm một hòn đá mà quẳng lên trời, thề một câu rất độc rồi thui thủi bỏ ra về
(Bà Cố Sĩ và Hạng rỗ) [114, tr.236],...
Tóm lại, kết cấu của nhóm giai thoại văn hóa dân gian về các cuộc hò đối đáp
trong sinh hoạt văn nghệ của quần chúng nhân dân và các nhà nho tài tử được tổ chức
xoay quanh motif hạt nhân là thách đố (về hò hát). Motif trên được triển khai qua các
tình tiết bộ phận như đã mô tả ở trên. Nhìn chung, kết cấu này đã làm nổi rõ các kiểu
nhân vật tiêu biểu của giai thoại văn hóa dân gian là nhân vật nghệ nhân dân gian,
nhân vật nhà nho tài tử và nhân vật nhà nho ẩn dật.
3.2. Nhân vật của giai thoại
Nhân vật là đối tượng khảo sát hàng đầu, chính nó chi phối cốt truyện, cách lựa
chọn hành vi, thái độ đánh giá của nhân dân. Nhân vật trong giai thoại phần lớn là
những nhân vật có thật, hoặc được tin là có thật (gắn với câu chuyện của nhân vật đó).
Chính sự nổi tiếng của nhân vật đã khiến cho câu chuyện được kể đến mang một lượng
thông tin hấp dẫn, thú vị, cuốn hút mạnh mẽ đối với người đọc, người nghe. Xung
quanh nhân vật có thực này, nhân dân có thể sáng tạo ra hàng loạt những câu chuyện
với các mục đích cụ thể là đề cao, tôn vinh (trí tuệ, tài năng, đạo đức,…) hoặc giải
thiêng, hạ bệ nhân vật. Đấy cũng là nguyên nhân tạo nên chùm giai thoại.
Bên cạnh đó, giai thoại còn có một bộ phận những nhân vật khuyết danh. Trong
hai công trình Kho tàng giai thoại văn học Việt Nam (2 tập) và Giai thoại folklore Việt
Nam, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh đã khái quát nên một số kiểu nhân vật đặc trưng
của giai thoại là: nhân vật trí thức, nhân vât mưu trí, nhân vật ngông, nhân vật dị
nhân, nhân vật đạo đức. Nhưng có một điều đáng lưu tâm là tác giả chưa đưa ra con số
thống kê cụ thể về các nhân vật ấy. Đó cũng là điều mà luận án sẽ bổ sung, nhằm mục
đích củng cố thêm nhận định trên, và qua đó xác lập sự hiện diện của các kiểu nhân vật
trong giai thoại.
Qua khảo sát 03 công trình tiêu biểu về giai thoại, chúng tôi thống kê được số
liệu về các kiểu nhân vật trong giai thoại như sau:
125
Bảng 3.9. Thống kê các kiểu nhân vật trong giai thoại Việt Nam
Kiểu nhân vật
Ngông Đạo
đức Trí
thức,
trí xảo Nhà
nho
tài tử Nhà
nho ẩn
dật Số
lượng
văn
bản
Công trình
GTVHVN [65] 254
GTVHVN [67] 442
GTFLVN [91] 292
Tổng cộng 41
(16.1%)
64
(14.5%)
20
(6.8%)
125
(12.7%) 196
(77.2%)
314
(71%)
59
(20.2%)
569
(57.6%) 20
(7.9%)
33
(7.5%)
07
(2.4%)
60
(6%) 988 44
(17.3%)
39
(8.8%)
67
(22.9%)
150
(15.2%) Nghệ
nhân
dân
gian,
nghệ sĩ
sân
khấu
08
(3.1%)
11
(2.5%)
99
(33.9%)
118
(11.9%)
29
(11.4%)
78
(17.6%)
43
(14.7%)
150
(15.2%)
Căn cứ vào kết quả thống kê trên, có thể thấy một số vấn đề:
- Trong giai thoại, kiểu nhân vật nổi trội nhất là nhân vật trí thức, trí xảo
((57.6%);
- Các kiểu nhân vật đạo đức, nhà nho ẩn dật đứng ở vị trí thứ 2 (cùng tỉ lệ
15.2%);
- Kiểu nhân vật ngông và nhà nho tài tử có tỉ lệ thấp nhất (lần lượt là 12.7% và
11.9%)
Trong tiểu loại giai thoại văn học, xuất hiện các kiểu nhân vật nổi bật là: nhân vật
trí thức, trí xảo và cả ngông nghênh. Họ đa phần đều xuất thân từ cửa Khổng sân
Trình, đều là những nhà khoa bảng, nhà nho tài năng, cá tính. Ở đây, chữ Trí của nhân
vật trong địa hạt văn chương là trung tâm của sự chú ý. Tài năng ấy thể hiện qua hai
tình huống cơ bản là: thách đố văn chương và ứng tác văn chương. Trên thực tế, các
nhân vật này cơ bản được xem là danh nhân văn hóa, đủ tầm phủ sóng qua mọi thời
đại, tiêu biểu cho văn hiến dân tộc.
Trong địa hạt sinh hóa văn hóa, văn nghệ dân gian, giai thoại văn hóa dân gian
tập trung sự chú ý vào các nghệ nhân, nhà nho tài tử nổi tiếng tham gia vào lĩnh vực
này. Chẳng hạn, nhóm giai thoại về các nhà nho tài tử như: Nguyễn Công Trứ, Nguyễn
Du, Phan Bội Châu, Tú Xương… không chỉ tô đậm tài năng ứng biến của các nhân vật
trong các cuộc hát xướng mà còn khai thác chuyện đời tư, tình yêu nam nữ của từng
nhân vật. Trong đó, trường hợp của Nguyễn Công Trứ là dồi dào, phong phú nhất.
Đối với các nhân vật nghệ nhân dân gian, giai thoại cũng xây dựng nhân vật ở
khía cạnh tài năng văn nghệ nhưng cũng đặc biệt khai thác câu chuyện đời tư (gia
126
cảnh, tình yêu, tính tình,…). Nhóm này tập trung nghệ nhân dân gian vùng miền khá
đa dạng. Chẳng hạn như cô Long, cô Nhẫn, Nhiêu Ngọ, o Tộ, Vũ Thị Nhẫn, Trần Hàn,
Bảy Tỏi,… Có một điều khá đặc biệt là giai thoại còn khéo léo “kéo” vào những câu
chuyện sinh hoạt sân khấu, tuồng, chèo những nhân vật đại diện cho vương quyền. Đó
là những ông hoàng, bà chúa, những ông quan đam mê hát xướng. Xung quanh các
giai thoại về các nghệ sĩ hài, các nghệ nhân đánh trống, đàn hát,… nổi tiếng (chẳng
hạn như: Nhưn Đá, Nhưn Nguyên, cậu Hai Hót, Tiêu Tán, Hứa Văn,…), ta thấy hình
bóng của các nhân vật lịch sử nổi tiếng như: Bà Từ Dụ, vua Tự Đức, vua Thành Thái,
vua Bảo Đại, vua Khải Định, Tả quân Lê Văn Duyệt, Nguyễn Thân,… Các nghệ nhân,
nghệ sĩ từ dân gian đã được đưa vào biên giới của nghệ thuật sân khấu cung đình. Điều
đó càng cho thấy sự hấp dẫn mãnh liệt của loại hình sinh hoạt văn hóa, văn nghệ này
cũng như khẳng định thêm tài năng của các nghệ sĩ.
Trong lĩnh vực lịch sử, tiểu loại giai thoại lịch sử cung cấp về những khía cạnh
đời tư của các nhân vật lịch sử. Họ là những người đại diện cho vương quyền như vua
chúa, phi tần, quan lại, tướng lĩnh; các sĩ phu yêu nước, nhà nho ẩn dật,… Các khía
cạnh được giai thoại xoáy sâu vào là tính tình, sở thích, tình yêu cá nhân, ứng xử của
nhân vật trước thời cuộc, ứng xử với bạn bè, gia đình,… Như vậy, các nhân vật của
giai thoại lịch sử chủ yếu được soi chiếu qua các khía cạnh riêng tư mà chính sử ít
hoặc không động chạm đến. Xu hướng chung khi đề cập đến các sự tích đều ít nhiều
được soi chiếu dưới lăng kính đạo đức cá nhân và đạo đức công dân theo quan niệm
Nho giáo. Nói khác đi, nhân vật trong giai thoại lịch sử thể hiện qua các khía cạnh
thuộc về hành trạng đời tư, cá nhân qua những câu chuyện mang tính chất rỉ tai, bên lề,
phi chính thống. Và mặt khác, các nhân vật ấy cũng được nhìn ngắm, đánh giá qua
lăng kính của ý thức hệ Nho giáo qua biểu hiện của chữ Đức trong ba mối quan hệ cơ
bản là: với quốc gia, với gia đình, với bạn bè.
Tóm lại, nhân vật trong giai thoại đều là những người nổi tiếng trong ba lĩnh vực
cơ bản là: văn học, lịch sử và văn hóa. Trong đó, giai thoại văn học và văn hóa dân
gian chú ý khắc họa nhân vật ở chữ Trí (văn chương, đối đáp), chữ Tính và chữ Tình,
giai thoại lịch sử xoáy sâu vào chữ Trí (thuyết khách, xử kiện) và Đức. Chung quy lại,
ta có thể đúc kết ra các kiểu nhân vật tiêu biểu của giai thoại là: nhân vật trí thức, trí
xảo; nhân vật ngông; nhân vật nghệ nhân dân gian; nhân vật nhà nho tài tử; nhân vật
nhà nho ẩn dật; nhân vật đạo đức.
Về nhân vật của giai thoại, một số tác giả đã phân tích. Qua 2 công trình Kho
tàng giai thoại Việt Nam (2 tập) và Giai thoại folklore Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh đã
127
khái quát, phân tích các kiểu nhân vật tiêu biểu của giai thoại là: nhân vật trí thức,
nhân vật ngông, nhân vật đạo đức, nhân vật dị nhân. Như vậy, rõ ràng, trong giai thoại
Việt Nam, vẫn còn một số kiểu nhân vật khác mà các nhà nghiên cứu đi trước chưa
thực sự chú ý, đó là: nhân vật nhà nho ẩn dật, nhân vật nhà nho tài tử, nhân vật nghệ
nhân dân gian. Do vậy, luận án cũng sẽ cố gắng bổ khuyết những điểm vừa nêu trên.
Để có cái nhìn toàn diện hơn, xin đi vào từng dạng nhân vật.
3.2.1. Nhân vật của giai thoại văn học
3.2.1.1. Nhân vật trí thức khoa bảng
Trên bình diện tâm lý xã hội, trong mối quan hệ giữa văn và võ, thì trong quan
niệm xã hội, quan văn được coi trọng hơn. Nói như GS Phan Ngọc: “Việt Nam chỉ có
một truyền thống là truyền thống trọng văn khinh võ. Tục ngữ có câu: “Quan văn thất
phẩm đã sang, Quan võ thất phẩm còn mang đai cờ”. Việt Nam không có đẳng cấp võ
sĩ, không có lớp người được gọi là hiệp khách, không có tầng lớp võ sĩ phục vụ các
vương hầu, hay làm hiệp khách giang hồ, không có dấu vết của học thuyết Mặc Tử”
[110, tr.291].
Truyền thống trọng văn ở đây chính là tâm lý xã hội điển hình trong một đất
nước mà trên bình diện thực tiễn, con người đã gắn chặt với văn chương từ thời thơ bé
cho đến lúc giã từ cuộc sống. Nó đã thấm vào huyết quản người Việt Nam từ lúc Nho
giáo trở thành nền quốc giáo, có sức mạnh thống ngự trên bình diện tinh thần của giai
cấp thống trị. Có thể nói, Học hành – Thi cử – Làm quan đã trở thành một con đường
tiến thân lý tưởng để kiếm danh và lợi. Nền giáo dục Nho giáo đã tạo ra được nhiều lợi
ích mà một trong những ích lợi hiển nhiên của nó là đã làm nảy sinh tinh thần hiếu học
của người Việt.
Mỗi nền giáo dục có những mục tiêu, triết lý giáo dục riêng. Với nền giáo dục
Nho giáo, mục tiêu của nó không gì khác hơn là đào tạo ra những con người trí thức
theo lý tưởng của Nho giáo. Triết lý giáo dục ấy có thể tóm tắt trong bốn chữ: Tu, tề,
trị, bình. Để thực hiện được mục tiêu giáo dục ấy, Nho giáo đã biên soạn một hệ thống
sách vở mang tính định hướng, khuôn khổ hóa con người trong những chuẩn mực cụ
thể về Tài cũng như Đức. Với một thực tế học tập bài bản và nặng về sách vở như vậy,
nên ta không có gì phải ngạc nhiên khi bắt gặp trong giai thoại văn học xuất hiện hàng
loạt các câu đối (chữ Hán, chữ Nôm), các bài thơ, bài phú được hoàn thành trong
khoảnh khắc (trong các tình huống thách đố, ứng biến văn chương). Và quan trọng hơn
là các kiến thức chữ nghĩa (điển tích, điển cố, lịch sử,…) được rút ra từ các sách kinh
điển của Nho giáo (Luận ngữ, Mạnh Tử, Trung dung, Hán thư,…). Đối với chúng ta
128
ngày nay, điều này hiển nhiên cao siêu, uyên bác, có phần vượt quá trí hiểu nhưng đối
với những nhà nho, sĩ tử xưa, đó đơn thuần chỉ là một tình huống mang tính thực hành
nhằm kiểm duyệt và khẳng định đẳng cấp.
Nhân vật trí thức được chúng tôi hiểu như là những người có tài năng văn
chương trác việt, thông kim bác cổ, có trí nhớ siêu phàm, có khả năng ứng xử tình
huống bất ngờ một cách khéo léo, nhạy bén bằng thơ văn,… Với tính chất như vậy,
kiểu nhân vật này xuất hiện với tần số cao trong tiểu loại giai thoại văn học. Trong giai
thoại văn học, hầu hết nhân vật trí thức là những nhà khoa bảng, nhà văn, nhà thơ lớn,
có cá tính. Dù trong hoàn cảnh nào, các nhân vật cũng thể hiện được tài năng văn
chương bác học của mình qua thơ văn, câu đối. Các nhân vật trí thức thường là các
ông Thám, ông Trạng, ông Nghè, ông Cống,… Nếu không là Trạng chính thống, thì
cũng phải là Trạng dân phong. Chung quy lại, họ là những đại diện ưu tú của hệ tư
tưởng Nho giáo, của nền Hán học.
Ở khía cạnh xu hướng phản ánh hình tượng, có thể tạm chia kiểu nhân vật trí
thức trong giai thoại thành hai loại: nhân vật trí thức siêu phàm (lý tưởng hóa) và nhân
vật trí thức phàm tục (giải thiêng hóa).
* Nhân vật trí thức siêu phàm (lý tưởng hóa)
Để xây dựng nên nhân vật trí thức siêu phàm, hoàn hảo ở mọi khía cạnh, giai
thoại đã triển khai một số công thức tiêu biểu là: trí nhớ siêu phàm, tuổi trẻ tài cao, tài
năng ứng biến, kiến thức uyên thâm,… Trong kết cấu, các tình tiết trên xuất hiện ở
phần mở đầu (giới thiệu tài năng, đặc điểm nhân vật) hoặc ở phần diễn biến (nhấn
mạnh vào sự giải đố của nhân vật qua đó bộc lộ tài năng trong huống cảnh cụ thể).
Về trí nhớ hơn người của các nhân vật, hệ thống giai thoại chủ yếu vận dụng thủ
pháp khoa trương, phóng đại để xây dựng. Tuy nhiên, số lượng những truyện này
chiếm tần số không đáng kể trong hệ thống giai thoại. Trí nhớ siêu phàm của các nhân
vật trí thức đều gắn liền với khả năng ghi nhớ chữ nghĩa của các bậc đại khoa, không
thấy trong các giai thoại văn học khuyết danh. Qua khảo các công trình về giai thoại,
chúng tôi có được kết quả về tình tiết trí nhớ siêu phàm như sau:
- Quyển Giai thoại văn học Việt Nam [65] có 02/254 giai thoại: Trạng nguyên về
học lễ (Nguyễn Hiền); Chiêu Bảy và cô Cúc (Nguyễn Du);
- Quyển Giai thoại văn học Việt Nam [67] có 05/442 giai thoại: Trạng nguyên về
học lễ (Nguyễn Hiền); Trả sách không mua (Nguyễn Đăng Cảo); Chép văn tự cháy
(Lê Quý Đôn); Vừa đánh cờ vừa làm thơ (Vũ Phạm Hàm); Đứa trẻ kỳ lạ (Kỳ Đồng).
- Giai thoại làng Nho: có 03/90 giai thoại đề cập đến nhân vật là Đinh Nhật
129
Thận, Vũ Duy Thanh, Lê Viết Vị.
Xin dẫn ra đây trường hợp của Nguyễn Hiền và Lê Quý Đôn. Trạng nguyên
Nguyễn Hiền nổi tiếng là thần đồng ngay từ lúc nhỏ. Ông được biết đến như người có
trí nhớ siêu việt. Giai thoại Trạng nguyên về học lễ viết như sau: “Hiền rất thông
minh, lúc sáu, bảy tuổi theo học một nhà sư ở chùa làng, mỗi ngày sư cho đọc hai
mươi trang sách, Hiền chỉ đọc qua là thuộc” [65, tr.71]. Hai nhân vật Lê Quý Đôn và
Nguyễn Đăng Cảo thì được biết đến với tài năng tái hiện không chỉ vài chục trang sách
mà là cả cuốn văn tự hay cả một pho sách khổng lồ sau khi đọc qua nó. Giai thoại
Chép lại văn tự cháy [65, tr.201 – 202], đã đề cập đến hai tình tiết đề cao phẩm chất
mẫn tiệp, trí nhớ siêu phàm của nhà bác học Lê Quý Đôn. Tình huống thứ nhất là khi
phú ông chẳng may gặp sự cố cháy nhà, toàn bộ văn tự ghi nợ đều bị cháy tiêu tan hết.
Nhiều con nợ đã lợi dụng dịp may hiếm có này để khước nợ. Việc thưa kiện được phú
ông gửi đến Ngự sử đài. Lúc bấy giờ, Lê Quý Đôn đang giữ chức Đô ngự sử và ông
vẫn nhớ rõ thời niên thiếu (cách đó ba bốn mươi năm), mình đã có dịp xem qua bản
văn tự ấy trong một lần đến chơi nhà. Thế là liền một mạch, họ Lê đọc cho học trò
chép lại toàn bộ số văn tự, không sai chỗ nào! Tình huống thứ hai xảy đến như một hệ
quả nhằm tô đậm thêm phẩm tính ghi nhớ hơn người của nhân vật: “Rồi sự việc truyền
đến tai chúa Trịnh. Chúa bèn sai người đưa cho Lê Quý Đôn một cuốn quan lịch (lịch
chính thức của nhà nước) bảo ông đọc thử một lượt, rồi hỏi ông xem có nhớ được
không. Ông liền cất giọng đọc lại ngay trước mặt chúa không sót một chữ. Chúa ngạc
nhiên cho là trí nhớ kỳ lạ xưa nay chưa hề thấy” [65, tr.202].
Tình tiết trí nhớ siêu phàm của nhân vật trí thức được thiết lập dựa trên biện pháp
phóng đại, khoa trương. Ở đây các nhân vật được đặt vào tình huống thử thách là phải
tái hiện lại một bài thơ hay thậm chí là thật nhiều quyển sách khác nhau. Cố nhiên,
không phải bất cứ nhân vật trí thức nào cũng đều có những câu chuyện về tình tiết phi
thường này. Như vậy, đối với nhân dân, các bậc đại khoa không chỉ có kiến thức hơn
người mà còn là thiên tài nghìn năm có một. Và để khắc họa cái phi thường đó, nhân
dân đã sáng tạo ra tình tiết vận dụng trí nhớ như một phương thức thể hiện.
Về tình tiết tuổi trẻ tài cao, qua khảo sát các công trình về giai thoại, chúng tôi
có được kết quả như sau:
- Quyển Giai thoại văn học Việt Nam [65]: có 27/254 giai thoại (tỉ lệ 10,6%)
- Quyển Giai thoại văn học Việt Nam [67]: có 45/442 giai thoại (10,2%)
- Quyển Giai thoại làng Nho [34] có 04/90 giai thoại đề cập đến các nhân vật là:
Lương Thế Vinh, Đồng Khánh, Hoàng Hồ, Lê Sĩ Nghị.
130
Xin dẫn ra đây một số dẫn chứng minh họa: Hồ Tông Thốc “thuở nhỏ đã nổi
tiếng thơ hay, một lúc có thể làm cả trăm bài thơ” [65, tr.91]; Lương Hữu Khánh: “10
tuổi đã biết làm thơ văn” [65, tr.124]; Nguyễn Giản Thanh: “lúc nhỏ học rất thông
minh, 16 tuổi đã thông hiểu rất nhiều sách vở” [65, tr.118]; Lê Quý Đôn: “Từ thuở
nhỏ, đã nổi tiếng thần đồng, 14 tuổi đã học hết Tứ thư, Ngũ kinh, sử, truyện và đọc
đến cả bách gia, chư tử, một ngày có thể làm xong 10 bài phú” [65, tr.47]; Trạng
Quỳnh: “16 tuổi đã đỗ Hương cống” [65, tr.59]; Phan Văn Trị: “lúc thi đỗ mới 12
tuổi, văn chương lừng lẫy một thời” [65, tr.252]; Tú Xương; “lúc nhỏ học rất thông
minh, khi lên 10 tuổi đã nổi tiếng về tài ứng đối” [65, tr.305]; Nguyễn Thượng Hiền:
“18 tuổi đỗ Cử nhân, 28 tuổi đỗ Hoàng giáp, nổi tiếng văn chương xuất sắc” [65,
tr.334]; Phan Bội Châu: “thuở nhỏ ông theo học chữ Hán, rất thông minh, khoảng 8, 9
tuổi đã làm được những bài văn ngắn và thường dự các cuộc thi ở phủ, huyện” [65,
tr.339],…
Nhưng có thể nói trong hệ thống giai thoại văn học, sự đề cao tài trí của người trí
thức qua các tình tiết thách đố văn chương, ứng tác văn chương mới là điểm nhấn
quan trọng tạo nên kịch tính cho câu chuyện. Sự ưu thắng của các nhân vật khoa bảng
nổi tiếng đã gián tiếp nói lên tư duy đề cao trí tuệ và tài năng của họ. Về điểm này,
luận án đã tiến hành bóc tách mô tả tình tiết ở phần trước. Ở trên là xu hướng đề cao
các nhà khoa bảng nổi tiếng trong lịch sử dân tộc. Trên góc độ khái quát, có thể nhận
thấy, đề cao, ca ngợi nhân vật trí thức là biểu hiện của tư duy sùng bái chữ nghĩa, sùng
bái văn chương trong tâm thức Việt.
* Nhân vật trí thức phàm tục
Ngoài xu hướng đề cao phẩm tính thông minh, trí tuệ của các nhân vật khoa
bảng, trong giai thoại còn có xu hướng giải thiêng hóa nhân vật khoa bảng. Nói một
cách khái quát, nếu xu hướng tuyệt đối hóa nhân vật trí thức được khúc xạ qua lăng
kính tài năng (chữ Trí), thì xu hướng giải thiêng lại thiên về chữ Đức. Trong trường
hợp này, tài năng của các nhân vật là điều không ai phủ nhận, nhưng tác giả của
giai thoại muốn cung cấp thêm cho chúng ta cái nhìn ở góc độ khác để đánh giá tài
năng ấy.
Để chuyển tải mục đích giải thiêng nhân vật khoa bảng, sự vận động của cốt
truyện thường vận hành theo công thức: tình huống thử thách → NVC không giải đáp
được câu đố văn chương → NVC thán phục → từ bỏ/ giảm bớt tính tự phụ. Trong đó,
nhân vật đưa ra tình huống thử thách đối với NVC và NVC thất bại. Chính lúc này, họ
cần đến sự hỗ trợ, thường là cao nhân. Trong công trình Từ điển type truyện dân gian
131
Việt Nam, trong mục viết về type và motif của giai thoại, tác giả Bùi Thị Thiên Thai đã
định danh tình tiết này là “gặp được cao nhân” [74, tr.46]. Khảo sát kho tàng giai
thoại, chúng tôi thống kê tình tiết giải thiêng nhân vật khoa bảng xuất hiện trong 04
văn bản: Câu đố chữ nhất, Cái cò lặn lội bờ sông (Lê Quý Đôn), Không biết chữ chi
(Cao Bá Quát) và Làm văn khuyên chồng (Nguyễn Kiều). Về sự giải thiêng này, ở các
phần trước của luận án, chúng tôi cũng đã có dịp điểm qua nên không nhắc lại ở đây.
Nếu soi chiếu vấn đề dưới lăng kính thẩm mỹ của nhân dân, chúng ta sẽ thấy
rằng xu hướng thực tế hóa nhân vật nhà nho, nhà khoa bảng nổi tiếng trong giai thoại
văn học tuân theo quy luật sáng tạo của folklore nói chung. Đây là hai mặt của một
vấn đề mà nhà nghiên cứu Guxev đã từng đề cập đến trong công trình Mỹ học folklore:
“Sự cổ quái về cơ thể ở những nhân vật này kết hợp với phẩm chất đạo đức ghê tởm –
sự bội bạc, thói phản trắc, tính tham lam, tính khoác lác, kiêu ngạo, thói tham ăn, dâm
đãng,… tức là đối lập với những quan niệm về cái cao nhã chúng gây ra quan niệm về
cái thấp kém. Như vậy, cái xấu trong folklore bổ sung bằng nhiều cách khác nhau do
quan niệm về cái đẹp và tạo thành sự tương phản đối với cái đẹp có những chức năng
khác nhau tùy theo nó có liên quan với nhân vật tích cực hay tiêu cực với quan niệm
về cái cao nhã hay quan niệm về cái thấp kém” [51, tr.512]. Đấy là lý do vì sao nhân
vật có tính hai mặt dưới cái nhìn của dân gian.
3.2.1.2. Nhân vật ngông
Trước khi đi vào tìm hiểu những cơ sở lịch sử, xã hội góp phần hình thành kiểu
nhân vật ngông trong giai thoại, cần thiết điểm qua vài nét về nền tảng triết học có ảnh
hưởng nhất định đến biểu hiện của tính cách ngông của các nhà thơ trung đại Việt
Nam nói chung. Trong bài viết Trang Tử - Ông tổ ngông trong văn học, GS Trần Đình
Sử đã chỉ ra được bản chất cái ngông trong các giai thoại liên quan đến Trang Tử và
ông nhận xét như sau: “Người ngông đối lập với đám người trung dung, thuận theo lề
thói một cách ngoan ngoãn. Người trung dung hay phụ họa theo quần thể, phủ nhận tự
do cá nhân, người ngông chạy theo cá tính tự do, thích cực đoan. Người trung dung tự
rèn luyện để thành tôi trung con hiếu, nghĩa phu tiết phụ, nhưng cũng tạo ra những kẻ
a dua, nói theo giả dối. Người ngông coi khinh lễ, phép, ghét tục, ngạo đời, nói năng
ngang tàng. Trong thực tế người ngông là kẻ đã làm tan rã các phép tắc giả tạo trói
buộc con người, mở ra một luồng gió mát giàu sinh khí” [37, tr.812].
Khía cạnh ngông trong tính cách mỗi con người có thể được xem như bản ngã.
Tuy nhiên, những tôn giáo lớn ở phương Đông thời trung đại đã cho thấy sự tiết chế
đối với cá tính con người. Bởi lẽ, cả Nho, Đạo và Phật giáo đều chủ trương phá ngã,
132
vô ngã, vô kỷ nhưng không hề triệt tiêu một cách tuyệt đối. Tính cách ngông, xét trong
mối quan hệ nội tại với chủ thể, chính là biểu hiện của con người cá nhân, cá thể hóa.
Tuy nhiên, con người cá nhân trong xã hội phong kiến chịu sự quy định khắt khe của
lễ giáo, cho nên cũng không thoát khỏi được những ràng buộc nhất định. Đối với các
nhà văn, nhà thơ trung đại, vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, thì sự ràng buộc
này càng thể hiện rõ hơn trong nhân sinh quan của họ.
Do vậy, trong thực tiễn, để xuất xử hợp với chuẩn mực vô ngã, con người thời
trung đại chỉ có hai cách lựa chọn: sống đúng theo chuẩn mực ấy hoặc phá cách để
khẳng định cái tôi cá nhân, cá tính. Trường hợp thứ hai chính là nguồn cội sản sinh ra
nhân vật ngông trong văn chương nói chung và giai thoại nói riêng. Trên đây là những
nét khái quát về cơ sở triết học dẫn tới sự hình thành con người cá nhân và tính cách
ngông, phá cách trong tư tưởng, văn chương cũng như hành trạng của các nhân vật là
nhà thơ ở thời trung đại. Đến đây, chúng ta sẽ điểm qua vài nét về cơ sở lịch sử, xã hội
– tức là những lát cắt của thực tại – mà từ cái nền ấy, kiểu nhân vật ngông của giai
thoại được sản sinh và biểu hiện.
Đúng như nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu, sự ngông nghênh phá cách của các
nhân vật văn thi sĩ chỉ xuất hiện trong thời đại suy vi của ý thức hệ Nho giáo. Thực
tiễn xã hội lúc đó là sự đối lập không thể dàn hòa giữa một bên là lý thuyết tốt đẹp,
chuẩn mực với một bên là trực quan sinh động – sân khấu phô diễn chân thật của
những thói hư tật xấu của chính giai cấp, tầng lớp đại diện cho ý thức hệ đó. Nói một
cách cụ thể, đó là Nho giáo phong kiến Việt Nam từ cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn trở
về sau. Từ cuối thời Lê, triều đình đã ban hành nhiều chính sách đi ngược lại truyền
thống trước đó. Những sĩ tử tham gia khoa cử nếu muốn vượt qua vòng sơ khảo thì
phải đóng ba quan. Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử gọi đó là “sinh đồ ba quan”. Điều
này đã làm cho những người thực sự tài năng tỏ ra ngán ngẫm. Đó là chưa kể đến sự
tha hóa, băng hoại đạo đức của các vị mà nhân dân tôn kính gọi là thầy: thầy tu, thầy
đồ, thầy lang, thầy địa lý,… đang trở nên ngày càng kệch cỡm. Chúng ta bắt gặp trong
giai thoại hàng loạt cuộc chiến văn chương giữa các nhà nho như Nguyễn Khuyến,
Nguyễn Công Trứ với các ông sư (tham ăn thịt chó, quan hệ nam nữ bất chính, kiêu
ngạo,…). Trong thời kỳ Pháp bắt đầu đặt nền thống trị ở nước ta, hàng loạt nhà nho
chống đối lại bọn tay sai cho chúng bằng hàng loạt các giai thoại đậm chất văn chương
nhưng cũng sâu sắc về cá tính ngông. Đó là các giai thoại về Nguyễn Khuyến với
Hoàng Cao Khải ở miền Bắc; Nhiêu Tâm, Học Lạc, Phan Văn Trị,… với các tay sai,
hương chức của Pháp và phong kiến ở Nam Bộ.
133
Tóm lại, nền tảng triết học về quan niệm con người tự do, cá nhân của Trang Tử
đã ảnh hướng rất lớn đến hệ tư tưởng của các nhà nho Việt Nam thời trung đại. Ý thức
hệ này cùng với thực tiễn ảm đạm của thời đại từ cuối Lê, đầu Nguyễn về sau đã trở
thành môi trường lý tưởng cho cái tôi ngông nghênh của các nhà nho có dịp biểu hiện
một cách sinh động, nhiều chiều kích. Nó hoàn toàn khác với con người cá nhân trong
văn học ở giai đoạn trước.
Có thể nói, nhân vật ngông là kiểu nhân vật đặc trưng nhất của giai thoại ở khía
cạnh cá tính hóa. Ngông ở đây được hiểu theo nghĩa nét tính cách phóng khoáng, hồn
nhiên, góc cạnh, vượt ra khỏi khuôn khổ của giáo lý. Kiểu nhân vật này thường được
xây dựng qua những hành động thể hiện tính cách ngang tàng, phóng khoáng (ít nhiều
có sự cường điệu) và đôi khi trở thành vũ khí để đấu tranh, đối chọi lại những quy củ
của ý thức hệ phong kiến. Họ là sản phẩm của ý thức hệ Nho giáo, nhưng trong nhiều
trường hợp, chính họ lại tỏ ra khinh thường, đấu tranh chống lại những hủ lậu, méo mó
của nó. Điều này đặc biệt có ý nghĩa thiết thực trong những giai đoạn, thời kỳ đánh
dấu sự suy vong, xuống dốc của đạo Nho. Và điều đó không chỉ đơn thuần là chiếc áo
khoác lên hành trạng, tài sản riêng của nhân vật mà còn mang cả tâm lý chung của
cộng đồng. “Nếu là nữ thì nên như Hồ Xuân Hương sẵn sàng thách đố, nếu là nam thì
có thể ngất ngưởng như Nguyễn Công Trứ, ngang tàng như Cao Bá Quát, tinh quái
nghịch ngợm như Trạng Quỳnh, mà cũng có thể phá phách, thích chơi kiểu Ba Giai,
Tú Xuất” [91, tr.60].
Qua khảo sát các tuyển tập, chúng tôi thu được kết quả như sau:
- Quyển Giai thoại văn học Việt Nam [67] có 8/125 giai thoại
- Quyển Giai thoại văn học Việt Nam [65] có 15/123 giai thoại
- Quyển Giai thoại folklore Việt Nam [91] có 01 giai thoại
- Quyển Giai thoại làng Nho [34] có 8/55 giai thoại
Như vậy, kiểu nhân vật ngông được xây dựng với mục đích cá tính hóa, cá thể
hóa, trong đó, mức độ cá tính hóa càng rõ bao nhiêu, nhân vật sẽ trở nên giàu sức sống
bấy nhiêu.
Sau đây là biểu hiện cơ bản thể hiện cá tính ngông của nhân vật trong giai thoại:
* Nhân vật ngông thể hiện cá tính, tài năng, chính kiến trước cuộc đời
Trong giai thoại, sự ngông nghênh của nhân vật trước hết xuất phát từ ý thức tài
năng bản thân. Ý thức về tài năng dẫn đến những ứng xử khác người, vượt ra khỏi
khuôn khổ của cương thường, đạo lý Thánh hiền và từ đó trở thành những biểu tượng
văn hóa. Những câu chuyện xoay quanh Nguyễn Đăng Cảo, Nguyễn Công Trứ, Hồ
134
Xuân Hương, Cao Bá Quát,… hầu hết đều xoay quanh cái ngông này. Nhưng khi đi
vào từng trường hợp cụ thể, sự ngông nghênh ấy lại được cá tính hóa, tức là gắn liền
với từng cá nhân cụ thể, vừa mang nét chung, vừa có những nét riêng, làm nên tên tuổi
nhân vật.
Nguyễn Đăng Cảo là một trong các bậc đại sĩ có tài năng hơn người và gắn với
tài năng ấy là một cá tính ngông khác người. Vì ngông nghênh mà ông chỉ chào chứ
không quỳ lại bọn quan lại trường thi. Cũng vì tính ngông mà ông bị đánh từ giải
nguyên xuống hàng thứ ba (thám hoa). Thú vui lớn nhất đời ông là thú ăn thịt chó và
uống rượu. Điều đặc biệt là ông làm điều đó cả khi lâm triều, khiến ai nấy đều sửng
sốt. Ông cáo quan về sống đời tự do nhưng vẫn ra giúp triều đình nhà Lê mỗi khi sứ
thần nhà Thanh đem sang những câu đố nhằm thử thách nhân tài nước ta. Thú vui đó
còn được dệt thành những mẩu chuyện ly kỳ khác. Ví dụ, như giai thoại Thám Cảo tu
tiên. Tương truyền, khi đã cáo quan, ông thường uống rượu và ngao du trên núi Tiên
Du (Bắc Ninh). Trong lần nọ, ông gặp được một đạo nhân có phép thuật siêu phàm,
liền xin được đi theo ông để tu tiên. Tuy nhiên, ước nguyện đó không bao giờ thành sự
thật bởi thú vui trần thế (thịt chó và rượu) là lớn hơn so với khát vọng tinh thần.
Nguyễn Công Trứ phản bác, chống chọi trước những điều bất công, nghịch lý
trong xã hội, từ những người bạn văn chương đến các ông sư, thói đời đen bạc, đổi
thay,… Các giai thoại Đối đáp với sư, Vịnh cây vông, Che miệng thế gian,… là những
minh chứng sống động nhất cho tính cách ngang tàng, bất chấp khuôn khổ của ông.
Những ứng xử của nhà nho Nguyễn Công Trứ khi còn thanh niên cũng như lúc về già
đều vượt lên mọi cương thường, đạo lý Thánh hiền. Điều cốt lõi nhất trong tính cách
ngông của Nguyễn Công Trứ là ông dùng nó để không chỉ khẳng định cá tính mà còn
để đối lập lại những khuôn mẫu chuẩn mực theo quan niệm của xã hội phong kiến
đương thời vốn đầy rẫy những kẻ bất tài vô hạnh. Bởi trong con mắt của nhà nho tài tử
này, không ai trong hệ thống đó có thể sánh ngang với ông. Tiêu biểu có thể kể đến là
giai thoại Che miệng thế gian. Ông đã dùng tấm mo cau che lại “cái ấy” của con bò
cái, đúng hơn là để che lại “miệng thế gian”. Hành xử ấy có thể nói là vô tiền khoáng
hậu, trở thành một biểu tượng cho các nhà nho thế hệ sau nối tiếp (Cao Bá Quát, Tú
Xương, Tản Đà,…).
* Nhân vật ngông để chống lại vương quyền, thần quyền
Nhìn chung, mỗi nhân vật đều có xu hướng thể hiện tính cách ngông theo một
cách thức riêng, qua đó đánh dấu cá tính. Đối tượng yêu thích của Hồ Xuân Hương
thường là bọn nho sĩ dốt nát, hãnh tiến, háo sắc và cả vua quan triều Nguyễn. Nguyễn
135
Công Trứ thì ưa thích chống đối, hạ bệ tham quan, những kẻ nịnh hót nhưng suy cho
cùng ông cũng là người thông minh khi biết dừng lại ở những lằn ranh mỏng manh để
bản thân không phải hứng chịu những hậu quả khôn lường của hành động chống đối.
Họ Nguyễn dù chống hệ thống quan lại đương thời nhưng chưa bao giờ dám đứng ra
hạ bệ nhà vua – kẻ đứng đầu của hệ thống đó. Ở Nguyễn Công Trứ, có chống đối với
sự suy vi đạo đức nhưng suy cho cùng vẫn có sự thỏa hiệp ngầm, sự bằng lòng để
được an phận.
Đối với Trạng Quỳnh và nhất là Cao Bá Quát thì gần như không có giới hạn. Ở
đây, vua chúa đều trở thành đối tượng đả kích, châm biếm của cả hai ông. Do vậy, cái
ngông của họ không chỉ đơn thuần là sự chống đối mà còn là sự nổi loạn, phá bỏ quy
chuẩn đạo quân thần – một trong ba mối quan hệ quan trọng trong ý thức hệ Nho giáo
phong kiến. Ở hai nhân vật này, nhân dân nhìn thấy tầm đón đợi của mình được thỏa
mãn. Đó hoàn toàn là một thông điệp văn hóa, một sự giải ảo đạo đức Nho giáo phong
kiến trong hành trình suy vi của nó qua lăng kính của giai thoại. Các nhân vật nhà nho
trí thức trong giai thoại cũng thể hiện tinh thần đấu tranh chống lại thần quyền, tức thế
lực thần thánh của các tôn giáo khác. Sự đấu tranh này hiển nhiên là biểu hiện của tinh
thần độc tôn Nho giáo – xem Nho giáo cao hơn những tôn giáo còn lại. Sự độc tôn này
bắt đầu từ thời Lê trở về sau. Nho giáo là trung tâm văn hóa, còn những tôn giáo khác
(Phật giáo, Đạo giáo) là ngoại biên văn hóa, mang tính dị đoan, đáng lên án, phê phán.
Trong giai thoại văn học, sự đả kích, phê phán thần quyền thể hiện một cách tập trung
và rõ nét qua tình tiết ngâm thơ cự thần mà ở các phần trên, luận án đã đề cập, phân
tích.
3.2.2. Nhân vật của giai thoại văn hóa dân gian
3.2.2.1. Nhân vật nghệ nhân dân gian
Về nguồn gốc sinh thành kiểu nhân vật nghệ nhân dân gian, nhà nghiên cứu Vũ
Ngọc Khánh cũng từng bàn tới. Ông cho rằng, chính hình thức sinh hoạt cộng đồng
nơi làng xã là môi trường lý tưởng làm hình thành, phát triển các loại hình sinh hoạt
văn hóa, văn nghệ dân gian (như hát ả đào, ví dặm, hò khoan,...), nói rõ hơn đó là văn
hóa làng của người Việt.
Nếu nhìn nhận vấn đề dưới góc độ thái độ thẩm mỹ của nhân dân đối với thực tế,
ta sẽ thấy rằng những hình thức hò khoan, hò giã gạo, hát ví, hát phường vải,… được
phản ánh trong giai thoại văn hóa, văn nghệ dân gian có liên quan mật thiết đến chức
năng thực hành của folklore nói chung. Bởi lẽ, “không thể quan niệm được folklore
sống ở ngoài sinh hoạt, ngoài phong tục, tập quán, nó kèm theo những loại hoạt động,
136
nó lồng vào những hội lễ trong gia đình và ngoài xã hội. Đây là nghệ thuật tồn tại
trong sinh hoạt. Trong những thể loại có liên quan trực tiếp với lễ tục, với những
phong tục, hội hè, lễ lạc có truyền thống, tính chất thực hành của folklore biểu hiện
trực tiếp (…). Nhưng ngay trong những thể loại tồn tại không phụ thuộc vào lịch tiết,
không bị quy bởi lễ tục, tập quán thì folklore vẫn liên hệ với sinh hoạt hằng ngày, với
những thời điểm nhất định trong đời sống nhân dân” [51, tr.492].
Về vấn đề này, có thể tham khảo thêm các hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian
ở nước Nga. Guxev có nhận xét quan trọng rằng các hình thức ấy được tạo dựng trên
cơ sở xu hướng lý tưởng hóa hoạt động lao động của nhân dân. Đối với trường hợp
sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân trong giai thoại văn hóa ở nước ta, chúng tôi nghĩ
rằng cũng nằm trong quy luật sáng tạo chung ấy. Tức là, những hình thức hò hát, sinh
hoạt văn nghệ này thoạt đầu bắt nguồn từ những nhu cầu thiết yếu của con người, với
mục đích thiết thực là giải tỏa bớt những áp lực nặng nề từ lao động chân tay (trong
mối quan hệ với môi trường tự nhiên nhằm đảm bảo sự sinh tồn).
Tuy nhiên, mục đích ấy dần được thay thế bởi nhu cầu cao hơn, chuyển từ mối
quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên sang môi trường xã hội. Trong đó, sự
tương tác giữa người với người không chỉ đơn thuần là nhằm thỏa mãn sự giải trí mà
còn có chức năng cao hơn là thỏa mãn nhu cầu tinh thần khác như: tình cảm cá nhân
(tình yêu đôi lứa), trau dồi kỹ năng thực hành văn nghệ. Đến thời Pháp thuộc, các cuộc
hát không chỉ đơn thuần mang màu sắc tình cảm cá nhân mà còn dung chứa cả những
tâm tư về thời cuộc, vận nước đảo điên, kêu gọi lòng yêu nước, bày tỏ chí hướng cứu
dân cứu nước,... Đây cũng chính là tính chất thời sự hóa của sinh hoạt văn nghệ dân
gian được phản ánh, khúc xạ qua giai thoại văn hóa dân gian.
Do đó, có thể nói, trên cái nền chung là sinh hoạt văn hóa mang tính chất tập thể
của cộng đồng, nhu cầu cá nhân của từng người đã len lỏi vào và từng bước được cá
tính hóa. Chẳng hạn, những màn đối đáp, ứng biến tình huống của các nghệ nhân như
cô Nhẫn, cô Long, cô Vân, Trần Hàn, O Tộ, Nhiêu Ngọ… với các NVĐT dù được
phát sinh trên bối cảnh chung là khung cảnh lao động, sinh hoạt thường ngày nhưng đã
được cá tính hóa, trở thành những câu chuyện mang tính chất riêng tư, cá thể của họ.
Trong công trình Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, GS Đinh Gia Khánh đã
có những đúc kết đáng chú ý về những hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian trong
cộng đồng người Việt. Theo sự phân loại của tác giả, các loại hình sinh hoạt văn hóa
dân gian dù đa dạng đến đâu thì cũng có thể phân chia thành hai nhóm tách biệt. Đó là
sinh hoạt văn hóa dân gian của “thời điểm mạnh”, tức là những hình thức mang tính
137
chất nghiêm túc mà cộng đồng quy định như: hội mùa (gắn với sản xuất), hội lễ (gắn
với thờ cúng vật tổ hoặc anh hùng văn hóa), lễ tiết (gắn với tôn giáo như Phật, Đạo
giáo…). Ngoài ra, còn có hình thức sinh hoạt văn hóa gắn liền với tính chất tự phát,
nảy sinh một cách trực tiếp từ trong sinh hoạt, sản xuất của nhân dân. Tác giả gọi đây
là những hình thức sinh hoạt văn hóa không chuyên, nằm ở tình thế đối lập với những
sáng tác chuyên nghiệp, được tiến hành có tổ chức, quy củ trong những thời điểm
mạnh.
Xét trong tiến trình của lịch sử, trải qua các triều đại phong kiến Việt Nam, các
loại hình sinh hoạt văn nghệ dân gian nói chung, có mối quan hệ mật thiết với triều đại
phong kiến, nghĩa là có sự xâm nhập, chuyển hóa, quy định, ảnh hưởng lẫn nhau giữa
chất dân gian và chất bác học, cung đình. Trong công trình Văn học dân gian Việt
Nam, ở mục phân tích Sự phát triển của văn học dân gian trong lịch sử, GS Đinh Gia
Khánh đã có những nhận xét đáng lưu ý về sự phát triển trong cái nhìn lịch sử của các
loại hình văn hóa, văn nghệ dân gian ở Việt Nam. Theo đó, vào thời Đinh Tiên Hoàng,
việc sử dụng ca hát dân gian để cổ động tinh thần của quân đội đã được vua quan tâm.
Bằng chứng là vua Đinh đã cho dạy hát chèo trong quân đội. Vua Lê Đại Hành cho
tiếp đón sứ nhà Tống là Tống Cảo bằng các điệu ca múa lạ mắt trong buổi đại yến. Các
vua nhà Lý, Trần như Lý Thánh Tông, Trần Thánh Tông cũng trực tiếp múa hát góp
vui trong các yến tiệc mà họ là người có vai trò cao nhất.
Có một điều đáng lưu ý là, chỉ sau đời vua Lê Thánh Tông, thì múa hát cung đình
mới tách biệt hẳn với múa hát dân gian, còn trước đó, múa hát cung đình vẫn pha trộn
với múa hát của quần chúng nhân dân. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ X đến XV,
các loại hình dân ca nghề nghiệp như: hát phường vải, hát phường củi, hát phường
nón, hát phường cấy, hát phường mộc,… đã ra đời và phát triển mạnh mẽ trong nhân
dân, gắn liền với thực tiễn lao động và đời sống tinh thần phong phú của người lao
động. Tuy nhiên, trong xã hội phong kiến, loại hình văn nghệ dân gian không phải lúc
nào cũng được các vua chúa yêu mến. Nho giáo nhìn những người hành nghề ca hát
với con mắt coi thường, khinh miệt nhiều hơn là trân trọng. Nói về điều này, GS Trần
Đình Hượu viết : "Thế nhưng nhạc được vua chúa thích chứ không quý trọng (…).
Nghệ thuật không còn chức năng giáo hóa đạo đức thì cũng mất đi vị trí xã hội mà
triều đình phong kiến dành cho văn học. Nhà vua khinh miệt coi nghệ sĩ là dạng thằng
hề mua vui thì xã hội cũng coi đó là hạng xướng ca vô loài" [79, tr.44]. Trong thời vua
Lê Thánh Tông, khi ban hành nhị thập tứ điều thì nhà vua cũng chỉ ra rõ việc cấm học
hát xướng ở thôn quê (Xin xem Phụ lục 4). Thậm chí theo GS Đào Duy Anh (trong
138
Việt Nam văn hóa sử cương), những con em của các ca nữ cũng bị tước đoạt đi quyền
học hành và thi cử vì có thân mẫu xuất thân từ tầng lớp thấp kém, hạ tiện. Dẫn ra như
vậy để có thể thấy rằng văn nghệ dân gian cũng trải qua bao nỗi thăng trầm, thịnh suy
trong dòng chảy của lịch sử, chứ không phải lúc nào cũng được đề cao. Và nếu thời Lê
bị đứt đoạn, cấm đoán thì đến thời Nguyễn, sinh hoạt văn nghệ dân gian và cả cung
đình đã xích lại gần nhau, phát triển một cách mạnh mẽ và rực rỡ. Đây là một hiện
tượng thú vị về mặt văn hóa và đã được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa bàn luận đến.
Nghệ nhân dân gian là kiểu nhân vật đặc trưng của tiểu loại giai thoại văn hóa
dân gian trong hệ thống giai thoại Việt Nam. Nổi bật trong kiểu nhân vật này là các
nghệ nhân nổi tiếng trong các loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian của từng vùng
miền: cô Nhẫn, cô Long, cô Vân (hát ví giặm), Trần Hàn (hò khoan), Nhiêu Ngọ, O
Tộ,… Cách xây dựng hình tượng nhân vật nghệ nhân dân gian trong giai thoại văn hóa
được khắc họa chủ yếu qua các cuộc hát mang tính chất đối chọi, thách đố mà phần
thắng thường nghiêng về NVC – những nghệ nhân dân gian mà nhân dân kính nể, tôn
trọng tài năng hơn người của họ. Nhìn một cách khái quát, theo tính chất sự thách đố,
ta có thể nhận thấy sự tài trí của nhân vật nghệ nhân dân gian đa phần thể hiện trong
những tình huống mang tính khoảnh khắc. Tính khoảnh khắc này thể hiện qua cách
xây dựng bối cảnh cuộc hát, đối đáp của các nhân vật. Không gian diễn ra các cuộc đối
đáp ấy có thể là không gian mang tính chất lề lối, quy thức như ở các phường hát, có
sự tham gia của các bên chủ và khách; hoặc cũng có thể là không gian gắn liền với
hoạt động lao động và sinh hoạt của con người như: trên sông, bến đò, ngoài vườn,
ngoài đường, ngoài đồng, bên cối giã gạo…
Có hai xu hướng xây dựng nhân vật nghệ nhân dân gian trong giai thoại văn hóa,
văn nghệ dân gian là tuyệt đối hóa tài năng trong các cuộc hát của các nghệ nhân dân
gian và bi kịch hóa phần đời bên ngoài của họ. Như vậy, theo cảm quan thẩm mỹ của
nhân dân, người nghệ nhân dân gian tồn tại với hai tư cách cơ bản: con người nghệ sĩ
và con người xã hội trong cuộc sống đời thường. Xu hướng tuyệt đối hóa tài năng của
nghệ nhân dân gian thể hiện qua việc đề cao khả năng ứng biến tình huống của các
nhân vật trong các cuộc hát. Nội dung này được chuyển tải bằng sự liên kết của các
tình tiết chính là: NVC bị thách đố – NVC giành chiến thắng trong cuộc hát – NVC
được ngưỡng mộ, thán phục. Chúng ta có thể bắt gặp được xu hướng này trong các
giai thoại xoay quanh các nghệ nhân dân gian nổi tiếng ở các vùng miền như: cô Long,
cô Vân, cô Nhẫn, O Tộ, O Quy, Nhiêu Ngọ, Trần Hàn, Ông Bơi, Ông Quán, Thợ
Thiềm… qua các giai thoại như: Quỷ thần không cho, Mùi trầm hương nỏ chộ, Đôi
139
đũa quấy trong bung thằn lằn, Nhà nho ba bảy nhà nho, Cái nghĩa chữ duyên đang
dài, Nho Biên và cô Nhẫn, Chỉ còn cách cắp ô lủi đi, Nhất sơ hiệu ký gặp Trung Am
ký, Tui cày suông cho chị…
Xu hướng thứ hai, bi kịch hóa đời tư của nhân vật nghệ nhân dân gian được xây
dựng qua chuỗi tình tiết: NVC thất bại trong cuộc hát – NVC bị trừng phạt. Trong tiểu
loại giai thoại văn hóa, xu hướng này xuất hiện không nhiều, tuy nhiên, nó cũng hé mở
những chiều kích thẩm mỹ của dân gian dành cho những nhân vật mà họ yêu mến.
Phải chăng qua bi kịch cuộc đời của các nhân vật, nhân dân muốn gửi gắm một thông
điệp nhân sinh rằng: những người tài giỏi, tài hoa trong nghệ thuật nói chung không
chỉ có ánh hào quang của sự ngưỡng mộ mà còn gánh chịu không ít những oan trái mà
số phận đẩy họ vào. Nội dung này thể hiện khá rõ nét trong các giai thoại như: Vì thua
hò mà bỏ quê, Dáng ai như dáng, Chết vì một câu hò, Đi tu vì một câu hò. Tình tiết
triển khai bi kịch này là bỏ đi biệt xứ hoặc ôm hận mà chết (các nghệ nhân Trần Hàn,
Anh Hàng, Cửu Hoãn,…). Nghĩa là dù có lý tưởng hóa bao nhiêu, thân phận của người
nghệ sĩ vẫn nằm trong vòng cương tỏa của quan niệm "xướng ca vô loài" khá phổ biến
trong thời đại cũ.
Bên cạnh đó, giai thoại cũng cung cấp cho chúng ta cái nhìn ngoại biên về đời
sống bên ngoài cuộc hát của các nghệ nhân dân gian. Trong các cuộc hát, họ có thể là
người ưu thắng, được ngưỡng mộ, tôn vinh nhưng trong cuộc đời, họ là những người
bất hạnh. Chẳng hạn, nghệ nhân Võ Thị Nhẫn tài hoa nức tiếng một vùng nhưng tình
duyên thì lại rất long đong. Cuộc sống khó khăn, nghèo túng khiến cô phải đi ở cho
nhà người. Lúc đứng tuổi, để sống qua ngày, cô trở thành thầy gà cho các phường hát
như một cách thức để tồn tại.
Ở khía cạnh hình thức nghệ thuật của nhóm giai thoại có liên quan đến nghệ nhân
dân gian, chúng ta cũng bắt gặp nét khu biệt đáng kể với kiểu nhân vật nhà nho tài tử.
Nếu các nhà nho tài tử đem lại xu hướng bác học hóa hình thức sinh hoạt văn hóa này,
thì các nghệ nhân dân gian lại xác lập được nét cá thể hóa trong cách vận dụng câu
chữ, tổ chức hình ảnh. Nói theo PGS Ninh Viết Giao, đó là chất dân gian trong sự đối
sánh với chất bác học, sách vở. Chất dân gian trong các giai thoại văn hóa dân gian về
các hình thức hò hát, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian theo cách hiểu của chúng
tôi, ngoài đặc điểm truyền thống đã được định hình qua các khung diễn xướng, các
công thức, đề tài,… mang tính chất ước lệ, ổn định, trở thành mẫu mực, thì cần phải
xét đến sự tinh nghịch của các nghệ nhân qua cách vận dụng hình tượng hai mặt, hay
nói một cách rõ hơn, đó là yếu tố tục.
140
Các nghệ nhân dân gian cũng là đối tượng sử dụng thuần thục yếu tố tục để tạo
nên tiếng cười trong các giai thoại sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian mà họ tham
dự. Như vậy, có một vấn đề đặt ra là yếu tố tục và tiếng cười mà nó khai sinh nên nhìn
nhận và lý giải như thế nào cho đúng trong trường hợp này? Trong nghiên cứu về yếu
tố tục và tiếng cười trong văn học nói chung, nhà nghiên cứu M. Bahktin đã để lại di
sản lớn về mặt lý thuyết về tiếng cười lưỡng trị trong công trình Sáng tác của Rabelais
và nền văn hóa trào tiếu dân gian thời trung cổ và Phục hưng [13]. Ở đây, chúng tôi
vận dụng một số quan điểm của M. Bahktin để soi chiếu vấn đề này. Theo quan điểm
của Bakhtin, những hình thức và những biểu hiện của nền văn hóa trào tiếu dân gian
thời Trung cổ và Phục hưng rất phong phú và đa dạng, nhưng đại để có thể được phân
định thành ba loại cơ bản: Những nghi thức và trò diễn hội hè (hội giả trang và các hội
hè khác tương tự như thế; các trò mua vui công chúng,…); các tác phẩm văn học trào
tiếu (trong đó có văn, thơ, kịch nhại) truyền miệng và thành văn bằng tiếng La tinh và
các tiếng dân gian, cũng như các hình thức và thể loại phát ngôn sỗ sàng theo lối chợ
búa – quảng trường (mắng chửi, nguyền rủa, thề thốt, xưng tục,…).
Đối chiếu vào tình hình giai thoại văn hóa văn nghệ dân gian chúng ta có thể thấy
một sự tương đương về loại hình trào tiếu dân gian với cách phân loại trên của
Bakhtin. Hình thức sinh hoạt hát hò dân gian trong sinh hoạt xã hội cũng như lao động
của nhân dân như: hát ví, hát dặm, hò khoan, hát phường vải, hò giã gạo,… có ý nghĩa
tương đương với những nghi thức và trò diễn hội hè ở phương Tây thời Trung cổ và
Phục hưng. Trong các cuộc hát hò, việc bãi bỏ mọi quan hệ đẳng cấp, thứ bậc trong xã
hội có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong môi trường đó, con người được giải
phóng ra khỏi mọi lễ giáo khắt khe, được sống trong bầu không khí dân chủ và cởi mở.
Tiếng cười ở hội giả trang mang tính nhị chức năng: Nó vừa hân hoan lại vừa giễu cợt,
vừa phủ định lại vừa khẳng định, vừa hạ huyệt lại vừa tái sinh. Tính lưỡng trị này có
liên quan mật thiết với đặc tính khác của tiếng cười hội hè, đó là tính toàn dân và tính
phổ quát. Đối tượng của tiếng cười ấy cũng là cả thế giới, cả vũ trụ, là mọi sự và mọi
vật ở trên đời. Nhân dân cũng không loại trừ mình ra khỏi đối tượng mà tiếng cười
hướng đến, đây cũng là đặc điểm về tính chất tự trào của tiếng cười dân gian.
Hình thức biểu hiện thứ ba của nền văn hóa trào tiếu dân gian là những hiện
tượng mà người ta vẫn quen gọi là “ngôn ngữ chợ búa – quảng trường”. Nó đã bị loại
ra khỏi "ngôn ngữ chính thức của xã hội", tuy nhiên, môi trường lễ hội đã tái sinh nó,
giúp nó hòa vào nền văn hoá trào tếu dân gian. Môi trường chợ búa quảng trường soi
chiếu vào giai thoại văn hóa văn nghệ dân gian Việt Nam chính là môi trường nông
141
thôn, nơi các hình thức sinh hoạt văn nghệ diễn ra chân thực và sinh động nhất, gắn
liền với đời sống của người nông dân. Ở đây, ngôn ngữ mang tính chất suồng sã, thô
tục được vận dụng và chấp nhận như một phần của thực tại, của hình thức sinh hoạt:
“cái đập vào mắt mọi người là sự tràn trề những hình ảnh cuộc sống vật chất – xác
thịt. Đó là những hình tượng thân thể con người, hình tượng ăn uống, phóng uế, giao
hợp” [13].
Chẳng hạn, trường hợp các hành động vệ sinh của nhân vật trong các giai thoại:
Nhiêu Ngọ và o Tộ, Nước trong khe, Vì thua câu hò mà bỏ quê. Các nhân vật hoàn
toàn vui tươi và chấp nhận kiểu hát khá thô tục, hồn nhiên. Họ ví nước tiểu như nước
chè (Nước trong khe), đánh thức sinh thực khí khi chứng kiến người nữ đi tiểu tiện
(Nhiêu Ngọ và o Tộ), dùng nước tiểu làm nước cúng tế tổ tiên (Vì thua câu hò mà bỏ
quê),... Các nghệ nhân dân gian vô tư nhắc đến động tác giao hợp nam nữ trong các
câu hát mà không cảm thấy phải e dè, tiết chế. Hành động này được tích hợp và biểu
trưng khéo léo qua các động tác nghề nghiệp gắn liền với đời sống của nhân dân lao
động như: đan thúng (Nhún lên nhún xuống chui ngoài chui vô), cày ruộng (Tui cày
suông cho chị), và cả hành động chinh phục con vật tâm linh đầy gian khó nhưng thích
thú là khắc chế con rồng (Cưỡi rồng),... Nhân dân lao động cũng không ngần ngại đề
cập đến sinh thực khí nam nữ. Cơ chế chuyển tải nội dung trên được triển khai theo hai
hướng cơ bản: nói ngụ ý (dùng hình tượng hai mặt) và cách nói lái, chơi chữ đồng âm.
Trong các giai thoại này, vật chủ của nam được ví ngầm với cà, ớt, con lươn, dùi,…
Còn vật chủ của nữ được so sánh với: miếng đất, mặt trăng, chiêng, lỗ lù,… Tất cả
những hình ảnh này đều gắn liền với thực tế lao động, sinh hoạt của người dân lao
động của nền sản xuất nông nghiệp lúa nước.
Về nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện yếu tố tục trong giai thoại, chúng tôi ngờ
rằng, đây có thể là biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp được
ánh xạ qua lăng kính giai thoại. Sau khi văn hóa Hán du nhập vào nước ta, Nho giáo
cũng được truyền sang nhưng chưa thật sự xác lập được sức ảnh hưởng mạnh mẽ như
Phật giáo đã du nhập vào trước đó. Bắt đầu từ thời nhà Lý trở đi, Nho giáo đã từng
bước thống ngự về mặt tư tưởng, trở thành ý thức hệ chính thống của giai cấp thống
trị. Nho giáo do vậy trở thành trung tâm của văn hóa. Nói theo quan điểm của GS Trần
Đình Hượu (Đến hiện đại từ truyền thống), quá trình văn hóa Hán (Nho giáo) thay thế
dần cho văn hóa bản địa là quá trình Đông Á hóa lớp văn hóa Đông Nam Á cổ đại:
“Nếu trước khi Bắc thuộc, chúng ta đã có một nền văn hóa bản địa lâu đời và phong
phú và nền văn hóa đó có màu sắc Đông Nam Á thì đến thời độc lập đã hoàn thành
142
một quá trình chuyển vùng về văn hóa: từ Đông Nam Á sang Đông Á. Việt Nam lúc ấy
đã giống với Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản hơn là giống các nước phía Nam”
[78, tr.159].
Lẽ cố nhiên, lớp văn hóa bản địa ấy không hoàn toàn bị triệt tiêu mà dung hợp,
bảo lưu ở một tầng sâu qua hình thức làng xã đặc trưng của người Việt. Điều này có
nghĩa là cơ tầng văn hóa mang đậm tính Đông Nam Á bản địa của người Việt (vốn rất
gần gũi với văn hóa các nước trong khu vực Đông Nam Á cổ đại) đã được thay thế dần
bởi văn hóa Đông Á. Lớp văn hóa bản địa, trong đó có văn hóa trọng Mẫu, tín ngưỡng
phồn thực của cư dân trồng lúa nước tất yếu bị đẩy ra phía ngoại biên của văn hóa,
thậm chí bị kìm nén xuống, vỡ ra, trở thành những mặc cảm, ẩn ức dưới dạng những
biểu tượng. Nó không bị triệt tiêu mà len lỏi, trường tồn, tác động ngược trở lại với lớp
văn hóa chính thống của giai cấp thống trị. Đó là lý do vì sao bên cạnh nhóm giai thoại
văn học viết – sản phẩm tinh thần ở hạng sang trọng của tầng lớp nhà nho, nhà khoa
bảng, chúng ta vẫn bắt gặp yếu tố tục. Yếu tố tục, được bảo lưu từ văn hóa dân gian và
ít nhiều để lại dấu vết trong thơ văn của giới trí thức vốn gắn với văn hóa làng xã. Điều
này cho thấy sự tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau giữa dòng văn học dân gian và văn học
viết. Nói theo GS Trần Quốc Vượng (trong bài viết Dân gian và bác học, quyển Trong
cõi, [163, tr.207]), thì đó chính là biểu hiện của tình trạng lưỡng phân và lưỡng hợp
văn hóa một cách biện chứng trên nhiều lĩnh vực của văn hóa Việt, trong đó có sinh
hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian của quần chúng.
Và một nguyên nhân khác nữa mà GS Đinh Gia Khánh đã chỉ ra được khi bàn về
yếu tố tục trong truyện cười. Dù nhà nghiên cứu bàn về cái tục trong truyện cười
nhưng tính chân lý của nó cũng bao quát cho cả cái tục trong văn học dân gian nói
chung, trong đó có giai thoại. GS Đinh Gia Khánh viết: "Cũng cần nói thêm một số
truyện tục như vậy do những ông đồ nho bị ẩn ức (libido) đặt ra để thỏa mãn hoặc do
những phần tử thị dân đặt ra để mua vui" [84, tr.373]. Về thái độ thẩm mỹ của nhân
dân đối với cái tục trong giai thoại văn hóa văn nghệ dân gian, chúng ta cũng thấy có
những điểm đúng như Bakhtin đã nhận xét về tiếng cười và yếu tố tục trong văn hóa
trào tiếu dân gian thời Trung cổ và Phục hưng ở phương Tây. Đối với nhóm giai thoại
sinh hoạt văn nghệ dân gian, cái tục mang tính giải trí, mua vui là chính, nó vừa hạ
huyệt vừa tái sinh. Nó mang tính chất vô tư, nguyên thủy của bản thể. Nguyên do là
các giai thoại ấy được sáng tác, trình diễn ngay trong môi trường của sinh hoạt văn
nghệ dân gian của nội bộ nhân dân lao động. Điều này hoàn toàn có thể lý giải được
nếu áp dụng quan điểm của Bakhtin về trường hợp chủ nghĩa nghịch dị trong văn hóa
143
trào tiếu dân gian thời Trung cổ và Phục hưng.
3.2.2.2. Nhân vật nhà nho tài tử
Khác với nhân vật trí thức khoa bảng, nhân vật nhà nho tài tử là nhân vật không
thành đạt hay có xu hướng đồng nhất về mặt tư tưởng đối với nhân dân lao động.
Trong các loại hình nhà nho thời trung đại, theo sự phân chia của GS Trần Đình Hượu,
có ba kiểu nhà nho tiêu biểu là: nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật và nhà nho tài tử.
Nhà nho hành đạo là kiểu nhà nho lấy tư tưởng Tu, Tề, Trị, Bình làm phương châm
sống. Theo đó, sống là phải phục vụ minh quân, phục vụ nhân dân. Sáng tác văn
chương của họ là để truyền tải đạo lý của Nho gia với quan niệm: thi dĩ ngôn chí, văn
dĩ tải đạo. Nhà nho ẩn dật là nhà nho hành đạo nhưng vì một lý do nào đó mà họ rút
khỏi chính trường, lui về ở ẩn. Còn nhà nho tài tử thì không chú trọng đi theo con
đường hành đạo, mang tính nửa vời. Trong công trình Đến hiện đại từ truyền thống,
Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, GS Trần Đình Hượu đã có những kiến
giải, phân tích sâu sắc về loại hình nhà nho tài tử trong văn học trung đại Việt Nam. Ở
đây, chúng tôi tiếp thu những ý kiến, đánh giá đó và xin tóm lược nội dung mà nhà
nghiên cứu đã đúc kết:
Về khái niệm nhà nho tài tử, Trần Đình Hượu viết: "Về sau, khi đô thị phát triển
mạnh, những nhà nho – nghệ sĩ quen cuộc sống đô thị, tìm hạnh phúc và lạc thú theo
một hướng khác. Họ ý thức cá nhân về cá nhân tìm lạc thú, hạnh phúc của cá nhân,
hạnh phúc vật chất, thú vui thanh sắc…, và về lý thuyết họ đưa Tài đối lập với Đức,
Tình đối lập với Tính. Tôi gọi họ là nhà nho tài tử. Tôi vẫn gọi họ là nhà nho, vì về
mọi mặt khác, họ không tỏ thái độ phản nghịch với thánh hiền" [78, tr.135]. GS Trần
Đình Hượu đã nhìn ra được căn rễ lịch sử, xã hội làm hình thành nên kiểu nhà nho tài
tử trong văn học trung đại. Đó là cuộc sống, sinh hoạt nơi đô thị - không gian mà nhiều
hạng người tập trung vào đấy: những học trò đang theo đuổi công danh, những nhà
nho đã đỗ đạt tìm thú vui hành lạc, những người ca kỹ, nhà thương nhân,…
Kiểu nhà nho tài tử là một dạng thức vô cùng đặc biệt của nền văn học, văn hóa
thời trung đại. Họ không xem đạo đức, yếu tố cốt lõi được quy định bởi lễ giáo Nho
gia làm phương châm sống. Trong quan niệm của họ, thực Tài mới chính là thước đo
giá trị con người chứ không phải tại vị. Quan niệm về chữ Tài ở đây cũng có thể hiểu
theo nhiều cách khác nhau. Đó có thể là tài kinh luân, đánh giặc (như trường hợp
Nguyễn Công Trứ), học vấn uyên thâm, văn chương trác việt, uẩn súc (như Cao Bá
Quát),… Nhưng ngoài những tài ấy, người tài tử cần phải thạo thêm các món như:
cầm, kỳ, họa, diễn ca hát xướng (chẳng hạn Nguyễn Công Trứ, Tú Xương được biết
144
đến như người rất mê và hát ả đào rất hay, cụ Nguyễn Du khi còn là thanh niên (với
tên gọi Chiêu Bảy) thường hay lui tới các điểm hát phường vải ở Nghi Xuân, Hà
Tĩnh), cụ Phan Bội Châu (lúc trẻ có tên là Phan Văn San) là người trong nhóm Nam
Đàn tứ hổ, tức là một trong bốn người có tài năng văn chương hơn người và hơn hết là
hát phường vải trác việt ở vùng đất Nam Đàn…).
Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận công danh, về mặt nào đó các nhà nho
tài tử xem công danh tạo điều kiện cần thiết để có thể làm nên những điều phi thường,
tức là tạo lập những công trạng trong cõi trời đất. Đấy cũng là đóng góp của họ cho
đời. Trong nhiều trường hợp, sự “trí quân trạch dân” đối với người tài tử chỉ là điều
kiện để họ trổ hết tài năng, bản lĩnh của mình, để chứng tỏ với người đời về tài năng
thao lược. Một góc nhìn khác, công danh sự nghiệp có được đối với họ như là hình
thức bên ngoài để có thể làm đẹp lòng giai nhân, tri âm, tri kỷ. Nói cách khác, tài năng
là bước đệm để họ thỏa mãn chữ tình, theo nghĩa là đa tình, đa cảm, một tính cách đặc
trưng của nhà nho tài tử.
Như vậy, bên cạnh tính cách ngông nghênh, tự phụ, kiểu nhà nho tài tử còn có
cốt cách của những kẻ đa tình. Có được minh quân để phụng sự, để thỏa mãn chữ Tài,
còn có được giai nhân để làm tri âm, tri kỷ, để làm viên mãn chữ Tình. Tài và Tình
gắn liền với nhau, tạo thành nội hàm kép của kiểu nhà nho tài tử. Ngông và tài tử là hai
phẩm chất của nhân vật giai thoại. Và trong những nhà nho tài tử thời trung đại, thì có
thể khẳng định chưa ai ngông như Nguyễn Công Trứ. Lúc dẹp loạn, ông mang cả đội
quân "hát ả đào" lên chốn lam chướng, thuê cả ghe chở đầy đào hát trong những
chuyến công cán dài ngày. Ông còn làm cả chuyện xưa nay chưa từng thấy: sẵn sàng
mang cả cô thiếp ra đánh cược cho cuộc hát. Chất ngông của Nguyễn Công Trứ còn
pha thêm chất "xảo" bởi thủ đoạn (hay mưu trí) trong cách chinh phục người đẹp
(Thuyền quyên ứ hự).
Tuy nhiên, theo cách nhìn của lễ giáo phong kiến, những người thích ngông
nghênh, lãng tử, phá cách không phải là những đối tượng được ngợi ca mà ngược lại,
họ luôn bị nghi kị và giới hạn trong những tín điều của Nho giáo (như Tam cương,
Ngũ thường). Theo đó, những người làm trái đạo lý Thánh hiền sẽ bị đẩy vào hạng có
tài mà vô đức. Chữ Tình trong quan niệm đa tình của nhà nho tài tử được hiểu theo
nghĩa là nhiều cảm xúc, dễ rung động trước cái đẹp chứ không phải đam mê sắc đẹp
một cách thô thiển, dung tục theo quan niệm thông thường. Nhưng có một lẽ hiển
nhiên là, phàm những người giàu cảm xúc thì lại hay dễ bị lôi cuốn bởi sắc đẹp, nhất là
với những mỹ nữ, giai nhân vừa có tài vừa có sắc. Do vậy, trong quan niệm của Nho
145
giáo, tình cảm luyến ái nam nữ thường bị cấm đoán. Nho giáo không tán thành sự tồn
tại của kẻ đa tình, bởi chữ Tình thường khiến con người ta dễ sa ngã, lung lay, mất hết
lý trí, đạo đức. Trong giai thoại, trường hợp của Nguyễn Giản Thanh, một kẻ tài hoa,
học vấn hơn người nhưng vì đam mê sắc dục mà phải thân bại danh liệt, là một minh
chứng cụ thể nhất. Trong thực tế, tình thường gắn với dục tâm, tức là những ham
muốn mang tính chất bản năng của con người. Cái đẹp vốn là cái mang tính chất vô tư,
không vụ lợi hay chiếm đoạt. Tuy nhiên, không phải ai cũng đủ tỉnh táo để có thể
thưởng thức cái đẹp hoàn toàn vô tư mà không khỏi sản sinh ý định chiếm đoạt hay sở
hữu nó. Do vậy, nữ sắc theo quan niệm của Nho giáo là thứ cần tránh xa, vì nó khiến
cho những điều tốt đẹp trở nên lung lay, làm hỏng đi luân thường, đạo lý ở đời.
Tóm lại, trong văn học trung đại, các nhà nho tài tử là những người có xu hướng
giải phóng cái tôi cá nhân mạnh mẽ nhất. Muốn như vậy, họ phải thoát ra khỏi vòng
cương tỏa của những quan niệm khắt khe, hẹp hòi về ứng xử của đạo lý và lễ giáo
phong kiến. Do đó, về mặt mỹ học, cái đẹp ở đây mang tính chất của sự phá cách của
những con người vừa nằm trong hệ thống, vừa muốn thoát ra ngoài hệ thống ấy. Sự
xuất hiện, ảnh hưởng của nhà nho tài tử (cũng như những nhà nho ẩn dật, nhà nho bình
dân đóng vai trò là những thầy gà trong các cuộc hát) là minh chứng cụ thể cho xu
hướng mở của nền văn hóa dân gian, trong đó có hình thức hò hát đối đáp nam nữ. Xu
hướng mở này chính là cơ sở để các đối tượng nằm ngoài văn hóa bình dân có thể
tham dự vào, làm giàu thêm, phong phú thêm nội dung cũng như hình thức của nó. Và
với tư cách là những người đồng sáng tạo văn hóa dân gian, các nhà nho tài tử đã thể
hiện vai trò cầu nối hai mảng văn hóa chính yếu của thời đại mình: văn hóa bác học và
văn hóa dân gian. Hay nói theo GS Trần Quốc Vượng, đó là biểu hiện của tư duy
lưỡng hợp về văn hóa: dung hòa chất bác học của văn hóa bác học và chất bình dân
của văn hóa dân gian. (Về sự giải thiêng nhân vật nhà nho tài tử (qua tình tiết thất bại
trong các cuộc hát), luận án đã đề cập ở các phần trước cho nên không nhắc lại ở đây).
3.2.2.3. Nhân vật nhà nho ẩn dật
Các kiểu nhà nho trong văn học trung đại là vấn đề đã được nhiều nhà nghiên
cứu văn học, văn hóa bàn đến. Có thể nói vấn đề này có một lịch sử nghiên cứu khá
dày dặn, khoa học. Trong công trình Đến hiện đại từ truyền thống, GS Trần Đình
Hượu có những nhận xét về căn rễ lịch sử, tư tưởng hình thành nên kiểu nhà nho ẩn
dật như sau: “Ở vị trí tầng lớp trung gian, họ (tức nhà nho) xử sự theo phương châm
“dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng” – vua dùng thì đem Đạo ra hành, vua bỏ không
dùng thì cất giấu cho mình. Quan niệm hành tàng, xuất xử đó làm cho nhà nho hình
146
thành hai mẫu người: hành đạo và ẩn dật. Hành đạo và ẩn dật vốn là hai mặt không
thể tách rời trong mỗi nhà nho: nhập thế mà vẫn xấu hổ, xấu hổ vì tham luyến công
danh; xuất thế mà vẫn băn khoăn, băn khoăn vì không làm tròn trách nhiệm” [78,
tr.30]. Cách hành xử xuất thế hẳn nhiên bắt nguồn từ những thất vọng vào lý tưởng “trí
quân trạch dân”, vào sự nghiệp kinh bang tế thế mà họ từng tôn thờ, theo đuổi. Họ
quay trở về với nhân dân, với làng xã để tìm sự thanh nhàn, sống cuộc sống thanh
sạch. Với nhà nho ẩn dật, sự nghèo khó đồng nghĩa với thanh sạch. Có lẽ vì vậy mà
Tam Nguyên Yên Đổ đã cúi đầu lau lệ khi nhận miếng thịt từ một người bạn cố tri của
ông!
Đối với những nhà nho ẩn dật, tư tưởng chủ đạo chi phối nhân sinh quan của họ
cũng khá phức tạp, không chỉ Nho mà còn có Phật và Lão – Trang. Một mặt, họ coi
thường danh lợi, xem danh lợi là một bả ti tiện mà con người phải tránh xa. Theo đó,
muốn giữ được đạo đức, con người phải thoát khỏi chốn cửa quan, bởi đó là môi
trường khiến họ dễ bị tha hóa nhân cách. Mặt khác, các nhà nho ấy, tuy có vẻ bên
ngoài là lánh đục về trong nhưng trong thâm tâm lúc nào cũng giữ một niềm “ưu thời
mẫn thế”, một tấm lòng vì dân vì nước. Những nhà nho ẩn dật lấy Phật và Lão – Trang
làm tư tưởng chủ đạo nhưng không đem nó ra để đối lập với Nho giáo. Bởi lẽ, ở khía
cạnh nào đó, ứng xử xuất thế chỉ đối lập với công danh của hành xử nhập thế chứ
không hoàn toàn phủ nhận những quan điểm cốt lõi của Nho gia. Hành đạo và ẩn dật
tuy có những điểm khác nhau về cách ứng xử trước thời thế nhưng không nằm trong
thế đối chọi với nhau, thậm chí thống nhất trong cùng một nhà nho. Trong lịch sử văn
học Việt Nam, chúng ta cũng có thể kể ra khá nhiều trường hợp từng làm quan nhưng
rồi cáo quan về ở ẩn như những nho sĩ ẩn dật như: Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Nguyễn Khuyến,… Trong giai thoại, chúng ta bắt gặp mối
liên hệ khắng khít giữa một bên là nho ẩn dật – người đại diện cho lớp sĩ phu, trí thức
(dù đã về trí sĩ hay tự cáo quan ở ẩn, từ những nhà nho khuyết danh cho đến những
nhà khoa bảng nổi tiếng như Nguyễn Khuyến, Nguyễn Hàm Ninh, Nguyễn Đăng
Cảo,…) trong nhóm giai thoại về phong tục tập quán của nhân dân. Những nhà nho
này đóng vai trò là người cho chữ, cho câu đối, tức là đã thực hiện chức năng giáo hóa
hay khai sáng cho quần chúng nhân dân.
147
Tiểu kết chương 3
Chương 3 của luận án đã tìm hiểu các khía cạnh thi pháp của giai thoại Việt Nam
là: công thức kết cấu truyện và nhân vật của thể loại. Theo đó, luận án nhấn mạnh một
số điểm sau:
Thứ nhất, thuộc lĩnh vực văn học, giai thoại văn học phân hóa thành 3 nhóm
chính là: giai thoại văn học về thách đố văn chương, giai thoại văn học về ứng tác văn
chương và giai thoại văn học về sinh hoạt đời tư của các nho sĩ. Luận án đã tiếp cận 2
nhóm đầu và chỉ ra được motif hạt nhân của nhóm giai thoại văn học về thách đố văn
chương là motif thách đố (văn chương), còn motif tiêu biểu của giai thoại văn học về
ứng tác văn chương là motif làm thơ tạo tình huống. Luận án đã mô tả các kiểu nhân
vật của giai thoại văn học là nhân vật trí thức khoa bảng và nhân vật ngông.
Thứ hai, thuộc lĩnh vực văn hóa dân gian, giai thoại phân hóa thành các nhóm:
giai thoại có liên quan đến các hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian của quần chúng
nhân dân; giai thoại có liên quan đến các nghệ sĩ tuồng, chèo, sân khấu. Kết cấu của
giai thoại văn hóa dân gian có liên quan đến các hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian
xoay quanh motif hạt nhân là sự thách đố về hát hò.
Thứ ba, kiểu nhân vật nổi trội nhất của giai thoại văn hóa dân gian là nhân vật
nghệ nhân dân gian, nhà nho tài tử, nhà nho ẩn dật. Các kiểu nhân vật này phân hóa
từ tầng lớp trí thức phong kiến, dần hội nhập với tầng lớp bình dân. Sự xuất hiện của
nhà nho tài tử, nhà nho bình dân trong giai thoại văn hóa dân gian đã góp phần bác học
hóa sinh hoạt dân gian của quần chúng. Họ là cầu nối giữa văn hóa bác học và văn hoá
dân gian.
148
Chương 4. MỐI QUAN HỆ GIỮA GIAI THOẠI VIỆT NAM VÀ
CÁC THỂ LOẠI TRONG TỰ SỰ DÂN GIAN,
LỊCH SỬ, VĂN HỌC
Các thể loại trong văn học dân không phải lúc nào cũng tồn tại một cách độc
lập với nhau mà luôn có xu hướng xâm nhập, giao thoa, chuyển hóa lẫn nhau. Đây
cũng là quy luật vận động mang tính phổ quát của văn học dân gian. Với tư cách là
một thể loại của văn học dân gian, giai thoại cũng không nằm ngoài quy luật đó. Có lẽ
vì vậy mà nhà nghiên cứu Nicolaisen đã lưu ý: “Giai thoại tương đồng với các thể loại
dân gian gần gũi như truyện cười, truyền thuyết, truyện giáo huấn, tin đồn, truyện nói
khoác và loại truyện hài hước mà trong tiếng Đức gọi là schwank. Do đó, có xu hướng
giao thoa giữa các thể loại ấy và không phải lúc nào cũng dễ dàng phân biệt cái này
với cái kia” [107]. Về vấn đề này, các nhà nghiên cứu giai thoại ở Việt Nam từng đề
cập, bàn luận đến ở những góc tiếp cận, mức độ khác nhau và cần tiếp tục tìm hiểu
thêm. Đó là ở bình diện mối quan hệ trong nội bộ các thể loại của văn học dân gian.
Ở một bình diện khác, mang mang tầm bao quát hơn là đặt thể loại trong mối
quan hệ với thực tại. Thông thường, các thể loại văn học dân gian nói chung sẽ có mối
quan hệ chặt chẽ với thực tại nảy sinh ra nó. Vấn đề mang tính lý luận này từng được
V. Ja Propp đặt ra và giải quyết trong công trình Folklore và thực tại. Truyền thuyết có
mối quan hệ với lịch sử thông qua yếu tố “cốt lõi lịch sử” và cảm hứng tôn vinh lịch
sử, nó đã chắp cánh cho lịch sử (với tư cách lịch sử trong ký ức cộng đồng) một chất
mộng và chất thơ đầy huyền ảo. Còn với giai thoại, hiển nhiên cũng có mối quan hệ
với lịch sử ở cách thức mà nó xây dựng hình tượng nhân vật, sự kiện lịch sử. Sự tương
tác mang tính chất hai chiều đó sẽ hé mở tư duy nhào nặn yếu tố sử của giai thoại.
Một vấn đề khá quan trọng khác cần bàn luận thêm, đó là mối quan hệ giữa giai
thoại và văn học (tức văn học thành văn). Bởi lẽ, hiện tồn hai quan niệm khác nhau về
mối quan hệ này. Và mỗi quan niệm như vậy sẽ đặt giai thoại vào các lĩnh vực khác
nhau (văn học viết và văn học dân gian). Trong giai thoại, chất dân gian hay chất bác
học là yếu tố nổi trội. Chúng có mối quan hệ, tương tác như thế nào? Và cuối cùng,
trong chiều sâu bản chất thể loại, giai thoại liệu có bị/được bác học hóa, được gọt giũa
để trở thành một thể loại của văn học viết hay không? Hay là, nó vẫn nằm trong văn
học dân gian với “phong cách dân gian” đặc trưng của mình. Tất cả các vấn đề nêu
trên sẽ được luận án lý giải ở Chương 4 này.
149
4.1. Mối quan hệ giữa giai thoại và các thể loại trong tự sự dân gian
4.1.1. Mối quan hệ giữa giai thoại và truyền thuyết
Vì giai thoại gắn chặt với con người, thời đại cụ thể nên việc cần làm rõ ở đây là
phân biệt giai thoại với thể loại tương cận như truyền thuyết và với lịch sử, đúng hơn
là lịch sử truyền miệng. Để chỉ ra được sự khu biệt về mô hình kết cấu giữa hai tiểu
loại giai thoại lịch sử và truyền thuyết lịch sử, điều kiện tiên quyết là phải giải quyết
một cách thấu đáo sự chuyển hóa, ảnh hưởng hay nói đúng hơn là quá trình tương tác
giữa chúng. Sự nhập nhằng giữa hai tiểu loại này chủ yếu manh nha từ yếu tố lịch sử
mà nó phản ánh (bao gồm sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử). Và đó cũng là nguyên
nhân khiến cho tình hình phân biệt truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử trở thành
một vấn đề không hề giản đơn trong nghiên cứu thể loại tự sự dân gian. Như đã nói ở
phần trước, trong suốt quá trình hình thành giai thoại lịch sử từ thời trung đại cho đến
giai đoạn cận đại, đều có sự hiện hữu của khuynh hướng trên. Giai thoại về bài thơ Ả ở
đâu ta bán chiếu gon của Nguyễn Trãi mang tất cả dáng dấp của khuynh hướng giải
thiêng tính nghiêm trang của một bậc khai quốc công thần. Trần Hưng Đạo, Trần
Quang Khải,… là những vị tướng tài ba, xuất chúng thời nhà Trần, nhưng cũng có
không ít những văn bản được khai thác qua góc độ đời tư (Hưng Đạo Đại Vương tắm
chung và kì lưng cho Thượng tướng). Những giai thoại xung quanh các chúa Nguyễn;
con cháu, dòng dõi hoàng tộc nhà Nguyễn (thái tử, các mệ,…); những giai thoại về
hành trình bôn ba của Nguyễn Ánh ở miền Nam,… là những giai thoại khá khá điển
hình cho xu hướng này.
Những nhân vật lịch sử nổi tiếng khi đi vào đời sống dân gian, đều tuân thủ theo
những quy luật sáng tác dân gian nói chung. Nếu truyền thuyết lịch sử xây dựng nhân
vật chủ yếu theo xu hướng thiêng hóa (đề cao, ca ngợi, tôn vinh,… với những motif
quen thuộc như: sự sinh nở thần kỳ, ngoại hình dị thường; chiến công phi thường; hóa
thân; hiển linh, âm phù,…), thì giai thoại, ngoài xu hướng đề cao NVC quan phương
lại còn có xu hướng khai thác những khía cạnh thuộc đời thường, với tư cách một con
người cá nhân, đời tư nhiều hơn. Nói cách khác, đây là khuynh hướng đời thường hóa
nhân vật lịch sử.
Bên cạnh xu hướng đời thường hóa nhân vật lịch sử, giai thoại còn có xu hướng
thiêng hóa đối tượng. Điều này giống với xu hướng thiêng hóa của truyền thuyết lịch
sử. Vậy đâu là vấn đề? Sự xuất hiện hai xu hướng, cùng tồn tại, thậm chí ngay khi kể
về nhân vật lịch sử cho thấy chức năng giai thoại thường xuất hiện đúng chỗ để lấy lại
sự thăng bằng về cảm hứng của dân gian, hoặc phụ họa cho các đánh giá về nhân vật
150
tùy theo ý đồ sử dụng giai thoại trong những bối cảnh cụ thể giữa người kể và người
nghe.
Chẳng hạn, những câu chuyện nhằm giải thích, biện minh cho một sự sụp đổ, kết
thúc của một chế độ, sự nghiệp của một nhân vật nổi tiếng (sự sụp đổ của nhà Đinh,
Lý, Trần; án tru di của Nguyễn Trãi,…). Phải chăng, giai thoại mượn yếu tố thiêng hóa
của truyền thuyết lịch sử để nhằm mục đích củng cố vương quyền/thế quyền (một hình
thức mà các triều đại phong kiến mượn thần quyền để củng cố thế quyền)? Vì dù sao
thì tư tưởng chủ đạo của các nhà nho vẫn còn chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Hiện
tượng này có thể xem là sự giao thoa thể loại trong quá trình vận động nhận thức lịch
sử, lược lại dấu vết qua thể loại.
Sự giao thoa, tương tác giữa truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử cũng là
vấn đề mà một số nhà nghiên cứu từng lưu ý. Chẳng hạn, tác giả của Từ điển thuật ngữ
Văn học cho rằng: “… Trong những ghi chép sớm nhất, giai thoại văn học thường
không phân giới rõ rệt với truyền thuyết, truyền kỳ, có những mảng giai thoại xuất
hiện thời kỳ sau lại gần với tiếu lâm” [46, tr.519]. Tập thể tác giả công trình Văn học
dân gian Đồng bằng sông Cửu Long cũng có nhận xét đáng lưu ý về đặc điểm truyền
thuyết ở Nam Bộ: “Khác với những truyền thuyết danh nhân ở Bắc Bộ, những truyện
ở đây có thể xem là những giai thoại vì nó gần gũi với người thật, ít có yếu tố siêu
nhiên, thần kỳ” [98, tr.14]. Tác giả Võ Phúc Châu (bài viết “Bước đầu phân biệt
truyền thuyết và giai thoại” [23]) đã xuất phát từ nhận thức này để nêu lên một số
điểm tương đồng, dị biệt cơ bản giữa truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử.
Những điểm tương đồng và dị biệt
- Hiện tượng kết chuỗi của giai thoại và truyền thuyết: Nét tương đồng đầu tiên
giữa truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử là tính chất kết chuỗi. Về mặt loại hình,
truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử thuộc hệ thống truyện dân gian có liên quan
đến nhân vật cụ thể. Thế nên, việc kết chuỗi về một nhân vật cụ thể là hiện tượng phổ
biến (đã được đề cập ở phần trước). Đây cũng là điểm mà nhiều nhà nghiên cứu Nga
như Guxev, Propp, Davleptov, Tamarchenko,... đã khẳng định. Có thể so sánh hành
động trong truyền thuyết và hành động, tính cách của nhân vật trong giai thoại. Chẳng
hạn, cùng phản ánh về nhân vật lịch sử Nguyễn Ánh, vừa có những truyền thuyết lịch
sử, vừa có những giai thoại lịch sử về hành trình bôn ba phục quốc của ông. Điều này
được tập hợp, giới thiệu khá đầy đủ trong những tuyển tập truyện dân gian ở Nam Bộ.
- Về phương thức phản ánh thực tại: Cả hai đều dựa trên cơ sở hiện thực là các
sự kiện, nhân vật lịch sử. Ở truyền thuyết lịch sử, đó là “nét chính yếu của sự kiện và
151
con người có thực”. Với giai thoại lịch sử là đặc điểm “gần gũi với người thật”. Một
bên đồng nhất nhân vật với sự kiện còn một bên khai thác hành vi bản thể của con
người. Về bản chất, sự kiện hay thành tích của các nhân vật đều mô phỏng thực tế.
Chính điều này làm cho người ta tin vào sự chân xác cuộc sống được thể hiện qua giai
thoại cho dù là chuyện bịa đặt.
Các nhà nghiên cứu đều thừa nhận rằng, kỳ ảo là yếu tố thi pháp then chốt, cấu
thành nên thể loại truyền thuyết. Nhưng không phải duy nhất truyền thuyết, mới có
yếu tố kỳ ảo. Bởi nó là thủ pháp chung của các thể loại tự sự dân gian, tùy theo mức
độ khác nhau được thể hiện từ thần thoại, sử thi, đến cổ tích. Trong truyền thuyết, yếu
tố kỳ ảo xuất hiện trong cả ba phần, qua các motif cơ bản: Sinh nở thần kỳ, chiến công
phi thường, hóa thân, hiển linh - âm phù,... Đây cũng là mô hình kết cấu cơ bản của
truyền thuyết về người anh hùng. Dễ nhận thấy một lẽ là, trong truyền thuyết, motif
sinh nở thần kỳ (ở phần đầu) có mối liên kết chặt chẽ với motif chiến công phi thường.
Có thể yếu tố kỳ ảo từ truyền thuyết ở chừng mực nào đó đã chuyển hóa sang
giai thoại. Để củng cố thêm luận điểm, chúng tôi tiến hành khảo sát yếu tố kỳ ảo trong
04 tuyển tập giai thoại, kết quả như sau:
- Công trình Giai thoại văn học Việt Nam [65] có 06/254 (tỉ lệ 2,36%) trường
hợp: Bị trói vẫn làm thơ – Lý Công Uẩn; Đọc thơ chê Hạng Vũ, Chữa thơ Vương Bột
– Hồ Tông Thốc; Hồn bướm mơ tiên – Lê Thánh Tông; Ngâm thơ cự thần – Nguyễn
Thái Thường; Thơ trách nữ thần – Nguyễn Công Trứ;
- Công trình Giai thoại văn học Việt Nam [67] có 07/442 tác phẩm (tỉ lệ 1,58%):
Bị trói vẫn làm thơ – Lý Công Uẩn; Đọc thơ chê Hạng Vũ, Chữa thơ Vương Bột – Hồ
Tông Thốc; Ngâm thơ cự thần – Nguyễn Thái Thường; Thơ trách nữ thần, Phá đền thì
lại làm đền – Nguyễn Công Trứ; Câu đối đền Thia Thia – Nguyễn Xuân Ôn;
- Công trình Giai thoại folklore Việt Nam [91] có 03/293 tác phẩm (tỉ lệ 1,02%):
Trạng Lường – Lương Thế Vinh; Tượng đá mất thiêng, Vay tiền Bà Chúa Liễu –
Trạng Quỳnh;
- Công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam [89] có 17/893 tác phẩm (tỉ lệ 1,9%):
Không dám duỗi chân – Lý Công Uẩn; Thần sao biết việc của người - khuyết danh;
Vẫn những câu thơ chống thần - Nguyễn Đăng Đạo; Có thực là thiêng không - Phạm
Thanh; Mồ hôi thần - khuyết danh; Trách cứ Lê Quý Đôn – Nguyễn Trãi; Hai lần gặp
Liễu Hạnh – Phùng Khắc Khoan; Phá đền, Qua đền nữ thần – Nguyễn Công Trứ; Câu
đối đền Thia Thia – Nguyễn Xuân Ôn; Thơ đền Hạng Vũ – Hồ Tông Thốc; Hồn bướm
mơ tiên – Lê Thánh Tông; Di hài gài hiệp – khuyết danh; Đỡ đẻ cho thần – khuyết
152
danh; Rủ được thần về nhà của mình – khuyết danh; Tượng đá mất thiêng, Vay tiền Bà
Chúa Liễu – Trạng Quỳnh.
Căn cứ vào số liệu thống kê trên, có thể khẳng định rằng: con người và sự việc
trong giai thoại chủ yếu xoay quanh thế giới trần tục, dẫu có sự xuất hiện của yếu tố kỳ
ảo nhưng không chi phối mạnh mẽ đến tư duy thể loại (chưa có công trình giai thoại
nào ở trên có tỉ lệ yếu tố kỳ ảo vượt quá 2,5% số lượng tác phẩm). Qua thống kê,
chúng tôi nhận diện một số đặc điểm của yếu tố kỳ ảo trong giai thoại như sau:
Giai thoại có thể chịu ảnh hưởng từ truyền thuyết các motif: sinh nở thần kỳ,
ngoại hình khác lạ, nằm mộng gặp thần,... Tuy nhiên, giai thoại không vận dụng rập
khuôn mà có một số biến đổi. Khi bàn về motif sinh nở thần kỳ, Kiều Thu Hoạch chia
thành hai trường hợp là: kể trực tiếp và gián tiếp (thông qua giấc mơ của các bà mẹ).
Trong truyền thuyết, có 2 kiểu truyện quan trọng cùng sử dụng công thức có liên quan
đến yếu tố sinh nở thần kỳ là:
- Truyền thuyết về anh hùng chiến trận:
Chiến công phi thường Sinh nở thần kỳ Hóa thân, âm phù
(hộ quốc)
Sơ đồ 4.1. Motif sinh nở thần kỳ trong truyền thuyết anh hùng chiến trận
- Truyền thuyết về anh hùng văn hóa:
- Sinh nở thần kỳ Chiến công phi thường (trên lĩnh
- Sinh nở bình thường vực văn hóa, an dân)
Sơ đồ 4.2. Motif sinh nở thần kỳ trong truyền thuyết anh hùng văn hóa
Trong khi đó, ở giai thoại, sự ảnh hưởng từ truyền thuyết chủ yếu từ kiểu truyện
anh hùng văn hóa, với hình thức sinh nở thần kỳ và cả sinh nở bình thường, hầu như
chỉ thấy thể hiện qua công thức tương tự như truyền thuyết anh hùng văn hóa:
- Sinh nở thần kỳ Thành tựu phi thường trong lĩnh
- Sinh nở bình thường vực văn chương, ngoại giao
Sơ đồ 4.3. Motif sinh nở thần kỳ trong giai thoại
So với truyền thuyết anh hùng chiến trận, bên cạnh việc vận dụng motif sinh nở
thần kỳ, truyền thuyết về anh hùng văn hóa thì giai thoại còn sử dụng tình tiết sinh nở
bình thường, tức là đã đời thường hóa nguồn gốc xuất thân của người anh hùng. Nếu
153
trong lĩnh vực văn hóa, người anh hùng để lại những chiến công phi thường qua các
hành động như: đắp đê trị thủy, chữa bệnh cho dân, tiêu diệt ác thú, khai khẩn đất
hoang (tiền hiền, hậu hiền),... thì trong giai thoại, sự đóng góp của nhân vật có phần
hạn hẹp hơn, chủ yếu là ở khía cạnh: tài năng học hành, thi cử, tài năng ngoại giao,...
Đấy là sự biến tấu công thức của truyền thuyết anh hùng văn hóa vào một kiểu nhân
vật hoàn toàn khác – nhân vật nhà khoa bảng – hay văn tài (xoáy sâu vào tài trí trên
lĩnh vực văn chương). Có thể thấy rất rõ, chiến công của người anh hùng trong truyền
thuyết (cả chiến trận lẫn văn hóa) đều hướng đến cộng đồng, vì cộng đồng, còn chiến
công/ tài nghệ của nhân vật giai thoại đã được cá nhân thể hóa qua tài trí. Và cũng
giống như trong truyền thuyết, sự ra đời thần kỳ của nhân vật khoa bảng trong giai
thoại cũng mang tính chất lý giải cho những đóng góp to lớn về sau của nhân vật, tức
là cũng có mối quan hệ nhân – quả chứ không phải ngẫu nhiên, rời rạc.
Đến đây, có thể thấy trong tự sự dân gian, motif sinh nở thần kỳ xuất hiện khá
nhiều trong các thể loại: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích,... Theo tiến trình lịch
đại, motif này có những biến đổi nhất định, có thể khái quát như sau:
Bảng 4.1. Công thức sinh thức sinh nở thẩn kỳ trong tự sự dân gian
Thể loại tự sự dân gian Công thức sinh nở thần kỳ
Thần thoại
Truyền thuyết
Giai thoại Thần + Thần → Thần
Người + Thần → Nhân thần
Người + Thần/ lời đồn → Nhà khoa bảng (Văn
tài)
Qua thống kê công trình Truyền thuyết dân gian người Việt [68] của tác giả
Kiều Thu Hoạch, chúng tôi hệ thống lại các hình thức sinh nở thần kỳ của công trình
trên gồm: Sinh nở thần kỳ từ sự cưỡng hôn của con vật linh; Sinh nở thần kỳ thông qua
giấc mơ của các bà mẹ; Sinh nở thần kỳ thông qua huyệt táng; Sinh nở thần kỳ thông
qua giáng sinh; Sinh nở thần kỳ từ bọc trứng (noãn sinh) (Văn bản cụ thể xin xem Phụ
lục 5).
