BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN THƯƠNG

ĐẶC ĐIỂM GIAI THOẠI VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN THƯƠNG

ĐẶC ĐIỂM GIAI THOẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam

Mã số : 62 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. TS. HỒ QUỐC HÙNG

2. TS. TRẦN MINH HƯƠNG

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của tôi.

Các tài liệu, số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng

được ai công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào khác.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm

Người nghiên cứu

Nguyễn Văn Thương

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cảm ơn

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các bảng

Danh mục các sơ đồ

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU GIAI THOẠI

VÀ TƯ LIỆU GIAI THOẠI VIỆT NAM ........................................... 5

1.1. Tình hình nghiên cứu giai thoại ........................................................................... 5

1.1.1. Giai thoại - thuật ngữ và quan niệm ............................................................ 5

1.1.2. Đặc điểm thể loại của giai thoại ................................................................ 19

1.1.3. Một số khía cạnh thi pháp thể loại của giai thoại ...................................... 23

1.1.4. Phân định ranh giới và vấn đề chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và

các thể loại của tự sự dân gian .................................................................. 28

1.1.5. Phân loại giai thoại .................................................................................... 32

1.2. Tình hình tư liệu, đánh giá và xử lý tư liệu giai thoại Việt Nam ...................... 40

1.2.1. Tình hình tư liệu giai thoại Việt Nam ....................................................... 40

1.2.2. Đánh giá tư liệu và vấn đề xử lý tư liệu giai thoại Việt Nam ................... 52

Tiểu kết Chương 1 .................................................................................................... 57

Chương 2. ĐỊNH VỊ THỂ LOẠI GIAI THOẠI VIỆT NAM ............................. 58

2.1. Các tiêu chí xác định giai thoại Việt Nam ......................................................... 58

2.1.1. Đề tài của giai thoại .................................................................................... 59

2.1.2. Nhân vật của giai thoại ............................................................................... 66

2.1.3. Cảm hứng của giai thoại ............................................................................. 68

2.2. Phân loại giai thoại Việt Nam ............................................................................ 71

2.2.1. Phân loại giai thoại Việt Nam theo tiêu chí đề tài ...................................... 71

2.2.2. Phân loại giai thoại Việt Nam theo tiêu chí nhân vật ................................. 73

2.3. Đặc trưng thể loại và khái niệm giai thoại Việt Nam ........................................ 76

2.3.1. Đặc trưng thể loại của giai thoại Việt Nam ................................................ 76

2.3.2. Khái niệm giai thoại ................................................................................... 96

Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................... 99

Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN ĐẶC TRƯNG THI PHÁP

THỂ LOẠI CỦA GIAI THOẠI VIỆT NAM ..................................................... 100

3.1. Kết cấu của giai thoại....................................................................................... 100

3.1.1. Kết cấu của giai thoại văn học.................................................................. 101

3.1.2. Kết cấu của giai thoại văn hóa dân gian ................................................... 115

3.2. Nhân vật của giai thoại .................................................................................... 124

3.2.1. Nhân vật của giai thoại văn học ............................................................... 127

3.2.2. Nhân vật của giai thoại văn hóa dân gian ................................................. 135

Tiểu kết chương 3 ................................................................................................... 147

Chương 4. MỐI QUAN HỆ GIỮA GIAI THOẠI VIỆT NAM VÀ

CÁC THỂ LOẠI TRONG TỰ SỰ DÂN GIAN, LỊCH SỬ, VĂN HỌC ........ 148

4.1. Mối quan hệ giữa giai thoại và các thể loại trong tự sự dân gian .................... 149

4.1.1. Mối quan hệ giữa giai thoại và truyền thuyết ........................................... 149

4.1.2. Mối quan hệ giữa giai thoại và truyện cười ............................................. 162

4.1.3. Mối quan hệ giữa giai thoại và cổ tích ..................................................... 169

4.2. Mối quan hệ giữa giai thoại và lịch sử ............................................................. 172

4.2.1. Lịch sử là cội nguồn sản sinh giai thoại ................................................... 173

4.2.2. Giai thoại bổ khuyết cho lịch sử ............................................................... 174

4.3. Mối quan hệ giữa giai thoại và văn học thành văn .......................................... 180

4.3.1. Sự tương tác giữa tính dân gian và tính bác học trong giai thoại ............ 180

4.3.2. Lý giải sự tương tác giữa tính dân gian và tính bác học trong

giai thoại ............................................................................................................. 184

Tiểu kết chương 4 ................................................................................................... 187

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 188

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 191

PHỤ LỤC

QUY ƯỚC VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

Trong luận án này, chúng tôi dùng quy ước viết tắt đối với một số từ ngữ

dùng nhiều lần như sau:

1. Nhân vật chính: NVC

2. Nhân vật đối thủ: NVĐT

3. Trang: tr.

4. Giáo sư: GS

5. Phó giáo sư: PGS

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. So sánh truyện cười và truyện trạng của Trần Thanh Mại ...................... 28

Bảng 1.2. So sánh giai thoại lịch sử và truyền thuyết lịch sử .................................. 29

Bảng 1.3. Tình hình giới thiệu và nghiên cứu giai thoại Viêt Nam ........................ 52

Bảng 2.1. Đề tài trong giai thoại Việt Nam ............................................................. 59

Bảng 2.2. Kết quả thống kê các hoạt động chủ yếu trong giai thoại Việt Nam ...... 60

Bảng 2.3. Kết quả khảo sát cảm hứng trong giai thoại Việt Nam ........................... 68

Bảng 2.4. Tính chất sự việc trong giai thoại Việt Nam ........................................... 75

Sơ đồ 2.5. Khuynh hướng lịch sử hóa trong sáng tạo giai thoại Việt Nam .............. 83

Sơ đồ 2.6. Khuynh hướng địa phương hóa trong sáng tạo giai thoại Việt Nam ...... 83

Bảng 3.1. Khung kết cấu của giai thoại Việt Nam ................................................ 101

Bảng 3.2. Mô hình kết cấu của giai thoại thách đố văn chương ............................ 102

Bảng 3.3. Cấu tạo của motif thách đố văn chương ................................................ 102

Bảng 3.4. Mô hình kết cấu của nhóm giai thoại ứng tác văn chương ................... 109

Bảng 3.5. Cấu tạo của motif ứng tác văn chương .................................................. 110

Bảng 3.6. Hệ thống truyện và nhân vật của giai thoại văn hóa dân gian............... 115

Bảng 3.7. Mô hình kết cấu của nhóm giai thoại văn nghệ dân gian ...................... 115

Bảng 3.8. Cấu tạo của motif thách đố về hò hát của nhóm giai thoại văn nghệ

dân gian ................................................................................................. 116

Bảng 3.9. Thống kê các kiểu nhân vật trong giai thoại Việt Nam ......................... 125

Bảng 4.1. Công thức sinh thức sinh nở thẩn kỳ trong tự sự dân gian.................... 153

Bảng 4.2. Nhân vật chuyển hóa từ giai thoại sang truyền thuyết .......................... 158

Bảng 4.3. So sánh giữa giai thoại và truyện cười .................................................. 163

Bảng 4.4. So sánh tư duy phản ánh nhân vật trong giai thoại và sử

quan phương ........................................................................................................... 175

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1.1. Phân loại giai thoại Việt Nam của tác giả Kiều Thu Hoạch ................ 33

Sơ đồ 1.2. Giai thoại Việt Nam phân loại theo tiêu chí thuộc văn học và

không thuộc văn học ............................................................................. 35

Sơ đồ 1.3. Giai thoại Việt Nam phân loại theo tiêu chí đề tài ................................ 37

Sơ đồ 2.1. Giai thoại Việt Nam phân loại theo tiêu chí đề tài (ở hai cấp độ) ........ 72

Sơ đồ 2.2. Sự trùng lặp của giai thoại văn học khi phân loại theo tiêu chí

nhân vật ................................................................................................. 72

Sơ đồ 2.3. Giai thoại văn học Việt Nam phân loại theo tiêu chí nhân vật ............. 74

Sở đồ 2.4. Khuynh hướng dân tộc hóa trong sáng tạo giai thoại Việt Nam .......... 82

Sơ đồ 3.1. Mô hình tình huống đối đáp liên hoàn ................................................ 117

Sơ đồ 4.1. Motif sinh nở thần kỳ trong truyền thuyết anh hùng chiến trận ......... 152

Sơ đồ 4.2. Motif sinh nở thần kỳ trong truyền thuyết anh hùng văn hóa ............. 152

Sơ đồ 4.3. Motif sinh nở thần kỳ trong giai thoại ................................................ 152

Sơ đồ 4.4. Sự chuyển hóa hình thức câu đố từ cổ tích sang giai thoại ................. 171

Sơ đồ 4.5. Quy luật chuyển hóa thể loại từ cổ tích sang giai thoại ...................... 172

Sơ đồ 4.6. Sự tác động của sử quan phương lên giai thoại .................................. 179

Sơ đồ 4.7. Sự tác động của giai thoại lên sử quan phương .................................. 180

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Nghiên cứu văn học dân gian dưới góc độ thể loại từ lâu là nhiệm vụ quan trọng

của folklore học. Điều này không chỉ có nghĩa trong việc xác định bản chất, đặc trưng

của từng thể loại mà còn cung cấp cho chúng ta một cái nhìn toàn diện trong sự đối

sánh mang tính quy luật vận động với các thể loại tương cận trong cùng một loại hình,

hệ thống. Khuynh hướng tiếp cận theo hướng thể loại đã giúp các nhà nghiên cứu bóc

tách, chỉ ra được những cấu trúc đặc trưng cơ bản của các thể loại trong tự sự dân gian

ở Việt Nam như truyền thuyết, cổ tích, sử thi, truyện cười, ngụ ngôn,... Những thành

tựu nghiên cứu lý thuyết thể loại vì thế giữ một vai trò quan trọng hình thành khung

tham chiếu hữu ích không chỉ gói gọn phạm vi folklore mà còn có những tác động nhất

định đến những ngành nghiên cứu tương cận với nó trong mối quan hệ liên ngành.

Theo nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh, ở Việt Nam, việc sưu tầm, giới thiệu và

nghiên cứu về giai thoại đã trải qua hơn một thế kỷ. Tuy nhiên, thực tế vẫn tồn tại một

sự thật khách quan là các công trình tuyển chọn, giới thiệu về giai thoại Việt Nam

ngày càng đa dạng, phong phú bao nhiêu, thì lý thuyết nghiên cứu về thể loại này vẫn

còn đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết cho các nhà nghiên cứu.

Và vì vậy, những nhận xét, đánh giá về thể loại này mang tính gợi mở cho các

công trình nghiên cứu chuyên sâu về sau; chẳng hạn như: giai thoại là thể loại thuộc

văn học dân gian hay văn học viết; quan hệ giữa chúng thế nào; đặc điểm và bản chất

thể loại của giai thoại là gì,... vẫn luôn là vấn đề đáng quan tâm. Khoảng trống lý luận

đó làm nảy sinh nhiều câu hỏi lý thú về thể loại giai thoại, đòi hỏi những người nghiên

cứu tiếp tục tìm hiểu nhằm xác định sự hiện tồn của giai thoại trong hệ thống tự sự dân

gian Việt Nam với tư cách là một thể loại. Điều này mở ra những gợi ý cho quá trình

nghiên cứu giai thoại ở đề tài chúng tôi thực hiện. Mặt khác, việc nghiên cứu giai thoại

có thể giúp ích cho sự tham khảo, học tập cho sinh viên Đại học và Sau đại học thuộc

chuyên ngành Ngữ văn. Đó là ý nghĩa thực tiễn thiết thực của đề tài.

Xuất phát từ những yêu cầu thiết yếu về mặt lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi

đã mạnh dạn chọn đề tài Đặc điểm giai thoại Việt Nam làm đề tài nghiên cứu của luận

án. Từ góc nhìn thực tế giai thoại này có thể xem lại những tương đồng, dị biệt của các

hướng tiếp cận thể loại trong và ngoài nước để hiểu sâu hơn lý thuyết thể loại. Đấy là

định hướng khoa học của đề tài.

2. Mục đích nghiên cứu

Như vậy, những vẫn đề mà luận án cần thực hiện là:

2

- Xây dựng cơ sở khoa học để xác định thể loại giai thoại;

- Đưa ra một khái niệm giai thoại bao hàm các đặc trưng hình thức, nội dung

cũng như các tiểu loại của giai thoại (hiện có trong kho tàng giai thoại Việt Nam);

- Định vị giai thoại trong hệ thống tự sự dân gian;

- Đi sâu nghiên cứu thêm hai kiểu nhân vật của giai thoại Việt Nam mà các nhà

nghiên cứu chưa đề cập là: nhân vật nghệ nhân dân gian và nhân vật nhà nho tài tử;

- Khảo sát kết cấu của giai thoại theo hướng nghiên cứu motif, điều mà các nhà

nghiên cứu đi trước thể hiện chưa rõ.

3. Đối tượng nghiên cứu

Từ mục đích trên, có thể xác định khách thể nghiên cứu chính là hệ thống giai

thoại người Việt qua các thời đại. Nhưng đối tượng chính của nhiệm vụ nghiên cứu là

tập trung vào đặc trưng và bản chất thể loại giai thoại.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trong luận án này, chúng tôi cố gắng đạt được những nhiệm vụ nghiên cứu chính

sau đây:

- Dựa vào thành quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước, luận án hướng

tới phân loại giai thoại;

- Xây dựng hệ thống tiêu chí nhằm xác định thể loại giai thoại: giai thoại là một

thể loại nằm trong tự sự dân gian;

- Chỉ ra các đặc trưng thể loại của giai thoại;

- Phân tích mô hình kết cấu, các tình tiết chính tạo nên cốt truyện và hệ thống

nhân vật của các tiểu loại cơ bản của giai thoại.

5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

- Đề tài tập trung vào tìm hiểu hệ thống các tác phẩm tự sự dân gian được xem là

giai thoại người Việt trên cơ sở nguồn tư liệu bằng văn bản từ trước đến nay.

- Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung chủ yếu vào 3 tiểu loại của giai thoại

là: giai thoại văn học, giai thoại văn hóa dân gian và giai thoại lịch sử đã được các nhà

nghiên cứu trước đây khảo cứu. Theo đó, đề tài sẽ đi sâu nghiên cứu một số vấn đề sau

đây: Đưa ra bộ tiêu chí xác định thể loại giai thoại; đặc trưng và bản chất thể loại giai

thoại; chỉ ra được đặc trưng về kết cấu và các kiểu loại nhân vật chính yếu của giai

thoại. Các công trình giai thoại chủ yếu mà luận án khảo sát gồm:

+ Giai thoại văn học Việt Nam [65] của nhóm Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc

Phách, Kiều Thu Hoạch;

3

+ Giai thoại văn học Việt Nam (Tổng tập Văn học dân gian Việt Nam, Tập 11)

[67] của Kiều Thu Hoạch;

+ Kho tàng giai thoại Việt Nam (2 tập) [89] và Giai thoại folklore Việt Nam [91]

của Vũ Ngọc Khánh;

+ Giai thoại văn hoá dân gian người Việt [114] của Triều Nguyên;

+ Giai thoại làng Nho [34] của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc;

+ Giai thoại Nguyễn Công Trứ [58] của Phan Thư Hiền.

6. Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết những vấn đề có liên quan đến luận án, chúng tôi sử dụng những

phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:

6.1. Phương pháp loại hình lịch sử

Nghiên cứu sự vận động của loại hình trong tiến trình của lịch sử. Nó thay đổi

như thế nào trong quá trình ấy. Phương pháp này giúp cho việc lý giải một số đặc

trưng về nội dung và hình thức có tính hỗn dung của giai thoại.

6.2. Phương pháp thống kê, mô tả

Căn cứ vào số liệu thống kê để xác lập sự tồn tại của các tình tiết tiêu biểu trong

hệ thống giai thoại cũng như từng tiểu loại của nó, luận án sẽ mô tả kết cấu, đặc điểm

nội dung của từng tiểu loại cũng như từng mảng, nhóm truyện tiêu biểu của giai thoại.

6.3. Phương pháp nghiên cứu liên ngành

Đây là phương pháp nghiên cứu rất quan trọng, giúp luận án tiếp cận, lý giải một

số vấn đề còn nhập nhằng về ranh giới thể loại và cơ sở hình thành kiểu nhân vật giai

thoại. Chẳng hạn, việc hình thành các kiểu nhân vật tiêu biểu của giai thoại (nhân vật

trí thức khoa bảng, nhân vật ngông, nhân vật nghệ nhân dân gian, nhân vật đạo

đức,…). Theo đó, các bộ môn liên ngành mà chúng tôi vận dụng để giải quyết các vấn

đề đặt ra trong luận án là: lịch sử, văn hóa học, triết học,…

7. Đóng góp mới của đề tài

Đề tài sẽ có những đóng góp cụ thể như sau:

- Xây dựng khung tiêu chí nhằm xác định thể loại giai thoại;

- Hệ thống hóa và phân loại giai thoại;

- Xác định đặc trưng và bản chất thể loại giai thoại;

- Chỉ ra mối quan hệ của giai thoại với tự sự dân gian cũng như với văn học và

lịch sử.

4

8. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án gồm 4 chương:

Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu giai thoại và tư liệu giai thoại Việt

Nam.

Chương 2: Định vị thể loại giai thoại Việt Nam

Chương 3: Một số phương diện đặc trưng thi pháp thể loại của giai thoại

Việt Nam.

Chương 4: Mối quan hệ giữa giai thoại Việt Nam với các thể loại trong tự sự dân

gian, lịch sử và văn học.

5

Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU GIAI

THOẠI VÀ TƯ LIỆU GIAI THOẠI VIỆT NAM

Trong giới nghiên cứu folklore thế giới, giai thoại từ lâu đã được quan tâm

nghiên cứu. Ở những nước có nền folklore phát triển như Phần Lan, Nga, Pháp, Đức,

Hoa Kỳ,... giai thoại đều được khảo sát sâu và đạt được nhiều thành tựu đáng tham

khảo. Ở nước ta, giai thoại là một thể loại được thừa nhận khá muộn màng trong giới

nghiên cứu folklore. Mặc dù đã có nhiều công trình tuyển chọn, nghiên cứu nhưng đến

nay vẫn chưa có sự nhất trí cao từ phía các nhà nghiên cứu ở một số đặc điểm cơ bản

của thể loại. Như vậy, trên thực tế, các vấn đề về lý thuyết thể loại ở phương Tây mặt

nào đó có thể chưa hẳn phù hợp với thực tế giai thoại ở Việt Nam. Bởi vậy, việc khảo

sát lại toàn bộ vấn đề trên phải bắt đầu từ các quan niệm và đánh giá như: định nghĩa,

phân loại, các bình diện thi pháp,... Ở đây, chúng tôi bước đầu điểm qua một số ý kiến

quan trọng từ các công trình đó. Những đánh giá dưới đây của chúng tôi về mặt thể

loại được xem như tiền giả định, nhằm sàng lọc đối tượng khảo sát hơn là định danh

thể loại cho các tư liệu.

1.1. Tình hình nghiên cứu giai thoại

1.1.1. Giai thoại - thuật ngữ và quan niệm

Trước khi đi vào vấn đề quan niệm, xin điểm qua vài nét về nguồn gốc thuật ngữ

giai thoại ở châu Âu cũng như tình hình sưu tầm, giới thiệu giai thoại đã diễn ra như

thế nào (qua một số quốc gia tiêu biểu). Ở phương Tây, về nguồn gốc thuật ngữ

“Anecdote”, trong tiếng Anh có nguồn gốc từ tiếng “Anekdotos”, gốc Hy Lạp và tiếng

“Anecdota” (có cách viết khác là “Anekdota”), gốc La tinh, có nghĩa gốc là không/

chưa công bố. Theo tác giả Tamarchenko (người Nga) trong bài viết Giai thoại là gì?,

thuật ngữ giai thoại “có gốc gác từ cuốn “Mật sử” của Procopius Caesarensis (một

tác phẩm còn đang có nhiều tranh cãi, được viết vào những năm 550)” [132].

Tác giả Lionel Gossman – nhà nghiên cứu người Mỹ (gốc Scotland) trong bài

viết Giai thoại và lịch sử (Anecdote and history) [179] nói rõ hơn thời điểm xuất hiện

của thuật ngữ giai thoại ở Châu Âu. Theo đó, thuật ngữ “Anecdota” (với ý nghĩa cốt

lõi là “chưa được xuất bản”) thực ra đã xuất hiện từ thời cổ đại qua các tác phẩm của

Ciero, Diodorus Siculus – những sử gia người Hy Lạp. Tuy xuất hiện sớm như vậy

nhưng phải đến năm 1623, thuật ngữ này mới chính thức được sử dụng trong một văn

bản của bộ Suda, một bách khoa toàn thư của nhà thờ Vatican, nước Ý. Trong những

năm từ 1697 đến 1713, Ludovico Mutatori – một học giả Khai sáng người Ý đã xuất

bản 2 cuốn sách có tiêu đề giai thoại. Đó là Anecdota Latina (Giai thoại Latina) và

6

Anecdota Graeca (Giai thoại Graeca).

Ở Pháp, thuật ngữ giai thoại được sử dụng chính thức vào năm 1650. Kèm theo

đó, các sách dưới nhan đề giai thoại (chủ yếu là giai thoại lịch sử) liên tiếp được xuất

bản. Có thể dẫn ra như: Anecdotes des Républiques (Giai thoại của các nước Cộng

hòa) (1771), Anecdotes Arabes et Musulmanes (Giai thoại người Ả Rập và người Hồi

giáo) (1772), Anecdotes Espagnoles et Portugaises depuis l’origine de la nation

jusqu’à nos jours (Giai thoại Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha từ thời lập quốc cho đến

ngày nay) (1773), Anecdotes Américaines (Giai thoại Hoa Kỳ) (1776),... Cũng theo

Gossman, ở Hoa Kỳ, trong khoảng thời gian từ 1750 đến 1830, danh mục của thư viện

Firestone, Đại học Princeton liệt kê hơn 200 đầu sách được xuất bản với các tiêu đề có

liên quan đến giai thoại. Ví dụ, Anecdotes Africaines (Giai thoại Châu Phi), Anecdotes

Américaines (Giai thoại Hoa Kỳ),...

Còn ở nước Anh, thuật ngữ này xuất hiện muộn hơn. Một trong những cuốn sách

giới thiệu giai thoại đầu tiên được xuất bản là quyển Biographical and literary

anecdotes of William Bowyer (Tiểu sử và giai thoại văn học của William Bowyer)

[183] của John Nichols, xuất bản lần đầu vào năm 1782, cả thảy có 6 tập. Đến năm

1812 trở đi, sách này được tái bản lại với các ấn bản khác nhau (7 tập, 9 tập) với tên

gọi khác là Literary anecdotes of the eighteenth century (Giai thoại văn học của thế kỷ

XVIII) [184]. Vào năm 1821, một quyển sách khác với tiêu đề giai thoại cũng đã được

xuất bản, đó là cuốn The Percy anecdotes: Original and select (Giai thoại Percy:

Nguyên bản và chọn lọc) [185] (các ấn bản tiếp theo xuất bản vào các năm 1830, 1868,

1869). Các tập sách được phát hành thành 44 phần hằng tháng, do Sholto và Reuben

Percy sưu tầm, tập hợp những giai thoại đã được đăng tải trên thờ báo The Star trong

nhiều năm.

Quyển sách trên cũng được phát hành ở Mỹ với những ấn bản khác. Ví dụ, The

Percy anecdotes, revised edition: To which is added, a valuable collection of

American anecdotes, original and select (Giai thoại Percy, ấn bản sửa đổi: Có bổ

sung, một bộ sưu tập có giá trị của các giai thoại Hoa Kỳ, nguyên bản và chọn lọc)

(New York: Harper & Brothers, 1838) [186]; The Percy anecdotes: To which is added

a valuable collection of American anecdotes, original and select (Giai thoại Percy: Có

bổ sung thêm một bộ sưu tập có giá trị về các giai thoại Hoa Kỳ, nguyên bản và chọn

lọc) (New York: Harper & Brothers, 1845);...) [187].

Ở trên, chúng tôi vừa điểm qua nguồn gốc của thuật ngữ giai thoại cũng như vấn

đề giới thiệu tác phẩm giai thoại ở một số nước châu Âu, Hoa Kỳ. Đến đây, luận án sẽ

7

điểm qua vài nét về quan niệm giai thoại trong một số từ điển cũng như một số nhà

nghiên cứu trên thế giới. Nhìn chung, hầu hết các tác giả đều ít nhiều nhấn mạnh đến ý

nghĩa gốc của giai thoại – tính chất “chưa được công bố” của nó. Theo Tamarchenko,

Từ điển tiếng Anh (1775) của Samuel Johnson từng giải thích: “Giai thoại là câu

chuyện chưa được công bố”, có nghĩa, đó là chuyện riêng tư của nhân vật quan

phương” [132]. Còn Từ điển Oxford cũng định nghĩa giai thoại là: “Những câu

chuyện hoặc chi tiết lịch sử bí mật, riêng tư hoặc cho đến nay chưa được công bố cũng

như câu chuyện về một sự việc tách rời, hoặc về một sự kiện đơn lẻ, được xem là thú vị

hoặc nổi bật” (Dẫn theo Gossman, “Giai thoại và lịch sử”, [179, tr.148]).

Tác giả Nicolaisen – một nhà nghiên cứu văn hóa dân gian người Đức trong bài

viết Giai thoại (Anecdote) ngoài việc nhấn mạnh đến nét nghĩa “chưa công bố”,

“không được nói ra”, còn chỉ ra tính chất “sự cố có tính đại diện cho cá nhân hoặc

cộng đồng” của giai thoại. Tác giả viết: “Giai thoại là những truyện kể tập trung vào

các sự cố có tính đại diện cho cá nhân hoặc cộng đồng được nêu đích danh”. Do từ

nguyên của thuật ngữ này đã ám chỉ nghĩa “những chuyện chưa được công bố” (tiếng

La tinh Anecdota) và cũng có nghĩa “không được nói ra” (mượn từ khái niệm

Anekdotos của Hy Lạp) nên giai thoại có mối quan hệ gần với truyền thống truyền

miệng” [107]. Còn tác giả Lionel Gossman trong bài viết Giai thoại và lịch sử

(Anecdote and history), ở mục IV. Thời điểm được sử dụng của giai thoại, đã chỉ ra

hai nét nghĩa quan trọng của giai loại là: 1. Bất kỳ tác phẩm nào, thuộc thể loại nào

chưa được xuất bản và 2. Giai thoại là “lịch sử bí mật” (hay mật sử) [179].

Như vậy, quan niệm về giai thoại của các nhà nghiên cứu ở Châu Âu nổi lên hai

điểm đáng chú ý: 1. Giai thoại là những câu chuyện chưa được công bố; 2. Giai thoại

là lịch sử bí mật. Dù xuất hiện từ khá sớm trong văn hóa châu Âu, nhưng không phải

ngay từ lúc đầu, giai thoại đã được các nhà nghiên cứu quan tâm đúng mức. Bởi lẽ,

giai thoại có thực sự là một thể loại hay không vẫn còn là một câu hỏi lớn vào thời

điểm xuất hiện của nó. Ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII, giai thoại chủ yếu được nhìn

nhận ở khía cạnh văn học và lịch sử. Một trong những luận án đầu tiên ở châu Âu trực

tiếp bàn về giai thoại là công trình A dissertation on Anecdotes (Luận văn về giai

thoại, 1793) [172] của Isaac D’Israeli – một tác giả người Anh (gốc Do Thái). “Trong

đó, ông thể hiện sự quan tâm của mình đối với lịch sử giai thoại. Ông viết về nguồn

gốc và bản chất của giai thoại và cho rằng chúng không chỉ là một phần thú vị của

văn học mà còn cung cấp một số sự thật nhất định về con người và thời đại của họ.

“Những giai thoại – ông ấy viết – là những phần dễ hiểu nhất của lịch sử” (Dẫn lại từ

8

bài giới thiệu “Isaac D’Israeli's Literary Works” (Tác phẩm văn học của Isaac

D’Israeli), The Victorian Web, http://www.victorianweb.org/, [171]). Như vậy, từ cuối

thế kỷ XVIII, giai thoại đã được chú ý ở góc độ văn học và lịch sử. Và chính những

gợi ý của tác giả trong công trình này đã có ít nhiều tác động đến hướng nghiên cứu

giai thoại ở các giai đoạn về sau.

Khuynh hướng thứ hai xác lập sự tồn tại của thể loại giai thoại ở châu Âu là sự

quan tâm của các nhà nghiên cứu folklore. Ở khuynh hướng này, giai thoại được xem

là một thể loại của tự sự dân gian (hoặc là một tiểu loại của cổ tích) qua quan niệm của

các nhà nghiên cứu nổi tiếng như Aarne (The types of the folklore: A classitification

and bibliography, Các loại truyện dân gian: Phân loại và thư mục, 1910) [169]; V.

Propp (Folklore và thực tại – 1963) [44]; Guxev (Mỹ học folkore, 1967) [51];...

Khuynh hướng thứ ba trong nghiên cứu về giai thoại là khuynh hướng nghiên

cứu mối quan hệ giữa giai thoại và lịch sử của trường phái Chủ nghĩa Lịch sử Mới.

Trường phái này xuất phát từ nước Pháp, sau đó lan tỏa sang các nước châu Âu cũng

như Hoa Kỳ. Theo Lionel Gossman (“Giai thoại và lịch sử” [179]), ở Đức, từ giữa thế

kỷ XIX, đã có hàng loạt những công trình bàn về mối quan hệ giữa giai thoại và lịch

sử. Tiêu biểu có thể kể ra là: Lý thuyết giai thoại Đức (in trong Câu chuyện ngắn, hình

thức và sự phát triển của chúng, Klaus Doderer, 1953); Giai thoại – phản giai thoại:

Về sự thay đổi của một hình thức văn học hiện nay (Water Ernst Schäfer, 1977); Giai

thoại: Lý thuyết, phân tích, biện chứng (Rudolf Schäfer, 1982); Giai thoại (Heinz

Grothe, 1984); Giai thoại – câu chuyện khác (Volker Weber, 1993); Kể chuyện giai

thoại trong thời đại Khai sáng: Về sự thay đổi cấu trúc và chức năng thể loại trong sử

học, báo chí và văn học thế kỷ XVIII (Sonja Hilzinger, 1997),...

Đến những năm 80 thế kỷ trước, trường phái này có những tác động đến giới

nghiên cứu Hoa Kỳ, trong đó có thể kể ra một số tác giả tiêu biểu như Stephen

Greenblatt, Joel Fineman, April London, Jane Gallop,... Một trong những bài viết tiêu

biểu và quan trọng nhất, góp phần đặt nền móng cho lý thuyết về giai thoại của Chủ

nghĩa Lịch sử Mới là bài viết The history of the Anecdote: Fiction and fiction (Lịch sử

của giai thoại: Hư cấu và hư cấu, in trong The New Historicism, 1989) [176] của tác

giả Joel Fineman.

Quan điểm cốt lõi của trường phái Chủ nghĩa Lịch sử Mới là các tác giả thừa

nhận và tập trung sự chú ý vào yếu tố lịch sử của giai thoại (sự kiện, nhân vật, thời

đại,...). Theo đó, các nhà nghiên cứu nhấn mạnh vào tính chất ngẫu nhiên của tình

huống: “Các giai thoại sau đó là một trong những sản phẩm chính của công nghệ đại

9

diện cho một nền văn hóa, trung gian giữa sự liên tiếp không phân biệt của các

khoảnh khắc địa phương và một chiến lược lớn hơn mà họ chỉ có thể thực hiện. Chúng

(tức các giai thoại – chúng tôi nhấn mạnh) bị cuốn theo vòng xoáy của kinh nghiệm và

được tạo ra một số hình dạng, một hình dạng mà tạm thời vẫn đánh giá đó là ngẫu

nhiên – nếu không, chúng tôi sẽ đặt cho chúng một cái tên lớn hơn, hay hơn của lịch

sử – nhưng cũng chỉ để chúng có thể được kể lại mà thôi” (Những điều kỳ diệu,

Stephen Greenblatt, 1991, tr.3). (Dẫn theo Paul Fleming, “The perfect story: Anecdote

and exemplarity in Linnaeus and Blumenberg”, Câu chuyện hoàn hảo: Giai thoại và sự

mẫu mực ở Linnaeus và Blumenberg, [177]).

Ngoài hai hướng nghiên cứu giai thoại trong mối quan hệ với văn học dân gian

và lịch sử nói trên thì cũng có hướng nghiên cứu khác. Đó là đặt giai thoại trong mối

quan hệ với văn học viết và văn hóa học. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu mối quan hệ

giữa giai thoại và văn học viết là tác giả Richard Coe (Úc) với bài viết The anecdote

and the novel: A brief inquiry into the origins of Stendhal’s narrative technique (Giai

thoại và tiểu thuyết: Một nghiên cứu ngắn gọn về nguồn gốc nghệ thuật tự sự của

Stendhal, 1985) [170]. Các nhà nghiên cứu phương Tây quan niệm giai thoại như là

chất liệu để các nhà văn có thể dựa vào đó mà sáng tác nên những tác phẩm văn học

như tiểu thuyết, truyện ngắn, tự truyện,... Tiêu biểu cho khuynh hướng này là cuốn Lý

thuyết giai thoại (Anecdotal theory, Duke University Press, 2002) [178] của Jane

Gallop. Đây là một tác phẩm độc đáo, được viết theo lối tự truyện, trong đó Gallop

(một nhà nghiên cứu theo trường phái nữ quyền của Hoa Kỳ) kể lại các câu chuyện

của đời mình. Bà soi chiếu những câu chuyện đó bằng lý thuyết phân tâm học của

Freud, Lacan và từ đó khái quát nên lý thuyết về giai thoại. Gần đây, cũng xuất hiện

một hướng nghiên cứu hoàn toàn mới mẻ, mang tính chất liên ngành về giai thoại. Đó

là công trình The use of the anecdote in the critical study of aboriginal literature

(2009) [182] (Vấn đề sử dụng giai thoại trong nghiên cứu phê bình văn học thổ dân)

của tác giả Robyn Moore. Trong công trình này, tác giả đề xuất áp dụng một số lý

thuyết như bối cảnh, văn hóa học,... để có thể tiếp cận và lý giải văn học thổ dân thông

qua thể loại giai thoại được lưu truyền trong cộng đồng của người bản địa.

Trên đây, chúng tôi vừa điểm qua quan niệm, tư liệu và một số hướng nghiên cứu

tiêu biểu về giai thoại ở một số nước trên thế giới. Sau đây, luận án xin điểm qua vài

nét sơ lược về quan niệm giai thoại cũng như tình hình nghiên cứu giai thoại ở một số

nước phương Đông, tiêu biểu là Trung Quốc và Việt Nam. Ở Trung Quốc, thuật ngữ

giai thoại thường được hiểu theo nghĩa chiết tự. Giai có nghĩa là đẹp, thoại là câu

10

chuyện. Như vậy, giai thoại hiểu theo nghĩa chung nhất là những câu chuyện đẹp, thú

vị. Thuật ngữ giai thoại đã được sử dụng khá lâu. Theo tư liệu của PGS Vũ Ngọc

Khánh, từ thời Đường – Tống, thuật ngữ này đã được sử dụng để đặt tên cho những

quyển sách tập hợp những câu chuyện xoay quanh các văn nhân, thi sĩ dưới các tiêu đề

văn thoại, thi thoại, nhưng chưa thấy nêu vấn đề lý thuyết thể loại. Ở Việt Nam, từ thời

phong kiến, thuật ngữ giai thoại mặc dù chưa được sử dụng một cách chính thức

nhưng nếu căn cứ vào tính chất bên lề, phi chính thống, tính chất chuyện vặt của nó,

thì có thể xem một số truyện trong các sách như: Công dư tiệp ký (Vũ Phương Đề),

Kiến văn tiểu lục (Lê Quý Đôn), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh), Tang thương ngẫu

lục (Nguyễn Án, Phạm Đình Hổ),... cũng đã mang dáng dấp của những câu chuyện

giai thoại. Các sách Truyện đời xưa (1866), Chuyện khôi hài (1882) của học giả

Trương Vĩnh Ký đã ghi một số văn bản kể có tính chất giai thoại (văn học) như: Răng

cắn lưỡi, Học trò sửa liễn cửa ngõ phủ ông hoàng, Câu đối có chí khí,...

Theo tư liệu của PGS Vũ Ngọc Khánh (nêu trong phần Tiểu luận Kho tàng giai

thoại Việt Nam và Giai thoại folklore Việt Nam), thì trong 45 năm đầu của thế kỷ

trước, tình hình sưu tầm, giới thiệu giai thoại chỉ phát triển khi chữ quốc ngữ thịnh

hành, vào thập niên ba mươi trở đi. Tác giả viết: “Rải rác trên những cuốn hợp tuyển

văn học, đặc biệt là cuốn Văn đàn bảo giám của Trần Trung Viên, in và tái bản những

năm đầu của thập niên ba mươi, ghi chép được nhiều chuyện thú vị trong đối đáp văn

chương nhưng cũng không dùng tiêu đề giai thoại (...). Vào khoảng từ 1940 trở đi,

chính thức được mang tên là giai thoại là cuốn Việt sử giai thoại, gồm những tiểu

luận (có cả phần tường thuật và khảo cứu) và một số hiện tượng (hay sự kiện) lịch sử

đặc biệt của nước nhà hồi đầu thế kỷ XIX. Cùng lúc đó, có những cuốn sách thuật lại

những mẩu chuyện cũ, có tính cách giai thoại như tập san viết riêng để tưởng nhớ Tản

Đà, hoặc như tập Người xưa (Việt Thường), song vẫn không thấy quyển nào mang tên

là giai thoại” [91, tr.13 – 14].

Qua ý kiến trên của PGS Vũ Ngọc Khánh, có thể thấy các vấn đề sau: 1. Thuật

ngữ giai thoại được dùng rất hạn chế ở nửa đầu thế kỷ trước, mặc dù, về tính chất,

những quyển sách giới thiệu có thể đã tập hợp những mẩu chuyện là giai thoại; 2. Chỉ

có công trình Việt sử giai thoại của Đào Trinh Nhất là sử dụng giai thoại với tư cách

một thuật ngữ chính thức. Tuy nhiên, trong phần tựa quyển sách này, tác giả Ứng Hòe

Nguyễn Văn Tố (người giới thiệu quyển sách) cũng không bàn về thể loại mà chỉ nêu

một cách vắn tắt ý nghĩa của thuật ngữ giai thoại như sau: “Người ta gọi giai thoại là

việc tốt, chuyện hay thường truyền tụng ở dân gian. Sách làm ngày xưa cũng có một

11

quyển đề là “Tùy Đường thi thoại”, chép những chuyện hay trong đời Tùy Đường.

Theo nghĩa chữ Pháp thì giai thoại (anecdotes) là chuyện vặt, chuyện dật sử, có cái

không đáng tin” (Lời giới thiệu Việt sử giai thoại).

Còn về sách giới thiệu giai thoại như một thể loại độc lập, từ thập niên 60 thế kỷ

trước, ở nước ta có hai công trình chính thức dùng thuật ngữ giai thoại để định danh

đối tượng. Đó là công trình Giai thoại văn học Việt Nam của Hoàng Ngọc Phách, Kiều

Thu Hoạch (với lời giới thiệu của Trần Thanh Mại, hoàn thành năm 1963, xuất bản

năm 1965) và công trình Giai thoại làng Nho của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc (xuất bản

lần đầu vào năm 1963, với lời tựa của Đoàn Thêm). Trên lĩnh vực báo chí, thuật ngữ

giai thoại được chính thức sử dụng với hình thức ghi thành tiểu mục hoặc thành lời chú

thích dưới các đề tài trên các báo Quốc ngữ thì phải đến giai đoạn 1865 – 1965 như:

Khuyến học, Nước Nam, Tiếng dân, Tri Tân,…

Ở các phần trên, chúng tôi chủ yếu xem quan điểm của các nhà nghiên cứu giai

thoại trong và ngoài nước như một tiền giả định khoa học mà chưa đi sâu khảo sát nội

hàm khái niệm thể loại để định vị nó trong hệ thống tự sự dân gian. Sau đây, xin đi sâu

vào vấn đề này. Thực ra, việc viện dẫn lý thuyết thể loại của các nhà nghiên cứu giai

thoại ở Việt Nam đều ít nhiều dựa vào hệ lý thuyết của thế giới. Để đi đến một khái

niệm về thể loại, xin đi vào một số cách tiếp cận giai thoại qua sự phân hóa thành 4

khuynh hướng cơ bản:

- Xem giai thoại như một thể loại tự sự dân gian;

- Xem giai thoại như một thể loại trung gian giữa văn học dân gian và văn học

viết;

- Xem giai thoại là một thể loại của văn học viết;

- Xem giai thoại là một thể loại tổng hợp.

1.1.1.1. Khuynh hướng xem giai thoại là thể loại thuộc văn học dân gian

Khuynh hướng xem giai thoại là thể loại thuộc văn học dân gian phân hóa thành

các nhánh: xem giai thoại như một bộ phận của cổ tích và xem giai thoại là một thể

loại độc lập, có vị trí tương đương với các thể loại khác trong tự sự dân gian.

a. Khuynh hướng xem giai thoại là một bộ phận của cổ tích

Khuynh hướng này chủ yếu xuất hiện ở Nga. Một số nhà nghiên cứu Nga xem

giai thoại tương đương với truyện cười và xếp nó vào tiểu loại cổ tích sinh hoạt. Trong

đó, tiêu biểu nhất là quan niệm của V. Ja Propp. Ở công trình Folklore và thực tại,

trong phần Cơ cấu thành phần thể loại, khi bàn về cổ tích sinh hoạt, học giả người

Nga xem giai thoại như một bộ phận của cổ tích sinh hoạt. Theo ông: “Nói về cổ tích

12

sinh hoạt hay truyện cổ tích hiện thực, cần phải đề cập tới vấn đề giai thoại (…). Theo

ý chúng tôi, nó không phải là một loại hình riêng của sáng tác dân gian, khác biệt với

loại truyện cổ tích đoản thiên về con người (…). Nghiên cứu kĩ càng hơn nữa những

truyện cổ tích sinh hoạt về con người, thì có thể khẳng định được rằng trong folklore

không có ranh giới giữa truyện cổ tích sinh hoạt về con người và truyện giai thoại. Có

chăng thì cũng chỉ có thể xếp giai thoại thành một tiểu loại riêng trong truyện cổ tích

sinh hoạt” [44, tr.325].

b. Khuynh hướng xem giai thoại là thể loại độc lập

Khuynh hướng xem giai thoại là thể loại độc lập thuộc văn học dân gian lại chia

thành 2 nhánh: 1. Đặt giai thoại trong truyện hài hước (truyện cười) và 2. Tách giai

thoại ra khỏi truyện hài hước. Quan điểm đặt giai thoại bên cạnh truyện hài hước có

thể tìm thấy ở trường phái Phần Lan và một số nhà folklore học hiện đại của Mỹ. Còn

nhánh thứ hai chủ yếu xuất hiện ở các nhà nghiên cứu người Nga.

Khuynh hướng đặt giai thoại trong truyện hài hước (truyện cười)

Ở trường phái Phần Lan, trong công trình The types of the folklore: A

classitification and bibliography (Các loại truyện dân gian: Phân loại và thư mục)

động vật, II. Truyện dân gian thông thường và III. Truyện hài hước. Trong đó, giai thoại

được xếp vào loại truyện hài hước cùng với truyện cười (mục III. Jokes and

(1910), Aarne đã phân loại truyện kể dân gian theo chủ đề, gồm 3 loại lớn là: I. Truyện

Anecdotes, Truyện cười và Giai thoại,) [169, tr.374]. Còn ở Mỹ, Alan Dundes, một

trong những học giả folklore nổi tiếng của Hoa Kỳ, trong bài viết Who are the folk?

(Ai là người sáng tác văn hóa dân gian?, in trong cuốn Interpreting Folklore (Lý giải

Folklore), Indian University – Bloomington, 1980) cũng có cùng quan điểm như

Aarne khi ông đặt giai thoại (Anecdotes) trong hệ thống truyện cười (Jokes) [175].

Khuynh hướng tách giai thoại ra khỏi truyện hài hước (truyện cười)

Guxev trong công trình Mỹ học folklore (1967) xem giai thoại như một thể loại

độc lập thuộc tự sự dân gian sau khi so sánh và phân biệt so với những nhóm khác:

“Chúng tôi tách giai thoại ra khỏi cổ tích sinh hoạt và cổ tích trào phúng (loại này dĩ

nhiên có thể mang những yếu tố giai thoại), vì nó có một số đặc điểm cho phép nó như

một thể loại độc lập. Chúng tôi gọi là giai thoại tác phẩm tự sự trào phúng hoặc hài

hước, được xây dựng trên một tình tiết có sự tăng tiến đến điểm cao, biểu hiện rõ rệt

và kết thúc bất ngờ” [51, tr.233]. Như vậy, nguyên nhân khiến Guxev tách giai thoại

ra khỏi cổ tích là do tính trào phúng và hài hước của nó. Soi chiếu quan niệm ấy vào

tình hình giai thoại Việt Nam, có thể thấy vì sao các nhà nghiên cứu nước ta từ trước

13

tới nay vẫn cho rằng đó là truyện cười.

Một số nhà nghiên cứu khác ở Nga cũng trình bày ý kiến về thể loại này. Nhìn

chung, các ý kiến vẫn thiên về tính hài, trào phúng. Gipkop cho rằng: “Giai thoại là

một truyện kể ngắn gọn và bất ngờ, là một sản phẩm chân chính của các nhà trào

phúng” (Những giai thoại về Khotgia) (Dẫn theo [91, tr.12]). Davlevtop cũng khẳng

định: “Cái gì đã tạo ra bản chất của giai thoại, của các hình thức quan trọng và phổ

biến nhất? Cũng dễ quan niệm rằng bản chất đó dẫn đến sự biểu thị có tính hài hước

của một cái mâu thuẫn duy nhất trong cuộc sống. Trong giai thoại, không có cái gì

ngoài cái đó” (Sáng tác dân gian, một loại hình nghệ thuật) (Dẫn theo [91, tr.12]).

Trong các quan niệm trên, quan niệm của Guxev có ảnh hưởng nhất định đến các nhà

nghiên cứu Việt Nam, tiêu biểu là Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch. Các tác giả này

đã tiếp thu định nghĩa trên (về giai thoại) của Guxev để triển khai luận điểm: Giai

thoại là một thể loại độc lập thuộc văn học dân gian.

Ở Việt Nam, nhà nghiên cứu khẳng định giai thoại là thể loại văn học dân gian

sớm nhất là Cao Huy Đỉnh (tuy ông chưa lý giải vấn đề). Trong công trình Tìm hiểu

tiến trình văn học dân gian, ông nhận định như sau: “Chung quanh Tô Hiến Thành,

Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu,… và sau này có Nguyễn Trãi nữa,

nhân dân có những lời ngợi khen, mến phục hoặc tin tưởng tự hào. Tiểu sử của những

ông quan như thế thường lẫn lộn với tình tiết hư cấu trùng lặp về “các nhân tài nước

Nam” và trở thành giai thoại” [36, tr.53]. Nghĩa là giai thoại về các danh nhân lịch sử

do lòng ái mộ, tôn vinh của nhân dân đã kéo các huyền thoại về với giai thoại.

Trong hai công trình khá đồ sộ giới thiệu về giai thoại là Kho tàng giai thoại Việt

Nam (2 tập) và Giai thoại folklore Việt Nam, xuất phát từ góc nhìn folklore, cũng như

tiếp thu định nghĩa giai thoại của Guxev, Vũ Ngọc Khánh đã xem giai thoại như một

thể loại tự sự dân gian. Tác giả cho rằng không thể hiểu được giai thoại nếu ta không

đặt nó vào trong môi trường sinh hoạt văn hóa của nhân dân thời phong kiến. Theo

ông: “Nhân vật lịch sử hay tác gia văn học được xem chấp nhận thành nhân vật dân

gian. Tác phẩm văn học bác học được xem như tác phẩm dân gian và có thể sống

trong quần chúng, cùng với ca dao, câu đố, truyện nôm, tuồng, chèo” [91, tr.18]. Qua

ý kiến trên, ta thấy Vũ Ngọc Khánh muốn nhấn mạnh đến quá trình dân gian hóa một

nhân vật quan phương (trong văn học và lịch sử) và dân gian chính là cầu nối đưa văn

học bác học về với giai thoại.

Mặc dù không đưa ra một định nghĩa về giai thoại nhưng Vũ Ngọc Khánh cũng

lưu ý về sự khác biệt về nội hàm giữa giai thoại phương Đông và phương Tây, ông

14

viết: “Thuật ngữ này là dùng theo ngôn ngữ Trung Quốc, có nghĩa là câu chuyện đẹp.

Câu chuyện – thoại – là một chuyện! Chuyện thì có chuyện dài, chuyện ngắn, chuyện

giàu hoặc ít tình tiết lại và chủ yếu được kể bằng lời. Chúng ta đã quan niệm giai

thoại là tương đương với thuật ngữ anecdotes của phương Tây. Anecdotes không phải

là câu chuyện, mà là mẩu chuyện. Mẩu chuyện này bao giờ cũng ngắn, có khi rất

ngắn” [91, tr. 9 – 10]. Theo cách hiểu của Vũ Ngọc Khánh, rõ ràng, khó thể áp dụng

thuật ngữ anecdotes của phương Tây vào tình hình giai thoại ở nước ta. Nói cách khác,

không thể xem dung lượng như một tiêu chí xác đáng để xác định thể loại.

Gần với quan niệm của Vũ Ngọc Khánh, trong công trình Giai thoại văn học Việt Nam [67], Kiều Thu Hoạch cũng xem giai thoại là thể loại độc lập thuộc tự sự dân

gian. Ở phần Khái luận, tác giả viết: “Về cơ bản và trên đại thể, chúng tôi đồng tình

với lập luận của Vũ Ngọc Khánh; tuy nhiên, có một số điểm chúng tôi nhận thấy cần

làm sáng rõ hơn” [67, tr.25]. Theo đó, Kiều Thu Hoạch đã dẫn chứng rất nhiều ca dao,

tục ngữ có chứa yếu tố Hán Việt để chứng minh rằng: văn học dân gian không chỉ là

sáng tác của người bình dân mà còn là sáng tác của những người biết chữ nghĩa và

tầng lớp trí thức. Ở một chỗ khác, tác giả cũng khẳng định: “Chúng ta đã thấy rõ giai

thoại là các sáng tác folklore, là văn học dân gian, mà các tác giả nước ngoài có

người còn gọi rõ là giai thoại dân gian” [67, tr.29]. Trên cơ sở quan niệm như vậy,

Kiều Thu Hoạch đã đưa ra định nghĩa của ông về giai thoại như sau: “Giai thoại vốn

là một thuật ngữ gốc Hán. Giai có nghĩa là hay, đẹp, thoại là câu chuyện kể. Như vậy

giai thoại là câu chuyện kể hay, đẹp, mà lâu nay giới nghiên cứu vẫn coi thuật ngữ

này tương đương với anecdotes của phương Tây” [67, tr.23]. Ninh Viết Giao qua phần

tổng thuật tư liệu về giai thoại trong Giai thoại xứ Nghệ cũng khẳng định giai thoại là

một thể loại của văn học dân gian. Tác giả cho rằng: “Giai thoại là những văn bản

đẹp, hay, ngắn, gọn, vui, thú vị, có khả năng gây cho người nghe, người đọc một cảm

giác thoải mái, sảng khoái, nhẹ nhàng, trong đó ẩn giấu một suy nghĩ, một tính cách,

một thái độ… của nhân vật nào đó” [48, tr.307].

Như vậy, ở Việt Nam, khuynh hướng xem giai thoại là thể loại độc lập của văn

học dân gian dựa trên cơ sở tổng hợp tư liệu, đánh giá tình hình từ các nhà nghiên cứu.

Dù tiếp thu định nghĩa của các tác giả nước ngoài nhưng các tác giả Việt Nam không

rập khuôn áp dụng mà vẫn căn cứ vào tình hình thực tiễn giai thoại Việt Nam để khái

quát. Chẳng hạn, giai thoại trong quan niệm của Guxev là thiên về hài hước, trào

phúng (tương đương với truyện cười ở Việt Nam), còn giai thoại Việt Nam, đúng như

nhận xét của Vũ Ngọc Khánh và Kiều Thu Hoạch thì không chỉ có tính hài mà còn có

15

cả sự nghiêm túc, thậm chí bi ai, nghĩa là có nhiều sắc thái, cung bậc.

1.1.1.2. Khuynh hướng xem giai thoại là thể loại trung gian giữa văn học dân

gian và văn học viết

Khuynh hướng xem giai thoại là thể loại trung gian giữa văn học dân gian và

văn học viết cũng khá phổ biến. Ta có thể tìm thấy khuynh hướng này ở Nga, Đức

(qua quan niệm của Tamarchenko và Nicolaisen) và ở Việt Nam (qua quan niệm của

các nhà biên soạn từ điển). Quan niệm của Tamarchenko được trình bày trong bài viết

Giai thoại là gì?. Đây là bài viết mang tính tổng quát về khái niệm cũng như đặc trưng

thể loại của giai thoại. Theo đó, về khái niệm giai thoại, Tamarchenko nhấn mạnh đến

tính chất lưỡng diện, vừa là văn học dân gian, vừa là văn học viết của giai thoại. Ông

viết như sau: “Giai thoại có hai nét nghĩa: 1. “Câu chuyện lưu truyền rộng rãi trong

dân gian, thuật lại một cách ngôn lí thú, một cảnh độc đáo, hay một trang tiểu sử

riêng tư của một nhân vật lịch sử” (M. Petrovski). 2. Thể tự sự cỡ nhỏ nửa truyền

miệng, bán văn học, đặc điểm nổi bật của nó là mô tả các nhân vật hành động một

cách hàm súc, sơ lược, tập trung vào một tình huống được suy ngẫm lại, đánh giá lại

bằng cách thay đổi hoàn toàn điểm nhìn (“point”, bước ngoặt, đột biến). Ở cả phía

đối tượng của sự kể (đời sống riêng tư của nhân vật lịch sử, tức là nhân vật quan

phương, hoặc một trường hợp nào đó rút ra từ đời sống của những người bình

thường), lẫn ở phía chức năng, tức là ở cả hai ý nghĩa của thuật ngữ, giai thoại là thể

loại không chính thức: vì thế, truyện kể bao giờ cũng mang tính phi văn học, nó là thứ

“văn học rỉ tai, bí mật” (E. Kurganov)...” [132].

Trong luận giải này, chúng ta có thể chú ý một số điểm nhấn quan trọng về mặt

nội hàm: 1. Câu chuyện với tính chất như một cảnh – một tình huống độc đáo mang

tính chất riêng tư của nhân vật; 2. Tình huống được đánh giá lại bằng cách thay đổi

hoàn toàn điểm nhìn của người tiếp nhận về nhân vật quan phương; 3. Giai thoại là thể

loại không chính thức, là “văn học rỉ tai, bí mật”, tức là tác giả nhấn mạnh đến tính

chất phi chính thống của giai thoại đặt trong sự đối sánh ngầm với văn học chính

thống. Chúng tôi sẽ trở lại nhận xét một cách cụ thể hơn ý kiến này ở phần đặc điểm

của giai thoại.

Lưu ý đến tính chất trung gian, vừa mang những đặc điểm của văn học dân gian

vừa có xu hướng trở thành một thể loại của văn học viết, tác giả Nicolaisen nhấn

mạnh: “Bất chấp sự phổ biến của giai thoại trong truyền thống truyền miệng, các nhà

nghiên cứu dân gian hầu như ít chú ý đến nó (tức giai thoại – chúng tôi nhấn mạnh)

như một thể loại độc lập. Nên không có gì đáng ngạc nhiên, với sự giống nhau sâu sắc

16

về mặt cấu trúc với truyện ngắn, giai thoại cũng đã trở thành một thể loại văn học

được gọt giũa” [107].

Ở Việt Nam, trong Từ điển Văn học (Bộ mới) (Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi,

Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (Chủ biên)), ở mục giai thoại, các tác giả định nghĩa thể

loại như sau: “Một thể loại chuyện kể truyền miệng, lưu truyền chủ yếu trong giới nhà

văn và lớp công chúng ưa thích thơ văn, nhất là những người có hiểu biết Hán học và

văn chương chữ Hán. Thuật ngữ giai thoại được mượn từ Trung Hoa (thoại: truyện

kể; giai: hay, đẹp, thú vị). Mỗi giai thoại là một truyện kể ngắn gọn, lý thú, xoay

quanh những nhân vật có thực, thường là những danh nhân (…). Tuy vậy giai thoại

vẫn mang tính độc lập như một thể loại độc đáo; nó thuộc về văn chương bác học, gắn

với sinh hoạt văn học thành văn, nhưng lại tồn tại dưới dạng truyền miệng, tức là

dạng thức tồn tại của các truyện kể dân gian” [45, tr.519].

Như vậy, về mặt nội hàm khái niệm, ta thấy sự gặp gỡ giữa quan niệm này với ý

kiến của Tamarchenko ở trên (tính chất nửa truyền miệng, bán văn học của giai thoại).

Trên đại thể, các ý kiến trên có tính thuyết phục riêng. Bởi lẽ, các nhà nghiên cứu đã

bám sát vào thực tế văn bản của giai thoại có nguồn gốc bác học (liên quan đến thơ

văn, câu đối, điển tích, chữ nghĩa,...). Tuy nhiên, nhận định ấy chỉ đúng đối với tiểu

loại giai thoại văn học chứ chưa hẳn phù hợp với các tiểu loại còn lại của giai thoại.

1.1.1.3. Khuynh hướng xem giai thoại là thể loại thuộc văn học viết

Bên cạnh xu hướng trung dung xem giai thoại là thể loại trung gian giữa văn học

dân gian và văn học viết, cũng có khuynh hướng khẳng định giai thoại thuộc lĩnh vực

văn học viết. Khuynh hướng này chỉ xuất hiện ở Việt Nam. Trong công trình Giai

thoại văn học Việt Nam [65], ở phần Tiểu luận, Trần Thanh Mại cho rằng: “Giai thoại

văn học là một thể loại văn học truyền miệng, nhưng trừ một số trường hợp cá biệt,

nói chung thì giai thoại văn học không thuộc phạm vi văn học dân gian (…). Thoại có

nhiều nghĩa nhưng trong trường hợp chúng ta xét đây, thì thoại là một truyện kể ngắn

gọn, nhẹ nhàng, nói chung chỉ gồm những sự việc diễn biến với một vài tình tiết đơn

giản. Giai thoại là một truyện kể nhỏ mà hay, lý thú, có khả năng gây cười cho người

nghe, người đọc một cảm giác vui thích thoải mái một cảm giác sảng khoái nhẹ

nhàng” [65, tr.9].

Trong định nghĩa trên, Trần Thanh Mại đã thừa nhận hình thức truyền miệng của

giai thoại, nhưng vẫn khẳng định giai thoại không phải là văn học dân gian mà là văn

học bác học. Nguyên nhân dẫn đến quan điểm ấy là do tiêu chí về mặt nội dung: mặc

dù có hình thức truyền miệng như các truyện kể dân gian nhưng về mặt nội dung, các

17

truyện kể ấy rất khó để cho người bình dân có thể sáng tác và thưởng lãm bởi tính chất

bác học, chữ nghĩa uyên bác của nó. Tuy nhiên, quan điểm nghiên cứu hiện đại về

folklore cho thấy cách hiểu như vậy là không còn phù hợp nữa. Chẳng hạn, trong bài

viết Ai là người sáng tác văn hóa dân gian, sau khi kể lại một số truyện cười và giai

thoại hiện đại, Alan Dundes cho rằng: “Bây giờ chúng ta có thể thấy sự không phù hợp

của định nghĩa thế kỷ XIX về người sáng tác dân gian là những người mù chữ trong xã

hội có chữ viết (...). Đối với nhà nghiên cứu văn hóa dân gian hiện đại, không có cái

gì là ngược đời khi nói về người sáng tác dân gian thành thị. Có những người sáng tác

dân gian thành thị và cũng có những người sáng tác dân gian nông thôn (...). Chúng ta

là những người sáng tác văn hóa dân gian trong số những người sáng tác văn hóa dân

gian khác” (Ai là người sáng tác văn hóa dân gian, Nguyễn Thị Hiền dịch từ sách

Interpreting Folklore (Lý giải Folklore) của Alan Dundes (đã dẫn nguồn ở trên), dẫn

lại theo Kiều Thu Hoạch, trong phần Khái luận Tổng tập Văn học dân gian người Việt,

Tập 11, Giai thoại văn học Việt Nam, [67, tr.28 – 29]). Thực ra, ngay từ thập niên 60

của thế kỷ trước, trong các giáo trình văn học dân gian ở các trường Đại học (miền

Bắc), các học giả vẫn cho rằng văn học dân gian vẫn có sự tham gia sáng tác của các

tầng lớp có học dần được dân gian hóa. Như vậy, quan niệm sáng tác dân gian thuộc

về các tầng lớp nhân dân dễ chấp nhận hơn.

1.1.1.4. Khuynh hướng xem giai thoại là thể loại tổng hợp

Ở Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh là nhà nghiên cứu đầu tiên xem giai thoại là một

thể loại tổng hợp (Giai thoại folklore Việt Nam). Theo ông: “Thể loại này (tức giai

thoại – chúng tôi nhấn mạnh) có đặc tính bao trùm và ở mỗi phạm trù nó đều có vị trí

của nó. Có thể tìm giai thoại trong văn chương bác học, trong văn học dân gian, trong

lịch sử và trong nhiều lĩnh vực khác. Ở mỗi nơi có thể có mặt, đồng thời nó lại có

những tính chất chung (mixte), đa thanh, rất phong phú” [91, tr.64]. Theo đó, giai

thoại thuộc ba lĩnh vực cơ bản là văn học, lịch sử và folklore (chữ dùng của tác giả).

Dù là thể loại mang tính tổng hợp, gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng như đã trình

bày, trên đại thể, Vũ Ngọc Khánh vẫn xem giai thoại là một thể loại độc lập của văn

học dân gian.

Gần đây, trong công trình mới nhất nghiên cứu về giai thoại là Luận về giai thoại

(2016), Triều Nguyên đã tiếp thu quan niệm giai thoại là một thể loại tổng hợp (của

Vũ Ngọc Khánh). Tuy nhiên, Triều Nguyên không xem giai thoại là một thể loại văn

học dân gian thuần túy mà đưa ra quan điểm: giai thoại là một thể loại tổng hợp (gồm

3 lĩnh vực là lịch sử, văn học và văn hóa dân gian). Trên đại thể, Triều Nguyên cho

18

rằng quan niệm giai thoại thuộc về văn học dân gian hoặc văn học viết là không hợp

lý. Triều Nguyên đã đưa ra định nghĩa giai thoại như sau: “Giai thoại là một loại hình

văn hóa, dạng tự sự ngắn bằng văn xuôi, có kết cấu thông dụng gồm một sự việc cốt

lõi và các sự việc phụ trợ, nội dung kể về người thật việc thật, bao gồm các lĩnh vực

lịch sử, văn học, và văn hóa dân gian” [115, tr.365]. Tác giả diễn giải định nghĩa trên

như sau:

“– Giai thoại là một loại hình văn hóa, dạng tự sự ngắn bằng văn xuôi: Thuật

ngữ loại hình văn hóa đã bao trùm các loại hình nghệ thuật (được dùng để chỉ những

hình thức tồn tại ổn định của nghệ thuật trong lịch sử, như hội họa, điêu khắc, văn

học, sân khấu, điện ảnh,…) với ý nghĩa bao hàm nghệ thuật, đồng thời cũng bao gồm

trong đó các đối tượng không phải nghệ thuật (như ngôn ngữ, lịch sử, tôn giáo…).

– Dạng tự sự bằng văn xuôi giúp việc khoanh vùng giai để nhận dạng giai thoại;

– Có kết cấu thông dụng gồm một sự việc cốt lõi và các sự việc phụ trợ: Nhằm đề

cập đến một vấn đề quan trọng ở hình thức nghệ thuật của giai thoại là kết cấu;

– Nội dung kể về người thật việc thật, bao gồm các lĩnh vực lịch sử, văn học, và

văn hóa dân gian: Cho thấy nội dung và đồng thời là phương thức thể hiện của giai

thoại, là kể về người thật việc thật (lối hư cấu chỉ có phạm vi hạn chế). Vế này cũng

giới thiệu ba loại giai thoại lớn là giai thoại lịch sử, giai thoại văn học, giai thoại văn

hóa dân gian (mỗi loại lớn này gồm các giai thoại trực thuộc; như giai thoại văn học

có giai thoại văn học viết và giai thoại văn học dân gian…)” [115, tr.365].

Trong định nghĩa trên, tác giả Triều Nguyên không nhắc đến hai đặc điểm của

giai thoại là tính lý thú và tính truyền miệng vì các lý do sau: Tính lý thú là tính chất

có mặt ở hầu hết các thể loại tự sự dân gian (như ngụ ngôn, truyện cười,…) chứ không

riêng gì giai thoại; còn tính truyền miệng chỉ là một trong hai phương thức lưu hành,

bên cạnh phương thức văn bản hóa của văn học dân gian nên đưa vào là không cần

thiết. Như vậy, từng khuynh hướng xem giai thoại thuộc lĩnh vực nào đều có cơ sở

khoa học riêng của nó. Đó có thể là người sáng tác – thưởng thức, nội dung phản ánh,

hình thức lưu truyền, đặc điểm nghệ thuật,… Tuy nhiên, nếu chỉ đặt giai thoại vào

trong một phạm vi cụ thể (chẳng hạn, chỉ thuộc văn học, lịch sử hay văn hóa) vẫn khó

phản ánh chính xác thực tiễn giai thoại trong kho tàng giai thoại Việt Nam. Do vậy,

cần phải xem giai thoại là một thể loại mang tính chất đa diện, thuộc nhiều lĩnh vực

khác nhau, và mỗi lĩnh vực như vậy tương đương với một tiểu loại của giai thoại (như

quan niệm của Vũ Ngọc Khánh) thì mới có thể bao quát hết được tính chất đa diện và

phong phú của thể loại. Cố nhiên, từng tiểu loại của giai thoại không thể nào tồn tại

19

một cách độc lập tuyệt đối, mà sẽ có những vùng chồng lấn, xuyên thấm, thậm chí

chuyển hóa cho nhau. Đây cũng là quy luật vận động của các thể loại tự sự nói chung.

1.1.2. Đặc điểm thể loại của giai thoại

Các nhà nghiên cứu Việt Nam đã tập trung nhấn mạnh một số đặc điểm của giai

thoại gồm: tính dân gian và tính bác học (xét trong mối quan hệ với văn học); tính hư

cấu; tính sai lệch (xét trong mối quan hệ với lịch sử); tính lý thú; tính đối thoại (xét về

mặt tình huống của giai thoại),... Theo chúng tôi, tính lý thú; tính đối thoại dù là đặc

điểm dễ nhận thấy của giai thoại nhưng nó cũng xuất hiện trong hầu hết các thể loại tự

sự dân gian khác (có chăng là ở giai thoại, sự lý thú được thể hiện qua tình huống đối

đáp bằng văn chương, thơ phú; qua ứng xử của các nhân vật trong các huống cảnh cụ

thể,…). Do vậy, nếu xem đây là đặc trưng thể loại thì có lẽ chưa thực sự thuyết phục.

Do đó, việc quan trọng cần phải giải quyết là lý giải những tác động của văn học, lịch

sử, văn hóa lên giai thoại để từ đó hình thành các đặc trưng cho thể loại.

Còn các nhà nghiên cứu trên thế giới, khi bàn về bản chất thể loại của giai thoại

đã tập trung sự chú ý vào một điểm, có thể được xem như đặc điểm thể loại quan trọng

của giai thoại (dù không phải tất cả giai thoại đều có tính chất này). Đó là tính phản

biện của giai thoại. Tính chất này có thể hiểu như sau: đối lập với quan niệm chính

thống, giai thoại đưa ra cách đánh giá mới mẻ về nhân vật quan phương, khiến cho

quan niệm truyền thống, phổ biến về người nổi tiếng trở nên bị lung lay. Sau đây, luận

án sẽ điểm qua một số quan niệm của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cũng như trên

thế giới về đặc điểm thể loại của giai thoại.

1.1.2.1. Tính lý thú của giai thoại

Tác giả Kiều Thu Hoạch trong phần Khái luận về giai thoại (trong Giai thoại văn

học Việt Nam, Tập 11, Tổng tập Văn học dân gian người Việt) đã nhấn mạnh đến tính

lý thú của giai thoại văn học. Tác giả xem khái niệm này tương đương với thuật ngữ

“kịch tính” mà Guxev từng đề cập khi phân tích giai thoại trong Mỹ học folklore. Nhà

nghiên cứu viết như sau: “Nói riêng về giai thoại văn học thì khi nói đến tính lý thú là

nói một cách toàn diện, đó là tính lý thú ở bản thân thơ văn cũng như tính lý thú ở tình

huống của giai thoại. Nếu chỉ có bài thơ hoặc câu đối lý thú thì vẫn chưa thể thành

giai thoại. Ở đây đòi hỏi phải có tình huống lý thú nữa mới thành một giai thoại.” [67,

tr.31]. Nhận xét trên của Kiều Thu Hoạch là hoàn toàn xác đáng. Bởi lẽ, đối với giai

thoại văn học, thì nội dung văn chương, chữ nghĩa cũng như tình huống dẫn đến sự đối

chọi, ứng biến văn chương của các nhân vật là hồn cốt không thể thiếu của tiểu loại

này.

20

Cùng một ý kiến như trên nhưng Trần Thanh Mại có những kiến giải có phần cụ

thể hơn khi ông đi vào bản chất của những tình huống văn chương. Tác giả cho rằng:

“Nhìn chung mà nói, thơ văn, câu đối trong giai thoại toàn là thơ ứng đáp, đối phó.

Nó là thơ tức cảnh, linh hoạt, biến hóa, làm ngay tại chỗ, đáp ngay tại chỗ, hoặc để

gây cái ấn tượng như thế, vì quả tình có nhiều bài thơ tác giả vô danh đã phải mất

nhiều thời gian mới nghĩ ra. Nó không giống như thơ trữ tình, thơ lãng mạn chính

tông. Yếu tố chính của thơ giai thoại là trào phúng, hài hước, châm biếm; đó là những

yếu tố thích hợp với tính chất vui tươi, lý thú của giai thoại” [65, tr.54].

Theo chúng tôi, nhận xét trên của Trần Thanh Mại không chỉ dúng đối với giai

thoại văn học mà còn đúng cả với tiểu loại giai thoại văn hóa với nhóm giai thoại sinh

hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian của các nghệ nhân dân gian, các nhà nho tài tử. Bởi

lẽ, tình huống cơ bản của nhóm giai thoại sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian vẫn là

tình huống đối đáp tức thời. Do vậy, tình huống khoảnh khắc (hay tình huống tức thời)

có vai trò vô cùng quan trọng trong cách tổ chức cốt truyện của giai thoại nói chung.

Nhìn chung, các tác giả đi trước đều tập trung sự chú ý vào tính lý thú của giai

thoại qua tiểu loại giai thoại văn học, cụ thể là tình huống đối đáp văn chương, chưa

thấy bàn đến tính lý thú (hay sự hấp dẫn) của hai tiểu loại còn lại là giai thoại văn hoá

dân gian và giai thoại lịch sử. Đây rõ ràng là những điểm cần bổ sung thêm mà luận án

đang hướng đến.

1.1.2.2. Tính dân gian và tính bác học của giai thoại

Đây là đường ranh gây nhiều ngộ nhận và tranh luận của các học giả về bản chất

thể loại của giai thoại. Ở Việt Nam, Trần Thanh Mại là người đầu tiên nhấn mạnh đến

tính bác học của giai thoại. Trong phần Tiểu luận công trình Giai thoại văn học Việt

Nam (1965), Trần Thanh Mại cho rằng giai thoại là “một loại văn chương bác học mà

lại truyền miệng” [65, tr.9]. Mặc dù thừa nhận tính chất trên nhưng trong quan niệm

của tác giả, giai thoại vẫn nằm trong phạm vi của văn học viết: “Giai thoại văn học là

một thể loại văn học truyền miệng, nhưng trừ một số cá biệt nói chung thì giai thoại

văn học không thuộc phạm vi văn học dân gian” [65, tr.9]. Qua nhận xét trên, tác giả

đã gián tiếp khẳng định tính chất bác học là yếu tố cốt lõi, quyết định đến bản chất thể

loại chứ không phải là tính chất dân gian của giai thoại. Vì quan niệm giai thoại là một

thể loại thuộc văn học viết nên Trần Thanh Mại đã tập trung phân tích tính bác học của

giai thoại ở một số khía cạnh như: cách dùng điển tích, điển cố; câu đối chữ Hán,

Nôm; cách chiết tự chữ Hán;... Nguyên nhân dẫn đến quan niệm trên xuất phát từ vấn

21

đề tác giả sáng tác và người thưởng thức giai thoại. Tác giả viết: “Giai thoại văn học

chủ yếu là truyện của những người có điều kiện biết đọc, biết viết, biết thưởng thức

thơ văn chữ Hán và chữ Nôm” [65, tr.9]. Như vậy, góc nhìn của Trần Thanh Mại là

xuất phát từ điểm nhìn của văn học viết, dùng lý thuyết của văn học viết để soi chiếu

giai thoại. Nói đúng hơn đấy là môi trường tương tác giữa sáng tác và tiếp nhận của

văn học thành văn.

Cùng đề cập đến tính chất bác học và dân gian của giai thoại nhưng các tác giả

Vũ Ngọc Khánh và Kiều Thu Hoạch lại có cái nhìn khác hơn so với Trần Thanh Mại.

Theo đó, hai tác giả đã xuất phát từ góc nhìn của folklore để lý giải vấn đề này. Vũ

Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch đặc biệt quan tâm, chú ý đến tính dân gian của giai

thoại (các tác giả định danh tính dân gian của giai thoại là “phong cách dân gian”) thể

hiện qua các trường hợp: nói lái; dùng thổ âm, thổ ngữ; dùng ca dao, tục ngữ; cách

diễn giải chữ nghĩa theo kiểu dân gian,... Trong phần giới thiệu công trình Kho tàng

giai thoại Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh nhận xét: “Những câu thơ, câu đối ở đây có vẻ

giàu chữ nghĩa, điển tích như ở văn chương bác học, song điều bắt buộc là phải được

vận dụng theo phong cách dân gian, lấy chất liệu và cả biện pháp nghệ thuật của ca

dao, câu đối” [89, tr.18]. Ở một chỗ khác, tác giả viết: “Giai thoại văn học có tính

chất bác học nhưng nó nâng cao mà không cách biệt với dân gian. Cái đặc sắc và ý vị

của nó là ở đó” [89, tr.31]. Kiều Thu Hoạch trong Khái luận công trình Giai thoại văn

học Việt Nam cũng khẳng định: “Để đạt được tính lý thú đối với thể loại giai thoại văn

học (chúng tôi nhấn mạnh và in đậm từ “thể loại” – chữ dùng của tác giả) thì người kể

chuyện thường cũng phải sử dụng một số biện pháp nghệ thuật dân gian quen thuộc

như: khoa trương, ngoa dụ, phóng đại, và đặc biệt là lối chơi chữ” [67, tr.35].

Theo chúng tôi, vấn đề không chỉ nằm ở chỗ chỉ ra được đâu là tính dân gian, đâu

là tính bác học của giai thoại (để làm cơ sở cho việc xếp một văn bản giai thoại vào

nhóm giai thoại văn học dân gian hay nhóm giai thoại văn học viết như một số nhà

nghiên cứu từng làm) mà còn phải tìm hiểu sự tương tác, thâm nhập, xuyên thấm của

hai yếu tố trên. Có như vậy, chúng ta mới có thể trả lời cho câu hỏi: Có nên phân chia

giai thoại văn học một cách tách bạch thành hai nhóm (hay bộ phận) như trên hay

không và giai thoại thực chất là thể loại thuộc văn học dân gian hay văn học viết? Đây

cũng là vấn đề mà các nhà nghiên cứu đi trước chưa tìm hiểu, lý giải một cách cặn kẽ,

cần phải trao đổi thêm.

22

1.1.2.3. Tính sai lệch của giai thoại

Xét trong mối quan hệ với lịch sử, một số thông tin được nêu ra trong giai thoại ít

nhiều sẽ có độ vênh, độ lệch so với quan niệm chính thống. Từ đó, tạo nên sự sai lệch.

Tính chất này xuất phát từ tư duy hư cấu yếu tố sử (hay kỹ xảo nhào nặn yếu tố sử)

của giai thoại. Hầu hết các tác giả nghiên cứu giai thoại ở Việt Nam như Trần Thanh

Mại, Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch, Triều Nguyên,… đều bàn đến điểm này.

Chung quy, các tác giả trên đều lưu ý rằng khi tiếp nhận giai thoại, cần lưu ý và phải

soi chiếu những thông tin (người, việc) trong giai thoại với sử quan phương để tránh

tình trạng ngộ nhận, quy chụp một cách chủ quan, vội vàng. Để chứng minh cho đặc

điểm trên, các tác giả đã dùng một số giai thoại có liên quan đến các nhân vật nổi tiếng

để luận giải, tiêu biểu là các nhân vật: Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Lê Quý Đôn,…

Ở một phương diện khác, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã chỉ ra được

nguyên nhân của sự sai lệch trong giai thoại. Theo đó, ở khía cạnh sáng tạo, giai thoại

được xây dựng theo các khuynh hướng chủ yếu sau: Dân tộc hóa (hút và tái tạo những

giai thoại chủ yếu của Trung Quốc thành giai thoại Việt Nam), địa phương hóa (thay

đổi tên NVC trong giai thoại thành tên của nhân vật địa phương, vùng miền cụ thể nào

đó), lịch sử hóa (dựa vào những tác phẩm có sẵn trong kho tàng tự sự dân gian, các tác

giả dân gian thay đổi tên NVC từ nhân vật phiếm chỉ biến thành nhân vật là người nổi

tiếng). Hiển nhiên, những điểm trên sẽ có ý nghĩa quan trọng, mang tính chất gợi mở

cho luận án trong việc lý giải sự giao thoa và chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và

một số thể loại khác trong tự sự dân gian.

1.1.2.4.Tính phản biện (hay thách thức) quan niệm truyền thống của giai thoại

Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu như Trần Thanh Mại, Vũ Ngọc Khánh, Kiều

Thu Hoạch, Triều Nguyên,… khi bàn về cảm hứng trong giai thoại đều ít nhiều nhắc

đến tính chất đấu tranh giai cấp của giai thoại. Sự đấu tranh ấy thể hiện một cách trực

tiếp hay gián tiếp qua ứng xử của các nhân vật nổi tiếng (hay khuyết danh) đối với các

đại diện của giai cấp thống trị qua xu hướng: đả kích, phê phán; giải thiêng, hạ bệ

(thường là bằng đối đáp văn chương), tức là vạch ra, chỉ ra được những thiếu sót,

khuyết điểm, tính xấu,... của một người nổi tiếng được nhiều người kính phục, tôn

sùng. Còn ở phương Tây, các tác giả như Tamarchenko, Nicolaisen, Gossman,… quan

niệm một cách cụ thể hơn. Trong bài viết Giai thoại là gì?, Tamarchenko nhấn mạnh

đến “tình huống được suy ngẫm lại, đánh giá lại bằng cách thay đổi hoàn toàn điểm

nhìn” [132]. Ở một chỗ khác, tác giả lưu ý đến tình huống hai mặt của giai thoại. Ông

viết: “Chức năng làm nổi bật tính hai mặt của tình huống truyện kể rốt cuộc quyết

23

định toàn bộ tổ hợp đặc trưng thể loại giai thoại, bao gồm cả tính hàm súc trong việc

mô tả các sự kiện một cách khách quan. Thoạt đầu, nhân vật giai thoại được đặt ở vị

thế bình thường, ai cũng biết rõ, về sau diễn ra sự thay đổi hoàn toàn trong việc tiếp

nhận và đánh giá nó, tức là xuất hiện “point” (một khái niệm thi pháp học, nghĩa là

đột biến, đỉnh điểm – Lã Nguyên nhấn mạnh), đột biến (ví như đột ngột chuyển từ

điểm nhìn bên trong ra điểm nhìn bên ngoài) – di chuyển về phía cái đặc biệt mới mẻ,

khác lạ: điểm nhìn mới đối với tình huống ban đầu hoá ra hoàn toàn hợp qui luật”

[132]. Qua các nhận xét trên của Tamarchenko, ông muốn nhấn mạnh đến sự thay đổi

cách đánh giá về nhân vật quan phương qua tình huống được nhắc đến trong giai thoại.

Cũng bàn về sự thay đổi cách đánh giá về nhân vật quan phương trong giai thoại

nhưng tác giả Nicolaisen (trong bài viết Giai thoại, 2013) có cách lý giải khác. Ông

cho rằng, bên cạnh sự củng cố quan niệm truyền thống về nhân vật quan phương thì

giai thoại cũng có tính chất đấu tranh, nói rõ hơn là phản biện, thậm chí là thách thức

lại quan niệm truyền thống về nhân vật. Theo đó, sự thay đổi cách đánh giá về nhân

vật quan phương mà giai thoại đưa ra chính là “một sự cố có tính đại diện cho cá nhân

hoặc cộng đồng được nêu đích danh” và “giai thoại là thủ pháp phù hợp để công khai

hoặc che đậy sự chỉ trích xã hội” [107].

Như vậy, mặc dù có cách diễn đạt khác nhau (hạ bệ, giải thiêng, thay đổi điểm

nhìn, sự cố có tính đại diện,…) nhưng chung quy lại, đã thấy được tính chất phản biện

chính là một trong những đặc trưng quan trọng của giai thoại. Do vậy, vấn đề đặt ra

cho luận án là: Quá trình các tiểu diễn ngôn (tức giai thoại) đối lập và thách thức các

đại diễn ngôn (tức dòng quan điểm chính thống) đã được hình thành như thế nào và

góp phần định hình quan điểm về các vấn đề liên quan theo thời gian ra sao? Chung

quy, về đặc điểm thể loại của giai thoại, các nhà nghiên cứu Việt Nam và thế giới đã

chỉ ra một số đặc điểm là: tính lý thú, tính hư cấu và sai lệch, tính dân gian và bác học,

tính phản biện. Đấy là những đúc kết khoa học giá trị mà luận án sẽ tiếp thu và phát

triển thêm.

1.1.3. Một số khía cạnh thi pháp thể loại của giai thoại

1.1.3.1. Kết cấu của giai thoại Việt Nam

Kết cấu của truyện là phương diện quan trọng về hình thức nghệ thuật. Sự ổn

định về kết cấu tạo ra các mô thức cho từng thể loại chính là yếu tố thi pháp của giai

thoại. Ở đây, xin điểm qua một số quan niệm về kết cấu của giai thoại mà các nhà

nghiên cứu đi trước ở Việt Nam đã chỉ ra. Trong công trình Giai thoại văn học Việt

Nam (1965), Trần Thanh Mại quan niệm kết cấu của giai thoại văn học gồm 3 phần:

24

mở đầu, diễn biến và kết thúc với các chức năng cụ thể là:

– Mở đầu: Giới thiệu rất tóm tắt về tiểu sử NVC

– Diễn biến: Tình huống đối đáp văn chương

– Kết thúc: Sự khâm phục đối với nhân vật

Trên thực tế, một giai thoại có thể không có phần giới thiệu đặc điểm của NVC,

đặc biệt là đối với nhóm giai thoại văn học kết chuỗi. Ở đấy, các giai thoại nương vào

nhau. Do vậy, đặc điểm, tính tình, sở học,... của NVC đơn giản chỉ được giới thiệu ở

truyện mở đầu, các giai thoại tiếp theo không cần lặp lại điều đó. Trong kho tàng giai

thoại văn học Việt Nam, ta có thể thấy rõ điều này qua các chùm giai thoại có liên

quan đến: Mạc Đĩnh Chi, Lê Quý Đôn, Trạng Quỳnh, Đoàn Thị Điểm, Cao Bá Quát,

Nguyễn Công Trứ, Phan Văn Trị,... Tuy nhiên, phần lớn các giai thoại đều mang tính

độc lập.

Trong phần Khái luận công trình Giai thoại văn học Việt Nam (Tổng tập Văn học

dân gian người Việt, tập 11), Kiều Thu Hoạch tuy không trực tiếp nêu lên quan niệm

về kết cấu của giai thoại văn học nhưng qua sự phân tích dẫn chứng (giai thoại Hóa ra

dưa – Tú Xương), ông đã gián tiếp bộc lộ quan điểm. Ông cho rằng giai thoại văn học

gồm hai phần: phần giai và phần thoại. Trong đó, phần giai là phần thơ văn, câu đối,

còn phần thoại là lời đối đáp của các nhân vật. Đây cũng chính là tiêu chí để tác giả

chọn lọc, sắp xếp một văn bản tự sự vào giai thoại. Sau khi trích dẫn văn bản trên, tác

giả nhận xét: “Phải nói rằng bài thơ rất lý thú, rất dí dỏm. Nhưng mấy lời kể ở trên

chỉ có thể xem như một tiểu dẫn về hoàn cảnh sáng tác bài thơ của Tú Xương, chứ

chưa phải là một mẩu chuyện có tình tiết mang kịch tính để trở thành giai thoại. Hơn

nữa, thông thường đã gọi là giai thoại, là phải có đối thoại, đối đáp (dialogue) giữa

hai nhân vật. Ở đây, mới chỉ có Tú Xương làm thơ đùa chơi, còn phía cô gái hàng xóm

đáp lại thế nào thì không có lời kể chuyện.

Do đó, chỉ có giai mà chưa có thoại. Cũng như thế, truyện “Hóa ra dưa” hay

“Muốn hóa dưa hồng” đều chưa thành giai thoại, như đúng nghĩa của thuật ngữ” [67,

tr.32 – 33].

Quan niệm một giai thoại văn học phải có 2 phần hẳn hoi (gồm giai và thoại)

như trên của Kiều Thu Hoạch tỏ ra chưa sát với thực tiễn giai thoại văn học Việt Nam,

đặc biệt là đối với nhóm giai thoại ứng tác văn chương. Nếu nhóm giai thoại thách đố

văn chương tất yếu có phần đối đáp bằng hình thức thách đố và giải đố (bằng thơ văn)

của các nhân vật, thì trong nhóm giai thoại ứng tác văn chương, sự thách đố này không

có mặt. Thay vào đó là NVC đứng trước một tình huống thực tế và cảm hứng làm thơ

25

mà thôi. Vấn đề nằm ở chỗ đó. Trong nhiều trường hợp, NVC không cần đối đáp mà

vẫn sáng tác ra bài thơ hay, để lại một câu chuyện thú vị. (Xin xem cụ thể phần văn

bản giai thoại ở nhóm ứng tác văn chương trong Phụ lục của luận án).

Gần đây, trong công trình Luận về giai thoại (2016), Triều Nguyên cũng đưa ra

một quan niệm khá mới mẻ về kết cấu của giai thoại so với các nhà nghiên cứu đi

trước. Tác giả cho rằng kết cấu của giai thoại nói chung, trong đó có giai thoại văn học

gồm một sự việc mang tính cốt lõi và những sự việc phụ trợ xoay quanh sự việc cốt lõi

này. Về khái niệm sự việc then chốt, tác giả diễn giải như sau: “Sự việc then chốt của

phần lớn văn bản giai thoại là sự việc tiêu biểu, cốt lõi, thể hiện điều thường được gọi

là có vấn đề của một mẩu truyện kể, và vì nó mà văn bản giai thoại được dựng nên”

[115, tr.138].

Với quan niệm như vậy, Triều Nguyên đã chia kết cấu của giai thoại nói chung

(gồm cả 3 tiểu loại của giai thoại) gồm các loại sau: “1. Kiểu kết cấu thông dụng, phổ

biến: văn bản giai thoại gồm một sự việc then chốt và một số sự việc phụ trợ; và 2.

Kiểu kết cấu đặc biệt, ít gặp, gồm 3 dạng: kết cấu “chung cuộc một đời người”; kết

cấu lưỡng diện và kết cấu đa diện” [115, tr.142].

Chúng tôi tóm lược lại từng kiểu kết cấu theo quan niệm của tác giả như sau:

– Kết cấu chung cuộc một đời người là dạng kết cấu mà trong đó giai thoại kể

tường tận về nhân vật từ lúc sinh thành, tạo lập công danh, sự nghiệp cho đến khi mất

(thường thấy ở giai thoại lịch sử).

– Kết cấu lưỡng diện là dạng kết cấu đề cập đến hai hành động, ứng xử khác

nhau của một nhân vật (đáng khen hay đáng trách) trong cùng một giai thoại.

– Kết cấu đa diện nghĩa là trong truyện có kể đến nhiều hành động khác nhau của

cùng một nhân vật.

Để chứng minh cho “Kiểu kết cấu thông dụng, phổ biến: văn bản giai thoại gồm

một sự việc then chốt và một số sự việc phụ trợ”, Triều Nguyên đã dẫn ra văn bản

Khóc mướn kiếm ăn (Cao Bá Quát) để minh chứng (Xin xem Phụ lục). Nếu xâu chuỗi

lại những nhận xét của Triều Nguyên, ta có sơ đồ kết cấu của văn bản trên như sau:

Nguyên nhân dẫn đến sự việc (Cao Bá Quát đi thăm bạn) → điều kiện, cơ hội của sự

việc (Bạn không có ở nhà, đi ngang qua đám tang) → sự việc (câu đối của Cao Bá

Quát) → hệ quả của sự việc (được ca tụng, ngưỡng mộ). Cách khái quát kết cấu của

giai thoại (gồm các dạng kết cấu: các sự việc phụ trợ xoay quanh một sự việc then

chốt; kết cấu chung cuộc một đời người; kết cấu lưỡng diện và đa diện) nêu trên của

Triều Nguyên có ưu điểm khá rõ là tác giả đã bước đầu khái quát nên kết cấu dựa trên

26

cơ sở tình tiết sự việc cấu tạo tác phẩm. Tuy nhiên, chúng tôi có đôi điều băn khoăn về

kiểu kết cấu thông dụng nhất trong giai thoại (theo quan điểm của Triều Nguyên là “sự

việc cốt lõi xoay quanh một số sự việc phụ trợ”) của tác giả ở mấy điểm sau:

– Cách định danh “sự việc then chốt” này chưa có chức năng phân nhóm giai

thoại văn học (cụ thể là nhóm thách đố và ứng tác văn chương);

– Chưa định danh được các tên tình tiết cốt yếu cấu tạo nên giai thoại văn học là

gì;

– Chưa chỉ ra được sự liên kết bên trong giữa các tình tiết để tạo thành cốt

truyện.

Chung quy lại, vấn đề kết cấu của giai thoại đã được các nhà nghiên cứu đi trước

bàn đến ở 2 mức độ: các phần tạo nên giai thoại (dựa vào nội dung chính của truyện)

và các mô hình kết cấu dựa vào hành động của NVC. Và như đã nêu ở phần Mở đầu,

trong luận án này, chúng tôi đề xuất đưa ra hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu kết

cấu của giai thoại. Đó là tìm hiểu kết cấu theo hướng tình tiết, motif.

1.1.3.2. Nhân vật của giai thoại

Vấn đề các kiểu nhân vật đặc trưng trong giai thoại từng được bàn đến trong hầu

hết những tuyển tập giới thiệu giai thoại ở nước ta. Tùy theo tính chất, phạm vi tiểu

loại được đề cập, giới thiệu đến trong các tuyển tập mà sự bàn luận, lý giải của các tác

giả cũng có những mức độ đậm nhạt khác nhau. Vì chỉ giới hạn phạm vi tiểu loại là

giai thoại văn học nên trong các công trình Giai thoại văn học Việt Nam (1965) và

Giai thoại văn học Việt Nam (2004), Trần Thanh Mại và Kiều Thu Hoạch tập trung sự

chú ý vào kiểu nhân vật trí thức, tức là những nhà nho, nhà khoa bảng nổi tiếng (và có

phần nào nhắc đến vai trò của các nhà nho ẩn dật ở nhóm giai thoại khuyết danh). Các

tác giả cũng đã bước đầu chỉ ra được những căn rễ lịch sử, xã hội góp phần hình thành

nên kiểu nhân vật này. Cụ thể, đó là tư duy sùng bái chữ nghĩa (trọng Nho) trong tâm

thức Việt thời phong kiến.

Cũng bàn về các kiểu nhân vật tiêu biểu của giai thoại nhưng tác giả Vũ Ngọc

Khánh có sự khái quát hóa và phân tích cặn kẽ hơn. Qua hai công trình Kho tàng giai

thoại Việt Nam (2 tập, 1994) và Giai thoại folklore Việt Nam (1996), ông đã đưa ra

những kiểu loại nhân vật (tác giả gọi là “motif nhân vật”) như sau: nhân vật trí thức,

mưu trí; nhân vật ngông; nhân vật dị nhân; nhân vật đạo đức, nhân vật nghệ nhân dân

gian. Tác giả đã bóc tách các khía cạnh sau:

- Khuynh hướng xây dựng nhân vật (tuyệt đối hóa tài năng, trí tuệ; giải thiêng, hạ

bệ,...);

27

- Cơ sở lịch sử, xã hội hình thành nên một số kiểu nhân vật (trí thức, ngông, dị

nhân, nghệ nhận dân gian).

Như vậy, khía cạnh nhân vật của giai thoại đã được chú ý, tìm hiểu ở hầu hết

những kiểu loại của nó. Trong đó, có các kiểu nhân vật chưa thực sự được quan tâm,

bàn luận đúng mức là kiểu nhân vật nhà nho tài tử, nhà nho ẩn dật và nghệ nhân dân

gian.

1.1.3.2. Cảm hứng của giai thoại

Bên cạnh các đặc điểm về kết cấu, nhân vật, các nhà nghiên cứu đi trước đều ít

nhiều bàn đến khía cạnh cảm hứng của giai thoại. Ở Việt Nam, Trần Thanh Mại là nhà

nghiên cứu đầu tiên bàn về vấn đề này. Và nhìn chung, các nhà nghiên cứu giai thoại

về sau (như Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch,...) đều đồng thuận với quan niệm của

ông. Trong phần Tiểu luận công trình Giai thoại văn học Việt Nam (1965), Trần Thanh

Mại cho rằng trong giai thoại, “sự đả kích bao giờ cũng gắn liền với đề cao (đả kích

Minh Mạng, Tự Đức đồng thời cũng đề cao Cao Bá Quát; đả kích sư mô, quan lại,

đồng thời đề cao Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Quý Tân, Hoàng Phan Thái,...)” [65,

tr.16]. Như vậy, cảm hứng trong giai thoại là cảm hứng mang tính lưỡng diện, vừa đề

cao vừa đả kích, phê phán nhân vật quan phương.

Hai dạng cảm hứng trên, xét về mặt lịch đại, theo Trần Thanh Mại, có thể chia

thành hai thời kỳ khá tách bạch: thời kỳ đầu, khi mà giai cấp thống trị phong kiến còn

giữ được vai trò lãnh đạo (với những vua hiền, tôi trung) thì giai thoại có xu hướng đề

cao những ông vua, những ông quan tài giỏi, thanh liêm, yêu nước; và thứ hai, khi mà

giai cấp thống trị bắt đầu bộc lộ những mặt tệ đoan, xấu xa thì sự đề cao không còn

nữa, thay vào đó là xu hướng phê phán, hạ bệ. Chúng tôi cho rằng cách đánh giá trên

của Trần Thanh Mại là hoàn toàn xác đáng.

Như đã đề cập ở tính phản biện của giai thoại, xu hướng phê phán, hạ bệ nhân vật

quan phương chắc hẳn xuất phát từ những căn rễ lịch sử, xã hội cụ thể, hướng đến

những mục đích cụ thể. Các vấn đề cần làm rõ thêm ở đây là:

– Tư duy phản biện đó có xuất hiện trong truyền thống truyền miệng hay không,

nếu có thì đâu là điểm tương đồng và dị biệt;

– Trong hai biểu hiện của cảm hứng (đề cao, ca ngợi và phản biện) thì dạng cảm

hứng nào đóng vai trò chủ đạo.

– Ý nghĩa của sự phản biện đặt trong bối cảnh của thời đại cũng như lý giải

những căn rễ lịch sử, văn hóa góp phần làm sinh tư duy phản biện của giai thoại.

28

1.1.4. Phân định ranh giới và vấn đề chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và các

thể loại của tự sự dân gian

1.1.4.1. Phân định ranh giới và vấn đề chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và

truyện cười

Về vấn đề phân định ranh giới giữa giai thoại và truyện cười, các nhà nghiên cứu

đi trước cũng đã đề cập, bóc tách ở những khía cạnh, mức độ khác nhau. Sau đây,

chúng tôi sẽ điểm qua những điều cơ bản mà các tác giả đã giải quyết trong các công

trình đó. Trong công trình Giai thoại văn học Việt Nam [65, tr.14 – 18], Trần Thanh

Mại đã so sánh giai thoại văn học và truyện cười trên một số phương diện. Có thể tóm

lược bằng bảng tóm tắt dưới đây:

Bảng 1.1. So sánh truyện cười và truyện trạng của Trần Thanh Mại

Tiêu chí so sánh Truyện cười Giai thoại (văn học)

Lĩnh vực Cảm hứng

Yếu tố thơ văn, câu đối Văn học viết Đả kích (vương quyền) gắn liền với cảm hứng đề cao NVC người nổi tiếng Phải có thơ văn, câu đối

Mục đích thể loại Văn học dân gian Đả kích vương quyền và những thói hư, tật xấu trong xã hội Phần lớn truyện cười không sử dụng Phải tạo được tiếng cười

Mâu thuẫn, kịch tính Là bản chất thể loại Không nhất thiết phải có tiếng cười, gây cười Không nhất thiết phải có kịch tính

Khác với Trần Thanh Mại, Vũ Ngọc Khánh tập trung vào mức độ của tiếng cười

trong hai thể loại để phân biệt. Ông viết: “Ở truyện cười, tiếu lâm, người ta cần cái

cười, thậm chí là cười ào ạt, cái cười đập phá; ở giai thoại chỉ cần cái cười vui. Ở

truyện cười, người ta cần cái cười nghịch, giai thoại chỉ cần sự cười đùa, tiếu lâm cự

tuyệt cái cười buồn vui lẫn lộn” [91, tr.24]. Hai ý kiến tiêu biểu trên bước đầu cho

thấy những mặt tương đồng và dị biệt về hình thức và nội dung của hai thể loại. Tuy

nhiên, cần suy nghĩ thêm về một số khía cạnh như sau:

– Khó có thể lượng hóa được mức độ của tiếng cười và nhất là ý nghĩa của nó

một cách khách quan. Điều này có phần cảm tính, do đó khó có thể là tiêu chí để phân

định thể loại;

– Giai thoại và truyện cười còn có những điểm tương đồng, dị biệt trên các khía

cạnh khác như: ngôn ngữ nhân vật, kiểu nhân vật, chức năng thể loại,…

Các tác giả chưa đặt ra cũng như tìm hiểu vấn đề thâm nhập và chuyển hóa thể

loại giữa giai thoại và truyện cười (ở hai tiểu loại của nó là truyện cười không kết

29

chuỗi và truyện cười kết chuỗi – mà có một số nhà nghiên cứu gọi là truyện trạng).

Đây cũng là một trong những nội dung mà luận án sẽ triển khai, làm rõ trong các phần

sau.

1.1.4.2. Phân định ranh giới và vấn đề chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và

truyền thuyết

Đây là một trong những vấn đề mang tính chất lý luận quan trọng, không chỉ có ý

nghĩa trong việc xác lập thể loại của giai thoại mà còn mang tính định hướng cho việc

phân biệt giai thoại và truyền thuyết. Qua đó, giúp tránh tình trạng nhầm lẫn về mặt

thể loại trong các tuyển tập giai thoại và truyền thuyết. Trong các công trình giới thiệu

về giai thoại, các tác giả Trần Thanh Mại, Kiều Thu Hoạch và Vũ Ngọc Khánh đều ít

nhiều bàn đến sự hiện diện của yếu tố kỳ ảo trong giai thoại, tức là thừa nhận sự tác

động của truyền thuyết đến giai thoại, chưa thấy bàn về sự phân định ranh giới của hai

thể loại này. Mặt khác, ý kiến của các tác giả trên chỉ dừng lại ở mức độ những nhận

xét ban đầu và chưa được luận giải một cách cặn kẽ, cụ thể bằng tác phẩm. Trong một

chừng mực nào đó, những ý kiến trên sẽ mang tính chất gợi mở cho việc đào sâu, bóc

tách thêm cho các tác giả nghiên cứu ở giai đoạn sau.

Một trong những bài viết có giá trị, góp phần phân biệt giai thoại và truyền

thuyết là bài viết Bước đầu phân biệt truyền thuyết và giai thoại [23] của tác giả Võ

Phúc Châu. Bài viết với các tiêu chí so sánh cụ thể (ở hai tiểu loại là truyền thuyết lịch

sử và giai thoại lịch sử) như: quy mô tác phẩm, hình thức thể hiện, ngôn ngữ kể, giọng

kể, nhân vật, cách miêu tả, chức năng, thái độ tiếp nhận,…

Chúng tôi xin trích dẫn ra đây bảng so sánh của tác giả Võ Phúc Châu:

Bảng 1.2. So sánh giai thoại lịch sử và truyền thuyết lịch sử

TIÊU CHÍ SO SÁNH GIAI THOẠI LỊCH SỬ TRUYỀN THUYẾT LỊCH SỬ

Tự sự dân gian

Chủ yếu truyền miệng và ghi chép thành văn bản Dạng thức Cách lưu truyền

Nội dung ĐIỂM GIỐNG NHAU

Liên quan đến các sự kiện, nhân vật lịch sử, có liên hệ chặt chẽ đến tiến trình tồn vong của đất nước. Nhân vật gần với đời thực, ít yếu tố siêu nhiên, thần kỳ; có thể còn yếu tố hư cấu, tưởng tượng

Luôn ngắn, rất ngắn Có ngắn lẫn dài

ĐIỂM KHÁC NHAU Ít hoặc không có đối thoại giữa các nhân vật Giàu tính biểu cảm

Phương pháp phản ánh Quy mô tác phẩm Hình thức thể hiện Ngôn ngữ kể Giọng kể Luôn có đối thoại giữa các nhân vật Giàu tính trí tuệ Đôi khi dí dỏm, hài Luôn trang trọng, thành kính

30

TIÊU CHÍ SO SÁNH GIAI THOẠI LỊCH SỬ TRUYỀN THUYẾT LỊCH SỬ

Đặc điểm của sự kiện, tình tiết Luôn gắn với không gian thiêng, thời gian thiêng, liên quan đến vận mệnh nhân vật và dân tộc

Vị trí, vai trò của sự kiện lịch sử - Là nội dung chính của tác phẩm - Nhằm phản ánh, đánh giá lịch sử hước, phê phán Luôn gắn với không gian, thời gian sinh hoạt đời thường, hàng ngày - Không phải nội dung chính của tác phẩm - Phác họa chân dung, cách đối nhân xử thế của nhân vật lịch sử

Phải là người nổi tiếng Đặc điểm nhân vật Có thể chỉ là người xuất thân bình thường hoặc vô danh

Cách miêu tả nhân vật Cuộc đời từ chỗ bình thường hóa thành bất tử, thiêng liêng  xu hướng nâng nhân vật lên ngưỡng tôn thờ

Chức năng tác phẩm Cuộc đời đi từ chỗ bí ẩn trở về gần gũi với mọi người  xu hướng kéo nhân vật xuống đời thường - Tạo cảm giác lý thú - Rút ra bài học triết lý nhân sinh

Thái độ người tiếp nhận Có thể tin hoặc không tin - Đánh giá lịch sử -Biết ơn, tôn thờ, ngưỡng mộ người có công đức - Luôn có niềm tin - Có nhu cầu gắn tác phẩm với một chứng tích văn hóa nào đó

Qua các tiêu chí phân biệt khá cụ thể, bao quát như trên, có thể thấy bài viết tác

giả Võ Phúc Châu đã có những mặt khả thủ trong việc kiến giải, phân tích, bước đầu

chỉ ra sự tương đồng và dị biệt giữa truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử. Đó là

những gợi ý quý báu mà luận án sẽ kế thừa và phát triển thêm. Tuy nhiên, về mặt lý

luận còn một số vấn đề cần làm rõ thêm, đó là:

– Sự giao thoa, tương tác giữa truyền thuyết và giai thoại không chỉ xảy ra ở cấp

độ tiểu loại mà còn ở cấp độ thể loại;

– Về mặt cảm hứng, cùng một đối tượng người nổi tiếng, giai thoại không chỉ kéo nhân vật về cuộc sống đời thường mà còn cảm hứng khác là đề cao nhân vật,

thiêng hóa nhân vật (Đây chính là điểm giao thoa về mặt cảm hứng với truyền thuyết và giả thuyết đặt ra là: phải chăng giai thoại cũng tiếp biến một số motif để xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm theo hướng thiêng hóa từ truyền thuyết?);

– Cần làm rõ thêm sự chuyển hóa về mặt thể loại giữa giai thoại và truyền thuyết

cũng như lý giải căn nguyên của sự chuyển hóa đó là gì.

31

1.1.4.3. Phân định ranh giới và vấn đề chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và cổ

tích

Các nhà nghiên cứu đi trước như Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch đã từng lưu ý đến vấn đề giao thoa và chuyển hóa thể loại giữa cổ tích và giai thoại. Trong phần

Khái luận công trình Giai thoại văn học Việt Nam, Kiều Thu Hoạch viết: “Ngoài mối quan hệ gần gũi với truyện cười, thể loại giai thoại cũng còn có mối tương quan với

một số thể loại khác trong loại hình tự sự dân gian, như truyền thuyết, cổ tích, song số

lượng những giai thoại loại này không nhiều (…). Chùm giai thoại văn học về Trạng

Quỳnh, có thể thấy thấp thoáng motif anh chàng khôn ngoan, cơ trí của truyện cổ tích. Qua một vài ví dụ vừa nêu, cũng cho thấy ở giai thoại văn học, rõ ràng là có vấn đề

giao thoa, thâm nhập và chuyển hóa thể loại” [67, tr.51].

Nhận xét trên của Kiều Thu Hoạch đã lưu ý đến điểm giao nhau giữa giai thoại

(văn học) và cổ tích ở kiểu nhân vật cơ trí. Đây là một ý kiến hoàn toàn xác đáng.

Dưới góc độ nhân vật của mỗi thể loại mà nói, thì khó có thể dẫn đến sự nhập nhằng,

thâm nhập thể loại giữa giai thoại và cổ tích. Bởi lẽ, nhân vật của giai thoại phần lớn là

những con người nổi tiếng. Con người nổi tiếng ấy có tên tuổi, hành trạng, địa vị hẳn

hoi. Nó hoàn toàn khác với kiểu con người chung chung – con người mang tính biểu

trưng, đại diện cho giai tầng nào đó trong xã hội như trong cổ tích. Nhưng tại sao có sự

nhập nhằng về thể loại giữa cổ tích và giai thoại? Vấn đề này nhất định cần được bàn

bạc nhiều hơn.

Tóm lại, khi nghiên cứu về giai thoại, các nhà nghiên cứu đi trước cũng đã bước

đầu đặt ra vấn đề chuyển hóa thể loại giữa giai thoại với một số thể loại trong tự sự

dân gian nhưng chủ yếu là ở thể loại cổ tích. Các tác giả Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch từng lưu ý sự thâm nhập, chuyển hóa thể loại từ cổ tích (sinh hoạt) sang giai

thoại văn học ở kiểu truyện về nhân vật cơ trí (mà tiêu biểu nhất là kiểu truyện Em bé

thông minh). Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ dừng lại ở mức độ nêu luận điểm gợi ý

chứ chưa đi vào phân tích, lý giải cụ thể. Vả chăng, còn một số kiểu truyện khác cũng cho thấy sự thâm nhập, chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và cổ tích như: kiểu truyện Kén rể, kiểu truyện Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng, kiểu truyện Người học trò và

ba con quỷ,... cần phải phân tích, đào sâu thêm. Như vậy, về vấn đề phân định ranh giới và sự chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và các thể loại tự sự dân gian đã được đặt ra nhưng còn một số khía cạnh cần phải làm rõ hơn là:

– Cụ thể hóa sự phân định ranh giới giữa giai thoại và các thể loại tự sự dân gian

qua các tiêu chí cụ thể;

– Chỉ ra biểu hiện của sự thâm nhập, chuyển hóa thể loại và lý giải quy luật của

sự xâm nhập, chuyển hóa đó;

32

– Tập trung nhiều hơn vào motif sinh nở thần kỳ, bởi lẽ đó chính là motif chịu

ảnh hưởng nhiều nhất, đậm nét nhất của tự sự dân gian đến giai thoại.

1.1.5. Phân loại giai thoại

Những quan niệm về giai thoại đã dẫn ra ở trên cho thấy tính phức tạp của vấn đề

quan niệm về giai thoại và đương nhiên tác động đến cách phân loại thể loại này. Trong công trình Mỹ học folklore, chính Guxev cũng đã thừa nhận: “Các tiểu loại giai

thoại chưa phân hóa rõ rệt” [51, tr.284]. Còn ở Việt Nam, khi nghiên cứu về giai

thoại, các tác giả cũng đã đưa ra sự phân loại. Tuy tiêu chí và cách phân loại có khác

nhau nhưng cũng đã cho thấy việc phân hóa giai thoại Việt Nam có những mặt khả thủ. Ở đây, chúng tôi chỉ xin điểm qua những ý kiến tiêu biểu nhất.

Trong công trình Giai thoại văn học Việt Nam (1965), do đối tượng giới thiệu là

giai thoại văn học nên Trần Thanh Mại chỉ phân loại tiểu loại này gồm: giai thoại văn

học về các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng và giai thoại văn học khuyết danh. Như vậy, tiêu

chí để phân loại giai thoại (văn học) Việt Nam của Trần Thanh Mại là xuất phát từ

nhân vật (có tính danh cụ thể và khuyết danh). Trong các công trình biên soạn về giai

thoại (gồm Kho tàng giai thoại Việt Nam (2 tập, 1994) và Giai thoại folklore Việt Nam

(1996)), Vũ Ngọc Khánh chia giai thoại thành 3 tiểu loại là giai thoại văn học, giai

thoại lịch sử và giai thoại folklore. Tiêu chí phân loại của tác giả là dựa vào lĩnh vực

phản ánh của giai thoại. Cách phân loại này hợp lý ở chỗ nó đã bước đầu chỉ ra được

những lĩnh vực phản ánh quan trọng, tiêu biểu của giai thoại Việt Nam, qua đó định

hình nên các tiểu loại chính yếu. Vũ Ngọc Khánh cũng là tác giả đầu tiên đi sâu vào sự

phân chia nhóm của từng tiểu loại giai thoại Việt Nam. Sự phân chia này xuất phát từ

tình hình thực tiễn của tư liệu về giai thoại hiện có trong kho tàng.

Về tiểu loại giai thoại văn học, trong công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam

(1994), Vũ Ngọc Khánh chia thành các nhóm: “1. Những sáng tác thơ ca, câu đối; 2.

Những giai thoại chung quanh các tác giả” [89, tr.32]. Ở tiểu loại giai thoại lịch sử,

nhà nghiên cứu phân thành các nhóm sau: “1. Những sự kiện lịch sử (bao gồm: những câu danh ngôn, những chiến công, những hành động hoặc những ý kiến đánh giá về người và việc; 2. Những trang tình sử; 3. Những nhân vật lịch sử” [89, tr.534]. Về tiểu

loại giai thoại folklore, tác giả chia thành các nhóm: “1. Những giai thoại chung quanh các sinh hoạt văn nghệ dân gian (folklore); 2. Giai thoại về những nhân vật trong cuộc sống folklore: những ông trạng, những nghệ nhân, những nhân vật hài hước, láu

lỉnh” [89, tr.906]. Về cách phân nhóm này, dễ thấy tác giả chủ yếu dựa vào tiêu chí đề

tài, nội dung của các giai thoại.

Trong công trình Giai thoại folklore Việt Nam (1996), ở phần Biên tập đại ý, Vũ

Ngọc Khánh chủ định không phân nhóm (ông dành phần này cho người đọc), nhưng

33

thông qua sự sắp xếp văn bản ở phần mục lục, chúng ta cũng có thể hiểu được ý định

của tác giả. Căn cứ vào mục lục công trình này, chúng tôi khái quát lên các nhóm của

giai thoại folklore theo quan niệm của Vũ Ngọc Khánh như sau: 1. Giai thoại folklore về các ngành nghề (thợ thêu, thợ nhuộm, thầy thuốc, thợ đồng hồ, thợ điêu khắc, hội

họa,...); 2. Giai thoại folklore về nói khoác ở một số vùng miền; 3. Giai thoại folklore về sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian của các vùng miền (hát phường vải, hát ả

đào, hát ví giặm, hò khoan, hát bả trạo,...); 4. Giai thoại folklore về sân khấu, tuồng,

chèo; 5. Giai thoại folklore giải thích ý nghĩa, nguồn gốc của những câu phương

ngôn, ca dao, tục ngữ, thành ngữ; 6. Giai thoại folklore về tập Kiều, đố Kiều, lẩy Kiều; 7. Giai thoại folklore về các ông trạng. Như vậy, qua công trình này, Vũ Ngọc

Khánh đã có sự phân chia giai thoại folklore thành các nhóm dựa vào lĩnh vực hoạt

động xã hội, so với công trình trước đó của ông có phần cụ thể hơn.

Cũng căn cứ vào lĩnh vực phản ánh của giai thoại, Kiều Thu Hoạch đề nghị nhận

dạng giai thoại qua 2 tiểu loại chính là: giai thoại văn học và giai thoại lịch sử. Trong

từng tiểu loại, tác giả phân thành các nhóm sau: “Như giai thoại văn học có thể có

nhóm giai thoại về các tác gia văn học, và có nhóm giai thoại về các sáng tác văn học

khuyết danh, vô danh. Còn giai thoại lịch sử, thì có thể có nhóm giai thoại về danh

nhân lịch sử, danh nhân văn hóa và nhóm giai thoại đi sứ” [67, tr.53]. Chúng tôi khái

Giai thoại

(GT)

GT văn

GT lịch

học

sử

GT về

GT văn

GT danh

GT danh

GT

tác gia

học

nhân

nhân văn

đi sứ

khuyết

văn học

lịch sử

hoá

danh

quát quan niệm phân loại của Kiều Thu Hoạch qua sơ đồ sau:

Sơ đồ 1.1. Phân loại giai thoại Việt Nam của tác giả Kiều Thu Hoạch

34

Qua sơ đồ phân loại trên, chúng tôi đưa ra một số đánh giá ban đầu như sau:

Ở cấp độ tiểu loại: Tiêu chí phân loại của Kiều Thu Hoạch là dựa vào tiêu chí

lĩnh vực phản ánh (như cách phân loại của Vũ Ngọc Khánh trước đó). Tuy nhiên, sự

phân loại của Kiều Thu Hoạch rõ ràng đã bỏ qua tiểu loại giai thoại văn hóa dân gian

(hay folklore);

Ở cấp độ nhóm của từng tiểu loại: Tiêu chí phân loại có sự thay đổi, chuyển từ

lĩnh vực phản ánh sang nhân vật của từng nhóm. Như vậy, là đã có sự không thống

nhất về mặt tiêu chí trong cách phân loại giữa tiểu loại và nhóm của từng tiểu loại. Sự

thiếu thống nhất về mặt tiêu chí phân loại nêu trên còn lặp lại ở các tác giả về sau.

Trong bài viết “Giai thoại – một thể loại văn học dân gian”, tác giả Nguyễn Thị

Bích Hà nêu ý kiến chia giai thoại thành 3 tiểu loại: giai thoại văn học, giai thoại danh

nhân và giai thoại cười [45]. Tác giả cũng không đưa vào tiểu loại giai thoại lịch sử và

có quan niệm đồng nhất một bộ phận của giai thoại với truyện cười kết chuỗi (còn

được quan niệm là truyện trạng). Căn cứ vào cách phân loại của tác giả, ta thấy có sự

không đồng nhất ở tiêu chí phân loại: giai thoại văn học là căn cứ vào lĩnh vực được

phản ánh, giai thoại danh nhân là căn cứ vào tiêu chí nhân vật (tức là những con người

nổi tiếng, được nhiều người biết đến), giai thoại cười (hay hài hước) là căn cứ vào tiêu

chí tình huống của giai thoại.

Rõ ràng tiêu chí phân loại không thống nhất nên sẽ dễ dẫn đến tình trạng nhập

nhằng, khó phân định về mặt tiểu loại. Cụ thể, với một giai thoại có thơ văn (văn học)

mà nhân vật của nó là người nổi tiếng (danh nhân), lại có tình huống hài hước (hài) thì

nên xếp vào tiểu loại nào cho đúng? Thử lấy một ví dụ tiêu biểu như giai thoại Ghẹo

sư (số 34 trong Phụ lục). Nội dung giai thoại này nói về cuộc đối chọi thơ văn giữa nhà

nho Hoàng Phan Thái với sư hổ mang (thích ăn thịt chó). Vế đối của sư: “Dầu vương

cả đế”, với ngụ ý chơi chữ qua chữ vương và đế, thể hiện “khẩu khí đế vương”. Thái đáp lại: “Ỉa vãi vào sư”. Thế rồi, thay vì khẩu chiến thơ văn, sư động thủ, rượt đánh Thái. “Nhưng Thái tinh nghịch, đã vừa chạy vừa kêu: “Ối, làng nước ới! Ối, làng nước ơi!”. Người xung quanh nghe kêu đổ xô ra hỏi duyên cớ. Thái bèn mượn câu

chuyện tiếu lâm quen thuộc ở vùng đó, trả lời: “Đậu phụ chùa cắn tôi!””. Giai thoại trên có nhân vật nổi tiếng là Hoàng Phan Thái, có tình huống thơ văn đối đáp và có cả tính hài (cách nói tục và tình tiết đậu phụ chùa mà chúng ta vẫn bắt gặp trong truyện

cười dân gian). Như vậy, giai thoại này xếp vào tiểu loại nào cho đúng?

Tác giả Triều Nguyên trong công trình Luận về giai thoại, sau khi phân tích,

điểm qua cách phân loại của các nhà nghiên cứu đi trước, đã đề nghị chia giai thoại

thành hai phương án (tương ứng với hai sơ đồ). Phương án thứ nhất được tác giả đưa

35

ra là chia giai thoại thành hai hệ thống: thuộc lĩnh vực văn học và không thuộc lĩnh

vực văn học:

Hệ thống

giai thoại

(GT)

GT thuộc lĩnh vực

GT không thuộc

văn học

lĩnh vực văn học

GT

GT

GT

GT

GT

GT

nghệ

lịch sử

không

nhân

Văn

Văn

nhân,

thuộc

vật

học

học

nhà

lịch sử

tên

dân

viết

văn

tuổi

gian

Sơ đồ 1.2. Giai thoại Việt Nam phân loại theo tiêu chí thuộc văn học

và không thuộc văn học

Tác giả diễn giải lý do của cách phân loại này như sau: “Người phân loại muốn

nó (tức sơ đồ trên) giúp việc nhận ra một cách rõ ràng, điều cho tổng thể giai thoại

thuộc văn học dân gian là không hợp lẽ” [115, tr.346]. Tiêu chí phân loại của Triều

Nguyên ở sơ đồ này (gồm hai hệ thống: giai thoại thuộc lĩnh vực văn học và giai thoại

không thuộc lĩnh vực văn học) là dựa theo phương pháp loại suy trong Logic học

(dùng cái A và cái không A để loại trừ nhau). Nhìn tổng thể có vẻ ổn nhưng thực ra lại

chất chứa những mâu thuẫn nội tại.

Cấp độ thứ nhất: tiểu loại của giai thoại

Nhìn vào sơ đồ trên, có thể thấy tiêu chí cốt lõi để phân loại của tác giả là tiêu chí

văn chương (cái A), còn lại hiển nhiên là các lĩnh vực khác ngoài văn chương. Các

lĩnh vực khác ấy được ngầm hiểu là lĩnh vực lịch sử và văn hóa dân gian. Ba lĩnh vực

văn chương – lịch sử – văn hóa dân gian tồn tại một cách đồng đẳng, ngang hàng với

nhau, cho nên, có thể khẳng định: nhánh giai thoại không thuộc lĩnh vực văn học đã

bao gồm hai tiểu loại là giai thoại lịch sử và giai thoại văn hóa dân gian. Và như vậy

thì cách chia này đã vi phạm nguyên tắc đồng đẳng – tức là đem xếp giai thoại văn hóa

dân gian và giai thoại lịch sử ở cấp độ thấp hơn giai thoại văn học (chỉ ngang hàng với

36

các nhóm của giai thoại văn học).

Cấp độ thứ hai: các nhóm cụ thể của từng tiểu loại

Ta thấy, tiêu chí để phân nhóm ở đây tiếp tục có vấn đề, cụ thể nhánh giai thoại

không thuộc lĩnh vực văn học gồm giai thoại lịch sử và giai thoại không thuộc lịch

sử là căn cứ vào tiêu chí lĩnh vực phản ánh, trong khi nhóm giai thoại nhân vật tên

tuổi lại căn cứ vào tiêu chí nhân vật. Nhân vật tên tuổi ở đây tức là nhân vật danh nhân

(hay người nổi tiếng). Như vậy, nhánh này vi phạm nguyên tắc phân loại cơ bản là:

cùng một cấp nhưng có đến hai tiêu chí khác nhau. Và lẽ dĩ nhiên, sẽ có những giai

thoại nhập nhằng nhau, khó xếp loại vào nhóm nào cho thuyết phục. Ví dụ, giai thoại

Thuyền quyên ứ hự kể về tình sử của Nguyễn Công Trứ (là người nổi tiếng), lại có thơ

văn (đối đáp của ông với giai nhân) thì nên xếp vào nhóm nào cho đúng: giai thoại văn

học, giai thoại lịch sử hay giai thoại danh nhân?

Ở nhánh còn lại, nhánh giai thoại văn học, tác giả cũng mắc lỗi tương tự về mặt

logic, đưa ra hai tiêu chí phân loại khác nhau: nhóm giai thoại văn học viết và giai

thoại văn học dân gian là căn cứ vào tiêu chí lĩnh vực trong khi nhóm giai thoại thứ ba

là giai thoại nghệ nhân (tức nghệ nhân dân gian) và nhà văn lại căn cứ vào tiêu chí

nhân vật. Điều không thuyết phục rõ nhất của sự phân nhóm này nằm ở chỗ tác giả đã

xếp giai thoại nghệ nhân (đúng hơn là nghệ nhân dân gian – những con người giỏi về

hát hò, diễn xướng dân gian) vào trong lĩnh vực văn học, trong khi đó, trên thực tế,

lĩnh vực văn học và văn hóa dân gian lại tồn tại đồng đẳng với nhau, không thể xem

văn hóa dân gian là một nhánh của văn học. Vì vi phạm nguyên tắc logic nên sự phân

nhóm trên sẽ dẫn đến hệ lụy là rất khó xếp một văn bản giai thoại cụ thể vào trong

nhóm nào của 3 nhóm. Ví dụ, với các giai thoại về các cuộc hò hát đối đáp của các nhà

nho tài tử như Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu, Nguyễn Du,… thì xếp vào nhóm

giai thoại nào cho thuyết phục (dân gian, nghệ nhân hay nhà văn)? Tóm lại, sơ đồ phân

loại thứ nhất này của Triều Nguyên chưa thật sự khiến chúng ta thỏa mãn, bởi lẽ nó

còn tồn tại nhiều chỗ mâu thuẫn như đã nêu rõ ở trên.

Ở phương án thứ hai, tác giả tiếp thu cách chia của nhà nghiên cứu Vũ Ngọc

Khánh, chỉ sửa lại thuật ngữ “giai thoại folklore” thành “văn hóa dân gian”. Ông cũng

chỉ rõ ưu và khuyết điểm của cách chia này: “Ưu điểm của cách phân loại này là nhấn

mạnh vai trò của giai thoại folklore qua các lĩnh vực của nó (các lĩnh vực ấy không

vượt qua ngoài quan niệm của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian hiện nay). Đồng

thời khuyết điểm cũng không khó nhận ra, là có sự đan xen, có phần giao nhau giữa

các yếu tố được phân” [115, tr.347]. Sơ đồ này như sau:

37

Hệ thống giai thoại

(GT)

GT văn hóa dân

GT lịch sử

GT văn học

gian

GT

GT

GT

GT

GT

(

văn

sự kiện

văn

sân

các

(…)

vật

học

học

khấu

lịch sử

nghề

dân

dân

viết

thủ

GT nhân

gian

gian

công

lịch sử

Sơ đồ 1.3. Giai thoại Việt Nam phân loại theo tiêu chí đề tài

Điểm mới trong cách phân loại của Triều Nguyên so với cách phân loại trước đó

của Vũ Ngọc Khánh là ở chỗ chỉ ra được giai thoại gồm hai bộ phận (giai thoại văn

học viết và giai thoại văn học dân gian) và hơn nữa, mặc dù là một bộ phận của văn

học dân gian nhưng giai thoại văn học dân gian cũng là một bộ phận của văn hóa dân

gian (bên cạnh giai thoại sân khấu, giai thoại về các ngành nghề thủ công,…).

Về phân loại tiểu loại giai thoại văn hóa dân gian, trong công trình Giai thoại văn

hóa dân gian người Việt [114], Triều Nguyên phân chia tiểu loại này thành các nhóm,

tiểu nhóm như sau:

1. Giai thoại về tín ngưỡng, phong tục;

2. Giai thoại về ngữ văn dân gian, gồm các loại: a. Giai thoại về văn học dân

gian; b. Giai thoại về hò hát dân gian; c. Giai thoại liên quan đến một số thể, dạng thơ

văn cũng dùng trong văn học viết; d. Giai thoại về ngữ nghĩa, lời ăn tiếng nói;

3. Giai thoại về sân khấu truyền thống nói chung gồm các tiểu nhóm: a. Giai

thoại về chèo; b. Giai thoại về tuồng; c. Giai thoại về cải lương;

4. Giai thoại về một số ngành nghề thủ công truyền thống; về sức khỏe, ẩm thực,

giải trí và về tri thức dân gian.

Điều đáng chú ý là ở nhóm thứ 1. Giai thoại về tín ngưỡng, phong tục, Triều

38

Nguyên đưa vào cả những văn bản về Trạng Tả Ao (vốn được xem là truyền thuyết)

vào trong hệ thống giai thoại. Các nhóm còn lại, nhìn chung đều ít nhiều dựa trên sự

phân nhóm của Vũ Ngọc Khánh trước đó. Chúng ta sẽ nhận xét về sơ đồ thứ hai này

của Triều Nguyên.

Ở cấp độ thứ nhất: tiểu loại của giai thoại

Cách phân loại giai thoại thành 3 tiểu loại: văn học, lịch sử và văn hóa dân gian

(mang tính kế thừa thành tựu nghiên cứu của Vũ Ngọc Khánh) tỏ ra hợp lý vì nó bao

hàm 3 lĩnh vực cơ bản của giai thoại.

Ở cấp độ thứ hai: nhóm của các tiểu loại

Với tiểu loại giai thoại lịch sử, cách phân nhóm: giai thoại về nhân vật lịch sử và

sự kiện lịch sử tỏ ra chưa hợp lý vì một nhóm thì căn cứ vào tiêu chí nhân vật, nhóm

còn lại căn cứ vào tiêu chí tính chất sự việc. Cách chia này sẽ gây ra rất nhiều khó

khăn khi phân nhóm giai thoại lịch sử. Ví dụ, với các giai thoại lịch sử có liên quan

đến triều đại nhà Nguyễn như: Xâu chuỗi trăm hoa, Vụ loạn luân trong mưu đồ sâu

sắc, Người đẹp cứ yên tâm,… (Kho tàng giai thoại Việt Nam – Vũ Ngọc Khánh) thì

nên xếp vào nhóm nào cho đúng? Bởi chúng đều gắn liền với các nhân vật lịch sử hẳn

hoi (Trương Phúc Loan, Tống thị, chúa Nguyễn Phúc Khoát, Nguyễn Thị Ngọc Cầu,

chúa Nguyễn Ánh,…) và cả sự kiện lịch sử: các mưu đồ phản loạn của Trương Phúc

Loan, Tống thị, Nguyễn Thị Ngọc Cầu; Nguyễn Ánh chiếm kinh đô Phú Xuân của

triều Tây Sơn,... Không những thế, các giai thoại này còn dính dáng đến cả chuyện

tình yêu cá nhân của các nhân vật ấy (loạn luân, lấy hoàng hậu của tiền triều). Như

vậy, việc xếp các giai thoại nêu trên vào nhóm nào là cả một vấn đề chứ không hề đơn

giản. Do vậy, theo chúng tôi, cách chia giai thoại lịch sử thành 2 nhóm như trên chưa

thuyết phục, cần phải suy nghĩ thêm.

Với tiểu loại giai thoại văn học, tác giả chia thành giai thoại văn học viết và giai

thoại văn học dân gian. Trên đại thể, cách chia này chưa có gì mới so với quan niệm

của Trần Thanh Mại (Giai thoại văn học Việt Nam, 1965). Điểm mới của Triều

Nguyên là ông đã thấy được sự giao thoa giữa văn học và văn hóa dân gian qua nhóm

giai thoại văn học dân gian (mặc dù chưa đi vào lý giải). Tuy nhiên, theo quan điểm

của chúng tôi, sự phân định một cách rạch ròi giữa giai thoại văn học viết và giai thoại

văn học dân gian là không cần thiết về mặt lý luận và thực tiễn (chúng tôi sẽ trình bày

lý do ở các phần sau của luận án). Cho nên, sự phân nhóm này sẽ rất nhập nhằng khi

áp dụng vào thực tiễn giai thoại, đặc biệt là những giai thoại có sự pha trộn giữa chất

liệu bác học và dân gian. Thử lấy một ví dụ, chẳng hạn như giai thoại Bò đen bò vàng

39

có NVC là nhà nho Nguyễn Xuân Ôn. Nội dung tóm lược như sau: Ông Nguyễn Xuân

Ôn thấy hai nho sinh nửa mùa đố chữ nhau nên tức cười, bèn ra câu đố: “Bò đen húc

lộn bò vàng/ Hai con húc chắc té quàng xuống sông”. Hỏi con nào đực, con nào cái?

Nhân vật của giai thoại trên hiển nhiên là người nổi tiếng, còn hình thức câu đố (thể

lục bát) và cách thức chơi chữ (theo cách phát âm địa phương vùng Nghệ Tĩnh, thanh

dấu nặng phát âm thành dấu huyền) thì rõ ràng là lấy chất liệu từ dân gian. Như vậy thì

nên xếp vào nhóm nào cho thuyết phục? Với tiểu loại giai thoại văn hóa dân gian, cách

chia của Triều Nguyên ít nhiều chịu ảnh hưởng từ quan niệm của Vũ Ngọc Khánh (có

bổ sung thêm đôi chỗ), trên đại thể là hợp lý và có thể áp dụng vào phân loại giai thoại

Việt Nam.

Trở lại vấn đề phân loại giai thoại, điều khó khăn nhất trong việc phân loại, như

đã từng nhấn mạnh ở các phần trên của luận án là sự giao thoa, chồng lấn ranh giới của

các lĩnh vực chủ yếu trong giai thoại. Không nắm bắt được đặc điểm này, sự phân loại

sẽ rất khó đứng vững, thậm chí mâu thuẫn, chồng chéo lên nhau. Thử lấy một ví dụ

tiêu biểu về trường hợp giai thoại đi sứ. Với nhóm giai thoại đi sứ, có hai quan niệm

khác nhau: xếp hẳn vào giai thoại văn học và giai thoại lịch sử. Điểm chung của giai

thoại lịch sử và giai thoại văn học có liên quan đến đề tài đi sứ là đều dựa vào sức

mạnh trí tuệ thiên về văn chương để làm nên tính hấp dẫn, lôi cuốn. Nói như Vũ Ngọc

Khánh: “Đúng ra thì việc đi sứ thuộc hiện tượng lịch sử, nhưng hầu hết các cuộc giao

thiệp này đều xoay quanh những câu chuyện đối đáp, thử tài (…). Trường hợp kể

chuyện dồi dào nhất có lẽ là của Mạc Đĩnh Chi, thì toàn là câu đối và câu đối” [89,

tr.38]. Sự xen lẫn hai yếu tố trên khiến cho cách nhìn nhận và phân loại chưa thống

nhất là vậy.

Việc phân định thiếu rõ ràng này từng được V. Propp đề cập: “Trong trường hợp

ấy, ta có hai thể loại cùng sử dụng chung một cốt truyện. Điều đó có liên quan đến

những yếu tố bền vững và những yếu tố thay đổi trong folklore nói chung” [44, tr.318].

Thế thì, một câu hỏi được đặt ra là: trong giai thoại lịch sử (về đề tài đi sứ) và giai

thoại văn học; điểm chung, điểm bền vững của chúng là gì, và yếu tố nào bất biến, khả

biến? Giải đáp được điều này, chúng ta phần nào trả lời được câu hỏi nên xếp mảng

giai thoại đi sứ vào tiểu loại nào của giai thoại.

Chúng ta thấy các nhân vật đi sứ có thể khác nhau về thời đại, xuất thân,…

nhưng họ đều là những bậc văn tài, có tài ứng phó, luôn hoàn thành những thử thách

được đưa ra. Họ đều là những ông trạng nguyên, những nhà khoa bảng, có xuất thân từ

con đường khoa cử, nổi tiếng về văn chương trong thời đại của mình. Chuỗi giai thoại

40

đi sứ của Mạc Đĩnh Chi là một minh chứng sinh động cho những trường hợp như thế.

Như vậy, yếu tố khả biến ở đây là yếu tố lịch sử, sự kiện, hoàn cảnh lịch sử, còn yếu tố

bất biến chính là tài năng ứng phó của các nhân vật trong từng huống cảnh riêng biệt

đó.

Xét về mặt tư tưởng, các giai thoại này tuy có liên quan đến sự kiện lịch sử cụ thể

(địa điểm, thời gian, danh tính nhân vật,…), nhưng phần cốt lõi nhất vẫn là các diễn

ngôn mang tính văn học của các nhân vật. Trong đó, yếu tố lịch sử đóng vai trò làm

nền để làm nổi bật tính văn học, bác học của câu chuyện. Chẳng hạn, nếu xâu chuỗi lại

hàng loạt những giai thoại đi sứ của Mạc Đĩnh Chi (Ra đối dễ, đối đối khó; Lưỡng

quốc trạng nguyên; Bốn chữ nhất, Ruột vuông,…), ta có thể tìm thấy yếu tố vận mệnh

nào của dân tộc được khúc xạ qua hàng loạt biến cố của nhân vật? Giai thoại Bốn chữ

nhất chẳng hạn. Vua nhà Nguyên đưa ra một thử thách khó khăn, hoàn thành bài văn

tế khi chỉ có bốn chữ nhất trên tờ giấy trắng. Và với tài ứng phó tinh diệu, sở trường

văn chương trác việt, Mạc Đĩnh Chi đã ứng khẩu đọc liền một mạch bài văn. Phải

chăng đây là trường hợp văn học hóa, bác học hóa các sự kiện lịch sử, mà cụ thể là

việc đi sứ? Nếu chúng ta gạt đi những câu đối, bài thơ ra khỏi lãnh địa giai thoại đi sứ,

thì tất cả những gì còn lại, theo chúng tôi, không gì khác hơn những sự kiện lịch sử

đơn thuần. Và các giai thoại đó sẽ mất đi tính lý thú mà nhân dân muốn đề cao, tôn

vinh nhân vật. Do đó, nếu căn cứ vào đặc trưng tính bác học, văn học (hay yếu tố bất

biến của cốt truyện), chúng tôi đồng tình với quan điểm xếp giai thoại đi sứ vào tiểu

loại giai thoại văn học, như ý kiến của Vũ Ngọc Khánh và Kiều Thu Hoạch đã đặt ra

trong Kho tàng giai thoại Việt Nam [89] và Giai thoại văn học Việt Nam [67].

Tóm lại, về mặt phân loại, chúng tôi thấy quan niệm của Vũ Ngọc Khánh (chia

giai thoại thành 3 tiểu loại) tỏ ra phù hợp với tình hình tư liệu giai thoại ở nước ta hiện

nay hơn cả. Tuy nhiên, dựa trên thành quả đó, chỉ cần bổ sung thêm vài điểm để có thể

hoàn thiện hơn. Ở trên, chúng tôi đã chỉ ra một số bất cập cụ thể trong cách phân loại

của từng tác giả. Nguyên nhân cơ bản của vấn đề nằm ở chỗ các tác giả đưa ra tiêu chí

chưa hợp lý khi phân loại cho các cấp độ tiểu loại và nhóm của tiểu loại, từ đó dẫn đến

tình trạng nhập nhằng, chồng chéo. Do vậy, cần phải đưa ra một tiêu chí phân loại duy

nhất để có thể khắc phục tình trạng này. Đó cũng là một trong những vấn đề đặt ra với

luận án ở khía cạnh phân loại giai thoại Việt Nam.

1.2. Tình hình tư liệu, đánh giá và xử lý tư liệu giai thoại Việt Nam

1.2.1. Tình hình tư liệu giai thoại Việt Nam

Ở mục trên, luận án đã điểm qua tình hình nghiên cứu giai thoại ở Việt Nam

41

cũng như một số nước tiêu biểu trên thế giới ở góc độ tiếp cận theo vấn đề gồm: thuật

ngữ, đặc điểm thể loại, một số phương diện thi pháp thể loại, phân loại. Trong mục

này, luận án tập trung đi vào tình hình tư liệu giai thoại Việt Nam qua các thời kỳ đã

được sưu tầm, giới thiệu như thế nào. Vì tư liệu là cơ sở để khái quát nên lý thuyết thể

loại nên khi điểm qua tư liệu của các thời kỳ, chúng tôi cũng sẽ lưu ý khuynh hướng lý

thuyết nào đã được khái quát nên từ nguồn tư liệu đó. Nói khác đi, mục này sẽ đi vào

vấn đề tư liệu giai thoại và lý thuyết thể loại về giai thoại gắn liền với nó theo tiến

trình lịch sử.

Tính từ Chuyện đời xưa (1866) [82], công trình giới thiệu về giai thoại có thể

xem là sớm nhất, đến nay, trải qua 135 năm, đã có trên dưới 30 công trình sưu tầm,

khảo cứu về giai thoại Việt Nam. Trong số đó, các công trình nghiên cứu về lý thuyết

thể loại chỉ có vài ba công trình, còn lại phần lớn là các sách sưu tầm và biên soạn tác

phẩm giai thoại Việt Nam nói chung và giai thoại theo từng nhân vật hoặc từng địa

phương nói riêng, trong đó có thể hiện ít nhiều quan điểm lý thuyết thể loại của tác

giả. Qua các công trình này, chúng tôi nhận thấy sự khái quát lý thuyết từ thực tiễn tác

phẩm được tìm thấy, nhận diện qua những giai đoạn khác nhau. Do vậy, phần trình

bày lịch sử sưu tầm, nghiên cứu giai thoại Việt Nam sẽ trải ra theo các giai đoạn lịch

sử sau đây:

– Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX đến 1945;

– Giai đoạn 1945 đến 1975;

– Giai đoạn 1975 đến nay.

Lẽ cố nhiên, việc phân định và chọn mốc thời gian chỉ mang tính chất tương đối.

Mỗi giai đoạn như vậy tương ứng với một bước phát triển trong quá trình sưu tầm và

khảo cứu về giai thoại Việt Nam. Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX đến 1945 gắn với

khuynh hướng sưu tầm là chính, còn về lý thuyết thể loại, giai thoại chưa thực sự được

quan tâm. Giai đoạn 1945 – 1975 gắn với khuynh hướng giới thiệu giai thoại văn học

là chủ yếu và nghiên cứu giai thoại từ góc nhìn của văn học viết. Giai đoạn từ 1975

đến nay, giai thoại được giới thiệu ở tất cả các tiểu loại và lĩnh vực của nó một cách

toàn diện, bao quát và gắn với sự đa dạng về tư liệu, trong đó, có sự thay đổi trong

quan niệm về giai thoại: giai thoại được nhìn từ góc độ folklore và góc độ tổng hợp,

không đơn thần chỉ dưới góc độ văn học viết.

1.2.1.1. Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX đến 1945

Giai đoạn này có thể chia thành hai giai đoạn nhỏ là: từ nửa cuối thế kỷ XIX đến

1900 và từ 1900 – 1945.

42

Giai đoạn từ nửa cuối thế kỷ XIX đến 1900

Nổi bật nhất trong các công trình giới thiệu giai thoại nửa cuối thể kỷ XIX là

công trình Chuyện đời xưa của học giả Trương Vĩnh Ký. Theo lời của NXB Khai Trí

(tái bản sách này vào năm 1962 ở Sài Gòn), quyển Chuyện đời xưa [82] được in lần

đầu vào năm 1866, với ba ngôn ngữ là tiếng Pháp, Hán tự và chữ quốc ngữ. Từ đó về

sau, sách đã được tái bản rất nhiều lần. Sách này tập hợp nhiều thể loại khác nhau

(truyện cười, cổ tích, ngụ ngôn, giai thoại,...) gồm cả thảy 74 đơn vị tác phẩm. Về bản

chất, đây là công trình giới thiệu những câu chuyện cổ bao gồm nhiều thể loại. Trong

đó, qua khảo sát, chúng tôi thống kê có 06 truyện là giai thoại. Như vậy, có thể khẳng

định, việc sưu tầm, giới thiệu giai thoại Việt Nam thực ra đã diễn ra từ trước 1900,

nhưng nó lại nằm lẫn lộn cùng với nhiều thể loại văn học dân gian khác. Vả chăng,

những câu chuyện mang tính chất giai thoại trong quyển này phần lớn là những giai

thoại văn học khuyết danh (chỉ có 01 giai thoại văn học gắn với nhân vật khoa bảng

nổi tiếng thời trung đại là Nguyễn Đăng Giai). Do vậy, việc giới thiệu giai thoại xét

cho cùng là một việc chưa mang tính chủ đích cụ thể về mặt thể loại. Cho nên rất khó

tìm ra những điểm nhấn mạnh về đặc trưng giai thoại.

Giai đoạn từ 1900 – 1945

Việc sử dụng phổ biến chữ quốc ngữ trong giai đoạn này có tác động mạnh mẽ

đến tình hình sưu tầm và giới thiệu văn học truyền miệng, trong đó có bộ phận giai

thoại. Năm 1912, Phan Kế Bính công bố công trình Nam Hải dị nhân liệt truyện (Lê

Văn Phúc hiệu chính) [17]. Công trình này gồm 8 chương, được sắp xếp theo các

nhóm nhân vật (Các đấng bậc: đại anh kiệt, danh nhân, danh hiền, văn tài, mãnh

tướng,…). Quan khảo sát, chúng tôi nhận thấy phần lớn các tác phẩm được giới thiệu

tập trung ở thể loại truyền thuyết và giai thoại.

Từ năm 1925 đến 1930, Trần Trung Viên đã sưu tầm, giới thiệu nhiều thơ văn

cổ, tập hợp lại trong sách Văn đàn bảo giám [160]. Đến năm 1931, ông cùng với các

tác giả Dương Bá Trác, Trần Tuấn Khải, Nguyễn Khắc Hiếu sưu tầm thêm, in lại, có

bổ sung, thành 3 tập. Sách được trình bày thành 05 phần với nhiều nội dung, từ vấn đề

văn học sử, đến các thể loại thơ ca và văn xuôi trung đại Việt Nam. Trong đó, tác giả

dành phần 2 (Giai thoại làng văn) để giới thiệu 88 đơn vị tác phẩm giai thoại văn học

xoay quanh những tác giả văn học (hoặc các nhân vật lịch sử có sáng tác văn chương,

không xếp theo lịch đại) từ đời Lý trở về sau như: Lý Công Uẩn, Lê Thánh Tông,

Nguyễn Hiền, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Bà

Huyện Thanh Quan, Tú Xương, Nguyễn Hòe,...

43

Năm 1931, tác giả Nguyễn Văn Ngọc giới thiệu quyển Câu đối [108] (Vĩnh

Hưng Long Thư quán xuất bản). Sách được chia thành 06 chương mục trình bày các

loại câu đối như: câu đối toàn Nôm, câu đối Nôm pha chữ, câu đối chữ Hán, câu đối

liều, câu không đối được, câu đối không giải nghĩa. Công trình này có 261 tác phẩm,

trong đó có 60 tác phẩm đủ tiêu chí của văn bản tự sự (có cốt truyện) và giai thoại văn

học (có tình huống đối đáp văn chương), còn lại chỉ mang tính chất liệt kê và giảng

giải ý nghĩa câu đối, chưa phải là giai thoại theo đúng nghĩa chặt chẽ. Điều đáng lưu ý

là các sách giới thiệu giai thoại ở giai đoạn sau (như Giai thoại văn học Việt Nam

(1965) của nhóm Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh Mại; Kho tàng

giai thoại Việt Nam (1994) của Vũ Ngọc Khánh; Giai thoại văn học Việt Nam (2004)

của Kiều Thu Hoạch,…) có nhiều tác phẩm được dẫn lại từ quyển này, tuy có thay đổi

về tên gọi. Như vậy, giá trị lớn nhất của quyển sách là ở việc giới thiệu tác phẩm giai

thoại, với một nhóm nhỏ là giai thoại về câu đối (thuộc tiểu loại giai thoại văn học).

Công trình tiếp theo là Chuyện cổ nước Nam (1934) (2 tập) [109] của Ôn Như

Nguyễn Văn Ngọc. Tuy phần lớn quyển sách giới thiệu cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười

nhưng tác giả cũng giới thiệu lẫn vào đó một số giai thoại. Chẳng hạn, trong quyển 1

(còn gọi là Quyển thượng, có tựa đề “Người ta”, gồm 120 đơn vị tác phẩm), qua khảo

sát, chúng tôi xác định có 09/120 đơn vị tác phẩm là giai thoại văn học (trường hợp

ứng tác và thách đố văn chương).

Công trình có ý nghĩa đặc biệt phải kể đến Việt sử giai thoại (NXB Cộng Lực,

1934) [117] của Đào Trinh Nhất. Đây là lần đầu tiên giai thoại được xác định trực diện

ở tựa sách. Quyển sách này gồm 7 đề mục, kể những mẩu chuyện liên quan đến các

nhân vật (vua Gia Long, khai quốc công thần Nguyễn Văn Thành, công chúa Huyền

Trân, nàng Chiêm Rao Luật, nữ sĩ Đoàn Thị Điểm,…) và sự kiện lịch sử từ thời phong

kiến cho đến thời kỳ cận hiện đại của Việt Nam (về trận hải chiến với Hà Lan thời Lê -

Trịnh, việc chế tạo đồng hồ báo thức và tàu thủy như người phương Tây,…). Mặc dù

có phần bàn luận, khảo cứu nhưng nó hoàn toàn tách biệt với truyện. Và do vậy, các

câu chuyện được chép trong Việt sử giai thoại vẫn mang tính chất của những giai thoại

lịch sử.

Tóm lại, việc sưu tầm, giới thiệu giai thoại ở giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến 1945 chỉ đóng góp về mặt tư liệu, chưa thấy đề cập, phân tích về mặt lý thuyết thể loại. Trong đó, các tác giả đã giới thiệu được hai tiểu loại chính của giai thoại là: giai thoại

văn học và giai thoại lịch sử (chưa giới thiệu được giai thoại văn hóa dân gian). Số lượng các công trình giới thiệu giai thoại cũng khá mỏng. Vả chăng, về mặt văn bản,

giai thoại còn nằm lẫn lộn với những thể loại tự sự dân gian khác (như truyện cười, cổ

44

tích, ngụ ngôn), nghĩa là chưa có sự phân biệt, ý thức về mặt thể loại. Riêng chỉ có

công trình Việt sử giai thoại của Đào Trinh Nhất có sử dụng thuật ngữ giai thoại một

cách chính thức và tỏ ra hợp lý khi định danh tiểu loại giai thoại lịch sử (với cấu trúc Hán Việt nhưng chưa giới thuyết về thể loại). Tất cả những biểu hiện trên cho thấy giai

thoại chưa thực sự nhận được sự quan tâm từ các nhà nghiên cứu và cũng chưa được nhìn nhận như một thể loại độc lập.

1.2.1.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975

Ở giai đoạn này, về mặt lịch sử, nước ta có sự chia cắt hai miền Nam Bắc. Tình

hình sưu tầm, giới thiệu và nghiên cứu về giai thoại ở hai miền cũng có những đặc điểm khác nhau. Sau đây, luận án điểm qua những công trình tiêu biểu về giai thoại

trong giai đoạn 1945 – 1975. Ở miền Bắc, vào năm 1965, nhóm tác giả Hoàng Ngọc

Phách, Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh Mại cho ra mắt công trình Giai thoại văn học

Việt Nam [65]. Sách giới thiệu tiểu loại giai thoại văn học với 254 đơn vị tác phẩm,

chia thành 2 phần: Tiểu luận và giới thiệu văn bản. Đây là công trình giới thiệu tác

phẩm giai thoại văn học đầu tiên ở nước ta. Tác giả Trần Thanh Mại đã chấp bút phần

Tiểu luận và đưa ra quan điểm về giai thoại ở các khía cạnh: định nghĩa, đặc trưng thể

loại. Nhưng phần quan niệm này chỉ gói gọn trong phạm vi bộ phận giai thoại văn học

nên cũng chưa bao quát hết được những đặc trưng thể loại của giai thoại (ở hai tiểu

loại còn lại là giai thoại lịch sử và giai thoại văn hóa dân gian). Đây là công trình đầu

tiên đưa ra quan niệm cụ thể về giai thoại Việt Nam và có sự ảnh hưởng nhất định đến

các tác giả sau này như Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch.

Ở miền Nam, có hai công trình giới thiệu giai thoại đáng chú ý là Giai thoại văn

chương Việt Nam (1958) của Thái Bạch và Giai thoại làng nho (xuất bản lần đầu vào năm 1963) của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc. Cả hai công trình này đều chỉ giới hạn giới

thiệu giai thoại ở phạm vi văn học. Trong công trình Giai thoại văn chương Việt Nam

[12], tác giả Thái Bạch giới thiệu 62 giai thoại văn học, gồm các tác giả nhà nho nổi

tiếng thời trung đại và nhân vật khuyết danh. Truyện được sắp xếp theo lịch đại, từ thời Tiền Lê (vua Lê Đại Hành) đến thời hiện đại (trường hợp nhà văn Hồ Biểu Chánh). Tác giả có trình bày cả Hán tự bên cạnh phần phiên âm nhưng không chú

thích dị bản. Mở đầu tác phẩm là phần giới thiệu của tác giả về nhân vật sắp kể, sau đó là phần câu chuyện có liên quan đến nhân vật, cuối cùng là phần giảng giải, bình luận của người biên soạn. Trong phần Lời tựa, Thái Bạch đã nêu đôi nét về đặc điểm của

giai thoại như sau: “Giai thoại là những chuyện hay và lạ được truyền tụng phổ thông

trong khắp các từng lớp nhân dân. Cùng với các chuyện cổ tích, tiếu lâm và phong dao, tục ngữ, giai thoại cũng là một sản phẩm văn nghệ biểu hiện cho tình cảm và nếp

sống của dân tộc. Nhưng khác hơn, giai thoại là những chuyện có thật, nghĩa là

45

xuất phát từ sự thật, từ những nhân vật có tên tuổi và sự kiện rõ ràng” [12, tr.6].

Trong nhận xét trên, chúng tôi thấy có mấy điểm đáng quan tâm sau: 1. Tác giả mặc

dù không khẳng định giai thoại là một thể loại văn học dân gian nhưng đã thừa nhận hình thức truyền miệng (“được truyền tụng phổ thông trong khắp các từng lớp nhân

dân”) và đặt giai thoại trong hệ thống các thể loại văn học dân gian (“chuyện cổ tích, tiếu lâm và phong dao, tục ngữ”); 2. Thái Bạch quan niệm giai thoại là một thể loại kể

về người thật việc thật (“giai thoại là những chuyện có thật, nghĩa là xuất phát từ sự

thật, từ những nhân vật có tên tuổi và sự kiện rõ ràng”).

Nối tiếp công trình trên của Thái Bạch là công trình Giai thoại làng Nho (1963) [34] của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc (lời tựa của Đoàn Thêm). Khác với những công

trình sưu tầm khác, ở công trình này, tác giả giới thiệu giai thoại theo tên của nhân vật

(nhà văn, nhà thơ, nhà khoa bảng), trình bày một cách liền mạch, từ nhân vật này đến

nhân vật khác, cả thảy gồm 94 nhân vật. Các truyện kể được viết liền kề nhau, ngăn

cách bằng hình thức ba dấu sao (***), hoặc không cần đánh dấu. Do vậy, trong nhiều

trường hợp, người đọc phải tự phán đoán nội dung để tự chuyển sang truyện khác.

Công trình này không có phần Tiểu luận và phân tích về đặc trưng thể loại của giai

thoại. So với công trình trước đó của Thái Bạch, đóng góp của công trình này là phần

văn bản, có chua và giải thích cặn kẽ những điển tích, Hán tự, cũng như chú thích

thêm phần dị bản.

Nhìn chung, ở giai đoạn 1945 – 1975, giai thoại đã được thừa nhận về mặt văn

bản, tức là đã được định danh một cách hẳn hoi qua tên của các công trình sưu tầm,

giới thiệu. Tuy nhiên, như đã thấy, các tác giả chỉ tập trung sự chú ý vào tiểu loại giai

thoại văn học, chưa thực sự quan tâm đến giai thoại lịch sử và giai thoại văn hóa dân gian. Các tác giả ở miền Bắc (nhóm Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh

Mại) có đóng góp rõ rệt về mặt nghiên cứu lý thuyết thể loại của giai thoại so với các

tác giả ở miền Nam. Tuy nhiên, quan niệm về giai thoại của nhóm các tác giả miền

Bắc (mà đại diện là tác giả Trần Thanh Mại) còn thiên về văn chương bác học. Nếu đặt các công trình ấy trong bối cảnh lịch sử (chiến tranh) và bối cảnh khoa học (nghiên cứu giai thoại nói riêng, các thể loại văn học dân gian nói chung), thì sự giới hạn này

cũng có thể hiểu được. Nghĩa là, suy cho cùng, vẫn còn nhiều khía cạnh chưa thật sáng rõ về vấn đề thể loại.

1.2.1.3. Giai đoạn từ 1975 đến nay

Giai đoạn này có thể chia thành hai giai đoạn nhỏ là: từ 1975 – 2000 và từ 2000

đến nay.

Giai đoạn từ 1975 – 2000

Trên cái nhìn khái quát, ở giai đoạn 1975 đến 2000, các tác giả sưu tầm, nghiên

46

cứu giai thoại đã có bước kế thừa, phát triển thành tựu của các giai đoạn trước đó để

xác định và đưa ra một cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn về mặt lý thuyết thể loại của giai

thoại. Về mặt tác phẩm, cả 3 tiểu loại chính của giai thoại (văn học, lịch sử và văn hóa dân gian) đều được giới thiệu một cách phong phú, đa dạng, qua đó góp phần bổ

khuyết cho các giai đoạn trước. Quan niệm về giai thoại cũng có sự thay đổi so với giai đoạn trước. Góc nhìn giai thoại từ lý thuyết folklore đã thay thế cho góc nhìn từ

văn học bác học. Chúng tôi xin điểm qua một số công trình tiêu biểu về giai thoại

trong giai đoạn này theo các xu hướng chính là: giai thoại tác gia, giai thoại vùng

miền, địa phương; giai thoại tổng hợp và giai thoại chuyên biệt (tập trung vào một tiểu loại của giai thoại):

Về các công trình giới thiệu giai thoại theo xu hướng giai thoại tác gia có thể kể

đến:

– Giai thoại Nguyễn Khuyến (1984) [21] của Bùi Văn Cường. Đây là công trình

giới thiệu về những giai thoại xoay quanh Nguyễn Khuyến – một nhà nho nổi tiếng

cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Công trình này tập hợp những giai thoại văn học và

văn hóa dân gian mà nhà nho Nguyễn Khuyến có tham gia sáng tác.

– Nguyễn Khắc Xương, Ông thần ngông – Giai thoại Tản Đà (1990) [168]. Công

trình này giới thiệu những giai thoại văn học có liên quan đến nhà thơ Tản Đà, trong

đó nổi bật lên cá tính tài tử, ngao du và tính cách đa tình của “nhà thơ của hai thế kỷ”.

– Chương Thâu, Giai thoại Phan Bội Châu (1991), (tái bản năm 2005) [138].

Công trình này giới thiệu những mẩu chuyện xoay quanh nhà thơ, nhà nho tài tử, nhà

chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu. Sách tập hợp cả 3 tiểu loại giai thoại về Phan Bội

Châu.

– Phan Phụng, Tú Quỳ, văn chương và giai thoại (1992) [123]. Sách tập hợp 29

giai thoại về Tú Quỳ (chủ yếu là giai thoại văn học).

Trên phạm vi vùng miền, địa phương, có thể kể ra một số công trình sưu tầm tiêu

biểu như:

– Vũ Ngọc Khánh, Giai thoại văn học Thanh Hóa (1983) [85]. Sách này giới

thiệu tiểu loại giai thoại văn học của những nhà nho nổi tiếng ở vùng đất Thanh Hóa.

– Vũ Ngọc Khánh, Đỗ Thị Hảo, Giai thoại Thăng Long (Chuyện kẻ chợ, chuyện kinh kỳ) (1987) [86]. Sách này có 66 giai thoại về các sự kiện, nhân vật được giới hạn ở phạm vi Thăng Long (Hà Nội), bao gồm cả 3 tiểu loại là giai thoại văn học, giai

thoại lịch sử và giai thoại văn hóa dân gian.

– Vũ Ngọc Khánh, Giai thoại xứ Lạng (1989) [87]. Sách giới thiệu những giai

thoại ở vùng đất Lạng Sơn, gồm cả ba tiểu loại.

– Tôn Thất Bình, Huế, những giai thoại (1987) [18]. Sách tập hợp 59 giai thoại

47

xoay quanh các nhân vật thuộc hoàng phái: giai thoại về các mệ, giai thoại về làng hia

mão, giai thoại từ dân gian đến cung đình. Như vậy, đây là công trình giới thiệu tiểu

loại giai thoại lịch sử ở phạm vi xứ Huế.

– Nguyễn Đắc Xuân, Chuyện cũ cố đô (1987) [167]. Sách đã tập hợp 25 giai

thoại về vùng đất thần kinh, xoay quanh các nhân vật trong hoàng tộc gồm vua chúa nhà Nguyễn, các quan lại trong sinh hoạt chính trị và văn chương (gồm giai thoại lịch

sử và giai thoại văn học);

– Nguyễn Hữu Hiếu, Giai thoại dân gian Đồng Tháp Mười (1988) [62]. Sách tập

hợp được 42 đơn vị tác phẩm có liên quan về các sự kiện và nhân vật ở địa phương vùng Đồng Tháp Mười. Tuy có tên là “giai thoại dân gian” nhưng thực ra, phần lớn

văn bản mang màu sắc truyền thuyết hơn là giai thoại.

– Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, Nghìn năm bia miệng, 2 tập (1992)

[151]. Cả hai tập có tổng số lượng tác phẩm là 201, gồm nhiều thể loại khác nhau, đa

phần là truyền thuyết và giai thoại được sưu tầm ở Nam Bộ ở giai đoạn cận đại.

Nhìn chung, trong các tuyển tập này, các tác phẩm đều được tác giả cho là giai

thoại và ngay cả vấn đề thể loại cũng chủ yếu dựa vào tiêu chí nội dung. Riêng quyển

Giai thoại dân gian Đồng Tháp Mười, tác giả Nguyễn Hữu Hiếu đã gộp chung thể loại

giai thoại và truyền thuyết vào trong tên gọi “giai thoại dân gian”. Còn quyển Nghìn

năm bia miệng, tác giả Huỳnh Ngọc Trảng tuy có phân định giai thoại và sự tích

(truyền thuyết) nhưng cũng chưa thấy đưa ra quan niệm về giai thoại cũng như sự phân

biệt giai thoại và truyền thuyết. Chính sự phân định chưa thật thuyết phục về mặt thể

loại này cho thấy đến lúc phải phân định rạch ròi hơn.

Ở xu hướng giới thiệu giai thoại dưới dạng thức tổng hợp (bao gồm cả 3 tiểu loại), có thể kể đến công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam (2 tập) (1994) [89] của Vũ

Ngọc Khánh. Tuyển tập Kho tàng giai thoại Việt Nam được chia thành hai tập, gồm

893 đơn vị tác phẩm (Giai thoại văn học: 394 tác phẩm, giai thoại lịch sử: 234 tác

phẩm và giai thoại folklore: 263 tác phẩm). Sách được biên soạn theo một quan niệm mới trong việc nghiên cứu, sưu tầm giai thoại. Đó là quan niệm đánh giá giai thoại từ góc nhìn của lý thuyết nghiên cứu folklore. Với việc vận dụng lý thuyết folklore, Vũ

Ngọc Khánh đã khẳng định giai thoại là một thể loại độc lập thuộc văn học dân gian. Đây là công trình sưu tầm, chuyên nghiên cứu giai thoại đầu tiên ở nước ta có chủ thuyết rõ ràng. Bên cạnh việc phân loại giai thoại, tác giả Vũ Ngọc Khánh đã bước đầu

đưa ra định nghĩa và phân tích một số đặc điểm về nội dung và hình thức của giai

thoại.

Giới thiệu về giai thoại lịch sử, tác giả Nguyễn Khắc Thuần có công trình Việt sử

giai thoại, 8 tập (xuất bản từ 1992 đến 1994) [145]. Theo lời giới thiệu của GS Trần

48

Văn Giàu: “Sách gồm những giai thoại được trích lục từ các bộ chính sử của tổ tiên

như : Đại Việt sử lược, Đại Việt sử kí toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương

mục, Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện,... Mọi giai thoại đều có ghi xuất xứ gọn gàng mà chính xác, đồng thời lại có thêm lời bàn khá hóm hỉnh, vừa như để giải thích

thêm những điều cần giải thích, vừa như để gợi ý cảm nhận và suy nghĩ về lịch sử cho người đọc” (Lời giới thiệu Việt sử giai thoại, [145, tr.2]). Sách giới thiệu những tác

phẩm được tác giả xem là giai thoại lịch sử từ thời Hùng Vương trở về sau.

Công trình Giai thoại folklore Việt Nam (1996) [91] của Vũ Ngọc Khánh là

tuyển tập được tách ra từ tiểu loại giai thoại folklore – một phần trong Kho tàng giai thoại Việt Nam (1994) đã được in trước đó. Hướng tiếp cận giai thoại của tác giả vẫn

xuất phát từ góc nhìn lý thuyết folklore. Vũ Ngọc Khánh vẫn quan niệm giai thoại là

một thể loại độc lập thuộc văn học dân gian và so với công trình trước, tác giả có bổ

sung thêm một số đặc điểm khác của giai thoại. Theo đó, những bổ sung mới của tác

giả so với quan niệm trong Kho tàng giai thoại Việt Nam là: 1. Về giai thoại lịch sử:

tính hư cấu và sai lệch của giai thoại lịch sử, nguồn gốc lịch sử của giai thoại, nhóm

giai thoại cung đình có liên quan đến các ông hoàng, bà chúa, nhóm giai thoại đi sứ,

nhóm giai thoại giải thích ca dao, vè lịch sử; 2. Về motif nhân vật: tác giả bổ sung

thêm motif con người trí thức; 3. Về chức năng giai thoại: tác giả đi vào phân tích

chức năng thẩm mỹ, chức năng nhận thức của giai thoại.

Có thể nói, phải đến công trình này thì quan niệm về giai thoại của Vũ Ngọc

Khánh mới thực sự được trình bày một cách bao quát, toàn diện trên hầu hết những

đặc trưng thi pháp thể loại của giai thoại, từ nội dung đến hình thức. Đặc biệt, cách

phân loại giai thoại folklore của tác giả mang tính định hướng thiết thực cho những nhà nghiên cứu sau này.

Tóm lại, ở giai đoạn 1975 đến 2000, tình hình tư liệu và nghiên cứu về giai thoại

Việt Nam có mấy điểm đáng lưu ý sau:

– So với các giai đoạn trước, nếu các tác giả chủ yếu quan tâm giai thoại ở tiểu loại giai thoại văn học, thì đến giai đoạn này, các tác giả đã giới thiệu tư liệu giai thoại một cách khá toàn diện, bao quát được 3 tiểu loại.

– Bên cạnh giới thiệu giai thoại chuyên biệt, đã xuất hiện những xu hướng mới trong việc giới thiệu tư liệu giai thoại là: Xu hướng tác gia, xu hướng địa phương, xu hướng tổng hợp.

– Ở đây có sự nhận thức mới: Từ quan niệm giai thoại là thể loại văn học viết

chuyển sang quan niệm giai thoại là một thể loại văn học dân gian. Về vấn đề này, chỉ có tác giả Trần Thanh Mại quan niệm giai thoại là một thể loại của văn học thành văn.

Theo chúng tôi, sự khác biệt này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó, không thể

49

loại trừ nguyên nhân tư liệu.

Giai đoạn quyển Giai thoại văn học Việt Nam [65] (của nhóm Hoàng Ngọc

Phách, Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh Mại) ra đời là chỉ gói gọn giai thoại trong phạm vi văn học. Với một nội hàm hẹp như vậy, ta hiểu vì sao Trần Thanh Mại khẳng định

giai thoại thuộc văn học viết. Còn ở giai đoạn 1975 đến 2000, do phạm vi tư liệu giai thoại đã được giới thiệu toàn diện, bao quát hơn nên dễ thấy quan niệm trên không còn

phù hợp với tình hình thực tiễn nữa. Nó đã được thay thế bằng một quan niệm mới mẻ,

phản ánh việc tiếp cận kho tàng giai thoại ngày càng phong phú hơn. Vũ Ngọc Khánh

đã căn cứ vào lý thuyết folklore (chủ yếu là các nhà nghiên cứu Nga) để khẳng định giai thoại không phải thuộc về văn học viết mà thuộc về văn học dân gian bởi những

đặc trưng tiêu biểu của một thể loại văn học dân gian.

Giai đoạn từ 2000 đến nay

Từ năm 2000 đến nay, tình hình sưu tầm, giới thiệu giai thoại nhìn chung vẫn đi

theo những xu hướng của giai đoạn 1975 – 2000. Ở xu hướng giới thiệu giai thoại địa

phương, vùng miền, có thể kể ra một số công trình tiêu biểu sau:

– Hoàng Hương Việt, Giai thoại đất Quảng (2004) [161]. Sách tập hợp 109 giai

thoại, được chia thành các lĩnh vực: Học hành thi cử, tâm thế vì nước, vì dân, tài thao

lược, thông minh, cương trực, bài xích bọn tham quan, bán nước, trào lộng, hài hước.

Căn cứ vào các đề tài này, có thể thấy tác giả đã giới thiệu 02 tiểu loại giai thoại văn

học và giai thoại lịch sử ở xứ Quảng.

– Ninh Viết Giao, Văn hóa dân gian xứ Nghệ, Tập 3: Truyện cười và giai thoại

(2012) [49]. Đây là công trình tuyển chọn có quy mô lớn, bao gồm nhiều thể loại thuộc

văn hóa dân gian của vùng đất xứ Nghệ. Ở tập 3, PGS Ninh Viết Giao đã giới thiệu truyện cười và giai thoại của vùng đất này. Trong đó, phần giai thoại chia thành: a.

Giai thoại xung quanh các nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa, sĩ phu yêu nước và

các nhà nho xứ Nghệ; b. Giai thoại về một nhân vật hoặc một sự kiện; c. Giai thoại

folklore.

Cách phân loại trên của tác giả Ninh Viết Giao là căn cứ vào vai trò nhân vật (lịch sử và văn hóa) và những hoạt động đời thường mà nhân vật ấy tham gia. Ví dụ,

cụ Phan Bội Châu vừa là nho sĩ yêu nước, vừa là nhà nho tài tử tham gia vào hát phường vải ở địa phương, cho nên xuất hiện cùng lúc ở giai thoại lịch sử và giai thoại folklore. Cách phân loại trên có phần tương đồng với Vũ Ngọc Khánh ở chỗ định danh

“giai thoại folklore”. Đóng góp lớn nhất của công trình là đã sưu tầm và đưa ra hệ

thống văn bản giai thoại của xứ Nghệ, đặc biệt nhất là nhóm giai thoại về sinh hoạt văn nghệ dân gian của các nhà nho tài tử (Phan Bội Châu, Nguyễn Công Trứ,...) và các

nghệ nhân dân gian nổi tiếng của vùng đất này.

50

Xu hướng giới thiệu giai thoại ở dạng thức chuyên biệt cũng đánh dấu những

thành tựu đáng ghi nhận, đặc biệt là tiểu loại giai thoại lịch sử. Nếu ở giai đoạn 1975 –

2000, giai thoại lịch sử còn nằm trong hệ thống tổng hợp (cùng với giai thoại văn học và giai thoại văn hóa dân gian, nổi bật nhất là công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam

[82] của Vũ Ngọc Khánh), thì đến giai đoạn này, tiểu loại giai thoại lịch sử đã được quan tâm nhiều hơn, được tập trung sưu tầm, giới thiệu một cách toàn diện, sâu sát

hơn. Tiêu biểu là các công trình Giai thoại lịch sử Việt Nam, 2 tập (2002) của Kiều

Văn [159]. Cũng giống như Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần, sách này tập

hợp giai thoại lịch sử từ kho tàng lịch sử dân tộc.

Về các công trình giới thiệu tiểu loại giai thoại văn hóa dân gian, có thể kể ra một

số sách tiêu biểu nhất như:

– Giai thoại Truyện Kiều (2005) [95] của Vũ Ngọc Khánh. Sách này tập hợp

những giai thoại có liên quan đến Truyện Kiều trong sinh hoạt văn hóa của nhân dân

gồm tập Kiều, lẩy Kiều, đố Kiều. Đa phần những giai thoại trong quyển này đã được

tác giả giới thiệu trong công trình Giai thoại folklore Việt Nam (1996) đã xuất bản ở

giai đoạn trước.

– Giai thoại văn hóa dân gian người Việt, (2 tập, 2016) [114] của Triều Nguyên.

Đây là công trình tuyển chọn, giới thiệu về giai thoại văn hóa gần nhất. Sách được chia

thành hai phần: Phần 1 trình bày những vấn đề lý luận chung về giai thoại cũng như

giai thoại văn hóa dân gian, phần 2 giới thiệu văn bản giai thoại văn hóa dân gian.

Chúng tôi tóm lược lại quan niệm của Triều Nguyên như sau:

Về quan niệm giai thoại, tác giả tiếp thu quan niệm của Vũ Ngọc Khánh, xem

giai thoại là thể loại tổng hợp, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó trọng tâm là ba lĩnh vực chủ yếu: Văn học, lịch sử và văn hóa. Tuy nhiên, Triều Nguyên không

cho rằng giai thoại là thể loại tự sự dân gian, mà chỉ thừa nhận tính chất tổng hợp của

nó.

Về đặc điểm giai thoại, tác giả căn cứ vào các tiêu chí khác nhau để khái quát nên đặc điểm của giai thoại gồm: tính hiển nhiên người thật việc thật, tính trọng tâm của sự việc then chốt (xét về mặt văn bản); tính phi chính thống, tính sai biệt, tính phụ

thuộc (xét trong mối quan hệ với chỉnh thể); tính ngoài lề, tính mục đích (xét trong quan hệ với người dựng truyện); tính thuyết phục, tính lý thú (xét trong quan hệ với người tiếp nhận).

Về vị trí, phân loại và giá trị của tiểu loại giai thoại văn hóa dân gian, Triều

Nguyên đã tìm hiểu, xác định: 1. Về vị trí, giai thoại văn hóa dân gian là một bộ phận của giai thoại, thuộc phạm trù văn hóa; 2. Về phân loại, giai thoại văn hóa dân gian

được chia thành các nhóm, tiểu nhóm sau: a. Giai thoại về tín ngưỡng phong tục; b.

51

Giai thoại về ngữ văn dân gian; c. Giai thoại về sân khấu truyền thống; d. Giai thoại

về một số lĩnh vực khác; 3. Giá trị của giai thoại văn hóa dân gian.

Nhìn chung, đóng góp lớn nhất của Triều Nguyên qua công trình này là phần phân loại giai thoại văn hóa. Nét mới của Triều Nguyên là mặc dù tiếp thu quan niệm

của Vũ Ngọc Khánh nhưng tác giả đã có sự bổ sung thêm trong cách phân loại qua ba nhóm của giai thoại văn hóa dân gian là giai thoại về tín ngưỡng phong tục, giai thoại

về ngữ văn dân gian và giai thoại về một số lĩnh vực khác.

Xu hướng giới thiệu giai thoại về danh nhân cũng được nối tiếp qua các công

trình khác như:

– Lương Cao Rính, Giai thoại Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (2001) [131].

Sách tập hợp 85 tác phẩm, gồm giai thoại văn học và giai thoại lịch sử về Nguyễn

Bỉnh Khiêm, chia thành các giai đoạn: Thời thơ ấu, Tuổi thanh niên, Bạch Vân cư sĩ,

Âm vang lời trạng.

– Phan Trung Nghĩa, Công tử Bạc Liêu – Sự thật và giai thoại (2009) [116].

– Phan Thư Hiền, Phan Hồng Lam, Giai thoại về các bậc tiền nhân mê hát ca trù

và các đào nương lưu danh sử sách, (2011) [57]. Sách này tập hợp, giới thiệu giai

thoại văn hóa dân gian, gồm những nhân vật lịch sử thích hát ca trù nổi tiếng trong lịch

sử dân tộc từ thời Lý, Trần trở về sau.

– Phan Thư Hiền, Nguyễn Thị Thân sưu tầm, Giai thoại Nguyễn Du và những

mối tình dang dở (2012) [59]. Sách này tập hợp những tình sử có liên quan đến thi hào

Nguyễn Du.

– Huyền Li (2009), 36 giai thoại về Nguyễn Công Trứ [103] và Phan Thư Hiền

(2012), Giai thoại Nguyễn Công Trứ [58]. Hai công trình này giới thiệu những giai thoại có liên quan đến Nguyễn Công Trứ, gồm cả 3 tiểu loại là giai thoại văn học, giai

thoại lịch sử và giai thoại văn hóa dân gian.

Ngoài ra, xu hướng giới thiệu giai thoại ở dạng thức tổng hợp cũng xuất hiện,

tiêu biểu là công trình Giai thoại Việt Nam: Ông vua làm vè (giai thoại nhân vật lịch sử, văn học) (2009) [106] của Trần Đình Nam. Sách này tập hợp, giới thiệu 40 tác phẩm, gồm giai thoại lịch sử và giai thoại văn học.

Tóm lại, về mặt tư liệu, ở giai đoạn 2000 đến nay, giai thoại Việt Nam đã được giới thiệu chủ yếu ở ba lĩnh vực chính là: Văn học, lịch sử và văn hóa dân gian. Trong từng tiểu loại, các tác giả đã chia nhỏ ra thành từng nhóm, tiểu nhóm. Những người

tiên phong đi sâu vào lý thuyết vẫn tập trung vào Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch,

Triều Nguyên,... Lý thuyết đó được bổ sung và sắp xếp một cách khoa học hơn.

Chung quy lại, căn cứ mốc thời gian từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nay, giai thoại

Việt Nam đã được giới thiệu, nghiên cứu như sau:

52

Bảng 1.3. Tình hình giới thiệu và nghiên cứu giai thoại Viêt Nam

Lý thuyết về giai thoại Chưa được quan tâm, bàn luận Stt Giai đoạn 1 Nửa cuối thế kỷ XIX đến 1945

Tư liệu về giai thoại - Giai thoại nằm lẫn lộn với các thể loại khác của văn học dân gian - Chưa được định danh chính thức (trừ công trình Việt sử giai thoại) - Gồm giai thoại văn học và giai thoại lịch sử 1945 đến 1975 - Đã được định danh chính thức 2

- Chủ yếu là giai thoại văn học ở hai miền Nam, Bắc

3

1975 đến nay Bao quát 3 tiểu loại của giai thoại (văn học, lịch sử, văn hóa dân gian)

Được bàn luận dưới góc nhìn văn học thành văn, dẫn đến quan niệm: Giai thoại là thể loại thuộc văn học thành văn (Trần Thanh Mại) - Tiếp cận giai thoại từ lý thuyết folklore, đưa đến quan niệm: Giai thoại là thể loại thuộc văn học dân gian (Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch) - Tiếp cận giai thoại từ nhiều góc nhìn (văn học viết, folklore) dẫn đến quan niệm: Giai thoại là thể loại mang tính tổng hợp, bao gồm 3 lĩnh vực văn học, văn hóa dân gian và lịch sử (Triều Nguyên)

1.2.2. Đánh giá tư liệu và vấn đề xử lý tư liệu giai thoại Việt Nam

1.2.2.1. Đánh giá tư liệu giai thoại Việt Nam

Ở trên, chúng tôi đã nêu một số quan niệm thể loại của các công trình cũng như

việc xử lý phân loại. Sau đây, xin đi vào cụ thể thống kê việc phân loại cũng như đánh

giá tư liệu giai thoại Việt Nam.

Về các công trình giới thiệu giai thoại trước 1945:

– Quyển Chuyện đời xưa [82] của Trương Vĩnh Ký gồm cả thảy 74 đơn vị tác

phẩm. Qua khảo sát văn bản, chúng tôi thống kê có 06 tác phẩm là giai thoại.

– Quyển Nam Hải dị nhân liệt truyện (Phan Kế Bính) [17] gồm 8 chương, giới

thiệu theo nhân vật, bao gồm các thể loại tự sự dân gian (chủ yếu là truyền thuyết và

giai thoại) và cả truyện truyền kỳ. Trong 59 tác phẩm, sách này có: 02 truyện truyền

kỳ; 34 truyền thuyết và 23 giai thoại (văn học và lịch sử).

53

– Quyển Văn đàn bảo giám [160] của Trần Trung Viên gồm các phần: Phần 1:

Giới thiệu các thể loại trữ tình và tự sự của các tác giả văn học trung đại; Phần 2: Giai

thoại làng văn (phần này giới thiệu được 88 đơn vị tác phẩm giai thoại văn học); Phần

3: Những câu tạp đối; Phần 4: Hán Việt văn biểu; Phần 5: Tiểu sử các bậc thi hào Việt

Nam. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy chỉ có phần Giai thoại làng văn của công

trình đảm bảo tiêu chí của thể loại giai thoại (có nhân vật, cốt truyện, thơ văn,...), các

phần còn lại chủ yếu giới thiệu cung cấp các thông tin về văn học sử, chưa đảm bảo

tiêu chí của một văn bản tự sự (có nhân vật, cốt truyện,...) cho nên không thể xem là

giai thoại.

– Quyển Câu đối [108] của tác giả Nguyễn Văn Ngọc có cả thảy 261 tác phẩm,

trong đó chúng tôi xác định có 60/261 tác phẩm là giai thoại văn học.

– Quyển Chuyện cổ nước Nam (1934) (2 tập) [109] của Ôn Như Nguyễn Văn

Ngọc có 09/120 đơn vị tác phẩm là giai thoại văn học.

– Công trình Việt sử giai thoại (1934) [117] của Đào Trinh Nhất gồm 7 mục, có

cả giai thoại lịch sử và giai thoại văn học.

Về các công trình giới thiệu giai thoại từ 1945 đến nay:

Ở trên là phần đánh giá về tư liệu giai thoại giai đoạn trước 1945. Đến đây,

chúng tôi điểm qua tình hình tư liệu giai thoại từ 1945 đến nay. Trước hết là công trình

Giai thoại văn học Việt Nam (1965) [65]. Công trình gồm cả thảy 254 tác phẩm, trong

đó, theo khảo sát của chúng tôi, có 35/254 tác phẩm nằm ở ranh giới giữa giai thoại

văn học và giai thoại văn hóa dân gian. Tác giả đã căn cứ vào yếu tố thơ văn để xếp

vào giai thoại văn học. Điều đó cũng có cái lý riêng, cụ thể như sau:

– 20/33 tác phẩm nằm trong nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân

dân;

– 15/33 tác phẩm là giai thoại về sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian (hát ví,

hát phường vải, hát ả đào,...).

Do đây là công trình đầu tiên giới thiệu tác phẩm giai thoại nên các công trình về

sau có tham khảo sách này hầu như bị ảnh hưởng của quan niệm người đi trước. Khảo

sát công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam (2 tập) (1994) [89] của Vũ Ngọc Khánh

(chúng tôi chỉ khảo sát 2 tiểu loại là giai thoại văn học và giai thoại lịch sử, vì tiểu loại

giai thoại folklore đã được tác giả tách ra thành công trình riêng, sẽ khảo sát sau),

chúng tôi thống kê được có 81/629 tác phẩm. Trong đó, chúng tôi ngờ rằng có một số

tác phẩm xếp loại chưa thật chuẩn xác, cụ thể như sau:

– 44/81 tác phẩm không phải là giai thoại văn học mà là giai thoại văn hóa dân

54

gian;

– 35/81 tác phẩm không phải giai thoại lịch sử mà là giai thoại văn học (34

trường hợp) và giai thoại văn hóa dân gian (01 trường hợp);

– 02/81 tác phẩm không có cốt truyện (Xin xem Phụ lục).

Công trình xuất bản tiếp theo của Vũ Ngọc Khánh là Giai thoại folklore Việt

Nam (1996) [91] cũng có 154/461 tác phẩm giai thoại xếp chưa hợp lý. Cụ thể như

sau:

- 18/154 tác phẩm không có cốt truyện (chỉ đưa ra những thông tin bên lề, nhằm

giải thích cho câu thành ngữ, phương ngôn);

– 67/154 tác phẩm là giai thoại văn học;

– 47/154 tác phẩm là giai thoại lịch sử;

– 01/154 tác phẩm là truyền thuyết địa danh;

– 21/154 tác phẩm là truyện trạng (Xin xem Phụ lục)

Tương tự như công trình Giai thoại folklore của Vũ Ngọc Khánh, công trình Giai

thoại văn học Việt Nam [67] của Kiều Thu Hoạch cũng có 58/442 tác phẩm theo chúng

tôi không phải là giai thoại văn học mà là giai thoại văn hóa dân gian, cụ thể như sau:

– 28/58 tác phẩm thuộc nhóm giai thoại văn hóa dân gian về phong tục tập quán

của nhân dân (trường hợp câu đối trong tập quán của nhân dân gồm: các câu đối Tết,

tân gia, đám tang, đám cưới, thờ phụng, mừng thăng chức, đỗ đạt,...)

– 29/58 tác phẩm thuộc nhóm giai thoại văn hóa dân gian về sinh hoạt văn hóa,

văn nghệ dân gian

– 01/58 tác phẩm thuộc nhóm giai thoại văn hóa dân gian về sân khấu

Ngoài các công trình tập trung giới thiệu giai thoại Việt Nam theo hướng chuyên

sâu ở trên, chúng tôi cũng có đôi điều muốn trình bày về các tuyển tập truyện dân gian

ở khu vực Nam Bộ. Đó là các công trình Truyện kể dân gian Nam Bộ, Giai thoại dân

gian Đồng Tháp Mười của Nguyễn Hữu Hiếu và Nghìn năm bia miệng (2 tập) của

Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường. Quyển Giai thoại dân gian Đồng Tháp

Mười tuy có tên gọi là giai thoại dân gian, tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi, chỉ

có 02/42 tác phẩm được xem là giai thoại (tiểu loại giai thoại văn học, trường hợp Mấy

giai thoại về thơ văn cụ Phó Bảng; Dốt hay nói chữ), còn lại là truyền thuyết và cổ

tích. Còn công trình Truyện kể dân gian Nam Bộ, có tên chung là truyện kể dân gian

(tức tự sự dân gian) theo chúng tôi lại có sự hiện diện của giai thoại trong đó. Cụ thể,

có 09/95 tác phẩm là giai thoại (08 tác phẩm giai thoại văn học và 01 tác phẩm là giai

thoại văn hóa dân gian). Trong công trình Nghìn năm bia miệng (2 tập) của Huỳnh

55

Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, chúng tôi thống kê có 17/199 tác phẩm là giai thoại

văn học và giai thoại văn hóa dân gian (Xin xem Phụ lục 1).

Ở tiểu loại giai thoại lịch sử, cũng có điều đáng bàn về mặt văn bản. Ở đây,

chúng tôi xin nêu 2 công trình tiêu biểu là: Giai thoại lịch sử Việt Nam [159] của Kiều

Văn và Việt sử giai thoại [145] của Nguyễn Khắc Thuần. Công trình Việt sử giai thoại

(8 tập, xuất bản từ năm 1992 đến năm 1994) [145] của Nguyễn Khắc Thuần gồm 8

tập, trong đó, chúng tôi cũng ngờ rằng có một số tác phẩm không phải giai thoại lịch

sử mà là truyền thuyết (lịch sử và phong tục), cụ thể như sau:

- Tập 1 (“40 giai thoại từ thời Hùng Vương đến hết thế kỷ thứ X”): có 14/40 tác

phẩm là truyền thuyết, còn lại là giai thoại lịch sử.

- Tập 2 (“51 giai thoại thời Lý”): cả 51 tác phẩm này đều là giai thoại lịch sử.

- Tập 3 (“71 giai thoại thời Trần”): cả 71 tác phẩm này đều là giai thoại lịch sử.

- Tập 4 (“36 giai thoại thời Hồ và thời thuộc Minh”): có 02/36 tác phẩm là giai

thoại văn học, còn lại 34 văn bản là giai thoại lịch sử.

- Tập 5 (“62 giai thoại thời Lê”): có 03/62 tác phẩm là truyền thuyết lịch sử; 01/62

văn bản là giai thoại văn học.

- Tập 6 (“65 giai thoại thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII”): có 01/65 tác phẩm là truyền

thuyết lịch sử, còn lại là giai thoại lịch sử.

- Tập 7 (“69 giai thoại thế kỷ XVIII”): có 01/69 tác phẩm là truyền thuyết

- lịch sử.

- Tập 8 (“45 giai thoại thế kỷ XIX”): có 01/45 tác phẩm là truyền thuyết lịch sử.