Trong giai thoại, cả hai dạng thức của motif sinh nở thần kỳ (trực tiếp và gián
tiếp) đều được tác giả dân gian vận dụng. Theo đó, giai thoại đã có sự tiếp thu các hình
thức sinh nở thần kỳ từ truyền thuyết là: sự cưỡng bức của linh vật; giấc mơ của các
bà mẹ; sự tái sinh và huyệt táng, còn các hình thức khác như: giáng sinh, noãn sinh
không thấy xuất hiện. Trên đại thể, giai thoại đã tiếp biến công thức: “Sinh nở thần kỳ
→ tôn vinh nguồn gốc thần thánh của người anh hùng” trong truyền thuyết thành:
“Sinh nở thần kỳ → tôn vinh nguồn gốc thần thánh của bậc văn tài”. Có thể thấy các
bậc đại khoa như Lương Thế Vinh, Mạc Đĩnh Chi, Lê Quý Đôn, Giáp Hải,... (sách
Nam Hải dị nhân liệt truyện của Phan Kế Bính) đều có biểu hiện về sự ra đời thần kỳ
154
như vậy. Sau đây, xin đi vào chi tiết:
- Sinh nở thần kỳ gắn với sự cưỡng bức của linh vật
Sự ra đời thần kỳ của Mạc Đĩnh Chi được miêu tả một cách trực tiếp qua cuộc
hôn phối (cưỡng bức) của con khỉ với thân mẫu ông: “Tục truyền làng Lũng Đỗng có
một thung rừng rậm, cây cối bùm tum, lắm giống hầu (con khỉ) ở. Mẹ ông ấy thường
khi vào rừng kiếm củi, phải con hầu bắt hiếp (...). Bà kia từ đấy thụ thai, đủ tháng,
sinh ra Mạc Đĩnh Chi, mặt mũi xấu xí, người nhỏ loắt choắt tựa như giống hầu” [17,
tr.85]. Vì có căn cốt hầu trong người (cộng với huyệt táng) mà họ Mạc có tư chất hơn
người, trở thành Lưỡng Quốc Trạng Nguyên về sau.
- Sinh nở thần kỳ gắn với giấc mơ của các bà mẹ
Sự ra đời thần kỳ của Lý Công Uẩn và Lê Quý Đôn thì được miêu tả một cách
gián tiếp, thông qua giấc mơ của các bà mẹ. Trường hợp của vua Lý Thái Tổ được
miêu tả như sau: “Tương truyền ông không có cha, bà mẹ là Phạm thị nhân đi chơi
chùa Tiêu Sơn, ở phủ Từ Sơn, Bắc Ninh, nằm mộng thấy đi lại với thần nhân rồi về có
thai mà sinh ra ông” [65, tr.66]. Như vậy, sự ra đời của Lý Công Uẩn là kết quả của
sự hòa hợp giữa thần và người mà chúng ta vẫn bắt gặp trong truyền thuyết. Nhà khoa
bảng Lê Quý Đôn cũng được sinh ra một cách khác thường bằng giấc mơ về con kỳ
lân của thân mẫu: “Về sau, con ông ấy là Lê Trọng Hứ quả nhiên đỗ Tiến sĩ, làm quan
rồi sau được phong là Trung hiếu công. Trung hiếu công muộn con, cùng với phu
nhân cầu tự ở chùa Quang Thừa, huyện Kim Bảng. Phu nhân nằm mộng thấy giời cho
con kỳ lân, mới có thai mà sinh ra Lê Quý Đôn” [17, tr.139]. Trong truyền thuyết, các
bà mẹ thường mơ gặp các con vật như: rết, rắn, rồng, rùa, chim, gấu,... từ đó sinh ra
người anh hùng. Cùng công thức ấy, khi đi vào giai thoại được chuyển hóa theo cách
thức tôn vinh bậc văn tài. Điều đó có lý do. Theo Kiều Thu Hoạch, đó là dấu vết của
“tín ngưỡng vạn vật linh (animisme) thời cổ” [68, tr.45].
- Sinh nở thần kỳ gắn với sự tái sinh
Sự ra đời thần kỳ của nhân vật người anh hùng trong truyền thuyết cũng có dạng
thức tái sinh, chuyển kiếp (dù tần xuất không nổi trội). Ví dụ, Truyện Từ Đạo Hạnh và
Nguyễn Minh Không; Sự tích thần Linh Lang (thời Lý),... Giai thoại cũng tiếp biến
hình thức này để thiêng hóa nhân vật. Trong giai thoại, với trường hợp của các bậc văn
tài, hình thức tái sinh cũng xuất hiện ở Lương Thế Vinh. Sách Nam Hải dị nhân liệt
truyện kể về ông như sau: Ông có hai người mẹ, mẹ đầu ở làng Nam Xang, sinh ra
ông, được 7, 8 tuổi thì ông mất. Trước khi mất, ông dặn dò mẹ đến ngày ấy, tháng ấy
thì qua làng Cao Hương bên cạnh (huyện Thiên Bản, Nam Định) để tìm mình. Sự tái
155
sinh của Lương Thế Vinh được kể như sau: “Người đàn bà mới giẫm chân vào hòn đá
mà nói rằng: - Hòn đá này quý hóa gì mà nó (tức thầy pháp người Tàu – chúng tôi
nhấn mạnh) mua đắt thế? Không ngờ thần ông ấy (tức Lương Thế Vinh) ở trong hòn
đá, từ bấy giờ đầu thai ngay vào người đàn bà ấy” [17, tr.112].
- Sinh nở thần kỳ gắn với huyệt táng
Giai thoại còn tiếp thu cả motif huyệt táng rất phổ biến trong truyền thuyết. Theo
Kiều Thu Hoạch, tình tiết huyệt táng không phải là một motif mới mà là một trong
những dạng thức của motif sinh nở thần kỳ: “Ở đây (tức motif huyệt táng – chúng tôi
nhấn mạnh) có bóng dáng của thuyết phong thủy nhưng xét cho kỹ cũng là biến dạng
của motif sinh đẻ thần kỳ” [68, tr.62]. Bàn về motif huyệt táng, Từ điển type truyện
dân gian Việt Nam viết như sau: “Các dòng họ (Vũ ở Mộ Trạch, Đinh ở Ninh Bình,
Trần ở Nam Định) phát tích nhờ thầy địa lý Trung Quốc chọn cho huyệt đất tốt để
chôn hài cốt của cha mẹ vào đấy, sau con cháu nhờ đấy mà phát tích đế vương” [74,
tr.164]. Như vậy, motif huyệt táng trong truyền thuyết phần lớn gắn liền với sự phát
tích đế vương còn trong giai thoại thì đa phần gắn liền với sự xuất hiện của các bậc
danh hiền, văn tài.
Khảo sát sách Nam Hải dị nhân liệt truyện, trong 12 giai thoại viết về cách bậc
danh hiền và văn tài, chúng tôi xác định có 05/12 tác phẩm xuất hiện motif huyệt táng,
xoay quanh các bậc đại khoa là: Mạc Đĩnh Chi (thời Trần), Đặng Đình Tướng (thời
Lê), Lê Quý Đôn (thời Lê – Trịnh), Giáp Hải (thời Mạc). Theo sự lý giải của tác giả
dân gian, sở dĩ các nhân vật trên đỗ đạt cao, học hành thông minh là do người thân của
họ đã táng hài cốt tổ tiên vào các huyệt táng tốt (thiên táng). Sách chép về Mạc Đĩnh
Chi như sau: “Ông cha (tức thân phụ Mạc Đĩnh Chi) lúc gần mất, dặn lại táng trên
mả con hầu, vì biết chỗ ấy là chỗ đất kết (ngôi mả đến giờ vẫn còn)” [17, tr.85]. Viết
về Lê Quý Đôn, sách này chép: “Ở đây có một ngôi đất rất to, dành cho họ Lê làng
Diên Hà. Cụ có phải họ Lê, thì đem tiên phần lại mà táng, về sau phát đạt, chẳng
những cụ khỏi khổ sở, mà dân tôi cũng được một sự quan ngại. Cụ kia mừng rỡ, về
nhà đem tiên phần lại táng vào huyệt ấy” [17, tr.139]. Trạng nguyên Giáp Hải theo
truyền ngôn cũng đỗ đạt nhờ vào huyệt thiên táng mà một pháp sư người Tàu chỉ bảo
cho thân mẫu của ông: “Chỗ này là huyệt thiên táng, nếu có thai thì tất sinh ra Trạng
nguyên, Tể tướng” [17, tr.121]. Các dẫn chứng cụ thể trên cho thấy, thực sự có sự ảnh
hưởng, thâm nhập của truyền thuyết vào trong giai thoại qua motif sinh nở thần kỳ.
Nói khác đi, đó là sự rơi rớt lại của một niềm tin huyền thoại hóa nhân vật người anh
hùng (chiến trận và văn hóa) trong truyền thuyết vào trong giai thoại (với kiểu nhân
156
vật văn tài).
Tuy nhiên, có một điều đáng bàn thêm là trong công trình Truyền thuyết dân gian
người Việt (tập 4, 5), Kiều Thu Hoạch đã xếp những truyện (có motif sinh nở thần kỳ)
về các bậc văn tài vào truyền thuyết. Cụ thể như sau:
- Tập 4 gồm các truyện: số 73. Truyện trạng nguyên Đỗ Lý Nghiêm thời Lê; 75.
Truyện tiền kiếp luân hồi (Thượng thư Ngô Trí Hoà, thời Lê); 76. Sự tích sinh con rồi
mới sinh cha (Trạng nguyên Nguyễn Kỳ và con trai là Nguyễn Quán Đạo, thời Mạc);
77. Truyện thám hoa Quách Giai (thời Lê – Trịnh).
- Tập 5 gồm các truyện: 303. Nguyễn Hiền (thời Lê), 304. Mạc Đĩnh Chi (thời
Trần), 378. Lê Quý Đôn (thời Lê – Trịnh).
Theo chúng tôi, điều này chưa thật hợp lý, bởi lẽ, kiểu nhân vật được nhắc đến
đều là các bậc văn tài, do vậy, xếp vào giai thoại có vẻ hợp lý hơn. Vả chăng, cũng cần
phải xét đến sự chi phối của motif đối với cách vận hành của cốt truyện như thế nào
chứ không thể căn cứ vào sự xuất hiện của motif để có thể xếp ngay vào thể loại
truyền thuyết.
Về tình tiết ngoại hình khác thường và nằm mộng gặp thần, giai thoại cũng ít
nhiều tiếp thu từ truyền thuyết. Ví dụ, Lê Nại, Lê Như Hổ nổi tiếng thơ hay ăn khỏe,
ngoại hình khác thường; các nhà nho khuyết danh đến nổi tiếng (như Nguyễn Thái
Thường, Nguyễn Đăng Đạo) đều gặp các vị thần báo mộng cho tương lai về sau,
nhưng sự ảnh hưởng này cũng có sự biến đổi đáng chú ý bằng sự xuất hiện của tình
tiết ngâm thơ cự thần. Do vậy, có thể nói, trong giai thoại tình tiết nằm mộng gặp thần
đi liền với ngâm thơ cự thần, tạo thành cặp đôi tình tiết mang tính giải thiêng thần
thánh (ở đó, sức mạnh của Nho giáo đã có phần lấn át và giành ưu thắng trước sức
mạnh của thánh thần).
Trong tất cả những giai thoại mà chúng tôi thống kê ở trên, phần lớn nhân vật
thần thánh chỉ xuất hiện qua “lời đồn” của dân gian, rất ít khi trực tiếp xuất hiện, đối
thoại hay có những tác động lớn, có thể làm ảnh hưởng đến hành trạng của NVC như
trong truyền thuyết (phù trợ hay trừng phạt). Chẳng hạn, trong Đọc thơ chê Hạng Vũ:
“Người ta đồn miếu đó rất thiêng, hễ thuyền bè qua lại trên sông mà không ghé vào lễ
bái thì sẽ bị đắm” [65, tr.91]; hay “Tục truyền từ đó ở khúc sông này, cứ vào khoảng
đêm khuya canh vắng, người ta thường nghe văng vẳng có tiếng ngâm hai câu thơ tả
cảnh đặc sắc trong bài “Đằng Vương các tự” [65, tr.92]. Chỉ có 04 văn bản: Trách cứ
Lê Quý Đôn (Nguyễn Trãi); Hai lần gặp Liễu Hạnh (Phùng Khắc Khoan); Đỡ đẻ cho
thần (khuyết danh); Rủ được thần về nhà mình (khuyết danh) là có sự đối thoại một
cách trực tiếp giữa thần và con người. Ví dụ, trong giai thoại Trách cứ Lê Quý Đôn,
157
Nguyễn Trãi đã hiện hồn mắng vị bảng nhãn họ Lê: “Ta là Tế văn hầu đây! Nhà ngươi
là một gã tiểu sinh sơ học, sao dám càn rỡ xúc phạm đến bậc huân cựu của tiền triều?
Tội đáng chết, không thứ được (...). Công danh sự nghiệp của ta, cố nhiên không thèm
so sánh với nhà ngươi. Nay ngày thường ngươi lấy khoa bảng kiêu căng. Vậy thử về
đọc lại Bình Ngô đại cáo của ta, nếu văn ngươi có hay hơn thì xé sắc của ta cũng
đáng” [89, tr245].
Giai thoại chỉ chịu ảnh hưởng yếu tố kỳ ảo từ truyền thuyết một cách rất hạn chế,
chứ không phải sao chép một cách rập khuôn. Trường hợp nào cần thiết, thì nó mới
viện tới. Thực tế cho thấy, có khá nhiều nhân vật vừa có mặt trong truyền thuyết, vừa
xuất hiện trong giai thoại nhưng rõ ràng, cách xây dựng nhân vật cũng không hoàn
toàn giống nhau do đặc trưng thể loại. Ở đây, xin dẫn ra trường hợp của anh hùng khởi
nghĩa nông dân thời phong kiến - Nguyễn Hữu Cầu. Trong truyền thuyết, kiểu nhân
vật này là những anh hùng nông dân, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa chống lại triều
đình phong kiến. Trong mắt nhân dân, dĩ nhiên họ là những con người tài năng, được
ngợi ca, ngưỡng mộ. Và đã là anh hùng thì phải phi thường: phi thường lúc sinh ra,
phi thường trong việc lập chiến công và phi thường lúc chết. Truyền thuyết chú trọng
đến nguồn gốc thần thánh của các nhân vật lịch sử, trong khi giai thoại về các nhân vật
này chủ yếu quan tâm đến lĩnh vực biệt tài, chứ không giới thiệu nguồn gốc nhân vật
theo hướng thiêng hóa ấy.
Tuyển tập Truyền thuyết dân gian người Việt (Tập 4) chép về Phạm Đình Trọng
và Quận He Nguyễn Hữu Cầu như sau: “Tục truyền ngài (tức Phạm Đình Trọng –
chúng tôi nhấn mạnh) là thần ngũ hổ giáng sinh” [68, tr.343] và “Quận He là người
làng Lôi Đỗng, huyện Thanh Hà, có sức khỏe như thần, mỗi khi lâm trận, chỉ cắp hai
thanh siêu đao phi ngựa xông vào, quan quân tan rã, không ai địch nổi, đã có tiếng
gọi là Hạng Vũ nước Nam. Tục truyền là thần bể sinh ra, cho nên lại tài nghề lặn
nước” [68, tr.344]. Trong các giai thoại kể về các cuộc đối chọi văn chương giữa hai
nhân vật này (Cốt đối ý, Đánh nhau bằng cả câu đối, Chim trong lồng, quyển Giai
thoại văn học Việt Nam [65]), tác giả giai thoại không giới thiệu như vậy (Xin xem tác
phẩm trong Phụ lục).
Như vậy, trên thực tế có sự chuyển hóa thể loại từ giai thoại sang truyền thuyết
hay không? Qua khảo sát truyền thuyết (trong công trình Truyền thuyết dân gian người
Việt của Kiều Thu Hoạch), chúng tôi cho rằng: thực sự có sự chuyển hóa thể loại từ
giai thoại sang truyền thuyết nhưng không nhiều. Trong công trình trên, chúng tôi xác
định có 02 trường hợp đáng bàn là: Truyện Chu Văn An (số 300) và Truyện ông Lê
Trãi (số 327). Cả hai truyện này hiển nhiên là truyền thuyết. Như vậy, vấn đề đặt ra ở
158
đây là vì sao trong giai thoại, tác phẩm về hai nhân vật này khá nhiều, nhưng chỉ có
một ít là đủ tầm để chuyển hóa thành truyền thuyết. Để lý giải vấn đề này, chúng tôi
đưa ra bảng sau:
Bảng 4.2. Nhân vật chuyển hóa từ giai thoại sang truyền thuyết
Thế loại Giai thoại Truyền thuyết
Nhân vật
Chu Văn An Nhà nho có Tài Đức cảm
hóa thần thánh (giao long)
Nguyễn Trãi Rắn báo oán (giải thích án
tru di)
- Dạy học trò;
- Cáo quan ở ẩn;
- Diện kiến vua Trần
=> Con người đức độ
- Tình sử (với Nguyễn Thị
Lộ);
- Khí khái (chửi Lê Quý
Đôn);
- Thu phục nhân tâm.
Trong giai thoại, Chu Văn An được kể như một nhà nho đầy đức độ, được nhân
dân và vua Trần tôn kính hết mực. Đức độ đó được soi chiếu, đánh giá trong cuộc sống
đời thường, với những con người bình thường. Còn trong truyền thuyết (Truyện Chu
Văn An), tác giả dân gian đã nâng tầm ông lên, từ nhà nho đạo đức (ẩn dật), trở thành
một con người Tài Đức, có thể cảm hóa được thần linh (thủy thần – người học trò của
ông). Phải chăng, tình tiết làm mưa của học trò thuồng luồng là tình tiết mang tính chất
đề cao, thiêng hóa Tài Đức của bậc đại nho. Và điều đó cũng nằm trong một phạm vi
lớn hơn là: cảm hứng đề cao Nho giáo, cũng như những tôn giáo khác (Phật, Đạo)
hoàn toàn có thể chinh phục và sai khiến được thần linh? Và một lý do vô cùng quan
trọng hơn của truyền thuyết này là: nhằm giải thích nguyên nhân vì sao con cháu Chu
Văn An học hành sa sút: “Trong năm Cảnh Hưng, ông Bùi Huy Ích chấp chính, dò hỏi
dòng dõi, thấy đã đổi sang họ Nguyễn, đều ngu dốt không biết gì, và ở vào hàng cùng
dân cả...” [68, tr.68].
Trường hợp của Nguyễn Trãi cũng được đặt trong mối quan hệ với thần linh (hai
con rắn trong Truyện ông Lê Trãi đều là thần sông Tô Lịch). Truyện này hướng tới
mục đích giải thích án tru di của ông. Để làm được điều đó, tác giả dân gian đã kéo
nhân vật thoát ly khỏi cuộc sống đời thường (chẳng hạn, vua Lê sủng ái Thị Lộ khiến
cho Nguyễn Trãi ghen tuông trong giai thoại (Thơ ghen vần tình)), đặt nhân vật vào
một môi trường thiêng liêng hơn, huyền thoại hơn. Trong đó, sự xúc phạm thần linh
(một cách vô tình bởi các học trò) đã khiến Nguyễn Trãi phải trả giá bằng chính mạng
sống của ông và gia tộc. Theo chúng tôi, 02 trường hợp trên là sự di chuyển từ kiểu
159
nhân vật văn tài (trong giai thoại) sang kiểu nhân vật người anh hùng trong văn hóa và
lịch sử (cứu dân khỏi hạn hán và bi kịch tru di của bậc khai quốc công thần).
Tóm lại, một nhân vật trong truyền thuyết thường hội tụ những tiêu chí sau: có
đủ độ lùi thời gian; có đủ công đức với nhân dân; có tính vấn đề, khúc mắc trong tiểu
sử, cần được nới rộng, soi chiếu bằng cái nhìn khác, nơi mà cảm hứng đời thường
không phát huy được sức mạnh và phải thay thế bằng cảm hứng huyền thoại. Đó cũng
là lý do giải thích vì sao, trong giai thoại, mặc dù có tình tiết ly kỳ về một số bậc văn
tài như: Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh, Lê Quý Đôn,... nhưng những
con người ấy vẫn nằm trong địa hạt giai thoại, chứ không nhất thiết chuyển sang biên
giới của một thể loại khác. Có lẽ, trong các nhà khoa bảng nổi tiếng, chỉ có trường hợp
của Nguyễn Bỉnh Khiêm là di chuyển sang thể loại truyền thuyết một cách dứt khoát.
Ông vừa là một bậc văn tài (qua một số giai thoại văn chương) nhưng những đóng góp
nổi bật của ông không nằm trong phạm vi văn chương mà ở lĩnh vực lịch sử, chính trị.
Những lời tiên tri của Trạng Trình có ảnh hưởng lớn lao đến các thế lực phong kiến
lúc bấy giờ (chúa Trịnh, chúa Nguyễn, nhà Mạc,...) và tồn tại trong dân gian như
những truyền ngôn mang đậm tính huyền thoại.
Theo tiến trình vận động, càng về sau, giai thoại ít xuất hiện tình tiết kỳ ảo. Đây
cũng là xu hướng chung của truyền thuyết lịch sử. Do vậy, rất nhiều nhà nghiên cứu,
sưu tầm văn học dân gian ở Nam Bộ đều cho rằng trong giai đoạn muộn, ranh giới
giữa truyền thuyết và giai thoại rất mong manh, bởi sự vắng bóng của yếu tố này. Do
vậy, sự phân biệt về mặt thể loại giữa giai thoại và truyền thuyết gặp không ít khó
khăn. Theo chúng tôi, có lẽ, đó là kết quả của quá trình thiêng hóa, huyền thoại hóa
truyền thuyết chưa hoàn kết, nhân vật chưa thể được nâng tầm đúng như vai trò, vị trí
của nó như ngưỡng vọng của nhân dân. Nói khác đi, các giai thoại mảng này vẫn song
hành cùng truyền thuyết như hai góc nhìn của dân gian bổ sung cho nhau.
Trên đây, luận án vừa điểm qua sự tiếp biến yếu tố kỳ ảo trong giai thoại. Qua số
liệu thống kê và bóc tách dẫn chứng, chúng tôi cho rằng trong giai thoại, yếu tố kỳ ảo
xuất hiện với tần số thấp, và tuy chịu ảnh hưởng từ truyền thuyết nhưng giai thoại
cũng có sự tiết chế, biến đổi nhất định, chứ không phải mô phỏng một cách rập khuôn.
Về mặt chức năng, trong đời sống thực tại, truyền thuyết gắn liền với tín ngưỡng,
nghi lễ. Và chính điều đó tạo ra môi trường thiêng liêng cho câu chuyện có liên quan
đến nhân vật. Ở Nam Bộ, ta có thể thấy được điều này qua các lễ hội về các nữ thần,
Thánh Mẫu tiêu biểu như: lễ hội núi Bà Đen (Linh Sơn Thánh Mẫu, Tây Ninh), lễ hội
Vía Bà Chúa Xứ núi Sam (Châu Đốc, An Giang), lễ vía bà Phi Yến (ở Côn Đảo),…
160
Như vậy, đặt trong môi trường nghi lễ, tín ngưỡng, truyền thuyết không chỉ có chức
năng thông tin, giáo dục mà còn có chức năng rất quan trọng là kết nối cộng đồng và
trao quyền văn hóa, gìn giữ và truyền thụ những giá trị văn hóa của thế hệ đi trước cho
thế hệ đi sau. Những chức năng này, ta khó lòng tìm thấy trong giai thoại.
Về bối cảnh diễn xướng, không phải lúc nào truyền thuyết về nhân vật cũng được
kể nếu không gắn liền với nghi lễ chính thống. Còn giai thoại, như một đặc trưng đối
lập, nó có thể được kể trong bất cứ ở đâu, bất cứ thời điểm nào (không - thời gian kể
gắn với đời sống thường nhật, chẳng hạn như những lúc trà dư tửu hậu). Đây chính là
biểu hiện của tính phi chính thống (hay tính chất bên lề) của giai thoại.
- Về mặt dung lượng bản kể: Guxev khi bàn về folklore hiện đại cũng đã gián
tiếp cho thấy đặc điểm hình thức ngắn gọn của giai thoại. Ông viết như sau: “Bên cạnh
những tác phẩm bông đùa được sáng tác không ít những tác phẩm thực sự trào phúng,
nhất là trong những hình thức “nhỏ” của folklore, những bài ca đơn khúc, những giai
thoại, những câu nói hóm, những tục ngữ và thành ngữ…” [51, tr.579]. Tuy nhiên, xét
cho cùng, hình thức dung lượng chỉ là yếu tố mang tính chất tham khảo ngoại biên
trong sự đối sánh giữa giai thoại và truyền thuyết, khó có thể xem đây là tiêu chí
thuyết phục để có thể phân định về mặt thể loại. Bởi lẽ, hầu hết các bản kể đều đã
được văn bản hóa, mà quá trình này không thể không tính đến khả năng nhuận sắc, can
thiệp ít nhiều vào tính khách quan của văn bản từ người biên soạn. Do vậy, độ ngắn
dài của văn bản, trên thực tế có thể khác xa hơn những gì bản thân bản kể đó từng tồn
tại trong dân gian.
- Về mặt tình tiết: Ở phần trên đã đề cập đến một số motif tiêu biểu. Vì vậy,
những khía cạnh đề cập dưới đây thiên về cảm hứng và chức năng. Cảm hứng ngợi ca,
tôn vinh trong truyền thuyết gắn liền với tính chất thiêng của nhân vật người anh hùng
qua hai nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là hộ quốc và an dân (anh hùng chiến trận và
anh hùng văn hóa). Với truyền thuyết, không khí thiêng liêng tạo thành một niềm tin
vĩnh cửu – điều mà Bakhtin gọi là “giới tuyến không thể thẩm lậu”. Còn trong giai
thoại, sự tôn vinh đa phần gắn liền với hành trạng đời thường của nhân vật. Chính vì
tính chất đời thường này mà cảm hứng tôn vinh hay phê phán của giai thoại có phần
gần gũi với cổ tích, truyện cười.
Trong truyền thuyết, sự kiện, tình tiết thường mang ý nghĩa sự biểu trưng nghệ
thuật, là thực tại nhưng đồng thời chứa đựng sự ảo hóa, làm thực tại có tính chất thiêng
liêng. Những tình tiết ấy không chỉ là hành trạng riêng của nhân vật mà còn ảnh hưởng
trực tiếp đến vận mệnh cộng đồng, dân tộc. Những yếu tố “thiêng hóa” trong truyền
161
thuyết (thời gian - không gian thiêng; sự kiện, nhân vật thiêng,…) đã góp phần xác lập
yếu tố niềm tin của thể loại. Ở đó, người kể và người nghe chưa bao giờ tỏ ra nghi ngờ
về tính thuyết phục của những tình tiết kỳ ảo, thiêng liêng về nhân vật. Sợi dây kết nối
họ lại với nhau không chỉ là yếu tố nhân vật, yếu tố lịch sử, mà còn là sự ảnh hưởng to
lớn của yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo,… Do vậy, có thể nói, cảm hứng chính trong
truyền thuyết là cảm hứng tôn vinh lịch sử, tôn vinh quá khứ. Trong giai thoại, sự kiện,
tình tiết được nhắc đến đều mô phỏng những diễn biến thực tế, gắn với những sinh
hoạt đời thường. Từ đó, làm nổi bật lên tính cách, đặc điểm ứng xử của nhân vật.
Những tình tiết của giai thoại đa phần có phần bên lề, phi chính thống về đối tượng, dù
họ có là người nổi tiếng trong thời đại của mình. Khi nghe, kể một giai thoại, người ta
hẳn nhiên không bao giờ đặt câu hỏi rằng những tình tiết trong văn bản là có thật hay
không mà tin rằng hoặc muốn tin rằng có thật.
Khía cạnh đời tư, cá nhân này cũng có căn rễ lịch sử, thoát thai từ chính thời đại
sản sinh ra nó. Trong công trình Đặc trưng thể loại và việc văn bản hóa truyền thuyết
dân gian Việt Nam, PGS Trần Thị An đã có những kiến giải đáng chú ý về xu hướng
thế sự hóa trong văn học nói chung và truyền thuyết nói riêng: “Những lý do nho học,
văn học, xã hội đó đã khiến cho các tác giả văn xuôi thế kỷ XVIII – XIX có hứng thú
cao độ đối với thực tại. Nhu cầu hướng tới quá khứ đã bị mờ đi, thay vào đó là nhu
cầu khám phá, mô tả hiện tại. Trong xu thế đó, các vị nhân thần trong quá khứ đã bị
kéo gần về với hiện thực bằng nhiều cách” [2, tr.261].
- Về mặt ngôn ngữ kể chuyện: Trên cái nhìn đại thể, có thể chia ngôn ngữ trong
tự sự dân gian thành ngôn ngữ người kể và ngôn ngữ lời nói của nhân vật. Về mặt
ngôn ngữ kể, ngôn ngữ kể của truyền thuyết thường mang tính chất giản dị, đời thường
nhưng vô cùng thành kính, trang nghiêm, gắn với cảm xúc, thể hiện trong những câu
chuyện về người anh hùng. Trong khi đó, bên cạnh tính chất trang trọng, ngôn ngữ kể
trong giai thoại cũng mang tính chất giễu nhại, trào tếu.
Về ngôn ngữ nhân vật: trong truyền thuyết, đặc biệt là những truyền thuyết muộn
về sau, như đã trình bày ở trên, nhân vật ít khi đối thoại, những trường hợp có xuất
hiện tình tiết thoại của nhân vật thường là những chi tiết rất đắt, có thể tạo nên motif
tình tiết (chẳng hạn, motif tình tiết lời nói cuối cùng của nhân vật mà Võ Phúc Châu
xác định được trong hệ thống truyền thuyết chống Pháp ở Nam Bộ (1958 – 1918)).
Nhìn chung, ngôn ngữ của nhân vật trong truyền thuyết muộn mang đặc điểm hệ quy
chuẩn đạo đức rất cao, miễn dịch hoàn toàn với mảng ngôn ngữ đậm chất “dân gian”
với những thủ pháp rất “bình dân” trong giai thoại văn học, giai thoại văn hóa như:
162
tiếng tục, nói lái, hình tượng hai mặt,… Chẳng hạn, trong truyền thuyết, khó ai có thể
chấp nhận kiểu “nói năng” như trong giai thoại văn hóa dân gian về nghệ nhân Trần
Hàn với cô gái khuyết danh như sau (lược kể): Cô gái thách đố nếu Trần Hàn đáp lại
được lời hò của mình, thì sẽ chấp nhận làm vợ thứ tư của ông. Nhưng lời hò quá ư lắt
léo, và hơn nữa là còn quá thô tục theo nghĩa ẩn dụ. Câu này hò như sau: “Quần em
rách dọc rách ngang/ Thầy liệu thầy hàn em trả công cho”. Cô gái đã khéo léo đưa
tên cha (thầy Liệu, làm thầy đồ dạy học) và tên con (thầy Hàn – tức Trần Hàn) vào câu
hò, theo thủ pháp chơi chữ đồng âm. Nhưng ngụ ý của câu hò thì khó có thể chấp nhận
được: lấy tên hai cha con vá vào chỗ giao điểm của hai đường ngang, dọc trên quần
của người phụ nữ! Mà thực ra, làm sao có thể vá cho lành chỗ đó được? (Chết vì một
câu hò) [113, tr.490 – 491]. Tóm lại, trong truyền thuyết, vì mục đích thể loại muốn
hướng đến là tôn vinh, ngợi ca người anh hùng, cho nên khó có thể nào tồn tại loại
ngôn ngữ tinh nghịch, dân gian (theo hướng tục) như trong giai thoại.
4.1.2. Mối quan hệ giữa giai thoại và truyện cười
Về sự phân loại truyện cười, có nhiều quan niệm, ý kiến khác nhau. Tuy nhiên,
luận án tiếp thu quan niệm phân loại của PGS Hoàng Tiến Tựu với lý do: cách phân
loại của tác giả phù hợp cho sự đối sánh giữa giai thoại với truyện cười theo tiêu chí
NVC (gồm có tính danh và khuyết danh/phiếm chỉ). Trong giáo trình Giai thoại văn
học dân gian Việt Nam [133], Hoàng Tiến Tựu đã chia truyện cười thành hai loại:
truyện cười kết chuỗi và truyện cười không kết chuỗi. Trong đó, truyện cười không kết
chuỗi có NVC phiếm chỉ và truyện cười kết chuỗi gắn với NVC xác định, có tính danh
hẳn hoi (mà các nhà nghiên cứu khác gọi là truyện trạng). Sau đây, luận án sẽ đi vào
phần phân tích những điểm tương đồng và dị biệt giữa giai thoại và truyện cười (theo
hai bộ phận trên).
4.1.2.1. Mối quan hệ giữa giai thoại với truyện cười không kết chuỗi
Trên đại thể, truyện cười không kết chuỗi và giai thoại có những nét tương đồng
với nhau, cho nên dẫn đến tình trạng nhập nhằng trong việc phân loại. Nhìn vào thực
tiễn sưu tầm giai thoại và truyện cười ở Việt Nam, chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận
ra điều đó. Qua tìm hiểu, chúng tôi đưa ra bảng so sánh những điểm tương đồng và dị
biệt giữa giai thoại và truyện cười không kết chuỗi như sau:
163
Bảng 4.3. So sánh giữa giai thoại và truyện cười
TIÊU CHÍ SO SÁNH GIAI THOẠI TRUYỆN CƯỜI
Cảm hứng
Nhân vật
Ngôn ngữ
ĐIỂM
GIỐNG
NHAU
Đả kích, phê phán các thế lực vương quyền, thần quyền;
các thói hư, tật xấu của xã hội
Có cùng kiểu NVC khuyết danh
- Giàu tính trí tuệ
- Có sử dụng yếu tố tục
Hài hước, dí dỏm, phê phán
Thường ngắn gọn
Có thể tin hay không tin Giọng kể
Dung lượng
Thái độ người
tiếp nhận
Nhân vật - Chỉ có nhân vật khuyết danh
(không có nhân vật là người
nổi tiếng, tính danh)
Chủ yếu là những mâu thuẫn
trên lĩnh vực xã hội Lĩnh vực phản
ánh ĐIỂM
KHÁC
NHAU
tạo Kết cấu Dựa vào logic mâu thuẫn để
gây tiếng cười
- Kiểu loại đa dạng,
lĩnh vực
gồm nhiều
khác nhau (Nhân vật trí
thức; ngông; nhà nho
tài tử, nhà nho ẩn dật;
nghệ nhân dân gian;
nghệ sĩ sân khấu;…)
- Nhân vật có tính danh
và một bộ phận khuyết
danh
3 lĩnh vực: văn học,
lịch sử và văn hóa
Motif trung tâm (hạt
nhân):
- Thách đố văn chương
- Làm
tình
thơ
huống
-Thách đố, ứng biến
trong hò hát, sân khấu
thức văn Có tính kết chuỗi Không có tính kết chuỗi Hình
bản
Những điểm tương đồng giữa giai thoại và truyện cười không kết chuỗi
Về những nét tương đồng giữa hai thể loại này, chúng tôi xác định được một số
khía cạnh cơ bản sau:
- Về cảm hứng: cả hai có cùng cảm hứng đả kích phê phán thế lực vương quyền,
thần quyền và cả những thói hư tật xấu trong xã hội. Trong truyện cười không kết
chuỗi và giai thoại, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những người đại diện cho vương
quyền, thần quyền ở dạng khuyết danh (vua chúa, quan lại, thầy tu, thầy đồ, thầy lang,
thầy pháp, thần thánh,…) nằm trong đối tượng đả kích của truyện. Đây cũng là điều
mà các nhà nghiên cứu giai thoại đi trước đã chỉ ra được. Tuy nhiên, cũng cần phải
164
khẳng định ngay rằng, trong sự tương đồng về cảm hứng đả kích này cũng đã hé mở
điểm khác biệt rõ nét: trong truyện cười, những người đại diện cho vương quyền, thần
quyền không bao giờ là những nhân vật cụ thể, xác định, có hành trạng hẳn hoi như
trong giai thoại. Các ông vua, ông quan, thần thánh,… trong truyện cười là những
nhân vật phiếm chỉ đại diện cho cả giai tầng của họ. Không bao giờ các ông vua, ông
quan đó có thể được nêu tên một cách đích danh như trong giai thoại. Chẳng hạn,
trong giai thoại, chúng ta có thể bắt gặp những Minh Mạng, Tự Đức, Bà Chúa Liễu
Hạnh,… được gọi tên hẳn hoi và trở thành đối tượng châm chọc, hạ bệ của NVC. Như
vậy, có thể khẳng định rằng một bộ phận của giai thoại khuyết danh (nằm trong tiểu
loại giai thoại văn học và giai thoại văn hóa dân gian) là giao nhau rõ rệt với truyện
cười (cùng cảm hứng và cùng dạng NVC khuyết danh).
- Về nhân vật: truyện cười không kết chuỗi tất nhiên chỉ có NVC là nhân vật
khuyết danh (hay phiếm chỉ) và dù cho NVC của nó có được gán cho một cái tên nào
đó, thì sự có mặt của tên tuổi đó cũng chỉ mang tính chất chung chung. Nói khác đi,
NVC của truyện cười được khái quát thành một loại người, hạng người trong xã hội.
Còn trong giai thoại, có hai kiểu NVC: có tính danh (người nổi tiếng) và khuyết danh.
Như vậy, sự giao nhau về mặt nhân vật giữa giai thoại và truyện cười nằm ở bộ phận
những giai thoại có NVC khuyết danh trong kho tàng giai thoại, chứ không phải là tất
cả. Đây cũng là điểm mà nhiều nhà nghiên cứu giai thoại đã chỉ ra được. Tuy nhiên,
theo chúng tôi kiến giải trên chưa đủ sức thuyết phục mà cần phải nói thêm cách thức
xây dựng hình tượng nhân vật trong hai thể loại. Trong truyện cười, cách xây dựng
nhân vật chủ yếu thông qua hành động gây cười. Hành động đó thường được cường
điệu hóa, qua đó bộc lộ bản chất thực bên trong. Đó chính là cơ sở để xây dựng nhân
vật. Còn trong giai thoại, nhân vật thường đứng trước các tình huống ứng xử trong
sinh hoạt văn chương, sinh hoạt văn nghệ dân gian hoặc trong các hoạt động triều
chính với các hình thức thách đố - giải đố, ứng tác,… mà luận án đã bàn đến ở Chương
3. Cố nhiên, cường điệu cũng là một thủ pháp được giai thoại sử dụng để xây dựng
nhân vật nhưng nó thường không hướng đến tiếng cười mà hướng đến sự ca ngợi, đề
cao trí tuệ của nhân vật. Ví dụ, Lê Quang Bí phơi bụng giữa trưa để khoe chữ nghĩa,
Lê Quý Đôn chép một hơi cả cuốn sổ ghi nợ của nhà buôn, Cao Bá Quát cởi truồng để
xem vua,… Như vậy, sự cường điệu trong giai thoại bất chấp các nguyên tắc, ứng xử
cốt sao đạt mục tiêu thể hiện cái ngông của nhân vật, mang tính cách cá thể của nhân
vật ấy.
Trong giai thoại văn học, dù NVC là các nhà nho, nhà khoa bảng đi chăng nữa,
165
thì không ít trường hợp họ vẫn viện đến yếu tố tục để giải quyết tình huống. Chẳng
hạn, chùm giai thoại đối đáp giữa Đoàn Thị Điểm và Trạng Quỳnh, Hồ Xuân Hương
với Chiêu Hổ toàn là những biểu tượng hai mặt, mang đậm phong cách văn chương
bác học. Các giai thoại sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian của các nghệ nhân như:
Trần Hàn, cô Long, cô Nhẫn, O Tộ, cô Nhẫn,… chứa đựng hàng loạt những hình ảnh
có liên quan đến sinh thực khí nam nữ, động tác giao hoan, hay thậm chí là đi vệ sinh
của nhân vật.
Còn trong truyện cười không kết chuỗi, ta có thể thấy yếu tố tục xuất hiện trong
hàng loạt truyện, cũng trở thành một đặc điểm đáng chú ý về mặt ngôn ngữ, chẳng
hạn: Úm ba la, ba ta cùng khỏi; Thuốc mọc râu; Lấy giống trâu; Thả cả ra;… Cái tục
trong truyện cười nhìn chung mang phong cách dân gian đậm nét. Còn trong giai thoại,
ngoài phong cách dân gian ra, còn có cả cái tục theo phong cách bác học. Ví dụ, “áp
tam thuỳ”, “hang hùm” (Hồ Xuân Hương), “nhất thốn thổ” (Đoàn Thị Điểm), “ngọc
hành” (Nguyễn Khuyến);… để trỏ vào sinh thực khí nam, nữ.
- Về giọng điệu: cả hai gặp nhau ở điểm vận dụng ngôn ngữ mang tính dí dỏm,
trào phúng và cả phê phán.
- Về thái độ người tiếp nhận: khi tiếp nhận truyện cười không kết chuỗi, người ta
không đặt ra vấn đề tin những gì được nói đến. Thái độ tiếp nhận như vậy chắc hẳn có
liên quan phần nào đến khía cạnh chức năng của thể loại. Ở điểm này, chức năng giải
trí, mua vui của truyện cười rõ ràng rất nổi bật. Nhưng khi thưởng thức một giai thoại,
điều mà người nghe/đọc cần là tính hấp dẫn của câu chuyện và mơ hồ tin vào tính xác
thực của nó.
Những điểm khác biệt giữa giai thoại với truyện cười không kết chuỗi
Điểm khác biệt lớn nhất để có thể phân biệt truyện cười không kết chuỗi và giai
thoại theo chúng tôi là nằm ở phần kết cấu. Kết cấu của giai thoại tùy theo từng tiểu
loại, từng nhóm mà có cơ sở triển khai trên những motif hạt nhân khác nhau (như đã
trình bày ở bảng so sánh và sẽ được triển khai một cách cụ thể ở Chương 4 luận án).
Trong đó, kết cấu này căn bản hướng đến những hành động, ứng xử của các nhân vật
trên các phương diện: đối đáp văn chương (giai thoại văn học), đối đáp trong hò hát,
ứng biến trên sân khấu (giai thoại văn hóa dân gian), ứng xử trước thời thế (giai thoại
lịch sử),… với mục đích cốt lõi là đề cao Tài và Đức của nhân vật. Dù trong giai thoại
văn học, giai thoại văn hóa dân gian có thể xuất hiện tiếng cười nhưng tiếng cười đó
không nằm trong mục đích đả phá mà khung kết cấu hướng đến. Còn kết cấu căn bản
của truyện cười là dẫn dắt các tình tiết trên cơ sở mâu thuẫn để vạch trần bản chất của
166
đối tượng: xấu – đẹp; tầm thường – cao quý; phi lý – có lý; hình tượng – tư tưởng;
máy móc – sinh động;… nhằm mục đích tối thượng là tạo ra tiếng cười phê phán cái
phi lý. Một truyện cười mà khi nghe xong, người ta chẳng buồn cười, thì coi như là
thất bại.
4.1.2.2. Mối quan hệ giữa giai thoại và truyện cười kết chuỗi
Như đã đề cập, giai thoại gồm có hai bộ phận phân biệt nhau rõ rệt về mặt nhân
vật: một loại gắn với nhân vật người nổi tiếng, có tính danh và một loại lại gắn với
nhân vật khuyết danh. Do vậy, sự nhập nhằng giữa giai thoại và truyện trạng chủ yếu
xảy ra ở loại thứ nhất, tức là ở dạng nhân vật người nổi tiếng. Trong phạm vi truyện
trạng đó là những nhân vật được nhân dân gọi là các ông trạng. Tuy nhiên, đây là vấn
đề khá phức tạp nên xin đi sâu vào mấy khía cạnh thể loại.
Lật lại lịch sử nghiên cứu về truyện trạng và giai thoại, chúng ta sẽ thấy nổi lên
một số quan niệm nổi bật. Trong đó, có quan niệm cho rằng truyện trạng thật ra là
một bộ phận của giai thoại. Đây là quan niệm của các tác giả: Lê Bá Hán (trong
Thuật ngữ nghiên cứu văn học), Vũ Ngọc Khánh (trong Truyện trạng Việt Nam, Dẫn
luận nghiên cứu folklore Việt Nam, Kho tàng giai thoại Việt Nam) (Dẫn lại theo
Nguyễn Chí Bền, Khái luận Truyện cười, Tập 9, phần Truyện trạng, Tổng tập Văn học
dân gian người Việt [16, tr.16]); Hoàng Tiến Tựu (Giáo trình Văn học dân gian Việt
Nam) [135] và Lê Chí Quế (Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam) [125].
Trong phần Phân loại truyện cười của giáo trình Văn học dân gian Việt Nam,
Hoàng Tiến Tựu đã chia truyện cười thành hai loại chính: truyện cười không kết chuỗi
(gắn với NVC khuyết danh) và truyện cười kết chuỗi (gắn với NVC có tính danh). Và
mặc dù nhà nghiên cứu không gọi truyện cười kết chuỗi là giai thoại nhưng trong tư
duy khoa học, Hoàng Tiến Tựu đã xem nhóm này là giai thoại. Ông viết như sau: “Đó
là những mẩu giai thoại hài hước, trào lộng về các nhân vật nổi tiếng như Trạng
Quỳnh, Trạng Lợn, Ba Giai, Tú Xuất, Xiển Bột, Thủ Thiệm, Ba Phi… Ở đây nhân vật
trung tâm của chuỗi truyện (hay giai thoại) chẳng những có tính cách xác định xã hội
cụ thể, có tính cách độc đáo và tương đối nhất quán, mà còn có tên riêng, có “lý lịch”
rõ ràng, mặc dù phần lớn là hư cấu, thêu dệt (phần hư nhiều hơn phần thực) [135,
tr.101].
GS Lê Chí Quế trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam cũng có cùng quan
điểm như vậy. Mặc dù Lê Chí Quế (người chấp bút phần Truyện cười) không biện giải
về thuật ngữ tuy nhiên, qua cách định danh truyện cười giai thoại (gồm 1. Truyện
Trạng Quỳnh; 2. Truyện Trạng Lợn; 3. Truyện Ông Ó [125, tr.145 – 153]), thì cũng có
167
thể kết luận rằng: tác giả đã mặc nhiên xem truyện trạng là giai thoại (hoặc chí ít là
truyện dân gian có tính chất giai thoại). Tác giả viết: “Chức Trạng chỉ là một danh
hiệu có tính chất dân gian và hệ thống truyện Trạng Quỳnh là loại truyện có tính chất
giai thoại. Gọi truyện Trạng Quỳnh là loại truyện giai thoại vì rất có thể những truyện
này được xây dựng trên cơ sở chất liệu thực tế của Nguyễn Quỳnh làng Bột Thượng
(và về sau ra sống ở Thăng Long)” [125, tr.146]. Như vậy, cơ sở lý luận khi xếp
truyện trạng vào giai thoại của Hoàng Tiến Tựu, Lê Chí Quế là căn cứ vào tiêu chí: hư
cấu nhân vật dựa trên nền tảng một nhân vật khởi hình lịch sử có thật trong thực tế
(prototype).
Vẫn dựa trên cơ sở nhân vật có thật trong đời sống thực tế, các nhà nghiên cứu đi
sau cũng có những lý lẽ riêng để đưa truyện trạng vào giai thoại. Trong các nhà nghiên
cứu folklore Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh là người nhất quán nhất trong việc xếp truyện
trạng vào giai thoại, xem truyện trạng như một bộ phận của giai thoại. Nhưng khác với
Lê Chí Quế, ông xếp nó vào tiểu loại giai thoại folklore chứ không phải truyện cười.
Trong Kho tàng giai thoại Việt Nam, tác giả viết: “Biên soạn thơ văn trào phúng,
chúng ta thường phải cân nhắc và giải quyết các vấn đề như: chuyện Trạng Lợn,
Trạng Quỳnh, Ba Giai, Tú Xuất từ xưa mặc nhiên xem là truyện tiếu lâm (!), nay nếu
cho là giai thoại thì e rằng có nhiều cấn cớ. Trong khi đó, trên thế giới, những chuyện
xoay quanh Naxredin, truyện chàng Tin, chuyện Bitban,… người ta đã đưa vào giai
thoại mà không thấy có băn khoăn gì” [89, tr.24]. Cũng xem truyện trạng nằm trong
phạm vi giai thoại nhưng tác giả Kiều Thu Hoạch thì cho rằng một bộ phận truyện
trạng gắn liền với thơ văn, câu đối là một nhóm của giai thoại văn học (chứ không phải
thuộc về văn hóa dân gian như quan niệm của Vũ Ngọc Khánh). Ông viết như sau:
“Một số giai thoại về các cuộc đối chọi thơ văn trong hệ thống các nhân vật cơ trí mà
lâu nay ta vẫn quen gọi là truyện trạng – Trạng Quỳnh, Xiển Ngộ, Tú Xuất… đều có
thể xếp vào giai thoại văn học mà không có gì phải băn khoăn” [67, tr.31].
Cơ sở lý luận của Vũ Ngọc Khánh và Kiều Thu Hoạch là căn cứ vào định nghĩa
giai thoại của Guxev (trong Mỹ học folklore): “…Những giai thoại có thể kết chuỗi
xung quanh một nhân vật quen thuộc với đại chúng (populaire), có thể là nhân vật lịch
sử hoặc tưởng tượng…” (Dẫn lại theo Kiều Thu Hoạch [67, tr.29]). Tức là vừa căn cứ
vào tính kết chuỗi về mặt văn bản, vừa căn cứ vào tính hư cấu dựa trên khởi hình lịch
sử (prototype) trong tư duy sáng tạo giai thoại đã nêu ở trên. Tuy vậy, hai tác giả lại có
sự khác nhau trong việc xếp truyện trạng vào tiểu loại nào của giai thoại: Vũ Ngọc
Khánh căn cứ vào sinh hoạt và sáng tác folklore để xếp truyện trạng vào giai thoại
168
folklore, trong khi Kiều Thu Hoạch căn cứ vào tiêu chí hình thức thơ văn để xếp nó
vào trong giai thoại văn học.
Và với quan niệm như vậy, Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch – trong các công
trình giới thiệu giai thoại – đã xếp các truyện về: Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Trạng Vật,
Trạng Ăn, Trạng Cờ, Trạng Bờ Ao (Tả Ao), Trạng Tư Thiên, Trạng Trịnh, Trạng
Khiếu, Ba Giai, Tú Xuất, Xiển Ngộ, Thủ Thiệm, Thượng Nành, Mân Nhụy, … vào kho
tàng giai thoại Việt Nam. Không chỉ có Vũ Ngọc Khánh, tình hình xếp truyện trạng
vào giai thoại cũng xảy ra ở những công trình sưu tầm, giới thiệu giai thoại khác.
Chẳng hạn như công trình Giai thoại văn học Việt Nam (1965) [65] của Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh Mại có 04 văn bản về Trạng Quỳnh (Miệng kẻ
sang, đồ nhà khó; Chó khôn chớ cắn càn; Tú Cát - Bọ hung; Xơi hai trứng). Sách Giai
thoại đất Quảng của tác giả Hoàng Hương Việt cũng đưa 05 văn bản về Thủ Thiệm
vào giai thoại (Bảy ngày làm thủ sắc, Chỉ giam đầu, Hương Đại gặp xui, Dẹp bàn thờ
chồng, Chơi chữ). Quyển Giai thoại Thăng Long của Vũ Ngọc Khánh, Đỗ Thị Hảo
cũng xếp 03 văn bản về Ba Giai, Tú Xuất vào giai thoại (Mắc mưu cậu tú, Hễ ai mà
nói dối ai, tối ba mươi tết…, Bốn bức chân dung).
Như vậy, riêng mỗi xu hướng xem truyện trạng là một bộ phận của giai thoại
cũng đã phân hóa thành hai quan điểm khác biệt, rộng và hẹp khác nhau. Điều đó cho
thấy vấn đề mối quan hệ giữa truyện trạng và giai thoại là không hề giản đơn, bắt buộc
đã đến lúc phải đưa ra những kiến giải nhằm phân định một cách chính xác, khoa học
hơn về lằn ranh của chúng. Qua tìm hiểu, chúng tôi bước đầu đưa một số điểm đáng
chú ý như sau:
Giữa giai thoại và truyện trạng có khá nhiều điểm tương đồng có thể tìm thấy
dưới góc độ cảm hứng, nhân vật, ngôn ngữ,… (tương tự như trường hợp truyện cười
không kết chuỗi ở trên). Do vậy, ở đây, luận án không điểm qua những điểm tương
đồng dễ nhận diện đó mà tập trung đi vào những điểm khác biệt căn bản để khu biệt về
mặt thể loại.
- Về nhân vật: nhân vật trong giai thoại rõ ràng đa dạng hơn, vì nó hiện diện
trong nhiều lĩnh vực (văn học, văn hóa, lịch sử), còn trong truyện trạng, hiển nhiên chỉ
gói gọn trong danh xưng mà nhân dân gọi là “trạng”. Mà thực chất nhân vật trạng dần
được đồng hóa với nhân dân về thái độ phản kháng đối với chế độ. Vì vậy, xét về nhân
vật, rõ ràng mang tính biểu tượng hơn là con người cá thể. Một điểm nữa, góp phần
xác định ranh giới giữa truyện trạng và giai thoại là ở kiểu loại nhân vật của truyện
trạng. Nguyễn Chí Bền trong Khái luận về truyện trạng cũng đã khẳng định điều này:
169
“Nhân vật truyện trạng là nhân vật ở thế lưỡng phân: vừa là nhân vật sáng tạo, vừa là
nhân vật trung tâm của hệ thống truyện kể” [16, tr.17]. Ví dụ, các truyện về Nguyễn
Kinh và Ba Phi. Trong giai thoại, không có trường hợp như vậy.
- Về không gian hoạt động: Lĩnh vực phản ánh trong giai thoại như đã nói bao
gồm 3 lĩnh vực (văn học, văn hóa và lịch sử). Điều này thể hiện qua những cuộc đối
kháng giữa trạng với các nhân vật quan phương. Ví dụ, Trạng Quỳnh đối kháng với
chúa Trịnh và cả hệ thống quan lại của triều đình. Do vậy, có thể nói rằng lĩnh vực
phản ánh của giai thoại rộng hơn so với truyện trạng.
- Về kết cấu: cả hai cũng có cách triển khai kết cấu không giống nhau. Với giai
thoại văn học, ta có hai dạng kết cấu cơ bản (xoay quanh 2 motif hạt nhân là thách đố
văn chương và làm thơ tạo tình huống, tạo thành hai nhóm giai thoại là giai thoại văn
học về thách đố văn chương và giai thoại văn học về ứng tác văn chương). Với giai
thoại văn hóa dân gian, thì từng nhóm riêng lẻ của nó cũng có những dạng kết cấu
riêng biệt. Ví dụ, nhóm giai thoại sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian, ta có kết cấu
xoay quanh motif thách đố trong hò hát, với nhóm giai thoại sân khấu, tuồng chèo, cải
lương, ta có kết cấu xoay quanh motif hạt nhân là ứng biến (trong khi diễn xuất). Còn
trong truyện trạng, theo Nguyễn Chí Bền, đó là kết cấu xoay quanh sự mâu thuẫn giữa
trạng và tập đoàn thống trị, được triển khai theo hai hướng: 1. Trạng >< vua chúa và
2. Trạng >< tập đoàn thống trị (Nguyễn Chí Bền, [16, tr.39]).
Tựu trung lại, mỗi quan niệm vừa dẫn ra ở trên (xem truyện trạng là một thể loại
độc lập của văn học dân gian, xem truyện trạng là giai thoại với tư cách một tiểu loại
của truyện cười, xem truyện trạng là giai thoại văn hoá dân gian và giai thoại văn học)
đều có những lý lẽ riêng của nó. Tuy nhiên, theo suy nghĩ của chúng tôi, giai thoại và
truyện trạng tuy có những điểm giao nhưng trên đại thể, chúng có những điểm khác
biệt cơ bản như đã trình bày ở trên.
4.1.3. Mối quan hệ giữa giai thoại và cổ tích
Bên cạnh mối quan hệ với truyền thuyết, truyện cười, giai thoại cũng có mối
quan hệ với một thể loại khá quen thuộc khác trong tự sự dân gian. Đó là cổ tích. Để
làm rõ điều này, xin đi vào phân tích một số kiểu truyện tiêu biểu, trong đó, làm nổi rõ
lên vấn đề giao thoa và chuyển hóa thể loại giữa cổ tích (sinh hoạt) và giai thoại (văn
học).
Thứ nhất, kiểu truyện kén rể
Trong cổ tích sinh hoạt, hình thức thi tài để kén rể khá đa dạng và không có sự
xuất hiện của thơ văn; còn trong giai thoại, phải có sự hiện diện của thơ văn (thi tài
170
văn chương). Qua khảo sát 03 văn bản: Thơ ngựa ông phi (giai thoại văn học) và Kén
rể hay chữ và Một cuộc tranh tài (Xin xem Phụ lục), có thể thấy một số điểm sau:
Trong Kén rể hay chữ, nội dung văn chương là thứ yếu (vắng bóng) và được thay
bằng khả năng ứng biến (tức mưu trí) của nhân vật. Còn trường hợp thứ hai, trong
truyện Một cuộc tranh tài, nhân vật chàng trai là người giỏi văn chương (làm văn sách
– một thể loại văn chương dùng trong khoa cử thời phong kiến). Trong cuộc thi tài
nhằm kén rể này, khả năng trí tuệ đó đã hòa lẫn vào khả năng thể chất của các nhân vật
khác (tức NVĐT của anh ta). Tóm lại, trong cổ tích sinh hoạt, hình thức thi tài bằng
văn chương xuất hiện chưa thật rõ nét, chưa trở thành nội dung phản ánh quan trọng và
tiên quyết như trong giai thoại văn học. Sự có mặt hay vắng bóng của nội dung văn
chương không làm tổn tại đến nội dung cốt truyện.
Trong giai thoại văn học (về thách đố văn chương), nội dung văn chương đóng
vai trò nòng cốt trong sự vận động của cốt truyện, trở thành yếu tố không thể thiếu
vắng. Trong cốt truyện về nhóm giai thoại thách đố văn chương, một khi đã xuất hiện
tình tiết thách đố văn chương thì hiển nhiên sẽ xuất hiện tình tiết giải đáp thách đố văn
chương (gọi tắt là giải đố). Đó là công thức cấu tạo đã định hình và cốt lõi nhất của
nhóm giai thoại này. Do vậy mà, trong giai thoại Thơ ngựa ông phi, mặc dù có cùng đề
tài – cốt truyện là đề cập đến việc kén rể nhưng nội dung thơ văn của nó trở thành yếu
tố quan trọng trong sự vận động của cốt truyện. Cả ba chàng trai đóng vai trò là những
người thi tài để được vợ. Tài năng ở đây được giới hạn ở phạm vi rất hẹp là khả năng
văn chương. Ba nhân vật đều tức cảnh sinh tình, sáng tác 03 bài thơ rất nhanh theo yêu
cầu nêu ra từ đầu. Thiếu đi yếu tố thơ văn, cốt truyện sẽ bị phá vỡ và do đó, bản thân
tác phẩm sẽ không còn là giai thoại nằm trong nhóm thách đố văn chương. Nói khác
đi, thơ văn trong giai thoại văn học là yếu tố bắt buộc phải có mặt trong cấu trúc của
thể loại, còn trong cổ tích sinh hoạt, yếu tố thơ văn chỉ đóng vai trò thứ yếu, không
làm ảnh hưởng đến cốt truyện của nó.
Thứ hai, kiểu truyện Em bé thông minh
Trong cổ tích (sinh hoạt), kiểu truyện về nhân vật (là em bé) thông minh khá phổ
biến trong kho tàng cổ tích Việt Nam cũng như các nước trên thế giới. Trong công
trình Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, GS Nguyễn Đổng Chi đã giới thiệu truyện Em
bé thông minh (Xin xem văn bản trong Phụ lục). Trong phần Khảo dị, GS Nguyễn
Đổng Chi đã chỉ ra tính chất phổ biến của kiểu truyện này trong kho tàng truyện trạng
(Trạng Quỳnh của người kinh, Dê đực chửa), kho tàng truyện cổ tích của các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam, cũng như kho tàng cổ tích của các dân tộc trên thế giới. Với kiểu
171
truyện này, chúng tôi tập trung sự chú ý vào tình tiết người duy nhất giải được câu đố
của sứ giả. Bởi lẽ, tình tiết này đánh dấu sự giao thoa về mặt thể loại giữa cổ tích (sinh
hoạt) và giai thoại (văn học).
Qua khảo sát giai thoại, chúng tôi nhận thấy tình tiết người duy nhất giải được
câu đố của sứ giả xuất hiện ở 03 đơn vị tác phẩm có liên quan đến các bậc đại khoa
thời phong kiến là: Nguyễn Hiền (Trạng nguyên về học lễ), Lê Quý Đôn (Thư mượn
áo cừu), Nguyễn Đăng Cảo (Phong nguyệt vô biên). Trong cổ tích, câu đố có phạm vi
rộng, xoay quanh chuyện sinh hoạt và chủ yếu dùng mưu mẹo để xử lý tình huống,
vượt thử thách. Còn trong giai thoại, câu đố đã được “bác học hóa” (văn chương hóa),
theo kiểu chiết tự như đã phân tích ở các phần trước của luận án. Có thể đây là sự
chuyển hóa theo hướng:
Câu đố trong cuộc sống thường nhật Câu đố trong lĩnh vực văn chương
Sơ đồ 4.4. Sự chuyển hóa hình thức câu đố từ cổ tích sang giai thoại
Thứ ba, kiểu truyện Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng
Trong sự ảnh hưởng từ cổ tích, giai thoại còn vận dụng lại kiểu truyện Chưa đỗ
ông nghè đã đe hàng tổng. Theo Từ điển type truyện dân gian Việt Nam, trong cổ tích
có 04 bản kể (đều của người Kinh) có liên quan là: Chưa đỗ ông nghè; Chưa đỗ ông
nghè đã đe hàng tổng; Người học trò và con chó đá; Chuyện con chó đá. Theo đó, có
hai tình tiết đáng lưu tâm: 1. Tượng thần mừng rỡ khi gặp anh học trò; 2. Sự thay đổi
tính tình của anh học trò và người cha (khiến cho thượng đế nổi giận mà trừng phạt
bằng cách thay đổi sổ thiên đình). Trong giai thoại, kiểu truyện này xuất hiện trong
trường hợp nhà khoa bảng Lương Thế Vinh với tình tiết tương tự: “Tục truyền, Thế
Vinh đã thác sinh ở huyện Nam Xang. Khi lên 7, 8 tuổi, cùng trẻ con đi học. Bên cạnh
đường có một con chó đá, mỗi khi Thế Vinh đi qua, thì con chó đá ấy vẫy đuôi mà
mừng” [17, tr.110]. Sự thay đổi tính tình của người cha đã khiến Trạng Lường thất
vọng mà tái sinh ở một ngôi làng bên cạnh. Như vậy, đã có sự tiếp biến qua cách thức
lịch sử hóa anh học trò khuyết danh thành Lương Thế Vinh trên cái nền của cổ tích.
Thứ tư, kiểu truyện Anh học trò và ba con quỷ
Trong công trình Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi đã giới
thiệu truyện Anh học trò và ba con quỷ cùng với một số dị bản của nó (Xin xem Phụ
lục). Cốt truyện này có thể tóm lược như sau: Anh học trò bắt và tha mạng cho ba con
quỷ → được tặng 03 vật thần kỳ (mặt trời, mặt trăng và con ngựa thần) → thi đỗ tiến
sĩ và làm quan.
172
Có công thức cấu tạo tương tự, câu chuyện về sự học hành, tiến thân của Bảng
nhãn Đỗ Uông (thời Mạc) cũng được sách Nam Hải dị nhân liệt truyện chép lại trong
truyện Phạm Trấn – Đỗ Uông. Cốt truyện có thể tóm tắt theo sơ đồ sau: Đỗ Uông bắt
và tha mạng cho con quỷ → được tặng vật thần kỳ (viên ngọc) → học hành thông
minh → đỗ bảng nhãn và làm quan,…
Các nhà nghiên cứu đi trước (Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch,...) cũng đã từng
lưu ý đến sự chuyển hóa thể loại từ cổ tích (sinh hoạt) sang giai thoại (văn học) xảy ra
ở nhóm truyện có liên quan đến nhân vật thông minh trong các tình huống đối đáp văn
chương. Và các nhà nghiên cứu cho rằng, nguyên nhân của hiện tượng trên là do xu
hướng lịch sử hóa trong việc sáng tạo giai thoại. Cơ chế của xu hướng này là: sử dụng
lại các câu chuyện có sẵn, chỉ thay đổi tên NVC từ NVC khuyết danh sang NVC có
tính danh, người nổi tiếng. Ví dụ, cổ tích (sinh hoạt) Anh học trò sửa liễn cửa ngõ phủ
ông hoàng có NVC là em bé chuyển thành NVC là Cao Bá Quát sửa câu đối của vua
Tự Đức (giai thoại Tự tiện chữa văn của vua); cổ tích (sinh hoạt) Đứa trẻ ngỗ ngược
có NVC là em bé chuyển thành NVC là trạng nguyên Nguyễn Hiền (giai thoại Trạng
nguyên về học lễ),...
Do vậy, rất có thể lịch sử hóa cổ tích sinh hoạt chính là một trong những cách
thức sáng tạo ra một bộ phận giai thoại văn học. Đây cũng là điều mà nhiều nhà
nghiên cứu đi trước đã đề cập. Từ đó, có thể khái quát quá trình chuyển hóa thể loại từ
Cố tích (sinh hoạt)
Giai thoại (văn học)
cổ tích sang giai thoại như sau:
Lịch sử hóa
Sơ đồ 4.5. Quy luật chuyển hóa thể loại từ cổ tích sang giai thoại
4.2. Mối quan hệ giữa giai thoại và lịch sử
Như đã đề cập ở Chương 3, tính chất hư cấu và sai lệch của giai thoại đã tất yếu
đặt ra vấn đề mang tính chất lý luận về mặt thể loại, đó là mối quan hệ giữa giai thoại
và lịch sử. Lịch sử ở đây theo chúng tôi hiểu là sử quan phương, chính thống của nhà
nước phong kiến, chứ không phải là những câu chuyện được truyền tụng trong dân
gian (dã sử). Việc nghiên cứu (dưới góc nhìn so sánh) giữa giai thoại và lịch sử từng
được bàn đến bởi một số nhà nghiên cứu giai thoại đi trước (Trần Thanh Mại, Vũ
Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch,…) và đã có những thành quả đáng ghi nhận. Các nhà
nghiên cứu đã chỉ ra được những tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa giai thoại và lịch
sử theo hai hướng nổi bật: 1. Lịch sử là nguồn cội sản sinh ra một bộ phận giai thoại
173
lịch sử và 2. Giai thoại bổ khuyết, đưa ra cái nhìn khác về nhân vật quan phương. Sau
đây, luận án sẽ điểm qua từng khía cạnh nêu trên.
4.2.1. Lịch sử là cội nguồn sản sinh giai thoại
Trước hết, lịch sử là nguồn cội sản sinh ra một bộ phận giai thoại lịch sử. Sự ảnh
hưởng, tác động của lịch sử lên giai thoại thể hiện qua việc giai thoại tiếp thu một số
câu chuyện được ghi chép trong sử quan phương để làm nền tảng cho những tình tiết,
sự kiện trong giai thoại. Như vậy, có nghĩa là một bộ phận của tiểu loại giai thoại lịch
sử hoàn toàn không phải là những câu chuyện mang tính chất bên lề, mua vui mà có
nguồn gốc hẳn hoi. Sự tiếp thu từ sử quan phương của giai thoại thể hiện qua 2 xu
hướng chính: tiếp thu một cách hoàn toàn và tiếp thu dựa trên một tình tiết, đặc điểm
có thật nào đó của nhân vật quan phương (được ghi chép trong sử quan phương) để từ
đó, sáng tạo nên những câu chuyện lý thú xung quanh họ.
Sự tiếp thu một cách hoàn toàn từ sử quan phương của giai thoại.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư từng ghi một số câu chuyện mang tính chất đời tư
của các nhân vật lịch sử nổi tiếng như: Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khánh
Dư,… Việc Trần Khánh Dư thông gian với công chúa nhà Trần rồi bị giáng tội cho về
làm thường dân (phải đi bán than, sau đó được phục chức), mối hiềm khích (và cả hòa
giải) giữa Hưng Đạo Vương và Trần Quang Khải,… đều được sách chép khá chi tiết.
Các nhà biên soạn giai thoại ở nước ta trích dẫn lại từ sách ấy và xếp vào giai thoại
lịch sử. Do vậy, không có gì là phi thực tế khi khẳng định rằng, một bộ phận trong giai
thoại lịch sử có nguồn gốc từ chính sử, được trích lại từ các công trình sử học của các
triều đại phong kiến Việt Nam.
Giai thoại tiếp thu dựa trên một tình tiết, đặc điểm có thật nào đó của nhân vật
quan phương để từ đó, sáng tạo nên những câu chuyện lý thú xung quanh họ.
Sự vay mượn hoàn toàn từ lịch sử không phải là bản chất trong sự tiếp thu sử
quan phương của giai thoại. Vì bên cạnh đặc điểm vừa nêu, các tác giả giai thoại đã
biết làm thế nào để những câu chuyện kể của mình trở nên cuốn hút người nghe bằng
cách sáng tạo, thêm thắt thêm những tình tiết mới xoay quanh một yếu tố, khía cạnh
rất nhỏ của nhân vật quan phương. Sử quan phương không phải là không chép những
yếu tố thuộc về tính tình, sở thích cá nhân của nhân vật quan phương, nhưng rõ ràng là
nó được chép rất sơ sài, thậm chí chỉ được nhắc đến trong một vài dòng ngắn gọn. Nói
khác đi, không phải tất cả những gì thuộc hành trạng cá nhân, riêng tư của một nhân
vật quan phương, nổi tiếng cũng được sách sử ghi chép lại. Và đó chính là vương quốc
lý tưởng mà với tư cách là một thể loại, giai thoại đã tập trung phản ánh. Các sử sách
nhà Nguyễn có nhắc đến tính tình, đặc điểm, sở thích,… của vua chúa, hoàng tộc
174
nhưng rất ít đi sâu, cụ thể hóa chúng bằng những câu chuyện minh họa. Trong khi đó,
giai thoại có xu hướng khai thác khía cạnh này. Chẳng hạn, sở thích làm thơ, thích
xem hát của vua Tự Đức, sở thích xem hát tuồng của bà Từ Dụ, Tả quân Lê Văn
Duyệt, sở thích vi hành ra dân gian tìm những cô gái đẹp, có tài hát xướng của vua
Thành Thái,…
Ở đây, xin dẫn ra trường hợp của vua Tự Đức. Sách Quốc triều chính biên toát
yếu (quyển V) viết về nhà vua như sau: “Là nhà vua rất yêu thích văn chương, thơ
phú. Phàm những việc như phê chuẩn, trị sự, khi có hứng là vua liền ứng khẩu, làm
thơ” [31, tr.155]. Dân gian đã dựa vào đặc điểm trên của vua để sáng tạo ra hàng loạt
những giai thoại gắn liền với tính cách thích làm thơ phú của vua như: Tự tiện chữa
văn vua, Bịa thơ tài hơn vua, Ông vua làm vè, Thượng hạ giai cẩu,… Như vậy là từ
một nhận xét ngắn gọn về đặc điểm, tính tình, sở thích của nhân vật quan phương,
nhân dân đã hình dung, thêu dệt ra những câu chuyện rất cụ thể nhằm mục đích cụ thể
hóa, chứng minh cho nhận xét đó là hoàn toàn có cơ sở, thuyết phục được người khác.
4.2.2. Giai thoại bổ khuyết cho lịch sử
Ở trên, đã đề cập sự tác động của lịch sử đối với giai thoại. Nhưng ở chiều ngược
lại, sẽ thấy vai trò của giai thoại đối với lịch sử. Sự bổ khuyết của giai thoại đối với sử
quan phương thể hiện ở khía cạnh giai thoại đưa ra một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ về
nhân vật quan phương so với cách đánh giá của sử quan phương. Nhân vật quan
phương chúng tôi hiểu ở đây là các vua quan, tướng lĩnh, phi tần, các nhà khoa bảng,
nhà nho tham gia,… vào chính trường (tất nhiên là họ cũng tham gia vào sinh hoạt văn
chương ở tiểu loại giai thoại văn học như Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm,
Cao Bá Quát,…) và cả những nhà nho nổi tiếng, tuy không tham gia chính trị nhưng
cũng tham dự vào thời cuộc với tư cách một công dân đối với vận mệnh của quốc gia,
cộng đồng.
Về sự phản ánh nhân vật quan phương, cách nhìn nhận, đánh giá nhân vật này
trong giai thoại và lịch sử cũng có những điểm khác biệt đáng chú ý. Thực tiễn văn
bản cho thấy giữa sử quan phương và giai thoại có một “độ lệch”, “độ khúc xạ” rất rõ
ràng. Và chính độ lệch ấy đã làm nên chức năng bổ khuyết của giai thoại đối với sử
quan phương. Có thể hình dung điều này một cách hệ thống là: giai thoại (lịch sử) tồn
tại trong dân gian với tư cách một bộ phận của dã sử và nó song hành với sử quan
phương trong tiến trình lịch sử của dân tộc.
Do tư liệu lịch sử và giai thoại Việt Nam khá đồ sộ, nên trong phần này, chúng
tôi chỉ giới hạn phạm vi tư liệu từ thời nhà Nguyễn, bắt đầu từ Gia Long (1802) trở về
sau. Qua khảo sát tư liệu giai thoại và lịch sử, chúng tôi bước đầu khái quát được 3
175
điểm khác biệt lớn giữa giai thoại và sử quan phương như sau: 1. Sử quan phương
quan tâm nhiều đến công đức của những nhà nho hành đạo – giai thoại quan tâm
nhiều hơn đến nhà nho ẩn dật; 2. Sử quan phương rất ít quan tâm đến hành trạng
mang tính chất cá nhân, đời tư của nhân vật quan phương – giai thoại xem đó là nội
dung quan trọng cần phản ánh; 3. Sử quan phương đánh giá nhân vật theo quan niệm
Nho giáo (bề tôi với vua, chủ yếu qua chữ Trung và Đức) – giai thoại đánh giá nhân
vật chủ yếu dựa vào chữ Trí (tài năng văn chương). Dưới đây là bảng so sánh:
Bảng 4.4. So sánh tư duy phản ánh nhân vật trong giai thoại và sử quan phương
Thể loại/ lĩnh vực Giai thoại Sử quan phương Tiêu chí
Kiểu nhà nho Ẩn dật Hành đạo
Hành trạng nhân vật Đề cập nhiều đến Rất ít đề cập đến phương
phương diện cá nhân, diện cá nhân, đời tư
đời tư
Tiêu chí đánh giá nhân Chữ Trí (Tài năng) Chữ Trung và Đức
vật
Điểm khác biệt đầu tiên trong cách thức phản ánh nhân vật đạo đức trong lịch sử
và giai thoại là: sử quan phương quan tâm nhiều hơn đến những nhà nho có đóng góp
cho triều đình (tức nhà nho hành đạo) và ít quan tâm đến nhà nho ẩn dật như trong
giai thoại.
Các sách sử của triều Nguyễn như Đại Nam nhất thống chí, Lịch triều hiến
chương loại chí,… đều đặc biệt quan tâm đến hành trạng, sự nghiệp của các nhà nho
hành đạo. Những phần viết về các nhân vật này chiếm số lượng áp đảo so với phần
viết về nhà nho ẩn dật. Chẳng hạn, công trình Đại Nam nhất thống chí dành cả quyển
thứ IV để viết về các quan trong hoàng thân quốc thích nhà Nguyễn (cả thảy 09 nhân
vật là: Tôn Thất Huy, Tôn Thất Hội, Tôn Thất Dụ, Tôn Thất Cốc, Tôn Thất Bính, Tôn
Thất Chương, Tôn Thất Dịch, Tôn Thất Hoảng, Tôn Thất Nông). Điều đáng lưu ý là cả
09 nhân vật trên đều không xuất hiện trong kho tàng giai thoại.
Công trình trên dành 24 quyển (từ quyển thứ V đến quyển XXVIII, mục II đến
mục XXV) để ghi chép về tiểu sử, công nghiệp của các nhà nho chính thống có nhiều
đóng góp cho triều đình, từ quan văn đến quan võ, cả thảy có 204 nhân vật. Trong số
này, chỉ có 02 nhân vật xuất hiện trong giai thoại là Nguyễn Du và Đặng Trần Thường,
ngay cả Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến cũng không có mặt. Như vậy, dựa vào
thống kê trên, có thể khẳng định rằng: mối quan tâm lớn nhất của sử quan phương là
176
ghi chép và đề cao sự nghiệp kinh bang tế thế của các nhân vật lịch sử theo tiêu chí
đóng góp của họ cho dân cho nước (tức là phương diện hành đạo).
Về các nhà nho ẩn dật, sách Đại Nam liệt truyện [130] chỉ chép về công đức và
những đóng góp của các nhà nho đối với triều đình nhà Nguyễn, gồm 06 nhân vật:
Nguyễn Đăng Đàn, Võ Trường Toản, Đặng Đức Thuật, Lê Đạt, Nguyễn Hương,
Hoàng Quang. Về các nhân vật hạnh nghĩa, sách trên viết về 12 nhân vật: Mai Sĩ
Khang, Nguyễn Văn Tựu, Nguyễn Văn Liễn, Nguyễn Cư Sỹ, Nguyễn Cửu Phùng, Tạ
Hữu Độ, Nguyễn Đình Tế, Nguyễn Văn Trình, Nguyễn Văn Lương, Nguyễn Văn
Danh, Phan Đăng Doanh, Nguyễn Đình Thản. Nhà nho ẩn dật và những người hạnh
nghĩa đều được sử quan tâm ở khía cạnh đạo đức cá nhân hay công dân (điểm này
giống như giai thoại). Nhưng có một điều khá đặc biệt là, cả 06 nhân vật nhà nho ẩn
dật và 12 nhân vật hạnh nghĩa đều không xuất hiện trong kho tàng giai thoại Việt Nam
(trong các tuyển tập ở các tiểu loại văn học và cả lịch sử). Giai thoại chỉ quan tâm đến
những nhà nho ẩn dật có sáng tác thơ ca thể hiện tinh thần yêu nước trong hoàn cảnh
mất nước như: Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nhiêu Tâm, Học Lạc,… không chỉ
trong ứng xử đối với thời thế (với triều đình nhà Nguyễn, với bọn tay sai, với thực dân
Pháp) mà còn ở cả những tác phẩm văn chương yêu nước, nói lên nỗi niềm cảm khái
(hay cả sự chống đối quyết liệt) của họ. Họ làm thơ nói lên tâm tư, tình cảm yêu nước,
bày tỏ tiết tháo nhà nho trong hoàn cảnh loạn lạc, cũng như ca ngợi sự hi sinh của
những anh hùng chiến trận, xả thân vì nghĩa lớn (mà triều đình cho là nghịch tặc, phản
thần).
Những nhà nho có tinh thần yêu nước (qua ý thức chống Pháp) này không thấy
được chép trong sử quan phương có lẽ là vì sự bất đồng về quan điểm chính trị trong
cuộc chiến chống Pháp: triều đình chấp nhận sự nhượng địa lần lượt các tỉnh ở Nam
Kỳ (sau đó trở thành vùng đất thuộc địa). Họ là những người trí thức theo con đường
khoa cử nhưng chưa bao giờ trở thành nhà nho hành đạo. Nguyên nhân thì có nhiều
nhưng chủ yếu do quan điểm chính trị có phần khác biệt so với triều đình. Cụ Nguyễn
Đình Chiểu do hoàn cảnh cá nhân (mẹ mất) nên bỏ lỡ công danh. Cụ lưu lạc khắp các
tỉnh Nam Kỳ để thể hiện tiết tháo nhà nho, cũng như bất hợp tác với Pháp và bọn tay
sai, coi thường bả vinh hoa mà chúng vẽ ra để chiêu dụ. Cụ Phan Văn Trị thi đỗ Cử
nhân (tục gọi ông là Cử Trị) nhưng với cá tính quá cương trực, khảng khái (nhiều lần
chửi mắng vua Tự Đức trong các sáng tác văn chương) thì con đường công danh xem
ra chẳng có ý nghĩa gì với cụ. Còn Học Lạc, Nhiêu Tâm, Tú Quỳ, Nghè Tân, Kép
Trà,… cũng là những người có cá tính mạnh mẽ nhưng đấu tranh theo hướng khác:
177
dùng thơ văn trào phúng, châm biếm để đả kích bọn quan lại, tay sai bán nước, tham
lam, hèn nhát,… Mỗi nhân vật có xu hướng đấu tranh và cách thể hiện khác nhau
nhưng đều gặp nhau ở chỗ: thay mặt cho nhân dân nói lên nỗi niềm thời thế và hơn
nữa là đấu tranh (bằng văn chương), nhằm thẳng vào chỗ mà triều đình phong kiến nhà
Nguyễn xem là cấm kỵ, bất khả luận. Sự đấu tranh này, theo sự lý giải của GS Phan
Ngọc là xuất phát từ tư tưởng Tổ quốc luận trong tâm thức người Việt. Và với tính
chất như vậy, ta có thể thấy được sự gặp gỡ về đề tài so với truyền thuyết về các nhân
vật là anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ. Trong công trình Truyền thuyết dân gian về
những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ, tác giả Võ Phúc Châu cũng có một vài
đúc kết đáng chú ý về sự khác nhau trong quan điểm đánh giá của sử quan phương và
quan điểm của nhân dân về người anh hùng. Chẳng hạn như trường hợp của Thiên Hộ
Dương (Võ Duy Dương): “Theo lời lẽ của vua quan nhà Nguyễn, Võ Duy Dương chỉ
là tên phản tặc: “Bọn giặc Võ Duy Dương lưu lại ở Định Tường, tụ tập bè đảng đánh
cướp lương thực. Tên can phạm này không phải là thần dân nước ta. Phải lấy phép
nước mà buộc tội, ai lại chịu dung tha”. Ngược lại, trong truyền thuyết, tên can phạm
của triều đình ấy được nhân dân xem là anh hùng” [23, tr.75].
Cùng đề cập đến nhân vật nhà nho chính thống (gồm trí thức và ngông) nhưng sự
phản ánh trong giai thoại và sử quan phương có độ vênh nhất định. Mỗi bên đều có
mối quan tâm khác nhau, tập trung vào những khía cạnh khác nhau của nhân vật. Qua
sự phân tích tình tiết trong giai thoại văn học và một số sách sử, chúng tôi đúc kết
được sự khác nhau thứ hai là: giai thoại tập trung sự chú ý vào khía cạnh tài năng văn
chương của nhân vật (tức chữ Trí) còn sử quan phương chú ý vào khía cạnh công đức
hay tội trạng của nhân vật đối với triều đình phong kiến (tức chữ Trung và Đức). Tiêu
chí đánh giá khác nhau, cho nên việc thể hiện nhân vật không giống nhau cũng là điều
dễ hiểu.
Chúng ta sẽ đến với một số nhân vật trí thức nổi tiếng (từng tham gia vào chính
trường) được nhiều người biết đến qua giai thoại cũng như lịch sử để chứng minh nhận
xét trên. Vào thời Trần, Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng với tước hiệu “Lưỡng quốc Trạng
nguyên” mà cả hai triều đình phong kiến Đại Việt (nhà Trần) và Trung Quốc (nhà
Nguyên) ban tặng cho ông. Giai thoại văn học tập trung phản ánh tài năng văn chương
của ông qua các cuộc đối chọi thơ văn với vua quan triều Nguyên (cũng như sứ thần
các nước lân cận). Trong khi đó, trong chính sử, những câu chuyện đối chọi văn
chương ấy không được nhắc đến, mà chỉ thuần túy ghi lại thời điểm ông đi sứ với tư
cách của một bầy tôi thực hiện nhiệm vụ chính trị.
178
Các nhân vật nổi tiếng trong thời Lê – Trịnh, Nguyễn cũng tương tự như vậy. Ở
đây, chỉ xin điểm qua một vài trường hợp tiêu biểu là: Lê Quý Đôn, Cao Bá Quát. Qua
việc tra cứu các sách về sử học như Đại Nam nhất thống chí, Khâm định Việt sử thông
giám cương mục, Đại Nam liệt truyện, Lịch triều hiến chương loại chí,… chúng tôi
nhận thấy quan điểm của chính quyền phong kiến về các nhân vật khoa bảng, trí thức
là rất khắt khe, đặc biệt là đối với những nhà nho có tư tưởng chống đối hoặc có những
sai phạm lớn. Bảng nhãn Lê Quý Đôn dưới góc nhìn sử quan phương cũng chỉ là một
kẻ cơ hội, thủ đoạn, gian xảo, tự phụ, tham ô,… Nói chung, chỉ toàn là tính xấu của
một kẻ ngụy quân tử mà thôi (chứ không phải bậc đại sĩ, đại trí như truyền tụng). Dù
tài năng hơn người nhưng cũng giống như Cao Bá Quát, Lê Quý Đôn chỉ giữ chức
quan nhỏ ở Hải Dương, rất xa xôi kinh thành. Việc có tài cao mà làm quan nhỏ hiển
nhiên khiến ông khó chịu và bất phục. Để giải quyết mắc mớ đó, họ Lê đã ăn của hối
lộ để mua chức quan cao ở kinh đô. Về vấn đề này, Khâm định Việt sử thông giám
cương mục chép rất rõ (Xin xem Phụ lục). Lê Quý Đôn còn phạm tội tày trời là đánh
tráo bài thi của con trai mình là Lê Quý Kiệt và học trò Đinh Thì Trung. Điều này
khiến người ta không thể không bất bình và miệt thị về tư cách đạo đức của ông. Sử
phê Lê Quý Đôn như sau: “Lời phê: Hai người cùng một tội mà xử phạt khác nhau,
sao gọi là công bằng thỏa đáng được? Xét hành trạng của Quý Đôn, không có một
điều gì đáng khen” (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Quyển XLIV, [129,
tr.937]). Còn việc Lê Quý Đôn được phục chức, cho về kinh đô không hề liên quan
đến việc ông giúp triều đình giải đáp được câu đối của sứ thần nhà Thanh (như trong
giai thoại Thư mượn áo cừu) mà là do chúa Trịnh ân xá cho ông (Xin xem Phụ lục). Ở
một chỗ khác của quyển sử này, hành động gian lận trong thi cử và táng trộm mồ mả
tổ tiên vào đất quý cũng bị sử quan đánh giá là hèn mọn, tiểu nhân: “Lời chua: Lập
mưu cho con ăn ắp văn thi ở trong trường: Kỳ đệ tứ khoa thi Hội năm Ất Mùi (1775),
Quý Đôn nhờ Đinh [Thì] Trung làm bài cho con mình là Quý Kiệt. Vụng trộm chiếm
nơi cấm địa: Quý Đôn táng trộm mả tổ ở cấm địa tại sơn phận Tả” (Khâm định Việt
sử thông giám cương mục, Quyển XLV, [129, tr.945]).
Về trường hợp của Cao Bá Quát, lịch sử ghi nhận ông như một nghịch thần và
quan tâm đến sự tự phụ, sự nổi loạn của ông hơn là tài năng văn chương. Sách Đại
Nam nhất thống chí không thấy ghi bất cứ dòng nào về các cuộc đối chọi văn chương
giữa Cao Bá Quát với Tự Đức hay Minh Mạng. Sách ấy, ở quyển 46, Truyện về các
nghịch thần, ở mục II, ghi nhận hai việc có liên quan đến họ Cao: thứ nhất là tính tình
tự phụ, gian lận trong chấm thi và thứ hai là sự phản nghịch chống lại triều đình nhà
179
Nguyễn (Xin xem Phụ lục 4). Việc xếp Cao Bá Quát vào mục nghịch thần đủ cho thấy
sử quan phương nhìn nhận ông là người như thế nào.
Như vậy, trong cái nhìn của các sử quan phong kiến, các nho sĩ, dù là người có
học vấn uyên thâm đến đâu mà phạm phải trọng tội với vua hay luật định thì đều bị
phán xét. Do vậy, có thể nói, tiêu chí phán xét nhân vật khác nhau: chữ Trí (giai thoại
văn học) và chữ Đức (sử quan phương) đã dẫn đến hai thái độ đánh giá khác nhau về
nhân vật. Trong giai thoại, tác giả dân gian cũng giải thiêng Cao Bá Quát và Lê Quý
Đôn qua các cuộc thất bại khi bị thách đố văn chương (Không biết chữ chi; Câu đố
chữ nhất; Căng buồm mời rượu – Gánh gạo lội sông,…), ngược lại, tính tự phụ của hai
nhân vật này đều bị sử quan phương phê phán rất nặng nề bằng những chứng cứ thiết
thực. Trong khi đó, giai thoại lại thể hiện cách đánh giá khá nhẹ nhàng (bằng văn
chương), với mục đích kéo nhân vật về với đời thường, chứ không hướng tới sự phê
phán một cách khách quan.
Do xuất phát từ những tiêu chí khác nhau, cho nên giai thoại và lịch sử có sự
phản ánh và đánh giá khác nhau về nhân vật trí thức, người nổi tiếng. Đối với giai
thoại văn học, tài năng văn chương của nhân vật là điều quan trọng nhất. Trong khi đó,
với sử quan phương, thì đức độ, sự cống hiến của nhân vật đối với triều đình phong
kiến mới là điều đáng lưu tâm. Nói khác đi, nhân vật trong giai thoại là kiểu nhân vật
như mong ước của nhân dân còn trong sử quan phương, đó là nhân vật như thực tế
khách quan của nó. Nói cho đúng, hai cách đánh giá: một bên theo chuẩn của Nho
giáo, một bên theo chuẩn của nhân dân, đồng nghĩa với tình cảm của nhân dân đối với
nhân vật lịch sử. Đến đây, có thể khái quát lại sự tương tác hai chiều giữa giai thoại và
sử quan phương như sau:
Sử quan phương
Vay
Vay
mượn
mượn
tình tiết
hoàn
toàn
Giai thoại
Sơ đồ 4.6. Sự tác động của sử quan phương lên giai thoại
Giai thoại
Sử quan phương
Bổ khuyết cho sử
quan phương
180
Sơ đồ 4.7. Sự tác động của giai thoại lên sử quan phương
4.3. Mối quan hệ giữa giai thoại và văn học thành văn
4.3.1. Sự tương tác giữa tính dân gian và tính bác học trong giai thoại
Như đã trình bày ở trên, dân gian và bác học là hai chiều tác động trong quy trình
sáng tạo giai thoại. Tuy nhiên, quy trình đó có những nguyên tắc riêng. Điều đó sẽ
được khảo sát kỹ ở phần sau đây. Khi nghiên cứu về giai thoại, hầu hết các nhà nghiên
cứu ở Việt Nam đều đã đề cập, phân tích đến tính chất bác học và dân gian của giai
thoại. Hai tính chất này được đúc kết từ đặc trưng về mặt ngôn ngữ. Trong mục này,
luận án tiếp thu và củng cố thêm những nhận xét đó bằng cách dùng số liệu để chứng
minh – điều mà các nhà nghiên cứu đi trước chưa thực hiện.
Qua khảo sát văn bản giai thoại, chúng tôi thống kê được kết quả như sau:
- Quyển Giai thoại làng nho: trong các giai thoại liên quan đến 94 nhân vật khoa
bảng (sách này trình bày văn bản theo tiêu chí nhân vật nên chúng tôi không thống kê
số theo số lượng văn bản) có: 90 câu đối Hán, 16 câu đối Nôm, 07 trường hợp sử dụng
sách Luận ngữ, 04 trường hợp sử dụng sách Mạnh Tử, 05 trường hợp sử dụng sách
Hán thư, 04 trường hợp sử dụng sách Kinh thư, 01 trường hợp sử dụng sách Tống sử,
02 trường hợp sử dụng sách Trung dung, 01 trường hợp sử dụng sách Kinh dịch, 04
trường hợp sử dụng phép chiết tự chữ Hán;
- Quyển Giai thoại văn học Việt Nam [65] có: 52/254 (20,5%) trường hợp sử
dụng câu đối chữ Hán, 49/254 (19,3%) trường hợp câu đối chữ Nôm, 40/254 (15,7%)
trường hợp thơ chữ Hán, 106/254 (41,7%) trường hợp thơ chữ Nôm, 03/254 (1,2%)
trường hợp thể phú, 02/254 (0,8%) trường hợp văn tế, 10/254 (3,9%) trường hợp chiết
tự chữ Hán, 08/254 (3,1%) trường hợp dùng điển của Nho giáo, 09/254 (3,5%) trường
hợp chơi chữ đồng âm.
Tính chất bác học của giai thoại văn học thể hiện qua cách vận dụng một cách
thường xuyên các kỹ thuật, yếu tố như: điển tích, điển cố (lấy từ cách sách kinh điển
Nho giáo); lối chiết tự (câu đố bằng cách tách chữ), hình thức câu đối (Hán hay Nôm);
181
hình thức chơi chữ, đố chữ bằng bức tranh chữ Hán; các thể thơ văn kinh điển của văn
học bác học (ngũ ngôn, tứ tuyệt, bát cú, phú, văn tế, câu đối,…),… Ở đây, chúng tôi
chỉ điểm qua một vài biểu hiện tiêu biểu của tính bác học trong giai thoại, chứ không
mô tả hết những đặc điểm nêu trên.
Chúng ta thử điểm qua một số trường hợp dùng điển trong các sách kinh điển của
Nho giáo (Luận ngữ, Mạnh Tử, Trung dung,...), lối chiết tự và chơi chữ đồng âm. Việc
dùng điển Nho giáo bắt nguồn từ đặc trưng sùng cổ của văn học cổ điển với lực lượng
sáng tác chủ yếu là những nhà nho, nhà khoa bảng, có kiến thức chữ nghĩa uyên thâm.
Trong quyển Giai thoại văn học Việt Nam [65], phép dùng điển xuất hiện trong các
giai thoại: Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào, Chim chếch - Ếch ngộp, Cười ông quan
hai vợ (Mạc Đĩnh Chi); Thánh quân Minh Đế (Lương Thế Vinh); Rắn trắng rồng vàng
(Đoàn Thị Điểm); Một thí sinh bướng bỉnh (Nguyễn Hòe); Lo trước thiên hạ (Nguyễn
Khuyến),... Chẳng hạn, cuộc đối đáp văn chương giữa hai anh em Đoàn Doãn Luân và
Đoàn Thị Điểm trích từ sách Bắc sử (Rắn trắng rồng vàng). Vế của Đoàn Doãn Luân:
“Bạch xà đương đạo, Quý bạc kiếm nhi trảm chi” (Rắn trắng cản đường, Quý tuốt
gươm ra chém). Vế này lấy từ tích Hán Cao tổ chém rắn trắng trong sách Bắc sử. Vế
đối lại của Đoàn Thị Điểm cũng lấy từ sách trên: “Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng
thiên nhi thán viết” (Rồng vàng đội thuyền, Vũ ngẩng mặt mà than), cũng lấy từ tích
“vua Hạ Vũ qua sông, có con rồng vàng nổi lên, người trong thuyền đều sợ, chỉ có Vũ
vẫn bình tĩnh như thường, sau rồng phải lặn đi” [65, tr.88].
Tính bác học của giai thoại còn thể hiện qua cách chiết tự khá rối rắm và phức
tạp. Qua khảo sát văn bản, chúng tôi thấy rằng nhận xét trên hoàn toàn xác đáng,
nhưng thiếu đi phong cách chiết tự chữ Hán theo kiểu dân gian (hay phong cách dân
gian) mà các nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh và Kiều Thu Hoạch từng lưu ý (tiếc
rằng, trong luận điểm của mình, hai tác giả này chỉ tập trung vào cách nói lái, chơi chữ
đồng âm mà không đi vào minh chứng chiết tự chữ Hán như thế nào là theo phong
cách dân gian). Đó cũng là vấn đề mà chúng tôi sẽ bổ khuyết.
Về cách chiết tự chữ Hán theo phong cách bác học
Trong giai thoại, phép chiết tự theo phong cách bác học xuất hiện qua các trường
hợp (trong quyển Giai thoại văn học Việt Nam [65]): Trạng nguyên về học lễ (Nguyễn
Hiền); Chơi chữ - Chọi chữ (Mạc Đĩnh Chi); Ta chẳng chịu phong (Đào Duy Từ);
Phong nguyệt vô biên (Nguyễn Đăng Cảo); Hà túc toán giã, bất diệc lạc hồ (Vương
Toán); Ba sông bốn mắt (Lê Quý Đôn); Thư mượn áo cầu (Lê Quý Đôn); Đánh nhau
bằng cả câu đối (Nguyễn Hữu Cầu); Bài thơ đem lại quốc thể (Võ Huy Tấn); Chặt đầu
182
Tây (vua Duy Tân),… Trên đại thể, hình thức chiết tự này đều là phép đố chữ và chọi
chữ bằng cách tách các nét viết của chữ Hán. Nó giống như một trò chơi trí tuệ.
Nguyễn Hiền và Lê Quý Đôn giữ thể diện cho quốc gia qua cách giải các câu đố chữ
Hán của sứ thần Trung Quốc (các câu đố này chiết tự chữ “xa” (車) và chữ “điền” (田)
(Trạng nguyên về học lễ; Thư mượn áo cừu). Võ Huy Tấn thì đề thơ chữ Hán (chiết tự
chữ “di” (夷) để thể hiện lòng tự hào dân tộc trước nhà Thanh (đấu tranh “di biện”)
(Bài thơ đem lại quốc thể). Vua Duy Tân chiết tự chữ “vương” (王) và chữ “tây” (西)
để thể hiện khí phách của đấng minh vương yêu nước trước người Pháp (Chặt đầu
Tây),… Xin dẫn ra đây trường hợp Thư mượn áo cừu. Trong giai thoại này, sứ thần
nhà Thanh đã gửi cho chúa Trịnh câu đố chữ Hán khá hóc búa là: đưa một tấm vóc,
trong đó ghi chữ xa (車) thiếu một nét ngang dưới. Cả triều đình nháo nhào lên vì
chẳng ai hiểu ý của sứ thần là gì cả. Đến đây, chúa Trịnh mặc dù đã cách chức Lê Quý
Đôn trước đó, nhưng cũng phải nhờ vả ông.
Về cách chiết tự chữ Hán theo phong cách dân gian
So với cách chiết tự bác học thì cách chiết tự chữ Hán theo kiểu dân gian như
sau: chiết tự chữ Hán theo phong cách dân gian vẫn dựa trên cơ sở là tách chữ Hán ra
nhiều thành phần khác nhau (dựa trên nguyên tắc cấu thành của nó) nhưng đã được “lạ
hóa” bằng hình thức nói lái hoặc được gò vào khuôn khổ thơ văn (dưới dạng câu đố).
Ở đây xin chỉ dẫn ra trường hợp đầu. Trong Bức trướng chỉ có chữ Quý, tác giả
khuyết danh đã vận dụng cách thức chiết tự chữ Hán để mỉa mai đặc điểm khiếm
khuyết của con người. Theo đó, nhân vật đã gửi tặng tên tên chánh tổng (có tật bị chột
một mắt, nhờ giàu có mà mua được chức quan, ở làng Tiền Trung, xã Ái Quốc, Hải
Dương) một bức đại tự ghi một chữ: “Quý” (貴). Chữ này được ghép lại từ bốn chữ là:
trung (中), nhất (一), mục (目), nhân (人), với ngữ nghĩa thông dụng là trỏ sự sang
trọng. Nhưng nếu hiểu theo nghĩa ẩn ý thì: “Trung là làng Tiền Trung, Nhất là một,
Mục là mắt, Nhân là người; ghép chúng lại có nghĩa là người một mắt ở làng Trung.
Mà người đó lại chính là quan bác…” (Giai thoại văn hóa dân gian người Việt (tập 2)
[114, tr.146 – 147]. Dù vậy, cách chiết tự như vậy thế có ý nghĩa cá biệt (bị chột một
mắt, ở làng Tiền Trung) trong giai thoại này mà thôi, hoàn toàn không có ý nghĩa phổ
biến đối với những trường hợp khác. Đến đây, có thể khẳng định rằng: phong cách
chiết tự theo kiểu bác học vẫn là phong cách chủ đạo trong cách thức chiết tự chữ Hán
183
của giai thoại nói chung.
Hình thức câu đối (chữ Hán và chữ Nôm) cũng là một biểu hiện cụ thể của tính
bác học trong giai thoại. Chúng tôi thống kê được 101/254 (39,8%) trường hợp trong
Giai thoại văn học Việt Nam [65] có sử dụng câu đối. Chúng ta biết rằng câu đối vốn
là một hình thức học tập bắt buộc của các nho sinh thời phong kiến (tức mặt giáo dục,
thi cử). Không chỉ vậy, câu đối còn có một vai trò rất quan trọng trong tập quán của
nhân dân thời xưa (tức mặt thực tiễn văn hóa, xã hội). Nói đúng hơn là kiểu tư duy
người Việt thiên về sự cân đối, hài hòa. Đặc tính này còn thể hiện trong từng lời ăn
tiếng nói (chẳng hạn tục ngữ, thành ngữ) và nâng lên thành nghệ thuật đối; hát đối đáp,
kiến trúc đối xứng,… Rõ ràng, câu đối là biểu hiện của sự tương tác giữa bác học và
bình dân.
Lục bát là thể thơ có nguồn gốc từ văn học bình dân mà chúng ta vẫn thấy trong
kho tàng ca dao. Đặc biệt, trong giai thoại văn hóa dân gian, có một nhóm chuyên sử
dụng thể thơ lục bát là nhóm giai thoại về lẩy Kiều, tập Kiều, đố Kiều. Truyện Kiều tất
nhiên là sáng tác văn học bác học nhưng các nhân vật trong giai thoại đã khéo léo lẩy
ý, mượn ý để diễn đạt ý tưởng trong những tình huống sinh hoạt văn chương hay ứng
xử đời thường. Quyển Giai thoại folklore của Vũ Ngọc Khánh có 29/80 (36,3%) giai
thoại sử dụng thể thơ lục bát (có liên quan đến hình thức lẩy Kiều, tập Kiều, đố Kiều).