Còn công trình Giai thoại lịch sử Việt Nam [159] của Kiều Văn, về mặt văn bản

chúng tôi cũng nghi ngờ còn lẫn lộn nhiều văn bản là truyền thuyết và giai thoại văn

học chứ không phải là giai thoại lịch sử. Sách này tập hợp, giới thiệu 131 đơn vị tác

phẩm nhưng theo khảo sát của chúng tôi, có đến 65/131 tác phẩm là giai thoại văn học,

14/131 tác phẩm là truyền thuyết lịch sử và 05/131 tác phẩm là giai thoại văn hóa dân

gian. Như vậy, về tiểu loại giai thoại lịch sử được giới thiệu hiện nay, vẫn còn sự nhập

nhằng giữa giai thoại và truyền thuyết, thậm chí chưa có sự tách bạch giữa các tiểu loại

của giai thoại như đã thấy. Đây là một thực tiễn đáng lưu tâm và cần thiết được bổ

khuyết, đính chính lại.

Trong công trình Truyền thuyết dân gian người Việt (Tập 4, 5) (2004) [68] (nằm

trong bộ Tổng tập Văn học dân gian người Việt) do Kiều Thu Hoạch chủ biên cũng có

một số vấn đề về văn bản. Trong tập 5, chúng tôi xác định có 14 văn bản không phải là

truyền thuyết mà là giai thoại. Các tác phẩm này đều đề cập đến các nhà khoa bảng

56

(văn tài) như: Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Lê Quý Đôn, Lương Thế Vinh, Lương

Hữu Khánh,... Thế nhưng, trong công trình về giai thoại – quyển Giai thoại văn học

Việt Nam [67] (cùng xuất bản năm 2004) của chính Kiều Thu Hoạch, thì những tác

phẩm trên được tác giả xếp vào giai thoại (văn học) (chỉ thay đổi tên truyện) (Xin xem

Phụ lục). Như vậy là chưa có sự nhất quán về mặt xác định thể loại.

Tóm lại, tư liệu giai thoại Việt Nam hiện nay rất phong phú, đa dạng về mặt văn

bản nhưng việc phân loại của các tác giả thực sự có vấn đề. Trường hợp này không

phải cá biệt. Ngay như Vũ Ngọc Khánh vẫn rơi vào trường hợp tương tự. Trong hai

công trình đồ sộ về giai thoại, có khá nhiều tác phẩm được tác giả xếp ở những tiểu

loại khác nhau, mặc dù thời gian xuất bản của hai công trình ấy chỉ cách nhau đúng 2

năm. Ví dụ, ở công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam (1994), các tác phẩm có liên

quan đến câu đối trong tập quán của nhân dân như: Thạch Hà – Kim Động; Mạc bất

hà như; Mẫu phối Mạnh Đức; Thể quần thần; Đại lai tiểu vãng,... được tác giả xếp

vào giai thoại văn học, tuy nhiên, trong công trình xuất bản sau đó, Giai thoại folklore

Việt Nam (1996), Vũ Ngọc Khánh lại xếp các tác phẩm trên vào tiểu loại giai thoại

folklore. Tác giả đã có sự thay đổi về quan niệm phân loại giai thoại nhưng không nêu

ra ở phần Tiểu luận. Điều này thực sự gây khó khăn nhất định cho những ai quan tâm,

tìm hiểu về giai thoại Việt Nam. Do vậy, theo chúng tôi, đã đến lúc phải hệ thống lại

sự phân loại tiểu loại, nhóm, tiểu nhóm của giai thoại Việt Nam, để tránh những những

thiếu sót, cũng như có thể trả lại đúng vị trí cho từng tiểu loại giai thoại.

1.2.2.2. Vấn đề xử lý tư liệu giai thoại Việt Nam

Từ việc nêu ra những bất cập trong cách phân loại và sắp xếp tư liệu của các nhà

nghiên cứu, chúng tôi có những đề xuất về việc chọn lọc và hệ thống hóa tiểu loại,

nhóm, tiểu nhóm trong kho tàng giai thoại Việt Nam như sau:

Thứ nhất, cần phải loại bỏ ngay những tác phẩm không đảm bảo các tiêu chí của

thể loại.

Thứ hai, đã đến lúc cần phải đưa ra một bộ khung tiêu chí nhằm xác định sự tồn

tại của giai thoại để tránh tình trạng xác định nhầm/ sai thể loại trong các tuyển tập

giới thiệu về tự sự dân gian có tính chất gần gũi về mặt thể loại với giai thoại. Đây

cũng chính là một trong những nhiệm vụ khoa học đặt ra cho luận án này mà chúng tôi

sẽ tập trung giải quyết ở các chương, mục tiếp theo của luận án.

57

Tiểu kết Chương 1

Ở Chương 1, luận án đã điểm qua hai vấn đề lớn về giai thoại là tình hình nghiên

cứu giai thoại ở Việt Nam cũng như trên thế giới và vấn đề tư liệu của giai thoại Việt

Nam qua các thời kỳ. Qua tìm hiểu, chúng tôi rút ra một số điểm nổi bật như sau:

Thứ nhất, về vấn đề thuật ngữ và quan niệm về giai thoại, hiện tại có 4 khuynh

hướng, quan niệm khác nhau gồm: xem giai thoại là thể loại thuộc văn học viết; xem

giai thoại là thể loại văn học dân gian; xem giai thoại là thể loại trung gian giữa văn

học viết và văn học dân gian và xem giai thoại là thể loại tổng hợp. Thực tế trên cho

thấy quan niệm về giai thoại thực sự là một vấn đề không hề đơn giản, hiện tồn một số

ý kiến trái chiều, cần được bàn luận thêm một cách thấu đáo. Trong luận án này, chúng

tôi xác định giai thoại là một thể loại văn học dân gian và sẽ lý giải, phân tích vấn đề

này ở Chương 2.

Thứ hai, về các phương diện đặc điểm thể loại, các khía cạnh thi pháp thể loại,

phân định ranh giới và vấn đề chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và các thể loại của tự

sự dân gian, các nhà nghiên cứu đi trước đã cơ bản chỉ ra được những dấu hiệu cốt lõi,

quan trọng. Những kết quả nghiên cứu quý báu trên sẽ là những đúc kết, gợi mở khoa

học quan trọng mà chúng tôi sẽ tiếp thu, phát triển thêm trong quá trình nghiên cứu

giai thoại.

Thứ ba, về mặt phân loại giai thoại Việt Nam, mặc dù khác nhau ở tiêu chí nhưng

trên đại thể, các nhà nghiên cứu đi trước đã định hình được 3 tiểu loại quan trọng của

giai thoại là giai thoại văn học, giai thoại lịch sử và giai thoại văn hóa dân gian. Trong

đó, điều đáng lưu tâm là trong quan niệm phân loại của một số tác giả còn có điểm

chưa thật hợp lý (chưa thống nhất một tiêu chí phân loại ở cấp độ tiểu loại và cấp độ

nhóm của từng tiểu loại). Từ đó dẫn đến tình trạng lẫn lộn, nhập nhằng trong việc xác

định và phân biệt thể loại giữa giai thoại và một số thể loại khác trong tự sự dân gian.

Do vậy, cần phải xác lập lại tiêu chí phân loại một cách thống nhất ở các cấp độ tiểu

loại các nhóm của từng tiểu loại.

58

Chương 2. ĐỊNH VỊ THỂ LOẠI GIAI THOẠI VIỆT NAM

Thực tiễn nghiên cứu lý thuyết và sưu tầm, giới thiệu tư liệu về giai thoại ở trên

cho thấy tính chất phức tạp của đối tượng nghiên cứu, đòi hỏi phải xác định tư cách thể

loại của giai thoại cũng như một số khía cạnh quan trọng khác về mặt thể loại như khái

niệm, đặc trưng thể loại, phân loại. Trong các quan niệm về giai thoại, dễ thấy nổi lên vấn đề chưa thống nhất, thậm chí là mâu thuẫn ở việc xác định giai thoại thuộc lĩnh vực nào: văn học dân gian, văn học viết, hay là một thể loại tổng hợp (gồm văn học, văn hóa, lịch sử). Với mục đích xác định và chứng minh giai thoại là một thể loại nằm

trong tự sự dân gian, luận án sẽ đưa ra một bộ khung tiêu chí định vị thể loại cũng như

chỉ ra những tính chất thuộc về đặc trưng thể loại, trong đó làm nổi bật được những

đặc điểm giúp nhận diện “bản chất dân gian” của thể loại. Tiếp theo đó, luận án sẽ tiến

hành phân loại kho tàng giai thoại Việt Nam dựa trên những điểm khả thủ cũng như khắc phục những mâu thuẫn, chồng chéo trong cách phân loại của các nhà nghiên cứu

đi trước. Và cuối cùng, sau tất cả những thao tác trên, chúng tôi sẽ đưa ra khái niệm

chung nhất về thể loại giai thoại, tức là trả lời cho câu hỏi: Giai thoại là gì?

2.1. Các tiêu chí xác định giai thoại Việt Nam

Để tránh tình trạng nhập nhằng trong việc xác định thể loại của giai thoại với các

thể loại khác của tự sự dân gian, thấy cần xác lập tiêu chí khoa học để có cơ sở nhận

dạng và xử lý tư liệu. Về các tiêu chí để xác định thể loại giai thoại, các nhà nghiên

cứu đi trước đã tìm hiểu các vấn đề sau:

- Tiêu chí tính chất sự việc:

Giai thoại bao giờ cũng xoay quanh một sự kiện/ sự việc. Do đó, việc trước tiên

là xác định tính chất sự việc của giai thoại. Trong các công trình Giai thoại văn học

Việt Nam (1965) [65] và Giai thoại văn học Việt Nam (2004) [67], các tác giả Trần

Thanh Mại và Kiều Thu Hoạch (do chỉ dừng lại ở việc giới thiệu giai thoại văn học) đã

xác định tiêu chí tính chất sự việc của giai thoại văn học là các tình huống đối đáp văn chương và tình huống sinh hoạt cá nhân, đời tư của các nhà văn, nhà thơ. Trong công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam (1994) và Giai thoại folklore Việt Nam (1996), Vũ Ngọc Khánh đã điểm qua tiêu chí tính chất sự việc trong giai thoại, cụ thể là sinh hoạt

văn chương; sinh hoạt đời tư, cá nhân; sinh hoạt chính trị và sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian – tức là đã nêu ra các khía cạnh cơ bản của tính chất sự việc trong giai thoại nói chung (tương ứng với ba tiểu loại của giai thoại).

- Tiêu chí nhân vật:

Mỗi thể loại đều gắn với một kiểu hay nhóm nhân vật đặc thù. Giai thoại cũng

không ngoại lệ. Nhân vật giai thoại được xác định phải là nhân vật nổi tiếng trong một

59

số lĩnh vực, được các tầng lớp nhân dân thừa nhận. Các nhân vật có thể xuất thân từ

nhiều thành phần xã hội khác nhau.

Dù không trực tiếp nêu ra những đề tài chủ yếu của giai thoại nhưng qua cách

phân loại tiểu loại và phân nhóm, tiểu nhóm, các tác giả cũng đã gián tiếp chỉ ra các đề

tài cơ bản trong giai thoại: Giai thoại văn học (người nổi tiếng, khuyết danh (theo

NVC)) trong chùm truyện kể về câu đối, thơ phú (theo hình thức thơ văn)); giai thoại

lịch sử (những trang tình sử, giai thoại xử kiện, giai thoại ngoại giao, giai thoại quân

sự,…); giai thoại văn hóa, văn nghệ dân gian (phong tục tập quán của nhân dân; sinh

hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian; tập Kiều, đố Kiều, lẩy Kiều,…).

- Tiêu chí cảm hứng:

Các nhà nghiên cứu đi trước dù có nhắc đến cảm hứng ngợi ca, tôn vinh và cảm

hứng đả kích, phê phán nhưng cũng cần phải nói thêm rằng, những tiêu chí nêu trên

chưa thật hệ thống, rạch ròi. Thực ra cảm hứng trong giai thoại mang tính lưỡng diện.

Ca ngợi, tôn vinh không có nghĩa là phải cực tả, đại ngôn hay đề cao hoành tráng mà

chỉ cần nhắc đến một tài năng, một tình huống nào đấy cũng là ngợi ca. Những tiêu chí

trên đây giúp cho việc nhận dạng tác phẩm rõ ràng hơn, đặc biệt là đối với việc khảo

cứu. Sau đây, xin đi vào nội dung cụ thể của từng tiêu chí xác định giai thoại.

2.1.1. Đề tài của giai thoại

Tương ứng với ba tiểu loại tiêu biểu của giai thoại là ba lĩnh vực: văn học, lịch sử

và văn hóa. Và trong từng lĩnh vực, có thể chia ra các đề tài gắn liền với các nhóm,

tiểu nhóm của từng tiểu loại. Với cách tiến hành như thế, chúng tôi xác định được các

đề tài tiêu biểu của từng tiểu loại giai thoại như sau:

Giai thoại văn học gồm có ba đề tài lớn là: thách đố văn chương, ứng tác văn

chương và sinh hoạt đời tư của nhà văn, nhà thơ. Giai thoại lịch sử gồm các đề tài:

tình sử của các ông hoàng, bà chúa, các tướng lĩnh; giai thoại ngoại giao; giai thoại

quân sự,... Các đề tài tiêu biểu của giai thoại văn hóa dân gian là: thú tiêu dao các

nghệ nhân dân gian và các nhà nho tài tử; phong tục, tập quán, tín ngưỡng của nhân dân (câu đối; các giai thoại về tập Kiều, lẩy Kiều, đố Kiều); các giai thoại có liên quan đến ca dao, đồng dao, tục ngữ, thành ngữ; giai thoại về sân khấu, tuồng, chèo,

cải lương;...

Như vậy, có thể tóm lược các đề tài tiêu biểu của giai thoại qua bảng sau:

Bảng 2.1. Đề tài trong giai thoại Việt Nam

Tiểu loại giai thoại Đề tài

Giai thoại văn học 1. Thách đố văn chương

2. Ứng tác văn chương

60

3. Sinh hoạt đời tư của nhà văn, nhà thơ

Giai thoại lịch sử 1. Tình sử của các ông hoàng, bà chúa, các tướng

lĩnh

2. Giai thoại ngoại giao

3. Giai thoại quân sự

Giai thoại văn hóa dân gian 1. Thú tiêu dao của các nghệ nhân dân gian và các

nhà nho tài tử

2. Phong tục, tập quán, tín ngưỡng của nhân dân

3. Giai thoại có liên quan đến ca dao, đồng dao, tục

ngữ, thành ngữ…

4. Giai thoại về sân khấu, tuồng, chèo, cải lương

10 đề tài Tổng cộng:

Trong phần này, chúng tôi tập trung đi sâu vài khía cạnh tiêu biểu về sinh hoạt

đời tư và các hoạt động công cán, công việc triều chính.

Sinh hoạt đời tư gồm: Tình sử của các vua chúa, nhà nho nổi tiếng; tính tình, thói

quen, sở thích của nhân vật nổi tiếng; tập tục treo câu đối trong sinh hoạt của nhân

dân; chuyện học hành, thi cử của các nhà nho,…

Hoạt động triều chính gồm: Tiếp sứ giả nước ngoài; đi sứ sang Trung Quốc; trao

đổi, liên lạc sự vụ giữa các triều đại phong kiến Việt Nam; mâu thuẫn trong nội bộ

chính quyền phong kiến; việc xử kiện của vua quan phong kiến,...

Căn cứ vào hệ đề tài trên, chúng tôi đã thống kê 03 công trình là: Giai thoại văn

học Việt Nam (1965) [65]; Giai thoại văn học Việt Nam [67] và Giai thoại folklore

Việt Nam [91]. Đối tượng khảo sát ở đây là những văn bản có NVC là người nổi tiếng

trên các lĩnh vực, không xét đến nhân vật khuyết danh. Kết quả như sau:

Bảng 2.2. Kết quả thống kê các hoạt động chủ yếu trong giai thoại Việt Nam

Đề tài

Số lượng văn bản

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

Hoạt động triều chính

218

116

56

Sinh hoạt văn hóa, văn nghệ 11

35

358

219

69

24

46

180

37

45

27

71

folklore

thoại

756

372 (49,2%)

Công trình Giai thoại văn học Việt Nam [65] Giai thoại văn học Việt Nam [67] Giai Việt Nam [91] Tổng cộng

170 (22,48%)

62 (8,2%)

152 (20,1%)

61

Sinh hoạt đời tư của các nhân vật nổi tiếng

Các sự việc thuộc sinh hoạt đời tư của một nhân vật nổi tiếng thường được xem

là bên lề, phi chính thống. Chính sự phi chính thống đã tạo ra một sức hút đặc biệt cho

giai thoại. Vì trên thực tế, những câu chuyện như vậy trong chính sử là rất ít. Qua

thống kê, chúng tôi xác định có 170/756 (tỉ lệ 22,48%) giai thoại trong 3 tuyển tập giai

thoại đề cập đến khía cạnh sinh hoạt đời tư của các nhân vật nổi tiếng. Sau đây là phần

mô tả cụ thể những biểu hiện của sinh hoạt đời tư trong giai thoại:

- Về tình sử của các nhân vật nổi tiếng

Nhân vật nổi tiếng ở đây là những nhà nho, nhà khoa bảng cũng như hoàng tộc

phong kiến Việt Nam. Như đã nói, trong các sách sử chính thống, những câu chuyện

mang tính chất bên lề rất ít khi xuất hiện. Đa phần, nó được người đời nhắc lại (truyền

văn). Thông qua những mẩu chuyện này, nhân dân muốn kéo nhân vật nổi tiếng trở về

với đời thường, bởi vì, suy cho cùng, dù họ là những con người phi thường (trong văn

chương hay chính trị, quân sự,…) thì ở họ vẫn có những hành động, ứng xử “rất

người”, rất đời thường trong tình yêu.

Về tình sử của các nhà nho, giai thoại đã đi sâu vào khía cạnh riêng tư này và để

lại những câu chuyện đẹp xoay quanh chuyện yêu đương, hôn nhân. Các mối tình này

được khai thác xoay quanh: Các motif quen thuộc trong văn học; các tình huống

không bình thường, thậm chí trái với luân thường. Trên đại thể, chúng tôi khái quát

thành các trường hợp sau:

Duyên kỳ ngộ: Kỳ ngộ ở đây ngụ ý chỉ sự gặp gỡ bất ngờ, mang tính “thiên

duyên tiền định”, có kết cục đẹp. Tiêu biểu có thể kể ra như: Nguyễn Trãi (Thơ đùa ả

bán chiếu), Trịnh Thiết Tường (Bảy mươi mười bảy đang vừa), Vương Toán (Thơ hay

được lòng tiểu thư), Hứa Tam Tỉnh (Câu đối đêm động phòng), Nguyễn Bá Dương

(Thiếu kim văn đỗ tiến sĩ, mất sáu tiền được bà Nghè),…

Tình chung thủy - lỡ làng: Đây cũng là những chuyện tình đẹp (thủy chung)

nhưng kết cục chung là dang dở, lỡ làng. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng chủ yếu là

do ngăn cách về địa vị, đẳng cấp trong xã hội phong kiến (không đáp ứng yêu cầu

“môn đăng hộ đối”). Có thể kể ra các chuyện tình của các bậc đại khoa, nhà nho nổi

tiếng như: Vũ Khâm Lân (Một kiếp lỡ làng), Nguyễn Du (Mối hận tình bên sông Nhị),

Nguyễn Hàm Ninh (với Mai Am công chúa, con của vua Minh Mệnh, Mối tình kín đáo

với nàng công chúa),…

Tình lãng tử: Đây là nhóm tình sử của những nhà nho tài tử. Cuộc đời họ gắn

liền với mỹ nhân trong những chuyện tình đầy lãng mạn, khác thường, tiêu biểu là:

62

Nguyễn Công Trứ (Thuyền quyên ứ hự), Nguyễn Hữu Khanh (Đã cho vào bực bố),

Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (Lên bà khó lắm em ơi, Người tình nhân không quen biết,

Rau sắng chùa Hương,…). Trong đó, thi sĩ Tản Đà xuất hiện ở giai đoạn cuối cùng

(giao thời), nâng tầm chất lãng tử từ hiện thực sang chữ Mộng rất riêng và cá tính.

Về tình sử của hoàng tộc phong kiến, cũng có thể chia thành các nhóm như sau:

Duyên kỳ ngộ: Lê Thánh Tông (Hồm bướm mơ tiên; Câu thơ nên nghĩa), Hồ Quý

Ly (Câu thơ kỳ lạ), Nguyễn Ánh (Lao xao quạ nói với diều),…

Tình si: Trịnh Sâm (Mó mít nhựa ra tay), Nguyễn Ánh (Người đẹp cứ yên

tâm),…

Tình sử (hôn nhân) chính trị: Lý Chiêu Hoàng (Hai mối tình của Lý Chiêu

Hoàng), công chúa Huyền Trân (Mối tình Huyền Trân), công chúa Ngọc Vạn (Con giữ

mãi mối tình Việt – Miên),…

Tình sử loạn luân: Đây là những chuyện tình trái với đạo lý, luân thường, xảy ra

trong thâm cung các triều đại phong kiến có thể kể ra như: Đặng Thị Huệ – Quận Huy

(Huệ kia không quả còn mong nỗi gì), Nguyễn Phúc Lan (Chúa Thượng) – Tống Thị

(Xâu chuỗi trăm hoa), Nguyễn Phúc Khoát – Nguyễn Thị Ngọc Cầu (Vụ loạn luân

trong mưu đồ sâu sắc),…

Như vậy, so với nhóm tình sử của các nhà nho ở trên, tình sử của hoàng tộc bên

cạnh sự ngợi ca còn có sự phê phán. Tình sử chính trị có lợi ích thiết thực với quốc

gia, dân tộc, cho nên các NVC được ngợi ca là điều hiển nhiên. Tuy nhiên, đối với tình

sử loạn luân thì sự phê phán đã trở nên nổi trội.

- Về sở thích, tính tình của nhân vật nổi tiếng

Trong giai thoại, có hàng loạt những câu chuyện cốt chỉ kể về một tính tính, sở

thích nào đó của nhân vật qua sinh hoạt đời tư. Ví dụ, về những sở thích đặc biệt của

các nhà nho trung đại, ta có thể kể ra: sở thích ăn mắm sống của cụ Đồ Chiểu; thói

quen thích ăn thịt chó và uống rượu của bậc đại khoa Nguyễn Đăng Cảo; thú ngao du

(giang hồ và thi tửu) của cụ Phan Văn Trị; tính hài hước, bông lơn của Trạng nguyên

Nguyễn Hiền, Trạng Lường Lương Thế Vinh, Nguyễn Công Trứ,… Còn với những

nhà văn, nhà thơ hiện đại, thì có thể nói đến: sở thích đi đêm của nhà văn Thanh Tịnh,

sở thích chơi lan và tài vẽ tranh của Nhất Linh; sự quý trọng kho sách Hán Nôm của

Ngô Tất Tố; thú uống rượu, mê hát ả đào và chủ nghĩa xê dịch – giang hồ của Tản Đà,

Nguyễn Tuân, nhóm Tự lực văn đoàn,…

Khía cạnh sinh hoạt đời tư của nhà văn, nhà thơ cung cấp nhiều điều thú vị xét ở

góc độ cá nhân: trong mối quan hệ với bạn bè, trong phạm vi gia đình, làng xã. Với

63

Nguyễn Du, việc học hành của ông hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của thân phụ

và người anh cả Nguyễn Khản (Mối hận tình bên sông Nhị). Với Nguyễn Công Trứ,

người bạn đường đồng hành cùng ông từ thời thanh niên đến trước khi đỗ đạt là sự

nghèo khó, túng quẫn, phải cầm cố nhiều thứ để qua cơn nguy khốn (Khất nợ tổ tôm;

Ngày Tết cắm đất hương hỏa). Nguyễn Công Trứ có cả thảy 14 bà vợ và phần nhiều

trong số đó là các cô hát ả đào. Với các văn sĩ hiện đại, ta có thể biết được sự nghèo

khổ và tình nghĩa của hàng loạt những tên tuổi nổi tiếng: cụ Ngô Tất Tố – một nhà

nho, văn sĩ – dù nghèo khổ, vất vả nhưng khi lên chiến khu Việt Bắc, ông vẫn mang

theo 2 bà vợ, dựng hai căn nhà lá cho hai bà ở riêng, nhường cả phần ăn của mình cho

đám con nheo nhóc (Nghĩa thê tử, nợ văn chương); nhà thơ Hồ Dzếnh có vợ mất sớm,

phải đi xin sữa cho con, chiều chiều bồng con ra mộ vợ than thở (Gà sống nuôi con);

Vũ Trọng Phụng là trụ cột của gia đình có bốn người phụ nữ, dù nghèo khổ “gia

truyền” nhưng ông rất tự trọng, viết mỗi dòng đúng 32 chữ, như giao ước với nhà xuất

bản,…

Trong mối quan hệ với bằng hữu, chúng ta bắt gặp các cặp tri âm, tri kỷ hay thậm

chí là những người bạn vong niên có cùng sở thích, quan niệm sống. Thời trung đại, có

thể kể đến: Cao Bá Quát – Nguyễn Văn Siêu; Cao Bá Quát – Nguyễn Công Trứ;

Nguyễn Khuyến – Dương Khuê;… Ở thời kỳ hiện đại, có thể nhắc đến: Phan Bội

Châu – Hàn Mặc Tử; Tản Đà – Nguyễn Tuân, Nguyễn Tuân – nhóm Tự lực văn đoàn,

Xuân Diệu – Huy Cận;… Trong mối quan hệ với tập thể, làng xã, với nhân dân, các

nhân vật nổi tiếng ấy không sống tách biệt mà có sự kết nối, gần gũi với quần chúng.

Ở thời kỳ trung đại, dù là nhà nho hành đạo, tài tử hay ẩn dật, họ vẫn là cầu nối giữa

bác học và dân gian. Ví dụ, Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Tú

Xương, Nguyễn Hàm Ninh, Nguyễn Quý Tân,… sẵn sàng cho nhân dân câu đối khi

dân chúng đề nghị vào những dịp cần kíp. Những sáng tác văn chương ấy rõ ràng

không phải là tác phẩm văn học quan phương, chính thống của các nhà nho mà là sinh

hoạt đời thường của họ. Ở đó, đánh dấu mối quan hệ khắng khít giữa nhà nho với nhân

dân và họ được nhân dân tôn vinh, ca ngợi như những biểu tượng về Tài và Trí.

Đối với nhân vật lịch sử, cũng theo tiêu chí nhân vật và đề tài ở trên, hành trạng

của nhân vật không phải bao giờ cũng được ghi chép một cách đầy đủ trong sử quan

phương. Do vậy, trên thực tế vẫn còn tồn tại một vùng nhạy cảm mà lâu nay chúng ta

vẫn gọi là dã sử (hay sử truyền miệng) trong dân gian. Ví dụ, đối với các chuyện thâm

cung bí sử, những chuyện tình của các ông hoàng, bà chúa thời Nguyễn, khó có thể tìm

thấy trong các bộ sử được viết trong thời Nguyễn mà chỉ có thể tìm thấy trong dân

64

gian. Chẳng hạn, quyển Quốc triều chính biên toát yếu (quyển V) viết vua Tự Đức là

người có “tính nhơn hiếu, thông mẫn lại ham học” [31, tr.147] nhưng cũng không

thấy ghi bất cứ cuộc đối chọi thơ văn nào với Cao Bá Quát như giai thoại vẫn truyền

tụng. Sử cũng không chép giai thoại nào về sở thích xem tuồng hát của vua Tự Đức và

bà Từ Dụ. Vùng lịch sử nhạy cảm này được nhân dân truyền tụng bằng những câu

chuyện mang tính chất của truyền thuyết và giai thoại lịch sử. Và hiển nhiên, có một

sự giao thoa, chồng lấn về thể loại trong những câu chuyện kể như vậy (Chúng tôi sẽ

trình bày kỹ phần này ở Chương 4 của luận án).

Nói tóm lại, chính khía cạnh sinh hoạt đời tư của những nhân vật nổi tiếng trong

giai thoại ở trên đã kéo nhân vật lại gần gũi hơn với nhân dân. Đây là xu hướng tạo ra

sự thăng bằng trong tâm thức của nhân dân đối với những người nổi tiếng trên các lĩnh

vực.

- Về con đường học hành, khoa cử của các nhà nho

Nhà nho, nhà khoa bảng hiển nhiên là những người có kiến thức uyên thâm, trí

tuệ. Tuy nhiên, con đường tiến thân của họ cũng chia thành các ngã rẽ khác nhau. Có

người đỗ đạt sớm (và đỗ cao) như: Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Lương Thế Vinh,

Nguyễn Đăng Cảo, Lê Quý Đôn, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Hàm Ninh, Trần Bích

San,… Nhưng cũng có không ít nhà nho tuy nổi tiếng là thần đồng từ nhỏ nhưng con

đường khoa cử lại gặp nhiều trắc trở như: Thời Lê, Trịnh Thiết Tường đỗ Tiến sĩ khi

72 tuổi; thời Nguyễn có Cao Bá Quát (31 tuổi), Nguyễn Công Trứ (36 tuổi), Đoàn Tử

Quang (82 tuổi) mới đỗ đạt,…

Thông qua con đường khoa cử của các nhà nho, nhân dân muốn đề cao tinh thần

hiếu học, vượt qua nghịch cảnh khó khăn của họ. Tiểu sử của họ đã trở thành những

biểu tượng ngàn đời cho tinh thần vượt khó trong học tập của dân tộc như: Mạc Đĩnh

Chi, Nguyễn Hiền, Vũ Duệ, Kiều Phú,… (Chúng tôi sẽ phân tích kỹ cơ sở lịch sử, xã

hội hình thành tư duy đề cao con người trí thức trong giai thoại ở các phần sau của

luận án).

Trong các hoạt động triều chính

Khía cạnh thứ tư của tính chất sự việc trong giai thoại là các hoạt động triều

chính. Qua thống kê, chúng tôi xác định có 152/756 tác phẩm đề cập đến lĩnh vực này

(tỉ lệ 20,1%). Như vậy, so với sinh hoạt đời tư, hành trạng của người nổi tiếng trong

lĩnh vực chính trị có tỉ lệ gần tương đương (22,48%) và thấp hơn so với lĩnh vực văn

học (49,2%). Chúng tôi khái quát lại các hoạt động triều chính trong giai thoại đề cập

đến các việc như sau:

65

- Hoạt động bang giao của các triều đại phong kiến Việt Nam (trong thời kỳ đất

nước phân tranh):

Tiêu biểu cho nhóm này là các giai thoại đề cập đến việc xử lý tình huống một

cách khôn ngoan. Chẳng hạn, qua các giai thoại Ta chẳng chịu phong, Bây giờ em đã

có chồng (số 54, 55 quyển Giai thoại văn học Việt Nam [65]), chúng ta biết được triều

Lê – Trịnh mà đại diện là Thanh Vương Trịnh Tráng muốn chúa Nguyễn đàng trong

hàng phục mình. Tuy nhiên, bằng bản lĩnh hơn người, Đào Duy Từ (một người từng bị

nhà Lê – Trịnh không chấp nhận cho thi cử vì có mẹ làm nghề hát xướng) đã bày kế

giúp chúa Nguyễn khước từ một cách danh chính ngôn thuận.

- Hoạt động bang giao với nước ngoài

Trong giai thoại, hoạt động tiếp sứ giả nước ngoài và đi sứ sang nước ngoài chủ

yếu là Trung Quốc. Như đã đề cập ở các phần trên của luận án, sự hấp dẫn của các giai

thoại có liên quan đến đón tiếp sứ thần nước ngoài hay giai thoại đi sứ nằm ở tình

huống văn chương. Ví dụ, Đoàn Thị Điểm đối lại vế đối của sứ Tàu: “An Nam nhất

thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh/ Bắc quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất”. Chuỗi giai

thoại đi sứ của Mạc Đĩnh Chi, Giang Văn Minh, Nguyễn Đăng Cảo, Lê Quý Đôn,

Trần Danh Án,… đều để lại những câu chuyện hay, thú vị, không chỉ ở khía cạnh văn

chương mà còn ở khía cạnh chính trị: khẳng định vị thế dân tộc, thể hiện tinh thần dân

tộc cao độ và hơn hết là bộc lộ ý thức thoát Trung, kháng lại ý đồ lấy văn hóa Hán làm

trung tâm của các triều đại Trung Quốc.

- Việc xử kiện của những liêm quan trong thời kỳ phong kiến

Việc xử kiện của những liêm quan nổi tiếng được nhiều người truyền tụng cũng

là một trong hoạt động triều chính của bộ máy chính quyền phong kiến. Các vị quan

này thực hiện chức năng trừng ác khuyến thiện, thay mặt cho triều đình phong kiến

giáo hóa nhân dân. Vậy nên, những hành xử công tâm, thông minh của họ đã gầy dựng

nên một tình cảm ngưỡng mộ đặc biệt trong dân chúng. Trong những câu chuyện như

vậy, nhân vật không chỉ thể hiện trí thông minh trong việc phán xử mà còn thể hiện tài

năng văn chương, cá tính của họ. Các vị liêm quan đem lại công bằng cho nhân dân,

được người đời ca tụng (bằng những câu phương ngôn) như: Nguyễn Quán Nho (Tể

tướng vạn hà thiên hạ âu ca), Đề đốc Hộ thành (Quan hộ được tha, quan gia vạn tuế),

Bùi Cầm Hổ (Bát canh lươn), Nguyễn Văn Giai (Người đào ao xử kiện), Nguyễn

Đăng Khoa (Xử kiện ruộng dưa; Giả mù không thoát tội), Phủ Tuấn (Phủ Tuấn xử

kiện; Trâu phải được với chủ nó), Thượng Nành (Đích thị kẻ bắt gà; Tay nào chặt

chuối),… Cũng xử án nhưng đậm cá tính là trường hợp xử/ phê án bằng thơ (tạo thành

66

tình tiết xử/ phê án bằng thơ). Đây là một trường hợp rất đặc biệt, vừa mang tính lịch

sử vừa mang tính văn chương. Một số ví dụ tiêu biểu là: Bà Huyện Thanh Quan hai

lần thay chồng xử án (Cho Thị Đào đi lấy chồng; Ông cống làm trâu), Đỗ Cao Mại

(Hạc đeo bài ngài), vua Thành Thái (Thơ Kiều phê án),…

Tóm lại, đề tài của giai thoại được cụ thể hóa trong tác phẩm gắn với các tình

huống: Sinh hoạt đời tư; sinh hoạt văn chương; sinh hoạt văn nghệ; các hoạt động

triều chính.

2.1.2. Nhân vật của giai thoại

Nhân vật trong giai thoại phần lớn là những nhân vật có thực, hoặc được tin

tưởng là có thực (gắn với câu chuyện của nhân vật đó). Chính sự nổi tiếng của nhân

vật đã khiến cho câu chuyện được kể đến mang một trữ lượng thông tin hấp dẫn, thú

vị, cuốn hút mạnh mẽ đối với người đọc, người nghe. Xung quanh nhân vật có thực

này, nhân dân có thể sáng tạo ra hàng loạt những câu chuyện với các mục đích cụ thể

là đề cao, tôn vinh (trí tuệ, tài năng, đạo đức,…) hoặc giải thiêng, hạ bệ nhân vật.

Những nhân vật có thực ấy là nhân vật nguyên mẫu (prototype). Chẳng hạn như

các nhân vật có thực trong lịch sử: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn,

Mạc Đĩnh Chi, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,… Giai

thoại Ả ở đâu ta bán chiếu gon (còn có tên gọi khác là Thơ đùa ả bán chiếu) giữa

Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ là một trường hợp khá điển hình. Nếu nhân vật chàng

trai trong câu chuyện trên không phải là Nguyễn Trãi, một anh hùng dân tộc mà là một

thư sinh không tên tuổi nào đó, chắc hẳn, tính lý thú của nó sẽ giảm đi rất nhiều.

Tương tự như vậy, nếu giai thoại Tự tiện chữa văn vua có nhân vật chính là anh học

trò (trong sách Truyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký, câu chuyện này có tên là Học trò

sửa liễn cửa ngõ phủ ông hoàng, với NVC khuyết danh) mà không phải là Cao Bá

Quát – người có tính cách ngang tàng, thì một điều hiển nhiên, sự hấp dẫn, lý thú của

câu chuyện sẽ giảm đi ít nhiều. Bởi vì, về mặt tâm lý, nhân dân muốn biết nhiều hơn

về con người được ngưỡng mộ. Việc bổ sung các giai thoại đáp ứng sự ái mộ và phần

nào kích thích trí tưởng tượng của nhân dân.

Trong địa hạt sinh hóa văn hóa, văn nghệ dân gian, theo nguyên tắc này, giai

thoại văn hóa dân gian tập trung sự chú ý vào các nghệ nhân, nhà nho tài tử nổi tiếng

tham gia vào lĩnh vực. Chẳng hạn, nhóm giai thoại về các nhà nho tài tử tham gia sinh

hoạt văn nghệ dân gian cùng quần chúng như: Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Du, Phan

Bội Châu, Tú Xương,… Các giai thoại này không chỉ tô đậm tài năng ứng biến của các

nhân vật trong các cuộc hát xướng mà còn khai thác chuyện đời tư, tình yêu nam nữ

67

của từng nhân vật. Trong đó, trường hợp của Nguyễn Công Trứ là dồi dào, phong phú

nhất.

Đối với các nhân vật nghệ nhân dân gian, giai thoại cũng xây dựng nhân vật ở

khía cạnh tài năng văn nghệ kèm theo những câu chuyện đời tư (gia cảnh, tình yêu,

tính tình,…) làm đường viền cho câu chuyện thêm sinh động. Chẳng hạn như cô Long,

cô Nhẫn, Nhiêu Ngọ, O Tộ, Vũ Thị Nhẫn, Trần Hàn, Bảy Tỏi,… Có một điều khá đặc

biệt là giai thoại còn khéo léo “kéo” vào những câu chuyện sinh hoạt sân khấu, tuồng

chèo những nhân vật đại diện cho chính quyền phong kiến. Đó là những ông hoàng, bà

chúa, những ông quan đam mê hát xướng. Xung quanh các giai thoại về các nghệ sĩ

hài, các nghệ nhân đánh trống, đàn hát,… nổi tiếng (chẳng hạn như: Nhưn Đá, Nhưn

Nguyên, cậu Hai Hót, Tiêu Tán, Hứa Văn,…), ta thấy hình bóng của các nhân vật lịch

sử nổi tiếng như: Bà Từ Dụ, vua Tự Đức, vua Thành Thái, vua Bảo Đại, Tả quân Lê

Văn Duyệt, Nguyễn Thân,… Các nghệ nhân, nghệ sĩ từ dân gian đã được đưa vào biên

giới của nghệ thuật sân khấu cung đình. Điều đó càng cho thấy sự hấp dẫn của loại

hình sinh hoạt văn hóa, văn nghệ này cũng như xác tín thêm tài năng của các nghệ sĩ.

Trong lĩnh vực lịch sử, tiểu loại giai thoại lịch sử cung cấp cho người đọc/nghe

về những khía cạnh đời tư của các nhân vật lịch sử. Các nhân vật này là những người

đại diện cho vương quyền như vua chúa, phi tần, quan lại, tướng lĩnh; các sĩ phu yêu

nước, nhà nho ẩn dật,… Các khía cạnh được giai thoại xoáy sâu vào là tính tình, sở

thích, tình yêu cá nhân, ứng xử của nhân vật trước thời cuộc, ứng xử với bạn bè, gia

đình,… Như vậy, các nhân vật của giai thoại lịch sử chủ yếu được soi chiếu qua các

khía cạnh riêng tư mà chính sử ít hoặc không động chạm đến. Ví dụ sở thích ăn mắm

sống của cụ Đồ Chiểu, thú ăn thịt chó của nhà khoa bảng Nguyễn Đăng Cảo, các câu

chuyện tình yêu nam nữ của các vị vua như Gia Long, Tự Đức, Thành Thái… Bên

cạnh đó, giai thoại lịch sử cũng khắc họa nhân vật ở khía cạnh đạo đức cá nhân và đạo

đức công dân, tức là biểu hiện của chữ Đức theo quan niệm Nho giáo. Nói khác đi,

nhân vật trong giai thoại lịch sử thể hiện qua các khía cạnh thuộc về hành trạng đời tư,

cá nhân qua những câu chuyện mang tính chất rỉ tai, bên lề, phi chính thống. Và mặt

khác, các nhân vật ấy cũng được nhìn ngắm, đánh giá qua lăng kính của ý thức hệ Nho

giáo qua biểu hiện của chữ Đức trong ba mối quan hệ cơ bản là: với quốc gia, với gia

đình, với bạn bè.

Trong tiểu loại giai thoại văn học, giai thoại xây dựng cho mình kiểu nhân vật trí

thức, mưu trí và cả ngông nghênh. Họ đa phần đều xuất thân từ cửa Khổng sân Trình,

đều là những nhà khoa bảng, nhà nho tài năng, cá tính. Ở đây, chữ Trí (hay Tài) của

68

nhân vật trong địa hạt văn chương là trung tâm của sự chú ý. Tài năng ấy thể hiện qua

hai tình huống cơ bản là: đối đáp trong các cuộc thách đố văn chương và ứng xử tình

huống bằng văn chương. Trên thực tế, các nhân vật này cơ bản được xem là danh nhân

văn hóa, đủ tầm phủ sóng qua mọi thời đại, tiêu biểu cho văn hiến dân tộc. Tóm lại,

nhân vật trong giai thoại đều là những người nổi tiếng trong ba lĩnh vực cơ bản là: văn

học, lịch sử và văn hóa. Trong đó, giai thoại văn học và văn hóa dân gian chú ý khắc

họa nhân vật ở chữ Tài, chữ Tính và chữ Tình, giai thoại lịch sử xoáy sâu vào chữ

Đức. Chung quy lại, ta có thể đúc kết ra các kiểu nhân vật tiêu biểu của giai thoại là:

nhân vật trí thức, khoa bảng; nhân vật mưu trí; nhân vật ngông; nhân vật nghệ nhân

dân gian, nhà nho tài tử; nhân vật đạo đức.

2.1.3. Cảm hứng của giai thoại

Cảm hứng là cơ sở, nguồn gốc tạo nên giá trị thẩm mỹ cho thể loại văn học dân

gian. Sự phản ánh nhân vật nổi tiếng trong giai thoại phản ánh thái độ, tình cảm của

nhân dân. Trên đại thể, chúng tôi thấy hai loại cảm hứng quan trọng trong giai thoại là:

cảm hứng ngợi ca, tôn vinh và cảm hứng đả kích, phê phán. Dĩ nhiên, hai cảm hứng

này không tồn tại tách bạch mà đan xen vào nhau. Chúng là hai mặt của một vấn đề

khi đề cập đến nhân vật nổi tiếng trong cách nhìn của nhân dân. Qua khảo sát 03 công

trình tiêu biểu về giai thoại, giới hạn ở NVC người nổi tiếng, chúng tôi có được kết

quả về mặt cảm hứng như sau:

Bảng 2.3. Kết quả khảo sát cảm hứng trong giai thoại Việt Nam

Ngợi ca Giải thiêng Đả kích, phê phán Cảm hứng

Số lượng văn bản Văn chương Đời thường Văn nghệ Chính trị Vương quyền Thần quyền

218 116 56 11 35 45 11 3

358 219 69 24 46 52 17 5

180 37 45 27 71 30 5 1

756 (100%) 372 (49,2%) 170 (22,5%) 62 (8,2%) 152 (20,1%) 9 (1,2%) 127 (16,8) 33 (4,4%)

Công trình GTVHVN [65] GTVHVN [67] GTFLVN [91] Tổng cộng/Tỉ lệ

Trước hết là cảm hứng ngợi ca, tôn vinh nhân vật trong ba lĩnh vực văn học, văn

hóa và lịch sử. Đối tượng mà giai thoại hướng đến sự ngợi ca tôn vinh là những nhà

nho, nhà khoa bảng nổi tiếng (trong lĩnh vực văn học) cũng như những nghệ nhân dân

gian, những nhà nho tài tử tham gia vào sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian với quần

69

chúng nhân dân và những nhân vật lịch sử nổi tiếng. Căn cứ vào NVC, ta thấy trong

giai thoại, gắn liền với lĩnh vực mà người nổi tiếng xuất hiện là thái độ ngợi ca của

nhân dân dành cho họ. Cho nên, số lượng tác phẩm đề cập đến nhân vật bao nhiêu thì

cảm hứng ngợi ca cũng tương đương. Còn sự đả kích, phê phán, thông thường nằm ở

phía NVĐT của NVC người nổi tiếng như Trần Thanh Mại đã đề cập. Số liệu thống kê

cho thấy: trong 756 giai thoại, cảm hứng ngợi ca người nổi tiếng (trong 3 lĩnh vực

trên) xuất hiện trong 586 tác phẩm, tỉ lệ 77,5 %. Còn cảm hứng giải thiêng là 09 tác

phẩm (tỉ lệ 9,2%), cảm hứng phê phán, đả kích là 160 tác phẩm (tỉ lệ 21,2%). Do vậy,

có thể khẳng định rằng: trong giai thoại, cảm hứng ngợi ca người nổi tiếng (chủ yếu

xoay quanh chữ Trí) chiếm vai trò chủ đạo.

Trong hoạt động văn học, sự đề cao nhân vật đều xoay quanh tài trí. Tỉ lệ thống

kê cho thấy, trong 756 giai thoại thì có đến 372 tác phẩm (49,2%) xuất hiện cảm hứng

ngợi ca nhà trí thức, nhà khoa bảng. Tỉ lệ rất cao này cho thấy trong cảm thức của

nhân dân, hình tượng con người tài trí trong văn chương chính là trung tâm điểm của

sự ngưỡng mộ, tôn vinh. Chính cảm hứng này tạo nên sự khác biệt khá rõ so với các

thể loại khác. Trí ở đây được hiểu theo hai khía cạnh: là tài năng văn chương trong

những cuộc đối đáp, thi thố văn chương và khả năng ứng biến một cách nhanh nhạy,

thông minh nhằm thoát khỏi những tình huống khó khăn, thử thách. Hầu hết những

nhân vật khoa bảng, nhà nho nổi tiếng trong thời trung đại đều được triển khai trên cơ

chế đề cao tài năng văn chương, trí tuệ của họ (Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Công Trứ, Cao

Bá Quát, Nguyễn Đăng Cảo, Tú Xương, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương,…).

Chẳng hạn, Nguyễn Công Trứ đối đáp văn chương xuất thần trước Tả quân Lê

Văn Duyệt, rồi được ông này cất nhắc, giúp đỡ chuyện học hành (Anh hùng đè xuống

dưới). Cao Bá Quát mang phong cách phá phách, ngông nghênh đi khắp mọi nơi, từ

việc hạ bệ Minh Mạng lúc nhà vua đi tuần Bắc hà (Cởi truồng xem vua), cho đến việc

chê thẳng thừng thơ văn toàn “mùi nước mắm” của Mạc Vân thi xã (Câu thơ thi xã) và

cả việc chửi xéo, hạ bệ vua Tự Đức qua hàng loạt giai thoại (Trên dưới đều chó; Tự

tiện chữa văn vua; Bịa thơ tài hơn vua;…). Mạc Đĩnh Chi, trong chuỗi giai thoại đi sứ,

đều giành phần ưu thắng trong các cuộc đối chọi văn chương với vua quan nhà

Nguyên cũng như sứ thần các nước (Ra đối dễ, đối đối khó; Chưa biết mèo nào cắn

mỉu nào; Bốn chữ nhất;…).

Thông thường tài năng của các nhân vật phải được thể hiện trong các tình huống

ứng biến nhanh nhạy, thông minh, tưởng chừng như rất khó để xoay chuyển cục diện.

Ở những huống cảnh đó, điều để lại ấn tượng sâu sắc không chỉ tài năng văn chương

70

mà còn là sự mưu trí của nhân vật. Mạc Đĩnh Chi trước sự cười chê về sự thô vụng của

đám quần thần Trung Quốc, đã xoay chuyển tình thế bằng cách xé nát bức tranh thêu

chim sẻ đậu trên cành trúc. Hồ Xuân Hương khéo léo đọc bài thơ lúc bị trượt chân té

ngã, qua đó nhận được sự thán phục từ các anh học trò cùng trang lứa,… Về thực chất,

đấy là cách ứng xử “vụng chèo khéo chống” nhưng vẫn được cho là khôn ngoan.

Trong lĩnh vực sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian, tài trí của các nghệ nhân

dân gian, các nhà nho tài tử dù có tỉ lệ thấp hơn (62/756 văn bản, tỉ lệ 8,2%) nhưng

cũng để lại ấn tượng mạnh mẽ trong việc ứng biến khi hát hò đối đáp. Ngoài tài trí,

lĩnh vực sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian cũng hé lộ chữ Tình của nhân vật nổi

tiếng. Có thể không phải là cuộc tình cụ thể mà chỉ là bối cảnh để người nghe suy

tưởng về nhân vật. Những cô Nhẫn, cô Long, cô Vân, Trần Hàn, Nhiêu Ngọ, o Tộ,…

đều thể hiện sự thông minh, tài năng ứng biến trong các cuộc hát chính thức (ở hội,

phường) cũng như trong đời thường (tình yêu cá nhân, trong lúc lao động, sinh

hoạt,…). Nhờ tham gia vào các cuộc hát mà tên tuổi của Nguyễn Công Trứ đã nổi

tiếng khắp nơi (lúc còn là thanh niên cũng như khi đã đỗ đạt làm quan). Khi còn là

thanh niên với tên gọi Chiêu Bảy, cụ Nguyễn Du cũng đã tham gia rất nhiều vào các

cuộc hát phường vải ở quê nhà. Sự thông minh và sâu sắc của thi hào Nguyễn Du, với

tư cách là một nghệ sĩ trong sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian thể hiện khá rõ trong

giai thoại. Nhà chí sĩ Phan Bội Châu, bên cạnh sự nghiệp chính trị lẫy lừng, cũng là

một nghệ sĩ thực thụ trong văn nghệ dân gian. Lúc chưa đỗ đạt (với tên gọi Phan Văn

San), ông đã là một trong bốn tay hát nổi tiếng nhất vùng Nam Đàn mà người đời xưng

tụng qua câu thành ngữ: “Nam Đàn tứ hổ”.

Nhân vật lịch sử trong giai thoại cũng được xây dựng xoay quanh chữ tài và đức.

Qua khảo sát, chúng tôi xác định có 152/756 tác phẩm (tỉ lệ 20,1%) ca ngợi nhân vật

lịch sử. Tài ở đây là tài năng thuyết khách, tài ứng biến trong đối ngoại, tài năng xử

kiện, tài năng quân sự,… Còn Đức bao gồm đạo đức cá nhân và đạo đức công dân. Đó

là những ông quan thanh liêm từ chối nhận của hối lộ (Vũ Tụ, Tô Hiến Thành,…),

những nhà nho ẩn dật để giữ tiết tháo người quân tử trong thời cuộc nhiễu nhương

(Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị,…), những

nhà chí sĩ yêu nước, xả thân vì nghĩa lớn (Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Chu

Trinh,…). Suy cho cùng, phạm trù đạo đức ấy xuất phát từ quan niệm Nho giáo về sự

“xuất” và “xử” của nhà nho trong thực tại. Với tư cách là nhà nho hành đạo, họ không

ngừng phấn đấu, cống hiến cho lý tưởng Tu, Tề, Trị, Bình; Trí quân trạch dân. Nhưng

khi lý tưởng ấy không còn đứng vững nữa, sự lánh đục về trong cũng là một cách ứng

71

xử mang vẻ đẹp cốt cách của một kẻ sĩ. Bên cạnh đó, tinh thần dân tộc, đấu tranh vì

quốc thể cũng được thể hiện sâu sắc qua nhóm giai thoại ngoại giao thời phong kiến

(với Trung Quốc). Tiêu biểu, đó là các cuộc đấu tranh “di biện” để chống lại quan

niệm lấy văn hóa Hán làm trung tâm của các triều đại Trung Quốc (các giai thoại đi sứ

có liên quan đến: Giang Văn Minh, Mạc Đĩnh Chi, Lê Quý Đôn,…). Song song sự

ngợi ca, tôn vinh, giai thoại cũng có cảm hứng phê phán, đả kích. Dạng cảm hứng này

đã làm nảy sinh tính chất phản biện của giai thoại. (Luận án sẽ tách ra tìm hiểu ở mục

sau).

Nhìn chung, trong giai thoại cảm hứng ca ngợi là cảm hứng chủ đạo so với cảm

hứng phê phán, đả kích. Lẽ cố nhiên, hai cảm hứng ấy không hoàn toàn tách bạch

nhau, mà trong nhiều trường hợp, có thể cùng hiện hữu trong một câu chuyện. Bởi

theo cảm quan thông thường, khi phê phán, hạ bệ nhân vật này thì cũng đồng nghĩa

với việc đề cao, tôn vinh nhân vật kia. Như vậy, vấn đề đặt ra là: cảm hứng tôn vinh và

phê phán, đả kích trong giai thoại có gì tương đồng và dị biệt so với các thể loại khác

của tự sự dân gian? Trên đại thể, cảm hứng tôn vinh hay phê phán hiển nhiên không

phải chỉ xuất hiện trong giai thoại mà còn hiện hữu một cách phổ quát trong tự sự dân

gian như truyền thuyết, cổ tích, truyện cười,… Vấn đề này sẽ đề cập ở chương sau.

2.2. Phân loại giai thoại Việt Nam

Ở Chương 1, luận án đã điểm qua và phân tích những mặt khả thủ cũng như một

số bất cập trong cách phân loại giai thoại Việt Nam của các nhà nghiên cứu đi trước.

Trong đó, điểm đáng chú ý nhất trong cách phân loại của các tác giả (Trần Thanh Mại,

Kiều Thu Hoạch, Vũ Ngọc Khánh, Triều Nguyên) là đưa ra hơn một tiêu chí phân loại

ở hai cấp độ tiểu loại và các nhóm của từng tiểu loại. Từ đó, dẫn đến sự chồng chéo,

chưa thuyết phục ở một số điểm. Do vậy, việc đưa ra một tiêu chí phân loại duy nhất

để xác định các tiểu loại giai thoại và các nhóm của nó hiện có trong kho tàng giai

thoại Việt Nam là nhiệm vụ cấp thiết. Điều này vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có

giá trị về mặt tư liệu (áp dụng vào việc tuyển chọn và giới thiệu giai thoại Việt Nam).

Trong mục này, với mục đích kế thừa thành quả nghiên cứu đó, chúng tôi bước đầu

đưa ra quan điểm phân loại của mình. Hai tiêu chí phân loại mà chúng tôi thử áp dụng

để phân loại giai thoại Việt Nam là: tiêu chí đề tài và tiêu chí nhân vật. Mỗi tiêu chí

phân loại như vậy sẽ có những điểm ưu và khuyết riêng biệt. Do vậy, cần phải đưa ra,

lý giải và đi đến sự lựa chọn một tiêu chí khả thủ nhất.

2.2.1. Phân loại giai thoại Việt Nam theo tiêu chí đề tài

Trước hết là tiêu chí đề tài. Giai thoại Việt Nam sẽ phân hóa như sau nếu căn cứ

72

Giai thoại

GT lịch sử

GT văn hóa dân gian

vào tiêu chí đề tài:

Tình

Xử

Ngoại

Quân

Thách

Tính

Tập

Văn

Sân

GT văn học

sự

đố

văn

tình, sở

quán,

nghệ

khấu,

sử

giao

kiện

văn

thích

phong

dân

cải

(…)

chương

lương,

chương

nhà nho

tục

gian

Ứng tác

Sơ đồ 2.1. Giai thoại Việt Nam phân loại theo tiêu chí đề tài (ở hai cấp độ)

Trong sơ đồ trên, chúng tôi tiếp thu quan niệm của Vũ Ngọc Khánh ở cấp độ

phân loại tiểu loại. Còn ở cấp độ phân loại nhóm của từng tiểu loại, chúng tôi có quan

niệm khác nhà nghiên cứu ở tiểu loại giai thoại văn học. Vì mặc dù coi giai thoại là thể

loại của văn học dân gian nhưng cũng như những nhà nghiên cứu khác, Vũ Ngọc

Khánh cũng chia giai thoại văn học thành giai thoại văn học về những người nổi tiếng

và giai thoại khuyết danh – tức là đã dùng tiêu chí nhân vật để phân cấp nhóm. Như

vậy là chưa thống nhất về mặt tiêu chí. Vả chăng, dù là người nổi tiếng hay khuyết

danh thì trong phạm vi đề tài của giai thoại văn học cũng chỉ xoáy vào 3 trường hợp cụ

thể là: thách đố văn chương, ứng tác văn chương và tính tình, sở thích của nhà văn,

nhà thơ. Do vậy, chắc chắn sự phân loại ấy sẽ bị trùng lặp. Có thể hình dung sự trùng

GT văn học

Khuyết danh

Nhà khoa

bảng, nhà nho

Thách đố

Ứng tác

Thách

Ứng tác

văn

văn

đố

văn

chương

văn

chương

chương

chương

lặp đó qua sơ đồ sau:

Sơ đồ 2.2.Sự trùng lặp của giai thoại văn học khi phân loại theo tiêu chí nhân vật

73

Do vậy, chúng tôi đề xuất phân nhóm giai thoại văn học căn cứ vào mặt đề tài, để

chia ra thành 3 nhóm (như trong sơ đồ 2.1). Sơ đồ trên thể hiện sự nhất quán trong tiêu

chí phân loại giai thoại ở cấp độ tiểu loại và nhóm của nó. Theo đó, các nhóm cụ thể

của từng tiểu loại giai thoại là:

- Giai thoại lịch sử gồm các nhóm chính như sau:

+ Giai thoại về tình sử của các nhân vật nổi tiếng (nhà nho, vua chúa, tướng

lĩnh,...);

+ Giai thoại về xử kiện (các vị quan có tài trong việc phân xử);

+ Giai thoại về ngoại giao (bang giao chính trị với Trung Quốc, bang giao giữa

các triều đại phong kiến Việt Nam thời chia cắt, phân tranh,...);

+ Giai thoại về quân sự (chuyện đánh giặc, dẹp loạn của vua chúa, tướng lĩnh).

- Giai thoại văn học gồm các nhóm:

+ Giai thoại văn học về thách đố văn chương (các chuyện thách đố, đối chọi, thử

tài văn chương giữa các nhà nho, các nhà khoa bảng, các sứ thần,...);

+ Giai thoại văn học về ứng tác văn chương (các chuyện có liên quan đến việc

sáng tác văn chương, thơ phú của các nhà nho tên tuổi, các nhà nho khuyết danh, của

quần chúng nhân dân,...);

+ Giai thoại văn học về tính tình, sở thích của các nhà nho (gồm các chuyện về

sinh hoạt riêng tư của các nhà nho, trong đó nổi lên tính tình, sở thích, thói quen,... của

họ).

- Giai thoại văn hóa dân gian gồm các nhóm chính sau:

+ Giai thoại về tập quán, phong tục của nhân dân (tục treo câu đối, thách cưới,

kết chạ, thi nói khoác,...);

+ Giai thoại về sinh hoạt văn nghệ dân gian (các chuyện về sinh hoạt hò hát của

các vùng miền: hò khoan, hát giặm, hát ả đào, hát phường vải,... của các nhà nho tài tử,

các nghệ nhân dân gian);

+ Giai thoại về sân khấu, cải lương, tuồng, chèo (các chuyện có liên quan đến

nghệ thuật biểu diễn của các loại hình nghệ thuật sân khấu, cải lương, tuồng, chèo

trong dân gian, trong cung đình trong đó có sự tham gia, xuất hiện của các nhân vật

nổi tiếng (vua, quan lại phong kiến, các nghệ sĩ nổi tiếng).

2.2.2. Phân loại giai thoại Việt Nam theo tiêu chí nhân vật

Tiếp theo, thử phân loại giai thoại Việt Nam theo tiêu chí nhân vật:

Giai thoại

GT lịch sử

GT văn học

GT văn hóa dân gian

Hoàng

Những

Những

Nhà

Nhân

Nghệ

Nhà

Nghệ sĩ

Những

tộc

nhà

vị liêm

vị

khoa

vật

nhân

nho

sân

phong

ngoại

tướng

bảng,

khuyết

dân

tài tử,

khấu,

quan

giao

tài

nhà nho

nhà

cải

kiến

danh

gian

tài

nổi

nho

lương,

(…)

tuồng,

năng

tiếng

ẩn dật

chèo,…

74

Sơ đồ 2.3. Giai thoại văn học Việt Nam phân loại theo tiêu chí nhân vật

Điểm nổi bật của cách phân loại này là nó đã chỉ ra được các kiểu nhân vật tiêu

biểu trong từng tiểu loại của giai thoại. Chung quy, đó là các kiểu nhân vật: nhân vật

trí thức, nhân vật đạo đức, nhân vật ngông, nhân vật nhà nho tài tử, nhân vật nghệ

nhân dân gian, nhân vật nghệ sĩ sân khấu, cải lương, tuồng, chèo,... Điểm hạn chế dễ

nhận thấy của cách chia trên là chưa cho thấy được các đề tài, nội dung chủ yếu của

từng nhóm.

Qua sự phân tích ở trên, chúng tôi đề xuất dùng một tiêu chí duy nhất là tiêu chí

đề tài (hay tính chất sự việc) để phân loại giai thoại Việt Nam. Như vậy, cần trả lời cho

câu hỏi: Vì sao tiêu chí tính chất sự việc lại có tầm quan trọng trong việc phân loại giai

thoại Việt Nam? Tiêu chí tính chất sự việc được nói đến trong giai thoại chính là tiêu

chí trung tâm của việc phân loại tiểu loại và phân nhóm cho tiểu loại đó. Các sự việc

trong giai thoại chủ yếu đề cập đến là sinh hoạt đời tư, sinh hoạt văn chương, sinh

hoạt văn nghệ và các hoạt động triều chính. Khi đọc/nghe một giai thoại, điều quan

trọng trước tiên là phải trả lời cho câu hỏi: Câu chuyện trên đề cập đến lĩnh vực nào:

sinh hoạt đời tư, sinh hoạt văn chương, sinh hoạt văn nghệ hay hoạt động triều chính.

Sau đó, áp dụng bảng phân loại sau để xếp tiểu loại và nhóm cho văn bản:

75

Bảng 2.4. Tính chất sự việc trong giai thoại Việt Nam

Tiểu loại giai thoại Tính chất sự việc

Giai thoại văn học Sinh hoạt văn chương

Giai thoại văn học Sinh hoạt đời tư

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại lịch sử triều Các hoạt động chính

Sinh hoạt văn nghệ Giai thoại văn hóa dân gian

Trường hợp cụ thể của tỉnh chất sự việc - Thách đố văn chương - Ứng tác văn chương Tính tình, thói quen, sở thích của nhà văn, nhà thơ Chuyện học hành, thi cử; tình yêu của các nhà nho Tình sử của các vua chúa, hoàng tộc, tướng lĩnh,… Tập tục treo câu đối trong sinh hoạt của nhân dân - Tiếp sứ giả nước ngoài - Trao đổi, liên lạc chính trị giữa các triều đại phong kiến Việt Nam - Mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền phong kiến - Việc xử kiện của vua quan phong kiến,... - Sinh hoạt văn nghệ của của nghệ nhân dân gian và các nhà nho tài tử - Sinh hoạt tập Kiều, đố Kiều, lẩy Kiều của các nhà nho và nhân dân - Biểu diễn sân khấu, tuồng, chèo, cải lương,…

Đến đây, thử áp dụng tiêu chí này để phân loại các giai thoại mang tính khúc mắc

mà luận án đã dẫn ra ở Chương 1. Với giai thoại Ghẹo sư, Bò đen bò vàng, chúng tôi

xác định giai thoại này nói về sinh hoạt văn chương, trong đó có sự thách đố (nhà sư

và Nguyễn Xuân Ôn) và sự giải đố (Hoàng Phan Thái và hai anh học trò). Do vậy, nó

là giai thoại văn học (nhóm thách đố văn chương). Với giai thoại Thuyền quyên ứ hự,

kể về sinh hoạt đời tư của nhà nho Nguyễn Công Trứ, thuộc trường hợp tình sử của

nhà nho thì hiển nhiên nó là giai thoại văn học chứ không thể là giai thoại lịch sử. Bởi

lẽ, Nguyễn Công Trứ xuất hiện trong giai thoại với tư cách cá nhân (nhà nho tài tử)

chứ không phải với tư cách một viên quan triều đình (nó khác hẳn với chuyện ông đem

quân đi dẹp loạn với tư cách một tướng quân đại diện về mặt chính trị cho triều đình

phong kiến. Chẳng hạn như trong giai thoại Bực mình với Nguyễn Công Trứ). Còn các

76

giai thoại về các cuộc hò hát đối đáp của các nhà nho tài tử như Nguyễn Công Trứ,

Phan Bội Châu, Nguyễn Du,… rõ ràng là giai thoại văn hóa dân gian (ứng với nhóm

sinh hoạt văn nghệ dân gian của các nhà nho tài tử). Vì một điều rất rõ ràng, họ đã

thoát khỏi môi trường hành đạo để hòa vào môi trường sinh hoạt văn nghệ dân gian

với quần chúng nhân dân.

Tóm lại, với tiêu chí đề tài, chúng tôi phân loại giai thoại Việt Nam thành 3 tiểu

loại tiêu biểu là giai thoại văn học, giai thoại lịch sử và giai thoại văn hóa dân gian

(cùng với các nhóm cụ thể của nó như đã nêu). Vậy là việc phân loại tùy theo mục

đích nghiên cứu có thể có những cách tiếp cận khác nhau. Rất khó có thể quy các tiểu

loại một cách rạch ròi, bởi nhiều tiêu chí cùng một lúc. Tính chất tương đối này là vấn

đề phổ biến cho việc phân loại một thể loại. Riêng đối với giai thoại lại phức tạp hơn

vì sự giao thoa thể loại trong nó chính là đặc điểm tư duy nhận thức về lịch sử, văn

học, văn hóa của nhân dân.

2.3. Đặc trưng thể loại và khái niệm giai thoại Việt Nam

2.3.1. Đặc trưng thể loại của giai thoại Việt Nam

Từ nhận thức trên cho thấy sự phức tạp trong quan niệm về giai thoại của các nhà

nghiên cứu là có lý do. Sở dĩ có tình trạng như vậy là do cách vận dụng các lý thuyết

khác nhau để soi chiếu vào giai thoại. Trong mục này, chúng tôi áp dụng lý thuyết

folklore để tiếp cận và lý giải một số đặc điểm được xem là đặc trưng thể loại của giai

thoại Việt Nam. Qua đó, củng cố và xác tín thêm luận điểm: giai thoại là một thể loại

của văn học dân gian. Các đặc điểm mà chúng tôi sắp trình bày dưới đây là: tính dân

gian và bác học của giai thoại; kịch tính của giai thoại; tính hư cấu và sai lệch của

giai thoại và tính phản biện quan niệm truyền thống của giai thoại. Trong đó, ba tính

chất đầu đã được bàn nhiều ở Việt Nam. Riêng tính chất thứ tư, chúng tôi tiếp thu và

phát triển thêm từ các nhà nghiên cứu nước ngoài là Nicolaisen, Gossman,…

2.3.2.1. Tính dân gian của giai thoại

Cũng như các thể loại khác trong tự sự dân gian, giai thoại cũng có những tính

chất, đặc điểm để xác lập tư cách văn học dân gian của thể loại. Các đặc điểm đó vừa

mang những nét phổ quát của loại hình tự sự dân gian, vừa hé mở những nét độc đáo

riêng thuộc về bản chất thể loại của giai thoại Việt Nam. Tính dân gian của giai thoại

thể hiện qua các khía cạnh tiêu biểu là: tính tập thể, tính truyền miệng, tính dị bản.

Dưới đây, luận án sẽ điểm qua các tính chất nêu trên.

a. Tính tập thể và tính truyền miệng của giai thoại

Có thể nói, tính tập thể và tính truyền miệng của giai thoại là những đặc điểm

77

quan trọng góp phần xác định giai thoại là một thể loại thuộc tự sự dân gian. Căn cứ

vào lịch sử nghiên cứu thể loại, chúng ta thấy các nhà nghiên cứu dù theo khuynh

hướng khẳng định giai thoại thuộc văn học dân gian hay thuộc văn học bác học đều đã

thừa nhận và đồng thuận với nhau về các tính chất này. Các tác giả Vũ Ngọc Khánh,

Kiều Thu Hoạch đều căn cứ vào tính tập thể và tính truyền miệng (bên cạnh cách vận

dụng một số biện pháp nghệ thuật đặc thù của văn học dân gian) để khẳng định giai

thoại là một thể loại văn học dân gian. Ngoài ra, hai tác giả trên cũng lưu ý đến hai

tính chất khác là tính dị bản (hệ quả của tính truyền miệng) và tính kết chuỗi (có nhiều

giai thoại xoay quanh môt nhân vật quan phương). Còn Trần Thanh Mại tuy xem giai

thoại là một thể loại thuộc văn học viết nhưng ông cũng đã khẳng định hình thức

truyền miệng và sáng tác tập thể của giai thoại.

Như vậy, theo tác giả đi trước (Trần Thanh Mại, Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu

Hoạch), giai thoại thoạt đầu do các nhân vật nổi tiếng sáng tác. Qua quá trình vận

động, nó mất dần dấu vết tác giả và trở thành tài sản chung của nhân dân. Nhưng một

câu hỏi tiếp theo được đặt ra là bằng cách nào những giai thoại đậm chất văn chương

bác học ấy lại có thể len lỏi, bám rễ và có ảnh hưởng một cách sâu rộng trong đời sống

tinh thần của không chỉ người trí thức mà còn đối với cả tầng lớp bình dân? Có lẽ, đến

đây, chúng ta cần điểm qua một chút về môi trường văn hóa, trong đó, giai thoại được

nảy sinh và phát triển. Để có được sự đồng nhất này, các giai thoại phải phù hợp với

nếp nghĩ, cảm của quần chúng nhân dân.

Theo Vũ Ngọc Khánh, hoạt động sinh hoạt văn chương nói chung từng là thước

đo chuẩn mực của không chỉ ý thức hệ phong kiến mà còn là sinh hoạt mang tính cộng

đồng, làng xã: “Chuyện thử tài, thách thức, đối đáp, ví von, bẻ chuyện, nam xướng nữ

họa, ngày nay đối với chúng ta có phần xa lạ, đôi khi còn đáng nghi ngờ, thực ra đã

có một thời gian chiếm lĩnh các môi trường: trường học, sân đình, quán làng, đám

hội... Nhà văn hay nhà khoa bảng nào không thâm nhập vào môi trường ấy chỉ là hạng

mọt sách, tú tài bất tri thiên hạ sự mà thôi...” [89, tr.18]. Thực ra, có một chiều ngược

lại là chính tầng lớp trí thức đã có vai trò nâng cấp cho các sáng tác dân gian. Vì vậy,

vai trò không thể phủ nhận của các nhà nho trong sinh hoạt văn nghệ dân gian là góp

phần hoàn chỉnh, nâng tầm chữ nghĩa cho những câu hò, lời hát qua kiến thức uyên

thâm của họ. Cùng với quần chúng nhân dân, các nhà nho đã tham gia sáng tạo giai

thoại văn hóa dân gian. Những sáng tác mang hơi thở quần chúng nhân dân lao động

nhanh chóng được dân gian hóa.

78

Trong kho tàng giai thoại, các cuộc hò hát của các nhà nho tài tử như Nguyễn

Công Trứ, Nguyễn Du, Phan Bội Châu,... đều diễn ra trong không khí náo nhiệt, hấp

dẫn của hoạt động sinh hoạt văn nghệ dân gian của cộng đồng. Nói cách khác, văn

chương chữ nghĩa trong giai thoại nhất định phải mang “phong cách dân gian”, tức là

phải xuyên thấm từ lớp văn hóa bác học sang lớp văn hóa bình dân, để có thể làm thỏa

mãn “tầm đón đợi” của người thưởng lãm giai thoại. Như vậy, cái được gọi là tính dân

gian của giai thoại cho thấy chủ yếu hình thành từ lộ trình dân gian hóa bác học. Có lẽ,

chỗ nhập nhằng này khiến cho thể loại thường được soi chiếu dưới hai góc độ thể loại

như đã nêu. Trên đây, luận án vừa điểm qua vấn đề tác giả của giai thoại với vai trò

trung tâm là các nhà nho trong việc sáng tạo thể loại.

Đến đây, có một vấn đề khác đặt ra là ngoài con đường lưu truyền trong dân

gian, thì giai thoại Việt Nam đã được ghi chép (văn bản hóa) như thế nào trong thời kỳ

phong kiến? Quá trình văn bản hóa giai thoại từ những câu chuyện lưu truyền trong

dân gian trở thành những văn bản chắc hẳn có phần nhuận sắc ít nhiều của các nhà

nho. Phần triển khai sau đây sẽ làm nổi rõ vấn đề trên.

Trước hết là các sách sưu tầm giai thoại ở Trung Quốc. Sở dĩ phải điểm qua khía

cạnh này trước bởi lẽ, các sách đó có ảnh hưởng nhất định đến cảm quan sáng tạo giai

thoại của người Việt Nam. Trong đó, nổi bật nhất là khuynh hướng dân tộc hóa mà

luận án đã từng đề cập. Theo tài liệu của PGS Vũ Ngọc Khánh (Kho tàng giai thoại

Việt Nam, tập 1), ngay từ thời phong kiến, ở Trung Quốc đã có rất nhiều sách sưu tầm

giai thoại ra đời. Điểm nổi bật là các giai thoại này thường nằm lẫn với truyện cười:

“Đời Đường có Quần cư giải dị, đời Tống có Thiện hước tập, Tiếu ngôn tập, đời Minh

có Quảng tiếu phủ, Thời thường tiếu đàm, đời Thanh có Tiếu lâm quảng ký. Tổng hợp

các giai thoại, truyện vui của nhiều thế kỷ những tập như Cổ kim đàm khái... Người

chép thoại đồng thời là thi sĩ và nhà phê bình văn học. Cuốn Tùy viên thi thoại được

đánh giá cao bên Trung Quốc. Còn về chuyện, có thể kể những mẩu chuyện rất ngắn

trong các sách như Quảng sự loại, Bắc mộng tỏa ngôn, Cố sự quỳnh lâm, Thuyết

uyển,... Nhưng cũng có những chuyện không phải là mẩu mà là thoại. Sách ghi chép

những thoại này có nhiều tên: có khi là Tiễn đăng tân thoại, có khi là Cổ kim tiểu

thuyết, có cả là sử như bộ Tình sử” [89, tr.9].

Còn theo tài liệu của Trần Thanh Mại (ghi trong Tiểu luận cuốn Giai thoại văn

học Việt Nam (1965)), ngay từ thời Lê – Trịnh, nhà bác học Lê Quý Đôn đã lưu ý đến

sự tháo lắp, chắp nối những mẩu giai thoại từ Trung Quốc qua các sách tiêu biểu có

thể kể ra là: Thi liên hợp bích, Minh nho ký văn, Thuyết phu tùng thuyết, Triều dã

79

thiêm tái, Đậu đương tạp trở, Nhất kiến cáp cáp tiếu,... Dễ thấy một điều rằng, trong

thời kỳ phong kiến, đặc biệt là trong những giai đoạn Nho giáo thịnh hành và giữ vai

trò thống trị về mặt tư tưởng ở nước ta, thì bên cạnh những quyển sách được xem là

kinh điển của Nho giáo (về mặt giáo dục), những sách sưu tầm giai thoại như trên ít

nhiều có những tác động nhất định đến tầng lớp trí thức (ở phương diện giải trí hay

biên khảo).

Trở lại vấn đề sưu tầm, ghi chép giai thoại thời phong kiến, nhiều ý kiến cho rằng

phải đến thời Trần thì các quyển sách ghi chép về giai thoại mới xuất hiện. Tuy nhiên,

nó lại nằm lẫn trong các chuyện được xem là giai thoại thiền. Tiêu biểu là quyển Thiền

uyển tập anh. Sách này chép về tiểu sử của các vị thiền sư ở Việt Nam, trong đó có lẫn

vào một số giai thoại (văn học) về một số nhân vật nổi tiếng như: sư Đỗ Thuận, sư

Mãn Giác, sư Không Lộ, sư Vạn Hạnh,... Trong đó, nổi bật nhất có lẽ là giai thoại đối

đáp văn chương giữa sư Đỗ Thuận và Lý Giác – sứ thần nhà Tống (Bác lái đò hay

chữ). Đến thời Lê, giai thoại chủ yếu được chép trong các sách sử, tiêu biểu là quyển

Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên. Chúng ta có thể tìm được hàng loạt những

giai thoại văn học, giai thoại lịch sử về các nhân vật nổi tiếng nằm trong cuốn này như:

Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần Nhật

Duật,... (đa phần các nhà sưu tầm giai thoại Việt Nam thời hiện đại đều trích dẫn lại từ

sách này). Như vậy là, từ xu hướng hòa lẫn vào sách tôn giáo, giai thoại được ghi chép

theo một hướng khác là các sách sử của các sử quan thời phong kiến.

Ngoài ra, còn có thể kể đến xu hướng thứ ba trong việc ghi chép giai thoại. Đó là

xu hướng chép giai thoại được lưu truyền trong dân gian (những mẩu chuyện được lưu

truyền trong dân gian này được xem là truyền ngôn nói chung và dĩ nhiên giai thoại

nằm lẫn lộn với các thể loại khác như truyện truyền kỳ, truyền thuyết). Đến đây, vai

trò của các nhà nho (nói đúng hơn là danh sĩ) mới được thể hiện một cách rõ nét. Tiêu

biểu có thể kể ra: Thời Lê – Trịnh có Kiến văn tiểu lục (Lê Quý Đôn), Công dư tiệp ký

(Vũ Phương Đề), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh); thời Nguyễn có Vũ trung tùy bút

(Phạm Đình Hổ), Tang thương ngẫu lục (Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án), Vân nang tiểu

sử (Phạm Đình Dục), Thoái thực ký văn (Trương Quốc Dụng), Tam khôi bị lục

(Nguyễn Văn Giao),... Trong các sách này, ngoài việc chép lại các cuộc đối đáp văn

chương, mạn đàm, còn có cả những mẩu chuyện sự tích, dã sử, tình sử,... Ngoài ra, các

tác giả cũng đã phần nào chú ý đến tiểu sử riêng tư của các nhân vật quan phương của

thời đại (thể hiện qua các mẩu chuyện) như: Đoàn Thượng, Phạm Ngũ Lão, Phạm Tử

Hư, Phạm Cư Sỹ, Đỗ Uông, Lý Đạo Tái,... (Vũ trung tùy bút); Nguyễn Đăng Giai,

Nguyễn Công Hãng, Nguyễn Bá Dương, Lê Trãi, Bùi Cầm Hổ, Đặng Chất, Tả Ao,

80

Phạm Đình Trọng, Đặng Trần Côn, Nguyễn Đăng Cảo, Bùi Huy Ích,... (Tang thương

ngẫu lục).

Và đúng như nhận xét của Trần Thanh Mại, Vũ Ngọc Khánh, so với Trung Quốc,

các sách chép giai thoại thời phong kiến của Việt Nam khá ít ỏi. Điều này hẳn có

nguyên nhân của nó. Theo đó, trong thời phong kiến, có hai bộ phận hợp thành văn

hóa Việt Nam. Đó là văn hóa bác học (Nho giáo) gắn liền với giai cấp thống trị và văn

hóa dân gian (bình dân) gắn liền với tầng lớp bình dân trong xã hội. Trong đó, văn hóa

bác học được xem là chuẩn mực, nằm ở vị thế chính thống và hiển nhiên được xem là

cao hơn so với văn hóa dân gian. Đặc biệt, khi tư tưởng lưỡng phân về văn hóa ra đời

(phân biệt một cách rạch ròi giữa văn hóa bác học và dân gian), việc ghi chép những

câu chuyện được truyền tụng trong dân gian có gì đó “ngoài lề”, “phi chính thống”. Và

hiển nhiên cảm quan đó có sự chi phối ít nhiều đến tâm lý ghi chép những truyền ngôn

trong dân gian, trong đó có giai thoại.

Ngoài ra, cũng cần chú ý thêm một đặc điểm mang tính thời đại: bối cảnh lịch sử

- xã hội. Bước sang thế kỷ XVI, từ lúc Mạc Đăng Dung lật đổ nhà Lê (năm 1527), xã

hội phong kiến Việt Nam bắt đầu bộc lộ sự suy vi ở những mức độ khác nhau. Đất

nước cũng từ đó rơi vào cảnh chiến tranh, loạn lạc liên miên ( Lê – Mạc; Trịnh –

Nguyễn, các cuộc khởi nghĩa nông dân,...). Trong một bối cảnh xã hội như vậy, dễ

hiểu vì sao tâm thức thời đại ít quan tâm đến cảm quan huyền thoại, thiêng liêng mà

trở về với cảm hứng thế sự. Nhiều thể loại văn học dân gian có xu hướng đi sâu vào

vấn đề thân phận con người có lẽ cũng phần nào liên quan đến bối cảnh chung đó. Như

vậy, trong gần 10 thế kỷ (từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX), giai thoại Việt Nam được ghi

chép lại theo 3 khuynh hướng cơ bản là: tôn giáo, sử biên niên, truyền ngôn với vai trò

chủ đạo của các sử quan và các nhà nho.

Phải đến đầu thế kỷ XX, khi chữ quốc ngữ phổ biến thì các sách giới thiệu về

giai thoại mới nở rộ (như đã điểm qua ở Chương 1). Tầng lớp nho sĩ và trí thức Tây

học như: Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Ngọc, Đào Trinh Nhất, Ngô Tất Tố,... và

nhiều trí thức khác đã cho xuất bản hàng loạt những quyển sách có giá trị “ôn cố nhi tri

tân” với các tiêu đề như: chuyện đời xưa, chuyện giải buồn, chuyện mua vui, chuyện

cổ, chuyện góp, tiếu lâm,... Bên cạnh đó, khá nhiều quyển sách Hán, Nôm được

chuyển ngữ sang quốc ngữ cũng có giá trị trong việc quảng bá, giới thiệu giai thoại

đến với đông đảo quần chúng nhân dân (Nam Hải dị nhân liệt truyện – Hoàng Tâm

biên dịch; Nam Hải dị nhân – Phan Kế Bính biên dịch; Đại Nam kỳ nhân liệt truyện –

Tô Linh Thảo biên dịch,...). Như vậy là, với sự chuyển đổi từ văn hóa trọng Nho (Hán

học với chữ Hán là trung tâm) chuyển sang văn hóa Tây học (với chữ quốc ngữ là

81

trung tâm) thì các thể loại văn học dân gian nói chung (trong đó có giai thoại) mới có

thể đến gần hơn với quần chúng nhân dân thông qua con đường văn bản hóa.

Ở trên, luận án đã điểm qua khía cạnh tác giả sưu tầm, giới thiệu giai thoại qua

các thời kỳ. Đến đây, sẽ nói về môi trường sinh hoạt trong đó giai thoại này sinh và

được truyền tụng. Mỗi thể loại đều có sức sống và bối cảnh riêng của nó. Bối cảnh đó

phải xuất phát từ đời sống tinh thần của nhân dân. Chính bối cảnh sinh hoạt cụ thể mới

tạo nên giá trị thẩm mỹ riêng cho giai thoại, khiến nó xuất phát từ tầng lớp trí thức vẫn

gần gũi với nhân dân. Thử dẫn ra đây 02 ví dụ tiêu biểu về sự ứng tác của nhà nho tài

tử Phan Bội Châu trong các cuộc hát. Trong giai thoại Đoán tên, đứng trước câu hát đố

(về tên tuổi) rất hiểm hóc của nhà nho Cửu Thiện (quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh): “Đào

nguyên một giải thanh thanh/ Tiền triều đã định, liên thành còn in”, tài tử Phan Văn

San đã lục lọi trong trí nhớ về kho tàng sách vở, chữ nghĩa, cuối cùng cũng đoán được

tên của Cửu Thiện: “Hương Sơn là chốn quê nhà/ Phải rằng danh Bích có là đúng

chăng?” [114, tr.271 – 172]. Câu hát giải đố của Phan Bội Châu hoàn toàn không có

sẵn trong truyền thống dân gian mà do ông tự nghĩ ra bằng kiến thức uyên thâm. Do

vậy, có thể nói, trong trường hợp trên, Phan Bội Châu đã thuyết phục được mọi người,

trong đó có Cửu Thiện bằng một câu hát ngoài sách vở, ngoài những điều mà ai cũng

biết. Đến giai thoại thứ hai, Cha thầy Mạnh Tử là ai?, thì bên cạnh cá tính (tiếng chửi:

Thầy Mạnh, cụ Mạnh sinh ra/ Trả lời câu đố, tổ cha thằng bày!) thì truyền thống dân

gian cũng được cụ Phan Bội Châu vận dụng để đáp lại lời hát đố của phường bạn. Câu

hát của phường bạn là: “Đưa chàng mấy nắm ngô rang/ Trồng nơi mô cho mọc, thiếp

theo chàng về ngay!”. Đây rõ ràng là câu hát khá hiểm nhưng không phải là không có

câu trả lời, theo đúng phong cách dân gian: dùng cái tục (ở đây là sinh thực khí) để áp

chế cái nan giải. Thực ra, câu hát đố này đã có sẵn trong ký ức tập thể, chỉ cần biến tấu

lại là có thể giải quyết được tình hình. Thế nên, cụ Phan đã đáp lại ngay: “Nơi nào mà

nắng không khô/ Mà mưa không ướt, đút vô mọc liền” [114, tr.273]. (Câu hát dân gian

là: “Nơi nào mà nắng sáu tháng không khô/ Mưa ba năm không ướt đút vô nó mọc

liền”).

b. Tính dị bản của giai thoại

Ở trên, luận án đã điểm qua vấn đề tính tập thể, tác giả sáng tác giai thoại, các

cách thức ghi chép giai thoại cũng như môi trường văn hóa sản sinh ra giai thoại. Đến

đây, chúng tôi tiếp tục bàn về tính dị bản của giai thoại. Bởi lẽ, đây cũng là một tính

chất quan trọng không chỉ góp phần xác định tư cách thể loại văn học dân gian của giai

thoại mà còn hé mở tư suy sáng tạo giai thoại của dân gian. Trên đại thể, dị bản trong

giai thoại không mang ý nghĩa chặt chẽ như dị bản trong các thể loại khác của văn học

82

dân gian. Đây là đúc kết của các nhà nghiên cứu đi trước (Trần Thanh Mại, Vũ Ngọc

Khánh, Kiều Thu Hoạch,…). Để sáng tạo nên giai thoại, dân gian có cách thức gán

ghép, thêu dệt nên những mẩu chuyện khá giống nhau, chỉ khác biệt đôi chút về tính

danh của NVC, thơ văn, câu đối, câu hát,... Điều này chắc hẳn có liên quan đến tâm lý

sáng tạo của thể loại.

Qua quá trình vận động, giai thoại sẽ tích hợp văn hóa thông qua 3 khuynh

hướng sáng tạo cơ bản là dân tộc hóa, địa phương hóa và lịch sử hóa. Hiện tượng dân

tộc hóa trong giai thoại có xu hướng hút những giai thoại văn học Trung Quốc và

chuyển hoá thành giai thoại văn học Việt Nam. Chỉ có nhân dân mới tạo nên sức hút

mạnh mẽ lớn như vậy. Chẳng hạn, giai thoại Hai cô Điểm, hai ông Luân nói về cuộc

đối đáp văn chương giữa hai anh em Đoàn Doãn Luân và Đoàn Thị Điểm thực chất là

sao chép từ giai thoại tương tự của Tô Đông Pha và Tô Tiểu Muội. Ngay từ thời Lê,

Lê Quý Đôn cũng đã lưu ý về vấn đề sao chép, gán ghép này trong quyển Kiến văn

tiểu lục, ở mục Tùng đàm. Cụ thể, giai thoại Cầm sắt tỳ bà bát đại vương về nhân vật

Vũ Duệ (thời Lê, đỗ Trạng nguyên thứ 21, năm 1490) thực ra được sao chép từ sách

Thi liên hợp bích về nhân vật Giải Tấn đối đáp với Minh Thành Tổ. Còn giai thoại Bốn

chữ nhất nổi tiếng của Mạc Đĩnh Chi lại rất giống (từ nội dung đến thơ văn) với một

giai thoại về nhân vật Dương Ức (nhà Tống) được ghi trong sách Thuyết phu tùng

thuyết. Giai thoại Thánh quân minh đế nói về Lương Thế Vinh bị té xuống sông, rồi

trò chuyện cùng Khuất Nguyên tiên sinh thực ra là hoàn toàn trùng lặp với giai thoại

về Cao Thôi Ngôi với vua Đường (sách Triều dã thiêm tái) và cả Hoàng Phan Xước

với Đường Minh Hoàng (sách Đậu dương tạp trở),…

Đến đây, có thể mô hình hóa khuynh hướng dân tộc hóa qua sơ đồ sau:

Giai thoại Trung Quốc

Giai thoại Việt Nam

Dân tộc hóa

Sở đồ 2.4. Khuynh hướng dân tộc hóa trong sáng tạo giai thoại Việt Nam

Như vậy, dân tộc hóa là một trong 3 khuynh hướng cơ bản nhằm sáng tạo giai

thoại. Nó được triển khai theo cách thức thay đổi tên NVC là người nổi tiếng của

Trung Quốc thành NVC là những nhà khoa bảng, nhà nho Việt Nam (có thể giữ

nguyên thơ văn, hoặc có thay đổi chút ít so với câu chuyện gốc). Ngoài ra, cũng cần

nhắc đến khuynh hướng lịch sử hóa nhân vật, biến nhân vật từ phiếm chỉ trở thành

nhân vật có tên tuổi. Chẳng hạn, sách Truyện đời xưa của học giả Trương Vĩnh Ký có

chép truyện Học trò sửa liễn phủ cửa ngõ của ông hoàng, với hai nhân vật hoàn toàn

phiếm chỉ. Tuy nhiên, trong sách Văn đàn bảo giám lại ghi tên hai nhân vật ấy là Cao

83

Bá Quát và vua Tự Đức. Quá trình lịch sử hóa này chứng tỏ câu chuyện trên đã vận

động trong không gian, thời gian, được nhào nặn lại, với một mục đích rõ ràng là đề

cao cái tôi ngông nghênh của Cao Bá Quát trước thế lực vương quyền đương thời. Và

mặt khác, phải chăng quá trình lịch sử hóa ấy chính là căn nguyên dẫn đến sự di

chuyển thể loại, từ cổ tích sinh hoạt (với NVC phiếm chỉ) thành giai thoại văn học (với

NVC là người nổi tiếng)?

Có thể khái quát tư duy lịch sử hóa giai thoại theo sơ đồ sau:

Cổ tích sinh hoạt

Giai thoại văn học

(NVC khuyết danh)

(NVC là người nổi tiếng)

Lịch sử hóa

Sơ đồ 2.5. Khuynh hướng lịch sử hóa trong sáng tạo giai thoại Việt Nam

Ngoài hai khuynh hướng dân tộc hóa và lịch sử hóa, trong tư duy sáng tạo giai

thoại còn xuất hiện khuynh hướng thứ 3 là khuynh hướng địa phương hóa. Khuynh

hướng địa phương hóa là cách thức thay đổi tên NVC (thường là người nổi tiếng) ở địa

phương này bằng tên một NVC khác (cũng là người nổi tiếng) ở địa phương khác với

mục đích chính là thể hiện niềm tự hào, ngưỡng mộ nhân vật. Ví dụ, một giai thoại

tiêu biểu trong nhóm giai thoại đi sứ, xoay quanh câu đối: “Đồng trụ chí kim đài dĩ

lục/ Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” trước vua nhà Minh (Trung Quốc) có khá nhiều

giả thuyết khác nhau về NVC: Sách Tam khôi bị lục thì cho là Giang Văn Minh, sách

Văn đàn bảo giám lại ghi là Nguyễn Tuấn, còn sách Việt – Hoa thông giám cương mục

thì lại chép NVC là Phùng Khắc Khoan,… Điều đặc biệt là cả ba nhân vật nêu trên đều

có đi sứ sang Trung Quốc. Trên đại thể, sự thay đổi tên NVC nổi tiếng ở địa phương

này bằng tên NVC nổi tiếng của địa phương khác không làm tổn hại đến tinh thần (hay

nội dung tư tưởng) của các giai thoại. Có thể khái quát lại tư duy địa phương hóa trong

sáng tạo giai thoại theo sơ đồ sau:

Giai thoại

Giai thoại

(NVC là người nổi tiếng ở

(NVC là người nổi tiếng ở

địa phương này)

địa phương khác)

Địa phương hóa

Sơ đồ 2.6. Khuynh hướng địa phương hóa trong sáng tạo giai thoại Việt Nam

Theo Trần Thanh Mại, việc hoán chuyển này thực chất là hiện tượng Việt hóa

văn hóa Hán. Và về mặt nào đó, nó chính là hư cấu: “Cần quan niệm tính chân xác

hay tính hư cấu của giai thoại văn học (cũng như mọi giai thoại nói chung) một cách

sinh động và biện chứng. Khăng khăng cho rằng giai thoại văn học Việt Nam là hoàn

84

toàn bịa đặt là không đúng mà bảo rằng đó là sự thật lịch sử, bảo rằng chuyện của

người nào nhất thiết phải là chuyện thật đã xảy ra với người ấy, thơ của người nào

nhất thiết phải là thơ của chính người ấy đã sáng tác ra, như thế lại càng sai” [65,

tr.25].

Chúng tôi cho rằng cơ sở của việc xoay trục (thay đổi, gán ghép NVC của giai

thoại) là căn cứ vào hai tiêu chí: cùng hàng và cùng loại. Hai tiêu chí này có thể hình

dung như những lát cắt đồng đại và lịch đại. Tiêu chí cùng hàng có nghĩa là các nhân

vật ấy phải là những người sống cùng thời đại với nhau (đồng đại). Tiêu chí cùng loại

nhằm khu biệt các nhân vật phải là những người có phong cách, tài năng tương tự

nhau. Chẳng hạn, giai thoại Không biết chữ chi, có hai bản khác nhau, một bản cho

nhân vật chính là Lê Quý Đôn (thời Lê – Trịnh), bản khác lại cho là Cao Bá Quát (thời

Nguyễn). Cả hai nhân vật nảy đều là người đỗ đạt và có tính tình tự phụ. Do vậy, sự

tháo lắp trong trường hợp này hoàn toàn có thể chấp nhận được nếu dựa vào điểm

tương đồng về phong cách sống, cá tính của nhân vật.

Nhìn nhận một cách khái quát hơn, thật ra vấn đề phản ánh trung thực hay hư cấu

trong giai thoại nói chung có liên quan đến yếu tố sử và thao tác nhào nặn yếu tố sử

của thể loại. Đây cũng là điều mà Vũ Ngọc Khánh đã nhận thấy và có những kiến giải

sâu sắc: “Ở giai thoại, người ta có quyền hư cấu, đôi khi hư cấu là đặc điểm bao trùm

nhưng không vì vậy mà ý nghĩa và giá trị lịch sử của nó bị suy giảm. Chuyện không

nhất thiết là có thực nhưng vẫn y như thực hoặc có khả năng là thực. Thực ở con

người ấy với bản lĩnh, tính cách đã quá rõ ràng đã được khẳng định với thời gian.

Thực ở giai đoạn xã hội ấy với những mối tương quan, những điều kiện chủ quan đặt

ra tình huống ấy, phương pháp giải quyết và lề lối ứng xử ấy. Lịch sử trong giai thoại

có thể là lịch sử tự thân, mà cũng có thể là lịch sử với khả năng tất yếu (…). Có thể

hoài nghi xuất xứ nhưng không thể hoài nghi về con người. Con người phải có thực

chất như vậy thì sự gán ghép, hư cấu kia mới có thể đứng vững được” [91, tr.34 – 35].

2.3.2.2. Tính hư cấu và tính sai lệch của giai thoại

Bản thân hư cấu là sáng tạo, tái tạo hiện thực. Vì vậy, nó vừa giống với hiện thực

mà vừa không phải là hiện thực hiểu theo nghĩa đích thực. Khoảng cách giữa sự hư

cấu với đích thực sự việc, nhân vật thực là sự sai lệch. NVC của giai thoại phần lớn là

con người cụ thể, có đặc điểm, hành trạng rõ ràng. Điều này thường nằm trong phần

mở đầu của giai thoại, với tính cách như phần giới thiệu, bước đệm, trước khi trình bày

về những biến cố, sự kiện xảy ra tiếp theo. Do vậy, tính hiển nhiên về mặt thông tin có

liên quan đến nhân vật là điều không thể phủ nhận. Vấn đề ở đây là con người, biến cố

85

ấy có mối quan hệ như thế nào với lịch sử. Nói khác đi là tác giả giai thoại dùng thao

tác nào để tái tạo lịch sử trong câu chuyện.

Gần như đối lập lại với tính chất hiển nhiên của người thật việc thật ở trên, giai

thoại còn có tính chất bên lề, phi chính thống, nghĩa là nó tự rạch lằn ranh xác tín với

chính sử, hay nói một cách nôm na là được tin như những câu chuyện có thật, đã từng

xảy ra trong thực tế khách quan. Những tình tiết, sự kiện, nhân vật,… được đề cập đến

trong giai thoại, trong nhiều trường hợp, chỉ là yếu tố tham khảo, giải trí chứ không thể

xem như một sự thật hiển nhiên. Theo quan sát của chúng tôi, đó là hệ quả của tính

chất hư cấu của thể loại. Tất nhiên, hư cấu cũng là đặc trưng của nhiều thể loại tự sự

dân gian khác chứ không riêng gì giai thoại. Nhưng rõ ràng tính hư cấu trong giai thoại

cũng có những quy luật riêng, gắn liền với tư duy sáng tạo của dân gian (theo 3

khuynh hướng: dân tộc hóa, địa phương hóa, lịch sử hóa mà luận án đã đề cập ở phần

trên).

Do vậy, có thể nói, sự thật trong giai thoại mang tính chất cái thực bản chất của

thể loại, chứ không phải là hiện thực khách quan. Thế nên, khi tiếp nhận giai thoại,

người ta không bao giờ đặt câu hỏi rằng câu chuyện ấy có thật hay không và thật đến

mức độ nào. Điều này rõ ràng có liên quan đến tâm lý tiếp nhận giai thoại: khi nghe/

đọc một giai thoại, vấn đề cốt lõi mà người tiếp nhận quan tâm là câu chuyện đó có thú

vị hay không (thú vị ở tình huống ứng xử, thơ văn, câu đối,…) chứ không phải ở mức

độ phản ánh thực tế khách quan có chân thực hay không. Điều này cũng có nghĩa là

nếu chúng ta quá chú trọng vào xác thực trong giai thoại rồi đánh đồng nó với sự thật

khách quan thì sẽ dẫn đến những ngộ nhận mang tính quy chụp, sai lầm về phương

pháp. Trên thực tế, chúng ta chỉ có thể sử dụng giai thoại như những mẩu chuyện tham

khảo về nhân vật có liên quan, chứ không thể căn cứ vào nó để dựng lại tiểu sử một

nhân vật. Nghĩa là, tính hư cấu là tiền đề dẫn đến tính sai lệch về mặt thông tin được

phản ánh trong giai thoại như nhiều nhà nghiên cứu đi trước đã lưu ý (Vũ Ngọc

Khánh, Triều Nguyên,…).

Tính chất bên lề, hư cấu của giai thoại sẽ làm phát sinh tính sai lệch của thể loại

so với thông tin chính thống. Có cách hiểu khác cho là sử quan phương. Sự sai lệch

này là một hệ quả hiển nhiên, không thể loại trừ. Như trên đã trình bày, tính hư cấu

của giai thoại khiến cho nội dung câu chuyện mà nó đề cập chỉ mang tính chất tham

khảo, mua vui, giải trí là chính chứ không thể xem đó như là sự thật khách quan. Trên

bình diện tiếp nhận giai thoại, tính sai lệch có chức năng điều chỉnh những ngộ nhận.

Đại thể, đó là các xu hướng: đồng nhất hóa nhân vật trong giai thoại với nhân vật

86

nguyên mẫu ngoài đời (prototype) và quy chụp hành động, ứng xử của nhân vật trong

giai thoại với tính cách của con người trong thực tế. Nghĩa là cấu trúc, mô hình ấy có

thể gán cho bất cứ nhân vật nào. Đấy chính là đặc thù sáng tạo của dân gian. Thực ra,

về tâm lý tiếp nhận, người nghe luôn có cảm giác đấy là sự thực. Có lẽ, chính cảm giác

này tạo nên giá trị thẩm mỹ cho thể loại. Chính sự sai lệch là sáng tạo. Vì vậy, mỗi dị

bản là một cách tái sáng tạo.

Chẳng hạn, từng có thời gian người ta đồng nhất nhân vật Chiêu Hổ trong chùm

giai thoại đối đáp với Hồ Xuân Hương với Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), một tác giả

văn học nổi tiếng sống vào giai đoạn cuối Lê đầu Nguyễn. Cho đến thập niên sáu mươi

của thế kỷ trước, sự thật về hai nhân vật mới được bóc tách một cách thuyết phục qua

bài viết của Tảo Trang: “Chiêu Hổ và Phạm Đình Hổ” (Tạp san Nghiên cứu Văn học

số 3/1962, dẫn theo Kiều Thu Hoạch, [67, tr.43]). Một trường hợp nữa, khá nổi tiếng,

đó là phải chăng Nguyễn Quỳnh (tức Cống Quỳnh, 1677 – 1748) là nguyên mẫu của

nhân vật Trạng Quỳnh của văn học dân gian?

Trường hợp tiếp theo là đồng nhất hóa hành động trong giai thoại để đúc kết

thành tính cách của nhân vật trong đời thật. Trong kho tàng giai thoại, chúng ta có thể

chọn ra trường hợp của Cao Bá Quát. Nhân vật này được xây dựng bằng chùm giai

thoại ngông nghênh với người đời, với vương quyền. Nói chung, đi đến đâu họ Cao

cũng ít coi ai ra gì, ứng xử có phần lỗ mãng dù tài năng là không thể phủ nhận. Tiêu

biểu cho các giai thoại ấy là: Câu thơ thi xã, Bịa thơ tài hơn vua, Khí phách ngang

tàng,… Trong các giai thoại này, Cao Bá Quát đã chửi thứ văn chương toàn mùi “nước

mắm Nghệ An” của nhóm thi sĩ trong thi xã Mạc Vân của Tùng Thiện Vương, hạ bệ

vua Tự Đức ngay điện Cần Chánh trước mặt bá quan văn võ; khạc nhổ, bịt mũi khi

nghe quan Đốc học dạy học trò,... Về sự khác biệt giữa tình tiết trong giai thoại và

nguyên mẫu nhân vật, nhiều nhà nghiên cứu đã có những lưu ý. GS Vũ Khiêu trong

Lời giới thiệu quyển Thơ chữ Hán Cao Bá Quát cũng đã viết: “Khác với một số giai

thoại, coi ông như một đứa trẻ ngỗ ngược, Cao Bá Quát qua thơ văn, đã tỏ ra là một

người biết giữ gìn phẩm hạnh, đối xử đúng mực với cha mẹ, anh em, xóm làng (…).

Cao có một cuộc sống thanh sạch, một thái độ đúng đắn về tình yêu, một tấm lòng đằm

thắm với vợ con” [101, tr.11]. Còn Nguyễn Ngọc Quận cũng lưu ý: “Thực ra, Cao Bá

Quát có tỏ ra cao ngạo, ngang tàng nhưng đó là đối với đám vua quan nhà Nguyễn tài

đức kém cỏi. Còn đối với nhân dân lao khổ, ông luôn tỏ lòng thương xót, cảm thông.

Giới nghiên cứu từ nửa thế kỷ nay đều thống nhất điểm đó” [124].

87

Công trình Đố tục giảng thanh và giai thoại chữ nghĩa [15] của Nguyễn Trọng

Báu cũng mắc lỗi tương tự và gây ra một số tranh cãi trong giới nghiên cứu. Bài viết

“Thằng bán tơ và hai ông nghè” của quyển này căn cứ vào tình tiết trong giai thoại văn

học có liên quan đến Chu Mạnh Trinh, rồi quy chụp ông là người phản quốc (hợp tác

với Pháp), người kiêu ngạo, cơ hội, hỗn xược với Nguyễn Khuyến. Trong bài viết “Kể

chuyện giai thoại không được bôi bác và xúc phạm danh nhân”, tác giả Thế Anh đã

căn cứ vào sử liệu để bác lại hoàn toàn những quy chụp thiếu căn cứ trên. Theo đó,

chưa có tài liệu nào chứng minh Chu Mạnh Trinh hợp tác với Pháp để đàn áp dân

chúng, mà ông còn lập mưu để cứu những tù nhân trong cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Sau

đó, ông đã từ chức Án sát Hưng Yên và được chấp nhận (năm 1903). Hơn nữa, cuộc

thi vịnh Kiều được tổ chức năm 1905, tức là sau 2 năm tính từ lúc họ Chu từ chức, nên

không thể nào ông dùng quyền lực để làm thay đổi kết quả cuối cùng. Rõ ràng, ở đây

có sự ngộ nhận giữa tư duy sáng tạo dân gian và ý thức lịch sử. Một bên chú trọng tính

xác thực, một bên chỉ chú trọng cảm hứng toát ra từ câu chuyện. Đây cũng là biểu hiện

sự nhập nhằng giữa tư duy dân gian và bác học.

Như vậy, đối với giới nghiên cứu, cần phải kiểm chứng, so sánh sự kiện, tình tiết

trong giai thoại với chính sử để có thể tránh được những kết luận vội vàng, võ đoán.

Bàn về tính hư cấu và sai lệch của giai thoại, chúng ta sẽ thấy một điểm đáng lưu ý

hơn là mối quan hệ giữa giai thoại và lịch sử. Đây cũng là vấn đề đáng được đào sâu

nhằm chỉ ra quy luật nhào nặn yếu tố sử của giai thoại. Thiết nghĩ, đây là một vấn đề

lớn về mặt lý luận nên chúng tôi sẽ tách ra và trình bày một cách cụ thể ở Chương 4

của luận án.

2.3.2.3. Tinh thần phản biện của giai thoại

Như trong mục cảm hứng đã nêu, bên cạnh xu hướng đề cao, thiêng hóa nhân

vật, trong giai thoại còn có dạng cảm hứng đối lập. Đó là sự phê phán, đả kích, giải

thiêng đối tượng là người nổi tiếng theo cách nhìn nhận của các nhà nghiên cứu giai

thoại Việt Nam. Còn ở phương Tây, Nilaicosen định danh tính chất này là sự “chỉ

trích xã hội” (Giai thoại, [107]), còn Gossman cũng gọi là “lịch sử phản lịch sử”

(“Giai thoại và lịch sử” [179]). Và mặc dù đã được bàn luận đến, song chưa có nhà

nghiên cứu nào ở Việt Nam khẳng định đây là tính chất quan trọng, góp phần hình

thành nên đặc trưng thể loại của giai thoại Việt Nam.

Ở phương Tây, một trong những quan niệm gốc về giai thoại mang nét nghĩa

hàm ý về “những câu chuyện chưa được công bố” (có người còn gọi là “chưa được

xuất bản” với ý nghĩa nhấn mạnh hơn dạng thức tồn tại ở dạng văn bản của giai thoại).

88

Do vậy, cũng cần xem xét giai thoại trong quá trình từ chỗ “chưa được công bố” đến

khi xuất hiện, được truyền miệng (và xuất bản) thì nó có sự tác động gì đến quá trình

chuyển đổi lịch sử, văn hóa, xã hội? Nói khác đi, giai thoại với tư cách là các tiểu diễn

ngôn đối lập và thách thức những đại diễn ngôn (dòng quan điểm chính thống) đã hình

thành trước đó và góp phần định hình quan điểm về vấn đề liên quan theo thời gian

như thế nào? Trong mục này, luận án sẽ bước đầu trình bày, luận giải tính chất trên.

Chúng tôi hiểu nội hàm của thuật ngữ phản biện quan niệm truyền thống như

sau: Phản biện quan niệm truyền thống là những hành vi, ứng xử, lời nói,… có mục

đích chống đối lại những quan niệm được xem là chuẩn mực của cộng đồng, xã hội về

các nhân vật nổi tiếng (như anh hùng văn hóa, anh hùng chiến trận, vua chúa, quan lại,

thần thánh,…) nhằm đưa ra một cái nhìn mới mẻ về nhân vật. Theo tính chất của hành

động, có thể chia sự phản biện quan niệm truyền thống thành các mức độ là: sự phản

biện gay gắt, trực tiếp (mức độ cao – chúng tôi định danh là phê phán, đả kích) và sự

phản biện nhẹ nhàng, gián tiếp (mức độ thấp – chúng tôi định danh mức độ này là sự

giải thiêng nhân vật).

a. Sự phê phán, đả kích của giai thoại

Sự phê phán, đả kích trong giai thoại chủ yếu nhắm vào nhân vật đại diện cho

vương quyền, thần quyền của chế độ phong kiến. Qua thống kê 03 công trình về giai

thoại, chúng tôi xác định có 160/756 tác phẩm xuất hiện tính chất này (tỉ lệ 21,2%).

Trong đó, đả kích, phê phán vương quyền là 127/756 (16,8%) và đả kích, phê phán

thần quyền là 33/756 (4,4%). Như vậy, có thể đưa ra nhận xét chung rằng: trong giai

thoại, đối tượng con người thực tế trong xã hội, mà cụ thể là thế lực vương quyền (vua

quan phong kiến) là đối tượng chủ yếu của sự phê phán đả kích, chứ không phải là

thần quyền (thế lực siêu hình).

Sự phê phán, đả kích vương quyền

Sự phê phán, đả kích vương quyền của giai thoại chủ yếu tập trung vào những

biểu hiện sau của các triều đại phong kiến Việt Nam: Chuyện loạn luân trong hoàng

tộc; những cuộc thanh trừng nội bộ nhằm tranh giành quyền lực; những tên tay sai

phục vụ cho thực dân Pháp.

- Chuyện loạn luân trong các triều đại phong kiến

Vấn đề loạn luân được đặt ra từ thời cổ đại và được đưa vào huyền thoại khá

sớm, được xem như điều cấm kỵ. Nó dần hình thành chuẩn mực sống, liên quan đến

giống nòi. Bất cứ nền văn hóa, văn học nào của nhân loại cũng định hình thành những

motif trong văn học. Tuy nhiên, giữa văn học và cuộc sống có khoảng cách. Thực tế,

89

có khi phải phá vỡ hệ thống. Trong truyền thuyết có hiện tượng này. Trong xã hội

cũng như vậy. Nhưng đó là vấn đề không dễ nói. Sau đây, luận án xin điểm qua một

vài trường hợp tiêu biểu về chuyện loạn luân trong các triều đại phong kiến Việt Nam.

Trong các triều đại phong kiến Việt Nam, thời nhà Trần được biết đến như một

trong những triều đại hùng cường, tạo nên được những chiến công kỳ vĩ (ba lần đánh

thắng giặc Mông Nguyên), làm nên bản hùng ca hoành tráng của thời đại Đông A. Tuy

nhiên, từ sử sách đến miệng thế gian cũng ghi lại không ít những câu chuyện thâm

cung bí sử mang màu sắc chê trách một số nhân vật nổi tiếng. Nổi bật lên trong những

câu chuyện như vậy là những tình tiết loạn luân, khó có thể chấp nhận. Một trong

những nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn, góp phần dựng lên triều đại này là Trần Thủ

Độ. Chính ông là người tạo nên tiền lệ không mấy tự hào: bắt anh em Trần Liễu (An

Sinh Vương) và Trần Cảnh (Trần Thái Tông) hoán đổi vợ cho nhau, từ đó làm phát

sinh hình thức hôn nhân nội tộc của họ Trần về sau. Ghi nhận lại sự việc này, sách Việt

sử giai thoại chép: “Bởi lẽ ấy mà vợ của Trần Hưng Đạo cũng chính là bà cô ruột của

ông (Công chúa Thiên Thành). Sau, Trần Thủ Độ và bà Trần Thị Dung còn buộc Trần

Liễu phải nhường vợ là Thuận Thiên Công chúa cho Trần Cảnh (lúc này đã là vua),

còn Chiêu Thánh Công chúa thì đem gả cho Lê Tần (tức Lê Phụ Trần). Bởi chuyện

này mà Trần Liễu xung đột với Trần Cảnh, bà Trần Thị Dung phải dàn xếp mãi mới

xong” (Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung, Việt sử giai thoại, tập 3, [145, tr.5]). Sự

việc trên bị các sử gia đời sau (Phan Phu Tiên, Ngô Sỹ Liên) phê phán khá nặng nề.

Đấy cũng là nguyên nhân gây ra những mối hiềm khích về sau của con cháu: Trần

Quốc Tuấn với Trần Quang Khải; Trần Quốc Tảng có ý đồ làm loạn,…

Không chỉ giới hạn trong nội bộ hoàng tộc, một số vị tướng lĩnh nổi tiếng của

thời Trần cũng “dính” vào “ải mỹ nhân”, khiến cho thanh danh bị hủy hoại, miệng thế

chê cười. Trần Khánh Dư tài năng hơn người nhưng vì thông dâm với Công chúa

Thiên Thụy mà bị cắt hết chức quyền, phải đi bán than kiếm sống (Thơ bán than, Giai

thoại văn học Việt Nam – Trần Thanh Mại, Kiều Thu Hoạch, Hoàng Ngọc Phách; Hai

chuyện nhỏ về Trần Khánh Dư, Việt sử giai thoại, tập 3, [145, tr.5]). Trần Khắc Chung

từng là một tay hùng biện giỏi, một con người khí khái hơn người trước tướng Ô Mã

Nhi. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình như: Hành Khiển, Tể

tướng, Thiếu bảo,… Nhưng rồi danh dự của vị quan này cũng bị bôi đen với việc tư

thông với Công chúa Huyền Trân sau khi giải cứu công chúa nhà Trần khỏi Chiêm

quốc (tháng 10 năm 1037). Nói về điều này, giai thoại lịch sử chép như sau: “Khắc

Chung dùng thuyền nhẹ, cướp lấy Công chúa đem về, rồi tư thông với Công chúa, đi

90

đường biển loanh quanh chậm chạp, lâu ngày mới về đến kinh đô” (Trần Khắc Chung

mất hết dũng khí, Việt sử giai thoại, tập 3, [145, tr.23]).

Đến thời Lê, một số nhân vật hoàng tộc cũng vướng vào chuyện quan hệ nam nữ

bất chính mà để lại vết nhơ cho hậu thế. Lê Thái Tông có mối quan hệ mờ ám với

Nguyễn Thị Lộ (thiếp của Nguyễn Trãi), giáp tiếp đưa đến kết thúc bi thảm của Ức

Trai (Vụ án Lệ Chi viên, Việt sử giai thoại). Mặc dù, thế lực vương quyền đã tạo ra câu

chuyện Rắn báo oán để “di chuyển điểm nhìn” chỉ trích sang Nguyễn Thị Lộ (tức hiện

thân của con rắn để báo oán Nguyễn Trãi) nhưng khó có thể che đậy được hành xử bất

chính của vua Lê với người thiếp của tôi thần. Ở thời Lê – Trịnh, chuyện dan díu của

Tuyên phi Đặng Thị Huệ và Quận Huy Hoàng Đình Bảo (sau cái chết của Trịnh Sâm)

cũng là một câu chuyện tiêu biểu. Ghi nhận lại sự việc này, dân gian (ở kinh thành

Thăng Long lúc đó) đã có câu hát mỉa mai:

Trăm quan có mắt như mờ,

Để cho Huy Quận vào sờ chính cung.

Tất nhiên, Quận Huy và Tuyên phi tức tối không chịu được. Nhưng làm sao họ

có thể bắt và cắt lưỡi hết những người rêu rao, phỉ báng mình? (Huệ kia không quả còn

mong nỗi gì?, Kho tàng giai thoại Việt Nam – Vũ Ngọc Khánh). Ngoài ra, còn có thể

kể đến vụ thông dâm của Trịnh Giang với vợ lẽ của cha (Trịnh Cương) (Mắc bệnh

kinh quý, Việt sử giai thoại, tập 7, [145, tr.106]). Đến thời nhà Nguyễn, một số cuộc

binh biến gắn với các vụ loạn luân trong hoàng tộc cũng trở thành đề tài làm rúng động

nhân tâm. Tiêu biểu có thể kể ra là Tống thị, Nguyễn Thị Ngọc Cầu (Xâu chuỗi trăm

hoa, Vụ loạn luân trong mưu đồ sâu sắc; Kho tàng giai thoại Việt Nam – Vũ Ngọc

Khánh).

- Những vụ thanh trừng nội bộ của chính quyền phong kiến

Ngoài ánh hào quang của mỗi triều đại sau khi dựng nên, cũng có không ít những

mẩu chuyện tái hiện lại những mâu thuẫn nội bộ, tranh giành quyền lực trong hàng ngũ

hoàng tộc hoặc các thế lực khác nổi lên tiếm ngôi. Lịch sử phong kiến Việt Nam ghi

lại không ít những câu chuyện như vậy (cả chính sử và giai thoại lịch sử). Ở đây, chỉ

xin điểm qua một vài trường hợp tiêu biểu. Đối với họ Trần, Trần Thủ Độ là người có

công lớn trong việc dựng nên triều đại này. Nhưng xét trong mối quan hệ với tiền triều

(tức vua nhà Lý), ông đã gây ra vô số tội lỗi tày trời. Ông giết chết vua Lý Huệ Tông

và hàng loạt tông thất nhà Lý. Cuối thời nhà Trần, Hồ Quý Ly đã làm những việc trái

với đạo lý quân thần, để lại tiếng nhơ ngàn đời. Ông đã mượn tay Thượng hoàng Trần

Nghệ Tông để bức hại vua Trần Phế Đế và một loạt văn thần, võ tướng thân tín khác

91

của nhà vua (Hồ Quý Ly mượn tay Thượng hoàng Nghệ Tông để giết vua Phế Đế;

Cuộc sát hại có quy mô lớn của Hồ Quý Ly; Vụ tru di lớn nhất thế kỷ XIV, Việt sử giai

thoại, tập 4).

Không chỉ thanh trừng những đối thủ chính trị, lịch sử phong kiến Việt Nam

cũng ghi lại không ít những vụ sát hại những bậc khai quốc công thần, mà tiêu biểu

nhất có lẽ là vào thời nhà Lê. Sau khi giúp Lê Lợi lên ngôi (Lê Thái Tổ), hàng loạt câu

chuyện bi thương xảy đến với những bậc được xem là khai quốc công thần của triều

Lê như: Nguyễn Xí, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Sát, Lê Ngân, … Những con

người ấy từng chung vai đấu cật, vào sinh ra tử với vua nhưng đều chịu kết cục bi

thảm theo cách này hay cách khác (Thương thay Trần Nguyên Hãn; Vụ án Lê Sát, Lê

Ngân bị bức tử, Vụ án Lệ Chi viên,… Việt sử giai thoại, tập 4, Giai thoại thời Lê).

- Những ông vua nhu nhược, những tên tay sai cho thực dân Pháp

Cảm hứng phê phán, đả kích chỉ xuất hiện khi xã hội suy vi. Về mặt này có thể

hiểu vì sao triều đình nhà Nguyễn cuối cùng của chế độ phong kiến trở thành đối

tượng cho cảm hứng này. Vua Tự Đức trở thành đối tượng bị phê phán nhiều nhất bởi

ông là một trong những ông vua nhu nhược nhất của triều Nguyễn. Trong các nhà nho

trực tiếp chống đối với nhà vua nổi bật nhất là cụ Phan Văn Trị. Cử Trị sáng tác khá

nhiều bài thơ đả kích gay gắt nhà vua: Thơ ăn thịt Cần Đước, Đái vẽ nên rồng, Cá lia

thia,… Các tên tay sai cho thực dân Pháp là đối thủ không đội trời chung của các nhà

nho, từ khuyết danh đến các tên tuổi nổi tiếng: Hoàng Cao Khải, Từ Đạm, Trần Tử Ca,

Đỗ Hữu Phương, Nguyễn Thân, Tôn Thọ Tường,… Nguyễn Khuyến làm thơ Vịnh

phỗng đá, làm câu đối Tết để xỏ xiên Hoàng Cao Khải (Đòi xem câu đối). Các nhà nho

khuyết danh làm thơ đả kích thói khoe chữ một cách trịch thượng của Từ Đạm, làm

câu đối chế giễu tên ác ôn Trần Tử Ca (Mai xem mên lai). Các nhân vật hề trong tuồng

chửi vào sự phản bội, bán nước cầu vinh của Nguyễn Thân – một tên tay sai đắc lực

của Pháp,…

Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp mặc dù bị dư luận xã hội chỉ trích, lên án

nhưng chung quy lại, hình mẫu những con người tài năng, đức độ vẫn có thể đứng

vững trước dư luận (thậm chí vẫn trường tồn như một biểu tượng toàn mỹ). Nguyên do

là trong tâm thức nhân dân, những con người ấy dù có lỗi lầm ở điểm này hay điểm

khác, nhưng công đức mà họ tạo lập được cho thời đại mình, nhân dân mình đủ sức

che lấp và làm mờ đi những vết nhơ đó. Mặt khác, cũng cần nói thêm rằng, tên tuổi,

hành trạng của họ đã cắm rễ sâu và có vị trí quan trọng trong văn hóa dân gian. Và với

sự bảo vệ của văn hóa dân gian, những “lời đồn” (có thể bịa đặt hay dựa trên một sự

92

thật lịch sử đã xảy ra), “sự cố mang tính đại diện” ấy dù được “tiêm” một cách có chủ

đích vào dòng văn hóa phản biện, vẫn không thể làm lung lay và sụp đổ biểu tượng

của thời đại. Ở đây, xin điểm qua trường hợp của vua Lê Thánh Tông và ba anh em

nhà Tây Sơn.

Chúng ta đều biết rằng Lê Thánh Tông (tức Lê Tư Thành) là người được hưởng

lợi hơn cả (lên ngôi vua) sau vụ loạn Nghi Dân (1460). Một số sử gia về sau có đôi

chỗ khen chê nhà vua ở việc đối xử với huynh đệ không được thấu tình đạt lý. Tuy

nhiên, ông đã vượt qua thử thách bằng bài thơ ứng tác đầy khẩu khí đế vương (thơ về

con cóc). Qua đó, ông đã xua tan mọi sự hoài nghi về tài năng và được lên ngôi vua

(Chúng tôi ngờ rằng đây là một giai thoại mang tính chất đề cao tài năng của Lê Thánh

Tông hơn là một sự thật lịch sử). Xoay quanh Lê Thánh Tông, có hàng loạt những

chuyện dã sử được thêu dệt theo hướng lãng mạn hóa, thi vị hóa tiểu sử riêng tư. Ví

dụ, ở khía cạnh tình yêu cá nhân, có hàng loạt giai thoại đề cập đến tình cảm của ông

với: nàng thôn nữ (Câu thơ nên nghĩa), nàng ca câm (tương truyền là con sót lại của

Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và nàng ca câm), ni cô chùa Ngọc Hồ,… và cả tiên nữ

giáng thế (Hồn bướm mơ tiên). Người ta bắt gặp trong những giai thoại nêu trên một

ông vua si tình, lãng mạn nhưng cũng không kém phần sáng suốt. Ông cũng được ngợi

ca là một đấng minh quân, có sự gần gũi và hài hước trong một số giai thoại với Trạng

Lường Lương Thế Vinh (Ba ông tam Thế; Sư sử sứ, phụ phù phu;…); là một người

sáng suốt biết nhìn người và trọng tài năng (Anh lính hội Tao đàn),…

Nhưng Lê Thánh Tông không chỉ là đối tượng ca ngợi của văn hóa dân gian mà

còn là người góp phần sáng tạo văn hóa (trong đó có văn hóa dân gian). Ông được cho

là người sáng lập các đội Đồng Văn, Nhã Nhạc, hội Tao Đàn,… là người đặt ra lễ

xướng danh, vinh quy cho các sĩ tử. Trong địa hạt giai thoại, ông là tác giả sáng tác

một số câu đối chữ Hán tặng cho tầng lớp bình dân trong các dịp Tết truyền thống

(Tận thu lòng dạ thế gian; Xanh vàng đỏ tía; Câu đối nhà hàng nước;…). Ông cũng

được cho là tác giả của tập Thánh Tông di thảo (một tập truyện ghi chép lại những câu

chuyện được lưu truyền trong dân gian và tất nhiên vấn đề này vẫn phải bàn bạc thêm).

Như vậy, nhân dân muốn đặt ông vào vị trí rất sang trọng trong văn hóa dân gian mà

không phải vị vua nào cũng có thể đạt tới: Vừa là đối tượng ca ngợi, vừa là tác giả

sáng tác văn hóa dân gian.

Sau trường hợp của vua Lê Thánh Tông, câu chuyện về ba huynh đệ nhà Tây

Sơn cũng là một minh chứng khá thú vị. Xoay quanh cuộc khởi nghĩa Tây Sơn của ba

anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ có nhiều câu chuyện mang tính

93

chất truyền ngôn. Phần nhiều trong số đó là những truyền thuyết nhằm mục đích ca

ngợi, tôn vinh tài năng, đức độ của các vị trong công cuộc đánh đuổi ngoại xâm (giặc

Xiêm và quân Thanh) cũng như công cuộc thống nhất nước nhà. Có thể tìm thấy ý

nghĩa đó trong hệ thống truyền thuyết đã được ghi chép lại trong Truyền thuyết dân

gian người Việt (Quyển 4, NXB Khoa học Xã hội, 2009, Kiều Thu Hoạch) qua một số

truyện kể như: Nguyễn Huệ và người thợ rèn; Chúa Xà Đàng và bầy ngựa rừng; Cậu

Lữ trời sinh; Cái chum vàng; Ấn vàng kiếm bạc; Hai con Rồng núi Thơm; Câu sấm

truyền;… Trong địa hạt giai thoại, cảm hứng ca ngợi các nhân vật ấy cũng xuất hiện

qua hàng loạt những giai thoại (có thiên xu hướng khai thác mối quan hệ cá nhân) như:

mối quan hệ giữa Nguyễn Nhạc và bà chúa Hỏa, mối tình của Nguyễn Huệ và công

chúa Ngọc Hân,…

Sự ca ngợi ba vị anh hùng ấy không chỉ có trong tự sự dân gian mà còn xuất

hiện trong một số thể loại khác của folklore như: thơ ca dân gian, vè, các điệu hát

trống quân (trống trận Tây Sơn),… Dẫn ra nhiều như vậy để thấy rằng ca ngợi là cảm

hứng trung tâm của thời đại thế kỷ XVIII đầy biến động dành cho ba anh em nhà Tây

Sơn – những người được tôn vinh là anh hùng khởi nghĩa nông dân. Tuy nhiên, trong

thực tế cũng có một số câu chuyện, câu ca mang tính chất phản biện lại sự chính nghĩa

đó. Những người được cho là tác giả chống lại dòng chủ lưu ca ngợi trên là một số vị

cựu thần của triều Lê (ở ngoài Bắc) và những người ủng hộ công cuộc phục quốc của

chúa Nguyễn (ở miền Nam). Như vậy, xen lẫn dòng quan niệm chính thống, có hẳn

dòng đối lưu, phản ứng lại. Lý do cốt lõi dẫn đến sự chống đối này xuất phát từ quan

niệm: Tây Sơn là ngụy triều, là phản loạn.

Như vậy, những câu chuyện mang màu sắc phản biện, phê phán không hoàn

toàn là thêu dệt, mà có cơ sở lịch sử (ít nhiều có thật và được các sách sử về sau ghi

lại, ví dụ sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, một số khác thì được truyền

tụng trong dân gian). Trong công trình Tiếp cận kho tàng folklore Việt Nam, Vũ Ngọc

Khánh từng phân tích vấn đề này và ông đi đến kết luận rằng: “…Những chuyện đồn

đại hay những sáng tác ngược chiều ấy đã không được chấp nhận như những thành tố

của folklore, và cũng không có khả năng tồn tại hoặc lan truyền. Những gì không đúng

với nhận thức, tình cảm của quần chúng, không phù hợp với cảm quan của quần

chúng sẽ bị đào thải” [92, tr.438].

b. Sự phê phán, đả kích thần quyền

Sự phê phán của giai thoại chủ yếu dành cho những con người cụ thể và một ít

trong kho tàng giai thoại cũng hướng tới thể lực siêu hình: tiên, Phật, thánh mẫu, nữ

94

thần,... Ví dụ, Nguyễn Khuyến (được yêu cầu) làm câu đối ngợi ca công đức của một

vị thánh mẫu nhưng rốt cuộc ông lại xiên xỏ, tục hóa nhân vật thần linh qua cách chơi

chữ thâm thúy (giai thoại Như ngọc hành, dùng sinh thực khí của nam và nữ để tục

hóa vị thánh mẫu). Nguyễn Công Trứ cũng làm thơ hạ bệ nữ thần khi đi ngang qua

ngôi đền thờ nữ thần nọ (Qua đền nữ thần). Hàng loạt những nhà nho như Hồ Tông

Thốc, Nguyễn Đăng Cảo,… cho đến đứa trẻ Lý Công Uẩn (lúc còn ở chùa) cũng ngâm

những vần thơ khẩu khí đại khoa hay đế vương để “cự thần”. Nguyên nhân của tình

tiết này là do quan niệm lấy Nho giáo làm trung tâm, coi những tôn giáo, tín ngưỡng

khác (như Phật, Lão,…) là văn hóa ngoại biên, tất nhiên cần phải lên án, bài trừ.

c. Sự giải thiêng nhân vật quan phương

Bên cạnh sự đả kích vương quyền, thần quyền, trong giai thoại còn có một dạng

cảm hứng khá đặc biệt: cảm hứng giải thiêng. Cảm hứng này có mục đích kéo nhân

vật nổi tiếng, quan phương trở về với đời thường. Nói cho đúng ra, cảm hứng giải

thiêng là sự phản tỉnh của mọi thời đại khi việc tôn thờ đi quá cái mà đối tượng có

được. Cho nên về mặt nào đó, giải thiêng là phương thức lấy lại thăng bằng cho cảm

hứng. Qua khảo sát, chúng tôi xác định có 09/756 tác phẩm xuất hiện cảm hứng giải

thiêng. Điều đáng chú ý là các nhân vật này đều là những nhà khoa bảng nổi tiếng, từ

vua chúa đến các nhà khoa bảng như: vua Minh Mạng, vua Tự Đức, Lê Quý Đôn, Cao

Bá Quát, Phạm Nguyễn Du, Phan Bội Châu,…

Giải thiêng các nhà khoa bảng

Những hình tượng nhân vật trí thức khoa bảng tưởng chừng như toàn mỹ bởi tài

năng hơn người nhưng vẫn còn những điểm khuất lấp mà nhân dân đã khéo léo đưa ra

ánh sáng. Trong giai thoại, sự giải thiêng này được đánh dấu qua tình tiết thất bại của

nhân vật nổi tiếng trong các cuộc thi thố tài năng. Bảng nhãn Lê Quý Đôn hai lần bất

lực trước các câu đố của các vị lão bối (Câu đố chữ nhất; Căng buồm mời rượu -

Gánh gạo lội sông). Người nổi tiếng chữ nghĩa như Cao Bá Quát cũng không biết viết

chữ gì cho phải lẽ (Không biết chữ chi). Nhà nho tài tử Nguyễn Công Trứ trải qua

không biết bao nhiêu cuộc hát, khi về già lại thất bại trước thủ đoạn khôn khéo của tên

lái buôn trong một cuộc thách đố vô tiền khoáng hậu (Vì mê hát mà mất vợ). Còn cụ

Phan Bội Châu cũng đành “bó tay chịu trói” trước câu hát đố của các cô gái được gà

bởi một nhà nho ẩn dật (Cha thầy Mạnh Tử là ai?). Dễ thấy một điều, trong các giai

thoại trên, nhân dân không hề có ý phê phán một cách nặng nề các nhân vật (về thói tự

phụ hay ngông nghênh). Nó khác hẳn với thái độ đối với đối tượng là vua quan, đại

diện cho vương quyền phong kiến. Điều nhân dân hướng đến là muốn kéo nhân vật trí

95

thức, tài tử trở về với thực tại đời thường. Dù họ có tài năng đến đâu thì trong một số

trường hợp, họ vẫn phải nếm trải sự thất bại cũng như bao nhiêu con người bình

thường khác.

Ngoài ra, giai thoại cũng giải thiêng hình tượng chuẩn mực của các nhà nho khi

họ vi phạm đạo lý Thánh hiền trong ứng xử. Họ có thể được xem như những con

người kiệt xuất của thời đại mình (Trí) nhưng một khi vướng vào lỗi này thì khó có thể

đảm bảo được sự chuẩn mực về đạo đức (Đức). Hồ Tông Thốc là người nổi tiếng văn

chương trác việt, thông minh hơn người (trong một buổi tiệc làm được cả trăm bài thơ)

nhưng ông cũng dính dáng đến việc bòn rút của dân, khiến miệng đời chê trách: “Khi

Hồ Tông Thốc còn làm chức An phủ sứ, có bòn rút của dân, việc bị phát giác” (Hai

lần nổi danh của Hồ Tông Thốc, Việt sử giai thoại, tập 3, tr.45). Ngô Thì Nhậm nổi

tiếng uyên thâm, kiến thức ít ai sánh kịp nhưng sau khi tố giác Trịnh Khải, người ta bắt

đầu chú ý đến chữ Đức của ông nhiều hơn. Để đánh đổi lại chức Hữu Thị lang bộ

Công, ông đã giết chết 4 người cha của mình (Bốn người cha đó là: cha ruột – Ngô Thì

Sĩ, 3 người bạn của cha cũng xem như cha là Nguyễn Lệ, Nguyễn Phương Đình và

Nguyễn Khắc Tuân). Dân gian vẫn lưu truyền câu hát: “Sát tứ phụ nhi Thị lang” để

chê trách cho hành động đó (giết 4 người cha để được lên chức Thị lang, Vụ án năm

1780, Việt sử giai thoại, tập 7, [145, tr.163]).

Giải thiêng vua chúa

Ngoài Cử Trị đã nêu ở trên, Cao Bá Quát là người thích châm chọc Tự Đức nhất.

Biết nhà vua yêu thích văn chương (lại có tính hay khoe chữ) nên họ Cao thường hay

đối chọi văn chương với vua. Và có một điều khá đặc biệt là trong các cuộc đối chọi

đó, phần thắng thường nghiêng về họ Cao (Tự tiện chữa văn vua, Trên dưới đều chó,

Bịa thơ tài hơn vua,… Kho tàng giai thoại Việt Nam – Vũ Ngọc Khánh). Ngoài Tự

Đức ra, Minh Mạng cũng bị giải thiêng bởi Cao Bá Quát và Bà Huyện Thanh Quan.

Họ Cao (lúc còn là học trò) cả gan cởi truồng tắm, rồi lên gặp vua (Cởi truồng xem

vua). Còn Bà Huyện Thanh Quan thì “chê khéo” chữ viết của ông vua vừa mập, vừa

xấu (Chê khéo).

Tóm lại, trong giai thoại, tinh thần phản biện mang những ý nghĩa cơ bản sau:

- Trong một xã hội vốn độc tôn về quyền lực như xã hội phong kiến, tiếng nói

phản biện gần như rất khó có thể trở thành đối trọng để thay đổi chính quyền. Nhưng

xét về mặt tâm thức thời đại, có độc tôn thì ắt sẽ có chống đối. Đó là quy luật khách

quan xưa nay. Do vậy, trong một chừng mực nào đó, có thể cho rằng sự phản biện

96

trong địa hạt giai thoại là tiếng nói phản kháng của quần chúng nhân dân, của tầng lớp

trí thức đương thời đối với chuẩn mực theo quan niệm dân gian;

- Sự phản biện của giai thoại nằm trong dòng chảy sự phản biện, đấu tranh xã hội

của tự sự dân gian (tiêu biểu là truyện cười) nhưng nó khác truyện cười ở điểm: Đối

tượng đã được nêu tên tuổi đích danh (cụ thể hóa, cá tính hóa), chứ không phải ở trạng

thái chung chung (khái quát hóa). Do vậy, tính đấu tranh của giai thoại mạnh mẽ hơn,

cứng rắn hơn và cũng quyết liệt hơn. Đặc điểm nêu đích danh nhân vật phản biện của

giai thoại có phần giao thoa với truyện trạng (một tiểu loại của truyện cười, còn gọi là

truyện cười kết chuỗi. Chúng tôi sẽ trình bày ở Chương 4 của luận án);

- Cơ sở triết lý để các phản biện có thể đứng vững cơ bản dựa trên nền tảng Nho

giáo mà trung tâm của nó là Tam cương, Ngũ thường. Nhưng Tam cương, Ngũ thường

ở đây lại mang màu sắc tư duy dân tộc. Vì vậy, những hành động trái ngược với đạo lý

truyền thống đều được xem là không phù hợp với chuẩn mực của dân tộc.

2.3.2. Khái niệm giai thoại

Từ cơ sở của việc tiếp thu thành quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước,

đặc biệt là các định nghĩa giai thoại của Tamarchenko, Nicolaisen, Guxev, Propp, Kiều

Thu Hoạch, Vũ Ngọc Khánh,… chúng tôi bước đầu đưa ra một khái niệm chung nhất

về giai thoại Việt Nam như sau:

Giai thoại là một thể loại tự sự dân gian bằng văn xuôi, mang tính chất tổng hợp

như một hiện tượng độc đáo của văn hóa, nội dung nói về những nhân vật nổi tiếng

chủ yếu trên các lĩnh vực: văn học, lịch sử, văn hóa dân gian. Ngoài ra, giai thoại còn

có một bộ phận nói về những nhân vật khuyết danh trong các lĩnh vực trên. Phương

thức xây dựng nhân vật trong giai thoại chủ yếu dựa trên phương thức hư cấu, từ một

nhân vật có thật trong thực tiễn, được dân gian hóa, trở thành nhân vật của văn học

dân gian. Trong đó thể hiện quan điểm của nhân dân về những nhân vật nổi tiếng theo

các xu hướng đề cao; phê phán, đả kích hay phản biện, giải thiêng; nhằm củng cố lại

quan niệm truyền thống về nhân vật hoặc phản bác lại quan niệm truyền thống đó.

Khi xác định khái niệm giai thoại, chúng tôi muốn đi sâu tường giải một số khía

cạnh nội hàm của nó đồng thời cũng là cơ sở khảo sát sâu và xem là nhiệm vụ khoa

học của luận án.

- Giai thoại là một thể loại tự sự dân gian bằng văn xuôi: Luận án đã xác định

giai thoại là thể loại thuộc tự sự dân gian (bằng hình thức văn xuôi chứ không phải văn

vần).

- Mang tính chất tổng hợp như một hiện tượng độc đáo của văn hóa: Chúng tôi

97

xem giai thoại là thể loại tự sự dân gian mang tính tổng hợp, chứ không phải là một thể

loại riêng của văn học, của lịch sử hay của văn hóa dân gian – ba lĩnh vực thu hút nhiều

văn bản giai thoại nhất. Đây là ý kiến mà chúng tôi tiếp thu từ nhà nghiên cứu Vũ Ngọc

Khánh khi ông cho rằng cần xem giai thoại như một hiện tượng văn hóa độc đáo thì mới

có thể nắm bắt và lý giải hết được sức hấp dẫn của nó.

- Nội dung nói về những nhân vật nổi tiếng trên các lĩnh vực: văn học, lịch sử,

văn hóa dân gian: Luận án tiếp thu quan điểm Vũ Ngọc Khánh và Triều Nguyên, khi

hai nhà nghiên cứu này giới hạn phạm vi phản ánh chủ yếu của giai thoại nằm trên ba

lĩnh vực là văn học, lịch sử và văn hóa dân gian.

- Ngoài ra, giai thoại còn có một bộ phận nói về những nhân vật khuyết danh

trong các lĩnh vực trên: Chúng tôi thừa nhận và lưu ý bên cạnh giai thoại về những

con người nổi tiếng, trong giai thoại còn có một bộ phận giai thoại khuyết danh. Sự

hiện diện của bộ phận này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn kho tàng giai thoại Việt

Nam và sự phân loại giai thoại của các nhà nghiên cứu (gồm hai bộ phận nếu xét theo

NVC là: nhân vật nổi tiếng và nhân vật khuyết danh).

- Phương thức xây dựng nhân vật trong giai thoại chủ yếu dựa trên phương thức

hư cấu, từ một nhân vật có thật trong thực tiễn, được dân gian hóa, trở thành nhân vật

của văn học dân gian: Nhằm khẳng định phương thức sáng tạo giai thoại, NVC (chủ

yếu) trong giai thoại là người nổi tiếng. Tuy nhiên, nhân vật ấy phải trải qua quá trình

dân gian hóa, tức là có sự thêm bớt, gán ghép. Vì vậy, nhân vật trong giai thoại sẽ có

một độ khúc xạ và có một khoảng cách nhất định so với nhân vật ngoài đời thực (hay

nhân vật nguyên mẫu, khởi hình lịch sử - prototype). Đây cũng là quy luật sáng tạo

trong folklore nói chung.

- Thể hiện quan điểm của nhân dân về những nhân vật nổi tiếng theo các xu

hướng đề cao; phê phán, đả kích hay phản biện, giải thiêng: Về vấn đề chức năng thể

loại cho thấy sự tương đồng giữa giai thoại với truyền thuyết (cùng đề cao một nhân

vật nổi tiếng đối với cộng đồng) nhưng cũng khu biệt với truyền thuyết ở chỗ: truyền

thuyết thiên về xu hướng đề cao nhân vật (thiêng hóa) còn giai thoại thì bên cạnh sự đề

cao (công đức hoặc khả năng văn chương, trí tuệ) thì nó còn có xu hướng giải thiêng

nhân vật, kéo nhân vật trở về với đời thường. Ngoài ra, giai thoại còn có chức năng

phản biện quan niệm truyền thống về nhân vật, nhằm đưa ra một cái nhìn mới mẻ về

nhân vật quan phương.

- nhằm củng cố lại quan niệm truyền thống về nhân vật hoặc phản bác lại quan

niệm truyền thống đó: vế này nhấn mạnh đến mục đích sáng tạo giai thoại. Theo đó,

98

khi sáng tạo giai thoại, tác giả dân gian hướng tới 2 mục đích cơ bản là: củng cố lại

quan niệm truyền thống về nhân vật hoặc là phê phán, giải thiêng, phản biện lại quan

niệm truyền thống đó. Và cũng vì lý do này mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng giai

thoại là một thể loại “văn học phi chính thống”, “chưa công bố”, hoặc “rỉ tai”.

Những lý giải trên cho thấy cái nhìn bao quát về thể loại. Tuy nhiên, chính sự

phức tạp đã tạo lằn ranh khá mờ giữa các bộ phận nên rất cần minh định cho nội hàm

từng tiểu loại của thể loại. Bởi vì mỗi tiểu loại sẽ có một khía cạnh đặc thù mà nhờ đó

để phân biệt được từng nhóm giai thoại. Cụ thể, chúng tôi gọi giai thoại văn học là

những câu chuyện có nội dung kể về sinh hoạt văn chương và sinh hoạt đời tư, cá

nhân của những nhà khoa bảng, nhà nho (thời trung đại) và những nhà văn, nhà thơ

(thời hiện đại) ở cả đối tượng nổi tiếng và khuyết danh. Giai thoại văn học phân hóa

thành 3 nhóm cơ bản là: giai thoại văn học về thách đố văn chương; giai thoại văn

học về ứng tác văn chương và giai thoại văn học về tính tình, cá tính của nhà văn, nhà

thơ.

Giai thoại lịch sử là những câu chuyện có nội dung kể về sinh hoạt chính trị của

những nhân vật quan phương và cả sinh hoạt đời thường, bên lề của những nhân vật

chính trị nổi tiếng từ thời phong kiến cho đến thời hiện đại. Giai thoại lịch sử gồm các

nhóm cơ bản là: giai thoại tình sử; giai thoại ngoại giao, giai thoại xử kiện, giai thoại

quân sự,…

Giai thoại văn hóa dân gian là những câu chuyện có nội dung kể về sinh hoạt

văn hóa, văn nghệ dân gian của quần chúng nhân dân, các nhà nho tài tử, nghệ sĩ

sân khấu, cải lương, tuồng, chèo, trí thức, hoàng tộc phong kiến,... Giai thoại văn hóa

dân gian phân hóa thành các nhóm tiêu biểu là: giai thoại văn hóa dân gian về phong

tục tập quán của nhân dân; giai thoại văn hóa dân gian về hò hát của nghệ nhân dân

gian và các nhà nho tài tử; giai thoại văn hóa dân gian về sân khấu, cải lương, tuồng,

chèo,…

99

Tiểu kết chương 2

Chương 2 của luận án đã định vị tư cách thể loại của giai thoại Việt Nam là một

thể loại của tự sự dân gian. Qua quá trình bóc tách, luận án đã tập trung làm rõ một số

vấn đề như sau:

Thứ nhất, trên cơ sở tiếp thu quan niệm của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng

tôi đã đưa ra một bộ khung tiêu chí để xác định giai thoại là: tiêu chí đề tài, tiêu chí

cảm hứng, tiêu chí nhân vật,… Qua sự phân tích, có thể thấy những điểm đặc trưng

của giai thoại ở các khía cạnh nêu trên. Ngoài ra, cũng có dấu hiệu cho thấy sự giao

thoa về cảm hứng, đề tài, nhân vật giữa giai thoại với các thể loại khác trong tự sự dân

gian. Vấn đề này luận án sẽ tiếp tục bàn đến trong các chương sau.

Thứ hai, về mặt phân loại giai thoại, luận án đã đề xuất cách phân loại bám sát

vào một tiêu chí duy nhất là đề tài để phân loại giai thoại Việt Nam trên bình diện tiểu

loại và các nhóm của từng tiểu loại. Chúng tôi không nghĩ rằng đây là cách phân loai

tối ưu nhất, nhưng trong một chừng mực nào đó, cách phân loại mà chúng tôi đưa ra

cơ bản khắc phục được những điểm bất cập mà các nhà nghiên cứu đi trước đã gặp

phải khi phân loại kho tàng giai thoại Việt Nam.

Thứ ba, về đặc trưng thể loại của giai thoại, luận án đã phân tích một số tính chất

tiêu biểu là tính dân gian, tính hư cấu và sai lệch, tinh thần phản biện. Chúng tôi nhận

thấy rằng tính dân gian của giai thoại không thể tách rời với tính bác học cũng như

tính hư cấu và sai lệch cũng có mối quan hệ khắng khít với tư duy nhào nặn yếu tố sử

của thể loại. Rõ ràng các điểm trên nằm trong vấn đề lớn hơn về mặt lý luận đó là: mối

quan hệ giữa giai thoại với văn học và lịch sử. Các mối quan hệ này sẽ được luận án

trình bày ở Chương 4.

Thứ tư, trên cơ sở định vị tư cách thể loại, phân loại và đặc trưng thể loại, luận án

đã đưa ra khái niệm thể loại và các tiểu loại của giai thoại. Theo đó, giai thoại có 3 tiểu

loại cơ bản là: giai thoại văn học, giai thoại lịch sử và giai thoại văn hóa dân gian.

100

Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN ĐẶC TRƯNG

THI PHÁP THỂ LOẠI CỦA GIAI THOẠI VIỆT NAM

Ở Chương 2, luận án đã định vị giai thoại là một thể loại của tự sự dân gian.

Trong quá trình xác định tư cách thể loại văn học dân gian của giai thoại, luận án đã

điểm qua một số phương diện về thi pháp thể loại cơ bản của giai thoại là: cảm hứng,

đề tài, nhân vật trên bình diện khái quát. Chương này sẽ bàn sâu hơn về các kiểu nhân

vật đặc trưng của từng giai thoại cũng như chỉ ra các dạng kết cấu đặc trưng của hai

tiểu loại của giai thoại là giai thoại văn học và giai thoại văn hóa dân gian.

Một trong những đặc điểm nổi bật của một thể loại văn học dân gian là tính công

thức của nó. Công thức ấy thể hiện trên các phương diện cơ bản là: biểu tượng, mẫu

gốc, motif,… Dựa vào những công thức ổn định, có thể khái quát nên những đặc trưng

thi pháp thể loại. Xét trong góc độ nghiên cứu kết cấu của giai thoại, hướng nghiên cứu kết cấu theo motif hầu như chưa được quan tâm.

3.1. Kết cấu của giai thoại

Cách thức phân tích kết cấu theo hướng tiếp cận tình tiết mà chúng tôi đề xuất sẽ

được triển khai theo những bước sau:

- Bước 1: Căn cứ vào sự lặp đi lặp lại của các tình tiết, chúng tôi sẽ định danh

cho tình tiết

- Bước 2: Hệ thống hóa, xâu chuỗi các tình tiết này lại để xác lập, phân nhóm

giai thoại

- Bước 3: Khái quát hóa mô hình cốt truyện căn cứ vào sự sắp xếp các tình tiết

xoay quanh tình tiết hạt nhân

Việc xác định kết cấu giai thoại theo hướng tình tiết nêu trên sẽ có một số ưu

điểm như sau:

- Chỉ ra được sự liên kết của các tình tiết bên trong tạo nên cốt truyện, qua đó chỉ

ra được mô hình chung nhất của từng nhóm giai thoại văn học

- Chỉ ra được motif hạt nhân của mỗi nhóm truyện (căn cứ vào các tình tiết được

triển khai xoay quanh motif hạt nhân đó)

- Không chỉ có giá trị trong giai thoại văn học mà hoàn toàn có thể áp dụng để

tìm hiểu kết cấu của giai thoại văn hóa dân gian

Chẳng hạn, dựa trên 10 tình tiết tạo nên cốt truyện trong nhóm giai thoại văn học

về thách đố văn chương (xoay quanh tình tiết hạt nhân là thách đố về văn chương)

(Xin xem Phụ lục), sẽ thấy ngay kết cấu của giai thoại Khóc mướn kiếm ăn ở trên như

101

sau: NVC bị thách đố bởi NVĐT → NVC giành chiến thắng trong cuộc chiến văn

chương → NVC được thán phục. Như vậy, mẩu chuyện trên được tạo nên từ sự liên

kết của 3 tình tiết đơn vị cơ bản của một giai thoại văn học về thách đố văn chương.

Trên đây là sự triển khai cụ thể của mô hình khái quát chung nhất của nhóm giai

thoại văn học về thách đố văn chương ứng với văn bản cụ thể. Mô hình khái quát nhất,

ứng với đa số các văn bản giai thoại thách đố văn chương theo hướng tiếp cận tình tiết

là: NVC bị thách đố bởi NVĐT/ NVC chủ động thách đố NVĐT → NVC giành chiến

thắng trong cuộc chiến văn chương/ NVC thất bại trong cuộc chiến văn chương →

NVC được thán phục/ NVC được ban thưởng/ NVC được tha tội/ NVĐT tức tối/ NVC

bị trừng phạt.

Từ sự điểm qua quan niệm về kết cấu giai thoại của các nhà nghiên cứu đi trước,

chúng tôi xin đưa ra khung kết cấu chung nhất của giai thoại Việt Nam như sau:

Bảng 3.1. Khung kết cấu của giai thoại Việt Nam

Phần kết thúc Thái độ, phản ứng đối với ứng xử của nhân vật

Phần mở đầu cảnh thiệu hoàn Giới (không gian, thời gian), đặc điểm, tính tình, năng lực, tài năng,… của nhân vật Phần diễn biến Tình huống ứng xử của nhân vật trong lĩnh vực cụ thể (văn chương, chính trị, đời tư, văn nghệ,…)

Dựa trên nền tảng mô hình khái quát này, khi ứng vào từng tiểu loại/ nhóm giai

thoại khác nhau mà sự triển khai kết cấu của giai thoại sẽ biến đổi (chủ yếu ở phần

diễn biến) theo motif hạt nhân của nó.

3.1.1. Kết cấu của giai thoại văn học

Chúng tôi chia giai thoại văn học thành các nhóm: giai thoại thách đố văn

chương; giai thoại ứng tác văn chương và giai thoại về tính cách, sinh hoạt đời tư của

các nhà văn, nhà thơ. Đây cũng là 3 nhóm chính yếu của tiểu loại giai thoại văn học.

Mỗi nhóm có một kiểu kết cấu riêng. Hai nhóm đầu phổ biến đối với các nhân vật văn

tài của văn học trung đại, nhóm thứ ba xuất hiện nhiều ở các nhà văn hiện đại. Trong

phạm vi của luận án, chúng tôi chỉ khảo sát 2 nhóm đầu của giai thoại văn học, bởi vì

hai nhóm này chiếm số lượng lớn trong kho tàng giai thoại Việt Nam nói chung cũng

như tiểu loại giai thoại văn học nói riêng.

3.1.1.1. Nhóm giai thoại thách đố văn chương

Trước khi đi vào mô tả các tình tiết chủ yếu tạo nên nhóm giai thoại thách đố văn

chương, chúng tôi xin khái quát mô hình kết cấu của nhóm này như sau:

102

Bảng 3.2. Mô hình kết cấu của giai thoại thách đố văn chương

Phần diễn biến

Thách đố - Giải đố (Motif: Thách đố văn chương) Phần mở đầu cảnh thiệu hoàn Giới (không gian, thời gian), đặc điểm, tính tình, năng lực, tài năng,… của nhân vật Phần kết thúc - Thái độ, phản ứng đối với ứng xử của nhân vật - Giảng bình thơ văn, câu đối

Trên đại thể, kết cấu của nhóm giai thoại thách đố văn chương vẫn dựa trên

khung kết cấu chung nhất của giai thoại. Riêng phần diễn biến, nhóm này chỉ giới hạn

trong phạm vi hoạt động (sinh hoạt) văn chương và đã tạo ra dấu ấn riêng qua việc tổ

chức tình tiết xoay quanh motif thách đố (về văn chương).

Nếu nhìn theo phương diện tình tiết, ta có thể thấy sơ đồ cốt truyện của giai thoại

văn học về thách đố văn chương xoay quanh motif thách đố. Lẽ cố nhiên, sự thách đố

ở đây có một nội hàm rất hẹp, không giống như trong truyền thuyết, cổ tích, bởi vì, nó

chỉ gói gọn trong lĩnh vực văn chương (chúng tôi sẽ trình bày kỹ hơn ở phần lịch sử

motif thách đố). Trong lý thuyết về motif, một motif được coi như một đơn vị cốt

truyện và ở đây, motif thách đố cũng như vậy. Xin khái quát cấu tạo của motif thách

đố văn chương trong nhóm giai thoại văn học thách đố văn chương như sau:

Bảng 3.3. Cấu tạo của motif thách đố văn chương

Motif thách đố

Sự thách đố Sự giải đố Thái độ sau cuộc thách đố

Mục đích Tính chất Kết quả giải đố Âm tính Dương tính

Thất bại Thử tài Bị động Chủ động Trừng phạt Chiến thắng Tức tối (…) Khẳng định vị thế (…) Ban thưởng/ thán phục

Hạ bệ, đả kích Theo bảng trên, chúng tôi xác định motif thách đố (văn chương) gồm 3 yếu tố

cấu thành là: Sự thách đố - Sự giải đố - Thái độ sau cuộc thách đố. Từng yếu tố như

vậy sẽ gắn với những tình tiết bộ phận. Ví dụ, xét về mặt tính chất của tình huống

thách đố, ta sẽ có 02 tình tiết chính là: NVC chủ động thách đố NVĐT hoặc NVC bị

thách đố bởi NVĐT; kết quả của sự giải đố gồm 02 tình tiết bộ phận là: NVC giành

chiến thắng và NVC thất bại trong cuộc chiến văn chương; thái độ sau cuộc thách đố

gồm các tình tiết bộ phận tiêu biểu là: trừng phạt, ban thưởng, tức tối,…

Hệ thống truyện về những cuộc thách đố, ứng tác văn chương có NVC là những

người trí thức, trí xảo có cả thảy 94 đơn vị tác phẩm. Chúng tôi bước đầu đi vào mô tả

sự cấu tạo của motif thách đố văn chương trong nhóm giai thoại thách đố văn chương

103

như sau:

* Sự thách đố: thể hiện qua các tình tiết là NVC chủ động thách đố, NVC bị

thách đố bởi NVĐT và NVC được nhờ giải câu đối.

- Tình tiết NVC chủ động thách đố NVĐT (10/94, tỉ lệ 10,6%)

Trong hệ thống giai thoại văn học về thách đố văn chương, chúng tôi nhận thấy

nhóm truyện NVC giữ vai trò chủ động xuất hiện trong 10 giai thoại là: Vế đối hai

nghĩa; Dồn đối phương vào chỗ bí; Miệng kẻ sang, đồ nhà khó; Đối chọi với sư;

Không ưa nịnh bề trên; Câu thơ thi xã; Tể tướng và thầy đồ; Bò đen bò vàng; Khóc

mướn kiếm ăn; Câu đối trên văn hồ.

Mục đích của hành động chủ động thách đố của NVC đối với NVĐT khá đa

dạng. Đó có thể là sự từ chối tình cảm (Đoàn Thị Điểm: Vế đối hai nghĩa, Dồn đối

phương vào chỗ bí); hạ bệ đối thủ theo chủ đích (Trạng Quỳnh: Miệng kẻ sang, đồ nhà

khó; Nguyễn Công Trứ: Đối chọi với sư, Không ưa nịnh bề trên; Cao Bá Quát: Câu

thơ thi xã; Nguyễn Xuân Ôn: Bò đen bò vàng), chứng tỏ tài năng văn chương hơn

người (Câu đối trên văn hồ).

Trong cuộc so tài, Đoàn Thị Điểm chủ động dùng vế đối thách đố hai văn sĩ để

rồi họ phải ngậm ngùi rút lui trong tuyệt vọng và xấu hổ (Vế đối hai nghĩa). Nữ sĩ

cũng chủ động ra vế đối mời gọi Trạng Quỳnh tắm chung, khiến đối thủ đành lẳng

lặng bỏ đi vì không thể tìm ra lời giải (Dồn đối phương vào chỗ bí). Cả hai trường hợp

trên đều là cách thức tạo ra tình huống dồn đối phương vào thế bị động. Đấy là một

dạng trí tuệ. Ở khía cạnh khác, NVC cũng chủ động thách đố NVĐT nhằm mục đích

hạ bệ, xiên xỏ, khiến cho NVĐT tức tối. Ví dụ, Nguyễn Công Trứ vịnh cây vông chửi

xéo quan trên rồi tiện thể chửi xéo luôn cả Hà Tôn Quyền, khiến y giận tím mặt nhưng

không thể làm gì được mình (Không ưa nịnh bề trên). Không chỉ vậy, họ Nguyễn còn

tìm đến tận chùa, đối chọi với sư, không cho sư có cơ hội phản kháng, dù chỉ bằng văn

chương (Đối chọi với sư).

- Tình tiết NVC bị thách đố bởi NVĐT (82/94, tỉ lệ 87,2%)

So với tình tiết NVC chủ động thách đố NVĐT, thì tình tiết NVC bị thách đố bởi

NVĐT xuất hiện với tần số cao (82/94). Điều này chứng tỏ trong nhóm giai thoại về

thách đố văn chương, ngưỡng vọng của người nghe có xu hướng cảm thấy thỏa mãn

hơn khi NVC bộc lộ được tài năng thiên phú trong những tình huống không có sự

chuẩn bị trước, mang tính bất ngờ. Vì chỉ có như vậy, tài năng, trí tuệ của nhân vật

mới thể hiện một cách khách quan và chân thật nhất. Và đây cũng chính là công thức

phổ biến nhất của nhóm giai thoại thách đố, đối chọi văn chương.

104

Vì số lượng giai thoại chứa tình tiết này khá nhiều (82 trường hợp) nên ở đây,

chúng tôi chỉ miêu tả một số trường hợp tiêu biểu nhất. Chẳng hạn, đối với nhóm giai

thoại đi sứ, hầu hết các sứ thần nước ta khi đi sứ sang Trung Quốc, dù không gian cuộc

chiến văn chương ở đâu (trong cung cấm, nơi ải quan, ngoài phố xá,…), thì các nhân

vật sứ thần của ta (tương đương với NVC) thoạt đầu đều nằm ở vị thế thụ động, bị đối

phương thách đố trước. Tức là trong những tình thế đó, NVC đòi hỏi phải bộc lộ hết

tài năng, bản lĩnh mới có thể thoát được những cạm bẫy chữ nghĩa và trên hết là cạm

bẫy chính trị (có thể bị trừng phạt nếu thất bại). Mạc Đĩnh Chi khi bị đối phương châm

chọc về giọng nói líu lo như chim chích đã đáp trả: “Oa minh trì thượng độc Châu

thư, lạc dữ thiểu nhạc lạc, lạc dữ chủng nhạc lạc, thục lạc?” (Nghĩa là: Ếch kêu trên

bờ ao, đọc sách Mạnh Tử, vui cùng ít người vui nhạc, vui cùng nhiều người vui nhạc,

đằng nào vui?). Vế đối của Lưỡng Quốc Trạng Nguyên có ý chê sự hiểu biết của bọn

quan lại triều Nguyên như ếch ộp ở trong ao (giai thoại Chim chếch - ếch ngộp).

Khi bị vua nhà Minh ra vế đối có ý hạ nhục quốc thể (nhắc về trụ đồng Mã Viện)

Giang Văn Minh đã khảng khái nhắc vua Tàu về nỗi nhục trên sông Bạch Đằng:

“Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” (Từ xưa đến nay, máu trên sông Bạch Đằng vẫn

còn nhuộm đỏ) (giai thoại Rêu xanh máu đỏ). Còn Nguyễn Đăng Cảo lúc diện kiến

vua nhà Thanh, liền bị vua châm chọc về tuổi tác già nua. Vua ra một vế đối: “Lão

khuyển lạc mao, do hướng đình tiền phệ nguyệt” (Chó già rụng lông, còn ngóng ra sân

sủa trăng). Biết nhà vua miệt thị mình, Nguyễn Đăng Cảo liền đối lại: “Tiểu oa đoản

cảnh, mạn cư tỉnh khuy thiên” (Ếch con ngắn cổ, cũng dám ngồi đáy giếng coi trời

bằng vung). Nhờ vào ứng biến nhanh nhạy và mang khẩu khí hơn người đó, vua nhà

Thanh đã thay đổi hoàn toàn cách nhìn về sứ thần nước Nam ta (giai thoại Ếch ngồi

đáy giếng). Điểm chung của các tình huống bị thách đố này là vua, quan thiên triều

muốn hạ nhục danh dự cá nhân, cũng như quốc thể của người Việt, xem phương Bắc

là trung tâm văn hóa của trời đất, nên những vế đối của các sứ thần nước ta không chỉ

mang tính chất phản kháng, đối chọi nhằm bảo vệ danh dự bản thân mà còn bảo vệ cho

quốc thể.

* Sự giải đố gồm các tình tiết: NVC giành chiến thắng, NVC thất bại.

- Tình tiết NVC giành chiến thắng trong cuộc chiến văn chương (91/94, tỉ lệ

96,8%)

Đây là tình tiết cốt lõi nhằm đề cao, tuyệt đối hóa trí tuệ, tài năng văn chương của

NVC. Điều này thể hiện qua tần số xuất hiện rất cao của nó: 91/94 trường hợp. Sự

chiến thắng trong cuộc chiến thơ văn của NVC trước NVĐT được đánh dấu qua hai

105

tình tiết phụ thuộc là: NVC được thán phục hoặc được ban thưởng. Cả hai tình tiết này

là phản ứng tích cực của NVĐT dành cho NVC: thán phục tài năng văn chương, trí

tuệ, cảm thấy NVC xứng đáng với phần thưởng cho sự tài trí đó.

Ở đây, xin dẫn ra một số trường hợp tiêu biểu: Lương Thế Vinh nhờ vào tài đối

đáp thông minh với vua Lê Thánh Tông nên được nhà vua yêu mến, kính trọng rất

mực (Sư sử sứ, phụ phù phu); Vũ Duệ làm bài thơ nằm co khiến tên quan ngạc nhiên

và thán phục về tài ứng biến nhanh nhạy (Thơ nằm co); Đoàn Thị Điểm đối đáp với sứ

Tàu, khiến người này đỏ mặt vì thẹn thùng và vô cùng khâm phục nhân tài nước Nam

(Sứ Tàu bị lỡm); Nguyễn Công Trứ đối đáp với thầy học của mình, khiến ông tâm đắc

về tài năng hơn người của ông (Đối đáp với thầy học; Hậu sinh khả quý); Hoàng Phan

Thái khiến các nhà sư phải thất kinh khi thói xấu bị phơi bày (Ghẹo sư; Cọp bắt thầy

tu);… (tình tiết NVC thất bại là thiểu số nên không trình bày).

* Thái độ sau cuộc thách đố gồm các tình tiết tiêu biểu là: NVC được ban

thưởng, NVC bị trừng phạt, NVC được tha tội.

- Tình tiết NVC được ban thưởng (20/94, tỉ lệ 21,3%)

Tình tiết này xuất hiện ở 20 trường hợp. Các hình thức ban thưởng khá đa dạng

nhưng có thể quy về hai khía cạnh hoặc là tước vị (ban mỹ hiệu, chức tước, gả con

gái,…) hoặc là vật chất (ban cho vàng bạc, lụa gấm, sách vở,…). Một cách cụ thể, có

10 trường hợp NVC được ban cho vàng bạc, lụa gấm sau chiến thắng trong cuộc đấu

trí bằng văn chương. Chẳng hạn, Mạc Đĩnh Chi được ban vàng, lụa sau khi đối lại một

cách xuất sắc vế đối của vua Nguyên (Trăng là cung, đạn là sao); Lương Thế Vinh

được thưởng rất hậu sau tình huống đối đáp vô văn tự với Lê Thánh Tông (Sư sử sứ,

phụ phù phu); Nguyễn Quý Đức được thưởng hai nén bạc sau khi nối hai câu thơ

khiếm khuyết trong bài thơ của Lê Thánh Tông; Nguyễn Quỳnh được hỗ trợ tiền ăn

học sau khi đọc vế đối Đất nứt con bọ hung (Tú Cát – Bọ hung); Nguyễn Công Trứ

được thưởng mấy nén bạc trong cuộc đối chọi với các quan võ triều đình (Khinh

thường quan võ) và hai lần được cho một quan tiền (Ứng đối với chủ, Hậu sinh khả

quý); Nguyễn Đăng Hành được thưởng nhiều vàng bạc sau khi ứng khẩu bài thơ về đề

tài răng cắn lưỡi (Thơ răng cắn lưỡi),…

Trường hợp được ban thưởng về tước vị có thể kể ra như: Mạc Đĩnh Chi và

Nguyễn Đăng Cảo được phong tước hiệu Lưỡng Quốc Trạng Nguyên, Hứa Tam Tỉnh

được gả con gái. Chỉ có duy nhất trường hợp của Nguyễn Đăng Hành là xuất hiện

cùng lúc hai tình tiết ban thưởng và trừng phạt. Nhân vật được ban thưởng vì thơ hay,

nhưng lại bị đánh đòn vì vô tình xúc phạm việc riêng tư của nhà vua (việc đấu đá với

106

anh em để giành ngôi của vua Tự Đức) (Thơ răng cắn lưỡi).

- Tình tiết NVC được tha tội (11/94, tỉ lệ 11,7%)

Có 11/94 văn bản xuất hiện tình tiết này. Đây có thể xem như là trường hợp đặc

biệt của tình tiết NVC được ban thưởng. Bởi lẽ, trước đó, NVC đã vi phạm cấm kỵ,

có những hành động, lời nói xúc phạm đến NVĐT (thường là quan chức có quyền thế,

giữ quyền sinh sát). Chẳng hạn, Nguyễn Công Trứ chặn đường đi của Lê Văn Duyệt,

rồi ứng khẩu đọc bài thơ xuất thần nên được Tả quân tha không đánh đòn (Anh hùng

đè xuống dưới). Cao Bá Quát đối lại vế đối của Minh Mạng nên được tha bổng, không

truy cứu tội xúc phạm vua (Cởi truồng xem vua). Lê Quý Đôn cũng được phục chức,

tha tội sau khi lập công giải được câu đối của sứ thần nhà Thanh (Thư mượn áo cừu),...

- Tình tiết NVC bị trừng phạt (5/94, tỉ lệ 5,3%)

Tình tiết NVC bị trừng phạt xuất hiện trong 05 giai thoại: Thơ răng cắn lưỡi,

Ghẹo sư, Cọp bắt thầy tu, Thi câu đối, Da báo như da chó dê. Hình phạt mà các NVC

thường nhận lấy là bị bắt bỏ tù, bị giết chết, bị đánh đòn,… Chẳng hạn, Vũ Hữu Lợi bị

giết chết để rửa hận cho tên quan bị ông xúc phạm, Hoàng Phan Thái sau những lời

cứng cỏi với nhà sư cũng phải thẳng cẳng chạy dài vì sợ bị đánh, Từ Đạm – một trong

những tên tay sai khét tiếng ác ôn phục vụ cho Pháp thì tức tối truy lùng kẻ đã đáp lại

câu đối của y, khiến người này trốn mất tăm.

- Tình tiết NVĐT tức tối/bỏ đi (10/94, tỉ lệ 10,6%)

Bên cạnh sự ban thưởng và trừng phạt mà NVĐT dành cho NVC, trong giai thoại

thách đố văn chương còn xuất hiện tình tiết NVĐT tức tối hoặc bỏ đi ngay sau cuộc

chiến. Phản ứng này mang tính chất tiêu cực, có chức năng đánh dấu sự thua cuộc của

NVĐT trước NVC trong cuộc chiến văn chương.

Hành động lặng lẽ rút lui thường xuất hiện đối với NVĐT là những văn nhân,

nho sĩ, tức là có kiến thức, chữ nghĩa. Họ chọn cách thức rút lui như một phương thức

giữ lại cho mình một chút thể diện, danh dự khi biết rằng không thể xoay chuyển tình

thế bằng khả năng văn chương. Chẳng hạn, Hoàng giáp Vũ Diễm và hai ông tiến sĩ của

nhóm “Tràng An tứ hổ” nổi tiếng văn hay chữ tốt nhưng đứng trước câu đối hai nghĩa

quá hiểm hóc của bà Đoàn Thị Điểm đã cáo lui ngay lập tức (Vế đối hai nghĩa). Viên

quan nhà Nguyên cũng chọn cho mình cách ứng xử như vậy khi chạm mặt Mạc Đĩnh

Chi trên phố (Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào).

Trong nhiều trường hợp, vị thế xã hội không có chức năng điều chỉnh, can dự

vào cuộc chiến văn chương, dù cho NVĐT có là những viên quan quyền cao chức

trọng đi chăng nữa. Điều kiện đặt ra giữa hai nhân vật trước cuộc đối chọi thơ văn là:

107

NVĐT không được bắt tội hay trừng phạt NVC. Đây chính là kim bài miễn tử mà

NVC đã khéo léo đưa vào để phòng thủ cho bản thân. Vì lẽ đó mà Cao Bá Quát đã

thẳng thừng mắng thơ của thi xã Mạc Vân chẳng khác gì mùi nước mắm ở Nghệ An.

Hành động có phần ngạo mạn của họ Cao dù gây ra những tức giận nhất định nhưng

những người ở đấy (toàn những ông vương, dòng họ vua chúa nhà Nguyễn) cũng

không thể làm được gì hơn. Tương tự như thế, Nghè Tân (Nguyễn Quý Tân) cũng chỉa

mũi dùi xỏ xiên những tên quan phụ mẫu, khiến chúng nổi điên nhưng cũng đành

“bấm bụng cho qua” vì đã lỡ rơi vào cạm bẫy văn chương quá quắt của ông Nghè

(Một lũ ăn mày, một lũ quan),…

Tóm lại, ở trên luận án đã đi vào mô tả cấu tạo của motif thách đố văn chương

trong nhóm giai thoại thách đố văn chương qua những tình tiết tiêu biểu của nhóm

này. Qua sự mô tả các tình tiết chính, chúng tôi xác định rằng: mô hình kết cấu trên

của nhóm giai thoại về thách đố văn chương đã góp phần xây dựng nên kiểu nhân vật

đặc trưng cho giai thoại văn học, đó là nhân vật trí thức khoa bảng.

Từ sự mô tả motif và các tình tiết tạo nên motif thách đố văn chương ở trên,

chúng tôi tiến hành bước thứ hai của quá trình phân tích motif, đó là phân tích cấu trúc

chức năng. Về phương diện cấu trúc chức năng, sự thách đố là biểu hiện của chức

năng tạo nên thử thách (bằng văn chương). Đối tượng tạo nên thử thách này trong

giai thoại văn học gồm cả NVC và NVĐT. Như vậy, có sự luân phiên về vai trò của

các nhân vật trong việc tạo nên điểm nút của truyện. Trường hợp thứ nhất, tình tiết

NVC bị thách đố bởi NVĐT là sản phẩm đặc trưng của giai thoại văn học. Bởi nó làm

nổi bật được phẩm tính siêu việt, uyên bác trong lĩnh vực văn chương của nhân vật.

Còn trường hợp thứ hai (NVC chủ động thách đố NVĐT), chúng tôi ngờ rằng tình tiết

này là vay mượn từ truyện trạng với công thức quen thuộc của nó là: NVC (nhân vật

trạng) chủ động đưa NVĐT vào cái bẫy của mình (về điều này, chúng tôi sẽ phân tích

cụ thể ở Chương 4).

Tương tự như vậy, phần giải đố của NVC có chức năng như hoàn thành nhiệm

vụ khó khăn mà chúng ta vẫn bắt gặp trong cổ tích thần kỳ. Chức năng ấy, trong cổ

tích thần kỳ được xây dựng dưới dạng nhân vật chức năng có liên quan đến dạng thức

không gian và tính chất kỳ ảo, siêu nhiên. Mặt khác, kiểu nhân vật chức năng thường

lặp lại các tình huống, còn trong giai thoại, nó mang tính chất đời thường đa dạng mà

điểm nhấn quan trọng nhất là yếu tố văn chương. Nhiệm vụ khó khăn ở đây không gì

khác hơn là giải đáp câu đố về văn chương mà NVĐT đặt ra. Xét trong mối quan hệ

với phần thách đố, phần giải đố có chức năng mở nút, qua đó xác lập tư thế, đẳng cấp

108

của NVC. Phần thái độ sau cuộc thách đố đóng vai trò như phần kết của giai thoại. Ở

đấy, xác lập thêm hai hành động chức năng đáng chú ý từ phía NVĐT là ban thưởng

và trừng phạt.

Ở trên, luận án vừa điểm qua motif thách đố văn chương trong giai thoại ở

phương diện cấu tạo và chức năng. Đến đây, luận án sẽ bàn về phương diện nguồn gốc

lịch sử của motif này. Xét trong mối tương quan giữa NVC và NVĐT, thì sự thử thách

bằng văn chương vừa là một nhiệm vụ khó khăn, vừa mang tính chất của một cuộc thi

tài về trí tuệ (trên địa hạt văn chương). Do vậy, có thể nói, motif thách đố (bằng văn

chương) trong giai thoại văn học chính là sự nối tiếp, một biến thể của một motif rất

quen thuộc trong tự sự dân gian – motif thi tài.

Nếu nhân vật thi tài trong truyện cười là con người chung chung thì trong giai

thoại phần lớn là các nhà trí thức, khoa bảng nổi tiếng. Và đây cũng là kiểu nhân vật

không thể thấy trong cổ tích hay truyền thuyết. Qua tìm hiểu các hình thức thi tài trong

truyền thuyết và cổ tích, có thể thấy hình thức thi tài về thể chất là nội dung chiếm tỉ lệ

cao nhất ở cả hai thể loại. Trong lúc đó, các motif thi tài của giai thoại đều thiên về trí

tuệ. Về nguyên nhân thắng lợi của cuộc thi tài, trong truyền thuyết, cổ tích, các nhân

vật giành chiến thắng chủ yếu nhờ vào trợ thủ, sự mưu mẹo, phẩm chất, tài năng bản

thân. Ở giai thoại văn học, sự chiến thắng của NVC hiển nhiên dựa vào tài năng thực

sự của bản thân nhân vật, đó là tài năng trí tuệ (khả năng văn chương, ứng biến tình

huống bằng văn chương, thơ phú). Motif thi tài trong giai thoại văn học hướng đến

mục đích bảo vệ danh dự bản thân và quốc thể là nét chính yếu, điều mà các thể loại

khác không có.

Trên đây là phần tóm lược những nét tương đồng và dị biệt trong cách thức triển

khai hình thức thi tài giữa giai thoại và truyền thuyết, cổ tích. Đến đây, một câu hỏi đặt

ra là: sự biến đổi của các hình thức thi tài trong tự sự dân gian vận động theo nguyên

tắc nào. Trên cái nhìn tổng thể, có thể thấy motif thi tài khá phổ biến trong các thể loại

tự sự dân gian như cổ tích, truyền thuyết, sử thi,… Nó được triển khai trên khả năng

thần kỳ và phàm tục của các nhân vật. Lẽ cố nhiên, hình thức thi tài bằng khả năng

siêu nhiên (các con vật có khả năng siêu nhiên trong cổ tích hay các cuộc thi giữa thần

và bán thần với nhau hay với người) mang tính chất cổ xưa hơn. Bởi lẽ, nó phản ánh

được thời kỳ tư duy còn thô sơ, ở mức thấp của con người: con người tin rằng các thế

lực siêu nhiên hoàn toàn có thể can dự, tác động vào cuộc sống. Do vậy, sự khiếp sợ,

tôn thờ thế lực siêu nhiên là điều dễ hiểu. Đây là điều mang tính phổ quát, quy luật

trong văn hóa của nhân loại. Còn các hình thức thi tài bằng khả năng thực tế rõ ràng

109

mang tính chất đời thường, gắn với sinh hoạt thường ngày của con người. Nó bắt đầu

khi mà trình độ nhận thức của con người đã giã từ tư duy tôn thờ thần thánh, các thế

lực siêu nhiên để đạt tới tư duy duy lý, tức là không phụ thuộc vào cái siêu hình nữa.

Thay vào đó là căn cứ vào những điều hiện tồn trong thực tiễn cuộc sống. Do vậy, có

thể nói, sự chuyển hóa hình thức thi tài từ năng lực siêu phàm sang khả năng thể chất

tự nhiên của con người, mang tính người, là bước phát triển thứ hai của hình thức thi

tài trong tự sự dân gian. Trong truyền thuyết, cổ tích, ta có thể liệt kê hàng loạt những

cách thức thi tài gắn liền với sức mạnh thể chất như: bắn cung, chạy, đan, đẽo đá, đào

ao,…

Có thể khái quát lại sự thay đổi của hình thức thi tài trong tự sự dân gian bằng

sơ đồ sau: Thi tài bằng khả năng thần kỳ (siêu nhiên) → thi tài bằng khả năng thể chất

tự nhiên → thi tài bằng khả năng trí tuệ. Tình tiết thi tài trong giai thoại nằm ở giai

đoạn biến đổi sau cùng của sự vận động motif thi tài. Và vẻ đẹp trí tuệ này được soi

chiếu qua văn chương và bằng văn chương. Do vậy, đến đây, có thể khẳng định thêm

rằng: motif thi tài bằng văn chương là sản phẩm đặc trưng của giai thoại văn học, là

một trong những hình thức biến thể vô cùng đa dạng của motif thi tài trong tự sự dân

gian. Hình thức này không nhằm vào khả năng siêu nhiên, thần kỳ của nhân vật, không

hướng vào sức mạnh thể chất mà tập trung đề cao khả năng trí tuệ (qua văn chương và

bằng văn chương). Đó chính là biểu hiện của tâm thức đề cao trí thức (chữ Trí) trong

thời phong kiến của người Việt, với sự lên ngôi và thống ngự của Nho giáo trong đời

sống tinh thần dân tộc.

3.1.1.2. Nhóm giai thoại ứng tác văn chương

Mô hình kết cấu của nhóm giai thoại ứng tác văn chương có thể tóm lược theo

bảng sau:

Bảng 3.4. Mô hình kết cấu của nhóm giai thoại ứng tác văn chương

Phần mở đầu Giới cảnh thiệu hoàn (không gian, thời gian), đặc điểm, tính tình, năng lực, tài năng,… của nhân vật Phần kết thúc - Thái độ, phản ứng đối với ứng xử của nhân vật - Giảng bình thơ văn, câu đối Phần diễn biến Tình huống đặc biệt – Làm thơ (Motif làm thơ tạo tình huống) Điểm khác biệt lớn nhất trong kết cấu của nhóm giai thoại ứng tác văn chương so

với nhóm thách đố văn chương là: phần diễn biến đã được thay thế bằng motif làm thơ

tạo tình huống (thay vì motif thách đố văn chương). Căn cứ vào mục đích thơ văn,

chúng tôi xác định cấu tạo của motif làm thơ tạo tình huống như sau:

110

Bảng 3.5. Cấu tạo của motif ứng tác văn chương

Motif làm thơ tạo tình huống

Cảm khái Thử lòng Tỏ tình Tiễn biệt Tuyệt mệnh Ca ngợi Tự trào Phê án Thù tạc Đả kích, châm biếm

Như vậy, với hạt nhân cốt lõi là motif làm thơ tạo tình huống, nhóm giai thoại

ứng tác văn chương đã vận hành theo 10 mục đích cụ thể của tình huống văn chương.

10 mục đích cụ thể ấy tương đương với 10 tình tiết cụ thể của motif làm thơ tạo tình

huống. Sau đây, luận án sẽ điểm qua các tình tiết có tần số xuất hiện cao trong số này.

- Tình tiết làm thơ mỉa mai, châm biếm, hạ bệ (100/225, chiếm tỉ lệ 44,4%)

Đây là tình tiết có tỉ lệ cao, gắn liền với cảm hứng phê phán của giai thoại nói

chung. Như đã nói, nhân vật trung tâm của giai thoại văn học là những nhà khoa bảng,

có kiến thức uyên thâm về thơ văn, chữ nghĩa. Do vậy, đối với họ, thơ văn cũng trở

thành vũ khí hữu hiệu để công kích vào những thói tục của cuộc sống, đấu tranh chống

lại những cái xấu, cái ác, kệch cỡm của xã hội. Theo đó, đối tượng chính mà NVC

hướng đến thường là vua chúa, quan lại phong kiến – những người đại diện cho chính

quyền, cho giai cấp thống trị. Dẫu rằng, không ít nhà văn, nhà thơ cũng từng là quan

lại, nằm cùng hàng ngũ với các nhân vật ấy. Chung quy lại, các đối tượng mà NVC

muốn hạ bệ là những nhân vật đại diện cho: vương quyền (vua chúa, quan lại phong

kiến, tay sai cho Pháp), thần quyền (thần thánh), nho sĩ.

Qua khảo sát hệ thống giai thoại văn học, chúng tôi nhận thấy có 06 trường hợp

xuất hiện đối tượng bị hạ bệ, châm biếm đều ở triều Nguyễn là Minh Mạng, Tự Đức:

Chê khéo; Bịa thơ tài hơn vua; Tự tiện chữa văn vua; Trên dưới đều chó; Đái vẽ nên

rồng; Thơ ăn thịt cần đước. Đây là vấn đề đáng suy nghĩ. Vì sao giai thoại đả kích vua

chúa lại xuất hiện nhiều ở giai đoạn này. Có phải do hình thành muộn hay ít nhiều chịu

ảnh hưởng tinh thần dân chủ phương Tây vào đầu thế kỷ XIX.

Sự hạ bệ, châm biếm này thể hiện qua nhiều cách thức khác nhau, hoặc gián tiếp,

nhã nhặn, hoặc trực tiếp, mạnh mẽ, cứng rắn. Bà Huyện Thanh Quan khéo léo chê chữ

viết của vua Minh Mạng – một người rất khó tính lúc đó. Thì ra thiên tử cũng viết chữ

mập ú, dài ngoằng, chẳng khác gì trẻ con đang tập viết cả! Dẫu vậy, Minh Mạng cũng

không bắt bẻ gì ứng xử khéo léo bằng thơ của bà (Chê khéo). Nhưng với Cao Bá Quát

và Phan Văn Trị (Cử Trị) thì mâu thuẫn, sự căm ghét đã lên đến đỉnh điểm, chia cách

hai bên về hai phía đối địch nhau, không thể cùng tồn tại chung một vòm trời. Trước

mặt bá quan văn võ ở ngay điện Cần Chánh, Cao Bá Quát đã thẳng thừng chê bai thơ

111

của Tự Đức, xem đó là trò chữ nghĩa tầm thường. Trong giai thoại Bịa thơ tài hơn vua,

rõ ràng hai câu thơ của vua Tự Đức là do nhà vua tự làm lấy, nhưng họ Cao lại cho

rằng đó chẳng qua là bài thơ trong dân gian, với cách kết hợp chữ Hán và chữ Nôm

một cách tài tình. Rồi Cao đọc một hơi hết cả bài bát cú, khiến ai nấy đều ngỡ ngàng,

ngoại trừ ông vua. Bởi lẽ, Tự Đức biết rằng họ Cao đang xỏ xiên mình.

Trường hợp các quan lại phong kiến bị mỉa mai, châm biếm xuất hiện trong phần

lớn hệ thống giai thoại văn học. Có thể tạm chia thành hai nhóm: quan lại tham ô,

nhũng nhiễu, hách dịch với nhân dân và bọn tay sai, làm ưng khuyển cho thực dân

Pháp. Về nhóm thứ nhất, có thể dẫn ra một số thói tật của nhân vật bị mỉa mai, châm

biếm như: thói tham ô, nhũng nhiễu nhân dân, tham sống sợ chết, dâm ô,… (Dịch thơ

xỏ bạn; Mặc thằng nghe – Trần Tích Phiên; Thơ chửi tri huyện – Kép Trà; Gửi

Nguyễn Khoa Kỳ; Thằng đếch nào chứ không phải quan – Phan Điện; Thăm bạn mất

cướp; Tạ người cho hoa trà – Nguyễn Khuyến; Thơ cục cứt; Thơ con mèo – Phan

Văn Trị; Thơ trả lời người bạn giàu – Nhiêu Tâm; Anh hùng có một ngươi – Tú Quỳ;

Chó chết trôi; Thơ tạ hương đảng – Học Lạc; Trên dưới đều chó; Thầy lý bớt đi rồi –

Cao Bá Quát; Phỉ báng quan Bố chánh Hà Tĩnh – Nguyễn Công Trứ; Trấn uy ba góc

– Hồ Xuân Hương; Câu thơ cảnh tỉnh – Đặng Kim; Cười ông quan hai vợ – Mạc Đĩnh

Chi,…).