Bên cạnh đó, hình thức nói lái và cách dùng thổ âm (phát âm theo giọng địa
phương) một đặc điểm nổi bật của văn học dân gian, cũng xuất hiện khá nhiều trong
giai thoại văn học. Đến giai thoại thì nói lái được thể hiện kỹ thuật và kỹ xảo sử dụng
tiếng Việt vừa thông minh, vừa hóm hỉnh. Kỹ thuật này được sử dụng khá dày đặc ở
giai thoại so với truyện cười. Đối tượng vận dụng phương thức này không chỉ là giới
bình dân mà còn cả những nhà nho – người đại diện cho nền văn hóa bác học. Đặc
điểm trên cho thấy sự tác động ngược trở lại của văn hóa dân gian đối với văn hóa bác
học. Trong công trình Giai thoại văn học Việt Nam [65], chúng tôi xác định có 05/254
giai thoại sử dụng phương thức này là: Bò đen bò vàng (Nguyễn Xuân Ôn); Đối chọi
với sư (Nguyễn Công Trứ); Cho chữ thờ; Chi chi giã (Nguyễn Khuyến); Câu đối chữ
Hán đọc theo vần quốc ngữ (Bùi Bằng Đoàn). Chẳng hạn, trong Bò đen bò vàng, nhà
nho Nguyễn Xuân Ôn đã dùng thổ âm của vùng Nghi Lộc (Hà Tĩnh) để đố hai tên nho
sinh nửa mùa qua câu đố: “Bò đen húc lộn bò vàng/ Hai con húc chắc té quàng xuống
sông”. Ở vùng này, dấu nặng thường phát âm thành dấu huyền nên câu đố trên hoàn
toàn có thể hiểu theo nghĩa rất “dân gian” qua chữ “lộn”. Thế nên, từ đó có thể suy ra
“bò vàng” là bò cái, còn “bò đen” là bò đực! [65, tr.250]. Trong Cho chữ thờ, cụ
184
Nguyễn Khuyến đã viết một chữ “nhất” theo dáng dựng đứng (với nét đậm, to hơn ở
phía dưới). Một nhà nho giảng nghĩa chữ “nhất” viết theo kiểu này là: chày đứng, nói
lại là “đừng cháy”, với mong muốn đền thờ mới dựng lại đừng bị hỏa hoạn nữa [65,
tr.289 – 290].
Trong nhóm giai thoại hò hát, đối đáp nam nữ (thuộc tiểu loại giai thoại văn hóa
dân gian), cách nói lái thường được các nhân vật sử dụng, trở thành một khía cạnh đặc
sắc, cuốn hút người đọc ở sự tinh nghịch, dân gian của nó. Chúng tôi xin dẫn ra đây
một số trường hợp tiêu biểu trong quyển Giai thoại văn hóa dân gian người Việt của
Triều Nguyên. Chẳng hạn, chàng thanh niên trong Hai cặp ảng, có mấy cái lù, đã đối
lại câu hát đố của các cô gái trêu chọc anh bằng câu hát không thể tinh vi hơn: “Bao
nhiêu lù là bấy nhiêu cái ảng/ Cô kia sang sảng, khéo hỏi khù khờ/ Ảng kia hai cặp,
mấy cái lù em biết chưa?”. Một cái ảng có một lỗ lù, có chức năng thoát nước. Lẽ dĩ
nhiên, hai cặp ảng thì có cả thảy “bốn cái lù”, nhưng nếu nói lái lại thì rất tục tĩu (vả
chăng nếu trả lời trực diện: “Hai cặp ảng là bốn cái lù” chẳng hạn, thì anh thợ làm
ảng này đã “trúng kế” các cô mất rồi!). Nhân vật Đồ Tâm trong Cưỡi rồng cũng dùng
cách nói lại chữ “rồng lộn” (chỉ sự cố của người chinh phục con vật tâm linh, vừa là
tên của bà Rồng – người hát đối đáp với ông) để đáp lại lời hát của người nhân ngãi:
“Mình đà học phép cưỡi rồng/ Rồng kia có lộn, ta gồng lên trên”.
Tóm lại, chất dân gian và chất bác học trong giai thoại vừa là yếu tố thuộc nội
dung vừa thuộc hình thức nghệ thuật. Ở quan hệ này, các kỹ thuật dùng chữ trong Hán
học được giai thoại khai thác tạo thành nhóm đề tài riêng.
4.3.2. Lý giải sự tương tác giữa tính dân gian và tính bác học trong giai thoại
Ở mục trên, chúng tôi đã chỉ ra sự giao thoa, tương tác giữa tính dân gian và tính
bác học trong giai thoại ở mặt văn bản tác phẩm. Đến đây, luận án sẽ đưa ra những lý
giải để trả lời cho câu hỏi vì sao lại có hiện tượng đó và nó xuất phát từ những căn rễ
văn hóa, lịch sử nào. Thực ra sự giao thoa, tương tác giữa tính dân gian và tính bác học
trong giai thoại nằm trong một vấn đề lý luận lớn hơn. Đó là mối quan hệ giữa văn học
dân gian và văn học thành văn. Đây cũng là một trong những vấn đề thú vị, từng được
nhiều nhà nghiên cứu folklore trong và ngoài nước quan tâm, bàn luận.
Bàn về mối quan hệ giữa hai bộ phận văn hóa dân gian và văn hóa bác học (từ
góc nhìn văn hóa), GS Trần Quốc Vượng trong bài viết “Dân gian và bác học” (công
trình Trong cõi) đã cho rằng tư duy phổ quát của nền văn hóa Việt: lưỡng phân và
lưỡng hợp về văn hóa. Nền văn hóa Việt Nam bao gồm hai bộ phận (văn hóa bác học
và văn hóa dân gian), chúng vừa tồn tại lưỡng phân (tách biệt một cách tương đối với
185
nhau), vừa ở thế lưỡng hợp (tức là hòa quyện, xuyên thấm, tác động vào nhau). Theo
GS Trần Quốc Vượng, sự lưỡng hợp về văn hóa thể hiện qua sự xuất thân bình dân của
các vua chúa Việt Nam (Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Công Uẩn,…). Các vua
này đều xuất thân từ giới bình dân cho nên trong mối quan hệ với nhân dân, khoảng
cách vua – tôi được thu ngắn. Các vua thâm nhập (bằng cách vi hành) vào dân gian mà
không có bất cứ sự phân biệt về giai cấp. Tinh thần này cũng được thể hiện trong giai
thoại. Ví dụ, chùm giai thoại kể về việc vua Lê Thánh Tông tặng cho nhân dân –
những người làm những công việc rất bình thường, thậm chí có phần thấp hèn (hàng
nước, hàng thịt, hốt phân,…) câu đối trong ngày Tết (Tận thu lòng dạ thế gian, Câu
đối nhà hàng nước, Xanh vàng đỏ tía,…). Không chỉ các vua, mà các quan lại, các nhà
nho cũng có mối quan hệ mật thiết với quần chúng nhân dân, dù họ đang đương chức
hay đã cáo quan ẩn dật. Chẳng hạn, trường hợp các giai thoại cho câu đối của Nguyễn
Khuyến, Nguyễn Hàm Ninh, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu,… với nhân dân trong
những dịp cần kíp của họ (tang ma, hỷ sự).
Về sự tác động, giao thoa nhiều chiều giữa văn hóa dân gian và văn hóa bác học,
GS Trần Quốc Vượng còn nhấn mạnh một số điểm, trong đó có vai trò quan trọng của
kẻ sĩ trong việc phát triển văn hóa dân gian (chứ không phải chỉ có duy nhất người
bình dân tham gia vào việc sáng tạo lĩnh vực này). Ông viết: “Họ (tức kẻ sĩ – chúng
tôi nhấn mạnh) tham gia sinh hoạt văn hóa dân gian. Họ tiêm nhiều quan niệm Nho
giáo vào văn hóa dân gian. Nhưng họ cũng góp phần nâng cao văn hóa dân gian. Họ
là các ông thơ, cố vấn cho gánh chèo việc soạn kịch bản, lời lẽ, thơ ca… Họ tham gia
vào sinh hoạt đối đáp và góp phần hoàn thiện thể thơ lục bát dân gian” [165, tr.246].
Tóm lại, nếu nhìn nhận sự giao thoa giữa giai thoại văn học dân gian và văn học
viết trên phương diện văn hóa, thì tinh thần lưỡng hợp về văn hóa của người Việt
chính là nguồn cội sâu xa sinh ra hiện tượng này. Đến đây, có thể nói trên thực tế, có
lẽ không cần phân định ranh giới một cách rạch ròi, phân chia giai thoại văn học thành
hai nhóm là giai thoại văn học viết và giai thoại văn học dân gian (như quan niệm của
các tác giả Trần Thanh Mại và Triều Nguyên đã nêu ở các phần trên của luận án) vì
những lý do sau:
– Tính chất bác học không chỉ có mặt trong giai thoại mà còn xuất hiện trong một
số thể loại khác của văn học dân gian (chẳng hạn ca dao (trữ tình), thành ngữ, tục ngữ
(lời ăn tiếng nói của nhân dân),... cũng có yếu tố Hán Việt). Nhưng thực tế cho thấy,
chưa có nhà nghiên cứu nào căn cứ vào đấy để gọi (hay phân nhóm) chúng thành: ca
dao bình dân - ca dao bác học; tục ngữ bình dân - tục ngữ bác học,... cả.
186
– Giai thoại dù có tính chất bác học nhưng vẫn là văn học dân gian (tất yếu trải
qua quá trình dân gian hóa về nhân vật, thi pháp, phong cách,...).
– Cần phải thấy rằng sự tương tác giữa tính bác học và tính dân gian trong giai
thoại là biểu hiện của quy luật vận động của nền văn hóa Việt Nam (với hai bộ phận
cốt lõi như đã nêu). Trong đó, tư duy lưỡng hợp (hướng đến sự tổng hòa, hài hòa)
trong văn hóa là yếu tố chủ đạo. Do vậy, nếu áp dụng tư duy lưỡng phân (phân định
một cách rạch ròi nhóm giai thoại bác học và nhóm giai thoại dân gian) rõ ràng là
không cần thiết. Bởi lẽ, yếu tố bác học và dân gian không tồn tại một cách độc lập với
nhau mà luôn xuyên thấm, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau trong chiều sâu văn hóa của
dân tộc.
– Sự phân nhóm như vậy là không thấy được quá trình sinh thành, vận động của
giai thoại trong không gian và thời gian (theo hướng lịch sử hóa, dân gian hóa như đã
nêu).
Do vậy, trong luận án này, chúng tôi dùng thuật ngữ giai thoại văn học để chỉ
chung cho cả nhóm giai thoại văn học viết và giai thoại văn học dân gian. Bởi suy cho
cùng, dù mang tính chất bác học, nhưng trên đại thể, tính chất ấy đã trải qua quá trình
dân gian hóa, mang đậm phong cách dân gian, và hiển nhiên trở thành văn học dân
gian.
187
Tiểu kết chương 4
Trong Chương 4, luận án đã chỉ ra mối quan hệ giữa giai thoại và các thể loại của
tự sự dân gian cũng như với lịch sử và văn học thành văn. Qua quá trình phân tích,
chúng tôi rút ra một số điểm đáng lưu ý sau:
Thứ nhất, trong mối quan hệ với truyền thuyết, có hai điểm đáng chú ý, dẫn đến
sự nhập nhằng trong cách xác định thể loại là: 1. Sử dụng yếu tố kỳ ảo (sinh nở thần
kỳ); 2. Yếu tố đời thường ở giai đoạn sinh thành muộn (cận đại). Điều này có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với các nhà nghiên cứu, sưu tầm giai thoại và truyền thuyết về
mặt lý luận. Bởi lẽ, nếu không nắm được bản chất thể loại của truyền thuyết và giai
thoại thì sẽ rất dễ dẫn đến sự nhầm lẫn trong phân loại. Cũng cần chú ý thêm một điều
rằng, theo quy luật vận động của văn học dân gian, thì các thể loại không đứng yên mà
luôn có xu hướng biến đổi, do vậy, chỉ nhìn ngắm thể loại trên mặt văn bản thôi là
chưa đủ, mà phải đặt nó trong môi trường văn hóa, xã hội cụ thể.
Thứ hai, trong mối quan hệ với truyện cười (kết chuỗi và không kết chuỗi), cần
chú ý một số khía cạnh tương đồng và dị biệt tuy nhiên, những điểm cốt lõi nhất vẫn
là: NVC; yếu tố thơ văn kết cấu và chức năng thể loại. Qua đối chiếu, so sánh cho thấy
có sự thâm nhập, chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và truyện cười theo các khuynh
hướng: lịch sử hóa, văn chương hóa tình huống đối đáp.
Thứ ba, trong mối quan hệ với cổ tích, giai thoại chủ yếu chịu ảnh hưởng từ cổ
tích sinh hoạt qua một số kiểu truyện phổ biến. Trong đó, điều đáng lưu ý hơn cả là
quy luật chuyển hóa thể loại từ cổ tích sang giai thoại. Chúng tôi cho rằng quy luật đó
là lịch sử hóa cổ tích sinh hoạt.
Thứ tư, giai thoại cũng điểm qua mối quan hệ giữa giai thoại với lịch sử và văn
học. Trong mối quan hệ với lịch sử, giai thoại vừa chịu ảnh hưởng vừa có những tác
động ngược trở lại và tạo ra giá trị bổ khuyết cho lịch sử Việt Nam. Nó cùng với dã sử
trở thành sử trong dân chúng, theo quan niệm của nhân dân, và qua đó, đưa ra những
đánh giá mởi mẻ về nhân vật quan phương. Trong mối quan hệ với văn học, giai thoại
tiếp biến yếu tố bác học của văn học viết thông qua lộ trình dân gian hóa, qua đó tạo
nên phong cách dân gian cho thể loại. Thừa nhận tính chất bác học trong giai thoại
không đồng nghĩa với việc khẳng định giai thoại là thể loại của văn học viết mà chỉ
một lần nữa khẳng định một quy luật trong sáng tạo folklore là: sự tương tác giữa văn
hóa bác học và văn hóa dân gian, trong đó, tư duy tổng hòa (hay lưỡng hợp) về văn
hóa là đặc trưng quan trọng.
188
KẾT LUẬN
Tiếp cận văn hóa, văn học dân gian theo khuynh hướng thể loại là một hướng
nghiên cứu mang tính kinh điển của folklore học. Với đề tài Đặc điểm giai thoại Việt
Nam, chúng tôi đã kế thừa thành tựu nghiên cứu về mặt lý luận của folklore nói chung,
giai thoại nói riêng từ các nhà nghiên cứu đi trước để bước đầu xác định sự tồn tại với
tư cách một thể loại của giai thoại qua một số nhận thức và biểu hiện đặc trưng thể loại
như sau:
1. Từ việc khái quát thực tế tư liệu giai thoại Việt Nam sẽ thấy quá trình phức tạp
trong việc xác định thể loại của các nhà folklore Việt Nam. Từ chỗ nhập nhằng không
được thừa nhận với tư cách một thể loại, thậm chí còn lẫn với văn học viết, cho đến sự
thừa nhận là một thể loại là cả một quá trình nhận thức. Điều đó đã cho thấy tính phức
tạp của vấn đề. Luận án đã cố gắng làm rõ vấn đề trên. Điều đó tác động đến việc xác
định tư liệu giai thoại Việt Nam. Nó góp phần sắp xếp lại tư liệu một cách khoa học
hơn dựa trên nền tảng lý luận về mặt thể loại. Từ đấy, luận án cũng đưa ra một khái
niệm chung nhất về giai thoại, các tiểu loại của giai thoại cũng như những đặc điểm
thể loại của giai thoại.
2. Về mặt phân loại, các nhà nghiên cứu đưa ra những quan niệm khác nhau
nhưng chủ yếu vẫn dựa vào tiêu chí đề tài. Căn cứ vào thực tiễn giai thoại được sưu
tầm, giới thiệu ở Việt Nam, chúng tôi rất đồng tình với quan niệm của một số nhà
nghiên cứu để xác định giai thoại qua 03 biến thể: giai thoại văn học, giai thoại lịch sử
và giai thoại folklore. Trên cơ sở đó, chúng tôi cũng đưa ra quan điểm riêng của mình
trong sự phân nhóm của từng tiểu loại, căn cứ trên tiêu chí duy nhất là đề tài. Cũng
dựa vào tiêu chí này, luận án đã bước đầu xác định trình tự các bước trong việc phân
loại tiểu loại và các nhóm của tiểu loại giai thoại Việt Nam.
3. Luận án đã điểm qua các bình diện thi pháp tiêu biểu của của giai thoại Việt
Nam là nhân vật, kết cấu. Đặc biệt motif hạt nhân thể hiện vai trò khá rõ trong cách
triển khai cốt truyện của giai thoại văn học như: motif thách đố văn chương và motif
làm thơ tạo tình huống. Kết quả khảo sát đó đã chứng minh nhận xét của các nhà
nghiên cứu đi trước về tính chất “đại đồng tiểu dị” của giai thoại văn học là hoàn toàn
xác đáng. Trên cơ sở đó, luận án cũng đã lý giải một số cơ sở lịch sử xã hội tác động
đến sự hình thành các kiểu nhân vật đặc trưng trong giai thoại. Trên cơ sở phân tích
giai thoại từ hướng tiếp cận motif, tình tiết, có thể thấy mô hình kết cấu của từng nhóm
cũng như xác lập mối tương quan giữa các tình tiết trong nhóm truyện về các nghệ
nhân dân gian và các nhà nho tài tử. Đặc biệt motif cốt lõi của nhóm giai thoại sinh
189
hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian là motif thách đố (về hò hát). Đây là cái nhìn mới mà
các nhà nghiên cứu đi trước chưa chú ý.
4. Sau khi phân tích mối quan hệ giữa giai thoại và các thể loại khác trong tự sự
dân gian, có thể thấy: giai thoại là một thể loại văn học dân gian mang có khả năng
tích hợp cao, liên quan đến một số thể loại tự sự khác. Từ đó có thể nói, giai thoại là
một hiện tượng văn hóa độc đáo, là một hiện tượng mang tính tổng hợp của nhiều lĩnh
vực. Do đó, nó cần được nghiên cứu dưới góc độ liên ngành và thậm chí xuyên thể loại
mới thấy hết tính phức tạp và đa diện về thi pháp của thể loại.
5. Nên chăng tìm hiểu thêm giai thoại ở thời hiện đại trong các hình thức văn
hóa, nghệ thuật, ngoại giao, quân sự, chính trị,... sẽ giúp ta có cái nhìn đầy đủ hơn vai
trò của giai thoại trong đời sống hiện đại. Chẳng hạn như giai thoại sân khấu, cải
lương, điện ảnh, văn học,... ở miền Nam giai đoạn trước 1975 (hiện nay, việc sưu tập
mảng này là rất mỏng, nằm rải rác trên các báo, tạp chí. Chẳng hạn, báo Thanh niên, ở
mục Văn hóa, văn nghệ từng có thời điểm giới thiệu khá nhiều giai thoại hay về các
văn nghệ sĩ miền Nam trước 1975); các giai thoại về Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp,
Nguyễn Chí Thanh, Trần Đức Thảo, Trường Chinh,... Bên cạnh đó, là mảng giai thoại
về những người nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực khoa học cũng cần được quan tâm nhiều
hơn, cần được tập hợp, khảo sát và nghiên cứu một cách khoa học, nghiêm túc. Bởi
đấy là một phần lịch sử, văn hóa của dân tộc trong thời đại đầy biến động.
190
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Nguyễn Văn Thương. (2018). Nhân vật trí thức và nhân vật ngông của giai thoại dân gian.
Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gòn. Số 59/T7/2018.
2. Nguyễn Văn Thương. (2018). Yếu tố tục trong giai thoại. Tạp chí Giáo dục và xã hội. Số
đặc biệt T9/2018.
3. Nguyễn Văn Thương. (2018). Vấn đề giao thoa thể loại trong nghiên cứu Folklore: Nghiên
cứu trường hợp truyện kể về Nguyễn Ánh ở Nam Bộ. Kỷ yếu hội thảo khoa học Văn hóa và
Văn học Nam Bộ trong thời kì hội nhập. NXB Khoa học Xã hội.
191
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt
1. Trần Thị An (2002), “Suy nghĩ mới về bản chất thể loại truyền thuyết”, Thông
báo Văn hóa dân gian, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr.597.
2. Trần Thị An (2002), Đặc trưng thể loại truyền thuyết và quá trình văn bản hóa
truyền thuyết dân gian Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà
Nội.
3. Trần Thị An (2005), “Tái định hướng thể loại folklore”, Tạp chí Nghiên cứu Văn
học, số 1.
4. Trần Thị An (2008), “Nghiên cứu văn học dân gian từ góc độ type và motif -
Những khả thủ và bất cập”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7.
5. Chiêng Xom An (1992), “Bàn thêm về thể loại truyền thuyết”, Tạp chí Văn hóa
dân gian, số 2.
6. Đào Duy Anh (2017), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Thế giới & Công ty
Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam, Hà Nội.
7. Hoài Anh, Hồ Sĩ Hiệp (1990), Những danh sĩ miền Nam, Sở Văn hóa Thông tin
Tiền Giang.
8. Thế Anh (2013), “Kể chuyện giai thoại không được bôi bác, xúc phạm danh
http://www.honvietquochoc.com.vn/bai-viet/4381-k-chuyn-giai-thoi-
nhân”,
khng-c-bi-bc-v-xc-phm-n-danh-nhn.aspx , ngày cập nhật 19/11/2013.
9. Trần Trúc Anh (2009), Giai thoại câu đối, đố tục giảng thanh, NXB Thanh Hóa.
10. Toan Ánh (1991), Con người Việt Nam: phong tục cổ truyền, NXB Tp. Hồ Chí
Minh.
11. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, (tái bản lần 3), NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
12. Thái Bạch (1958), Giai thoại văn chương Việt Nam, NXB Sài Gòn, Sài Gòn.
13. M. Bakhtin, Sáng tác của François Rabelais và nền văn hoá dân gian Trung cổ và
Phục hưng, Phạm Vĩnh Cư dịch, http://phebinhvanhoc.com.vn, cập nhật:
16/04/2012.
14. P. Roland Barthes (1996), “Dẫn luận phân tích các cơ cấu truyện kể”,
Communications (Giao Lưu, Paris).
15. Nguyễn Trọng Báu (1994), Đố tục giảng thanh và giai thoại chữ nghĩa, NXB Lao
động, Hà Nội.
16. Nguyễn Chí Bền (chủ biên) (2005), Truyện cười, Tập 9, Phần truyện trạng, Tổng
tập Văn học dân gian người Việt, NXB KHXH, Hà Nội.
17. Phan Kế Bính (2016), Nam hải dị nhân liệt truyện, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
18. Tôn Thất Bình (1987), Huế, những giai thoại, Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị
Thiên xuất bản, Huế.
19. Tôn Thất Bình (1995), Kể chuyện chín chúa mười ba vua triều Nguyễn, NXB Đà
Nẵng.
192
20. Tôn Thất Bình (chủ biên), Trần Hoàng, Triều Nguyên (1998), Truyện kể dân gian
Thừa Thiên Huế, NXB Văn hóa Dân tộc.
21. Bùi Văn Cường (1984), Nguyễn Khuyến và giai thoại, Hội Văn học Nghệ thuật Hà
Nam Ninh xuất bản.
22. Võ Phúc Châu (2005), “Bước đầu phân biệt truyền thuyết và giai thoại”, in trong
Bình luận Văn học – Niên giám 2005, NXB Văn hóa Sài Gòn & Hội nghiên cứu
– Giảng dạy Văn học Tp. Hồ Chí Minh, tr.95
23. Võ Phúc Châu (2011), Truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống
Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918), NXB Thời đại, Hà Nội.
24. Nguyễn Đổng Chi (2003), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, NXB KHXH, 3
quyển, Hà Nội.
25. Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Hải Hà (1987), Chuyện làng văn Việt Nam và thế giới,
2 tập, NXB Giáo dục.
26. Phan Huy Chú (2005), Lịch triều hiến chương loại chí, Viện sử học dịch, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
27. Thục Chương (1986), Giai thoại văn nghệ, Sở Văn hóa Thông tin Nghĩa Bình.
28. Lê Văn Chưởng (2010), Đặc khảo văn học dân gian Thừa Thiên Huế, NXB Trẻ,
Tp. Hồ Chí Minh.
29. Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian – Mấy vấn đề phương pháp luận và
nghiên cứu thể loại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
30. Chu Xuân Diên (2004), Mấy vấn văn hóa và văn học dân gian Việt Nam, NXB
Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
31. Cao Xuân Dục (1972), Quốc triều chánh biên toát yếu, Nhóm Sử Địa Việt Nam
xuất bản, Hà Nội.
32. Trần Thị Thùy Duyên (2013), Motif thi tài trong truyền thuyết và truyện cổ tích
dân tộc Kinh, Luận văn Cao học, Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.
33. K. C. Davletop, V. Gaxac (1966), Sáng tác dân gian một loại hình nghệ thuật,
Hoàng Lộc, Lê Sơn dịch, Tài liệu đánh máy của Viện Văn học, Hà Nội.
34. Lãng Nhân Phùng Tất Đắc (1999), Giai thoại làng Nho, NXB Văn hóa Thông tin
(in lại theo bản Nam Chi tùng thư 1966), Hà Nội.
35. Nguyễn Tấn Đắc (2001), Truyện kể dân gian, đọc bằng Type và Motif, NXB
KHXH, Hà Nội.
36. Cao Huy Đỉnh (1976), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian, NXB KHXH, Hà
Nội.
37. Nguyễn Đăng Điệp (1998), Tuyển tập Trần Đình Sử, Tập hai, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
38. Lê Quý Đôn (1978), Đại Việt thông sử, Lê Mạnh Tiêu dịch, NXB KHXH, Hà Nội.
39. Lê Quý Đôn (2013), Kiến văn tiểu lục, 2 tập, Phạm Trọng Điềm dịch, NXB Trẻ
Tp. Hồ Chí Minh.
40. Nhiều tác giả (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, Viện KHXH Việt Nam dịch, NXB
193
KHXH, Hà Nội.
41. Nhiều tác giả (1997), Nghiên cứu Văn nghệ dân gian Việt Nam, 2 tập, NXB Văn
hóa Dân tộc.
42. Nhiều tác giả (2000), Giai thoại Hán Nôm, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
43. Nhiều tác giả (2001), Giai thoại về phụ nữ Việt Nam, NXB Phụ nữ.
44. Nhiều tác giả (2003), Tuyển tập V. Ja. Propp, 2 tập, NXB Văn hóa Dân tộc, Tạp
chí Văn hóa - Nghệ thuật Hà Nội.
45. Nhiều tác giả (2004), Từ điển Văn học (Bộ mới), NXB Thế giới.
46. Nhiều tác giả (2007), Từ điển thuật ngữ Văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
47. Ninh Viết Giao (1994), Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ, Tập 3, NXB Nghệ
An.
48. Ninh Viết Giao (2004), Về văn học dân gian xứ Nghệ, NXB Chính trị Quốc gia Hà
Nội.
49. Ninh Viết Giao (2012), Văn hóa dân gian xứ Nghệ, Tập 3: Truyện cười và giai
thoại, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
50. Bảo Định Giang (2001), Những ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Nam Bộ nửa
sau thế kỷ XIX, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
51. V. Guxev (1999), Mỹ học folklore, Hoàng Ngọc Hiến dịch, NXB Đà Nẵng, Đà
Nẵng.
52. Nguyễn Thị Bích Hà, Giai thoại – Một thể loại văn học dân gian,
http://www.vanhocviet.org
53. Lê Thị Diệu Hà (2015), Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam
Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh.
54. Dương Quảng Hàm (2005), Việt Nam văn học sử yếu, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh
(tái bản dựa vào bản in năm 1943).
55. Đỗ Thị Hồng Hạnh (2013), Đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian vùng Đồng
bằng sông Cửu Long, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh.
56. Nguyễn Văn Hầu (2004), Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ, NXB Trẻ, Tp. Hồ
Chí Minh.
57. Phan Thư Hiền, Phan Hồng Lam (2011), Giai thoại về các bậc tiền nhân mê hát
ca trù và những đào nương lưu danh sử sách, NXB Thời đại, Hà Nội.
58. Phan Thư Hiền (2012), Giai thoại Nguyễn Công Trứ, NXB Văn hóa Thông tin, Hà
Nội.
59. Phan Thư Hiền, Nguyễn Thị Thân (sưu tầm) (2012), Giai thoại Nguyễn Du và
những mối tình dang dở, NXB Hồng Đức.
60. Nguyễn Hữu Hiệp (2008), “Những dấu ấn và giai thoại về Nguyễn Ánh trên vùng
đất Phương Nam”, Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam
từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, NXB Thế giới, Hà Nội.
194
61. Nguyễn Hữu Hiếu (1987), Truyện kể dân gian Nam Bộ, NXB Tp. Hồ Chí Minh.
62. Nguyễn Hữu Hiếu (1988), Giai thoại dân gian Đồng Tháp Mười, NXB Đồng
Tháp.
63. Nguyễn Hữu Hiếu (1997), Nam kì cố sự, NXB Đồng Tháp.
64. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ qua chuyện tích
và giả thuyết, NXB KHXH, Hà Nội.
65. Kiều Thu Hoạch, Hoàng Ngọc Phách (sưu tầm), Trần Thanh Mại (giới thiệu)
(1965), Giai thoại văn học Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
66. Kiều Thu Hoạch (2002), Xác định thể loại giai thoại, Thông báo Văn hóa dân
gian, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr. 24.
67. Kiều Thu Hoạch (2004), Tổng tập văn học dân gian người Việt, Tập 11 - Giai
thoại văn học Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
68. Kiều Thu Hoạch (Chủ biên) (2004), Tổng tập Văn học dân gian người Việt, Tập 4,
Tập 5 – Truyền thuyết dân gian người Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
69. Kiều Thu Hoạch (2006), Văn học dân gian người Việt – Góc nhìn thể loại, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
70. Phạm Khắc Hòe (1986), Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn, NXB Thuận Hóa, Huế.
71. Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam (1986), Giai thoại văn nghệ dân gian, Hà Nội.
72. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (2001), Một thế kỷ sưu tầm nghiên cứu văn hóa
văn nghệ dân gian, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
73. Hội Khoa học Lịch sử Tp. Hồ Chí Minh (2005), Nam Bộ đất và người, NXB Trẻ,
Tp. Hồ Chí Minh.
74. Nguyễn Thị Huế (Chủ biên) (2012), Từ điển type truyện dân gian Việt Nam, 2 tập,
NXB Lao Động, Hà Nội.
75. Hồ Quốc Hùng (1998), Về nhóm truyền thuyết khẩn hoang ở một vùng đất mới,
Tạp chí Văn học, số 4.
76. Hồ Quốc Hùng (1999), Những đặc trưng cơ bản của truyện dân gian vùng Thuận
Hóa, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học KHXH và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh.
77. Hồ Quốc Hùng (2003), Truyền thuyết Việt Nam và vấn đề thể loại, NXB Trẻ - Hội
Nghiên cứu, giảng dạy Văn học Tp. Hồ Chí Minh.
78. Trần Đình Hượu (1995), Đến hiện đại từ truyền thống, NXB Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
79. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Viện
nghiên cứu Đông Nam Á, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
80. I. P.Ilin, E. A.Tzurganova (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái
nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kì thế kỉ XX, Nhóm dịch giả: Đào Tuấn
Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
81. Trần Trọng Kim (2005), Việt Nam sử lược, NXB Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.
82. Trương Vĩnh Ký (1962), Chuyện đời xưa, NXB Khai Trí, Sài Gòn.
83. Trường Khang (2011), Giai thoại dân gian Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin,
195
Hà Nội.
84. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2009), Văn học dân gian Việt
Nam, tái bản lần 12, NXB Giáo dục.
85. Vũ Ngọc Khánh (1983), Giai thoại văn học Thanh Hóa, NXB Thanh Hóa.
86. Vũ Ngọc Khánh, Đỗ Thị Hảo (1987), Giai thoại Thăng Long, NXB Văn học, Hà
Nội.
87. Vũ Ngọc Khánh (1989), Giai thoại xứ Lạng, NXB Lạng Sơn.
88. Vũ Ngọc Khánh (1992), Giai thoại văn học Trung Quốc, NXB Văn học, Hà Nội.
89. Vũ Ngọc Khánh (1994), Kho tàng giai thoại Việt Nam, 2 tập, NXB Văn hóa, Hà
Nội.
90. Vũ Ngọc Khánh (1995), Giai thoại văn nghệ dân gian Việt Nam , Hội Văn nghệ
dân gian Việt Nam, Hà Nội.
91. Vũ Ngọc Khánh (1996), Giai thoại folklore Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội..
92. Vũ Ngọc Khánh (1999), Tiếp cận kho tàng folklore Việt Nam, NXB Văn hóa Dân
tộc, Hà Nội.
93. Vũ Ngọc Khánh (2001), “Một thế kỷ sưu tầm, nghiên cứu giai thoại Việt Nam”, in
trong: Một thế kỷ sưu tầm, nghiên cứu văn nghệ dân gian (Kỷ yếu Hội thảo Hội
Văn nghệ dân gian Việt Nam tổ chức), Nhiều tác giả, NXB Văn hóa Thông tin,
Hà Nội, tr.119 – 126.
94. Vũ Ngọc Khánh (2002), Kho tàng về các ông Trạng Việt Nam (truyện và giai
thoại), NXB Văn hóa Thông tin.
95. Vũ Ngọc Khánh (2005), Giai thoại Truyện Kiều, NXB Văn hóa Thông tin, Hà
Nội.
96. Vũ Ngọc Khánh (2005), Hành trình vào thế giới folklore Việt Nam, NXB Thanh
niên, Hà Nội.
97. Vũ Ngọc Khánh (2012), Việt Nam phong tục toàn biên, NXB Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
98. Khoa Ngữ văn Đại học Cần Thơ (1994), Truyện dân gian Đồng bằng sông Cửu
Long, NXB Đồng Tháp.
99. Khoa Ngữ văn Đại học Cần Thơ (1997), Văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu
Long, NXB Giáo dục, Hà Nội.
100. Phan Khôi (1998), Chương dân thi thoại, NXB Đà Nẵng.
101. Vũ Khiêu, Nguyễn Văn Tú tuyển dịch (1976), Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, in lần
2, NXB Văn học, Hà Nội.
102. Vũ Khiêu (1990), Nho giáo xưa và nay, NXB KHXH, Hà Nội.
103. Huyền Li, 36 giai thoại về Nguyễn Công Trứ, Tạp chí Văn hóa Nghệ An,
http://www.vanhoanghean.com.vn/muc-luc2/36-giai-thoai-ve-nguyen-cong-tru,
ngày cập nhật 17/12/2009.
104. Phương Lựu (chủ biên) và nhiều tác giả khác (2006), Lý luận văn học, tái bản
lần thứ 5, NXB Giáo dục, Hà Nội.
196
105. Vũ Văn Luân (2007), Ba Giai, Tú Xuất con người và giai thoại, NXB Thanh
niên, Hà Nội.
106. Trần Đình Nam (2009), Giai thoại Việt Nam – Ông vua làm vè (Giai thoại nhân
vật lịch sử - văn học), NXB Kim Đồng.
107. W. F. H. Nicolaisen (2013), “Giai thoại”, bản dịch của Huỳnh Vũ Lam, dịch từ
bài viết “Anecdote” in trong Folklore – An encyclopedia of belief, custom, tales,
music and art, T. A. Green, ABC-CLIO, Inc, pp.17 – 19. (Tài liệu cá nhân do tác
giả Huỳnh Vũ Lam cung cấp cho tác giả luận án).
108. Nguyễn Văn Ngọc (1931), Câu đối, Vĩnh Hưng Long Thư quán xuất bản, Hà
Nội.
109. Nguyễn Văn Ngọc (1934), Chuyện cổ nước Nam, NXB Thăng Long, Hà Nội.
110. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
111. Triều Nguyên (2010), Tổng tập văn học dân gian xứ Huế, Tập 2: Truyện cười,
truyện trạng và giai thoại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
112. Triều Nguyên (2011), Văn nghệ dân gian xứ Huế: Hò đối đáp nam nữ, giai thoại
hò, truyện trạng Nguyễn Kinh, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
113. Triều Nguyên (2014), Tìm hiểu về truyện trạng Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian
Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
114. Triều Nguyên (2016), Giai thoại văn hóa dân gian Việt Nam, 2 tập, NXB Văn
hóa Dân tộc, Hà Nội.
115. Triều Nguyên (2016), Luận về giai thoại, NXB Thời đại, Hà Nội.
116. Phan Trung Nghĩa (2009), Công tử Bạc Liêu – Sự thật và giai thoại, Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Bạc Liêu xuất bản.
117. Đào Trinh Nhất (1934), Việt sử giai thoại, Cộng lực xuất bản, Hà Nội.
118. Bùi Mạnh Nhị (Chủ biên) (2000), Văn học dân gian – Những công trình nghiên
cứu, NXB Giáo dục, Hà Nội.
119. Bùi Mạnh Nhị (Chủ biên), (2004), Văn học dân gian – Những tác phẩm chọn lọc,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
120. Lê Trường Phát (1987), “Về hiện tượng xen kẽ giữa văn vần và văn xuôi trong
truyện kể dân gian”, Tạp chí Văn học, số 4.
121. Lê Trường Phát (2000), Thi pháp văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội.
122. Hoàng Phê (1988), Từ điển tiếng Việt, NXB KHXH, Hà Nội.
123. Phan Phụng (1992), Tú Quỳ, văn chương và giai thoại, NXB Đà Nẵng.
124. Nguyễn Ngọc Quận (2009), “Đôi điều cần đính chính về tư liệu văn học liên
quan đến Cao Bá Quát”, http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/tai-lieu-pho-cap-
vhh/van-hoa-viet-nam/1184-nguyen-ngoc-quan-doi-dieu-can-dinh-chinh-ve-cao-
ba-quat.html , ngày đăng 22/03/2009.
125. Lê Chí Quế (Chủ biên) (1999), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
126. Phạm Đan Quế (1999), Tập Kiều – Một thú chơi tao nhã, NXB Văn nghệ Tp. Hồ
197
Chí Minh.
127. Phạm Đan Quế (2015), Từ lẩy Kiều, đố Kiều đến các giai thoại về truyện Kiều,
NXB Giáo dục.
128. Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam nhất thống chí, 3 tập, NXB Thuận
Hóa, Huế.
129. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, 2
tập, Viện Sử học dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội.
130. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện, 4 tập, Đỗ Mộng
Khương dịch, Hoa Bằng hiệu đính, tái bản lần thứ hai, NXB Thuận Hóa, Huế.
131. Lương Cao Rính (2001), Giai thoại Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, NXB Hải
Phòng.
132. N. D. Tamarchenko (2014), “Giai thoại là gì?”, Lã Nguyên dịch,
https://languyensp.wordpress.com/ , cập nhật ngày 20/10/2014.
133. Vũ Anh Tuấn (Chủ biên), Phạm Thu Yến, Nguyễn Việt Hùng, Phạm Đặng Xuân
Hương (2016), Giáo trình Văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội
134. Cổ Ngô Mạc Lãng Tử (1993), Tây Hồ giai thoại, 2 tập, Dương Thu Ái dịch,
NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
135. Hoàng Tiến Tựu (1998), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
136. Bùi Quang Thanh (1981), “Truyền thuyết dân gian với tâm lý cộng đồng người
Việt”, Tạp chí Văn học, số 3.
137. Cao Tự Thanh (1995), Giai thoại thơ Đường, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
138. Chương Thâu (1991), Giai thoại Phan Bội Châu, NXB Nghệ An, Trung tâm Văn
hóa Ngôn ngữ Đông Tây kết hợp xuất bản.
139. Thiền viện Thường Chiếu, Giai
nhà
đăng thiền,
ngày
thoại
http://thuongchieu.net/index.php/chuyende/giaithoainhathien,
22/11/2008 đến ngày 27/09/2009.
140. Trần Ngọc Thêm (1996), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Tổng hợp Tp. Hồ Chí
Minh.
141. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1990), Quan niệm về Folklore, NXB KHXH, Hà
Nội.
142. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, NXB
Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
143. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (đồng chủ biên) (2005), Folklore thế giới – Một
số công trình nghiên cứu cơ bản, NXB KHXH, Hà Nội.
144. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (đồng chủ biên) (2005), Folklore thế giới – Một
số thuật ngữ đương đại, NXB KHXH, Hà Nội.
145. Nguyễn Khắc Thuần (1992 – 1994), Việt sử giai thoại, 8 tập, NXB Tp. Hồ Chí
Minh.
146. Nguyễn Khắc Thuần (1997), Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam: Nho giáo với
quá trình tham gia vào đời sống tư tưởng Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
198
147. Đỗ Lai Thúy (2000), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, NXB Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
148. Đỗ Lai Thúy (2001), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
149. Đỗ Lai Thúy (2007), Phân tâm học và tính cách dân tộc, NXB Tri thức, Hà Nội.
150. Đỗ Lai Thúy (biên soạn và giới thiệu) (2004), Sự đỏng đảnh của phương pháp:
Các lý thuyết và phương pháp trong văn hóa nghệ thuật, NXB Văn hóa - Thông
tin, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
151. Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường (1992), Nghìn năm bia miệng, 2 tập,
NXB Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.
152. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
153. Đỗ Bình Trị (1995), Phân tích tác phẩm văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
154. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
155. Đỗ Bình Trị (2017), Mấy nghiên cứu, ứng dụng học thuyết của V. Propp về
folklore, Tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.
156. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2003), Đinh Gia Khánh –
Tác phẩm được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB KHXH, Hà Nội.
157. Viện Văn học (1999), Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học (1960 – 1999), Tập 1,
Văn học dân gian, NXB Tp. Hồ Chí Minh.
158. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2003), Thông báo Văn hóa dân gian 2002,
NXB KHXH, Hà Nội.
159. Kiều Văn (2002), Giai thoại lịch sử Việt Nam, 2 tập, NXB Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
160. Trần Trung Viên (1968), Giai thoại làng văn, trong quyển Văn đàn bảo giám
(quyển thượng), NXB Mặc Lâm, Sài Gòn.
161. Hoàng Hương Việt (2004), Giai thoại đất Quảng, NXB Đà Nẵng.
162. Trần Quốc Vượng (1996), Theo dòng lịch sử: Những vùng đất, thần và tâm thức
người Việt, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
163. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam, cái nhìn địa văn hóa, NXB Văn hóa Dân
tộc, Hà Nội.
164. Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn học,
Hà Nội.
165. Trần Quốc Vượng (2014), Trong cõi, NXB Hội Nhà văn & Công ty Văn hóa và
Truyền thông Nhã Nam, Hà Nội.
166. Nguyễn Đắc Xuân (1986), Hương giang cố sự, Hội Văn học Nghệ thuật Bình Trị
Thiên xuất bản, Huế.
167. Nguyễn Đắc Xuân (1987), Chuyện cũ cố đô, Hội Văn học Nghệ thuật Bình Trị
Thiên xuất bản, Huế.
199
168. Nguyễn Khắc Xương (1990), Ông thần ngông: Giai thoại Tản Đà, NXB Văn
học, Hà Nội.
B. Tài liệu tiếng Anh:
169. Aarne, A., & Thompson, S. (1961), The types of the folktale: A classification and
bibliography, Antti Aarne's Verzeichnis der Märchentypen (FF communications
no. 3) translated and enl. by Stith Thompson. 2nd revision. Helsinki: Academia
Scientarum Fennica.
170. Coe, N. R. (1985), “The Anecdote and the Novel: A brief enquiry into the origins
of Stendhal's narrative technique”, Australian Journal of French Studies; Clayton,
Vic. 22 (2).
171. Diniejko, A. & Litt, D. (2016), “Isaac D’Israeli’s Literary Works”, The Victoria
web, link: http://www.victorianweb.org/previctorian/disraeli/literature.html.
172. D’Israeli, I. (1793), A dissertation on anecdotes, London: printed for Kearsley,
C., G & Murray, J.
173. Dorson, M. R. (1959), American Folklore, Daniel J. Boorstin editor, The
University of Chicago Press Chicago and London, The Abraham Lincoln
Library.
174. Dundes, A. (1965), The study of Folklore, Prentice - Hall, Englewood Cliffs, N.J,
Unieversity of California at Berkeley.
175. Dundes, A. (1980), “Who are the folk”, Interpreting folklore, Bloomington :
Indiana University Press, link:
https://lizmontague.files.wordpress.com/2011/10/fl whoarethefolk.pdf
176. Fineman, J. (1989), “The history of the Anecdote: Fiction and fiction”, The New
Historicism, 1st Edition, The New Historicism, ed. Veeser, H. A., New York and
London: Routledge.
177. Fleming, P. (2011), “The perfect story: Anecdote and exemplarity in Linnaeus
and Blumenberg”, Thesis Eleven, 104 (1), pp. 72 – 86, Article first published
online: March 7, 2011; Issue published: February 1, 2011,
https://doi.org/10.1177/0725513610394736.
178. Gallop, J. (2002), Anecdotal theory, Duke University Press.
179. Gossman, L. (2003), “Anecdote and history”, History and Theory, 42 (2) (May,
2003), pp. 143 – 168, Wesleyan University. Link: https://doi.org/10.1111/1468-
2303.00237.
180. Laden, S. (2004), “Recuperating the Archive: Anecdotal Evidence and Questions
of Historical Realism”, Poetics Today, 25 (1), pp. 1 – 28,
https://doi.org/10.1215/03335372-25-1-1
181. London, A. (2005), “Isaac D’Israeliand literary history: Opinion, anecdote and
secret history in the early nineteenth century”, Poetics Today, Published by Duke
University Press, link:
200
https://citeseerx.ist.psu.edu/viewdoc/download?doi=10.1.1.836.4026&rep=rep1&
type=pdf.
182. Moore, R. (2009), “The use of the anecdote in the critical study of aboriginal
literature”, University of Saskatchewan, Canada, link:
https://harvest.usask.ca/bitstream/handle/10388/etd-01152010
085439/TheUseoftheAnecdoteintheCriticalStudyofAboriginalLiterature.pdf
183. Nichols, J. (1782), Biographical and literary anecdotes of William Bowyer,
London, Printed by the author.
184. Nichols, J., Bentley, S. & Nichols, S. (1812 – 1816), Literary anecdotes of the
eighteenth century: Comprizing biographical memoirs of William Bowyer.
Second edition. London: Printed for the author, by Nichols, Son, and Bentley, at
Cicero's Head, Red-Lion-Passage, Fleet-Street.
185. Percy, R. & Percy, S. (1821), The Percy anecdotes: Original and select [by]
Sholto and Reuben Percy, brothers of the Benedictine Monastery, Mont Benger.
London: T. Boys.
186. Percy, R. (1838), The Percy anecdotes, revised edition: To which is added, a
valuable collection of American anecdotes, original and select. New York:
Harper & Brothers.
187. Percy, R. & Percy, S. (1845). The Percy anecdotes: to which is added a valuable
collection of American anecdotes, original and select. Rev ed. New York: Harper
& Brothers.
188. Subadhra, S. (2018), “History through Anecdotes: A New Historical Outlook on
Tariq Ali’s Islam Quintet”, IJLLH (International Journal of English Language
Literature in Humanities), 6 (2), link:
https://ijellh.com/OJS/index.php/OJS/article/view/3199
189. Vermeulen, P. (2010), “Greenblatt’s melancholy fetish: literary criticism and
thedesire for loss”, Textual Practice 24 (3), 2010, pp. 483 – 500, link:
http://www.pvermeulen.com/uploads/1/2/4/3/12438327/melancholyfetish.pdf
190. Williams, M. (2014), “New Historicism and Literary Studies”, New York:
https://soka.repo.nii.ac.jp. Routledge, link:
201
PHỤ LỤC
202
MỤC LỤC
PHỤ LỤC 1: BẢNG THỐNG KÊ VĂN BẢN GIAI THOẠI PHÂN LOẠI CHƯA HỢP LÝ TỪ CÁC
TUYỂN TẬP ...................................................................................................................................................... 1
PHỤ LỤC 2: KẾT QUẢ KHẢO SÁT TIÊU CHÍ ĐỀ TÀI VÀ NHÂN VẬT CỦA MỘT SỐ TUYỂN
TẬP GIAI THOẠI ............................................................................................................................................ 38
PHỤ LỤC 3: HỆ THỐNG VĂN BẢN VÀ KẾT QUẢ KHẢO SÁT TÌNH TIẾT CỦA CÁC TIỂU
LOẠI, NHÓM GIAI THOẠI CÓ TRONG LUẬN ÁN .................................................................................. 138
1. GIAI THOẠI VĂN HỌC ............................................................................................................................ 138
1.1 Giai thoại văn học về thách đố, đối chọi văn chương ............................................................................... 138
1.2 Giai thoại văn học về ứng tác văn chương ................................................................................................ 145
2. GIAI THOẠI VĂN HÓA DÂN GIAN ....................................................................................................... 156
PHỤ LỤC 4: MỘT SỐ VĂN BẢN GIAI THOẠI TRONG CÁC TUYỂN TẬP GIAI THOẠI ĐƯỢC
LUẬN ÁN KHẢO SÁT .................................................................................................................................. 167
A. GIAI THOẠI VĂN HỌC ........................................................................................................................... 167
* GIAI THOẠI VĂN HỌC VỀ THÁCH ĐỐ VĂN CHƯƠNG ..................................................................... 167
1. Bác lái đò hay chữ (Sư Đỗ Thuận) .............................................................................................................. 167
2. Trạng nguyên về học lễ (Nguyễn Hiền) ...................................................................................................... 167
3. Ra đối dễ, đối đối khó (Mạc Đĩnh Chi) ....................................................................................................... 168
4. Trăng là cung, sao là đạn (Mạc Đĩnh Chi) .................................................................................................. 169
5. Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào (Mạc Đĩnh Chi) ....................................................................................... 169
6. Chim chếch - ếch ngộp (Mạc Đĩnh Chi) ..................................................................................................... 169
7. Hoa sen trong giếng ngọc (Mạc Đĩnh Chi) ................................................................................................. 170
8. Sư sử sứ, phụ phù phu (Lương Thế Vinh) .................................................................................................. 170
9. Hai cô Điểm, hai ông Luân (Đoàn Thị Điểm) ............................................................................................. 171
10. Vế đối hai nghĩa (Đoàn Thị Điểm)............................................................................................................ 171
11. Thư mượn áo cừu (Lê Quý Đôn) .............................................................................................................. 171
12. Cái cò lặn lội bờ sông (Lê Quý Đôn) ........................................................................................................ 172
13. Câu đố chữ nhất (Lê Quý Đôn) ................................................................................................................. 173
14. Cốt đối ý (Nguyễn Hữu Cầu) .................................................................................................................... 174
15. Đánh nhau bằng cả câu đối (Nguyễn Hữu Cầu) ........................................................................................ 175
16. Một lũ ăn mày một lũ quan (Nguyễn Quí Tân) ......................................................................................... 175
17. Thơ răng cắn lưỡi (Nguyễn Đăng Hành) ................................................................................................... 176
18. Ở truồng xem vua (Cao Bá Quát).............................................................................................................. 177
19. Khí phách ngang tàng (Cao Bá Quát) ....................................................................................................... 177
20. Một bọc sinh đôi (Cao Bá Quát) ............................................................................................................... 178
21. Khóc mướn kiếm ăn (Cao Bá Quát) .......................................................................................................... 178
22. Bịa thơ tài hơn vua (Cao Bá Quát) ............................................................................................................ 179
23. Không biết chữ chi (Cao Bá Quát) ............................................................................................................ 180
24. Miệng kẻ sang, đồ nhà khó (Trạng Quỳnh)............................................................................................... 181
25. Chó khôn chớ cắn càn (Trạng Quỳnh) ...................................................................................................... 182
26. Tú Cát – Bọ hung (Trạng Quỳnh) ............................................................................................................. 182
27. Quân tử chí, xã tắc thần (Nguyễn Quý Đức) ............................................................................................. 182
28. Ếch ngôi đáy giếng (Nguyễn Đăng Cảo) .................................................................................................. 182
29. Phong nguyệt vô biên (Nguyễn Đăng Cảo)............................................................................................... 183
30. Hà túc toàn giã, bất diệt lạc hồ (Vương Toán) .......................................................................................... 184
31. Chết vì câu đối (Ngô Thì Nhậm) ............................................................................................................... 185
32. Anh hùng đè xuống dưới (Nguyễn Công Trứ) .......................................................................................... 186
33. Đối chọi với sư (Nguyễn Công Trứ) ......................................................................................................... 186
34. Ghẹo sư (Hoàng Phan Thái) ...................................................................................................................... 187
35. Cọp bắt thầy tu (Hoàng Phan Thái) ........................................................................................................... 187
36. Ngon đối với rột (khuyết danh) ................................................................................................................ 188
37. Ọt ẹt bất ọt ẹt (khuyết danh) ...................................................................................................................... 188
38. Đội ra ông phủ (khuyết danh) .................................................................................................................... 189
* GIAI THOẠI VĂN HỌC VỀ ỨNG TÁC VĂN CHƯƠNG ........................................................................ 190
1. Bị trói vẫn làm thơ (Lý Công Uẩn) ............................................................................................................. 190
2. Đọc thơ chê Hạng Vũ (Hồ Tông Thốc) ....................................................................................................... 191
3. Chữa thơ Vương Bột (Hồ Tông Thốc) ........................................................................................................ 191
4. Câu thơ kỳ lạ (Hồ Quý Ly) .......................................................................................................................... 192
5. Thơ đùa ả bán chiếu (Nguyễn Trãi) ............................................................................................................. 193
6. Xơi hai trứng (Trạng Quỳnh) ...................................................................................................................... 193
7. Ngâm thơ cự thần (Nguyễn Thái Thường) .................................................................................................. 194
8. Đọc thơ chữa thẹn (Hồ Xuân Hương) ......................................................................................................... 194
9. Đánh trống qua cửa nhà sấm (Hồ Xuân Hương) ......................................................................................... 195
10. Tiến sĩ triều Lê, khăn triều Nguyễn (Trần Danh Án) ................................................................................ 195
11. Ông Cống làm trâu (Bà huyện Thanh Quan) ............................................................................................ 196
12. Cho Thị Đào đi lấy chồng (Bà huyện Thanh Quan) .................................................................................. 197
13. Chê khéo (Bà huyện Thanh Quan) ............................................................................................................ 197
14. Say rượu đánh long thần (Nguyễn Công Trứ) ........................................................................................... 198
15. Thơ trách nữ thần (Nguyễn Công Trứ) ..................................................................................................... 198
16. Tự tiện chữa văn của vua (Cao Bá Quát) .................................................................................................. 198
17. Trên dưới đều chó (Thượng hạ giai cẩu) (Cao Bá Quát) ........................................................................... 199
18. Bài thơ không họa nổi (Huỳnh Mẫn Đạt) .................................................................................................. 200
19. Thơ tạ hương đảng (Học Lạc) ................................................................................................................... 200
20. Bị ngồi trăng (Học Lạc) ............................................................................................................................. 201
21. Anh hùng có một ngươi (Tú Quỳ) ............................................................................................................ 202
22. Thơ trả lời bạn nhà giàu (Nhiêu Tâm) ....................................................................................................... 202
23. Đái vẽ nên rồng (Cử Trị) ........................................................................................................................... 203
24. Thơ ăn thịt cần đước (Cử Trị) ................................................................................................................... 203
25. Hóa ra dưa (Tú Xương) ............................................................................................................................. 203
26. Thơ nói lái (Tự Đức) ................................................................................................................................. 204
27. Trâu bò dê lóc (Nguyễn Đình Chiểu) ........................................................................................................ 204
28. Muôn quyển sách – ba đoạn tre (khuyết danh) .......................................................................................... 205
29. Bốn chàng sĩ tử (khuyết danh) ................................................................................................................... 206
30. Nỏ biết ông chi mặt đỏ gay (khuyết danh) ................................................................................................ 206
31. Làng biết có đi đời (khuyết danh) ............................................................................................................. 207
C. GIAI THOẠI VĂN HÓA DÂN GIAN ....................................................................................................... 207
GIAI THOẠI SINH HOẠT VĂN HÓA, VĂN NGHỆ DÂN GIAN .............................................................. 208
GIAI THOẠI HÒ ĐỐI ĐÁP BÌNH TRỊ THIÊN ............................................................................................ 208
1. Tui cày suông cho chị (Ông Bơi) ................................................................................................................ 208
2. Nét tơ đồng không sai (Thợ Quán) .............................................................................................................. 208
3. Hễ trời mưa giông một trộ (Thợ Quán) ....................................................................................................... 209
4. Vợ chồng mình như em ả, chị tam (Thợ Quán) ........................................................................................... 209
5. Nam to không chèo (Thợ Thiềm) ................................................................................................................ 209
6. Méo tròn cũng phải ăn (Thợ Thiềm) ........................................................................................................... 210
7. Thợ Thiềm phá vây (Thợ Thiềm) ................................................................................................................ 210
GIAI THOẠI HÒ KHOAN NAM TRUNG BỘ VÀ HÁT PHƯỜNG VẢI NGHỆ TĨNH ............................. 211
1. Cưỡi rồng (Đồ Tâm – Bà Rồng) .................................................................................................................. 211
2. Buôn trầu lỗ lắm (khuyết danh) .................................................................................................................. 212
3. Hai cặp ảng có mấy cái lù? (khuyết danh) ................................................................................................... 212
4. Anh chỉ được đứng hầu ở ngoài sân (Cô Hai Nên) ..................................................................................... 213
5. So sánh giữa tôi và chị (khuyết danh) ........................................................................................................ 213
6. Mi thò đầu lên là tau ngoéo (Giáo Lươn) .................................................................................................... 213
7. Cặp và chiếc (khuyết danh) ......................................................................................................................... 214
8. Đu đưa đủng đởn như ông già (Bảy Tỏi) .................................................................................................... 215
9. Miếng đất mưa ba năm không ướt, nắng sáu tháng không khô (Bảy Tỏi) .................................................. 216
10. Hát với nàng Dùi Chiêng (Trần Hàn) ........................................................................................................ 216
11. Lão Phàn con ai? (Trần Hàn) ................................................................................................................... 217
12. Cây ai trồng nấy ăn (Trần Hàn) ................................................................................................................. 217
13. Bị vây bủa bốn bề (Trần Hàn) ................................................................................................................... 218
14. Chết vì một câu hò (Trần Hàn) ................................................................................................................. 218
15. Thầy gà cũng bí (khuyết danh) .................................................................................................................. 219
16. Con lươn, con lạch trơn lù lu (khuyết danh) ............................................................................................. 220
16. Đòn chữ nghĩa của trường hò (khuyết danh) ............................................................................................. 220
17. Không biết thiếp ngồi chầu chỗ mô (o Quy) ............................................................................................. 221
18. Xin Quy ở lại, hạc đi chầu trời ( o Quy) ................................................................................................... 222
19. Cau khô và cau nàng (Thợ Bơi) ................................................................................................................ 223
20. Chọi nhau, gà bên nào cũng chịu thiệt (Thợ Bơi) ..................................................................................... 224
21. Hát phường vải (Nguyễn Công Trứ) ......................................................................................................... 224
22. Vì mê hát mà mất vợ (Nguyễn Công Trứ) ................................................................................................ 225
23. Duyên nợ với hát ả đào (Nguyễn Công Trứ) ............................................................................................. 226
24. Giang sơn một gánh giữa đồng (Nguyễn Công Trứ) ................................................................................. 228
25. Thuyền quyên ứ hự (Nguyễn Công Trứ) ................................................................................................... 230
26. Nam Đàn tứ hổ là đây (Phan Bội Châu) .................................................................................................... 233
27. Đoán chữ (Phan Bội Châu) ....................................................................................................................... 233
28. Đoán tên (Phan Bội Châu) ........................................................................................................................ 234
29. Cha thầy Mạnh Tử là ai? (Phan Bội Châu) ............................................................................................... 235
30. Mối tình chung (Phan Bội Châu) .............................................................................................................. 236
31. Vui cuộc cờ tàn (Phan Bội Châu) .............................................................................................................. 236
PHỤ LỤC 5: VĂN BẢN SO SÁNH VỀ MỘT SỐ KIỂU TRUYỆN TRONG CỔ TÍCH VÀ GIAI
THOẠI ............................................................................................................................................................ 238
1. Kiểu truyện Kén rể ...................................................................................................................................... 238
2. Kiểu truyện Em bé thông minh ................................................................................................................... 240
3. Kiểu truyện Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng ......................................................................................... 242
4. Kiểu truyện Người học trò và con quỷ ........................................................................................................ 243
PHỤ LỤC 6: DẪN CHỨNG NGUỒN TƯ LIỆU LỊCH SỬ CỦA QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU
NGUYỄN CÓ DÙNG TRONG ...................................................................................................................... 248
LUẬN ÁN ....................................................................................................................................................... 248
I. Sách Đại Nam nhất thống chí ...................................................................................................................... 248
II. Sách Việt sử thông giám cương mục .......................................................................................................... 248
PL1
PHỤ LỤC 1: BẢNG THỐNG KÊ VĂN BẢN GIAI THOẠI PHÂN LOẠI CHƯA HỢP LÝ TỪ CÁC TUYỂN TẬP
1. Công trình Giai thoại văn học Việt Nam của Hoàng Ngọc Phách, Trần Thanh Mại có 35/254 văn bản xếp loại chưa hợp lý:
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
Thuyền quyên ứ hự
1 Câu đối nhà hàng nước
Xanh vàng đỏ tía
2
3
Tận thu lòng dạ thế gian
4 Chiêu Bảy và cô Cúc
5
6 Hỏi anh
7 Một câu đối, hai hoàn cảnh
8 Câu đối khóc chồng chung
9 Câu đối kén chồng
10 Nằm cùng thì cho
11 Đã cho vào bực bố
12 Bài ca trù khích lệ anh hùng
13 Cho chữ thờ
14 Chi chi giã
15 Lo trước thiên hạ
16 Khóc anh thợ rèn
Tiểu loại
được xếp
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
17
Vợ người hàng thịt khóc
chồng và con chết cùng một lúc
18 Vợ nthợ huộm khóc chồng
19 Trưởng chợ mừng nhà mới
20 Áo địa - Ván thiên
21 Vợ anh thợ nhuộm khóc chồng
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
PL2
Ghi chú
Stt
Tên giai thoại
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
Tiểu loại
được xếp
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
22 Giàu có, sang không
23 Một phút hóa trăm năm
24
Làm câu đối cho bà buôn gạo
khóc chồng
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
25 Làm hộ trướng phúng bạn
26 Cháu góa mừng cô góa
27 Một cũng đủ rồi
28 Nghe thơ đoán người
29 Hé gương
30 Họ vắt
31 Vả bây giờ
32 Cô Kiều cười
33 Gái Nội Duệ Cầu Liêm
34 Biết rùa meo mô mà tìm
35 Tên cha thằng bày
2. Công trình Giai thoại folklore của Vũ Ngọc Khánh có 95/461 văn bản xếp chưa hợp lý (Không tính đến các giai thoại về nhân vật
Trạng có trong công trình này)
Tên giai thoại
Stt
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
ngõ
bốn
thượng
thư,
1
Giai thoại folklore Không xếp loại
không có cốt truyện
Một
một làng 19 tiến sĩ
2 Phật cười Phật say
Giai thoại folklore Không xếp loại
3 Quan văn phủ, phú quan nghè kinh nghĩa chỉ Giai thoại folklore Không xếp loại
không có cốt truyện
PL3
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
huy là quan hoàng pháp
4 Gà văn phú, cú lộng điền
Giai thoại folklore Không xếp loại
trướng Cát Xuyên,
liên
đối
5
Giai thoại folklore Không xếp loại
6
Giai thoại folklore Không xếp loại
Văn
Phùng Cầu
Thơ từ lão Húng, phú quý mụ Bông, lịch sự
cô Hồng, khôn ngoan chú Bưởi
Giai thoại folklore Không xếp loại
7 Bãi gáo lão Gằm
kịch đau
của
câu hò
thương
8
Giai thoại folklore
Truyền thuyết địa danh
9
Giai thoại folklore Không xếp loại
không có cốt truyện
không có cốt truyện
không có cốt truyện
không có cốt truyện
không có cốt truyện
không có cốt truyện
không có cốt truyện
buồm mời
rượu,
gánh
gạo
10
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Thách đố văn chương
Bi
đối đáp
Những câu hò giã gạo chưa ai đối
được
Căng
lội sông
11 Ai ve con mụ
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
12 Tiếng ai xin lửa
Giai thoại folklore Không xếp loại
13 Con trâu là vật vô tri
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
14 Ngon sớm ngọt chiều
Giai thoại folklore Không xếp loại
15 La Qua - Phước Chỉ
16 Tao kéo mày về
17 Hương và trăng sao
18 Thì muốn thì theo
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Ứng tác văn chương
không có cốt truyện
Nhóm giai thoại xử kiện
không có cốt truyện
Thách đố văn chương
Thách đố văn chương
Thách đố văn chương
Thách đố văn chương
PL4
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
19 Than lửa - bút nghiên
20 Có râu nên thoát tội
21 Mẹ học trò, cha quan lớn
22 Trăng lộn, đèn dài
23 Sau trươc, xuống lên
24 Thạch Hà - Kim Động
25 Những câu thơ chống thần
26 Mồ hôi thần
27 Đồ nọ tưởng đồ kia thêm thắc mắc
28 Thơ mừng đám cưới đặc biệt
29 Hỡi cụ hỡi nàng
30 Cụ chửa về
31 Đám rước quan
32 Phê đơn ly dị
33 Xê ra! Để chị về cho sớm
34 Cu li và phi lu
35 Văn tế một tên tướng Pháp
36 Cô hàng nem cảnh cáo các nhà thơ
37 Thơ năm cụ
38 Ba ông bà đều là thi sĩ
39 Cái quý giá của chức câu đương
40 Ra ngõ gặp gái việc gì mà kiêng
41 Lễ tế cá
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Không xếp loại
Thách đố văn chương
Ứng tác văn chương
Thách đố văn chương
Ứng tác văn chương
Thách đố văn chương
Thách đố văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Ứng tác văn chương
không có cốt truyện
PL5
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
42 Ngựa về đường Bưởi
43 Đá Liễu Thăng
44 Bát canh lươn
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
45 Chính tôi phải chịu ơn quan bác
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
46 Phạm Công Trứ xử kiện
47 Bà mẹ Vạn Hà
48 Thế nào mới thực là vẻ vang
49 Cho con cái kết hôn với nhau
50 Chi tại nàng yêu cây mía
51 Người đào ao xử kiện
52 Lũ gian tham đâu vào chỗ đứng
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Thách đố văn chương
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại xử kiện
Nhóm giai thoại văn học về sinh hoạt
đời tư nhà văn
Nhóm giai thoại xử kiện
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại tình sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại tình sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
tìm hiểu và dạm vợ cho
53
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Nhóm giai thoại tình sử
Một cách
con
54 Xem cái rổ kia kìa
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
55 Bọn kẻ trộm chúng tôi làm đấy
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
56 Dạ, tôi chỉ làm đến tể tướng thôi ạ
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Thách đố văn chương
Nhóm giai thoại văn học về sinh hoạt
đời tư nhà văn
Nhóm giai thoại văn học về sinh hoạt
đời tư nhà văn
57
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Ứng tác văn chương
Vua Quang Trung và nhân dân ở
trại văn chương
58 Vụ án tổ tôm
59 Mẹ tôi lấy vua thì tôi là con vua chứ
60 Cây roi mây cuốn theo tấm lụa
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại tình sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
PL6
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
61 Tri huyện chiếu lệnh phạt đức ông
62 Người cuồng ở Bình Định
63 Coô Miên ngủ một mình
64 Bà gồm và mười hai nong cơm
65 Xử Tây
66 Con ta biết trung là hiếu rồi
67 Cô bán cơm gan góc
68 Đôi ta cùng nợ nước non
69 Đồ Nghệ xưng vua
70 Kỳ tài hầu
71 Xử kiện ruộng dưa
72 Giả mù cũng không thoát tội
73 Khoan khoan con nói
74 Bụng sình
75 Ăn mày và chó đói
76 Đình và Võ
77 Bầu phải đi với bí
78 Tình văn chương
79 Cua chơi trăng
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Thách đố văn chương
Thách đố văn chương
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại tình sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Thách đố văn chương
80
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Ứng tác văn chương
Mười hai bài liên hoàn với nhan đề khuê phụ
thán
81 Tôi sẽ ăn mừng
82 Lạy cây
83 Dưới phường khất cái ta đùa ta thân
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Con người yêu nước
Con người yêu nước
Ứng tác văn chương
PL7
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
84 Tớ không phải là phu
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
85 Câu đối chửi quan
86 Làm hộ đơn cho người có trâu chết
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
87 Hồng cậy tứ bàng
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
88 Hương hỏa chi mày
89 Phủ Tuấn xử kiện
90 Trâu phải được về với chủ nó
91 Đánh lý trưởng
92 Bầy gà chức sắc
93 Bê về với bò mẹ
94 Đích thị kẻ bắt gà
95 Tay nào nhặt chuối
96 Trạng Hiền
97 Nỗi oan sư thầy
98 Trạng Lường
99 Cân voi đo giấy
100 Trạng Ăn
101 Mạo trạng nguyên
102 Băng trạng thi tài
103 Trạng Bịu
104 Trạng Gióng
105 Trạng Quét
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Nhóm giai thoại văn học về sinh hoạt
đời tư nhà văn
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Nhóm giai thoại văn học về sinh hoạt
đời tư nhà văn
Ứng tác văn chương
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Thách đố văn chương
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Thách đố văn chương
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Thách đố văn chương
Thách đố văn chương
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Sinh hoạt đời tư (học hành)
PL8
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
Thách đố văn chương
Sinh hoạt đời tư (học hành)
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Nhóm giai thoại đi sứ
Truyện trạng
Truyện trạng
Truyện trạng
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Sinh hoạt đời tư (thi cử, học hành)
Thách đố văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Truyện trạng
Ứng tác văn chương
106 Trạng Vật
107 Trạng Cờ
108 Đề đất phát cho thợ cạo
109 Để đất cho nghề đan bồ
110 Để đất cho người phó cối
111 Trạng Tư Thiên
112 Trạng Trịnh
113 Trạng Khiếu
114 Chú bé con nhà hàng thịt
115 Trở thành trạng nguyên
116 Trạng Lợn đi sứ
117 Đào trường thọ
118 Tiên sư thằng Bảo Thái
119 Lõm quan thị
120 Lại lỡm quan thị
121 Những bài thi bất hủ
122 Coi thử miệng quan
123 Đánh tráo thư
124 Tượng đá mất thiêng
125 Cúng thành hoàng
126 Vay tiền Bà Chúa Liễu
127 Mừng Chúa thắng trận
128 Bắt sông Ba Bướu Tư Ngang
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore
Truyện trạng
PL9
Ghi chú
Stt
Tên giai thoại
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
Truyện trạng
Truyện trạng
Truyện trạng
Truyện trạng
Truyện trạng
Truyện trạng
Truyện trạng
Truyện trạng
Truyện trạng
Truyện trạng
Truyện trạng
Truyện trạng
Truyện trạng
Truyện trạng
Truyện trạng
Truyện trạng
129 Tú Xuất đóng cửi giải nạp về tình thành
130 Lột quần thầy lý
131 Lột khăn lấy giầy cụ lớn
132 Lột áo quan hàn
133 Chửi thi
134 Lại một cuộc chửi thi khác
135 Chọc con ông Đốc học
136 Vén váy bà quan
137 Đòi quan
138 Lấy quần chưng phơi ngoài sào
139 Đòn trừnag phạt lão bán tơ
140 Quan phủ bắt đám bạc
141 Cặp vịt một đêm đẻ năm trứng
142 Trò lục sở
143 Tranh tối tranh thơm
144 Hễ ai mà nói dối ai
145 Bốn bức chân dung
146 Sát lớ mần răng
147 Đội mũ chóp
148 Cấm đĩ
149 Cuộc lăng nhăng
150 Nhuôm vện khoang vằn vô số chó
151 Tấm vóc đáng giá đồing chinh
Tiểu loại
được xếp
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore
Giai thoại folklore Không xếp loại
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Không xếp loại
Giai thoại folklore Không xếp loại
Giai thoại folklore Không xếp loại
Giai thoại folklore Không xếp loại
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Không có cốt truyện
Ứng tác văn chương
Không có cốt truyện
Không có cốt truyện
Không có cốt truyện
Không có cốt truyện
Thách đố văn chương
PL10
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
Giai thoại folklore Không xếp loại
Giai thoại folklore Giai thoại văn học
Giai thoại folklore Không xếp loại
Không có cốt truyện
Ứng tác văn chương
Không có cốt truyện
152 Dại khôn
153 Chóc sư – Hư nịnh
154 Phúc đức gì mày bố đĩ Giai
PL11
3. Công trình Giai thoại văn học Việt Nam (Tập 11, Tổng tập Văn học dân gian người Việt) của Kiều Thu Hoạch (chủ biên) có 58/442 văn
bản xếp chưa hợp lý:
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
Thuyền quyên ứ hự
1 Câu đối nhà hàng nước
2 Câu đối nhà thợ nhuộm
3 Câu đối người hốt phân
4
Suýt toi mạng vì bài hát
5 Chiêu Bảy và cô Cúc
6
7 Hỏi anh
8 Chiết tự chữ Đức
9 Một câu đối, hai hoàn cảnh
10 Câu đối khóc chồng chung
11 Nằm cùng thì cho
12 Câu đối đền Lia Thia
13 Đã cho vào bực bố
14 Hoa xưa ong cũ
15 Bài ca trù khích lệ anh hùng
16 Chi chi giã
17 Lo trước thiên hạ
18 Câu đối khóc anh thợ rèn
19 Vợ người hàng thịt khóc chồng con
20 Vợ nhuộm khóc chồng
21 Trưởng chợ mừng nhà mới
22 Áo địa - Ván thiên
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
sinh hoạt văn nghệ dân gian
Câu đối trong tập quán nhân dân
sinh hoạt văn nghệ dân gian
sinh hoạt văn nghệ dân gian
sinh hoạt văn nghệ dân gian
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
PL12
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
23 Vợ anh thợ nhuộm khóc chồng
24 Giàu có, sang không
25 Một phút hóa trăm năm
26 Chữ chày đứng
27 Người đẹp thần thiêng
28 Thơ loan mó nhạn
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
29
Làm câu đối cho bà buôn gạo
khóc chồng
30 Chén tống chén quân
31 Một cũng đủ rồi
32 Nghe thơ đoán người
33 Nam Đàn tứ hổ là đây
34 Trời xanh còn hãm anh hùng
35 Chị em cất gánh sơn hà
36 Mặc ai khanh tướng công hầu
37 Câu hát đoán tên
38 Nhuyễn Kiều
39 Câu hò hai bảy mười một
40 Cây không trái gái không chồng
41 Câu đối kén chồng
42 Thơ tập Kiều gỡ bí
43 Cậu bé thầy dùi
44 Hé gương
45 Họ vắt
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
PL13
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
Tiểu loại
được xếp
46 Vả bây giờ
47 Cô Kiều cười
48 Hương thừa thoang thoảng
49 Bảy con khỉ
50 Âu yếm vòng ngoài
51 Cành kia cội này
52 Tên cha thằng bày
53 Đại điểm quần thần
54 Quý vật tặng quý nhân
55 Thiên lý nhân lương
56 Mẫu phối Mạnh Đức
57 Mạc bất hà như
58 Mượn vai hề chửi đổng
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Sinh hoạt văn nghệ dân gian
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Câu đối trong tập quán nhân dân
Sân khấu dân gian
Tên giai thoại
Stt
Ghi chú
4. Công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam (2 tập) của Vũ Ngọc Khánh có 81/629 văn bản xếp chưa hợp lý
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
1 Cấm quần không đáy
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
2 Hói Kịa - Khe Giang
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
3 Trình Xá - Cổ Đô
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
Nhóm giai thoại giải thích nguồn gốc
ca dao, tục ngữ, thành ngữ
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
4 Trâu thiến ngựa cương
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian Nhóm giai thoại về phong tục, tập
PL14
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
5 Dán nhà hát bội
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
6 Mừng hay tang đều thích hợp
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
7 Mạc bất hà như
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
8 Tương hữu tư vô
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian Nhóm giai thoại về sân khấu
9 Hương thúc mạo đình
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
10 Vân ảnh thăng cù
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
11 Này hi hi! Này hi hí!
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
12 Nét hóm hỉnh của cụ đốc Phù Quang Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
13 Mẫu phối Mạnh Đức
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
14 Gia đạo hưng
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
15 Mẫu hề hà quy
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
16 Hồng lam tú khí
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
PL15
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
17 Thể quần thần
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
18 Lời trai phường nón
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
19 Giang sơn một gánh
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
20 Hát phường vải
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
21 Câu đối làm hộ
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
22 Viếng Cao Bá Quát
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
23 Câu đối đề đèn lồng
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
24 Câu hát chữa thẹn
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
25 Câu đối và thơ khóc vợ
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
26 Đề hàng cơm
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
27 Làm giúp câu đối điếu vợ
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
28 Lo trước thiên hạ
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về sinh hoạt văn
nghệ dân gian
Nhóm giai thoại về sinh hoạt văn
nghệ dân gian
Nhóm giai thoại về sinh hoạt văn
nghệ dân gian
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
PL16
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
29 Loan mó phượng đè
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
30 Chày đứng
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
31 Người đẹp thần thiêng
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
32 Vợ thợ nhuộm khóc chồng
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
33 Vợ hàng thịt khóc chồng
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
34 Rể út phúng bố vợ
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
35 Mừng đám cưới nhà giàu
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
36 Khán thị mừng nhà mới
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
37 Tống táng tình tang
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
38 Chi chi giã
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
39 Câu đối đền Lia Thia
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
40 Trời xanh còn hãm anh hùng
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
PL17
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
41 Chiị em cất gánh
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
42 Tỏ chí bình sinh
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
43 Đoán tên
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
44 Cây không trái, gái không chồng
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
45 Thơ Bút Tre
46 Câu đối đi sứ
47 Cấu thơ tỏ chí khí
48 Thơ đề đền Hạng Vũ
49 Khảu khí đế vương
50 Thơ bèo
51 Đối đáp với người Tàu
52 Vịnh tràng pháo
53 Thế thời phải thế
54 Câu đối khi 12 tuổi
55 Bất đắc dĩ phải dụng Quyền
56 Cười mình không đổi mới
57 Ghẹo sư
58 Đề đền Mai Hắc Đế
59 Thơ tuyệt mệnh
60 Thơ con muỗi
Giai thoại văn học
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Không xếp loại
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Không có cốt truyện
Thách đố văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
PL18
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
61 Ông vua làm vè
62 Trăng soi bốn vách
63 Khóc Thị Bằng
64 Thuê Tàu đánh Tây
65 Thách thức
66 Thơ cái trống
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Không xếp loại
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Tiểu loại
được xếp
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
67 Câu đối mừng
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn hóa dân gian
68 Cóc đớp kiến
69 Bài thơ mật khẩu
70 Câu đối cứu vua
71 Thơ vịnh đấ sét
72 Nười bài thơ liên hoàn
73 Rút ruột chặt đầu
74 Ngồi trên nước
75 Thơ hòn non bộ
76 Câu đối chí hướng
77 Bài thơ tình viết hộ
78 Đối đáp với Nguyễn Hải Thần
79 Cụ Hồ thách đố
80 Sự ra đời của một bài thơ
81 Về quê
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Không có cốt truyện
Ứng tác văn chương
Thách đố văn chương
Ứng tác văn chương
Nhóm giai thoại về phong tục, tập
quán của nhân dân
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
PL19
5. Công trình Nghìn năm bia miệng của Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường có 17 văn bản luận án xác định là giai thoại:
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Nguồn
Thể/Tiểu loại
được xếp
Thể/Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
1
2
không rõ
không rõ
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Tập 1
Tập 1
3
Nguyễn Đình Chiểu ở Cần Giuộc và
Ba Tri
Thủ khoa Nghĩa
Bài thơ ứng khẩu của Huỳnh Mẫn
Đạt
không rõ
Giai thoại văn học
Tập 1
4
5
Thú chơi câu đối
Tài ứng đối của Phan Văn Trị
không rõ
không rõ
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn học
Tập 1
Tập 1
6
7
không rõ
không rõ
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn học
Tập 2
Tập 2
Ứng tác văn chương
Câu đối trong tập quán
nhân dân
Ứng tác văn chương
Câu đối trong tập quán
nhân dân
Ứng tác văn chương
8
9
không rõ
không rõ
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Tập 2
Tập 2
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
10
11
không rõ
không rõ
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Tập 2
Tập 2
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
12
13
Ông cả Trận
Đồ Trảo - Đồ Viên
Cuộc bút chiến giữa người
bị trộm và kẻ trộm
Học Lạc
Nhà thơ trào phúng Đỗ Minh
Tâm
Nữ sĩ Sương Nguyệt Anh
Mấy giai thoại về thơ văn của cụ
Phó bảng
Nguyễn Quang Diêu
không rõ
không rõ
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Tập 2
Tập 2
14
Tập 2
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Câu đối trong tập quán
nhân dân
Ông đồ Sáu Mới
không rõ
Giai thoại văn hóa dân gian
PL20
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Nguồn
Thể/Tiểu loại
được xếp
Thể/Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
15
Võ Sâm với vi yết ma Bùi Kiệm
không rõ
Giai thoại văn học
Tập 2
16
Người thầy thuốc vui tính
không rõ
Giai thoại văn hóa dân gian
Tập 2
17
Ứng tác văn chương
Câu đối trong tập quán
nhân dân
Câu đối trong tập quán
nhân dân
Tập 2
Hùm xám Cai Lậy
không rõ
Giai thoại văn hóa dân gian
6. Công trình Giai thoại dân gian Đồng Tháp Mười của Nguyễn Hữu Hiếu có tên gọi chung là giai thoại dân gian. Tuy nhiên, luận án đã
khảo sát và tiến hành phân loại lại các văn bản trong công trình nảy như sau:
Ghi chú
Stt
Tên truyện
Thể loại
được xếp
Thể/Tiểu loại luận án đề
nghị xếp
Tên gọi Tháp Mười
1
2 Cao Lãnh
3
4
5
6
Sự tích địa danh Sa Đéc
Sự tích kinh Sáu Quốc
Sự tích vàm Bà Bầy
Lai lịch trường án Cần Lố
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Truyền thuyết địa danh
Truyền thuyết địa danh
Truyền thuyết địa danh
Truyền thuyết địa danh
Truyền thuyết địa danh
Truyền thuyết địa danh
7
Sự tích kênh Chết Chém
Giai thoại
Truyền thuyết địa danh
8
9
Sự tích miếu trời sanh
Sự tích rạch Trâu Trắng
Giai thoại
Giai thoại
Truyền thuyết địa danh
Truyền thuyết địa danh
Vũ Ngọc Khánh xếp truyện này vào giai thoại
văn hóa dân gian (sinh hoạt hò hát đối đáp
nam nữ) với tên gọi Bi kịch đau thương từ
một câu hò in trong Kho tàng giai thoại Việt
Nam
PL21
Ghi chú
Stt
Tên truyện
Thể loại
được xếp
Thể/Tiểu loại luận án đề
nghị xếp
10 Bãi Tòng Sơn và bãi Hổ Cứ
11 Đốc Vàng
12 Nguyễn Tú
13 Bà Bướm
14 Nàng Hai
15 Đình Trung
16 Bưng sấu hì
17 Ông Tú
18 Cù Lao Trâu
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Truyền thuyết địa danh
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết địa danh
Truyền thuyết địa danh
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết địa danh
19
Mấy giai thoại về thơ văn cụ Phó
Bảng
Cũng được giới thiệu trong Nghìn năm bia
miệng
20 Giai thoại về Thiên Hộ Dương
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại văn học
Truyền thuyết nhân vật
21
Thiên Hộ Dương đấu gươm với đô
đốc Bạc Má
22 Ngày giỗ của ông Thiên Hộ
23 Chánh lãnh binh Nguyễn Hương
24 Nguyễn Văn Linh (Thống Linh)
25 Đốc Binh Kiều
26 Ông Phòng Biểu
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết nhân vật
27
Ông Phòng Biểu trị tội Phạm Công
Khanh
28 Trương Tấn Minh
29 Trần Hữu Thường
30 Ông Dật - Ông Đà
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết nhân vật
GIai thoại văn học
PL22
Stt
Tên truyện
Ghi chú
Thể loại
được xếp
Thể/Tiểu loại luận án đề
nghị xếp
31 Tướng cướp Đơn Hùng TÍn
32 Ông thầy rắn ở Đồng Tháp Mười
33 Ông già Ba Tri Cao Lãnh
34 Bà mụ cọp
35 Trận Mỹ Trà năm Ất Sửu
36 Rắn Tháp Mười
37 Con trâu ra trận
38 Đạo binh trâu
39 Muỗi Đồng Tháp Mười và chiếc nóp
40 Con khỉ khô ở Đồng Tháp Mười
41 Dốt hay nói chữ
42 Chàng Út lên trời
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Giai thoại
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết nhân vật
Truyền thuyết phong vật
Truyền thuyết phong vật
Giai thoại văn học
Cổ tích thần kỳ
Thiên Hộ Dương
Thiên Hộ Dương
Thiên Hộ Dương
Thiên Hộ Dương
Kiểu truyện người con út
Tên truyện
Stt
Ghi chú
7. Công trình Truyện kể dân gian Nam Bộ của Nguyễn Hữu Hiếu có 9 văn bản luận án xác định là giai thoại, cụ thể là:
Thể loại
được xếp
Thể/Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
Nguyễn Đình Chiểu ở Cần Giuộc và Ba
Tri
1
2 Giai thoại về Sương Nguyệt Anh
3 Tài ứng đối của Phan Văn Trị
4 Cử Thạnh
Không rõ
Không rõ
Không rõ
Không rõ
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Thách đố văn chương
5 Ông đồ Phú Kiết
Không rõ
Giai thoại lịch sử
Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử
PL23
Stt
Tên truyện
Ghi chú
Thể loại
được xếp
Thể/Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
6 Ông Dật - ông Đà
7 Nhà thơ trào phúng Đỗ Minh Tâm
8 Tú tài Văn Bình
Không rõ
Không rõ
Không rõ
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
Ứng tác văn chương
9 Ông đồ Sáu Mới
Không rõ
Giai thoại văn hóa dân gian
Câu đối trong tập quán nhân dân
8. Công trình Truyền thuyết dân gian người Việt (Tập 5) của Kiều Thu Hoạch có 14 văn bản xếp chưa hợp lý
Stt
Tên truyện
Thể loại
được xếp
Thể/Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
Ghi chú
1 Nguyễn Hiền
2 Mạc Đĩnh Chi
3 Sự tích Huyền Quang
4 Lê Như Hổ
Truyền thuyết
Truyền thuyết
Truyền thuyết
Truyền thuyết
Truyền thuyết
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Nhân vật khoa bảng (văn tài)
Nhân vật khoa bảng (văn tài)
Nhân vật khoa bảng (văn tài)
Nhân vật khoa bảng (văn tài)
Nhân vật khoa bảng (văn tài)
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Truyền thuyết
Truyền thuyết
Truyền thuyết
Truyền thuyết
Truyền thuyết
Truyền thuyết
Nhân vật khoa bảng (văn tài)
Nhân vật khoa bảng (văn tài)
Nhân vật khoa bảng (văn tài)
Nhân vật khoa bảng (văn tài)
Nhân vật khoa bảng (văn tài)
Nhân vật khoa bảng (văn tài)
5 Lương Thế Vinh
6 Lương Hữu Khánh
7 Truyện trạng nguyên Giáp Hải
8 Lê Quý Đôn
9 Truyện Thượng thư Phùng Khắc Khoan
10 Nằm mộng tại đền Trấn Vũ
11 Trạng Cầu
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
PL24
Tên truyện
Thể/Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
Ghi chú
Stt
12 Truyện trạng nguyễn Đỗ Lý Khiêm đời Lê
Giai thoại văn học
Thể loại
được xếp
Truyền thuyết
Truyền thuyết
Nhân vật khoa bảng (văn tài)
Nhân vật khoa bảng (văn tài)
13 Sự tích sinh con rồi mới sinh cha
Giai thoại văn học
Truyền thuyết
Nhân vật khoa bảng (văn tài)
14 Nguyễn Đình Chiểu ở Cần Giuộc và Ba Tri
Giai thoại văn học
9. Công trình Giai thoại lịch sử Việt Nam (Tập 1) của Kiều Văn có 84/131 văn bản không phải là giai thoại lịch sử
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
1 Lý Ông Trọng nhân tài nước Âu Lạc
2 Thừa tướng Lữ Gia
3 Hai Bà Trưng
4 Triệu Thị Trinh
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Khương Công Phụ - một người Việt Nam có cặp
5
mắt thần
6 Mai Hắc Đế
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Triệu Quang Phục và câu chuyện hậu
Mị Châu - Trọng Thủy
7
8 Ngô Quyền
9 Đinh Bộ Lĩnh
10 Lê Hoàn
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
PL25
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
Đỗ Thuận - Ông lái đò của đất nước
thi thư
11
12 Đồ Hồ phu nhân (bà chúa Tó)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Truyền thuyết lịch sử
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
Cốt cách và khẩu khí đế
vương (Lý Thái Tổ)
13
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
14 Lý Thường Kiệt và bài thơ Thần
15 Chuyện lạ về nhà sư Từ Đạo Hạnh
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Truyền thuyết lịch sử
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
Tô Hiến Thành nắm lẽ phải đối mặt
với thần
16
Giai thoại lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tựa đề Trạng nguyên
về học lễ
17 Vị trạng trẻ con Nguyễn Hiền
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
PL26
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
Nguyễn Thành Huấn nhà thơ yêu
thương đến muôn loài
18
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
19 Tài ứng đối thần kỳ (Mạc Đĩnh Chi)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
20 Chọi tiếng (Mạc Đĩnh Chi)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
21 Bài văn tế chữ nhất (Mạc Đĩnh Chi)
22 Người học trò thủy thần (Chu Văn An)
23 Anh hùng gặp thục nữ (Hồ Tông Thốc)
24 Làm một lúc trăm bài thơ (Hồ Tông Thốc)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Truyền thuyết lịch sử
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
25 Chạm trán với Hạng Vũ (Hồ Tông Thốc)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tiêu đề Đọc thơ chê
Hạng Vũ
PL27
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
26 Câu thơ ngẫu nhiên may mắn (Hồ Quý Ly)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Kho tàng giai
thoại của Vũ Ngọc
Khánh
Dò ý con trưởng để nhường ngôi cho
con thứ (Hồ Quý Ly)
27
28 Khí tiết bậc trung thần (Nguyễn Biểu)
29 Aăn cỗ đầu người (Nguyễn Biểu)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Nguyễn Trãi với cô hàng bán chiếu gon
(Nguyễn Trãi)
30
31 Tấn thảm kịch lịch sử (Nguyễn Trãi)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tiêu đề Thơ đùa ả
bán chiếu
Thơ ngôn chí của bác bán dầu (Trần Nguyên
Hãn)
32
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Câu đối tặng bà lão bán trầu nước
(Lê Thánh Tông)
33
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn hóa dân gian
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
PL28
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
Câu đối viếng anh thợ nhuộm
(Lê Thánh Tông)
34
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn hóa dân gian
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
Câu đối tặng anh nhặt phân
(Lê Thánh Tông)
35
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn hóa dân gian
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
36 Bỡn vua (Lương Thế Vinh)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tiêu đề Thánh quân
minh đế
37 Thần đã đối rồi (Lương Thế Vinh)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tiêu đề Sư sử sứ, phụ
phù phu
PL29
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
38 Nguyễn Toàn An - Một nhân tài yểu mệnh
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tiêu đề Anh lính với
hội Tao Đàn
39 Dđối hiểm (Nguyễn Giản Thanh)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
40 Một vế đối bất hủ (Nguyễn Giản Thanh)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
41 Trạng me đè trạng ngọt (Nguyễn Giản Thanh)
42 Câu đối nâng cao quốc thể (Ngô Kính Thần)
43 Họa thơ cho sứ Tàu biết mặt (Giáp Hải)
44 Ăn khỏe thơ hay (Lương Hiểu Khánh)
45 Một cuộc tranh tài (Phùng Khắc Khoan)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
PL30
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
46 Một cuộc chèo kéo nhân tài (Đào Duy Từ)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
47 Lời từ chối kín đáo (Đào Duy Từ)
48 Tài đối của Trần Quốc Khái
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
49 Đối chọi với Thanh triều (Nguyễn Đăng Cảo)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
50 Phong nguyệt vô biên (Nguyễn Đăng Cảo)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
51 Một tài năng hé lộ (Đoàn Thị Điểm)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tiêu đề Một cô Điểm,
hai ông Luân
PL31
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
52 Tố nhân bất khả vô ngạo cốt (Đoàn Thị Điểm)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
53 Câu lý giải hóm hỉnh, dễ thương (Đoàn Thị Điểm) Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
54 Trường An tứ hổ ngọng (Đoàn Thị Điểm)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tiêu đề Vế đối hai
nghĩa
55 Đối đáp lại sứ Tàu (Đoàn Thị Điểm)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
Cặp vợ chồng tương đắc (Đoàn Thị Điểm -
Nguyễn Kiều)
56
57 Ngô Thì Sĩ và cái vạ văn chương
58 Đố quan chữ gì (Lê Quý Đôn)
59 Bài thơ chữ rắn (Lê Quý Đôn)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
PL32
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
60 Trí thông minh tuyệt với (Lê Quý Đôn)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tên gọi Ba sông bốn
mắt
61 Nhà giải mã danh tiếng (Lê Quý Đôn)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tên gọi Thiên hạ vô
tri vấn bảng Đôn
Những kiến thức ở ngoài chữ nghĩa thánh hiến
(Lê Quý Đôn)
62
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tên gọi Căng buồm
mời rượu - Gánh gạo lội
sông
PL33
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
Bảng nhãn gì mà không biết nổi chữ Chi
(Lê Quý Đôn)
63
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tên gọi Không biết
chữ Chi
64 Đụng độ với chúa (Lê Quý Đôn)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tên gọi Thư mượn áo
cừu
65 Khẩu khí anh hùng (Nguyễn Hữu Cầu)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tên gọi Cốt đối ý
66 Kẻ thù không đội trời chung (Nguyễn Hữu Cầu)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tên gọi Đánh nhau
bằng cả câu đối
PL34
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
67 Chim trong lồng (Nguyễn Hữu Cầu)
Giai thoại lịch sử
68 Đối chiết tự của cậu bé kỳ tài (Đinh Thời Trung) Giai thoại lịch sử
69 Một vế đối có tính chất tiên tri (Đinh Thời Trung) Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
70 Vua Quang Trung làm thơ Nôm
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tên gọi tương tự
Trong Kho tàng giai
thoại
của Vũ NGọc Khánh có
tiêu đề là Quang Trung ở
trại văn chương
71 Vua Quang Trung ra đề thơ con cóc
72 Tấm gương tử vì đạo (Ngô Thì Nhậm)
73 Thơ tình của học trò (Phạm Nguyễn Du)
74 Nôm mà át Hán (Phạm Nguyễn Du)
75 Cố Bồ (Phạm Nguyễn Du)
76 Cậu bé đối giỏi (Trần Danh Án)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tên gọi Chết vì câu
đối
PL35
Stt
Tên giai thoại
Ghi chú
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
77 Bi hài kịch của một vị sứ thần (Trần Danh Án)
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tên gọi Sứ thần áo
rách nón mê
Giai thoại lịch sử
78 Níu kéo giấc mộng thành nhân (Trần Danh Án)
Giai thoại lịch sử
79 Một bài thơ sát (Nguyễn Hữu Chỉnh)
80 Chiỉ là tranh vẽ (Nguyễn Hữu Chinh)
Giai thoại lịch sử
81 Chàng trai tài hoa của phường nón (Nguyễn Du) Giai thoại lịch sử
82 Giận học trò vì dám chê Kiều (Phạm Quý Thích) Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
83 Lời khuyên chí lý với Nguyễn Văn Thành
Giai thoại lịch sử
84 Một án văn tự bi thảm (Nguyễn Văn Thành
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn hóa dân gian
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Có trong Giai thoại văn
học Việt Nam của Trần
Thanh Mại, Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch
với tên gọi Tiến sĩ triều
Lê, khăn triều Nguyễn
PL36
10. Công trình Việt sử giai thoại (8 tập) của Nguyễn Khắc Thuần có 23 văn bản xếp chưa hợp lý
Tên giai thoại
Ghi chú
Stt
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
1
Cuộc kỳ ngộ giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ
Giai thoại lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Tập 1
2
Nước Văn Lang đã ra đời như
thế nào
Giai thoại lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Tập 1
3
4
5
6
Vì sao người Việt có tục xăm mình
Phù Đổng Thiên Vương
Sự tích Thánh Tản Viên
Huyền thoại về Loa Thành
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Truyền thuyết phong tục
Truyền thuyết lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Tập 1
Tập 1
Tập 1
Tập 1
7
Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Giai thoại lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Tập 1
8
9
10
Triệu Đà là người như thế nào
Chuyện Man Nương
Sự tích đầm Dạ Trạch
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Tập 1
Tập 1
Tập 1
11
12
Triệu Việt Vương đã đánh giặc như thế nào?
Sự tích đền Bạch Mã
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Tập 1
Tập 1
13
14
Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng
Tô Lịch Đại Vương
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Tập 1
Tập 1
PL37
Tên giai thoại
Ghi chú
Stt
Tiểu loại
được xếp
Tiểu loại luận án
đề nghị xếp
15
Đặng Dung với bài thơ Thuật hoài
16 Khí phách Nguyễn Biểu
17
18
Lý lịch xuất thân của Lê Lợi
Sự tích điện Tiên Du
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Giai thoại văn học
Truyền thuyết lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Tập 4
Tập 4
Tập 5
Tập 5
19
Hoằng Hựu Đại Vương và Bảo Quốc Đại Vương
Giai thoại lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Tập 5
20
21
Nguyễn Sư Hồi với bài thơ viết theo lối chiết tự
Sự tích chùa Thiên Mụ
Giai thoại lịch sử
Giai thoại lịch sử
Giai thoại văn học
Truyền thuyết lịch sử
Tập 5
Tập 6
22
Lời vĩnh quyết của Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh
Giai thoại lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Tập 7
23
Những chuyện ly kỳ trước khi
Lê Văn Duyệt qua đời
Giai thoại lịch sử
Truyền thuyết lịch sử
Tập 8
PL38
PHỤ LỤC 2: KẾT QUẢ KHẢO SÁT TIÊU CHÍ ĐỀ TÀI VÀ NHÂN VẬT CỦA MỘT SỐ TUYỂN TẬP GIAI THOẠI
1. Kết quả khảo sát đề tài của một số tuyển tập giai thoại
Công trình Giai thoại văn học Việt Nam của nhóm Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh Mại
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn
chương
Sinh hoạt
đời
thường
Sinh
hoạt văn
nghệ
X
Sinh
hoạt
chính trị
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Đỗ Thận
Lý Công Uẩn
Lý Thường Kiệt
Ỷ Lan
Trần Quang Khải
Nguyễn Hiền
Nguyễn Hiền
Huyền Quang
Trần Nhân Tông
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
1
Bác lái đò hay chữ
2
Bị trói vẫn làm thơ
3
Nam quốc sơn hà
4
Ỷ Lan phu nhân
5
Chương Dương - Hàm Tử
6
Trạng nguyên về học lễ
7
To đầu mà dại
8
Nỗi oan của nhà sư
9
Ngựa đá lấm bùn
10 Hoa sen trong giếng ngọc
11
Ra đối dễ, đối đối khó
12
Trăng là cung, đạn là sao
13
Chơi chữ - chọi chữ
14
Lưỡng quốc trạng nguyên
15
Chua biết mèo nào cắn mỉu nào
16
Chim chếch - ếch ngộp
17
Câu đối ghép tên người
X
X
X
PL39
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn
chương
Sinh hoạt
đời
thường
Cười ông quan hai vợ
Ngự sử miệng còn hôi sữa
18
19
20 Đọc thơ chê Hạng Vũ
21
Chữa thơ Vương Bột
22 Gửi trứng cho ác
23
24
25
26
Thơ của người nghĩa sĩ
Lòng ta không phải đá
Câu thơ kỳ lạ
Ra câu đối dò xét con
X
X
X
X
Sinh
hoạt văn
nghệ
Sinh
hoạt
X
chính trị
X
X
X
X
Mạc Đĩnh Chi
Đoàn Nhữ Hài
Hồ Tông Thốc
Hồ Tông Thốc
Trần Nguyên Đán
Nguyễn Biểu
Lê Hiến Phủ
Hồ Quý Ly
Hồ Quý Ly
Thơ đùa ả bán chiếu
Câu thơ nên nghĩa
Câu đối nhà hàng nước
Xanh vàng đỏ tía
Tận thu lòng dạ thế gian
Anh lính với hội Tao Đàn
Sư sử sứ, phụ phù phu
Ba ông tam thế
Thánh quân minh đế
27 Muốn chết vác mặt làm quan Minh triều
28
29
30
31 Hồn bướm mơ tiên
32
33
34
35
36
37
38 Hai anh em họ Quách
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Khuyết danh
Nguyễn Trãi
Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông
Nguyễn Toàn An
Lương Thế Vinh
Lê Thánh Tông
Lương Thế Vinh
Quách Đình Bảo
PL40
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn
chương
Sinh hoạt
đời
thường
Sinh
hoạt văn
nghệ
Sinh
hoạt
chính trị
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nguyễn Giản Thanh
Lê Nại
Nguyễn Giản Thanh
Vũ Duệ
Hứa Tam Tỉnh
Nguyễn Thái Thường
Phạm Trấn - Đỗ Uông
Lương Hữu Khánh
Lương Hữu Khánh
Vũ Thoát Dĩnh
Giang Văn Minh
X
39
Văn tức là người
40 Mười tám bát cơm riêu
41
Trạng me đè trạng ngọt
42
Thơ nằm co
43
Khiêng cáng lấy vợ con quan
44
Ngâm thơ cự thần
45
Bảng, trạng tranh nhau
46
Ăn khỏe thơ tài
47
Câu chuyện bài phú
48 Quan tài tài quan
49
Rêu xanh máu đỏ
50 Quân tử chí, xã tắc thần
51
Khoai Đơ, lính Mỗ
52
Tể tướng và thầy đồ
53
Nối thơ Lê Thánh Tông
54
Ta chẳng chịu phong
55
Bây giờ em đã có chồng
56
Ếch ngồi đáy giếng
57
Phong nguyệt vô biên
58 Hay cả ý lẫn lời
59
Rắn trắng rồng vàng
X
X
X
X
X
X
Nguyễn Quý Đức
Nguyễn Quý Đức
Nguyễn Quý Đức
Nguyễn Quý Đức
Đào Duy Từ
Đào Duy Từ
Nguyễn Đăng Cảo
Nguyễn Đăng Cảo
Nguyễn Đăng Đạo
Đoàn Thị Điểm
X
X
X
X
PL41
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn
chương
Sinh hoạt
đời
thường
Chim trong lồng
60 Hai cô Điểm, hai ông Luân
61
Không ham phú quý
62
Vế đối hai nghĩa
63
Làm văn khuyên chồng
64
Cha con đọ tài nhau
65
Nhờ có râu mà thoát đòn
66 Hà túc toán giã
67
Ba sông bốn mắt
68
Bài thơ tự trách mình
69
Thư mượn áo cầu
70
Tài nịnh
71
Cốt đối ý
72 Đánh nhau bằng cả câu đối
73
74 Ông hoàng giáp chịu tài người ăn xin
75
Câu thơ cảnh tỉnh
76 Miêng kẻ sang, đồ nhà khó
77
Chó khôn chớ cắn càn
78
Tú Cát - Bọ hung
79
Xơi hai trứng
80 Dở nguyên quen lạ
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh
hoạt văn
nghệ
Sinh
hoạt
chính trị
X
X
Đoàn Thị Điểm
Đoàn Thị Điểm
Đoàn Thị Điểm
Đoàn Thị Điểm
Nguyễn Bá Lân
Trần Văn Trứ
Vương Toán
Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn
Nguyễn Khản
Nguyễn Hữu Cầu
Nguyễn Hữu Cầu
Nguyễn Hữu Cầu
Phạm Nguyễn Du
Đặng Kim
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Lợn
PL42
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn
chương
Sinh hoạt
đời
thường
81
Cô dâu gà chú tể
82 Một thí sinh bướng bỉnh
83
Bí quá hóa hay
84
Câu đối trên văn hồ
85
Lấy thơ để chống chế
86 Dâu thử tài rể
87 Quân tử cố cùng
88 Ông Nghè đè ông Cống
89
Thơ nhạo tri phủ
90 Quan thị và quan võ
91
Chả kém gì Lý Bạch
92 Mượn dịp chửi quan
93 Mắng quan trường
94
Áo đỏ dù xanh
95
Cửa tướng nhà công
96
Thằng quan huyện
97
Trai sừng gái sỏ
98
Chữ thiên trồi đầu
99
Thợ vẽ đề thơ
100 Đề bức tranh tam giáo
101 Xuất xứ ở miệng tôi
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh
hoạt văn
nghệ
Sinh
hoạt
chính trị
Khuyết danh
Nguyền Hòe
Nguyền Hòe
Phủ Hào
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
PL43
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn
chương
Sinh hoạt
đời
thường
102 Bài thơ leo đèo
103 Thơ vịnh pháo
104 Bài thơ đem lại quốc thể
105 Chết vì câu đối
106 Đối đáp trong chốn quan trường
107 Tiến sĩ triều Lê khăn triều Nguyễn
108 Thơ bán than
109 Vịnh tranh tố nữ
110 Đọc thơ chữa thẹn
111 Mảnh tình
112 Đánh trống qua cửa nhà sấm
113 Chiêu Bảy và cô Cúc
114 Câu thơ bỏ lửng
115 Chết vì bài thơ
116 Câu thơ hoàng bào
117 Ông cống làm trâu
118 Cho Thị Đào đi lấy chồng
119 Chê khéo
120 Hạc đeo bài ngài
121 Lời thơ khảng khái
122 Thuyền quyên ứ hự
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh
hoạt văn
nghệ
X
X
Sinh
hoạt
chính trị
X
X
X
X
X
Nguyễn Thiếp
Nguyễn Hữu Chỉnh
Võ Huy Tấn
Ngô Thì Nhậm
Cao Huy Diệu
Trần Danh Án
Khuyết danh
Phạm Thái
Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương
Nguyễn Du
Nguyễn Du
Nguyễn Văn Thành
Lê Văn Duyệt
Bà huyện Thanh Quan
Bà huyện Thanh Quan
Bà huyện Thanh Quan
Đỗ Cao Mại
Tổng Trắm
Nguyễn Công Trứ
PL44
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn
chương
Sinh hoạt
đời
thường
123 Hỏi anh
124 Làm thơ khất nợ
125 Được tha phạt vì câu thơ hóm hỉnh
126 Khinh thường quan võ
127 Anh hùng đè xuống dưới
128
Say rượu đánh long thần
129 Đối chọi với sư
130 Thơ trách nữ thần
131 Không ưa nịnh bề trên
132 Thơ tương tư
133 Thơ vịnh người đá
134 Con mèo nằm bếp ỉa đầy nồi rang
135 Đả lối văn sáo rỗng
136 Văn hay chữ xấu
137 Quen viết văn bằng giấy bút tốt
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh
hoạt văn
X
nghệ
Sinh
hoạt
chính trị
X
X
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Văn Siêu
Nguyễn Văn Siêu
138
Cao Bá Quát và Nguyễn Văn Siêu
X
Nguyễn Văn Siêu - Cao
Bá Quát
139
Siêu đất siêu đồng
140 Thầy lý bớt đi rồi
141 Ở truồng xem vua
X
X
X
Nguyễn Văn Siêu - Cao
Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
PL45
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn
chương
Sinh hoạt
đời
thường
142 Khí phách ngang tàng
143 Một bọc sinh đôi
144 Khóc mướn kiếm ăn
145 Bịa thơ tài hơn vua
146 Tứ nhi
147 Tự tiễn chữa văn của vua
148 Trên dưới đều chó
149 Một câu đối hai hoàn cảnh
150 Bài thơ không họa nổi
151 Thơ tạ hương đảng
152 Bị ngồi trăng
153 Anh hùng có một ngươi
154 Thơ trả lời người bạn giàu
155 Một lũ ăn mày, một lũ quan
156 Câu đối khóc chồng chung
157 Phó cối đề thơ
158 Gà câu đối cho trò
159 Thơ mừng bạn đẻ con trai
160 Nằm cùng thì cho
161 Bò đen bò vàng
162 Thơ con mèo
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh
hoạt văn
nghệ
X
Sinh
hoạt
chính trị
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Huuỳnh Mẫn Đạt
Học Lạc
Học Lạc
Tú Quỳ
Nhiêu Tâm
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Đinh Nhật Thận
Nguyễn Xuân Ôn
Phan Văn Trị
PL46
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn
chương
Sinh hoạt
đời
thường
163 Đái vẽ nên rồng
164 Thơ ăn thịt cần đước
165 Bức tranh sơn thủy kỳ lạ
166 Câu đối kén chồng
167 Quan án giỏi thơ
168 Thơ răng cắn lưỡi
169 Phúc đức gì mày bố đĩ Giai
170 Hé gương
171 Họ vắt
172 Vả bây giờ
173 Cô Kiều cười
174 Gái Nội Duệ Cầu Lim
175 Biết rùa mô meo mà tìm
176 Tên cha thằng bày
177 Đề thơ mừng lễ thọ
178 Ghẹo sư
179 Cọp bắt thầy tu
180 Bài phú tức cảnh cô gái đẹp
181 Giễu lênh cấm quần không đáy
182 Cái khố với hai đồng tiền
183 Chiến đấu đến cùng
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh
hoạt văn
nghệ
X
X
X
X
X
X
X
Sinh
hoạt
chính trị
X
X
Phan Văn Trị
Phan Văn Trị
Phạm Văn Nghị
Văn Quế
Khuyết danh
Nguyễn Đăng Hành
Nguyễn Đăng Giai
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Hoàng Phan Thái
Hoàng Phan Thái
Hoàng Phan Thái
Hoàng Phan Thái
Phan Văn Ái
Lê Ngô Cát
Phan Đình Phùng
PL47
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn
chương
Sinh hoạt
đời
thường
184 Bài cu trù khích lệ anh hùng
185 Thơ chửi tay sai của Pháp
186 Đùa nhà sư móm
187 Thơ bồ tiên
188 Tạ người cho hoa trà
189 Đòi xem câu đối
190 Gặp chó
191 Vịnh phỗng đá
192 Thơ ông phỗng sành
193 Cho chữ thờ
194 Thơ thăm bạn mất cướp
195 Chi chi giã
196 Lo trước thiên hạ
197 Khóc anh thợ tèn
198 Vợ người hàng thịt khóc chồng
199 Trưởng chợ mừng nhà mới
200 Áo địa ván thiên
201 Kỷ niệm vô giá
202 Vợ thợ nhuộm khóc chồng
203 Quan chẳng quan thì dân
204 Giàu có sang không
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh
hoạt văn
X
nghệ
Sinh
hoạt
chính trị
Cô đào Nhu
Cô đào Nhu
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến - bạn thơ
Nguyễn Khuyến
PL48
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn
chương
Sinh hoạt
đời
thường
Chim bách thanh
205 Một phút hóa trăm năm
206 Văn tế Ri-vi-e
207 Bài thơ chữa lại
208
209 Làm câu đối cho bà buôn gạo khóc chồng
210 Làm hộ bức trướng phúng bạn
211 Nên nghĩa trăm năm
212 Đã cho vào bực bố
213 Giận lây cả Sĩ Vương
214 Tang chở chốn quan trường
215 Đục chân vào đá
216 Thi câu đối
217 Thơ vịnh Kiều
218 Một lối dịch thơ kỳ lạ
219 Thơ khen tri phủ tài nịnh
220 Ghẹo một trả lời hai
221 Thơ điên cuồng ngu ngộ
222 Thơ chửi tri huyện
223 Câu đối vịnh gông cùm
224 Mặc thằng nghe
225 Dịch thơ xỏ bạn
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh
hoạt văn
nghệ
X
X
X
Sinh
hoạt
chính trị
Nguyễn Khuyến
Khuyết danh
Chu Mạnh Trinh
Tú Xương
Tú Xương
Tú Xương
Nguyễn Hữu Khanh
Nguyễn Hữu Khanh
Nguyễn Mộng Bạch
Dương Khuê
Từ Đạm
Từ Đạm
Từ Đạm
Từ Diễn Hồng
Nguyễn Thiện Kế
Sương Nguyệt Anh
Xiển Ngộ
Kép Trà
Kép Trà
Trần Tích Phiên
Trần Tích Phiên
X
X
X
X
X
PL49
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn
chương
Sinh hoạt
đời
thường
226 Thơ vịnh vườn bách thú
227 Quý nhất đầm
228 Cháu góa mừng cô góa
229 Thơ vịnh Hiệp Phật
230 Câu đối chữ Hán đọc theo vần quốc ngữ
231 Đào Mộng Giác
232 Câu hát quốc sự
233 Da báo như da chó dê
234 Chặt đầu Tây
235 Bài thơ ghi vào đá
236 Thơ hỏi sư
237 Quan đốc có số đào hoa
238 Thơ tặng người cùng cảnh
239 Một cũng đủ rồi
240 Nghe thơ đoán người
241 Thuyền quyên với anh hùng
242 Áo bào hốt bạc
243 Thơ mừng mụ đồ
244 Tấn sĩ là cái gì
245 Giống Khổng Mạnh
246 Ngỏ ý bằng thơ
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh
hoạt văn
nghệ
X
X
X
Sinh
hoạt
chính trị
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Bừi Bằng Đoàn
Phan Chu Trinh
Khuyết danh
Vũ Hữu Lợi
Thành Thái
Nguyễn Thượng Hiền
Nguyễn Thượng Hiền
Đặng Nguyên Cẩn
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phạm Văn Ngôn
Phạm Văn Ngôn
Phạm Văn Thản
Huuỳnh Thúc Kháng
Trần Cao Vân
Trần Cao Vân - vua Duy Tân
X
X
X
X
X
PL50
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn
chương
Sinh hoạt
đời
thường
247 Long Biên ái hoa hội
248 Thơ vịnh văn miếu
249 Rau sắng chùa Hương
250 Lên bà không khó
251 Người tình nhân không quen biết
252 Thơ khóc thầm
253 Bài thơ năm cụ
254
Sông Hương núi Ngự
X
X
x
X
X
X
X
Sinh
hoạt văn
nghệ
X
Sinh
hoạt
chính trị
Khuyết danh
Khuyết danh
Tản Đà
Tản Đà
Tản Đà
Tản Đà
Nguyễn Trọng Cần
Thúc Giạ Thị - Nguyễn Khoa Vi
Công trình Giai thoại văn học Việt Nam của Kiều Thu Hoạch:
Stt
Tên truyện
Nhân vật
1
Tay lái đò hay chữ
2 Bị trói vẫn làm thơ
3
Tay cầm nửa vầng trăng
4
Trạng nguyên về học lễ
5 Đối hay được thưởng dùi sách
6 Bịa thơ hại sư
7 Hoa sen trong giếng ngọc
8 Ra đối dễ, đối đối khó
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
Sinh hoạt
đời thường
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
Sinh hoạt
chính trị
X
X
X
Đỗ Thận
Lý Công Uẩn
Ỷ Lan
Nguyễn Hiền
Lê Văn Hưu
Huyền Quang
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
PL51
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Trăng là cung, đạn là sao
9
10 Chơi chữ
11 Lưỡng quốc trạng nguyên
12 Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào
13 Chim chếch - ếch ngộp
14 Bốn chữ nhất
Sinh hoạt
văn chương
Sinh hoạt
đời thường
Sinh hoạt
văn nghệ
Sinh hoạt
chính trị
X
X
X
X
X
X
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
X
Mạc Đĩnh Chi
15 Cười ông quan hai vợ
16 Chỉ có hai người
17 Ruột vuông
18 Cứu ai
19 Ngự sử miệng còn hôi sữa
20 Đọc thơ chê Hạng Vũ
21 Chữa thơ Vương Bột
22 Gửi trứng cho ác
23 Thơ của người nghĩa sĩ
24 Lòng ta không phải đá
25 Câu thơ kỳ lạ
26 Ra câu đối dò xét con
27 Thơ ghen vần tình
28 Thơ đùa ả bán chiếu
29 To đầu mà dại
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Đoàn Nhữ Hài
Hồ Tông Thốc
Hồ Tông Thốc
Trần Nguyên Đán
Nguyễn Biểu
Lê Hiến Phủ
Hồ Quý Ly
Hồ Quý Ly
Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi
Trịnh Khiết Tường
PL52
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
đời thường
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
Sinh hoạt
chính trị
X
X
30 Bảy mươi mười bảy đang vừa
31 Chữ mã ba chấm
32 Câu thơ nên nghĩa
33 Câu đối nhà hàng nước
34 Hồn bướm mơ tiên
35 Câu đối nhà thợ nhuộm
36 Câu đối người hốt phân
37 Anh lính với hội Tao Đàn
38 Ba ông tam thế
39 Sư sử sứ, phụ phù phu
40 Thánh quân minh đế
41 Ông Trạng thả diều
42 Khiêng võng quan huyện
43 Cậu bé học lỏm
44 Câu thơ học từ dân dã
45 Văn tức là người
46 Trạng me đè trạng ngọt
47 Câu đối đêm động phòng
48 Ăn hai đấu học thâu canh
49 Thơ nằm co
50 Ngâm thơ cự thần
X
X
X
X
Trịnh Khiết Tường
Trịnh Khiết Tường
Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông
Nguyễn Toàn An
Lê Thánh Tông
Lương Thế Vinh
Lương Thế Vinh
Lương Thế Vinh
Lương Thế Vinh
Kiều Phú
Nguyễn Văn Nghi
Nguyễn Giản Thanh
Nguyễn Giản Thanh
Hứa Tam Tỉnh
Lê Nại
Vũ Duệ
Nguyễn Thái Thường
PL53
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn chương
X
Sinh hoạt
đời thường
Sinh hoạt
văn nghệ
Sinh hoạt
chính trị
Nguyễn Bỉnh Khiêm
X
Giáp Hải
X
X
X
Ngô Trí Tri
Phạm Trấn - Đỗ Uông
Lương Hữu Khánh
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Phùng Khắc Khoan
Phùng Khắc Khoan
Khuyết danh
Vũ Thoát Dĩnh
Giang Văn Minh
Đào Duy Từ
Đào Duy Từ
Đào Duy Từ
Đào Tá Hán
Nguyễn Công Đăng
Nguyễn Đăng Cảo
51 Tựa ngai vàng
52 Thơ bèo
53 Một bảng nháp đỗ ba tiến sĩ
54 Bảng, trạng tranh nhau
55 Ăn khỏe thơ tài
56 Thơ vịnh trai
57 Úc úc đô đô
58 Câu đối của người hầu trà
59 Quan tài tài quan
60 Rêu xanh máu đỏ
61 Ta chẳng chịu phong
62 Bây giờ em đã có chồng
63 Bài thơ khuyên chúa Sãi
64 Suýt toi mạng vì bài hát
65 Phú ông tỏi hỏi làm chi
66 Ếch ngồi đáy giếng
67 Phong nguyệt vô biên
68 Trả sách không mua
69 Làm bài hát kiếm rượu thịt
70 Đại đăng khoa, tiểu đăng khoa
71 Làm thơ vặn lại thần
X
X
X
X
X
Nguyễn Đăng Cảo
Nguyễn Đăng Cảo
Nguyễn Đăng Cảo
Nguyễn Đăng Đạo
Nguyễn Đăng Đạo
PL54
Stt
Tên truyện
Nhân vật
72 Vế đối tài hoa
73 Đề thì lừa sĩ tử
74 Đi hán đi hài mỏi chân
75 Nức tiếng thầy
76 Học trò đi chăn trâu
77 Thi vịnh cảnh chùa Trấn Quốc
78 Nối thơ đời Hồng Đức
79 Bét thơ phải đi sứ
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
đời thường
Sinh hoạt
văn nghệ
Sinh hoạt
chính trị
X
Nguyễn Đăng Đạo
Nguyễn Lại
Hồ Sĩ Dương
Nguyễn Quốc Trinh
Nguyễn Quý Đức
Nguyễn Quý Đức
Nguyễn Quý Đức
Nguyễn Tông Khuê
80
Rắn trắng rồng vàng
X
Đoàn Thị Điểm - Đoàn Doãn
Luân
81
Hai cô Điểm, hai ông Luân
82 Không ham phú quý
83 Vế đối hai nghĩa
84 Cô hàng nước hay chữ
85 Trẻ con mới học biết gì
86 Văn rỗng như bụng trống
87 Lủm cả quá trứng
88 Bài phú qua đò thành văn
89 Quả hồng buồng cau
90 Quan chủ khảo nhận dốt
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Đoàn Thị Điểm - Đoàn Doãn
Luân
Đoàn Thị Điểm
Đoàn Thị Điểm
Đoàn Thị Điểm
Đoàn Thị Điểm - Đặng Trần Côn
Vũ Công Tuệ
Hà Tông Huân
Nguyễn Bá Lân
Nguyễn Bá Lân
Nguyễn Bá Lân
PL55
Stt
Tên truyện
Nhân vật
91 Nhờ có râu mà thoát đòn
92 Này hi hi
93 Ba sông bốn mắt
94 Bài thơ tự trách mình
95 Thư mượn áo cầu
96 Chép lại văn tự cháy
97 Cái cò lặn lội bờ sông
98 Mượn chuyện cổ chửi hoạn quan
99 Câu đố chữ nhất
100 Cái vạ văn chương
101 Thơ nắn nhị đào
102 Ông hoàng giáp chịu tài người ăn xin
103 Mó mít nhựa ra tay
104 Chúa tôi xướng họa
105 Cốt đối ý
106 Đánh nhau bằng cả câu đối
107 Chim trong lồng
108 Miêng kẻ sang, đồ nhà khó
109 Chó khôn chớ cắn càn
110 Tú Cát - Bọ hung
111 Thơ tạ thành hoàng
Sinh hoạt
đời thường
X
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
Sinh hoạt
chính trị
X
Trần Văn Trứ
Trần Văn Trứ
Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn
Ngô Thì Sĩ
Phạm Nguyễn Du
Phạm Nguyễn Du
Đặng Thị Huệ
Nguyễn Khản
Nguyễn Hữu Cầu
Nguyễn Hữu Cầu
Nguyễn Hữu Cầu
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
PL56
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
đời thường
X
Sinh hoạt
văn nghệ
Sinh hoạt
chính trị
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nguyền Hòe
Nguyền Hòe
Nguyền Hòe
Vương Toán
Phủ Hào
Trần Danh Án
Trần Danh Án
Trần Danh Án
Nguyễn Huy Oánh
Nguyễn Thiếp
X
X
X
Nguyễn Hữu Chỉnh
Võ Huy Tấn
Ngô Thì Nhậm
112 Da trắng vỗ bì bạch
113 Dòm nhà bảng nhãn
114 Thơ tức cảnh mót lúa
115 Bài văn hai nghĩa
116 Thừa giấy vẽ voi
117 Tráo thơ giáo thụ
118 Một thí sinh bướng bỉnh
119 Bí quá hóa hay
120 Câu đối nghịch ngợm
121 Thơ hay xiêu lòng tiểu thơ
122 Câu đối trên văn hồ
123 Chày cháy trôi sông
124 Luật hoa
125 Tiến sĩ triều Lê khăn triều Nguyễn
126 Vế đối từ quan
127 Bài thơ leo đèo
128 Thơ vịnh pháo
129 Bài thơ đem lại quốc thể
130 Chết vì câu đối
131 Bia nghè lại dựng trên tòa muôn gian
132 Vịnh tranh tố nữ
X
X
vua Quang Trung
Phạm Thái
PL57
Stt
Tên truyện
Nhân vật
133 Gà câu đối cho chàng rể
134 Đọc thơ chữa thẹn
135 Mảnh tình xẻ đôi
136 Ấy ái uông
137 Đánh trống qua cửa nhà sấm
138 Ham tìm chỗ ấy
139 Cặc bần ghe phú
140 Cuộc đấu thơ nghịch ngợm
141 Chiêu Bảy và cô Cúc
142 Câu thơ bỏ lửng
143 Chết vì bài thơ
144 Câu thơ hoàng bào
145 Ông cống làm trâu
146 Cho Thị Đào đi lấy chồng
147 Chê khéo
148 Lời thơ khảng khái
149 Thơ kết án con hạc
150 Thơ kết án con vịt
151 Thuyền quyên ứ hự
152 Hỏi anh
153 Làm thơ khất nợ
Sinh hoạt
đời thường
X
X
X
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
X
Sinh hoạt
chính trị
X
X
X
X
Nguyễn Huy Lượng
Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương - Chiêu Hổ
Nguyễn Du
Nguyễn Du
Nguyễn Văn Thành
Lê Văn Duyệt
Bà huyện Thanh Quan
Bà huyện Thanh Quan
Bà huyện Thanh Quan
Tổng Trắm
Đỗ Cao Mại
Đỗ Cao Mại
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
PL58
Stt
Tên truyện
Nhân vật
154 Được tha phạt vì câu thơ hóm hỉnh
155 Khinh thường quan võ
156 Anh hùng đè xuống dưới
157 Thơ tạ long thần
158 Đối chọi với sư
159 Thơ trách nữ thần
160 Thơ tương tư
161 Con mèo nằm bếp ỉa đầy nồi rang
162 Đả lối văn sáo rỗng
163 Chiết tự chữ Đức
164 Thơ vịnh cây vông
165 Phá đền thì lại làm đền
166 Thơ vần om
167 Cót két, thẩn thơ
168 Quen viết văn bằng giấy bút tốt
169 Siêu đất siêu đồng
170 Thầy lý bớt đi rồi
171 Ở truồng xem vua
172 Khí phách ngang tàng
173 Một bọc sinh đôi
174 Khóc mướn kiếm ăn
Sinh hoạt
đời thường
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
X
Sinh hoạt
chính trị
X
X
X
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Bù Tú Ý
Nguyễn Văn Siêu
Nguyễn Văn Siêu
Nguyễn Văn Siêu - Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
PL59
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
đời thường
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
Sinh hoạt
chính trị
X
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Lê Quýnh
Phạm Văn Nghị
Huuỳnh Mẫn Đạt
Cao Huy Diệu
Học Lạc
Nhiêu Tâm
Nhiêu Tâm
Nguyễn Quý Tân
175 Bịa thơ tài hơn vua
176 Tự tiễn chữa văn của vua
177 Trên dưới đều chó
178 Một câu đối hai hoàn cảnh
179 Không biết chữ chi
180 Một thầy một cô một chó cái
181 Cụ đốc học hóm hỉnh
182 Bức tranh thơ
183 Nghe thơ xấu hổ
184 Đối đáp chốn quan trường
185 Thơ tạ hương đảng
186 Thơ trả lời người bạn giàu
187 Thơ cục cứt trôi sông
188 Thơ vịnh đèn kéo quân
189 Câu đối khóc chồng chung
190 Phó cối đề thơ
191 Gà câu đối cho trò
192 Thơ mừng bạn đẻ con trai
193 Thơ của người mần đơn
194 Thơ vịnh cái điếu
195 Nằm cùng thì cho
X
X
X
X
X
X
X
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Đinh Nhật Thận
PL60
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
Sinh hoạt
đời thường
X
Sinh hoạt
văn nghệ
Sinh hoạt
chính trị
Nguyễn Xuân Ôn
Nguyễn Xuân Ôn
Nguyễn Xuân Ôn
Nguyễn Xuân Ôn
196 Bò đen bò vàng
197 Đầy tớ làm gia sư
198 Nam nhi cốt ở tài
199 Trườn sang, lên đường
200 Câu đối đền Thia Thia
201 Trọng khoa hơn hoạn
202 Tang trở chốn quan trường
203 Bài mắng Sở Khanh
204 Đã cho vào bực bố
205 Hoa xưa ong cũ
206 Thi câu đối
207 Thơ vịnh Kiều
208 Đục chân vào đá
209 Một lối dịch thơ kỳ lạ
210 Mặc thằng nghe
211 Dịch thơ đùa tếu
212 Thơ khen tri phủ tài nịnh
213 Thơ tống tiền
214 Thơ điên cuồng ngu ngộ
215 Đít thớt đầu chày
216 Tổng đốc cay mũi
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nguyễn Xuân Ôn
Hà Duy Phiên
Dương Khuê
Nguyễn Hữu Khanh
Nguyễn Hữu Khanh
Nguyễn Hữu Khanh
Từ Đạm
Từ Đạm
Từ Đạm
Từ Diễn Hồng
Trần Tích Phiên
Trần Tích Phiên
Nguyễn Thiện Kế
Nguyễn Thiện Kế
Xiển Ngộ
Xiển Ngộ
Xiển Ngộ
PL61
Stt
Tên truyện
Nhân vật
217 Ba quan bốn chó
218 Vào huyện đường họa thơ
219 Thơ chửi tri huyện
220 Câu đối vịnh gông cùm
221 Thơ mừng đám cưới
222 Thơ ghi kỷ niệm cụ Tiên Điền
223 Đề thơ mừng lễ thọ
224 Cọp bắt thầy tu
225 Bài phú tức cảnh cô gái đẹp
226 Giễu lệnh cấm quần không đáy
227 Thơ vịnh váy
228 Vạ miệng
229 Ăn trộm chữ
230 Câu hát đồng quê thành câu đối
231 Trâu bò trê lóc
232 Thơ từ biệt cố nhân
233 Họa liền một lúc hai bài thơ
234 Câu đối thành câu sấm
235 Chín nghìn bạn
236 Thơ tập cổ
237 Thơ nói lái
Sinh hoạt
đời thường
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
Sinh hoạt
chính trị
X
X
Xiển Ngộ
Xiển Ngộ
Kép Trà
Kép Trà
Kép Trà
Kép Trà
Hoàng Phan Thái
Hoàng Phan Thái
Hoàng Phan Thái
Phan Văn Ái
Trịnh Phức
Đỗ Huy Uyển
Đỗ Huy Uyển
Đỗ Huy Uyển
Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu
Sương Nguyệt Anh
Vũ Duy Thanh
Vũ Duy Thanh
Vũ Duy Thanh
Tự Đức
PL62
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn chương
238 Thơ vịnh muỗi
X
239 Bài vè của vua
X
240 Thơ phong hoa tuyết nguyệt
X
241 Thơ răng cắn lưỡi
X
242 Giận lây cả Sĩ Vương
X
243 Cái khố với hai đồng tiền
X
244 Họa thơ tỏ ý chí quyết chiến
X
245 Hai cẳng đối một đầu
X
246 Chó tuốt
247 Thơ ăn thịt cần đước
X
248 Thơ con mèo
X
249 Chỉ vì một chữ hòa
X
250 Câu đối chữ Hán đọc theo vần quốc ngữ X
251 Thơ phú của Đào Mộng Giác
X
252 Da báo như da chó dê
X
253 Bài ca trù khích lệ anh hùng
254 Thơ chửi tay sai của Pháp
X
255 Đùa nhà sư móm
X
256 Thơ bồ tiên
X
257 Tạ người cho hoa trà
X
258 Đòi xem câu đối
X
Sinh hoạt
đời thường
X
Sinh hoạt
văn nghệ
X
Sinh hoạt
chính trị
Tự Đức
Tự Đức
Tự Đức
Nguyễn Đăng Hành
Nguyễn Mộng Bạch
Lê Ngô Cát
Phan Đình Phùng
Ông Ích Khiêm
Ông Ích Khiêm
Phan Văn Trị
Phan Văn Trị
Vũ Duy Tuân
Bùi Bằng Đoàn
Phan Chu Trinh
Vũ Hữu Lợi
Cô đào Nhu
Cô đào Nhu
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
PL63
Stt
Tên truyện
Nhân vật
259 Gặp chó
260 Vịnh phỗng đá
261 Thơ ông phỗng sành
262 Tao có nói đâu
263 Cho chữ thờ
264 Thơ thăm bạn mất cướp
265 Chi chi giã
266 Lo trước thiên hạ
267 Câu đối khóc anh thợ rèn
268 Vợ người hàng thịt khóc chồng
269 Trưởng chợ mừng nhà mới
270 Áo địa ván thiên
271 Kỷ niệm vô giá
272 Vợ thợ nhuộm khóc chồng
273 Quan chẳng quan thì dân
274 Giàu có sang không
275 Một phút hóa trăm năm
276 Ối quan liêm
277 Chày đứng
278 Người đẹp thần thiêng
279 Thơ không chồng bông lông
Sinh hoạt
đời thường
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
Sinh hoạt
chính trị
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Chu Mạnh Trinh
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
PL64
Stt
Tên truyện
Nhân vật
280 Thơ loan mó nhạn
281 Chi chòm chí chóp
282 Nước lấy dân làm gốc
283 Thơ bỡn con gái cụ Lý
284 Một đạo hai đường
285 Đọc thơ chịu tội
286 Tiến sĩ dễ, cứ nhân gay
287 Vừa đánh cờ vừa làm thơ
288 Như ngọc là như ngọc hành
289 Kỳ nhân như ngọc
290 Chím bách thanh
291 Làm câu đối cho bà buôn gạo khóc chồng
292 Chén tống chén quân
293 Thơ đề ảnh
294 Một vạch ngang lưng
295 Xu thời xu thế cũng là xu
296 Học tài thi phận
297 Đối hay biện luận giỏi
298 Bài thơ để lộ ky
299 Đưá trẻ kỳ lạ
300 Thơ vịnh Hàm Rồng
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
đời thường
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
Sinh hoạt
chính trị
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Danh Tiên
Huỳnh Quỳ
Trần Bích San
Lê Trung Đình
Trần Quý Cáp
Vũ Phạm Hàm
Vũ Phạm Hàm
Khuyết danh
Tú Xương
Tú Xương
Tú Xương
Tú Xương
Tú Xương
Tú Xương
Tú Xương
Kỳ Đồng
Kỳ Đồng
Kỳ Đồng
Cao Ngọc Anh
PL65
Stt
Tên truyện
Nhân vật
301 Vế đối còn bỏ ngỏ
302 Dịch văn chửi tri huyện
303 Bài phú mười roi mười lạng
304 Hai câu thơ điệp âm
305 Thầy trò đối chọi thơ phú
306 Hỏng thi còn được tặng thơ
307 Thơ Kiều phê án
308 Thơ hỏi sư
309 Quan đốc có số đào hoa
310 Thơ tặng người cùng cảnh
311 Một cũng đủ rồi
312 Nghe thơ đoán người
313 Hai nhà thơ lớn gặp nhau
314 Nam Đàn tứ hổ là đây
315 Trời xanh còn hãm anh hùng
316 Chị em cất gánh sơn hà
317 Làm thơ dựa ý vào ca dao
318 Mặc ai khanh tướng công hầu
319 Câu hát đoán tên
320 Thơ Kiều gửi gắm tâm sự
321 Nhuyễn Kiều
Sinh hoạt
đời thường
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
chính trị
X
Bà Ba Cai Vàng
Nguyễn Văn Bật
Lê Ninh
vua Đồng khánh
Trần Quang Cán
Lê Sĩ Nghị
Vua Thành Thái
Nguyễn Thượng Hiền
Đặng Nguyên Cẩn
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
PL66
Stt
Tên truyện
Nhân vật
322 Thuyền quyên với anh hùng
323 Áo bào hốt bạc
324 Thơ mừng mụ đồ
325 Tấn sĩ là cái gì
326 Giống Khổng Mạnh
327 Ngỏ ý bằng thơ
328 Chặt đầu Tây
329 Rau sắng chùa Hương
330 Lên bà khó lắm em ơi
331 Người tình nhân không quen biết
332 Thơ khóc thầm
333 Bài thơ năm cụ
334 Bài thơ gỡ thể diện
335 Câu hò hai bảy mười một
336 Cây không trái, gái không chồng
337 Giá quan giáo thụ bằng hai cân lợn
338 Thơ chửi chó
339 Ông thừa cái chi
340 Thơ cua chơi trăng
341 Ngó da hùm
342 Câu đối kén chồng
Sinh hoạt
đời thường
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
X
Sinh hoạt
chính trị
X
X
Phạm Văn Ngôn
Phạm Văn Ngôn
Phạm Văn Thản
Huỳnh Thúc Kháng
Trần Cao Vân
Trần Cao Vân - vua Duy Tân
Vua Duy Tân
Tản Đà
Tản Đà
Tản Đà
Mai Lâm
Nguyễn Trọng Cần
Nguyễn Kinh
Nguyễn Kinh
Nguyễn Kinh
Ngô Tất Tố
Ngô Tất Tố
Phạm Văn Giai
Cả Triệu
Vương Tứ Đại - Nguyễn Bá Trác
Văn Quế
PL67
Stt
Tên truyện
Nhân vật
343 Thơ tập Kiều gỡ bí
344 Tấm vóc giá một chinh
345 Thơ nịnh sư
346 Câu văn ngỗ ngược
347 Thơ mắng muỗi
348 Bài thơ không được giải
349 Hoạ thơ tỏ chí hướng
350 Đu me Tây
351 Tinh sâu nghĩa đầy
352 Mạng phải cách
353 Cậu bé thầy dùi
354 Thi dịch thơ
355 Ông lão kéo xe góp chuyện văn chương
356 Tai mắt Tự lực văn đoàn
357 Người đẹp tri âm
358 Từ câu đối thành bài thơ
359 Thơ ăn mày gạo
360 Quan võ và quan thị
361 Đẹp vàng son, ngon mật mỡ
362 Nghé hầu non quan võ
363 Cô dâu gà chú rể
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
đời thường
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
X
Sinh hoạt
chính trị
Tú Xuất
Tú Xuất
Tú Xuất
Nguyễn Cảnh Lâm
Nguyễn Cảnh Lâm
Nguyễn Cảnh Lâm
Khóa Yển
Đỗ Bưởi
Nguyễn Ái Quốc
Nguyễn Ái Quốc
Nguyến Bính
Nguyến Bính
Nguyễn Công Hoan
Tự lực văn đoàn
Tú Mỡ
Anh Thơ
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
PL68
Stt
Tên truyện
Nhân vật
364 Dạy sai một chữ trừ một quan
365 Lấy thơ để chống chế
366 Dâu thử tài rể
367 Quân tử cố cùng
368 Ông nghè đè ông cống
369 Thơ nhạo tri phủ
370 Chả kém gì Lý Bạch
371 Mượn dịp chửi quan
372 Mắng quan trường
373 Áo đỏ dù xanh
374 Cửa tướng nhà công
375 Thằng quan huyện
376 Trai sừng gái sỏ
377 Chữ thiên trồi đầu
378 Thợ vẽ đề thơ
379 Đề bức tranh tam giáo
380 Xuất xứ ở miệng tôi
381 Thơ bán than
382 Quan án giỏi thơ
383 Phúc đức gì mầy bố đĩ Giai
384 Hé gương
Sinh hoạt
đời thường
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
Sinh hoạt
chính trị
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Nguyễn Đăng Giai
Khuyết danh
PL69
Stt
Tên truyện
Nhân vật
385 Họ vắt
386 Vả bây giờ
387 Cô Kiều cười
388 Hương thừa thoang thoảng
389 Bảy con khỉ
390 Âu yếm vòng ngoài
391 Cành kia cội này
392 Gái Nội Duệ Cầu Lim
393 Biết rùa mô meo mà tìm
394 Tên cha thằng bày
395 Văn tế Ngạc Nhe
396 Thơ vịnh vườn bách thú
397 Quý nhất đầm
398 Thơ thi vịnh Hiệp Phật
399 Câu hát quốc sự
400 Long Biên ái hoa hội
401 Thơ vịnh văn miếu
402 Đại lai tiểu vãng
403 Đại điểm quần thần
404 Chết cha dân
405 Câu đối đọc lái
Sinh hoạt
đời thường
X
X
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
chính trị
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
PL70
Stt
Tên truyện
Nhân vật
406 Ước con ngu dốt làm quan
407 Ba vợ chồng đều hay thơ
408 Thơ gạ gẫm
409 Thơ vịnh cảnh bình than
410 Ai ve con mụ
411 Câu đối hát giặm
412 Quý vật tặng quý nhân
413 Câu đối cô hàng hương
414 Học thì dốt, việc thì bỏ
415 Naăm canh chỉ sợ gà
416 Chánh tổng thâu đào
417 Nhà muôn cuốn sách
418 Đầu cha quan lớn
419 Câu thơ khó hiểu
420 Vạn lý trường thành
421 Thiên lý nhân lương
422 Mẫu phối Mạnh Đức
423 Miêệng ông quan huyện Thạch Hà
424 Mạc bất hà như
425 Đồ nọ tưởng đồ kia thắc mắc
426 Tớ bán cho ai cái khố rách này
Sinh hoạt
đời thường
X
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
X
Sinh hoạt
chính trị
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
PL71
Stt
Tên truyện
Nhân vật
427 Phê đơn li dị
428 Thơ thẩn làm chi
429 Nghé non là vật vô tri
430 Câu hát có hậu
431 Thơ thăm vợ
432 Thơ nói mát
433 Mượn vai hề chửi đổng
434 Dịch thơ chửi Tứ tham
435 Nhà cổ nguyệt
436 Thơ con cóc
437 Thơ vịnh Quan Công
438 Thơ khuyên nhủ của thầy đồ
439 Thơ con có lặn lội bờ sông
440 Bài tán chuồn chuồn
441 Văn luận giải cái rắm
442 Thơ của cô hàng nem
Sinh hoạt
đời thường
X
X
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
Sinh hoạt
chính trị
X
X
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Hồ Xuân Hương
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
PL72
Công trình Giai thoại folklore của Vũ Ngọc Khánh:
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
văn chương
Sinh hoạt
đời thường
Sinh hoạt
văn nghệ
Sinh hoạt
chính trị
X
Bà Triệu
X
Hồ Quý Ly
1 Lệnh ông không bằng cồng bà
2 Giết con mà lấy uy lòng
3 Câu hát ấy của ai
4 Cắt cỏ bồ đề cho ngựa của ai
5 Phải là con mẹ con cha
6 Chơi với kẻ sốm không ốm cũng què
7 Bảy làng gà, ba làng hóp
8 Ngưởi Nghệ An, gan Thạch Hà
9 Đánh giặc họ Đinh, làm quan họ Đặng
10 Tể tướng vạn hà thiên hạ âu ca
X
X
X
X
X
X
X
X
Khuyết danh
Võ Uy
Lê Thánh Tông
Lê Lợi
Vũ Đình Cung
Nguyễn Hữu Cầu
Đinh Văn Tả
Nguyễn Quán Nho
Thiếu Kim Văn đỗ tiến sĩ, mất sáu tiền
được bà Nghè
11
12 Bùng bình chi tướng, uýnh ướng chi quan
13 Mừng xuân có pháo có nêu
14 Quan hộ được tha, quan gia vạn tuế
15 Một nhà sinh được ba vua
16 Nực cười hai bảy mười ba
17 Trường An tứ hổ
18 Nam Đàn tứ hổ
X
X
X
X
X
X
X
X
Nguyễn Bá Dương
ông Chảng
Trần Tử Ca
Đề đốc Hộ thành
các vua nhà Nguyễn
Sô - nhi
PL73
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
chính trị
19 Quảng Nam tứ hổ
20 Nói khoác tận cung vua
21 Tại sao hội thi nói khoác làng Đông An bị vỡ
22 Ai nói khoác
23 Da trắng
24 Nói khoác lừa quan
Sinh hoạt
văn chương
X
Sinh hoạt
đời thường
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
ông Tư
25 Thua kiện quay ra được kiện
26 Khoai nhà em dẻo lắm
27 Đĩa lưỡi chuột
28 Bạn học của quan
29 Những câu hát gỡ bí
30 Vẫn những câu hát gỡ bí
31 Những câu hát hóc
32 Cau khô và cau nàng
33 Chùm hum cúi xuồng
34 Anh con đối tiền
35 Đát đặng thì đan
36 Ba vạn chín nghìn
37 Máu
38 Vải lộp ô nàng lấy ở đâu ra?
39 Câu hát Dùi Chiêng
PL74
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
chính trị
40 Tình tui với mụ
41 Mặn và ngọt
42 Đít Lý Râu, đầu Áng Cộng
43 Ba đấm như một đạp
44 Trán khỉ mặt rồng
45 Đánh quan quan đánh
46 Tiếng Pháp vào dân ca đối đáp
47 Chia gà trong cỗ tết
48 Căng buồm mời rượu, gánh gạo lội sông
49 Ai ve con mụ
50 Thi tài kết nghĩa
51 Con trâu là vật vô tri
52 Đi khắp được vợ
53 Câu đối hát giặm
54 Nét hóm hỉnh của cụ đốc Phù Quang
55 Đã chào thì tặng
56 Run như cầy
57 La Qua - Phước Chỉ
58 Tao kéo mày về
59 Hương và trăng sao
60 Thì muốn thì theo
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
đời thường
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Ông Chắm
Tế Đặng - Thượng Đàn
Cô Son - vua Minh Mạng
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Lê Quý Đôn
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
PL75
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
chính trị
61 Rất mực thanh cao
62 Dâng lệ Phương Hoa
63 Than lửa, bút nghiên
64 Có râu nên thoát tội
65 Ba công
66 Chánh tổng thâu đào
67 Ba đoạn tre, muôn quyển sách
68 Mẹ học trò, cha quan lớn
69 Trăng lộn đèn dài
70 Vạn lý trường thành
71 Thiên lý nhân lương
72 Mẫu phối Mạnh Đức
73 Sau trước, xuống lên
74 Thạch Hà - Kim Động
75 Gia đạo hưng
76 Tương hữu tương vô
77 Đại lai tiểu vãng
78 Giai sĩ hiên
79 Mạt bất hà như
80 Kỳ nhân như ngọc
81 Thể quần thần
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
đời thường
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
X
Khuyết danh
Phương Hoa
Đoàn Hy
Trần Ngọc Dư
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Nguyễn Thân
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
PL76
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
chính trị
82 Những câu thơ chống thần
83 Mồ hôi thần
84 Đồ nọ tưởng đồ kia thêm thắc mắc
85 Câu chuyện cấm quần không đáy
86 Ông thừa
87 Thơ mừng đám cưới đặc biệt
88 Hỡi cụ hỡi nàng
89 Cụ chửa về
90 Đám rước quan
91 Phê đơn li dị
92 Xê ra để chị về cho sớm
93 Cu li và phi lu
94 Văn tế một viên tướng Pháp
95 Cô hàng nem cảnh cáo các nhà thơ
96 Thơ năm cụ
97 Ba ông bà đều là thi sĩ
98 Cái quý giá của chức câu đương
99 Ra ngõ gặp gái việc gì mà kiêng
100 Ngựa về đường Bưởi
101 Mũi tên bay từ bờ sông Lương
102 Ôm đầu đã đứt
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
đời thường
X
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
X
X
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Đào Sư Tích
Khuyết danh
Liễu Thăng
Liễu Thăng
PL77
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
chính trị
103 Nam Nam lại có đứa nào cao hơn ta?
104 Bát canh lươn
105 Chính tôi phải chịu ơn quan bác
106 Phạm Công Trứ xử kiện
107 Bà mẹ Vạn Hà
108 Thế nào mới thực là vẻ vang
109 Cho con cái kết hôn với nhau
110 Chỉ tại nàng yêu cây mía
111 Người đào ao xử kiện
112 Lũ gian tham đâu, vào chỗ đứng
113 Một cách tìm hiểu và dạm vợ cho con
114 Xem cái rỗ kia kìa
115 Bọn kẻ trộm chúng tôi làm đấy
116 Dạ, tôi chỉ làm đến tể tướng thôi
117 Vua Quang Trung và nhân dân
118 Vụ án tổ tôm
119 Hỡi người mặt trắng râu xanh
120 Mẹ tôi lấy vua thì tôi là con vua
121 Cây roi mây cuốn theo tấm lụa
122 Câu kê chẳng thấy, thấy đầm xòe
123 Tri huyện chiếu lệnh phạt đức ông
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
Sinh hoạt
đời thường
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Liễu Thăng
Bùi Cầm Hổ
Trần Dực
Phạm Công Trứ
Nguyễn Quán Nho
Nguyễn Khải
Khuyết danh
Ngọc Liệu
Nguyễn Văn Giai
Khuyết danh
Nguyễn Công Hoàn
Nguyễn Huy Lượng
Dương Chung Tú
Nguyễn Văn Giai
Vua Quang Trung
Đinh Nhật Thận
Khuyết danh
Nguyễn Văn Tường
Trần Bích San
Khuyết danh
Phan Văn Ái
PL78
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
chính trị
124 Người cuồng ở Bình Định
125 Cô Miên ngủ một mình
126 Bà Gồm và mười hai nong cơm
127 Phạt mười roi, thường mười lạng
128 Xử Tây
129 Con ta biết trung là hiếu rồi
130 Cô bán cơm gan góc
131 Đôi ta cùng nợ nước non
132 Đồ Nghệ xưng vua
133 Kỳ tài hầu
134 Bức tranh quả dưa
135 Gia đình đồng hồ
136 Bác thợ may trí thức
137 Thợ rèn vụ quang
138 Cậu Hai Hót
139 Nước ngoài khác, nước mình khác
140 Thắp hương cúng thầy để chữa văn thầy
141 Trên vua dưới là ai?
142 Người lạ kẻ quen
143 Tài ứng diễn của Hứa Văn
144 Đã nóng lên thì còn biết thời đại nào
Sinh hoạt
văn chương
X
Sinh hoạt
đời thường
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Khuyết danh
Bà Ba Cai Vàng
Bà Gồm
Khuyết danh
Lê Xuân Mai
Trần Chí Thiện
Khuyết danh
Cô Tám chợ Tràng
Đinh Văn Thụ
Tô Phú Vượng
Đào Thúc Kiên
Khuyết danh
Nguyễn Chí Lăm
Khuyết danh
Hai Hót
Bà Từ Dụ
Đào Tấn
Khuyết danh
Khuyết danh
Hứa Văn
Khuyết danh
PL79
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
chính trị
Sinh hoạt
văn chương
Sinh hoạt
đời thường
145 Ông thương bạc
146 Vật gì vừa đực vừa cái
147 Đố là cái chi
148 Thùng không
149 Da bố mi đó à?
150 Kinh nghiệm thử thách các quan
151 Ông ỉa mà xáp cái gì?
152 Tài ứng biến
153 Cho tớ hút một hơi
154 Lại một cách ứng biến khác
155 Cứu nguy trên sân khấu
156 Hai tội của Trọng Thủy
157 Thầy Nghêu thử mít
158 Hói Kệ - Khe Giang
159 Cổ Đô - Trình Xá
160 Trâu thiến - Ngựa cương
161 Đối thế nào là chỉnh
162 Xẩm đội cấn
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Vai hề dở ngưởi sau khủng bố Xô Viết
Nghệ Tĩnh
163
164 Tiếng Tây vào sân khấu tuồng
X
X
Khuyết danh
Khuyết danh
PL80
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
chính trị
165 Cành kia cội này
166 Hé gương
167 Hương thừa
168 Âu yếm vòng ngoài
169 Vả bây giờ
170 Bảy con khỉ
171 Cô Kiều cười
172 Phải mười lăm năm nữa mới tìm thấy
173 Vì sao Tự Đức ghét Nguyễn Du
174 Đau đớn, thẹn thùng
175 Ăn làm sao, nói làm sao
176 Kiều đi Lạng Sơn
177 Kiều yêu ai nhất
178 Kiều đuổi cò
179 Kiều dạy trâu
180 Có lẽ cụ Nguyễn Du ác với chúng mình
181 Kiều mách nước cờ
182 Trăng thề hùm củi
183 Duyên hội ngộ, đức cù lao
184 Bị đánh hỏng cử nhân vì đọc một câu Kiều
185 Đọc như thế thì Kiều hóa ra con mèo
Sinh hoạt
văn chương
Sinh hoạt
đời thường
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Cụ Quả Ngôn
Khuyết danh
Ông Nhiêu Tĩnh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
PL81
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
chính trị
186 Mặt mày như thế thì gớm chứ đẹp đẽ gì
187 Không phải đáng ghét mà chính là đáng trọng
188 Hoạn Thư đâu phải người nham hiểm
189 Thúy Kiều con ai?
190 Ai là chị, ai là em?
191 Thúy Kiều làm nghề gì?
192 Nàng Kiều có con không?
193 Thúy Kiều có mắc bệnh gì không?
194 Kim Trọng bao nhiêu tuổi?
195 Kim Trọng làm nghề gì?
196 Từ Hải
197 Hồ Tôn Hiến
198 Tập Kiều phê án
199 Tài sắc anh hùng
200 Lời dặn cuối cùng
201 Phan Bội Châu nhờ Kiều trả lời đồng bào
202 Phan Bội Châu với truyện Kiều
203 Nguyễn Đức Cảnh nhờ Kiều từ biệt mẹ
Sinh hoạt
văn chương
Sinh hoạt
đời thường
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Phạm Văn Ngôn
Khuyết danh
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Nguyễn Đức Cảnh
Nguyễn Ái Quốc và Trần Phú trong giấc
204
mơ Kiều
205 Kiều đi đánh Mỹ
X
X
Nguyễn Ái Quốc
Khuyết danh
PL82
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
chính trị
206 Mai sau dù có bao giờ
207 Làng Nhân
208 Laàng Hữu Lễ
209 Làng Tiên Nông
210 Laàng Trò
211 Làng Năng Cát
212 Tại sao có tên là Chòm Thiu
213 Tại sao có tên là làng Bà
214 Làng Sắt
215 Làng Bất Căng
216 Xử kiện ruộng dưa
217 Giả mù không thoát tội
218 Khoan khoan con nói
219 Bụng sình
220 Ăn mày và chó đói
221 Đình và Võ
222 Gánh nước chứ không bán nước
223 Bầu phải đi với bí
224 Tình văn chương
225 Cua chơi trăng
226 Kim Luông có gái mỹ miều
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
đời thường
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Khuyết danh
Lê Lợi
Lê Lợi
Lê Lợi
Lê Lợi
Lê Lợi
Lê Lợi
Lê Lợi
Lê Lợi
Lê Lợi
Nguyễn Đăng Khoa
Nguyễn Đăng Khoa
Lê Trung Đình
Lê Trung Đình
Lê Trung Đình
Lê Trung Đình
Lê Trung Đình
Cả Triệu
Cả Triệu
Cả Triệu
vua Thành Thái
PL83
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
chính trị
227 Ta có biết mặt mũi đứa nào đâu?
228 Mười bài liên hoàn
229 Trả tiền đò cho trẫm
230 Ngài cho dưới mắt không có người ư?
231 Trời xanh còn hãm anh hùng
232 Chị em cất gánh
233 Khăn gói qua sông
234 Tỏ chí bình sinh
235 Đoán tên
236 Tôi sẽ ăn mừng
237 Lạy cây
238 Câu đối Tết
239 Dưới phường khất cái ta đùa ta thân
240 Tớ không phải là phu
241 Câu đối chửi quan
242 Làm hộ đơn cho người có trâu chết
243 Hồng cậy tứ bàng
244 Hương hỏa chi mày
245 Câu đối dán rạp tuồng
246 Vinh quan sòi
247 Viết chữ thờ
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
đời thường
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
X
X
X
X
X
X
X
vua Thành Thái
vua Thành Thái
vua Thành Thái
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Sáu Mới
Sáu Mới
Sáu Mới
Phan Điện
Phan Điện
Xiền Ngộ
Xiền Ngộ
Xiền Ngộ
Tuần Dĩnh
Tuần Dĩnh
Tuần Dĩnh
Phủ Tuấn
PL84
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
chính trị
248 Đại dĩ
249 Phủ Tuấn xử kiện
250 Trâu phải được với chủ nó
251 Đánh lý trưởng
252 Bầy gà chức sắc
253 Mừng đám cưới
254 Bê về với bò mẹ
255 Đích thị kẻ bắt gà
256 Tay nào chặt chuối
257 Chữa bệnh oan gia
258 Hỏi vợ cho quan phủ
259 Ai thua cuộc
260 Chuyện cô Nhẫn
261 Em chỉ cần xắn váy
262 Đái mau cho tao uống
263 Chuyện ông Trần Hàn
264 Trạng Hiền
265 Nỗi oan sư thầy
266 Trạng Lường
267 Cân voi đo giấy
268 Trạng Ăn
Sinh hoạt
văn chương
X
X
Sinh hoạt
đời thường
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Phủ Tuấn
Phủ Tuấn
Phủ Tuấn
Thủ Thiệm
Thủ Thiệm
Thủ Thiệm
Thượng Nành
Thượng Nành
Thượng Nành
Mân Nhụy
Mân Nhụy
Mân Nhụy
Cô Nhẫn
Cố Duồn
Cố Duồn
Trần Hàn
Nguyễn Hiền
Huyền Quang
Lương Thế Vinh
Lương Thế Vinh
Lê Nại
PL85
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
chính trị
269 Mạo trạng nguyên
270 Bảng trạng thi tài
271 Trạng Bịu
272 Trạng Gióng
273 Trạng Quét
274 Trạng Vật
275 Trạng Cờ
276 Để đất phát thợ cạo
277 Để đất phát cho nghề đan bồ
278 Để đất phát cho dân phó cối
279 Trạng Tư Thiên
280 Trạng Trịnh
281 Trạng Khiếu
282 Chú bé con nhà hàng thịt
283 Trở thành trạng nguyên
284 Trạng Lợn đi sứ
285 Đào trường thọ
286 Tiên sư thằng Bảo Thái
287 Lỡm quan thị
288 Lại lỡm quan thị
289 Những bài thi bất hủ
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
đời thường
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
X
X
X
X
X
X
Nguyễn Giản Thanh
Đỗ Uông - Phạm Trấn
Nguyễn Đăng Đạo
Đặng Công Chất
Trạng Quét
Võ Phong
Võ Huyên
Trạng Bờ Ao
Trạng Bờ Ao
Trạng Bờ Ao
Bế Văn Phùng
Trạng Trịnh
Trạng Khiếu
Trạng Lợn
Trạng Lợn
Trạng Lợn
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
PL86
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
chính trị
290 Coi thử miệng quan
291 Đánh tráo thư
292 Tượng đá mất thiêng
293 Cúng thành hoàng
294 Vay tiền bà chúa Liễu
295 Trả ơn bà chúa Liễu
296 Mừng chúa thắng trận
297 Bắt sống Ba Bướu Tư Ngang
298 Tú Xuất đóng cũi giải nạp về tỉnh thành
299 Lột quần thầy lý
300 Lột khăn lấy giầy cụ lớn
301 Lột áo quan hàn
302 Chửi thi
303 Lại một cuộc chửi thi khác
304 Chọc con ông đốc học
305 Vén váy quần bà
306 Tú Xuất lật váy bà quan
307 Đòi quan
308 Lấy quần chưng phơi ngoài sào
309 Đòn trừng phạt lão bán tơ
310 Quan phủ bắt đám bạc
Sinh hoạt
văn chương
X
X
X
Sinh hoạt
đời thường
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
X
X
X
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
PL87
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Sinh hoạt
chính trị
311 Cặp vịt đẻ một đêm năm trứng
312 Trò lục sở
313 Tranh thối tranh thơm
314 Hễ ai mà nói dối ai
315 Tấm vóc đáng giá đồng chinh
316 Dại khôn
317 Chọc sư nịnh sư
318 Phúc đức gì mày
Sinh hoạt
văn chương
Sinh hoạt
đời thường
X
X
X
X
X
X
X
X
Sinh hoạt
văn nghệ
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Kết quả khảo sát nhân vật của một số tuyển tập giai thoại
Công trình Giai thoại văn học Việt Nam của nhóm Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh Mại:
KIỂU NHÂN VẬT
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông
Trí
thức
Đạo
đức
Nhà
nho tài
tử
Nhà
nho ẩn
dật
Nghệ
nhân dân
gian
1 Bác lái đò hay chữ
2 Bị trói vẫn làm thơ
3 Nam quốc sơn hà
4 Ỷ Lan phu nhân
5 Chương Dương - Hàm Tử
6 Trạng nguyên về học lễ
7 To đầu mà dại
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Đỗ Thận
Lý Công Uẩn
Lý Thường Kiệt
Ỷ Lan
Trần Quang Khải
Nguyễn Hiền
Nguyễn Hiền
PL88
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông
Trí
thức
Đạo
đức
8 Nỗi oan của nhà sư
9 Ngựa đá lấm bùn
10 Hoa sen trong giếng ngọc
11 Ra đối dễ, đối đối khó
12 Trăng là cung, đạn là sao
13 Chơi chữ - chọi chữ
14 Lưỡng quốc trạng nguyên
15 Chua biết mèo nào cắn mỉu nào
16 Chim chếch - ếch ngộp
17 Câu đối ghép tên người
18 Cười ông quan hai vợ
19 Ngự sử miệng còn hôi sữa
20 Đọc thơ chê Hạng Vũ
21 Chữa thơ Vương Bột
22 Gửi trứng cho ác
23 Thơ của người nghĩa sĩ
24 Lòng ta không phải đá
25 Câu thơ kỳ lạ
26 Ra câu đối dò xét con
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
KIỂU NHÂN VẬT
Nhà
nho tài
tử
Nhà
nho ẩn
dật
X
X
X
X
X
X
Nghệ
nhân dân
gian
Huyền Quang
Trần Nhân Tông
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Đoàn Nhữ Hài
Hồ Tông Thốc
Hồ Tông Thốc
Trần Nguyên Đán
Nguyễn Biểu
Lê Hiến Phủ
Hồ Quý Ly
Hồ Quý Ly
Muốn chết vác mặt làm quan
Minh triều
27
X
Khuyết danh
PL89
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông
Trí
thức
Đạo
đức
X
KIỂU NHÂN VẬT
Nhà
nho tài
X
tử
X
Nhà
nho ẩn
dật
X
X
Nghệ
nhân dân
gian
28 Thơ đùa ả bán chiếu
29 Câu thơ nên nghĩa
30 Câu đối nhà hàng nước
31 Hồn bướm mơ tiên
32 Xanh vàng đỏ tía
33 Tận thu lòng dạ thế gian
34 Anh lính với hội Tao Đàn
35 Sư sử sứ, phụ phù phu
36 Ba ông tam thế
37 Thánh quân minh đế
38 Hai anh em họ Quách
39 Văn tức là người
40 Mười tám bát cơm riêu
41 Trạng me đè trạng ngọt
42 Thơ nằm co
43 Khiêng cáng lấy vợ con quan
44 Ngâm thơ cự thần
45 Bảng, trạng tranh nhau
46 Ăn khỏe thơ tài
47 Câu chuyện bài phú
48 Quan tài tài quan
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nguyễn Trãi
Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông
Nguyễn Toàn An
Lương Thế Vinh
Lê Thánh Tông
Lương Thế Vinh
Quách Đình Bảo
Nguyễn Giản Thanh
Lê Nại
Nguyễn Giản Thanh
Vũ Duệ
Hứa Tam Tỉnh
Nguyễn Thái Thường
Phạm Trấn - Đỗ Uông
Lương Hữu Khánh
Lương Hữu Khánh
Vũ Thoát Dĩnh
PL90
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông
Trí
thức
Đạo
đức
49 Rêu xanh máu đỏ
50 Quân tử chí, xã tắc thần
51 Khoai Đơ, lính Mỗ
52 Tể tướng và thầy đồ
53 Nối thơ Lê Thánh Tông
54 Ta chẳng chịu phong
55 Bây giờ em đã có chồng
56 Ếch ngồi đáy giếng
57 Phong nguyệt vô biên
58 Hay cả ý lẫn lời
59 Rắn trắng rồng vàng
60 Hai cô Điểm, hai ông Luân
61 Không ham phú quý
62 Vế đối hai nghĩa
63 Làm văn khuyên chồng
64 Cha con đọ tài nhau
65 Nhờ có râu mà thoát đòn
66 Hà túc toán giã
67 Ba sông bốn mắt
68 Bài thơ tự trách mình
69 Thư mượn áo cầu
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
KIỂU NHÂN VẬT
Nhà
nho tài
tử
X
Nhà
nho ẩn
dật
X
X
X
X
X
X
Nghệ
nhân dân
gian
Giang Văn Minh
Nguyễn Quý Đức
Nguyễn Quý Đức
Nguyễn Quý Đức
Nguyễn Quý Đức
Đào Duy Từ
Đào Duy Từ
Nguyễn Đăng Cảo
Nguyễn Đăng Cảo
Nguyễn Đăng Đạo
Đoàn Thị Điểm
Đoàn Thị Điểm
Đoàn Thị Điểm
Đoàn Thị Điểm
Đoàn Thị Điểm
Nguyễn Bá Lân
Trần Văn Trứ
Vương Toán
Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn
PL91
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông
Trí
thức
Đạo
đức
KIỂU NHÂN VẬT
Nhà
nho tài
tử
Nhà
nho ẩn
dật
Nghệ
nhân dân
gian
70 Tài nịnh
71 Cốt đối ý
72 Đánh nhau bằng cả câu đối
73 Chim trong lồng
X
X
X
X
X
X
Nguyễn Khản
Nguyễn Hữu Cầu
Nguyễn Hữu Cầu
Nguyễn Hữu Cầu
Ông hoàng giáp chịu tài người ăn
xin
74
75 Câu thơ cảnh tỉnh
76 Miêng kẻ sang, đồ nhà khó
77 Chó khôn chớ cắn càn
78 Tú Cát - Bọ hung
79 Xơi hai trứng
80 Dở nguyên quen lạ
81 Cô dâu gà chú tể
82 Một thí sinh bướng bỉnh
83 Bí quá hóa hay
84 Câu đối trên văn hồ
85 Lấy thơ để chống chế
86 Dâu thử tài rể
87 Quân tử cố cùng
88 Ông Nghè đè ông Cống
89 Thơ nhạo tri phủ
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Phạm Nguyễn Du
Đặng Kim
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Lợn
Khuyết danh
Nguyền Hòe
Nguyền Hòe
Phủ Hào
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
PL92
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông
Trí
thức
Đạo
đức
90 Quan thị và quan võ
91 Chả kém gì Lý Bạch
92 Mượn dịp chửi quan
93 Mắng quan trường
94 Áo đỏ dù xanh
95 Cửa tướng nhà công
96 Thằng quan huyện
97 Trai sừng gái sỏ
98 Chữ thiên trồi đầu
99 Thợ vẽ đề thơ
100 Đề bức tranh tam giáo
101 Xuất xứ ở miệng tôi
X
102 Bài thơ leo đèo
X
103 Thơ vịnh pháo
X
104 Bài thơ đem lại quốc thể
105 Chết vì câu đối
X
106 Đối đáp trong chốn quan trường X
107 Tiến sĩ triều Lê khăn triều Nguyễn X
108 Thơ bán than
X
109 Vịnh tranh tố nữ
X
110 Đọc thơ chữa thẹn
KIỂU NHÂN VẬT
Nhà
nho tài
tử
Nhà
nho ẩn
X
dật
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nghệ
nhân dân
gian
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Nguyễn Thiếp
Nguyễn Hữu Chỉnh
Võ Huy Tấn
Ngô Thì Nhậm
Cao Huy Diệu
Trần Danh Án
Khuyết danh
Phạm Thái
Hồ Xuân Hương
PL93
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông
Trí
thức
Đạo
đức
111 Mảnh tình
112 Đánh trống qua cửa nhà sấm
113 Chiêu Bảy và cô Cúc
114 Câu thơ bỏ lửng
115 Chết vì bài thơ
116 Câu thơ hoàng bào
117 Ông cống làm trâu
118 Cho Thị Đào đi lấy chồng
119 Chê khéo
120 Hạc đeo bài ngài
121 Lời thơ khảng khái
122 Thuyền quyên ứ hự
123 Hỏi anh
124 Làm thơ khất nợ
X
X
X
X
X
X
X
X
KIỂU NHÂN VẬT
Nhà
nho tài
tử
X
X
X
X
Nhà
nho ẩn
dật
X
X
Nghệ
nhân dân
gian
Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương
Nguyễn Du
Nguyễn Du
Nguyễn Văn Thành
Lê Văn Duyệt
Bà huyện Thanh Quan
Bà huyện Thanh Quan
Bà huyện Thanh Quan
Đỗ Cao Mại
Tổng Trắm
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Được tha phạt vì câu thơ hóm
hỉnh
125
126 Khinh thường quan võ
127 Anh hùng đè xuống dưới
128 Say rượu đánh long thần
129 Đối chọi với sư
130 Thơ trách nữ thần
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
PL94
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông
Trí
thức
Đạo
đức
X
131 Không ưa nịnh bề trên
132 Thơ tương tư
133 Thơ vịnh người đá
X
134 Con mèo nằm bếp ỉa đầy nồi rang X
X
135 Đả lối văn sáo rỗng
X
136 Văn hay chữ xấu
X
137 Quen viết văn bằng giấy bút tốt
X
KIỂU NHÂN VẬT
Nhà
nho tài
tử
X
Nhà
nho ẩn
dật
X
Nghệ
nhân dân
gian
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Văn Siêu
Nguyễn Văn Siêu
138 Cao Bá Quát và Nguyễn Văn Siêu X
Nguyễn Văn Siêu - Cao
Bá Quát
139 Siêu đất siêu đồng
140 Thầy lý bớt đi rồi
141 Ở truồng xem vua
142 Khí phách ngang tàng
143 Một bọc sinh đôi
144 Khóc mướn kiếm ăn
145 Bịa thơ tài hơn vua
146 Tứ nhi
147 Tự tiễn chữa văn của vua
148 Trên dưới đều chó
149 Một câu đối hai hoàn cảnh
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nguyễn Văn Siêu - Cao
Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
PL95
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông
Trí
thức
Đạo
đức
150 Bài thơ không họa nổi
151 Thơ tạ hương đảng
152 Bị ngồi trăng
153 Anh hùng có một ngươi
154 Thơ trả lời người bạn giàu
155 Một lũ ăn mày, một lũ quan
156 Câu đối khóc chồng chung
157 Phó cối đề thơ
158 Gà câu đối cho trò
159 Thơ mừng bạn đẻ con trai
160 Nằm cùng thì cho
161 Bò đen bò vàng
162 Thơ con mèo
163 Đái vẽ nên rồng
164 Thơ ăn thịt cần đước
165 Bức tranh sơn thủy kỳ lạ
166 Câu đối kén chồng
167 Quan án giỏi thơ
168 Thơ răng cắn lưỡi
169 Phúc đức gì mày bố đĩ Giai
170 Hé gương
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
KIỂU NHÂN VẬT
Nhà
nho tài
tử
Nhà
nho ẩn
dật
X
X
X
X
X
Nghệ
nhân dân
gian
X
Huuỳnh Mẫn Đạt
Học Lạc
Học Lạc
Tú Quỳ
Nhiêu Tâm
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Đinh Nhật Thận
Nguyễn Xuân Ôn
Phan Văn Trị
Phan Văn Trị
Phan Văn Trị
Phạm Văn Nghị
Văn Quế
Khuyết danh
Nguyễn Đăng Hành
Nguyễn Đăng Giai
Khuyết danh
PL96
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông
Trí
thức
Đạo
đức
171 Họ vắt
172 Vả bây giờ
173 Cô Kiều cười
174 Gái Nội Duệ Cầu Lim
175 Biết rùa mô meo mà tìm
176 Tên cha thằng bày
177 Đề thơ mừng lễ thọ
178 Ghẹo sư
179 Cọp bắt thầy tu
180 Bài phú tức cảnh cô gái đẹp
181 Giễu lênh cấm quần không đáy
182 Cái khố với hai đồng tiền
183 Chiến đấu đến cùng
184 Bài cu trù khích lệ anh hùng
185 Thơ chửi tay sai của Pháp
186 Đùa nhà sư móm
187 Thơ bồ tiên
188 Tạ người cho hoa trà
189 Đòi xem câu đối
190 Gặp chó
191 Vịnh phỗng đá
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
KIỂU NHÂN VẬT
Nhà
nho tài
tử
X
Nhà
nho ẩn
dật
X
X
X
X
X
X
Nghệ
nhân dân
X
gian
X
X
X
X
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Hoàng Phan Thái
Hoàng Phan Thái
Hoàng Phan Thái
Hoàng Phan Thái
Phan Văn Ái
Lê Ngô Cát
Phan Đình Phùng
Cô đào Nhu
Cô đào Nhu
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
PL97
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông
Trí
thức
Đạo
đức
192 Thơ ông phỗng sành
193 Cho chữ thờ
194 Thơ thăm bạn mất cướp
195 Chi chi giã
196 Lo trước thiên hạ
197 Khóc anh thợ tèn
198 Vợ người hàng thịt khóc chồng
199 Trưởng chợ mừng nhà mới
200 Áo địa ván thiên
201 Kỷ niệm vô giá
202 Vợ thợ nhuộm khóc chồng
203 Quan chẳng quan thì dân
204 Giàu có sang không
205 Một phút hóa trăm năm
206 Văn tế Ri-vi-e
207 Bài thơ chữa lại
208
Chim bách thanh
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
KIỂU NHÂN VẬT
Nhà
nho tài
tử
Nhà
nho ẩn
dật
X
X
X
Nghệ
nhân dân
gian
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến - bạn thơ
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Khuyết danh
Chu Mạnh Trinh
Tú Xương
Làm câu đối cho bà buôn gạo
khóc chồng
209
210 Làm hộ bức trướng phúng bạn
211 Nên nghĩa trăm năm
X
X
X
Tú Xương
Tú Xương
Nguyễn Hữu Khanh
PL98
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông
Trí
thức
Đạo
đức
212 Đã cho vào bực bố
213 Giận lây cả Sĩ Vương
214 Tang chở chốn quan trường
215 Đục chân vào đá
216 Thi câu đối
217 Thơ vịnh Kiều
218 Một lối dịch thơ kỳ lạ
219 Thơ khen tri phủ tài nịnh
220 Ghẹo một trả lời hai
221 Thơ điên cuồng ngu ngộ
222 Thơ chửi tri huyện
223 Câu đối vịnh gông cùm
224 Mặc thằng nghe
225 Dịch thơ xỏ bạn
226 Thơ vịnh vườn bách thú
227 Quý nhất đầm
228 Cháu góa mừng cô góa
229 Thơ vịnh Hiệp Phật
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
KIỂU NHÂN VẬT
Nhà
nho tài
X
tử
X
Nhà
nho ẩn
dật
X
X
X
X
X
Nghệ
nhân dân
gian
Nguyễn Hữu Khanh
Nguyễn Mộng Bạch
Dương Khuê
Từ Đạm
Từ Đạm
Từ Đạm
Từ Diễn Hồng
Nguyễn Thiện Kế
Sương Nguyệt Anh
Xiển Ngộ
Kép Trà
Kép Trà
Trần Tích Phiên
Trần Tích Phiên
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Câu đối chữ Hán đọc theo vần
230
quốc ngữ
231 Đào Mộng Giác
X
X
Bừi Bằng Đoàn
Phan Chu Trinh
PL99
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông
Trí
thức
Đạo
đức
232 Câu hát quốc sự
X
233 Da báo như da chó dê
X
234 Chặt đầu Tây
X
235 Bài thơ ghi vào đá
X
236 Thơ hỏi sư
X
237 Quan đốc có số đào hoa
X
238 Thơ tặng người cùng cảnh
239 Một cũng đủ rồi
240 Nghe thơ đoán người
X
241 Thuyền quyên với anh hùng
X
242 Áo bào hốt bạc
X
243 Thơ mừng mụ đồ
X
244 Tấn sĩ là cái gì
X
245 Giống Khổng Mạnh
X
246 Ngỏ ý bằng thơ
247 Long Biên ái hoa hội
248 Thơ vịnh văn miếu
X
249 Rau sắng chùa Hương
250 Lên bà không khó
X
251 Người tình nhân không quen biết X
X
252 Thơ khóc thầm
KIỂU NHÂN VẬT
Nhà
nho tài
tử
X
X
X
X
X
X
Nhà
nho ẩn
X
dật
X
X
X
X
X
X
X
Nghệ
nhân dân
gian
Khuyết danh
Vũ Hữu Lợi
Thành Thái
Nguyễn Thượng Hiền
Nguyễn Thượng Hiền
Đặng Nguyên Cẩn
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phạm Văn Ngôn
Phạm Văn Ngôn
Phạm Văn Thản
Huuỳnh Thúc Kháng
Trần Cao Vân
Trần Cao Vân - vua Duy Tân
Khuyết danh
Khuyết danh
Tản Đà
Tản Đà
Tản Đà
Tản Đà
PL100
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông
Trí
thức
Đạo
đức
253 Bài thơ năm cụ
254 Sông Hương núi Ngự
X
KIỂU NHÂN VẬT
Nhà
nho tài
tử
X
Nhà
nho ẩn
dật
X
Nghệ
nhân dân
gian
Nguyễn Trọng Cần
Thúc Giạ Thị - Nguyễn Khoa Vi
Công trình Giai thoại văn học Việt Nam của Kiều Thu Hoạch:
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông
Đạo đức
Trí
thức
Nhà
nho tài
tử
Nhà
nho ẩn
dật
Nghệ
nhân
dân
gian
Trăng là cung, đạn là sao
1
Tay lái đò hay chữ
2 Bị trói vẫn làm thơ
3
Tay cầm nửa vầng trăng
4
Trạng nguyên về học lễ
5 Đối hay được thưởng dùi sách
6 Bịa thơ hại sư
7 Hoa sen trong giếng ngọc
8 Ra đối dễ, đối đối khó
9
10 Chơi chữ
11 Lưỡng quốc trạng nguyên
12 Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào
13 Chim chếch - ếch ngộp
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Đỗ Thận
Lý Công Uẩn
Ỷ Lan
Nguyễn Hiền
Lê Văn Hưu
Huyền Quang
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
PL101
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
14 Bốn chữ nhất
15 Cười ông quan hai vợ
16 Chỉ có hai người
17 Ruột vuông
18 Cứu ai
19 Ngự sử miệng còn hôi sữa
20 Đọc thơ chê Hạng Vũ
21 Chữa thơ Vương Bột
22 Gửi trứng cho ác
23 Thơ của người nghĩa sĩ
24 Lòng ta không phải đá
25 Câu thơ kỳ lạ
26 Ra câu đối dò xét con
27 Thơ ghen vần tình
28 Thơ đùa ả bán chiếu
29 To đầu mà dại
30 Bảy mươi mười bảy đang vừa
31 Chữ mã ba chấm
32 Câu thơ nên nghĩa
33 Câu đối nhà hàng nước
34 Hồn bướm mơ tiên
Trí
thức
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nhà
nho ẩn
dật
nho tài
tử
X
X
X
X
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
X
X
X
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi
Đoàn Nhữ Hài
Hồ Tông Thốc
Hồ Tông Thốc
Trần Nguyên Đán
Nguyễn Biểu
Lê Hiến Phủ
Hồ Quý Ly
Hồ Quý Ly
Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi
Trịnh Khiết Tường
Trịnh Khiết Tường
Trịnh Khiết Tường
Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông
PL102
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
X
Nhà
nho ẩn
dật
nho tài
tử
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
35 Câu đối nhà thợ nhuộm
36 Câu đối người hốt phân
37 Anh lính với hội Tao Đàn
38 Ba ông tam thế
39 Sư sử sứ, phụ phù phu
40 Thánh quân minh đế
41 Ông Trạng thả diều
42 Khiêng võng quan huyện
43 Cậu bé học lỏm
44 Câu thơ học từ dân dã
45 Văn tức là người
46 Trạng me đè trạng ngọt
47 Câu đối đêm động phòng
48 Ăn hai đấu học thâu canh
49 Thơ nằm co
50 Ngâm thơ cự thần
51 Tựa ngai vàng
52 Thơ bèo
53 Một bảng nháp đỗ ba tiến sĩ
54 Bảng, trạng tranh nhau
55 Ăn khỏe thơ tài
Trí
thức
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông
Nguyễn Toàn An
Lê Thánh Tông
Lương Thế Vinh
Lương Thế Vinh
Lương Thế Vinh
Lương Thế Vinh
Kiều Phú
Nguyễn Văn Nghi
Nguyễn Giản Thanh
Nguyễn Giản Thanh
Hứa Tam Tỉnh
Lê Nại
Vũ Duệ
Nguyễn Thái Thường
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Giáp Hải
Ngô Trí Tri
Phạm Trấn - Đỗ Uông
Lương Hữu Khánh
PL103
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
56 Thơ vịnh trai
57 Úc úc đô đô
58 Câu đối của người hầu trà
59 Quan tài tài quan
60 Rêu xanh máu đỏ
61 Ta chẳng chịu phong
62 Bây giờ em đã có chồng
63 Bài thơ khuyên chúa Sãi
64 Suýt toi mạng vì bài hát
65 Phú ông tỏi hỏi làm chi
66 Ếch ngồi đáy giếng
67 Phong nguyệt vô biên
68 Trả sách không mua
69 Làm bài hát kiếm rượu thịt
70 Đại đăng khoa, tiểu đăng khoa
71 Làm thơ vặn lại thần
72 Vế đối tài hoa
73 Đề thì lừa sĩ tử
74 Đi hán đi hài mỏi chân
75 Nức tiếng thầy
76 Học trò đi chăn trâu
Trí
thức
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nhà
nho ẩn
dật
X
nho tài
tử
X
X
X
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
X
X
X
X
Phùng Khắc Khoan
Phùng Khắc Khoan
Khuyết danh
Vũ Thoát Dĩnh
Giang Văn Minh
Đào Duy Từ
Đào Duy Từ
Đào Duy Từ
Đào Tá Hán
Nguyễn Công Đăng
Nguyễn Đăng Cảo
Nguyễn Đăng Cảo
Nguyễn Đăng Cảo
Nguyễn Đăng Cảo
Nguyễn Đăng Đạo
Nguyễn Đăng Đạo
Nguyễn Đăng Đạo
Nguyễn Lại
Hồ Sĩ Dương
Nguyễn Quốc Trinh
Nguyễn Quý Đức
PL104
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
77 Thi vịnh cảnh chùa Trấn Quốc
78 Nối thơ đời Hồng Đức
79 Bét thơ phải đi sứ
Trí
thức
X
X
X
Nhà
nho ẩn
dật
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
nho tài
tử
Nguyễn Quý Đức
Nguyễn Quý Đức
Nguyễn Tông Khuê
X
80
Rắn trắng rồng vàng
X
Đoàn Thị Điểm - Đoàn Doãn
Luân
81
Hai cô Điểm, hai ông Luân
82 Không ham phú quý
83 Vế đối hai nghĩa
84 Cô hàng nước hay chữ
X
X
X
X
X
Đoàn Thị Điểm - Đoàn Doãn
Luân
Đoàn Thị Điểm
Đoàn Thị Điểm
Đoàn Thị Điểm
85
Trẻ con mới học biết gì
86 Văn rỗng như bụng trống
87 Lủm cả quá trứng
88 Bài phú qua đò thành văn
89 Quả hồng buồng cau
90 Quan chủ khảo nhận dốt
91 Nhờ có râu mà thoát đòn
92 Này hi hi
93 Ba sông bốn mắt
94 Bài thơ tự trách mình
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Đoàn Thị Điểm - Đặng Trần Côn
Vũ Công Tuệ
Hà Tông Huân
Nguyễn Bá Lân
Nguyễn Bá Lân
Nguyễn Bá Lân
Trần Văn Trứ
Trần Văn Trứ
Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn
PL105
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
95 Thư mượn áo cầu
96 Chép lại văn tự cháy
97 Cái cò lặn lội bờ sông
98 Mượn chuyện cổ chửi hoạn quan
99 Câu đố chữ nhất
100 Cái vạ văn chương
101 Thơ nắn nhị đào
102 Ông hoàng giáp chịu tài người ăn xin
103 Mó mít nhựa ra tay
104 Chúa tôi xướng họa
105 Cốt đối ý
106 Đánh nhau bằng cả câu đối
107 Chim trong lồng
108 Miêng kẻ sang, đồ nhà khó
109 Chó khôn chớ cắn càn
110 Tú Cát - Bọ hung
111 Thơ tạ thành hoàng
112 Da trắng vỗ bì bạch
113 Dòm nhà bảng nhãn
114 Thơ tức cảnh mót lúa
115 Bài văn hai nghĩa
Trí
thức
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nhà
nho ẩn
dật
X
X
X
nho tài
tử
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
X
Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn
Ngô Thì Sĩ
Phạm Nguyễn Du
Phạm Nguyễn Du
Đặng Thị Huệ
Nguyễn Khản
Nguyễn Hữu Cầu
Nguyễn Hữu Cầu
Nguyễn Hữu Cầu
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
PL106
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
116 Thừa giấy vẽ voi
117 Tráo thơ giáo thụ
118 Một thí sinh bướng bỉnh
119 Bí quá hóa hay
120 Câu đối nghịch ngợm
121 Thơ hay xiêu lòng tiểu thơ
122 Câu đối trên văn hồ
123 Chày cháy trôi sông
124 Luật hoa
125 Tiến sĩ triều Lê khăn triều Nguyễn
126 Vế đối từ quan
127 Bài thơ leo đèo
128 Thơ vịnh pháo
129 Bài thơ đem lại quốc thể
130 Chết vì câu đối
131 Bia nghè lại dựng trên tòa muôn gian
132 Vịnh tranh tố nữ
133 Gà câu đối cho chàng rể
134 Đọc thơ chữa thẹn
135 Mảnh tình xẻ đôi
136 Ấy ái uông
Trí
thức
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nhà
nho ẩn
dật
nho tài
tử
X
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
X
X
X
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Nguyền Hòe
Nguyền Hòe
Nguyền Hòe
Vương Toán
Phủ Hào
Trần Danh Án
Trần Danh Án
Trần Danh Án
Nguyễn Huy Oánh
Nguyễn Thiếp
Nguyễn Hữu Chỉnh
Võ Huy Tấn
Ngô Thì Nhậm
vua Quang Trung
Phạm Thái
Nguyễn Huy Lượng
Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương
PL107
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
137 Đánh trống qua cửa nhà sấm
138 Ham tìm chỗ ấy
139 Cặc bần ghe phú
140 Cuộc đấu thơ nghịch ngợm
141 Chiêu Bảy và cô Cúc
142 Câu thơ bỏ lửng
143 Chết vì bài thơ
144 Câu thơ hoàng bào
145 Ông cống làm trâu
146 Cho Thị Đào đi lấy chồng
147 Chê khéo
148 Lời thơ khảng khái
149 Thơ kết án con hạc
150 Thơ kết án con vịt
151 Thuyền quyên ứ hự
152 Hỏi anh
153 Làm thơ khất nợ
154 Được tha phạt vì câu thơ hóm hỉnh
155 Khinh thường quan võ
156 Anh hùng đè xuống dưới
157 Thơ tạ long thần
Trí
thức
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nhà
nho ẩn
dật
nho tài
tử
X
X
X
X
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
X
X
X
Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương - Chiêu Hổ
Nguyễn Du
Nguyễn Du
Nguyễn Văn Thành
Lê Văn Duyệt
Bà huyện Thanh Quan
Bà huyện Thanh Quan
Bà huyện Thanh Quan
Tổng Trắm
Đỗ Cao Mại
Đỗ Cao Mại
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
PL108
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
158 Đối chọi với sư
159 Thơ trách nữ thần
160 Thơ tương tư
161 Con mèo nằm bếp ỉa đầy nồi rang
162 Đả lối văn sáo rỗng
163 Chiết tự chữ Đức
164 Thơ vịnh cây vông
165 Phá đền thì lại làm đền
166 Thơ vần om
167 Cót két, thẩn thơ
168 Quen viết văn bằng giấy bút tốt
Trí
thức
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nhà
nho ẩn
dật
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
X
nho tài
tử
X
X
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
Bù Tú Ý
Nguyễn Văn Siêu
Nguyễn Văn Siêu
169
Siêu đất siêu đồng
170 Thầy lý bớt đi rồi
171 Ở truồng xem vua
172 Khí phách ngang tàng
173 Một bọc sinh đôi
174 Khóc mướn kiếm ăn
175 Bịa thơ tài hơn vua
176 Tự tiễn chữa văn của vua
177 Trên dưới đều chó
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nguyễn Văn Siêu - Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
PL109
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
178 Một câu đối hai hoàn cảnh
179 Không biết chữ chi
180 Một thầy một cô một chó cái
181 Cụ đốc học hóm hỉnh
182 Bức tranh thơ
183 Nghe thơ xấu hổ
184 Đối đáp chốn quan trường
185 Thơ tạ hương đảng
186 Thơ trả lời người bạn giàu
187 Thơ cục cứt trôi sông
188 Thơ vịnh đèn kéo quân
189 Câu đối khóc chồng chung
190 Phó cối đề thơ
191 Gà câu đối cho trò
192 Thơ mừng bạn đẻ con trai
193 Thơ của người mần đơn
194 Thơ vịnh cái điếu
195 Nằm cùng thì cho
196 Bò đen bò vàng
197 Đầy tớ làm gia sư
198 Nam nhi cốt ở tài
Trí
thức
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nhà
nho ẩn
dật
X
nho tài
tử
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
X
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Cao Bá Quát
Lê Quýnh
Phạm Văn Nghị
Huuỳnh Mẫn Đạt
Cao Huy Diệu
Học Lạc
Nhiêu Tâm
Nhiêu Tâm
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Nguyễn Quý Tân
Đinh Nhật Thận
Nguyễn Xuân Ôn
Nguyễn Xuân Ôn
Nguyễn Xuân Ôn
PL110
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
199 Trườn sang, lên đường
200 Câu đối đền Thia Thia
201 Trọng khoa hơn hoạn
202 Tang trở chốn quan trường
203 Bài mắng Sở Khanh
204 Đã cho vào bực bố
205 Hoa xưa ong cũ
206 Thi câu đối
207 Thơ vịnh Kiều
208 Đục chân vào đá
209 Một lối dịch thơ kỳ lạ
210 Mặc thằng nghe
211 Dịch thơ đùa tếu
212 Thơ khen tri phủ tài nịnh
213 Thơ tống tiền
214 Thơ điên cuồng ngu ngộ
215 Đít thớt đầu chày
216 Tổng đốc cay mũi
217 Ba quan bốn chó
218 Vào huyện đường họa thơ
219 Thơ chửi tri huyện
Trí
thức
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nhà
nho ẩn
dật
nho tài
tử
X
X
X
X
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
Nguyễn Xuân Ôn
Nguyễn Xuân Ôn
Hà Duy Phiên
Dương Khuê
Nguyễn Hữu Khanh
Nguyễn Hữu Khanh
Nguyễn Hữu Khanh
Từ Đạm
Từ Đạm
Từ Đạm
Từ Diễn Hồng
Trần Tích Phiên
Trần Tích Phiên
Nguyễn Thiện Kế
Nguyễn Thiện Kế
Xiển Ngộ
Xiển Ngộ
Xiển Ngộ
Xiển Ngộ
Xiển Ngộ
Kép Trà
PL111
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
220 Câu đối vịnh gông cùm
221 Thơ mừng đám cưới
222 Thơ ghi kỷ niệm cụ Tiên Điền
223 Đề thơ mừng lễ thọ
224 Cọp bắt thầy tu
225 Bài phú tức cảnh cô gái đẹp
226 Giễu lệnh cấm quần không đáy
227 Thơ vịnh váy
228 Vạ miệng
229 Ăn trộm chữ
230 Câu hát đồng quê thành câu đối
231 Trâu bò trê lóc
232 Thơ từ biệt cố nhân
233 Họa liền một lúc hai bài thơ
234 Câu đối thành câu sấm
235 Chín nghìn bạn
236 Thơ tập cổ
237 Thơ nói lái
238 Thơ vịnh muỗi
239 Bài vè của vua
240 Thơ phong hoa tuyết nguyệt
Trí
thức
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nhà
nho ẩn
dật
nho tài
tử
X
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
X
X
Kép Trà
Kép Trà
Kép Trà
Hoàng Phan Thái
Hoàng Phan Thái
Hoàng Phan Thái
Phan Văn Ái
Trịnh Phức
Đỗ Huy Uyển
Đỗ Huy Uyển
Đỗ Huy Uyển
Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu
Sương Nguyệt Anh
Vũ Duy Thanh
Vũ Duy Thanh
Vũ Duy Thanh
Tự Đức
Tự Đức
Tự Đức
Tự Đức
PL112
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
Trí
thức
241 Thơ răng cắn lưỡi
X
242 Giận lây cả Sĩ Vương
X
243 Cái khố với hai đồng tiền
X
244 Họa thơ tỏ ý chí quyết chiến
X
245 Hai cẳng đối một đầu
X
246 Chó tuốt
X
247 Thơ ăn thịt cần đước
X
248 Thơ con mèo
X
249 Chỉ vì một chữ hòa
X
250 Câu đối chữ Hán đọc theo vần quốc ngữ X
251 Thơ phú của Đào Mộng Giác
X
252 Da báo như da chó dê
X
253 Bài ca trù khích lệ anh hùng
254 Thơ chửi tay sai của Pháp
255 Đùa nhà sư móm
256 Thơ bồ tiên
X
257 Tạ người cho hoa trà
X
258 Đòi xem câu đối
X
259 Gặp chó
X
260 Vịnh phỗng đá
X
261 Thơ ông phỗng sành
X
X
X
X
X
Nhà
nho ẩn
dật
nho tài
tử
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
X
X
X
X
X
X
Nguyễn Đăng Hành
Nguyễn Mộng Bạch
Lê Ngô Cát
Phan Đình Phùng
Ông Ích Khiêm
Ông Ích Khiêm
Phan Văn Trị
Phan Văn Trị
Vũ Duy Tuân
Bùi Bằng Đoàn
Phan Chu Trinh
Vũ Hữu Lợi
Cô đào Nhu
Cô đào Nhu
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
PL113
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
262 Tao có nói đâu
263 Cho chữ thờ
264 Thơ thăm bạn mất cướp
265 Chi chi giã
266 Lo trước thiên hạ
267 Câu đối khóc anh thợ rèn
268 Vợ người hàng thịt khóc chồng
269 Trưởng chợ mừng nhà mới
270 Áo địa ván thiên
271 Kỷ niệm vô giá
272 Vợ thợ nhuộm khóc chồng
273 Quan chẳng quan thì dân
274 Giàu có sang không
275 Một phút hóa trăm năm
276 Ối quan liêm
277 Chày đứng
278 Người đẹp thần thiêng
279 Thơ không chồng bông lông
280 Thơ loan mó nhạn
281 Chi chòm chí chóp
282 Nước lấy dân làm gốc
Trí
thức
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nhà
nho ẩn
dật
nho tài
tử
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
X
X
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Chu Mạnh Trinh
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến
Nguyễn Danh Tiên
PL114
Stt
Nhân vật
Tên truyện
Ngông Nhà
Trí
thức
283 Thơ bỡn con gái cụ Lý
X
284 Một đạo hai đường
X
285 Đọc thơ chịu tội
X
286 Tiến sĩ dễ, cứ nhân gay
X
287 Vừa đánh cờ vừa làm thơ
X
288 Như ngọc là như ngọc hành
X
289 Kỳ nhân như ngọc
290 Chím bách thanh
X
291 Làm câu đối cho bà buôn gạo khóc chồng X
292 Chén tống chén quân
X
293 Thơ đề ảnh
X
294 Một vạch ngang lưng
X
295 Xu thời xu thế cũng là xu
X
296 Học tài thi phận
X
297 Đối hay biện luận giỏi
X
298 Bài thơ để lộ ky
X
299 Đưá trẻ kỳ lạ
X
300 Thơ vịnh Hàm Rồng
X
301 Vế đối còn bỏ ngỏ
X
302 Dịch văn chửi tri huyện
X
303 Bài phú mười roi mười lạng
X
X
X
X
X
X
Nhà
nho ẩn
dật
X
nho tài
tử
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
X
X
Huỳnh Quỳ
Trần Bích San
Lê Trung Đình
Trần Quý Cáp
Vũ Phạm Hàm
Vũ Phạm Hàm
Khuyết danh
Tú Xương
Tú Xương
Tú Xương
Tú Xương
Tú Xương
Tú Xương
Tú Xương
Kỳ Đồng
Kỳ Đồng
Kỳ Đồng
Cao Ngọc Anh
Bà Ba Cai Vàng
Nguyễn Văn Bật
Lê Ninh
PL115
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
304 Hai câu thơ điệp âm
305 Thầy trò đối chọi thơ phú
306 Hỏng thi còn được tặng thơ
307 Thơ Kiều phê án
308 Thơ hỏi sư
309 Quan đốc có số đào hoa
310 Thơ tặng người cùng cảnh
311 Một cũng đủ rồi
312 Nghe thơ đoán người
313 Hai nhà thơ lớn gặp nhau
314 Nam Đàn tứ hổ là đây
315 Trời xanh còn hãm anh hùng
316 Chị em cất gánh sơn hà
317 Làm thơ dựa ý vào ca dao
318 Mặc ai khanh tướng công hầu
319 Câu hát đoán tên
320 Thơ Kiều gửi gắm tâm sự
321 Nhuyễn Kiều
322 Thuyền quyên với anh hùng
323 Áo bào hốt bạc
324 Thơ mừng mụ đồ
Trí
thức
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nhà
nho ẩn
dật
nho tài
tử
X
X
X
X
X
X
X
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
X
X
X
vua Đồng khánh
Trần Quang Cán
Lê Sĩ Nghị
Vua Thành Thái
Nguyễn Thượng Hiền
Đặng Nguyên Cẩn
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phạm Văn Ngôn
Phạm Văn Ngôn
Phạm Văn Thản
PL116
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
325 Tấn sĩ là cái gì
326 Giống Khổng Mạnh
327 Ngỏ ý bằng thơ
328 Chặt đầu Tây
329 Rau sắng chùa Hương
330 Lên bà khó lắm em ơi
331 Người tình nhân không quen biết
332 Thơ khóc thầm
333 Bài thơ năm cụ
334 Bài thơ gỡ thể diện
335 Câu hò hai bảy mười một
336 Cây không trái, gái không chồng
337 Giá quan giáo thụ bằng hai cân lợn
338 Thơ chửi chó
339 Ông thừa cái chi
340 Thơ cua chơi trăng
341 Ngó da hùm
342 Câu đối kén chồng
343 Thơ tập Kiều gỡ bí
344 Tấm vóc giá một chinh
345 Thơ nịnh sư
Trí
thức
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nhà
nho ẩn
dật
nho tài
tử
X
X
X
X
X
X
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
X
X
Huỳnh Thúc Kháng
Trần Cao Vân
Trần Cao Vân - vua Duy Tân
Vua Duy Tân
Tản Đà
Tản Đà
Tản Đà
Mai Lâm
Nguyễn Trọng Cần
Nguyễn Kinh
Nguyễn Kinh
Nguyễn Kinh
Ngô Tất Tố
Ngô Tất Tố
Phạm Văn Giai
Cả Triệu
Vương Tứ Đại - Nguyễn Bá Trác
Văn Quế
Tú Xuất
Tú Xuất
Tú Xuất
PL117
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
346 Câu văn ngỗ ngược
347 Thơ mắng muỗi
348 Bài thơ không được giải
349 Hoạ thơ tỏ chí hướng
350 Đu me Tây
351 Tinh sâu nghĩa đầy
352 Mạng phải cách
353 Cậu bé thầy dùi
354 Thi dịch thơ
355 Ông lão kéo xe góp chuyện văn chương
356 Tai mắt Tự lực văn đoàn
357 Người đẹp tri âm
358 Từ câu đối thành bài thơ
359 Thơ ăn mày gạo
360 Quan võ và quan thị
361 Đẹp vàng son, ngon mật mỡ
362 Nghé hầu non quan võ
363 Cô dâu gà chú rể
364 Dạy sai một chữ trừ một quan
365 Lấy thơ để chống chế
366 Dâu thử tài rể
Trí
thức
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nhà
nho ẩn
dật
X
X
X
X
X
X
X
X
nho tài
tử
X
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
X
Nguyễn Cảnh Lâm
Nguyễn Cảnh Lâm
Nguyễn Cảnh Lâm
Khóa Yển
Đỗ Bưởi
Nguyễn Ái Quốc
Nguyễn Ái Quốc
Nguyến Bính
Nguyến Bính
Nguyễn Công Hoan
Tự lực văn đoàn
Tú Mỡ
Anh Thơ
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
PL118
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
367 Quân tử cố cùng
368 Ông nghè đè ông cống
369 Thơ nhạo tri phủ
370 Chả kém gì Lý Bạch
371 Mượn dịp chửi quan
372 Mắng quan trường
373 Áo đỏ dù xanh
374 Cửa tướng nhà công
375 Thằng quan huyện
376 Trai sừng gái sỏ
377 Chữ thiên trồi đầu
378 Thợ vẽ đề thơ
379 Đề bức tranh tam giáo
380 Xuất xứ ở miệng tôi
381 Thơ bán than
382 Quan án giỏi thơ
383 Phúc đức gì mầy bố đĩ Giai
384 Hé gương
385 Họ vắt
386 Vả bây giờ
387 Cô Kiều cười
Trí
thức
X
X
Nhà
nho ẩn
X
dật
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
nho tài
tử
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
X
X
X
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Nguyễn Đăng Giai
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
PL119
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
388 Hương thừa thoang thoảng
389 Bảy con khỉ
390 Âu yếm vòng ngoài
391 Cành kia cội này
392 Gái Nội Duệ Cầu Lim
393 Biết rùa mô meo mà tìm
394 Tên cha thằng bày
395 Văn tế Ngạc Nhe
396 Thơ vịnh vườn bách thú
397 Quý nhất đầm
398 Thơ thi vịnh Hiệp Phật
399 Câu hát quốc sự
400 Long Biên ái hoa hội
401 Thơ vịnh văn miếu
402 Đại lai tiểu vãng
403 Đại điểm quần thần
404 Chết cha dân
405 Câu đối đọc lái
406 Ước con ngu dốt làm quan
407 Ba vợ chồng đều hay thơ
408 Thơ gạ gẫm
Nhà
nho ẩn
dật
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
nho tài
tử
Đạo đức Nghệ
nhân
X
dân
X
gian
X
X
X
X
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Trí
thức
PL120
Stt
Nhân vật
Tên truyện
Ngông Nhà
409 Thơ vịnh cảnh bình than
410 Ai ve con mụ
411 Câu đối hát giặm
412 Quý vật tặng quý nhân
413 Câu đối cô hàng hương
414 Học thì dốt, việc thì bỏ
415 Naăm canh chỉ sợ gà
416 Chánh tổng thâu đào
417 Nhà muôn cuốn sách
418 Đầu cha quan lớn
419 Câu thơ khó hiểu
420 Vạn lý trường thành
421 Thiên lý nhân lương
422 Mẫu phối Mạnh Đức
423 Miêệng ông quan huyện Thạch Hà
424 Mạc bất hà như
425 Đồ nọ tưởng đồ kia thắc mắc
426 Tớ bán cho ai cái khố rách này
427 Phê đơn li dị
428 Thơ thẩn làm chi
429 Nghé non là vật vô tri
Trí
thức
Nhà
nho ẩn
X
dật
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
nho tài
tử
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
PL121
Stt
Tên truyện
Nhân vật
Ngông Nhà
Trí
thức
Nhà
nho ẩn
X
dật
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
nho tài
tử
Đạo đức Nghệ
nhân
dân
gian
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Hồ Xuân Hương
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
430 Câu hát có hậu
431 Thơ thăm vợ
432 Thơ nói mát
433 Mượn vai hề chửi đổng
434 Dịch thơ chửi Tứ tham
435 Nhà cổ nguyệt
436 Thơ con cóc
437 Thơ vịnh Quan Công
438 Thơ khuyên nhủ của thầy đồ
439 Thơ con có lặn lội bờ sông
440 Bài tán chuồn chuồn
441 Văn luận giải cái rắm
442 Thơ của cô hàng nem
PL122
Công trình Giai thoại folklore của Vũ Ngọc Khánh:
Stt
Tên truyện
Nhân vật
ngông
đạo
đức
nhà
nho tài
tử
nhà
nho ẩn
dật
nghệ
nhân
dân gian
trí
thức
nổi
tiếng
X
Bà Triệu
X
Hồ Quý Ly
1 Lệnh ông không bằng cồng bà
2 Giết con mà lấy uy lòng
3 Câu hát ấy của ai
4 Cắt cỏ bồ đề cho ngựa của ai
5 Phải là con mẹ con cha
6 Chơi với kẻ sốm không ốm cũng què
7 Bảy làng gà, ba làng hóp
8 Ngưởi Nghệ An, gan Thạch Hà
9 Đánh giặc họ Đinh, làm quan họ Đặng
10 Tể tướng vạn hà thiên hạ âu ca
X
X
X
X
X
X
X
X
Khuyết danh
Võ Uy
Lê Thánh Tông
Lê Lợi
Vũ Đình Cung
Nguyễn Hữu Cầu
Đinh Văn Tả
Nguyễn Quán Nho
Thiếu Kim Văn đỗ tiến sĩ, mất sáu tiền được
bà Nghè
11
12 Bùng bình chi tướng, uýnh ướng chi quan
13 Mừng xuân có pháo có nêu
14 Quan hộ được tha, quan gia vạn tuế
15 Một nhà sinh được ba vua
16 Nực cười hai bảy mười ba
17 Trường An tứ hổ
X
X
X
X
X
Nguyễn Bá Dương
ông Chảng
Trần Tử Ca
Đề đốc Hộ thành
các vua nhà Nguyễn
Sô – nhi
Vũ Diễm, Nguyễn Bá Lân
X
X
PL123
Stt
Tên truyện
Nhân vật
ngông
đạo
đức
nhà
nho tài
tử
nhà
nho ẩn
dật
X
nghệ
nhân
dân gian
18 Nam Đàn tứ hổ
Phan Bội Châu,
Nguyễn Đính Sang,…
trí
thức
nổi
tiếng
19 Quảng Nam tứ hổ
20 Nói khoác tận cung vua
21 Tại sao hội thi nói khoác làng Đông An bị vỡ
22 Ai nói khoác
23 Da trắng
24 Nói khoác lừa quan
25 Thua kiện quay ra được kiện
26 Khoai nhà em dẻo lắm
27 Đĩa lưỡi chuột
28 Bạn học của quan
29 Những câu hát gỡ bí
30 Vẫn những câu hát gỡ bí
31 Những câu hát hóc
32 Cau khô và cau nàng
33 Chùm hum cúi xuồng
34 Anh con đối tiền
35 Đát đặng thì đan
X
Phan Chu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng, Trần
Quý Cáp,…
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
PL124
Stt
Tên truyện
Nhân vật
ngông
đạo
đức
trí
thức
nổi
tiếng
36 Ba vạn chín nghìn
37 Máu
38 Vải lộp ô nàng lấy ở đâu ra?
39 Câu hát Dùi Chiêng
40 Tình tui với mụ
41 Mặn và ngọt
42 Đít Lý Râu, đầu Áng Cộng
43 Ba đấm như một đạp
44 Trán khỉ mặt rồng
45 Đánh quan quan đánh
46 Tiếng Pháp vào dân ca đối đáp
47 Chia gà trong cỗ tết
48 Căng buồm mời rượu, gánh gạo lội sông
49 Ai ve con mụ
50 Thi tài kết nghĩa
51 Con trâu là vật vô tri
52 Đi khắp được vợ
53 Câu đối hát giặm
54 Nét hóm hỉnh của cụ đốc Phù Quang
55 Đã chào thì tặng
56 Run như cầy
X
X
X
X
nhà
nho tài
tử
nhà
nho ẩn
dật
X
X
X
X
X
X
X
X
nghệ
nhân
X
dân gian
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
ông Tư
Khuyết danh
Khuyết danh
Ông Chắm
Tế Đặng - Thượng Đàn
Cô Son - vua Minh Mạng
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Lê Quý Đôn
Khuyết danh
Bế Văn Phùng
Khuyết danh
Út Quàng Hậu
Khuyết danh
Lê Quýnh
Khuyết danh
Khuyết danh
PL125
Stt
Tên truyện
Nhân vật
ngông
đạo
đức
trí
thức
nổi
tiếng
57 La Qua - Phước Chỉ
58 Tao kéo mày về
59 Hương và trăng sao
60 Thì muốn thì theo
61 Rất mực thanh cao
62 Dâng lệ Phương Hoa
63 Than lửa, bút nghiên
64 Có râu nên thoát tội
65 Ba công
66 Chánh tổng thâu đào
67 Ba đoạn tre, muôn quyển sách
68 Mẹ học trò, cha quan lớn
69 Trăng lộn đèn dài
70 Vạn lý trường thành
71 Thiên lý nhân lương
72 Mẫu phối Mạnh Đức
73 Sau trước, xuống lên
74 Thạch Hà - Kim Động
75 Gia đạo hưng
76 Tương hữu tương vô
77 Đại lai tiểu vãng
X
nhà
nho tài
tử
nhà
nho ẩn
X
dật
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
nghệ
nhân
dân gian
X
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Phương Hoa
Đoàn Hy
Trần Ngọc Dư
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Nguyễn Thân
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
PL126
Stt
Tên truyện
Nhân vật
ngông
đạo
đức
trí
thức
nổi
tiếng
78 Giai sĩ hiên
79 Mạt bất hà như
80 Kỳ nhân như ngọc
81 Thể quần thần
82 Những câu thơ chống thần
83 Mồ hôi thần
84 Đồ nọ tưởng đồ kia thêm thắc mắc
85 Câu chuyện cấm quần không đáy
86 Ông thừa
87 Thơ mừng đám cưới đặc biệt
88 Hỡi cụ hỡi nàng
89 Cụ chửa về
90 Đám rước quan
91 Phê đơn li dị
92 Xê ra để chị về cho sớm
93 Cu li và phi lu
94 Văn tế một viên tướng Pháp
95 Cô hàng nem cảnh cáo các nhà thơ
96 Thơ năm cụ
97 Ba ông bà đều là thi sĩ
98 Cái quý giá của chức câu đương
nhà
nho tài
tử
nhà
nho ẩn
X
dật
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
nghệ
nhân
dân gian
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
PL127
Stt
Tên truyện
Nhân vật
ngông
đạo
đức
trí
thức
nổi
tiếng
99 Ra ngõ gặp gái việc gì mà kiêng
100 Ngựa về đường Bưởi
101 Mũi tên bay từ bờ sông Lương
102 Ôm đầu đã đứt
103 Nam Nam lại có đứa nào cao hơn ta?
104 Bát canh lươn
105 Chính tôi phải chịu ơn quan bác
106 Phạm Công Trứ xử kiện
107 Bà mẹ Vạn Hà
108 Thế nào mới thực là vẻ vang
109 Cho con cái kết hôn với nhau
110 Chỉ tại nàng yêu cây mía
111 Người đào ao xử kiện
112 Lũ gian tham đâu, vào chỗ đứng
113 Một cách tìm hiểu và dạm vợ cho con
114 Xem cái rỗ kia kìa
115 Bọn kẻ trộm chúng tôi làm đấy
116 Dạ, tôi chỉ làm đến tể tướng thôi
117 Vua Quang Trung và nhân dân
118 Vụ án tổ tôm
119 Hỡi người mặt trắng râu xanh
X
X
X
X
X
nhà
nho tài
tử
nhà
nho ẩn
dật
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
nghệ
nhân
dân gian
X
Đào Sư Tích
Khuyết danh
Liễu Thăng
Liễu Thăng
Liễu Thăng
Bùi Cầm Hổ
Trần Dực
Phạm Công Trứ
Nguyễn Quán Nho
Nguyễn Khải
Khuyết danh
Ngọc Liệu
Nguyễn Văn Giai
Khuyết danh
Nguyễn Công Hoàn
Nguyễn Huy Lượng
Dương Chung Tú
Nguyễn Văn Giai
Vua Quang Trung
Đinh Nhật Thận
Khuyết danh
PL128
Stt
Tên truyện
Nhân vật
ngông
đạo
đức
trí
thức
nổi
tiếng
120 Mẹ tôi lấy vua thì tôi là con vua
121 Cây roi mây cuốn theo tấm lụa
122 Câu kê chẳng thấy, thấy đầm xòe
123 Tri huyện chiếu lệnh phạt đức ông
124 Người cuồng ở Bình Định
125 Cô Miên ngủ một mình
126 Bà Gồm và mười hai nong cơm
127 Phạt mười roi, thường mười lạng
128 Xử Tây
129 Con ta biết trung là hiếu rồi
130 Cô bán cơm gan góc
131 Đôi ta cùng nợ nước non
132 Đồ Nghệ xưng vua
133 Kỳ tài hầu
134 Bức tranh quả dưa
135 Gia đình đồng hồ
136 Bác thợ may trí thức
137 Thợ rèn vụ quang
138 Cậu Hai Hót
139 Nước ngoài khác, nước mình khác
140 Thắp hương cúng thầy để chữa văn thầy
X
X
nhà
nho tài
tử
nhà
nho ẩn
dật
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
nghệ
nhân
dân gian
X
X
X
X
X
X
X
Nguyễn Văn Tường
Trần Bích San
Khuyết danh
Phan Văn Ái
Khuyết danh
Bà Ba Cai Vàng
Bà Gồm
Khuyết danh
Lê Xuân Mai
Trần Chí Thiện
Khuyết danh
Cô Tám chợ Tràng
Đinh Văn Thụ
Tô Phú Vượng
Đào Thúc Kiên
Khuyết danh
Nguyễn Chí Lăm
Khuyết danh
Hai Hót
Bà Từ Dụ
Đào Tấn
PL129
Stt
Tên truyện
Nhân vật
ngông
đạo
đức
trí
thức
nổi
tiếng
nhà
nho tài
tử
nhà
nho ẩn
dật
141 Trên vua dưới là ai?
142 Người lạ kẻ quen
143 Tài ứng diễn của Hứa Văn
144 Đã nóng lên thì còn biết thời đại nào
145 Ông thương bạc
146 Vật gì vừa đực vừa cái
147 Đố là cái chi
148 Thùng không
149 Da bố mi đó à?
150 Kinh nghiệm thử thách các quan
151 Ông ỉa mà xáp cái gì?