Mặc dù cùng mục đích là mỉa mai, hạ bệ bọn quan lại nhưng mỗi nhà thơ lại có

một phong cách thể hiện khác nhau. Hồ Xuân Hương, Phan Văn Trị, Nhiêu Tâm vận

dụng tối đa cách nói tục của dân gian (dùng thứ thải loại của con người và sinh thực

khí của nữ) để chửi xỏ sự giàu có cũng như sự dâm ô của các quan văn, võ. Nhẹ nhàng

hơn một tí là cách so sánh ngầm các quan như những loài thú vật (đa phần là chó, mèo,

cá lia thia,…). Phan Văn Trị dùng hình ảnh con mèo và con cá lia thia để ngụ ý các

quan lại vô dụng, hèn nhát, chấp nhận làm tay sai cho Pháp (giai thoại Thơ con mèo:

có 3 bài thơ liên hoàn gồm Thơ con mèo, Cá lia thia và Hột gạo), và dùng cả hình ảnh

rất tục, rất dân gian là “cục cứt” để chửi bọn quan lại (Thơ cục cứt). Cao Bá Quát vật

hóa các quan tham ăn dẫn đến việc đánh nhau như loài chó (Trên dưới đều chó). Hồ

Xuân Hương dùng phép ẩn dụ, hình tượng hai mặt (đồng hóa tài năng của các quan với

sinh thực khí nữ) để chửi xỏ tên quan võ dưới trướng Gia Long (Trấn uy ba góc). Phan

Điện và Trần Tích Phiên thẳng thừng chửi quan là “thằng” (Mặc thằng nghe; Thằng

đếch nào chứ không phải quan),…

Đối với những tên tay sai của Pháp, vẫn là thái độ đả kích mạnh mẽ của các nho

sĩ. Cụ Nguyễn Khuyến dùng các hình ảnh tương đối nhẹ nhàng là các con phỗng để

112

chửi xéo Hoàng Cao Khải – tay sai cho Pháp ở Bắc Kỳ qua các giai thoại Vịnh phỗng

đá; Thơ ông phỗng sành; Đòi xem câu đối. Phạm Ứng Thuần nhân việc Từ Đạm đục

hết thơ rồi đến chân mình vào núi đá, cũng đã làm bài thơ châm biếm tên quan tay sai

này (Đục chân vào đá). Từ Diễn Hồng cũng làm bài Thơ trung thu gửi Từ Đạm để

vạch mặt tên bán nước. Xiển Ngộ chửi bọn phản quốc bằng bài Thơ điên cuồng ngu

ngộ. Nguyễn Trọng Cẩn viết Bài thơ năm cụ để xỏ xiên các quan một dạ hai lòng.

Huỳnh Mẫn Đạt chủ động trốn tránh nhưng cũng phải ứng tác văn chương với cố nhân

– giờ là tay sai cho Pháp là Tôn Thọ Tường ngay giữa chốn thị thành Sài Gòn (Bài thơ

không họa nổi),…

- Tình tiết làm thơ cảm khái (55/225, chiếm tỉ lệ 24,4%)

Qua khảo sát các tuyển tập giai thoại, chúng tôi xác định tình tiết này xuất hiện ở

55 trường hợp (24,4%). Khái niệm cảm khái ở đây được chúng tôi hiểu theo nghĩa như

sau: cảm xúc thương cảm, ngậm ngùi trước thực tại và bày tỏ ý chí, nguyện vọng để

vượt lên trên thực tại đó. Chẳng hạn, các giai thoại văn chương về các bài thơ Chương

Dương – Hàm Tử, Ngựa đá lấm bùn cũng ghi lại sự kiện quân dân nhà Trần đánh bại

quân Mông Nguyên. Trần Danh Án dù được vua Gia Long mời ra làm quan dưới triều

Nguyễn, nhưng với lòng ưu ái nhà Lê cựu trào, ông đã một mực khước từ, chỉ nhận

chiếc khăn chứ không nhận chức tước, để giữ trọn tấm trung trinh với vua Lê (Tiến sĩ

triều Lê, khăn triều Nguyễn).

Các văn thi sĩ trong giai thoại văn học cũng có không ít những bài thơ, câu đối

nói lên chí khí hơn người. Nếu châm biếm người khác là để chấn chỉnh lại nền giáo lý

Nho giáo, thì sự bày tỏ chí khí ở đây có thể hiểu như sự tự nhủ, tự trui rèn để hướng

đến lý tưởng lập thân, vinh hiển ở tương lai. Những hoàn cảnh bày tỏ chí khí của NVC

trong giai thoại văn học cũng khá đa dạng. Ở đây, chúng tôi xin điểm qua một số

trường hợp tiêu biểu. NVC rơi vào hoàn cảnh lao tù, làm thơ nói lên ý chí kiên cường,

không sợ gian nguy, thậm chí là cái chết. Đó là trường hợp của Nguyễn Biểu và

Nguyễn Hữu Cầu. Nguyễn Biểu sau khi ăn cỗ đầu người mà giặc bày ra thử thách, đã

khảng khái ngâm bài thơ tỏ chí khí. Sau bài thơ đầy khí khái trên, Nguyễn Biểu đã bị

Trương Phụ cho người trói dưới chân cột cầu sông Lam, để cho nước thủy triều dâng

làm chết ông. Trong giai thoại Chim trong lồng, sau khi bị người bạn cố tri, từng là

đồng môn của mình là Phạm Đình Trọng bắt giam, Nguyễn Hữu Cầu đã cảm khái

ngâm liền bài thơ với đề tài chim bị nhốt trong lồng khiến cho họ Phạm tức giận, vào

triều tâu xin xử tử nhanh họ Nguyễn.

Đối với các nhân vật là nhà thơ, sĩ phu yêu nước, trong thơ văn của họ, nội dung

113

bày tỏ chí khí, lòng yêu nước, căm thù giặc, căm thù lũ bán nước thể hiện vô cùng sinh

động, trở thành nội dung quan trọng trong giai thoại. Chẳng hạn như Bạch Xỉ làm thơ

Đề gươm để nói lên quyết tâm chống Pháp; Kỳ Đồng tuy có ngạo mạn nhưng cũng có

tài năng thực sự và lòng yêu nước nồng nàn, tham gia vào phong trào chống Pháp

(Không dùng ta lấy ai giúp nước); Phan Điện tuy không tham gia chống Pháp nhưng

cũng thể hiện cái ngông, chí khí của ông qua màn đối đáp thông minh, láu lỉnh với

quan Pháp (Tớ không phải là phu),…

- Tình tiết đối đáp, thù tạc văn chương (15/225, chiếm tỉ lệ 6,6%)

Tình tiết đối đáp, thù tạc văn chương xuất hiện trong 15 trường hợp. Phần lớn

tình tiết này được tổ chức xoay quanh hai nhà thơ là tri kỷ, bạn vong niên văn chương,

tạo thành những cặp thâm giao: Nguyễn Văn Siêu – Cao Bá Quát, Hàn Mặc Tử – Phan

Bội Châu,… hoặc những nhân vật có ít nhiều bất đồng nhưng trên cơ bản vẫn là những

bạn thơ văn của nhau như: Bạch Xỉ – Phan Đình Phùng. Chẳng hạn như giai thoại Siêu

đồng, siêu đất có nội dung kể về tình huống đối đáp văn chương giữa Nguyễn Văn

Siêu và Cao Bá Quát. Trong một cuộc bình phẩm thơ văn, Cao Bá Quát cao hứng làm

hai câu thơ nói về người bạn vong niên của mình: “Siêu đất siêu đồng cũng là Siêu/

Siêu đất sao mà lắm kẻ yêu”. Đến đây, Nguyễn Văn Siêu bắt được mạch thi tứ của bạn

nên đã yêu cầu ngừng lại, không họa tiếp nữa. Sự thật đúng là họ Cao tuy tài năng phi

thường nhưng đã tỏ ra đuối ý trước cao thủ, khó có thể hoàn thành hai câu còn lại của

bài tứ tuyệt.

- Tình tiết làm thơ tỏ tình (13/225, chiếm tỉ lệ 5,7%)

Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được có 13 trường hợp NVC làm thơ với mục

đích để bày tỏ tình cảm cá nhân, cụ thể là tình yêu trai gái: Nguyễn Trãi làm thơ tỏ tình

với ả bán chiếu Nguyễn Thị Lộ (Thơ đùa ả bán chiếu); Nguyễn Công Trứ làm thơ

tương tư (Thơ tương tư), tả nỗi nhớ của bản thân cũng như làm hộ thơ tình cho người

bạn (mê cô hát ả đào nhưng không được đáp lại - Duyên nợ với hát ả đào); Phan

Hoàng Thái dạo chơi, bỗng thi hứng nổi lên làm Bài phú tức cảnh cô gái đẹp; Tú

Xương nhìn cô hàng xóm ngày ngày tưới dưa, hái dưa mà ước ao Hóa ra dưa cho

người ngọc bế bồng (Hóa ra dưa ); Nguyễn Hữu Khanh tuy tuổi đã xế chiều nhưng rất

thích hát ả đào và cả những cô gái đến nỗi các cô gọi bằng bố mà ông vẫn không tha,

quyết cho vào “bực bố” để thỏa thú bình sinh (Đã cho vào bực bố),…

- Tình tiết làm thơ ca ngợi (12/225, chiếm tỉ lệ 5,3%)

Nếu châm biếm, đả kích là tình tiết thể hiện sự phản đối, căm ghét của NVC đối

với các thế lực hắc ám, tàn bạo, phi nhân… thì tình tiết làm thơ ca ngợi thể hiện sự

114

ngưỡng mộ, trân trọng, tôn vinh đối với nhân cách, đức độ, tài năng của NVC với

những người cùng thời hoặc danh nhân trước đó. Vua Lê Thánh Tông ngưỡng mộ tài

năng văn chương của ba nhân vật có cùng chữ đệm là “Thế”, nên đã có câu đối ca

ngợi trong buổi yến tiệc vinh danh người đỗ đạt: “Thế Lịch, Thế Hiển, Thế Vinh, tam

thế đồng khoa vinh hiển lịch” (Thế Lịch, Thế Hiển, Thế Vinh, ba ông đỗ một khoa,

cùng vẻ vang, rạng rỡ). Trong tiệc mừng thọ của Nguyễn Công Trứ, Nghè Tân có gửi

một bài thơ chữ Nôm để trong khai để mừng thọ bạn thơ, đồng thời họa lại bài thơ tự

thọ trước đó của họ Nguyễn.

- Tình tiết làm thơ tự trào (16/225, chiếm tỉ lệ 7,1%)

Làm thơ tự trào cũng là tình tiết đáng chú ý trong nhóm giai thoại về ứng tác văn

chương. Qua khảo sát, chúng tôi ghi nhận có 17 trường hợp văn bản xuất hiện tình tiết

này. Trong mảng này, những giai thoại về Nguyễn Công Trứ chiếm số lượng nhiều

nhất, gồm các giai thoại: Làm thơ khất nợ, Bỗng chốc nên quan, Có rứa rồi mới ra

được mùa, Ngày Tết cắm đất hương hỏa, Chim bay về núi, Trí sĩ về hưu. Có lần, giữa

ngày sắp sang năm mới, khi chủ nợ kéo đến nhà đòi nợ, rồi nằm vạ không chịu về,

Nguyễn Công Trứ đành chịu cắm cả đất hương hỏa ông bà để lại để được yên thân.

Hoàn cảnh của người nho sĩ quá đáng thương trước sự bủa vây của đồng tiền: “Chiều

ba mươi công nợ rối Mậu Thìn, những muốn mười năm làm một tết/ Sáng mồng Một

rượu chè say Quý Tỵ, trông cho ba bữa hóa mười ngày/ Tết có cóc gì đâu, uống vài be

củ tỏi/ Nợ đâm riêng ra đó, nói ba chuyện cả riêng” (Ngày Tết cắm đất hương hỏa).

Các nhân vật khác cũng làm thơ tự trào bản thân trong những nghịch cảnh, tình

huống thăng trầm của cuộc đời. Bị nhốt trong lao tù, Học Lạc liền làm bài Bị ngồi

trăng để tự cười thói ngông nghênh, còn kép Trà thì làm Câu đối vịnh gông cùm trong

tình huống tương tự. Học Lạc gọi mình là Thằng Lạc để xác lập lằn ranh khu biệt với

những “thằng” quan chức hóng hách khác trong làng. Nhiêu Tâm tự cười cái nghèo

khi so sánh với người bạn cố tri giàu có (Thơ gửi bạn nhà giàu). Trần Danh Án trên

đường bôn ba gửi thư cầu cứu cho Tàu để cứu vua Lê Chiêu Thống, đã họa bài thơ nói

về tình huống lịch sử Sứ thần áo rách nón mê,… Nhìn chung, tình tiết làm thơ tự trào

xuất hiện trong những huống cảnh NVC dùng thơ văn để soi chiếu chính bản thân

mình, lấy bản thân làm đề tài để bộc lộ thái độ trước thời cuộc. Tóm lại, mô hình kết

cấu trên của nhóm giai thoại về thách đố văn chương đã làm nổi rõ các kiểu nhân vật

khác của giai thoại là: Nhân vật nhà nho ẩn dật, nhân vật đạo đức (khía cạnh đạo đức

cá nhân và đạo đức công dân), nhân vật nhà nho tài tử.

115

3.1.2. Kết cấu của giai thoại văn hóa dân gian

Như chúng tôi đã trình bày ở phần phân loại giai thoại, giai thoại văn hóa được

hiểu như những tác phẩm tự sự dân gian, trong đó, nó có chức năng giải thích sự hình

thành địa danh, nguồn gốc ngành nghề, những câu châm ngôn, phương ngôn, tục ngữ,

thành ngữ, ca dao, những hoạt động sinh hoạt văn hóa truyền thống của các vùng miền

(hát hò đối đáp, sân khấu,…), những nhân vật nổi tiếng trên các lĩnh vực đó (nghệ

nhân dân gian, nghệ sĩ tuồng chèo, cải lương,...). Bên cạnh đó, hệ thống giai thoại văn

hóa dân gian cũng có nhóm truyện về phong tục, tín ngưỡng của nhân dân. Sau đây là

bảng tóm lược về hệ thống truyện và nhân vật của giai thoại văn hóa dân gian mà

chúng tôi khảo sát từ các tuyển tập:

Bảng 3.6. Hệ thống truyện và nhân vật của giai thoại văn hóa dân gian

Stt Nhóm truyện Số lượng văn bản

Kiểu nhân vật - Nhân vật ngông - Nhân vật dị nhân 1 - Tín ngưỡng: 17 - Tập tục treo câu đối: 61

- Hò hát dân gian: 182 - Tập Kiều, lẩy Kiều: 46 2

- Nghệ nhân dân gian - Nhà nho tài tử - Nhà nho ẩn dật Nghệ sĩ sân khấu

(tuồng, chèo, 3 Giai thoại về tín ngưỡng, phong tục, tập quán của nhân dân Giai thoại về sinh hoạt văn nghệ dân gian (hát ví giặm, hát phường vải, hò khoan, hò đối đáp…) Giai thoại về sân khấu truyền thống cải lương…) - Nghệ sĩ sân khấu khuyết danh: 35 - Nghệ sĩ sân khấu nổi tiếng: 26

Trong phạm vi của luận án này, chúng tôi chỉ đi vào 01 nhóm truyện tiêu biểu

của tiểu loại này là nhóm truyện về sinh hoạt văn nghệ dân gian với những lí do cụ thể

là: 1. Đây là nhóm tập trung nhiều đơn vị tác phẩm nhất trong 03 nhóm của giai thoại

văn hóa dân gian; 2. Nhóm này tập trung 03 kiểu nhân vật chưa được nghiên cứu sâu

(về kiểu loại nhân vật) là: nhân vật nghệ nhân dân gian, nhân vật nhà nho tài tử và

nhân vật nhà nho ẩn dật. Luận án sẽ trình bày ở phần sau. Mô hình kết cấu của nhóm

giai thoại văn nghệ dân gian như sau:

Bảng 3.7. Mô hình kết cấu của nhóm giai thoại văn nghệ dân gian

Phần diễn biến Thách đố - Giải đố (Motif: Thách đố về hò hát) Phần mở đầu Giới cảnh thiệu hoàn (không gian, thời gian), đặc điểm, tính tình, năng lực, tài năng,… của nhân vật Phần kết thúc - Thái độ, phản ứng đối với ứng xử của nhân vật; - Giảng giải chữ nghĩa lời ca

Sau đây là bảng mô tả cấu tạo của motif thách đố về hò hát của nhóm giai thoại

văn nghệ dân gian:

116

Bảng 3.8. Cấu tạo của motif thách đố về hò hát của nhóm giai thoại

văn nghệ dân gian

Sự thách đố Motif thách đố (về hò hát) Sự giải đố Thái độ sau cuộc thách đố Mục đích Kết quả giải đố Dương Âm tính Tính chất

Chủ động Bị động Chiến thắng tính Thán phục Thất bại Thử tài

Bất phân thắng bại Chấm dứt cuộc hát Tức tối/ Bỏ đi (…) Hạ bệ, đả kích Bày tỏ tình cảm Giao lưu văn nghệ (…)

Nhóm giai thoại về sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian có cả thảy 182 đơn vị

văn bản, có thể chia thành hai tiểu nhóm như sau:

* Nhóm truyện 1: Giai thoại về các cuộc hò hát của các nghệ nhân dân gian.

* Nhóm truyện 2: Giai thoại về các cuộc hò hát của các nhà nho tài tử.

Dựa vào bảng thống kê tình tiết (xin xem Phụ lục), có thể nhận thấy 7/11 tình tiết

có tần số xuất hiện cao là: NVC chủ động thách đố, NVC bị thách đố, NVC chiến thắng

cuộc hò hát, NVC thất bại trong cuộc hò hát, bất phân thắng bại, NVC dùng câu hát

bày tỏ tình cảm, NVC được thán phục; cuộc hát chấm dứt (do vi phạm cấm kỵ),…

Có thể sơ đồ hóa sơ đồ cốt truyện của nhóm truyện này như sau: NVC chủ động

thách đố NVĐT/ NVC bị NVĐT thách đố → NVC giành chiến thắng/ NVC thất bại/

Bất phân thắng bại → NVC được thán phục/ Cuộc hát chấm dứt/ NVĐT tức tối/ NVĐT

bỏ đi.

Sau đây là phần mô tả cấu tạo của motif thách đố về hò hát trong giai thoại sinh

hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian:

* Sự thách đố (về hò hát): phần này được triển khai qua hai tình tiết cơ bản là

NVC chủ động thách đố và NVC bị thách đố. Về mặt chức năng, sự thách đố (bằng lời

hò hát hoặc một yêu về hò hát) có vai trò như một sự thắt nút, đòi hỏi NVC phải giải

quyết.

- Tình tiết NVC chủ động thách đố (100/182, chiếm tỉ lệ 54,9%)

Tình tiết này xuất hiện trong 100/182 văn bản của hệ thống truyện, bao gồm cả

NVC là nghệ nhân dân gian và các nhà nho tài tử tham gia sinh hoạt văn nghệ dân gian

với quần chúng nhân dân.

Trong nhóm giai thoại văn hóa dân gian có liên quan đến NVC là nghệ nhân dân

gian, có thể liệt kê ra đây những trường hợp NVC chủ động thách đố NVĐT như:

chàng thanh niên chủ động hát chọc ghẹo cô gái họ Vương ở đất chợ Voi (Hà Tĩnh,

117

giai thoại Trai sừng gái sỏ); hai chị em Cô Long và cô Vân giữ vai trò chủ động trong

cuộc hát qua các giai thoại: Quỷ thần không cho, Mùi trầm hương nỏ chộ, Bởi vì ai nên

nỗi để cho nàng đong đưa nhằm ngăn chặn cách tỏ tình thái quá, thô thiễn của các anh

chàng trong cuộc hát; Cô Nhẫn chủ động khước từ tình cảm của các chàng trai qua các

giai thoại: Cô Nhẫn nói về chuyện muộn chồng, Chí còn cách cắp ô lủi đi,…

Về giai thoại sinh hoạt văn nghệ dân gian của các nhà nho tài tử, tần số xuất hiện

của tình tiết NVC chủ động thách đố NVĐT khá ít. Có thể kể ra hai trường hợp:

Nguyễn Du (thời thanh niên thường được gọi là Chiêu Bảy) hát ghẹo cô gái tên Cúc

(Vì chưng tham chút nhụy vàng); Nguyễn Công Trứ chủ động cất lời hò chọc ghẹo cô

gái đang giặt áo trên sông (Hát phường vải).

- Tình tiết NVC bị thách đố (82/182, chiếm tỉ lệ 45,1%)

Ở đây, chúng tôi xin điểm qua một số tình huống thách đố có liên quan đến

những nhân vật là nghệ nhân dân gian nổi tiếng (Cô Long, Cô Vân, Cô Nhẫn, O Tộ,

Bảy Tỏi, Trần Hàn…). Điều đặc biệt trong mảng giai thoại này là, NVC không chỉ bị

thách đố một lần mà là nhiều lần liên tiếp trong cùng một giai thoại, tức là luôn ở tình

thế phải suy nghĩ và đáp lại đối thủ. Chúng tôi định danh cho tình huống này là đối đáp

Cuộc hát 3

Cuộc hát 1

Cuộc hát 2

(…)

liên hoàn. Có thể mô hình hóa tình huống đối đáp liên hoàn bằng sơ đồ sau:

Sơ đồ 3.1. Mô hình tình huống đối đáp liên hoàn

Chính trong những tình huống như vậy, tác giả dân gian đã làm nổi bật sự tài trí

trong ứng biến của NVC. Chẳng hạn, trong giai thoại Nhà nho ba bảy nhà nho, cô

Nhẫn cũng ở tình thế đối đáp liên tục với NVĐT. Một hôm, đang bắt cáy về, có anh

học trò hát ghẹo cô: “Người ta bắt cáy đầy oi/ Răng em bắt được nạm cáy rồi, rứa

em?”. Cô Nhẫn liền đáp lại: “Lòng thương dạ nhớ thầy nho/ Chân buồn tay rũ, ai bắt

cho mà đầy”. Anh chàng này chưa chịu thua, hát thêm một câu: “Em gắng công mà

bắt cá hái rau/ Nuôi lấy chồng nho sĩ để mai sau mà nhờ”. Trước lời bày tỏ quá thẳng

thừng của chàng nho sinh, cô Nhẫn từ chối ngay: “Nhà nho ba bảy nhà nho/ Nửa nho,

nửa lại, ai có nhờ mà em nuôi” [110, tr.257]. Trong giai thoại Đôi đũa quấy trong

bung thằn lằn, cô Vân hai lần bị NVĐT hát thách đố. Ông Xã Kiểm đi bán nước mắm

chẳng may đường trơn, trợt té nên trở thành đề tài châm biếm của các cô gái Quảng

Trạch (Quảng Bình) (Tầm long điểm huyệt). O Ân – một cô gái hò hát có tiếng ở Lệ

Thủy trong một lần đi mót lúa cũng bị châm chọc bởi một nho sinh tên Chè (Đứng sau

118

mà dòm). Ông Cật, người làng Thuận Lý (Quảng Bình) nổi tiếng với những câu hò

thông minh, hóm hỉnh, trong một lần đi đơm đáy trên sông, cũng bị hát ghẹo bởi các

cô gái (Không bát, cũng không cạy),…

Về trường hợp của các nhà nho tài tử tham gia hát hò dân gian, có thể dẫn ra đây

một số dẫn chứng tiêu biểu như: Nguyễn Công Trứ trong một lần hát ví đã bị các cô

gái hát cho phải bỏ về (Nhà đọc sách, gảy đờn), Đinh Nhật Thận bị trượt té, trở thành

đề tài châm biếm cho các cô gái trong một lần hát ví ở Nghệ An (Nằm cùng thì cho).

Nguyễn Kinh hai lần đi thuyền trên sông đều bị các cô gái hát ghẹo, dẫn đến các cuộc

hát thú vị (Cây không trái, gái không chồng; Hai bảy mười một). Tài tử Phan Văn San

trong các cuộc hát thường nằm ở thế bị động: bị các cô gái hát hỏi danh tính (Nam

Đàn tứ hổ là đây), Cửu Thiện thách đố đoán danh tính qua câu hát giới thiệu bản thân

(Đoán tên), các cô gái hát đố tên cha thầy Mạnh Tử (Cha thầy Mạnh Tử là ai?),…

* Sự giải đố (về hò hát)

Đây chính là phần quan trọng nhất, tạo nên sự hấp dẫn cho nhóm giai thoại về

các cuộc hò hát của các nghệ nhân dân gian và nhà nho tài tử. Về mặt chức năng, phần

này đóng vai trò như sự mở nút, giải quyết khúc mắc, cởi trói cho tình huống khó khăn

của cuộc hát. Căn cứ vào kết quả của sự giải đố, ta có thể thấy nổi bật lên 02 tình tiết

tiêu biểu là: NVC giành chiến thắng và NVC thất bại trong cuộc hò hát.

- Tình tiết NVC giành chiến thắng trong cuộc hò hát (67/182, chiếm tỉ lệ

36,8%)

Tình tiết này xuất hiện 67/182 tác phẩm trong nhóm giai thoại hò hát dân gian.

Tần số ở mức cao đó chứng tỏ rằng, trong quan niệm của dân gian, những nghệ nhân

dân gian bao giờ cũng là người có thế ưu thắng, được cộng đồng ngưỡng mộ, tôn vinh,

đề cao, ca ngợi về tài năng ứng biến nhanh nhạy, thông minh của mình. Những nghệ

nhân này, dù là người có tên tuổi hay khuyết danh cũng đều để lại những ấn tượng sâu

sắc bằng những câu hò, lời hát. Hầu hết những nhân vật có tài hò hát ở địa phương như

Cô Long, Cô Vân, Cô Nhẫn, O Ân, O Quy, Bảy Tỏi, Trần Hàn,… đều giành chiến

thắng trong các cuộc thi hát, bất chấp đối thủ của họ là những nhân vật chưa có tên

tuổi hay những tay hò hát có tiếng. Đó chính là sự chi phối của tinh thần dân chủ đến

cấu trúc thể loại. Điều khá thú vị là trong mảng giai thoại này, đã dành hẳn ra một

mảng nhỏ dành riêng cho những cặp bài trùng, những đối thủ thực sự của nhau không

chỉ trong câu hát mà còn trong cả cuộc sống đời thường: cô Long, cô Vân – anh Bần,

Nho Biên – cô Nhẫn, ông Ngụ – bà Hậu, Cửu Hoãn – bà Tùng, O Quy – anh Long,

ông Bơi – bà Bổ, bà Bơi, ông Quán – cô Hảo, Nhiêu Ngọ – O Tộ,… Sợi dây kết nối họ

119

trong các cuộc hò hát, ngoài việc khẳng định tài năng thì còn phải nhắc đến chuyện

tình cảm nam nữ. Trong nhiều trường hợp, những câu hò lời hát không chỉ đơn thuần

mang tính chất công thức (có sẵn) mà còn mang đậm tính sáng tạo của các nhân vật.

Có một nét khá thú vị trong những giai thoại hò hát dân gian là các nhân vật rất

hay sử dụng yếu tố tục. Đây cũng là một trong những đặc trưng cơ bản của tính chất

phi chính thống, ngoài lề của giai thoại nói chung. Qua khảo sát, chúng tôi thống kê

được có 23/182 (12,6%) tác phẩm xuất hiện yếu tố này. Cụ thể, có 02 giai thoại đề cập

đến động tác giao hợp nam nữ, 03 văn bản có ngụ ý chỉ hành động vệ sinh, còn lại 17

văn bản có đề cập một cách trực diện hay ngụ ý sinh thực khí của nam và nữ, 01

trường hợp chửi tục.

Về hành động vệ sinh, ta có thể thấy trong giai thoại Nhiêu Ngọ và O Tộ, Nước

trong khe, Vì thua câu hò mà bỏ quê. Sau khi đứng nhìn O Tộ vệ sinh và bị cô này hò

mấy câu trả đũa, Nhiêu Ngọ cũng không vừa, đáp lại ngay: “Dái ơi, ơi Dái/ Ngủ chi

mãi rứa mồ/ Mi không dậy mi vô/ Thăm con em coi thử/ Đốc mùng màn coi thử”

(Nhiêu Ngọ và O Tộ), [110, tr.231]. Hai giai thoại có ngụ ý nhắc nhớ đến động tác giao

hợp nam nữ là Nhún lên nhún xuống chui ngoài chui vô, Tui cày suông cho chị. Cả hai

giai thoại này đều gắn với hoạt động lao động là nghề đan thúng và nghề cày ruộng

thuê. Khi được các cô gái mớm lời mời mọc, chàng trai làm nghề đan đã mô tả nghề

nghiệp mình như sau: “Anh đây đan cũng giỏi, mà đát cũng tài/ Lận thì nhún lên nhún

xuống, nức thì chui ngoài chui vô” (Nhún lên nhún xuống chui ngoài chui vô) [6,

tr.302]. Lời đáp của chàng trai thật khéo léo, vừa có những từ mô tả nghề đan (“lận”,

“nhún”, “nức”, “chui”) vừa mở ra một chân trời liên tưởng không giới hạn cho người

đọc.

- Tình tiết bất phân thắng bại trong cuộc hò hát (84/182, chiếm tỉ lệ 46,2%)

So với nhóm giai thoại về thách đố văn chương, tình tiết bất phân thắng bại trong

cuộc thách đố (về văn nghệ) của nhóm giai thoại về sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân

gian là một tình tiết mới, chỉ xuất hiện trong lĩnh vực văn nghệ, không thấy xuất hiện

trong lĩnh vực văn học. Trong giai thoại văn học, sự chiến thắng hay thất bại của nhân

vật là rất rõ ràng. Còn trong giai thoại văn hóa dân gian, không phải lúc nào sự chiến

thắng cũng thiên về NVC. Theo chúng tôi, có những lí do cơ bản sau: 1. Trong các

cuộc hát, các nghệ nhân phải đối mặt với không chỉ một mà là rất nhiều những lời hát

liên tiếp của đối thủ (3, 4, thậm chí là 5 lời hát liên tiếp nhau), nói khác đi đó là cách

thức trùng điệp sự thách đố. Tính chất khó khăn đã tăng lên nhiều lần (trong khoảnh

khắc), do vậy, việc “thủ hòa”, tránh đi thất bại đã là một cách ứng biến tài tình rồi (nó

120

khác hẳn với việc giải một vế đố trong giai thoại văn học); 2. Văn nghệ dân gian là

một sân chơi bao gồm nhiều thành phần: nho sĩ, quan lại, dân chúng,… trong đó,

trường hợp những con người ngang tài ngang sức là chuyện bình thường (đặc biệt là

đối với những cặp hò hát kỳ phùng địch thủ của nhau); 3. Yếu tố tâm lý cũng có phần

nào tác động đến kết quả. Ở đấy, mục đích giao lưu là chính yếu nên sự hơn thua, phải

phân định rạch ròi sự thắng – bại đôi khi không còn quan trọng cho lắm; và thứ 4. Sự

vi phạm cấm kỵ cũng là một trong những yếu tố khiến các cuộc hát không đi đến đoạn

kết hoàn chỉnh. Qua khảo sát hệ thống, chúng tôi xác định có 32/182 trường hợp

(17,6%) các cuộc hát phải dừng lại nửa chừng vì đối phương vi phạm điều cấm kỵ của

cuộc chơi.

Về sự cấm kỵ trong đối đáp, trong giai thoại văn học gần như không xuất hiện

vùng cấm kỵ nào. Lý do cơ bản là các NVC đã được cởi trói về mặt vị trí, thứ bậc để

có thể nói những gì mình muốn. Ví dụ, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát chỉ là thứ dân

(thư sinh chưa đỗ đạt) nhưng vẫn có thể được đối đáp với Minh Mạng và Lê Văn

Duyệt khi được họ cho phép. Thậm chí, trong không ít trường hợp, họ còn có thể dùng

yếu tố tục để trỏ vào ngay bộ mặt của giai cấp thống trị (trường hợp các giai thoại của

Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ,…) mà không

phải chịu bất cứ hậu quả gì. Nói khác đi, tính chất dân chủ, không câu nệ trở thành

điều kiện lý tưởng để NVC có thể nói những gì mình nghĩ, mình muốn. (Trường hợp

NVC bị trừng phạt do phạm húy, xúc phạm vua chúa, quan lại chỉ xuất hiện ở tần số

thấp, do vậy không phải là nét đặc trưng),…

Với giai thoại văn hóa dân gian, sự cấm kỵ, chuẩn mực trong lời hò, câu hát là

điều đã được quy định hẳn hoi (dù có thể suồng sã qua cách thức vận dụng yếu tố tục).

Ví dụ, trong hát phường vải, khách (các chàng trai) phải đứng ngoài bờ rào, bờ ao hát

chào (chặng 1) trước, sau khi được gia chủ cho phép bằng lời hát, họ mới được tiếp

cận vào nhà, chứ không thể đột nhiên vào ngay được (theo PGS Ninh Viết Giao). Nếu

lời hò hát có tính chất xúc phạm, không tôn trọng đối thủ, thì đối phương có thể bỏ đi,

chấm dứt cuộc hát ngay lập tức. Sự vi phạm điều cấm này thường là xúc phạm về:

ngoại hình (chột mắt, mặt rỗ, tật chân,…), gia cảnh (nghèo khó); nghề nghiệp (làm

thuê, đi ở,…); tình cảm cá nhân (phụ bạc, đa tình, ly hôn, làm lẽ,…); song thân (cha

mẹ); yếu tố tục,…

Ví dụ, trong Đu đưa đủng đởn như ông già, ông Bảy Tỏi đã dừng cuộc hát sau

khi bị xúc phạm qua lời hò thô tục của Bà Út: “Nửa đêm thức giấc hoảng hồn/ Con chi

nó cựa quậy trong … của tôi/ Tưởng là một dậu thì thôi/ Ngờ đâu bảy dậu, trời ơi là

121

trời!” [114, tr.480]; trong Buôn trầu lỗ lắm, cô gái tức giận với lời hò ác ý của chàng

trai (dùng từ “cứt”), liền đối lại đốp chát: “Buôn trầu lỗ lắm anh ơi/ Để em hốt cứt lần

hồi nuôi anh”, rồi cuộc hát dừng lại ở đấy [114, tr.401 – 402]; trong Mặt trắng mà

lòng đen, chàng trai trong cuộc hò giã gạo đã bị vạch bộ mặt thật (phản bội người yêu)

nên phải dừng chày và bỏ đi ngay; trong Nước trong khe, o Ân và chàng trai sau khi

hò đối đáp đúng một câu đã phải dừng cuộc chơi vì lời lẽ xúc phạm song thân của đối

phương,…

Về nhóm giai thoại hò hát có liên quan đến những nghệ nhân dân gian nổi tiếng,

các nhân vật này cũng không tránh khỏi những thất bại nặng nề trong cuộc đời hò hát.

Trong nhiều trường hợp còn dẫn đến những kết cục bi thảm. Chẳng hạn, Trần Hàn vì

câu hát quá ngạo mạn, xấc xược của cô gái (chửi xéo, sỉ nhục ông và thân phụ) dẫn

đến việc ông lâm bệnh nặng và qua đời không lâu sau đó (Chết vì một câu hò). Anh

Hàng, một tay hò có tiếng ở Khánh Hòa, cũng là nạn nhân bất đắc dĩ của những câu hò

quá trớn, đành ôm uất ức thành bệnh mà chết (Dáng ai như dáng).

- Tình tiết NVC dùng câu hát bày tỏ tình cảm (88/182, chiếm tỉ lệ 48,4%)

Số lượng tác phẩm xuất hiện tình tiết này khá lớn 88/182. Tần số này chứng tỏ

nhận xét: hò hát dân gian là môi trường trong đó, nhân dân lao động được tự do bày tỏ

quan điểm, thái độ của mình về tình yêu đôi lứa, về thời cuộc.

Tình tiết NVC bày tỏ tình cảm không nhằm mục đích thách đố mà nhằm bộc lộ

trạng thái tâm lý, tình cảm (thường là tình yêu nam nữ) qua câu hát, dùng câu hát để

dò xét tâm lý của đối phương, qua đó có thể đưa ra một ứng xử phù hợp trong quan hệ

cá nhân giữa NVC với đối tượng. Với tính chất là những cuộc hát giao duyên, đối đáp,

cho nên việc bày tỏ tình cảm ở đây không thể hiểu theo nét nghĩa nghiêm túc, thật

lòng, mà chỉ là những lời chọc ghẹo, theo những khuôn đúc có sẵn nhằm tạo ra một

duyên cớ cho cuộc hát.

Tình tiết dùng câu hát bày tỏ tình cảm làm nảy sinh một số trường hợp sau:

Câu hát nên duyên: các nhân vật nam nữ hát giao duyên, đối đáp và điều cuối

cùng họ nhận được trong cuộc hát là phần thưởng xứng đáng về mặt tinh thần khi đối

phương chấp nhận lời tỏ tình, kết duyên châu trần. Qua thống kê, chúng tôi xác định

có 20/182 trường hợp (10,9%). Có thể kể ra như: Tay em vít cả đôi cành; Bất đặng cái

khi đang trèo; Cặn kẽ; Lương giáo đạo đồng;… Ví dụ, sau lời hò của anh chài: “Chữ

rằng lương giáo đại đồng, cơ phải tùy cơ/ Giáo em, em giữ, lương anh thờ, mặc anh!”

thì cô gái đã chấp nhận tình cảm “vui vẻ leo lên chòi cùng anh” [114, tr.318].

Trong giai thoại văn học, trường hợp câu đối (bài thơ) nên duyên cũng xuất hiện.

122

Sau khi đối đáp thành công, NVC có thể được gả con gái, tiểu thư (Hứa Tam Tỉnh,

Vương Toán, Lê Quý Đôn,…) hoặc sẽ được chính người đẹp đồng ý chuyện duyên nợ

(Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông,…). Nhưng có điều đặc biệt là trong địa hạt giai thoại

văn hóa dân gian, câu hát nên duyên chỉ xảy ra đối với nghệ nhân dân gian, không thấy

xuất hiện đối với nhà nho tài tử (trừ Nguyễn Công Trứ với Thuyền quyên ứ hự). Phải

chăng quan niệm “môn đăng hộ đối”, “xướng ca vô loài” đã có phần ảnh hưởng nhất

định đến sự tác hợp trong trường hợp này (ví dụ như mối tình của Nguyễn Du với cô

hát tên Cúc trong Vì chưng tham chút nhụy vàng từng bị gia đình ông ngăn cấm)?.

Câu hát nối duyên: là câu hát này có chức năng hàn gắn những mâu thuẫn, giận

hờn, nghi ngờ,… trong tình yêu nam nữ cũng như tình nghĩa vợ chồng. Qua khảo sát,

có 06/182 trường hợp (3,3%) gồm: Ngả bàn tay ra cho anh điểm chi vi bằng; Chẳng

biết vì ai; Em can anh mà anh chẳng hề nghe; Em đà ăn miếng trầu người; Cha tiền

mẹ gạo; Lập mưu để cứu nàng. Chẳng hạn, sau lời hò của người chồng thì: “Hai vợ

chồng cùng nhau thề thốt đồng cam cộng khổ suốt đời, rồi cùng trở lại nhà mình”

[114, tr.334].

Câu hát lỡ duyên: câu hát này thuộc về đối tượng là những đôi vợ chồng đã chia

tay, đường ai nấy đi, nay tình cờ gặp lại rồi hò hát nhắc lại chuyện cũ (hoặc các đôi

nam nữ lỡ duyên gặp lại nhau). Có 17/182 trường hợp (9,3%) xuất hiện câu hát này.

Có 15 trường hợp gắn với nghệ nhân dân gian là: Chỉ vì lời ru; Sợ nam to không chèo;

Ai dè lở dở trăm đàng; Một lạy tạ lời thề xưa; Mặt trắng mà lòng đen; Hai chạc dây

giằng; Gương lồng thủy, thủy lồng gương; Con anh khôn lớn bằng anh; Cái du du tát

nước mà ngờ lọng che; Cự tuyệt; Vật để treo nghi; Trở chứng nhỏ nhen; Em an tâm về

bẻ lá mua than; Ai ở bạc; Lấy chồng làng xa. Các nhà nho tài tử cũng góp 02 giai

thoại là: Vì chưng tham chút nhụy vàng (Nguyễn Du); Thiếu tiền tiêu, thiếu tình yêu

(Ưng Bình Thúc Giạ Thị).

Chẳng hạn, sau thời gian dài xa cách, Thợ Thiềm gặp lại cố nhân trên chuyến đò

dọc, sau hai câu hò ướm lời, Thiềm đã bị người xưa mai mỉa: “Rượu Quỳnh Tương

chờ người lữ thứ/ Té ra đằng bạn cũng muốn rày viếng mai lai/ Chẳng qua là đò xuôi

không đặng, mà đến đò ngang cũng không chèo!”, rồi lặng lẽ rút êm vì chưa thể giao

hòa trong câu hát (Sợ nam to không chèo) [114, tr.375 – 376].

Câu hát quốc sự: Bên cạnh việc mượn câu hát để bộc lộ tình yêu nam nữ, vợ

chồng là cách thức dùng câu hát để biểu lộ, kêu gọi lòng yêu nước thương nòi trong

hoàn cảnh thuộc Pháp. Đây là khuynh hướng thời sự hóa thời cuộc vào lĩnh vực văn

nghệ dân gian. Qua khảo sát, có 10/182 trường hợp (5,5%) đề cập đến vấn đề chính trị

trong câu hát, đó là: Đua tài chính sự, Trai con hồng cháu lạc, gái cũng con hồng cháu

123

lạc (khuyết danh); Ai là ai trong hai lời hò?; Cổ động học chữ quốc ngữ; Câu hò tặng

Tì Bà viện; Cơm độc lập nước tự do; Hai nhà thơ một lời hò; Cấm và cứ (Ưng Bình

Thúc Giạ Thị - Thảo Am Nguyễn Khoa Vi); Mối tình chung, Vui cuộc cờ tàn (Phan Bội

Châu). Chẳng hạn, lời hò của Thúc Giạ Thị và Nguyễn Khoa Vi lúc quân Pháp có lệnh

chặt cây trên núi Ngự (thời điểm 1948 – 1953): “Núi Ngự không cây chim ngủ đất/

Sông Hương vắng khách đĩ kêu trời/ Ai ơi cho hỏi một lời/ Vì sao non nước đổi dời ra

ri?” (Hai nhà thơ một lời hò) [114, tr.383].

* Thái độ sau cuộc thách đố: Chung cục của giai thoại bao giờ cũng là một thái độ đánh giá, khen chê, tán

thưởng nhân vật.

Cũng giống như giai thoại văn học, phần kết thúc giai thoại sinh hoạt văn hóa,

văn nghệ dân gian cũng rơi vào các trường hợp: NVC được thán phục; NVĐT tức tối/

bỏ đi. Tình tiết ban thưởng không thấy xuất hiện do nó đã hòa lẫn vào sự thán phục và

tán thưởng của khán giả.

- Tình tiết NVC được thán phục (40/182, chiếm tỉ lệ 21,9%)

Đối với các nhà nho tài tử, có thể kể ra các giai thoại: Vì chưng tham chút nhụy

vàng (Nguyễn Du); Nằm cùng thì cho (Đinh Nhật Thận); Đoán tên, Đoán chữ; Cha

thầy Mạnh Tử là ai, Mối tình chung, Vui cuộc cờ tàn (Phan Bội Châu); Gà sẵn những

lời hò mồi (Thúc Giạ Thị); Chữ công có cái quéo (Nguyễn Khoa Vi),… Đối với các

nghệ nhân dân gian, tiêu biểu là: Cái nghĩa chữ duyên đang dài, Nho Biên và cô Nhẫn,

Chỉ còn cách cắp ô lủi đi, Chàng ra tay báo phục (cô Nhẫn); Đứng sau mà dòm (o

Ân); Nhất sơ hiệu ký gặp Trung Am ký (o Quy); Thợ Thiềm phá vây (Thợ Thiềm),…

Hình thức thán phục, tán thưởng ở đây thiên về tinh thần, mang tính chất ghi

nhận tài năng và cổ động cho cuộc hát (tiếng cười ồ, tiếng vỗ tay, thưởng thơ,…) hơn

là giá trị vật chất (tặng tiền bạc, vàng lụa, sách vở,… như trong giai thoại văn học).

Chẳng hạn, sau khi giải được câu đố chữ của của phường hát Thịnh Lạc, Phan Bội

Châu đã được tán thưởng bằng câu thơ của phường bạn: “Văn hay thật thậm là giòn/

Son tàu bút thủy khuyên tròn mười khuyên” [114, tr.271]; hay nghệ nhân dân gian

khuyết danh: “Thế là ào ạt cả một trận cười khoái trá” [114, tr.244],…

- Tình tiết NVĐT tức tối, bỏ đi (36/182, chiếm tỉ lệ 19,8%)

Tình tiết này là phản ứng âm tính của NVĐT khi không thể giành chiến thắng

trong các cuộc hát, hoặc giả phải dừng cuộc hát lại vì bị xúc phạm (vi phạm điều cấm

kỵ như đã trình bày ở các phần trên). Về sự liên kết tình tiết, đây cũng là nguyên nhân

dẫn đến tình tiết bất phân thắng bại ở trên.

Qua khảo sát, chúng tôi ghi nhận có 36/182 trường hợp văn bản xuất hiện tình

124

tiết này. Đối tượng chủ yếu là các nghệ nhân dân gian, không thấy xuất hiện ở các nhà

nho tài tử. Chẳng hạn, các cuộc hát giữa Nhiêu Ngọ và o Tộ luôn diễn ra theo công

thức: “Rồi hai bên ấm ức ra về, để lần khác lại gặp nhau, lại làm lành với nhau, lại

cùng nhau đối đáp, rồi lại gây sự, tức tối, trả đũa,… để lại cho đời nhiều câu hát giặm

thú vị” (Nhiêu Ngọ và o Tộ) [114, tr.231]; hay anh Hạng rỗ sau lời hò châm chọc vào

ngoại hình: “Tóc ngắn rồi lại tóc dài/ Những phường mặt rỗ đá mài không trơn”, thì

anh đã: “cầm một hòn đá mà quẳng lên trời, thề một câu rất độc rồi thui thủi bỏ ra về

(Bà Cố Sĩ và Hạng rỗ) [114, tr.236],...

Tóm lại, kết cấu của nhóm giai thoại văn hóa dân gian về các cuộc hò đối đáp

trong sinh hoạt văn nghệ của quần chúng nhân dân và các nhà nho tài tử được tổ chức

xoay quanh motif hạt nhân là thách đố (về hò hát). Motif trên được triển khai qua các

tình tiết bộ phận như đã mô tả ở trên. Nhìn chung, kết cấu này đã làm nổi rõ các kiểu

nhân vật tiêu biểu của giai thoại văn hóa dân gian là nhân vật nghệ nhân dân gian,

nhân vật nhà nho tài tử và nhân vật nhà nho ẩn dật.

3.2. Nhân vật của giai thoại

Nhân vật là đối tượng khảo sát hàng đầu, chính nó chi phối cốt truyện, cách lựa

chọn hành vi, thái độ đánh giá của nhân dân. Nhân vật trong giai thoại phần lớn là

những nhân vật có thật, hoặc được tin là có thật (gắn với câu chuyện của nhân vật đó).

Chính sự nổi tiếng của nhân vật đã khiến cho câu chuyện được kể đến mang một lượng

thông tin hấp dẫn, thú vị, cuốn hút mạnh mẽ đối với người đọc, người nghe. Xung

quanh nhân vật có thực này, nhân dân có thể sáng tạo ra hàng loạt những câu chuyện

với các mục đích cụ thể là đề cao, tôn vinh (trí tuệ, tài năng, đạo đức,…) hoặc giải

thiêng, hạ bệ nhân vật. Đấy cũng là nguyên nhân tạo nên chùm giai thoại.

Bên cạnh đó, giai thoại còn có một bộ phận những nhân vật khuyết danh. Trong

hai công trình Kho tàng giai thoại văn học Việt Nam (2 tập) và Giai thoại folklore Việt

Nam, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh đã khái quát nên một số kiểu nhân vật đặc trưng

của giai thoại là: nhân vật trí thức, nhân vât mưu trí, nhân vật ngông, nhân vật dị

nhân, nhân vật đạo đức. Nhưng có một điều đáng lưu tâm là tác giả chưa đưa ra con số

thống kê cụ thể về các nhân vật ấy. Đó cũng là điều mà luận án sẽ bổ sung, nhằm mục

đích củng cố thêm nhận định trên, và qua đó xác lập sự hiện diện của các kiểu nhân vật

trong giai thoại.

Qua khảo sát 03 công trình tiêu biểu về giai thoại, chúng tôi thống kê được số

liệu về các kiểu nhân vật trong giai thoại như sau:

125

Bảng 3.9. Thống kê các kiểu nhân vật trong giai thoại Việt Nam

Kiểu nhân vật

Ngông Đạo đức Trí thức, trí xảo Nhà nho tài tử Nhà nho ẩn dật Số lượng văn bản

Công trình GTVHVN [65] 254

GTVHVN [67] 442

GTFLVN [91] 292

Tổng cộng 41 (16.1%) 64 (14.5%) 20 (6.8%) 125 (12.7%) 196 (77.2%) 314 (71%) 59 (20.2%) 569 (57.6%) 20 (7.9%) 33 (7.5%) 07 (2.4%) 60 (6%) 988 44 (17.3%) 39 (8.8%) 67 (22.9%) 150 (15.2%) Nghệ nhân dân gian, nghệ sĩ sân khấu 08 (3.1%) 11 (2.5%) 99 (33.9%) 118 (11.9%)

29 (11.4%) 78 (17.6%) 43 (14.7%) 150 (15.2%) Căn cứ vào kết quả thống kê trên, có thể thấy một số vấn đề:

- Trong giai thoại, kiểu nhân vật nổi trội nhất là nhân vật trí thức, trí xảo

((57.6%);

- Các kiểu nhân vật đạo đức, nhà nho ẩn dật đứng ở vị trí thứ 2 (cùng tỉ lệ

15.2%);

- Kiểu nhân vật ngông và nhà nho tài tử có tỉ lệ thấp nhất (lần lượt là 12.7% và

11.9%)

Trong tiểu loại giai thoại văn học, xuất hiện các kiểu nhân vật nổi bật là: nhân vật

trí thức, trí xảo và cả ngông nghênh. Họ đa phần đều xuất thân từ cửa Khổng sân

Trình, đều là những nhà khoa bảng, nhà nho tài năng, cá tính. Ở đây, chữ Trí của nhân

vật trong địa hạt văn chương là trung tâm của sự chú ý. Tài năng ấy thể hiện qua hai

tình huống cơ bản là: thách đố văn chương và ứng tác văn chương. Trên thực tế, các

nhân vật này cơ bản được xem là danh nhân văn hóa, đủ tầm phủ sóng qua mọi thời

đại, tiêu biểu cho văn hiến dân tộc.

Trong địa hạt sinh hóa văn hóa, văn nghệ dân gian, giai thoại văn hóa dân gian

tập trung sự chú ý vào các nghệ nhân, nhà nho tài tử nổi tiếng tham gia vào lĩnh vực

này. Chẳng hạn, nhóm giai thoại về các nhà nho tài tử như: Nguyễn Công Trứ, Nguyễn

Du, Phan Bội Châu, Tú Xương… không chỉ tô đậm tài năng ứng biến của các nhân vật

trong các cuộc hát xướng mà còn khai thác chuyện đời tư, tình yêu nam nữ của từng

nhân vật. Trong đó, trường hợp của Nguyễn Công Trứ là dồi dào, phong phú nhất.

Đối với các nhân vật nghệ nhân dân gian, giai thoại cũng xây dựng nhân vật ở

khía cạnh tài năng văn nghệ nhưng cũng đặc biệt khai thác câu chuyện đời tư (gia

126

cảnh, tình yêu, tính tình,…). Nhóm này tập trung nghệ nhân dân gian vùng miền khá

đa dạng. Chẳng hạn như cô Long, cô Nhẫn, Nhiêu Ngọ, o Tộ, Vũ Thị Nhẫn, Trần Hàn,

Bảy Tỏi,… Có một điều khá đặc biệt là giai thoại còn khéo léo “kéo” vào những câu

chuyện sinh hoạt sân khấu, tuồng, chèo những nhân vật đại diện cho vương quyền. Đó

là những ông hoàng, bà chúa, những ông quan đam mê hát xướng. Xung quanh các

giai thoại về các nghệ sĩ hài, các nghệ nhân đánh trống, đàn hát,… nổi tiếng (chẳng

hạn như: Nhưn Đá, Nhưn Nguyên, cậu Hai Hót, Tiêu Tán, Hứa Văn,…), ta thấy hình

bóng của các nhân vật lịch sử nổi tiếng như: Bà Từ Dụ, vua Tự Đức, vua Thành Thái,

vua Bảo Đại, vua Khải Định, Tả quân Lê Văn Duyệt, Nguyễn Thân,… Các nghệ nhân,

nghệ sĩ từ dân gian đã được đưa vào biên giới của nghệ thuật sân khấu cung đình. Điều

đó càng cho thấy sự hấp dẫn mãnh liệt của loại hình sinh hoạt văn hóa, văn nghệ này

cũng như khẳng định thêm tài năng của các nghệ sĩ.

Trong lĩnh vực lịch sử, tiểu loại giai thoại lịch sử cung cấp về những khía cạnh

đời tư của các nhân vật lịch sử. Họ là những người đại diện cho vương quyền như vua

chúa, phi tần, quan lại, tướng lĩnh; các sĩ phu yêu nước, nhà nho ẩn dật,… Các khía

cạnh được giai thoại xoáy sâu vào là tính tình, sở thích, tình yêu cá nhân, ứng xử của

nhân vật trước thời cuộc, ứng xử với bạn bè, gia đình,… Như vậy, các nhân vật của

giai thoại lịch sử chủ yếu được soi chiếu qua các khía cạnh riêng tư mà chính sử ít

hoặc không động chạm đến. Xu hướng chung khi đề cập đến các sự tích đều ít nhiều

được soi chiếu dưới lăng kính đạo đức cá nhân và đạo đức công dân theo quan niệm

Nho giáo. Nói khác đi, nhân vật trong giai thoại lịch sử thể hiện qua các khía cạnh

thuộc về hành trạng đời tư, cá nhân qua những câu chuyện mang tính chất rỉ tai, bên lề,

phi chính thống. Và mặt khác, các nhân vật ấy cũng được nhìn ngắm, đánh giá qua

lăng kính của ý thức hệ Nho giáo qua biểu hiện của chữ Đức trong ba mối quan hệ cơ

bản là: với quốc gia, với gia đình, với bạn bè.

Tóm lại, nhân vật trong giai thoại đều là những người nổi tiếng trong ba lĩnh vực

cơ bản là: văn học, lịch sử và văn hóa. Trong đó, giai thoại văn học và văn hóa dân

gian chú ý khắc họa nhân vật ở chữ Trí (văn chương, đối đáp), chữ Tính và chữ Tình,

giai thoại lịch sử xoáy sâu vào chữ Trí (thuyết khách, xử kiện) và Đức. Chung quy lại,

ta có thể đúc kết ra các kiểu nhân vật tiêu biểu của giai thoại là: nhân vật trí thức, trí

xảo; nhân vật ngông; nhân vật nghệ nhân dân gian; nhân vật nhà nho tài tử; nhân vật

nhà nho ẩn dật; nhân vật đạo đức.

Về nhân vật của giai thoại, một số tác giả đã phân tích. Qua 2 công trình Kho

tàng giai thoại Việt Nam (2 tập) và Giai thoại folklore Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh đã

127

khái quát, phân tích các kiểu nhân vật tiêu biểu của giai thoại là: nhân vật trí thức,

nhân vật ngông, nhân vật đạo đức, nhân vật dị nhân. Như vậy, rõ ràng, trong giai thoại

Việt Nam, vẫn còn một số kiểu nhân vật khác mà các nhà nghiên cứu đi trước chưa

thực sự chú ý, đó là: nhân vật nhà nho ẩn dật, nhân vật nhà nho tài tử, nhân vật nghệ

nhân dân gian. Do vậy, luận án cũng sẽ cố gắng bổ khuyết những điểm vừa nêu trên.

Để có cái nhìn toàn diện hơn, xin đi vào từng dạng nhân vật.

3.2.1. Nhân vật của giai thoại văn học

3.2.1.1. Nhân vật trí thức khoa bảng

Trên bình diện tâm lý xã hội, trong mối quan hệ giữa văn và võ, thì trong quan

niệm xã hội, quan văn được coi trọng hơn. Nói như GS Phan Ngọc: “Việt Nam chỉ có

một truyền thống là truyền thống trọng văn khinh võ. Tục ngữ có câu: “Quan văn thất

phẩm đã sang, Quan võ thất phẩm còn mang đai cờ”. Việt Nam không có đẳng cấp võ

sĩ, không có lớp người được gọi là hiệp khách, không có tầng lớp võ sĩ phục vụ các

vương hầu, hay làm hiệp khách giang hồ, không có dấu vết của học thuyết Mặc Tử”

[110, tr.291].

Truyền thống trọng văn ở đây chính là tâm lý xã hội điển hình trong một đất

nước mà trên bình diện thực tiễn, con người đã gắn chặt với văn chương từ thời thơ bé

cho đến lúc giã từ cuộc sống. Nó đã thấm vào huyết quản người Việt Nam từ lúc Nho

giáo trở thành nền quốc giáo, có sức mạnh thống ngự trên bình diện tinh thần của giai

cấp thống trị. Có thể nói, Học hành – Thi cử – Làm quan đã trở thành một con đường

tiến thân lý tưởng để kiếm danh và lợi. Nền giáo dục Nho giáo đã tạo ra được nhiều lợi

ích mà một trong những ích lợi hiển nhiên của nó là đã làm nảy sinh tinh thần hiếu học

của người Việt.

Mỗi nền giáo dục có những mục tiêu, triết lý giáo dục riêng. Với nền giáo dục

Nho giáo, mục tiêu của nó không gì khác hơn là đào tạo ra những con người trí thức

theo lý tưởng của Nho giáo. Triết lý giáo dục ấy có thể tóm tắt trong bốn chữ: Tu, tề,

trị, bình. Để thực hiện được mục tiêu giáo dục ấy, Nho giáo đã biên soạn một hệ thống

sách vở mang tính định hướng, khuôn khổ hóa con người trong những chuẩn mực cụ

thể về Tài cũng như Đức. Với một thực tế học tập bài bản và nặng về sách vở như vậy,

nên ta không có gì phải ngạc nhiên khi bắt gặp trong giai thoại văn học xuất hiện hàng

loạt các câu đối (chữ Hán, chữ Nôm), các bài thơ, bài phú được hoàn thành trong

khoảnh khắc (trong các tình huống thách đố, ứng biến văn chương). Và quan trọng hơn

là các kiến thức chữ nghĩa (điển tích, điển cố, lịch sử,…) được rút ra từ các sách kinh

điển của Nho giáo (Luận ngữ, Mạnh Tử, Trung dung, Hán thư,…). Đối với chúng ta

128

ngày nay, điều này hiển nhiên cao siêu, uyên bác, có phần vượt quá trí hiểu nhưng đối

với những nhà nho, sĩ tử xưa, đó đơn thuần chỉ là một tình huống mang tính thực hành

nhằm kiểm duyệt và khẳng định đẳng cấp.

Nhân vật trí thức được chúng tôi hiểu như là những người có tài năng văn

chương trác việt, thông kim bác cổ, có trí nhớ siêu phàm, có khả năng ứng xử tình

huống bất ngờ một cách khéo léo, nhạy bén bằng thơ văn,… Với tính chất như vậy,

kiểu nhân vật này xuất hiện với tần số cao trong tiểu loại giai thoại văn học. Trong giai

thoại văn học, hầu hết nhân vật trí thức là những nhà khoa bảng, nhà văn, nhà thơ lớn,

có cá tính. Dù trong hoàn cảnh nào, các nhân vật cũng thể hiện được tài năng văn

chương bác học của mình qua thơ văn, câu đối. Các nhân vật trí thức thường là các

ông Thám, ông Trạng, ông Nghè, ông Cống,… Nếu không là Trạng chính thống, thì

cũng phải là Trạng dân phong. Chung quy lại, họ là những đại diện ưu tú của hệ tư

tưởng Nho giáo, của nền Hán học.

Ở khía cạnh xu hướng phản ánh hình tượng, có thể tạm chia kiểu nhân vật trí

thức trong giai thoại thành hai loại: nhân vật trí thức siêu phàm (lý tưởng hóa) và nhân

vật trí thức phàm tục (giải thiêng hóa).

* Nhân vật trí thức siêu phàm (lý tưởng hóa)

Để xây dựng nên nhân vật trí thức siêu phàm, hoàn hảo ở mọi khía cạnh, giai

thoại đã triển khai một số công thức tiêu biểu là: trí nhớ siêu phàm, tuổi trẻ tài cao, tài

năng ứng biến, kiến thức uyên thâm,… Trong kết cấu, các tình tiết trên xuất hiện ở

phần mở đầu (giới thiệu tài năng, đặc điểm nhân vật) hoặc ở phần diễn biến (nhấn

mạnh vào sự giải đố của nhân vật qua đó bộc lộ tài năng trong huống cảnh cụ thể).

Về trí nhớ hơn người của các nhân vật, hệ thống giai thoại chủ yếu vận dụng thủ

pháp khoa trương, phóng đại để xây dựng. Tuy nhiên, số lượng những truyện này

chiếm tần số không đáng kể trong hệ thống giai thoại. Trí nhớ siêu phàm của các nhân

vật trí thức đều gắn liền với khả năng ghi nhớ chữ nghĩa của các bậc đại khoa, không

thấy trong các giai thoại văn học khuyết danh. Qua khảo các công trình về giai thoại,

chúng tôi có được kết quả về tình tiết trí nhớ siêu phàm như sau:

- Quyển Giai thoại văn học Việt Nam [65] có 02/254 giai thoại: Trạng nguyên về

học lễ (Nguyễn Hiền); Chiêu Bảy và cô Cúc (Nguyễn Du);

- Quyển Giai thoại văn học Việt Nam [67] có 05/442 giai thoại: Trạng nguyên về

học lễ (Nguyễn Hiền); Trả sách không mua (Nguyễn Đăng Cảo); Chép văn tự cháy

(Lê Quý Đôn); Vừa đánh cờ vừa làm thơ (Vũ Phạm Hàm); Đứa trẻ kỳ lạ (Kỳ Đồng).

- Giai thoại làng Nho: có 03/90 giai thoại đề cập đến nhân vật là Đinh Nhật

129

Thận, Vũ Duy Thanh, Lê Viết Vị.

Xin dẫn ra đây trường hợp của Nguyễn Hiền và Lê Quý Đôn. Trạng nguyên

Nguyễn Hiền nổi tiếng là thần đồng ngay từ lúc nhỏ. Ông được biết đến như người có

trí nhớ siêu việt. Giai thoại Trạng nguyên về học lễ viết như sau: “Hiền rất thông

minh, lúc sáu, bảy tuổi theo học một nhà sư ở chùa làng, mỗi ngày sư cho đọc hai

mươi trang sách, Hiền chỉ đọc qua là thuộc” [65, tr.71]. Hai nhân vật Lê Quý Đôn và

Nguyễn Đăng Cảo thì được biết đến với tài năng tái hiện không chỉ vài chục trang sách

mà là cả cuốn văn tự hay cả một pho sách khổng lồ sau khi đọc qua nó. Giai thoại

Chép lại văn tự cháy [65, tr.201 – 202], đã đề cập đến hai tình tiết đề cao phẩm chất

mẫn tiệp, trí nhớ siêu phàm của nhà bác học Lê Quý Đôn. Tình huống thứ nhất là khi

phú ông chẳng may gặp sự cố cháy nhà, toàn bộ văn tự ghi nợ đều bị cháy tiêu tan hết.

Nhiều con nợ đã lợi dụng dịp may hiếm có này để khước nợ. Việc thưa kiện được phú

ông gửi đến Ngự sử đài. Lúc bấy giờ, Lê Quý Đôn đang giữ chức Đô ngự sử và ông

vẫn nhớ rõ thời niên thiếu (cách đó ba bốn mươi năm), mình đã có dịp xem qua bản

văn tự ấy trong một lần đến chơi nhà. Thế là liền một mạch, họ Lê đọc cho học trò

chép lại toàn bộ số văn tự, không sai chỗ nào! Tình huống thứ hai xảy đến như một hệ

quả nhằm tô đậm thêm phẩm tính ghi nhớ hơn người của nhân vật: “Rồi sự việc truyền

đến tai chúa Trịnh. Chúa bèn sai người đưa cho Lê Quý Đôn một cuốn quan lịch (lịch

chính thức của nhà nước) bảo ông đọc thử một lượt, rồi hỏi ông xem có nhớ được

không. Ông liền cất giọng đọc lại ngay trước mặt chúa không sót một chữ. Chúa ngạc

nhiên cho là trí nhớ kỳ lạ xưa nay chưa hề thấy” [65, tr.202].

Tình tiết trí nhớ siêu phàm của nhân vật trí thức được thiết lập dựa trên biện pháp

phóng đại, khoa trương. Ở đây các nhân vật được đặt vào tình huống thử thách là phải

tái hiện lại một bài thơ hay thậm chí là thật nhiều quyển sách khác nhau. Cố nhiên,

không phải bất cứ nhân vật trí thức nào cũng đều có những câu chuyện về tình tiết phi

thường này. Như vậy, đối với nhân dân, các bậc đại khoa không chỉ có kiến thức hơn

người mà còn là thiên tài nghìn năm có một. Và để khắc họa cái phi thường đó, nhân

dân đã sáng tạo ra tình tiết vận dụng trí nhớ như một phương thức thể hiện.

Về tình tiết tuổi trẻ tài cao, qua khảo sát các công trình về giai thoại, chúng tôi

có được kết quả như sau:

- Quyển Giai thoại văn học Việt Nam [65]: có 27/254 giai thoại (tỉ lệ 10,6%)

- Quyển Giai thoại văn học Việt Nam [67]: có 45/442 giai thoại (10,2%)

- Quyển Giai thoại làng Nho [34] có 04/90 giai thoại đề cập đến các nhân vật là:

Lương Thế Vinh, Đồng Khánh, Hoàng Hồ, Lê Sĩ Nghị.

130

Xin dẫn ra đây một số dẫn chứng minh họa: Hồ Tông Thốc “thuở nhỏ đã nổi

tiếng thơ hay, một lúc có thể làm cả trăm bài thơ” [65, tr.91]; Lương Hữu Khánh: “10

tuổi đã biết làm thơ văn” [65, tr.124]; Nguyễn Giản Thanh: “lúc nhỏ học rất thông

minh, 16 tuổi đã thông hiểu rất nhiều sách vở” [65, tr.118]; Lê Quý Đôn: “Từ thuở

nhỏ, đã nổi tiếng thần đồng, 14 tuổi đã học hết Tứ thư, Ngũ kinh, sử, truyện và đọc

đến cả bách gia, chư tử, một ngày có thể làm xong 10 bài phú” [65, tr.47]; Trạng

Quỳnh: “16 tuổi đã đỗ Hương cống” [65, tr.59]; Phan Văn Trị: “lúc thi đỗ mới 12

tuổi, văn chương lừng lẫy một thời” [65, tr.252]; Tú Xương; “lúc nhỏ học rất thông

minh, khi lên 10 tuổi đã nổi tiếng về tài ứng đối” [65, tr.305]; Nguyễn Thượng Hiền:

“18 tuổi đỗ Cử nhân, 28 tuổi đỗ Hoàng giáp, nổi tiếng văn chương xuất sắc” [65,

tr.334]; Phan Bội Châu: “thuở nhỏ ông theo học chữ Hán, rất thông minh, khoảng 8, 9

tuổi đã làm được những bài văn ngắn và thường dự các cuộc thi ở phủ, huyện” [65,

tr.339],…

Nhưng có thể nói trong hệ thống giai thoại văn học, sự đề cao tài trí của người trí

thức qua các tình tiết thách đố văn chương, ứng tác văn chương mới là điểm nhấn

quan trọng tạo nên kịch tính cho câu chuyện. Sự ưu thắng của các nhân vật khoa bảng

nổi tiếng đã gián tiếp nói lên tư duy đề cao trí tuệ và tài năng của họ. Về điểm này,

luận án đã tiến hành bóc tách mô tả tình tiết ở phần trước. Ở trên là xu hướng đề cao

các nhà khoa bảng nổi tiếng trong lịch sử dân tộc. Trên góc độ khái quát, có thể nhận

thấy, đề cao, ca ngợi nhân vật trí thức là biểu hiện của tư duy sùng bái chữ nghĩa, sùng

bái văn chương trong tâm thức Việt.

* Nhân vật trí thức phàm tục

Ngoài xu hướng đề cao phẩm tính thông minh, trí tuệ của các nhân vật khoa

bảng, trong giai thoại còn có xu hướng giải thiêng hóa nhân vật khoa bảng. Nói một

cách khái quát, nếu xu hướng tuyệt đối hóa nhân vật trí thức được khúc xạ qua lăng

kính tài năng (chữ Trí), thì xu hướng giải thiêng lại thiên về chữ Đức. Trong trường

hợp này, tài năng của các nhân vật là điều không ai phủ nhận, nhưng tác giả của

giai thoại muốn cung cấp thêm cho chúng ta cái nhìn ở góc độ khác để đánh giá tài

năng ấy.

Để chuyển tải mục đích giải thiêng nhân vật khoa bảng, sự vận động của cốt

truyện thường vận hành theo công thức: tình huống thử thách → NVC không giải đáp

được câu đố văn chương → NVC thán phục → từ bỏ/ giảm bớt tính tự phụ. Trong đó,

nhân vật đưa ra tình huống thử thách đối với NVC và NVC thất bại. Chính lúc này, họ

cần đến sự hỗ trợ, thường là cao nhân. Trong công trình Từ điển type truyện dân gian

131

Việt Nam, trong mục viết về type và motif của giai thoại, tác giả Bùi Thị Thiên Thai đã

định danh tình tiết này là “gặp được cao nhân” [74, tr.46]. Khảo sát kho tàng giai

thoại, chúng tôi thống kê tình tiết giải thiêng nhân vật khoa bảng xuất hiện trong 04

văn bản: Câu đố chữ nhất, Cái cò lặn lội bờ sông (Lê Quý Đôn), Không biết chữ chi

(Cao Bá Quát) và Làm văn khuyên chồng (Nguyễn Kiều). Về sự giải thiêng này, ở các

phần trước của luận án, chúng tôi cũng đã có dịp điểm qua nên không nhắc lại ở đây.

Nếu soi chiếu vấn đề dưới lăng kính thẩm mỹ của nhân dân, chúng ta sẽ thấy

rằng xu hướng thực tế hóa nhân vật nhà nho, nhà khoa bảng nổi tiếng trong giai thoại

văn học tuân theo quy luật sáng tạo của folklore nói chung. Đây là hai mặt của một

vấn đề mà nhà nghiên cứu Guxev đã từng đề cập đến trong công trình Mỹ học folklore:

“Sự cổ quái về cơ thể ở những nhân vật này kết hợp với phẩm chất đạo đức ghê tởm –

sự bội bạc, thói phản trắc, tính tham lam, tính khoác lác, kiêu ngạo, thói tham ăn, dâm

đãng,… tức là đối lập với những quan niệm về cái cao nhã chúng gây ra quan niệm về

cái thấp kém. Như vậy, cái xấu trong folklore bổ sung bằng nhiều cách khác nhau do

quan niệm về cái đẹp và tạo thành sự tương phản đối với cái đẹp có những chức năng

khác nhau tùy theo nó có liên quan với nhân vật tích cực hay tiêu cực với quan niệm

về cái cao nhã hay quan niệm về cái thấp kém” [51, tr.512]. Đấy là lý do vì sao nhân

vật có tính hai mặt dưới cái nhìn của dân gian.

3.2.1.2. Nhân vật ngông

Trước khi đi vào tìm hiểu những cơ sở lịch sử, xã hội góp phần hình thành kiểu

nhân vật ngông trong giai thoại, cần thiết điểm qua vài nét về nền tảng triết học có ảnh

hưởng nhất định đến biểu hiện của tính cách ngông của các nhà thơ trung đại Việt

Nam nói chung. Trong bài viết Trang Tử - Ông tổ ngông trong văn học, GS Trần Đình

Sử đã chỉ ra được bản chất cái ngông trong các giai thoại liên quan đến Trang Tử và

ông nhận xét như sau: “Người ngông đối lập với đám người trung dung, thuận theo lề

thói một cách ngoan ngoãn. Người trung dung hay phụ họa theo quần thể, phủ nhận tự

do cá nhân, người ngông chạy theo cá tính tự do, thích cực đoan. Người trung dung tự

rèn luyện để thành tôi trung con hiếu, nghĩa phu tiết phụ, nhưng cũng tạo ra những kẻ

a dua, nói theo giả dối. Người ngông coi khinh lễ, phép, ghét tục, ngạo đời, nói năng

ngang tàng. Trong thực tế người ngông là kẻ đã làm tan rã các phép tắc giả tạo trói

buộc con người, mở ra một luồng gió mát giàu sinh khí” [37, tr.812].

Khía cạnh ngông trong tính cách mỗi con người có thể được xem như bản ngã.

Tuy nhiên, những tôn giáo lớn ở phương Đông thời trung đại đã cho thấy sự tiết chế

đối với cá tính con người. Bởi lẽ, cả Nho, Đạo và Phật giáo đều chủ trương phá ngã,

132

vô ngã, vô kỷ nhưng không hề triệt tiêu một cách tuyệt đối. Tính cách ngông, xét trong

mối quan hệ nội tại với chủ thể, chính là biểu hiện của con người cá nhân, cá thể hóa.

Tuy nhiên, con người cá nhân trong xã hội phong kiến chịu sự quy định khắt khe của

lễ giáo, cho nên cũng không thoát khỏi được những ràng buộc nhất định. Đối với các

nhà văn, nhà thơ trung đại, vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, thì sự ràng buộc

này càng thể hiện rõ hơn trong nhân sinh quan của họ.

Do vậy, trong thực tiễn, để xuất xử hợp với chuẩn mực vô ngã, con người thời

trung đại chỉ có hai cách lựa chọn: sống đúng theo chuẩn mực ấy hoặc phá cách để

khẳng định cái tôi cá nhân, cá tính. Trường hợp thứ hai chính là nguồn cội sản sinh ra

nhân vật ngông trong văn chương nói chung và giai thoại nói riêng. Trên đây là những

nét khái quát về cơ sở triết học dẫn tới sự hình thành con người cá nhân và tính cách

ngông, phá cách trong tư tưởng, văn chương cũng như hành trạng của các nhân vật là

nhà thơ ở thời trung đại. Đến đây, chúng ta sẽ điểm qua vài nét về cơ sở lịch sử, xã hội

– tức là những lát cắt của thực tại – mà từ cái nền ấy, kiểu nhân vật ngông của giai

thoại được sản sinh và biểu hiện.

Đúng như nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu, sự ngông nghênh phá cách của các

nhân vật văn thi sĩ chỉ xuất hiện trong thời đại suy vi của ý thức hệ Nho giáo. Thực

tiễn xã hội lúc đó là sự đối lập không thể dàn hòa giữa một bên là lý thuyết tốt đẹp,

chuẩn mực với một bên là trực quan sinh động – sân khấu phô diễn chân thật của

những thói hư tật xấu của chính giai cấp, tầng lớp đại diện cho ý thức hệ đó. Nói một

cách cụ thể, đó là Nho giáo phong kiến Việt Nam từ cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn trở

về sau. Từ cuối thời Lê, triều đình đã ban hành nhiều chính sách đi ngược lại truyền

thống trước đó. Những sĩ tử tham gia khoa cử nếu muốn vượt qua vòng sơ khảo thì

phải đóng ba quan. Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử gọi đó là “sinh đồ ba quan”. Điều

này đã làm cho những người thực sự tài năng tỏ ra ngán ngẫm. Đó là chưa kể đến sự

tha hóa, băng hoại đạo đức của các vị mà nhân dân tôn kính gọi là thầy: thầy tu, thầy

đồ, thầy lang, thầy địa lý,… đang trở nên ngày càng kệch cỡm. Chúng ta bắt gặp trong

giai thoại hàng loạt cuộc chiến văn chương giữa các nhà nho như Nguyễn Khuyến,

Nguyễn Công Trứ với các ông sư (tham ăn thịt chó, quan hệ nam nữ bất chính, kiêu

ngạo,…). Trong thời kỳ Pháp bắt đầu đặt nền thống trị ở nước ta, hàng loạt nhà nho

chống đối lại bọn tay sai cho chúng bằng hàng loạt các giai thoại đậm chất văn chương

nhưng cũng sâu sắc về cá tính ngông. Đó là các giai thoại về Nguyễn Khuyến với

Hoàng Cao Khải ở miền Bắc; Nhiêu Tâm, Học Lạc, Phan Văn Trị,… với các tay sai,

hương chức của Pháp và phong kiến ở Nam Bộ.

133

Tóm lại, nền tảng triết học về quan niệm con người tự do, cá nhân của Trang Tử

đã ảnh hướng rất lớn đến hệ tư tưởng của các nhà nho Việt Nam thời trung đại. Ý thức

hệ này cùng với thực tiễn ảm đạm của thời đại từ cuối Lê, đầu Nguyễn về sau đã trở

thành môi trường lý tưởng cho cái tôi ngông nghênh của các nhà nho có dịp biểu hiện

một cách sinh động, nhiều chiều kích. Nó hoàn toàn khác với con người cá nhân trong

văn học ở giai đoạn trước.

Có thể nói, nhân vật ngông là kiểu nhân vật đặc trưng nhất của giai thoại ở khía

cạnh cá tính hóa. Ngông ở đây được hiểu theo nghĩa nét tính cách phóng khoáng, hồn

nhiên, góc cạnh, vượt ra khỏi khuôn khổ của giáo lý. Kiểu nhân vật này thường được

xây dựng qua những hành động thể hiện tính cách ngang tàng, phóng khoáng (ít nhiều

có sự cường điệu) và đôi khi trở thành vũ khí để đấu tranh, đối chọi lại những quy củ

của ý thức hệ phong kiến. Họ là sản phẩm của ý thức hệ Nho giáo, nhưng trong nhiều

trường hợp, chính họ lại tỏ ra khinh thường, đấu tranh chống lại những hủ lậu, méo mó

của nó. Điều này đặc biệt có ý nghĩa thiết thực trong những giai đoạn, thời kỳ đánh

dấu sự suy vong, xuống dốc của đạo Nho. Và điều đó không chỉ đơn thuần là chiếc áo

khoác lên hành trạng, tài sản riêng của nhân vật mà còn mang cả tâm lý chung của

cộng đồng. “Nếu là nữ thì nên như Hồ Xuân Hương sẵn sàng thách đố, nếu là nam thì

có thể ngất ngưởng như Nguyễn Công Trứ, ngang tàng như Cao Bá Quát, tinh quái

nghịch ngợm như Trạng Quỳnh, mà cũng có thể phá phách, thích chơi kiểu Ba Giai,

Tú Xuất” [91, tr.60].

Qua khảo sát các tuyển tập, chúng tôi thu được kết quả như sau:

- Quyển Giai thoại văn học Việt Nam [67] có 8/125 giai thoại

- Quyển Giai thoại văn học Việt Nam [65] có 15/123 giai thoại

- Quyển Giai thoại folklore Việt Nam [91] có 01 giai thoại

- Quyển Giai thoại làng Nho [34] có 8/55 giai thoại

Như vậy, kiểu nhân vật ngông được xây dựng với mục đích cá tính hóa, cá thể

hóa, trong đó, mức độ cá tính hóa càng rõ bao nhiêu, nhân vật sẽ trở nên giàu sức sống

bấy nhiêu.

Sau đây là biểu hiện cơ bản thể hiện cá tính ngông của nhân vật trong giai thoại:

* Nhân vật ngông thể hiện cá tính, tài năng, chính kiến trước cuộc đời

Trong giai thoại, sự ngông nghênh của nhân vật trước hết xuất phát từ ý thức tài

năng bản thân. Ý thức về tài năng dẫn đến những ứng xử khác người, vượt ra khỏi

khuôn khổ của cương thường, đạo lý Thánh hiền và từ đó trở thành những biểu tượng

văn hóa. Những câu chuyện xoay quanh Nguyễn Đăng Cảo, Nguyễn Công Trứ, Hồ

134

Xuân Hương, Cao Bá Quát,… hầu hết đều xoay quanh cái ngông này. Nhưng khi đi

vào từng trường hợp cụ thể, sự ngông nghênh ấy lại được cá tính hóa, tức là gắn liền

với từng cá nhân cụ thể, vừa mang nét chung, vừa có những nét riêng, làm nên tên tuổi

nhân vật.

Nguyễn Đăng Cảo là một trong các bậc đại sĩ có tài năng hơn người và gắn với

tài năng ấy là một cá tính ngông khác người. Vì ngông nghênh mà ông chỉ chào chứ

không quỳ lại bọn quan lại trường thi. Cũng vì tính ngông mà ông bị đánh từ giải

nguyên xuống hàng thứ ba (thám hoa). Thú vui lớn nhất đời ông là thú ăn thịt chó và

uống rượu. Điều đặc biệt là ông làm điều đó cả khi lâm triều, khiến ai nấy đều sửng

sốt. Ông cáo quan về sống đời tự do nhưng vẫn ra giúp triều đình nhà Lê mỗi khi sứ

thần nhà Thanh đem sang những câu đố nhằm thử thách nhân tài nước ta. Thú vui đó

còn được dệt thành những mẩu chuyện ly kỳ khác. Ví dụ, như giai thoại Thám Cảo tu

tiên. Tương truyền, khi đã cáo quan, ông thường uống rượu và ngao du trên núi Tiên

Du (Bắc Ninh). Trong lần nọ, ông gặp được một đạo nhân có phép thuật siêu phàm,

liền xin được đi theo ông để tu tiên. Tuy nhiên, ước nguyện đó không bao giờ thành sự

thật bởi thú vui trần thế (thịt chó và rượu) là lớn hơn so với khát vọng tinh thần.

Nguyễn Công Trứ phản bác, chống chọi trước những điều bất công, nghịch lý

trong xã hội, từ những người bạn văn chương đến các ông sư, thói đời đen bạc, đổi

thay,… Các giai thoại Đối đáp với sư, Vịnh cây vông, Che miệng thế gian,… là những

minh chứng sống động nhất cho tính cách ngang tàng, bất chấp khuôn khổ của ông.

Những ứng xử của nhà nho Nguyễn Công Trứ khi còn thanh niên cũng như lúc về già

đều vượt lên mọi cương thường, đạo lý Thánh hiền. Điều cốt lõi nhất trong tính cách

ngông của Nguyễn Công Trứ là ông dùng nó để không chỉ khẳng định cá tính mà còn

để đối lập lại những khuôn mẫu chuẩn mực theo quan niệm của xã hội phong kiến

đương thời vốn đầy rẫy những kẻ bất tài vô hạnh. Bởi trong con mắt của nhà nho tài tử

này, không ai trong hệ thống đó có thể sánh ngang với ông. Tiêu biểu có thể kể đến là

giai thoại Che miệng thế gian. Ông đã dùng tấm mo cau che lại “cái ấy” của con bò

cái, đúng hơn là để che lại “miệng thế gian”. Hành xử ấy có thể nói là vô tiền khoáng

hậu, trở thành một biểu tượng cho các nhà nho thế hệ sau nối tiếp (Cao Bá Quát, Tú

Xương, Tản Đà,…).

* Nhân vật ngông để chống lại vương quyền, thần quyền

Nhìn chung, mỗi nhân vật đều có xu hướng thể hiện tính cách ngông theo một

cách thức riêng, qua đó đánh dấu cá tính. Đối tượng yêu thích của Hồ Xuân Hương

thường là bọn nho sĩ dốt nát, hãnh tiến, háo sắc và cả vua quan triều Nguyễn. Nguyễn

135

Công Trứ thì ưa thích chống đối, hạ bệ tham quan, những kẻ nịnh hót nhưng suy cho

cùng ông cũng là người thông minh khi biết dừng lại ở những lằn ranh mỏng manh để

bản thân không phải hứng chịu những hậu quả khôn lường của hành động chống đối.

Họ Nguyễn dù chống hệ thống quan lại đương thời nhưng chưa bao giờ dám đứng ra

hạ bệ nhà vua – kẻ đứng đầu của hệ thống đó. Ở Nguyễn Công Trứ, có chống đối với

sự suy vi đạo đức nhưng suy cho cùng vẫn có sự thỏa hiệp ngầm, sự bằng lòng để

được an phận.

Đối với Trạng Quỳnh và nhất là Cao Bá Quát thì gần như không có giới hạn. Ở

đây, vua chúa đều trở thành đối tượng đả kích, châm biếm của cả hai ông. Do vậy, cái

ngông của họ không chỉ đơn thuần là sự chống đối mà còn là sự nổi loạn, phá bỏ quy

chuẩn đạo quân thần – một trong ba mối quan hệ quan trọng trong ý thức hệ Nho giáo

phong kiến. Ở hai nhân vật này, nhân dân nhìn thấy tầm đón đợi của mình được thỏa

mãn. Đó hoàn toàn là một thông điệp văn hóa, một sự giải ảo đạo đức Nho giáo phong

kiến trong hành trình suy vi của nó qua lăng kính của giai thoại. Các nhân vật nhà nho

trí thức trong giai thoại cũng thể hiện tinh thần đấu tranh chống lại thần quyền, tức thế

lực thần thánh của các tôn giáo khác. Sự đấu tranh này hiển nhiên là biểu hiện của tinh

thần độc tôn Nho giáo – xem Nho giáo cao hơn những tôn giáo còn lại. Sự độc tôn này

bắt đầu từ thời Lê trở về sau. Nho giáo là trung tâm văn hóa, còn những tôn giáo khác

(Phật giáo, Đạo giáo) là ngoại biên văn hóa, mang tính dị đoan, đáng lên án, phê phán.

Trong giai thoại văn học, sự đả kích, phê phán thần quyền thể hiện một cách tập trung

và rõ nét qua tình tiết ngâm thơ cự thần mà ở các phần trên, luận án đã đề cập, phân

tích.

3.2.2. Nhân vật của giai thoại văn hóa dân gian

3.2.2.1. Nhân vật nghệ nhân dân gian

Về nguồn gốc sinh thành kiểu nhân vật nghệ nhân dân gian, nhà nghiên cứu Vũ

Ngọc Khánh cũng từng bàn tới. Ông cho rằng, chính hình thức sinh hoạt cộng đồng

nơi làng xã là môi trường lý tưởng làm hình thành, phát triển các loại hình sinh hoạt

văn hóa, văn nghệ dân gian (như hát ả đào, ví dặm, hò khoan,...), nói rõ hơn đó là văn

hóa làng của người Việt.

Nếu nhìn nhận vấn đề dưới góc độ thái độ thẩm mỹ của nhân dân đối với thực tế,

ta sẽ thấy rằng những hình thức hò khoan, hò giã gạo, hát ví, hát phường vải,… được

phản ánh trong giai thoại văn hóa, văn nghệ dân gian có liên quan mật thiết đến chức

năng thực hành của folklore nói chung. Bởi lẽ, “không thể quan niệm được folklore

sống ở ngoài sinh hoạt, ngoài phong tục, tập quán, nó kèm theo những loại hoạt động,

136

nó lồng vào những hội lễ trong gia đình và ngoài xã hội. Đây là nghệ thuật tồn tại

trong sinh hoạt. Trong những thể loại có liên quan trực tiếp với lễ tục, với những

phong tục, hội hè, lễ lạc có truyền thống, tính chất thực hành của folklore biểu hiện

trực tiếp (…). Nhưng ngay trong những thể loại tồn tại không phụ thuộc vào lịch tiết,

không bị quy bởi lễ tục, tập quán thì folklore vẫn liên hệ với sinh hoạt hằng ngày, với

những thời điểm nhất định trong đời sống nhân dân” [51, tr.492].

Về vấn đề này, có thể tham khảo thêm các hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian

ở nước Nga. Guxev có nhận xét quan trọng rằng các hình thức ấy được tạo dựng trên

cơ sở xu hướng lý tưởng hóa hoạt động lao động của nhân dân. Đối với trường hợp

sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân trong giai thoại văn hóa ở nước ta, chúng tôi nghĩ

rằng cũng nằm trong quy luật sáng tạo chung ấy. Tức là, những hình thức hò hát, sinh

hoạt văn nghệ này thoạt đầu bắt nguồn từ những nhu cầu thiết yếu của con người, với

mục đích thiết thực là giải tỏa bớt những áp lực nặng nề từ lao động chân tay (trong

mối quan hệ với môi trường tự nhiên nhằm đảm bảo sự sinh tồn).

Tuy nhiên, mục đích ấy dần được thay thế bởi nhu cầu cao hơn, chuyển từ mối

quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên sang môi trường xã hội. Trong đó, sự

tương tác giữa người với người không chỉ đơn thuần là nhằm thỏa mãn sự giải trí mà

còn có chức năng cao hơn là thỏa mãn nhu cầu tinh thần khác như: tình cảm cá nhân

(tình yêu đôi lứa), trau dồi kỹ năng thực hành văn nghệ. Đến thời Pháp thuộc, các cuộc

hát không chỉ đơn thuần mang màu sắc tình cảm cá nhân mà còn dung chứa cả những

tâm tư về thời cuộc, vận nước đảo điên, kêu gọi lòng yêu nước, bày tỏ chí hướng cứu

dân cứu nước,... Đây cũng chính là tính chất thời sự hóa của sinh hoạt văn nghệ dân

gian được phản ánh, khúc xạ qua giai thoại văn hóa dân gian.

Do đó, có thể nói, trên cái nền chung là sinh hoạt văn hóa mang tính chất tập thể

của cộng đồng, nhu cầu cá nhân của từng người đã len lỏi vào và từng bước được cá

tính hóa. Chẳng hạn, những màn đối đáp, ứng biến tình huống của các nghệ nhân như

cô Nhẫn, cô Long, cô Vân, Trần Hàn, O Tộ, Nhiêu Ngọ… với các NVĐT dù được

phát sinh trên bối cảnh chung là khung cảnh lao động, sinh hoạt thường ngày nhưng đã

được cá tính hóa, trở thành những câu chuyện mang tính chất riêng tư, cá thể của họ.

Trong công trình Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, GS Đinh Gia Khánh đã

có những đúc kết đáng chú ý về những hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian trong

cộng đồng người Việt. Theo sự phân loại của tác giả, các loại hình sinh hoạt văn hóa

dân gian dù đa dạng đến đâu thì cũng có thể phân chia thành hai nhóm tách biệt. Đó là

sinh hoạt văn hóa dân gian của “thời điểm mạnh”, tức là những hình thức mang tính

137

chất nghiêm túc mà cộng đồng quy định như: hội mùa (gắn với sản xuất), hội lễ (gắn

với thờ cúng vật tổ hoặc anh hùng văn hóa), lễ tiết (gắn với tôn giáo như Phật, Đạo

giáo…). Ngoài ra, còn có hình thức sinh hoạt văn hóa gắn liền với tính chất tự phát,

nảy sinh một cách trực tiếp từ trong sinh hoạt, sản xuất của nhân dân. Tác giả gọi đây

là những hình thức sinh hoạt văn hóa không chuyên, nằm ở tình thế đối lập với những

sáng tác chuyên nghiệp, được tiến hành có tổ chức, quy củ trong những thời điểm

mạnh.

Xét trong tiến trình của lịch sử, trải qua các triều đại phong kiến Việt Nam, các

loại hình sinh hoạt văn nghệ dân gian nói chung, có mối quan hệ mật thiết với triều đại

phong kiến, nghĩa là có sự xâm nhập, chuyển hóa, quy định, ảnh hưởng lẫn nhau giữa

chất dân gian và chất bác học, cung đình. Trong công trình Văn học dân gian Việt

Nam, ở mục phân tích Sự phát triển của văn học dân gian trong lịch sử, GS Đinh Gia

Khánh đã có những nhận xét đáng lưu ý về sự phát triển trong cái nhìn lịch sử của các

loại hình văn hóa, văn nghệ dân gian ở Việt Nam. Theo đó, vào thời Đinh Tiên Hoàng,

việc sử dụng ca hát dân gian để cổ động tinh thần của quân đội đã được vua quan tâm.

Bằng chứng là vua Đinh đã cho dạy hát chèo trong quân đội. Vua Lê Đại Hành cho

tiếp đón sứ nhà Tống là Tống Cảo bằng các điệu ca múa lạ mắt trong buổi đại yến. Các

vua nhà Lý, Trần như Lý Thánh Tông, Trần Thánh Tông cũng trực tiếp múa hát góp

vui trong các yến tiệc mà họ là người có vai trò cao nhất.

Có một điều đáng lưu ý là, chỉ sau đời vua Lê Thánh Tông, thì múa hát cung đình

mới tách biệt hẳn với múa hát dân gian, còn trước đó, múa hát cung đình vẫn pha trộn

với múa hát của quần chúng nhân dân. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ X đến XV,

các loại hình dân ca nghề nghiệp như: hát phường vải, hát phường củi, hát phường

nón, hát phường cấy, hát phường mộc,… đã ra đời và phát triển mạnh mẽ trong nhân

dân, gắn liền với thực tiễn lao động và đời sống tinh thần phong phú của người lao

động. Tuy nhiên, trong xã hội phong kiến, loại hình văn nghệ dân gian không phải lúc

nào cũng được các vua chúa yêu mến. Nho giáo nhìn những người hành nghề ca hát

với con mắt coi thường, khinh miệt nhiều hơn là trân trọng. Nói về điều này, GS Trần

Đình Hượu viết : "Thế nhưng nhạc được vua chúa thích chứ không quý trọng (…).