152 Tài ứng biến
153 Cho tớ hút một hơi
154 Lại một cách ứng biến khác
155 Cứu nguy trên sân khấu
156 Hai tội của Trọng Thủy
157 Thầy Nghêu thử mít
158 Hói Kệ - Khe Giang
159 Cổ Đô - Trình Xá
160 Trâu thiến - Ngựa cương
161 Đối thế nào là chỉnh
nghệ
nhân
X
dân gian
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Hứa Văn
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
PL130
Stt
Nhân vật
Tên truyện
ngông
đạo
đức
162 Xẩm đội cấn
Khuyết danh
nhà
nho tài
tử
nhà
nho ẩn
dật
nghệ
nhân
X
dân gian
trí
thức
nổi
tiếng
Vai hề dở ngưởi sau khủng bố Xô Viết
Nghệ Tĩnh
163
164 Tiếng Tây vào sân khấu tuồng
165 Cành kia cội này
166 Hé gương
167 Hương thừa
168 Âu yếm vòng ngoài
169 Vả bây giờ
170 Bảy con khỉ
171 Cô Kiều cười
172 Phải mười lăm năm nữa mới tìm thấy
173 Vì sao Tự Đức ghét Nguyễn Du
174 Đau đớn, thẹn thùng
175 Ăn làm sao, nói làm sao
176 Kiều đi Lạng Sơn
177 Kiều yêu ai nhất
178 Kiều đuổi cò
179 Kiều dạy trâu
180 Có lẽ cụ Nguyễn Du ác với chúng mình
181 Kiều mách nước cờ
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Cụ Quả Ngôn
Khuyết danh
Ông Nhiêu Tĩnh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
PL131
Stt
Tên truyện
Nhân vật
ngông
đạo
đức
trí
thức
nổi
tiếng
182 Trăng thề hùm củi
183 Duyên hội ngộ, đức cù lao
184 Bị đánh hỏng cử nhân vì đọc một câu Kiều
185 Đọc như thế thì Kiều hóa ra con mèo
186 Mặt mày như thế thì gớm chứ đẹp đẽ gì
187 Không phải đáng ghét mà chính là đáng trọng
188 Hoạn Thư đâu phải người nham hiểm
189 Thúy Kiều con ai?
190 Ai là chị, ai là em?
191 Thúy Kiều làm nghề gì?
192 Nàng Kiều có con không?
193 Thúy Kiều có mắc bệnh gì không?
194 Kim Trọng bao nhiêu tuổi?
195 Kim Trọng làm nghề gì?
196 Từ Hải
197 Hồ Tôn Hiến
198 Tập Kiều phê án
199 Tài sắc anh hùng
200 Lời dặn cuối cùng
201 Phan Bội Châu nhờ Kiều trả lời đồng bào
202 Phan Bội Châu với truyện Kiều
X
X
nhà
nho tài
tử
X
nhà
nho ẩn
dật
nghệ
nhân
X
dân gian
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Khuyết danh
Phạm Văn Ngôn
Khuyết danh
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
PL132
Stt
Nhân vật
Tên truyện
ngông
đạo
đức
Nguyễn Đức Cảnh
X
203 Nguyễn Đức Cảnh nhờ Kiều từ biệt mẹ
nhà
nho tài
tử
nhà
nho ẩn
dật
nghệ
nhân
dân gian
trí
thức
nổi
tiếng
Nguyễn Ái Quốc và Trần Phú trong giấc
204
mơ Kiều
205 Kiều đi đánh Mỹ
206 Mai sau dù có bao giờ
207 Làng Nhân
208 Laàng Hữu Lễ
209 Làng Tiên Nông
210 Laàng Trò
211 Làng Năng Cát
212 Tại sao có tên là Chòm Thiu
213 Tại sao có tên là làng Bà
214 Làng Sắt
215 Làng Bất Căng
216 Xử kiện ruộng dưa
217 Giả mù không thoát tội
218 Khoan khoan con nói
219 Bụng sình
220 Ăn mày và chó đói
221 Đình và Võ
222 Gánh nước chứ không bán nước
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nguyễn Ái Quốc
Khuyết danh
Khuyết danh
Lê Lợi
Lê Lợi
Lê Lợi
Lê Lợi
Lê Lợi
Lê Lợi
Lê Lợi
Lê Lợi
Lê Lợi
Nguyễn Đăng Khoa
Nguyễn Đăng Khoa
Lê Trung Đình
Lê Trung Đình
Lê Trung Đình
Lê Trung Đình
Lê Trung Đình
PL133
Stt
Tên truyện
Nhân vật
ngông
đạo
đức
trí
thức
nổi
tiếng
223 Bầu phải đi với bí
224 Tình văn chương
225 Cua chơi trăng
226 Kim Luông có gái mỹ miều
227 Ta có biết mặt mũi đứa nào đâu?
228 Mười bài liên hoàn
229 Trả tiền đò cho trẫm
230 Ngài cho dưới mắt không có người ư?
231 Trời xanh còn hãm anh hùng
232 Chị em cất gánh
233 Khăn gói qua sông
234 Tỏ chí bình sinh
235 Đoán tên
236 Tôi sẽ ăn mừng
237 Lạy cây
238 Câu đối Tết
239 Dưới phường khất cái ta đùa ta thân
240 Tớ không phải là phu
241 Câu đối chửi quan
242 Làm hộ đơn cho người có trâu chết
243 Hồng cậy tứ bàng
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
nhà
nho tài
tử
X
X
X
X
X
nhà
nho ẩn
dật
X
X
X
X
nghệ
nhân
dân gian
Cả Triệu
Cả Triệu
Cả Triệu
vua Thành Thái
vua Thành Thái
vua Thành Thái
vua Thành Thái
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Sáu Mới
Sáu Mới
Sáu Mới
Phan Điện
Phan Điện
Xiền Ngộ
Xiền Ngộ
Xiền Ngộ
PL134
Stt
Tên truyện
Nhân vật
ngông
đạo
đức
trí
thức
nổi
tiếng
244 Hương hỏa chi mày
245 Câu đối dán rạp tuồng
246 Vinh quan sòi
247 Viết chữ thờ
248 Đại dĩ
249 Phủ Tuấn xử kiện
250 Trâu phải được với chủ nó
251 Đánh lý trưởng
252 Bầy gà chức sắc
253 Mừng đám cưới
254 Bê về với bò mẹ
255 Đích thị kẻ bắt gà
256 Tay nào chặt chuối
257 Chữa bệnh oan gia
258 Hỏi vợ cho quan phủ
259 Ai thua cuộc
260 Chuyện cô Nhẫn
261 Em chỉ cần xắn váy
262 Đái mau cho tao uống
263 Chuyện ông Trần Hàn
264 Trạng Hiền
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
nhà
nho tài
tử
nhà
nho ẩn
dật
X
X
X
X
X
nghệ
nhân
dân gian
X
X
X
Tuần Dĩnh
Tuần Dĩnh
Tuần Dĩnh
Phủ Tuấn
Phủ Tuấn
Phủ Tuấn
Phủ Tuấn
Thủ Thiệm
Thủ Thiệm
Thủ Thiệm
Thượng Nành
Thượng Nành
Thượng Nành
Mân Nhụy
Mân Nhụy
Mân Nhụy
Cô Nhẫn
Cố Duồn
Cố Duồn
Trần Hàn
Nguyễn Hiền
PL135
Stt
Tên truyện
Nhân vật
ngông
đạo
đức
trí
thức
nổi
tiếng
265 Nỗi oan sư thầy
266 Trạng Lường
267 Cân voi đo giấy
268 Trạng Ăn
269 Mạo trạng nguyên
270 Bảng trạng thi tài
271 Trạng Bịu
272 Trạng Gióng
273 Trạng Quét
274 Trạng Vật
275 Trạng Cờ
276 Để đất phát thợ cạo
277 Để đất phát cho nghề đan bồ
278 Để đất phát cho dân phó cối
279 Trạng Tư Thiên
280 Trạng Trịnh
281 Trạng Khiếu
282 Chú bé con nhà hàng thịt
283 Trở thành trạng nguyên
284 Trạng Lợn đi sứ
285 Đào trường thọ
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
nhà
nho tài
tử
nhà
nho ẩn
dật
X
X
nghệ
nhân
dân gian
Huyền Quang
Lương Thế Vinh
Lương Thế Vinh
Lê Nại
Nguyễn Giản Thanh
Đỗ Uông - Phạm Trấn
Nguyễn Đăng Đạo
Đặng Công Chất
Trạng Quét
Võ Phong
Võ Huyên
Trạng Bờ Ao
Trạng Bờ Ao
Trạng Bờ Ao
Bế Văn Phùng
Trạng Trịnh
Trạng Khiếu
Trạng Lợn
Trạng Lợn
Trạng Lợn
Trạng Quỳnh
PL136
Stt
Tên truyện
Nhân vật
ngông
đạo
đức
trí
thức
nổi
tiếng
286 Tiên sư thằng Bảo Thái
287 Lỡm quan thị
288 Lại lỡm quan thị
289 Những bài thi bất hủ
290 Coi thử miệng quan
291 Đánh tráo thư
292 Tượng đá mất thiêng
293 Cúng thành hoàng
294 Vay tiền bà chúa Liễu
295 Trả ơn bà chúa Liễu
296 Mừng chúa thắng trận
297 Bắt sống Ba Bướu Tư Ngang
298 Tú Xuất đóng cũi giải nạp về tỉnh thành
299 Lột quần thầy lý
300 Lột khăn lấy giầy cụ lớn
301 Lột áo quan hàn
302 Chửi thi
303 Lại một cuộc chửi thi khác
304 Chọc con ông đốc học
305 Vén váy quần bà
306 Tú Xuất lật váy bà quan
X
X
X
nhà
nho tài
tử
nhà
nho ẩn
dật
X
X
X
X
X
X
X
X
nghệ
nhân
dân gian
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Trạng Quỳnh
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
PL137
Stt
Tên truyện
Nhân vật
ngông
đạo
đức
trí
thức
nổi
tiếng
X
X
X
nhà
nho tài
tử
nhà
nho ẩn
dật
nghệ
nhân
dân gian
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất
307 Đòi quan
308 Lấy quần chưng phơi ngoài sào
309 Đòn trừng phạt lão bán tơ
310 Quan phủ bắt đám bạc
311 Cặp vịt đẻ một đêm năm trứng
312 Trò lục sở
313 Tranh thối tranh thơm
314 Hễ ai mà nói dối ai
315 Tấm vóc đáng giá đồng chinh
316 Dại khôn
317 Chọc sư nịnh sư
318 Phúc đức gì mày
PL138
PHỤ LỤC 3: HỆ THỐNG VĂN BẢN VÀ KẾT QUẢ KHẢO SÁT TÌNH TIẾT CỦA CÁC TIỂU LOẠI, NHÓM GIAI THOẠI CÓ
TRONG LUẬN ÁN
Các công trình trong phạm vi khảo sát của luận án gồm:
1. Giai thoại văn học Việt Nam (GTVHVN) của các tác giả Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh Mại;
2. Giai thoại làng Nho (GTLN) của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc;
3. Giai thoại văn học Việt Nam, Tổng tập Văn học dân gian Việt Nam, Tập 11, (TTGT VHVN) của Kiều Thu Hoạch chủ biên;
4. Kho tàng giai thoại Việt Nam (gồm 2 tập) (KTGT) của Vũ Ngọc Khánh;
5. Giai thoại folklore Việt Nam (GTFL) của Vũ Ngọc Khánh;
6. Giai thoại văn hóa dân gian người Việt (GTVHDGNV) của Triều Nguyên;
7. Giai thoại Nguyễn Công Trứ (GTNCT) của Phan Thư Hiền;
8. Nghìn năm bia miệng (NNBM) của Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường.
1. GIAI THOẠI VĂN HỌC
1.1 Giai thoại văn học về thách đố, đối chọi văn chương
Hệ thống nhóm giai thoại văn học về thách đố, đối chọi văn chương được chọn lọc và khảo sát:
TÌNH TIẾT CHÍNH
STT
TÊN TRUYỆN
NGUỒN
NVĐT
tức tối
NVC
thất
bại
NVC
thách
đố
NVĐT
NVC
bị
thách
đố
NVC
giành
chiến
thắng
NVC
được
thán
phục
NVC
được
ban
thưởng
NVC
được
tha
tội
NVC
bị
trừng
phạt
NVC
được
nhờ
vả
giải
câu
đố
1 Bác lái đò hay chữ
X
X
X
[1]
[1]
2 Trạng nguyên về học lễ
X
X
X
X
PL139
[1]
3 To đầu mà dại
X
X
X
[1]
4 Ra đối dễ, đối đối khó
X
X
X
[1]
5 Trăng lả cung, đạn là sao
X
X
X
X
[1]
6 Chơi chữ - chọi chữ
X
X
X
[1]
7 Lưỡng quốc trạng nguyên
X
X
X
X
[1]
8 Chưa biết mèo nào
X
X
X
[1]
9 Chim chếch - ếch ngộp
X
X
X
[1]
10 Câu đối ghép tên người
X
X
X
[1]
11 Anh lính với hội Tao Đàn
X
X
X
X
[1]
12 Sư sử sứ, phụ phù phu
X
X
X
X
[1]
13 Mười tám bát cơm riêu
X
X
X
[1]
Khiêng cáng lấy vợ
14
con quan
X
X
X
X
[1]
15 Thơ nằm co
X
X
X
X
X
[1]
16 Bảng, trạng tranh nhau
X
X
X
[1]
17 Ăn khỏe thơ tài
X
X
X
X
[1]
18 Quan tài tài quan
X
X
X
X
[1]
19 Rêu xanh máu đỏ
X
X
X
X
[1]
20 Quân tử chí, xã tắc thần
X
X
X
[1]
21 Khoai Đơ, lính Mỗ
X
X
X
X
PL140
[1]
22 Tể tướng và thầy đồ
X
X
X
[1]
23 Nối thơ Lê Thánh Tông
X
X
X
X
[1]
24 Ếch ngồi đáy giếng
X
X
X
X
[1]
25 Phong nguyệt vô biên
X
X
X
X
[1]
26 Hay cả ý lẫn lời
X
X
X
X
[1]
27 Rắn trắng rồng vàng
X
X
X
[1]
28 Hai cô Điểm, hai ông Luân
X
X
X
[1]
29 Không ham phú quý
X
X
X
X
[1]
30 Vế đối hai nghĩa
X
X
X
X
31 Một hóa hai
X
X
X
[4]
[4]
32 Dồn đối phương vào chỗ bí
X
X
X
X
[4]
33 Sứ Tàu bị lỡm
X
X
X
[1]
34 Nhờ có râu mà thoát đòn
X
X
X
[1]
35 Cha con đọ tài nhau
X
X
X
[1]
Hà túc toán giã,
36
bất diệc lạc hồ
X
X
X
[1]
37 Ba sông bốn mắt
X
X
X
[1]
38 Bài thơ tự trách mình
X
X
X
X
[1]
39 Thư mượn áo cầu
X
X
X
X
X
[4]
Căng buồm mời rượu, gánh
40
gạo lội sông
X
X
X
PL141
[4]
41 Thiên hạ vô tri vấn bảng Đôn
X
X
X
42 Không biết chữ chi
X
X
[5]
43 Xem cá, xem sao
X
X
X
[4]
[1]
44 Cốt đối ý
X
X
[1]
45 Đánh nhau bằng cả câu đối
X
X
X
[1]
46 Miêng kẻ sang, đồ nhà khó
X
X
X
[1]
47 Chó khôn chớ cắn càn
X
X
X
X
[1]
48 Tú Cát - Bọ hung
X
X
X
X
[1]
49 Dở nguyên quen lạ
X
X
X
[1]
50 Một thí sinh bướng bỉnh
X
X
X
[1]
51 Bí quá hóa hay
X
X
X
[1]
52 Câu đối trên văn hồ
X
X
[1]
53 Bài thơ đem lại quốc thể
X
X
X
[1]
54 Chết vì câu đối
X
X
X
[1]
Đối đáp trong chốn
55
quan trường
X
X
X
X
[1]
56 Được tha phạt vì câu thơ hóm hỉnh
X
X
X
X
[1]
57 Khinh thường quan võ
X
X
X
X
[1]
58 Anh hùng đè xuống dưới
X
X
X
[1]
59 Đối chọi với sư
X
X
X
[1]
60 Không ưa nịnh bề trên
X
X
X
PL142
[1]
61 Thơ vịnh người đá
X
X
X
X
[1]
Cao Bá Quát và Nguyễn
62
Văn Siêu
X
X
X
63 Ứng đối với chủ
X
X
X
X
[7]
[7]
64 Đối đáp với thầy học
X
X
X
[7]
65 Hậu sinh khả quý
X
X
X
X
[7]
66 Đánh trống trước cửa sấm
X
X
X
67 Ở truồng xem vua
X
X
X
X
[1]
[1]
68 Khí phách ngang tàng
X
X
X
X
[1]
69 Một bọc sinh đôi
X
X
X
[1]
70 Khóc mướn kiếm ăn
X
X
X
71 Câu thơ thi xã
X
X
X
[4]
[1]
72 Một lũ ăn mày, một lũ quan
X
X
X
[1]
73 Phó cối đề thơ
X
X
X
[1]
74 Gà câu đối cho trò
X
X
[1]
75 Bò đen bò vàng
X
X
X
[1]
76 Bức tranh sơn thủy kỳ lạ
X
X
X
[1]
77 Thơ răng cắn lưỡi
X
X
X
X
X
[1]
78 Ghẹo sư
X
X
X
[1]
79 Cọp bắt thầy tu
X
X
X
[1]
80
Chim bách thanh
X
X
X
[1]
81 Thi câu đối
X
X
X
PL143
[1]
82 Da báo như da chó dê
X
X
X
[1]
83 Chặt đầu Tây
X
X
X
[1]
84 Giống Khổng Mạnh
X
X
X
85 Mời chú khách về
X
X
X
[4]
[4]
86 Răng cắn lưỡi
X
X
X
X
X
[4]
Cuộc bút chiến bằng thơ sôi
87
nổi ở miền Nam
X
X
X
[4]
88 Từ chối vào kinh
X
X
X
[4]
89 Trổ tài trước cụ thám
X
X
X
[4]
90 Ăn mày và chó đói
X
X
X
[4]
91 Đình và võ
X
X
X
[4]
92 Câu đối hồi còn bé
X
X
X
[4]
93 Chính là tôi
X
X
X
[4]
94 Cụ Hồ thách đối
X
X
X
PL144
Kết quả tình tiết và tỉ lệ:
Tên tình tiết
Tần số
Tỉ lệ
Stt
1
2
NVC chủ động thách đố NVĐT
NVC bị thách dố bởi NVĐT
10/94
82/94
10,6%
87,2%
3
4
5
6
7
8
9
10
NVC là người duy nhất giải được câu đố
NVC giành chiến thắng trong cuộc chiến văn chương
NVC thất bại trong cuộc chiến văn chương
NVC được thán phục
NVC được ban thưởng
NVC được tha tội
NVC bị trừng phạt
NVĐT tức tối/bỏ đi
3/94
91/94
3/94
78/94
20/94
11/94
5/94
10/94
3,2%
96,8%
3,2%
82,9%
21,3%
11,7%
5,3%
10,6%
PL145
1.2 Giai thoại văn học về ứng tác văn chương
Hệ thống văn bản được chọn lọc khảo sát
TÌNH TIẾT
STT
TÊN TRUYỆN
NGUỒN
Làm
thơ tỏ
tình
Làm
thơ
cảm
khái
Làm
thơ
thử
lòng
Đối
đáp
văn
chương
Làm
thơ
tiễn
biệt
Làm
thơ
ca
ngợi
Làm
thơ
tự
trào
Làm
thơ
tuyệt
mệnh
Làm
thơ
mỉa
mai,
châm
biếm
Làm
đơn,
phê
đơn
kiện
bằng
thơ
TÊN NHÂN VẬT
1 Bị trói vẫn làm thơ
Lý Công Uẩn
X
[1]
[1]
Nam quốc sơn hà
nam đế cư
2
Lý Thường Kiệt
X
[1]
Chương Dương -
Hàm Tử
3
Trần Quang Khải
X
[1]
4 Hoa sen trong giếng ngọc
Mạc Đĩnh Chi
X
[1]
5 Cười ông quan hai vợ
Mạc Đĩnh Chi
X
[1]
6 Ra câu đối dò xét con
X
Hồ Quý Ly
[1]
7 Ba ông tham thế
X
Lê Thánh Tông
[1]
8 Nỗi oan của nhà sư
Huyền Quang
X
[1]
10 Ngựa đá lấm bùn
Trần Nhân Tông
X
[1]
11 Đọc thơ chê Hạng Võ
Hồ Tông Thốc
X
[1]
12 Chữ thơ Vương Bột
Hồ Tông Thốc
X
[1]
13 Gửi trứng cho ác
Trần Nguyên Đán
X
[1]
14 Thơ của người nghĩa sĩ
Nguyễn Biểu
X
PL146
[1]
15 Lòng ta không phải là đá
X
X
Lê Hiến Phủ
[1]
Muốn chết vác mặt làm
quan Minh triều
16
X
Hồ Quý Ly
[1]
17 Thơ đùa ả bán chiếu
X
Nguyễn Trãi
[1]
18 Văn tức là người
X
Nguyễn Giản Thanh
[1]
19 Ngâm thơ cự thần
X
X
Nguyễn Thái Thường
[1]
Câu chuyện bài phú
Tần quan văn kê
20
X
Lương Hữu Khánh
[1]
21 Ta chẳng chịu phong
X
Đào Duy Từ
[1]
22 Bây giờ em đã có chồng
X
Đào Duy Từ
[1]
23 Tài nịnh
X
Nguyễn Khản
[1]
24 Câu thơ cảnh tỉnh
X
Đặng Kim
[1]
25 Xơi hai trứng
X
Trạng Quỳnh
[1]
26 Lấy thơ để chống chế
X
khuyết danh
[1]
27 Chả kém gì Lý Bạch
X
khuyết danh
[1]
28 Chữ thiên trồi đầu
X
khuyết danh
[1]
29 Xuất xứ ở miệng tôi
X
khuyết danh
[1]
30 Bài thơ leo đèo
X
Nguyễn Thiếp
[1]
Tiến sĩ triều Lê, khăn
triều Nguyễn
31
X
Trần Danh Án
[1]
32 Chim trong lồng
X
Nguyễn Hữu Cầu
[1]
33 Thơ bán than
X
khuyết danh
[1]
34 Vịnh tranh tố nữ
X
Phạm Thái
[1]
35 Đọc thơ chữa thẹn
X
Hồ Xuân Hương
PL147
[1]
36 Mảnh tình
X
Hồ Xuân Hương
[1]
Đánh trống qua cửa
nhà sấm
37
X
Hồ Xuân Hương
38 Đền Thái thú
Hồ Xuân Hương
[4]
[4]
39 Khóc tổng Cóc
X
Hồ Xuân Hương
[4]
40 Cảnh cáo anh đồ
X
Hồ Xuân Hương
41 Trấn uy ba góc
X
Hồ Xuân Hương
[1]
[1]
42 Chết vì bài thơ
X
Nguyễn Văn Thành
[1]
43 Câu thơ hoàng bào
X
Lê Văn Duyệt
[1]
44 Ông cống làm trâu
X
Bà huyện Thanh Quan
[1]
45 Cho Thị Đào đi lấy chồng
X
Bà huyện Thanh Quan
[1]
46 Chê khéo
X
Bà huyện Thanh Quan
[1]
47 Hạc đeo bài ngà
X
Đỗ Cao Mại
[1]
48 Lời thơ khẳng khái
X
X
Ông Trắm
[1]
49 Làm thơ khất nợ
X
Nguyễn Công Trứ
[1]
Được tha phạt vì câu thơ
hóm hĩnh
50
X
Nguyễn Công Trứ
[1]
51 Say rượu đánh long thần
X
Nguyễn Công Trứ
[1]
52 Thơ trách nữ thần
X
Nguyễn Công Trứ
[1]
53 Thơ tương tư
X
Nguyễn Công Trứ
[1]
54 Trời đà biết cho
X
Nguyễn Công Trứ
[1]
55 Che miệng thế gian
X
X
Nguyễn Công Trứ
[1]
56 Bò vàng chi liếm lá
X
Nguyễn Công Trứ
PL148
[1]
57 Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
X
Nguyễn Công Trứ
[1]
58 Con mèo nằm bếp
X
Nguyễn Công Trứ
[1]
59 Đả lối văn sáo rỗng
X
Nguyễn Công Trứ
60 Bỗng chốc nên quan
X
Nguyễn Công Trứ
[7]
[7]
61 Có rứa rồi ra mới được mùa
X
Nguyễn Công Trứ
[7]
62 Tức cảnh vụ cháy nhà
X
Nguyễn Công Trứ
[7]
63 Ngày Tết cắm đất hương hỏa
X
Nguyễn Công Trứ
64 Du xuân gặp kẻ lắm mồm
X
Nguyễn Công Trứ
[7]
[7]
65 Chim bay về núi
X
Nguyễn Công Trứ
[7]
66 Duyên nợ với hát ả đào
X
Nguyễn Công Trứ
[7]
67 Trí sĩ về hưu
X
Nguyễn Công Trứ
[7]
68 Phỉ báng quan Bố chánh Hà Tĩnh
X
Nguyễn Công Trứ
69 Văn hay chữ xấu
X
Nguyễn Văn Siêu
[1]
[1]
70 Siêu đồng siêu đất
X
Nguyễn Văn Siêu -
Cao Bá Quát
[1]
71 Thầy lý bớt đi rồi
X
Cao Bá Quát
[1]
72 Bịa thơ tài hơn vua
X
Cao Bá Quát
[1]
73 Tự tiện chữa văn vua
X
Cao Bá Quát
[1]
74 Trên dưới đều chó
X
Cao Bá Quát
PL149
[1]
75 Bài thơ không họa nổi
X
Huỳnh Mẫn Đạt
[1]
76 Thơ tạ hương đảng
X
Học Lạc
[1]
77 Bị ngồi trăng
X
X
Học Lạc
78 Thằng Lạc
X
Học Lạc
[4]
79 Chó chết trôi
X
Học Lạc
[4]
[1]
80 Anh hùng có một người
X
Tú Quỳ
[1]
81 Thơ trả lời người bạn giàu
X
X
Nhiêu Tâm
[1]
82 Một lũ ăn mày, một lũ quan
X
Nghè Tân
83 Họa thơ tự thọ của Nguyễn Công Trứ
X
Nghè Tân
[4]
84 Thơ mừng bạn đẻ con trai
X
Nghè Tân
[1]
[1]
85 Đề thơ mừng thọ
X
Hoàng Phan Thái
[1]
86 Nằm cùng thì cho
X
Đinh Nhật Thận
[1]
87 Thơ con mèo
X
Phan Văn Trị
[1]
88 Đái vẽ nên rồng
X
Phan Văn Trị
[1]
89 Thơ ăn thịt Cần Đước
X
Phan Văn Trị
[1]
90 Quan án giỏi thơ
X
khuyết danh
91 Tài ứng biến bất thần
X
Phan Văn Trị
[4]
[4]
92 Trách triều đình
X
Phan Văn Trị
[4]
93 Thơ… cụt cứt
X
Phan Văn Trị
[1]
Bài phú tức cảnh cô
gái đẹp
94
X
Phan Hoàng Thái
[1]
Giễu lệnh cấm quần
không đáy
95
X
khuyết danh
PL150
[1]
96 Chiến đấu đến cùng
X
Võ Khoa - Phan Đình
Phùng
[1]
97 Thơ chửi tay sai của Pháp
X
Bà Nhu
[1]
98 Thơ bồ tiên
X
Nguyễn Khuyến
[1]
99 Đùa nhà sư móm
X
Nguyễn Khuyến
[1]
100 Tạ người cho hoa trà
X
Nguyễn Khuyến
101 Đòi xem câu đối
X
Nguyễn Khuyến
[1]
[1]
102 Gặp chó
X
Nguyễn Khuyến
[1]
103 Vịnh phỗng đá
X
Nguyễn Khuyến
[1]
104 Thơ ông phỗng sành
X
Nguyễn Khuyến
[1]
105 Thơ thăm bạn mất cướp
X
Nguyễn Khuyến
106 Trời nói
X
Nguyễn Khuyến
[4]
[1]
107 Áo bào hốt bạc
X
Phạm Văn Ngôn
[1]
108 Bài thơ chữa lại
X
Chu Mạnh Trinh
[4]
109 Hóa ra dưa
X
Tú Xương
[4]
110 Đi hát mất ô
X
X
Tú Xương
[4]
111 Thành pháo
X
Tú Xương
[4]
112 Dưới phường khất cái ta đùa ta thân
X
Phan Điện
[4]
113 Gửi Nguyễn Khoa Kỳ
X
Phan Điện
[4]
114 Tớ không phải là phu
X
Phan Điện
115 Thằng đếch nào chứ không phải quan
X
Phan Điện
[4]
PL151
[1]
116 Nên nghĩa trăm năm
X
Nguyễn Hữu Khanh
[1]
118 Giận đến cả Sĩ Vương
X
Nguyễn Mộng Bạch
[1]
119 Tang chở chốn quan trường
X
Dương Khuê
[1]
120 Đục chân vào đá
X
Phạm Ứng Thuần -
Từ Đạm
[1]
121 Thơ vinh Kiều
X
khuyết danh
[1]
122 Một lối dịch thơ kỳ lạ
X
Từ Diễn Hồng
[1]
123 Thơ khen tri phủ tài nịnh
X
Nguyễn Thiện Kế
[1]
124 Ghẹo một trả lời hai
X
Sương Nguyệt Anh
125 Đón vua Thành Thái
X
Sương Nguyệt Anh
[4]
127 Không dùng ta lấy ai giúp nước
X
Kỳ Đồng
[4]
[1]
128 Thơ điên cuồng ngu ngộ
X
Xiển Ngộ
[1]
129 Thơ chửi tri huyện
X
Kép Trà
[1]
130 Câu đối vịnh gông cùm
X
Kép Trà
131 Lời khẩu chiến dể tỏ chí mình
X
Kép Trà
[4]
[4]
132 Được phép chứ sao lại cấm
X
Kép Trà
[4]
133 Chuyện ngâm Kiều
X
Kép Trà
[1]
134 Mặc thằng nghe
X
Trần Tích Phiên
[1]
135 Dịch thơ bạn xỏ bạn
X
Trần Tích Phiên
[1]
136 Thơ vịnh vườn bách thú
X
khuyết danh
[1]
137 Quý nhất đầm
X
khuyết danh
[1]
138 Thơ thi vịnh Hiệp Phật
X
Khuyết danh
PL152
[1]
139 Đào Mộng Giác
X
X
Phan Châu Trinh,
Trần Quý Cáp,
Huỳnh Kháng
[1]
140 Câu hát quốc sự
X
khuyết danh
[1]
141 Bài thơ ghi vào đá
X
Nguyễn Thượng Hiền
[1]
142 Thơ hỏi sư
X
Nguyễn Thượng Hiền
[1]
143 Quan đốc có số đào hoa
X
Đặng Nguyên Cẩn
[1]
144 Thơ tặng người cùng cảnh
X
Phan Bội Châu
[1]
146 Thơ mừng mụ đồ
X
Lê Đại
[1]
147 Tấn sĩ là cái gì
X
Huỳnh Thúc Kháng
[1]
148 Ngỏ ý bằng văn thơ
X
Trần Cao Vân
[1]
149 Long biên ái hoa hội
X
khuyết danh
[1]
150 Thơ vịnh văn miếu
X
khuyết danh
[1]
151 Thơ khóc nhầm
X
Mai Lâm
[1]
152 Bài thơ năm cụ
X
Nguyễn Trọng Cẩn
[1]
153 Sông Hương, núi Ngự
X
Thúc Giạ Thị
154 Bài thơ chữa bệnh
X
Nguyễn Khoa Vy
[4]
[4]
155 Tức cảnh ở chùa
X
Nguyễn Khoa Vy
[4]
157 Thơ vịnh 12 con giáp
X
Nguyễn Khoa Vy
[4]
158 Bài thơ ngạo thiên nghịch địa
X
Nguyễn Kinh
[4]
159 Cóc mọc đuôi
X
Sư Viên Thành
[4]
160 Họa thơ Nguyễn Thượng Hiền
X
Sư Viên Thành
[4]
161 Trách học trò lười
X
Nguyễn Bỉnh Khiêm
[4]
162 Kiện nhau với thầy đồ
X
Phùng Khắc Khoan
PL153
[4]
163 Niềm vui của Nguyễn Kiều
Nguyễn Kiều - Đoàn
Thị
Điểm
X
[4]
164 Sữ thần áo rách nón mê
X
Trần Danh Án
[4]
165 Cái khăn triều Nguyễn
Trần Danh Án
X
[4]
167 Kỷ niệm trên đường đi sứ
Nguyễn Du
X
[4]
168 Từ biệt cố nhân
X
Nguyễn Đình Chiều
[4]
169 Đề gươm
Bạch Xỉ
X
[4]
170 Bạch Xỉ và Phan Đình Phùng
X
Bạch Xỉ
[4]
171 Khoan khoan con nói
X
Lê Đình Trung
[4]
172 Bụng sình
X
Lê Đình Trung
[4]
173 Chim trong lồng, cá trên thớt
Lê Đình Trung
X
[4]
174 Cha trẻ con già
Nhiêu Tâm
X
[4]
175 Thơ cục cứt
Nhiêu Tâm
X
[4]
176 Bầu phải đi với bí
X
Cả Triệu
[4]
177 Hỏi cố đạo
Bà Tú Ý
X
[4]
178 Đây là cửa sấm biết hay chưa
Bà Tú Ý
X
[4]
179 Nghe giảng thập điều
Đào Tấn
X
[4]
180 Thơ trung thu gửi Từ Đạm
Từ Diễn Hồng
X
[4]
181 Đơn kiện Trấn Tán Bình
Từ Diễn Hồng
[4]
182 Vịnh Lê Hoan
Nguyễn Thiện Kế
X
[4]
183 Khóc vợ
X
Nguyễn Thiện Kế
[4]
184 Tế chiêu quân
X
Nguyễn Thiện Kế
[4]
Kỳ Đồng
185 Không dùng ta lấy ai giúp nước
X
PL154
[4]
186 Mối tình tri ngộ với Phan Bội Châu
X
Hàn Mặc Tử
[4]
187 Đáp lời thầy học cũ
X
Trần Quang Cán
[4]
189 Tơ nhân sợi nghĩa dây lưng trắng
X
Lê Thị Đàn
[4]
190 Hỡi người mặt trắng râu xanh
X
Nguyễn Văn Tường
[4]
191 Mừng Trương Vĩnh Ký
X
khuyết danh
[4]
192 Tấm bia trời đánh
X
khuyết danh
[4]
193 Đả kích Cao Ngọc Lễ
X
khuyết danh
[4]
Những thơ văn sau cái chết Nguyễn Duy
Hàn
194
X
khuyết danh
[4]
195 Cả nhà theo giặc
X
khuyết danh
[4]
196 Mừng xây sinh phần
X
Nguyễn Văn Đằng
[4]
197 Chế Nguyễn Phong Di
X
khuyết danh
[4]
198 Xem da cọp
X
Nguyễn Bá Trác
[4]
199 Câu thơ tỏ chí
X
Hồ Tông Thốc
[4]
200 Câu thơ ca ngợi Bùi Huy Ích
X
Hồ Tông Thốc
[4]
201 Vua Quang Trung ở trại văn chương
X
Vua Quang Trung
[4]
202 Sự biệt đãi bề tôi của vua Quang Trung
X
Vua Quang Trung
[4]
203 Đề đền Mai Hắc Đế
X
Phan Hoàng Thái
[4]
204 Thơ và cấu đối tuyệt mệnh
X
Phan Hoàng Thái
[4]
205 Thơ con muỗi
Tự Đức
[4]
207 Trăng soi vốn vách chi gieo sầu
Hồng Bảo - Tự Đức
[4]
208 Thuê Tàu đánh Tây
X
Lưu Vĩnh Phúc
[4]
209 Thách thức
X
Ông Ích Khiêm
[4]
210 Thơ cái trống
X
Trần Quý Cáp
PL155
Mấy giai thoại về thơ văn của cụ phó
Bảng
211
X
Nguyễn Sinh Sắc
[8]
[8]
212 Nguyễn Quang Diêu
X
Nguyễn Quang Diêu
[8]
213 Ông đồ Sáu Mới
X
Ông đồ Sáu Mới
[8]
214 Võ Sâm với Vi Yết Ma Bùi Kiệm
X
Võ Sâm
[8]
215 Người thầy thuốc vui tính
X
X
Nguyễn An Cư
216 Thơ vịnh đất sét
X
Nguyễn Sinh Sắc
[4]
[4]
217 Thơ hòn non bộ
X
Hồ Chí Minh
[4]
218 Câu đối nói lên chí hướng
X
Hồ Chí Minh
[4]
219 Dịch thơ chữ Hán
X
Hồ Chí Minh
[4]
220 Bài thơ tình viết hộ
X
Hồ Chí Minh
[4]
221 Một cách phân tích, giảng giải văn xưa
X
Hồ Chí Minh
[4]
222 Hồ Chí Minh tự phong mình
X
Hồ Chí Minh
[4]
223 Hồ Chí Minh và Nguyễn Hải Thần đối đáp
X
Hồ Chí Minh
[4]
224 Sự ra đời của một bài thơ
X
Hồ Chí Minh
[4]
X
Hồ Chí Minh
225 Về quê
PL156
Kết quả tình tiết và tỉ lệ
Tần số
Tỉ lệ
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Tên tình tiết
Làm thơ mỉa mai, châm biếm, hạ bệ
Làm thơ cảm khái
Làm thơ thử lòng
Đối đáp, thù tạc văn chương
Làm thơ tỏ tình
Làm thơ tiễn biệt
Làm thơ tuyệt mệnh
Làm thơ ca ngợi
Làm thơ tự trào
Phê đơn/làm đơn kiện bằng thơ
100/225
55/225
2/225
15/225
13/225
3/225
6/225
12/225
16/225
3/225
44,4%
24,4%
0,8%
6,6%
5,7%
1,3%
2,6%
5,3%
7,1%
1,3%
2. GIAI THOẠI VĂN HÓA DÂN GIAN
Nhóm giai thoại văn hóa dân gian có liên quan đến hình thức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian (hò đối đáp các vùng miền)
Hệ thống văn bản được chọn lọc, khảo sát:
NGUỒN:
- Văn bản số 1 đến 177 trích từ: Giai thoại văn hóa dân gian người Việt của Triều Nguyên [6];
- Văn bản 178 đến 180 trích từ: Kho tàng giai thoại Việt Nam của Vũ Ngọc Khánh [4];
- Văn bản 181 và 182 trích từ: Giai thoại Nguyễn Công Trứ của Phan Thư Hiền [7].
PL157
TÌNH TIẾT CHÍNH
Tên NV
STT
TÊN GIAI THOẠI
Yếu tố
tục
NVC
bị
trừng
phạt
NVC
từ bỏ
thi
hát
NVC
bị
thách
thức
bởi
NVĐT
NVC
chủ
động
thách
thức
NVĐT
Hát
mỉa
mai
ngoại
hình
ĐT
NVC
được
tán
thưởng,
khâm
phục
NVC
thất
bại
trong
cuộc
hát
NVC
giành
chiến
thắng
trong
cuộc
hát
NVC
dùng
câu
hát
bày
tỏ
tĩnh
cảm
X
X
khuyết danh
1 Em mất xống thâm 1
X
X
X
khuyết danh
2 Em mất xống thâm 2
X
X
khuyết danh
X
3 Em mà không chổng
khuyết danh
4 Hát ví đồi chè
X
X
X
X
X
X
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
X
5 Có vợ thì tránh cho xa
6 Bên bấc bên chì
7 Cái ba vạn chín nghìn
8 Em thiếu anh thừa
X
X
X
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
9 Tay em vít cả đôi cành
10 Mua mật với khoai mài anh ăn
11 Đuổi về lầu xanh
X
X
X
PL158
X
X
X
X
X
X
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
12 Hát ví điều khiển trâu
13 Câu hát hóc
14 Khi voi thả vòi ra
X
X
X
Nhiêu Ngọ - O Tộ
khuyết danh
15 Nhiêu Ngọ và o Tộ
16 Đề Kiều đi hát phường vải
X
X
X
X
X
X
X
X
khuyết danh
Hạnh rỗ
khuyết danh
17 Anh biết đi con nào
18 Bà cố Sĩ và ông Hạng rỗ
19 Thật vàng sao tiếng lại rè
Chữ thiên trồi đầu lại có phết
vai
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
khuyết danh
khuyết danh
Nguyễn Du
Nguyễn Công Trứ
Đinh Nhật Thận
20
21 Trai sừng gái sỏ 1
22 Trai sừng gái sỏ 2
23 Vì chưng tham chút nhụy vàng
24 Nhà đọc sách, gảy đờn
25 Nằm cùng thì cho
X
X
Tình tui với mụ lúc nào cũng
xong
X
X
X
26
Những câu hát bắt bí và gỡ bí
của các nhà nho
X
X
X
X
27
X
X
X
x
28 Thợ rèn đi hát phường vải
29 Biết rùa meo mô mà tìm
PL159
X
X
X
X
X
Cô Vân, Cô Long
Cô Vân, Cô Long
30 Quỷ thần không cho
31 Mùi trầm hương nỏ chộ
Đôi đũa quấy trong bung thằn
lằn
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
x
X
X
X
X
X
Cô Vân, Cô Long
Cô Vân, Cô Long
Cô Nhẫn
Cô Nhẫn
Cô Nhẫn
Cô Nhẫn
Cô Nhẫn
Cô Nhẫn
32
33 Bởi vì ai nên nỗi
34 Nhà nho ba bảy nhà nho
35 Cái nghĩa chữ duyên đang dài
36 Nho Biên và cô Nhẫn
37 Chỉ còn cách cắp ô lủi đi
38 Chàng ra tay báo phục
39 Cô Nhẫn làm thầy gà
X
X
X
Phan Bội Châu
40 Nam Đàn tứ hổ là đây
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu
Ông Xã Kiếm
ông Xã Kiểm
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
41 Đoán chữ
42 Đoán tên
43 Cha thầy Mạnh Tử là ai
44 Mối tình chung
45 Vui cuộc cờ tàn
46 Tầm long điểm huyệt
47 Tầm long điểm huyệt
48 Chùa chiền chốn chơi
49 Chỉ vì lời ru
50 Trâu cày và cá gáy
PL160
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Ông Ngụ
Ông Ngụ
O Ân
ông khóa Cật
khuyết danh
Anh Thi
khuyết danh
Cửu Hoãn
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
51 Tui xin nài hai đêm
52 Đó lầm đây cũng trích ve
53 Đứng sau mà dòm
54 Không bát cũng không cạy
55 Xin chôn nhờ đất o
56 Bất đặng cái khi đang trèo
57 Nước trong khe
58 Vì thua hò mà bỏ quê
59 Kiếm trắc bá diệp mà trồng
60 Tại cái chăn chéo hạnh
61 Bạn cu li nghèo viếng thăm
62 Đó có đôi đây cũng ngồi hai đứa
63 Hai chạc dây giằng
Gương lồng thủy, thủy lồng
gương
X
X
khuyết danh
khuyết danh
64
65 Con anh khôn lớn bằng anh
X
X
X
X
X
X
khuyết danh
khuyết danh
Nhún lên nhún xuống chui ngoài
chui vô
66
67 Cái ve vàng
Bốn ba đời chồng mới thành gia
thất
X
X
X
khuyết danh
68
Cái du du tát nước mà ngờ lọng
che
X
X
X
X
X
X
khuyết danh
khuyết danh
69
70 Số ở nhà lều
PL161
X
X
X
X
X
X
X
X
x
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
71 Thẳng ớt tơ
72 Cự tuyệt
73 Nốc sức mui gặp tay cán vá
74 Vật để treo nghi
75 Cặn kẽ
76 Lương giáo đại đồng
77 Phạm điều cấm
78 Đền nợ uống đắng ăn cay
79 Trở chứng nhỏ nhen
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
x
X
X
X
X
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
80 Em an tâm về bẻ lá mua than
81 Em đà ăn miếng trầu người
82 Trèo lên cây chanh
83 Ai ở bạc
84 Lấy chồng làng xa
85 Góa chống không dễ ghẹo
86 Cái chi để lâu cũng chết
87 Có vợ rồi vợ nữa càng hay
88 Cha tiền mẹ gạo
Ngả bàn tay ra cho anh điểm chi
vi bằng
X
X
X
X
X
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
89
90 Chẳng biết vì ai
91 Lỡ tay thua bạc
PL162
Một rỗ một tiền cũng được mấy
quan
X
X
X
X
khuyết danh
92
Em can anh mà anh chẳng hề
nghe
X
X
X
khuyết danh
khuyết danh
93
94 Thầy gà cũng bí
X
khuyết danh
95 Quan phụ mẫu hiệu chính lời hò
Trai con hồng cháu lạc, gái
cũng con hồng cháu lạc
X
X
X
X
X
X
X
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
96
97 Đua tài chính sự
98 Con lươn con lệch trơn lù lu
99 Đòn chữ nghĩa của trường hò
Nhát sơ hiệu ký gặp Trung Am
ký
X
X
X
O Quy
100
Không biết thiếp ngồi chầu chỗ
mô
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
O Quy
O Quy
khuyết danh
Ông Bơi
Ông Bơi
Ông Quán
Ông Quán
Ông Quán
101
102 Xin quy ở lại hạc đi chầu trời
103 Cau khô và cau nàng
X
104 Chọi nhau bên nào cũng bị thiệt X
X
105 Tui cày suông cho chị
106 Nét tơ đồng không sai
X
107 Hễ trời mưa dông một trộ
108 Vợ chồng mình như em ả chị tam
PL163
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Thợ Thiềm
Thợ Thiềm
Thợ Thiềm
Thợ Thiềm
Thúc Giạ Thị
Thúc Giạ Thị
Thúc Giạ Thị
Thúc Giạ Thị
Thúc Giạ Thị
Thúc Giạ Thị
Thảo Am
Thảo Am
Thảo Am - Giạ Thị
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
Đồ Tâm
khuyết danh
109 Sợ nam to không chèo
110 Méo tròn cũng phải ăn
111 Thợ Thiềm phá vây
112 Kêu cứu bằng hò
113 Ai là ai trong hai lời hò
114 Cổ động học chữ quốc ngữ
115 Câu hò tặng Tì Bà viện
116 Cơm độc lập nước tự do
117 Hai nhà thơ một lời hò
118 Gà sẵn những lời hò mồi
119 Chữ công có cái quéo
120 Cấm và cứ
121 Thiếu tình yêu, thiếu tiền tiêu
122 Hò giã gạo để gầy nhân duyên
123 Ông già là ông già yêu
124 Mỗi năm được mấy mùa xuân
125 Sợ đi lính chết phải xa em
126 Cưỡi rồng
127 Ai dè lở dở trăm đàng
Gửi mấy nghìn trang giấy, mấy
trăm trang thơ
X
X
X
X
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
128
129 Buôn trầu lỗ lắm
130 Hai cặp ảng có mấy cái lù
PL164
X
X
X
X
X
X
X
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
Giáo Lươn
khuyết danh
khuyết danh
131 Anh chỉ được hầu ở ngoài sân
132 Lập mưu để cứu nàng
133 So sánh giữa tôi và chị
134 Mi thò đầu lên là tau ngéo
135 Cặp và chiếc
136 Con mèo mấy cái lông
Câu hát của bà chúa tằm tang
xứ Quảng
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nguyễn Phúc Lan
khuyết danh
khuyết danh
Ông Tờn
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
Tú Thọ
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
137
138 Đi tu vì một câu hò
139 Anh nho sĩ mù hát xạo
140 Hát ngắn độ một thước
141 Trên méo, dưới méo, giữa tròn
142 Bắt mèo mà hun
143 Cặn thừa đãi anh
144 Rượu ngon cái cặn cũng ngon
145 Vì chưng hộ đối môn đương
146 Sao lại bảo là đám gian
147 Hai ngang hai phết
148 Chờ qua trăng rằm
Phòng loan thiếp đã then cài
nửa song
X
X
X
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
149
150 Chỉ e giống quá dễ lầm
151 Mong sao bến mãi bên đò
PL165
X
X
X
X
X
X
X
X
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
152 Lỡ duyên kết với lỡ thì
153 Kinh tiền cheo cho làng
154 Khất lại lời đáp
155 Mắt bét gặp cổ cò
156 Quanh việc tát nước
Ai ham ruộng đất chàng mau
cưới về
X
X
X
X
X
X
X
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
157
158 Trao túi trầu làm tin
159 Tò mò chuyện riêng của cậu
Nghèo khổ bao nhiêu thiếp cũng
tùng
X
X
khuyết danh
khuyết danh
160
161 Cha mẹ họ hàng phải hay
Gừng cay muối mặn xin đừng
phụ nhau
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
khuyết danh
Anh Hàng
khuyết danh
khuyết danh
Bảy Tỏi
162
163 Một lạy tạ lời thề xưa
164 Mặt trắng mà lòng đen
165 Từ nay rõ được nghĩa nhân
166 Mặt đục
167 Cau chưa có đất trồng
168 Dáng ai như dáng
169 Hò về truyện tích
170 Sắm vai chinh phu chinh phụ
171 Đu đưa đủng đởn như ông ở nhà X
PL166
Miếng đất mưa ba năm không
ướt nắng sáu tháng không khô
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Bảy Tỏi
Trần Hàn
Trần Hàn
Trần Hàn
Trần Hàn
Trần Hàn
Nguyễn Bính
Nguyễn Kinh
Nguyễn Kinh
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ
X
172
X
173 Hát với nàng Dùi Chiêng
X
174 Lão Phàn con ai
X
175 Cây ai trồng nấy ăn
X
176 Bị vậy bủa bốn bề
X
177 Chết vì một câu hò
178 Cậu bé thầy bẻ chuyện
179 Cây không trái, gái không chồng X
X
180 Hai bảy mười một
181 Hát phường vải
X
182 Vì mê hát mà mất vợ
Kết quả khảo sát tình tiết:
Tên tình tiết
Tỉ lệ
Stt
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
NVC chủ động thách đố
NVC bị thách đố
NVC chấp nhận lời thách đố
NVC chiến thắng cuộc hò hát
NVC thất bại trong cuộc hò hát
NVC dùng câu hát bày tỏ tình cảm
NVC được ban thưởng
NVC bị trừng phạt
NVC được thán phục
NVC bỏ nghề thi hát
Tần số
43/182
54/182
54/182
57/182
43/182
84/182
1/182
1/182
43/182
6/182
23,6%
29,6%
29,6%
31,3%
23,6%
46,2%
0,5%
0,5%
23,6%
3,2%
PL167
PHỤ LỤC 4: MỘT SỐ VĂN BẢN GIAI THOẠI TRONG CÁC TUYỂN TẬP
GIAI THOẠI ĐƯỢC LUẬN ÁN KHẢO SÁT
A. GIAI THOẠI VĂN HỌC
* GIAI THOẠI VĂN HỌC VỀ THÁCH ĐỐ VĂN CHƯƠNG
1. Bác lái đò hay chữ (Sư Đỗ Thuận)
Đời vua Lê Đại Hành (980 – 1005) có sư Đỗ Thuận là người học rộng thơ hay, am
hiểu việc đời, giúp nhà vua có công lao lớn, nhưng mỗi lần nhà vua định phong chức cho
thì sự đều không nhận. Vì thế, Lê Đại Hành càng kính trọng, nhà vua thường chỉ gọi là Đỗ
pháp sư chứ không gọi tên.
Khoảng năm Thiên phúc thứ tám (987), vua nhà Tống sai Quốc tử giám bác sĩ là Lý
Giác sang sứ Việt Nam. Vua Lê Đại Hành bèn sai sư Thuận giả làm người chèo đò ra đón
sứ ở bên bờ sông Sách Giang. Lý Giác vốn là một tay sính thơ, khi ngồi đò, nhân trông
thấy xa xa trên mặt nước có hai con ngỗng trời, liền ngâm hai câu thơ rằng :
“Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng thiên nha”.
(Ngông ngỗng hai con ngỗng,
Chân trời nghểnh cổ trông)
Sư Thuận nghe xong, tay vẫn nhịp nhàng chèo, miệng tươi tắn liền ngâm tiếp hai câu
cho thành một một bài tứ tuyệt:
“Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba”
(Lông trắng phơi nước biếc;
Sóng xanh quậy chèo hồng)
Thấy một tay lái đò mà cũng hay chữ như vậy, Lý hết sức kinh ngạc và cảm phục.
Về sau, vua nhà Tống có sai Lý Giác sang Giao Châu một lần nữa. Lúc về, Lý Giác
có tặng sư Thuận một bài thơ từ biệt trong đó có hai câu:
“Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu
Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu”
(Ngoài trời còn có trời nên chiếu
Sóng lặng khe đầm rọi mảnh thu)
Sư Thuận đưa bài thơ cho Lê Đại Hành. Vua triệu sư Khuông Việt vào giải thích hộ.
Khuông Việt nói: “Đây là Trung Hoa tỏ ý kính trọng bệ hạ cũng ngang hoàng đế của họ.
Vua hài lòng, bèn sai sư Khuông Việt làm một bài ca tiễn Lý Giác (…).
Nguồn: [GTVHVN, tr.63 – 65].
2. Trạng nguyên về học lễ (Nguyễn Hiền)
Nguyễn Hiền quê ở làng Hà Dương, huyện Thượng Nguyên, tỉnh Nam Định, đỗ thủ
khoa năm Bính Ngọ (1246), đời Trần Thái Tông, đến năm sau, thi đình đỗ trạng nguyên.
Hiền vốn thông minh, lúc 6, 7 tuổi theo học một nhà sư ở chùa làng, mỗi ngày sư dạy cho
học hai mươi trang sách, Hiền chỉ đọc qua là thuộc. Năm 11 tuổi, Hiền đã nổi tiếng thần
đồng. Lúc đỗ trạng nguyên mới 12 tuổi. Khi vào ra mắt vua, vua thấy bé loắt choắt mà ăn
nói lại hàm hồ, chưa có phép tắc gì cả, bèn bắt về học lễ ba năm rồi sẽ bổ dụng làm quan.
PL168
Trạng về được ít lâu thì có sứ nhà Nguyên sang, sứ đưa ra một bài thơ ngũ ngôn để
thử nhân tài nước Nam:
“Ngũ nhật bình đầu nhật
Tứ sơn điên đảo sơn
Lưỡng vương tranh nhất quốc
Tứ khẩu tung hoành sơn”
(Hai mặt trời, mặt trời bằng đầu
Bốn trái núi, trái núi điên đảo
Hai ông vua tranh nhau một nước
Bốn cái miệng trong cõi dọc ngang)
Thật là kỳ quặc, cả triều đình đều chịu, không ai hiểu ra sao cả. Có người tâu vua thử
cho trạng Nguyễn Hiền đến hỏi xem, vua đành phải y lời. Khi sứ đến làng trạng, gặp một
thằng bé đang đùa nghịch ở đầu làng liền hỏi thăm vào nhà Hiền. Nhưng thằng bé cứ làm
thinh chẳng nói chẳng rằng. Sứ bực mình lại nhân thấy thằng bé có vẻ ngộ nghĩnh, bèn đọc
một câu rằng: “Tự (字) là chữ, cất giằng đầu, tử (子) là con, con ai con ấy?”
Thằng bé thấy sứ trêu chọc bấy giờ mới mở miệng nhưng không phải trỏ nhà Nguyễn
Hiền mà đối lại như sau: “Vu (于) là chưng, cất ngang lưng, đinh (丁) là đứa, đứa nào đứa
này”. Đối xong lại chạy biến. Nghe câu đối xấc xược mà tài tình, sứ đoán chắc đó là trạng
Hiền, liền theo vào nhà. Tới sân, thấy trạng đang đứng trong bếp, bèn đọc thêm một câu
nữa: “Ngô văn quân tử viên bào trù, hà tu mị táo?” (Ta nghe người quân tử thường tránh
xa bếp núc, sao lại vào nịnh ông bếp?).
Nhưng trạng đâu chịu lép, biện bạch ngay: “Ngã bản hữu quan cư đĩnh nại, khả tạm
điều canh!” (Ta vốn là chức quan trong hàng tể tướng, nhưng hãy tạm nêm canh). Sứ triều
đình khâm phục vô cùng, bèn mời ngay trạng về kinh đô để hỏi bài thơ kia. Song mời mãi
mà trạng cũng chẳng đi, nói rằng: “Trước vua bảo ta không biết lễ phép, nay chính nhà vua
cũng không biết lễ phép!”. Thì ra trong lúc vội vàng, sứ đã quên cả nghi thức, sau phải
mang xe ngựa, nghi trượng đến đón thật long trọng, trạng mới chịu đi. Tới triều, vua cho
xem bài thơ ngũ ngôn của nhà Nguyên ra hỏi. Trạng liền liếc mắt qua rồi giảng đó là chữ
“điền” (田). Thì ra bài thơ ấy phải hiểu là:
“Hai nhật (日)bằng đầu để sóng hàng,
Bốn sơn (山) xáo lộn dọc cùng ngang,
Hai vương (王) nghiêng ngửa lo tranh nước,
Bốn khẩu (口) liền nhau ghép vững vàng”.
Lúc bấy giờ, vua mới vỡ nhẽ, cả triều đình ai cũng phục trạng và khi đưa câu trả lời
cho sứ nhà Nguyên, sứ cũng hoảng hồn không còn dám lên mặt nữa.
Nguồn: [GTVHVN, tr.71 – 73].
3. Ra đối dễ, đối đối khó (Mạc Đĩnh Chi)
Năm Hưng Long thứ 16, Mạc Đĩnh Chi đi sứ sang nhà Nguyên, ông có hẹn ngày ấy
ngày nọ thì sứ bộ sẽ đến cửa biên ải để viên quan nhà Nguyên mở cửa đó. Chẳng may hôm
lên đường gặp trời mưa gió, thành ra sai hẹn. Lúc tới nơi thì trời tối, cửa ải đóng. Mạc
Đĩnh Chi nói mãi người Nguyên cũng chẳng chịu cho qua. Sau họ vứt từ trên ải xuống
PL169
một câu đối, bảo hễ đối được thì mới mở cửa: “Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá
khách quá quan” (Qua cửa ải chậm, cửa ải đóng, mời khách qua đường qua cửa).
Thật là một câu đối hiểm hóc, trong có 11 chữ mà riêng chữ “quan” nhắc lại tới bốn
lần, chữ “quá” nhắc lại ba lần. Mạc Đĩnh Chi thấy rất khó đối nhưng nếu yên lặng thì e mất
thể hiện, ứng khẩu đọc một câu rằng: “Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối”
(Ra đối dễ, đối đối khó, mời tiên sinh đối trước).
Tưởng đã bị thế bí hóa ra lại có một câu đối hay. Người Nguyên phải chịu Mạc Đĩnh
Chi là có tài ứng biến, liền tức tốc mở cửa ải để ông đi qua.
Nguồn: GTVHVN, tr.79 – 80.
4. Trăng là cung, sao là đạn (Mạc Đĩnh Chi)
Mạc Đĩnh Chi sang sứ triều Nguyên, lúc vào bệ kiến, vua Nguyên muốn thử tài văn
chương của trạng và muốn dò khí tiết của viên bồi thần bằng một câu đối. Vua Nguyên
đọc: “Nhật hỏa vân yên, bạch đán thiên tàn ngọc thỏ” (Mặt trời là lửa, ban ngày đốt cháy
vầng trăng).
Mạc Đĩnh Chi biết là vua Nguyên kiêu hãnh, tự xem mình là mặt trời, và coi Việt
Nam như mặt trăng, ban ngày nhất định bị mặt trời thôn tính, ông bèn ứng khẩu đối ngay:
“Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô” (Trăng là cung, sao là đạn, chiều tối bắn
rơi mặt trời).
Câu ra đã giỏi mà câu đối lại tài hơn. Vua Nguyên nghe nói biết mình bị trả một
miếng đau, nhưng cũng rất kính phục Mạc Đĩnh Chi, bèn thưởng cho trạng nguyên Việt
Nam rất nhiều rượu ngon và vàng lụa.
Nguồn: [GTVHVN, tr.79 – 80].
5. Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào (Mạc Đĩnh Chi)
Hồi Mạc Đĩnh Chi sang sứ nhà Nguyên thường hay cưỡi lừa đi chơi trên các phố.
Một hôm, mải ngắm cảnh hàng phố, đang nghênh ngang đi trên lừa, bỗng chạm phải ngựa
của một người trước mặt đi tới. Người ấy tức mình bèn đọc một câu rằng: “Xúc ngã kỵ mã,
Đông di chi nhân dã, Tây di chi nhân dã?” (Chạm ngựa ta cưỡi là người rợ phương Đông
hay là người rợ phương Tây?).
Từ chữ “Đông di” trở đi là lấy ở sách Mạnh Tử, có ý khinh rẻ coi Mạc Đĩnh Chi là
mọi rợ, man di. Mạc Đĩnh Chi thấy người có thái độ kẻ cả như vậy bực lắm, bèn đáp rằng:
“Át dư thừa lư, Nam phương chi cường dư, Bắc phương di cường dư?” (Ngăn lừa ta ngồi,
hỏi người phương Nam mạnh hay người phương Bắc mạnh?).
Từ chữ “Nam phương” trở đi là lấy ở sách Trung dung. Câu này lời lẽ rất ngang
tàng, ý bảo chưa chắc người phương Bắc đã mạnh hơn người phương Nam, chưa biết mèo
nào cắn mỉu nào. Người Nguyên nghe Mạc Đĩnh Chi trả lời biết gặp phải tay cứng cổ, ra
roi cho ngựa đi thẳng, không dám hoạnh họe gì nữa.
Nguồn: GTVHVN, tr.85 – 86.
6. Chim chếch - ếch ngộp (Mạc Đĩnh Chi)
Thời gian Mạc Đĩnh Chi sang sứ nhà Nguyên, người Nguyên chê tiếng nói của sứ bộ
ta líu ríu như chim chích, mới đọc giễu một câu rằng: “Quých tập chi đầu đàm Lỗ luận, tri
chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri” (Chim chích tụ đầu cành, đọc sách Luận ngữ: biết nói
là biết, không biết nói là không biết, đó là biết).
PL170
Câu này dùng toàn chữ trong sách Luận ngữ. Mạc Đĩnh Chi cũng dùng toàn chữ
trong sách Mạnh Tử để đối lại: “Oa minh trì thượng độc Châu thư, lạc dữ thiểu lạc nhạc,
lạc dữ chúng lạc nhạc, thục lạc?” (Ếch kêu trên bờ ao, đọc sách Mạnh Tử: vui cùng ít
người vui nhạc, vui cùng nhiều người vui nhạc, đằng nào vui?). Câu này có ý chê bai hiểu
biết của các quan nhà Nguyên như ếch ộp ở trong ao. Thế là vỏ quýt dày có móng tay
nhọn. Người Nguyên biết là dại, không dám tỏ vẻ chê bai, bỉ báng nữa.
Nguồn: GTVHVN, tr.86 – 87.
7. Hoa sen trong giếng ngọc (Mạc Đĩnh Chi)
Mạc Đĩnh Chi, tự là Tiết Phu, người làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải
Dương, sống vào đầu thế kỷ XVI, không rõ năm sinh và mất. Tục truyền làng ông có một
gò mối rất lớn, vốn là khu lăng tẩm lâu đời. Một bữa, mẹ ông vào đó kiếm củi, bị một con
khỉ độc hiếp, rồi có mang. Bố ông tức giận, cải trang làm thành đàn bà đi kiếm củi và giết
chết con khỉ ấy. Được vài hôm, ở chỗ xác con khỉ bỗng thấy mối đùn lên thành một ngôi
mộ. Sau đấy ít lâu thì bố ông mất, lúc hấp hối dặn người nhà chôn mình vào chỗ con khỉ.
Khi Mạc Đĩnh Chi sinh ra, tướng mạo vô cùng xấu xí: lùn, đen, mồm rộng, mũi tẹt,
trán dô. Người làng bảo đó là tinh con khỉ nghiệm vào. Nhưng ông lại rất thông minh, từ
nhỏ đã nổi tiếng thần đồng. Đời Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 2 (1304), ông đi
thi, văn bài làm trội hơn mọi người nhưng vì mặt mũi xấu xí nhà vua không muốn cho ông
đỗ. Ông bèn dâng lên bài phú “Ngọc tĩnh liên” (Hoa sen trong giếng ngọc) để nói lên cái
phẩm giá thanh cao của mình (…).
Nguồn: GTVHVN, tr.77 – tr.78.
8. Sư sử sứ, phụ phù phu (Lương Thế Vinh)
Vua Lê Thánh Tông đi kinh lý vùng Sơn Nam Hạ, ghé thăm làng Cao Hương, huyện
Vụ Bản, quê hương của trạng nguyên Lương Thế Vinh, lúc bấy giờ cũng đang theo hầu
vua. Hôm sau, vua đến thăm chùa làng, khi ấy sư cụ đang tụng kinh. Bỗng sư cụ đánh rơi
cái quạt xuống đất. Vẫn tiếp tục tụng, sư cụ ra lấy tay ra hiệu cho chú tiểu nhặt. Một vị
quan tùy tùng của vua đã nhanh tay nhặt cho vua. Vua Lê Thánh Tông trông thấy vậy, liền
nghĩ ra một vế đối, rồi trong bữa tiệc hôm đó thách các quan đối. Vế đối như sau:
“Đường thượng tụng kinh, sư sử sứ”
(Trên bục đọc kinh, sư sai khiến được sứ)
Câu này oái oăm ở ba chữ: sư, sử, sứ. Các quan đều chịu, chẳng ai nghĩ ra câu gì.
Lương Thế Vinh cứ để cho họ suy nghĩ chán chê. Ông ung dung ngồi uống rượu chẳng nói
năng gì. Vua Thánh Tông quay lại bảo đích danh ông phải đối, với hy vọng đưa ông đến
chỗ bí. Nhưng ông chỉ cười trừ. Một lúc ông cho lính hầu chạy ngay về nhà mời vợ đến.
Bà trạng đến, ông lấy cớ quá say xỉn phép cho vợ dìu mình về.
Thấy Vinh là một tay có tài ứng đối mà hôm nay cũng đành phải đánh bài chuồn, nhà
vua lấy làm tự đắc, liền giục: “Thế nào, đối được hay không, thì nói hẵng rồi về chứ!”.
Vinh gãi đầu, gãi tai, rồi chắp tay ngập ngừng:
- Dạ muôn tâu. Thần đối rồi đấy ạ!
Vua và các quan lấy làm lạ, bèn bảo Vinh đọc thứ xem. Vinh cứ một mực: “Đối rồi
đấy chứ ạ”. Sau nhà vua gạn mãi, Vinh mới chỉ vào người vợ đang dìu mình mà đọc rằng:
“Đình tiền túy tửu, phụ phù phu”
PL171
(Trước sân say rượu, vợ dìu chồng)
Nhà vua cười và thưởng cho rất hậu.
Nguồn: GTVHVN, tr.109 – 110.
9. Hai cô Điểm, hai ông Luân (Đoàn Thị Điểm)
Một hôm, bà Điểm đang soi gương trước cửa sổ, ông Luân trông thấy đọc cho bà
một vế đối như sau:
“Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm”
(Soi gương vẽ mày, một nét hóa thành hai nét)
Câu này cũng có nghĩa một cô Điểm hóa thành hai cô Điểm. Bà Điểm nghe xong đối
lại ngay:
“Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân”
(Tới xem ao trăng, một vừng biến thành hai vừng)
Câu này cũng có ý một ông Luân hóa hai ông Luân. Thế là kẻ tám lạng, người nửa
cân, hai anh em chẳng ai chịu kém ai.
Nguồn: [GTVHVN, tr.139].
10. Vế đối hai nghĩa (Đoàn Thị Điểm)
Năm bà Đoàn Thị Điểm 25 tuổi (1730) thì thân phụ mất ở nơi dạy học. Bà cùng mẹ
và anh đưa linh cữu về quê mai táng, rồi đó, ba mẹ con tới cư ngụ ở làng Vô Ngại, huyện
Đường Hào, Hưng Yên.
Bấy giờ bà Điểm thường thay anh trong việc thù tiếp các tân khách. Bà vốn là cô gái
tài sắc lại giỏi về giao tế nên tiếng tăm bà lừng lẫy khắp nơi. Người ta đồn rằng: khi bà
Điểm thay anh tiếp khách, tuy “dâng rau muối mà hơn cà trân tu”. Do đó, khách đến thăm
bà đã nhiều, mà những khách phong lưu công tử đến dòm ngó bà cũng lắm.
Khi ấy có hoàng giáp Vũ Diễm với các bạn là tiến sĩ Nhữ Đình Toản, Nguyễn Công
Thái, cùng kéo nhau đến nhà bà Điểm. Các thầy được bà Điểm tiếp đãi rất lịch sự, bà cho
người bưng khay trầu ra mời, trên khay có để một bức hoa tiên viết một câu đối:
“Đình tiền thiếu nữ khuyến tân lang”
Hai chữ “thiếu nữ” ở đây có hai nghĩa: gió nhẹ, hoặc cô gái. Hai chữ “tân lang” là
cây cau thì đồng âm với hai chữ tân lang là chàng rể. Bởi vậy, vế đối cũng có thể hiểu theo
hai nghĩa. Trước sân, gió phảng phất cây cau hoặc trước sân cô gái mời chàng rể.
Các thầy đọc xong vế đối, rồi sáu mắt ngó nhau, chẳng ai đối lại được. Thế là trầu
cũng chẳng kịp ăn, ý định chòng ghẹo cũng tiêu tán hết, các thầy đành nhã nhặn gửi lời
chào bà rồi vội vả rút lui.
Nguồn: GTVHVN, tr.140 – 141.
11. Thư mượn áo cừu (Lê Quý Đôn)
Tục truyền Lê Quý Đôn có người con trai và người học trò đều nổi tiếng hay chữ.
Đến khoa thi, vua Lê và chúa Trịnh đánh cược nhau: vua thì đoán con Lê Quý Đôn đỗ đầu,
chúa thì đoán học trò Lê Quý Đôn đỗ đầu. Lúc vào thi, Lê Quý Đôn dặn học trò đánh tráo
bài thi cho con trai mình, vì thế con ông đỗ đầu mà anh học trò chỉ đỗ thứ hai. Thế là vua
được cuộc, chúa thua. Chúa vốn biết sức học của anh học trò hơn hẳn con trai Lê Quý Đôn
mà té ra bị thua cuộc, lấy làm tức lắm. Lâu dần, mưu gian của Lê Quý Đôn bị vỡ lỡ. Chúa
nổi giận cách chức Lê Quý Đôn và xóa tên hai người trong sổ trúng tuyển.
PL172
Được vài năm sau, có sứ nhà Thanh sang, tới cửa ải, thì dừng lại không đi nữa, chỉ
đưa một tấm vóc có đề một chữ rất kỳ lạ và nhắn chừng nào giải được thì sứ mới vào nước.
Vua chúa hội cả quần thần lại hỏi, chẳng ai đoán ra chữ gì cả, chúa lo lắm. Các quan tâu
rằng phải hỏi Lê Quý Đôn thì may ra mới xong được. Chúa bất đắc dĩ phải khôi phục chức
tước cho Lê Quý Đôn và triệu vào triều để hỏi. Nhưng Lê Quý Đôn khước từ là không biết.
Chúa lại phải trả khoa mục cho hai người kia, bấy giờ Lê Quý Đôn mới chịu giải.
Ông bảo xin vua gửi cho sứ nhà Thanh một tấm áo tự khắc sứ sẽ đến. Vua chúa, quần
thần cũng chưa hiểu ý nghĩa ra sao, nhưng cứ vẫn phải theo lời Lê Quý Đôn. Quả nhiên,
nhận được áo, sứ nhà Thanh đến ngay. Ngày sứ đến, Lê Quý Đôn được cử ra đón sứ. Lê
Quý Đôn viết vào mảnh giấy đỏ bốn chữ: Phỉ xa bất đông (匪 車 不 東) để đưa sứ xem. Sứ
đứng dậy vái bốn vái rồi lấy áo cầu giả lại phái đoàn Việt Nam, tỏ lòng hết sức khâm phục
tài trí người Việt. Bấy giờ, vua chúa quần thần nhà Lê mới ngã ngửa người biết là đố mẹo.
Thì ra đó là câu lấy trong Kinh thi, thơ của Mao Khưu: “Hồ cừu mông nhung, phỉ xa bất
đông” (Áo hồ cừu rách rưới, chẳng phải không có xe mà không qua phía đông). Sứ nhà
Thanh muốn nói là mình không có áo đại lễ nên không dám đến. Cả một câu mà thu gọn
vào có một dấu, chỉ một dấu mà thay thế đủ lời lẽ của cả một bức thư. Triều đình xôn xao
khen kẻ đố mười phần thì lại càng phục người giải trăm phần.
Nguồn: GTVHVN, tr.149 – 150.
12. Cái cò lặn lội bờ sông (Lê Quý Đôn)
Ai cũng biết Lê Quý Đôn là người có học vấn uyên bác, vì thế người ta đồn đại rằng:
“Thiên hạ vô tri vấn bảng Đôn”. Nghĩa là: Thiên hạ có điều gì không hiểu thì cứ hỏi ông
Bảng Đôn.
Tương truyền khi Lê Quý Đôn cáo quán về nhà, không mấy ngày là có người đến hỏi
han điều này điều nọ. THậm chí có người dựng vợ gả chồng cho con cũng tìm đến xin ý
kiến cụ Bảng.
Tuy nhiên, đối với kiến thức ngoài sách vở thì không phải cái gì ông cũng biết. Một
hôm, có người đến trao cho Lê Quý Đôn tờ giấy ghi mấy câu chữ Hán và nhờ ông giảng
giải, nội dung như sau:
Trương phàm khuyến tửu chi ca
Phụ mễ đầu hà chi thán
Kỳ tích hà như?
Nghĩa là:
Khúc hát giương buồm mời rượu
Lời than gánh gạo lội sông
Tích ấy thế nào?
Lê Quý Đôn vốn đã thông làu kinh sử, nhớ nhiều điển tích hay lạ, vậy mà chưa thấy
có điển tích nào như thế. Ông đành phải tạm khất người khách vài ngày để tra cứu thêm.
Qua một đêm vắt óc suy nghĩ, ông vẫn chưa tìm được câu trả lời. Sớm hôm sau, ông
buồn bực ra khỏi nhà, lên mặt đê ven làng đi dạo cho khuây khỏa. Chợt ông thấy dưới sông
có một con thuyền đang căng buồm trôi nhẹ theo chiều gió, mà ở ngoài đầu khoang lại có
mấy người ngồi cắm cúi chừng như đang chén chú chén anh. Thế là ông bỗng nhớ đến
ngay câu ca của đám dân chài:
PL173
Thuận buồm xuôi gió,
Chén chú chén anh,
Nước ngược chèo quanh,
Mày tao ngươi tớ!
Một ánh sáng lóe lên trong đầu óc tỉnh táo lúc ban mai, ông lẩm bẩm tự trách mình:
“Thế mà ta cứ mãi tìm kiếm những điển cố trong sách vở của Thánh hiền. Chắc điển tích
kia cũng từ đời sống của nhân dân mà ra thôi!”. Rồi ông reo lên trong sung sướng, đi thẳng
một mạch về nhà. Tình cờ trên đường về gần đến nhà, Lê Quý Đôn nghe vẳng tiếng tiếng
hát ru con à ơi của một người đàn bà:
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Thế là ông vỡ nhẽ. Vừa vào đến nhà ông lấy giấy bút viết ngay bài ca nôm để trà lời
người khách như sau:
Thuận buồm xuôi gió,
Chén chú chén anh,
Nước ngược chèo quanh,
Mày tao ngươi tớ!
Phải chăng tích nọ
Có đúng hay không?
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Lời than lòng dạ héo hon,
Ra ngoài chữ nghĩa dấu son thánh hiền
Từ đấy, mọi người càng yêu mến Lê Quý Đôn vì ông rất gần gũi với nhân dân chứ
không phải là một trí thức sách vở: Tú tài bất xuất môn, toàn tri thiên hạ sự. (Tú tài không
ra khỏi nhà mà biết hết mọi việc trong thiên hạ).
Nguồn: GTVHVN, Tập 11, Tổng tập VHDGNV, tr.202 – 204.
(Giai thoại này, trong công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam của Vũ Ngọc Khánh
có tên là Căng buồm mời rượu – Gánh gạo lội sông, chỉ khác nhau về tiêu đề, còn nội dung
không có gì khác biệt)
13. Câu đố chữ nhất (Lê Quý Đôn)
Tục truyền Lê Quý Đôn là người rất tự phụ, nhất là khi mới đỗ Bảng nhãn (năm 27
tuổi), ông càng tỏ ra mình là người tuổi trẻ tài cao, học rộng biết nhiều, ông cũng từng
thường tự nói là không có điều gì trong thiên hạ mà ông Bảng Đôn không biết.
Một hôm, Lê Quý Đôn đi dự đám khao ở đâu đó. Sau khi cỗ bàn xong, đang ngồi
uống nước, xỉa răng trong sạp, chợt có ông lão đến gặp Lê Quý Đôn thưa rằng:
- Lão mới nghe được một câu đố chữ, song ngu dốt nghĩ mãi không ra. Nay may gặp
quan Bảng là người học rộng biết nhiều, mong được quan Bảng giải dùm cho.
Được Lê Quý Đôn nhận lời, ông lão liền đọc:
Hạ bất khả hạ,
Thượng bất khả thượng,
Chỉ nghi tại hạ,
PL174
Bất khả tại thượng.
Nghĩa là:
Dưới không thể dưới,
Trên không thể trên,
Chỉ nên ở dưới,
Không nên ở trên.
Đây là một câu đố về chữ Hán nào đó, song cứ theo nghĩa câu này mà luận thì chỉ
thấy chữ dưới, trên; trên, dưới luẩn quẩn không biết đường nào mà lần. Lê Quý Đôn nghĩ
mãi cũng không tài nào giải được chữ gì. Sau đành xin chịu. Bấy giờ ông lão mới tủm tỉm
cười mà rằng: “Có người mách bảo đó là chữ “Nhất” đấy. Nhưng chẳng biết có đúng
không, nhờ quan Bảng chỉ xem xem.
Nghe lời ông lão, Lê Quý Đôn liền lấy ngón tay trỏ nhúng vào chén nước rồi vạch
vạch xuống mặt bàn, vừa vạch vừa lẩm bẩm:
- Chữ “Hạ” (下) là dưới, thì đúng là nét ngang ở trên chứ không thể ở dưới được
- Chữ “Thượng” (上) là trên thì đúng là nét ngang ở trên chứ không thể ở dưới
- Hai chữ “Chỉ nghi” (止 宜) nghĩa là chỉ nên, thì nét ngang đều ở dưới
- Hai chữ “Bất khả” (不 可) nghĩa là không thể, thì nét ngang không ở dưới mà lại ở
trên
Ông tự nhủ thầm: “Nếu không vạch xuống mặt bàn mà phân giải cho cặn kẽ, rạch ròi
như thế, thì cũng có trời mà biết được câu đố này. Đây cũng là chữ Nhất thật rồi!”.
Lê Quý Đôn rất lấy làm khâm phục trí khôn của dân gian, những người đã nghĩ ra
câu đố hết sức thông minh này. Ông vỗ đùi reo lên thích thú: “Đúng là chữ Nhất rồi, đúng
rồi!”. Nhưng ngửng mặt lên thì không thấy ông lão đâu nữa. Lê Quý Đôn bất giác thẹn đỏ
mặt. Nghe nói, từ đó ông Bảng Đôn cũng bớt tự phụ dăm bảy phần.
Nguồn: GTVHVN, Tập 11, Tổng tập VHDGNV, tr.205 – 207.
14. Cốt đối ý (Nguyễn Hữu Cầu)
Khoảng đời Lê Hiển Tông (1740 – 1786), có Nguyễn Hữu Cầu là một lãnh tụ nông
dân khởi nghĩa xuất sắc, thường được mọi người ca ngợi là Hạng Võ nước Nam. Nguyễn
Hữu Cầu tục gọi là Quận He quê ở Lôi Động, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, xuất thân
trong một gia đình nông dân nghèo, không rõ năm sinh, chỉ biết mất vào năm Cảnh Hưng
II (1751).
Thuở nhỏ, Nguyễn Hữu Cầu và Phạm Đình Trọng cùng học với nhau một trường.
Trọng thường được thầy khen nhưng riêng Cầu thì vẫn không phục Trọng. Một hôm, thầy
đi đám, cho Cầu và Trọng cùng theo. Lúc về, nhà đám biếu một cái thủ lợn. Cầu và Trọng
tỵ nhau mãi chẳng ai chịu xách. Thầy thấy vậy, ra một vế đối, bảo hễ ai đối được thì miễn
xách. Thầy đọc: “Huề trư thử” (Xách đầu lợn). Trọng đối lại: “Phan long lân” (Vin vẩy
rồng). Còn Cầu thì đối: “Phá Tần diệt Sở”.
Thầy gõ vào đầu Cầu một giáo quạt, chê câu ấy chẳng đâu vào đâu cả, mà còn thừa
chữ. Rồi thầy bắt Cầu phải xách cái thủ lợn. Nhưng Cầu vẫn gân cố cãi:
- Tôi đối sai thật nhưng ý tôi là tôi muốn bốc vẩy rồng kia, chứ không thèm vin rồng
như thằng Trọng.
Một hôm khác, thầy lại ra một vế đối:
PL175
“Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo”
Trọng đối rằng:
“Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc”
Còn Cầu thì đối bừa là:
“Tháng mười sấm rạp, tháng chạp sấm động”
Thầy nghe xong bảo: Thằng Trọng có khẩu khí làm quan to, còn thằng Cầu chỉ làm
giặc. Rồi đó, ông thầy sợ không dám dạy Cầu nữa. Lúc ra chơi, Trọng bảo Cầu:
- Tao sẽ cầm quân bắt mày!
Cầu đáp:
- Nếu tao làm giặc thì tao sẽ đánh tan những đứa ra luồn vào cúi!
Quả nhiên về sau, khi cầu làm lãnh tụ khởi nghĩa nông dân, Trọng và Cầu là hai tay
kình địch nhau đến cùng.
Khi Cầu đã chuyển sang học thầy khác, một hôm thầy có việc phải mổ bò thết khách,
nhân đó, ra cho học trò vế đối là: “Tể hoàng ngưu” (Giết bò vàng). Cầu nhanh nhảu đối
ngay: Trảm bạch xà (Chém rắn trắng). Thầy lắc đầu bảo đối sai luật. Cầu đáp:
- Tôi chỉ cốt đối lấy ý chứ không cần luật. Vả lại, giết bò vàng mà đối với chém rắn
trắng mà không đúng luật à? Thầy chợt hiểu, khen:
- Thế thì mày có chí lớn, cố lên con ạ!
Nguồn: GTVHVN, tr.152 – 153.
15. Đánh nhau bằng cả câu đối (Nguyễn Hữu Cầu)
Khi cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Cừ thất bại thì Nguyễn Hữu Cầu đứng ra lãnh đạo
nghĩa quân chiếm Đồ Sơn, Vân Đồn, xưng là Đông đạo Thống quốc Bảo dân Đại tướng
quân, chủ trương lấy của cải nhà giàu chia cho dân nghèo, được quần chúng rất yêu mến và
theo ông rất đông, họ thường gọi là quận He.
Dần dần, nghĩa quân kéo ra đánh phá khắp cả vùng đông nam đồng bằng Bắc Bộ.
Quan quân triều đình dẹp mãi vẫn không sao trừ được. Về sau chúa Trịnh sai Phạm Đình
Trọng ra dẹp. Khi quân của Trọng tới nơi, y viết một vế câu đối sai người đưa cho Nguyễn
Hữu Cầu:
“Thổ triệt bán hoành, thuận giả thượng, nghịch giả hạ”
(Chữ thổ (土) bỏ một nét ngang, để xuôi là chữ thượng (上), để ngược là chữ hạ
(下))
Câu này có ý nếu Nguyễn Hữu Cầu thuận theo thì sẽ cho một chức quan, nếu không
sẽ bị tiêu diệt. Nguyễn Hữu Cầu xem xong đối lại rằng:
“Ngọc tàng nhất điểm, xuất vi chúa, nhập vi vương”
(Chữ ngọc (玉), có một chấm, để lên đầu là chữ chúa (主), bỏ đi là chữ vương (王))
Cầu có ý ngạo nghễ, nói rõ chí lớn của mình một là làm vua hai là làm chúa chứ
không thèm hàng. Rồi đó, Cầu và Trọng dàn quân đánh nhau kịch liệt luôn mấy trận vẫn
không phân hơn thua được.
Nguồn: GTVHVN, tr.154 – 155.
16. Một lũ ăn mày một lũ quan (Nguyễn Quí Tân)
Nguyễn Quí Tân, hiệu Đinh Trai, biệt hiệu Tán Tiên đình cư sĩ, người làng Thượng
Cốc, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, sinh năm 1811 mất năm 1856. Thuở nhỏ, ông nổi
PL176
tiếng là người có văn tài, năm 29 tuổi đậu kỳ thi Hương, năm 31 tuổi đậu tiến sĩ, từ đó tục
gọi là Nghè Tân. Ông có ra làm tri phủ được mấy tháng; nhưng rồi chán với công danh, thế
sự, ông từ chức, đi ngao du sơn thủy, uống rượu ngâm thơ. Thơ ông phần nhiều nhằm đả
kích vào bọn quan lại áp bức lóc lột nhân dân.
Tương truyẻn cuối đời Thiệu Trị (1840 — 1847), ông được triệu vào kinh làm quan
ở bộ Hộ, sau lại được bổ làm chức thanh tra quan lại ở Bắc Kỳ nhưng không được bao lâu
ông lại lấy cớ ốm đau xin về. Thời kỳ làm thanh tra, ông thường mặc giả học trò nghèo đề
dễ điều tra tình hình tham quan ô lại.
Người ta kể chuyện ngay hồi còn đi học, Nghè Tân đã tỏ ra khinh ghét chế độ
trường, Một hôm, nhằm ngày rằm trung thu, các quan đâu tỉnh Hải Dương (tỉnh của
Nguyễn Quí Tân) rủ nhau cùng vợ hầu, các cô chiêu, cậu ấm ra phố xem nhân dân phá cỗ;
lính tráng hò hét đẹp đường om sòm; các ngọn roi quất vào đầu dân kêu vun vút. Nghè Tân
có mặt ở đó, tức lắm, không chịu tránh đường cho quan đi. Lính bắt lại cho quan định tội.
Nghè Tân nói mình là học trò, mải xem một chiếc đèn kéo quân đẹp quá, nên không biết
quan đến.
Một viên quan bảo:
- À thế phải anh là học trò mải xem đèn kéo quân thì hãy làm một bài thơ vịnh đèn
kéo quân đi, hay thì các quan lớn tha, dở thì phải đánh đòn.
Nghè Tân vâng lời, chỉ một chốc lát rồi đọc:
“Một lũ ăn mày một lũ quan,
Quanh đi quẩn lại cũng một đoàn,
Đến khi dầu hết đèn thôi cháy,
Chẳng thấy ăn mày, chẳng thấy quan”.
Các quan nghe xong đều bầm gan tím mật nhưng không biết chê vào đâu được đành
phải bấm bụng để cho Nghè Tân đi.
Nguồn: GTVHVN, tr.244.
17. Thơ răng cắn lưỡi (Nguyễn Đăng Hành)
Nguyễn Đăng Hành, con Nguyên Đăng Giai làm quan đời Tự Đức, là người hay chữ.
Nhân đẹp được cuộc âm mưu lật đổ của Hồng Bảo, Tự Đức mở tiệc ăn mừng. Trong khi
đang đãi yến các quan; nhà vua ăn uống thể nào lại để răng cắn phải lưỡi.
Vua bèn lấy sự việc này bảo các quan làm thơ để mua vui. Các quan đều làm thơ
dâng lên vua, nhưng chỉ có bài thơ của Nguyễn Đăng Hành là hay hơn cả. Bài thơ như sau
:
“Ngã sinh chi sơ, nhữ vị sinh,
Nhữ sinh chi hậu ngã vi huynh,
Kim triêu hạnh hưởng cao lương vị,
Hà nhẫn độc thương cốt nhục tình”.
(Tớ sinh, ngươi chửa ra đời,
Ngươi sinh sau tớ, tớ thời làm anh.
Hôm nay ăn uống ngon lành,
Mối tình cốt nhục, sao đành hại nhau)
PL177
Rõ ràng, đây là một bài thơ nói về việc răng cắn phải lưỡi. Lưỡi có trước khi mọc
răng, vậy thì lưỡi là anh, mà răng là em, Thế mà, khi được miếng ăn ngon đáng lẽ cùng
nhau hưởng thụ, thì răng lại nỡ lòng cắn lưỡi đề tranh ăn lấy một mình. Nhưng bài thơ lại
ngụ ý chê trách nhà vua nỡ giết anh là Hồng Bảo để độc hưởng phú quý.
Tự Đức xem xong biết là Hành ám chỉ việc riệng của mình, tức giận lắm, nhưng
cũng phải phục là tài. Rồi để thỏa nỗi tức giận của mình, nhà vưa sai đem tác giả ra cửa
Ngọ môn nọc đánh ba chục roi về cái tội châm biếm phạm thượng. Sau đó, đề tỏ rằng mình
cũng biết quí trọng văn tài, nhà vua lại thưởng tiền cho tác giả rất hậu.
Nguồn: GTVHVN, tr.259 – 260.
18. Ở truồng xem vua (Cao Bá Quát)
Một hôm, Cao Bá Quát từ Bắc Ninh sang chơi Hà Nội. Bấy giờ, Quát mới còn là một
cậu học trò để chỏm. Quát thấy Hà thành có vẻ rộn rịp khác thường, hỏi ra mới biết là vua
Minh Mệnh ngự giá Bắc thành, sắp đi thăm Hồ Tây và thắng cảnh khác ở Thăng Long.
Chờ đúng giờ đạo ngự đi đến Hồ Tây, thì Quát cởi truồng ra, giả vờ xăm xăm nhảy xuống
hồ để tắm.
Quan quân thấy vậy hoảng hốt, thét bắt trói lại. Càng bị trói, Quát càng gào to và
giẫy giụa vùng chạy, gây một cảnh ồn ào, hỗn độn bên bờ hồ. Vừa lúc đó, kiệu vua đi qua.
Minh Mệnh truyền lệnh dẫn Quát đến hỏi. Quát tâu là học trò khó mới ở nhà quê lên không
biết gì. Minh Mệnh nghe nói liền nảy ra một ý: Nhân dưới hồ nước trong, có nhiều đàn cá
lội tung tăng đuổi bắt nhau, Minh Mệnh ra một vế đối:
“Nước trong leo lẻo cá đớp cá”.
Và hứa với Quát đối được sẽ tha. Quát không cần nghĩ ngợi, cũng tức cảnh việc mình
bị trói, đối lại:
“Trời nắng chang chang, người trói người!”
Minh Mệnh cả kinh và tức uất người lên, nhưng vì không muốn mang tiếng với
người Bắe hà trong dịp đầu tiên vua ra thăm đất Bắc, nên đành truyền lệnh cởi trói tha cho
Cao Bá Quát.
Nguồn: GTVHVN, tr.229.
19. Khí phách ngang tàng (Cao Bá Quát)
Một hôm, Cao Bá Quát sang Hà thành mua sắm. Khi đi ngang qua nhà quan Đốc
học, thấy tiếng bình văn liền đứng lại nghe. Câu nào dược thì chẳng nói gì, hễ câu nào dở
lại chun mũi, lắc đầu, khạc nhổ tứ tung. Lính coi cửa thấy thế liền bắt vô trình quan. Quan
cho là Quát khinh mình dốt, nổi giận đùng đùng, đập nghiên son xuống sập bắn tung tóe,
thét Quát hỏi. Quát xưng là học trò thấy bình văn thì đứng lại nghe, chứ không làm gì nên
tội cả. Viên quan hỏi học ai thì Quát nói: Học ông Trình ông Chu.