Nghệ thuật không còn chức năng giáo hóa đạo đức thì cũng mất đi vị trí xã hội mà

triều đình phong kiến dành cho văn học. Nhà vua khinh miệt coi nghệ sĩ là dạng thằng

hề mua vui thì xã hội cũng coi đó là hạng xướng ca vô loài" [79, tr.44]. Trong thời vua

Lê Thánh Tông, khi ban hành nhị thập tứ điều thì nhà vua cũng chỉ ra rõ việc cấm học

hát xướng ở thôn quê (Xin xem Phụ lục 4). Thậm chí theo GS Đào Duy Anh (trong

138

Việt Nam văn hóa sử cương), những con em của các ca nữ cũng bị tước đoạt đi quyền

học hành và thi cử vì có thân mẫu xuất thân từ tầng lớp thấp kém, hạ tiện. Dẫn ra như

vậy để có thể thấy rằng văn nghệ dân gian cũng trải qua bao nỗi thăng trầm, thịnh suy

trong dòng chảy của lịch sử, chứ không phải lúc nào cũng được đề cao. Và nếu thời Lê

bị đứt đoạn, cấm đoán thì đến thời Nguyễn, sinh hoạt văn nghệ dân gian và cả cung

đình đã xích lại gần nhau, phát triển một cách mạnh mẽ và rực rỡ. Đây là một hiện

tượng thú vị về mặt văn hóa và đã được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa bàn luận đến.

Nghệ nhân dân gian là kiểu nhân vật đặc trưng của tiểu loại giai thoại văn hóa

dân gian trong hệ thống giai thoại Việt Nam. Nổi bật trong kiểu nhân vật này là các

nghệ nhân nổi tiếng trong các loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian của từng vùng

miền: cô Nhẫn, cô Long, cô Vân (hát ví giặm), Trần Hàn (hò khoan), Nhiêu Ngọ, O

Tộ,… Cách xây dựng hình tượng nhân vật nghệ nhân dân gian trong giai thoại văn hóa

được khắc họa chủ yếu qua các cuộc hát mang tính chất đối chọi, thách đố mà phần

thắng thường nghiêng về NVC – những nghệ nhân dân gian mà nhân dân kính nể, tôn

trọng tài năng hơn người của họ. Nhìn một cách khái quát, theo tính chất sự thách đố,

ta có thể nhận thấy sự tài trí của nhân vật nghệ nhân dân gian đa phần thể hiện trong

những tình huống mang tính khoảnh khắc. Tính khoảnh khắc này thể hiện qua cách

xây dựng bối cảnh cuộc hát, đối đáp của các nhân vật. Không gian diễn ra các cuộc đối

đáp ấy có thể là không gian mang tính chất lề lối, quy thức như ở các phường hát, có

sự tham gia của các bên chủ và khách; hoặc cũng có thể là không gian gắn liền với

hoạt động lao động và sinh hoạt của con người như: trên sông, bến đò, ngoài vườn,

ngoài đường, ngoài đồng, bên cối giã gạo…

Có hai xu hướng xây dựng nhân vật nghệ nhân dân gian trong giai thoại văn hóa,

văn nghệ dân gian là tuyệt đối hóa tài năng trong các cuộc hát của các nghệ nhân dân

gian và bi kịch hóa phần đời bên ngoài của họ. Như vậy, theo cảm quan thẩm mỹ của

nhân dân, người nghệ nhân dân gian tồn tại với hai tư cách cơ bản: con người nghệ sĩ

và con người xã hội trong cuộc sống đời thường. Xu hướng tuyệt đối hóa tài năng của

nghệ nhân dân gian thể hiện qua việc đề cao khả năng ứng biến tình huống của các

nhân vật trong các cuộc hát. Nội dung này được chuyển tải bằng sự liên kết của các

tình tiết chính là: NVC bị thách đố – NVC giành chiến thắng trong cuộc hát – NVC

được ngưỡng mộ, thán phục. Chúng ta có thể bắt gặp được xu hướng này trong các

giai thoại xoay quanh các nghệ nhân dân gian nổi tiếng ở các vùng miền như: cô Long,

cô Vân, cô Nhẫn, O Tộ, O Quy, Nhiêu Ngọ, Trần Hàn, Ông Bơi, Ông Quán, Thợ

Thiềm… qua các giai thoại như: Quỷ thần không cho, Mùi trầm hương nỏ chộ, Đôi

139

đũa quấy trong bung thằn lằn, Nhà nho ba bảy nhà nho, Cái nghĩa chữ duyên đang

dài, Nho Biên và cô Nhẫn, Chỉ còn cách cắp ô lủi đi, Nhất sơ hiệu ký gặp Trung Am

ký, Tui cày suông cho chị…

Xu hướng thứ hai, bi kịch hóa đời tư của nhân vật nghệ nhân dân gian được xây

dựng qua chuỗi tình tiết: NVC thất bại trong cuộc hát – NVC bị trừng phạt. Trong tiểu

loại giai thoại văn hóa, xu hướng này xuất hiện không nhiều, tuy nhiên, nó cũng hé mở

những chiều kích thẩm mỹ của dân gian dành cho những nhân vật mà họ yêu mến.

Phải chăng qua bi kịch cuộc đời của các nhân vật, nhân dân muốn gửi gắm một thông

điệp nhân sinh rằng: những người tài giỏi, tài hoa trong nghệ thuật nói chung không

chỉ có ánh hào quang của sự ngưỡng mộ mà còn gánh chịu không ít những oan trái mà

số phận đẩy họ vào. Nội dung này thể hiện khá rõ nét trong các giai thoại như: Vì thua

hò mà bỏ quê, Dáng ai như dáng, Chết vì một câu hò, Đi tu vì một câu hò. Tình tiết

triển khai bi kịch này là bỏ đi biệt xứ hoặc ôm hận mà chết (các nghệ nhân Trần Hàn,

Anh Hàng, Cửu Hoãn,…). Nghĩa là dù có lý tưởng hóa bao nhiêu, thân phận của người

nghệ sĩ vẫn nằm trong vòng cương tỏa của quan niệm "xướng ca vô loài" khá phổ biến

trong thời đại cũ.

Bên cạnh đó, giai thoại cũng cung cấp cho chúng ta cái nhìn ngoại biên về đời

sống bên ngoài cuộc hát của các nghệ nhân dân gian. Trong các cuộc hát, họ có thể là

người ưu thắng, được ngưỡng mộ, tôn vinh nhưng trong cuộc đời, họ là những người

bất hạnh. Chẳng hạn, nghệ nhân Võ Thị Nhẫn tài hoa nức tiếng một vùng nhưng tình

duyên thì lại rất long đong. Cuộc sống khó khăn, nghèo túng khiến cô phải đi ở cho

nhà người. Lúc đứng tuổi, để sống qua ngày, cô trở thành thầy gà cho các phường hát

như một cách thức để tồn tại.

Ở khía cạnh hình thức nghệ thuật của nhóm giai thoại có liên quan đến nghệ nhân

dân gian, chúng ta cũng bắt gặp nét khu biệt đáng kể với kiểu nhân vật nhà nho tài tử.

Nếu các nhà nho tài tử đem lại xu hướng bác học hóa hình thức sinh hoạt văn hóa này,

thì các nghệ nhân dân gian lại xác lập được nét cá thể hóa trong cách vận dụng câu

chữ, tổ chức hình ảnh. Nói theo PGS Ninh Viết Giao, đó là chất dân gian trong sự đối

sánh với chất bác học, sách vở. Chất dân gian trong các giai thoại văn hóa dân gian về

các hình thức hò hát, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian theo cách hiểu của chúng

tôi, ngoài đặc điểm truyền thống đã được định hình qua các khung diễn xướng, các

công thức, đề tài,… mang tính chất ước lệ, ổn định, trở thành mẫu mực, thì cần phải

xét đến sự tinh nghịch của các nghệ nhân qua cách vận dụng hình tượng hai mặt, hay

nói một cách rõ hơn, đó là yếu tố tục.

140

Các nghệ nhân dân gian cũng là đối tượng sử dụng thuần thục yếu tố tục để tạo

nên tiếng cười trong các giai thoại sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian mà họ tham

dự. Như vậy, có một vấn đề đặt ra là yếu tố tục và tiếng cười mà nó khai sinh nên nhìn

nhận và lý giải như thế nào cho đúng trong trường hợp này? Trong nghiên cứu về yếu

tố tục và tiếng cười trong văn học nói chung, nhà nghiên cứu M. Bahktin đã để lại di

sản lớn về mặt lý thuyết về tiếng cười lưỡng trị trong công trình Sáng tác của Rabelais

và nền văn hóa trào tiếu dân gian thời trung cổ và Phục hưng [13]. Ở đây, chúng tôi

vận dụng một số quan điểm của M. Bahktin để soi chiếu vấn đề này. Theo quan điểm

của Bakhtin, những hình thức và những biểu hiện của nền văn hóa trào tiếu dân gian

thời Trung cổ và Phục hưng rất phong phú và đa dạng, nhưng đại để có thể được phân

định thành ba loại cơ bản: Những nghi thức và trò diễn hội hè (hội giả trang và các hội

hè khác tương tự như thế; các trò mua vui công chúng,…); các tác phẩm văn học trào

tiếu (trong đó có văn, thơ, kịch nhại) truyền miệng và thành văn bằng tiếng La tinh và

các tiếng dân gian, cũng như các hình thức và thể loại phát ngôn sỗ sàng theo lối chợ

búa – quảng trường (mắng chửi, nguyền rủa, thề thốt, xưng tục,…).

Đối chiếu vào tình hình giai thoại văn hóa văn nghệ dân gian chúng ta có thể thấy

một sự tương đương về loại hình trào tiếu dân gian với cách phân loại trên của

Bakhtin. Hình thức sinh hoạt hát hò dân gian trong sinh hoạt xã hội cũng như lao động

của nhân dân như: hát ví, hát dặm, hò khoan, hát phường vải, hò giã gạo,… có ý nghĩa

tương đương với những nghi thức và trò diễn hội hè ở phương Tây thời Trung cổ và

Phục hưng. Trong các cuộc hát hò, việc bãi bỏ mọi quan hệ đẳng cấp, thứ bậc trong xã

hội có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong môi trường đó, con người được giải

phóng ra khỏi mọi lễ giáo khắt khe, được sống trong bầu không khí dân chủ và cởi mở.

Tiếng cười ở hội giả trang mang tính nhị chức năng: Nó vừa hân hoan lại vừa giễu cợt,

vừa phủ định lại vừa khẳng định, vừa hạ huyệt lại vừa tái sinh. Tính lưỡng trị này có

liên quan mật thiết với đặc tính khác của tiếng cười hội hè, đó là tính toàn dân và tính

phổ quát. Đối tượng của tiếng cười ấy cũng là cả thế giới, cả vũ trụ, là mọi sự và mọi

vật ở trên đời. Nhân dân cũng không loại trừ mình ra khỏi đối tượng mà tiếng cười

hướng đến, đây cũng là đặc điểm về tính chất tự trào của tiếng cười dân gian.

Hình thức biểu hiện thứ ba của nền văn hóa trào tiếu dân gian là những hiện

tượng mà người ta vẫn quen gọi là “ngôn ngữ chợ búa – quảng trường”. Nó đã bị loại

ra khỏi "ngôn ngữ chính thức của xã hội", tuy nhiên, môi trường lễ hội đã tái sinh nó,

giúp nó hòa vào nền văn hoá trào tếu dân gian. Môi trường chợ búa quảng trường soi

chiếu vào giai thoại văn hóa văn nghệ dân gian Việt Nam chính là môi trường nông

141

thôn, nơi các hình thức sinh hoạt văn nghệ diễn ra chân thực và sinh động nhất, gắn

liền với đời sống của người nông dân. Ở đây, ngôn ngữ mang tính chất suồng sã, thô

tục được vận dụng và chấp nhận như một phần của thực tại, của hình thức sinh hoạt:

“cái đập vào mắt mọi người là sự tràn trề những hình ảnh cuộc sống vật chất – xác

thịt. Đó là những hình tượng thân thể con người, hình tượng ăn uống, phóng uế, giao

hợp” [13].

Chẳng hạn, trường hợp các hành động vệ sinh của nhân vật trong các giai thoại:

Nhiêu Ngọ và o Tộ, Nước trong khe, Vì thua câu hò mà bỏ quê. Các nhân vật hoàn

toàn vui tươi và chấp nhận kiểu hát khá thô tục, hồn nhiên. Họ ví nước tiểu như nước

chè (Nước trong khe), đánh thức sinh thực khí khi chứng kiến người nữ đi tiểu tiện

(Nhiêu Ngọ và o Tộ), dùng nước tiểu làm nước cúng tế tổ tiên (Vì thua câu hò mà bỏ

quê),... Các nghệ nhân dân gian vô tư nhắc đến động tác giao hợp nam nữ trong các

câu hát mà không cảm thấy phải e dè, tiết chế. Hành động này được tích hợp và biểu

trưng khéo léo qua các động tác nghề nghiệp gắn liền với đời sống của nhân dân lao

động như: đan thúng (Nhún lên nhún xuống chui ngoài chui vô), cày ruộng (Tui cày

suông cho chị), và cả hành động chinh phục con vật tâm linh đầy gian khó nhưng thích

thú là khắc chế con rồng (Cưỡi rồng),... Nhân dân lao động cũng không ngần ngại đề

cập đến sinh thực khí nam nữ. Cơ chế chuyển tải nội dung trên được triển khai theo hai

hướng cơ bản: nói ngụ ý (dùng hình tượng hai mặt) và cách nói lái, chơi chữ đồng âm.

Trong các giai thoại này, vật chủ của nam được ví ngầm với cà, ớt, con lươn, dùi,…

Còn vật chủ của nữ được so sánh với: miếng đất, mặt trăng, chiêng, lỗ lù,… Tất cả

những hình ảnh này đều gắn liền với thực tế lao động, sinh hoạt của người dân lao

động của nền sản xuất nông nghiệp lúa nước.

Về nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện yếu tố tục trong giai thoại, chúng tôi ngờ

rằng, đây có thể là biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp được

ánh xạ qua lăng kính giai thoại. Sau khi văn hóa Hán du nhập vào nước ta, Nho giáo

cũng được truyền sang nhưng chưa thật sự xác lập được sức ảnh hưởng mạnh mẽ như

Phật giáo đã du nhập vào trước đó. Bắt đầu từ thời nhà Lý trở đi, Nho giáo đã từng

bước thống ngự về mặt tư tưởng, trở thành ý thức hệ chính thống của giai cấp thống

trị. Nho giáo do vậy trở thành trung tâm của văn hóa. Nói theo quan điểm của GS Trần

Đình Hượu (Đến hiện đại từ truyền thống), quá trình văn hóa Hán (Nho giáo) thay thế

dần cho văn hóa bản địa là quá trình Đông Á hóa lớp văn hóa Đông Nam Á cổ đại:

“Nếu trước khi Bắc thuộc, chúng ta đã có một nền văn hóa bản địa lâu đời và phong

phú và nền văn hóa đó có màu sắc Đông Nam Á thì đến thời độc lập đã hoàn thành

142

một quá trình chuyển vùng về văn hóa: từ Đông Nam Á sang Đông Á. Việt Nam lúc ấy

đã giống với Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản hơn là giống các nước phía Nam”

[78, tr.159].

Lẽ cố nhiên, lớp văn hóa bản địa ấy không hoàn toàn bị triệt tiêu mà dung hợp,

bảo lưu ở một tầng sâu qua hình thức làng xã đặc trưng của người Việt. Điều này có

nghĩa là cơ tầng văn hóa mang đậm tính Đông Nam Á bản địa của người Việt (vốn rất

gần gũi với văn hóa các nước trong khu vực Đông Nam Á cổ đại) đã được thay thế dần

bởi văn hóa Đông Á. Lớp văn hóa bản địa, trong đó có văn hóa trọng Mẫu, tín ngưỡng

phồn thực của cư dân trồng lúa nước tất yếu bị đẩy ra phía ngoại biên của văn hóa,

thậm chí bị kìm nén xuống, vỡ ra, trở thành những mặc cảm, ẩn ức dưới dạng những

biểu tượng. Nó không bị triệt tiêu mà len lỏi, trường tồn, tác động ngược trở lại với lớp

văn hóa chính thống của giai cấp thống trị. Đó là lý do vì sao bên cạnh nhóm giai thoại

văn học viết – sản phẩm tinh thần ở hạng sang trọng của tầng lớp nhà nho, nhà khoa

bảng, chúng ta vẫn bắt gặp yếu tố tục. Yếu tố tục, được bảo lưu từ văn hóa dân gian và

ít nhiều để lại dấu vết trong thơ văn của giới trí thức vốn gắn với văn hóa làng xã. Điều

này cho thấy sự tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau giữa dòng văn học dân gian và văn học

viết. Nói theo GS Trần Quốc Vượng (trong bài viết Dân gian và bác học, quyển Trong

cõi, [163, tr.207]), thì đó chính là biểu hiện của tình trạng lưỡng phân và lưỡng hợp

văn hóa một cách biện chứng trên nhiều lĩnh vực của văn hóa Việt, trong đó có sinh

hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian của quần chúng.

Và một nguyên nhân khác nữa mà GS Đinh Gia Khánh đã chỉ ra được khi bàn về

yếu tố tục trong truyện cười. Dù nhà nghiên cứu bàn về cái tục trong truyện cười

nhưng tính chân lý của nó cũng bao quát cho cả cái tục trong văn học dân gian nói

chung, trong đó có giai thoại. GS Đinh Gia Khánh viết: "Cũng cần nói thêm một số

truyện tục như vậy do những ông đồ nho bị ẩn ức (libido) đặt ra để thỏa mãn hoặc do

những phần tử thị dân đặt ra để mua vui" [84, tr.373]. Về thái độ thẩm mỹ của nhân

dân đối với cái tục trong giai thoại văn hóa văn nghệ dân gian, chúng ta cũng thấy có

những điểm đúng như Bakhtin đã nhận xét về tiếng cười và yếu tố tục trong văn hóa

trào tiếu dân gian thời Trung cổ và Phục hưng ở phương Tây. Đối với nhóm giai thoại

sinh hoạt văn nghệ dân gian, cái tục mang tính giải trí, mua vui là chính, nó vừa hạ

huyệt vừa tái sinh. Nó mang tính chất vô tư, nguyên thủy của bản thể. Nguyên do là

các giai thoại ấy được sáng tác, trình diễn ngay trong môi trường của sinh hoạt văn

nghệ dân gian của nội bộ nhân dân lao động. Điều này hoàn toàn có thể lý giải được

nếu áp dụng quan điểm của Bakhtin về trường hợp chủ nghĩa nghịch dị trong văn hóa

143

trào tiếu dân gian thời Trung cổ và Phục hưng.

3.2.2.2. Nhân vật nhà nho tài tử

Khác với nhân vật trí thức khoa bảng, nhân vật nhà nho tài tử là nhân vật không

thành đạt hay có xu hướng đồng nhất về mặt tư tưởng đối với nhân dân lao động.

Trong các loại hình nhà nho thời trung đại, theo sự phân chia của GS Trần Đình Hượu,

có ba kiểu nhà nho tiêu biểu là: nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật và nhà nho tài tử.

Nhà nho hành đạo là kiểu nhà nho lấy tư tưởng Tu, Tề, Trị, Bình làm phương châm

sống. Theo đó, sống là phải phục vụ minh quân, phục vụ nhân dân. Sáng tác văn

chương của họ là để truyền tải đạo lý của Nho gia với quan niệm: thi dĩ ngôn chí, văn

dĩ tải đạo. Nhà nho ẩn dật là nhà nho hành đạo nhưng vì một lý do nào đó mà họ rút

khỏi chính trường, lui về ở ẩn. Còn nhà nho tài tử thì không chú trọng đi theo con

đường hành đạo, mang tính nửa vời. Trong công trình Đến hiện đại từ truyền thống,

Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, GS Trần Đình Hượu đã có những kiến

giải, phân tích sâu sắc về loại hình nhà nho tài tử trong văn học trung đại Việt Nam. Ở

đây, chúng tôi tiếp thu những ý kiến, đánh giá đó và xin tóm lược nội dung mà nhà

nghiên cứu đã đúc kết:

Về khái niệm nhà nho tài tử, Trần Đình Hượu viết: "Về sau, khi đô thị phát triển

mạnh, những nhà nho – nghệ sĩ quen cuộc sống đô thị, tìm hạnh phúc và lạc thú theo

một hướng khác. Họ ý thức cá nhân về cá nhân tìm lạc thú, hạnh phúc của cá nhân,

hạnh phúc vật chất, thú vui thanh sắc…, và về lý thuyết họ đưa Tài đối lập với Đức,

Tình đối lập với Tính. Tôi gọi họ là nhà nho tài tử. Tôi vẫn gọi họ là nhà nho, vì về

mọi mặt khác, họ không tỏ thái độ phản nghịch với thánh hiền" [78, tr.135]. GS Trần

Đình Hượu đã nhìn ra được căn rễ lịch sử, xã hội làm hình thành nên kiểu nhà nho tài

tử trong văn học trung đại. Đó là cuộc sống, sinh hoạt nơi đô thị - không gian mà nhiều

hạng người tập trung vào đấy: những học trò đang theo đuổi công danh, những nhà

nho đã đỗ đạt tìm thú vui hành lạc, những người ca kỹ, nhà thương nhân,…

Kiểu nhà nho tài tử là một dạng thức vô cùng đặc biệt của nền văn học, văn hóa

thời trung đại. Họ không xem đạo đức, yếu tố cốt lõi được quy định bởi lễ giáo Nho

gia làm phương châm sống. Trong quan niệm của họ, thực Tài mới chính là thước đo

giá trị con người chứ không phải tại vị. Quan niệm về chữ Tài ở đây cũng có thể hiểu

theo nhiều cách khác nhau. Đó có thể là tài kinh luân, đánh giặc (như trường hợp

Nguyễn Công Trứ), học vấn uyên thâm, văn chương trác việt, uẩn súc (như Cao Bá

Quát),… Nhưng ngoài những tài ấy, người tài tử cần phải thạo thêm các món như:

cầm, kỳ, họa, diễn ca hát xướng (chẳng hạn Nguyễn Công Trứ, Tú Xương được biết

144

đến như người rất mê và hát ả đào rất hay, cụ Nguyễn Du khi còn là thanh niên (với

tên gọi Chiêu Bảy) thường hay lui tới các điểm hát phường vải ở Nghi Xuân, Hà

Tĩnh), cụ Phan Bội Châu (lúc trẻ có tên là Phan Văn San) là người trong nhóm Nam

Đàn tứ hổ, tức là một trong bốn người có tài năng văn chương hơn người và hơn hết là

hát phường vải trác việt ở vùng đất Nam Đàn…).

Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận công danh, về mặt nào đó các nhà nho

tài tử xem công danh tạo điều kiện cần thiết để có thể làm nên những điều phi thường,

tức là tạo lập những công trạng trong cõi trời đất. Đấy cũng là đóng góp của họ cho

đời. Trong nhiều trường hợp, sự “trí quân trạch dân” đối với người tài tử chỉ là điều

kiện để họ trổ hết tài năng, bản lĩnh của mình, để chứng tỏ với người đời về tài năng

thao lược. Một góc nhìn khác, công danh sự nghiệp có được đối với họ như là hình

thức bên ngoài để có thể làm đẹp lòng giai nhân, tri âm, tri kỷ. Nói cách khác, tài năng

là bước đệm để họ thỏa mãn chữ tình, theo nghĩa là đa tình, đa cảm, một tính cách đặc

trưng của nhà nho tài tử.

Như vậy, bên cạnh tính cách ngông nghênh, tự phụ, kiểu nhà nho tài tử còn có

cốt cách của những kẻ đa tình. Có được minh quân để phụng sự, để thỏa mãn chữ Tài,

còn có được giai nhân để làm tri âm, tri kỷ, để làm viên mãn chữ Tình. Tài và Tình

gắn liền với nhau, tạo thành nội hàm kép của kiểu nhà nho tài tử. Ngông và tài tử là hai

phẩm chất của nhân vật giai thoại. Và trong những nhà nho tài tử thời trung đại, thì có

thể khẳng định chưa ai ngông như Nguyễn Công Trứ. Lúc dẹp loạn, ông mang cả đội

quân "hát ả đào" lên chốn lam chướng, thuê cả ghe chở đầy đào hát trong những

chuyến công cán dài ngày. Ông còn làm cả chuyện xưa nay chưa từng thấy: sẵn sàng

mang cả cô thiếp ra đánh cược cho cuộc hát. Chất ngông của Nguyễn Công Trứ còn

pha thêm chất "xảo" bởi thủ đoạn (hay mưu trí) trong cách chinh phục người đẹp

(Thuyền quyên ứ hự).

Tuy nhiên, theo cách nhìn của lễ giáo phong kiến, những người thích ngông

nghênh, lãng tử, phá cách không phải là những đối tượng được ngợi ca mà ngược lại,

họ luôn bị nghi kị và giới hạn trong những tín điều của Nho giáo (như Tam cương,

Ngũ thường). Theo đó, những người làm trái đạo lý Thánh hiền sẽ bị đẩy vào hạng có

tài mà vô đức. Chữ Tình trong quan niệm đa tình của nhà nho tài tử được hiểu theo

nghĩa là nhiều cảm xúc, dễ rung động trước cái đẹp chứ không phải đam mê sắc đẹp

một cách thô thiển, dung tục theo quan niệm thông thường. Nhưng có một lẽ hiển

nhiên là, phàm những người giàu cảm xúc thì lại hay dễ bị lôi cuốn bởi sắc đẹp, nhất là

với những mỹ nữ, giai nhân vừa có tài vừa có sắc. Do vậy, trong quan niệm của Nho

145

giáo, tình cảm luyến ái nam nữ thường bị cấm đoán. Nho giáo không tán thành sự tồn

tại của kẻ đa tình, bởi chữ Tình thường khiến con người ta dễ sa ngã, lung lay, mất hết

lý trí, đạo đức. Trong giai thoại, trường hợp của Nguyễn Giản Thanh, một kẻ tài hoa,

học vấn hơn người nhưng vì đam mê sắc dục mà phải thân bại danh liệt, là một minh

chứng cụ thể nhất. Trong thực tế, tình thường gắn với dục tâm, tức là những ham

muốn mang tính chất bản năng của con người. Cái đẹp vốn là cái mang tính chất vô tư,

không vụ lợi hay chiếm đoạt. Tuy nhiên, không phải ai cũng đủ tỉnh táo để có thể

thưởng thức cái đẹp hoàn toàn vô tư mà không khỏi sản sinh ý định chiếm đoạt hay sở

hữu nó. Do vậy, nữ sắc theo quan niệm của Nho giáo là thứ cần tránh xa, vì nó khiến

cho những điều tốt đẹp trở nên lung lay, làm hỏng đi luân thường, đạo lý ở đời.

Tóm lại, trong văn học trung đại, các nhà nho tài tử là những người có xu hướng

giải phóng cái tôi cá nhân mạnh mẽ nhất. Muốn như vậy, họ phải thoát ra khỏi vòng

cương tỏa của những quan niệm khắt khe, hẹp hòi về ứng xử của đạo lý và lễ giáo

phong kiến. Do đó, về mặt mỹ học, cái đẹp ở đây mang tính chất của sự phá cách của

những con người vừa nằm trong hệ thống, vừa muốn thoát ra ngoài hệ thống ấy. Sự

xuất hiện, ảnh hưởng của nhà nho tài tử (cũng như những nhà nho ẩn dật, nhà nho bình

dân đóng vai trò là những thầy gà trong các cuộc hát) là minh chứng cụ thể cho xu

hướng mở của nền văn hóa dân gian, trong đó có hình thức hò hát đối đáp nam nữ. Xu

hướng mở này chính là cơ sở để các đối tượng nằm ngoài văn hóa bình dân có thể

tham dự vào, làm giàu thêm, phong phú thêm nội dung cũng như hình thức của nó. Và

với tư cách là những người đồng sáng tạo văn hóa dân gian, các nhà nho tài tử đã thể

hiện vai trò cầu nối hai mảng văn hóa chính yếu của thời đại mình: văn hóa bác học và

văn hóa dân gian. Hay nói theo GS Trần Quốc Vượng, đó là biểu hiện của tư duy

lưỡng hợp về văn hóa: dung hòa chất bác học của văn hóa bác học và chất bình dân

của văn hóa dân gian. (Về sự giải thiêng nhân vật nhà nho tài tử (qua tình tiết thất bại

trong các cuộc hát), luận án đã đề cập ở các phần trước cho nên không nhắc lại ở đây).

3.2.2.3. Nhân vật nhà nho ẩn dật

Các kiểu nhà nho trong văn học trung đại là vấn đề đã được nhiều nhà nghiên

cứu văn học, văn hóa bàn đến. Có thể nói vấn đề này có một lịch sử nghiên cứu khá

dày dặn, khoa học. Trong công trình Đến hiện đại từ truyền thống, GS Trần Đình

Hượu có những nhận xét về căn rễ lịch sử, tư tưởng hình thành nên kiểu nhà nho ẩn

dật như sau: “Ở vị trí tầng lớp trung gian, họ (tức nhà nho) xử sự theo phương châm

“dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng” – vua dùng thì đem Đạo ra hành, vua bỏ không

dùng thì cất giấu cho mình. Quan niệm hành tàng, xuất xử đó làm cho nhà nho hình

146

thành hai mẫu người: hành đạo và ẩn dật. Hành đạo và ẩn dật vốn là hai mặt không

thể tách rời trong mỗi nhà nho: nhập thế mà vẫn xấu hổ, xấu hổ vì tham luyến công

danh; xuất thế mà vẫn băn khoăn, băn khoăn vì không làm tròn trách nhiệm” [78,

tr.30]. Cách hành xử xuất thế hẳn nhiên bắt nguồn từ những thất vọng vào lý tưởng “trí

quân trạch dân”, vào sự nghiệp kinh bang tế thế mà họ từng tôn thờ, theo đuổi. Họ

quay trở về với nhân dân, với làng xã để tìm sự thanh nhàn, sống cuộc sống thanh

sạch. Với nhà nho ẩn dật, sự nghèo khó đồng nghĩa với thanh sạch. Có lẽ vì vậy mà

Tam Nguyên Yên Đổ đã cúi đầu lau lệ khi nhận miếng thịt từ một người bạn cố tri của

ông!

Đối với những nhà nho ẩn dật, tư tưởng chủ đạo chi phối nhân sinh quan của họ

cũng khá phức tạp, không chỉ Nho mà còn có Phật và Lão – Trang. Một mặt, họ coi

thường danh lợi, xem danh lợi là một bả ti tiện mà con người phải tránh xa. Theo đó,

muốn giữ được đạo đức, con người phải thoát khỏi chốn cửa quan, bởi đó là môi

trường khiến họ dễ bị tha hóa nhân cách. Mặt khác, các nhà nho ấy, tuy có vẻ bên

ngoài là lánh đục về trong nhưng trong thâm tâm lúc nào cũng giữ một niềm “ưu thời

mẫn thế”, một tấm lòng vì dân vì nước. Những nhà nho ẩn dật lấy Phật và Lão – Trang

làm tư tưởng chủ đạo nhưng không đem nó ra để đối lập với Nho giáo. Bởi lẽ, ở khía

cạnh nào đó, ứng xử xuất thế chỉ đối lập với công danh của hành xử nhập thế chứ

không hoàn toàn phủ nhận những quan điểm cốt lõi của Nho gia. Hành đạo và ẩn dật

tuy có những điểm khác nhau về cách ứng xử trước thời thế nhưng không nằm trong

thế đối chọi với nhau, thậm chí thống nhất trong cùng một nhà nho. Trong lịch sử văn

học Việt Nam, chúng ta cũng có thể kể ra khá nhiều trường hợp từng làm quan nhưng

rồi cáo quan về ở ẩn như những nho sĩ ẩn dật như: Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn

Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Nguyễn Khuyến,… Trong giai thoại, chúng ta bắt gặp mối

liên hệ khắng khít giữa một bên là nho ẩn dật – người đại diện cho lớp sĩ phu, trí thức

(dù đã về trí sĩ hay tự cáo quan ở ẩn, từ những nhà nho khuyết danh cho đến những

nhà khoa bảng nổi tiếng như Nguyễn Khuyến, Nguyễn Hàm Ninh, Nguyễn Đăng

Cảo,…) trong nhóm giai thoại về phong tục tập quán của nhân dân. Những nhà nho

này đóng vai trò là người cho chữ, cho câu đối, tức là đã thực hiện chức năng giáo hóa

hay khai sáng cho quần chúng nhân dân.

147

Tiểu kết chương 3

Chương 3 của luận án đã tìm hiểu các khía cạnh thi pháp của giai thoại Việt Nam

là: công thức kết cấu truyện và nhân vật của thể loại. Theo đó, luận án nhấn mạnh một

số điểm sau:

Thứ nhất, thuộc lĩnh vực văn học, giai thoại văn học phân hóa thành 3 nhóm

chính là: giai thoại văn học về thách đố văn chương, giai thoại văn học về ứng tác văn

chương và giai thoại văn học về sinh hoạt đời tư của các nho sĩ. Luận án đã tiếp cận 2

nhóm đầu và chỉ ra được motif hạt nhân của nhóm giai thoại văn học về thách đố văn

chương là motif thách đố (văn chương), còn motif tiêu biểu của giai thoại văn học về

ứng tác văn chương là motif làm thơ tạo tình huống. Luận án đã mô tả các kiểu nhân

vật của giai thoại văn học là nhân vật trí thức khoa bảng và nhân vật ngông.

Thứ hai, thuộc lĩnh vực văn hóa dân gian, giai thoại phân hóa thành các nhóm:

giai thoại có liên quan đến các hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian của quần chúng

nhân dân; giai thoại có liên quan đến các nghệ sĩ tuồng, chèo, sân khấu. Kết cấu của

giai thoại văn hóa dân gian có liên quan đến các hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian

xoay quanh motif hạt nhân là sự thách đố về hát hò.

Thứ ba, kiểu nhân vật nổi trội nhất của giai thoại văn hóa dân gian là nhân vật

nghệ nhân dân gian, nhà nho tài tử, nhà nho ẩn dật. Các kiểu nhân vật này phân hóa

từ tầng lớp trí thức phong kiến, dần hội nhập với tầng lớp bình dân. Sự xuất hiện của

nhà nho tài tử, nhà nho bình dân trong giai thoại văn hóa dân gian đã góp phần bác học

hóa sinh hoạt dân gian của quần chúng. Họ là cầu nối giữa văn hóa bác học và văn hoá

dân gian.

148

Chương 4. MỐI QUAN HỆ GIỮA GIAI THOẠI VIỆT NAM VÀ

CÁC THỂ LOẠI TRONG TỰ SỰ DÂN GIAN,

LỊCH SỬ, VĂN HỌC

Các thể loại trong văn học dân không phải lúc nào cũng tồn tại một cách độc

lập với nhau mà luôn có xu hướng xâm nhập, giao thoa, chuyển hóa lẫn nhau. Đây

cũng là quy luật vận động mang tính phổ quát của văn học dân gian. Với tư cách là

một thể loại của văn học dân gian, giai thoại cũng không nằm ngoài quy luật đó. Có lẽ

vì vậy mà nhà nghiên cứu Nicolaisen đã lưu ý: “Giai thoại tương đồng với các thể loại

dân gian gần gũi như truyện cười, truyền thuyết, truyện giáo huấn, tin đồn, truyện nói

khoác và loại truyện hài hước mà trong tiếng Đức gọi là schwank. Do đó, có xu hướng

giao thoa giữa các thể loại ấy và không phải lúc nào cũng dễ dàng phân biệt cái này

với cái kia” [107]. Về vấn đề này, các nhà nghiên cứu giai thoại ở Việt Nam từng đề

cập, bàn luận đến ở những góc tiếp cận, mức độ khác nhau và cần tiếp tục tìm hiểu

thêm. Đó là ở bình diện mối quan hệ trong nội bộ các thể loại của văn học dân gian.

Ở một bình diện khác, mang mang tầm bao quát hơn là đặt thể loại trong mối

quan hệ với thực tại. Thông thường, các thể loại văn học dân gian nói chung sẽ có mối

quan hệ chặt chẽ với thực tại nảy sinh ra nó. Vấn đề mang tính lý luận này từng được

V. Ja Propp đặt ra và giải quyết trong công trình Folklore và thực tại. Truyền thuyết có

mối quan hệ với lịch sử thông qua yếu tố “cốt lõi lịch sử” và cảm hứng tôn vinh lịch

sử, nó đã chắp cánh cho lịch sử (với tư cách lịch sử trong ký ức cộng đồng) một chất

mộng và chất thơ đầy huyền ảo. Còn với giai thoại, hiển nhiên cũng có mối quan hệ

với lịch sử ở cách thức mà nó xây dựng hình tượng nhân vật, sự kiện lịch sử. Sự tương

tác mang tính chất hai chiều đó sẽ hé mở tư duy nhào nặn yếu tố sử của giai thoại.

Một vấn đề khá quan trọng khác cần bàn luận thêm, đó là mối quan hệ giữa giai

thoại và văn học (tức văn học thành văn). Bởi lẽ, hiện tồn hai quan niệm khác nhau về

mối quan hệ này. Và mỗi quan niệm như vậy sẽ đặt giai thoại vào các lĩnh vực khác

nhau (văn học viết và văn học dân gian). Trong giai thoại, chất dân gian hay chất bác

học là yếu tố nổi trội. Chúng có mối quan hệ, tương tác như thế nào? Và cuối cùng,

trong chiều sâu bản chất thể loại, giai thoại liệu có bị/được bác học hóa, được gọt giũa

để trở thành một thể loại của văn học viết hay không? Hay là, nó vẫn nằm trong văn

học dân gian với “phong cách dân gian” đặc trưng của mình. Tất cả các vấn đề nêu

trên sẽ được luận án lý giải ở Chương 4 này.

149

4.1. Mối quan hệ giữa giai thoại và các thể loại trong tự sự dân gian

4.1.1. Mối quan hệ giữa giai thoại và truyền thuyết

Vì giai thoại gắn chặt với con người, thời đại cụ thể nên việc cần làm rõ ở đây là

phân biệt giai thoại với thể loại tương cận như truyền thuyết và với lịch sử, đúng hơn

là lịch sử truyền miệng. Để chỉ ra được sự khu biệt về mô hình kết cấu giữa hai tiểu

loại giai thoại lịch sử và truyền thuyết lịch sử, điều kiện tiên quyết là phải giải quyết

một cách thấu đáo sự chuyển hóa, ảnh hưởng hay nói đúng hơn là quá trình tương tác

giữa chúng. Sự nhập nhằng giữa hai tiểu loại này chủ yếu manh nha từ yếu tố lịch sử

mà nó phản ánh (bao gồm sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử). Và đó cũng là nguyên

nhân khiến cho tình hình phân biệt truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử trở thành

một vấn đề không hề giản đơn trong nghiên cứu thể loại tự sự dân gian. Như đã nói ở

phần trước, trong suốt quá trình hình thành giai thoại lịch sử từ thời trung đại cho đến

giai đoạn cận đại, đều có sự hiện hữu của khuynh hướng trên. Giai thoại về bài thơ Ả ở

đâu ta bán chiếu gon của Nguyễn Trãi mang tất cả dáng dấp của khuynh hướng giải

thiêng tính nghiêm trang của một bậc khai quốc công thần. Trần Hưng Đạo, Trần

Quang Khải,… là những vị tướng tài ba, xuất chúng thời nhà Trần, nhưng cũng có

không ít những văn bản được khai thác qua góc độ đời tư (Hưng Đạo Đại Vương tắm

chung và kì lưng cho Thượng tướng). Những giai thoại xung quanh các chúa Nguyễn;

con cháu, dòng dõi hoàng tộc nhà Nguyễn (thái tử, các mệ,…); những giai thoại về

hành trình bôn ba của Nguyễn Ánh ở miền Nam,… là những giai thoại khá khá điển

hình cho xu hướng này.

Những nhân vật lịch sử nổi tiếng khi đi vào đời sống dân gian, đều tuân thủ theo

những quy luật sáng tác dân gian nói chung. Nếu truyền thuyết lịch sử xây dựng nhân

vật chủ yếu theo xu hướng thiêng hóa (đề cao, ca ngợi, tôn vinh,… với những motif

quen thuộc như: sự sinh nở thần kỳ, ngoại hình dị thường; chiến công phi thường; hóa

thân; hiển linh, âm phù,…), thì giai thoại, ngoài xu hướng đề cao NVC quan phương

lại còn có xu hướng khai thác những khía cạnh thuộc đời thường, với tư cách một con

người cá nhân, đời tư nhiều hơn. Nói cách khác, đây là khuynh hướng đời thường hóa

nhân vật lịch sử.

Bên cạnh xu hướng đời thường hóa nhân vật lịch sử, giai thoại còn có xu hướng

thiêng hóa đối tượng. Điều này giống với xu hướng thiêng hóa của truyền thuyết lịch

sử. Vậy đâu là vấn đề? Sự xuất hiện hai xu hướng, cùng tồn tại, thậm chí ngay khi kể

về nhân vật lịch sử cho thấy chức năng giai thoại thường xuất hiện đúng chỗ để lấy lại

sự thăng bằng về cảm hứng của dân gian, hoặc phụ họa cho các đánh giá về nhân vật

150

tùy theo ý đồ sử dụng giai thoại trong những bối cảnh cụ thể giữa người kể và người

nghe.

Chẳng hạn, những câu chuyện nhằm giải thích, biện minh cho một sự sụp đổ, kết

thúc của một chế độ, sự nghiệp của một nhân vật nổi tiếng (sự sụp đổ của nhà Đinh,

Lý, Trần; án tru di của Nguyễn Trãi,…). Phải chăng, giai thoại mượn yếu tố thiêng hóa

của truyền thuyết lịch sử để nhằm mục đích củng cố vương quyền/thế quyền (một hình

thức mà các triều đại phong kiến mượn thần quyền để củng cố thế quyền)? Vì dù sao

thì tư tưởng chủ đạo của các nhà nho vẫn còn chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Hiện

tượng này có thể xem là sự giao thoa thể loại trong quá trình vận động nhận thức lịch

sử, lược lại dấu vết qua thể loại.

Sự giao thoa, tương tác giữa truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử cũng là

vấn đề mà một số nhà nghiên cứu từng lưu ý. Chẳng hạn, tác giả của Từ điển thuật ngữ

Văn học cho rằng: “… Trong những ghi chép sớm nhất, giai thoại văn học thường

không phân giới rõ rệt với truyền thuyết, truyền kỳ, có những mảng giai thoại xuất

hiện thời kỳ sau lại gần với tiếu lâm” [46, tr.519]. Tập thể tác giả công trình Văn học

dân gian Đồng bằng sông Cửu Long cũng có nhận xét đáng lưu ý về đặc điểm truyền

thuyết ở Nam Bộ: “Khác với những truyền thuyết danh nhân ở Bắc Bộ, những truyện

ở đây có thể xem là những giai thoại vì nó gần gũi với người thật, ít có yếu tố siêu

nhiên, thần kỳ” [98, tr.14]. Tác giả Võ Phúc Châu (bài viết “Bước đầu phân biệt

truyền thuyết và giai thoại” [23]) đã xuất phát từ nhận thức này để nêu lên một số

điểm tương đồng, dị biệt cơ bản giữa truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử.

Những điểm tương đồng và dị biệt

- Hiện tượng kết chuỗi của giai thoại và truyền thuyết: Nét tương đồng đầu tiên

giữa truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử là tính chất kết chuỗi. Về mặt loại hình,

truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử thuộc hệ thống truyện dân gian có liên quan

đến nhân vật cụ thể. Thế nên, việc kết chuỗi về một nhân vật cụ thể là hiện tượng phổ

biến (đã được đề cập ở phần trước). Đây cũng là điểm mà nhiều nhà nghiên cứu Nga

như Guxev, Propp, Davleptov, Tamarchenko,... đã khẳng định. Có thể so sánh hành

động trong truyền thuyết và hành động, tính cách của nhân vật trong giai thoại. Chẳng

hạn, cùng phản ánh về nhân vật lịch sử Nguyễn Ánh, vừa có những truyền thuyết lịch

sử, vừa có những giai thoại lịch sử về hành trình bôn ba phục quốc của ông. Điều này

được tập hợp, giới thiệu khá đầy đủ trong những tuyển tập truyện dân gian ở Nam Bộ.

- Về phương thức phản ánh thực tại: Cả hai đều dựa trên cơ sở hiện thực là các

sự kiện, nhân vật lịch sử. Ở truyền thuyết lịch sử, đó là “nét chính yếu của sự kiện và

151

con người có thực”. Với giai thoại lịch sử là đặc điểm “gần gũi với người thật”. Một

bên đồng nhất nhân vật với sự kiện còn một bên khai thác hành vi bản thể của con

người. Về bản chất, sự kiện hay thành tích của các nhân vật đều mô phỏng thực tế.

Chính điều này làm cho người ta tin vào sự chân xác cuộc sống được thể hiện qua giai

thoại cho dù là chuyện bịa đặt.

Các nhà nghiên cứu đều thừa nhận rằng, kỳ ảo là yếu tố thi pháp then chốt, cấu

thành nên thể loại truyền thuyết. Nhưng không phải duy nhất truyền thuyết, mới có

yếu tố kỳ ảo. Bởi nó là thủ pháp chung của các thể loại tự sự dân gian, tùy theo mức

độ khác nhau được thể hiện từ thần thoại, sử thi, đến cổ tích. Trong truyền thuyết, yếu

tố kỳ ảo xuất hiện trong cả ba phần, qua các motif cơ bản: Sinh nở thần kỳ, chiến công

phi thường, hóa thân, hiển linh - âm phù,... Đây cũng là mô hình kết cấu cơ bản của

truyền thuyết về người anh hùng. Dễ nhận thấy một lẽ là, trong truyền thuyết, motif

sinh nở thần kỳ (ở phần đầu) có mối liên kết chặt chẽ với motif chiến công phi thường.

Có thể yếu tố kỳ ảo từ truyền thuyết ở chừng mực nào đó đã chuyển hóa sang

giai thoại. Để củng cố thêm luận điểm, chúng tôi tiến hành khảo sát yếu tố kỳ ảo trong

04 tuyển tập giai thoại, kết quả như sau:

- Công trình Giai thoại văn học Việt Nam [65] có 06/254 (tỉ lệ 2,36%) trường

hợp: Bị trói vẫn làm thơ – Lý Công Uẩn; Đọc thơ chê Hạng Vũ, Chữa thơ Vương Bột

– Hồ Tông Thốc; Hồn bướm mơ tiên – Lê Thánh Tông; Ngâm thơ cự thần – Nguyễn

Thái Thường; Thơ trách nữ thần – Nguyễn Công Trứ;

- Công trình Giai thoại văn học Việt Nam [67] có 07/442 tác phẩm (tỉ lệ 1,58%):

Bị trói vẫn làm thơ – Lý Công Uẩn; Đọc thơ chê Hạng Vũ, Chữa thơ Vương Bột – Hồ

Tông Thốc; Ngâm thơ cự thần – Nguyễn Thái Thường; Thơ trách nữ thần, Phá đền thì

lại làm đền – Nguyễn Công Trứ; Câu đối đền Thia Thia – Nguyễn Xuân Ôn;

- Công trình Giai thoại folklore Việt Nam [91] có 03/293 tác phẩm (tỉ lệ 1,02%):

Trạng Lường – Lương Thế Vinh; Tượng đá mất thiêng, Vay tiền Bà Chúa Liễu –

Trạng Quỳnh;

- Công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam [89] có 17/893 tác phẩm (tỉ lệ 1,9%):

Không dám duỗi chân – Lý Công Uẩn; Thần sao biết việc của người - khuyết danh;

Vẫn những câu thơ chống thần - Nguyễn Đăng Đạo; Có thực là thiêng không - Phạm

Thanh; Mồ hôi thần - khuyết danh; Trách cứ Lê Quý Đôn – Nguyễn Trãi; Hai lần gặp

Liễu Hạnh – Phùng Khắc Khoan; Phá đền, Qua đền nữ thần – Nguyễn Công Trứ; Câu

đối đền Thia Thia – Nguyễn Xuân Ôn; Thơ đền Hạng Vũ – Hồ Tông Thốc; Hồn bướm

mơ tiên – Lê Thánh Tông; Di hài gài hiệp – khuyết danh; Đỡ đẻ cho thần – khuyết

152

danh; Rủ được thần về nhà của mình – khuyết danh; Tượng đá mất thiêng, Vay tiền Bà

Chúa Liễu – Trạng Quỳnh.

Căn cứ vào số liệu thống kê trên, có thể khẳng định rằng: con người và sự việc

trong giai thoại chủ yếu xoay quanh thế giới trần tục, dẫu có sự xuất hiện của yếu tố kỳ

ảo nhưng không chi phối mạnh mẽ đến tư duy thể loại (chưa có công trình giai thoại

nào ở trên có tỉ lệ yếu tố kỳ ảo vượt quá 2,5% số lượng tác phẩm). Qua thống kê,

chúng tôi nhận diện một số đặc điểm của yếu tố kỳ ảo trong giai thoại như sau:

Giai thoại có thể chịu ảnh hưởng từ truyền thuyết các motif: sinh nở thần kỳ,

ngoại hình khác lạ, nằm mộng gặp thần,... Tuy nhiên, giai thoại không vận dụng rập

khuôn mà có một số biến đổi. Khi bàn về motif sinh nở thần kỳ, Kiều Thu Hoạch chia

thành hai trường hợp là: kể trực tiếp và gián tiếp (thông qua giấc mơ của các bà mẹ).

Trong truyền thuyết, có 2 kiểu truyện quan trọng cùng sử dụng công thức có liên quan

đến yếu tố sinh nở thần kỳ là:

- Truyền thuyết về anh hùng chiến trận:

Chiến công phi thường Sinh nở thần kỳ Hóa thân, âm phù

(hộ quốc)

Sơ đồ 4.1. Motif sinh nở thần kỳ trong truyền thuyết anh hùng chiến trận

- Truyền thuyết về anh hùng văn hóa:

- Sinh nở thần kỳ Chiến công phi thường (trên lĩnh

- Sinh nở bình thường vực văn hóa, an dân)

Sơ đồ 4.2. Motif sinh nở thần kỳ trong truyền thuyết anh hùng văn hóa

Trong khi đó, ở giai thoại, sự ảnh hưởng từ truyền thuyết chủ yếu từ kiểu truyện

anh hùng văn hóa, với hình thức sinh nở thần kỳ và cả sinh nở bình thường, hầu như

chỉ thấy thể hiện qua công thức tương tự như truyền thuyết anh hùng văn hóa:

- Sinh nở thần kỳ Thành tựu phi thường trong lĩnh

- Sinh nở bình thường vực văn chương, ngoại giao

Sơ đồ 4.3. Motif sinh nở thần kỳ trong giai thoại

So với truyền thuyết anh hùng chiến trận, bên cạnh việc vận dụng motif sinh nở

thần kỳ, truyền thuyết về anh hùng văn hóa thì giai thoại còn sử dụng tình tiết sinh nở

bình thường, tức là đã đời thường hóa nguồn gốc xuất thân của người anh hùng. Nếu

153

trong lĩnh vực văn hóa, người anh hùng để lại những chiến công phi thường qua các

hành động như: đắp đê trị thủy, chữa bệnh cho dân, tiêu diệt ác thú, khai khẩn đất

hoang (tiền hiền, hậu hiền),... thì trong giai thoại, sự đóng góp của nhân vật có phần

hạn hẹp hơn, chủ yếu là ở khía cạnh: tài năng học hành, thi cử, tài năng ngoại giao,...

Đấy là sự biến tấu công thức của truyền thuyết anh hùng văn hóa vào một kiểu nhân

vật hoàn toàn khác – nhân vật nhà khoa bảng – hay văn tài (xoáy sâu vào tài trí trên

lĩnh vực văn chương). Có thể thấy rất rõ, chiến công của người anh hùng trong truyền

thuyết (cả chiến trận lẫn văn hóa) đều hướng đến cộng đồng, vì cộng đồng, còn chiến

công/ tài nghệ của nhân vật giai thoại đã được cá nhân thể hóa qua tài trí. Và cũng

giống như trong truyền thuyết, sự ra đời thần kỳ của nhân vật khoa bảng trong giai

thoại cũng mang tính chất lý giải cho những đóng góp to lớn về sau của nhân vật, tức

là cũng có mối quan hệ nhân – quả chứ không phải ngẫu nhiên, rời rạc.

Đến đây, có thể thấy trong tự sự dân gian, motif sinh nở thần kỳ xuất hiện khá

nhiều trong các thể loại: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích,... Theo tiến trình lịch

đại, motif này có những biến đổi nhất định, có thể khái quát như sau:

Bảng 4.1. Công thức sinh thức sinh nở thẩn kỳ trong tự sự dân gian

Thể loại tự sự dân gian Công thức sinh nở thần kỳ

Thần thoại Truyền thuyết Giai thoại Thần + Thần → Thần Người + Thần → Nhân thần Người + Thần/ lời đồn → Nhà khoa bảng (Văn tài)

Qua thống kê công trình Truyền thuyết dân gian người Việt [68] của tác giả

Kiều Thu Hoạch, chúng tôi hệ thống lại các hình thức sinh nở thần kỳ của công trình

trên gồm: Sinh nở thần kỳ từ sự cưỡng hôn của con vật linh; Sinh nở thần kỳ thông qua

giấc mơ của các bà mẹ; Sinh nở thần kỳ thông qua huyệt táng; Sinh nở thần kỳ thông

qua giáng sinh; Sinh nở thần kỳ từ bọc trứng (noãn sinh) (Văn bản cụ thể xin xem Phụ

lục 5).

Trong giai thoại, cả hai dạng thức của motif sinh nở thần kỳ (trực tiếp và gián

tiếp) đều được tác giả dân gian vận dụng. Theo đó, giai thoại đã có sự tiếp thu các hình

thức sinh nở thần kỳ từ truyền thuyết là: sự cưỡng bức của linh vật; giấc mơ của các

bà mẹ; sự tái sinh và huyệt táng, còn các hình thức khác như: giáng sinh, noãn sinh

không thấy xuất hiện. Trên đại thể, giai thoại đã tiếp biến công thức: “Sinh nở thần kỳ

→ tôn vinh nguồn gốc thần thánh của người anh hùng” trong truyền thuyết thành:

“Sinh nở thần kỳ → tôn vinh nguồn gốc thần thánh của bậc văn tài”. Có thể thấy các

bậc đại khoa như Lương Thế Vinh, Mạc Đĩnh Chi, Lê Quý Đôn, Giáp Hải,... (sách

Nam Hải dị nhân liệt truyện của Phan Kế Bính) đều có biểu hiện về sự ra đời thần kỳ

154

như vậy. Sau đây, xin đi vào chi tiết:

- Sinh nở thần kỳ gắn với sự cưỡng bức của linh vật

Sự ra đời thần kỳ của Mạc Đĩnh Chi được miêu tả một cách trực tiếp qua cuộc

hôn phối (cưỡng bức) của con khỉ với thân mẫu ông: “Tục truyền làng Lũng Đỗng có

một thung rừng rậm, cây cối bùm tum, lắm giống hầu (con khỉ) ở. Mẹ ông ấy thường

khi vào rừng kiếm củi, phải con hầu bắt hiếp (...). Bà kia từ đấy thụ thai, đủ tháng,

sinh ra Mạc Đĩnh Chi, mặt mũi xấu xí, người nhỏ loắt choắt tựa như giống hầu” [17,

tr.85]. Vì có căn cốt hầu trong người (cộng với huyệt táng) mà họ Mạc có tư chất hơn

người, trở thành Lưỡng Quốc Trạng Nguyên về sau.

- Sinh nở thần kỳ gắn với giấc mơ của các bà mẹ

Sự ra đời thần kỳ của Lý Công Uẩn và Lê Quý Đôn thì được miêu tả một cách

gián tiếp, thông qua giấc mơ của các bà mẹ. Trường hợp của vua Lý Thái Tổ được

miêu tả như sau: “Tương truyền ông không có cha, bà mẹ là Phạm thị nhân đi chơi

chùa Tiêu Sơn, ở phủ Từ Sơn, Bắc Ninh, nằm mộng thấy đi lại với thần nhân rồi về có

thai mà sinh ra ông” [65, tr.66]. Như vậy, sự ra đời của Lý Công Uẩn là kết quả của

sự hòa hợp giữa thần và người mà chúng ta vẫn bắt gặp trong truyền thuyết. Nhà khoa

bảng Lê Quý Đôn cũng được sinh ra một cách khác thường bằng giấc mơ về con kỳ

lân của thân mẫu: “Về sau, con ông ấy là Lê Trọng Hứ quả nhiên đỗ Tiến sĩ, làm quan

rồi sau được phong là Trung hiếu công. Trung hiếu công muộn con, cùng với phu

nhân cầu tự ở chùa Quang Thừa, huyện Kim Bảng. Phu nhân nằm mộng thấy giời cho

con kỳ lân, mới có thai mà sinh ra Lê Quý Đôn” [17, tr.139]. Trong truyền thuyết, các

bà mẹ thường mơ gặp các con vật như: rết, rắn, rồng, rùa, chim, gấu,... từ đó sinh ra

người anh hùng. Cùng công thức ấy, khi đi vào giai thoại được chuyển hóa theo cách

thức tôn vinh bậc văn tài. Điều đó có lý do. Theo Kiều Thu Hoạch, đó là dấu vết của

“tín ngưỡng vạn vật linh (animisme) thời cổ” [68, tr.45].

- Sinh nở thần kỳ gắn với sự tái sinh

Sự ra đời thần kỳ của nhân vật người anh hùng trong truyền thuyết cũng có dạng

thức tái sinh, chuyển kiếp (dù tần xuất không nổi trội). Ví dụ, Truyện Từ Đạo Hạnh và

Nguyễn Minh Không; Sự tích thần Linh Lang (thời Lý),... Giai thoại cũng tiếp biến

hình thức này để thiêng hóa nhân vật. Trong giai thoại, với trường hợp của các bậc văn

tài, hình thức tái sinh cũng xuất hiện ở Lương Thế Vinh. Sách Nam Hải dị nhân liệt

truyện kể về ông như sau: Ông có hai người mẹ, mẹ đầu ở làng Nam Xang, sinh ra

ông, được 7, 8 tuổi thì ông mất. Trước khi mất, ông dặn dò mẹ đến ngày ấy, tháng ấy

thì qua làng Cao Hương bên cạnh (huyện Thiên Bản, Nam Định) để tìm mình. Sự tái

155

sinh của Lương Thế Vinh được kể như sau: “Người đàn bà mới giẫm chân vào hòn đá

mà nói rằng: - Hòn đá này quý hóa gì mà nó (tức thầy pháp người Tàu – chúng tôi

nhấn mạnh) mua đắt thế? Không ngờ thần ông ấy (tức Lương Thế Vinh) ở trong hòn

đá, từ bấy giờ đầu thai ngay vào người đàn bà ấy” [17, tr.112].

- Sinh nở thần kỳ gắn với huyệt táng

Giai thoại còn tiếp thu cả motif huyệt táng rất phổ biến trong truyền thuyết. Theo

Kiều Thu Hoạch, tình tiết huyệt táng không phải là một motif mới mà là một trong

những dạng thức của motif sinh nở thần kỳ: “Ở đây (tức motif huyệt táng – chúng tôi

nhấn mạnh) có bóng dáng của thuyết phong thủy nhưng xét cho kỹ cũng là biến dạng

của motif sinh đẻ thần kỳ” [68, tr.62]. Bàn về motif huyệt táng, Từ điển type truyện

dân gian Việt Nam viết như sau: “Các dòng họ (Vũ ở Mộ Trạch, Đinh ở Ninh Bình,

Trần ở Nam Định) phát tích nhờ thầy địa lý Trung Quốc chọn cho huyệt đất tốt để

chôn hài cốt của cha mẹ vào đấy, sau con cháu nhờ đấy mà phát tích đế vương” [74,

tr.164]. Như vậy, motif huyệt táng trong truyền thuyết phần lớn gắn liền với sự phát

tích đế vương còn trong giai thoại thì đa phần gắn liền với sự xuất hiện của các bậc

danh hiền, văn tài.

Khảo sát sách Nam Hải dị nhân liệt truyện, trong 12 giai thoại viết về cách bậc

danh hiền và văn tài, chúng tôi xác định có 05/12 tác phẩm xuất hiện motif huyệt táng,

xoay quanh các bậc đại khoa là: Mạc Đĩnh Chi (thời Trần), Đặng Đình Tướng (thời

Lê), Lê Quý Đôn (thời Lê – Trịnh), Giáp Hải (thời Mạc). Theo sự lý giải của tác giả

dân gian, sở dĩ các nhân vật trên đỗ đạt cao, học hành thông minh là do người thân của

họ đã táng hài cốt tổ tiên vào các huyệt táng tốt (thiên táng). Sách chép về Mạc Đĩnh

Chi như sau: “Ông cha (tức thân phụ Mạc Đĩnh Chi) lúc gần mất, dặn lại táng trên

mả con hầu, vì biết chỗ ấy là chỗ đất kết (ngôi mả đến giờ vẫn còn)” [17, tr.85]. Viết

về Lê Quý Đôn, sách này chép: “Ở đây có một ngôi đất rất to, dành cho họ Lê làng

Diên Hà. Cụ có phải họ Lê, thì đem tiên phần lại mà táng, về sau phát đạt, chẳng

những cụ khỏi khổ sở, mà dân tôi cũng được một sự quan ngại. Cụ kia mừng rỡ, về

nhà đem tiên phần lại táng vào huyệt ấy” [17, tr.139]. Trạng nguyên Giáp Hải theo

truyền ngôn cũng đỗ đạt nhờ vào huyệt thiên táng mà một pháp sư người Tàu chỉ bảo

cho thân mẫu của ông: “Chỗ này là huyệt thiên táng, nếu có thai thì tất sinh ra Trạng

nguyên, Tể tướng” [17, tr.121]. Các dẫn chứng cụ thể trên cho thấy, thực sự có sự ảnh

hưởng, thâm nhập của truyền thuyết vào trong giai thoại qua motif sinh nở thần kỳ.

Nói khác đi, đó là sự rơi rớt lại của một niềm tin huyền thoại hóa nhân vật người anh

hùng (chiến trận và văn hóa) trong truyền thuyết vào trong giai thoại (với kiểu nhân

156

vật văn tài).

Tuy nhiên, có một điều đáng bàn thêm là trong công trình Truyền thuyết dân gian

người Việt (tập 4, 5), Kiều Thu Hoạch đã xếp những truyện (có motif sinh nở thần kỳ)

về các bậc văn tài vào truyền thuyết. Cụ thể như sau:

- Tập 4 gồm các truyện: số 73. Truyện trạng nguyên Đỗ Lý Nghiêm thời Lê; 75.

Truyện tiền kiếp luân hồi (Thượng thư Ngô Trí Hoà, thời Lê); 76. Sự tích sinh con rồi

mới sinh cha (Trạng nguyên Nguyễn Kỳ và con trai là Nguyễn Quán Đạo, thời Mạc);

77. Truyện thám hoa Quách Giai (thời Lê – Trịnh).

- Tập 5 gồm các truyện: 303. Nguyễn Hiền (thời Lê), 304. Mạc Đĩnh Chi (thời

Trần), 378. Lê Quý Đôn (thời Lê – Trịnh).

Theo chúng tôi, điều này chưa thật hợp lý, bởi lẽ, kiểu nhân vật được nhắc đến

đều là các bậc văn tài, do vậy, xếp vào giai thoại có vẻ hợp lý hơn. Vả chăng, cũng cần

phải xét đến sự chi phối của motif đối với cách vận hành của cốt truyện như thế nào

chứ không thể căn cứ vào sự xuất hiện của motif để có thể xếp ngay vào thể loại

truyền thuyết.

Về tình tiết ngoại hình khác thường và nằm mộng gặp thần, giai thoại cũng ít

nhiều tiếp thu từ truyền thuyết. Ví dụ, Lê Nại, Lê Như Hổ nổi tiếng thơ hay ăn khỏe,

ngoại hình khác thường; các nhà nho khuyết danh đến nổi tiếng (như Nguyễn Thái

Thường, Nguyễn Đăng Đạo) đều gặp các vị thần báo mộng cho tương lai về sau,

nhưng sự ảnh hưởng này cũng có sự biến đổi đáng chú ý bằng sự xuất hiện của tình

tiết ngâm thơ cự thần. Do vậy, có thể nói, trong giai thoại tình tiết nằm mộng gặp thần

đi liền với ngâm thơ cự thần, tạo thành cặp đôi tình tiết mang tính giải thiêng thần

thánh (ở đó, sức mạnh của Nho giáo đã có phần lấn át và giành ưu thắng trước sức

mạnh của thánh thần).

Trong tất cả những giai thoại mà chúng tôi thống kê ở trên, phần lớn nhân vật

thần thánh chỉ xuất hiện qua “lời đồn” của dân gian, rất ít khi trực tiếp xuất hiện, đối

thoại hay có những tác động lớn, có thể làm ảnh hưởng đến hành trạng của NVC như

trong truyền thuyết (phù trợ hay trừng phạt). Chẳng hạn, trong Đọc thơ chê Hạng Vũ:

“Người ta đồn miếu đó rất thiêng, hễ thuyền bè qua lại trên sông mà không ghé vào lễ

bái thì sẽ bị đắm” [65, tr.91]; hay “Tục truyền từ đó ở khúc sông này, cứ vào khoảng

đêm khuya canh vắng, người ta thường nghe văng vẳng có tiếng ngâm hai câu thơ tả

cảnh đặc sắc trong bài “Đằng Vương các tự” [65, tr.92]. Chỉ có 04 văn bản: Trách cứ

Lê Quý Đôn (Nguyễn Trãi); Hai lần gặp Liễu Hạnh (Phùng Khắc Khoan); Đỡ đẻ cho

thần (khuyết danh); Rủ được thần về nhà mình (khuyết danh) là có sự đối thoại một

cách trực tiếp giữa thần và con người. Ví dụ, trong giai thoại Trách cứ Lê Quý Đôn,

157

Nguyễn Trãi đã hiện hồn mắng vị bảng nhãn họ Lê: “Ta là Tế văn hầu đây! Nhà ngươi

là một gã tiểu sinh sơ học, sao dám càn rỡ xúc phạm đến bậc huân cựu của tiền triều?

Tội đáng chết, không thứ được (...). Công danh sự nghiệp của ta, cố nhiên không thèm

so sánh với nhà ngươi. Nay ngày thường ngươi lấy khoa bảng kiêu căng. Vậy thử về

đọc lại Bình Ngô đại cáo của ta, nếu văn ngươi có hay hơn thì xé sắc của ta cũng

đáng” [89, tr245].

Giai thoại chỉ chịu ảnh hưởng yếu tố kỳ ảo từ truyền thuyết một cách rất hạn chế,

chứ không phải sao chép một cách rập khuôn. Trường hợp nào cần thiết, thì nó mới

viện tới. Thực tế cho thấy, có khá nhiều nhân vật vừa có mặt trong truyền thuyết, vừa

xuất hiện trong giai thoại nhưng rõ ràng, cách xây dựng nhân vật cũng không hoàn

toàn giống nhau do đặc trưng thể loại. Ở đây, xin dẫn ra trường hợp của anh hùng khởi

nghĩa nông dân thời phong kiến - Nguyễn Hữu Cầu. Trong truyền thuyết, kiểu nhân

vật này là những anh hùng nông dân, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa chống lại triều

đình phong kiến. Trong mắt nhân dân, dĩ nhiên họ là những con người tài năng, được

ngợi ca, ngưỡng mộ. Và đã là anh hùng thì phải phi thường: phi thường lúc sinh ra,

phi thường trong việc lập chiến công và phi thường lúc chết. Truyền thuyết chú trọng

đến nguồn gốc thần thánh của các nhân vật lịch sử, trong khi giai thoại về các nhân vật

này chủ yếu quan tâm đến lĩnh vực biệt tài, chứ không giới thiệu nguồn gốc nhân vật

theo hướng thiêng hóa ấy.

Tuyển tập Truyền thuyết dân gian người Việt (Tập 4) chép về Phạm Đình Trọng

và Quận He Nguyễn Hữu Cầu như sau: “Tục truyền ngài (tức Phạm Đình Trọng –

chúng tôi nhấn mạnh) là thần ngũ hổ giáng sinh” [68, tr.343] và “Quận He là người

làng Lôi Đỗng, huyện Thanh Hà, có sức khỏe như thần, mỗi khi lâm trận, chỉ cắp hai

thanh siêu đao phi ngựa xông vào, quan quân tan rã, không ai địch nổi, đã có tiếng

gọi là Hạng Vũ nước Nam. Tục truyền là thần bể sinh ra, cho nên lại tài nghề lặn

nước” [68, tr.344]. Trong các giai thoại kể về các cuộc đối chọi văn chương giữa hai

nhân vật này (Cốt đối ý, Đánh nhau bằng cả câu đối, Chim trong lồng, quyển Giai

thoại văn học Việt Nam [65]), tác giả giai thoại không giới thiệu như vậy (Xin xem tác

phẩm trong Phụ lục).

Như vậy, trên thực tế có sự chuyển hóa thể loại từ giai thoại sang truyền thuyết

hay không? Qua khảo sát truyền thuyết (trong công trình Truyền thuyết dân gian người

Việt của Kiều Thu Hoạch), chúng tôi cho rằng: thực sự có sự chuyển hóa thể loại từ

giai thoại sang truyền thuyết nhưng không nhiều. Trong công trình trên, chúng tôi xác

định có 02 trường hợp đáng bàn là: Truyện Chu Văn An (số 300) và Truyện ông Lê

Trãi (số 327). Cả hai truyện này hiển nhiên là truyền thuyết. Như vậy, vấn đề đặt ra ở

158

đây là vì sao trong giai thoại, tác phẩm về hai nhân vật này khá nhiều, nhưng chỉ có

một ít là đủ tầm để chuyển hóa thành truyền thuyết. Để lý giải vấn đề này, chúng tôi

đưa ra bảng sau:

Bảng 4.2. Nhân vật chuyển hóa từ giai thoại sang truyền thuyết

Thế loại Giai thoại Truyền thuyết

Nhân vật Chu Văn An Nhà nho có Tài Đức cảm hóa thần thánh (giao long)

Nguyễn Trãi Rắn báo oán (giải thích án tru di)

- Dạy học trò; - Cáo quan ở ẩn; - Diện kiến vua Trần => Con người đức độ - Tình sử (với Nguyễn Thị Lộ); - Khí khái (chửi Lê Quý Đôn); - Thu phục nhân tâm.

Trong giai thoại, Chu Văn An được kể như một nhà nho đầy đức độ, được nhân

dân và vua Trần tôn kính hết mực. Đức độ đó được soi chiếu, đánh giá trong cuộc sống

đời thường, với những con người bình thường. Còn trong truyền thuyết (Truyện Chu

Văn An), tác giả dân gian đã nâng tầm ông lên, từ nhà nho đạo đức (ẩn dật), trở thành

một con người Tài Đức, có thể cảm hóa được thần linh (thủy thần – người học trò của

ông). Phải chăng, tình tiết làm mưa của học trò thuồng luồng là tình tiết mang tính chất

đề cao, thiêng hóa Tài Đức của bậc đại nho. Và điều đó cũng nằm trong một phạm vi

lớn hơn là: cảm hứng đề cao Nho giáo, cũng như những tôn giáo khác (Phật, Đạo)

hoàn toàn có thể chinh phục và sai khiến được thần linh? Và một lý do vô cùng quan

trọng hơn của truyền thuyết này là: nhằm giải thích nguyên nhân vì sao con cháu Chu

Văn An học hành sa sút: “Trong năm Cảnh Hưng, ông Bùi Huy Ích chấp chính, dò hỏi

dòng dõi, thấy đã đổi sang họ Nguyễn, đều ngu dốt không biết gì, và ở vào hàng cùng

dân cả...” [68, tr.68].

Trường hợp của Nguyễn Trãi cũng được đặt trong mối quan hệ với thần linh (hai

con rắn trong Truyện ông Lê Trãi đều là thần sông Tô Lịch). Truyện này hướng tới

mục đích giải thích án tru di của ông. Để làm được điều đó, tác giả dân gian đã kéo

nhân vật thoát ly khỏi cuộc sống đời thường (chẳng hạn, vua Lê sủng ái Thị Lộ khiến

cho Nguyễn Trãi ghen tuông trong giai thoại (Thơ ghen vần tình)), đặt nhân vật vào

một môi trường thiêng liêng hơn, huyền thoại hơn. Trong đó, sự xúc phạm thần linh

(một cách vô tình bởi các học trò) đã khiến Nguyễn Trãi phải trả giá bằng chính mạng

sống của ông và gia tộc. Theo chúng tôi, 02 trường hợp trên là sự di chuyển từ kiểu

159

nhân vật văn tài (trong giai thoại) sang kiểu nhân vật người anh hùng trong văn hóa và

lịch sử (cứu dân khỏi hạn hán và bi kịch tru di của bậc khai quốc công thần).

Tóm lại, một nhân vật trong truyền thuyết thường hội tụ những tiêu chí sau: có

đủ độ lùi thời gian; có đủ công đức với nhân dân; có tính vấn đề, khúc mắc trong tiểu

sử, cần được nới rộng, soi chiếu bằng cái nhìn khác, nơi mà cảm hứng đời thường

không phát huy được sức mạnh và phải thay thế bằng cảm hứng huyền thoại. Đó cũng

là lý do giải thích vì sao, trong giai thoại, mặc dù có tình tiết ly kỳ về một số bậc văn

tài như: Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh, Lê Quý Đôn,... nhưng những

con người ấy vẫn nằm trong địa hạt giai thoại, chứ không nhất thiết chuyển sang biên

giới của một thể loại khác. Có lẽ, trong các nhà khoa bảng nổi tiếng, chỉ có trường hợp

của Nguyễn Bỉnh Khiêm là di chuyển sang thể loại truyền thuyết một cách dứt khoát.

Ông vừa là một bậc văn tài (qua một số giai thoại văn chương) nhưng những đóng góp

nổi bật của ông không nằm trong phạm vi văn chương mà ở lĩnh vực lịch sử, chính trị.

Những lời tiên tri của Trạng Trình có ảnh hưởng lớn lao đến các thế lực phong kiến

lúc bấy giờ (chúa Trịnh, chúa Nguyễn, nhà Mạc,...) và tồn tại trong dân gian như

những truyền ngôn mang đậm tính huyền thoại.

Theo tiến trình vận động, càng về sau, giai thoại ít xuất hiện tình tiết kỳ ảo. Đây

cũng là xu hướng chung của truyền thuyết lịch sử. Do vậy, rất nhiều nhà nghiên cứu,

sưu tầm văn học dân gian ở Nam Bộ đều cho rằng trong giai đoạn muộn, ranh giới

giữa truyền thuyết và giai thoại rất mong manh, bởi sự vắng bóng của yếu tố này. Do

vậy, sự phân biệt về mặt thể loại giữa giai thoại và truyền thuyết gặp không ít khó

khăn. Theo chúng tôi, có lẽ, đó là kết quả của quá trình thiêng hóa, huyền thoại hóa

truyền thuyết chưa hoàn kết, nhân vật chưa thể được nâng tầm đúng như vai trò, vị trí

của nó như ngưỡng vọng của nhân dân. Nói khác đi, các giai thoại mảng này vẫn song

hành cùng truyền thuyết như hai góc nhìn của dân gian bổ sung cho nhau.

Trên đây, luận án vừa điểm qua sự tiếp biến yếu tố kỳ ảo trong giai thoại. Qua số

liệu thống kê và bóc tách dẫn chứng, chúng tôi cho rằng trong giai thoại, yếu tố kỳ ảo

xuất hiện với tần số thấp, và tuy chịu ảnh hưởng từ truyền thuyết nhưng giai thoại

cũng có sự tiết chế, biến đổi nhất định, chứ không phải mô phỏng một cách rập khuôn.

Về mặt chức năng, trong đời sống thực tại, truyền thuyết gắn liền với tín ngưỡng,

nghi lễ. Và chính điều đó tạo ra môi trường thiêng liêng cho câu chuyện có liên quan

đến nhân vật. Ở Nam Bộ, ta có thể thấy được điều này qua các lễ hội về các nữ thần,

Thánh Mẫu tiêu biểu như: lễ hội núi Bà Đen (Linh Sơn Thánh Mẫu, Tây Ninh), lễ hội

Vía Bà Chúa Xứ núi Sam (Châu Đốc, An Giang), lễ vía bà Phi Yến (ở Côn Đảo),…

160

Như vậy, đặt trong môi trường nghi lễ, tín ngưỡng, truyền thuyết không chỉ có chức

năng thông tin, giáo dục mà còn có chức năng rất quan trọng là kết nối cộng đồng và

trao quyền văn hóa, gìn giữ và truyền thụ những giá trị văn hóa của thế hệ đi trước cho

thế hệ đi sau. Những chức năng này, ta khó lòng tìm thấy trong giai thoại.

Về bối cảnh diễn xướng, không phải lúc nào truyền thuyết về nhân vật cũng được

kể nếu không gắn liền với nghi lễ chính thống. Còn giai thoại, như một đặc trưng đối

lập, nó có thể được kể trong bất cứ ở đâu, bất cứ thời điểm nào (không - thời gian kể

gắn với đời sống thường nhật, chẳng hạn như những lúc trà dư tửu hậu). Đây chính là

biểu hiện của tính phi chính thống (hay tính chất bên lề) của giai thoại.

- Về mặt dung lượng bản kể: Guxev khi bàn về folklore hiện đại cũng đã gián

tiếp cho thấy đặc điểm hình thức ngắn gọn của giai thoại. Ông viết như sau: “Bên cạnh

những tác phẩm bông đùa được sáng tác không ít những tác phẩm thực sự trào phúng,

nhất là trong những hình thức “nhỏ” của folklore, những bài ca đơn khúc, những giai

thoại, những câu nói hóm, những tục ngữ và thành ngữ…” [51, tr.579]. Tuy nhiên, xét

cho cùng, hình thức dung lượng chỉ là yếu tố mang tính chất tham khảo ngoại biên

trong sự đối sánh giữa giai thoại và truyền thuyết, khó có thể xem đây là tiêu chí

thuyết phục để có thể phân định về mặt thể loại. Bởi lẽ, hầu hết các bản kể đều đã

được văn bản hóa, mà quá trình này không thể không tính đến khả năng nhuận sắc, can

thiệp ít nhiều vào tính khách quan của văn bản từ người biên soạn. Do vậy, độ ngắn

dài của văn bản, trên thực tế có thể khác xa hơn những gì bản thân bản kể đó từng tồn

tại trong dân gian.

- Về mặt tình tiết: Ở phần trên đã đề cập đến một số motif tiêu biểu. Vì vậy,

những khía cạnh đề cập dưới đây thiên về cảm hứng và chức năng. Cảm hứng ngợi ca,

tôn vinh trong truyền thuyết gắn liền với tính chất thiêng của nhân vật người anh hùng

qua hai nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là hộ quốc và an dân (anh hùng chiến trận và

anh hùng văn hóa). Với truyền thuyết, không khí thiêng liêng tạo thành một niềm tin

vĩnh cửu – điều mà Bakhtin gọi là “giới tuyến không thể thẩm lậu”. Còn trong giai

thoại, sự tôn vinh đa phần gắn liền với hành trạng đời thường của nhân vật. Chính vì

tính chất đời thường này mà cảm hứng tôn vinh hay phê phán của giai thoại có phần

gần gũi với cổ tích, truyện cười.

Trong truyền thuyết, sự kiện, tình tiết thường mang ý nghĩa sự biểu trưng nghệ

thuật, là thực tại nhưng đồng thời chứa đựng sự ảo hóa, làm thực tại có tính chất thiêng

liêng. Những tình tiết ấy không chỉ là hành trạng riêng của nhân vật mà còn ảnh hưởng

trực tiếp đến vận mệnh cộng đồng, dân tộc. Những yếu tố “thiêng hóa” trong truyền

161

thuyết (thời gian - không gian thiêng; sự kiện, nhân vật thiêng,…) đã góp phần xác lập

yếu tố niềm tin của thể loại. Ở đó, người kể và người nghe chưa bao giờ tỏ ra nghi ngờ

về tính thuyết phục của những tình tiết kỳ ảo, thiêng liêng về nhân vật. Sợi dây kết nối

họ lại với nhau không chỉ là yếu tố nhân vật, yếu tố lịch sử, mà còn là sự ảnh hưởng to

lớn của yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo,… Do vậy, có thể nói, cảm hứng chính trong

truyền thuyết là cảm hứng tôn vinh lịch sử, tôn vinh quá khứ. Trong giai thoại, sự kiện,

tình tiết được nhắc đến đều mô phỏng những diễn biến thực tế, gắn với những sinh

hoạt đời thường. Từ đó, làm nổi bật lên tính cách, đặc điểm ứng xử của nhân vật.

Những tình tiết của giai thoại đa phần có phần bên lề, phi chính thống về đối tượng, dù

họ có là người nổi tiếng trong thời đại của mình. Khi nghe, kể một giai thoại, người ta

hẳn nhiên không bao giờ đặt câu hỏi rằng những tình tiết trong văn bản là có thật hay

không mà tin rằng hoặc muốn tin rằng có thật.

Khía cạnh đời tư, cá nhân này cũng có căn rễ lịch sử, thoát thai từ chính thời đại

sản sinh ra nó. Trong công trình Đặc trưng thể loại và việc văn bản hóa truyền thuyết

dân gian Việt Nam, PGS Trần Thị An đã có những kiến giải đáng chú ý về xu hướng

thế sự hóa trong văn học nói chung và truyền thuyết nói riêng: “Những lý do nho học,

văn học, xã hội đó đã khiến cho các tác giả văn xuôi thế kỷ XVIII – XIX có hứng thú

cao độ đối với thực tại. Nhu cầu hướng tới quá khứ đã bị mờ đi, thay vào đó là nhu

cầu khám phá, mô tả hiện tại. Trong xu thế đó, các vị nhân thần trong quá khứ đã bị

kéo gần về với hiện thực bằng nhiều cách” [2, tr.261].

- Về mặt ngôn ngữ kể chuyện: Trên cái nhìn đại thể, có thể chia ngôn ngữ trong

tự sự dân gian thành ngôn ngữ người kể và ngôn ngữ lời nói của nhân vật. Về mặt

ngôn ngữ kể, ngôn ngữ kể của truyền thuyết thường mang tính chất giản dị, đời thường

nhưng vô cùng thành kính, trang nghiêm, gắn với cảm xúc, thể hiện trong những câu

chuyện về người anh hùng. Trong khi đó, bên cạnh tính chất trang trọng, ngôn ngữ kể

trong giai thoại cũng mang tính chất giễu nhại, trào tếu.

Về ngôn ngữ nhân vật: trong truyền thuyết, đặc biệt là những truyền thuyết muộn

về sau, như đã trình bày ở trên, nhân vật ít khi đối thoại, những trường hợp có xuất

hiện tình tiết thoại của nhân vật thường là những chi tiết rất đắt, có thể tạo nên motif

tình tiết (chẳng hạn, motif tình tiết lời nói cuối cùng của nhân vật mà Võ Phúc Châu

xác định được trong hệ thống truyền thuyết chống Pháp ở Nam Bộ (1958 – 1918)).

Nhìn chung, ngôn ngữ của nhân vật trong truyền thuyết muộn mang đặc điểm hệ quy

chuẩn đạo đức rất cao, miễn dịch hoàn toàn với mảng ngôn ngữ đậm chất “dân gian”

với những thủ pháp rất “bình dân” trong giai thoại văn học, giai thoại văn hóa như:

162

tiếng tục, nói lái, hình tượng hai mặt,… Chẳng hạn, trong truyền thuyết, khó ai có thể

chấp nhận kiểu “nói năng” như trong giai thoại văn hóa dân gian về nghệ nhân Trần

Hàn với cô gái khuyết danh như sau (lược kể): Cô gái thách đố nếu Trần Hàn đáp lại

được lời hò của mình, thì sẽ chấp nhận làm vợ thứ tư của ông. Nhưng lời hò quá ư lắt

léo, và hơn nữa là còn quá thô tục theo nghĩa ẩn dụ. Câu này hò như sau: “Quần em

rách dọc rách ngang/ Thầy liệu thầy hàn em trả công cho”. Cô gái đã khéo léo đưa

tên cha (thầy Liệu, làm thầy đồ dạy học) và tên con (thầy Hàn – tức Trần Hàn) vào câu

hò, theo thủ pháp chơi chữ đồng âm. Nhưng ngụ ý của câu hò thì khó có thể chấp nhận

được: lấy tên hai cha con vá vào chỗ giao điểm của hai đường ngang, dọc trên quần

của người phụ nữ! Mà thực ra, làm sao có thể vá cho lành chỗ đó được? (Chết vì một

câu hò) [113, tr.490 – 491]. Tóm lại, trong truyền thuyết, vì mục đích thể loại muốn

hướng đến là tôn vinh, ngợi ca người anh hùng, cho nên khó có thể nào tồn tại loại

ngôn ngữ tinh nghịch, dân gian (theo hướng tục) như trong giai thoại.

4.1.2. Mối quan hệ giữa giai thoại và truyện cười

Về sự phân loại truyện cười, có nhiều quan niệm, ý kiến khác nhau. Tuy nhiên,

luận án tiếp thu quan niệm phân loại của PGS Hoàng Tiến Tựu với lý do: cách phân

loại của tác giả phù hợp cho sự đối sánh giữa giai thoại với truyện cười theo tiêu chí

NVC (gồm có tính danh và khuyết danh/phiếm chỉ). Trong giáo trình Giai thoại văn

học dân gian Việt Nam [133], Hoàng Tiến Tựu đã chia truyện cười thành hai loại:

truyện cười kết chuỗi và truyện cười không kết chuỗi. Trong đó, truyện cười không kết

chuỗi có NVC phiếm chỉ và truyện cười kết chuỗi gắn với NVC xác định, có tính danh

hẳn hoi (mà các nhà nghiên cứu khác gọi là truyện trạng). Sau đây, luận án sẽ đi vào

phần phân tích những điểm tương đồng và dị biệt giữa giai thoại và truyện cười (theo

hai bộ phận trên).

4.1.2.1. Mối quan hệ giữa giai thoại với truyện cười không kết chuỗi

Trên đại thể, truyện cười không kết chuỗi và giai thoại có những nét tương đồng

với nhau, cho nên dẫn đến tình trạng nhập nhằng trong việc phân loại. Nhìn vào thực

tiễn sưu tầm giai thoại và truyện cười ở Việt Nam, chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận

ra điều đó. Qua tìm hiểu, chúng tôi đưa ra bảng so sánh những điểm tương đồng và dị

biệt giữa giai thoại và truyện cười không kết chuỗi như sau:

163

Bảng 4.3. So sánh giữa giai thoại và truyện cười

TIÊU CHÍ SO SÁNH GIAI THOẠI TRUYỆN CƯỜI

Cảm hứng

Nhân vật

Ngôn ngữ

ĐIỂM GIỐNG NHAU

Đả kích, phê phán các thế lực vương quyền, thần quyền; các thói hư, tật xấu của xã hội Có cùng kiểu NVC khuyết danh - Giàu tính trí tuệ - Có sử dụng yếu tố tục Hài hước, dí dỏm, phê phán Thường ngắn gọn

Có thể tin hay không tin Giọng kể Dung lượng Thái độ người tiếp nhận

Nhân vật - Chỉ có nhân vật khuyết danh (không có nhân vật là người nổi tiếng, tính danh)

Chủ yếu là những mâu thuẫn trên lĩnh vực xã hội Lĩnh vực phản ánh ĐIỂM KHÁC NHAU

tạo Kết cấu Dựa vào logic mâu thuẫn để gây tiếng cười

- Kiểu loại đa dạng, lĩnh vực gồm nhiều khác nhau (Nhân vật trí thức; ngông; nhà nho tài tử, nhà nho ẩn dật; nghệ nhân dân gian; nghệ sĩ sân khấu;…) - Nhân vật có tính danh và một bộ phận khuyết danh 3 lĩnh vực: văn học, lịch sử và văn hóa Motif trung tâm (hạt nhân): - Thách đố văn chương - Làm tình thơ huống -Thách đố, ứng biến trong hò hát, sân khấu

thức văn Có tính kết chuỗi Không có tính kết chuỗi Hình bản

Những điểm tương đồng giữa giai thoại và truyện cười không kết chuỗi

Về những nét tương đồng giữa hai thể loại này, chúng tôi xác định được một số

khía cạnh cơ bản sau:

- Về cảm hứng: cả hai có cùng cảm hứng đả kích phê phán thế lực vương quyền,

thần quyền và cả những thói hư tật xấu trong xã hội. Trong truyện cười không kết

chuỗi và giai thoại, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những người đại diện cho vương

quyền, thần quyền ở dạng khuyết danh (vua chúa, quan lại, thầy tu, thầy đồ, thầy lang,

thầy pháp, thần thánh,…) nằm trong đối tượng đả kích của truyện. Đây cũng là điều

mà các nhà nghiên cứu giai thoại đi trước đã chỉ ra được. Tuy nhiên, cũng cần phải

164

khẳng định ngay rằng, trong sự tương đồng về cảm hứng đả kích này cũng đã hé mở

điểm khác biệt rõ nét: trong truyện cười, những người đại diện cho vương quyền, thần

quyền không bao giờ là những nhân vật cụ thể, xác định, có hành trạng hẳn hoi như

trong giai thoại. Các ông vua, ông quan, thần thánh,… trong truyện cười là những

nhân vật phiếm chỉ đại diện cho cả giai tầng của họ. Không bao giờ các ông vua, ông

quan đó có thể được nêu tên một cách đích danh như trong giai thoại. Chẳng hạn,

trong giai thoại, chúng ta có thể bắt gặp những Minh Mạng, Tự Đức, Bà Chúa Liễu

Hạnh,… được gọi tên hẳn hoi và trở thành đối tượng châm chọc, hạ bệ của NVC. Như

vậy, có thể khẳng định rằng một bộ phận của giai thoại khuyết danh (nằm trong tiểu

loại giai thoại văn học và giai thoại văn hóa dân gian) là giao nhau rõ rệt với truyện

cười (cùng cảm hứng và cùng dạng NVC khuyết danh).

- Về nhân vật: truyện cười không kết chuỗi tất nhiên chỉ có NVC là nhân vật

khuyết danh (hay phiếm chỉ) và dù cho NVC của nó có được gán cho một cái tên nào

đó, thì sự có mặt của tên tuổi đó cũng chỉ mang tính chất chung chung. Nói khác đi,

NVC của truyện cười được khái quát thành một loại người, hạng người trong xã hội.

Còn trong giai thoại, có hai kiểu NVC: có tính danh (người nổi tiếng) và khuyết danh.

Như vậy, sự giao nhau về mặt nhân vật giữa giai thoại và truyện cười nằm ở bộ phận

những giai thoại có NVC khuyết danh trong kho tàng giai thoại, chứ không phải là tất

cả. Đây cũng là điểm mà nhiều nhà nghiên cứu giai thoại đã chỉ ra được. Tuy nhiên,

theo chúng tôi kiến giải trên chưa đủ sức thuyết phục mà cần phải nói thêm cách thức

xây dựng hình tượng nhân vật trong hai thể loại. Trong truyện cười, cách xây dựng

nhân vật chủ yếu thông qua hành động gây cười. Hành động đó thường được cường

điệu hóa, qua đó bộc lộ bản chất thực bên trong. Đó chính là cơ sở để xây dựng nhân

vật. Còn trong giai thoại, nhân vật thường đứng trước các tình huống ứng xử trong

sinh hoạt văn chương, sinh hoạt văn nghệ dân gian hoặc trong các hoạt động triều

chính với các hình thức thách đố - giải đố, ứng tác,… mà luận án đã bàn đến ở Chương

3. Cố nhiên, cường điệu cũng là một thủ pháp được giai thoại sử dụng để xây dựng

nhân vật nhưng nó thường không hướng đến tiếng cười mà hướng đến sự ca ngợi, đề

cao trí tuệ của nhân vật. Ví dụ, Lê Quang Bí phơi bụng giữa trưa để khoe chữ nghĩa,

Lê Quý Đôn chép một hơi cả cuốn sổ ghi nợ của nhà buôn, Cao Bá Quát cởi truồng để

xem vua,… Như vậy, sự cường điệu trong giai thoại bất chấp các nguyên tắc, ứng xử

cốt sao đạt mục tiêu thể hiện cái ngông của nhân vật, mang tính cách cá thể của nhân

vật ấy.

Trong giai thoại văn học, dù NVC là các nhà nho, nhà khoa bảng đi chăng nữa,

165

thì không ít trường hợp họ vẫn viện đến yếu tố tục để giải quyết tình huống. Chẳng

hạn, chùm giai thoại đối đáp giữa Đoàn Thị Điểm và Trạng Quỳnh, Hồ Xuân Hương

với Chiêu Hổ toàn là những biểu tượng hai mặt, mang đậm phong cách văn chương

bác học. Các giai thoại sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian của các nghệ nhân như:

Trần Hàn, cô Long, cô Nhẫn, O Tộ, cô Nhẫn,… chứa đựng hàng loạt những hình ảnh

có liên quan đến sinh thực khí nam nữ, động tác giao hoan, hay thậm chí là đi vệ sinh

của nhân vật.

Còn trong truyện cười không kết chuỗi, ta có thể thấy yếu tố tục xuất hiện trong

hàng loạt truyện, cũng trở thành một đặc điểm đáng chú ý về mặt ngôn ngữ, chẳng

hạn: Úm ba la, ba ta cùng khỏi; Thuốc mọc râu; Lấy giống trâu; Thả cả ra;… Cái tục

trong truyện cười nhìn chung mang phong cách dân gian đậm nét. Còn trong giai thoại,

ngoài phong cách dân gian ra, còn có cả cái tục theo phong cách bác học. Ví dụ, “áp

tam thuỳ”, “hang hùm” (Hồ Xuân Hương), “nhất thốn thổ” (Đoàn Thị Điểm), “ngọc

hành” (Nguyễn Khuyến);… để trỏ vào sinh thực khí nam, nữ.

- Về giọng điệu: cả hai gặp nhau ở điểm vận dụng ngôn ngữ mang tính dí dỏm,

trào phúng và cả phê phán.

- Về thái độ người tiếp nhận: khi tiếp nhận truyện cười không kết chuỗi, người ta

không đặt ra vấn đề tin những gì được nói đến. Thái độ tiếp nhận như vậy chắc hẳn có

liên quan phần nào đến khía cạnh chức năng của thể loại. Ở điểm này, chức năng giải

trí, mua vui của truyện cười rõ ràng rất nổi bật. Nhưng khi thưởng thức một giai thoại,

điều mà người nghe/đọc cần là tính hấp dẫn của câu chuyện và mơ hồ tin vào tính xác

thực của nó.

Những điểm khác biệt giữa giai thoại với truyện cười không kết chuỗi

Điểm khác biệt lớn nhất để có thể phân biệt truyện cười không kết chuỗi và giai

thoại theo chúng tôi là nằm ở phần kết cấu. Kết cấu của giai thoại tùy theo từng tiểu

loại, từng nhóm mà có cơ sở triển khai trên những motif hạt nhân khác nhau (như đã

trình bày ở bảng so sánh và sẽ được triển khai một cách cụ thể ở Chương 4 luận án).

Trong đó, kết cấu này căn bản hướng đến những hành động, ứng xử của các nhân vật

trên các phương diện: đối đáp văn chương (giai thoại văn học), đối đáp trong hò hát,

ứng biến trên sân khấu (giai thoại văn hóa dân gian), ứng xử trước thời thế (giai thoại

lịch sử),… với mục đích cốt lõi là đề cao Tài và Đức của nhân vật. Dù trong giai thoại

văn học, giai thoại văn hóa dân gian có thể xuất hiện tiếng cười nhưng tiếng cười đó

không nằm trong mục đích đả phá mà khung kết cấu hướng đến. Còn kết cấu căn bản

của truyện cười là dẫn dắt các tình tiết trên cơ sở mâu thuẫn để vạch trần bản chất của

166

đối tượng: xấu – đẹp; tầm thường – cao quý; phi lý – có lý; hình tượng – tư tưởng;

máy móc – sinh động;… nhằm mục đích tối thượng là tạo ra tiếng cười phê phán cái

phi lý. Một truyện cười mà khi nghe xong, người ta chẳng buồn cười, thì coi như là

thất bại.

4.1.2.2. Mối quan hệ giữa giai thoại và truyện cười kết chuỗi

Như đã đề cập, giai thoại gồm có hai bộ phận phân biệt nhau rõ rệt về mặt nhân

vật: một loại gắn với nhân vật người nổi tiếng, có tính danh và một loại lại gắn với

nhân vật khuyết danh. Do vậy, sự nhập nhằng giữa giai thoại và truyện trạng chủ yếu

xảy ra ở loại thứ nhất, tức là ở dạng nhân vật người nổi tiếng. Trong phạm vi truyện

trạng đó là những nhân vật được nhân dân gọi là các ông trạng. Tuy nhiên, đây là vấn

đề khá phức tạp nên xin đi sâu vào mấy khía cạnh thể loại.

Lật lại lịch sử nghiên cứu về truyện trạng và giai thoại, chúng ta sẽ thấy nổi lên

một số quan niệm nổi bật. Trong đó, có quan niệm cho rằng truyện trạng thật ra là

một bộ phận của giai thoại. Đây là quan niệm của các tác giả: Lê Bá Hán (trong

Thuật ngữ nghiên cứu văn học), Vũ Ngọc Khánh (trong Truyện trạng Việt Nam, Dẫn

luận nghiên cứu folklore Việt Nam, Kho tàng giai thoại Việt Nam) (Dẫn lại theo

Nguyễn Chí Bền, Khái luận Truyện cười, Tập 9, phần Truyện trạng, Tổng tập Văn học

dân gian người Việt [16, tr.16]); Hoàng Tiến Tựu (Giáo trình Văn học dân gian Việt

Nam) [135] và Lê Chí Quế (Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam) [125].

Trong phần Phân loại truyện cười của giáo trình Văn học dân gian Việt Nam,

Hoàng Tiến Tựu đã chia truyện cười thành hai loại chính: truyện cười không kết chuỗi

(gắn với NVC khuyết danh) và truyện cười kết chuỗi (gắn với NVC có tính danh). Và

mặc dù nhà nghiên cứu không gọi truyện cười kết chuỗi là giai thoại nhưng trong tư

duy khoa học, Hoàng Tiến Tựu đã xem nhóm này là giai thoại. Ông viết như sau: “Đó

là những mẩu giai thoại hài hước, trào lộng về các nhân vật nổi tiếng như Trạng

Quỳnh, Trạng Lợn, Ba Giai, Tú Xuất, Xiển Bột, Thủ Thiệm, Ba Phi… Ở đây nhân vật

trung tâm của chuỗi truyện (hay giai thoại) chẳng những có tính cách xác định xã hội

cụ thể, có tính cách độc đáo và tương đối nhất quán, mà còn có tên riêng, có “lý lịch”

rõ ràng, mặc dù phần lớn là hư cấu, thêu dệt (phần hư nhiều hơn phần thực) [135,

tr.101].

GS Lê Chí Quế trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam cũng có cùng quan

điểm như vậy. Mặc dù Lê Chí Quế (người chấp bút phần Truyện cười) không biện giải

về thuật ngữ tuy nhiên, qua cách định danh truyện cười giai thoại (gồm 1. Truyện

Trạng Quỳnh; 2. Truyện Trạng Lợn; 3. Truyện Ông Ó [125, tr.145 – 153]), thì cũng có

167

thể kết luận rằng: tác giả đã mặc nhiên xem truyện trạng là giai thoại (hoặc chí ít là

truyện dân gian có tính chất giai thoại). Tác giả viết: “Chức Trạng chỉ là một danh

hiệu có tính chất dân gian và hệ thống truyện Trạng Quỳnh là loại truyện có tính chất

giai thoại. Gọi truyện Trạng Quỳnh là loại truyện giai thoại vì rất có thể những truyện

này được xây dựng trên cơ sở chất liệu thực tế của Nguyễn Quỳnh làng Bột Thượng

(và về sau ra sống ở Thăng Long)” [125, tr.146]. Như vậy, cơ sở lý luận khi xếp

truyện trạng vào giai thoại của Hoàng Tiến Tựu, Lê Chí Quế là căn cứ vào tiêu chí: hư

cấu nhân vật dựa trên nền tảng một nhân vật khởi hình lịch sử có thật trong thực tế

(prototype).

Vẫn dựa trên cơ sở nhân vật có thật trong đời sống thực tế, các nhà nghiên cứu đi

sau cũng có những lý lẽ riêng để đưa truyện trạng vào giai thoại. Trong các nhà nghiên

cứu folklore Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh là người nhất quán nhất trong việc xếp truyện

trạng vào giai thoại, xem truyện trạng như một bộ phận của giai thoại. Nhưng khác với

Lê Chí Quế, ông xếp nó vào tiểu loại giai thoại folklore chứ không phải truyện cười.

Trong Kho tàng giai thoại Việt Nam, tác giả viết: “Biên soạn thơ văn trào phúng,

chúng ta thường phải cân nhắc và giải quyết các vấn đề như: chuyện Trạng Lợn,

Trạng Quỳnh, Ba Giai, Tú Xuất từ xưa mặc nhiên xem là truyện tiếu lâm (!), nay nếu

cho là giai thoại thì e rằng có nhiều cấn cớ. Trong khi đó, trên thế giới, những chuyện

xoay quanh Naxredin, truyện chàng Tin, chuyện Bitban,… người ta đã đưa vào giai

thoại mà không thấy có băn khoăn gì” [89, tr.24]. Cũng xem truyện trạng nằm trong

phạm vi giai thoại nhưng tác giả Kiều Thu Hoạch thì cho rằng một bộ phận truyện

trạng gắn liền với thơ văn, câu đối là một nhóm của giai thoại văn học (chứ không phải

thuộc về văn hóa dân gian như quan niệm của Vũ Ngọc Khánh). Ông viết như sau:

“Một số giai thoại về các cuộc đối chọi thơ văn trong hệ thống các nhân vật cơ trí mà

lâu nay ta vẫn quen gọi là truyện trạng – Trạng Quỳnh, Xiển Ngộ, Tú Xuất… đều có

thể xếp vào giai thoại văn học mà không có gì phải băn khoăn” [67, tr.31].

Cơ sở lý luận của Vũ Ngọc Khánh và Kiều Thu Hoạch là căn cứ vào định nghĩa

giai thoại của Guxev (trong Mỹ học folklore): “…Những giai thoại có thể kết chuỗi

xung quanh một nhân vật quen thuộc với đại chúng (populaire), có thể là nhân vật lịch

sử hoặc tưởng tượng…” (Dẫn lại theo Kiều Thu Hoạch [67, tr.29]). Tức là vừa căn cứ

vào tính kết chuỗi về mặt văn bản, vừa căn cứ vào tính hư cấu dựa trên khởi hình lịch

sử (prototype) trong tư duy sáng tạo giai thoại đã nêu ở trên. Tuy vậy, hai tác giả lại có

sự khác nhau trong việc xếp truyện trạng vào tiểu loại nào của giai thoại: Vũ Ngọc

Khánh căn cứ vào sinh hoạt và sáng tác folklore để xếp truyện trạng vào giai thoại

168

folklore, trong khi Kiều Thu Hoạch căn cứ vào tiêu chí hình thức thơ văn để xếp nó

vào trong giai thoại văn học.

Và với quan niệm như vậy, Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch – trong các công

trình giới thiệu giai thoại – đã xếp các truyện về: Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Trạng Vật,

Trạng Ăn, Trạng Cờ, Trạng Bờ Ao (Tả Ao), Trạng Tư Thiên, Trạng Trịnh, Trạng

Khiếu, Ba Giai, Tú Xuất, Xiển Ngộ, Thủ Thiệm, Thượng Nành, Mân Nhụy, … vào kho

tàng giai thoại Việt Nam. Không chỉ có Vũ Ngọc Khánh, tình hình xếp truyện trạng

vào giai thoại cũng xảy ra ở những công trình sưu tầm, giới thiệu giai thoại khác.

Chẳng hạn như công trình Giai thoại văn học Việt Nam (1965) [65] của Hoàng Ngọc

Phách, Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh Mại có 04 văn bản về Trạng Quỳnh (Miệng kẻ

sang, đồ nhà khó; Chó khôn chớ cắn càn; Tú Cát - Bọ hung; Xơi hai trứng). Sách Giai

thoại đất Quảng của tác giả Hoàng Hương Việt cũng đưa 05 văn bản về Thủ Thiệm

vào giai thoại (Bảy ngày làm thủ sắc, Chỉ giam đầu, Hương Đại gặp xui, Dẹp bàn thờ

chồng, Chơi chữ). Quyển Giai thoại Thăng Long của Vũ Ngọc Khánh, Đỗ Thị Hảo

cũng xếp 03 văn bản về Ba Giai, Tú Xuất vào giai thoại (Mắc mưu cậu tú, Hễ ai mà

nói dối ai, tối ba mươi tết…, Bốn bức chân dung).

Như vậy, riêng mỗi xu hướng xem truyện trạng là một bộ phận của giai thoại

cũng đã phân hóa thành hai quan điểm khác biệt, rộng và hẹp khác nhau. Điều đó cho

thấy vấn đề mối quan hệ giữa truyện trạng và giai thoại là không hề giản đơn, bắt buộc

đã đến lúc phải đưa ra những kiến giải nhằm phân định một cách chính xác, khoa học

hơn về lằn ranh của chúng. Qua tìm hiểu, chúng tôi bước đầu đưa một số điểm đáng

chú ý như sau:

Giữa giai thoại và truyện trạng có khá nhiều điểm tương đồng có thể tìm thấy

dưới góc độ cảm hứng, nhân vật, ngôn ngữ,… (tương tự như trường hợp truyện cười

không kết chuỗi ở trên). Do vậy, ở đây, luận án không điểm qua những điểm tương

đồng dễ nhận diện đó mà tập trung đi vào những điểm khác biệt căn bản để khu biệt về

mặt thể loại.

- Về nhân vật: nhân vật trong giai thoại rõ ràng đa dạng hơn, vì nó hiện diện

trong nhiều lĩnh vực (văn học, văn hóa, lịch sử), còn trong truyện trạng, hiển nhiên chỉ

gói gọn trong danh xưng mà nhân dân gọi là “trạng”. Mà thực chất nhân vật trạng dần

được đồng hóa với nhân dân về thái độ phản kháng đối với chế độ. Vì vậy, xét về nhân

vật, rõ ràng mang tính biểu tượng hơn là con người cá thể. Một điểm nữa, góp phần

xác định ranh giới giữa truyện trạng và giai thoại là ở kiểu loại nhân vật của truyện

trạng. Nguyễn Chí Bền trong Khái luận về truyện trạng cũng đã khẳng định điều này:

169

“Nhân vật truyện trạng là nhân vật ở thế lưỡng phân: vừa là nhân vật sáng tạo, vừa là

nhân vật trung tâm của hệ thống truyện kể” [16, tr.17]. Ví dụ, các truyện về Nguyễn

Kinh và Ba Phi. Trong giai thoại, không có trường hợp như vậy.

- Về không gian hoạt động: Lĩnh vực phản ánh trong giai thoại như đã nói bao

gồm 3 lĩnh vực (văn học, văn hóa và lịch sử). Điều này thể hiện qua những cuộc đối

kháng giữa trạng với các nhân vật quan phương. Ví dụ, Trạng Quỳnh đối kháng với

chúa Trịnh và cả hệ thống quan lại của triều đình. Do vậy, có thể nói rằng lĩnh vực

phản ánh của giai thoại rộng hơn so với truyện trạng.

- Về kết cấu: cả hai cũng có cách triển khai kết cấu không giống nhau. Với giai

thoại văn học, ta có hai dạng kết cấu cơ bản (xoay quanh 2 motif hạt nhân là thách đố

văn chương và làm thơ tạo tình huống, tạo thành hai nhóm giai thoại là giai thoại văn

học về thách đố văn chương và giai thoại văn học về ứng tác văn chương). Với giai

thoại văn hóa dân gian, thì từng nhóm riêng lẻ của nó cũng có những dạng kết cấu

riêng biệt. Ví dụ, nhóm giai thoại sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian, ta có kết cấu

xoay quanh motif thách đố trong hò hát, với nhóm giai thoại sân khấu, tuồng chèo, cải

lương, ta có kết cấu xoay quanh motif hạt nhân là ứng biến (trong khi diễn xuất). Còn

trong truyện trạng, theo Nguyễn Chí Bền, đó là kết cấu xoay quanh sự mâu thuẫn giữa

trạng và tập đoàn thống trị, được triển khai theo hai hướng: 1. Trạng >< vua chúa và

2. Trạng >< tập đoàn thống trị (Nguyễn Chí Bền, [16, tr.39]).

Tựu trung lại, mỗi quan niệm vừa dẫn ra ở trên (xem truyện trạng là một thể loại

độc lập của văn học dân gian, xem truyện trạng là giai thoại với tư cách một tiểu loại

của truyện cười, xem truyện trạng là giai thoại văn hoá dân gian và giai thoại văn học)

đều có những lý lẽ riêng của nó. Tuy nhiên, theo suy nghĩ của chúng tôi, giai thoại và

truyện trạng tuy có những điểm giao nhưng trên đại thể, chúng có những điểm khác

biệt cơ bản như đã trình bày ở trên.

4.1.3. Mối quan hệ giữa giai thoại và cổ tích

Bên cạnh mối quan hệ với truyền thuyết, truyện cười, giai thoại cũng có mối

quan hệ với một thể loại khá quen thuộc khác trong tự sự dân gian. Đó là cổ tích. Để

làm rõ điều này, xin đi vào phân tích một số kiểu truyện tiêu biểu, trong đó, làm nổi rõ

lên vấn đề giao thoa và chuyển hóa thể loại giữa cổ tích (sinh hoạt) và giai thoại (văn

học).

Thứ nhất, kiểu truyện kén rể

Trong cổ tích sinh hoạt, hình thức thi tài để kén rể khá đa dạng và không có sự

xuất hiện của thơ văn; còn trong giai thoại, phải có sự hiện diện của thơ văn (thi tài

170

văn chương). Qua khảo sát 03 văn bản: Thơ ngựa ông phi (giai thoại văn học) và Kén

rể hay chữ và Một cuộc tranh tài (Xin xem Phụ lục), có thể thấy một số điểm sau:

Trong Kén rể hay chữ, nội dung văn chương là thứ yếu (vắng bóng) và được thay

bằng khả năng ứng biến (tức mưu trí) của nhân vật. Còn trường hợp thứ hai, trong

truyện Một cuộc tranh tài, nhân vật chàng trai là người giỏi văn chương (làm văn sách

– một thể loại văn chương dùng trong khoa cử thời phong kiến). Trong cuộc thi tài

nhằm kén rể này, khả năng trí tuệ đó đã hòa lẫn vào khả năng thể chất của các nhân vật

khác (tức NVĐT của anh ta). Tóm lại, trong cổ tích sinh hoạt, hình thức thi tài bằng

văn chương xuất hiện chưa thật rõ nét, chưa trở thành nội dung phản ánh quan trọng và

tiên quyết như trong giai thoại văn học. Sự có mặt hay vắng bóng của nội dung văn

chương không làm tổn tại đến nội dung cốt truyện.

Trong giai thoại văn học (về thách đố văn chương), nội dung văn chương đóng

vai trò nòng cốt trong sự vận động của cốt truyện, trở thành yếu tố không thể thiếu

vắng. Trong cốt truyện về nhóm giai thoại thách đố văn chương, một khi đã xuất hiện

tình tiết thách đố văn chương thì hiển nhiên sẽ xuất hiện tình tiết giải đáp thách đố văn

chương (gọi tắt là giải đố). Đó là công thức cấu tạo đã định hình và cốt lõi nhất của

nhóm giai thoại này. Do vậy mà, trong giai thoại Thơ ngựa ông phi, mặc dù có cùng đề

tài – cốt truyện là đề cập đến việc kén rể nhưng nội dung thơ văn của nó trở thành yếu

tố quan trọng trong sự vận động của cốt truyện. Cả ba chàng trai đóng vai trò là những

người thi tài để được vợ. Tài năng ở đây được giới hạn ở phạm vi rất hẹp là khả năng

văn chương. Ba nhân vật đều tức cảnh sinh tình, sáng tác 03 bài thơ rất nhanh theo yêu

cầu nêu ra từ đầu. Thiếu đi yếu tố thơ văn, cốt truyện sẽ bị phá vỡ và do đó, bản thân

tác phẩm sẽ không còn là giai thoại nằm trong nhóm thách đố văn chương. Nói khác

đi, thơ văn trong giai thoại văn học là yếu tố bắt buộc phải có mặt trong cấu trúc của

thể loại, còn trong cổ tích sinh hoạt, yếu tố thơ văn chỉ đóng vai trò thứ yếu, không

làm ảnh hưởng đến cốt truyện của nó.

Thứ hai, kiểu truyện Em bé thông minh

Trong cổ tích (sinh hoạt), kiểu truyện về nhân vật (là em bé) thông minh khá phổ

biến trong kho tàng cổ tích Việt Nam cũng như các nước trên thế giới. Trong công

trình Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, GS Nguyễn Đổng Chi đã giới thiệu truyện Em

bé thông minh (Xin xem văn bản trong Phụ lục). Trong phần Khảo dị, GS Nguyễn

Đổng Chi đã chỉ ra tính chất phổ biến của kiểu truyện này trong kho tàng truyện trạng

(Trạng Quỳnh của người kinh, Dê đực chửa), kho tàng truyện cổ tích của các dân tộc

thiểu số ở Việt Nam, cũng như kho tàng cổ tích của các dân tộc trên thế giới. Với kiểu

171

truyện này, chúng tôi tập trung sự chú ý vào tình tiết người duy nhất giải được câu đố

của sứ giả. Bởi lẽ, tình tiết này đánh dấu sự giao thoa về mặt thể loại giữa cổ tích (sinh

hoạt) và giai thoại (văn học).

Qua khảo sát giai thoại, chúng tôi nhận thấy tình tiết người duy nhất giải được

câu đố của sứ giả xuất hiện ở 03 đơn vị tác phẩm có liên quan đến các bậc đại khoa

thời phong kiến là: Nguyễn Hiền (Trạng nguyên về học lễ), Lê Quý Đôn (Thư mượn

áo cừu), Nguyễn Đăng Cảo (Phong nguyệt vô biên). Trong cổ tích, câu đố có phạm vi

rộng, xoay quanh chuyện sinh hoạt và chủ yếu dùng mưu mẹo để xử lý tình huống,

vượt thử thách. Còn trong giai thoại, câu đố đã được “bác học hóa” (văn chương hóa),

theo kiểu chiết tự như đã phân tích ở các phần trước của luận án. Có thể đây là sự

chuyển hóa theo hướng:

Câu đố trong cuộc sống thường nhật Câu đố trong lĩnh vực văn chương

Sơ đồ 4.4. Sự chuyển hóa hình thức câu đố từ cổ tích sang giai thoại

Thứ ba, kiểu truyện Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng

Trong sự ảnh hưởng từ cổ tích, giai thoại còn vận dụng lại kiểu truyện Chưa đỗ

ông nghè đã đe hàng tổng. Theo Từ điển type truyện dân gian Việt Nam, trong cổ tích

có 04 bản kể (đều của người Kinh) có liên quan là: Chưa đỗ ông nghè; Chưa đỗ ông

nghè đã đe hàng tổng; Người học trò và con chó đá; Chuyện con chó đá. Theo đó, có

hai tình tiết đáng lưu tâm: 1. Tượng thần mừng rỡ khi gặp anh học trò; 2. Sự thay đổi

tính tình của anh học trò và người cha (khiến cho thượng đế nổi giận mà trừng phạt

bằng cách thay đổi sổ thiên đình). Trong giai thoại, kiểu truyện này xuất hiện trong

trường hợp nhà khoa bảng Lương Thế Vinh với tình tiết tương tự: “Tục truyền, Thế

Vinh đã thác sinh ở huyện Nam Xang. Khi lên 7, 8 tuổi, cùng trẻ con đi học. Bên cạnh

đường có một con chó đá, mỗi khi Thế Vinh đi qua, thì con chó đá ấy vẫy đuôi mà

mừng” [17, tr.110]. Sự thay đổi tính tình của người cha đã khiến Trạng Lường thất

vọng mà tái sinh ở một ngôi làng bên cạnh. Như vậy, đã có sự tiếp biến qua cách thức

lịch sử hóa anh học trò khuyết danh thành Lương Thế Vinh trên cái nền của cổ tích.

Thứ tư, kiểu truyện Anh học trò và ba con quỷ

Trong công trình Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi đã giới

thiệu truyện Anh học trò và ba con quỷ cùng với một số dị bản của nó (Xin xem Phụ

lục). Cốt truyện này có thể tóm lược như sau: Anh học trò bắt và tha mạng cho ba con

quỷ → được tặng 03 vật thần kỳ (mặt trời, mặt trăng và con ngựa thần) → thi đỗ tiến

sĩ và làm quan.

172

Có công thức cấu tạo tương tự, câu chuyện về sự học hành, tiến thân của Bảng

nhãn Đỗ Uông (thời Mạc) cũng được sách Nam Hải dị nhân liệt truyện chép lại trong

truyện Phạm Trấn – Đỗ Uông. Cốt truyện có thể tóm tắt theo sơ đồ sau: Đỗ Uông bắt

và tha mạng cho con quỷ → được tặng vật thần kỳ (viên ngọc) → học hành thông

minh → đỗ bảng nhãn và làm quan,…

Các nhà nghiên cứu đi trước (Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch,...) cũng đã từng

lưu ý đến sự chuyển hóa thể loại từ cổ tích (sinh hoạt) sang giai thoại (văn học) xảy ra

ở nhóm truyện có liên quan đến nhân vật thông minh trong các tình huống đối đáp văn

chương. Và các nhà nghiên cứu cho rằng, nguyên nhân của hiện tượng trên là do xu

hướng lịch sử hóa trong việc sáng tạo giai thoại. Cơ chế của xu hướng này là: sử dụng

lại các câu chuyện có sẵn, chỉ thay đổi tên NVC từ NVC khuyết danh sang NVC có

tính danh, người nổi tiếng. Ví dụ, cổ tích (sinh hoạt) Anh học trò sửa liễn cửa ngõ phủ

ông hoàng có NVC là em bé chuyển thành NVC là Cao Bá Quát sửa câu đối của vua

Tự Đức (giai thoại Tự tiện chữa văn của vua); cổ tích (sinh hoạt) Đứa trẻ ngỗ ngược

có NVC là em bé chuyển thành NVC là trạng nguyên Nguyễn Hiền (giai thoại Trạng

nguyên về học lễ),...

Do vậy, rất có thể lịch sử hóa cổ tích sinh hoạt chính là một trong những cách

thức sáng tạo ra một bộ phận giai thoại văn học. Đây cũng là điều mà nhiều nhà

nghiên cứu đi trước đã đề cập. Từ đó, có thể khái quát quá trình chuyển hóa thể loại từ

Cố tích (sinh hoạt)

Giai thoại (văn học)

cổ tích sang giai thoại như sau:

Lịch sử hóa

Sơ đồ 4.5. Quy luật chuyển hóa thể loại từ cổ tích sang giai thoại

4.2. Mối quan hệ giữa giai thoại và lịch sử

Như đã đề cập ở Chương 3, tính chất hư cấu và sai lệch của giai thoại đã tất yếu

đặt ra vấn đề mang tính chất lý luận về mặt thể loại, đó là mối quan hệ giữa giai thoại

và lịch sử. Lịch sử ở đây theo chúng tôi hiểu là sử quan phương, chính thống của nhà

nước phong kiến, chứ không phải là những câu chuyện được truyền tụng trong dân

gian (dã sử). Việc nghiên cứu (dưới góc nhìn so sánh) giữa giai thoại và lịch sử từng

được bàn đến bởi một số nhà nghiên cứu giai thoại đi trước (Trần Thanh Mại, Vũ

Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch,…) và đã có những thành quả đáng ghi nhận. Các nhà

nghiên cứu đã chỉ ra được những tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa giai thoại và lịch

sử theo hai hướng nổi bật: 1. Lịch sử là nguồn cội sản sinh ra một bộ phận giai thoại

173

lịch sử và 2. Giai thoại bổ khuyết, đưa ra cái nhìn khác về nhân vật quan phương. Sau

đây, luận án sẽ điểm qua từng khía cạnh nêu trên.

4.2.1. Lịch sử là cội nguồn sản sinh giai thoại

Trước hết, lịch sử là nguồn cội sản sinh ra một bộ phận giai thoại lịch sử. Sự ảnh

hưởng, tác động của lịch sử lên giai thoại thể hiện qua việc giai thoại tiếp thu một số

câu chuyện được ghi chép trong sử quan phương để làm nền tảng cho những tình tiết,

sự kiện trong giai thoại. Như vậy, có nghĩa là một bộ phận của tiểu loại giai thoại lịch

sử hoàn toàn không phải là những câu chuyện mang tính chất bên lề, mua vui mà có

nguồn gốc hẳn hoi. Sự tiếp thu từ sử quan phương của giai thoại thể hiện qua 2 xu

hướng chính: tiếp thu một cách hoàn toàn và tiếp thu dựa trên một tình tiết, đặc điểm

có thật nào đó của nhân vật quan phương (được ghi chép trong sử quan phương) để từ

đó, sáng tạo nên những câu chuyện lý thú xung quanh họ.

Sự tiếp thu một cách hoàn toàn từ sử quan phương của giai thoại.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư từng ghi một số câu chuyện mang tính chất đời tư

của các nhân vật lịch sử nổi tiếng như: Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khánh

Dư,… Việc Trần Khánh Dư thông gian với công chúa nhà Trần rồi bị giáng tội cho về

làm thường dân (phải đi bán than, sau đó được phục chức), mối hiềm khích (và cả hòa

giải) giữa Hưng Đạo Vương và Trần Quang Khải,… đều được sách chép khá chi tiết.

Các nhà biên soạn giai thoại ở nước ta trích dẫn lại từ sách ấy và xếp vào giai thoại

lịch sử. Do vậy, không có gì là phi thực tế khi khẳng định rằng, một bộ phận trong giai

thoại lịch sử có nguồn gốc từ chính sử, được trích lại từ các công trình sử học của các

triều đại phong kiến Việt Nam.

Giai thoại tiếp thu dựa trên một tình tiết, đặc điểm có thật nào đó của nhân vật

quan phương để từ đó, sáng tạo nên những câu chuyện lý thú xung quanh họ.

Sự vay mượn hoàn toàn từ lịch sử không phải là bản chất trong sự tiếp thu sử

quan phương của giai thoại. Vì bên cạnh đặc điểm vừa nêu, các tác giả giai thoại đã

biết làm thế nào để những câu chuyện kể của mình trở nên cuốn hút người nghe bằng

cách sáng tạo, thêm thắt thêm những tình tiết mới xoay quanh một yếu tố, khía cạnh

rất nhỏ của nhân vật quan phương. Sử quan phương không phải là không chép những

yếu tố thuộc về tính tình, sở thích cá nhân của nhân vật quan phương, nhưng rõ ràng là

nó được chép rất sơ sài, thậm chí chỉ được nhắc đến trong một vài dòng ngắn gọn. Nói

khác đi, không phải tất cả những gì thuộc hành trạng cá nhân, riêng tư của một nhân

vật quan phương, nổi tiếng cũng được sách sử ghi chép lại. Và đó chính là vương quốc

lý tưởng mà với tư cách là một thể loại, giai thoại đã tập trung phản ánh. Các sử sách

nhà Nguyễn có nhắc đến tính tình, đặc điểm, sở thích,… của vua chúa, hoàng tộc

174

nhưng rất ít đi sâu, cụ thể hóa chúng bằng những câu chuyện minh họa. Trong khi đó,

giai thoại có xu hướng khai thác khía cạnh này. Chẳng hạn, sở thích làm thơ, thích

xem hát của vua Tự Đức, sở thích xem hát tuồng của bà Từ Dụ, Tả quân Lê Văn

Duyệt, sở thích vi hành ra dân gian tìm những cô gái đẹp, có tài hát xướng của vua

Thành Thái,…

Ở đây, xin dẫn ra trường hợp của vua Tự Đức. Sách Quốc triều chính biên toát

yếu (quyển V) viết về nhà vua như sau: “Là nhà vua rất yêu thích văn chương, thơ

phú. Phàm những việc như phê chuẩn, trị sự, khi có hứng là vua liền ứng khẩu, làm

thơ” [31, tr.155]. Dân gian đã dựa vào đặc điểm trên của vua để sáng tạo ra hàng loạt

những giai thoại gắn liền với tính cách thích làm thơ phú của vua như: Tự tiện chữa

văn vua, Bịa thơ tài hơn vua, Ông vua làm vè, Thượng hạ giai cẩu,… Như vậy là từ

một nhận xét ngắn gọn về đặc điểm, tính tình, sở thích của nhân vật quan phương,

nhân dân đã hình dung, thêu dệt ra những câu chuyện rất cụ thể nhằm mục đích cụ thể

hóa, chứng minh cho nhận xét đó là hoàn toàn có cơ sở, thuyết phục được người khác.

4.2.2. Giai thoại bổ khuyết cho lịch sử

Ở trên, đã đề cập sự tác động của lịch sử đối với giai thoại. Nhưng ở chiều ngược

lại, sẽ thấy vai trò của giai thoại đối với lịch sử. Sự bổ khuyết của giai thoại đối với sử

quan phương thể hiện ở khía cạnh giai thoại đưa ra một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ về

nhân vật quan phương so với cách đánh giá của sử quan phương. Nhân vật quan

phương chúng tôi hiểu ở đây là các vua quan, tướng lĩnh, phi tần, các nhà khoa bảng,

nhà nho tham gia,… vào chính trường (tất nhiên là họ cũng tham gia vào sinh hoạt văn

chương ở tiểu loại giai thoại văn học như Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm,

Cao Bá Quát,…) và cả những nhà nho nổi tiếng, tuy không tham gia chính trị nhưng

cũng tham dự vào thời cuộc với tư cách một công dân đối với vận mệnh của quốc gia,

cộng đồng.

Về sự phản ánh nhân vật quan phương, cách nhìn nhận, đánh giá nhân vật này

trong giai thoại và lịch sử cũng có những điểm khác biệt đáng chú ý. Thực tiễn văn

bản cho thấy giữa sử quan phương và giai thoại có một “độ lệch”, “độ khúc xạ” rất rõ

ràng. Và chính độ lệch ấy đã làm nên chức năng bổ khuyết của giai thoại đối với sử

quan phương. Có thể hình dung điều này một cách hệ thống là: giai thoại (lịch sử) tồn

tại trong dân gian với tư cách một bộ phận của dã sử và nó song hành với sử quan

phương trong tiến trình lịch sử của dân tộc.

Do tư liệu lịch sử và giai thoại Việt Nam khá đồ sộ, nên trong phần này, chúng

tôi chỉ giới hạn phạm vi tư liệu từ thời nhà Nguyễn, bắt đầu từ Gia Long (1802) trở về

sau. Qua khảo sát tư liệu giai thoại và lịch sử, chúng tôi bước đầu khái quát được 3

175

điểm khác biệt lớn giữa giai thoại và sử quan phương như sau: 1. Sử quan phương

quan tâm nhiều đến công đức của những nhà nho hành đạo – giai thoại quan tâm

nhiều hơn đến nhà nho ẩn dật; 2. Sử quan phương rất ít quan tâm đến hành trạng

mang tính chất cá nhân, đời tư của nhân vật quan phương – giai thoại xem đó là nội

dung quan trọng cần phản ánh; 3. Sử quan phương đánh giá nhân vật theo quan niệm

Nho giáo (bề tôi với vua, chủ yếu qua chữ Trung và Đức) – giai thoại đánh giá nhân

vật chủ yếu dựa vào chữ Trí (tài năng văn chương). Dưới đây là bảng so sánh:

Bảng 4.4. So sánh tư duy phản ánh nhân vật trong giai thoại và sử quan phương

Thể loại/ lĩnh vực Giai thoại Sử quan phương Tiêu chí

Kiểu nhà nho Ẩn dật Hành đạo

Hành trạng nhân vật Đề cập nhiều đến Rất ít đề cập đến phương

phương diện cá nhân, diện cá nhân, đời tư

đời tư

Tiêu chí đánh giá nhân Chữ Trí (Tài năng) Chữ Trung và Đức

vật

Điểm khác biệt đầu tiên trong cách thức phản ánh nhân vật đạo đức trong lịch sử

và giai thoại là: sử quan phương quan tâm nhiều hơn đến những nhà nho có đóng góp

cho triều đình (tức nhà nho hành đạo) và ít quan tâm đến nhà nho ẩn dật như trong

giai thoại.

Các sách sử của triều Nguyễn như Đại Nam nhất thống chí, Lịch triều hiến

chương loại chí,… đều đặc biệt quan tâm đến hành trạng, sự nghiệp của các nhà nho

hành đạo. Những phần viết về các nhân vật này chiếm số lượng áp đảo so với phần

viết về nhà nho ẩn dật. Chẳng hạn, công trình Đại Nam nhất thống chí dành cả quyển

thứ IV để viết về các quan trong hoàng thân quốc thích nhà Nguyễn (cả thảy 09 nhân

vật là: Tôn Thất Huy, Tôn Thất Hội, Tôn Thất Dụ, Tôn Thất Cốc, Tôn Thất Bính, Tôn

Thất Chương, Tôn Thất Dịch, Tôn Thất Hoảng, Tôn Thất Nông). Điều đáng lưu ý là cả

09 nhân vật trên đều không xuất hiện trong kho tàng giai thoại.

Công trình trên dành 24 quyển (từ quyển thứ V đến quyển XXVIII, mục II đến

mục XXV) để ghi chép về tiểu sử, công nghiệp của các nhà nho chính thống có nhiều

đóng góp cho triều đình, từ quan văn đến quan võ, cả thảy có 204 nhân vật. Trong số

này, chỉ có 02 nhân vật xuất hiện trong giai thoại là Nguyễn Du và Đặng Trần Thường,

ngay cả Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến cũng không có mặt. Như vậy, dựa vào

thống kê trên, có thể khẳng định rằng: mối quan tâm lớn nhất của sử quan phương là

176

ghi chép và đề cao sự nghiệp kinh bang tế thế của các nhân vật lịch sử theo tiêu chí

đóng góp của họ cho dân cho nước (tức là phương diện hành đạo).

Về các nhà nho ẩn dật, sách Đại Nam liệt truyện [130] chỉ chép về công đức và

những đóng góp của các nhà nho đối với triều đình nhà Nguyễn, gồm 06 nhân vật:

Nguyễn Đăng Đàn, Võ Trường Toản, Đặng Đức Thuật, Lê Đạt, Nguyễn Hương,

Hoàng Quang. Về các nhân vật hạnh nghĩa, sách trên viết về 12 nhân vật: Mai Sĩ

Khang, Nguyễn Văn Tựu, Nguyễn Văn Liễn, Nguyễn Cư Sỹ, Nguyễn Cửu Phùng, Tạ

Hữu Độ, Nguyễn Đình Tế, Nguyễn Văn Trình, Nguyễn Văn Lương, Nguyễn Văn

Danh, Phan Đăng Doanh, Nguyễn Đình Thản. Nhà nho ẩn dật và những người hạnh

nghĩa đều được sử quan tâm ở khía cạnh đạo đức cá nhân hay công dân (điểm này

giống như giai thoại). Nhưng có một điều khá đặc biệt là, cả 06 nhân vật nhà nho ẩn

dật và 12 nhân vật hạnh nghĩa đều không xuất hiện trong kho tàng giai thoại Việt Nam

(trong các tuyển tập ở các tiểu loại văn học và cả lịch sử). Giai thoại chỉ quan tâm đến

những nhà nho ẩn dật có sáng tác thơ ca thể hiện tinh thần yêu nước trong hoàn cảnh

mất nước như: Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nhiêu Tâm, Học Lạc,… không chỉ

trong ứng xử đối với thời thế (với triều đình nhà Nguyễn, với bọn tay sai, với thực dân

Pháp) mà còn ở cả những tác phẩm văn chương yêu nước, nói lên nỗi niềm cảm khái

(hay cả sự chống đối quyết liệt) của họ. Họ làm thơ nói lên tâm tư, tình cảm yêu nước,

bày tỏ tiết tháo nhà nho trong hoàn cảnh loạn lạc, cũng như ca ngợi sự hi sinh của

những anh hùng chiến trận, xả thân vì nghĩa lớn (mà triều đình cho là nghịch tặc, phản

thần).

Những nhà nho có tinh thần yêu nước (qua ý thức chống Pháp) này không thấy

được chép trong sử quan phương có lẽ là vì sự bất đồng về quan điểm chính trị trong

cuộc chiến chống Pháp: triều đình chấp nhận sự nhượng địa lần lượt các tỉnh ở Nam

Kỳ (sau đó trở thành vùng đất thuộc địa). Họ là những người trí thức theo con đường

khoa cử nhưng chưa bao giờ trở thành nhà nho hành đạo. Nguyên nhân thì có nhiều

nhưng chủ yếu do quan điểm chính trị có phần khác biệt so với triều đình. Cụ Nguyễn

Đình Chiểu do hoàn cảnh cá nhân (mẹ mất) nên bỏ lỡ công danh. Cụ lưu lạc khắp các

tỉnh Nam Kỳ để thể hiện tiết tháo nhà nho, cũng như bất hợp tác với Pháp và bọn tay

sai, coi thường bả vinh hoa mà chúng vẽ ra để chiêu dụ. Cụ Phan Văn Trị thi đỗ Cử

nhân (tục gọi ông là Cử Trị) nhưng với cá tính quá cương trực, khảng khái (nhiều lần

chửi mắng vua Tự Đức trong các sáng tác văn chương) thì con đường công danh xem

ra chẳng có ý nghĩa gì với cụ. Còn Học Lạc, Nhiêu Tâm, Tú Quỳ, Nghè Tân, Kép

Trà,… cũng là những người có cá tính mạnh mẽ nhưng đấu tranh theo hướng khác:

177

dùng thơ văn trào phúng, châm biếm để đả kích bọn quan lại, tay sai bán nước, tham

lam, hèn nhát,… Mỗi nhân vật có xu hướng đấu tranh và cách thể hiện khác nhau

nhưng đều gặp nhau ở chỗ: thay mặt cho nhân dân nói lên nỗi niềm thời thế và hơn

nữa là đấu tranh (bằng văn chương), nhằm thẳng vào chỗ mà triều đình phong kiến nhà

Nguyễn xem là cấm kỵ, bất khả luận. Sự đấu tranh này, theo sự lý giải của GS Phan

Ngọc là xuất phát từ tư tưởng Tổ quốc luận trong tâm thức người Việt. Và với tính

chất như vậy, ta có thể thấy được sự gặp gỡ về đề tài so với truyền thuyết về các nhân

vật là anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ. Trong công trình Truyền thuyết dân gian về

những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ, tác giả Võ Phúc Châu cũng có một vài

đúc kết đáng chú ý về sự khác nhau trong quan điểm đánh giá của sử quan phương và

quan điểm của nhân dân về người anh hùng. Chẳng hạn như trường hợp của Thiên Hộ

Dương (Võ Duy Dương): “Theo lời lẽ của vua quan nhà Nguyễn, Võ Duy Dương chỉ

là tên phản tặc: “Bọn giặc Võ Duy Dương lưu lại ở Định Tường, tụ tập bè đảng đánh

cướp lương thực. Tên can phạm này không phải là thần dân nước ta. Phải lấy phép

nước mà buộc tội, ai lại chịu dung tha”. Ngược lại, trong truyền thuyết, tên can phạm

của triều đình ấy được nhân dân xem là anh hùng” [23, tr.75].

Cùng đề cập đến nhân vật nhà nho chính thống (gồm trí thức và ngông) nhưng sự

phản ánh trong giai thoại và sử quan phương có độ vênh nhất định. Mỗi bên đều có

mối quan tâm khác nhau, tập trung vào những khía cạnh khác nhau của nhân vật. Qua

sự phân tích tình tiết trong giai thoại văn học và một số sách sử, chúng tôi đúc kết

được sự khác nhau thứ hai là: giai thoại tập trung sự chú ý vào khía cạnh tài năng văn

chương của nhân vật (tức chữ Trí) còn sử quan phương chú ý vào khía cạnh công đức

hay tội trạng của nhân vật đối với triều đình phong kiến (tức chữ Trung và Đức). Tiêu

chí đánh giá khác nhau, cho nên việc thể hiện nhân vật không giống nhau cũng là điều

dễ hiểu.

Chúng ta sẽ đến với một số nhân vật trí thức nổi tiếng (từng tham gia vào chính

trường) được nhiều người biết đến qua giai thoại cũng như lịch sử để chứng minh nhận

xét trên. Vào thời Trần, Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng với tước hiệu “Lưỡng quốc Trạng

nguyên” mà cả hai triều đình phong kiến Đại Việt (nhà Trần) và Trung Quốc (nhà

Nguyên) ban tặng cho ông. Giai thoại văn học tập trung phản ánh tài năng văn chương

của ông qua các cuộc đối chọi thơ văn với vua quan triều Nguyên (cũng như sứ thần

các nước lân cận). Trong khi đó, trong chính sử, những câu chuyện đối chọi văn

chương ấy không được nhắc đến, mà chỉ thuần túy ghi lại thời điểm ông đi sứ với tư

cách của một bầy tôi thực hiện nhiệm vụ chính trị.

178

Các nhân vật nổi tiếng trong thời Lê – Trịnh, Nguyễn cũng tương tự như vậy. Ở

đây, chỉ xin điểm qua một vài trường hợp tiêu biểu là: Lê Quý Đôn, Cao Bá Quát. Qua

việc tra cứu các sách về sử học như Đại Nam nhất thống chí, Khâm định Việt sử thông

giám cương mục, Đại Nam liệt truyện, Lịch triều hiến chương loại chí,… chúng tôi

nhận thấy quan điểm của chính quyền phong kiến về các nhân vật khoa bảng, trí thức

là rất khắt khe, đặc biệt là đối với những nhà nho có tư tưởng chống đối hoặc có những

sai phạm lớn. Bảng nhãn Lê Quý Đôn dưới góc nhìn sử quan phương cũng chỉ là một

kẻ cơ hội, thủ đoạn, gian xảo, tự phụ, tham ô,… Nói chung, chỉ toàn là tính xấu của

một kẻ ngụy quân tử mà thôi (chứ không phải bậc đại sĩ, đại trí như truyền tụng). Dù

tài năng hơn người nhưng cũng giống như Cao Bá Quát, Lê Quý Đôn chỉ giữ chức

quan nhỏ ở Hải Dương, rất xa xôi kinh thành. Việc có tài cao mà làm quan nhỏ hiển

nhiên khiến ông khó chịu và bất phục. Để giải quyết mắc mớ đó, họ Lê đã ăn của hối

lộ để mua chức quan cao ở kinh đô. Về vấn đề này, Khâm định Việt sử thông giám

cương mục chép rất rõ (Xin xem Phụ lục). Lê Quý Đôn còn phạm tội tày trời là đánh

tráo bài thi của con trai mình là Lê Quý Kiệt và học trò Đinh Thì Trung. Điều này

khiến người ta không thể không bất bình và miệt thị về tư cách đạo đức của ông. Sử

phê Lê Quý Đôn như sau: “Lời phê: Hai người cùng một tội mà xử phạt khác nhau,

sao gọi là công bằng thỏa đáng được? Xét hành trạng của Quý Đôn, không có một

điều gì đáng khen” (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Quyển XLIV, [129,

tr.937]). Còn việc Lê Quý Đôn được phục chức, cho về kinh đô không hề liên quan

đến việc ông giúp triều đình giải đáp được câu đối của sứ thần nhà Thanh (như trong

giai thoại Thư mượn áo cừu) mà là do chúa Trịnh ân xá cho ông (Xin xem Phụ lục). Ở

một chỗ khác của quyển sử này, hành động gian lận trong thi cử và táng trộm mồ mả

tổ tiên vào đất quý cũng bị sử quan đánh giá là hèn mọn, tiểu nhân: “Lời chua: Lập

mưu cho con ăn ắp văn thi ở trong trường: Kỳ đệ tứ khoa thi Hội năm Ất Mùi (1775),

Quý Đôn nhờ Đinh [Thì] Trung làm bài cho con mình là Quý Kiệt. Vụng trộm chiếm

nơi cấm địa: Quý Đôn táng trộm mả tổ ở cấm địa tại sơn phận Tả” (Khâm định Việt

sử thông giám cương mục, Quyển XLV, [129, tr.945]).

Về trường hợp của Cao Bá Quát, lịch sử ghi nhận ông như một nghịch thần và

quan tâm đến sự tự phụ, sự nổi loạn của ông hơn là tài năng văn chương. Sách Đại

Nam nhất thống chí không thấy ghi bất cứ dòng nào về các cuộc đối chọi văn chương

giữa Cao Bá Quát với Tự Đức hay Minh Mạng. Sách ấy, ở quyển 46, Truyện về các

nghịch thần, ở mục II, ghi nhận hai việc có liên quan đến họ Cao: thứ nhất là tính tình

tự phụ, gian lận trong chấm thi và thứ hai là sự phản nghịch chống lại triều đình nhà

179

Nguyễn (Xin xem Phụ lục 4). Việc xếp Cao Bá Quát vào mục nghịch thần đủ cho thấy

sử quan phương nhìn nhận ông là người như thế nào.

Như vậy, trong cái nhìn của các sử quan phong kiến, các nho sĩ, dù là người có

học vấn uyên thâm đến đâu mà phạm phải trọng tội với vua hay luật định thì đều bị

phán xét. Do vậy, có thể nói, tiêu chí phán xét nhân vật khác nhau: chữ Trí (giai thoại

văn học) và chữ Đức (sử quan phương) đã dẫn đến hai thái độ đánh giá khác nhau về

nhân vật. Trong giai thoại, tác giả dân gian cũng giải thiêng Cao Bá Quát và Lê Quý

Đôn qua các cuộc thất bại khi bị thách đố văn chương (Không biết chữ chi; Câu đố

chữ nhất; Căng buồm mời rượu – Gánh gạo lội sông,…), ngược lại, tính tự phụ của hai

nhân vật này đều bị sử quan phương phê phán rất nặng nề bằng những chứng cứ thiết

thực. Trong khi đó, giai thoại lại thể hiện cách đánh giá khá nhẹ nhàng (bằng văn

chương), với mục đích kéo nhân vật về với đời thường, chứ không hướng tới sự phê

phán một cách khách quan.

Do xuất phát từ những tiêu chí khác nhau, cho nên giai thoại và lịch sử có sự

phản ánh và đánh giá khác nhau về nhân vật trí thức, người nổi tiếng. Đối với giai

thoại văn học, tài năng văn chương của nhân vật là điều quan trọng nhất. Trong khi đó,

với sử quan phương, thì đức độ, sự cống hiến của nhân vật đối với triều đình phong

kiến mới là điều đáng lưu tâm. Nói khác đi, nhân vật trong giai thoại là kiểu nhân vật

như mong ước của nhân dân còn trong sử quan phương, đó là nhân vật như thực tế

khách quan của nó. Nói cho đúng, hai cách đánh giá: một bên theo chuẩn của Nho

giáo, một bên theo chuẩn của nhân dân, đồng nghĩa với tình cảm của nhân dân đối với

nhân vật lịch sử. Đến đây, có thể khái quát lại sự tương tác hai chiều giữa giai thoại và

sử quan phương như sau:

Sử quan phương

Vay

Vay

mượn

mượn

tình tiết

hoàn

toàn

Giai thoại

Sơ đồ 4.6. Sự tác động của sử quan phương lên giai thoại

Giai thoại

Sử quan phương

Bổ khuyết cho sử

quan phương

180

Sơ đồ 4.7. Sự tác động của giai thoại lên sử quan phương

4.3. Mối quan hệ giữa giai thoại và văn học thành văn

4.3.1. Sự tương tác giữa tính dân gian và tính bác học trong giai thoại

Như đã trình bày ở trên, dân gian và bác học là hai chiều tác động trong quy trình

sáng tạo giai thoại. Tuy nhiên, quy trình đó có những nguyên tắc riêng. Điều đó sẽ

được khảo sát kỹ ở phần sau đây. Khi nghiên cứu về giai thoại, hầu hết các nhà nghiên

cứu ở Việt Nam đều đã đề cập, phân tích đến tính chất bác học và dân gian của giai

thoại. Hai tính chất này được đúc kết từ đặc trưng về mặt ngôn ngữ. Trong mục này,

luận án tiếp thu và củng cố thêm những nhận xét đó bằng cách dùng số liệu để chứng

minh – điều mà các nhà nghiên cứu đi trước chưa thực hiện.

Qua khảo sát văn bản giai thoại, chúng tôi thống kê được kết quả như sau:

- Quyển Giai thoại làng nho: trong các giai thoại liên quan đến 94 nhân vật khoa

bảng (sách này trình bày văn bản theo tiêu chí nhân vật nên chúng tôi không thống kê

số theo số lượng văn bản) có: 90 câu đối Hán, 16 câu đối Nôm, 07 trường hợp sử dụng

sách Luận ngữ, 04 trường hợp sử dụng sách Mạnh Tử, 05 trường hợp sử dụng sách

Hán thư, 04 trường hợp sử dụng sách Kinh thư, 01 trường hợp sử dụng sách Tống sử,

02 trường hợp sử dụng sách Trung dung, 01 trường hợp sử dụng sách Kinh dịch, 04

trường hợp sử dụng phép chiết tự chữ Hán;

- Quyển Giai thoại văn học Việt Nam [65] có: 52/254 (20,5%) trường hợp sử

dụng câu đối chữ Hán, 49/254 (19,3%) trường hợp câu đối chữ Nôm, 40/254 (15,7%)

trường hợp thơ chữ Hán, 106/254 (41,7%) trường hợp thơ chữ Nôm, 03/254 (1,2%)

trường hợp thể phú, 02/254 (0,8%) trường hợp văn tế, 10/254 (3,9%) trường hợp chiết

tự chữ Hán, 08/254 (3,1%) trường hợp dùng điển của Nho giáo, 09/254 (3,5%) trường

hợp chơi chữ đồng âm.

Tính chất bác học của giai thoại văn học thể hiện qua cách vận dụng một cách

thường xuyên các kỹ thuật, yếu tố như: điển tích, điển cố (lấy từ cách sách kinh điển

Nho giáo); lối chiết tự (câu đố bằng cách tách chữ), hình thức câu đối (Hán hay Nôm);

181

hình thức chơi chữ, đố chữ bằng bức tranh chữ Hán; các thể thơ văn kinh điển của văn

học bác học (ngũ ngôn, tứ tuyệt, bát cú, phú, văn tế, câu đối,…),… Ở đây, chúng tôi

chỉ điểm qua một vài biểu hiện tiêu biểu của tính bác học trong giai thoại, chứ không

mô tả hết những đặc điểm nêu trên.

Chúng ta thử điểm qua một số trường hợp dùng điển trong các sách kinh điển của

Nho giáo (Luận ngữ, Mạnh Tử, Trung dung,...), lối chiết tự và chơi chữ đồng âm. Việc

dùng điển Nho giáo bắt nguồn từ đặc trưng sùng cổ của văn học cổ điển với lực lượng

sáng tác chủ yếu là những nhà nho, nhà khoa bảng, có kiến thức chữ nghĩa uyên thâm.

Trong quyển Giai thoại văn học Việt Nam [65], phép dùng điển xuất hiện trong các

giai thoại: Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào, Chim chếch - Ếch ngộp, Cười ông quan

hai vợ (Mạc Đĩnh Chi); Thánh quân Minh Đế (Lương Thế Vinh); Rắn trắng rồng vàng

(Đoàn Thị Điểm); Một thí sinh bướng bỉnh (Nguyễn Hòe); Lo trước thiên hạ (Nguyễn

Khuyến),... Chẳng hạn, cuộc đối đáp văn chương giữa hai anh em Đoàn Doãn Luân và

Đoàn Thị Điểm trích từ sách Bắc sử (Rắn trắng rồng vàng). Vế của Đoàn Doãn Luân:

“Bạch xà đương đạo, Quý bạc kiếm nhi trảm chi” (Rắn trắng cản đường, Quý tuốt

gươm ra chém). Vế này lấy từ tích Hán Cao tổ chém rắn trắng trong sách Bắc sử. Vế

đối lại của Đoàn Thị Điểm cũng lấy từ sách trên: “Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng

thiên nhi thán viết” (Rồng vàng đội thuyền, Vũ ngẩng mặt mà than), cũng lấy từ tích

“vua Hạ Vũ qua sông, có con rồng vàng nổi lên, người trong thuyền đều sợ, chỉ có Vũ

vẫn bình tĩnh như thường, sau rồng phải lặn đi” [65, tr.88].

Tính bác học của giai thoại còn thể hiện qua cách chiết tự khá rối rắm và phức

tạp. Qua khảo sát văn bản, chúng tôi thấy rằng nhận xét trên hoàn toàn xác đáng,

nhưng thiếu đi phong cách chiết tự chữ Hán theo kiểu dân gian (hay phong cách dân

gian) mà các nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh và Kiều Thu Hoạch từng lưu ý (tiếc

rằng, trong luận điểm của mình, hai tác giả này chỉ tập trung vào cách nói lái, chơi chữ

đồng âm mà không đi vào minh chứng chiết tự chữ Hán như thế nào là theo phong

cách dân gian). Đó cũng là vấn đề mà chúng tôi sẽ bổ khuyết.

Về cách chiết tự chữ Hán theo phong cách bác học

Trong giai thoại, phép chiết tự theo phong cách bác học xuất hiện qua các trường

hợp (trong quyển Giai thoại văn học Việt Nam [65]): Trạng nguyên về học lễ (Nguyễn

Hiền); Chơi chữ - Chọi chữ (Mạc Đĩnh Chi); Ta chẳng chịu phong (Đào Duy Từ);

Phong nguyệt vô biên (Nguyễn Đăng Cảo); Hà túc toán giã, bất diệc lạc hồ (Vương

Toán); Ba sông bốn mắt (Lê Quý Đôn); Thư mượn áo cầu (Lê Quý Đôn); Đánh nhau

bằng cả câu đối (Nguyễn Hữu Cầu); Bài thơ đem lại quốc thể (Võ Huy Tấn); Chặt đầu

182

Tây (vua Duy Tân),… Trên đại thể, hình thức chiết tự này đều là phép đố chữ và chọi

chữ bằng cách tách các nét viết của chữ Hán. Nó giống như một trò chơi trí tuệ.

Nguyễn Hiền và Lê Quý Đôn giữ thể diện cho quốc gia qua cách giải các câu đố chữ

Hán của sứ thần Trung Quốc (các câu đố này chiết tự chữ “xa” (車) và chữ “điền” (田)

(Trạng nguyên về học lễ; Thư mượn áo cừu). Võ Huy Tấn thì đề thơ chữ Hán (chiết tự

chữ “di” (夷) để thể hiện lòng tự hào dân tộc trước nhà Thanh (đấu tranh “di biện”)

(Bài thơ đem lại quốc thể). Vua Duy Tân chiết tự chữ “vương” (王) và chữ “tây” (西)

để thể hiện khí phách của đấng minh vương yêu nước trước người Pháp (Chặt đầu

Tây),… Xin dẫn ra đây trường hợp Thư mượn áo cừu. Trong giai thoại này, sứ thần

nhà Thanh đã gửi cho chúa Trịnh câu đố chữ Hán khá hóc búa là: đưa một tấm vóc,

trong đó ghi chữ xa (車) thiếu một nét ngang dưới. Cả triều đình nháo nhào lên vì

chẳng ai hiểu ý của sứ thần là gì cả. Đến đây, chúa Trịnh mặc dù đã cách chức Lê Quý

Đôn trước đó, nhưng cũng phải nhờ vả ông.

Về cách chiết tự chữ Hán theo phong cách dân gian

So với cách chiết tự bác học thì cách chiết tự chữ Hán theo kiểu dân gian như

sau: chiết tự chữ Hán theo phong cách dân gian vẫn dựa trên cơ sở là tách chữ Hán ra

nhiều thành phần khác nhau (dựa trên nguyên tắc cấu thành của nó) nhưng đã được “lạ

hóa” bằng hình thức nói lái hoặc được gò vào khuôn khổ thơ văn (dưới dạng câu đố).

Ở đây xin chỉ dẫn ra trường hợp đầu. Trong Bức trướng chỉ có chữ Quý, tác giả

khuyết danh đã vận dụng cách thức chiết tự chữ Hán để mỉa mai đặc điểm khiếm

khuyết của con người. Theo đó, nhân vật đã gửi tặng tên tên chánh tổng (có tật bị chột

một mắt, nhờ giàu có mà mua được chức quan, ở làng Tiền Trung, xã Ái Quốc, Hải

Dương) một bức đại tự ghi một chữ: “Quý” (貴). Chữ này được ghép lại từ bốn chữ là:

trung (中), nhất (一), mục (目), nhân (人), với ngữ nghĩa thông dụng là trỏ sự sang

trọng. Nhưng nếu hiểu theo nghĩa ẩn ý thì: “Trung là làng Tiền Trung, Nhất là một,

Mục là mắt, Nhân là người; ghép chúng lại có nghĩa là người một mắt ở làng Trung.

Mà người đó lại chính là quan bác…” (Giai thoại văn hóa dân gian người Việt (tập 2)

[114, tr.146 – 147]. Dù vậy, cách chiết tự như vậy thế có ý nghĩa cá biệt (bị chột một

mắt, ở làng Tiền Trung) trong giai thoại này mà thôi, hoàn toàn không có ý nghĩa phổ

biến đối với những trường hợp khác. Đến đây, có thể khẳng định rằng: phong cách

chiết tự theo kiểu bác học vẫn là phong cách chủ đạo trong cách thức chiết tự chữ Hán

183

của giai thoại nói chung.

Hình thức câu đối (chữ Hán và chữ Nôm) cũng là một biểu hiện cụ thể của tính

bác học trong giai thoại. Chúng tôi thống kê được 101/254 (39,8%) trường hợp trong

Giai thoại văn học Việt Nam [65] có sử dụng câu đối. Chúng ta biết rằng câu đối vốn

là một hình thức học tập bắt buộc của các nho sinh thời phong kiến (tức mặt giáo dục,

thi cử). Không chỉ vậy, câu đối còn có một vai trò rất quan trọng trong tập quán của

nhân dân thời xưa (tức mặt thực tiễn văn hóa, xã hội). Nói đúng hơn là kiểu tư duy

người Việt thiên về sự cân đối, hài hòa. Đặc tính này còn thể hiện trong từng lời ăn

tiếng nói (chẳng hạn tục ngữ, thành ngữ) và nâng lên thành nghệ thuật đối; hát đối đáp,

kiến trúc đối xứng,… Rõ ràng, câu đối là biểu hiện của sự tương tác giữa bác học và

bình dân.

Lục bát là thể thơ có nguồn gốc từ văn học bình dân mà chúng ta vẫn thấy trong

kho tàng ca dao. Đặc biệt, trong giai thoại văn hóa dân gian, có một nhóm chuyên sử

dụng thể thơ lục bát là nhóm giai thoại về lẩy Kiều, tập Kiều, đố Kiều. Truyện Kiều tất

nhiên là sáng tác văn học bác học nhưng các nhân vật trong giai thoại đã khéo léo lẩy

ý, mượn ý để diễn đạt ý tưởng trong những tình huống sinh hoạt văn chương hay ứng

xử đời thường. Quyển Giai thoại folklore của Vũ Ngọc Khánh có 29/80 (36,3%) giai

thoại sử dụng thể thơ lục bát (có liên quan đến hình thức lẩy Kiều, tập Kiều, đố Kiều).

Bên cạnh đó, hình thức nói lái và cách dùng thổ âm (phát âm theo giọng địa

phương) một đặc điểm nổi bật của văn học dân gian, cũng xuất hiện khá nhiều trong

giai thoại văn học. Đến giai thoại thì nói lái được thể hiện kỹ thuật và kỹ xảo sử dụng

tiếng Việt vừa thông minh, vừa hóm hỉnh. Kỹ thuật này được sử dụng khá dày đặc ở

giai thoại so với truyện cười. Đối tượng vận dụng phương thức này không chỉ là giới

bình dân mà còn cả những nhà nho – người đại diện cho nền văn hóa bác học. Đặc

điểm trên cho thấy sự tác động ngược trở lại của văn hóa dân gian đối với văn hóa bác

học. Trong công trình Giai thoại văn học Việt Nam [65], chúng tôi xác định có 05/254

giai thoại sử dụng phương thức này là: Bò đen bò vàng (Nguyễn Xuân Ôn); Đối chọi

với sư (Nguyễn Công Trứ); Cho chữ thờ; Chi chi giã (Nguyễn Khuyến); Câu đối chữ

Hán đọc theo vần quốc ngữ (Bùi Bằng Đoàn). Chẳng hạn, trong Bò đen bò vàng, nhà

nho Nguyễn Xuân Ôn đã dùng thổ âm của vùng Nghi Lộc (Hà Tĩnh) để đố hai tên nho

sinh nửa mùa qua câu đố: “Bò đen húc lộn bò vàng/ Hai con húc chắc té quàng xuống

sông”. Ở vùng này, dấu nặng thường phát âm thành dấu huyền nên câu đố trên hoàn

toàn có thể hiểu theo nghĩa rất “dân gian” qua chữ “lộn”. Thế nên, từ đó có thể suy ra

“bò vàng” là bò cái, còn “bò đen” là bò đực! [65, tr.250]. Trong Cho chữ thờ, cụ

184

Nguyễn Khuyến đã viết một chữ “nhất” theo dáng dựng đứng (với nét đậm, to hơn ở

phía dưới). Một nhà nho giảng nghĩa chữ “nhất” viết theo kiểu này là: chày đứng, nói

lại là “đừng cháy”, với mong muốn đền thờ mới dựng lại đừng bị hỏa hoạn nữa [65,

tr.289 – 290].

Trong nhóm giai thoại hò hát, đối đáp nam nữ (thuộc tiểu loại giai thoại văn hóa

dân gian), cách nói lái thường được các nhân vật sử dụng, trở thành một khía cạnh đặc

sắc, cuốn hút người đọc ở sự tinh nghịch, dân gian của nó. Chúng tôi xin dẫn ra đây

một số trường hợp tiêu biểu trong quyển Giai thoại văn hóa dân gian người Việt của

Triều Nguyên. Chẳng hạn, chàng thanh niên trong Hai cặp ảng, có mấy cái lù, đã đối

lại câu hát đố của các cô gái trêu chọc anh bằng câu hát không thể tinh vi hơn: “Bao

nhiêu lù là bấy nhiêu cái ảng/ Cô kia sang sảng, khéo hỏi khù khờ/ Ảng kia hai cặp,

mấy cái lù em biết chưa?”. Một cái ảng có một lỗ lù, có chức năng thoát nước. Lẽ dĩ

nhiên, hai cặp ảng thì có cả thảy “bốn cái lù”, nhưng nếu nói lái lại thì rất tục tĩu (vả

chăng nếu trả lời trực diện: “Hai cặp ảng là bốn cái lù” chẳng hạn, thì anh thợ làm

ảng này đã “trúng kế” các cô mất rồi!). Nhân vật Đồ Tâm trong Cưỡi rồng cũng dùng

cách nói lại chữ “rồng lộn” (chỉ sự cố của người chinh phục con vật tâm linh, vừa là

tên của bà Rồng – người hát đối đáp với ông) để đáp lại lời hát của người nhân ngãi:

“Mình đà học phép cưỡi rồng/ Rồng kia có lộn, ta gồng lên trên”.

Tóm lại, chất dân gian và chất bác học trong giai thoại vừa là yếu tố thuộc nội

dung vừa thuộc hình thức nghệ thuật. Ở quan hệ này, các kỹ thuật dùng chữ trong Hán

học được giai thoại khai thác tạo thành nhóm đề tài riêng.

4.3.2. Lý giải sự tương tác giữa tính dân gian và tính bác học trong giai thoại

Ở mục trên, chúng tôi đã chỉ ra sự giao thoa, tương tác giữa tính dân gian và tính

bác học trong giai thoại ở mặt văn bản tác phẩm. Đến đây, luận án sẽ đưa ra những lý

giải để trả lời cho câu hỏi vì sao lại có hiện tượng đó và nó xuất phát từ những căn rễ

văn hóa, lịch sử nào. Thực ra sự giao thoa, tương tác giữa tính dân gian và tính bác học

trong giai thoại nằm trong một vấn đề lý luận lớn hơn. Đó là mối quan hệ giữa văn học

dân gian và văn học thành văn. Đây cũng là một trong những vấn đề thú vị, từng được

nhiều nhà nghiên cứu folklore trong và ngoài nước quan tâm, bàn luận.

Bàn về mối quan hệ giữa hai bộ phận văn hóa dân gian và văn hóa bác học (từ

góc nhìn văn hóa), GS Trần Quốc Vượng trong bài viết “Dân gian và bác học” (công

trình Trong cõi) đã cho rằng tư duy phổ quát của nền văn hóa Việt: lưỡng phân và

lưỡng hợp về văn hóa. Nền văn hóa Việt Nam bao gồm hai bộ phận (văn hóa bác học

và văn hóa dân gian), chúng vừa tồn tại lưỡng phân (tách biệt một cách tương đối với

185

nhau), vừa ở thế lưỡng hợp (tức là hòa quyện, xuyên thấm, tác động vào nhau). Theo

GS Trần Quốc Vượng, sự lưỡng hợp về văn hóa thể hiện qua sự xuất thân bình dân của

các vua chúa Việt Nam (Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Công Uẩn,…). Các vua

này đều xuất thân từ giới bình dân cho nên trong mối quan hệ với nhân dân, khoảng

cách vua – tôi được thu ngắn. Các vua thâm nhập (bằng cách vi hành) vào dân gian mà

không có bất cứ sự phân biệt về giai cấp. Tinh thần này cũng được thể hiện trong giai

thoại. Ví dụ, chùm giai thoại kể về việc vua Lê Thánh Tông tặng cho nhân dân –

những người làm những công việc rất bình thường, thậm chí có phần thấp hèn (hàng

nước, hàng thịt, hốt phân,…) câu đối trong ngày Tết (Tận thu lòng dạ thế gian, Câu

đối nhà hàng nước, Xanh vàng đỏ tía,…). Không chỉ các vua, mà các quan lại, các nhà

nho cũng có mối quan hệ mật thiết với quần chúng nhân dân, dù họ đang đương chức

hay đã cáo quan ẩn dật. Chẳng hạn, trường hợp các giai thoại cho câu đối của Nguyễn

Khuyến, Nguyễn Hàm Ninh, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu,… với nhân dân trong

những dịp cần kíp của họ (tang ma, hỷ sự).

Về sự tác động, giao thoa nhiều chiều giữa văn hóa dân gian và văn hóa bác học,

GS Trần Quốc Vượng còn nhấn mạnh một số điểm, trong đó có vai trò quan trọng của

kẻ sĩ trong việc phát triển văn hóa dân gian (chứ không phải chỉ có duy nhất người

bình dân tham gia vào việc sáng tạo lĩnh vực này). Ông viết: “Họ (tức kẻ sĩ – chúng

tôi nhấn mạnh) tham gia sinh hoạt văn hóa dân gian. Họ tiêm nhiều quan niệm Nho

giáo vào văn hóa dân gian. Nhưng họ cũng góp phần nâng cao văn hóa dân gian. Họ

là các ông thơ, cố vấn cho gánh chèo việc soạn kịch bản, lời lẽ, thơ ca… Họ tham gia

vào sinh hoạt đối đáp và góp phần hoàn thiện thể thơ lục bát dân gian” [165, tr.246].

Tóm lại, nếu nhìn nhận sự giao thoa giữa giai thoại văn học dân gian và văn học

viết trên phương diện văn hóa, thì tinh thần lưỡng hợp về văn hóa của người Việt

chính là nguồn cội sâu xa sinh ra hiện tượng này. Đến đây, có thể nói trên thực tế, có

lẽ không cần phân định ranh giới một cách rạch ròi, phân chia giai thoại văn học thành

hai nhóm là giai thoại văn học viết và giai thoại văn học dân gian (như quan niệm của

các tác giả Trần Thanh Mại và Triều Nguyên đã nêu ở các phần trên của luận án) vì

những lý do sau:

– Tính chất bác học không chỉ có mặt trong giai thoại mà còn xuất hiện trong một

số thể loại khác của văn học dân gian (chẳng hạn ca dao (trữ tình), thành ngữ, tục ngữ

(lời ăn tiếng nói của nhân dân),... cũng có yếu tố Hán Việt). Nhưng thực tế cho thấy,

chưa có nhà nghiên cứu nào căn cứ vào đấy để gọi (hay phân nhóm) chúng thành: ca

dao bình dân - ca dao bác học; tục ngữ bình dân - tục ngữ bác học,... cả.

186

– Giai thoại dù có tính chất bác học nhưng vẫn là văn học dân gian (tất yếu trải

qua quá trình dân gian hóa về nhân vật, thi pháp, phong cách,...).

– Cần phải thấy rằng sự tương tác giữa tính bác học và tính dân gian trong giai

thoại là biểu hiện của quy luật vận động của nền văn hóa Việt Nam (với hai bộ phận

cốt lõi như đã nêu). Trong đó, tư duy lưỡng hợp (hướng đến sự tổng hòa, hài hòa)

trong văn hóa là yếu tố chủ đạo. Do vậy, nếu áp dụng tư duy lưỡng phân (phân định

một cách rạch ròi nhóm giai thoại bác học và nhóm giai thoại dân gian) rõ ràng là

không cần thiết. Bởi lẽ, yếu tố bác học và dân gian không tồn tại một cách độc lập với

nhau mà luôn xuyên thấm, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau trong chiều sâu văn hóa của

dân tộc.

– Sự phân nhóm như vậy là không thấy được quá trình sinh thành, vận động của

giai thoại trong không gian và thời gian (theo hướng lịch sử hóa, dân gian hóa như đã

nêu).

Do vậy, trong luận án này, chúng tôi dùng thuật ngữ giai thoại văn học để chỉ

chung cho cả nhóm giai thoại văn học viết và giai thoại văn học dân gian. Bởi suy cho

cùng, dù mang tính chất bác học, nhưng trên đại thể, tính chất ấy đã trải qua quá trình

dân gian hóa, mang đậm phong cách dân gian, và hiển nhiên trở thành văn học dân

gian.

187

Tiểu kết chương 4

Trong Chương 4, luận án đã chỉ ra mối quan hệ giữa giai thoại và các thể loại của

tự sự dân gian cũng như với lịch sử và văn học thành văn. Qua quá trình phân tích,

chúng tôi rút ra một số điểm đáng lưu ý sau:

Thứ nhất, trong mối quan hệ với truyền thuyết, có hai điểm đáng chú ý, dẫn đến sự nhập nhằng trong cách xác định thể loại là: 1. Sử dụng yếu tố kỳ ảo (sinh nở thần kỳ); 2. Yếu tố đời thường ở giai đoạn sinh thành muộn (cận đại). Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nhà nghiên cứu, sưu tầm giai thoại và truyền thuyết về

mặt lý luận. Bởi lẽ, nếu không nắm được bản chất thể loại của truyền thuyết và giai

thoại thì sẽ rất dễ dẫn đến sự nhầm lẫn trong phân loại. Cũng cần chú ý thêm một điều

rằng, theo quy luật vận động của văn học dân gian, thì các thể loại không đứng yên mà

luôn có xu hướng biến đổi, do vậy, chỉ nhìn ngắm thể loại trên mặt văn bản thôi là chưa đủ, mà phải đặt nó trong môi trường văn hóa, xã hội cụ thể.

Thứ hai, trong mối quan hệ với truyện cười (kết chuỗi và không kết chuỗi), cần

chú ý một số khía cạnh tương đồng và dị biệt tuy nhiên, những điểm cốt lõi nhất vẫn

là: NVC; yếu tố thơ văn kết cấu và chức năng thể loại. Qua đối chiếu, so sánh cho thấy

có sự thâm nhập, chuyển hóa thể loại giữa giai thoại và truyện cười theo các khuynh

hướng: lịch sử hóa, văn chương hóa tình huống đối đáp.

Thứ ba, trong mối quan hệ với cổ tích, giai thoại chủ yếu chịu ảnh hưởng từ cổ

tích sinh hoạt qua một số kiểu truyện phổ biến. Trong đó, điều đáng lưu ý hơn cả là

quy luật chuyển hóa thể loại từ cổ tích sang giai thoại. Chúng tôi cho rằng quy luật đó

là lịch sử hóa cổ tích sinh hoạt.

Thứ tư, giai thoại cũng điểm qua mối quan hệ giữa giai thoại với lịch sử và văn

học. Trong mối quan hệ với lịch sử, giai thoại vừa chịu ảnh hưởng vừa có những tác động ngược trở lại và tạo ra giá trị bổ khuyết cho lịch sử Việt Nam. Nó cùng với dã sử

trở thành sử trong dân chúng, theo quan niệm của nhân dân, và qua đó, đưa ra những

đánh giá mởi mẻ về nhân vật quan phương. Trong mối quan hệ với văn học, giai thoại tiếp biến yếu tố bác học của văn học viết thông qua lộ trình dân gian hóa, qua đó tạo nên phong cách dân gian cho thể loại. Thừa nhận tính chất bác học trong giai thoại

không đồng nghĩa với việc khẳng định giai thoại là thể loại của văn học viết mà chỉ một lần nữa khẳng định một quy luật trong sáng tạo folklore là: sự tương tác giữa văn hóa bác học và văn hóa dân gian, trong đó, tư duy tổng hòa (hay lưỡng hợp) về văn

hóa là đặc trưng quan trọng.

188

KẾT LUẬN

Tiếp cận văn hóa, văn học dân gian theo khuynh hướng thể loại là một hướng

nghiên cứu mang tính kinh điển của folklore học. Với đề tài Đặc điểm giai thoại Việt

Nam, chúng tôi đã kế thừa thành tựu nghiên cứu về mặt lý luận của folklore nói chung,

giai thoại nói riêng từ các nhà nghiên cứu đi trước để bước đầu xác định sự tồn tại với

tư cách một thể loại của giai thoại qua một số nhận thức và biểu hiện đặc trưng thể loại

như sau:

1. Từ việc khái quát thực tế tư liệu giai thoại Việt Nam sẽ thấy quá trình phức tạp

trong việc xác định thể loại của các nhà folklore Việt Nam. Từ chỗ nhập nhằng không

được thừa nhận với tư cách một thể loại, thậm chí còn lẫn với văn học viết, cho đến sự

thừa nhận là một thể loại là cả một quá trình nhận thức. Điều đó đã cho thấy tính phức

tạp của vấn đề. Luận án đã cố gắng làm rõ vấn đề trên. Điều đó tác động đến việc xác

định tư liệu giai thoại Việt Nam. Nó góp phần sắp xếp lại tư liệu một cách khoa học

hơn dựa trên nền tảng lý luận về mặt thể loại. Từ đấy, luận án cũng đưa ra một khái

niệm chung nhất về giai thoại, các tiểu loại của giai thoại cũng như những đặc điểm

thể loại của giai thoại.

2. Về mặt phân loại, các nhà nghiên cứu đưa ra những quan niệm khác nhau

nhưng chủ yếu vẫn dựa vào tiêu chí đề tài. Căn cứ vào thực tiễn giai thoại được sưu

tầm, giới thiệu ở Việt Nam, chúng tôi rất đồng tình với quan niệm của một số nhà

nghiên cứu để xác định giai thoại qua 03 biến thể: giai thoại văn học, giai thoại lịch sử

và giai thoại folklore. Trên cơ sở đó, chúng tôi cũng đưa ra quan điểm riêng của mình

trong sự phân nhóm của từng tiểu loại, căn cứ trên tiêu chí duy nhất là đề tài. Cũng

dựa vào tiêu chí này, luận án đã bước đầu xác định trình tự các bước trong việc phân

loại tiểu loại và các nhóm của tiểu loại giai thoại Việt Nam.

3. Luận án đã điểm qua các bình diện thi pháp tiêu biểu của của giai thoại Việt

Nam là nhân vật, kết cấu. Đặc biệt motif hạt nhân thể hiện vai trò khá rõ trong cách

triển khai cốt truyện của giai thoại văn học như: motif thách đố văn chương và motif

làm thơ tạo tình huống. Kết quả khảo sát đó đã chứng minh nhận xét của các nhà

nghiên cứu đi trước về tính chất “đại đồng tiểu dị” của giai thoại văn học là hoàn toàn

xác đáng. Trên cơ sở đó, luận án cũng đã lý giải một số cơ sở lịch sử xã hội tác động

đến sự hình thành các kiểu nhân vật đặc trưng trong giai thoại. Trên cơ sở phân tích

giai thoại từ hướng tiếp cận motif, tình tiết, có thể thấy mô hình kết cấu của từng nhóm

cũng như xác lập mối tương quan giữa các tình tiết trong nhóm truyện về các nghệ

nhân dân gian và các nhà nho tài tử. Đặc biệt motif cốt lõi của nhóm giai thoại sinh

189

hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian là motif thách đố (về hò hát). Đây là cái nhìn mới mà

các nhà nghiên cứu đi trước chưa chú ý.

4. Sau khi phân tích mối quan hệ giữa giai thoại và các thể loại khác trong tự sự

dân gian, có thể thấy: giai thoại là một thể loại văn học dân gian mang có khả năng

tích hợp cao, liên quan đến một số thể loại tự sự khác. Từ đó có thể nói, giai thoại là

một hiện tượng văn hóa độc đáo, là một hiện tượng mang tính tổng hợp của nhiều lĩnh

vực. Do đó, nó cần được nghiên cứu dưới góc độ liên ngành và thậm chí xuyên thể loại

mới thấy hết tính phức tạp và đa diện về thi pháp của thể loại.

5. Nên chăng tìm hiểu thêm giai thoại ở thời hiện đại trong các hình thức văn

hóa, nghệ thuật, ngoại giao, quân sự, chính trị,... sẽ giúp ta có cái nhìn đầy đủ hơn vai

trò của giai thoại trong đời sống hiện đại. Chẳng hạn như giai thoại sân khấu, cải

lương, điện ảnh, văn học,... ở miền Nam giai đoạn trước 1975 (hiện nay, việc sưu tập

mảng này là rất mỏng, nằm rải rác trên các báo, tạp chí. Chẳng hạn, báo Thanh niên, ở

mục Văn hóa, văn nghệ từng có thời điểm giới thiệu khá nhiều giai thoại hay về các

văn nghệ sĩ miền Nam trước 1975); các giai thoại về Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp,

Nguyễn Chí Thanh, Trần Đức Thảo, Trường Chinh,... Bên cạnh đó, là mảng giai thoại

về những người nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực khoa học cũng cần được quan tâm nhiều

hơn, cần được tập hợp, khảo sát và nghiên cứu một cách khoa học, nghiêm túc. Bởi

đấy là một phần lịch sử, văn hóa của dân tộc trong thời đại đầy biến động.

190

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Nguyễn Văn Thương. (2018). Nhân vật trí thức và nhân vật ngông của giai thoại dân gian.

Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gòn. Số 59/T7/2018.

2. Nguyễn Văn Thương. (2018). Yếu tố tục trong giai thoại. Tạp chí Giáo dục và xã hội. Số

đặc biệt T9/2018.

3. Nguyễn Văn Thương. (2018). Vấn đề giao thoa thể loại trong nghiên cứu Folklore: Nghiên cứu trường hợp truyện kể về Nguyễn Ánh ở Nam Bộ. Kỷ yếu hội thảo khoa học Văn hóa và Văn học Nam Bộ trong thời kì hội nhập. NXB Khoa học Xã hội.

191

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tài liệu tiếng Việt 1. Trần Thị An (2002), “Suy nghĩ mới về bản chất thể loại truyền thuyết”, Thông

báo Văn hóa dân gian, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr.597.

2. Trần Thị An (2002), Đặc trưng thể loại truyền thuyết và quá trình văn bản hóa truyền thuyết dân gian Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội.

3. Trần Thị An (2005), “Tái định hướng thể loại folklore”, Tạp chí Nghiên cứu Văn

học, số 1.

4. Trần Thị An (2008), “Nghiên cứu văn học dân gian từ góc độ type và motif -

Những khả thủ và bất cập”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7.

5. Chiêng Xom An (1992), “Bàn thêm về thể loại truyền thuyết”, Tạp chí Văn hóa

dân gian, số 2.

6. Đào Duy Anh (2017), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Thế giới & Công ty

Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam, Hà Nội.

7. Hoài Anh, Hồ Sĩ Hiệp (1990), Những danh sĩ miền Nam, Sở Văn hóa Thông tin

Tiền Giang.

8. Thế Anh (2013), “Kể chuyện giai thoại không được bôi bác, xúc phạm danh http://www.honvietquochoc.com.vn/bai-viet/4381-k-chuyn-giai-thoi-

nhân”, khng-c-bi-bc-v-xc-phm-n-danh-nhn.aspx , ngày cập nhật 19/11/2013.

9. Trần Trúc Anh (2009), Giai thoại câu đối, đố tục giảng thanh, NXB Thanh Hóa. 10. Toan Ánh (1991), Con người Việt Nam: phong tục cổ truyền, NXB Tp. Hồ Chí

Minh.

11. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, (tái bản lần 3), NXB Đại học Quốc

gia Hà Nội.

12. Thái Bạch (1958), Giai thoại văn chương Việt Nam, NXB Sài Gòn, Sài Gòn. 13. M. Bakhtin, Sáng tác của François Rabelais và nền văn hoá dân gian Trung cổ và Phục hưng, Phạm Vĩnh Cư dịch, http://phebinhvanhoc.com.vn, cập nhật: 16/04/2012.

14. P. Roland Barthes (1996), “Dẫn luận phân tích các cơ cấu truyện kể”,

Communications (Giao Lưu, Paris).

15. Nguyễn Trọng Báu (1994), Đố tục giảng thanh và giai thoại chữ nghĩa, NXB Lao

động, Hà Nội.

16. Nguyễn Chí Bền (chủ biên) (2005), Truyện cười, Tập 9, Phần truyện trạng, Tổng

tập Văn học dân gian người Việt, NXB KHXH, Hà Nội.

17. Phan Kế Bính (2016), Nam hải dị nhân liệt truyện, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 18. Tôn Thất Bình (1987), Huế, những giai thoại, Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị

Thiên xuất bản, Huế.

19. Tôn Thất Bình (1995), Kể chuyện chín chúa mười ba vua triều Nguyễn, NXB Đà

Nẵng.

192

20. Tôn Thất Bình (chủ biên), Trần Hoàng, Triều Nguyên (1998), Truyện kể dân gian

Thừa Thiên Huế, NXB Văn hóa Dân tộc.

21. Bùi Văn Cường (1984), Nguyễn Khuyến và giai thoại, Hội Văn học Nghệ thuật Hà

Nam Ninh xuất bản.

22. Võ Phúc Châu (2005), “Bước đầu phân biệt truyền thuyết và giai thoại”, in trong Bình luận Văn học – Niên giám 2005, NXB Văn hóa Sài Gòn & Hội nghiên cứu – Giảng dạy Văn học Tp. Hồ Chí Minh, tr.95

23. Võ Phúc Châu (2011), Truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống

Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918), NXB Thời đại, Hà Nội.

24. Nguyễn Đổng Chi (2003), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, NXB KHXH, 3

quyển, Hà Nội.

25. Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Hải Hà (1987), Chuyện làng văn Việt Nam và thế giới,

2 tập, NXB Giáo dục.

26. Phan Huy Chú (2005), Lịch triều hiến chương loại chí, Viện sử học dịch, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

27. Thục Chương (1986), Giai thoại văn nghệ, Sở Văn hóa Thông tin Nghĩa Bình. 28. Lê Văn Chưởng (2010), Đặc khảo văn học dân gian Thừa Thiên Huế, NXB Trẻ,

Tp. Hồ Chí Minh.

29. Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian – Mấy vấn đề phương pháp luận và

nghiên cứu thể loại, NXB Giáo dục, Hà Nội.

30. Chu Xuân Diên (2004), Mấy vấn văn hóa và văn học dân gian Việt Nam, NXB

Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.

31. Cao Xuân Dục (1972), Quốc triều chánh biên toát yếu, Nhóm Sử Địa Việt Nam

xuất bản, Hà Nội.

32. Trần Thị Thùy Duyên (2013), Motif thi tài trong truyền thuyết và truyện cổ tích

dân tộc Kinh, Luận văn Cao học, Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.

33. K. C. Davletop, V. Gaxac (1966), Sáng tác dân gian một loại hình nghệ thuật,

Hoàng Lộc, Lê Sơn dịch, Tài liệu đánh máy của Viện Văn học, Hà Nội.

34. Lãng Nhân Phùng Tất Đắc (1999), Giai thoại làng Nho, NXB Văn hóa Thông tin

(in lại theo bản Nam Chi tùng thư 1966), Hà Nội.

35. Nguyễn Tấn Đắc (2001), Truyện kể dân gian, đọc bằng Type và Motif, NXB

KHXH, Hà Nội.

36. Cao Huy Đỉnh (1976), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian, NXB KHXH, Hà

Nội.

37. Nguyễn Đăng Điệp (1998), Tuyển tập Trần Đình Sử, Tập hai, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

38. Lê Quý Đôn (1978), Đại Việt thông sử, Lê Mạnh Tiêu dịch, NXB KHXH, Hà Nội. 39. Lê Quý Đôn (2013), Kiến văn tiểu lục, 2 tập, Phạm Trọng Điềm dịch, NXB Trẻ

Tp. Hồ Chí Minh.

40. Nhiều tác giả (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, Viện KHXH Việt Nam dịch, NXB

193

KHXH, Hà Nội.

41. Nhiều tác giả (1997), Nghiên cứu Văn nghệ dân gian Việt Nam, 2 tập, NXB Văn

hóa Dân tộc.

42. Nhiều tác giả (2000), Giai thoại Hán Nôm, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 43. Nhiều tác giả (2001), Giai thoại về phụ nữ Việt Nam, NXB Phụ nữ. 44. Nhiều tác giả (2003), Tuyển tập V. Ja. Propp, 2 tập, NXB Văn hóa Dân tộc, Tạp

chí Văn hóa - Nghệ thuật Hà Nội.

45. Nhiều tác giả (2004), Từ điển Văn học (Bộ mới), NXB Thế giới. 46. Nhiều tác giả (2007), Từ điển thuật ngữ Văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 47. Ninh Viết Giao (1994), Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ, Tập 3, NXB Nghệ

An.

48. Ninh Viết Giao (2004), Về văn học dân gian xứ Nghệ, NXB Chính trị Quốc gia Hà

Nội.

49. Ninh Viết Giao (2012), Văn hóa dân gian xứ Nghệ, Tập 3: Truyện cười và giai

thoại, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

50. Bảo Định Giang (2001), Những ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Nam Bộ nửa

sau thế kỷ XIX, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

51. V. Guxev (1999), Mỹ học folklore, Hoàng Ngọc Hiến dịch, NXB Đà Nẵng, Đà

Nẵng.

52. Nguyễn Thị Bích Hà, Giai thoại – Một thể loại văn học dân gian,

http://www.vanhocviet.org

53. Lê Thị Diệu Hà (2015), Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh.

54. Dương Quảng Hàm (2005), Việt Nam văn học sử yếu, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh

(tái bản dựa vào bản in năm 1943).

55. Đỗ Thị Hồng Hạnh (2013), Đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh.

56. Nguyễn Văn Hầu (2004), Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ, NXB Trẻ, Tp. Hồ

Chí Minh.

57. Phan Thư Hiền, Phan Hồng Lam (2011), Giai thoại về các bậc tiền nhân mê hát

ca trù và những đào nương lưu danh sử sách, NXB Thời đại, Hà Nội.

58. Phan Thư Hiền (2012), Giai thoại Nguyễn Công Trứ, NXB Văn hóa Thông tin, Hà

Nội.

59. Phan Thư Hiền, Nguyễn Thị Thân (sưu tầm) (2012), Giai thoại Nguyễn Du và

những mối tình dang dở, NXB Hồng Đức.

60. Nguyễn Hữu Hiệp (2008), “Những dấu ấn và giai thoại về Nguyễn Ánh trên vùng đất Phương Nam”, Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, NXB Thế giới, Hà Nội.

194

61. Nguyễn Hữu Hiếu (1987), Truyện kể dân gian Nam Bộ, NXB Tp. Hồ Chí Minh. 62. Nguyễn Hữu Hiếu (1988), Giai thoại dân gian Đồng Tháp Mười, NXB Đồng

Tháp.

63. Nguyễn Hữu Hiếu (1997), Nam kì cố sự, NXB Đồng Tháp. 64. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ qua chuyện tích

và giả thuyết, NXB KHXH, Hà Nội.

65. Kiều Thu Hoạch, Hoàng Ngọc Phách (sưu tầm), Trần Thanh Mại (giới thiệu)

(1965), Giai thoại văn học Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.

66. Kiều Thu Hoạch (2002), Xác định thể loại giai thoại, Thông báo Văn hóa dân

gian, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr. 24.

67. Kiều Thu Hoạch (2004), Tổng tập văn học dân gian người Việt, Tập 11 - Giai

thoại văn học Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

68. Kiều Thu Hoạch (Chủ biên) (2004), Tổng tập Văn học dân gian người Việt, Tập 4, Tập 5 – Truyền thuyết dân gian người Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 69. Kiều Thu Hoạch (2006), Văn học dân gian người Việt – Góc nhìn thể loại, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

70. Phạm Khắc Hòe (1986), Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn, NXB Thuận Hóa, Huế. 71. Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam (1986), Giai thoại văn nghệ dân gian, Hà Nội. 72. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (2001), Một thế kỷ sưu tầm nghiên cứu văn hóa

văn nghệ dân gian, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

73. Hội Khoa học Lịch sử Tp. Hồ Chí Minh (2005), Nam Bộ đất và người, NXB Trẻ,

Tp. Hồ Chí Minh.

74. Nguyễn Thị Huế (Chủ biên) (2012), Từ điển type truyện dân gian Việt Nam, 2 tập,

NXB Lao Động, Hà Nội.

75. Hồ Quốc Hùng (1998), Về nhóm truyền thuyết khẩn hoang ở một vùng đất mới,

Tạp chí Văn học, số 4.