Nghe anh học trò oắt mà nói năng càn rỡ ngông ngạo, viên đốc học cả giận bảo:
- Sách có chữ “Tiên học lễ hậu học văn” (trước học lễ phép rồi sau mới học văn
chương). Nhà ngươi là học trò hẳn cũng biết điều đó, vậy mà lại còn có hành vi vô lễ. Bây
giờ ta ra cho một vế đối, hễ ngươi đối được thì ta tha, bằng không thì phải đánh đòn.
Rồi viên quan đọc rằng:
“Nhĩ tiểu sinh hà xử đáo lai, cảm thuyết Trình Chu sự nghiệp?”
Nghĩa là: Mày là thằng trò oắt ở đâu đến đây, đám nói sự nghiệp ông Trình ông Chu?
PL178
Quát thấy bị khinh thường thì tính khí ngang tàng bỗng nổi dậy, đối ngay rằng:
“Ngã quân tử kiến cơ nhi tác, dục vi Nghiêu, Thuấn quân dân!”
Nghĩa là: Ta chính bậc quân tử biết thời mà dấy; muốn làm vua dân đời Nghiêu đời
Thuấn!
Viên quan nghe Quát đối chọi chan chát, chịu là hay, lại thấy có khí phách lớn lao
như vậy thì cũng có ý chờn, vội vàng thả cho Quát đi ngay.
Nguồn: GTVHVN, tr.229 – 230
20. Một bọc sinh đôi (Cao Bá Quát)
Khi Tự Đức lên ngôi (1848) thì Cao Bá Quát vẫn còn phải làm một chức quan nhỏ
(hành tẩu) ở bộ. Tự Đức nghe tiếng hai anh em họ Cao đã lâu, một hôm bèn cho triệu Cao
vào điện đề xem mặt và hỏi thử tài học.
Vua ra đùa một vế đối rằng:
“Nhất bào song sinh, nan vi huynh, nan vi đệ”
Nghĩa là: một bọc sinh đôi, khó làm anh; khó làm em, ý chỉ hai ông Đạt và Quát sinh
một lần, khó biết ai là anh ai là em.
Cao liền đối lại một cách rất khéo léo :
“Thiên tải nhất ngộ, hữu thị quân, hữu thị thần”
Nghĩa là: nghìn năm gặp một, có vua ấy, có tôi ấy. Ý Cao Bá Quát muốn nói có ông
vua tài giỏi (như Tự Đức), thì mới có người bề tôi tài giỏi (như Cao Bá Quát).
Tự Đức rất hài lòng về vế đối này. Tuy nhiên, nhà vua đã không lường hết được chỗ
thâm thúy của vế đối, vì câu này cũng còn có thể hiểu theo nghĩa khác: Có ông vua như Tự
Đức thì cũng có người bề tôi như Cao Bá Quát để đối chọi lại (có ý “vỏ quýt dày có móng
tay nhọn”). Và đó cũng chính là cái ý lắt léo của họ Cao.
Nguồn: GTVHVN, tr.230 – 231.
21. Khóc mướn kiếm ăn (Cao Bá Quát)
Có một lần Cao Bá Quát đi thăm bạn ở xa. Bạn đi vắng, ông phải trở về, bụng đói mà
tiền thì đã hết nhẵn. Đang di lang thang thất thểu, chợt nghe gần đấy có kèn trống đám ma.
Quát theo chừng lần tới nơi. Hỏi ra biết là đám tang một ông cụ già nhà khá giả. Quát liền
bước vào nhà, thấy quan viên ngồi chật ních trong rạp. Ở chính giữa rạp, thấy có dăm bảy
ông râu dài, ngồi chễm chệ trên chiếu cạp điều, đang ngất ngưởng nói chuyện chữ nghĩa,
lại thấy hiếu chủ chấp tay bẩm báo chầu chực, nên Quát đoán là văn thân hào mục, hay cử
tú gì đó.
Quát liền tới gần hiểu chủ nói:
- Tôi là khách qua đường này chẳng may cụ năm mươi về chầu Phật, bụng tôi lấy
làm cảm động lắm. Nên xin vào phúng cụ vài câu rồi đi.
Mấy vị ngồi chiếu cạp điều nghe Quát nói thế thì muốn lên mặt đàn anh, vừa rung
đùi vừa hất hảm hỏi:
- Thế nhà thầy ở đâu qua đây? Làm nghề gì?
Quát thưa:
- Bẩm các quan, tôi ở làng bên đi dạy học về qua đây.
Các ông lại tranh nhau hỏi:
- Dạy học à? Thế đã thi cử khoa nào chưa?
PL179
Quát đáp :
- Bẩm cũng có theo đòi vài ba khoa, nhưng đều hỏng cả. Về nhà văn dốt vũ dát nên
đành phải đi gõ dầu trẻ!
Các quan viên lại hỏi luôn:
- Ồ thế nhà thầy định phúng cầu đối Nôm hay chữ đấy?
Quát trả lời:
- Bẩm có mấy chữ đã dạy trẻ hết mất rồi, giờ xin làm Nôm thôi ạ!
Các ông đàn anh được thế lại lên giọng:
- Ừ, thế thì làm đi rồi các cụ sẽ phủ chính cho!
Quát bèn hẳng dặng rồi ngâm nga rằng:
“Thấy xe thiên cổ xịch đưa ra, không thân thích nhẽ đâu mà khóc mướn?
Tưởng sự bách niên đùng nghĩ đến, động can tràng nên nỗi phải thương vay!”
Các quan viên nghe xong đều lè luỡi thán phục, kéo ngay Quát lên chiếu cạp điều
mời cùng đánh chén. Đến sau rượu đã ngà ngà, mấy ông cứ gạn hỏi mãi, Quát đành phải
xưng tên thật. Thế là ông nào ông nấy giật mình thon thót, đứng vội dậy chắp tay xin lỗi
Quát rối rít.
Nguồn: GTVHVN, tr.231 – 232
22. Bịa thơ tài hơn vua (Cao Bá Quát)
Tự Đức vốn là vua sính thơ và hay khoe thơ mình. Nghĩ được câu thơ nào thường
vẫn đem đọc cho quần thần nghe và lấy làm tự đắc lắm.
Một hôm, sau buổi chầu, Tự Đức nói với các quan:
- Đêm qua trẫm nằm mơ làm được hai câu thơ thật kỳ lạ, để trẫm đọc cho các khanh
nghe. Rồi đọc luôn:
“Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ,
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai”
Các quan nghe xong đều lấy làm lạ vì chưa hề được nghe lối thơ vừa chữ vừa Nôm
ấy bao giờ, nhất là hai chữ “khề khà”, “lấm tấm” nghe thật thú vị. Còn Cao Bá Quát lúc
bấy giờ cũng có mặt ở đấy, thì thản nhiên mà tâu rằng:
- Tâu bệ hạ, tưởng gì chứ hai câu ấy thì từ hồi còn để chỏm đi học, thần đã được
nghe rồi ạ. Thần được nghe cả bài tám câu kia, nếu bệ hạ cho phép, thần xin đọc lại tất cả.
Tự Đức đang hí hửng về mấy câu thơ dở chữ dở Nôm rất độc đáo của mình, không
dè lại bị Quát dội một ráo nước lạnh thì tức lắm, vì rõ ràng hai câu thơ đó chính ông ta đã
nghĩ ra. Tuy nhiên, ông ta vẫn cố trấn tĩnh bảo Quát đọc cho nghe cả bài thơ, với thâm ý
nếu không đọc được thì sẽ trị cái tội khi quân ấy cho hả giận.
Còn đình thần cũng bực tức là Quát dám cả gan xúc phạm đến vua, và họ dang chờ
một trận lôi đình. Ông nọ lắm lét nhìn ông kia, không khí triều đình trở nên căng thẳng,
nặng nề khác thường...
Quát bình thản suy nghĩ một lát như để nhớ lại một bài thơ lâu ngày không nhìn đến,
rồi cất giọng sang sảng ngâm rằng:
“Bảo mã tây phương huếch hoác lai,
Huyênh hoang nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ,
PL180
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai.
Xuân nhật bất văn sương lộp bộp,
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài.
Khù khờ thi tứ đa nhân thức,
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài”.
Dịch là:
Ngựa báu từ phía Tây huếch hoác lại,
Người huênh hoang nhờ cậy dìu về.
Trong vườn oanh hót giọng khề khà,
Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm,
Ngày xuân chẳng nghe tiếng sương rơi lộp bộp,
Tiết thu chỉ thấy mưa bài nhài.
Tứ thơ khù khờ đã nhiều người biết,
Khệnh khạng còn mang đến hỏi tú tài.
Bài thơ vừa dọc dứt, cả đình thần hoang mang nhìn nhau, còn Tự Đức thì biết đích là
Cao Bá Quát chơi xỏ mình, nhưng cũng rất sửng sốt và hết sức thán phục. Vua sai lấy chè
và quế ban cho Quát và bắt Quát phải thú thật là đã bịa thêm sáu câu.
Nguồn: GTVHVN, tr.232 – 234.
23. Không biết chữ chi (Cao Bá Quát)
Cao Bá Quát lả người rất ngông nghênh ai cũng biết. Nhưng Cao cũng nổi tiếng là
người tự phụ về chữ nghĩa. Bình sinh, Cao Bá Quát chưa phục thơ văn của ai bao giờ.
Tương truyền, ông từng vỗ bụng khoe: “Trong thiên hạ có bốn bồ chữ, riêng bụng thằng
Quát này chứa hai bồ, anh ta Cao Bá Đạt và bạn ta Phương Đình Nguyễn Văn Siêu giữ một
bồ, còn một bồ nằm rải rác ở mọi người”.
Khi Quát làm Hảnh tẩu – một chức quan nhỏ ở trong kinh, nghe đồn Mạc Vân thi xã
có rất nhiều danh sĩ làm thơ hay, nhưng Quát đọc một số bài thơ xong lại bịt mũi mà ngâm
trước mặt mọi người hai câu rằng:
Ngán cho cái mũi vô duyên,
Câu thơ Thi xã, con thuyền Nghệ An.
Có ý chê thơ của Thi xã khắm (như thuyền chở nước mắm ở Nghệ An), không ngửi
được.
Đến hồi cụ thân sinh ra Quát mất, mọi người đem đối trướng đến phúng viếng rất
nhiều, song Quát đọc một câu bĩu môi chê dở. Bỗng một buổi chiều nọ, có cụ già chống
gậy, tới nhà tự xưng là bạn cũ của cụ thân sinh Cao Bá Quát, nghe tin bạn mới mất nên tìm
đến thăm viếng. Rồi ông lão mượn cớ mắt kém nên nhờ Quát lấy giấy bút viết hộ câu đối
để phúng viếng người bạn quá cố. Đặng, ông lão đặng hắng rồi đọc to: “Chi”. Quát không
ngờ ông lão lại đọc chữ một như vậy, thành ra đâm lúng túng, ngập ngừng, chưa biết hạ
chữ “Chi” nào (vì chữ “Chi” có rất nhiều chữ đồng âm). Ông lão lại đọc tiếp: “Chi”. Mà
Quát vẫn cầm bút mặt ngẩn tò te, rồi không biết xoay sở ra sao, Quát đành phải hạ thấp
giọng:
- Bẩm cụ, chữ Chi nào ạ?
Ông lão thở dài:
PL181
- Trời ơi, sao bảo anh có hai bồ chữ kia mà, thế mà một chữ “Chi” cũng không biết
viết?
Quát vừa ngượng, vừa cay cú, mặt đỏ bừng bừng. Bây giờ ông lão mới thủng
thẳng đọc luôn cả hai vế đối như sau:
Chi chi ngũ bách niên tiền, lục thủy thanh sơn hà xứ tại,
Tại tại tam thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy cánh hà chi.
Nghĩa là:
Đó đó trước năm trăm năm, nước biếc non xanh nào chốn cũ,
Kìa kìa ngoài ba ngàn dặm. hoa đào nước chảy dạt đi đâu?
Quát giật mình kinh ngạc câu văn siêu nhiên, thoát tục, hàm ý tiếc thương da diết mà
man mác bâng khuâng “ảnh cũ người xưa đâu tá”; đặc biệt là cách điệp chữ thật tài
tình, hiếm lạ. Ông lão đi xa rồi mà Quát còn cứ bàng hoàng như tỉnh như mơ.
Nguồn: GTVHVN, Tổng tập VHDGNV, tr.317 – 319.
24. Miệng kẻ sang, đồ nhà khó (Trạng Quỳnh)
Khoảng giừa thể kỷ 18, có trạng Quỳnh là một nhân vật rất nổi tiếng trong việc dùng
thơ văn đề đả kích bọn phong kiển thống trị đương thời. Theo lời truyền lại thì trạng
Quỳnh tên thật là Nguyễn Quỳnh, quê ở làng Đột Thượng, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh
Hóa, không rõ Quỳnh sinh và mất năm nào, chỉ biết Quỳnh sống vào khoảng Lê Hiển Tông
(1740 -1786). Quỳnh là người học giỏi và thông minh, láu lỉnh, năm 16 tuổi đã đậu Hương
cống nên người ta cũng thường gọi là cống Quỳnh. Quỳnh không đỗ trạng nguyên bao giờ,
nhưng tục vẫn gọi Quỳnh là trạng, vì tài ứng đối lanh lẹn, tài tình của ông.
Thuở Quỳnh còn ít tuổi, có viên quan huyện vừa gian tham lại vừa hống hách, dân
chúng ai ai cũng căm ghét. Một lần, Quỳnh trông thấy viên quan huyện đi hành hạt chế vào
quán nọ nghỉ trưa. Hắn ta ngồi bệ vệ, miệng luôn luôn bỏm bẻm nhai trầu, Quỳnh định xỏ
hắn một đòn chơi, mới mon men lại “ngồi chực” ở trước quán, và khi viên quan ăn trầu
xong, vứt bã đi, Quỳnh liền nhặt lấy giơ lên ngắm nghía, rồi bỏ vào túi.
Viên quan thấy lạ mắt, cho đòi Quỳnh lạt hỏi tên tuổi, nghề nghiệp. Quỳnh xưng là
học trò. Viên quan bảo: Học trò ai mà lẩn thẩn thế?
Quỳnh thưa: Bẩm, tôi thấy tục ngữ có câu “Miệng kẻ sang có gang có thép”, nên tôi
muốn thử xem gang thép ra sao!
Viên quan thấy Quỳnh có ý mỉa mình liền nạt: Nếu là học trò thì lập tức phải đối
ngay câu tục ngữ ấy, không là sẽ đánh đòn. Quỳnh vờ sợ sệt:
- Bẩm thế thì khó quá ạ!
Viên quan được thế càng quát già:
- Khó cũng phải đối, mau!
Quỳnh bấy giờ mới thưa: Bẩm có sơ suất gì quan tha tội cho thì mới đám đọc ạ!
Được hắn bằng lòng, Quỳnh liền đắng hặng rồi đọc to và rành rọt từng tiếng. Bẩm
xin đối là: “Đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm!”
Viên quan thấy câu đối xỏ xiên quá nhưng tục ngữ lại đối với tục ngữ mà chữ nào
chữ ấy chọi nhau chan chát, thành ra không bẻ vào đâu được, đành giả vội tiền bàn rồi thét
lính võng đi thẳng.
Nguồn: GTVHVN, tr.159 – 160.
PL182
25. Chó khôn chớ cắn càn (Trạng Quỳnh)
Khi còn nhỏ, Quỳnh vì có khiếu thông mình nên ai cũng có bụng yêu mến, thường
hay chòng ghẹo. Một hôm nhân nhà có giỗ, đang làm thịt lợn, ông Tú Cát đến chơi thấy
Quỳnh đứng xem mổ lợn, liền chạy tới beo tai và ra cho một vế đối bảo hễ đối được thì
mới tha. Quỳnh xuýt xoa kêu đau và giục ra câu đối ngay.
Ông Tú bèn mượn hai quẻ trong bát quái đọc rằng :
“Lợn cấn ăn cám tốn”
Quỳnh không ngần ngại nghĩ, đối luôn:
“Chó khôn chớ cắn càn”
Cũng dùng chữ trong bát quái mà lại có ý xược ngầm, bảo ông tú này có khôn thì
đừng ra câu đối càn nữa. Ông Tú biết vậy nhưng cũng phải chịu là giỏi, tha ngay không
beo tai Quỳnh nữa.
Nguồn: GTVHVN, tr.160 – 161.
26. Tú Cát – Bọ hung (Trạng Quỳnh)
Khi còn nhỏ, trạng Quỳnh đã nổi tiếng thông minh và tinh nghịch. Một hôm có
khách là ông Tú Cát đến chơi nhà, ông bố sợ Quỳnh nghịch mới bắt ra đúng hầu trà. Khách
thấy ông bố khoe con học thông minh, liền ra một cầu đổi bắt Quỳnh đối:
“Trời sinh ống Tú Cát”.
Câu này có ý hợm hĩnh, kiêu căng. Quỳnh nghe tức mình bèn đối ngay rằng :
“Đất nứt con bọ hung”
Vừa hạ khí thế của ông Tú lại vừa chơi chữ rất hay. (Cát là lành đối với hung là dữ).
Tú Cát thấy trạng quả có tài, mẫn tiệp khác thường, nên tuy giận mười mươi mà vẫn yêu,
chẳng những không mắng mà còn giúp thêm tiền cho trạng ăn học.
Nguồn: GTVHVN, tr.161.
27. Quân tử chí, xã tắc thần (Nguyễn Quý Đức)
Đời Lê trung hưng có Nguyễn Quý Đức, tự là Thế Nhân, hiệu là Dương Hiệu, người
xã Thiên Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Đông, là người thông minh lạ thường. Ông đỗ Thám hoa
niên hiệu Vĩnh Trị đời Lê Hy Tông (1676 – 1705).
Tương truyền, thời còn để chỏm, Đức đã nổi tiếng văn hay chữ tốt. Một hôm, sau khi
học buổi sáng, lúc trở về qua một quán nước, Đức ghé vào chơi, chợt có ông huyện đi qua
cùng vào nghỉ. Ông huyện thấy Đức có mặt mũi sáng sủa, bèn hỏi rằng:
- Cậu đã đọc sách gì rồi?
Đức đáp đã học sách Luận ngữ. Ông huyện liền ra một vế đối, dùng toàn chữ Luận
ngữ:
Thực vô cầu bão, cư vô cầu an, quân tử chí.
Nghĩa là: Ăn không cầu no, ngủ không cầu yêu, đó là chí của người quân tử.
Đức ứng khẩu đối ngay, cũng dùng toàn những chữ trong sách ấy:
Chiêu chi bất lai, huy chi bất khứ, xã tắc thần.
Nghĩa là: Vẫy tay không chịu lại, xua chẳng chịu đi, đó là bầy tôi xã tắc.
Ông huyện rất kinh ngạc, khen ngợi mãi.
28. Ếch ngôi đáy giếng (Nguyễn Đăng Cảo)
Thời Lê trung hưng, có Nguyễn Đăng Cảo là một người nổi tiếng trong việc ứng đối.
PL183
Nguyễn Đăng Cảo quê ở làng Hoài Bão, huyện Tiên Du, Bắc Ninh, không rõ năm sinh và
năm mất, chỉ biết ông đậu Thám hoa vào khoảng Lê Hi Tông (1676 – 1705).
Bấy giờ, vua Khang Hi nhà Mãn Thanh sai sứ sang nước Nam, buộc mọi người phải
gọt đầu gióc tóc giống như người Mãn. Được tin ấy, vua Lê Hi Tông lo lắm, liền tức tốc
sai Nguyễn Đăng Cảo lên ải Nam quan tiếp sứ nhà Thanh để tìm cách thoái thác. Lên đến
cửa ải, sau khi đã đem lẽ lợi hại ra để biện luận với sứ giả, Đăng Cảo liền làm một bài biểu
gửi sứ giả mang về cho vua Thanh. Vua Thanh xem tờ biểu, phục tài hùng biện của Đăng
Cảo, bèn hạ chiếu bãi bỏ việc ấy đi.
Ít lâu sau, Đăng Cảo có dịp đi sứ sang nhà Thanh, vua Thanh thấy Đăng Cảo hay
chữ, bèn ra câu đối như sau:
Lão khuyển lạc mao, do hướng đình tiền phệ nguyệt.
Nghe câu đối đầy giọng khinh miệt, Đăng Cảo bực tức bèn đối lại như sau:
Tiểu oan đoản cảnh, mạn cư tỉnh để khuy thiên.
Nghĩa là: Ếch con ngắn cổ, cũng ngồi đáy giếng dòm trời.
Câu trả lời thật ngang tàng, có ý mỉa mai bọn thống trị Mãn Thanh kiến thức hẹp hòi,
như ếch ngồi đáy giếng, tầm mắt chỉ thấy trời bằng miệng giếng. chớ có biết đâu là trời
rộng bao la.
Vua Thanh thấy Đăng Cảo đối đáp cứng cỏi, khen là người có dũng khí, và tỏ vẻ rất
kính trọng ông. Từ đấy, triều Khang Hi và Thanh không còn sách nhiễu gì nước Nam ta
nữa.
Nguồn: GTVHVN, tr.134 – 135.
29. Phong nguyệt vô biên (Nguyễn Đăng Cảo)
Tục truyền Nguyễn Đăng Cảo tính nết bừa bãi, phóng túng, ngông ngạo. không coi ai
vào đâu cả; ngoài thịt chó và rượu ngon, không còn ham thích gì nữa.
Ngày ông vào điện thí, đáng lẽ đỗ đầu, nhưng vì tính ông như thế, triều đình mới
đánh xuống hàng thứ ba (Thám hoa). Ông cũng biết vậy nên khi con giai ông là Nguyễn
Đăng Tuân sinh con đầu lòng là Nguyễn Đăng Đạo, mỗi lần bế cháu, ông thường nựng
rằng: Triều đình ghét tao cứng cổ, không cho đỗ Trạng nguyên, nhưng thằng bé này mà
không cho đỗ trạng thì không được đâu!
Thường ngày ở trong triều, ông nói năng không sợ gì cả, do đó, cũng mấy lần bị
biếm truất.
Khi sứ nhà Thanh sang sách phong, đi đến trạm Xương Giang thì dừng lại, đưa cho
chúa Trịnh một vuông gấm, viết một chữ Càn (乾) thật to. Cả triều không ai giải đoán
được, chúa Trịnh phải đặc triệu ông vào để hỏi.
Ông thưa rằng, cái trò đánh đố nhỏ nhặt ấy, bõ bèn gì mà chúa thượng phải bận lòng
suy nghĩ. Rồi ông cầm bút quệt đẫm mực viết một nét sổ () để trả lời. Chúa hỏi duyên cớ,
ông nói:
- Tượng của quẻ Càn có 3 nét ngang (三) thêm vào nét sổ thì thành chữ Vương (王), có
thế thôi.
Thời gian ông làm chánh sứ sang cống nhà Thanh, một bữa đi qua một cái chùa
rường cột hết sức lộng lẫy, viên sứ Thanh cùng đi theo mời ông viết mấy chữ “biển ngạch”
PL184
(bức hoành phi). Ông liền viết ngay hai chữ “Trùng nhị” (虫 二). Cả sứ bộ nhà Thanh đều
phân vân không hiểu sứ giả Việt Nam nói gì. Cuối cùng, Nguyễn Đăng Cảo mới cười mà
giải thích rằng:
- Đây là bốn chữ: “Phong nguyệt vô biên” viết giản lược. Đây là chữ có sẵn trong
sách, có nghĩa là: Gió trăng vô tận, không có bến bờ nào. Nhưng đồng thời cũng có ý nghĩa
thứ hai là: Chữ Phong (風), chữ Nguyệt (月) mà không có nét ngoài biên. Bởi thế, ở đây,
Đăng Cảo chỉ cần viết một phần của hai chữ ấy (虫 二) là đã nói lên ý niệm cả câu:
“Phong nguyệt vô biên”.
Thật là thông minh và dí dỏm. Sứ nhà Thanh và những người đi cùng đều hết sức
kính phục tài mẫn tiệp tuyệt vời của Nguyễn Đăng Cảo.
Nguồn: GTVHVN, tr. 135 – 137.
30. Hà túc toàn giã, bất diệt lạc hồ (Vương Toán)
Vào khoảng thời Lê, có Vương Toán, bố mẹ mất sớm nhà nghèo mà học rất giỏi.
Toán lại ham học, thường tìm cách đi với người ta để vừa kiếm ăn, vừa học hành. Toán
khôi ngô, tuấn tú, lại rất si tình. Nhưng tương truyền hễ Toán ở lại nhà nào thì nhà ấy lại
cháy; lại cái tật đọc sách cứ bô bô làm cả nhà không ai ngủ được. Vì vậy, không ai dám
chứa Toán. Toán phải đi chăn vịt và ở luôn lại lều vịt ngoài đồng mà học cho mọi người
khỏi kêu.
Một hôm, đang ngồi trong lều vịt, có một toán lính ảo đỏ nẹp xanh đi tời. Toán cố
nhìn, thì thấy họ võng theo một cô tiểu thư chừng 17, 18 tuổi, nhan sắc tuyệt vời. Toán liền
chạy xổ ra, bám riết đoàn khiêng võng để nhìn cô gái. Bọn lính hò hét mắng nhiếc mấy
cũng không lui. Cô tiểu thư trông thấy anh chàng khố rách áo ôm ấy cứ chạy theo võng
nhìn mình chằm chằm như vậy thì vừa bực mà cũng vừa buồn cười. Tiểu thư vốn là con
độc nhất của rất yêu quý của quan Đô úy trong triều. Về đến dinh, cô mách chuyện với bố
và chỉ Vương Toán vẫn còn đứng thập thò ngoài cổng.
Viên Đô úy nghe con gái nói, giận quá, sai lính ra lôi cổ anh chàng si cuồng kia vào.
Ai cũng tưởng anh chàng này thấy thế, sẽ ba chân bốn cẵng chạy thoát lấy thân. Không
ngờ anh ta lại hí hửng theo lính vào ra mắt quan.
Quan mắng về tội vô lễ đối với tiểu thư, thì Vương Toán trả lời:
- Tôi chưa từng thấy ai bắt tội người nhìn hoa. Huống hồ một người con gái đẹp còn
hơn một bông hoa đẹp. Tôi thấy đẹp, tôi cố nhìn, cớ sao lại bắt tội tôi?
Quan nghe lý sự cứng cỏi, hỏi tên, nghề nghiệp, anh ta nói thật cả. Quan bảo:
- Có phải là học trò thực thì ta ra thử một vế đối. Đối được, ta sẽ tha tội cho.
Rồi viên quan đọc:
Trai họ Vương, đầu đội nón trác, tuổi hai mươi, hà túc toán giã.
Câu này chắp chữ Vương (王) và chữ Trúc (竹) và chữ Trấp (廾) là hai mươi thì
thành chữ Toán, chỉ vào tên anh học trò. Ngoài ra, trong câu ấy đã cố ý nhắc đến chữ
Vương và chữ Toán. Hơn nữa, câu này lại dùng chữ liền trong sách Luận ngữ: “Hà túc
toán giã” (Nào có đáng kể gì?). để chỉ thái độ sẵn sàng của Vương Toán.
Thật là một vế đối hóc búa, bao nhiêu là nút buộc khó gỡ đều nằm trong đó cả.
Vương Toán nhân lúc đứng ở ngoài cổng đã dò hỏi và được biết quan Đô úy họ Bạch
PL185
và cô tiểu thư tên là Lạc, năm ấy mười tám tuổi. Toán liền ung dung đối lại rằng:
Gái họ Bạch, lưng thắt dây tơ, xuân mười tám, bất diệc lạc hồ?
Câu này chắp chữ Bạch (白), chữ Ty (丝) và chữ Thập bát (十 八) thì thành chữ Lạc
(樂) chỉ vào họ và tên cô gái. Rồi trong câu cũng lại có hai chữ Bạch và Lạc. Mà tài hơn
nữa là cũng lại dùng chữ liền trong Luận ngữ: “Bất diệc lạc hồ” (Há cũng vui sao?). Ý nói
giá anh ta mà lấy được cô tiểu thư đây thì há chẳng vui sao?
Quan thấy Toán đối chọi tài tình như vậy, phục là hay chữ, liền bằng lòng gả con gái
cho anh ta. Hỏi ý kiến thì cô ta cũng bằng lòng.
Nguồn: GTVHVN, tr.145 – 147.
31. Chết vì câu đối (Ngô Thì Nhậm)
Ngô Thời Nhiệm người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, sinh
năm Cảnh Hưng thứ 7 (1746) và mất vào năm Gia Long thứ 3 (1803). Thuở nhỏ, Nhiệm
học giỏi, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 36 (1775) đậu tiến sĩ, vừa tròn 30 tuổi. Lúc đầu ông làm
quan với nhà Lê; khi Lê mất, ông được vua Quang Trung trọng dụng, việc ngoại giao của
triều Tây sơn với nhà Thanh lúc bấy giờ đều do ông đảm nhiệm. Về sau, ông được thăng
đến chức Binh bộ thượng thư, tước Tinh phái hầu và được cử làm chánh sứ sang giao thiệp
với nhà Thanh.
Nhiệm có một người bạn học cùng tỉnh là Đặng Trần Thường, hai người vẫn hay đi
lại bàn chuyện thế sự với nhau. Khi đã ra làm quan với nhà Tây Sơn, nhiều lần Nhiệm đã
giúp đỡ Thường tiền nong, vì Thường hay chơi bời thành túng thiếu. Về sau, muốn khích
lệ bạn, Nhiệm bảo Thường :
- Anh phải cố chí lập thân, chứ chẳng lẽ cứ ăn chơi ngông nghênh suốt đời như vậy
sao? Thường cho là bạn khinh mình, tức giận lắm, liền vào Nam theo Nguyễn Ánh đánh lại
Tây Sơn.
Đến lúc Gia Long lấy được Bắc hà thì Ngô Thời Nhiệm đã về trí sĩ. Nhưng vì có
chiếu bắt các cựu thần Tây Sơn phải ra đầu thú, nên Ngô Thời Nhiệm cùng với Phan Huy
Ích và một số đồng liêu khác đều phải đến trình diện ở Thăng Long.
Lúc này Đặng Trần Thường được cử làm chức tán lý Bắc thành. Vốn có hiềm khích
với Nhiệm như trên đã nói, nay nhân được dược dịp báo thù, Thường cho đòi Nhiệm cùng
bọn Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Phan... ra Văn Miếu kể tội một hồi, rồi ra riêng cho Nhiệm
một vế câu đối:
“Ai công hầu, ai khanh tướng, trên trần ai, ai dễ biết ai?”
Thường có ý hợm hĩnh hòng làm nhục Nhiệm. Nhưng Nhiệm đời nào chịu khuất
phục con người đê hèn như vậy, ông ngang nhiên đối ngay:
“Thế Chiến quốc, thế Xuân thu, gặp thời thế, thế thời phải thế!”
Thấy ông không chịu nhún nhường, Thường tức lắm nói rằng: Tài ngươi đáng khen,
nhưng đầu ngươi không đáng để. Rồi Thường tuyên bố đem Nhiệm ra đánh 30 hèo.
Thường vốn chủ tâm giết Nhiệm, nên đã bảo người đánh tẩm thuốc độc vào hèo. Nhiệm về
nhà được ba ngày thì chết. Lúc sắp chết, Nhiệm làm 4 câu thơ tuyệt bút, dặn người nhà gửi
cho Thường. Bài thơ như sau:
PL186
Ai tai Đặng Trần Thường!
Chân như yến xử đường,
Vị Ương cung cố sự,
Diệc thị nhĩ thu trường.
Bài thơ có nghĩa là: Thương thay cho Đặng Trần Thường, nay quyền thế lắm đấy,
nhưng khác nào như con chim yến làm tổ trong một cái nhà sắp cháy, rồi sẽ khốn đến nơi.
Ngày xưa Hàn Tín giúp Hán Cao Tổ, công lao lớn biết mấy mà rồi cũng bị Cao Tổ giết
chết ở cung Vị Uơng. Kết cục của Hàn Tín ngày xưa cũng là kết cục sau này của ngươi
đó!.
Quả nhiên ít lâu sau, Đặng Trần Thường bị Gia Long bắt giam và kết án tử.
Nguồn: GTVHVN, tr.187 – 188.
32. Anh hùng đè xuống dưới (Nguyễn Công Trứ)
Các cụ bô lão còn kể rằng, Tả quân Lê Văn Duyệt là ông quan rất hống hách, đi đâu
thường cũng cho quân lính dẹp đường và hò hét ôm sồm; mà hề gặp sự gì trái ý là nổi nóng
lên ngay. Tương truyền khi Lê Văn Duyệt ra Bắc, binh mã kéo theo ầm ầm, nghi vệ oai
nghiêm, đi tới đâu khiến người qua đường đều phải khiếp sợ lẩn tránh không ai đám nom
dòm gì cả.
Nguyễn Công Trứ hôm ấy đi học về, đang ngồi nghỉ ở một cái quán bên đường.
Thình lình gặp binh mã của Lê Văn Duyệt trẩy qua. Lúc đó mọi người đều xô nhau chạy
táo tác. Riêng Nguyễn Công Trứ không chịu tránh đâu cả, lăn kềnh ngay ra cái ổ rơm ở
đấy, rồi tiện có chiếc chiếu manh lại vớ luôn đắp lên người, đoạn cố tình kêu rèn ư ử như là
đang đau nặng vậy.
Lê Văn Duyệt đi tới nghe tiếng người kêu rên, sai lính vào hỏi. Nguyễn Công Trứ
đáp là : Vì sợ oai quan lớn quá nên mới phát sốt lên đây! Lính cứ y lời thưa lại, Duyệt thấy
lời lẽ cấc lấc giận lắm, thân hành vào quản sai lính dựng Trứ dậy quát mắng cho một chập.
Sau hỏi đến nghề nghiệp, thấy Trứ thưa là học trò, lại nhân thấy Trứ đắp chiếu nằm ổ rơm,
Duyệt liền bắt Trứ phải làm một câu đối để vịnh cảnh, hẹn rằng nếu hay thì tha, nếu không
sẽ bị đánh đòn trị cái tội lấc cấc.
Trứ vờ làm bộ khép nép run rẩy rồi đọc hai câu rằng:
Ba vạn anh hùng đè xuống dưới,
Chín lần thiên tử đội lên trên.
Duyệt nghe xong thấy anh học trò tầm thường mà có khẩu khí to lớn cũng có ý nể,
bèn tha ngay.
Nguồn: GTVHVN, tr.212 – 213.
33. Đối chọi với sư (Nguyễn Công Trứ)
Lúc Nguyễn Công Trứ còn đi học, có lần trọ ở gần một ngôï chùa. Nghe đồn sư ông
chùa đó là người hay chữ, nhưng lại rất ghét học trò. Thêm vào đó, nhà sư lại có tính hay
ăn thịt chó, thường vùi nồi thịt ở bếp mà hễ ai hỏi thì cứ kêu đó là nồi cà bung.
Nguyễn Công Trứ tức cười về chuyện ấy, một bữa thử vào bếp nhà chùa đề xem hư
thực ra sao. Tới nơi, quả nhiên thấy mùi thịt chó thơm lừng mà nhà sư thì đang lúi húi ở
đó. Nguyễn Công Trú cố nhịn cười, hỏi han vớ vẩn mấy câu rồi cứ lần khân mãi không
chịu ra. Sư ông bị người đến quấy rầy, bực mình mới đọc một câu rằng:
PL187
“Khách khứa kể chi ông núc bếp”.
Nguyễn Công Trứ ngứa tiết, cũng trỏ vào nồi thịt chó đọc:
“Trai chay nào đó vại cà sư!”
Sư ông bị vạch trần chân tướng, vội hốt hoảng chỉ vào pho tượng gần đấy mà rằng:
“Xin chứng minh cho Nam mô a di đà Phật”.
Nguyễn Công Trứ cũng trỏ lên bàn thờ táo quân mà đọc tiếp:
“Có giám sát đó, đông trù tư mệnh táo quân”.
Nhà sư túng thế, đành phải gượng bào chữa rằng:
“Thuộc ba mươi sáu đường kinh, không thần, thánh, Phật, tiên, song khác tục”.
Nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn không buông tha, nói luôn:
“Hay tám vạn tư mặc kệ, không quân, thần, phụ, tử đếch ra người”.
Rồi đó, Nguyễn Công Trứ quay gót bỏ đi. Ra đến giữa sân có hai con chó xổ ra cắn,
một chú tiểu phải ngăn mãi mới được. Nhân thế, Trứ lại buộc miệng đọc:
“Bụt cũng hiền lành sư cũng khá,
Còn hai con chó chửa từ bi…”.
Nguồn: GTVHVN, tr.214 – 215.
34. Ghẹo sư (Hoàng Phan Thái)
Hoàng Phan Thái đi trọ học ở một xóm gần chùa, các bạn nói cho biết sư chùa đó
chính là một ông sư hổ mang, thường hay ăn thịt chó. Thái biết chuyện, một hôm lấy giẻ
quấn vào chân, đi khập khểnh đến chùa ăn xin, vin cớ là học trò nghèo lại đau ốm.
Lúc ấy đã xẩm tối, sư đang ngồi rót dầu vào đèn thờ, nghe nói là học trò, nhà sư liền
bảo rằng:
- Có thật là học trò thì ta cho ra một vế đối, làm được hay ta sẽ bố thí cơm nước và
thưởng tiền cho. Nhân vừa nói chuyện, vừa rót dầu đổ vương vãi ra cả đế đèn, sư bèn tức
cảnh đọc ra một câu rằng:
Dầu vương cả đế
Câu này nhà sư muốn dụng ý chơi chữ, vừa nói việc dầu đổ vương vãi ra đế đèn, lại
vừa muốn tỏ ra có khẩu khí đế vương, dùng hai chữ vương, đế theo nghĩa chữ Hán. Hoàng
Phan Thái nghĩ bụng: “Lão trọc hổ mang này mà cũng muốn tỏ vẻ khấu khí đế vương à!
Được, sẽ cho biết tay”. Rồi đó, cố tình đối liều một câu như sau:
Ỉa vãi vào sư.
Nhà sư tức quá, đứng ngay dậy, xông ra chực túm lấy Thái. Nhưng Thái tinh nghịch,
đã vừa chạy vừa kêu: “Ối, làng nước ới! Ối, làng nước ơi!”. Người xung quanh nghe kêu
đổ xô ra hỏi duyên cớ. Thái bèn mượn câu chuyện tiếu lâm quen thuộc ở vùng đó, trả lời:
“Đậu phụ chùa cắn tôi!”.
Thâm ý của Thái là muốn trỏ việc nhà sư hay ăn thịt chó. Nhà sư nghe nhắc tới
chuyện “đậu phụ” thì thẹn quá, phải quay trở vào, không dám đánh đuổi Thái nữa.
Nguồn: GTVHVN, tr.271 – 272.
35. Cọp bắt thầy tu (Hoàng Phan Thái)
Sau Tết, Hoàng Phan Thái đi vãng cảnh chùa. Khi tới một ngôi chùa có dán nhiều
câu đối lòe loẹt, ông hỏi thăm, được biết đó là câu đối của một nhà sư thường tự phụ hay
chữ. Ông liền xin vào thăm chùa. Tới cửa Tam bảo, thấy có câu đối như sau:
PL188
Khuyến thiện trừng dâm,
Cứu nhân độ thế.
Ông Thái đọc xong mỉm cười, Nhân lúc vắng người, ông kiếm bút mực để viêt thêm
vào hai câu thành ra:
Khuyến thiện trừng dâm? Con ai đẻ tháng tư mùng tám,
Cứu nhân độ thế? Của ai vay mất một đền mười.
Hai câu sư đề ra là rút ra trong sách Phật: Khuyến thiện, răn dâm và cứu người, giúp
đời, Hai câu ông Thái thêm vào là rút từ tục ngữ, có ý hỏi chọc sư: đã trừng dâm sao lại có
PHật sinh (ngày mùng tám tháng tư), đã cứu người sao lại còn có câu: của bụt mất một đền
mười.
Ông vừa chữa xong, một chú tiểu ra bắt được quả tang, lôi ông vào sư cụ. Sư cụ hỏi
về nghề nghiệp, ông Thái tự xung là học trò, đi vãng cảnh chùa ngày Tết. Sư vặn hỏi sách
vở thì ông trả lời lưu loát, rõ ràng. Sư ông cũng có ý phục tài nhưng người chưa nguôi giận
nên ra một câu đối bắt ông Thái phải đối, không thì sẽ đánh đòn. Nhân trước sân chùa có
xây một con voi phục, sư đọc:
Cái là tượng, tượng là voi, voi chầu cửa cái
Ông Thái xin ra sân để suy nghĩ. Rồi ông đọc to câu đối lại rằng:
Tu là hổ, hổ là cọp, cọp bắt thầy tu.
Đọc xong, ông phóng ra cửa, ù té chạy thẳng.
Nguồn: GTVHVN, tr.272 – 273.
36. Ngon đối với rột (khuyết danh)
Tối ba mươi Tết, một cậu tú mang lễ vật đến chúc Tết quan Đô đốc tỏ ý muốn
nương nhờ, xin việc làm ở công đường của quan. Quan biết ý, bèn ra câu đối để thử
sức:
“Đô đốc chính là quan, rèm thưa sáo nhặt chỉ trung mác, gươm bịt bạc, giáo
lông ngù, quân kiệu sắp hàng hai: rột!”.
Cậu tú xin đối lại:
“Ba mươi cũng là Tết, nêu cao pháo kêu hạ xôi, chè đậu xanh, bánh nếp xẻ,
dưa hành đánh miệng một: ngon!”
Quan Đô đốc gật đầu khen. Chỗ ông hài lòng nhất là tiếng “ngon” vừa khen
bánh nếp, dưa hành ngày Tết, vừa hàm ý ca ngợi uy danh ông, tương xứng với “rột”.
Quan hứa sẽ nhận cậu ta vào làm việc.
(Nguồn: Văn Nhĩ, Thử tài người xin việc, Tập san Nghiên cứu Văn hóa dân gian
Thừa Thiên Huế, số 12 – 2005, tr. 150), dẫn lại theo Triều Nguyên, GTVHDGNV,
Tập 2, tr.62.
37. Ọt ẹt bất ọt ẹt (khuyết danh)
Thầy đồ nọ dạy học trò ở nhà mình, có khoảng bảy tám em, ở độ tuôi mười ba,
mười lăm. Chiều hôm ấy, một nhóm học trò đi học hơi sớm hơn thường lệ. Chúng
thấy nhà thầy cửa đóng kín, nhưng nghe bên trong có tiếng động: chiếc giường tre
kêu ọt ẹt, ọt ẹt... Chả là thầy mới cưới vợ.
Chúng thì thầm nói chuyện và cười khúc khích với nhau. Thầy đồ biết ngay
bên ngoài là đám học trò. Đề chữa thẹn, thầy dậy hé cửa, đằng hắng, bảo:
PL189
- Bọn bây hãy đợi đó! Nêu đối được câu này, thì thầy sẽ mở cửa cho vào:
Sĩ đáo ngoại gia, thầm bất thầm, thì bất thì, thầm thì thầm thì.
Bọn học trò rút lui sau vườn bàn bạc. Sau đó, một tên láu cá trong đám tiến đến
cửa, nói vọng vào:
- Thưa thầy, bọn con xin đối lại thế này:
Sư ngoạ trung phòng, ọt bất ọt, ẹt bất ẹt, ọt ẹt, ọt ẹt.
Khảo dị:
Câu đối được kể, tương tự với câu đối trong một giai thoại về Cao Bá Quát và
Nguyễn Văn Siêu, chép ở GTVH, [212-213], như sau lược ghi:
Một hôm, Cao Bá Quát từ Bắc Ninh sang Hà Nội chơi, đi ngang qua một nhà
nghe có tiếng bình văn, liền bước vào xem thử. Quát thầy một thấy đồ trẻ, đang ngồi
trên cái chõng tre cũ kỹ, xiêu vẹo, còn học trò ngồi ở một chiếc chiếu trải giữa nền
nhà. Thầy đồ ấy là Nguyễn Văn Siêu. Siêu thấy Quát, hỏi:
- Anh kia, đi đâu mà thơ thân thế?
Quát đáp:
- Tôi là học trò, nhân đi ngang, tiện thể ghé vào thăm.
Siêu nói:
- Có phải là học trò thì hãy đối thử một vế đối đã nhé!
Rồi Siêu đọc:
Tiên sinh tọa tịch thượng, cót chỉ két, két chỉ cót, cót cót két két.
Cao Bá Quát đối ngay:
Tiểu tử nhập đình trung, thẩn chi thơ, thơ chi thẩn, thẩn thẩn thơ thơ.
Nguyễn Văn Siêu rất phục. Hỏi ra mới biết là Cao Bá Quát, người nức tiếng
học giỏi. Từ đó, hai người thường đi lại, đàm luận sách vở, thời cuộc với nhau, và trở
thành bạn tri âm.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 2, tr.62 – 64.
38. Đội ra ông phủ (khuyết danh)
Một quan tri phủ đang trên đường đi hành hạt, thì gặp một anh thư sinh. Thư
sinh thấy quan nhưng không chào, bị bắt tội vô lễ. Nghe chàng thưa là học trò, quan
vốn không chữ nghĩa gì nhiều cho lắm, nhưng cũng tỏ mặt quan, ra một vế đối, bảo
đối được thì tha. Anh học trò vâng dạ. Quan ra rằng:
Quan là mũ, để thì mới, đội thì cũ, đội ra tri phủ.
Chàng thư sinh đối ngay:
Luân là l…, nguyên thì méo, đ… thì tròn, đ… chắc có con.
Quan nổi giận vì chàng thư sinh xấc xược, dám đem cái ấy mà đối với cái quan
đội, bèn lôi về công đường làm án, cho giải lên vua.
Vua đọc bản án, hỏi anh thư sinh:
- Nhà ngươi dám xấc xược với quan trên đến thế à?
Anh ta tâu:
- Kẻ bề tôi có đối, nhưng đối khác kia.
- Ngươi đối thế nào, đọc cho ta nghe!
- Dạ muôn tâu, con đối là:
PL190
Đái là đai, thắt thì ngắn, buông thì dài, thắt để lên ngai.
Vua khen hay. Tuy biết là anh mới bịa ra song cho thế là cũng thông minh lắm,
bèn tha tội.
Nguồn: GTVHDGNV,Tập 2, tr.65 – 66.
* GIAI THOẠI VĂN HỌC VỀ ỨNG TÁC VĂN CHƯƠNG
1. Bị trói vẫn làm thơ (Lý Công Uẩn)
Theo truyền thuyết, Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh
(nay thuộc Hà Bắc), là một nhân vật khá kỳ lạ.
Tương truyền ông không có cha, bà mẹ Phạm Thị Nhân đi chơi chùa Tiêu Sơn, ở phủ
Từ Sơn, Bắc Ninh, nằm mộng thấy đi lại với thần nhân về có thai mà sinh ra ông. Nhưng
có thuyết lại nói Phạm thị là một bà góa chồng đến làm thuê ở chùa Cổ Pháp, người trụ trì
chùa ấy là sư Lý Khánh Văn “đi lại” với bà, đến khi bà thụ thai thì đuổi bà đi nơi khác.
Đến ngày sinh đẻ, bà Phạm thị bọc con trong manh áo cũ rồi mang bỏ ngoài cửa tam
quan chùa Cổ Pháp. Lý Khánh Văn nghe tiếng trẻ khóc bèn ra nhặt đem vào nuôi và đặt
tên là: Lý Công Uẩn. Bây giờ có câu ca dao có ở châm chọc nhẹ nhàng Khánh Văn như
sau:
Con ai đem bỏ chùa này
Nam mô di phật con thầy, thầy nuôi.
Công Uẩn là một chú bé khôi ngô, rắn rỏi và rất thông minh, nên được bố nuôi yêu
quí và chăm sóc dạy dỗ. Lúc Công Uẩn lên sáu tuổi, học đã tinh thông mà tính lại hay tinh
nghịch. Một hôm, nhà sư sai Công Uẩn đem oản lên chùa cúng Hộ pháp, chú bé liền khoét
oản ăn trước. Đến đêm, Hộ pháp báo mộng cho, sư biết. Sáng hôm sau, sư gọi Công Uẩn
lên mắng.
Chú bé tức lắm, lên chùa đánh cho Hộ pháp ba cẳng tay, rồi viết vào sau lưng pho
tượng mấy chữ: “Đồ tam thiên lý” (đày ba ngàn dặm). Đêm hôm đó, nhà sư lại thấy Hộ
pháp đến, mặt ỉu xìu, ngỏ lời từ biệt: “Hoàng để đã dày tôi ủi xa, xin có lời chào ông”.
Sáng hôm sau, nhà sư lên xem pho tượng Hộ pháp thấy sau lưng quả có mày chữ “đồ tam
thiên lý” thật. Nhà sư bèn sai tiểu lấy nước rửa, nhưng không sao rửa sạch được. Sau phải
bảo Công Uẩn vào rửa thì chú bé chỉ lấy ngón tay xoa xoa là sạch ngay.
Khi Uẩn đã lớn, Lý Khánh Văn thấy để ở chùa mình không tiện, bèn gửi sang chùa
Tiêu Sơn, nhờ sư Vạn Hạnh dạy bảo. Vạn Hạnh là em ruột Khánh Văn, một nhà sư có tài
văn học và cả tài kinh luân. Ở đây, Công Uẩn vẫn không đổi nết xưa, vẫn học ít chơi nhiều.
Một hôm, Công Uẩn trốn học, bị Vạn Hạnh trói lại cả đêm ở Tam quan. Canh khuya muỗi
đốt, không ngủ được, Công Uẩn tức cảnh ngâm bốn câu thơ rằng:
“Thiên vi khảm chẩm, địa vi chiên
Nhạt nguyệt đồng song đối ngã miền,
Dạ thâm bất cảm tràng thản túc,
Chỉ khủng sơn hà xã tắc điên”
Dịch:
Trời làm màn gối đất làm chiên,
Nhật nguyệt cùng ta một giấc yẻn.
PL191
Đẻm khuya chẳng dám dang chân duỗi
Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng.
Vạn Hạnh nghe thơ, cho là Công Uần có khí tượng đế vương, rất mừng, từ đó ra
công dạy dỗ và lo toan cho Công Uẩn nên nghiệp lớn. Nhà sư túc trí đa mưu ấy đưa được
Công Uẩn vào làm quan trong triều. Không bao lâu, nhờ tài trí của mình, Lý Công Uẩn
thăng lên đến chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ là một địa vị cận thân cực to lúc bấy
giờ. Khi Lê Long Đĩnh (Ngọa Triều) chết, (1009), nhận thấy lòng dân rất oán ghét nhà Lê
vì những tội ác của Ngọa Triều; sư Vạn Hạnh cùng với bọn Đào Cam Mộc bàn mưu thay
đổi triều đại, tôn Lý Công Uẩn lên làm vua. Nhà Lý bắt đầu từ đấy.
Nguồn: GTVHVN, tr.65 – tr.67
2. Đọc thơ chê Hạng Vũ (Hồ Tông Thốc)
Hồ Tông Thốc người làng Thổ Thành, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, không rõ sinh
và mất năm nào. Thuở nhỏ đã nổi tiếng thơ hay, một lúc có thể làm hàng trăm bài. Ông đậu
trạng nguyên năm 1372, đời Trần Nghệ Tông, đã có lần đi sứ sang Trung Quốc. Tương
truyền một hôm thuyền của sứ bộ đi trên sông Ô Giang, đến chỗ có miếu thờ Hạng Vũ
được dựng ở trên bờ, người ta đồn miếu đó rất thiêng, hễ thuyền bè qua lại trên sông mà
không mà không ghé vào lễ bái thì sẽ bị đắm.
Tuy có biết chuyện đó, nhưng khi qua miếu, Hồ Tông Thốc vẫn không cho đốt vàng,
cứ để thuyền đi thẳng. Quả nhiên, ngay lúc đó, sóng gió nổi lên ầm ầm, chiếc thuyền tròng
trành chỉ chực đắm. Hồ Tông Thốc chẳng hề nao núng, ung dung ra đầu thuyền ngâm một
bài thơ:
“Quân bất quân hề, thần bất thần
Như hà miếu mạo tại giang tân?
Giang Đông tích nhật do hiềm tiểu
Hà tích thiêu tiền bách vạn cân”
Dịch:
Vua chẳng vua mà tôi chẳng tôi,
Bến sông miếu mạo để thờ ai?
Giang Đông ngày trước còn chê nhỏ,
Tiền giấy nay sao lại vật nài?
Hồ Tông Thốc đọc xong, tự nhiên gió lặng sóng im và người ta nói miếu từ đó mất
thiêng, thuyền bè qua lại không phải đốt vàng thắp hương nữa.
Nguồn: GTVHVN, tr.91 – tr.92.
3. Chữa thơ Vương Bột (Hồ Tông Thốc)
Vương Bột (650 – 675) là nhà thơ nổi tiếng ở đầu thời Đường. Năm ngoài 20 tuổi,
nhân dịp dữ bữa tiệc mừng Tết trùng cửu, ở Đằng Vương Các, ông có làm bài thơ và tựa về
Đằng Vương Các rất nổi tiếng. Sau đó, trên đường sang Giao Chỉ thăm cha, ông bị đắm
thuyền và chết đuối trên sông Chương Giang.
Tục truyền từ đó khúc sông này, cứ vào khoảng đêm khuya thanh vắng, người ta
thường nghe vẳng có tiếng ngâm hai câu thơ đặc sắc trong bài “Đằng Vương các tự”:
“Lạc hà dữ cô lộ tề phi
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”
PL192
(Ráng chiều với con cò lẻ loi cùng bay
Nước thu cùng trời xanh một màu)
Hồ Tông Thốc trong dịp đi sứ sang Trung Quốc, một buổi chiều tà nhân chèo thuyền
chơi trên khúc sông Chương Giang, nơi Vương Bột chết đuối, được nhân dân địa phương
kể cho nghe câu chuyện nói trên. Hồ Tông Thốc nghe rồi, bèn ra đứng mũi thuyền nói to
rằng: “Hà tất dữ, cộng nhị tự?” (Cần gì phải dùng cả hai chữ dữ, cộng?).
Mọi người hỏi tại sao ông lại bảo như vậy, thì ông giải thích rằng: Hai câu tuy hay
nhưng thừa hai chữ “dữ” và “cộng”, vì đã nói “tề phi” (cùng bay) thì mặc nhiên là có ý
“dữ” (với) trong đó rồi; đã nói “nhất sắc” (một màu) thì mặc nhiên là có ý “cộng” (cùng)
trong đó rồi!
Sau đó ông sửa lại hai câu thơ như sau:
“Lạc hà cô lộ tề phi
Thu thủy trường thiên nhất sắc”
Mọi người nghe nói đều phục Hồ Tông Thốc là bắt bẻ có lý và cho rằng hai câu của
ông về âm hưởng không bằng hai câu của họ Vương nhưng về văn tự thì quả có gọn gàng
và hàm súc hơn. Rồi từ đó, trên khúc sông ấy, người ta không còn nghe tiếng ngâm thơ của
oan hồn họ Vương nữa.
Nguồn: GTVHVN, tr.92 – tr.92.
4. Câu thơ kỳ lạ (Hồ Quý Ly)
Hồ Quý Ly, người làng Đại Lại, tỉnh Thanh Hóa, vì có người cha nuôi họ Lê nên còn
gọi là Lê Quý Ly. Không rõ năm sinh và mất. Ông làm quan đến chức phụ chính Thái sư,
rồi cướp ngôi nhà Trần (1400). Sau quân Minh sang xâm lăng nước ta, bắt Hồ Quý Ly và
con là Hồ Hán Thương đem về Kim Lăng (1407). Ông là người có nhiều cải cách về kinh
tế và văn hóa, thường dùng chữ Nôm làm thơ văn.
Tương truyền, Hồ Quý Ly lúc còn hàn vi, thường theo đường biển đi buôn. Một lần,
thuyền chở bàng ghé vào bờ, Quý Ly thấy trên bãi biển có ai vạch lên cát một câu thơ:
“Quảng Hàn cung ý nhất chi mai”.
Ông ta liền ngâm thuộc lòng lấy câu đó. Đến khi Quý Ly làm quan, một hôm hộ giá
vua Trần đi chơi, nửa chừng ghé vào tránh nắng ở điện Thanh Thử, nhân thấy trước sân
điện có nhiều cây quế, vua liền ra câu đối:
“Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế”
Các quan đi cùng, đương lúng túng chưa kịp đối lại thì Quý Ly nhớ đến câu thơ trên
bãi biển năm xưa, bèn đọc luôn:
“Quảng Hàn cung ý nhất chi mai”.
Cả hai câu ghép lại thành vế đối rất chỉnh. Tạm dịch: Thanh Thử điện kia ngàn gốc
quế/ Quảng hàn cung nọ một cành mai.
Nghe xong, các quan ai cũng phục tài Hồ Quý Ly. Riêng nhà vua, không giấu nổi
ngạc nhiên nói: “Nhà ngươi làm sao biết được việc trong cung ta?”. Nguyên là vì nhà vua
có một cô công chúa tên là Nhất Chi Ma, mà lại ở trong tòa lầu riêng, chính vua đã đặt tên
là cung Quảng Hàn, đúng như câu thơ của Quý Ly.
Quý Ly cứ thực mà tâu lại việc trước, vua cho là số trời đã định, liền gả công chúa
cho ông ta.
PL193
Nguồn: GTVHVN, tr.98
5. Thơ đùa ả bán chiếu (Nguyễn Trãi)
Nguyễn Trãi là một danh thần thời Lê, hiêu Ức Trai, quê ở làng Nhị Khê, huyện
Thượng Phúc (Thường Tín), Hà Đông. Ông sinh năm 1380, mất năm 1442.
Năm Thánh Nguyên thứ nhất (1400), ông đỗ Thái học sinh và làm quan dưới triều
nhà Hồ. Khi nhà Hồ mất, ông bị giặc Minh giam lỏng ở Đông Quan (Hà Nội). Sau ông trốn
vào Lam Sơn, giúp Lê Lợi khởi nghĩa và kháng chiến chống quân Minh trong suốt mười
năm trời. Kháng chiến thành công, ông thay mặt Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo nổi tiếng.
Là người có công lớn trong cuộc kháng chiến chông Minh, ông được Lê Thái Tổ cho theo
họ Lê và phong cho tước Quan phục hầu.
Tương truyền, một hôm đi chầu về, trời đã xâm xẩm tối, ông gặp một người con gái
bán chiếu, nhan sắc tuyệt trần, ông liền đọc bải thơ bỡn bốn câu thơ:
Ả ở đâu ta bán chiếu gon,
Hỏi xem chiếu ấy hết hay còn,
Xuân thu phỏng độ bao nhiêu tuổi,
Đã có chồng chưa, được mấy con?
Cô gái bán chiếu tên là Nguyễn Thị Lộ, vốn xuất thân là con nhà gia thế, nên văn
chương chữ nghĩa cũng không xoàng, bèn đọc ngay một bài tứ tuyệt đáp lại:
Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon,
Cớ chi ông hỏi hết hay còn,
Xuân thu tuổi mới trăng tròn lẻ,
Chồng còn chưa có, có chi con!
Nguyễn Trãi thấy Thị Lộ có nhan sắc lại có văn từ, bèn lấy làm vợ. Chẳng bao lâu,
nàng lại được phong làm Lễ nghi học sĩ trong triều Lê Thái Tông (1434 – 1442) rất yêu
mến. Rồi cũng chính vì thế mà gây ra thảm kịch rất đáng thương tâm cho gia đình và họ
hàng Nguyễn Trãi. Nguyên sau hồi Lê Thái Tổ mất, Nguyễn Trãi bị bọn gian thần gièm
pha nên ông đã xin về nghỉ ở Côn Sơn, Hải Dương (1440). Nhưng không được bao lâu,
ông lại bị điều ra làm quan. Năm 1442, Lê Thái Tông đi duyệt binh ở Hải Dương và mất
một cách đột ngột ở Lệ chi viên, Bắc Ninh. Thị Lộ vì mối quan hệ thân cận với nhà vua
cũng có mặt trong khi vua chết; do đó, triều thần đã vu oan cho Nguyễn Trãi tội sai nàng
hầu giết vua, rồi đem tru di cả ba họ Nguyễn Trãi.
Nguồn: GTVHVN, tr.100 – 101.
6. Xơi hai trứng (Trạng Quỳnh)
Quỳnh vốn cũng chẳng tin gì thần thánh, nhưng đang bối rối, lo lắng, gặp ai bảo sao
thì bồ quao làm vậy, nghe theo ngay. Quỳnh bèn ra miếu làng khẩn với thành hoàng để xin
chữa cho con mình, và hứa rằng hễ con mình khỏi bệnh thi sẽ giả lễ thật hậu.
Mấy ngày sau chẳng hiều vì lý do gì, con Quỳnh khỏi bệnh thật, Quỳnh mừng lắm.
Rồi chợt nhớ tới lời hứa với thành hoàng, Quỳnh bèn sai người nhà luộc hai quả trứng gà.
Sau đó, Quỳnh đem hai trứng ra đặt lên bệ thờ thành hoàng và chắp tay trịnh trọng đọc to
một bài thơ như sau đề tạ ơn:
“Chú là kẻ cả trong làng,
Tôi là người sang trong nước.
PL194
Đôi bên chức tước,
Chẳng kém gì nhau,
Vì trẻ ốm đau,
Phải ra khấn vái,
Phiên chợ thì trái,
Không mua được gà,
Nhà có con kha,
Mới vừa nhảy ổ,
Đem ra mà mổ,
- Thì cũng thương tình
Chú có anh linh,
Xơi hai trứng vậy!...”
Rồi Quỳnh đề lại hai quả trứng gà và đủng đỉnh ra về.
Nguồn: GTVHVN, tr.161.
7. Ngâm thơ cự thần (Nguyễn Thái Thường)
Nguyễn Thái Thường người đời Mạc, lúc còn là học trò đi cầu mộng ở núi Yên Tử.
Thần báo mộng rằng đến năm 60 tuổi mới đỗ đạt. Thường thức dậy tức quá, liền ngâm một
bài thơ để cự lại lời thần:
Sách thuộc, văn hay, sự chẳng ngờ,
Trong ba mươi tuổi đỗ thì vừa,
Thần nhân sao nói sai làm vậy?
Đến sáu mươi thì đã thượng thư
Tục truyền, sau ông thực hiện được đúng như ý định: Ba mươi tuổi đỗ Tiến sĩ, sáu
mươi tuổi làm Lễ bộ Thượng thư.
Cùng thời ấy, có một người học trò còn trẻ lắm, khi sắp đi thi thì thấy thần báo mộng
bảo đến ba mươi tuổi thì đỗ Tiến sĩ. Khi tỉnh dậy, anh ta bực mình, cũng làm một bài thơ
để mắng lại thần:
Tiến sĩ khoa này quyết lấy tươi,
Cớ chi còn đợi đến ba mươi,
Thần nhân nói thế là sao vậy?
Nên ở người ta, há ở trời.
Quả nhiên, khoa ấy, anh ta đỗ Tiến sĩ, và năm đó anh ta mới 21 tuổi
Nguồn: GTVHVN, tr.121 – 122.
8. Đọc thơ chữa thẹn (Hồ Xuân Hương)
Trong các nhà thơ phụ nữ của chúng ta, Hồ Xuân Hương và thơ ca của bà là một
hiện tượng khác đặc biệt, được rất nhiều người đàm luận từ xưa đến nay.
Hồ Xuân Hương người làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Chưa rõ năm
sinh và năm mất, chỉ biết bà sống vào khoảng cuối Lê đầu Nguyễn. Tục truyền, hồi Xuân
Hương tóc còn để chỏm đi học, một hôm phải trời mưa đến sân nhà trưởng, đất trơn, cô nữ
sinh trượt chân ngã oạch một cái, các bạn học thấy đều cười ầm lên. Nhưng Xuân Hương
đã đứng dậy ngay, ung dung đọc hai câu thơ rằng:
Giơ tay với thử trời cao thấp,
PL195
Xoạc cẵng đo xem đất vắn dài.
Rồi cắp nón bình thản đi vào. Còn mấy chàng học trò, thấy nàng ứng khẩu tài như
thế cũng phục, không dám chòng ghẹo gì thêm nữa.
Nguồn: GTVHVN, tr.194 – 195.
9. Đánh trống qua cửa nhà sấm (Hồ Xuân Hương)
Một hôm, Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc về, nàng đang lững thững bên Hồ
Tây, bỗng có mấy thầy khóa bước rảo lên, theo sát nàng ở đằng sau. Rồi các thầy giở giọng
chớt nhả trêu ghẹo nàng. Có thầy lại hứng chí tung cả văn chương chữ nghĩa ra nữa.
Xuân Hương thấy họ trêu ghẹo thì vẫn lặng thinh không nói gì. Nhưng đến khi nghe
cái thứ “thơ thẩn” nửa mùa ấy thì nàng không nhịn được nữa, nàng mới quay lại, đọc dồn
cho các thầy một bài thơ rằng:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ,
Lại đây cho chị dạy làm thơ.
Ong non nứa nọc châm hoa rữa,
Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa.
Bấy giờ các thầy khóa nghe xong, là biết ngay Hồ Xuân Hương. Riêng thầy đọc thơ
lúc nãy thẹn chín người, vì trót đánh trống qua cửa nhà sấm. Rồi đó, các thầy lẩm bẩm
nhau lui lại, để Xuân Hương đi trước.
Nguồn: GTVHVN, tr.196.
10. Tiến sĩ triều Lê, khăn triều Nguyễn (Trần Danh Án)
Đầu thời Nguyễn, đàn thường quấn khăn nhiều vòng (giống như kiểu khăn xếp sau
này) chứ không quấn khăn mỏ rìu là kiểu khăn thịnh hành từ thời Lê về trước. Riêng các
quan thì đều đội mũ chứ không quấn khăn. Chính vì chuyện khăn mũ này mà Trần Danh
Án, một cựu thần nhà Lê bị mắc cỡ với ông đồ quê…
Chuyện như sau:
Khi Nguyễn Huệ sắp đem quân ra lấy Bắc hà, thì nhà Lê dã tàn tạ quá rồi, triều đình
hầu như không còn ai là người có tài có đức nữa. Bởi vậy, Trần Danh Án vừa mới đỗ
Hoàng giáp xong (khoa cuối cùng niên hiệu Lê Cảnh Hưng) thì đã bị Lê Chiêu Thống cử
ngay làm sứ thần đề sang cầu cứu quân Thanh. Tình thế khẩn cấp quá, đến nỗi Án chẳng
những không vinh qui, mà ngay mũ mãng cân đai đi sứ cũng không đủ thời giờ sắm sửa
nữa. Lúc lên đường, trang phục của Án chỉ vẻn vẹn có chiếc nón mê và chiếc áo tơi rách.
Vì thế, Án đã phải tức cảnh hai câu thơ:
“Vạn ưng truyền kỳ tuyệt sự,
Tệ thoa tàn lạp sứ thần trang”. `
Dịch là:
Muôn thuở đáng truyền điều quái lạ,
Sứ thần áo rách nón mê tàn.
Rồi đó, Lê Chiêu Thống bỏ kinh thành chạy trốn, ông ta đi đâu, Ấn cũng lẽo đẽo đi
theo. Đến khi nhà Lê mất, một số cựu thần ra làm quan với triều Tây Sơn, rồi triều
Nguyễn. Riêng Án vẫn cố chết không chịu ra.
Một lần, Gia Long tuần du Bắc hà, gọi Án tới hầu, ban cho chiếc khăn và muốn
phong chức gì đó. Nhưng Án chỉ lấy có chiếc khăn, còn chức quan thì không nhận. Sau
PL196
đấy, về nhà Án lấy làm tự đắc về thái độ cư xử đó lắm, liền làm bài thơ cảm khái rằng:
“Nhân chỉ dữ vật bất đồng quần,
Phong nghĩ tuy vi thượng hữu quân.
Huống thị thiếu niên tằng bội phục,
Kiêm tri tráng tế dĩ quan thân.
Bắc Song xử sĩ do tri Tấn,
Đông hải tiên sinh bất đế Tần.
Tử hậu mộ bàng nhân chỉ điểm,
Cố Lê triều tiến sĩ tính Trần”.
Tạm dịch :
Người và giống vật khác trăm phần,
Ong kiến kia còn nghĩa chúa quân.
Huống đã tuổi thơ khuôn lễ giáo,
Lại thêm hồi lớn vẻ đai cần.
Bắc song xử sĩ không quên Tấn,
Đông hải tiên sinh chẳng chịu Tần.
Người sau bên mộ giơ tay trỏ:
Tiến sĩ triều Lê cũ họ Trần.
Làm xong, chợt có ông đồ bên láng giềng sang chơi. Án rung đùi ngâm lại cho nghe.
Ông đồ khen hay, nhưng chê câu cuối là thất niêm, vì ở chỗ chữ tính là vần trắc, đáng ra
phải có một chữ vần bằng kia. Ông đồ xin phép sửa. Án cũng nhận thấy như vậy, nên bằng
lòng ngay:
- Nhân ghét lối khí khái rởm của Án, ông đồ bèn sửa rằng:
“Tử hậu mộ bàng nhân chỉ điểm.
Lê triều tiến sĩ, Nguyễn triều cân”
Dịch là:
Bên mộ người sau tay chỉ bảo
Triều Lê tiễn sĩ, Nguyễn triều khăn.
Ý ông đồ muốn chửi xỏ Án: đã tỏ ý bất hợp tác không nhận quan chức của triều
Nguyễn, mà lai còn đi nhận khăn của Gia Long ban, thì chẳng qua cũng chỉ là khí khái
rởm.
Thì ra lúc ấy Án vẫn đội lù lù cái khăn do Gia Long ban cho. Vừa cáu vừa thẹn, y
giật chiếc khăn ném xuống đất nhưng rồi cũng đành chịu, không nói ông đồ làm sao được,
vì đó là sự thật hiển nhiên.
Nguồn: GTVHVN, tr.190 – 192.
11. Ông Cống làm trâu (Bà huyện Thanh Quan)
Bà huyện Thanh Quan, người làng Nghi Tàm, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông,
không rõ năm sinh và mất. Tên họ bà hiện nay cũng chưa rõ, chỉ biết chồng bà là Lưu
Nguyên Uẩn, đỗ cử nhân năm Mậu Tý thời Minh Mệnh (1828) và được bổ tri huyện Thanh
Quan (tức huyện Thái Ninh, tỉnh Thái Bình bây giờ), vì thế người ta thường thường gọi bà
là bà huyện Thanh Quan. Bà là một người làm thơ Nôm rất có tài, từng được cử làm Cung
trung giáo tập ở trong triều.
PL197
Tương truyền, khi ông huyện Nguyên Uẩn ngồi huyện Thauh Quan, mỗi lần đi vắng,
bà thường vẫn nhận đơn thay chồng. Một hôm, có một ông cống mới đỗ, đệ đơn xin làm
thịt trâu để ăn khao trả nợ miệng. Lúc ấy đang mùa cày cấy, theo lệnh trên không được mổ
trâu. Nhưng vốn là một nhà thơ, nên bà huyện cũng có ý nể ông cử tân khoa, lại cũng
muốn nhân dịp đùa ông cử bằng văn tự chơi, bà liền cầm bút phê vào đơn bai câu rằng:
“Người ta thì chẳng được đâu,
Ừ thì ông cống làm trâu thì làm!”
Ông cống đọc lời phê, thấy rõ ý xỏ xiên hóm hỉnh của bà huyện (Ừ, ông muốn làm
trâu, làm ngựa thì làm) thì cũng hơi đỏ mặt; song cái điều mà ông mong muốn nhất là mổ
trâu thì đã được phê chuẩn rồi, cho nên ông rất lấy làm hài lòng và vui vẻ ra về.
Nguồn: [GTVHVN, tr.202].
12. Cho Thị Đào đi lấy chồng (Bà huyện Thanh Quan)
Một hôm khác, cũng gặp lúc ông huyện đi vắng, có người phụ nữ tên là Nguyễn Thị
Đào đưa đơn xin bỏ chồng; vì chồng yêu một người khác mà xử tệ với mình. Bà huyện đầu
đuôi cặn kẽ, biết người phụ nữ có chuyện khổ tâm, bà liền phê luôn vào đơn bốn câu lục
bát như sau:
“Phó cho con Nguyễn Thị Đào,
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai,
Chữ rằng xuân bất tái lai,
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già”.
Thị Đào cứ thế mà bỏ chồng. Anh chồng bèn kiện quan huyện. Nghe nói quan huyện
Nguyên Uẩn bị cách chức vì nhiều lý do nhưng việc để bà huyện phê đơn quấy này cũng là
một trong những lý do đó.
Nguồn: GTVHVN, tr.203.
13. Chê khéo (Bà huyện Thanh Quan)
Trong thời kỳ làm Cung trung giáo tập, bà Thanh quan do tài làm thơ và đức dạy
học, được Minh Mệnh tin dùng, quý mến. Bà thường được ra đàm luận văn thơ với vua
mặc dù Minh Mệnh vốn rất khắc nghiệt.
Một lần, có bộ chén ký kiều của Trung Quốc mới đưa sang, chén vẽ sơn thủy Việt
Nam và có đề thơ Nôm, cúng như một số đồ sứ ký kiểu thời đó. Minh Mệnh đưa khoe với
những người chung quanh. Người ta yêu cầu bà huyện Thanh quan làm một câu thơ Nôm.
Bà làm hai câu thơ rằng:
“Như in thảo mộc trời Nam lại,
Đem cả sơn hà Bắc quốc sang”
Minh Mệnh rất thích thú.
Cùng hôm đó, vua viết hai chữ phúc thọ rất lớn, hình như để ban ơn, chúc mừng một
đại thần nào đó. Vua hỏi bà Thanh Quan chữ viết thê nà. Bà khen:
“PHÚC tối hậu, THỌ trường”.
Nghĩa là: Phúc rất dày, và thọ rất dài. Ban dầu vua hơi ngơ ngác, sau nhìn kỹ lại vua
mới hiểu ý, mỉm cười và gật đầu, thì ra vua đã viết một chữ PHÚC béo phục phịch và một
chữ THỌ dài lêu nghêu. Bà huyện Thanh Quan chê vua viết chữ xấu nhưng lời chế thật là
khéo léo và văn vẻ.
PL198
Nguồn: GTVHVN, tr.203 – 204.
14. Say rượu đánh long thần (Nguyễn Công Trứ)
Lúc còn trẻ, Nguyễn Công Trứ là người rất tinh nghịch. Trưa, tối thường bay lảng
vảng vào các miếu long thần, thổ địa ở làng đề chơi đùa, vẽ bậy. Có lần lai bê cả xôi chuối
rượu thịt ở bệ thờ để đánh chén, khiến thủ từ cứ nghỉ nghi hoặc hoặc mà chẳng dám kêu
ca...
Một buổi tối, Trứ lẻn vào miếu lấy rượu, thịt xuống nhắm say khước, rồi lại nâng
chén ghé mãi vào miệng long thần. Thấy pho tượng cứ ngồi yên không nhúc nhích, ông tức
mình vật ngửa tượng ra, đổ rượu vào mồm, đánh cho mấy bạt tai rồi mới ngật ngưởng ra
về. Sáng mai tỉnh dậy, không biết là ông hối hận hay thế nào mà lại làm bài thơ yết hậu
sau đây dán ở miếu để tạ lỗi với long thần:
“Hôm qua trời tối tớ chơi đây,
Đánh phải long thần mấy cẳng tay,
Khi tỉnh nào thời ai có dám…?
Say!”
Bấy giờ ông từ mới vỡ lẽ nhưng thấy anh học trò có lời thơ sắc sảo, hài hước, cũng
chỉ răn đe cho qua loa chứ không đem bắt vạ.
Nguồn: GTVHVN, tr.213 – 214.
15. Thơ trách nữ thần (Nguyễn Công Trứ)
Tương truyền tỉnh Đình Định có ngôi đền tục gọi là đền Châu Chấu rất linh thiêng.
Trong đền thờ một nữ thần, hễ người qua kẻ lại, ai không ghé vào thắp nhang hoặc xuống
cáng, xuống ngựa thì đều bị bà ta quật ngã thẳng cẵng.
Lúc Nguyễn Công Trứ có dịp di công cần qua, phu dáng xin ông xuống cáng vào
thắp hương nhưng ông cho là chuyện nhảm nhí nhất định không chịu. Hai người phu vốn
sùng tín ngôi đền này, bây giờ bị bắt buộc phải khiêng qua thì kinh sợ lắm. Hôm ấy, trời lại
mới mưa trơn, bước chân lập cập, trẹo trọ thế nào suýt nữa thì té nhào, làm cho Nguyễn
Công Trứ nằm trên cáng cũng phải một phen hú vía.
Nhân thế Nguyễn Công Trứ mới đọc ngay một bài thơ:
“Mụ thần như rửa; rửa thì thôi,
Chút nữa làm ông thịch cái rồi.
Dầu có khôn thiêng đành phận dưới,
Lẽ nào châu chấu đấu ông voi?”
Rồi chẳng mấy chốc bài thơ đến tai những khách bộ hành và lan đi khắp vùng. Thế
là, từ đấy người ta sinh ra nhờn với nữ thần, chẳng mấy ai chịu xuống cáng, xuống ngựa
nữa. Câu chuyện đền thiêng cũng từ đấy đâm ra nhạt dần.
Nguồn: GTVHVN, tr.215 – 216.
16. Tự tiện chữa văn của vua (Cao Bá Quát)
Tự Đức có làm hai câu đối để ở diện Cần Chánh như sau:
“Tử năng thừa phụ nghiệp,
Thần khả báo quân ân”.
Nghĩa là :
“Con nối được nghiệp bổ,
PL199
Tôi đền được ơn vua”
Các đình thần từ lâu vẫn phục hai câu này là hay, cho rằng nói lên dược hai giường
mối lớn trong đạo tam cương... Một hôm, Cao Bá Quát có dịp vào điện Cần Chánh, thấy
câu đối như vậy thì bỗng nảy ra một ý tinh nghịch, lấy bút ngoáy ngay vào bên cạnh mấy
chữ rằng: “Hảo hề: Hảo hề! Phụ tử, quân thần điên đảo”. (Hay chưa! Hay chưa! Cha con,
vua tôi đảo lộn.) Việc đó được tâu lên vua. Tự Đức giận lắm, cho dòi Quát đến đề hỏi tội.
Quát thản nhiên đáp lại:
- Tâu bê hạ, thần thường nghe nói đạo vua tôi phải trên đạo cha con và từ ngàn xưa
bao giờ cũng vẫn vua truớc mà tôi sau, cha trước mà con sau. Nay bệ hạ để như vậy chẳng
phải là đã làm đảo lộn hết cả rồi sao?
Tự Đức nghe biện bạch cũng thấy xuôi tai, bèn bảo Quát thử chữa lại xem thế nào.
Bấy giờ Quát mới chữa ngoặc lại như sau :
“Quân ân, thần khả báo
Phụ nghiệp, tử năng thừa”
Nghĩa là :
“Ơn vua, tôi phải báo,
Nghiệp bố, con phải theo”
Tự Đức và các quan lúc ấy đều phải chịu là câu của Quát quả sắc sảo và chắc tay
hơn; không ai có thể bắt bẻ vào đâu được nữa vì dù sao thì Quát cũng làm một việc rất ư
vô lễ là tự tiện chữa văn của nhà vua.
Nguồn: GTVHVN, tr.235 – 236.
17. Trên dưới đều chó (Thượng hạ giai cẩu) (Cao Bá Quát)
Hồi Cao Bá Quát còn đang làm hành tẩu ở Huế, một hôm ở chỗ làm việc của ông
bỗng xảy ra một đám đánh nhau. Nghe đâu, đó lại chính là hai vị quan khá to ở triều đình.
Nguyên nhân thế nào thì Quát không rõ, nhưng chỉ thấy hai người đầu thì cãi nhau, sau đến
chửi nhau rồi thì đi tới chỗ “thượng cẳng chân hạ cẳng tay”, không còn ra thể thống gì nữa.
Đến khi phân xử phải trái, Tự Đức thấy Quát là người được thấy tận mắt cái cảnh đó,
liền bắt Quát ra làm nhân chứng. Quát vốn không ưa gì bọn này, muốn nhân dịp xỏ xiên
chơi, mới lựa lấy một câu chửi đã được nghe để viết vào tờ khai như sau:
“Tiền Quát bất tri
Hậu Quát bất tri
Trung gian Quát chí,
Đãn kiến:
Thượng bàn hô cẩu!
Hạ bàn hô cẩu!
Thượng hạ giai cẩu
Lưỡng tương đấu ẩu
Thần gián bất đắc,
Thần kiến thế nguy
Thần hoảng, thần tẩu!
Nghĩa là:
Trước Quát không biết,
PL200
Sau Quát chẳng hay,
Nửa chừng Quát đến,
Quát thấy thế này:
Bàn trên chửi chó!
Bàn dưới chửi chó!
Trên dưới đều chó!
Rồi choảng nhau luôn,
Thần can chẳng bỏ,
Thần thấy thế nguy,
Thần hoảng thần chuồn!
Khai xong, Quát dâng lên cho Tự Đức, rồi cứ đứng mỉm cười ra vẻ hả hê lắm, vì
không dễ mấy khi đã được chửi từ trên xuống dưới một bữa suớng miệng như thế. Còn Tự
Đức khi đọc đến câu “Thượng hạ giai cẩu” thì cũng biết thừa là Quát có ý xược nhưng
khốn nỗi đó chỉ là lời khai đúng sự thật mà thôi. Cho nên, không thể bắt tội Quát vào đâu
được.
Nguồn: GTVHVN, tr.236 – 237.
18. Bài thơ không họa nổi (Huỳnh Mẫn Đạt)
Lúc thực dân Pháp chiếm đóng Nam Bộ, trong khi Tôn Thọ Tường cam tâm ra làm tay sai cho giặc thì Huỳnh Mãn
Đạt xin từ quan lui về ở ẩn đề giữ tròn khí tiết. Người ta kể rằng, một buổi Huỳnh từ Rạch
Giá lên chơi Sài Gòn. Chiều hôm ấy, có phường nhạc nhà binh diễn tấu cho công chúng
nghe tại bồn kèn. Huỳnh đi hóng gió, thấy vậy liền dựa lưng vào gốc me mà nghe. Lúc đó
tay ông cầm chiếc dù, còn đầu thì đội chiếc nón ngựa, thứ nón to bằng lông chim, trên có
chóp bằng đồng hoặc bạc.
Tình cờ Tôn ở đâu đi xe song mã tới. Huỳnh trông thấy vội kéo sụp chiếc nón xuống che
mặt. Nhưng Tôn lanh mắt cũng đã nhận ra, sai dừng xe, bước xuống giả vờ vồn vã hỏi han.
Rồi Tôn ngỏ ý trách Huỳnh sao đã lên Sài gòn mà lại không vào nhà chơi. Song Huỳnh chỉ
cười dài và đọc bài thơ rằng: `
Cừu mã dăm ba dạo cặp kè,
Duyên sao giải cấu, khéo đè ne.
Đã cam bịt mắt cùng trời đất,
Đâu dám nghiêng mày với ngựa xe.
Hớn hở trẻ giong đường dặm liễu,
Lơ thơ già núp cội cây hòe
Sự đời thấy vậy, thời hay vậy,
Thà ẩn non cao chẳng muốn nghe!
Tôn nghe xong hiểu ý nhưng không hiểu vì hổ thẹn với bạn đâm ra lúng túng, hay vì
khó họa mà họa không nổi nên đành nói thêm vài câu khách sáo rồi ngượng nghịu từ giã
Huỳnh lên xe ra về.
Nguồn: GTVHVN, tr.238 – 239.
19. Thơ tạ hương đảng (Học Lạc)
Học Lạc tức Nguyễn Văn Lạc (không biết sinh năm nào) người làng Mỹ Chánh, tỉnh
Mỹ Tho, ông học giỏi, Nôm hay nhưng thi thì không đỗ, chỉ được vào ngạch học sinh,
PL201
nghĩa những người được cấp lương; học ở trường Đốc học. Vì vậy, mà người ta gọi là học
sinh Lạc. Rồi bỏ chữ sinh thành Học Lạc. Ông tính khí ngang tàng không chịu khuất phục
trước sự áp chế của cường hào, nên đã làm một số thơ về bọn này.
Người ta kể rằng theo lệ làng xưa, thì hễ mỗi năm đến lễ kỳ yên (tức Cầu Yên) các
chức sắc trong làng phải làm mâm xôi ra lễ đình. Lúc đưa cỗ ra, phải có giấy đề tên và
chức vị người đứng lễ. Học Lạc cũng là chức sắc trong làng nên cũng phải có mâm xôi
đóng góp, nhưng lúc đề tên, ông chỉ viết hai chữ “Thằng Lạc” vào vành mâm. Bọn ông
làng hạch hai chữ này, cho là Học Lạc có ý ngạo thần và khinh dân xã.
Tội to quá! Các ông bợm làng thù oán, thổi to lên để bắt Học Lạc ra đình cúi đầu xin
lỗi hương lý và dân xã. Lưới sự khuyên dỗ của bà con và gia quyến, Học Lạc cũng chịu
khó ra xin lỗi, nhưng lúc sắp về, ông lại làm và ngâm luôn bài thơ “Tạ hương đảng” như
sau:
,
“Vành mâm xôi, đề Thằng Lạc,
Nghĩ mình ti tiện không đài các.
Văn chương uốn thiệt bợm mèo quào,
Danh phận không ra cái cóc rác.
Bởi thế bơ thờ thẹn núi sông,
Đám đậu vục vặc ngạo cô bác.
Việc này dầu có thấu lòng chăng
Trong có ông thần, ngoài cặp hạc”.
Tuy Học Lạc đã xin lỗi và làm thơ tạ làng nhưng bọn hương lý vẫn chưa chịu. Bọn
đó cho bài thơ vẫn có giọng mỉa mai và câu cuối vẫn láo xược. Mấy hôm sau, Học Lạc ra
bờ ao công cộng của làng thấy đàn bà bơi lội, ông nhân vẫn còn tức bọn hương đảng liền
đọc một bài “Thơ tôm” rằng:
Chẳng phải vương công chẳng phải hầu,
Học đòi đai kiếm lại mang râu,
Khoe khoang mặt đỏ trong dòng bích,
Chẳng biết mình ra cứt lộn đầu!
Bài thơ lại chua cay gấp mấy bài thơ trước; vì thế bọn bợm làng càng bực bội hơn,
quyết tâm báo thủ Học Lạc cho kỳ dược.
Nguồn: GTVHVN, tr.240.
20. Bị ngồi trăng (Học Lạc)
Học Lạc thường hay làm thơ châm chọc, đả kích bọn bợm làng, vì thế bọn này luôn
luôn tìm dịp báo thù ông. Không biết Học Lạc trong khi bốc thuốc có sai làm hoặc thiếu
giấy tờ gì đó, bọn bợm làng buộc tội ông là phạm pháp, nên bắt trói lại và phải “ngồi
trăng”. Có người nói ông bị bắt vì ông đánh bong vụ (đánh thò lò) là một thứ cờ bạc quốc
cấm.
Người ta tưởng vậy là vì Học Lạc bị ngồi trăng với một người Trung Quốc cầm cái
đám bong vụ. Lý do bắt không đáng chú ý vi bọn bợm làng sẵn sàng bịa ra tội để báo thù.
Cái đáng chú ý là thái độ ông lúc bị bắt: ông vẫn thản nhiên, coi khinh hành động của
chúng. Ông thấy anh chủ bong vụ lo sợ phát khóc, mà ông buồn cười và thương hại. Ông
làm một bài thơ đùa “Ngồi trăng” mà ngâm cho anh ta nghe:
PL202
“Hóa An Nam lứ khách trú
Trăng trối lằng xằng nhau một lũ
Ngoài mặt ngỡ ngàng lạ Bắc Nam
Trong tai cắc cớ xui đoàn tụ
Bợm làng chẳng vị sĩ năm kinh
Ông Bổn không thương người bảy phủ
Phạt ta xong rồi trở về nhà
Hóa thời bốc thuốc, lứ bong vụ”
Bài thơ ngâm xong từ đấy phổ biến rộng rãi và truyền miệng khắp dân gian.
Nguồn: GTVHVN, tr.241 – 242.
21. Anh hùng có một ngươi (Tú Quỳ)
Nguyễn Quỳ, tức Tú Quỳ, người làng Giảng Hòa, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng
Nam, sống vào khoảng cuối thế kỷ XIX, là bạn thân với Trần Đinh, một lãnh tụ Cần vương
ở Quảng Nam lúc bấy giờ. Ông có tài làm thơ trào phúng.
Trần Đinh, người làng Gia Cốc, cũng đỗ tú tài, tham gia phong trào Cần Vương với
chức Tán tương quân vụ nghĩa quân (nên tục gọi là Tán Đinh).
Ông có tật chột mắt, đánh trận giỏi, đã thắng Pháp vài ba trận.
Một hôm, sau một trận thắng, Đinh mời Tú Quỳ đến uống rượu, nhân vui chuyện, rủ
Quỳ theo Cần Vương, rồi bảo Quỳ ứng khẩu một bài thơ vịnh mình. Tú Quỳ không để đợi
lâu, đọc ngay:
“Bình Tây sát tả thiếu chi người,
Ngó lại anh hùng có một ngươi”
Mới nghe hai câu, Tán Đinh đã giơ tay ra hiệu ngăn lại mà nói:
- Thôi xin ông! Xin ông! Đã xiên xỏ rồi!
Rồi hai người cùng cười xòa.
Nguồn: GTVHVN, tr.242.
22. Thơ trả lời bạn nhà giàu (Nhiêu Tâm)
Nhiều Tâm tên thật là Đỗ Minh Tâm, quê ở Vĩnh Long, cùng thời với Học Lạc. Ông
giỏi Hán học, tài thơ Nôm, hay làm thơ châm biếm, ngạo đời. Người ta bảo ông châm biếm
để mua vui, cười để sửa bỏ thói hư tật xấu, không có ác ý, vì thế không kiêng kỵ ai cả.
Ông quen biết nhiều, thường hay đi đây đi đó thăm hỏi bạn bè, bạn nghèo và cả bạn
giàu. Một hôm, ông đến làng Long Châu, tức là làng sở tại của châu thành Vĩnh Long, để
thăm mấy người bạn thì gặp ngay ông bá hộ giàu nhất làng tên là Nọn. Hai người bạn quen
lâu ngày mới gặp nhau niên rất niềm nở. Bá Nọn lại quan tâm hỏi cả đến việc làm ăn của
ông bạn nghèo, trong lời hỏi có ý vừa hợm mình vừa thương hại cho tình cảnh của Nhiêu
Tâm. Nhiêu Tâm kiêu hãnh mà khôn ngoan đọc ngay một bài thơ trả lời như sau:
“Thấy anh, tôi nghĩ lại, tôi buồn,
Tôi khó, anh giàu đã quá muôn,
Anh vậy, tôi vầy, trời khiến vậy,
Chúc cho con cháu vậy luôn luôn”.
Bá Nọn về nhà cũng không đề ý đến thơ của bạn lắm. Nhưng được ít hôm, Bá Nọn
có thuật lại chuyện gặp bạn và đọc bài thơ cho một đồ nho nghe. Ông này giải thích câu
PL203
thứ hai: “anh giàu đã quá muôn”, trong thơ thì đọc là muôn, nhưng dân gian Nam Bộ đọc
là “muông”, nghĩa là con chó. Vậy câu này có thể hiểu: Anh già đã quá chó! Bá hộ Nọn
nghe giải thích giận tái người nhưng biết bao giờ mới có dịp gặp lại Nhiêu Tâm để mà trút
cơn giận!
Nguồn: GTVHVN, tr.242.
23. Đái vẽ nên rồng (Cử Trị)
Phan Văn Trị đỗ cử nhân xong, không ra làm quan, ở nhà dạy học, làm thơ. Ông hết
sức căm thù giặc Pháp và ghét cay ghét đắng bọn làm tay sai cho giặc. Đối với bọn vua
quan nhà Nguyễn đầu hàng giặc, ông lại càng căm ghét thậm tệ.
Một hôm, ông cùng người bạn là Đốc Trừng di Cần Thơ để thăm Bùi Hữu Nghĩa.
Hai người đang rảo bước trên con đường nắng gió, thì ông bạn đứng lại đi giải. Cử Trị kéo
áo bạn và đọc luôn hai câu thơ:
“Đứng lại làm chỉ cho mất công,
Vừa đi vừa đái vẽ nên rồng”
Rồi Cử Trị thực hành ngay, vẽ ra đường những nét ngoèo như rồng lượn. Ai cũng
biết là rồng tượng tượng trưng cho vua. Hành động ấy của cử Trị quả là một đòn mạnh mẽ
đập vào đầu bọn vua chúa.
Nguồn: GTVHVN, tr.250.
24. Thơ ăn thịt cần đước (Cử Trị)
Một hôm, Phan Văn Trị đi chơi cùng các bạn, tối ngày kéo nhau vào một quán cơm.
Nhà hàng dọn cơm rượu, có món thịt cần đước (một loại ba ba). Giống này có tiếng là sợ
sấm, lúc thường ăn uống hoặc cắn người thì thò đầu ra, mà lúc nghe tiếng động lại rụt cổ
lại, nhất là lúc có sấm to.
Các ông bạn uống rượu, nhắm thịt cần đước, rượu vào lời ra ngẫu hứng làm thơ. Có
người bèn làm thơ tức cảnh ăn thịt cần đước. Nhưng Cử Trị gạt đi nói:
- Đối với giống cần đước thì việc gì thơ với thổng? Chỉ cần:
“Trảm cần đước chi đầu,
Ẩm cần đước chi huyết,
Phân cần đước chi thi
Thực cần đước chi nhục”
(Cần đước, đem chém đầu.
Cần đước, ta uống huyết.
Cần đước, phanh thây mau.
Cần đước, thịt ngon tuyệt!)
Như vậy, vô hình chung cùng đã thành một bài thơ, mà lại là một bài thơ có ý nghĩa
sâu sắc. Rồi đó, Cử Trị vừa cười vừa giải thích rằng: Cần đước đây chính là Tự Đức, đó là
bọn vua quan hèn nhát hàng giặc, mà lại hống hách với dân!
Các bạn nghe xong đều thích thú cười ha hả, lại gọi nhà hàng lấy thêm cần đước và
rượu, nhậu với nhau một bữa say túy lúy.
Nguồn: GTVHVN, tr.255.
25. Hóa ra dưa (Tú Xương)
Một buổi trưa hè, vừa tạnh mưa, Tú Xương đứng ngóng sang nhà đối diện, thấy cô
PL204
Nghĩa nhà hàng xóm đang rửa dưa trong cái chậu thau đồng, bất giác đọc lên mấy câu:
“Ước gì ta hóa ra dưa
Để cho người tắm nước mưa chậu hồng
Ước gì ta hóa ra hồng
Để cho người bế người bồng trên tay”
Nguồn: KTGTVN, tr.431.
26. Thơ nói lái (Tự Đức)
Tự Đức tên thật là Nguyễn Phúc Thì, sinh năm 1829, mất năm 1883, là con thứ hai
của vua Thiệu Trị. Ông là người thông minh, hiếu học và sáng tác nhiều thơ văn.
Chuyện kể rằng, sau một buổi chầu, Tự Đức họp các quan để bàn chuyện cổ kim
cùng ngâm vịnh thơ phú cho vui. Hôm ấy, có một viên quan ở Hàn lâm viện, chức khá cao,
đứng lên xin kể chuyện đức Thánh Trèm. Theo truyền thuyết, đức Thánh Trèm tên thật là
Lý Ông Trọng, quê ở làng Trèm (nay thuộc Từ Liêm, Hà Nội), có thân hình cao to hơn hai
trượng, sức khỏe phi thường, thi đỗ và làm quan dưới triều nhà Tần, có công đánh đuổi
quân Hung Nô. Sau khi ông Trọng trở về nước Nam, vua Tần sai đúc tượng ông Trọng đặt
ở cửa Kim Mã, kinh đô Hàm Dương để quân Hung Nô khiếp oai không dám xâm phạm bờ
cõi nước Tần. Khi kể chuyện, viên quan muốn tỏ ra uyên bác, đã nói rằng sử sách Trung
Quốc và cả Đại Nam đều chép sai, phải nói là Lý Trọng Ông mới đúng. Nhiều người có ý
kiến bảo chính ông ta nói sai nhưng ông ta không chịu cứ gân cổ lên mà cãi bừa, rằng từ
nay phải gọi là Lý Trọng Ông.
Tự Đức nghe hai bên cãi nhau ầm ĩ thấy cũng tức cười, bèn ứng khẩu đọc một bài
thơ rằng:
Ông Trọng như hà oán Trọng Ông,
Chỉ nhân học vấn thiều phu công,
Tư nhân an đắc cư lâm hãn,
Nghi truất Nội Hà tác phán thông.
Có người dịch ra thơ Nôm như thế này:
Ông Trọng làm sao gọi Trọng Ông,
Chỉ vì học vấn kém phu công,
Người này không ở Hàn lâm được,
Đuổi quách ra Hà giữ phán thông.
Ý chế giễu của bài thơ là ở chỗ câu nào cũng dùng những chữ nói lái như: Ông
Trọng thành Trọng Ông, công phu thành phu công, hàn lâm thành lâm hãn, Hà Nội thành
Nội Hà, thông phán thành phán thông.
Các triều thần nghe những câu thơ nói lái hài hước của vua Tự Đức, ai nấy đều phì
cười, còn viên quan Hàn lâm thì thẹn quá, chỉ biết cúi đầu đỏ mặt mà thôi.
Nguồn: GTVHVN, Tổng tập VHDGNV, Tập 11, tr.400 – 401.
27. Trâu bò dê lóc (Nguyễn Đình Chiểu)
Nguyễn Đình Chiểu quê ở làng Tân Khánh, tổng Bình Trị Thượng, huyện Bình
Dương, phủ Tân Bình, hạt Gia Định, (Sài Gòn), sinh năm 1822, mất năm 1888. Khoa thi
Hương năm Quý Mão (1843), đời Thiệu Trị thứ 3, ông đỗ Tú tài đầu xứ.
Khoa thi ở Huế năm Kỷ Dậu (1849), Nguyễn Đình Chiểu chưa kịp thi thì chẳng may
PL205
bị mù mắt. Sau đó, ông mở trường dạy học và làm thuốc ở Gia Định. Dù biết ông bị mù,
nhưng do đức độ và văn tài nên học trò các nơi vẫn tìm đến học rất đông, thường có tới vài
trăm người. Từ đó, nhân dân gọi ông là Đồ Chiểu, cái tên sống mãi với thời gian.
Tương truyền, ở xã Trường Bình, có một thầy thuốc, tai nghễnh ngãng, nhưng trức
tính tới mức ngang bướng, nhân dân quen gọi là Thầy Tàng. Thầy Tàng thường hay qua lại
chơi với Đồ Chiểu.
Một hôm, hai thầy đang ngồi uống nước, thầy Tàng liền đọc một vế đối rằng:
Trâu khát nước, bò xuống uống.
Câu ra bình dị, chẳng có điển cố gì, song khó đối ở chỗ chơi chữ: trâu với bò. Đồ
Chiểu nhanh miệng đối ngay:
Trê thèm mồi, lóc lên ăn.
Câu đối lại thật tài giỏi, cũng theo lối chơi chữ, có cả trê, có cả lóc (còn gọi là cá
chuối). Mà lóc lên còn có nghĩa là trườn lên, lách lên, đối với bò xuống là rất chọi.
Thầy Tàng nghe đối phục lắm. Tiếp đó, Đồ Chiểu cũng ra một vế đối, thách Thầy
Tàng đối lại:
Thầy Tàng tai không nghe sấm.
Câu này lấy ý từ câu văn nói về con vịt: “Võng khiếp thiên uy, trí lôi thanh ư nhĩ
ngoại” (Chẳng sợ oai trời, để tiếng sấm ở ngoài tai). Như thế, vừa có ý lỡm Thầy Tàng hơi
nghễnh ngãng tai, vừa khen thầy cứng đầu cứng cổ không biết sợ ai.
Thầy Tàng ngẫm nghĩ một lúc, rồi đối lại rằng:
Đồ Chiểu mắt chẳng xé mây.
Đây là điển trong Tam quốc chí, lấy ý từ câu của Mã Siêu khi mới hàng Lưu Bị:
“Nay gặp được minh chúa, khác nào vén đám mây mù mà trông thấy trời xanh”. Như thế là
vừa đùa Đồ Chiểu mắt lòa, lại vừa hàm ý nói đời nay làm gì có minh chúa để mà tôn thờ,
vậy thì làm gì phải vén mây mà nhìn trởi xanh…
Thầy Tàng đối xong, cả hai người cùng nắm tay, cười ha hả.
Nguồn: GTVHVN, Tổng tập VHDGNV, Tập 11, tr.391 – 392.
28. Muôn quyển sách – ba đoạn tre (khuyết danh)
Một ông đồ nghèo xơ xác, nhà cửa tiêu điều, chẳng có ngoài một bộ sách cũ.
Bên kia đường, đối diện với nhà ông, là dinh cơ của một phú ông: cổng cao, tường
kín, phía trước cửa lại có một bụi tre to.
Tết đến, ông đồ làm câu đối tức cảnh, đem treo trước cửa:
Gia trung vạn quyển thư,
Môn ngoại tam can trúc.
(Trong nhà muôn quyển sách;
Ngoài cửa ba cành tre).
Có người nói với phú ông: “Nó viết thế là xỏ ông đấy. Nhà nó thì chữ nghĩa
trùng trùng, bên ông chỉ ba cành tre gộc gạc”. Phú ông tức giận, sai người chặt cụt
bụi tre.
Ông đồ thấy vậy, vào lấy giấy bút, dấn thêm vào mỗi vế một chữ:
Gia trung vạn quyển thư trường,
Môn ngoại tam can trúc đoản.
PL206
Người nọ lại tán với phú ông: “ Ông chặt bụi tre, người nọ lại tán với phú ông:
“Ông chặt ngắn bụi tre, câu đối lại mỉa mai hơn: sách của hắn dồi dào, tre của ông
cũn cỡn. Láo quá!”.
Phú ông điên lên, sai người đào cả bụi tre lên, san thành đất bằng, chắc mẩm
ông thầy đồ hết vin vào đâu để mà viết lách.
Nào ngờ ông đồ lại điềm nhiên, viết thêm vào mỗi vế một chữ nữa:
Gia trung vạn quyển thư trường: hữu,
Môn ngoại tam can trục đoản: vô!
(Trong nhà muôn cuồn sách dài: sẵn;
Ngoài cửa ba cành tre ngắn: không)
Đến đây, phú ông hoàn toàn hết phép.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 2, tr.71 – 72.
29. Bốn chàng sĩ tử (khuyết danh)
Có bốn chàng học trò xứ Bắc sang Hà Nội dự kỳ thì Hương. Trên đường đi, có
qua công tư dinh quan tri phủ. Trước công dinh này có hai con sư tử bằng đá rất to.
Nghe đâu, quan tri phủ thích đôi sư tử ấy lắm.
Quan tri phủ vốn xuất thân khoa bảng, người phương phi, đường bệ, có tiếng
hay chữ, lại biết quý học trò giỏi. Bốn chàng xin được diện kiến quan. Sau khi nghe ý
nguyện của bốn chàng học trò, quan phủ phán:
- Ta sẽ thưởng cho bốn thầy, nếu các thầy cho ta nghe một bài thơ vịnh hay
về gia cảnh của ta.
Bốn chàng sĩ tử ngó trước ngó sau, chỉ thấy đôi sư tử ngoài cổng là hùng dũng
và có khí phách, bèn dồn tâm trí vào vịnh hai con sư tử ấy.
Chàng thứ nhất ứng khẩu:
Chẳng phải chó dê, chẳng chó mèo
Chàng thứ hai ngắm nghía kĩ phần đầu con vật, thốt lên:
Mặt thì phèn phét, tóc quăn queo.
Chàng thứ ba ngắm tư thế đôi sư tử, đặt câu hỏi:
Chúa rừng sao chịu ngồi canh cổng?
Chàng thứ tư chú ý đến cái bụng thon thon của đôi sư tử:
Chẳng được ăn gì, bụng đói meo!
Ghép lại tác phẩm của bốn anh học trò, thì đó là bài thơ:
Chẳng phải chó dê, chẳng chó mèo
Mặt thì phèn phét, tóc quăn queo.
Chúa rừng sao chịu ngồi canh cổng?
Chẳng được ăn gì, bụng đói meo!
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 2, tr.96 – 97.
30. Nỏ biết ông chi mặt đỏ gay (khuyết danh)
Có một ông đồ xứ Nghệ ra bắc tìm chỗ dạy học. Vào đến thờ đức Thánh Quan,
ông trông thấy tượng ngài uy nghi ngồi giữa, ông Châu Xương vác ngọn đao, ông
Quan Bình bưng hòm ấn đứng hầu hai bên. Trên án có cái đỉnh, nắp tạc hình con kì
PL207
lân. Ngoài sân có đôi hạc đứng chầu trên lưng rùa. Thầy liền tức cảnh làm bài thơ
rằng:
Nỏ biết ông chỉ mặt đỏ gay,
Thế mà hương hoả bấy lâu nay.
Bên kia chủ lái cầm dao quắm,
Bên này thằng sãi bưng cái khay.
Trên án lư hương, con chó đứng,
Ngoài sân, cò trắng đ. cà cay!
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 2, tr.110 – 111.
31. Làng biết có đi đời (khuyết danh)
Nhà sư trụ trì ở một ngôi chùa nọ đã đề ý một bà vãi từ lâu. Một hôm, bà vãi ấy
đến thăm chùa. Nhà sư nhìn quanh chẳng thấy ai, mới đến cạnh bà vãi, nói:
Nhân khi vắng chiền gia
Yêu nhau chút gọi là
Mời vãi xuống nhà oản
Ta…
Bà vãi không đồng ý, đáp:
Đã mang tiếng xuất gia
Còn đeo thói nguyệt hoa
Sư mô đâu có thế
Ma…
Chú tiểu ở gian bên cạnh nghe được, lên tiếng:
Bữa nay có chuyện hay
Sư ghẹo vãi ban ngày
Vãi chẳng nghe, sư cáu
Hay…
Thấy việc xấu của mình bị lộ, nhà sư phải năn nỉ chú tiểu rằng:
Chú tiểu thật là gan
Chuyện đó chớ nói càn
Mai cho nhiều oản chuối
Ngoan…
Chú tiểu cũng cho qua:
Biết việc chỉ mình tiểu
Làng biết có đi đời
Đã van không nói nữa
Thôi…
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 2, tr.115 – 116.
C. GIAI THOẠI VĂN HÓA DÂN GIAN
Các văn bản trích dẫn dưới đây được trích từ công trình Giai thoại văn hóa dân gian
người Việt (GTVHDGNV) của Triều Nguyên.
PL208
GIAI THOẠI SINH HOẠT VĂN HÓA, VĂN NGHỆ DÂN GIAN
GIAI THOẠI HÒ ĐỐI ĐÁP BÌNH TRỊ THIÊN
1. Tui cày suông cho chị (Ông Bơi)
Ba Thi hò trêu ông Bơi:
Cửa nhà tui đây hào phú, chộ cụ túng tiên,
Nhà tui có ruộng, có nương, muốn nuôi cụ ở có phiền chi không?
Ông Bơi đáp lời:
Tui đây gặp cơn lỡ bước hàn vi,
Chị giàu sang phú túc, tui ở với chị, chị nhờ chị tui cũng mần.
Bà Thi hò:
Cụ ở với tôi áo ấm cơm no,
Phải lo đàng trưa ruộng, tru bò,
Đừng có chao lơ lủng lẳng, bỏ việc kho không mần.
Ông Bơi đáp:
Tui ở với ai không nói,
Còn ở với chị đêm ngày mần việc ra ba.
Ngày thì lo việc cửa việc nhà, đêm hôm đấm bóp,
thoa lại thoa qua nhẹ nhàng.
Bà Thi lái sang điều ông Bơi đề cập, là “chợn với bò”:
Cụ ở với tui áo ấm cơm no,
Lo đàng trưa ruộng, tru bò,
Vì răng cày thưa bừa sống, chỉ lo chợn với bò mà tính công?
Ông Bơi đáp:
Đập trâu đực thì cực lòng chị
Không cho trâu cày thì sĩ bụng tui
Thôi thì tui cày suông cho chị, xong xuôi tui về!
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.370 – 371.
2. Nét tơ đồng không sai (Thợ Quán)
Ông Quán ở Quảng Cư (huyện Lệ Ninh, tỉnh Quảng Bình) làm nghề thợ nề,
thường gọi là thợ Quán. Thợ Quán thích hò đối đáp với cô Hảo, người lớn hơn ông
sáu tuổi. Cô Hảo người Xuân Bồ, sở dĩ gọi “cô” vì làm vợ một ông thầy chùa. Hôm
ấy, gặp cô Hảo ở cối hò giã gạo, thợ Quán vận theo tích Truyện Kiều, với ý trách cô
Hảo mới lấy thầy chùa, được gọi bằng cô, đã ra bộ làm sang:
Khi Lâm Tri da chì tóc rối,
Lúc Vô Tích đá nát vàng tan,
Chưa sang bạn đã lấy làm sang,
Có nhớ khi dưới tiệc vặn đàn hay không?
Cô Hảo hò đáp lại:
Gái như em Châu Trần nỏ(1) thiếu,
Hiềm vì chữ hiếu nên chịu long đong,
Nay tàn dương gặp được mây rồng,
Oán ân trả được, nét tơ đồng không sai!
PL209
______
(1): Nỏ: tiếng địa phương, nghĩa là chẳng, không.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.372 – 373.
3. Hễ trời mưa giông một trộ (Thợ Quán)
Lần khác, ông thợ Quán muốn trêu đùa cô Hảo, nhưng ngại cô Hảo đáp trả
nặng lời, bèn trao lời hò đã đặt cho ông Bình, một người làm nghề đánh cá, để ông
này hò thay.
Gặp cô Hảo, ông Bình hò trêu:
Đời chừ văn minh lắm thứ,
Người ta chuộng tới Mỹ, Đức, Phù Tang,
Người sang thì trên dù dưới mũ bận áo bận ba – đờ - xuy,
Tốt lành chỉ o ba cái tơi cụt, mà công đi công về!
Nguyên là, lúc còn trẻ, cô Hảo làm nghề chăm tơi, thường gánh đi các chợ bán.
Biết ông thợ Quán đã gà cho ông Bình trêu tức mình, o Hảo đáp ngay rằng:
Mai này tôi công mấy cái tơi qua chợ Tréo
Kẻ trả một tiền ba sáu, người trả một tiền hăm tư
Tôi sợ lộ(2) vốn nên phải côông(1) về
Hễ trời mưa dông một trộ, thì người đánh cá,
và cả mấy ông thợ nề họ quơ trơn(3)!
___________
-
-
-
(1) Côông: tiếng địa phương, nghĩa là gánh.
(2) Lộ: lỗ.
(3) Quơ trơn: vơ sạch, ở đây là mua hết tất cả.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.373 – 374.
4. Vợ chồng mình như em ả, chị tam (Thợ Quán)
Lại có lần, ông thợ Quán hò cùng mẹ Con. Cũng như cô Hảo, mẹ Con hơn ông
Quán nhiều tuổi. Ông thợ hò nghịch:
Thế gian đồn đỏ, đồn xanh,
Đồn em là vợ, đồn anh là chồng.
Mẹ Con không tha:
Thế gian họ đồn chà chạ(1)
Mai em ở nhà mắng đã,
Hai vợ chồng mình cũng ví như em ả, chị tam(2)
Ông thợ Quán không sao trả lời được, từ đó không hò nghịch với mẹ Con nữa.
__________
(1) Chà chạ: bậy bạ, không nghiêm túc.
(2) Chị tam: chị với em.
-
-
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.374 – 375.
5. Nam to không chèo (Thợ Thiềm)
Thợ Thiềm, vốn nghề thợ mộc, sống vào nửa đầu thế kỷ XX, quê làng Dạ Độ
(huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị), là người nổi tiếng về hò hát. Lần ấy, trên chuyến
đò dọc đi Đông Hà, tình cờ thợ Thiềm gặp lại người bạn gái thuở nào. Giữa họ từng
PL210
xảy ra chuyện không vui, nhưng nay nghe tiếng hò của bạn, Thiềm không cưỡng
được, cất lời:
Tiếng ai văng vẳng nghe xa,
Có phải người tình thuở trước vắng ta mà đi tìm?
Cô kia nhận ra Thiềm, hỏi ngay rằng:
Kể từ ngày duyên nợ cách xa,
Chớ Hà Tây quê hát, sao mời mà không qua?
Thiềm đáp:
Nhớ lời đặn, nhớ tiếng hò,
Muốn ghé qua thăm cho trọn tình trọn nghĩa,
Vì chưng ông lái nói: Sợ nam to không chèo!
Vừa dứt lời, cô kia đã ra chiều mỉa mai:
Rượu Quỳnh Tương đợi người lữ thứ,
Té ra đằng bạn cũng muốn rày tiếng mai lai,
Chẳng qua là đò xuôi không đặng, mà đến đò ngang cũng không chèo!
Bị bắt thóp, thợ Thiềm thấy khó xử, bèn hò thêm dăm ba câu cho qua chuyện,
rồi rút êm. Thì ra, họ từng một lần lỡ hẹn, muốn tránh mặt nhau. Nay tình cờ gặp lại,
riêng với Thiềm thì vẫn còn ngọng nghịu, chưa thể “hòa âm”.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.375 – 376.
6. Méo tròn cũng phải ăn (Thợ Thiềm)
Hôm ấy, thợ Thiềm đang hò với các cô gái. Đang ra sức chinh phục các cô
bằng giọng hò bay bướm của mình, thì phía bạn muốn trêu tức anh, bằng cách đẩy
vào cối hò giã gạo một bà sồn sồn. Đã mấy lần, gặp trường hợp này, anh lấy cớ rút
lui. Nhưng lần này, thấy khó bề bỏ dở cuộc hò, Thiềm đành lên tiếng:
Chẳng qua cái số long đong,
Đi mô cũng gặp Gia Long bảy đời!
“Gia Long bảy đời”, tức tiền Gia Long cũ rích, hàm ý: người già cả, không có
gì thú vị. Nào ngờ, bà nọ không phải tay vừa, thản nhiên đáp lại:
Gia Long, Minh Mạng hãy còn,
Bảng treo giữa chợ, méo tròn cũng phải ăn.
Tức tiền Gia Long, tiền Minh Mạng (bằng kim loại) nhà nước đã có quy định
phải tiêu dùng, thì dù méo tròn thế nào, cũng không được từ chối. Và hàm ý cũng
không khó nhận ra: ca dao chẳng bảo “Bà già tuổi tám mươi hai; Ngồi trong quan
tài, hát ví thợ sơn”, huống là... Bị sửa lưng, thợ Thiềm không còn dám coi thường bà
sồn sồn nọ.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.376– 377.
7. Thợ Thiềm phá vây (Thợ Thiềm)
Hầu như Thiềm đi đâu cũng gặp những người hâm mộ hoặc mê hát quấy rầy.
Nhất là số chị em táo bạo, nhiều khi chẳng kiêng nể gì. Lắm khi, Thiềm nổi cáu rồi
nói xằng.
PL211
Lần ấy, Thiềm đi từ Đông Hà về, ngang qua Dạ Độ, bỗng nghe mấy cô gái bên
sông vẫy tay hò. Đò sắp cập bến, có lẽ Thiềm đã coi thường các cô, về việc ngóng
đợi mình, nên một người đã đáp lại:
Tiếng đồn anh lên lên xuống xuống,
Bởi ngọn gió hiu hiu phảng phất, nên con nào muốn cũng trông!
Nghe qua, tưởng những kẻ hâm mộ, đua chạy theo anh. Kỳ thật, các cô muốn
ví sự “lên xuống” của ông như việc đi đại tiện. Chó ngửi thấy mùi mà chạy đến, chứ
có gì mà làm cao. Thiềm ức lắm, quay lái thẳng đi, không ghé hò nữa.
Lần khác, bên nữ đưa ra những câu hò trêu ghẹo khá tục, coi Thiềm như con
nít. Họ lại đông người như bủa vây ông. Thiềm bước lên chỗ cao, tay chống nạnh, hò
đáp:
Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình,
Có một cây cổ thụ, nó tuột chình ình ra đây!
Người xem được một trận cười hả hê, vì phục tài năng ứng đối nhanh nhẹn,
khôn ngoan, lại còn tự phụ của Thiềm. Ý ông muốn nói: Vóc dáng trai tráng này hẳn
dư sức đối chọi lại với hàng chục cô, chớ coi thường là con nít. Nhưng điều quan
trọng hơn là ông đã phá được vòng vây của các cô mà đi làm công việc của mình.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.377– 378.
GIAI THOẠI HÒ KHOAN NAM TRUNG BỘ VÀ HÁT PHƯỜNG VẢI NGHỆ TĨNH
Chúng tôi xin giới thiệu một số giai thoại có liên quan đến các nghệ nhân dân
gian nổi tiếng về hò khoan của vùng đất Nam Trung Bộ như: đồ Tâm – cô Rồng, ông
Bảy Tỏi, ông Trần Hàn, bà Út, cô Hai Nên và một số giai thoại hò hát khuyết danh.
Các giai thoại này được trích lại từ công trình GTVHDGNV, tập 1 của Triều
Nguyên.
1. Cưỡi rồng (Đồ Tâm – Bà Rồng)
Nhà ông đồ Tâm (người làng Phong Thử, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam)
hôm ấy có giỗ, vợ con đi chợ, ông ở nhà lo quét dọn, lau chùi đồ thờ để trưa cúng
cơm và đón bà con lối xóm đến dự. Khi đang cắm cúi làm thì nghe ngoài đường có
tiếng rao hàng bánh của cô Rồng, một người quen biết cũ, ông dừng tay, đánh tiếng
để cô vào nhà.
Cô Rồng đặt gánh trước thềm nhà, ngồi lên đòn gánh, niềm nở hỏi:
- Dạ thưa thầy, lâu ni vẫn khỏe ạ.
Ông đồ Tâm:
- Cảm ơn! Thế lâu nay cô có hát đối đáp không?
- Thưa thầy, em bận bánh bung, ít có dịp - Cô Rồng đưa mắt nhìn vào phía nhà
trong - Nhờ thầy nhắc cô mua giúp để em còn đi ạ!
- Nhà tôi và cháu đi chợ cả rồi. Hôm nay nhà có kị, nhân lâu ngày mới gặp lại,
ta đối nhau mấy câu cho vui nhé!
Thấy cô Rồng gật đầu, ông Tâm tươi cười, hát:
Mình chừ giả tiết ông Thần Nông,
Ngăn mây đón gió cưỡi rồng dạo chơi.
Cô Rồng đáp lời:
PL212
Cưỡi rồng mà chẳng đặng rồng,
Sợ e rồng lộn văng lông nhằm mình!
Đồ Tâm à lên một tiếng dài, chừng như để có thời gian suy nghĩ. Rồi đáp lời:
Mình đà học phép cưỡi rồng,
Rồng kia có lộn, ta gồng lên trên,
Hai tay nương lấy hai bên,
Diện nhi đối diện, tắt bền như xông,
Dù cho rồng có rụng lông,
Cũng rơi xuống đấy, chứ không nhằm mình!
Cô Rồng mỉm cười đáp:
Sức rồng thầy được bao nhiêu,
Mình rồng phơi phới gấp nhiều lần hơn,
Giá đành chịu ép van lơn,
Rồng ban lông lạ, trợ cơn ngặt nghèo!
Thật may cho ông Tâm, lúc đó vợ con ông đi chợ về, cuộc đối đáp kết thúc.
Nghe nói sau đó ông đồ Tâm không dám nghĩ tới chuyện cưỡi rồng nữa, nên thường
lánh mặt mỗi khi gặp cô Rồng.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.397 – 398.
2. Buôn trầu lỗ lắm (khuyết danh)
Ở nông thôn xứ Quảng ngày trước, phân trâu bò rất quý vì dùng để bón lúa. Do
đó, nhiều cô gái hàng ngày phải đi hốt phân về ủ với lá cây mà bón ruộng. Một hôm,
gặp một cô đi hốt phân trâu, một anh hát:
Em ơi hốt cứt làm chi,
Rửa tay cho sạch mà đi buôn trầu.
Cô gái trả lời:
Buôn trầu lỗ lắm anh ơi
Để em hốt cứt lần hồi nuôi anh.
Thấy cô gái giận dữ như vậy, chàng trai vội vã tránh đi.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.401 – 402.
3. Hai cặp ảng có mấy cái lù? (khuyết danh)
Một hôm, các chị gặp các anh thợ làm ảng, hát rằng:
Gặp trượng phu thiếp xin hỏi trượng phu,
Ảng(1) kia hai cặp, có mấy cái lù(2) bạn biết không?
Mỗi cái ảng đều có trổ một lỗ lù để thoát nước. Các anh biết, nêu trả lời “bốn
lù” thì sẽ mắc mưu các cô gái (do lái âm), nên đã đáp tránh đi:
Bao nhiêu lù là bấy nhiêu cái ảng,
Có kia sang sảng, khéo hỏi khù khờ,
Ảng kia hai cặp, mấy cái lù giờ biết chưa?
Các cô gái đang chúm chím cười trước cái bẫy việt vị của của họ, bỗng bị chê
khù khờ, lơ mơ trở nên chưng hửng.
——————
-
(1) Ảng: Đồ đựng nước bằng đất nung, miệng rộng, thường có ba chân thấp.
PL213
- (2) Lù: Lỗ thoát nước ở đáy ảng, bể cạn.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.402.
4. Anh chỉ được đứng hầu ở ngoài sân (Cô Hai Nên)
Cô Hai Nên giỏi hò có tiếng. Một hôm, gặp anh lính thổi kèn tây, cô Hai lên
tiếng trước:
Tiếng đồn anh học nhạc đã lâu,
Ông Tây đòi, ông sứ bắt, đứng dưới cái đồn lầu(1) thổi chơi,
Khen anh giọng tốt dư hơi,
Lưỡi lê liếm lỗ, ngồi nơi xó hè.
Anh lính kèn không phải tay vừa, đã trả lời sát phạt:
Chấp sự giả các tư kỳ sự dã(2)
Ông thân em già cả nên được đứng dưới đồn lầu
Phận anh đây là lễ nhạc, chỉ được hầu ở ngoài sân.
___________
-
-
(1) Đồn lầu: là cái đồn xây theo kiểu nhà lầu, ở đây cô gái sử dụng phép lái âm để dè
bĩu anh lính kèn.
(2) Chấp sự giả các tư kỳ sự dã: Người đứng lo việc mỗi người đều làm phần việc
của mình. Đây là lời xướng của lễ sinh, thường dùng khi bắt đầu cuộc lễ tế thần.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.403.
5. So sánh giữa tôi và chị (khuyết danh)
Con trai ở Đông Yên và con gái Ở Mã Châu Thành thường hát đối đáp với
nhau. Lần ấy, bên gái Mã Châu Thành hát trước:
Tiếng đồn chàng ở Đông Yên xã,
Thiếp ở Mã Châu Thành,
Hỏi thăm chút: trường thành của thiếp bao nhiêu?
Con trai Đông Yên đáp lại:
Cây ngọt sanh ra trái đắng,
Năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài,
Tôi đến đây không ham sắc, cũng chẳng khoe tài,
Bề ngang tôi thua chị, chứ bê dài chị thua tui!
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.405.
6. Mi thò đầu lên là tau ngoéo (Giáo Lươn)
Người ta gọi ông là giáo Lươn. Đến nay các nhà sưu tầm, nghiên cứu về hát hò
khoan xứ Quảng chưa ai có tài liệu về năm sinh và năm mất của ông, cũng không rõ
tên ông có thật là Lươn, hay Lương. Chỉ biết rằng ông là người có học, sinh thời ông
làm nghề dạy học và cũng là người rất mê hát hò khoan.
Giáo Lươn thường tham gia các cuộc hát, và có nhiều câu hát hay. Một lần đi
hát gặp cô gái tên Khai, ông hát khiêu khích:
Con kia mi đừng nói lừng khừng,
Xung điên bắt rắn bỏ quần mi phải khai.
Cô gái đáp:
Bụng đàn bà, dạ con nít,
PL214
Thầy rắn phải la làng,
Rắn không phải rắn, nó vàng vàng như chú lươn(1).
Ông giáo Lươn cũng không vừa, hát tiếp:
Giống lươn là giống hay trườn,
Dù mi có lấy rổ(2) phân úp lại, bốn cẳng giường chần lên!
Tuy nhiên, trong cuộc đời đi hát ông cũng để lại một số giai thoại, mà những
giai thoại này đều gắn liền với những câu hát mà ông không đối lại được. Một lần,
một cô gái đem tên ông (Lươn) ra đề nhạo báng:
Sáng ra đau bụng đi cầu,
Thò tay rửa đít, đụng đầu con lươn.
Một lần khác, có người lại hát:
Nực cười cần ngắn chỉ dài,
Lưỡi câu cũng được một vài túm quăn,
Móc mồi thả xuống mi ăn,
Tau rị, mi rị thẳng căng như dây đờn,
Thử tài thử sức ai hơn,
Mi thò đầu lên là tau ngoéo(3), xem mi trơn chừng nào!
Đây là những câu hát có vế ra rất hiểm, và ông giáo Lươn đã không đáp lại
được.
__________
(1) Lươn: Trong lỗi phát âm của người địa phương thì “lươn” và “lương” là
một.
(2) Rổ phân: cũng nói là “rổ tràng phân”, loại rổ to, đan dày và chắc.
(3) Ngoéo: Dùng các ngón tay (cái, trõ và giữa) bẻ và kẹp chặt, khiến lươn bị
giãn xương sống, không trườn nổi (đây cũng là một trong những cách bắt lươn của
dân gian)
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.406 – 407.
7. Cặp và chiếc (khuyết danh)
Gặp được cô gái nổi tiếng trong việc bẻ chữ đặt lời, chàng trai hò:
Con vịt nó kêu “cặp cặp”,
Nó kêu không hồi không chặp, kêu khắp dòng sông,
Kêu: “Đào hoa giang thượng tương chiếu hồng1”,
Nguyện làm sao đó vợ, đây chồng cân đôi,
Đã đành nước chảy bèo trôi,
Tuy rằng kêu “cặp”, nhưng mồ côi một mình.
Lời chàng không dài nhưng dảy đặc chữ nghĩa: có một câu Hán Việt và sử
dụng cách chơi chữ trái nghĩa (trái nghĩa ngữ cảnh): “Cặp” (đủ đôi đủ cặp) - “một
mình”. Cô gái đáp trả:
1 Đào hoa giang thượng tương chiếu hồng: Trên sông, cánh hoa hồng phản chiếu
màu hồng của nó qua dòng nước.
PL215
Con gà hắn kêu “chiếc chiếc”,
Hắn kêu tha kêu thiết, kêu riết1 cả năm canh,
Kêu: “Cô sản lưu thủy bất vị thần2”,
Trời kia khéo để duyên lành nhởn nhơ.
May mô ngộ gặp tình cờ,
Tuy rằng kêu “chiếc ” nhưng bây giờ thành đôi.
Lời đáp này được hình thành theo hình thức đối. Tiếng kêu “cặp cặp” của vịt
được đối bằng tiếng kêu “chiếc chiếc” của gà. Về mặt thể thơ, dòng thứ hai mỗi lời
đều dùng yêu vận trắc, được láy lại (“chặp - “khắp”; “thiết” - “riết”) trước khi hiệp
vận với dòng một (“chặp”- “khắp, “cặp cặp”; “thiết” - “riết” - “chiệc chiếc”); dòng
thứ ba sử dụng một câu theo hình thức Hán Việt, và từ dòng bốn trở đi, vần được
thực hiện theo thể lục bát; dòng cuối dùng kiểu câu tuy A nhưng B để nhấn mạnh B:
nếu chàng đang “một mình” thì nàng sẵn lòng ghép vào để “thành đôi”.
Thật là đăng đối, không ai hơn kém ai!
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.408 – 409.
8. Đu đưa đủng đởn như ông già (Bảy Tỏi)
Ông Bảy Tỏi là người rất giỏi hò khoan. Giai thoại kể rằng trong một lần đi
hát, ông bị bà Út hát trước đánh phủ đầu bằng cách đem tên ông ra châm chọc:
Nửa đêm thức giấc hoảng hồn,
Con chi nó cựa quậy trong l… của tui,
Tưởng là một dậu thì thôi,
Hay đâu tới bảy dậu, trời ơi là trời!
Bị tấn công quá mạnh, ông Bảy Tỏi đành thúc thủ. Lần khác, lại gặp nhau và
cô Út hát trước:
Lâu ngày mời gặp bạn Ta,
Làm ăn có khắm khả hay sát da như mình?
Ông Bảy Tỏi còn có tên tục là Ta. Việc gọi xách mé tên tục của đối phương là
một cách châm chọc. Tổ hợp “sát da" có hai nghĩa: thứ nhất, nói công việc làm ăn
khó khăn nên người gầy ốm sát da; thứ hai, quan trọng hơn, đây là muốn châm chọc,
chỉ bộ phận kín của người nữ. Ông Bảy Tỏi hiểu ý rất nhanh nên trả lời hết sức lý
thú:
Làm ăn không khá không không,
Đu đưa đủng đởn như ông ở nhà3.
1 Riết: Miết, mải miết, suốt
2 Cô sản lưu thủy bất vị thần: Dưới dòng nước chảy, cành cây lẻ loi, không đâu là
3 Chú theo nguồn trích dẫn giai thoại: Chính từ câu hát hò khoan này
bến bờ (Sản: cây tương tự như cây mơ, quả chua).
mà có câu ca dao đối đáp bông đùa ở xứ Quảng:
Gặp anh Ba đây khiến hỏi anh Ba,
PL216
Ông dùng cụm từ tượng hình “đu đưa đủng đởn” để chỉ bộ phận sinh dục nam,
thật là một cầu trả lời đắc ý.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.480 – 481.
9. Miếng đất mưa ba năm không ướt, nắng sáu tháng không khô (Bảy Tỏi)
Cô Út gặp anh Bảy Tỏi giữa đường. Cô chủ động hát trước:
Hai bên rừng núi rậm rì,
Ở giữa có khe nước chảy, anh đi đường nào?
Anh Bảy Tỏi đáp trả:
Hai tay anh nương hai cái cù lao,
Nước chảy mặc nước, anh cứ chống sào anh qua!
Một lần khác lại thách thức:
Em đưa cho anh một nắm bắp khô,
Đố anh trỉa cho mọc, em xin vô kết nguyền?
Anh Bảy Tỏi trả lời:
Anh biết em có miếng đất bỏ không,
Mưa ba năm không ướt, nắng sáu tháng ròng cũng không khô.
Vậy thì có khó chi mô,
Em đưa đây cho anh mượn, anh trỉa vô mọc liền1
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.483 – 484.
10. Hát với nàng Dùi Chiêng (Trần Hàn)
Ngày nọ, Trần Hàn đến thăm một người bạn ở làng Bình Yên, huyện Quế Sơn,
tỉnh Quảng Nam. Các cô giỏi hò hát ở đây kéo đến thử tài ông. Họ ra điều kiện, ông
hát trước một lời có tên ngọn núi địa phương là Dùi Chiêng, để mở đầu cuộc hát.
Ông cất giọng:
Tôi đây khách lạ qua đường,
Các cô bảo hát với nàng Dùi Chiêng.
Ngày mai rời dốc Bình Yên,
1 Chú theo nguồn trích dẫn giai thoại: Chính câu hát hò khoan này là cơ
Lâu nay làm ăn có khấm khá hay cũng sát da như bọn mình?
Thời buổi bây giờ công việc sớt sưa,
Dư không dư, thiếu không thiếu, cũng đu đưa như mọi ngày!
sở để ra đời câu ca dao bông đùa quen thuộc xứ Quảng:
Em liều một nắm bắp khô,
Đố anh trỉa mọc, em vô kết nguyền.
Trời mưa ba năm không ướt,
Trời hạn sáu tháng không khô,
Em không cho anh trỉa, chớ anh trỉa vô mọc liền!
PL217
Các cô ở lại có chiêng không dùi.
Ra về lắm nỗi bùi ngùi,
Một mình dưới nớ, có dùi không chiêng.
Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
Gặp đây có bạn, có chiêng có dùi!
Từ núi Dùi Chiêng được ông biến đổi thành “dùi”,“chiêng”, rồi cụ thể hóa
chúng qua “vật chủ” của các cô gái và chính bản thân mình. Việc làm này khiến các
cô bối rối, kéo nhau lui gót.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.485 – 486.
Khảo dị:
Tài liệu [KTGT, tr.978] của Vũ Ngọc Khánh chép mẩu giai thoại tương tự,
nhưng người hát về Dùi Chiêng không phải Trần Hàn mà là ông Tư, một người ở
vùng khác đến Dùi Chiêng kiếm việc làm. Lời hò của hai nhân vật mang tính đại
đồng tiểu dị.
11. Lão Phàn con ai? (Trần Hàn)
Trần Hàn xuất thân Nho học, lại sử dụng thành thạo ngôn ngữ dân gian, ông
ứng khẩu rất nhanh, thường thắng lớn trong những cuộc hát đối đáp. Giai thoại kể
rằng ở một đám hò khoan nọ, mấy ông đồ định dồn ông vào thế bí, họ gà cho một cô
gái hát:
Lộ đồ quan ải, quả đi quan,
Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng,
Thứ ba Sơn Hậu lão Phàn con ai?
Câu hò vừa Nôm vừa Hán rút từ sự tích vở tuồng Sơn Hậu. Xưa nay từ kịch
bản đến diễn xuất không có nơi nào chỉ rõ lai lịch nhân vật lão Phàn, tức Phàn Đình
Công, chỉ biết nhân vật này là một trung thần nhà Hán. Thế mà Trần Hàn tự tin hát
đáp rất nhanh:
Nan thế nan lưu, nan thế sự,
Bần cư gia thất hữu thất gia,
Thiếp hỏi chàng: Chàng phải nói ra,
Phàn Đình Công thuở trước con bà già ông sinh...
Tất nhiên, đó là một câu trả lời có tính đối phó, nhưng ở đây từ thế bí ông
chuyển thành thế chủ động. Do đó, ông được thế phản công luôn:
Thế gian ai chẳng có thân huynh,
Chớ chàng hỏi thiếp đôi đứa mình ai sinh?
Trần Hàn không chỉ dành thế chủ động tấn công mà còn chuyển tử chỗ tình
cảm sơ giao thành tình cảm thân mật: tổ hợp từ đôi đứa mình nghe thật gần gũi, thật
gắn bó, vì nó chỉ dành cho những người đang yêu nhau.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.486 – 487.
12. Cây ai trồng nấy ăn (Trần Hàn)
Có lần, Trần Hàn cùng nhóm bạn xuống huyện Duy Xuyên để đối đáp với mấy
cô hò khoan có tiếng. Thấy ông, họ tấn công ngay:
Gặp mấy chàng, xin hỏi mấy chàng:
PL218
Cây chi mà đứng bên đàng,
Thực bất tri kỳ vị, hỏi chàng cây chi?
Trần Hàn đáp ngay:
Cây chi mà đứng bên đàng,
Đó là cây đặt, hỏi nàng đúng không?
Bốn mùa ra trái trổ bông,
Thực bất tri kỳ vị, ai trồng nấy ăn!
Dùng cách lái âm “cây đặt” và giải thích “ai trồng nấy ăn” như vậy, khiến cho
các cô gái xấu hổ, không thể tiếp tục cuộc hò.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.488.
13. Bị vây bủa bốn bề (Trần Hàn)
Bị Trần Hàn trêu chọc ở lời hò “cây ai trồng nấy ăn” lần nọ, các cô lấy làm
giận. Hôm ấy, thấy Trần Hàn vừa bước đến, các cô gái lập tức bàn định, rồi xướng
lên rằng:
Tiếng ai như tiếng Trần Hàn,
Con ông Quyền Liệu ở làng Xuân Quê,
Nhà thì ruộng đất bề bề,
Vợ năm bảy mụ, sao lại theo nghề hò khoan?
Ông chưa kịp lựa lời, thì một cô gái hát tiếp:
Trần ai gặp lúc cơ hàn
Rổ đan mặt mốt, xuống làng mót khoai!
Với người ngoài cuộc thì lời hát rất hợp lẽ (gặp lúc đói rét, phải mang rổ đi mót
khoai, là bình thường). Nhưng với ông, lời hát đã cùng lúc nêu ba chi tiết nhắm vào
đặc điểm bản thân, theo lối chơi chữ: a) Họ tên: Trần Hàn (chơi chữ theo cách tách
ghép từ); b) Mặt bị rỗ (chơi chữ theo cách cùng âm – trong lối phát âm của phân lớn
người miền Trung và miền Nam, “rỗ” và “rổ” là cùng âm); c) Chỉ một mắt (chơi chữ
theo cách lái âm: “mặt mốt” là “một mắt”). Ông không đỡ nỗi, đành chịu thua cuộc,
bỏ về.
Lại một lần, đám các cô gái giỏi hò hát đã “đón tiếp” Trần Hàn bằng câu:
Chim quyên đậu miếu thổ thần,
Ở xa thấy một cặp, lại cần thấy một con!
“Một con” ở đây là một con mắt, ý châm chọc việc chột một mắt của Trần Hàn.
Trong lúc ông đang lựa lời để đáp trả, phía nữ lại bồi thêm rằng:
Nồi, niêu, tích để hững hờ,
Sụp giàn xán bể, đợi chờ hàn the.
Tên ông (Hàn) và bốn bà vợ (Nồi, Tích, Hững, Xán) được kể ra (dùng cách
chơi chữ cùng trường nghĩa). Ông phát hoảng, lại đành chịu thua cuộc.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.489 – 490.
14. Chết vì một câu hò (Trần Hàn)
Một cô ái xinh đẹp lễ phép mời Trần Hàn cùng hò hát đối đáp với cô. Cô ngỏ ý
sẵn lòng làm thê thiếp ông, nếu như ông đối đáp được lời hò sau:
Quần em rách dọc rách gang,
PL219
Thầy liệu thầy hàn em trả công cho!
Đây là một lời hò hiểm hóc, lại hỗn xược. Có thể suy: quần rách theo đường
dọc đường ngang là rách giữa đũng, “thầy liệu thầy hàn” có nghĩa là nhờ thầy xem
xét để mà hàn (vá) nhưng Liệu và Hàn lại là tên hai cha con ông (đều được gọi là
thầy) - đem cha con ông ra vá cái đũng quần của cô ta (cũng hàm ý làm cho liền lại
cái không thể liền được cả), thì... thật là xác láo!
Trần Hàn không tìm được lời tương xứng đề đáp trả. Ông cảm thấy nhục. Sau
đó ít hôm, ông lâm bệnh ói ra máu, rồi qua đời ở tuổi bốn chín.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.490 – 491.
15. Thầy gà cũng bí (khuyết danh)
Đám thanh niên đi gặt lúa làng xa. Hầu hết mọi người đều biết hò và kiến tác
lời hò. Nhưng để an tâm, phòng khi gặp phải kẻ “cao tay”, hay ra lời hò hóc búa, họ
nài nỉ cho được anh Sắc đi cùng. Anh Sắc là “thầy gà” nổi tiếng của tổng Lương Văn
(huyện Hương Thủy). Có thầy đi cùng, ai cũng phấn chấn, tự tin.
Quả nhiên, mối lo của họ không phải là viển vông. Vừa gặt buổi đầu tiên, khi
một người trong số họ lên tiếng chòng ghẹo cô gái, lập tức được cô “nghênh đón”:
Chấp sự dã1 khoan đã anh ơi,
Để em vô thưa thầy với mẹ, có đành đã hay!
Lời hò khó đáp vì có máy tiếng, “chấp sự giả” thường xuất hiện trong lời
xướng của lễ khi cúng tế ở đình làng. Anh chàng nọ không há nổi miệng, chạy đến
cấp báo với thầy Sắc. Sau khi được “gà” anh quay lại hò trả:
Hành sơ hiến2 cho anh thăm viếng chút chơi,
Trước do căn duyên cho rõ, khi nó mới ngỏ lời với phụ thân.
Lời hò hay quá! “Hành sơ hiến” cũng được dùng trong tế lễ. Nhiều người có
mặt vỗ tay đôm đốp tán thưởng. Anh chàng nọ đang hớn hở thì đột nhiên cô gái nọ
kia lên:
Không cho trống rập, trứng ung,
Để cho trống rập cắn mồng mái đau.
Lời lẽ như chẳng nhắm vào ai, lại như chọc cả đám trai tráng làng xa. Nó được
bạn gặt chuyển đến tai thầy Sắc. Thầy Sắc ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi lắc đầu chửi đổng:
“Tổ cha con gà mái lăng loàn!”. Thầy gà tài danh lúc này đành chịu bí.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.443 – 444.
1 Chấp sự dã: nguyên là lời xướng, dùng khi tế thần: Chấp sự dã các tư kỳ sự (người
2 Hành sơ hiến: nguyên là lời xướng, dùng khi tế thần: Hành sơ hiến lễ (cử
đứng lo việc, mỗi người hãy làm phần việc của mình).
hành giai đoạn đầu của lễ).
PL220
16. Con lươn, con lạch trơn lù lu (khuyết danh)
Viên quan nọ vốn dốt nát nhưng luôn giỏi luồn lỏi nên được thăng tiến. Một
hôm, quan nằm võng đi công cán, gặp người rách rưới chạy theo xin tiền. Quan tỏ vẻ
khinh miệt hạng dân nghèo cùng khổ, mới ra lời hò đối rằng:
Con mèo, con cho có lông,
Ai mà đối đặng, thì ông cho tiền!
Nghĩ trong đám ăn xin này rặt loại dốt đặc cán mai, không ai đối nổi, quan toan
bỏ đi, thì bỗng có giọng hò cất lên:
Con lươn, con lệch trơn lù lu!
Ông ra đi có võng, có dù,
Có lính xách tráp, có phu ôm giày,
Ông ra câu đối thật hay,
Con đây đối đăng, ngả tay xin tiền!
Người ứng tác câu hò này là một chị khố rách áo ôm, nhưng viên quan thấy run
sợ. Vì chị ta cũng dùng hình ảnh lươn, lệch, loài trơn lù lu và chui lủi dưới bùn đen
tanh tưởi để ám chỉ ông. Nó là sự hạ bệ tương xứng với mức coi dân như chó mèo.
Quan càng ngẫm thấy càng hãi. Ông làm ra vẻ hào phóng, cho chị kia khá nhiều tiền
rồi bảo lính đánh đi, rồi nhắm mắt vờ ngủ.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.452 – 353.
16. Đòn chữ nghĩa của trường hò (khuyết danh)
Rạp Đồng Xuân Lâu1 chẳng những nổi tiếng về hát bội, mà còn là nơi tổ chức
những cuộc hò giã gạo sôi động, tiếng tăm nhiều lúc không kém so với các tuồng tích
cũ. Chẳng hạn như cuộc thi hò thử tài đối đoạn2 giữa hai nhóm nam nữ sắp được kể
ra đây.
Mở đầu cuộc hò, bên nữ được ưu tiên lên tiếng trước. Khi chuyển sang các
kiểu, các lớp hò cũng vậy. Ở cuộc thi tài này, lúc bước qua giai đoạn chơi chữ (hay
đối chữ), bên nữ hò:
Dạ là đêm, đêm nay rồi đêm nữa,
Hỏa là lửa, lửa ngọn đến lửa than,
Em thấy anh cao họ, lớn làng,
Muốn trao duyên gởi nợ, nhưng ngại ngái đàng3 không dám trao.
Bên nam đáp lời:
Nhật là ngày, ngày này sau ngày trước,
1 Rạp Đồng Xuân Lâu: nằm ở đường Phan Đăng Lưu, thành phố Huế, tỉnh Thừa
2 Đối đoạn: Chỉ việc hát đối (là một phần/chặng trong cuộc hò hát).
3 Tri vi tri, bất tri vi bất tri: đây là câu trích trong sách Luận ngữ. Giai thoại đi sứ
Thiên (nay không còn).
của Mạc Đĩnh Chi – Chim chếch ếch ngộp (đối đáp cùng quan nhà Nguyên Trung
Quốc) cũng sử dụng câu này.
PL221
Thủy là nước, nước đục, lại nước trong,
Tiếng đồn em cao họ, lớn dòng,
Ước kết duyên Tần Tấn, nhưng ngại ngùng biết nói sao!
Bên nữ tung ngay đòn hiểm:
Năm con chim đậu cành cây ngủ,
Sáu con bọ xít sắc lục đó tề,
Trai nam nhi đối đặng thiếp chịu bề nâng khăn!
Lối hò dùng lối chơi chữ đặc biệt giữa từ thuần Việt và Hán Việt: năm = ngũ (五) =
xanh (cinq); sáu = lục (六) = xít (six). Nhưng đấng mày râu cũng tỏ ra sành chữ không
kém. Họ đỡ đòn:
Tám con tu huýt kêu cây bát bát,
Mười con chuồn chuồn đỏ đít, lượn thập ác nhà,
Tui đây đối đặng đó đã nghe chưa?
Về xin cha mẹ định giờ nghi gia!
Lời hò cũng đáp lại được lớp từ đồng nghĩa, cùng một kiểu dạng với lời hò ra:
tám = bát (八) = huýt (huit); mười = thập (十) = đít (dix). Thấy vậy, cánh nữ tung ra
đòn hiểm hơn:
Con chim chàng làng đậu hàng tre họ,
Kêu lên tám tiếng: “Tri vi tri, bất tri vi bất tri”(3),
Chàng kêu hay chữ đối đi,
Nếu không thì đứng ngoại trường thi
chớ vào
Lời hò đã có “chim”, “chàng”, “làng”, “họ” rối rắm lại thêm lời Hán Việt có
nhiều tiếng điệp, khó tìm được lời tương ứng, quả là nan giải. Sau ba nhịp chày tìm
lời cho lời đáp trả, các chàng trai trong cuộc buông chày, chào mọi người nói: “Tui
xin chịu thua, chưa thể đối ngay được!”.
Khán giả sau phút lặng yên trước thái độ cầu thị của chàng trai, liền bật lên hò
reo, tán thưởng.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.353 – 356.
17. Không biết thiếp ngồi chầu chỗ mô (o Quy)
Từ lần gặp gỡ đầu tiên ở làng Cao Xá, anh Long và o Quy thỉnh thoảng cũng
chạm trán nhau qua các cuộc hò giã gạo trong vùng. Một lần, gặp anh Long cùng vào
cối làm cặp bạn hò với mình, o Quy không chào hỏi, giới thiệu tên tuổi nữa, mà tung
ngay một lời trêu chọc:
Buổi mai thiếp ra ngành, còn sương sa lác đác,
Chiều lại đi về, gió mát cành dâu,
Mùi hương trên lầu sa xuống đã lâu lâu,
Xui duyên kỳ ngộ, bỗng đâu gặp chàng!
Lời hò đã ví anh Long là con chó. Anh Long tinh ý hiểu ngay, và đã đáp trả:
Buổi sáng thiếp ra đi sương sa lác đác,
Chiều lại đi về, gió mát cành dâu,
Mùi hương trên lầu sa xuống thiếp chẳng thấy đâu,
PL222
Cầm hèn chi1 khi trưa trên nhà ăn cơm thấy không có,
kêu gào, tìm kiếm đã lâu
Vắng tăm biệt tích, không biết thiếp ngồi chầu chỗ mô?
Lời hò đáp trả thật thích đáng. Rõ là gậy ông đập lưng ông. Anh Long dùng ý
của lời hò ra, ví o Quy là con chó. Vậy là hòa nhưng o Quy thì giận mà không hò tiếp
nữa.
18. Xin Quy ở lại, hạc đi chầu trời ( o Quy)
Chuyện “một rỗ một tiền”2 của thầy Điệt đến tai o Quy. O Quy biết thầy Điệt
muốn làm rễ đất Cao Ban. Một hôm, o đón đường thầy, hỏi:
Long, lân, quy, phượng: đệ tam hiệu ký,
Đất Cao Ban này, nữ chí ly hương3?
Lời hò ngoài phần xưng danh (phát ngôn đầu) là để hỏi: có phải anh định làm
rễ đất Cao Ban này không? Nhưng lời lẽ có vẻ phách lối, tay trên, đồng thời cũng
hàm ý chê thầy Điệt là kẻ “tha phương cầu thực”.
Thầy Điệt hò đáp rằng:
Long, lân, quy, phượng: đệ tam hiệu ký,
Đất Cao Ban này, chính thị rùa meo,
Mai sau gặp hạc, hạc trèo lên trên!
Bị coi là “rùa meo”, lại bị “hạc trèo lên trên”, trong lúc chưa chồng, o Quy xấu
hổ đến không còn nghĩ ra lời hò nào khác, đành bỏ về.
Vài ngày sau, o Quy lại chặn đường thầy Điệt, quyết rửa hận. O dùng tên các
quân cờ và cách chơi cờ oi, cờ quân, món mà thầy Điệt rất thích, để làm vũ khí chữ
nghĩa đánh thầy:
Em bắt bộ tứ quý đỏ, bộ ba lát, êm đã quá êm,
Người ngồi thứ hai vụ ra số bốn,
em lại bắt thêm con tướng điều.
Trong lối chơi cờ oi, cờ quân, những quân cờ trên kèm với cái quyền đi trước,
thì thắng, mà những người cùng chơi không còn có cách nào khác để cứu vãn. Thầy
Điệt cũng cứng họng, không tìm ra lời đáp.
Lần khác, o Quy cũng chặn thầy Điệt giữa đường, và tung những quân bài kiệu
(tổ tôm), là một món chơi nữa của thầy:
1 Cầm hèn chi: thông thường nói là cầm hèn chi phải, nghĩa như ra thế; thì ra là vậy
(cụm từ biểu thị đột nhiên nhận thức được điều trước đó còn mơ hồ, hoặc nghĩ theo
2 Chi tiết liên quan ở giai thoại Một rỗ tiền cũng được mấy quan.
3 Chơi chữ theo cách tách ghép chữ Hán: chữ “nữ” [女] ghép với chữ “chí” [至],
hướng khác).
thành chữ “điệt” [姪]. Nhằm ý, thầy Điệt bỏ quê theo vợ.
PL223
Bên chàng hai hàng suốt triệt,
Bên thiếp cũng suốt triệt hai hàng,
Thiệp thua chàng con rác, cho chàng ăn đi!
Lời hò xấc mà kín quá, thầy Điệt chỉ còn biết kêu trời.
Lần tiếp theo gặp o Quy, thấy Điệt lên tiếng chủ động hò đón:
Lâu nay Hạc lại gặp Quy,
Xin Quy ở lại, Hạc đi chầu trời!
Hò xong, thầy đi ngay mặc o Quy đang lúng túng tìm lời đáp trả.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.365 – 367.
19. Cau khô và cau nàng (Thợ Bơi)
Ông thợ Bơi là một nghệ nhân hò khoan nổi tiếng vùng Lệ Thủy, Quảng Ninh
(tỉnh Quảng Bình), bà Bơi cũng là người thạo hò hát. Một hôm, cô con gái lớn của
Ông bà từ đám hội hò khoan chạy như ma đuổi về nhà, mắt đỏ hoe. Bà Bơi tưởng
con gái bị đám trai làng chòng ghẹo mắng yêu con:
- Làm hoa để cho người ta hái, làm gái để gái đề người ta trêu, răng mà phải
khóc?
Giọng tấm tức, cô gái thưa:
- Mạ nghĩ có tức không? Câu hò ni mà con không trả cho xứng, chịu thua, khắc
cối để rút lui khỏi hội.
- Câu răng?
- Eng1 nớ hò:
Trai nhiều vợ cửa nhà xếch xác,
Gái nhiều chồng chú bác no say,
Anh đây như vàng chỉ cầm tay,
Thân em như cau khô giữa chợ, không biết mấy tay trơ rờ2
Bà nói ngay:
- Câu hò nớ khó chỉ mà không trả được. Mạ nói cho con nhập tâm để ra mà hò
lại với anh ta:
Thần linh miếu vũ,
Trọng chủ trầu cau,
Trước nhờ ông làm phúc, sau nên câu cứu chàng.
Từ nãy ông Bơi vẫn nằm theo dõi chuyện giữa bà Bơi và con gái. Nghe câu hò
vợ gà cho con, ông nhổm dậy đung đưa võng, nói:
- Không xác, không xác! Câu nớ chỉ có nghĩa thực. Nghĩa bóng như rứa thì
ngoa ngoắt, xấc xược. Phải như ri nì:
Miếng cau khô nửa rời nửa dính
Cau vàng đây mỗi miếng một đồng
1, 2 Một số từ ngữ địa phương: răng: tại sao, thế nào, mạ: mẹ, ni: này, eng nớ: anh
ấy, trơ rờ: sờ mó vào; như rứa: như thể, như vậy, như ri nì: như thế này nè.
PL224
Tiền vô vác, bạc vô phong,
Hả lời hả dạ, thiếp mới cho mở mủng lòng đến cau(3)
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.367 – 368.
20. Chọi nhau, gà bên nào cũng chịu thiệt (Thợ Bơi)
Một hôm, ông Bơi cùng bà Bổ rủ nhau đến chợ xem chọi gà. Khi hai con gà
đang đá nhau, bà Bổ bỗng dưng cất tiếng hò:
Đến nơi đây, gà tui cũng lạ, gà cụ cũng lạ,
Hai con đáng giá hai đồng,
Ai đem nhốt lại một lồng:
Mần răng gà cụ, thốt sứt mồng gà tui?
Ông Bơi bèn ứng khẩu hò lại:
Khoan khoan! Đừng chối!
Để hai con nó chọi cho bui,
Gà chị sứt mồng thì chị kể, còn gà tui trặc cùi, chị tính răng1?
Bà Bổ hò tiếp:
Cô gái Gia Cốc mang một oi nhái,
Qua ảo chàng Ếch, bán chợ Mĩ Hương
Trai nam nhi chàng đối đặng, thiếp kết nghĩa cang thường trăm năm!2
Ông Bơi đáp lại:
Chàng trai xóm Ốc xéc một rổ hến,
Đi chợ Quán Hàu, miệng hát nghêu ngao,
Trai nam nhi chàng đối đặng, thiếp phải trao ân tình3.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.369 – 370.
21. Hát phường vải (Nguyễn Công Trứ)
Dân Nghệ Tĩnh thích sinh hoạt văn nghệ. Hát phường vải là một hình thức
quen thuộc và là đặc điểm riêng của dân ca xứ Nghệ. Hát phường vải thiên về đối
đáp văn chương, bộc lộ tài năng chí hướng. Nguyễn Công Trứ lúc còn thanh niên
thường đi với các phường, dự các cuộc thi. Đêm hát nào có Nguyễn Công Trứ tham
dự thường sôi nổi, gây hứng thú bất ngờ.
Hai phe phường vải đêm ấy đối đáp với nhau. Phe bên này mời cụ Hà sang làm
thầy dùi. Phe bên kia thì có ông tú Đỗ Tâm. Thông thường, khi hát người ta hay máy
1, 2, 3 Một số từ ngữ địa phương ở hai lời hò: mần răng: làm sao, tại làm sao; thốt:
mô: bui: vui; răng: sao, thế nào. “Trặc cùi” được dùng lối lái âm: “trùi c. ; oi: cái
giỏ, xéc: xách. Các lời hò này đối nhau tuân theo trường nghĩa về: động vật lưỡng
thê: cóc, nhái, ếch, chàng hương và các động vật sống dưới nước: ốc, hến, hào,
nghêu, ngao.
PL225
móc nhau. Nếu bên này hát một câu, gò được tên thầy dùi hay chủ phường bên kia,
mà đối phương không đối được, thì là một sự thất bại tẽn tò. Phe bên kia hát:
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe thống chuông chùa Hàn San.
Câu này là dịch từ một câu thơ Đường. Nhưng xuất xứ không quan trọng. Điều
gay go là họ đã cái tên Hàn San, lại còn kèm một chữ “thống” để ngụ ý chế giễu. Cụ
Hàn San không nghĩ ra câu đối lại, đang định cắp ô, áo ra về. Nguyễn Công Trứ đã
dò biết tên thầy dùi bên kia, gà giúp câu đối lại:
Nay mừng quảng lượng độ tâm,
Cửa Vũ Môn cá vượt, thỏa lòng xuân khách trần!
Câu hát đối này không những lôi được tên thầy dùi Đỗ Tâm ra, mà còn móc
được cả “tiểu sử” của ông ta nữa. Ông này mới thi đỗ (cá vượt vũ môn), mà đỗ là
nhờ có bà vợ họ Trần đi cầu cúng ở các đền chùa. Thế là cuộc hát chuyển bại thành
thắng. Cụ Hàn nhường tiền thưởng cho ông Trứ. Cả phường mở tiệc bánh trái chiêu
đãi các thầy nho.
Thời gian thi mãi không đỗ, Nguyễn Công Trứ phải làm phu đò dọc cho
phường buôn chè xanh xuôi ngược trên sông Lam từ Đô Lương tới chợ Giang Đình.
Một lần, thuyền qua bến chợ Rồng ở Trung Cần, Nam Đàn, thấy một cô gái xắn váy
giặt lụa ven sông, có cặp đùi trắng nõn nà, Nguyễn Công Trứ liền hát nghịch một
câu:
Ra đây anh hượt một sào,
Lạch này coi thử chỗ nào cạn sâu?
Liền bị cô gái nọ bốp chát ngay một câu:
Lạch này chỗ cạn, chỗ sâu,
Sa chân cũng dễ ngập đầu ơi anh!
Trong khi Nguyễn Công Trứ đang lúng túng chưa tìm ra cách “trả đũa”, đã bị
cô gái tấn công tiếp:
Thuyền tình sào ngắn, sông dài,
Coi chừng cũng nốc màu chỉ mô?
Lần này, Nguyễn Công Trứ mới lấy đủ can đảm đáp lại:
Gió phất cành lau, gió thổi cành lau, `
Ra đây cho thử cái màu của anh!
Màu này nó chắc như đinh,
To dài như cán rựa, có thỏa tình không em?
Nguồn: GTNCT, 84 – 87
22. Vì mê hát mà mất vợ (Nguyễn Công Trứ)
Như ta biết Nguyễn Công Trứ ngoài vợ cả còn có đến 13 vợ bé. Thuở còn hàn
vi, ông có một người thiếp rất xinh đẹp. Nàng thường đi bán rau ở chợ Giang Đình
và không may người đẹp đã lọt vào con mắt háu gái của một nhà buôn ở Vinh. Ông
ta tìm cách chiếm đoạt. Mấy lần gặp gỡ cô nàng ở chợ Giang Đình, ông ta đã dùng
lời lẽ ngọt ngào tán tỉnh, gạ gẫm... nhưng không được. Biết anh chàng Trứ cũng rất
mê hát ví, ông ta nghĩ cách hát thi. Đôi ba lần hát đối đáp với nhau, ông ta đã rõ tài
PL226
ứng tác câu hát và đối chọi chữ nghĩa rất thông minh của Nguyễn Công Trứ nhưng
lại có tính thích hiếu thắng. Thế rồi ông ta đề nghị với Nguyễn Công Trứ hát thi. Ông
ta thua sẽ mất nửa gia tài, Nguyễn Công Trứ thua sẽ mất người vợ bé ấy. Đang lúc
nghèo túng và rất tự phụ về tài văn chương của mình, Nguyễn Công Trứ nhận lời
ngay. Hai bên làm bản giao kèo, có xác nhận của tri huyện Nghi Xuân lúc đó.
Để chiếm được người đẹp, nhà buôn kia đến gặp các danh nho trong vùng, năn
nỉ nhờ họ sáng tác cho môt số câu hé thật hóm hỉnh, thật hóc búa búa. Còn Nguyễn
Công Trứ thì cứ nhởn nhơ, ra chừng coi khinh địch thủ. Cuộc thi hát có một không
hai diễn ra, nhân dân đến tham dự rất đông. Những câu hát ở chặng đầu Nguyễn
Công Trứ đều thắng, nhưng rồi cuối cùng Nguyễn Công Trứ đã thua và mất vợ. Thua
vì chủ quan, thua vì một câu hát quá hóc hiểm mà mãi sau này cũng chưa ai đối
được. Đó là câu:
Nồi đồng ba nấu cháo ba ba,
Tam tam nhi cửu hỏi đà chín chưa?
Câu hát quanh chữ “ba” mà mỗi chữ “ba” một nghĩa: nồi đồng ba, con ba ba,
tam tam cũng là ba ba, ba ở đây là con số trong toán học (phép nhân), rồi chín là
chín, sống song cũng là bội số của số 3.
Nguồn: GTNCT, tr.88 – 89.
23. Duyên nợ với hát ả đào (Nguyễn Công Trứ)
Nét riêng đối với Nguyễn Công Trứ là trong những bước thăng trầm của cuộc
đời mình, ông đã không bao giờ quên thú hát ả đào. Đối với Hy văn tướng công có ả
đào bên cạnh không chỉ có thú vui đơn thuần mà còn như một điều kiện cần thiết để
ông thể nghiệm các bài thơ mới của mình được hay hơn và nhằm tiến tới hoàn chỉnh
một thế loại; ông nương theo tiếng đàn nhịp phách điều chỉnh hợp lý bài hát của
mình. Có thể sinh hoạt hát ả đào đã làm nảy sinh trong Nguyễn Công Trứ tư tưởng
an nhàn, nhưng mặt khác hát ả đào cũng đã nâng Nguyễn Công Trứ lên một tầm cao
về hồn người, hồn thơ.
Và một điều đặc biệt của Nguyễn Công Trứ là thơ hát nói của ông gần như
toàn thơ Nôm. Ai hỏi về nguồn gốc lối văn này, Nguyễn Công Trứ không chịu nói ra
nên người ta đoán anh có hiểu biết nhưng phải chờ người tri kỷ mới giảng giải rõ
ràng. Lớp nho sĩ địa phương hồi ấy bàn tán:
- Ca trù thì phải bác Trứ nhà ta mới làm được. Lối văn ấy phóng túng, dù có
mẹo luật mà vần có thể ra ngoài khuôn khổ như vậy rất hợp với bác ấy. Có người lại
nói:
- Tôi cho rằng bác Trứ thích ca trù còn ở một lẽ khác nữa, bởi trong các thể văn
có thể nào cùng một lúc phải kết hợp cả cầm, cả xướng, cả thi, cả ngôn, cả cách, cả
cổ như lối văn ca trù? Phải là người tài tử mới chơi được ca trù. Bác Trứ ta là đệ nhất
tài tử mà đệ nhất tài tình thì phải chọn ca trù làm lối sở trường là phải. Có người lại
nói thêm vào:
- Nói như các bác là mới xét có mặt ngoài tài hoa của bác Trứ mà quên mất cái
chí anh hùng của bác ấy! Văn ca trù dõng dạc, phải có bút pháp hùng hồn, ngay
những bài ca trù buồn, lời ca vẫn cứng rắn!
PL227
Kẻ bàn ra, người tán vào ra sao Nguyễn Công Trứ đều biết, nhưng anh vẫn im
lặng.
Thế rồi, với năng khiếu trời cho và với phong thái hào hoa, phong nhã, Nguyễn
Công Trứ đã nổi lên giữa đám ca trù: “Tay lướt nhẹ trên phím đáy, ông họa, phổ thơ
mình vào những tiếng tơ, lúc phấn chấn hào hùng, khi rưng rưng não ruột…”. Phong
thái dân dã và tấm lòng cao cả của Nguyên Công Trứ dã khiến cho các nam thanh,
nữ tú có tiếng tăm trong làng hát ả đào đều quý nể. Họ tôn ông làm kép cho nhiều
phường ca.
Nhớ lại ngày thành Tĩnh Nghệ được xây dựng ở địa điểm mới, phố xá được mở
mang, khu trường thi được tổ chức quy mô hơn, các hoạt đông vui chơi của các văn
nhân tài tử trong vùng cũng được tập trung về đó cả. Nhiều lần các nhóm ca công
một số huyện lân cận được mời về tỉnh lị giúp vui cho những ngày yến tiệc, những
đám hội hè. Nhóm ca công nổi tiếng hơn hết vẫn là nhóm ở làng Cổ Đạm, huyện
Nghi Xuân.
Nguyễn Công Trứ thì quá quen biết với nhóm nghệ nhân này. Hát ca trù, tài
sáng tác văn ca trù vốn là sở trường của anh và những ngày lảo đảo với trường thi
suốt mấy năm qua cũng là những ngày anh tìm chút khuây khỏa trong các buổi đàn
đúm ở làng Cổ Đạm. Bây giờ đây chuyện thi cử chưa thay đổi được hoàn cảnh hàn
nho của mình nên anh lại tìm cách giết chết thời giờ dưới xóm chị em. Một phần,
chuyện thi cử luẫn quấn làm cho anh không, khỏi ngượng ngùng khi tiếp xúc với vợ
và mẹ. Ở nhà đã chẳng giúp đỡ được gì cho gia đình lại thêm tốn miệng ăn. Đi theo
nhóm ca công, dẫu sao cũng có vài ba quan tiền công mà chi dùng. Phường hát này
có cảm tình đặc biệt với cậu khóa, vì Nguyên Công Trứ ở trong phường người ta
chắc chăn có sẵn bài hát mới và có thêm một cây đàn xuất sắc.
Tài gảy đàn của anh Trứ thì thật đặc biệt. Cây đàn đáy trong tay anh dù là cung
nam, cung bắc hay cung nao, cung pha, cung huỳnh, cậu cũng đều dạo một cách điêu
luyện. Khi đánh đàn khuôn, tiếng gảy của anh thấp cao, lên xuống không thiếu,
không thừa. Khi đánh đàn hàng hoa, lối gảy của anh thực tài tình biến hóa. Ngón đàn
của anh điêu luyện đến mức khiến cho hết thảy mọi ả đào phải đắm say. Nếu ai được
kép Trứ đánh đàn cho hát thì đó là niềm hạnh phúc, hãnh diện với họ.
Tiếng đàn làm thăng hoa tiếng hát của người ca nữ. Nguyễn Công Trứ là một
nhà thơ ca trù, hơn thể ông còn thực sự chứng tỏ là người sống với ả đào, có không
biết bao nhiêu giai thoại kể về Nguyễn Công Trứ gắn bó với hát ả đào từ thời còn trẻ
đến lúc về già. Từ chuyện “Giang sơn một gánh giữa đồng” với nàng Hiệu Thư, để
rồi từ đó: chuyện “Thuyền quyên ứ hự” sau này khi ông đã làm quan; đến chuyện
đem quân đánh trận miền Tuyên Quang, Cao Bằng xông pha nơi Lam Sơn chướng
khí ông vân đưa cả đào kép lẫn nhạc khí đi theo và say sưa với thú này đến nỗi tuần
phủ Lạng Sơn Trần Văn Tuân đã dâng một sớ về Kinh thành tâu với Minh Mạng
rằng ông không chịu đánh giặc.
Rồi chuyện làm chủ khảo trường thi ở vào một hoàn cảnh nghiêm ngặt, thế mà
ông vẫn chọn ả đào, gọt tóc để trái đào giả làm tiểu đồng để thỉnh thoảng ca hát. Mãi
cho đến 70 tuổi, về hưu rồi ông vẫn không chịu chia tay với ả đào, hơn thế nữa càng
PL228
ngày ông càng nuôi đâm ca nương nhiều hơn, thậm chí còn ngang nhiên đưa cả ả đào
lên chùa và cưới một cô đào bằng tuổi con, tuổi cháu.
Ông thông cảm và sẵn sàng chia sẻ với nhưng có cảnh ngộ éo le, những người
có tâm trạng, cử chỉ không thuận theo lễ giáo phong kiến nhưng cũng rất dễ thể tình
cho những khách mũ cao, áo dài mà vướng vào món nợ cầm ca.
***
Chuyện rằng, có một ông quan to đến hát ca trù ở làng Cổ Đạm. Ông quan kia
thấy một đào nương xinh đẹp, hát mùi rồi si mê. Tiếng sềnh, giọng ca, ảnh mắt, khoé
môi cứ làm cho hai người ngày một quyến luyến, nhưng một ngày ông quan kia bị
đổi đi xa. Mối tình dang dở, trước cảnh bịn rịn của hai người, Nguyễn Công Trứ đã
thay mặt khách cầm ca làm thơ tặng ông quan nọ:
Tao phùng rồi tiễn biệt
Khách với mình đã quen biết được bao
Quê quán đâu và nhà cửa đâu đâu
Bực vì nỗi nước lũ, ao bèo trôi lễnh lãng
Khi chén rượu, khi câu thơ thi thoảng
Người nghe chơi thì ta cũng hát chơi
Thân thiết gì khiến luy ngọc tuôn rơi
Để mai kia người một xứ
Cô nhạn Nam phi, hồng bắc khứ
Hành vân tâng vãng, thuỷ đông lưu
Nơi kia xa không thiếu, bạn khâm trủ,
Dưới nguyệt đêm thu vui mỏ tiệc
Chốn ngõ cũ ta ôm cầm đơn chiếc
Khách tri âm còn dấu biệt tăm hơi
Kìa trông, cá nước chim trời!
Lại một bậc văn nhân vì say hát cô đầu mà bỏ quan, nguyện làm một khách
lãng du. Đến làng Cổ Đạm, khách gặp một danh ca ở goá, tuổi đã trung niên nhưng
dung nhan còn mỹ miều và giọng hái thì mê hồn. Khách văn nhân lân la tỏ tình
nhưng người ca kỹ nhan sắc lại từ chối. Chắc một trong những lý do mà nàng không
muốn đi bước nữa là nàng muốn dốc tình thương của mình cho đứa con gái duy nhất
của mình lúc này mới hơn 10 tuổi. Cô bé này tuy chưa qua thời thơ ấu nhưng đã có
nhiều đường nét hứa hẹn là một trong kiều diễm vượt lên cả sắc tài của mẹ. Các buổi
họ ngồi nói với nhau những lời từ biệt thì cô con gái dễ thương kia được chứng kiến.
Cô bé nghe lời đoạn tuyệt tình yêu của mẹ thì nhìn mẹ bằng cái nhìn trách móc, rồi lạ
nhìn người đàn ông bằng cái nhìn thông cảm, sẻ chia và có phần nuối tiếc. Thế là vị
khách nhân kia không chỉ bịn rịn, luyến tiếc vì mẹ mà cả vì con.
Nguồn: GTNCT, tr.90 – 95
24. Giang sơn một gánh giữa đồng (Nguyễn Công Trứ)
Hồi trước, ở làng Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân có một cô đào tên Hiệu Thư nổi
tiếng tài sắc, giọng hát tuyệt hay, nhưng tính nết kiêu kỳ không phải vương tôn công
tử, khó mà được gần nàng. Nhờ có tài đánh đàn mà thầy khoá Trứ được cô Hiệu Thư
PL229
cho theo làm kép. Thường Hiệu Thư đi hát ở đâu thì Nguyễn Công Trứ cắp đàn theo
đó. Một hôm, vào buổi chiều tà, gánh hát ca trù Cổ Đạm được mời sang hát mừng
đám hội quan ở bên làng Vĩnh Yên. Từ Cổ Đạm Nghi Xuân sang tỉnh lị Nghệ An
không xa lắm nhưng phải đi qua cả một quảng đường vắng vẻ, vượt qua nhiều đoạn
đường từ núi Mồng Gà đến núi Lần. Vô tình hay cố ý không biết, nhưng cả anh Khoá
Trứ, cô đào Hiệu Thư và chú tiểu đồng đi theo đều bước chậm lại sau đoàn một đoạn
khá xa. Hai người đi sóng đôi, mỗi khi chàng liếc mắt đưa tình thì nàng đỏ mặt, cúi
đầu e lệ.
Thực tình hai người vốn quý mến nhau từ lâu nhưng chẳng mấy khi được trò
chuyện thoải mái, nay là dịp may cho tài tử đến với giai nhân. Anh Khoá nghĩ ước gì
dưới vòm trời xanh này chỉ có hai người... nhưng lúc này anh thấy vướng vì chú tiểu
đồng. Đoán định cậu Trứ đang gặp phải những điều khó nói, Hiệu Thư tìm cách lái
câu chuyện, nàng nói:
- Này, cậu kép! Cậu có biết sự tích ngày xưa của làng Ca Công ta không nhỉ?
Tại sao lại có hát ả đào này?
- Chuyện dài lắm, mà bây giờ cũng mệt rồi, hay chúng ta ngồi tạm nghỉ một lát
tôi kể cho mà nghe.
Đang lúc mải mê muốn biết sự tích tổ nghề, nàng Hiệu Thư đồng ý. Cả ba
người ngồi xuống bãi cỏ cạnh một gốc cây bóng mát. Sau khi giúp đỡ chú tiểu đồng
xếp gọn gàng đồ đạc, Nguyễn Công Trứ thong thả kể câu chuyện một cách tình tiết,
trân trọng và thành kính:
(lược đoạn này: nôi dung Nguyễn Công Trứ kể về sự tích làng Ca Công)
Nghe xong câu chuyện, nàng Hiệu Thư gật đầu tán thưởng:
- Hay quá nhỉ, thì ra câu chuyện tiên tổ ngành là như vậy. Cậu Trứ giỏi đọc
sách và nhớ thật. À, thế người ta có truyền lại được bài ca nào của hai vợ chồng này
không?
- Có chứ!
- Câu kép đọc luôn đi!
- Tôi chỉ nhớ mấy câu:
... Mừng lứa đôi gặp gỡ lạ lùng
Trước gió xuân dìu dặt tiếng tơ đồng
Ấy Lưu Nguyễn xưa cùng duyên đào ngãi
Vì một khúc đàn tươi thắm mãi
Xui nên khách tục sánh người tiên...
- Thơ hay quá, cậu cố nhứ đọc hết cho tôi học ngâm rồi cậu đánh đàn đệm cho
tôi hát luôn hôm nay nhé!
- Vâng, để tôi nhớ xem! Vừa nói Nguyễn Công Trứ vừa vỗ trán ra chiều suy
nghĩ. Anh nhìn quanh ra bộ không chú ý đến Hiệu Thư và quay lại nhìn chằm chằm
vào gánh hành lý rồi thốt lên một tiếng:
- Ôi chết, tôi bỏ quên mất dây đàn ở nhà rồi.
Hiệu Thư liền an ủi:
PL230
- Không sao, sang đấy rồi ta mua hoặc nhờ đàn của các chú kép bên kia cũng
được.
Anh Khóa vẫn giãy nãy lên:
- Không được, dây đàn của tôi là tôi trau lắm kia, không có nó thì âm lượng
tiếng đàn chẳng ra hồn. Thật quá đoảng! Chẳng khác gì đi cày mà quên mất trâu.
Quên dây đàn thì sang bên hội cũng ngồi trơ trơ mà nhìn thôi. Hiệu Thư tỏ ra ngây
thơ, thương hại và cũng muốn đem nay tiếng đàn của anh Khóa hoà cùng lời ca của
mình sẽ làm say đắm lòng người, nên nhiệt tình đề nghị:
- Thôi, chú nhỏ (chỉ tiểu đồng) vù chạy về nhà lấy giúp cho cậu Khoá đi!
Lúc này anh Trứ mới thở phào nhẹ nhỏm:
- Phải đấy, nhờ chú chạy mau đi lấy hộ, nay sang bên tỉnh anh đền cho chú một
bữa thật hậu.
Chú tiểu đồng vâng lệnh, thế là nàng Hiệu Thư lại thêm một lần bị động, nàng
sửa soạn túi hành lý một cách lúng túng, cậu Trứ ngồi lại gần bên và nói:
- Này, cô ạ, tôi nhớ cả bài rồi, một bài ca trù rất hay và hay nhất là hai câu
giữa.
- Vậy thì cậu đọc đi!
- Ừ đọc nhé, lúc nãy có một câu tôi cũng đọc sai, chính ra là như thế này: “Ấy
Lưu Nguyễn xưa cùng duyên bạn lứa” chứ không phải “Ấy Lưu Nguyễn xưa cùng
duyên đào ngãi”. Duyên bạn lứa! Cô ạ. Chữ bạn lứa hay hơn và sát hơn nhiều. Còn
các câu thơ khác là như thế này:
Dưới Nguyệt Ngưu Lang hòa Chức Nữ
Trên đồng nàng Sử (Hiệu Thư) gặp Hi Văn (Công Trứ)
Đàn thơ nức tiếng tri âm
Khúc loan phượng hòa minh truyền nối mãi!
Nàng Hiệu Thư cô nguýt yêu anh Trứ một cái tưởng chừng như đổ cả dãy núi
Lần. Đôi má bừng đỏ, hai vai rung rinh, khép nép. Anh Trứ ngồi sát vào bên cô rồi
bất thần ôm chặt. Cô nàng Hiệu Thư vừa ngượng ngùng, vừa luống cuống đành nép
đầu vào ngực anh và thốt lên một tiếng “ứ hự”!.
Nguồn: GTNCT, tr.96 – 105.
25. Thuyền quyên ứ hự (Nguyễn Công Trứ)
Vào khoảng 20 năm sau, khi đến nhậm chức Hải An, quan tân Tổng đốc cho
gọi một số ả đào tiếng tăm đến hát mừng. Trong số danh ca do quan địa phương chọn
đến có Hiệu Thư. Lúc này nàng ca nữ vẫn mắt phụng, mày ngài như xưa. Nàng nhìn
vị Tổng đốc đại thần ngồi chiễm chệ trên cao kia nào phải ai xa lạ, chính là anh Khoá
làng Uy Viễn đã đóng vai kép đánh đàn dạo nào, đã từng trêu ghẹo mình giữa đồng
không mông quạnh.
Gương mặt quắc thước ẩn những nét tài hoa mà uỷ mị ấy thì làm gì mà đổi
thay đi được theo thời gian, cộng với tiếng Nghệ nghe nặng mà ấm áp làm sao nỡ
quên? Với nàng, bây giờ một bên là Tổng đốc đại thần, một bên là phận ca bèo bọt.
Biết hát gì đây? Biết đâu con người “lạ vẽ cân đai" kia đã mãi công hầu mà quên đi
chút kỷ niệm giây phút buổi hàn vị. Nàng bèn nhắc khéo bằng hai câu hát mưỡu:
PL231
Giang sơn một gánh giữa đồng
Thuyền quyên “ứ hự” anh hùng nhớ chăng?
“Ứ hự”! Tiếng kêu như một lời trách móc vừa biểu thị một nỗi niềm hoan lạc
của một người ca nữ khiến Nguyễn Công Trứ không thể nào quên. Nhưng vì hàng
năm mùa màng thất bát, phường Cổ Đạm đất Nghi Xuân nghèo đói không nuôi nổi
một ca nữ tài hoa. Còn chàng trai thì lận đận vì thi cử. Cơn sóng lưu lạc đã xô đẩy
Nguyên Công Trứ và nàng Hiệu Thư đi khỏi quê hương với kỷ niệm sâu sắc của tuổi
hoa niên. Ngày gặp lại, trong phút giao duyên đặc biệt và tiếng lòng e ấp nửa cưỡng,
nửa ưng của cô gái tài hoa diễm lệ kia đã gây được ấn tượng mạnh mẽ với Nguyên
Công Trứ từ phút đầu gặp gỡ. Chính vì vậy, nghe xong câu hát, Nguyễn Công Trứ
bỗng nhớ ngay chuyện cũ. Hỏi ra mới biết trải qua bao phen sóng gió, nàng đang chờ
đợi chưa lấy ai. Cảm động trước tình cảm của nàng Hiệu Thư, giữa ba quân thiên hạ,
ông bước ra nâng nàng đứng dậy rồi thề nguyền:
Ánh ngọc gương tình sao vạn cổ,
Đỉnh trần lửa kiếp nấu ba sinh.
Và sau lần gặp gỡ đó, ông giữ nàng Hiệu Thư lại trong nhà để làm người bạn
đời, giúp nàng chấm dứt cuộc đời giang hồ lưu lạc của khách đào nương. Nguyễn
Công Trứ đã kỷ niệm cuộc tái ngộ bằng một bài thơ vô cùng đằm thắm:
Liếc trông giá đáng mấy mười mươi
Đem lạng vàng mua lấy tiếng cười
Giăng xế nhưng mà cung chẳng khuyết
Hoa tàn song lại nhụy còn tươi
Chia đôi duyên nợ đà hơn một
Mà nét xuân kia vẹn cả mười
Vì chút tình duyên nên đằm thắm
Khéo làm cho bận khách làng chơi.
(Bốn cô đào già)
Quả thực, Hiệu Thư rất muốn được giữ phận tiểu tinh với quan Tổng đốc ở đất
Hải An này mãi, chẳng muốn đi đâu nữa. Nhưng Nguyễn Công Trứ, con người vốn
dễ “động lòng bốn phương”, chàng lại đang là con xe, con pháo của triều đình, do
vậy ít lâu sau, Nguyễn Công Trứ được lệnh đem quân đi dẹp giặc ở vùng Tuyên
Quang, Cao Bằng. Lòng nhớ thương vợ, ông đã làm bài thơ tương tư:
Tương tư không biết cái làm sao
Muốn vẽ mà chơi, vẽ được nào
Khi đứng, khi ngồi, khi nói chuyện
Lúc say, lúc tỉnh, lúc chiêm bao
Trăng soi trước mắt, ngờ chân bước
Gió thổi bên tai tưởng miệng chào
Một nước, một non, người một ngã
Tương tư không biết cái làm sao?
(Tương tư)
PL232
Một hôm, đang ở ngoài trận mạc, bỗng có tin Hiệu Thư lặn lội đến tìm. Nghĩ
thương cảnh thân gái dặm trường, khi gặp nàng ông ngâm:
Đành nhẽ bút nghiên mà kiêm mã
Thương ôi kim chỉ cũng phong trần.
Giai thoại này đủ tỏ rằng trong cái say mê đào, trong cái tình si đối với đào
nương của Nguyễn Công Trứ, có rất nhiều chất nhục dục len vào làm động lực căn
bản. Khi chia tay nàng, ông đã xúc động thốt lên:
Kẻ về người ở bồi hồi thay lúc phân kỳ
Khéo quầy người hai chữ tình si
Lửa ly biệt bầng bầng không lúc nguội
Bát ngát trăm đường bối rối
Biệt thời dung dị kiến thời nan!
Trót đa mang khúc hát cung đàn
Nên gian díu mối tình chưa dứt
Sá nghĩ xa xôi nghìn dặm đất
Tiếc công đeo đẳng mấy năm trời
Khi ra vào tiếng nói giọng cười
Một ngày cũng là người tri kỷ
Sao nở để kẻ vui người tẻ!
Không thể lần ra dấu vết của Nông Văn Vân, một kẻ lúc ẩn, lúc hiện, lại được
núi rừng và bản mường bảo vệ. Không có mẹo giỏi thì không thể nào tấn công vào
nơi ẩn của Vân. Cuối cùng Nguyền Công Trứ đi đến một quyết định riêng. Ông đóng
quân lại, không hoạt động gì, gửi đơn lên tâu với vua, lấy cớ mưa to gió rét, lại năm
hết tết đến, đánh nhau không có lợi. Lúc này nghĩa quân của Nông Văn Vân lại tăng
cường khiêu khích ở Lạng Sơn. Trần Văn Tuân đã nhiều lần viết thư cho Nguyên
Công Trứ yêu cầu ông tăng quân cứu viện. Nguyên Công Trứ viện mọi lý do để từ
chối, Trần Văn Tuân vì thế mà thêm giận. Điều làm ông bực mình nhất là Nguyễn
Công Trứ đã không cho xuất quân mà còn cho quân sĩ nghỉ ngơi, ca hát. Nguyễn
Công Trứ mở tiệc ca trù ngay trong doanh trại của mình, giữa chốn rừng thiêng và cả
ven bản mường có người qua lại. Đàn sáo, trống phách nổi lên, không chỉ hát xướng
ban ngày, mà còn hát thâu đêm suốt sáng. Giọng hát của nàng Hiệu Thư và các ca nữ
vang lên réo rắt. Dinh trại của Tổng đốc Hải Yên trở thành sân khấu của giáo
phường. Thấy vậy, Trần Văn Tuân càng thêm cáu giận, ông mật tấu về cho nhà vua
hạch tội Nguyễn Công Trứ: cầm quân mà không chịu giao chiến, chỉ say sưa với hát
ả đào! Biết chắc vị nho tướng này đang có mẹo riêng, nên vua Minh Mạng liền phê
sớ của Trần Văn Tuân: “Nguyễn Công Trứ tự thử sở hành, tất hữu biệt toán. Quân lử
chi gian, bấy khả dĩ phú ngôn giao động tướng tâm, thích y xử trí”.
Nghĩa là: Nguyễn Công Trứ làm như vậy chắc là có tính toán riêng. Trong
quân không được bàn phiếm làm cho lòng tướng băn khoăn. Cứ để yên vậy xem.
Nguyễn Công Trứ bày ra kế hát ả đào ngay giữa chiến trận nhằm hai mục đích:
một là để động viên quân lính; hai là làm giảm sút tinh thần cảnh giác của quân
PL233
tướng Nông Văn Vân. Tướng tá đã lao vào hát xướng thì đối phương sẽ cho là việc
đối phó chẳng lấy gì làm căng thẳng. Ai chẳng nghĩ như vậy!
Thế rồi, những cuộc hát ả đào đã lôi cuốn người dân bản này, bản nọ, kế cả
khách buôn bán qua đường. Nguyễn Công Trứ tìm cách tạo ra sự trà trộn ấy để tìm
cho ra con đường tắt vào Ngọc Mao. Rốt cuộc, ông đã do thám được chỗ giấu mình
của Nông Văn Vân là ở khu rừng Thẩm Bát.
Ông liền cẩn thận bố trí những đội quân cảm tử cải trang mặc quần áo đen như
quân của Nông Văn Vân, dùng vải hẹp khổ bên làm dây vắt qua vách núi để leo
xuống. Bị bao vây bất ngờ, nghĩa quân của Nông Văn Vân người thì chết tại chỗ, kẻ
phá vây bỏ chạy, còn Nông Văn Vân bị chết cháy và rơi xuống hang đá.
Đánh được Nông Văn Vân, Nguyễn Công Trứ thực sự được vua Minh Mệnh
công nhận ông là con người văn võ song toàn. Nhà vua phong ông lên Tổng đốc Hải
Yên để tiếp tục dẹp loạn ở Chàng Sơn và tiếp tục những biện pháp khẩn hoang nhằm
mục đích an dân như ông đã đề nghị.
Lập được chiến công lần này, cũng như những lần trước. Nguyễn Công Trứ chỉ
quan niệm ông làm được nhiệm vụ dẹp loạn, yên dân chứ không vì vua chúa mà gây
nên tang tóc cho dân chúng. Đối với việc ân sủng của nhà vua lần này, Nguyễn Công
Trứ hầu như không thấy hào hứng như những lần trước nữa, ông cảm nhận sâu sắc
cái trò lợi danh chức tước, cũng như chuyện thế thái nhân tình.
Nguồn: GTNCT, tr.106 – 114
26. Nam Đàn tứ hổ là đây (Phan Bội Châu)
Phan Văn San có ba người bạn thân, là Nguyễn Quý Song, Vương Thúc Quý,
và Trần Văn Lương. Họ đều học giỏi và được mệnh danh là “Nam Đàn tứ hổ”. Ở đây
có lưu truyền mấy câu: “Uyên bác bất như San/Thông minh bất như Song/Tài hoa
bất như Quý/Cường ký bất như Lương” (Học rộng không ai bằng San/Thông minh
không ai bằng Song/Tài hoa không ai băng Quý/Nhớ dai không ai bằng Lương).
Hôm nọ, cả bến người rủ nhau đi hát ở phường vải Nam Kim.
Một cô gái cất lời hỏi:
Bốn chàng quê quán ở đâu
Xin tường danh tính, để sau khuyên mời?
Không chần chừ, Phan Văn San đã thay lời các bạn, đáp rằng:
Nam Đàn tứ hổ là đây,
San, Song, Lương, Quý một bầy bốn anh
Thế là rõ. Hai bên có thể bắt đầu cuộc đối đáp.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.269.
27. Đoán chữ (Phan Bội Châu)
Tại phường hát Thịnh Lạc, chắc có một nhà nho nào đó đã gà cho các o hát
một câu đố chữ khá hóc hiểm, rằng:
Độc đạo Nam thành chí Bắc thành
Thiên trung bản nguyệt lộ tam tinh
Tam nhân đồng tọa ngưu vô giác
Nhất điểm tam hoành dữ khẩu thanh
PL234
Chàng mà giải được, thiếp đinh ninh theo về!
Với câu đố loại này, Phan Văn San chẳng cần phải suy nghĩ gì lâu. Lật lại vài
lần mấy câu trên, ông nhận ra, và đáp lời:
Con đường từ thành Nam đến thành Bắc, là chữ “nhất” (一)
Nửa vành trăng với ba ngôi sao giữa trời, là chữ “tâm” (心)
Ba người ngồi trên con trâu không có sừng, là chữ “phụng” (奉)
Một chấm ba ngang với chữ khẩu chữ thanh, là chữ “thỉnh” (請)
Phan đã giải ra bốn chữ “nhất tâm phụng thỉnh” (một lòng kính mời)”, tức
phường vải ngỏ lời mời ông đến chơi. Ông vui vẻ tiếp lời:
Nhất tâm phụng thỉnh, ơn nàng,
Một lời ghi tạc đá vàng thủy chung.
Phường vải đều cất tiếng khen rang rảng:
Văn hay thật thậm là giòn,
Son tàu bút thủy khuyên tròn mười khuyên
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.270.
28. Đoán tên (Phan Bội Châu)
Ông Cửu Thiện ở làng Hữu Băng, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, vốn tự đắc là
người thông thái, biết nhiều chữ nghĩa, điển tích. Nghe bên Nam Đàn có đầu xứ nổi
tiếng hay chữ, ông tìm đến thử tài. Cửu Thiện đến một cuộc hát phường vải có Phan
Văn San tham dự.
Thầy Cửu Thiện là người khá xa lạ với mọi người, bên nữ liền hát ngay một
câu thăm dò:
Tối tăm biết trúc hay mai
Biết đào hay liễu, biết ai mà chào?
Ý nói, người khách là Cửu Thiện phải xưng danh trước mọi người. Vẻ như ông
này đã chuẩn bị trước, lên tiếng giới thiệu:
Đào Nguyên một giải thanh thanh
Tiền Triều đã định, liên thành còn in!
Nói cái gì lạ vậy? Chẳng rõ danh tính, làng tông gì! Các bạn phường vải ngơ
ngác, các nho sĩ tham dự cũng lúng túng, ngỡ ngàng. Mọi người đổ mắt vào đầu xứ
San. Ông San cũng đang suy nghĩ. Im lặng khá lâu. Đột nhiên, San mỉm cười, rồi lẩm
nhẩm câu hát cho một o trong phường. O này hào hứng hát lên:
Hương Sơn là chốn quê nhà,
Phải rằng danh Bích có là đúng chăng?
Ngồi phía bên kia, Cửu Thiện đang ung dung châm mồi điếu thuốc, chờ đợi
thắng lợi của mình từ việc chấp nhận “bí” của giới phường vai Nam Đàn, bỗng giật
nảy mình, cái điếu cày đang cầm trên tay rơi xuống. Ông reo lên: “Bái phục! Bái
phục!”.
Thì ra, lời hát của ông ta đã lẩy “thi liệu” từ các văn bản ở địa phương mình,
người ngoài khó lòng hiểu được: a) “Đào Nguyên” là tên gọi khác, chỉ trong sách vở,
của sông Ngàn Phố (huyện Hương Sơn); b) “Tiền Triều” cũng là một tên gọi không
PL235
phổ biến của làng Tuần Lễ; c) “Liên thành” là chữ mượn từ sách cổ “liên thành vi
bích” (ngọc bích là ngọc liên thành), nhằm chỉ tên Bích. Phan Văn San đã kết hợp ba
yếu tố vừa nêu để giải đoán tên và quê quán của ông Cửu Thiện.
Người trong cuộc lâu nay đều công nhận tài năng của San, đến chuyện này
càng thấy tự hào về đồng hương của họ. Nghe nói, ngay sau cuộc hò, Cửu Thiện xin
về tận nhà đầu xứ San để trò chuyện, hỏi han suốt đêm cho bõ lòng khao khát.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.271 – 272.
29. Cha thầy Mạnh Tử là ai? (Phan Bội Châu)
Trai Nam Đàn thường tổ chức những cuộc hát với gái Thanh Chương. Hôm
nào không rủ được Phan cùng là lo sốt vó. Còn hôm nào có San tham dự thì yên tâm
vô cùng. Bởi vì, ông là người học rộng biết nhiều. Không một thách đố nào ông chịu
lùi bước. Có một lần phe nữ Thanh Chương ra câu hát đố:
Đưa chàng mấy hạt ngô rang,
Trồng nơi mô cho mọc, thiếp theo chàng về ngay?
Phe nữ hí hửng, câu này khó quá chắc trai Nam Đàn bó tay. Nhưng San không
những đáp được mà còn làm cho phe nữ Thanh Chương phải tâm phục khẩu phục về
tài ứng phó linh hoạt, dí dỏm, nghịch ngợm của mình:
Nơi nào mà nắng không khô,
Mà mưa không ướt, đúc vô mọc liền.
Một lần khác phe nữ hát đối:
Vua Nghiêu có chín con trai,
Đan Chu là một, còn ai tám người?
Vua Nghiêu là một trong năm vị Ngũ đế, ông kế vị Tam Hoàng là bậc đại hiền.
Vua sinh được chín người con trai, song chính sử Trung Quốc chỉ ghi tên một đứa
nghịch ngỗ nhất là Đan Chu. Cho dù có nắm được chi tiết lịch sử như thế cũng không
dễ trả lời. Huống chi mọi người thuộc phe nam chưa ai đọc đến nơi. Phe nữ chờ mãi
không thấy phe nam trả lời, hát tiếp như để khiêu khích hay dồn tiếp phe nam vào
chân tường:
Phường ơi thắp đuốc cho nhờ,
Kẻo mà tôi chỉ mối rờ không ra.
Nhưng Phan Văn San đã kịp có câu trả lời:
Em là phận gái nữ nhi,
Một Đan Chu cũng đủ, hỏi mần chi tám người?
Thì ra câu trả lời rất chững chạc, lại còn trách móc một cách hóm hỉnh nữa!
Phe nữ vẫn tiếp tục thử tài. Nêu không khó hơn những lần trước thì ra câu hát đố làm
gì. Nhưng phe nam vẫn thản nhiên, bởi có San đây rồi. Quả thật, câu hát đối lần này
hóc búa không chịu được. Đọc xong câu hát đố, San cũng rịn cả mồ hôi trán:
Nghe chàng kinh sử đã tài,
Cha thầy Mạnh Tử là ai rứa chàng?
Chính sử Trung Quốc chỉ ghi Mạnh Tử mồ côi cha, nhưng không ghi tên người
cha đó. Ngay cả người Pháp có thói quen ghi tỉ mỉ đến gốc rễ ngọn nguồn, vậy mà
khi viết về Mạnh Tử, họ cũng chỉ ghi trong mục “Người học trò kiên chí”, là: “Ngày
PL236
xưa ở nước Tàu, một người đàn ông qua đời để lại duy nhất một người vợ và một cậu
con trai nhỏ gọi là Mạnh Tử”. Rõ ràng câu hát đố này không phải do các cô gái dệt
vải nghĩ ra. Hắn là do một nhà nho nào đó ở Thanh Chương uyên thâm lắm mới có
thể nghĩ được như thế. Nếu không trả lời được câu này, lần sau ai còn dám vác mặt
tới nữa. Chẳng nhẽ mình cũng bó tay sao? Họ dùng mẹo để đố thì sao mình không
dùng mẹo đề trả lời. Như một tia chớp vụt lóe sáng, San đã tìm được lời giải tuy
chưa thật đắt giá lắm:
Thầy Mạnh, cụ Mạnh sinh ra,
Trả lời câu đố, tổ cha thằng bày1!
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.272 – 274.
30. Mối tình chung (Phan Bội Châu)
Trong số những nho sĩ tham gia hát phường vải, Phan Văn San thường được
chị em dành cho nhiều thiện cảm hơn cả, vì tài năng xuất sắc, cốt cách hiên ngang.
Nhiều cuộc hát, các cô mạnh dạn gửi gắm cho Phan những tình cảm riêng, không
giấu giếm.
Lần hát ở Nam Kim, cô Ban hát:
Sắp nhau một gánh nặng nề,
Giang sơn bịn rịn, tình quê nghẹn ngào.
Tiếng địa phương “sắp nhau” là gặp nhau. Cô gái nói đến tình quê mà bứt rứt.
Phan trả lời:
Đêm xuân gặp gỡ giữa đường,
Non sông một đội, cương thường hai vai.
Thế là rõ. Người thanh niên nay không dễ gì mà quên nghĩa lớn. Cô gái mạnh
dạn hơn, ngỏ lời kết đôi:
Chung vai, chung cả đò đầy,
Cho em chung mẹ, chung thầy với anh!.
Tình cảm quả là chân thành. Nhưng Phan muốn hướng cô gái đến những gì lớn
lao hơn, ông đáp:
Chung binh, chung tướng, chung vương,
Cùng anh chung cả tứ phương sơn hà.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.277
31. Vui cuộc cờ tàn (Phan Bội Châu)
Khi đã trở thành lãnh tụ hội Duy Tân, mỗi dịp trở về làng, nếu không bị mật
thám theo dõi, Phan Văn San (bây giờ lấy tên là Phan Bội Châu) vẫn tranh thủ tham
gia hát vui vẻ với bà con. Dịp nọ, Phan mới đi xa về, đến chơi một đám phường vải.
Một nho sĩ bên nữ tỏ ra lo lắng cho công việc của Phan, bày cho họ câu hát:
1 Câu này trong tài liệu Văn hóa dân gian xứ Nghệ của Ninh Viết Giao chép
có phần “dân gian” hơn là: “Đ. mẹ con hát, tổ cha thằng bày!”.
PL237
Hay chi một cuộc cơ tàn,
Mà chàng xe ngựa một đoàn qua giang?
Thật không ngờ cho đối phương, Phan đã trả lời một cách hào hùng, rắn rỏi:
Nhất vui là cuộc cờ tàn,
Mã toan giao túc, pháo toan chiếu trùng!
Và sau đó, khi biết được Phan quyết tâm ra đi vì sự nghiệp cứu nước, các cô
gái đã tiễn chàng bằng lời ca bát ngát:
Nên chăng trống giục, chiêng hồi,
Thuyền tình ta sẽ xa vời rộng thênh.
Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.278
PL238
PHỤ LỤC 5: VĂN BẢN SO SÁNH VỀ MỘT SỐ KIỂU TRUYỆN TRONG CỔ TÍCH
VÀ GIAI THOẠI
1. Kiểu truyện Kén rể
Thơ ngựa ông phi
(Giai thoại văn học)
“Nhà nọ có một cô con gái xinh đẹp, nết na, đến tuổi kén chồng. Gia đình
thuộc loại khá giả nên cha mẹ chỉ mong có được chàng rể có chữ nghĩa. Hôm nọ, có
ba chàng trai cùng đến. Người bố ra trò chuyện với họ, nói:
- Nhà tôi có một con ngựa khỏe. Ai làm thơ tả con ngựa của tôi phi nhanh nhất
thì tôi sẽ gả con gái cho. Điều kiện: Thơ bốn câu, tứ thơ phải đối cảnh sinh tình,
nghĩa là phải cảm xúc từ hoàn cảnh, sự việc xảy ra trước mắt.
Ông bố vừa nói xong, thì một cơn gió bay qua, khiến cây bàng trước sân rụng
lá. Anh chàng thứ nhất ứng khẩu ngay: Ngoài sân lá bàng bay/ Ngựa ông phi như
bay/ Phi đi rồi phi lại/ Lá bàng vẫn còn bay!
Nghe thơ, bà mẹ ngồi khâu áo bên bể nước vỗ tay khen, chẳng may đánh rơi
kim xuống nước. Anh chàng thứ hai đọc nhanh: Trước ao bà rơi kim/ Ngựa ông phi
như chim/ Phi đi rồi phi lại/ Cái kim vẫn chưa chìm!
Ông bố nhổm lên, vỗ đùi khen hay, vô tình đánh một cái rắm. Anh chàng thứ
ba chớp lấy, đọc ngay: Trên giường ông đánh... xịt/ Ngựa ông phi mù tít/ Phi đi rồi
phi lại/ Lỗ khu vẫn còn khít! Ông bố thừa nhận bài thơ vừa rồi của anh thứ ba tả
ngựa phi nhanh nhất, dù có phần tục tĩu, bèn tuyên bố anh này được vợ”.
(Giai thoại văn hóa dân gian người Việt, Tập 2, Triều Nguyên, [113, tr.87 –
88]).
Khảo sát công trình Từ điển type truyện dân gian Việt Nam [74], chúng tôi xác
định có 2 type truyện có liên quan đến hình thức thi tài bằng văn chương là: Kén rể
hay chữ và Một cuộc tranh tài:
Kén rể hay chữ
(Cổ tích sinh hoạt)
“1. Điều kiện kén rể
Một phú ông muốn kén một chàng rể tinh thông chữ nghĩa và thơ phú nên viết
hai câu đối đem treo trước cửa và giao hẹn nếu ai giải được thì sẽ gả con gái cho.
II. Chàng trai ít học nhưng thông minh
Một chàng trai không biết chữ đã tìm mua hai thúng sách cũ đem nhúng nước
rồi mang ra vạt cỏ trước nhà phú ông phơi, lại nói rằng câu đối nhà ông ta có mười
chữ mà anh “không biết một chữ” (nào cả). Phú ông tưởng đó là người đọc sách
nhiều, hay chữ (chỉ không biết một chữ trong mười chữ) nên gả con gái cho.
III. Trút bỏ nỗi lo
Mượn cớ qua mặt mình trong việc thảo văn tế cho làng, anh ta thề không bao
giờ đụng tới sách vở, bút nghiên nữa. Từ đó, anh ta trút bỏ được nỗi lo của kẻ “không
biết một chữ”
(Trích từ Từ điển type truyện dân gian Việt Nam, tập 1, [74, tr.588 – 589]).
PL239
Một cuộc tranh tài
(Cổ tích sinh hoạt)
“I. Kén rể
Một cô gái xinh đẹp kén chồng. Có bốn chàng trai đến thi tài: một người văn
hay chữ tốt, một người võ nghệ cao cường, người người giỏi nghề đan bện, một
người là nông dân hiền lành, chất phác.
II. Cuộc thi tài
Ông bố yêu cầu các chàng trai thi thố tài năng của mình.
Anh văn hay thì làm một bài văn sách, người giỏi võ bắn nỏ vào cái đích cách
trăm thước, anh tài đan thì bện cái nia to, anh nông dân phải chạy sang Tàu lấy trống
mang về
III. Kết quả
Vì kiêu ngạo, hai chàng trai giỏi văn và giỏi võ như cầm chắc phần thắng trong
tay, không chú tâm đến cuộc thi nên thất bại. Vì sợ mất nghề, anh đan nia đem tre
vào buồng hì hục làm nhưng cái nia quá to, không làm sao ra lọt cửa buồng được nên
cũng thua cuộc. Anh nông dân được mọi người giúp đỡ, cho cái trống mới mau nên
thắng cuộc, được cưới cô gái làm vợ” .
Nguồn: Từ điển type truyện dân gian Việt Nam, Nguyễn Thị Huế chủ biên, Tập
1, [74, tr.607 – 609].
Anh học trò sửa liễn cửa ngõ phủ ông hoàng
“Có người học trò còn nhỏ tuổi mà đã già chữ nghĩa lắm. Lúc dọn nhà cho đức
ông nhứt ở, thì triều đình có hội nhau; mà lại đặt một câu liễn cửa ngõ đức ông. Đắp
chữ vôi thếp vàng tử tế.
Hau câu ấy đặt như vầy:
Tử năng thừa phụ nghiệp,
Thần khả báo quân ân.
Anh học trò đi nang qua cửa, thấy câu liễn, đứng lại coi nhưng không như ý: đi
học về đứng lại đó, không cất nón. Quân canh nhựt cửa đó, liền bắt: hỏi sao vô phép
không cất nón. Có biết đó là phủ ông nào chăng? Người học trò nói: Tôi biết, mà
mắc tôi giận, thấy câu liễn đặt không nhằm, nên quên lấy nón xuống.
Quân mới dẫn vào Thái tử đông cung. Đức ông hỏi. Người học trò cũng cứ
khai thiệt làm vậy. Chừng đức ông cho mời đình thần vào, mới kể tự sự cho các quan
nghe, rằng tên học trò chê câu liễn các quan đã đặt ngoài cửa.
Vậy mới hỏi học trò, vì làm sao mà chế, bây giờ có dễ sửa hay không? Thì anh
học trò nói: Đặng Đức ông hiểu: Bẻ làm sao thì bẻ đi, rồi sửa đi thử coi. Anh học trò
mới bẩm: câu liễn ấy thất lễ, là vì đặt con đứng trước đầu cha, tôi đứng trước vua;
làm vậy sao cho phải? - Ừ, nói nghe được. Mà bây giờ sửa lại làm sao?
- Bẩm lịnh các ông lớn, sửa lại như vầy, thì hay quyết đi mà thôi:
Phụ nghiệp tử năng thừa
Quân ân thần khả báo
Các quan ai nấy đều khen. Vua cho người ấy đậu tấn sĩ: lại ban cho ngàn quan
tiền thưởng tài; triều đình lại thưởng ít ngàn nữa”
PL240
Nguồn: Chuyện đời xưa, Trương Vĩnh Ký, [82, tr.65 – 66].
2. Kiểu truyện Em bé thông minh
Ngày xưa có một ông vua sai một viên quan đi dò la khắp nước tìm người tài
giỏi. Viên quan ấy đã đi nhiều nơi, đến đâu cũng đưa ra những câu đố oái oăm để hút
mọi người, nhưng tuy mất nhiều công mà chưa thấy có người nào thật lỗi lạc.
Một hôm, viên quan đi qua một cánh đồng làng kia, chợt thấy bên vệ đường có
hai cha con nhà nọ đang làm ruộng: cha đánh trâu cày, con đập đất. Ông bèn dừng
ngựa lại hỏi:
- Này ông lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha đứng ngẩn ra chưa biết trả lời thế nào thì đứa con chừng bảy tám
tuổi nhanh miệng hỏi vặn lại quan rằng:
- Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày
được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe hỏi lại như thế thì há hốc mồm sửng sốt, không biết đáp sao
cho ổn. Ông thầm nghĩ bụng nhất định nhân tài ở đây rồi, chả phải tìm đâu nữa mất
công. Quan bèn hỏi tên họ làng xã quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch
về tâu vua.
Nghe nói, vua lấy làm mừng lắm. Nhưng để biết đích xác hơn nữa, vua bèn sai
ban cho làng ấy ba thúng gạo nếp vài ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho
ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau đem nộp đủ, nếu không thì cả làng
phải tội. Khi dân làng nhận được lệnh vua ai ấy đều tưng hửng và lo lắng, không thể
hiểu thế là thế nào. Bao nhiêu cuộc họp làng, bao nhiêu lời bàn tán, vẫn không nghĩ
ra được cách gì giải quyết cả. Từ trên xuống dưới mọi người đều coi là một tai vạ.
Việc đến tai em bé con người thợ cày. Em liền bảo cha:
- Chả mấy khi được lộc vua ban, bố cứ thưa với làng ngả thịt hai trâu và đồ hai
thúng gạo nếp để mọi người ăn một trận cho sướng miệng. Còn một trâu và một
thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho bố con ta trẩy kinh lo liệu việc đó.
- Đã ăn thịt còn lo liệu thế nào? Mày đừng có làm dại mà bay đầu đi đó con ạ!
Nhưng đứa con quả quyết:
- Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi.
Người cha vội ra đình trình bày câu chuyện. Cả làng nghe nói vẫn còn ngờ vực,
bắt cha con phải làm giấy cam đoan, mới dám ngả trâu đánh chén.
Sau đó mấy hôm, hai cha con khăn gói tìm đường tiến kinh. Đến hoàng cung,
con bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn mình thì nhân lúc mấy tên lính canh vô ý, lẻn vào
sân rồng khóc um lên. Vua sai lính điệu vào phán hỏi: - "Thằng bé kia mày có việc
gì? Sao lại đến đây mà khóc?". - "Tâu đức vua - em bé vờ vĩnh đáp - mẹ con chết
sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con
khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ".
Nghe nói, vua và các triều thần đều bật cười. Vua lại phán:
- Mày muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố mày, chứ bố mày là giống
đực làm sao mà đẻ được!
Em bé bỗng tươi tỉnh:
PL241
- Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành
chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ!
Vua cười bảo:
- Ta thử đấy thôi mà? Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra ngả thịt
mà ăn với nhau à?
- Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp biết là lộc
của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Vua và đình thần chịu thằng bé là thông minh lỗi lạc[1], nhưng vua vẫn còn
muốn thử cho đến cùng. Qua hôm sau, khi hai cha con đang ăn cơm ở nhà công
quán, bỗng có sứ nhà vua mang tới một con chim sẻ và lệnh chỉ bắt họ phải dọn
thành ba cỗ thức ăn. Em bé bảo cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ
giả, bảo:
- Ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ
thịt chim.
Vua nghe nói, từ đó mới phục hẳn.
Lập tức vua cho gọi cả cha con vào ban thưởng rất hậu.
*
Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm bờ cõi của nhà vua. Để dò
xem bên này có nhân tài hay không, họ mới sai sứ đưa sang một cái vỏ con ốc vặn rất
dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.
Sau khi nghe sứ thần trình bày mục đích cuộc đi sứ, vua quan đưa mắt nhìn
nhau. Không trả lời được câu đố oái oăm ấy tức là tỏ ra thua kém và phải thừa nhận
sự lép vế của mình đối với nước láng giềng. Các đại thần đều vò đầu suy nghĩ. Có
người dùng miệng hút mong cho sợi chỉ lọt qua, có người bôi sáp vào sợi chỉ cho
cứng để cho dễ xâu. v.v... nhưng tất cả mọi cách đều vô hiệu. Bao nhiêu các ông
trạng, các nhà thông thái triệu vào đều lắc đầu bó tay. Cuối cùng, triều đình đành tìm
cách mời sứ thần tạm nghỉ ở công quán để có thì giờ đi hỏi ý kiến em bé thông minh
ngày nọ.
Một viên quan mang dụ chỉ của vua đến nhà em bé vào lúc em còn đùa nghịch
ở sau nhà. Nghe quan trình bày ngọn ngành câu đố của sứ giả ngoại quốc, em bé
không đáp, chỉ hát lên một câu:
Tang tính tang! Tính tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang...
Rồi bảo: - Không cần tôi phải về triều làm gì. Cứ theo cách đó là xâu được
ngay!".
Viên quan sung sướng lật đật trở về tâu vua. Vua và các triều thần nghe nói
như mở cờ trong bụng. Quả nhiên con kiến càng đã xâu được sợi chỉ xuyên qua
đường ruột ốc hộ cho nhà vua trước con mắt kính phục của sứ giả nước láng giềng.
PL242
Rồi đó, vua phong cho em bé làm trạng nguyên. Vua sai xây dinh thự ở một
bên hoàng cung cho em ở để tiện hỏi han.
Nguồn: Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi, Quyển 1, Tập 2,
truyện số 79, [24, tr.739 – 732].
3. Kiểu truyện Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng
Ngày xưa có một người học trò nghèo nhưng học giỏi, được Thiên đình rất chú ý.
Trong sổ thiên tào hồi đó đã ghi cho anh chàng đậu tiến sĩ, làm quan đến thượng thư. Mỗi
lần anh đi học thường qua một ngôi đền thờ thần ở làng bên cạnh. Vị thần làng đó vốn đã
có đọc ở sổ thiên tào nên tỏ vẻ cung kính người học trò ấy. Những khi anh ta đi qua đền thì
tượng thần đang ngồi trên bệ lật đật đứng dậy rất lễ phép.
Một hôm người từ giữ đền nằm mơ thấy thần bảo: - "Ngày mai ngươi phải quét dọn
đền cho sạch sẽ tử tế vì có quan lớn đến chơi nhà ta". Người từ làm y như lời và suốt ngày
hôm ấy hắn đứng trực ở cổng đền chờ đón vị khách quý của ông thần. Nhưng đợi mãi, hắn
ta chả thấy một ai cả, trừ ra anh học trò xơ xác nói trên hôm đó vô tình có ghé vào đền
nghỉ chân một lúc. Người từ cho là dân thường không để ý gì đến.
Ít lâu sau, người từ cũng lại chiêm bao thấy ông thần dặn dò như trước. Lần này, hắn
cũng chả thấy ai lạ hơn là anh học trò hôm nọ đến đây ngâm một bài phú rồi lại đi. Nhưng
hắn vẫn không tin. Đến lượt thứ ba cũng thế. Bây giờ người từ mới cho là quả phù hợp với
lời thần dặn, bèn kể chuyện cho người học trò nọ nghe và bảo:
- Đã ba lần như thế, nên tôi chắc rằng nhà thầy sau này sẽ đỗ đạt làm quan to chứ
chẳng chơi.
Nghe nói, người học trò như mở cờ trong bụng. Anh ta quyết chắc cầm sự vinh hoa
phú quý trong tay. Hắn nghĩ ngợi rất nhiều về tương lai của mình. Một hôm khi ngắm lại
nhan sắc vợ mình, hắn thấy không được đẹp tý nào cả. Thế rồi đêm hôm ấy nằm dưới bóng
trăng, hắn mơ tưởng một người đẹp như chị Hằng. Hắn bụng bảo dạ: - "Rồi ta sẽ cho vợ ta
về đi thôi! Một khi đỗ đạt thì thiếu gì nơi ngấp nghé muốn làm bà. Lúc đó ta sẽ tìm những
đám con vua cháu chúa; đã da trắng môi son lại vừa lắm của". Nghĩ thế, qua ngày hôm sau
hắn kiếm cớ gây sự với vợ và đòi bỏ cho kỳ được. Mọi người đều lấy làm lạ và tỏ vẻ khinh
bỉ một người có học như hắn lại có thể nhẫn tâm đến thế được. Nhưng hắn chỉ cười khẩy
mà không kể gì dư luận.
Một hôm khác có một người đến đòi nợ hắn. Vừa mới bước chân vào sân, người ấy
đã bị hắn chỉ tay vào mặt mắng cho một trận:
- Ta chưa có trả. Không khéo nay mai ta sẽ cắm đất vào vườn ở của mày cho mày
biết mặt.
Hắn còn đe dọa nhiều người nữa. Gặp ai không vừa ý, hắn nói:
- Rồi chúng mày sẽ biết tay ông!
Tất cả những hành động của người học trò đều được tâu báo về Thiên đình. Ngọc
hoàng nghe nói rất phật ý. Cho nên ít lâu sau đó, người từ giữ đền lại nằm mơ thấy ông
thần tin cho biết là không phải kinh sợ đối với người học trò nữa vì trên Thiên đình đã tước
sổ mất rồi, không cho đỗ đạt nữa.
Ông từ hỏi: - "Tội của nó như thế nào?" - "Nó bị kết án là "dưới trăng bỏ vợ, trước
sân đòi nhà, chưa làm nên đã thất đức". Bây giờ nó không được hưởng phúc nữa".
PL243
Quả nhiên người học trò đó thi mãi không đỗ, muốn nối duyên lại với vợ cũ cũng
không được. Cửa nhà hắn ngày một sa sút dần. Do đó mà có câu tục ngữ: "Chưa đỗ ông
nghè đã đe hàng tổng".
Nguồn: Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi, Quyển 1, Tập 2, [24,
tr.564 – 565].
4. Kiểu truyện Người học trò và con quỷ
Ngày xưa, ở một vùng nọ có hai vợ chồng một nhà phú hộ tuổi đã già mới sinh được
mụn con gái, nên hết sức chiều chuộng. Cô gái lớn lên hình dung đẹp đẽ ít ai bì kịp, bố mẹ
lại càng nâng niu như vàng như ngọc. Họ bỏ tiền ra xây một ngôi lầu cho con ở. Lầu dựng
xong, phú hộ lại cho người đi tìm hoa thơm cỏ lạ trồng xung quanh vườn để con thưởng
ngoạn.
Bấy giờ trong đám rừng sâu gần đấy có ba con cáo sống lâu năm thành quỷ, có phép
biến hóa, thường quen thói hại người. Nghe tin có cô gái đẹp cấm cung mà bố mẹ thì đang
bỏ tiền ra mua các cây hoa trồng ở vườn, chúng rắp tâm phá phách, bèn hóa thành một thứ
cây có hoa rất lạ. Hoa có ba cánh: một cánh mầu xanh, một cánh mầu trắng, một cánh mầu
đỏ. Một người tiều phu lên rừng hái củi thấy hoa đẹp chưa từng có, liền bứng lấy đưa về
bán cho phú hộ. Thấy cây hoa đặc biệt, phú hộ vội mua ngay rồi đem trồng ở vườn. Tuy
hoa rất lạ và trông thật đẹp mắt nhưng cô gái lại tỏ vẻ không thích, vì thế mưu kế của lũ
quỷ không thành. Lâu ngày hoa tàn cây héo, lũ quỷ sắp sửa bỏ đi nơi khác. Giữa lúc ấy,
người phú hộ chặt cây thấy thớ gỗ đẹp, bèn chọn lấy một khúc, đẽo thành then cửa đem về
chốt ở cửa buồng của con gái.
Thế rồi sau đó mấy hôm, một đêm kia trong khi cô gái đang ngủ, thì một con quỷ từ
chiếc then cửa bỗng hiện ra, lên giường, toan sinh sự với cô. Nhưng cô đã vùng dậy, hết
sức chống cự và kêu la inh ỏi. Biết không xong, con quỷ liền hớp lấy hồn nàng rồi lại biến
vào then cửa. Khi vợ chồng phú hộ và người nhà chạy vào buồng thì thấy cô gái năm thiêm
thiếp trên giường như người đã chết, ngực thoi thóp đập nhưng lay gọi mãi vẫn không tỉnh.
Chưa kịp tìm thầy cứu chữa, thì tối hôm sau, trong khi người cha một mình chăm sóc cho
con, con quỷ thứ hai lại hiện ra hớp lấy hồn ông. Tối hôm sau nữa lại đến lượt một người
nhà bị con quỷ thứ ba hớp hồn. Vợ phú ông sợ quá vội cho người mời một thầy phù thủy
đến bắt quyết trừ tà. Thầy làm phép trong ba ngày ba đêm thì phú ông và người hầu tỉnh
lại. Duy chỉ có cô con gái là quỷ đầu đàn vẫn không chịu buông tha. Thầy tuy đã cao tay
nhưng quỷ vẫn chẳng coi ra mùi gì. Cuối cùng thầy đành xách gói cáo từ vì phép thuật đã
giở ra hết mà cô gái vẫn nằm lịm trên giường, nửa mê nửa tỉnh. Từ đấy người ta tin rằng
ngôi lầu có quỷ nên không ai dám lui tới.
Một buổi chiều nọ, có một thầy cử tên là Long đi thi hội, đến đây thì lỡ độ đường.
Thấy có ngôi nhà tốt, anh bèn ghé vào xin nghỉ trọ. Người nhà kể lại câu chuyện đã qua và
nói:
- Chẳng giấu gì ông, nhà chúng tôi đang bị lũ quỷ quấy nhiễu. Ông nên tìm chỗ khác
mà trọ, kẻo mang vạ vào thân.
Nghe đoạn, Long vội nói với vợ chồng phú ông:
- Đã là học trò đọc sách thánh hiền thì yêu tinh ma quỷ dám đâu trêu ghẹo. Ông bà
cứ cho tôi nghỉ lại một đêm. Biết đâu tôi lại không trừ được nạn cho ông bà.
PL244
Vợ chồng phú hộ nghe nói bèn mở cửa đón khách vào. Ăn xong bữa chiều, Long
khoan thai bước lên lầu. Anh chỉ xin nhà chủ cho mình một ngọn đèn và một con dao sắc.
Đêm lại, anh thắp đèn ngồi trước án thư đọc sách, con dao để sẵn bên người. Đến khuya,
một con quỷ từ then cửa buồng cô gái hiện ra với trạng mạo một cô gái xinh đẹp. Long vẫn
điềm nhiên đọc sách không nói gì cả cho đến lúc nó biến đi. Lần thứ hai, một con khác tiến
vào dưới dạng một người mặt mày hung ác, tóc xõa, lưỡi thè chừng một gang. Nó chạm
vào người Long, nhưng anh vẫn thi gan mặc kệ. Đến lượt con thứ ba tức là con quỷ đầu
đàn đang hớp hồn cô gái, bước vào. Thấy bóng anh học trò, nó vội quay trở ra, chỉ kịp rú
lên mấy tiếng: - "Có bậc quý nhân... Trốn cả mau!". Long lần này đã cầm sẵn dao ngồi
rình, nhanh như cắt, nhảy đến chém một nhát, con quỷ đứt mất một chân. Long chạy theo
đến cửa buồng cô gái thì thoáng thấy cả ba con quỷ chui biến vào then cửa. Anh cầm lấy
chân quỷ soi vào đèn xem, thì thấy đấy là một cái chân con cáo. Vì quỷ đau quá phải
buông thả hồn ra nên ngay lúc đó cô gái cũng tỉnh dậy. Long liền đến gần hỏi chuyện. Biết
đó là người cứu mình, nàng cúi đầu chào và ngỏ lời cảm ơn. Long dẫn nàng ra cho vợ
chồng phú hộ. Lại đem chân con quỷ cho mọi người xem. Ai nấy đều lắc đầu lè lưỡi phục
tài anh học trò.
Sáng hôm sau lúc lên đường. Long từ chối vàng bạc của hai vợ chồng phú hộ đưa
tặng, chỉ xin họ cái then cửa buồng giắt vào thắt lưng. Đi được nửa ngày, anh đã thấy ba
con quỷ hiện ra, phủ phục trước mặt, khẩn khoản xin anh làm phúc bỏ lại cái then cửa.
Long cười:
- Không được! Chúng mày có tài phép gì thì cứ giở ra cho hết để tao xem, rồi tao sẽ
cho chúng mày vào lửa.
- Xin ngài tha cho chúng tôi - ba con quỷ đáp - chúng tôi xin tặng ngài những vật
quý.
- Vậy thì đưa ra đây ngay, nếu không thì đừng có trách!
Con quỷ thứ nhất đưa tặng Long một cái mặt trời đựng trong túi, dặn rằng ban đêm
hễ rút ra khỏi túi thì trời sẽ sáng như ban ngày, cất vào túi thì trời lại tối sẫm như cũ. Con
thứ hai tặng một mặt trăng cũng vậy, hễ ban đêm tối tăm rút ra khỏi túi thì không cần đến
đèn đuốc. Còn con thứ ba tặng một con ngựa mỗi ngày có thể đi ngàn dặm đường. Long
vui lòng nhận lấy những món quà tặng rồi ném cái then cửa vào một bụi rậm bên đường.
Sau đó, Long nhảy lên lưng ngựa, bảo đưa mình tới kinh đô. Lập tức ngựa hý lên
một tiếng rồi lao rất nhanh, bàn chân không chạm đất. Chỉ một lát sau, ngựa đã đặt anh
xuống ở phía ngoài hoàng thành. Long ở lại đây sắm sửa mọi thứ để dự kỳ thi hội.
Hôm bắt đầu thi, bài của Long làm rất đắc ý. Cho nên thi vừa xong buổi sáng, anh
bỗng nhớ đến vợ. Sẵn có con ngựa quý, anh nhảy lên lưng, bảo nó đưa mình về quê nhà.
Ngựa phóng tít mù, chỉ vừa chập tối là đã đến nơi. Anh khe khẽ gọi cửa. Vợ Long đang
ngủ, rất kinh ngạc vì thấy chồng mình đi thi chưa được mấy ngày đã vội trở về. Long
không muốn thức cha mẹ dậy, nên dặn vợ giấu kín chuyện mình về. Rồi hai vợ chồng nhỏ
to trò chuyện cho đến tờ mờ sáng anh mới lại lên đường. Mặc dầu vậy đêm ấy tiếng
chuyện trò rì rầm của đôi vợ chồng đã thức tỉnh cha mẹ Long nằm ở buồng bên. Hai ông
bà không tin là con trai mình về, chỉ ngờ rằng nàng dâu có nhân tình nhân ngãi chi đây.
Cho nên sáng hôm sau ngủ dậy - lúc ấy Long đã cưỡi ngựa trở lại kinh đô để kịp nghe loa
PL245
báo tin - hai ông bà vội vào buồng nàng dâu gạn hỏi. Vợ Long trước còn giấu quanh,
nhưng sau thấy không giấu được nữa, đành phải kể lại câu chuyên chồng về tối hôm qua,
cùng những việc chồng mình trị quỷ và được chúng tặng ngựa quý ra sao, v.v... Nhưng bố
mẹ chồng làm sao mà tin được một việc khó nghe đến thế, nên trách mắng con dâu thậm
tệ. Vợ Long không biết lấy gì làm chứng, đành chỉ ôm mặt ngồi khóc. May sao chiều ấy
Long lại về. Được tận mắt thấy con trai và con ngựa thần, hai ông bà mới tin là thực. Long
kể chuyện cho bố mẹ và mọi người cùng nghe:
- Sáng hôm nay ngựa đưa con vào đến kinh đô thì cũng vừa lúc tiếng loa trường thi
bắt đầu gọi tên những ai thi đỗ. Nghe loa gọi đến tên con, con mừng rỡ vội ra nhà trọ thu
xếp hành lý, phóng ngựa về đây. Ba ngày nữa con lại trẩy kinh để còn dự yến đêm do đức
hoàng đế đãi các ông nghè ở điện Thiên quang.
Nghe nói có con ngựa thần một ngày ngàn dặm, người cha ngỏ ý muốn cưỡi thử.
Long hỏi:
- Bố muốn đi chơi đâu bây giờ?
- Bố thường ao ước được vào tận trong Đồng-nai Gia-định để du ngoạn một phen.
- Được.
Sáng hôm sau, ông già cơm nước xong, nai nịt chỉnh tề bước ra sân. Long nắm dây
cương trao cho cha. Ông già vừa nhảy lên yên thốt ra hai tiếng "Gia-định!", ngựa đã phóng
đi vùn vụt, loáng một cái không thấy đâu nữa. Cho đến tận chiều, vào lúc mặt trời gác núi,
con ngựa quý lại phóng như bay trở về, đặt ông già xuống giữa sân. Ông vui vẻ mở tay nải
lấy quà mời mọi người nếm thử, rồi kể chuyện tai nghe mắt thấy ở Gia-định.
Mẹ Long nghe chồng hết lời ca ngợi con ngựa thần, cũng có ý định muốn đi chơi
Đồng-nai Gia-định một chuyến dối già. Qua hôm sau, Long lại dắt ngựa ra sân rồi đỡ mẹ
lên yên. Nhưng ngựa chưa kịp bước ra khỏi cổng, tự nhiên ngã khuỵu, hất bà già ngã lăn
xuống đất. Một luồng khói trắng từ trong mình ngựa phóng ra và bay cuộn lên trời. Mọi
người xúm lại xem thì con ngựa đã tắt thở từ lúc nào. Thì ra bà mẹ Long đã cưỡi ngựa thần
không đúng lúc vì bà đang thấy kinh nên thần ngựa hoảng sợ, bỏ lốt ngựa mà đi.
Không những mất một tặng vật vô giá, ông tiến sĩ tân khoa còn đứng trước mối hiểm
nguy khó thoát được tội "khi quân", vì trước mắt không có cách gì để tiến kinh cho kịp
chiều mai dự yến. Đường từ quê Long đến kinh thành đi bộ mất bốn năm ngày đường, đi
ngựa cũng phải hơn hai ngày. Không còn kế gì hơn, Long đành bắt một con ngựa thường,
chẳng kịp từ biệt cha mẹ vợ con, vội ra roi cho con vật phi nước đại.
Con ngựa đi đến tối mịt mà vẫn chưa được một nửa đường. Nằm nghỉ ở quán trọ,
Long lo lắng hết sức. Anh sực nhớ tới một tặng vật "mặt trời" do con quỷ thứ nhất biếu vẫn
còn cất trong túi vải. Thế là Long tìm ra một diệu kế. Ngay hôm sau, Long lại lên ngựa
phóng đi Cho đến khi mặt trời sắp gác núi, anh liền lôi "mặt trời" của mình ra treo trước
đầu ngựa Thốt nhiên, một chuyện lạ chưa từng có xảy ra: đâu đâu cũng không thấy tắt ánh
mặt trời. Cho đến khi con ngựa đưa Long đến trước điện Thiên-quang, anh mới cất "mặt
trời" vào túi, bấy giờ bầu trời đang từ ban ngày mới chuyển sang đêm một cách đột ngột.
Long buộc ngựa xong, bước vào điện. Nhưng cũng đã muộn mất rồi. Mọi người chờ
mãi không thấy đêm xuống, song thức ăn thì đã nguội cả, nên sau cùng Hoàng đế đành ra
lệnh cha các ông tiến sĩ cứ bốn người một, ngồi vào mâm. Khi Long bước vào. thì tiệc
PL246
rượu đã hầu tàn. Biết việc chậm trễ có thể khiến mình mất đầu như chơi, nên anh cởi mũ
"phủ phục" trước sân điện, một hai viện lý do "không thấy trời tối" để mong được nhẹ tội.
Vua tha cho anh, nhưng để anh nhớ lỗi, bắt bổ anh về làm tri huyện một huyện từng nổi
tiếng có nhiều vụ án ma. Mặc dầu vẫn nghe nhiều tin đồng rùng rợn rằng từ trước đến nay,
hễ quan nào được bổ về huyện ấy đều bị ma quỷ vật chết, Long vẫn ung dung về trị nhậm.
Theo tục lệ ở vùng này, mỗi khi quan mới bổ đến, dân các làng xã đều phải mang lễ
vật đến chào quan. Cho nên những ngày Long mới chân ướt chân ráo đến nơi, dân các làng
kéo nhau đội lễ vật đến đầy cả công đường. Long tiếp chuyện mọi người rất ân cần, nhưng
nhất thiết từ chối mọi lễ vật. Chàng kín đáo dặn lính hầu mỗi khi có toán dân nào ra về thì
lén đi theo để biết rõ tung tích. Vào ngày thứ ba, một trong những người lính hầu mà Long
phái đi theo bén gót hai người dân đội một mâm lễ vật trở về. Người lính thấy hai người
này đi mãi, đi mãi, bóng chiều đã ngả mà vẫn chưa đến nơi. Cho đến khi tắt ánh mặt trời
mới thấy họ đến sát một cái giếng hoang bên cạnh đường. Thốt nhiên họ đội cả mâm, lội
vùng xuống giếng, rồi thoáng một cái đã biến mất. Vừa kinh ngạc, vừa sợ hãi, người lính
vội đi suốt đêm trở về báo lại tình hình cho quan biết.
Sáng hôm sau, Long hạ lệnh cho một toán lính huyện tới tát cạn cái giếng ấy. Họ ra
sức tát suốt cả một ngày. Nhưng thật là lạ lùng! Tát được bao nhiêu nước lại đầy ắp bấy
nhiêu. Mấy ngày sau nữa công việc cũng không nhích lên được tý nào. Bọn lính huyện
cảm thấy rất chán nản. Một đêm nọ, vào giữa canh khuya, một người lính nằm ngủ bỗng
thức giấc thấy có hai con quỷ đang ngồi vắt vẻo trên cành cây nói chuyện với nhau. Một
con hỏi: -"Nếu chúng nó kéo tới đông thì có tát cạn chăng?". Con kia đáp: - "Nhiều người
cũng vô ích thôi. Chỉ có rồng mới có thể tát cạn, ngoài ra không có cách nào khác".
Người lính bèn đem câu chuyện ấy trình lên quan. Long nói ngay:
- Chính ta là rồng đây! Ta sẽ thân hành tát cạn giếng.
Nói xong Long cưỡi ngựa về tận nơi. Sau khi xem xét tình hình, quan xắn áo quần
cầm lấy gầu tát lấy tát để. Quả nhiên chỉ một mình Long đã làm cho nước giếng dần dần
cạn thấu đáy. Nhưng khi giếng cạn hết, cả quan và lính đều không tìm thấy quỷ. Giữa ban
ngày, quỷ có phép tàng hình, mắt người không thể nhìn thấy được. Nhưng đêm đến, quỷ lại
dựa vào tối trời, lẩn lút trốn nấp trong các hang hốc làm cho Long và lính hầu tìm hết hơi
mà không ra. Họ thắp đuốc lên nhưng bó đuốc nào hễ đưa vào cửa hang cũng đều tắt
ngấm, không thể chụm lên được. Long sực nhớ tới món tặng vật bèn mở túi lấy "mặt trời"
ra treo lên đầu ngọn tre. Lập tức cả một vùng sáng rực như ban ngày. Nhưng vì là ban ngày
nên quỷ lại tàng hình lọt khỏi con mắt của mọi người. Sau cùng Long nhớ đến món tặng
vật thứ hai. Vừa đưa ra khỏi túi, "mặt trăng" tỏa một thứ ánh sáng dịu mát vào khắp mọi
nơi. Long liền mang "mặt trăng" đi lần xuống giếng, tiến vào các hang các hốc. Dưới ánh
sáng trăng, quỷ đành lộ mặt, không thể tàng hình nổi. Cho nên chỉ một chốc, chưa giập
miếng bã trầu, quan và lính đã tóm được hai con quỷ. Chính đó là hai con xà tinh quen thói
hại người, thường dùng một cái hang ở đáy giếng làm sào huyệt. Trước mặt Long, hai con
quỷ cúi đầu van lạy xin quan sinh phúc tha cho tính mạng, từ rày không dám làm hại ai
nữa. Long sai lính giải chúng đi đày thật xa. Từ đây dân huyện ấy sống yên ổn.
PL247
Nguồn: Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi, Quyển 2, Tập III, truy
tại: https://www.sachhayonline.com/tua-sach/kho-tang-truyen-co-tich-viet-
cập online
nam/nguoi-hoc-tro-va-ba-con-quy/1702
Giai thoại Phạm Trấn – Đỗ Uông
Huyện Gia Phúc (bây giờ là Gia Lộc), tỉnh Hải Dương, một người tên là Phạm Trấn
ở làng Lam Kiều; một người tên là Đỗ Uông ở làng Đoàn Lâm, hai làng giáp với nhau.
Làng Đoàn Lâm có một con yêu tinh, thường thường biến hiện trăm vẻ, trêu ghẹp người ta,
làng ấy tìm phương kế trừ mãi không được.
Ông Đỗ Uông khi còn nhỏ, một đêm ngồi học ở nhà, con yêu tinh thò tay vào trong
cửa sổ trước bàn học để trêu ghẹo Đỗ Uông. Đỗ Uông nói chuyện với thầy phù thủy, thầy
phù thủy xuy lấy chỉ ngũ sắc mà buộc tay lấy nó. Đêm hôm sau, con yêu tinh quen thói lại
đến, Đỗ Uông vội lấy chỉ ngũ sắc trói lại, buộc vào cửa sổ. Con yêu quả nhiên không biến
được nữa, mới kêu van, Đỗ Uông nhất định không tha. Mãi đến gần sáng, con yêu lại kêu
rằng:
- Ông này sau đại quý, tôi muốn bỡn đấy thôi, nỡ nào ông lại hại tôi?
Đỗ Uông nói:
- Như tài sức tao, thì có đỗ được trạng nguyên không?
Con yêu nói:
- Trạng nguyên đã có một ông họ Phạm, ông chỉ đỗ được bảng nhãn thôi.
Lại hỏi:
- Mày có của gì mà thiêng được, hễ cho tao xem thì tao sẽ tha cho mày.
Một lát, thấy con yêu tinh nôn ọe, thổ ra một hòn ngọc, cầm ở trong tay, ánh sáng lòe
ra vào trong nhà, rồi nói rằng:
- Tôi chỉ có của này mới thiêng, nay xin dâng ông để giúp thêm việc học hành.
Đỗ Uông cầm lấy hòn ngọc, nuốt vào bụng, rồi mới tha cho nó đi. Từ bấy giờ con
yêu tinh mất thiêng, không quấy nhiễu gì nữa. Mà ông Đỗ Uông từ khi nuốt hòn
ngọc ấy, văn chương mỗi ngày một hay, nổi tiếng trong các vùng, văn ông Phạm
Trấn vẫn không kịp (…).
Nguồn: trích từ Nam Hải dị nhân liệt truyện, Phan Kế Bính, [17, tr.125 – 127].
PL248
PHỤ LỤC 6: DẪN CHỨNG NGUỒN TƯ LIỆU LỊCH SỬ CỦA QUỐC SỬ QUÁN
TRIỀU NGUYỄN CÓ DÙNG TRONG
LUẬN ÁN
I. Sách Đại Nam nhất thống chí
Về trường hợp của Cao Bá Quát, sách Đại Nam nhất thống chí, ở quyển 46,
Truyện về các nghịch thần, ở mục II, ghi nhận ba việc có liên quan đến họ Cao: thứ
nhất là tính tình tự phụ, giân lận trong chấm thi và thứ hai là sự phản nghịch chống
lại triều đình nhà Nguyễn:
Tính tình tự phụ, giân lận trong chấm thi được viết như sau:
“Đầu năm Thiệu Trị (1841) sung làm Sơ khảo ở trường Thừa Thiên, cùng với
đồng viện là Phan Nhạ lén đem muội đèn thêm lời lẽ trong văn của sĩ nhân cộng 24
quyển, sau đỗ được 5 tên, sĩ tử bàn luận xôn xao. Viên giám sát trường vụ là Hồ
Trọng Tuấn tham hặc, khi bản án dâng lên, kết định tội chết. Vua cho bọn Quát sính
ý làm càn, nguyên không có tình tiết gì, gia ơn đối xử giảo giam đợi lệnh, sau được
tha lại khởi dụng. Tự Đức năm thứ 7 (1854) trải bổ Giáo thụ phủ Quốc Oai, Quát tự
phụ là tài danh khuất mình ở địa vị thấp thường u uất không vui bèn cáo về Bắc
Ninh”.
Còn kết cục của việc phản loạn là:
“Bấy giờ ở Tuyên Cao Thái Lạng đều có báo động ở ngoài biên (đám thổ phỉ
nước Thanh), lại có Lê Duy Cự tự xưng con cháu nhà Lê. Quát ngầm họp đồ đảng
lén mưu việc bất pháp, ước hẹn ngày tới thành Hà Nội cử sự, mưu bị tiết lộ. Tỉnh
Bắc Ninh và Hà Nội cho đòi rất gấp. Bá Quát bèn cùng đảng phái suy tôn Duy Cự
làm minh chủ mà tự làm quốc sư, rồi lén dụ dỗ tên thổ mục ở Sơn Tây là Đinh Công
Mỹ và Bạch Công Trân gọi đảng phái lan tràn xuống Hà Nội, đốt luôn phủ Ứng Hòa
và huyện Thanh Oai. Quan quân Hà Nội đánh phá ở xã Đồng Dương, Bá Quát lại do
huyện Mỹ Lương trốn qua phủ Vĩnh Tường đốt cướp huyện thành Tam Dương, rồi
lẩn tới các phủ huyện Quốc Oai, An Sơn lan tràn quấy nhiễu. Phó lãnh binh ở Sơn
Tây là Lê Thuận Đại đem quân tới đánh, Bá Quát bị thua chết ở trận. Ngụy Thượng
thư là Nguyễn Kim Thanh, ngụy Phó vệ là Nguyễn Văn Thực cũng bị bắt (sau đều
chém cả) và chém được một trăm thủ cấp, bắt sống hơn 80 tên, việc đến tai vua, sai
đem thủ cấp Bá Quát truyền giao cho các tỉnh Bắc kỳ bêu lên để khuyên bảo
dân chúng rồi xé xác vất xuống sông”.
II. Sách Việt sử thông giám cương mục
1. Một số giai thoại lịch sử có nguồn gốc từ chính sử
1. TRẦN KHẮC CHUNG: CHÓ DỮ KHÔNG CẮN NGƯỜI LẠ
“Khi Khắc Chung đến nơi, Ô Mã Nhi trách móc về hai chữ "sát Thát" và nói:
"Nước anh dám khinh lờn đại binh của thiên triều, cái lỗi ấy to lắm đấy!". Khắc
Chung trả lời: "Con chó trong nhà cắn người lạ, là vì không phải chủ của nó. Việc
thích chữ vào cánh tay là do lòng trung phẫn của người nước tôi, tự ý thích vào đấy".
Ô Mã Nhi nói: "Đại binh từ phương xa đến đây, sao không theo lễ nghi nghênh tiếp,
mà lại dám kháng cự lại mệnh lệnh?". Khắc Chung nói: "Hiền tướng không bắt
chước sách lược bình định nước Yên ngày trước, đóng quân ở địa đầu quan ải, trước
PL249
hết đưa thư báo tin; hiền tướng không đem lòng tốt đến với nước tôi, đấy là lỗi của
hiền tướng; nay tự đem quân đến ức hiếp nhau thì, dầu con thú đến lúc cùng tất phải
đánh lại, con chim đến lúc cùng tất phải mổ lại, huống chi là người?". Ô Mã Nhi nói:
"Đại binh chỉ mượn đường sang đánh Chiêm Thành, nếu vua nước anh thân đến đây
cùng nhau hội kiến, thì trong nước được yên, không xâm phạm tơ hào gì cả. Nếu trái
lại, thì chỉ trong khoảng giây phút, non sông đều bị san phẳng, đến lúc ấy, dầu có
muốn hối lại cũng không được nữa". Khắc Chung cáo từ ra về. Mã Nhi bảo với
tướng tá rằng: "Người này trong lúc bị uy hiếp mà lời lẽ và khí sắc vẫn bình tĩnh như
thường, không hạ thấp vua mình là chú Chích, không tâng bốc ta là vua Nghiêu, chỉ
nói "chó trong nhà cắn người lạ", ứng đối thật là khéo léo, người này có thể nói là
"không làm nhục mệnh lệnh của vua phó thác cho". Trong nước họ có người như thế,
chưa dễ đã làm gì họ” (Quyển VII, tr.228)
2. TRẦN BÌNH TRỌNG
“Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng đánh nhau với quân nhà Nguyên ở bãi
Tha Mạc, bị bại trận. Bình Trọng bị giết chết.
Quân nhà Nguyên đóng ở bãi Tha Mạc, Bình Trọng kéo quân đến đánh với
quân giặc, bị thua to và bị bắt, Bình Trọng không chịu ăn uống gì. Tướng Nguyên tra
hỏi về việc nước, Bình Trọng không trả lời. Tướng Nguyên hỏi: "Có muốn nhận tước
vương đất Bắc không?". Bình Trọng quát to, nói: "Ta thà làm con ma ở đất Nam,
không thèm nhận tước vương đất Bắc". Vì thế, Bình Trọng bị giết chết. Nhà vua
được tin này, vật vã thương khóc”. (Quyển VII, tr.229)
3. MỐI HIỀM KHÍCH GIỮA TRẦN QUANG KHẢI VÀ TRẦN
QUỐC TUẤN
“Quang Khải với Quốc Tuấn trước vốn không hòa hiệp với nhau, sau đó
một hôm, Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp về, Quang Khải cùng Quốc Tuấn đánh cờ chơi đùa
suốt ngày. Quang Khải tính không hay gội tắm, Quốc Tuấn cởi áo và lau rửa giúp
Quang Khải, rồi nói: "Hôm nay được tắm cho thượng tướng". Quang Khải cũng nói:
"Hôm nay được quốc công tắm rửa cho". Tự bấy giờ hai người chơi với nhau thân
mật lắm”. (Quyển VIII, tr.243)
4. ĐOÀN NHỮ HÀI
“Khi bấy giờ thượng hoàng từ phủ Thiên Trường về kinh, các quan trong
triều đều không ai biết cả. Nhà vua uống rượu xương bồ, say, nằm ngủ, đánh thức
mãi không dậy. Thượng hoàng đi thong thả, xem khắp các cung điện một hồi lâu.
Lúc người hầu nội dâng cơm, Thượng hoàng không thấy nhà vua, lấy làm lạ, liền
hỏi, sau khi biết chuyện, Thượng hoàng giận lắm, lập tức trở về Thiên Trường, hạ
chiếu cho trăm quan đến ngày mai phải tề tập để nghe chỉ dụ. Đến quá trưa, nhà vua
mới tỉnh dậy. Cung nhân đem việc đó tâu bày, nhà vua sợ quá, đi bộ ra ngoài cửa
cung. Khi đi qua chùa Tư Phúc, gặp người học trò là Đoàn Nhữ Hài, nhà vua ban
hỏi. Nhữ Hài vội vàng cúi rạp xuống đất thưa là "học trò đi học". Nhà vua cho theo
vào cung, bảo rằng: "Mới đây trẫm say rượu, bị Thượng hoàng hỏi tội, nay muốn
dâng biểu tạ tội, nhà ngươi nên thảo giúp ta tờ biểu ấy". Nhữ Hài vâng lời, thảo xong
PL250
ngay. Nhà vua liền dùng chiếc thuyền nhỏ, cho Nhữ Hài đi theo, đêm đi đến Thiên
Trường. Sớm hôm sau, sai Nhữ Hài đội tờ biểu dâng lên, Thượng hoàng hỏi: "Người
dâng biểu là người nào?". Người hầu cận thưa rằng: "Đấy là người của quan gia2 sai
dâng biểu tạ tội". Thượng hoàng không nói gì cả. Trời gần tối, gió mưa kéo đến ầm
ầm,
Nhữ Hài vẫn quỳ yên không di chuyển. Thượng hoàng bèn cho người lấy tờ
biểu vào xem, thấy lời lẽ ý tứ trong tờ biểu thành khẩn thiết tha, mới cho triệu nhà
vua vào dạy rằng: "Trẫm không còn có người con nào nữa để nối ngôi vua hay sao?
Nay trẫm còn sống mà còn như thế, nếu sau này sẽ ra thế nào?". Nhà vua cúi đầu tạ
tội. Thượng hoàng hỏi: "Ai soạn tờ biểu này?". Nhà vua tâu: "Tên học trò là Đoàn
Nhữ Hài".
Thượng hoàng lại cho triệu Nhữ Hài vào, dụ bảo rằng: "Tờ biểu của nhà
ngươi soạn, thực hợp ý trẫm". Sau đó, Thượng hoàng cho nhà vua lại được làm vua
và trăm quan trở về triều như trước. Nhà vua ở phủ Thiên Trường về, cho Nhữ Hài
làm Ngự sử trung tán. Khi bấy giờ Nhữ Hài mới 20 tuổi, có kẻ ghen ghét cho là ít
tuổi đã làm quan, họ có câu thơ mỉa mai rằng: "Phong hiến luận đàm truyền cổ ngữ,
khẩu tồn nhũ xú Đoàn trung tán". (Trong ngự sử đài người ta truyền tụng câu cổ ngữ
"khẩu tồn nhũ xú")” (Quyển VIII, tr.246).
5. HỒ QUÝ LY RA CÂU ĐỐI THỬ LÒNG NGUYÊN TRỪNG
“Quý Ly truyền ngụy vị cho con là Hán Thương, tự xưng là thái thượng
hoàng, cùng giữ chính quyền trong nước. Hán Thương lập vợ là Trần Thị làm hoàng
hậu.
Hán Thương là con thứ của Quý Ly và là em Nguyên Trừng. Mẹ Hán
Thương, Huy Ninh công chúa, là con gái Trần Minh Tông. Trước kia Quý Ly vẫn có
ý muốn lập Hán Thương nối ngôi, nhưng chưa quả quyết, bèn ngụ ý vào cái nghiên
đá, ra một câu đối cho Nguyên Trừng đối lại, để dò xét khí khái.
Nguyên Trừng: "Thử nhất quyền kỳ thạch, hữu thời vi vân, vi vũ, dĩ nhuận
sinh dân". (Viên đá nhỏ bằng nắm tay, có lúc làm mây, làm mưa, để thấm nhuần cho
nhân dân). Nguyên Trừng đối lại: "Giá tam thốn tiểu tùng, tha nhật tác đống, tác
lương, dĩ phù xã tắc". (Cây thông nhỏ chừng ba tấc, sau này làm cột, làm xà, để phù
trì xã tắc). Quý Ly bèn lập Hán Thương nối ngôi” (Quyển XI, tr.325)
2. Sự khác biệt trong việc phản ánh nhân vật, sự kiện lịch sử trong giai thoại và
chính sử (hay là đặc điểm hư cấu của giai thoại so với chính sử)
- Việc đi sứ của Mạc Đĩnh Chi được sử chép rất sơ sài, và không thấy ghi lại
các cuộc đối chọi văn chương giữa ông với vua quan nhà Nguyên Trung Quốc (như
trong giai thoại):
“Sứ thần nhà Nguyên sang. Thái Định đế nhà Nguyên mới lên ngôi, sai Mã
Hợp Mưu và Dương Tôn Thụy sang báo cáo và ban lịch mới; lại dụ nhà vua không
nên cho quan lại ở biên giới sang xâm nhiễu Chiêm Thành. Hợp Mưu cưỡi ngựa đến
cái cầu ở ao Tây Thấu vẫn không xuống ngựa. Những người hiểu tiếng Trung Quốc
vâng chỉ dụ nhà vua ra bảo sứ thần xuống ngựa, tranh luận mãi vẫn không thể giải
quyết được. Nhà vua sai Thị ngự sử Nguyễn Trung Ngạn ra đón tiếp, Trung Ngạn
PL251
dùng lý lẽ bẻ bác, Hợp Mưu không cãi lại được, mới chịu xuống ngựa; nhà vua rất
hài lòng. Khi Hợp Mưu về, nhà vua sai Mạc Đĩnh Chi sang chúc mừng” (Quyển IX,
tr.267).
- Hồ Tông Thốc cũng được chép rất sơ sài, không thấy nhắc đến thơ văn lúc
ông đi sứ sang Tàu như trong giai thoại:
“Dùng Hồ Tôn [Tông] Thốc làm quan Hàn lâm viện Học sĩ phụng chỉ.
Thốc, tuổi trẻ đỗ sớm, nổi tiếng về văn học. Khi làm An phủ sứ, Thốc ăn lễ của
dân. Sự phát giác, Nghệ Tông lấy làm lạ, có đòi hỏi, Thốc lạy tạ mà rằng: "Một
người được ơn vua thì cả nhà hưởng lộc nước". Nghệ Tông tha tội cho. Đến đây,
được trao cho chức này, lại kiêm cả chức Thẩm hình viện sứ. Thốc có làm Thảo nhàn
hiệu tần thi, ngụ ý cảm khái về việc Quý Ly chuyên chính. Tuổi ngoài 80, Thốc mất”
(Quyển XI, tr.306 ).
- Về Nguyễn Trãi, sử quan phương quan tâm đến vụ án Lệ chi viên hơn là các
cuộc ứng tác thơ văn của ông với Nguyễn Thị Lộ, cũng không nhắc đến tình tình hay
ghen tuông của ông (như trong giai thoại) :
“Nhà vua ở ngôi 9 năm thọ 20 tuổi. Trước kia, Nguyễn Thị Lộ, vợ lẽ Lê Trãi,
người đẹp mà lại hay chữ. Nhà vua nghe tiếng, vời đến, phong làm Lễ nghi học sĩ,
ngày đêm cho hầu ở bên, nhân đó, sàm sỡ với Thị Lộ. Đến đây, đi tuần phía đông, xa
giá quay về đến trại Vải1, làng Đại Lại, huyện Gia Định, thì mắc chứng sốt rét. Thị
Lộ vào hầu suốt đêm, nhà vua mất. Trăm quan giấu kín việc này, lặng lẽ rước ngự
giá về kinh đô. Nửa đêm vào đến trong cung, mới phát tang. Người ta đều nói Thị Lộ
giết vua, bèn bắt giết Thị Lộ” (Quyển XVII, tr.440).
- Về Trạng lường Lương Thế Vinh, sử cũng không chép các cuộc thù tạc, ứng
tác thơ văn, câu đối như trong giai thoại, mà chỉ được chép một cách ngắn gọn như
sau:
“Thi nho thần ở Phượng Nghi đường.
Nhà vua cho triệu những người trước đã đỗ tiến sĩ hện làm việc ở các nha môn
là bọn Lê Đình Tuấn cùng với bí thư giám là bọn Lương Thế Vinh, cộng 30 người,
đến Phượng Nghi đường. Nhà vua ra đầu bài để khảo thí bọn này. Trong số ấy có thị
chế Dương Như Châu vì học nghiệp không tiến, phải xuất ra làm Hồng lô tự thừa”
(Quyển XXI, tr. 506).
- Sự cấm kỵ, hạn chế của triều Lê đối với việc hát xướng của quần chúng
nhân dân được ghi chép cụ thể. Đầu năm Hồng Đức (1470), vua Thánh Tông định ra
24 huấn điều, trong đó có điều 1 quy định về ca hát và điều 19 quy đinh về trách
nhiệm của các nhà nho ở làng xã như sau:
“1. Cha mẹ dạy con, phải dùng khuôn phép hợp với lẽ phải; con trai, con
gái đều dạy cho có nghề nghiệp, không được để buông tuồng vào cờ bạc rượu
chè, tập nghề xướng hát, để hại đến phong tục.
2. Người gia trưởng tự mình giữ lễ phép tiết độ, để uốn nắn người trong nhà
mình; nếu con em trong nhà làm việc trái, thì người gia trưởng sẽ bị tội.
3. Vợ chồng siêng năng, sẻn nhặt, sửa sang công việc trong nhà; đối với nhau
có ân có nghĩa không bao giờ thay đổi; chỉ lúc nào người vợ phạm vào tội "thất
PL252
xuất"1 bấy giờ phải dùng lý mà xử đoán, không được quá yêu quyến luyến dung túng
xuê xoa, để hại đến phong hóa.
4. Con em trong nhà, nên thân yêu với anh em, hòa thuận với làng xóm, lấy lễ
nghĩa tự giữ mình, nếu người nào làm trái thì tôn trưởng dạy bảo bằng cách roi vọt
nhỏ để quở phạt, quá lắm thì cáo tố ở cửa công xét xử.
5. Ngoài làng xóm, trong họ hàng, người nào gặp hoạn nạn, thì nên chu cấp
thương xót lẫn nhau. Nếu có người làm việc nghĩa nổi tiếng, thì các viên phủ huyện
sở tại trình với hai ty Thừa chính và Hiến sát thực tâu bày đầy đủ, sẽ được triều đình
biểu dương.
6. Người đàn bà có lỗi, nếu cha mẹ và chồng có trừng trị, thì phải bỏ hẵn lòng
tà, sửa đỗi tội lỗi, không được thiện tiện tự ý bỏ trốn, có điều trái với đạo người đàn
bà.
7. Đàn bà góa chồng, không được tìm kiếm người trai trẻ, nói thác là con nuôi,
làm việc gian dâm vụng trộm.
8. Đàn bà, sau khi chồng chết, hoặc chồng có các con của người vợ trước cũng
như con vợ lẽ nàng hầu, thì mình phải mang lòng yêu thương, không được lập tâm
tham chiếm tài sản, lo toan làm việc lợi riêng cho mình.
9. Đàn bà, khi chồng chết mà mình chưa có con, thì nên ở nhà chồng, theo việc
tang việc tế đúng như nghi lễ; không được tư túi tài sản đem lén lút về nhà cha mẹ đẻ
của mình.
10. Bổn phận chính của người đàn bà là phải thuận theo chồng, không được
cậy là cha mẹ mình giàu sang, mà kêu ngạo với nhà chồng; người đàn bà nào trái
lệnh, thì cả cha mẹ người ấy cũng phải tội.
11. Bọn sĩ phu phải đôn đốc học nghiệp, phẩm hạnh, giữ điển lễ chung; nếu có
người nào thi thọt cửa quyền, dựa thế lực người trên, ra oai nạt nộ người khác, sẽ
phải tước bỏ tên tuổi, suốt đời không được kể là hạng sĩ phu
12. Bổn phận người điển lại chỉ có việc giữ sổ sách văn thư, làm công việc theo
chức phận của mình; nếu có người nào dùng trí thuật làm điên đảo giấy tờ, thì viên
quan cai quản phải kiểm xét cho ra để trị tội.
13. Quân và dân nên hiếu với cha mẹ, thảo với anh em, hết sức làm ruộng;
người ra ngoài, người ở nhà, phải giữ gìn lẫn cho nhau: đến kỳ thượng phiên1 thì vui
vẽ đi làm công việc, không được lười biếng trốn tránh. Nếu có ai nổi tiếng là người
lương thiện, thì các viên phủ, huyện sở tại trình lên hai ty Thừa Chính và Hiến sát xét
thực, rồi tâu bày đầy đủ, sẽ được khen thưởng.
14. Người buôn bán nên theo thời mà lưu thông phẩm vật, không được lừa
thưng tráo đấu, không được nhân cơ hội tụ tập đồ đảng, lén lút làm trộm cướp, người
nào phạm pháp, sẽ bị trị tội nặng.
15. Việc cưới gả, việc tế tự, phải dựa theo lễ pháp, không được tiếm vượt quá
phận định của mình.
16. Khi chèo hát, lúc hội hè, trai gái đến chơi xem, không được đứng ngồi lẫn
lộn để ngăn ngừa thói dâm ô.
PL253
17. Nhà cửa, hàng quán ở dọc đường, nếu có phụ nữ đi xa vào ngũ trọ, thì cửa
ngõ phải đề phòng cẩn mật; nếu người nào dám lấy sức khỏe làm việc ô nhục, khi
việc phát giác, thì người can phạm và chủ nhà đều phải trị tội.
18. Các viên phủ, huyện đều chiểu theo địa phận sở tại, cắm thẻ bài răn chặn
trai gái không được tắm cùng một bến, để tỏ rõ sự phận biệt về lễ phép.
19. Xã thôn nên chọn một, hai người tuổi cao, đạo đức, học lực khá, phẩm
hạnh tốt làm người đứng đầu, cứ những ngày nhàn rỗi, đưa nhân dân đến đình
quán, công sở, hội họp giảng giải lời cáo dụ, để cùng nhau trông vào đấy mà làm
điều lành, cùng tiến đến phong tục tốt đẹp.
20. Trong hạt các phủ huyện, nếu có kẻ nào cường xâm chiếm ruộng đất, ức
hiếp người cô độc, xui nguyên giục bị kiện cáo lẫn nhau, thì cho phép xã thôn dò xét
tố giác để nghĩ trị; nếu phủ huyện nào vì tình riêng mà ẩn giấu đi, sẽ bị luận vào tội
giáng chức hoặc bãi chức.
21. Những nhà tước vương, tước công và đại thần chứa chấp người tư cách hèn
hạ làm cò mồi đưa đồ đút lót, cùng nô tỳ những nhà ấy mua ức phẩm vật của dân, thì
cho phép người đương sự đến cửa quan tố cáo, bọn can phạm sẽ bị trừng phạt nặng.
22. Viên quan giữ chức trách chăn dắt dân2, nếu viên nào biết dạy bảo đốc sức
nhân dân trong hạt hăng hái theo lễ nghĩa nhún nhường, thì ty hiến sát xét thực, ghi
vào hạng nhất trong dịp khảo công; nếu viên nào không siêng năng dạy bảo nhân
dân, khi khảo công, liệt vào hạng không làm đầy đủ chức phận.
23. Xã trưởng, thôn trưởng, và phường trưởng người nào biết siêng năng, năng
dạy bảo đốc sức, làm cho phong tục làng xóm trở nên tốt lành, thì các viên phủ
huyện trình bày rõ với hai ty Thừa chính và Hiến sát xét thực, tâu lên triều đình, sẽ
ban thưởng.
24. Phàm những người Man, người Lạo ở ven biên giới, phải kinh giữ luân lý,
không được làm rối loạn đạo thường, như sau khi cha, anh, chú bác đã mất rồi, người
nào là con cháu, anh em với người đã chết ấy không được nhận lấy vợ cả hoặc vợ lẽ
của họ làm vợ mình; nếu ai trái lệnh, sẽ phải trừng trị” (Quyển XIV, tr. 575 – 576).
- Sự kiện Cừu Loan sai Mao Bá Ôn sang đánh Mạc Đăng Dung không hề có
liên quan đến tình tiết thơ văn như trong giai thoại:
“Đinh Dậu, năm thứ 5 (1537). (Mạc, năm Đại Chính thứ 8 - Minh, năm Gia
Tĩnh thứ 16).
Tháng 2, mùa xuân. Minh dùng Cừu Loan làm tổng đốc, Mao Bá Ôn làm
tán lý quân vụ, đi đánh Mạc Đăng Dung.
Vua Minh đã biết rõ tội trạng tiếm nghịch của Đăng Dung Tuần phủ Vân Nam
là U ông Văn Thịnh lại tâu nói Đăng Dung ngầm sai bọn tri châu Nguyễn Cảnh đi
sang rình dò hư thực, đến núi Nạp Canh bị thổ xá là Lý Mạnh Quang bắt được luôn
với một bài Đại cáo do ngụy Mạc soạn ra, rồi đem trình nộp. Vua
Minh cả giận, bèn phong Hàm Ninh hầu Cừu Loan làm tổng đốc, thượng thư
Mao Bá Ôn làm tán lý quân vụ, đem quân đi đánh U Ông Văn Thịnh truyền hịch mọi
nơi, đem họa phúc dụ bảo.
PL254
Lời cẩn án: Sử cũ, trong năm Nguyên Hòa thứ 1 (1533), chép vua Lê sai
Trịnh Duy Liểu sang Minh xin quân [đánh Mạc]; đến năm thứ 2 (1534), chép vua
Minh sai tướng sang đánh Đăng Dung. Nay tra trong Minh sử: tháng 2, mùa xuân,
năm Gia Tĩnh thứ 16 (Đinh Dậu, 1537 ) chép vua Minh sai tướng sang đánh Đăng
Dung thì chính đúng vào năm Nguyên Hòa thứ 5. Này, Duy Liểu sang Minh hàng hai
năm mới đến được quốc đô [Trung Quốc]; kịp khi được U Ông Văn Thịnh tâu trình
lên thì (triều đình nhà Minh ) mới bàn đến việc ra quân. Vậy xét theo sự thực thì
Minh sử đúng” (Quyển XVII, tr.632)
Sự thật là Mạc Đăng Doanh xin cầu hòa và dùng lời lẽ dối trá để qua mặt thiên
triều nhà Minh:
“Mạc Đăng Doanh sai bầy tôi là bọn Nguyễn Văn Thái sang nhà Minh, xin
hàng.
Đăng Doanh được tin quân Minh sang đánh, cả sợ, liền sai đồ đảng là bọn
Nguyễn Văn Thái đem tờ biểu đầu hàng sang Minh nói dối trá rằng:
"Tương Dực đế bị nghịch tặc Trần Cao giết hại, Đăng Dung cùng người trong
nước tôn lập vua Chiêu Tông. Không bao lâu, Chiêu Tông lại bị gian thần là bọn Đỗ
Ôn Nhuận và Trịnh Tuy dụ dỗ dời vào Thanh Hoa, Đăng Dung lại tôn lập Cung đế
làm vua. Liền đó Đăng Dung lại đón Chiêu Tông từ Thanh Hoa về. Rồi Chiêu Tông
và Cung đế đều bị bệnh chết. Họ Lê không người kế tự. Cung đế, khi bệnh kịch, có
bàn với quần thần, cho rằng cha con Đăng Dung có công với nước, bèn vời vào, trao
cho ấn chương để nối coi việc nước. Đăng Dung bèn được người nước suy tôn.
Còn lý do chưa được dâng biểu và sai sứ sang cống, là trước vì Trần Cung
chiến giữ Lạng Sơn làm nghẽn đường, sau vì quan giữ biên cương đóng cửa ải không
tiếp nhận. Đến như người nhận là dòng dõi họ Lê bây giờ chỉ là con của kẻ khác, chứ
không phải là con của Chiêu Tông".
Vua Minh biết rõ những lời trong bài biểu đều là lừa dối bưng bịt. Vả lại, tuy
xin hàng, nhưng lời lẽ vẫn không thành khẩn khuất phục, Đăng Dung lại không tự
trói nộp mình để đợi tội. Vua Minh bèn quyết đánh, mới sai bọn Cừu Loan và Mao
Bá Ôn mau đến Quảng Tây chiêu tập binh lính để tiến đánh nhà Mạc.
Tháng 11, mùa đông. Mao Bá Ôn nhà Minh đóng quân ở ngoài cửa ải. Mạc
Đăng Dung đến cửa quân tướng Minh, xin hàng, và đem đất năm động hối lộ nhà
Minh”. (Quyển XVII, tr. 633).
- Về nhân vật Nguyễn Hữu Cầu, sử chép rất chi tiết về cuộc nổi dậy của ông và
địch thủ không đội trời chung – Phạm Đình Trọng. Tuy nhiên, không có phần thơ
văn đối chọi nào giữa hai nhân vật. Ở đây, xin dẫn ra một đoạn làm minh chứng:
“Từ đấy, thanh thế Hữu Cầu ngày càng lừng lẫy, tự xưng là Đông Đạo tổng
quốc bảo dân đại tướng quân, chiếm cứ ven biển Đồ Sơn và Vân Đồn làm nơi kiên
cố. Trịnh Doanh sai Hoàng Công Kỳ thống lãnh đạo bộ binh ở Hải Dương, Trần
Cảnh thống lãnh đạo thủy binh, lúc ra đi, Trịnh Doanh thân hành trao cho mưu kế
phương pháp. Sau đó, sai Công Kỳ thống suất số quân thuộc dưới quyền Trần Cảnh
và các đạo quân của đốc lãnh Vũ Tá Liễn, gồm binh thuyền của 29 cơ, nghiêm hạn
nhật kỳ tiến quân càn quét. Công Kỳ dâng tờ khải nói: "Giặc nương vào núi, dựa vào
PL255
biển làm nơi kiên cố; vả lại nước biển khi lên khi xuống không nhất định, muốn phá
Đồ Sơn, không tranh chiếm địa lợi trước là không được, mà muốn tranh chiếm địa
lợi, cần phải dùng thủy binh. Vậy xin giữ quân thủy của đội Tứ Trạch lại để phòng bị
việc điều khiển". Trịnh Doanh y cho. Công Kỳ cùng tướng thủy đạo là Nguyễn Công
Hiển, góp sức nhau cùng càn quét, Hữu Cầu đánh nhau, bị bại trận, chạy trốn ra bãi
biển, nhưng bọn Công Kỳ không lập tức đuổi bắt, Đăng Hiển lại tự dẫn đại binh về
kinh sư.
Hữu Cầu biết Yên Quảng sơ hở yếu ớt, lại trở về chiếm cứ Đồ Sơn, thường ra
cướp phá vùng đông nam, thế lực mạnh dần, không ai có thể chống cự được. Đến
nay đem quân cướp huyện Thanh Hà. Công Kỳ bị vây đã hàng tuần, bèn sai người
vượt ra ngoài vòng vây, về triều cáo cấp. Quân cứu viện chưa kịp đến, thì Hoàng
Ngũ Phúc, đốc lãnh lính kỳ đạo thúc quân đến cứu. Khi quân của Ngũ Phúc đến
huyện Vĩnh Lại, bị giặc chẹn lại, không tiến lên được.
Về phía Công Kỳ thì tán lý Vũ Khâm Lân bày mưu rằng: "Quân ở kinh sư chưa
thể đến ngay, nếu cứ ngồi để đợi viện binh, thì làm thể nào có thể kịp được? Nay
giặc đánh nhau với binh lính kỳ đạo, chúng tất dồn quân về mặt trước, nếu ta tranh
cướp lấy mặt sau mà đem quân ra, hai đạo quân hợp sức lại để đánh, thì thế nào cũng
phá được quân địch". Công Kỳ nghe theo kế ấy, bèn nhân đêm kéo ra cửa sông Ngư
Đại, gặp quân giặc có ít, đánh thắng được, rồi hợp sức phá nhổ kè, tiến ra sông Ngư
Đại, kéo về đóng ở sông Tranh, hội hợp với Hoàng Ngũ Phúc tiến đánh, phá tan
được địch” (Quyển XXXIX, tr. 859 – 860).
Đoạn kết về Nguyễn Hữu Cầu được mô tả như sau:
“Hữu Cầu bị bọn Ngũ Phúc đánh bại, nhân đêm chạy trốn, sai đồ đảng là tên
Thông (sót họ) đem hạng thuyền nhanh nhẹ chở các đồ quý trọng, thuận theo dòng
nước để về vùng đông. Quan quân lại đón đánh, bắt được rất nhiều. Tên Thông bỏ
thuyền chạy. Hữu Cầu lại ra Yên Quảng, chiếm cứ Hạc Động, nhờ vào biển để làm
kiên cố, thường dùng hạng thuyền nhanh nhẹ cướp bóc vùng đông nam.
Đình Trọng cùng Ngũ Phúc đem các tướng đi đánh, chém được bọn tên Thông
hơn 10 người, quân nhu và ngựa chiến hết thảy đều bị quan quân bắt được. Thông là
người nhanh nhẹn, mạnh khỏe, có trí mưu, Hũu Cầu dựa vào Thông là người ruột
thịt, nay Thông bị chết, thế lực Hữu Cầu thành ra cô đơn, chạy trốn lẫn lút, chỗ ở
không nhất định, những người phục tòng cũng tan tác dần, sau cùng đều bị bắt. Như
thế là phần nhiều nhờ ở công của Đình Trọng và Ngũ Phúc” (Quyển XL, tr.869)
“Hữu Cầu bị Đình Trọng đánh dồn, vì thua luôn, nên thế lực mòn mỏi. Nhân
sai đồ đảng tên là Hựu đem nhiều bạc đút lót cho người quyền thần là Đỗ Thế Giai
và nội giám Nguyễn Phương Đĩnh, để xin đầu hàng. Trịnh Doanh y cho, hạ lệnh cho
Hữu Cầu cùng đảng giặc là bọn Hoàng Phùng Cơ đều được phép rửa hết tội trước,
ban cho hiệu là Ninh Đông tướng quân và phong tước Hương Nghĩa hầu, còn tướng
hiệu của Cầu đều được thăng làm quan, lại ban thưởng rất hậu, rồi hạ lệnh triệu về
kinh sư.
Nhưng thực ra Hữu Cầu không có ý đầu hàng, hắn thường lấy cớ bị Đình
Trọng ngăn đón để tố cáo về triều. Trịnh Doanh sai thiêm tri Nguyễn Phi Sảng đem
PL256
lệnh chỉ đến phủ dụ và triệu về, mặt khác dụ bảo Đình Trọng hoãn lại đừng đánh
Hữu Cầu vội.
Trước kia, Hữu Cầu nhiều lần bị Đình Trọng đánh bại, bèn đào mã mẹ Đình
Trọng quẳng xuống sông, Đình Trọng khóc lóc tố cáo với Trịnh Doanh, thề quyết chí
giết Hữu Cầu, Doanh rất khen chí khí Đình Trọng. Nay Phi Sảng đem dụ chỉ đến,
Đình Trọng nói: "Người làm tướng ở ngoài chiến trường, có khi không chịu nhận
mệnh lệnh của vua. Tôi với Hữu Cầu không cùng đội trời chung, tôi đã từng nói ở
trước chúa thượng. Nay ông tự nhận mệnh lệnh đi chiêu hàng, tôi tự nhận mệnh lệnh
đi giết giặc, nếu gặp thế có thể đánh được giặc, thì tôi cũng không vì cớ ông đến
chiêu hàng mà ngần ngại". Phi Sảng cùng bạn bè nghe câu nói ấy đều sợ thất sắc,
nhân từ giả ra đi. Phi Sảng đến quân doanh Hữu Cầu, bày tỏ dụ chỉ của chúa Trịnh,
lại đem câu nói của Đình Trọng bảo cho Hữu Cầu biết. Câu chuyện chưa nói dứt lời
thì Đình Trọng ập đến đánh úp. Hữu Cầu sai người dẫn Phi Sảng theo đường tắt trở
về, rồi ra đánh nhau, Đình Trọng đánh cho Hữu Cầu đại bại, Cầu phải bỏ trốn.
Trước kia, Đình Trọng nhận mệnh lệnh đi đánh giặc, chiêu mộ các người mạnh
khỏe ở Thanh Hà, Tứ Kỳ, Vĩnh Lại và Thượng Hồng làm nghĩa binh, đặt hiệu riêng
là bốn cơ Thanh, Kỳ, Hồng, Vĩnh, mà dùng hai người thủ hạ để quản lãnh. Đến nay,
Thế Giai gièm pha nói: "Đình Trọng cầm quân ở ngoài, đặt bộ ngũ riêng, chẳng khỏi
không có ý khác", Trịnh Doanh biết Đình Trọng là người tự nguyện một lòng trung
thành, nên bỏ lời Thế Giai đi, không hỏi, lại đặc chỉ ban cho bài thơ để yên ủi Đình
Trọng” (Quyển XL, tr. 870)
“Nguyễn Hữu Cầu xâm phạm sông Bồ Đề. Phạm Đình Trọng đuổi đánh,
Hữu Cầu thua chạy.
Hữu Cầu bị Đình Trọng đánh bại ở Cẩm Giàng, nhân đấy, hắn bàn với đồ đảng
rằng: "Ta mới bị thua, tin thắng trận đưa về, tất nhiên ở kinh sư không phòng bị, ta
đem quân đánh úp thế nào cũng thắng được". Hắn bèn nhân ban đêm đi gấp đường,
hẹn trống canh năm đến bến Bồ Đề, lẻn cho quân sang sông, nhưng khi đến bến, thì
trời đã sáng rồi. Trịnh Doanh tự làm tướng, chống cự ở bến sông phía Nam. Đình
Trọng được tin, đem hết quân lính đuổi theo, lại đánh thắng được, Hữu Cầu bỏ trốn.
Trước kia, năm Canh Thân và Tân Dậu (1740-1741) liền hai năm mất mùa,
kém đói, vùng Hải Dương lại kém đói hơn cả. Hữu Cầu cướp thuyền buôn lấy được
thóc gạo, bèn đem chia cho dân; nhờ đấy nhiều người được cứu sống. Hữu Cầu lại
đưa đẩy bằng mưu mô xảo quyệt, sai khiến bằng uy quyền võ lực, nhân dân người bị
uy hiếp, người bị dụ dỗ, thành ra lâu ngày tự nhiên tín phục, cho nên Hữu Cầu tuy
thường bị thua đau, chỉ một thân thoát nạn, những hễ giơ tay hô một tiếng, thì chốc
lát lại sum hợp như mây, vì thế mà có thể tung hoành ở mặt đông bắc, làm tên giặc
kiệt hiệt trong một đời” (Quyển XL, tr. 874).
Nguyễn Hữu Cầu bị bắt:
“Tân Mùi, năm thứ 12 (1751). (Thanh, năm Càn Long thứ 16).
Tháng giêng, mùa xuân. Phạm Đình Trọng bắt được Nguyễn Hữu Cầu ở
Nghệ An.
PL257
“Hữu Cầu lúc còn nhỏ là hạng đầu trộm, sau theo Nguyễn Cừ, tướng giặc Ninh
Xá, Cừ gã con gái cho. Khi Cừ bị bại, Hữu Cầu lại hô hào tụ họp đồ đảng cướp bóc.
Lúc ấy, Nguyễn Danh Phương chiếm cứ Sơn Tây, Nguyễn Diên chiếm cứ Nghệ An,
Hoàng Công Chất chiếm cứ Khoái Châu, Lê Duy Mật chiếm cứNgọc Lâu, người nào
cũng nắm trong tay vài ba vạn quân, riêng Hữu Cầu là kiệt hiệt hơn cả. Hữu Cầu lại
là người mạnh khỏe, nhanh nhẹn, chiến đấu hăng, trí mưu quỷ quyệt trăm đường,
nhiều lần bị mấy vòng vây, chỉ một mình một ngựa vượt vây xông ra, rồi vài hôm
sau lại có quân chúng hàng vạn. Khi ra trận, một mình cưỡi ngựa, cầm siêu đao, đi
lại như bay, quân sĩ không ai là không sợ hãi chạy giạt, đến các tướng cũng phải
tránh uy phong của hắn, chỉ một mình Đình Trọng thề quyết chí giết cho bằng được,
nên triều đình vững lòng dựa vào Đình Trọng. Đình Trọng cầm quân có kỷ luật, hễ
trận nào Hữu Cầu gặp Đình Trọng liền bị thua. Các tướng lúc bấy giờ, Hữu Cầu chỉ
sợ có Đình Trọng mà thôi.
Từ khi bị thua trận Bồ Đề, Hữu Cầu hợp lực với Hoàng Công Chất, đánh phá
cướp bóc các huyện Thần Khê, Thanh Quan. Đình Trọng cùng Ngũ Phúc đốc suất
binh sĩ đi đánh, sang đò Hoàng Giang qua huyện Nam Xang, đến huyện Bình Lục,
đánh nhau với Hữu Cầu ở các sông Mã Não và Hương Nhi, quân giặc bị thua. Lại
đuổi đến xã Quang Dực và Lộng Khê, đánh luôn mấy trận đều phá tan được, đảng
giặc bị tan tác. Công Chất chạy vào Thanh Hoa, Hữu Cầu cũng trốn vào Nghệ An
nương nhờ Nguyễn Diên. Diên giúp cho binh lính, lương thực, Hữu Cầu nương thân
ở Nguyên Lãm.
Ít lâu sau, Đình Trọng đem đại binh đuổi theo đến nơi, quân của Hữu Cầu bèn
tan vỡ. Hữu Cầu bị khốn quẫn bức bách, liền vượt ra biển, toan quayvề vùng đống.
Vì gặp gió bão thình lình nổi lên, Hữu Cầu bèn cùng mấy chục thủ hạ lên bộ, tranh
cướp lấy đường mà chạy, ẩn trốn trong núi Hoàng Mai, bị Phạm Đình Sĩ, thuộc
tướng của Đình Trọng, bắt được, liền đóng cũi đưa về quân thứ Trịnh Doanh”
(Quyển XLI, tr. 880)
- Về nhân vật Lê Quý Đôn, sách trên phê phán nhân vật này rất nặng nề (khác
hẳn với cảm hứng đề cao trong giai thoại). Xin dẫn ra đây một số đoạn làm minh
chứng:
“Ất Dậu, năm thứ 26 (1765). (Thanh, năm Càn Long thứ 30).
Tháng 6, mùa hạ. Lê Quý Đôn, tham chính Hải Dương bị bãi.
Từ khi sang sứ nhà Thanh trở về nước, rồi bổ làm tham chính Hải Dương, Quý
Đôn tự giải bày chín tội, nhưng thực ra là tự kể công lao của mình. Trong lời giải bày
lại nói: "Tôi đem cái thân sống sót ở muôn dặm trở về nước, mà nay xiêu giạt nơi
giang hồ, xin cho tôi được về quê quán". Trịnh Doanh không bằng lòng, nhưng vẫn y
cho.
Quý Đôn nổi tiếng về văn học, vì phải bổ ra làm quan ở ngoài, nên bất đắc chí,
lời nói có giọng oán hờn, đại để cũng như tờ biểu tự trách mình của Bộc Cố Hoài Ân,
nên người có kiến thức lấy làm chê cười.
Lời phê: Học rộng thì có làm gì, chỉ đủ để giúp cho lòng tư của mình, như
hạng Vương An Thạch. Sở dĩ đến như thế, cũng do kiến thức lệch lạc mà ra.
PL258
Lời chua: Quý Đôn tự giãi bày chín tội: Như nói, tôi không đoái thương đến
mẹ già , đem thên theo tiên vương ở nơi hành tại để mộ quân đánh giặc. Đấy là tôi
phạm một tội không trung với nước. Dấn mình vào nơi hàng trận, là vì trong chí
muốn cho nước nhà được yên. Đấy là tôi phạm hai tội không trung với nước. Còn ra
không khảo cứu được. Bài biểu tự trách mình của Bộc Cố Hoài Ân: Đời vua Đại
Tông nhà Đường, Hoài Ân tự nghĩ mình có công to, mà bị người ta gây sự hãm hại,
có ý bực tức oán hờn, bèn dâng tờ biểu tự trách mình có sáu tội: 1. Trước kia, bộ lạc
Đồng La làm phản loạn, tôi vì tiên đế mà quét sạch giặc giã ở Hà Khúc; 2. Con trai
tôi là Phân sa vào tay giặc, khi trốn ra trở về, tôi bắt đem chém, để hiệu lệnh quân sĩ;
3. Con gái tôi vì trong nước hòa thân với Hồi Hột mà đem gả ở nơi xa; 4. Tô cùng
con trai là Dương dốc hết tính mạng vào việc nước; 5. Đất Hà Bắc mới quy thuận
triều đình, tôi vỗ về yên ủi để cho người giáo giở được yên lòng; 6. Tôi dụ dỗ Hồi
Hột, để chúng đem quân đến cứu nạn nước. Tôi chịu sáu tội kể trên, thật đáng muôn
vàn tội trạng” (Quyển XLII, tr. 805).
Việc Lê Quý Đôn được phục chức không phải do giúp triều đình giải được câu
đố của sứ thần nhà Thanh như trong giai thoại Thư mượn áo cầu mà là được chúa
Trịnh ân xá. Xin dẫn ra đây làm minh chứng:
“Tháng 7, mùa thu. Không mưa.
Tháng này, mấy tuần không có mưa, Trịnh Sâm thân hành cầu đảo ở lầu Kính
Thiên, hạ lệnh các quan trong kinh ngoài trấn dâng tờ khải niêm phong trình bày
công việc. Nguyễn Bá Lân dâng tờ khải nói: "Chính sự vua chúa, thông cảm với trời.
Nay vương thượng mới cầm quyền, nên chuộng đều khoan hậu, vậy xin: Lục dụng
Lê Quý Đôn và Phan Cẩn để nâng đỡ người bị oan ức lâu ngày; rộng gia ơn về việc,
chuộc tội, cứu vớt dân xiêu lưu, để dân khỏi đau khổ. Như thế, may ra có thể thu
phục được lòng người, và báo đáp được tội lỗi mà trời quở trách". Trịnh Sâm cho là
phải, bèn khởi phục Lê Quý Đôn giữ chức Thị thư (Chánh lục phẩm, Phan Cẩn giữ
chức Cấp sự trung (Tòng bát phẩm). Sau lại hạ lệnh: Viên trưng phủ ở các phủ đều
tâu bày tình trạng nghèo đói phiêu tán và đau khổ của dân trong hạt; viên quan trong
Ty Hiến sát sứ đi khám xét ruộng bỏ hoang không cày cấy ở dân gian và dò hỏi sự tệ
hại uất ức của dân sở tại, rồi tâu bày để triều đình biết. Một mặt liệu lượng tha thuế tô
cho những nơi bị thiệt hại từ bốn phần trở lên. Lúc ấy, về chính tô và gia tô được tha
tiền hơn một vạn bốn ngàn quan, thóc hơn ba ngàn sọt. Những thuế bỏ thiếu từ năm
Kỷ Mão (1759) trở về trước, đều được tha cả (Quyển XLII, tr.911).
Chính sử phê phán Lê Quý Đôn rất nặng nề về tội trạng ăn hối lộ và lo lót để
được thăng quan tiến chức:
“Tân Mão, năm thứ 32 (1771). (Thanh, năm Càn Long thứ 36).
Bổ dụng. Lê Quý Đông làm tả thị lang bộ Công, quyền giữ chức đô ngự sử.
Trước kia, Quý Đôn làm phó đô ngự sử, thường dùng số bạc đút lót trong khi
xét kiện để dâng chúa Trịnh, bèn được thăng chức Hữu thị lang bộ Hộ. Đến nay,
nhân khi khám xét hạt Thanh Hoa trở về, lại dâng hơn một ngàn lạng bạc đã ăn của
đút, nên do chức Hữu thị lang bộ Hộ thăng lên chức này.
Quý Đôn lại trình bày bốn việc: 1. Cống sĩ thi hội trúng được kỳ đệ tam phần
PL259
nhiều xin lạm sắc nội hoàng gia ơn, nhảy qua tư cách trao chức vượt bậc. Xin xét
thực, bắt trở về bậc cũ; 2. Hiến sát phó sứ và tham nghị là người có chuyên trách ở
một địa phương, thế mà ít lâu nay những bọn cầu may để làm quan phần nhiều không
do các quan trong triều đường bảo cử, chỉ lén lút cầu cạnh để được dự vào sự bổ
dụng. Xin thu hồi lệnh trước, mà cho các quan trong triều đường bảo cử theo như lệ
cũ; 3. Đất bãi ở các lộ xin phái các quan chia nhau đi khám lại; 4. Những dân xã ở
các lộ, trước đây phụng mệnh được miễn trừ, gần đây vì chép lại sổ sách, rồi sinh ra
sự thay đổi thêm bớt gian trá. Xin sai tín thần xét thực để chỉnh đốn lại cho được
đúng". Trịnh Sâm cho là phải lẽ cả, lập tức hạ lệnh thi hành.
Lời phê: Chỉ có tiếng mà không có thực, thì trước kia tự trình bày tội lỗi của
mình, chẳng qua cũng chỉ vì nóng ruột muốn nhảy lên quan to mà thôi” (Quyển
XLIII, tr. 923).
Còn việc Lê Quý Đôn bị giáng chức vì gian lận trong thi cử và táng trộm mồ
mả tổ tiên vào đất quý cũng bị phê phán nặng nề như sau:
“Ất Mùi, năm thứ 36 (1775). (Thanh, năm Càn Long thứ 40).
Tháng 10, mùa đông. Mở khoa thi hội các cống sĩ. Cho bọn Ngô Thế Trị và
Phan Huy Ích 18 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân; xử tội Đinh [Thì] Trung đày đi
Viễn Châu; giam Lê Quý Kiệt vào ngục.
Quý Kiệt con Quý Đôn. Kỳ đệ tứ khoa thi này, Quý Kiệt cùng Đinh [Thì]
Trung đổi quyển cho nhau để làm bài. Việc bị lộ, Đinh [Thì] Trung phải tội lưu đi
Yên Quảng, Quý Kiệt phải trở về làm dân. Đinh [Thì] Trung nhân phát giác bức thư
riêng của Quý Kiệt và cáo tố là do Quý Đôn chủ sự. Trịnh Sâm lấy cớ Quý Đôn là
bậc đại thần, bỏ đi không xét, mà luận thêm tội Quý Kiệt, bắt giam cấm ở ngục ở cửa
Đông.
Lời phê: Hai người cùng một tội mà xử phạt khác nhau, sao gọi là công bằng
thỏa đáng được? Xét hành trạng của Quý Đôn, không có một điều gì đáng khen”
(Quyển XLIV, tr. 937).
Năm 1776, Lê Quý Đôn cũng bị luận tội mặc dù Trịnh Sâm không chuẩn y tờ
sớ này:
“Tháng 4, mùa hạ. Hạn hán. Hạ chiếu cầu người trình bày lời trung thực.
Lúc ấy, luôn mấy năm hạn hán, kém đói, Trịnh Sâm hạ lệnh cho bầy tôi và sĩ
thứ nói thẳng những điều thiếu sót, sai lầm. Lê Thế Toại, tham nghị cũ ở xứ Thanh
Hoa dâng tờ khải, đại lược nói: "Dĩnh Thành hầu Lê Quý Đôn dụng tâm quanh co, bỉ
ổi, mong muốn càn rỡ những điều quá hạn định của mình: nào lập mưu cho con ăn
cắp bài văn thi ở trong trường, nào vụng trộm chiếm nơi cấm địa. Ông Mạnh Tử nói:
"Quan sát con ngươi của từng người, thì người gian người ngay, không thể nào giấu
giếm được". Con người của Lê Quý Đôn lúc nào cũng đưa đẩy lia lịa, nếu dùng
người này giữ chức cao cả tất nhiên làm tai hại cho nhân dân. Kiều Nhạc Hầu
Nguyễn Lệ từ khi được dự vào chính phủ đến nay, chưa nghe mở mang được điều gì
có lợi, trừ bỏ được việc gì có hại, chỉ chuyên dùng mánh khoé khéo léo để mê hoặc
lòng vua chúa; vừa mới bổ ra giữ chức tham đốc xứ Nghệ, mà quá nửa số nhân dân
bị phiêu lưu. Vậy xin: Nghiêm ngặt trị tội Quý Đôn và Nguyễn Lệ, để tạ tội với mọi
PL260
người trong nước, thì tự nhiên được trời mưa". Tờ khảo này không được Trịnh Sâm
trả lời.
Lời chua: Lập mưu cho con ăn ắp văn thi ở trong trường: Kỳ đệ tứ khoa thi
Hội năm Ất Mùi (1775), Quý Đôn nhờ Đinh [Thì] Trung làm bài cho con mình là
Quý Kiệt. Vụng trộm chiếm nơi cấm địa: Quý Đôn táng trộm mả tổ ở cấm địa tại sơn
phận Tả” (Quyển XLV, tr. 945).
- Về nhân vật Đặng Thị Huệ, sử chép như sau:
“Khải, là con Dương thị, một phi tần trong phủ chúa. Theo thể lệ cũ, con chúa
cứ đến 7 tuổi, cho ra ở nhà riêng để học, nếu là con trưởng thì đến 13 tuổi cho mở
phủ đệ và được phong làm thế tử. Nhưng Sâm cho rằng Khải (tên cũ là Tông) không
phải do vợ cả sinh ra, nên không yêu quý, dùng Nguyễn Phương Đĩnh, hoạn quan,
làm bảo phó của Khải. Lúc Khải đã 9 tuổi mới cho đi học, dùng Nguyễn Lệ và Lý
Trần Thản làm tả tư giảng và hữu tư giảng. Chưa được bao lâu, Trần Thản mất,
Nguyễn Lệ cũng ra trấn thủ Sơn Tây, chỉ sai Khải đến ở nhà riêng Nguyễn Phương
Đĩnh, theo thời tiết vào phủ đường triều yết mà thôi. Viên quan trong Ngự sử là
Nguyễn Thưởng và Vũ Huy Đĩnh trước sau nhiều lần xin với Sâm về việc lập thế tử,
đều bị giáng chức. Sau vì Đặng Thị Huệ, một thị nữ được yêu nuông, sinh con là
Cán, Sâm rất yếu quý, sách phong Đặng Thị là Tuyên Phi. Đặng Thị tự gây dựng lấy
bè đảng cho vây cách được dầy dặn, bên ngoài nương nhờ Hoàng Đình Bảo làm viện
trợ, ngầm có ý cướp ngôi thế tử cho Cán. Khải không được yên tâm. Lúc Sâm có
bệnh, nhiều lần Khải đến cửa tẩm thất để vào chầu thăm hỏi, thường bị quân giữ cửa
ngăn cản, không được vào.
Ngoài phủ đường có lời phao đồn là Sâm bị bệnh nặng. Khải bàn mưu với gia
thần là Đàm Xuân Thụ và bọn đầy tớ nhỏ là Thế và Thẩm (hai người đều sót họ)
rằng: "Vương thượng mắc mệnh mà ta không được vào chầu, nếu xảy ra biến cố như
việc tên Cao, tên Tư đã làm ngày trước1, thì toan tính thế nào?". Bọn Xuân Thụ xin
bí mật chứa sẵn binh khí, chiêu mộ dũng sĩ, nếu một ngày kia trong phủ đường có sự
không lành, thì đóng cửa thành lại, giết Đình Bảo, bắt giam Đặng Thị, rồi phi báo
cho quan hai trấn, đem quân vào hộ vệ, thì ngôi chúa có thể vững vàng được. Khải
cho lời bàn ấy là đúng, bèn vay ngầm của nội thị Chu Xuân Hán 1.000 lạng bạc, để
nuôi dũng sĩ và sắm khí giới. Nguyễn Lệ trấn thủ Sơn Tây, từng giữ chức tư giảng
cho Khải, Nguyễn Khắc Tuân trấn thủ Kinh Bắc, là con nuôi Nguyễn Phương Đĩnh,
cùng Khải vốn có tình thân mật, nay đều cho mật báo, để họ sẵn sàng dự bị.
Ngô [Thì] Nhậm, đốc đồng Kinh Bắc, trước kia, giữ việc hàng ngày giảng
nghĩa sách cho Khải, rất được Khải thân yêu kính trọng. Hà Như Sơn, một tên đầy tớ
nhỏ, là học trò [Thì] Nhậm, hiện làm người giữ sách cho Khải. Như Sơn biết được
việc này, đem nói với Nhậm, Nguyễn Huy Bá, cấp sự trung là người giảo hoạt thâm
hiểm, vì tội tham tang, bị bãi chức. Bá cho con dâu vào làm thị tỳ hầu hạ Đặng Thị,
lại sai người thân tín cầu cạnh làm hầu hạ Nguyễn Khắc Tuân, nên dò biết việc này,
bèn vào phủ tố cáo với Đặng Thị. [Thì] Nhậm định tự mình phụ hoạ với Đặng Thị,
bèn cùng Huy Bá hợp mưu cáo tố là Khải lén lút cấu kết với hai viên trấn thủ, mưu
toan làm việc trái phép. Sâm giận lắm, cho triệu Đình Bảo vào phủ bảo về việc này, ý
PL261
Sâm muốn phê phó giao xuống để trị tội ngay. Đình Bảo can rằng: "Khải dám làm
việc to lớn này, chính do viên quan hai trấn ở Tây và Bắc chủ mưu, nay họ đều cầm
quân ở ngoài nếu trị tội một cách vội vàng, e sẽ xảy ra biến cố khác. Vậy chi bằng
trước hết triệu hai viên trấn thủ ấy về triều, rồi sau sẽ dần dà phát giác sự trạng để trị
tội". Sâm nhận là phải, bèn hạ lệnh triệu Nguyễn Lệ trấn thủ Sơn Tây. Khi Lệ về đến
nơi, Sâm yên ủi có phần hơn trước. Cách mấy hôm sau, mật bắt được bè đảng của
Lệ; nhân đấy lại cho triệu Nguyễn Khắc Tuân, trấn thủ Kinh Bắc. Khi Tuân đã về,
bắt giam lại cùng với Nguyễn Lệ và Nguyễn Phương Đĩnh, rồi sai Ngô [Thì] Nhậm
cùng với hoạn quan là Phạm Huy Thức tham dự việc tra hỏi. Gặp lúc ấy, [Thì] Nhậm
vì cha mất, từ chức về, nên đổi sai Lê Quý Đôn tra hỏi lại, bọn Xuân Thụ, Thế và
Thẩm nhận hết tội lỗi. Sâm bèn truất Khải xuống làm con út (quý tử), giam ở nội
phủ. Bọn Xuân Thụ đều bị giết. Nguyễn Lệ và Nguyễn Khắc Tuân bị giam vào ngục.
Phương Đĩnh vì nuôi dưỡng Trịnh Khải không thành công trạng gì, nên bị lột hết
chức tước đuổi về làng. Khắc Tuân và Chu Xuân Hán đều uống thuốc độc chết.
Trịnh Khải đã bị phế, ở ngôi nhà ba gian, ăn uống ra vào không được tự do, người ta
đều lo ngại cho Khải, nhưng không người nào dám nói. Lúc ấy có viên tri châu cũ là
Lê Vĩ, dâng thư biện bạch cho Khải là bị tội oan, nhưng không được Trịnh Sâm xét
đến. Trước kia, Ngô [Thì] Nhậm sắp phát giác tội của Khải, đem việc ấy bàn với cha
Ngô [Thì] Sĩ, Sĩ cố sức can ngăn, đến nổi phải đem cái chết để thề bồi với con,
nhưng chung quy Nhậm vẫn không theo. Kịp khi nghe tin Nhậm đã phát giác việc
ấy, Sĩ buồn bực, bèn uống thuốc độc tự tử. Về phần Nhậm, vì có công phát giác,
được thăng hữu thị lang bộ Công. Lúc ấy người ta có công rằng: "Sát tứ phụ nhi nhị
lang", nghĩa là giết 4 người cha để mà làm thị lang. Câu ấy là có ý khinh bỉ Thì
Nhậm đó.
Lời chua: Ngô [Thì] Nhậm: người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, là
con Ngô [Thì] Sĩ, đỗ tiến sĩ khoa Ất Mùi (1775) năm Cảnh Hưng. Sau thờ nhà Tây
Sơn, làm quan thượng thư bộ Binh; đến năm Gia Long thứ nhất, bị đánh bằng trượng
cho đến chết”. (Quyển XLV, tr.591).
Trong chính sử không thấy chép chuyện thông gian của Đặng Thị Huệ và Quận
Huy như trong giai thoại, chỉ ghi vắn tắt như sau:
“Cán tuy được lập làm chúa, nhưng lòng người không ủng hộ, lại vì Đình Bảo
bè đảng phụ họa với Đặng Thị, nên ai cũng ghét. Họ quần tụ ở đầu đường xó chợ bàn
tán: có người nói Đình Bảo mưu toan làm việc trái phép; có người nói tân vương bị
bệnh nặng, Đình Bảo tư thông với Đặng Thị, lập mưu để giết quý tử. Lời ngoa truyền
phao đi khắp nọi nơi, không sao ngăn cấm được. Dự Vũ, bầy tôi của Khải, lẻn vào
chỗ các quân sĩ uống rượu, nói vụng với quân sĩ rằng: "Thế tử của tiên vương không
tội trạng gì, chỉ vì Đặng Thị là người đàn bà ác nghiệt, làm mê hoặc tiên vương để
cướp ngôi cho con; Đình Bảo vốn có chí làm phản, hắn lợi dụng tân vương còn thơ
ấu để áp chế, nên phụ hoạ với Đặng Thị để thành cái kế cướp ngôi. Nay tân vương bị
bệnh nguy kịch, tất nhiên xảy ra họa loạn. Các quân sĩ đều là người cũ ở nơi thang
mộc, làm nanh vuốt của nước, vốn giữ lòng trung nghĩa, nếu một bụng tôn phò, yên
định được nhà chúa, thì tên tuổi sẽ chép trong thư đỏ, khoán sắt8, công ấycòn gì lớn
PL262
hơn?". Quân sĩ đều tức bực cảm khích, họ ước hẹn nhau hội hợp riêng ở chùa Khán
Sơn, bí mật mưu tính thi hành công việc, nhưng chỉ ngại về uy quyền thế lực của
Đình Bảo, bàn tính chưa nghĩ ra mưu mẹo gì. Lúc ấy, trong chỗ các quân ngồi, có
Nguyễn Bằng, quân lại trong đội Tiệp Bảo, một mình mạnh dạn nói: "Các quân sĩ
nếu định một lòng làm việc này, thì chẳng qua cứ đợi xong lễ tế điện buổi sáng, trong
phủ đường nổi hiệu ba hồi trống, chúng mình sấn đến lôi nó ra quật cho ngã xuống,
thế là xong việc, có gì là khó khăn?". Mọi người đều mừng, bèn cử Nguyễn Bằng
làm người đứng đầu, cùng nhau uống máu ăn thề, bàn tính không dự định nhật kỳ,
chỉ hẹn nhau hễ nghe tiếng trống trong phủ đường, thì nhất tề khời sự.
Mưu mô bí mật đã định xong. Lúc ấy có viên ngoại lang Bùi Bật Trực biết
chuyện, bèn đem việc này bảo cho Nguyễn Trọng Chiểu, là con Nguyễn Trọng Viêm
biết, để Trọng Chiểu dự vào cuộc hợp, mà hắn tự đứng giới thiệu, để mong lập công.
Nhân đấy, Bật Trực bảo các quân sĩ rằng: "Việc này quan hệ rất to, cần phải nhờ
quốc cữu (tức Nguyễn Trọng Viêm, em Trịnh Thái Phi) tâu lên thái phi rõ. Vạn Nhất
mà Đình Bảo biết chuyện, thì cứ nói là có mệnh lệnh bí mật của thái phi, rồi cử sự
một cách minh bạch, như thế là hơn". Quân sĩ theo lời, bọ bèn sai Bật Trực đem việc
này đến nói kính với Trọng Viêm, Trọng Viêm lại đem nói với Nguyễn Hoàn. Hoàn
muốn theo như việc cũ của Trịnh Doanh, xin hạ lệnh cho Khải tạm giữ chính quyền,
để yên lòng quân sĩ. Trọng Viêm vào tâu thái phi Nguyễn Thị, thái phi sai người nói
với Đình Bảo. Đình Bảo nói: "Tiên vương có hai người con, nếu tân vương vì bệnh
không khỏi, thì ngôi báu tự nhiên thuộc quyền quý tử. Còn như việc cho quý tử tạm
giữ chính quyền tức là đi dần đến chỗ cướp ngôi đấy. Tôi vâng nhận lời phó thác của
tiên vương trối lại, việc ấy tôi không dám vâng theo mệnh lệnh". Trọng Viêm e rằng
việc này mà tiết lộ, mình sẽ bị vạ lây, bàn mưu với Nguyễn Hoàn. Nguyễn Hoàn nói:
"Việc đã như thế, để mặc các quân sĩ muốn làm thế nào thì làm". Trong kinh thành
huyên truyền ầm lên rằng: "Tất nhiên quân sĩ gây ra sự biến loạn". Duy Đình Bảo
vẫn yên nhiên, không biết gì cả.
Sáng ngày 24 tháng ấy, Nguyễn Bằng đi tắt lên trên lầu phủ đường, đánh trống,
các quân sĩ họp tập đông đủ, tuốt trần mủi gươm, ồ ạt xông tràn vào. Đình Bảo tay
cầm kiếm, ngồi trên lưng voi, ngăn giữ cửa phủ để đánh chặn lại, quân sĩ tranh nhau
dùng gạch đá ném chết, em Đình Bảo là Vũ Khanh hầu Hoàn Lương cũng bị loạn
quân giết. Quân sĩ bèn đem nhau đến sở giam, phò Trịnh Khải ra ngồi phủ đường, rồi
lấy chỉ dụ của Nguyễn Thái Phi tâu xin mệnh lệnh nhà vua lập Khải làm nguyên soái
Đoan Nam Vương, truất Cán làm Cung quốc công. Sau đó, Cán bị bệnh chết.
Quân sĩ hoành hành cướp bóc, phàm tộc thuộc hai nhà họ Đặng, họ Hoàng và
những nhà trước kia phát giác việc Trịnh Khải, họ cướp phá hầu hết. Kinh thành rối
loạn, mấy hôm sau mới được yên ổn. Quân sĩ cậy công cứ đòi ban thưởng mãi, bèn
bàn định phong Nguyễn Bằng làm suy trung dực vận công thần phong cho tước hầu;
30 người nhóm cuộc hội bàn đầu tiên là bọn quân lại Nguyễn Trù được đặc biệt
thăng thưởng; còn các quân thủy, quân bộ trong kinh ngoài trấn đều được thăng chức
một bậc, và đều được ban thưởng tiền bạc có người nhiều người ít khác nhau. Lại
rộng cấp cho mỗi người một đạo "không đầu sắc", cho phép họ được nhường cho
PL263
thân thuộc, để tỏ ra việc đền công một cách phi thường. Từ đấy, kiêu binh ngày càng
càn rỡ, viên quan cai quản không thể nào thống trị khống chế được, chỉ ràng buộc
lỏng lẻo mà thôi.
Lời phê:
Cuối đời Lê Trịnh, cái tệ kiêu binh lại hơn đời Ngũ Đại, sở dĩ đến như thế đều
là do danh nghĩa chức phận không rõ ràng. Thế mới biết xây dựng một nước mà
không dùng lễ nghĩa” (Quyển XLV, tr.955).
Cái chết của Huệ cũng không giống như trong giai thoại (chết trước bàn thờ
chồng là Trịnh Sâm trong ngày giỗ) mà được mô tả như sau:
“Tháng 12. Quận công Trịnh Kiều, tham tụng Phan Lê Phiên và tri Lại
phiên Nhữ Công Điền đều bị bãi chức.
Trước kia, Trịnh Sâm bị bệnh nặng, cho con là Cán nối ngôi, sai bọn Phan Lê
Phiên viết thư cố mệnh của Trịnh Sâm và chế sách về Tuyên Phi Đặng Thị. Khi thư
cố mệnh đã viết xong, Sâm không thể phê chữ ["Cán"] vào thư được nữa, sai Trịnh
Kiều viết thay. Đến nay, Trịnh Khải đưa thư cố mệnh ấy ra, trong thư có chữ thái phi
Nguyễn Thị phê rằng: "Không phải chữ chính tay tiên vương viết, không lấy gì làm
bằng cứ, giao xuống cho chính phủ bàn luận". Thiêm sai Phạm Nguyễn Du làm lời
luận "quốc thị" đại lược nói: "Việc lập Điện đô vương và hạ lệnh cho Tuyên Phi
cùng xét đoán việc nước, đều là lời trối trăn lầm lẫn trong lúc Thịnh vương sắp mất,
không thể coi là chính đáng được. Nay thái phi lấy địa vị người mẹ thay đỗi việc làm
của con, rất hợp sự lý đúng đắn. Xin truy xét tội bầy tôi phụ họa, làm sáng tỏ nghiêm
chỉnh điển hình trong nước". Vì thế, bọn Trịnh Kiều đều can tội thiên tiện ra mệnh
lệnh, bị bãi chức. Lại truất Đặng Thị làm thứ nhân, sau Đặng Thị uống thuốc chết”
(Quyển XLVI, tr.957).