76. Hồ Quốc Hùng (1999), Những đặc trưng cơ bản của truyện dân gian vùng Thuận Hóa, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học KHXH và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh. 77. Hồ Quốc Hùng (2003), Truyền thuyết Việt Nam và vấn đề thể loại, NXB Trẻ - Hội

Nghiên cứu, giảng dạy Văn học Tp. Hồ Chí Minh.

78. Trần Đình Hượu (1995), Đến hiện đại từ truyền thống, NXB Văn hóa Thông tin,

Hà Nội.

79. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Viện

nghiên cứu Đông Nam Á, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

80. I. P.Ilin, E. A.Tzurganova (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kì thế kỉ XX, Nhóm dịch giả: Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân, NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 81. Trần Trọng Kim (2005), Việt Nam sử lược, NXB Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh. 82. Trương Vĩnh Ký (1962), Chuyện đời xưa, NXB Khai Trí, Sài Gòn. 83. Trường Khang (2011), Giai thoại dân gian Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin,

195

Hà Nội.

84. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2009), Văn học dân gian Việt

Nam, tái bản lần 12, NXB Giáo dục.

85. Vũ Ngọc Khánh (1983), Giai thoại văn học Thanh Hóa, NXB Thanh Hóa. 86. Vũ Ngọc Khánh, Đỗ Thị Hảo (1987), Giai thoại Thăng Long, NXB Văn học, Hà

Nội.

87. Vũ Ngọc Khánh (1989), Giai thoại xứ Lạng, NXB Lạng Sơn. 88. Vũ Ngọc Khánh (1992), Giai thoại văn học Trung Quốc, NXB Văn học, Hà Nội. 89. Vũ Ngọc Khánh (1994), Kho tàng giai thoại Việt Nam, 2 tập, NXB Văn hóa, Hà

Nội.

90. Vũ Ngọc Khánh (1995), Giai thoại văn nghệ dân gian Việt Nam , Hội Văn nghệ

dân gian Việt Nam, Hà Nội.

91. Vũ Ngọc Khánh (1996), Giai thoại folklore Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.. 92. Vũ Ngọc Khánh (1999), Tiếp cận kho tàng folklore Việt Nam, NXB Văn hóa Dân

tộc, Hà Nội.

93. Vũ Ngọc Khánh (2001), “Một thế kỷ sưu tầm, nghiên cứu giai thoại Việt Nam”, in trong: Một thế kỷ sưu tầm, nghiên cứu văn nghệ dân gian (Kỷ yếu Hội thảo Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tổ chức), Nhiều tác giả, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.119 – 126.

94. Vũ Ngọc Khánh (2002), Kho tàng về các ông Trạng Việt Nam (truyện và giai

thoại), NXB Văn hóa Thông tin.

95. Vũ Ngọc Khánh (2005), Giai thoại Truyện Kiều, NXB Văn hóa Thông tin, Hà

Nội.

96. Vũ Ngọc Khánh (2005), Hành trình vào thế giới folklore Việt Nam, NXB Thanh

niên, Hà Nội.

97. Vũ Ngọc Khánh (2012), Việt Nam phong tục toàn biên, NXB Văn hóa Thông tin,

Hà Nội.

98. Khoa Ngữ văn Đại học Cần Thơ (1994), Truyện dân gian Đồng bằng sông Cửu

Long, NXB Đồng Tháp.

99. Khoa Ngữ văn Đại học Cần Thơ (1997), Văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu

Long, NXB Giáo dục, Hà Nội.

100. Phan Khôi (1998), Chương dân thi thoại, NXB Đà Nẵng. 101. Vũ Khiêu, Nguyễn Văn Tú tuyển dịch (1976), Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, in lần

2, NXB Văn học, Hà Nội.

102. Vũ Khiêu (1990), Nho giáo xưa và nay, NXB KHXH, Hà Nội. 103. Huyền Li, 36 giai thoại về Nguyễn Công Trứ, Tạp chí Văn hóa Nghệ An,

http://www.vanhoanghean.com.vn/muc-luc2/36-giai-thoai-ve-nguyen-cong-tru, ngày cập nhật 17/12/2009.

104. Phương Lựu (chủ biên) và nhiều tác giả khác (2006), Lý luận văn học, tái bản

lần thứ 5, NXB Giáo dục, Hà Nội.

196

105. Vũ Văn Luân (2007), Ba Giai, Tú Xuất con người và giai thoại, NXB Thanh

niên, Hà Nội.

106. Trần Đình Nam (2009), Giai thoại Việt Nam – Ông vua làm vè (Giai thoại nhân

vật lịch sử - văn học), NXB Kim Đồng.

107. W. F. H. Nicolaisen (2013), “Giai thoại”, bản dịch của Huỳnh Vũ Lam, dịch từ bài viết “Anecdote” in trong Folklore – An encyclopedia of belief, custom, tales, music and art, T. A. Green, ABC-CLIO, Inc, pp.17 – 19. (Tài liệu cá nhân do tác giả Huỳnh Vũ Lam cung cấp cho tác giả luận án).

108. Nguyễn Văn Ngọc (1931), Câu đối, Vĩnh Hưng Long Thư quán xuất bản, Hà

Nội.

109. Nguyễn Văn Ngọc (1934), Chuyện cổ nước Nam, NXB Thăng Long, Hà Nội. 110. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội. 111. Triều Nguyên (2010), Tổng tập văn học dân gian xứ Huế, Tập 2: Truyện cười,

truyện trạng và giai thoại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

112. Triều Nguyên (2011), Văn nghệ dân gian xứ Huế: Hò đối đáp nam nữ, giai thoại

hò, truyện trạng Nguyễn Kinh, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

113. Triều Nguyên (2014), Tìm hiểu về truyện trạng Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian

Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

114. Triều Nguyên (2016), Giai thoại văn hóa dân gian Việt Nam, 2 tập, NXB Văn

hóa Dân tộc, Hà Nội.

115. Triều Nguyên (2016), Luận về giai thoại, NXB Thời đại, Hà Nội. 116. Phan Trung Nghĩa (2009), Công tử Bạc Liêu – Sự thật và giai thoại, Sở Văn hóa,

Thể thao và Du lịch Bạc Liêu xuất bản.

117. Đào Trinh Nhất (1934), Việt sử giai thoại, Cộng lực xuất bản, Hà Nội. 118. Bùi Mạnh Nhị (Chủ biên) (2000), Văn học dân gian – Những công trình nghiên

cứu, NXB Giáo dục, Hà Nội.

119. Bùi Mạnh Nhị (Chủ biên), (2004), Văn học dân gian – Những tác phẩm chọn lọc,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

120. Lê Trường Phát (1987), “Về hiện tượng xen kẽ giữa văn vần và văn xuôi trong

truyện kể dân gian”, Tạp chí Văn học, số 4.

121. Lê Trường Phát (2000), Thi pháp văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội. 122. Hoàng Phê (1988), Từ điển tiếng Việt, NXB KHXH, Hà Nội. 123. Phan Phụng (1992), Tú Quỳ, văn chương và giai thoại, NXB Đà Nẵng. 124. Nguyễn Ngọc Quận (2009), “Đôi điều cần đính chính về tư liệu văn học liên quan đến Cao Bá Quát”, http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/tai-lieu-pho-cap- vhh/van-hoa-viet-nam/1184-nguyen-ngoc-quan-doi-dieu-can-dinh-chinh-ve-cao- ba-quat.html , ngày đăng 22/03/2009.

125. Lê Chí Quế (Chủ biên) (1999), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Đại học Quốc

gia Hà Nội.

126. Phạm Đan Quế (1999), Tập Kiều – Một thú chơi tao nhã, NXB Văn nghệ Tp. Hồ

197

Chí Minh.

127. Phạm Đan Quế (2015), Từ lẩy Kiều, đố Kiều đến các giai thoại về truyện Kiều,

NXB Giáo dục.

128. Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam nhất thống chí, 3 tập, NXB Thuận

Hóa, Huế.

129. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, 2

tập, Viện Sử học dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội.

130. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện, 4 tập, Đỗ Mộng Khương dịch, Hoa Bằng hiệu đính, tái bản lần thứ hai, NXB Thuận Hóa, Huế. 131. Lương Cao Rính (2001), Giai thoại Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, NXB Hải

Phòng.

132. N. D. Tamarchenko (2014), “Giai thoại là gì?”, Lã Nguyên dịch,

https://languyensp.wordpress.com/ , cập nhật ngày 20/10/2014.

133. Vũ Anh Tuấn (Chủ biên), Phạm Thu Yến, Nguyễn Việt Hùng, Phạm Đặng Xuân

Hương (2016), Giáo trình Văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội

134. Cổ Ngô Mạc Lãng Tử (1993), Tây Hồ giai thoại, 2 tập, Dương Thu Ái dịch,

NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

135. Hoàng Tiến Tựu (1998), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội. 136. Bùi Quang Thanh (1981), “Truyền thuyết dân gian với tâm lý cộng đồng người

Việt”, Tạp chí Văn học, số 3.

137. Cao Tự Thanh (1995), Giai thoại thơ Đường, NXB Phụ nữ, Hà Nội. 138. Chương Thâu (1991), Giai thoại Phan Bội Châu, NXB Nghệ An, Trung tâm Văn

hóa Ngôn ngữ Đông Tây kết hợp xuất bản.

139. Thiền viện Thường Chiếu, Giai

nhà đăng thiền, ngày

thoại http://thuongchieu.net/index.php/chuyende/giaithoainhathien, 22/11/2008 đến ngày 27/09/2009.

140. Trần Ngọc Thêm (1996), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Tổng hợp Tp. Hồ Chí

Minh.

141. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1990), Quan niệm về Folklore, NXB KHXH, Hà

Nội.

142. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, NXB

Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

143. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (đồng chủ biên) (2005), Folklore thế giới – Một

số công trình nghiên cứu cơ bản, NXB KHXH, Hà Nội.

144. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (đồng chủ biên) (2005), Folklore thế giới – Một

số thuật ngữ đương đại, NXB KHXH, Hà Nội.

145. Nguyễn Khắc Thuần (1992 – 1994), Việt sử giai thoại, 8 tập, NXB Tp. Hồ Chí

Minh.

146. Nguyễn Khắc Thuần (1997), Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam: Nho giáo với quá trình tham gia vào đời sống tư tưởng Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

198

147. Đỗ Lai Thúy (2000), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, NXB Văn hóa Thông

tin, Hà Nội.

148. Đỗ Lai Thúy (2001), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa Thông

tin, Hà Nội.

149. Đỗ Lai Thúy (2007), Phân tâm học và tính cách dân tộc, NXB Tri thức, Hà Nội. 150. Đỗ Lai Thúy (biên soạn và giới thiệu) (2004), Sự đỏng đảnh của phương pháp: Các lý thuyết và phương pháp trong văn hóa nghệ thuật, NXB Văn hóa - Thông tin, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.

151. Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường (1992), Nghìn năm bia miệng, 2 tập,

NXB Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.

152. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội. 153. Đỗ Bình Trị (1995), Phân tích tác phẩm văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

154. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

155. Đỗ Bình Trị (2017), Mấy nghiên cứu, ứng dụng học thuyết của V. Propp về

folklore, Tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.

156. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2003), Đinh Gia Khánh –

Tác phẩm được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB KHXH, Hà Nội.

157. Viện Văn học (1999), Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học (1960 – 1999), Tập 1,

Văn học dân gian, NXB Tp. Hồ Chí Minh.

158. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2003), Thông báo Văn hóa dân gian 2002,

NXB KHXH, Hà Nội.

159. Kiều Văn (2002), Giai thoại lịch sử Việt Nam, 2 tập, NXB Văn hóa Thông tin,

Hà Nội.

160. Trần Trung Viên (1968), Giai thoại làng văn, trong quyển Văn đàn bảo giám

(quyển thượng), NXB Mặc Lâm, Sài Gòn.

161. Hoàng Hương Việt (2004), Giai thoại đất Quảng, NXB Đà Nẵng. 162. Trần Quốc Vượng (1996), Theo dòng lịch sử: Những vùng đất, thần và tâm thức

người Việt, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

163. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam, cái nhìn địa văn hóa, NXB Văn hóa Dân

tộc, Hà Nội.

164. Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn học,

Hà Nội.

165. Trần Quốc Vượng (2014), Trong cõi, NXB Hội Nhà văn & Công ty Văn hóa và

Truyền thông Nhã Nam, Hà Nội.

166. Nguyễn Đắc Xuân (1986), Hương giang cố sự, Hội Văn học Nghệ thuật Bình Trị

Thiên xuất bản, Huế.

167. Nguyễn Đắc Xuân (1987), Chuyện cũ cố đô, Hội Văn học Nghệ thuật Bình Trị

Thiên xuất bản, Huế.

199

168. Nguyễn Khắc Xương (1990), Ông thần ngông: Giai thoại Tản Đà, NXB Văn

học, Hà Nội. B. Tài liệu tiếng Anh: 169. Aarne, A., & Thompson, S. (1961), The types of the folktale: A classification and bibliography, Antti Aarne's Verzeichnis der Märchentypen (FF communications no. 3) translated and enl. by Stith Thompson. 2nd revision. Helsinki: Academia Scientarum Fennica.

170. Coe, N. R. (1985), “The Anecdote and the Novel: A brief enquiry into the origins of Stendhal's narrative technique”, Australian Journal of French Studies; Clayton, Vic. 22 (2).

171. Diniejko, A. & Litt, D. (2016), “Isaac D’Israeli’s Literary Works”, The Victoria web, link: http://www.victorianweb.org/previctorian/disraeli/literature.html. 172. D’Israeli, I. (1793), A dissertation on anecdotes, London: printed for Kearsley,

C., G & Murray, J.

173. Dorson, M. R. (1959), American Folklore, Daniel J. Boorstin editor, The University of Chicago Press Chicago and London, The Abraham Lincoln Library.

174. Dundes, A. (1965), The study of Folklore, Prentice - Hall, Englewood Cliffs, N.J,

Unieversity of California at Berkeley.

175. Dundes, A. (1980), “Who are the folk”, Interpreting folklore, Bloomington :

Indiana University Press, link: https://lizmontague.files.wordpress.com/2011/10/fl whoarethefolk.pdf

176. Fineman, J. (1989), “The history of the Anecdote: Fiction and fiction”, The New Historicism, 1st Edition, The New Historicism, ed. Veeser, H. A., New York and London: Routledge.

177. Fleming, P. (2011), “The perfect story: Anecdote and exemplarity in Linnaeus and Blumenberg”, Thesis Eleven, 104 (1), pp. 72 – 86, Article first published online: March 7, 2011; Issue published: February 1, 2011, https://doi.org/10.1177/0725513610394736.

178. Gallop, J. (2002), Anecdotal theory, Duke University Press. 179. Gossman, L. (2003), “Anecdote and history”, History and Theory, 42 (2) (May, 2003), pp. 143 – 168, Wesleyan University. Link: https://doi.org/10.1111/1468- 2303.00237.

180. Laden, S. (2004), “Recuperating the Archive: Anecdotal Evidence and Questions

of Historical Realism”, Poetics Today, 25 (1), pp. 1 – 28, https://doi.org/10.1215/03335372-25-1-1

181. London, A. (2005), “Isaac D’Israeliand literary history: Opinion, anecdote and

secret history in the early nineteenth century”, Poetics Today, Published by Duke University Press, link:

200

https://citeseerx.ist.psu.edu/viewdoc/download?doi=10.1.1.836.4026&rep=rep1& type=pdf.

182. Moore, R. (2009), “The use of the anecdote in the critical study of aboriginal

literature”, University of Saskatchewan, Canada, link: https://harvest.usask.ca/bitstream/handle/10388/etd-01152010 085439/TheUseoftheAnecdoteintheCriticalStudyofAboriginalLiterature.pdf 183. Nichols, J. (1782), Biographical and literary anecdotes of William Bowyer,

London, Printed by the author.

184. Nichols, J., Bentley, S. & Nichols, S. (1812 – 1816), Literary anecdotes of the eighteenth century: Comprizing biographical memoirs of William Bowyer. Second edition. London: Printed for the author, by Nichols, Son, and Bentley, at Cicero's Head, Red-Lion-Passage, Fleet-Street.

185. Percy, R. & Percy, S. (1821), The Percy anecdotes: Original and select [by] Sholto and Reuben Percy, brothers of the Benedictine Monastery, Mont Benger. London: T. Boys.

186. Percy, R. (1838), The Percy anecdotes, revised edition: To which is added, a valuable collection of American anecdotes, original and select. New York: Harper & Brothers.

187. Percy, R. & Percy, S. (1845). The Percy anecdotes: to which is added a valuable collection of American anecdotes, original and select. Rev ed. New York: Harper & Brothers.

188. Subadhra, S. (2018), “History through Anecdotes: A New Historical Outlook on

Tariq Ali’s Islam Quintet”, IJLLH (International Journal of English Language Literature in Humanities), 6 (2), link: https://ijellh.com/OJS/index.php/OJS/article/view/3199

189. Vermeulen, P. (2010), “Greenblatt’s melancholy fetish: literary criticism and thedesire for loss”, Textual Practice 24 (3), 2010, pp. 483 – 500, link: http://www.pvermeulen.com/uploads/1/2/4/3/12438327/melancholyfetish.pdf 190. Williams, M. (2014), “New Historicism and Literary Studies”, New York: https://soka.repo.nii.ac.jp. Routledge, link:

201

PHỤ LỤC

202

MỤC LỤC

PHỤ LỤC 1: BẢNG THỐNG KÊ VĂN BẢN GIAI THOẠI PHÂN LOẠI CHƯA HỢP LÝ TỪ CÁC TUYỂN TẬP ...................................................................................................................................................... 1 PHỤ LỤC 2: KẾT QUẢ KHẢO SÁT TIÊU CHÍ ĐỀ TÀI VÀ NHÂN VẬT CỦA MỘT SỐ TUYỂN TẬP GIAI THOẠI ............................................................................................................................................ 38 PHỤ LỤC 3: HỆ THỐNG VĂN BẢN VÀ KẾT QUẢ KHẢO SÁT TÌNH TIẾT CỦA CÁC TIỂU LOẠI, NHÓM GIAI THOẠI CÓ TRONG LUẬN ÁN .................................................................................. 138 1. GIAI THOẠI VĂN HỌC ............................................................................................................................ 138 1.1 Giai thoại văn học về thách đố, đối chọi văn chương ............................................................................... 138 1.2 Giai thoại văn học về ứng tác văn chương ................................................................................................ 145 2. GIAI THOẠI VĂN HÓA DÂN GIAN ....................................................................................................... 156 PHỤ LỤC 4: MỘT SỐ VĂN BẢN GIAI THOẠI TRONG CÁC TUYỂN TẬP GIAI THOẠI ĐƯỢC LUẬN ÁN KHẢO SÁT .................................................................................................................................. 167 A. GIAI THOẠI VĂN HỌC ........................................................................................................................... 167 * GIAI THOẠI VĂN HỌC VỀ THÁCH ĐỐ VĂN CHƯƠNG ..................................................................... 167 1. Bác lái đò hay chữ (Sư Đỗ Thuận) .............................................................................................................. 167 2. Trạng nguyên về học lễ (Nguyễn Hiền) ...................................................................................................... 167 3. Ra đối dễ, đối đối khó (Mạc Đĩnh Chi) ....................................................................................................... 168 4. Trăng là cung, sao là đạn (Mạc Đĩnh Chi) .................................................................................................. 169 5. Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào (Mạc Đĩnh Chi) ....................................................................................... 169 6. Chim chếch - ếch ngộp (Mạc Đĩnh Chi) ..................................................................................................... 169 7. Hoa sen trong giếng ngọc (Mạc Đĩnh Chi) ................................................................................................. 170 8. Sư sử sứ, phụ phù phu (Lương Thế Vinh) .................................................................................................. 170 9. Hai cô Điểm, hai ông Luân (Đoàn Thị Điểm) ............................................................................................. 171 10. Vế đối hai nghĩa (Đoàn Thị Điểm)............................................................................................................ 171 11. Thư mượn áo cừu (Lê Quý Đôn) .............................................................................................................. 171 12. Cái cò lặn lội bờ sông (Lê Quý Đôn) ........................................................................................................ 172 13. Câu đố chữ nhất (Lê Quý Đôn) ................................................................................................................. 173 14. Cốt đối ý (Nguyễn Hữu Cầu) .................................................................................................................... 174 15. Đánh nhau bằng cả câu đối (Nguyễn Hữu Cầu) ........................................................................................ 175 16. Một lũ ăn mày một lũ quan (Nguyễn Quí Tân) ......................................................................................... 175 17. Thơ răng cắn lưỡi (Nguyễn Đăng Hành) ................................................................................................... 176 18. Ở truồng xem vua (Cao Bá Quát).............................................................................................................. 177 19. Khí phách ngang tàng (Cao Bá Quát) ....................................................................................................... 177 20. Một bọc sinh đôi (Cao Bá Quát) ............................................................................................................... 178 21. Khóc mướn kiếm ăn (Cao Bá Quát) .......................................................................................................... 178 22. Bịa thơ tài hơn vua (Cao Bá Quát) ............................................................................................................ 179 23. Không biết chữ chi (Cao Bá Quát) ............................................................................................................ 180 24. Miệng kẻ sang, đồ nhà khó (Trạng Quỳnh)............................................................................................... 181 25. Chó khôn chớ cắn càn (Trạng Quỳnh) ...................................................................................................... 182 26. Tú Cát – Bọ hung (Trạng Quỳnh) ............................................................................................................. 182 27. Quân tử chí, xã tắc thần (Nguyễn Quý Đức) ............................................................................................. 182 28. Ếch ngôi đáy giếng (Nguyễn Đăng Cảo) .................................................................................................. 182 29. Phong nguyệt vô biên (Nguyễn Đăng Cảo)............................................................................................... 183 30. Hà túc toàn giã, bất diệt lạc hồ (Vương Toán) .......................................................................................... 184 31. Chết vì câu đối (Ngô Thì Nhậm) ............................................................................................................... 185 32. Anh hùng đè xuống dưới (Nguyễn Công Trứ) .......................................................................................... 186 33. Đối chọi với sư (Nguyễn Công Trứ) ......................................................................................................... 186 34. Ghẹo sư (Hoàng Phan Thái) ...................................................................................................................... 187 35. Cọp bắt thầy tu (Hoàng Phan Thái) ........................................................................................................... 187

36. Ngon đối với rột (khuyết danh) ................................................................................................................ 188 37. Ọt ẹt bất ọt ẹt (khuyết danh) ...................................................................................................................... 188 38. Đội ra ông phủ (khuyết danh) .................................................................................................................... 189 * GIAI THOẠI VĂN HỌC VỀ ỨNG TÁC VĂN CHƯƠNG ........................................................................ 190 1. Bị trói vẫn làm thơ (Lý Công Uẩn) ............................................................................................................. 190 2. Đọc thơ chê Hạng Vũ (Hồ Tông Thốc) ....................................................................................................... 191 3. Chữa thơ Vương Bột (Hồ Tông Thốc) ........................................................................................................ 191 4. Câu thơ kỳ lạ (Hồ Quý Ly) .......................................................................................................................... 192 5. Thơ đùa ả bán chiếu (Nguyễn Trãi) ............................................................................................................. 193 6. Xơi hai trứng (Trạng Quỳnh) ...................................................................................................................... 193 7. Ngâm thơ cự thần (Nguyễn Thái Thường) .................................................................................................. 194 8. Đọc thơ chữa thẹn (Hồ Xuân Hương) ......................................................................................................... 194 9. Đánh trống qua cửa nhà sấm (Hồ Xuân Hương) ......................................................................................... 195 10. Tiến sĩ triều Lê, khăn triều Nguyễn (Trần Danh Án) ................................................................................ 195 11. Ông Cống làm trâu (Bà huyện Thanh Quan) ............................................................................................ 196 12. Cho Thị Đào đi lấy chồng (Bà huyện Thanh Quan) .................................................................................. 197 13. Chê khéo (Bà huyện Thanh Quan) ............................................................................................................ 197 14. Say rượu đánh long thần (Nguyễn Công Trứ) ........................................................................................... 198 15. Thơ trách nữ thần (Nguyễn Công Trứ) ..................................................................................................... 198 16. Tự tiện chữa văn của vua (Cao Bá Quát) .................................................................................................. 198 17. Trên dưới đều chó (Thượng hạ giai cẩu) (Cao Bá Quát) ........................................................................... 199 18. Bài thơ không họa nổi (Huỳnh Mẫn Đạt) .................................................................................................. 200 19. Thơ tạ hương đảng (Học Lạc) ................................................................................................................... 200 20. Bị ngồi trăng (Học Lạc) ............................................................................................................................. 201 21. Anh hùng có một ngươi (Tú Quỳ) ............................................................................................................ 202 22. Thơ trả lời bạn nhà giàu (Nhiêu Tâm) ....................................................................................................... 202 23. Đái vẽ nên rồng (Cử Trị) ........................................................................................................................... 203 24. Thơ ăn thịt cần đước (Cử Trị) ................................................................................................................... 203 25. Hóa ra dưa (Tú Xương) ............................................................................................................................. 203 26. Thơ nói lái (Tự Đức) ................................................................................................................................. 204 27. Trâu bò dê lóc (Nguyễn Đình Chiểu) ........................................................................................................ 204 28. Muôn quyển sách – ba đoạn tre (khuyết danh) .......................................................................................... 205 29. Bốn chàng sĩ tử (khuyết danh) ................................................................................................................... 206 30. Nỏ biết ông chi mặt đỏ gay (khuyết danh) ................................................................................................ 206 31. Làng biết có đi đời (khuyết danh) ............................................................................................................. 207 C. GIAI THOẠI VĂN HÓA DÂN GIAN ....................................................................................................... 207 GIAI THOẠI SINH HOẠT VĂN HÓA, VĂN NGHỆ DÂN GIAN .............................................................. 208 GIAI THOẠI HÒ ĐỐI ĐÁP BÌNH TRỊ THIÊN ............................................................................................ 208 1. Tui cày suông cho chị (Ông Bơi) ................................................................................................................ 208 2. Nét tơ đồng không sai (Thợ Quán) .............................................................................................................. 208 3. Hễ trời mưa giông một trộ (Thợ Quán) ....................................................................................................... 209 4. Vợ chồng mình như em ả, chị tam (Thợ Quán) ........................................................................................... 209 5. Nam to không chèo (Thợ Thiềm) ................................................................................................................ 209 6. Méo tròn cũng phải ăn (Thợ Thiềm) ........................................................................................................... 210 7. Thợ Thiềm phá vây (Thợ Thiềm) ................................................................................................................ 210 GIAI THOẠI HÒ KHOAN NAM TRUNG BỘ VÀ HÁT PHƯỜNG VẢI NGHỆ TĨNH ............................. 211 1. Cưỡi rồng (Đồ Tâm – Bà Rồng) .................................................................................................................. 211 2. Buôn trầu lỗ lắm (khuyết danh) .................................................................................................................. 212 3. Hai cặp ảng có mấy cái lù? (khuyết danh) ................................................................................................... 212 4. Anh chỉ được đứng hầu ở ngoài sân (Cô Hai Nên) ..................................................................................... 213

5. So sánh giữa tôi và chị (khuyết danh) ........................................................................................................ 213 6. Mi thò đầu lên là tau ngoéo (Giáo Lươn) .................................................................................................... 213 7. Cặp và chiếc (khuyết danh) ......................................................................................................................... 214 8. Đu đưa đủng đởn như ông già (Bảy Tỏi) .................................................................................................... 215 9. Miếng đất mưa ba năm không ướt, nắng sáu tháng không khô (Bảy Tỏi) .................................................. 216 10. Hát với nàng Dùi Chiêng (Trần Hàn) ........................................................................................................ 216 11. Lão Phàn con ai? (Trần Hàn) ................................................................................................................... 217 12. Cây ai trồng nấy ăn (Trần Hàn) ................................................................................................................. 217 13. Bị vây bủa bốn bề (Trần Hàn) ................................................................................................................... 218 14. Chết vì một câu hò (Trần Hàn) ................................................................................................................. 218 15. Thầy gà cũng bí (khuyết danh) .................................................................................................................. 219 16. Con lươn, con lạch trơn lù lu (khuyết danh) ............................................................................................. 220 16. Đòn chữ nghĩa của trường hò (khuyết danh) ............................................................................................. 220 17. Không biết thiếp ngồi chầu chỗ mô (o Quy) ............................................................................................. 221 18. Xin Quy ở lại, hạc đi chầu trời ( o Quy) ................................................................................................... 222 19. Cau khô và cau nàng (Thợ Bơi) ................................................................................................................ 223 20. Chọi nhau, gà bên nào cũng chịu thiệt (Thợ Bơi) ..................................................................................... 224 21. Hát phường vải (Nguyễn Công Trứ) ......................................................................................................... 224 22. Vì mê hát mà mất vợ (Nguyễn Công Trứ) ................................................................................................ 225 23. Duyên nợ với hát ả đào (Nguyễn Công Trứ) ............................................................................................. 226 24. Giang sơn một gánh giữa đồng (Nguyễn Công Trứ) ................................................................................. 228 25. Thuyền quyên ứ hự (Nguyễn Công Trứ) ................................................................................................... 230 26. Nam Đàn tứ hổ là đây (Phan Bội Châu) .................................................................................................... 233 27. Đoán chữ (Phan Bội Châu) ....................................................................................................................... 233 28. Đoán tên (Phan Bội Châu) ........................................................................................................................ 234 29. Cha thầy Mạnh Tử là ai? (Phan Bội Châu) ............................................................................................... 235 30. Mối tình chung (Phan Bội Châu) .............................................................................................................. 236 31. Vui cuộc cờ tàn (Phan Bội Châu) .............................................................................................................. 236 PHỤ LỤC 5: VĂN BẢN SO SÁNH VỀ MỘT SỐ KIỂU TRUYỆN TRONG CỔ TÍCH VÀ GIAI THOẠI ............................................................................................................................................................ 238 1. Kiểu truyện Kén rể ...................................................................................................................................... 238 2. Kiểu truyện Em bé thông minh ................................................................................................................... 240 3. Kiểu truyện Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng ......................................................................................... 242 4. Kiểu truyện Người học trò và con quỷ ........................................................................................................ 243 PHỤ LỤC 6: DẪN CHỨNG NGUỒN TƯ LIỆU LỊCH SỬ CỦA QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN CÓ DÙNG TRONG ...................................................................................................................... 248 LUẬN ÁN ....................................................................................................................................................... 248 I. Sách Đại Nam nhất thống chí ...................................................................................................................... 248 II. Sách Việt sử thông giám cương mục .......................................................................................................... 248

PL1

PHỤ LỤC 1: BẢNG THỐNG KÊ VĂN BẢN GIAI THOẠI PHÂN LOẠI CHƯA HỢP LÝ TỪ CÁC TUYỂN TẬP 1. Công trình Giai thoại văn học Việt Nam của Hoàng Ngọc Phách, Trần Thanh Mại có 35/254 văn bản xếp loại chưa hợp lý:

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

Thuyền quyên ứ hự

1 Câu đối nhà hàng nước Xanh vàng đỏ tía 2 3 Tận thu lòng dạ thế gian 4 Chiêu Bảy và cô Cúc 5 6 Hỏi anh 7 Một câu đối, hai hoàn cảnh 8 Câu đối khóc chồng chung 9 Câu đối kén chồng 10 Nằm cùng thì cho 11 Đã cho vào bực bố 12 Bài ca trù khích lệ anh hùng 13 Cho chữ thờ 14 Chi chi giã 15 Lo trước thiên hạ 16 Khóc anh thợ rèn

Tiểu loại được xếp Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian

Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân

17

Vợ người hàng thịt khóc chồng và con chết cùng một lúc

18 Vợ nthợ huộm khóc chồng 19 Trưởng chợ mừng nhà mới 20 Áo địa - Ván thiên 21 Vợ anh thợ nhuộm khóc chồng

Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian

Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân

PL2

Ghi chú

Stt

Tên giai thoại

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

Tiểu loại được xếp Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian

Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân

22 Giàu có, sang không 23 Một phút hóa trăm năm

24

Làm câu đối cho bà buôn gạo khóc chồng

Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian

Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian

25 Làm hộ trướng phúng bạn 26 Cháu góa mừng cô góa 27 Một cũng đủ rồi 28 Nghe thơ đoán người 29 Hé gương 30 Họ vắt 31 Vả bây giờ 32 Cô Kiều cười 33 Gái Nội Duệ Cầu Liêm 34 Biết rùa meo mô mà tìm 35 Tên cha thằng bày

2. Công trình Giai thoại folklore của Vũ Ngọc Khánh có 95/461 văn bản xếp chưa hợp lý (Không tính đến các giai thoại về nhân vật

Trạng có trong công trình này)

Tên giai thoại

Stt

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

ngõ

bốn

thượng

thư,

1

Giai thoại folklore Không xếp loại

không có cốt truyện

Một một làng 19 tiến sĩ

2 Phật cười Phật say

Giai thoại folklore Không xếp loại

3 Quan văn phủ, phú quan nghè kinh nghĩa chỉ Giai thoại folklore Không xếp loại

không có cốt truyện

PL3

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

huy là quan hoàng pháp

4 Gà văn phú, cú lộng điền

Giai thoại folklore Không xếp loại

trướng Cát Xuyên,

liên

đối

5

Giai thoại folklore Không xếp loại

6

Giai thoại folklore Không xếp loại

Văn Phùng Cầu Thơ từ lão Húng, phú quý mụ Bông, lịch sự cô Hồng, khôn ngoan chú Bưởi

Giai thoại folklore Không xếp loại

7 Bãi gáo lão Gằm kịch đau

của

câu hò

thương

8

Giai thoại folklore

Truyền thuyết địa danh

9

Giai thoại folklore Không xếp loại

không có cốt truyện không có cốt truyện không có cốt truyện không có cốt truyện không có cốt truyện không có cốt truyện không có cốt truyện

buồm mời

rượu,

gánh

gạo

10

Giai thoại folklore Giai thoại văn học

Thách đố văn chương

Bi đối đáp Những câu hò giã gạo chưa ai đối được Căng lội sông 11 Ai ve con mụ

Giai thoại folklore Giai thoại văn học

12 Tiếng ai xin lửa

Giai thoại folklore Không xếp loại

13 Con trâu là vật vô tri

Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử

14 Ngon sớm ngọt chiều

Giai thoại folklore Không xếp loại

15 La Qua - Phước Chỉ 16 Tao kéo mày về 17 Hương và trăng sao 18 Thì muốn thì theo

Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học

Ứng tác văn chương không có cốt truyện Nhóm giai thoại xử kiện không có cốt truyện Thách đố văn chương Thách đố văn chương Thách đố văn chương Thách đố văn chương

PL4

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

19 Than lửa - bút nghiên 20 Có râu nên thoát tội 21 Mẹ học trò, cha quan lớn 22 Trăng lộn, đèn dài 23 Sau trươc, xuống lên 24 Thạch Hà - Kim Động 25 Những câu thơ chống thần 26 Mồ hôi thần 27 Đồ nọ tưởng đồ kia thêm thắc mắc 28 Thơ mừng đám cưới đặc biệt 29 Hỡi cụ hỡi nàng 30 Cụ chửa về 31 Đám rước quan 32 Phê đơn ly dị 33 Xê ra! Để chị về cho sớm 34 Cu li và phi lu 35 Văn tế một tên tướng Pháp 36 Cô hàng nem cảnh cáo các nhà thơ 37 Thơ năm cụ 38 Ba ông bà đều là thi sĩ 39 Cái quý giá của chức câu đương 40 Ra ngõ gặp gái việc gì mà kiêng 41 Lễ tế cá

Tiểu loại luận án đề nghị xếp Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Không xếp loại

Thách đố văn chương Ứng tác văn chương Thách đố văn chương Ứng tác văn chương Thách đố văn chương Thách đố văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Ứng tác văn chương không có cốt truyện

PL5

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

42 Ngựa về đường Bưởi 43 Đá Liễu Thăng 44 Bát canh lươn

Tiểu loại luận án đề nghị xếp Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử

45 Chính tôi phải chịu ơn quan bác

Giai thoại folklore Giai thoại văn học

46 Phạm Công Trứ xử kiện 47 Bà mẹ Vạn Hà 48 Thế nào mới thực là vẻ vang 49 Cho con cái kết hôn với nhau 50 Chi tại nàng yêu cây mía 51 Người đào ao xử kiện 52 Lũ gian tham đâu vào chỗ đứng

Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử

Thách đố văn chương Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại xử kiện Nhóm giai thoại văn học về sinh hoạt đời tư nhà văn Nhóm giai thoại xử kiện Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại tình sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại tình sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử

tìm hiểu và dạm vợ cho

53

Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử

Nhóm giai thoại tình sử

Một cách con

54 Xem cái rổ kia kìa

Giai thoại folklore Giai thoại văn học

55 Bọn kẻ trộm chúng tôi làm đấy

Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử

56 Dạ, tôi chỉ làm đến tể tướng thôi ạ

Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử

Thách đố văn chương Nhóm giai thoại văn học về sinh hoạt đời tư nhà văn Nhóm giai thoại văn học về sinh hoạt đời tư nhà văn

57

Giai thoại folklore Giai thoại văn học

Ứng tác văn chương

Vua Quang Trung và nhân dân ở trại văn chương

58 Vụ án tổ tôm 59 Mẹ tôi lấy vua thì tôi là con vua chứ 60 Cây roi mây cuốn theo tấm lụa

Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử

Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại tình sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử

PL6

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

61 Tri huyện chiếu lệnh phạt đức ông 62 Người cuồng ở Bình Định 63 Coô Miên ngủ một mình 64 Bà gồm và mười hai nong cơm 65 Xử Tây 66 Con ta biết trung là hiếu rồi 67 Cô bán cơm gan góc 68 Đôi ta cùng nợ nước non 69 Đồ Nghệ xưng vua 70 Kỳ tài hầu 71 Xử kiện ruộng dưa 72 Giả mù cũng không thoát tội 73 Khoan khoan con nói 74 Bụng sình 75 Ăn mày và chó đói 76 Đình và Võ 77 Bầu phải đi với bí 78 Tình văn chương 79 Cua chơi trăng

Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học

Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Thách đố văn chương Thách đố văn chương Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại tình sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Thách đố văn chương

80

Giai thoại folklore Giai thoại văn học

Ứng tác văn chương

Mười hai bài liên hoàn với nhan đề khuê phụ thán

81 Tôi sẽ ăn mừng 82 Lạy cây 83 Dưới phường khất cái ta đùa ta thân

Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại văn học

Con người yêu nước Con người yêu nước Ứng tác văn chương

PL7

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

84 Tớ không phải là phu

Giai thoại folklore Giai thoại văn học

85 Câu đối chửi quan 86 Làm hộ đơn cho người có trâu chết

Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học

87 Hồng cậy tứ bàng

Giai thoại folklore Giai thoại văn học

88 Hương hỏa chi mày 89 Phủ Tuấn xử kiện 90 Trâu phải được về với chủ nó 91 Đánh lý trưởng 92 Bầy gà chức sắc 93 Bê về với bò mẹ 94 Đích thị kẻ bắt gà 95 Tay nào nhặt chuối 96 Trạng Hiền 97 Nỗi oan sư thầy 98 Trạng Lường 99 Cân voi đo giấy 100 Trạng Ăn 101 Mạo trạng nguyên 102 Băng trạng thi tài 103 Trạng Bịu 104 Trạng Gióng 105 Trạng Quét

Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại văn học

Nhóm giai thoại văn học về sinh hoạt đời tư nhà văn Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Nhóm giai thoại văn học về sinh hoạt đời tư nhà văn Ứng tác văn chương Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Thách đố văn chương Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Thách đố văn chương Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Thách đố văn chương Thách đố văn chương Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Sinh hoạt đời tư (học hành)

PL8

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử Thách đố văn chương Sinh hoạt đời tư (học hành) Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Nhóm giai thoại đi sứ

Truyện trạng Truyện trạng

Truyện trạng

Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Sinh hoạt đời tư (thi cử, học hành) Thách đố văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương

Truyện trạng

Ứng tác văn chương

106 Trạng Vật 107 Trạng Cờ 108 Đề đất phát cho thợ cạo 109 Để đất cho nghề đan bồ 110 Để đất cho người phó cối 111 Trạng Tư Thiên 112 Trạng Trịnh 113 Trạng Khiếu 114 Chú bé con nhà hàng thịt 115 Trở thành trạng nguyên 116 Trạng Lợn đi sứ 117 Đào trường thọ 118 Tiên sư thằng Bảo Thái 119 Lõm quan thị 120 Lại lỡm quan thị 121 Những bài thi bất hủ 122 Coi thử miệng quan 123 Đánh tráo thư 124 Tượng đá mất thiêng 125 Cúng thành hoàng 126 Vay tiền Bà Chúa Liễu 127 Mừng Chúa thắng trận 128 Bắt sông Ba Bướu Tư Ngang

Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại lịch sử Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore

Truyện trạng

PL9

Ghi chú

Stt

Tên giai thoại

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

Truyện trạng Truyện trạng Truyện trạng Truyện trạng Truyện trạng Truyện trạng Truyện trạng Truyện trạng Truyện trạng Truyện trạng Truyện trạng Truyện trạng Truyện trạng Truyện trạng Truyện trạng Truyện trạng

129 Tú Xuất đóng cửi giải nạp về tình thành 130 Lột quần thầy lý 131 Lột khăn lấy giầy cụ lớn 132 Lột áo quan hàn 133 Chửi thi 134 Lại một cuộc chửi thi khác 135 Chọc con ông Đốc học 136 Vén váy bà quan 137 Đòi quan 138 Lấy quần chưng phơi ngoài sào 139 Đòn trừnag phạt lão bán tơ 140 Quan phủ bắt đám bạc 141 Cặp vịt một đêm đẻ năm trứng 142 Trò lục sở 143 Tranh tối tranh thơm 144 Hễ ai mà nói dối ai 145 Bốn bức chân dung 146 Sát lớ mần răng 147 Đội mũ chóp 148 Cấm đĩ 149 Cuộc lăng nhăng 150 Nhuôm vện khoang vằn vô số chó 151 Tấm vóc đáng giá đồing chinh

Tiểu loại được xếp Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại folklore Giai thoại folklore Không xếp loại Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Không xếp loại Giai thoại folklore Không xếp loại Giai thoại folklore Không xếp loại Giai thoại folklore Không xếp loại Giai thoại folklore Giai thoại văn học

Không có cốt truyện Ứng tác văn chương Không có cốt truyện Không có cốt truyện Không có cốt truyện Không có cốt truyện Thách đố văn chương

PL10

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

Giai thoại folklore Không xếp loại Giai thoại folklore Giai thoại văn học Giai thoại folklore Không xếp loại

Không có cốt truyện Ứng tác văn chương Không có cốt truyện

152 Dại khôn 153 Chóc sư – Hư nịnh 154 Phúc đức gì mày bố đĩ Giai

PL11

3. Công trình Giai thoại văn học Việt Nam (Tập 11, Tổng tập Văn học dân gian người Việt) của Kiều Thu Hoạch (chủ biên) có 58/442 văn

bản xếp chưa hợp lý:

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

Thuyền quyên ứ hự

1 Câu đối nhà hàng nước 2 Câu đối nhà thợ nhuộm 3 Câu đối người hốt phân 4 Suýt toi mạng vì bài hát 5 Chiêu Bảy và cô Cúc 6 7 Hỏi anh 8 Chiết tự chữ Đức 9 Một câu đối, hai hoàn cảnh 10 Câu đối khóc chồng chung 11 Nằm cùng thì cho 12 Câu đối đền Lia Thia 13 Đã cho vào bực bố 14 Hoa xưa ong cũ 15 Bài ca trù khích lệ anh hùng 16 Chi chi giã 17 Lo trước thiên hạ 18 Câu đối khóc anh thợ rèn 19 Vợ người hàng thịt khóc chồng con 20 Vợ nhuộm khóc chồng 21 Trưởng chợ mừng nhà mới 22 Áo địa - Ván thiên

Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian

Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân sinh hoạt văn nghệ dân gian Câu đối trong tập quán nhân dân sinh hoạt văn nghệ dân gian sinh hoạt văn nghệ dân gian sinh hoạt văn nghệ dân gian Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân

PL12

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

23 Vợ anh thợ nhuộm khóc chồng 24 Giàu có, sang không 25 Một phút hóa trăm năm 26 Chữ chày đứng 27 Người đẹp thần thiêng 28 Thơ loan mó nhạn

Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian

Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân

29

Làm câu đối cho bà buôn gạo khóc chồng

30 Chén tống chén quân 31 Một cũng đủ rồi 32 Nghe thơ đoán người 33 Nam Đàn tứ hổ là đây 34 Trời xanh còn hãm anh hùng 35 Chị em cất gánh sơn hà 36 Mặc ai khanh tướng công hầu 37 Câu hát đoán tên 38 Nhuyễn Kiều 39 Câu hò hai bảy mười một 40 Cây không trái gái không chồng 41 Câu đối kén chồng 42 Thơ tập Kiều gỡ bí 43 Cậu bé thầy dùi 44 Hé gương 45 Họ vắt

Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian

Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian

PL13

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

Tiểu loại được xếp

46 Vả bây giờ 47 Cô Kiều cười 48 Hương thừa thoang thoảng 49 Bảy con khỉ 50 Âu yếm vòng ngoài 51 Cành kia cội này 52 Tên cha thằng bày 53 Đại điểm quần thần 54 Quý vật tặng quý nhân 55 Thiên lý nhân lương 56 Mẫu phối Mạnh Đức 57 Mạc bất hà như 58 Mượn vai hề chửi đổng

Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn hóa dân gian

Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Sinh hoạt văn nghệ dân gian Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân Sân khấu dân gian

Tên giai thoại

Stt

Ghi chú

4. Công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam (2 tập) của Vũ Ngọc Khánh có 81/629 văn bản xếp chưa hợp lý Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

1 Cấm quần không đáy

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

2 Hói Kịa - Khe Giang

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

3 Trình Xá - Cổ Đô

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

Nhóm giai thoại giải thích nguồn gốc ca dao, tục ngữ, thành ngữ Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân

4 Trâu thiến ngựa cương

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian Nhóm giai thoại về phong tục, tập

PL14

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

5 Dán nhà hát bội

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

6 Mừng hay tang đều thích hợp

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

7 Mạc bất hà như

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân

8 Tương hữu tư vô

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian Nhóm giai thoại về sân khấu

9 Hương thúc mạo đình

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

10 Vân ảnh thăng cù

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

11 Này hi hi! Này hi hí!

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

12 Nét hóm hỉnh của cụ đốc Phù Quang Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

13 Mẫu phối Mạnh Đức

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

14 Gia đạo hưng

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

15 Mẫu hề hà quy

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

16 Hồng lam tú khí

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân

PL15

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

17 Thể quần thần

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

18 Lời trai phường nón

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

19 Giang sơn một gánh

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

20 Hát phường vải

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

21 Câu đối làm hộ

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

22 Viếng Cao Bá Quát

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

23 Câu đối đề đèn lồng

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

24 Câu hát chữa thẹn

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

25 Câu đối và thơ khóc vợ

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

26 Đề hàng cơm

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

27 Làm giúp câu đối điếu vợ

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

28 Lo trước thiên hạ

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về sinh hoạt văn nghệ dân gian Nhóm giai thoại về sinh hoạt văn nghệ dân gian Nhóm giai thoại về sinh hoạt văn nghệ dân gian Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân

PL16

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

29 Loan mó phượng đè

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

30 Chày đứng

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

31 Người đẹp thần thiêng

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

32 Vợ thợ nhuộm khóc chồng

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

33 Vợ hàng thịt khóc chồng

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

34 Rể út phúng bố vợ

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

35 Mừng đám cưới nhà giàu

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

36 Khán thị mừng nhà mới

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

37 Tống táng tình tang

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

38 Chi chi giã

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

39 Câu đối đền Lia Thia

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

40 Trời xanh còn hãm anh hùng

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân

PL17

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

41 Chiị em cất gánh

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

42 Tỏ chí bình sinh

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

43 Đoán tên

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

44 Cây không trái, gái không chồng

Giai thoại văn học

Giai thoại văn hóa dân gian

45 Thơ Bút Tre 46 Câu đối đi sứ 47 Cấu thơ tỏ chí khí 48 Thơ đề đền Hạng Vũ 49 Khảu khí đế vương 50 Thơ bèo 51 Đối đáp với người Tàu 52 Vịnh tràng pháo 53 Thế thời phải thế 54 Câu đối khi 12 tuổi 55 Bất đắc dĩ phải dụng Quyền 56 Cười mình không đổi mới 57 Ghẹo sư 58 Đề đền Mai Hắc Đế 59 Thơ tuyệt mệnh 60 Thơ con muỗi

Giai thoại văn học Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Không xếp loại Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Không có cốt truyện Thách đố văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương

PL18

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

61 Ông vua làm vè 62 Trăng soi bốn vách 63 Khóc Thị Bằng 64 Thuê Tàu đánh Tây 65 Thách thức 66 Thơ cái trống

Giai thoại văn học Giai thoại văn học Không xếp loại Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Tiểu loại được xếp Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

67 Câu đối mừng

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn hóa dân gian

68 Cóc đớp kiến 69 Bài thơ mật khẩu 70 Câu đối cứu vua 71 Thơ vịnh đấ sét 72 Nười bài thơ liên hoàn 73 Rút ruột chặt đầu 74 Ngồi trên nước 75 Thơ hòn non bộ 76 Câu đối chí hướng 77 Bài thơ tình viết hộ 78 Đối đáp với Nguyễn Hải Thần 79 Cụ Hồ thách đố 80 Sự ra đời của một bài thơ 81 Về quê

Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Không có cốt truyện Ứng tác văn chương Thách đố văn chương Ứng tác văn chương Nhóm giai thoại về phong tục, tập quán của nhân dân Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương

PL19

5. Công trình Nghìn năm bia miệng của Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường có 17 văn bản luận án xác định là giai thoại:

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Nguồn

Thể/Tiểu loại được xếp

Thể/Tiểu loại luận án đề nghị xếp

1

2

không rõ không rõ

Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương

Tập 1 Tập 1

3

Nguyễn Đình Chiểu ở Cần Giuộc và Ba Tri Thủ khoa Nghĩa Bài thơ ứng khẩu của Huỳnh Mẫn Đạt

không rõ

Giai thoại văn học

Tập 1

4

5

Thú chơi câu đối Tài ứng đối của Phan Văn Trị

không rõ không rõ

Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn học

Tập 1 Tập 1

6

7

không rõ không rõ

Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn học

Tập 2 Tập 2

Ứng tác văn chương Câu đối trong tập quán nhân dân Ứng tác văn chương Câu đối trong tập quán nhân dân Ứng tác văn chương

8

9

không rõ không rõ

Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Tập 2 Tập 2

Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương

10

11

không rõ không rõ

Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Tập 2 Tập 2

Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương

12

13

Ông cả Trận Đồ Trảo - Đồ Viên Cuộc bút chiến giữa người bị trộm và kẻ trộm Học Lạc Nhà thơ trào phúng Đỗ Minh Tâm Nữ sĩ Sương Nguyệt Anh Mấy giai thoại về thơ văn của cụ Phó bảng Nguyễn Quang Diêu

không rõ không rõ

Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Tập 2 Tập 2

14

Tập 2

Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Câu đối trong tập quán nhân dân

Ông đồ Sáu Mới

không rõ

Giai thoại văn hóa dân gian

PL20

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Nguồn

Thể/Tiểu loại được xếp

Thể/Tiểu loại luận án đề nghị xếp

15

Võ Sâm với vi yết ma Bùi Kiệm

không rõ

Giai thoại văn học

Tập 2

16

Người thầy thuốc vui tính

không rõ

Giai thoại văn hóa dân gian

Tập 2

17

Ứng tác văn chương Câu đối trong tập quán nhân dân Câu đối trong tập quán nhân dân

Tập 2

Hùm xám Cai Lậy

không rõ

Giai thoại văn hóa dân gian

6. Công trình Giai thoại dân gian Đồng Tháp Mười của Nguyễn Hữu Hiếu có tên gọi chung là giai thoại dân gian. Tuy nhiên, luận án đã khảo sát và tiến hành phân loại lại các văn bản trong công trình nảy như sau:

Ghi chú

Stt

Tên truyện

Thể loại được xếp

Thể/Tiểu loại luận án đề nghị xếp

Tên gọi Tháp Mười

1 2 Cao Lãnh 3 4 5 6

Sự tích địa danh Sa Đéc Sự tích kinh Sáu Quốc Sự tích vàm Bà Bầy Lai lịch trường án Cần Lố

Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại

Truyền thuyết địa danh Truyền thuyết địa danh Truyền thuyết địa danh Truyền thuyết địa danh Truyền thuyết địa danh Truyền thuyết địa danh

7

Sự tích kênh Chết Chém

Giai thoại

Truyền thuyết địa danh

8 9

Sự tích miếu trời sanh Sự tích rạch Trâu Trắng

Giai thoại Giai thoại

Truyền thuyết địa danh Truyền thuyết địa danh

Vũ Ngọc Khánh xếp truyện này vào giai thoại văn hóa dân gian (sinh hoạt hò hát đối đáp nam nữ) với tên gọi Bi kịch đau thương từ một câu hò in trong Kho tàng giai thoại Việt Nam

PL21

Ghi chú

Stt

Tên truyện

Thể loại được xếp

Thể/Tiểu loại luận án đề nghị xếp

10 Bãi Tòng Sơn và bãi Hổ Cứ 11 Đốc Vàng 12 Nguyễn Tú 13 Bà Bướm 14 Nàng Hai 15 Đình Trung 16 Bưng sấu hì 17 Ông Tú 18 Cù Lao Trâu

Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại

Truyền thuyết địa danh Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết địa danh Truyền thuyết địa danh Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết địa danh

19

Mấy giai thoại về thơ văn cụ Phó Bảng

Cũng được giới thiệu trong Nghìn năm bia miệng

20 Giai thoại về Thiên Hộ Dương

Giai thoại Giai thoại

Giai thoại văn học Truyền thuyết nhân vật

21

Thiên Hộ Dương đấu gươm với đô đốc Bạc Má

22 Ngày giỗ của ông Thiên Hộ 23 Chánh lãnh binh Nguyễn Hương 24 Nguyễn Văn Linh (Thống Linh) 25 Đốc Binh Kiều 26 Ông Phòng Biểu

Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại

Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết nhân vật

27

Ông Phòng Biểu trị tội Phạm Công Khanh

28 Trương Tấn Minh 29 Trần Hữu Thường 30 Ông Dật - Ông Đà

Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại

Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết nhân vật GIai thoại văn học

PL22

Stt

Tên truyện

Ghi chú

Thể loại được xếp

Thể/Tiểu loại luận án đề nghị xếp

31 Tướng cướp Đơn Hùng TÍn 32 Ông thầy rắn ở Đồng Tháp Mười 33 Ông già Ba Tri Cao Lãnh 34 Bà mụ cọp 35 Trận Mỹ Trà năm Ất Sửu 36 Rắn Tháp Mười 37 Con trâu ra trận 38 Đạo binh trâu 39 Muỗi Đồng Tháp Mười và chiếc nóp 40 Con khỉ khô ở Đồng Tháp Mười 41 Dốt hay nói chữ 42 Chàng Út lên trời

Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại Giai thoại

Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết nhân vật Truyền thuyết phong vật Truyền thuyết phong vật Giai thoại văn học Cổ tích thần kỳ

Thiên Hộ Dương Thiên Hộ Dương Thiên Hộ Dương Thiên Hộ Dương Kiểu truyện người con út

Tên truyện

Stt

Ghi chú

7. Công trình Truyện kể dân gian Nam Bộ của Nguyễn Hữu Hiếu có 9 văn bản luận án xác định là giai thoại, cụ thể là: Thể loại được xếp

Thể/Tiểu loại luận án đề nghị xếp

Nguyễn Đình Chiểu ở Cần Giuộc và Ba Tri

1 2 Giai thoại về Sương Nguyệt Anh 3 Tài ứng đối của Phan Văn Trị 4 Cử Thạnh

Không rõ Không rõ Không rõ Không rõ

Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Thách đố văn chương

5 Ông đồ Phú Kiết

Không rõ

Giai thoại lịch sử

Nhóm giai thoại về nhân vật lịch sử

PL23

Stt

Tên truyện

Ghi chú

Thể loại được xếp

Thể/Tiểu loại luận án đề nghị xếp

6 Ông Dật - ông Đà 7 Nhà thơ trào phúng Đỗ Minh Tâm 8 Tú tài Văn Bình

Không rõ Không rõ Không rõ

Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương Ứng tác văn chương

9 Ông đồ Sáu Mới

Không rõ

Giai thoại văn hóa dân gian

Câu đối trong tập quán nhân dân

8. Công trình Truyền thuyết dân gian người Việt (Tập 5) của Kiều Thu Hoạch có 14 văn bản xếp chưa hợp lý

Stt

Tên truyện

Thể loại được xếp

Thể/Tiểu loại luận án đề nghị xếp

Ghi chú

1 Nguyễn Hiền 2 Mạc Đĩnh Chi 3 Sự tích Huyền Quang 4 Lê Như Hổ

Truyền thuyết Truyền thuyết Truyền thuyết Truyền thuyết Truyền thuyết

Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại văn học

Nhân vật khoa bảng (văn tài) Nhân vật khoa bảng (văn tài) Nhân vật khoa bảng (văn tài) Nhân vật khoa bảng (văn tài) Nhân vật khoa bảng (văn tài)

Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Truyền thuyết Truyền thuyết Truyền thuyết Truyền thuyết Truyền thuyết Truyền thuyết

Nhân vật khoa bảng (văn tài) Nhân vật khoa bảng (văn tài) Nhân vật khoa bảng (văn tài) Nhân vật khoa bảng (văn tài) Nhân vật khoa bảng (văn tài) Nhân vật khoa bảng (văn tài)

5 Lương Thế Vinh 6 Lương Hữu Khánh 7 Truyện trạng nguyên Giáp Hải 8 Lê Quý Đôn 9 Truyện Thượng thư Phùng Khắc Khoan 10 Nằm mộng tại đền Trấn Vũ 11 Trạng Cầu

Giai thoại văn học Giai thoại văn học

PL24

Tên truyện

Thể/Tiểu loại luận án đề nghị xếp

Ghi chú

Stt 12 Truyện trạng nguyễn Đỗ Lý Khiêm đời Lê

Giai thoại văn học

Thể loại được xếp Truyền thuyết Truyền thuyết

Nhân vật khoa bảng (văn tài) Nhân vật khoa bảng (văn tài)

13 Sự tích sinh con rồi mới sinh cha

Giai thoại văn học

Truyền thuyết

Nhân vật khoa bảng (văn tài)

14 Nguyễn Đình Chiểu ở Cần Giuộc và Ba Tri

Giai thoại văn học

9. Công trình Giai thoại lịch sử Việt Nam (Tập 1) của Kiều Văn có 84/131 văn bản không phải là giai thoại lịch sử

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

1 Lý Ông Trọng nhân tài nước Âu Lạc 2 Thừa tướng Lữ Gia 3 Hai Bà Trưng 4 Triệu Thị Trinh

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Truyền thuyết lịch sử Truyền thuyết lịch sử Truyền thuyết lịch sử Truyền thuyết lịch sử

Khương Công Phụ - một người Việt Nam có cặp 5 mắt thần 6 Mai Hắc Đế

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Truyền thuyết lịch sử Truyền thuyết lịch sử

Triệu Quang Phục và câu chuyện hậu Mị Châu - Trọng Thủy

7 8 Ngô Quyền 9 Đinh Bộ Lĩnh 10 Lê Hoàn

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Truyền thuyết lịch sử Truyền thuyết lịch sử Truyền thuyết lịch sử Truyền thuyết lịch sử

PL25

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

Đỗ Thuận - Ông lái đò của đất nước thi thư

11 12 Đồ Hồ phu nhân (bà chúa Tó)

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học Truyền thuyết lịch sử

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch

Cốt cách và khẩu khí đế vương (Lý Thái Tổ)

13

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch

14 Lý Thường Kiệt và bài thơ Thần 15 Chuyện lạ về nhà sư Từ Đạo Hạnh

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học Truyền thuyết lịch sử

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch

Tô Hiến Thành nắm lẽ phải đối mặt với thần

16

Giai thoại lịch sử

Truyền thuyết lịch sử

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tựa đề Trạng nguyên về học lễ

17 Vị trạng trẻ con Nguyễn Hiền

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

PL26

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

Nguyễn Thành Huấn nhà thơ yêu thương đến muôn loài

18

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

19 Tài ứng đối thần kỳ (Mạc Đĩnh Chi)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch

20 Chọi tiếng (Mạc Đĩnh Chi)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch

21 Bài văn tế chữ nhất (Mạc Đĩnh Chi) 22 Người học trò thủy thần (Chu Văn An) 23 Anh hùng gặp thục nữ (Hồ Tông Thốc) 24 Làm một lúc trăm bài thơ (Hồ Tông Thốc)

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học Truyền thuyết lịch sử Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch

25 Chạm trán với Hạng Vũ (Hồ Tông Thốc)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tiêu đề Đọc thơ chê Hạng Vũ

PL27

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

26 Câu thơ ngẫu nhiên may mắn (Hồ Quý Ly)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Kho tàng giai thoại của Vũ Ngọc Khánh

Dò ý con trưởng để nhường ngôi cho con thứ (Hồ Quý Ly)

27 28 Khí tiết bậc trung thần (Nguyễn Biểu) 29 Aăn cỗ đầu người (Nguyễn Biểu)

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Nguyễn Trãi với cô hàng bán chiếu gon (Nguyễn Trãi)

30 31 Tấn thảm kịch lịch sử (Nguyễn Trãi)

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tiêu đề Thơ đùa ả bán chiếu

Thơ ngôn chí của bác bán dầu (Trần Nguyên Hãn)

32

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Câu đối tặng bà lão bán trầu nước (Lê Thánh Tông)

33

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn hóa dân gian

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch

PL28

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

Câu đối viếng anh thợ nhuộm (Lê Thánh Tông)

34

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn hóa dân gian

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch

Câu đối tặng anh nhặt phân (Lê Thánh Tông)

35

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn hóa dân gian

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch

36 Bỡn vua (Lương Thế Vinh)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tiêu đề Thánh quân minh đế

37 Thần đã đối rồi (Lương Thế Vinh)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tiêu đề Sư sử sứ, phụ phù phu

PL29

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

38 Nguyễn Toàn An - Một nhân tài yểu mệnh

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tiêu đề Anh lính với hội Tao Đàn

39 Dđối hiểm (Nguyễn Giản Thanh)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch

40 Một vế đối bất hủ (Nguyễn Giản Thanh)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch

41 Trạng me đè trạng ngọt (Nguyễn Giản Thanh) 42 Câu đối nâng cao quốc thể (Ngô Kính Thần) 43 Họa thơ cho sứ Tàu biết mặt (Giáp Hải) 44 Ăn khỏe thơ hay (Lương Hiểu Khánh) 45 Một cuộc tranh tài (Phùng Khắc Khoan)

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch

PL30

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

46 Một cuộc chèo kéo nhân tài (Đào Duy Từ)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch

47 Lời từ chối kín đáo (Đào Duy Từ) 48 Tài đối của Trần Quốc Khái

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch

49 Đối chọi với Thanh triều (Nguyễn Đăng Cảo)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch

50 Phong nguyệt vô biên (Nguyễn Đăng Cảo)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch

51 Một tài năng hé lộ (Đoàn Thị Điểm)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tiêu đề Một cô Điểm, hai ông Luân

PL31

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

52 Tố nhân bất khả vô ngạo cốt (Đoàn Thị Điểm)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

53 Câu lý giải hóm hỉnh, dễ thương (Đoàn Thị Điểm) Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

54 Trường An tứ hổ ngọng (Đoàn Thị Điểm)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tiêu đề Vế đối hai nghĩa

55 Đối đáp lại sứ Tàu (Đoàn Thị Điểm)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch

Cặp vợ chồng tương đắc (Đoàn Thị Điểm - Nguyễn Kiều)

56 57 Ngô Thì Sĩ và cái vạ văn chương 58 Đố quan chữ gì (Lê Quý Đôn) 59 Bài thơ chữ rắn (Lê Quý Đôn)

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học

PL32

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

60 Trí thông minh tuyệt với (Lê Quý Đôn)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tên gọi Ba sông bốn mắt

61 Nhà giải mã danh tiếng (Lê Quý Đôn)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tên gọi Thiên hạ vô tri vấn bảng Đôn

Những kiến thức ở ngoài chữ nghĩa thánh hiến (Lê Quý Đôn)

62

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tên gọi Căng buồm mời rượu - Gánh gạo lội sông

PL33

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

Bảng nhãn gì mà không biết nổi chữ Chi (Lê Quý Đôn)

63

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tên gọi Không biết chữ Chi

64 Đụng độ với chúa (Lê Quý Đôn)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tên gọi Thư mượn áo cừu

65 Khẩu khí anh hùng (Nguyễn Hữu Cầu)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tên gọi Cốt đối ý

66 Kẻ thù không đội trời chung (Nguyễn Hữu Cầu)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tên gọi Đánh nhau bằng cả câu đối

PL34

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

67 Chim trong lồng (Nguyễn Hữu Cầu) Giai thoại lịch sử 68 Đối chiết tự của cậu bé kỳ tài (Đinh Thời Trung) Giai thoại lịch sử 69 Một vế đối có tính chất tiên tri (Đinh Thời Trung) Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn học Giai thoại văn học

70 Vua Quang Trung làm thơ Nôm

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tên gọi tương tự Trong Kho tàng giai thoại của Vũ NGọc Khánh có tiêu đề là Quang Trung ở trại văn chương

71 Vua Quang Trung ra đề thơ con cóc 72 Tấm gương tử vì đạo (Ngô Thì Nhậm) 73 Thơ tình của học trò (Phạm Nguyễn Du) 74 Nôm mà át Hán (Phạm Nguyễn Du) 75 Cố Bồ (Phạm Nguyễn Du) 76 Cậu bé đối giỏi (Trần Danh Án)

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tên gọi Chết vì câu đối

PL35

Stt

Tên giai thoại

Ghi chú

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

77 Bi hài kịch của một vị sứ thần (Trần Danh Án)

Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tên gọi Sứ thần áo rách nón mê

Giai thoại lịch sử 78 Níu kéo giấc mộng thành nhân (Trần Danh Án) Giai thoại lịch sử 79 Một bài thơ sát (Nguyễn Hữu Chỉnh) 80 Chiỉ là tranh vẽ (Nguyễn Hữu Chinh) Giai thoại lịch sử 81 Chàng trai tài hoa của phường nón (Nguyễn Du) Giai thoại lịch sử 82 Giận học trò vì dám chê Kiều (Phạm Quý Thích) Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử 83 Lời khuyên chí lý với Nguyễn Văn Thành Giai thoại lịch sử 84 Một án văn tự bi thảm (Nguyễn Văn Thành

Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn hóa dân gian Giai thoại văn học Giai thoại văn học Giai thoại văn học

Có trong Giai thoại văn học Việt Nam của Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch với tên gọi Tiến sĩ triều Lê, khăn triều Nguyễn

PL36

10. Công trình Việt sử giai thoại (8 tập) của Nguyễn Khắc Thuần có 23 văn bản xếp chưa hợp lý

Tên giai thoại

Ghi chú

Stt

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

1

Cuộc kỳ ngộ giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ

Giai thoại lịch sử

Truyền thuyết lịch sử

Tập 1

2

Nước Văn Lang đã ra đời như thế nào

Giai thoại lịch sử

Truyền thuyết lịch sử

Tập 1

3

4 5 6

Vì sao người Việt có tục xăm mình Phù Đổng Thiên Vương Sự tích Thánh Tản Viên Huyền thoại về Loa Thành

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Truyền thuyết phong tục Truyền thuyết lịch sử Truyền thuyết lịch sử Truyền thuyết lịch sử

Tập 1 Tập 1 Tập 1 Tập 1

7

Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu

Giai thoại lịch sử

Truyền thuyết lịch sử

Tập 1

8

9 10

Triệu Đà là người như thế nào Chuyện Man Nương Sự tích đầm Dạ Trạch

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Truyền thuyết lịch sử Truyền thuyết lịch sử Truyền thuyết lịch sử

Tập 1 Tập 1 Tập 1

11

12

Triệu Việt Vương đã đánh giặc như thế nào? Sự tích đền Bạch Mã

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Truyền thuyết lịch sử Truyền thuyết lịch sử

Tập 1 Tập 1

13

14

Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng Tô Lịch Đại Vương

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Truyền thuyết lịch sử Truyền thuyết lịch sử

Tập 1 Tập 1

PL37

Tên giai thoại

Ghi chú

Stt

Tiểu loại được xếp

Tiểu loại luận án đề nghị xếp

15

Đặng Dung với bài thơ Thuật hoài

16 Khí phách Nguyễn Biểu 17 18

Lý lịch xuất thân của Lê Lợi Sự tích điện Tiên Du

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học Giai thoại văn học Truyền thuyết lịch sử Truyền thuyết lịch sử

Tập 4 Tập 4 Tập 5 Tập 5

19

Hoằng Hựu Đại Vương và Bảo Quốc Đại Vương

Giai thoại lịch sử

Truyền thuyết lịch sử

Tập 5

20

21

Nguyễn Sư Hồi với bài thơ viết theo lối chiết tự Sự tích chùa Thiên Mụ

Giai thoại lịch sử Giai thoại lịch sử

Giai thoại văn học Truyền thuyết lịch sử

Tập 5 Tập 6

22

Lời vĩnh quyết của Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh

Giai thoại lịch sử

Truyền thuyết lịch sử

Tập 7

23

Những chuyện ly kỳ trước khi Lê Văn Duyệt qua đời

Giai thoại lịch sử

Truyền thuyết lịch sử

Tập 8

PL38

PHỤ LỤC 2: KẾT QUẢ KHẢO SÁT TIÊU CHÍ ĐỀ TÀI VÀ NHÂN VẬT CỦA MỘT SỐ TUYỂN TẬP GIAI THOẠI 1. Kết quả khảo sát đề tài của một số tuyển tập giai thoại

Công trình Giai thoại văn học Việt Nam của nhóm Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh Mại

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

Sinh hoạt văn nghệ

X

Sinh hoạt chính trị X X X X X X X X X X X X X

Đỗ Thận Lý Công Uẩn Lý Thường Kiệt Ỷ Lan Trần Quang Khải Nguyễn Hiền Nguyễn Hiền Huyền Quang Trần Nhân Tông Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi

1 Bác lái đò hay chữ 2 Bị trói vẫn làm thơ 3 Nam quốc sơn hà 4 Ỷ Lan phu nhân 5 Chương Dương - Hàm Tử 6 Trạng nguyên về học lễ 7 To đầu mà dại 8 Nỗi oan của nhà sư 9 Ngựa đá lấm bùn 10 Hoa sen trong giếng ngọc 11 Ra đối dễ, đối đối khó 12 Trăng là cung, đạn là sao 13 Chơi chữ - chọi chữ 14 Lưỡng quốc trạng nguyên 15 Chua biết mèo nào cắn mỉu nào 16 Chim chếch - ếch ngộp 17 Câu đối ghép tên người

X X X

PL39

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

Cười ông quan hai vợ Ngự sử miệng còn hôi sữa

18 19 20 Đọc thơ chê Hạng Vũ 21 Chữa thơ Vương Bột 22 Gửi trứng cho ác 23 24 25 26

Thơ của người nghĩa sĩ Lòng ta không phải đá Câu thơ kỳ lạ Ra câu đối dò xét con

X X X X

Sinh hoạt văn nghệ

Sinh hoạt X chính trị X X X X

Mạc Đĩnh Chi Đoàn Nhữ Hài Hồ Tông Thốc Hồ Tông Thốc Trần Nguyên Đán Nguyễn Biểu Lê Hiến Phủ Hồ Quý Ly Hồ Quý Ly

Thơ đùa ả bán chiếu Câu thơ nên nghĩa Câu đối nhà hàng nước

Xanh vàng đỏ tía Tận thu lòng dạ thế gian Anh lính với hội Tao Đàn Sư sử sứ, phụ phù phu Ba ông tam thế Thánh quân minh đế

27 Muốn chết vác mặt làm quan Minh triều 28 29 30 31 Hồn bướm mơ tiên 32 33 34 35 36 37 38 Hai anh em họ Quách

X X X

X X X X X X X X

X

Khuyết danh Nguyễn Trãi Lê Thánh Tông Lê Thánh Tông Lê Thánh Tông Lê Thánh Tông Lê Thánh Tông Nguyễn Toàn An Lương Thế Vinh Lê Thánh Tông Lương Thế Vinh Quách Đình Bảo

PL40

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

Sinh hoạt văn nghệ

Sinh hoạt chính trị

X

X X

X X X X X X X

Nguyễn Giản Thanh Lê Nại Nguyễn Giản Thanh Vũ Duệ Hứa Tam Tỉnh Nguyễn Thái Thường Phạm Trấn - Đỗ Uông Lương Hữu Khánh Lương Hữu Khánh Vũ Thoát Dĩnh Giang Văn Minh

X

39 Văn tức là người 40 Mười tám bát cơm riêu 41 Trạng me đè trạng ngọt 42 Thơ nằm co 43 Khiêng cáng lấy vợ con quan 44 Ngâm thơ cự thần 45 Bảng, trạng tranh nhau 46 Ăn khỏe thơ tài 47 Câu chuyện bài phú 48 Quan tài tài quan 49 Rêu xanh máu đỏ 50 Quân tử chí, xã tắc thần 51 Khoai Đơ, lính Mỗ 52 Tể tướng và thầy đồ 53 Nối thơ Lê Thánh Tông 54 Ta chẳng chịu phong 55 Bây giờ em đã có chồng 56 Ếch ngồi đáy giếng 57 Phong nguyệt vô biên 58 Hay cả ý lẫn lời 59

Rắn trắng rồng vàng

X X X X X X

Nguyễn Quý Đức Nguyễn Quý Đức Nguyễn Quý Đức Nguyễn Quý Đức Đào Duy Từ Đào Duy Từ Nguyễn Đăng Cảo Nguyễn Đăng Cảo Nguyễn Đăng Đạo Đoàn Thị Điểm

X X X X

PL41

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

Chim trong lồng

60 Hai cô Điểm, hai ông Luân 61 Không ham phú quý 62 Vế đối hai nghĩa 63 Làm văn khuyên chồng 64 Cha con đọ tài nhau 65 Nhờ có râu mà thoát đòn 66 Hà túc toán giã 67 Ba sông bốn mắt 68 Bài thơ tự trách mình 69 Thư mượn áo cầu 70 Tài nịnh 71 Cốt đối ý 72 Đánh nhau bằng cả câu đối 73 74 Ông hoàng giáp chịu tài người ăn xin 75 Câu thơ cảnh tỉnh 76 Miêng kẻ sang, đồ nhà khó 77 Chó khôn chớ cắn càn 78 Tú Cát - Bọ hung 79 Xơi hai trứng 80 Dở nguyên quen lạ

X X X X X X X X X X X X X X X X

X X X

Sinh hoạt văn nghệ

Sinh hoạt chính trị X X

Đoàn Thị Điểm Đoàn Thị Điểm Đoàn Thị Điểm Đoàn Thị Điểm Nguyễn Bá Lân Trần Văn Trứ Vương Toán Lê Quý Đôn Lê Quý Đôn Lê Quý Đôn Nguyễn Khản Nguyễn Hữu Cầu Nguyễn Hữu Cầu Nguyễn Hữu Cầu Phạm Nguyễn Du Đặng Kim Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Lợn

PL42

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

81 Cô dâu gà chú tể 82 Một thí sinh bướng bỉnh 83 Bí quá hóa hay 84 Câu đối trên văn hồ 85 Lấy thơ để chống chế 86 Dâu thử tài rể 87 Quân tử cố cùng 88 Ông Nghè đè ông Cống 89 Thơ nhạo tri phủ 90 Quan thị và quan võ 91 Chả kém gì Lý Bạch 92 Mượn dịp chửi quan 93 Mắng quan trường 94 Áo đỏ dù xanh 95 Cửa tướng nhà công 96 Thằng quan huyện 97 Trai sừng gái sỏ 98 Chữ thiên trồi đầu 99 Thợ vẽ đề thơ 100 Đề bức tranh tam giáo 101 Xuất xứ ở miệng tôi

X X X X X X X X X X X X X X X X X X

X X X

Sinh hoạt văn nghệ

Sinh hoạt chính trị

Khuyết danh Nguyền Hòe Nguyền Hòe Phủ Hào Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

PL43

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

102 Bài thơ leo đèo 103 Thơ vịnh pháo 104 Bài thơ đem lại quốc thể 105 Chết vì câu đối 106 Đối đáp trong chốn quan trường 107 Tiến sĩ triều Lê khăn triều Nguyễn 108 Thơ bán than 109 Vịnh tranh tố nữ 110 Đọc thơ chữa thẹn 111 Mảnh tình 112 Đánh trống qua cửa nhà sấm 113 Chiêu Bảy và cô Cúc 114 Câu thơ bỏ lửng 115 Chết vì bài thơ 116 Câu thơ hoàng bào 117 Ông cống làm trâu 118 Cho Thị Đào đi lấy chồng 119 Chê khéo 120 Hạc đeo bài ngài 121 Lời thơ khảng khái 122 Thuyền quyên ứ hự

X X X X X X X X X X X X

X X

Sinh hoạt văn nghệ X X

Sinh hoạt chính trị X X X X X

Nguyễn Thiếp Nguyễn Hữu Chỉnh Võ Huy Tấn Ngô Thì Nhậm Cao Huy Diệu Trần Danh Án Khuyết danh Phạm Thái Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương Nguyễn Du Nguyễn Du Nguyễn Văn Thành Lê Văn Duyệt Bà huyện Thanh Quan Bà huyện Thanh Quan Bà huyện Thanh Quan Đỗ Cao Mại Tổng Trắm Nguyễn Công Trứ

PL44

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

123 Hỏi anh 124 Làm thơ khất nợ 125 Được tha phạt vì câu thơ hóm hỉnh 126 Khinh thường quan võ 127 Anh hùng đè xuống dưới 128 Say rượu đánh long thần 129 Đối chọi với sư 130 Thơ trách nữ thần 131 Không ưa nịnh bề trên 132 Thơ tương tư 133 Thơ vịnh người đá 134 Con mèo nằm bếp ỉa đầy nồi rang 135 Đả lối văn sáo rỗng 136 Văn hay chữ xấu 137 Quen viết văn bằng giấy bút tốt

X X X X X X

X X X X X X

Sinh hoạt văn X nghệ

Sinh hoạt chính trị X X

Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Văn Siêu Nguyễn Văn Siêu

138

Cao Bá Quát và Nguyễn Văn Siêu

X

Nguyễn Văn Siêu - Cao Bá Quát

139

Siêu đất siêu đồng 140 Thầy lý bớt đi rồi 141 Ở truồng xem vua

X X X

Nguyễn Văn Siêu - Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát

PL45

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

142 Khí phách ngang tàng 143 Một bọc sinh đôi 144 Khóc mướn kiếm ăn 145 Bịa thơ tài hơn vua 146 Tứ nhi 147 Tự tiễn chữa văn của vua 148 Trên dưới đều chó 149 Một câu đối hai hoàn cảnh 150 Bài thơ không họa nổi 151 Thơ tạ hương đảng 152 Bị ngồi trăng 153 Anh hùng có một ngươi 154 Thơ trả lời người bạn giàu 155 Một lũ ăn mày, một lũ quan 156 Câu đối khóc chồng chung 157 Phó cối đề thơ 158 Gà câu đối cho trò 159 Thơ mừng bạn đẻ con trai 160 Nằm cùng thì cho 161 Bò đen bò vàng 162 Thơ con mèo

X X X X X X X X X X X X

X X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ X

Sinh hoạt chính trị

Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Huuỳnh Mẫn Đạt Học Lạc Học Lạc Tú Quỳ Nhiêu Tâm Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Đinh Nhật Thận Nguyễn Xuân Ôn Phan Văn Trị

PL46

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

163 Đái vẽ nên rồng 164 Thơ ăn thịt cần đước 165 Bức tranh sơn thủy kỳ lạ 166 Câu đối kén chồng 167 Quan án giỏi thơ 168 Thơ răng cắn lưỡi 169 Phúc đức gì mày bố đĩ Giai 170 Hé gương 171 Họ vắt 172 Vả bây giờ 173 Cô Kiều cười 174 Gái Nội Duệ Cầu Lim 175 Biết rùa mô meo mà tìm 176 Tên cha thằng bày 177 Đề thơ mừng lễ thọ 178 Ghẹo sư 179 Cọp bắt thầy tu 180 Bài phú tức cảnh cô gái đẹp 181 Giễu lênh cấm quần không đáy 182 Cái khố với hai đồng tiền 183 Chiến đấu đến cùng

X X X X X X X X X X

X X

Sinh hoạt văn nghệ X X X X X X X

Sinh hoạt chính trị X X

Phan Văn Trị Phan Văn Trị Phạm Văn Nghị Văn Quế Khuyết danh Nguyễn Đăng Hành Nguyễn Đăng Giai Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Hoàng Phan Thái Hoàng Phan Thái Hoàng Phan Thái Hoàng Phan Thái Phan Văn Ái Lê Ngô Cát Phan Đình Phùng

PL47

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

184 Bài cu trù khích lệ anh hùng 185 Thơ chửi tay sai của Pháp 186 Đùa nhà sư móm 187 Thơ bồ tiên 188 Tạ người cho hoa trà 189 Đòi xem câu đối 190 Gặp chó 191 Vịnh phỗng đá 192 Thơ ông phỗng sành 193 Cho chữ thờ 194 Thơ thăm bạn mất cướp 195 Chi chi giã 196 Lo trước thiên hạ 197 Khóc anh thợ tèn 198 Vợ người hàng thịt khóc chồng 199 Trưởng chợ mừng nhà mới 200 Áo địa ván thiên 201 Kỷ niệm vô giá 202 Vợ thợ nhuộm khóc chồng 203 Quan chẳng quan thì dân 204 Giàu có sang không

X X X X X X X X X

X X X X X X X X X X X

Sinh hoạt văn X nghệ

Sinh hoạt chính trị

Cô đào Nhu Cô đào Nhu Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến - bạn thơ Nguyễn Khuyến

PL48

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

Chim bách thanh

205 Một phút hóa trăm năm 206 Văn tế Ri-vi-e 207 Bài thơ chữa lại 208 209 Làm câu đối cho bà buôn gạo khóc chồng 210 Làm hộ bức trướng phúng bạn 211 Nên nghĩa trăm năm 212 Đã cho vào bực bố 213 Giận lây cả Sĩ Vương 214 Tang chở chốn quan trường 215 Đục chân vào đá 216 Thi câu đối 217 Thơ vịnh Kiều 218 Một lối dịch thơ kỳ lạ 219 Thơ khen tri phủ tài nịnh 220 Ghẹo một trả lời hai 221 Thơ điên cuồng ngu ngộ 222 Thơ chửi tri huyện 223 Câu đối vịnh gông cùm 224 Mặc thằng nghe 225 Dịch thơ xỏ bạn

X X X X X X X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ X X X

Sinh hoạt chính trị

Nguyễn Khuyến Khuyết danh Chu Mạnh Trinh Tú Xương Tú Xương Tú Xương Nguyễn Hữu Khanh Nguyễn Hữu Khanh Nguyễn Mộng Bạch Dương Khuê Từ Đạm Từ Đạm Từ Đạm Từ Diễn Hồng Nguyễn Thiện Kế Sương Nguyệt Anh Xiển Ngộ Kép Trà Kép Trà Trần Tích Phiên Trần Tích Phiên

X X X X X

PL49

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

226 Thơ vịnh vườn bách thú 227 Quý nhất đầm 228 Cháu góa mừng cô góa 229 Thơ vịnh Hiệp Phật 230 Câu đối chữ Hán đọc theo vần quốc ngữ 231 Đào Mộng Giác 232 Câu hát quốc sự 233 Da báo như da chó dê 234 Chặt đầu Tây 235 Bài thơ ghi vào đá 236 Thơ hỏi sư 237 Quan đốc có số đào hoa 238 Thơ tặng người cùng cảnh 239 Một cũng đủ rồi 240 Nghe thơ đoán người 241 Thuyền quyên với anh hùng 242 Áo bào hốt bạc 243 Thơ mừng mụ đồ 244 Tấn sĩ là cái gì 245 Giống Khổng Mạnh 246 Ngỏ ý bằng thơ

X X X X X X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ X X X

Sinh hoạt chính trị X

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Bừi Bằng Đoàn Phan Chu Trinh Khuyết danh Vũ Hữu Lợi Thành Thái Nguyễn Thượng Hiền Nguyễn Thượng Hiền Đặng Nguyên Cẩn Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phạm Văn Ngôn Phạm Văn Ngôn Phạm Văn Thản Huuỳnh Thúc Kháng Trần Cao Vân Trần Cao Vân - vua Duy Tân

X X X X X

PL50

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

247 Long Biên ái hoa hội 248 Thơ vịnh văn miếu 249 Rau sắng chùa Hương 250 Lên bà không khó 251 Người tình nhân không quen biết 252 Thơ khóc thầm 253 Bài thơ năm cụ 254

Sông Hương núi Ngự

X X x X

X X X

Sinh hoạt văn nghệ X

Sinh hoạt chính trị

Khuyết danh Khuyết danh Tản Đà Tản Đà Tản Đà Tản Đà Nguyễn Trọng Cần Thúc Giạ Thị - Nguyễn Khoa Vi

Công trình Giai thoại văn học Việt Nam của Kiều Thu Hoạch:

Stt

Tên truyện

Nhân vật

1 Tay lái đò hay chữ 2 Bị trói vẫn làm thơ 3 Tay cầm nửa vầng trăng 4 Trạng nguyên về học lễ 5 Đối hay được thưởng dùi sách 6 Bịa thơ hại sư 7 Hoa sen trong giếng ngọc 8 Ra đối dễ, đối đối khó

Sinh hoạt văn chương X X X

Sinh hoạt đời thường X X

Sinh hoạt văn nghệ

Sinh hoạt chính trị X X X

Đỗ Thận Lý Công Uẩn Ỷ Lan Nguyễn Hiền Lê Văn Hưu Huyền Quang Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi

PL51

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Trăng là cung, đạn là sao

9 10 Chơi chữ 11 Lưỡng quốc trạng nguyên 12 Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào 13 Chim chếch - ếch ngộp 14 Bốn chữ nhất

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

Sinh hoạt văn nghệ

Sinh hoạt chính trị X X X X X X

Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi

X

Mạc Đĩnh Chi

15 Cười ông quan hai vợ 16 Chỉ có hai người 17 Ruột vuông 18 Cứu ai 19 Ngự sử miệng còn hôi sữa 20 Đọc thơ chê Hạng Vũ 21 Chữa thơ Vương Bột 22 Gửi trứng cho ác 23 Thơ của người nghĩa sĩ 24 Lòng ta không phải đá 25 Câu thơ kỳ lạ 26 Ra câu đối dò xét con 27 Thơ ghen vần tình 28 Thơ đùa ả bán chiếu 29 To đầu mà dại

X X X X X

X X

X X X X X X X

Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Đoàn Nhữ Hài Hồ Tông Thốc Hồ Tông Thốc Trần Nguyên Đán Nguyễn Biểu Lê Hiến Phủ Hồ Quý Ly Hồ Quý Ly Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi Trịnh Khiết Tường

PL52

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X

Sinh hoạt đời thường X X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ

Sinh hoạt chính trị X X

30 Bảy mươi mười bảy đang vừa 31 Chữ mã ba chấm 32 Câu thơ nên nghĩa 33 Câu đối nhà hàng nước 34 Hồn bướm mơ tiên 35 Câu đối nhà thợ nhuộm 36 Câu đối người hốt phân 37 Anh lính với hội Tao Đàn 38 Ba ông tam thế 39 Sư sử sứ, phụ phù phu 40 Thánh quân minh đế 41 Ông Trạng thả diều 42 Khiêng võng quan huyện 43 Cậu bé học lỏm 44 Câu thơ học từ dân dã 45 Văn tức là người 46 Trạng me đè trạng ngọt 47 Câu đối đêm động phòng 48 Ăn hai đấu học thâu canh 49 Thơ nằm co 50 Ngâm thơ cự thần

X X X X

Trịnh Khiết Tường Trịnh Khiết Tường Lê Thánh Tông Lê Thánh Tông Lê Thánh Tông Lê Thánh Tông Lê Thánh Tông Nguyễn Toàn An Lê Thánh Tông Lương Thế Vinh Lương Thế Vinh Lương Thế Vinh Lương Thế Vinh Kiều Phú Nguyễn Văn Nghi Nguyễn Giản Thanh Nguyễn Giản Thanh Hứa Tam Tỉnh Lê Nại Vũ Duệ Nguyễn Thái Thường

PL53

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương X

Sinh hoạt đời thường

Sinh hoạt văn nghệ

Sinh hoạt chính trị

Nguyễn Bỉnh Khiêm

X

Giáp Hải

X X X

Ngô Trí Tri Phạm Trấn - Đỗ Uông Lương Hữu Khánh

X X X X

X

X

X X X X X

Phùng Khắc Khoan Phùng Khắc Khoan Khuyết danh Vũ Thoát Dĩnh Giang Văn Minh Đào Duy Từ Đào Duy Từ Đào Duy Từ Đào Tá Hán Nguyễn Công Đăng Nguyễn Đăng Cảo

51 Tựa ngai vàng 52 Thơ bèo 53 Một bảng nháp đỗ ba tiến sĩ 54 Bảng, trạng tranh nhau 55 Ăn khỏe thơ tài 56 Thơ vịnh trai 57 Úc úc đô đô 58 Câu đối của người hầu trà 59 Quan tài tài quan 60 Rêu xanh máu đỏ 61 Ta chẳng chịu phong 62 Bây giờ em đã có chồng 63 Bài thơ khuyên chúa Sãi 64 Suýt toi mạng vì bài hát 65 Phú ông tỏi hỏi làm chi 66 Ếch ngồi đáy giếng 67 Phong nguyệt vô biên 68 Trả sách không mua 69 Làm bài hát kiếm rượu thịt 70 Đại đăng khoa, tiểu đăng khoa 71 Làm thơ vặn lại thần

X X

X X

X

Nguyễn Đăng Cảo Nguyễn Đăng Cảo Nguyễn Đăng Cảo Nguyễn Đăng Đạo Nguyễn Đăng Đạo

PL54

Stt

Tên truyện

Nhân vật

72 Vế đối tài hoa 73 Đề thì lừa sĩ tử 74 Đi hán đi hài mỏi chân 75 Nức tiếng thầy 76 Học trò đi chăn trâu 77 Thi vịnh cảnh chùa Trấn Quốc 78 Nối thơ đời Hồng Đức 79 Bét thơ phải đi sứ

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X

Sinh hoạt đời thường

Sinh hoạt văn nghệ

Sinh hoạt chính trị X

Nguyễn Đăng Đạo Nguyễn Lại Hồ Sĩ Dương Nguyễn Quốc Trinh Nguyễn Quý Đức Nguyễn Quý Đức Nguyễn Quý Đức Nguyễn Tông Khuê

80

Rắn trắng rồng vàng

X

Đoàn Thị Điểm - Đoàn Doãn Luân

81

Hai cô Điểm, hai ông Luân

82 Không ham phú quý 83 Vế đối hai nghĩa 84 Cô hàng nước hay chữ 85 Trẻ con mới học biết gì 86 Văn rỗng như bụng trống 87 Lủm cả quá trứng 88 Bài phú qua đò thành văn 89 Quả hồng buồng cau 90 Quan chủ khảo nhận dốt

X X X X X X X X

X

X

Đoàn Thị Điểm - Đoàn Doãn Luân Đoàn Thị Điểm Đoàn Thị Điểm Đoàn Thị Điểm Đoàn Thị Điểm - Đặng Trần Côn Vũ Công Tuệ Hà Tông Huân Nguyễn Bá Lân Nguyễn Bá Lân Nguyễn Bá Lân

PL55

Stt

Tên truyện

Nhân vật

91 Nhờ có râu mà thoát đòn 92 Này hi hi 93 Ba sông bốn mắt 94 Bài thơ tự trách mình 95 Thư mượn áo cầu 96 Chép lại văn tự cháy 97 Cái cò lặn lội bờ sông 98 Mượn chuyện cổ chửi hoạn quan 99 Câu đố chữ nhất 100 Cái vạ văn chương 101 Thơ nắn nhị đào 102 Ông hoàng giáp chịu tài người ăn xin 103 Mó mít nhựa ra tay 104 Chúa tôi xướng họa 105 Cốt đối ý 106 Đánh nhau bằng cả câu đối 107 Chim trong lồng 108 Miêng kẻ sang, đồ nhà khó 109 Chó khôn chớ cắn càn 110 Tú Cát - Bọ hung 111 Thơ tạ thành hoàng

Sinh hoạt đời thường X

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X X X X X X X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ

Sinh hoạt chính trị X

Trần Văn Trứ Trần Văn Trứ Lê Quý Đôn Lê Quý Đôn Lê Quý Đôn Lê Quý Đôn Lê Quý Đôn Lê Quý Đôn Lê Quý Đôn Ngô Thì Sĩ Phạm Nguyễn Du Phạm Nguyễn Du Đặng Thị Huệ Nguyễn Khản Nguyễn Hữu Cầu Nguyễn Hữu Cầu Nguyễn Hữu Cầu Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh

PL56

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương X X X X X

Sinh hoạt đời thường X

Sinh hoạt văn nghệ

Sinh hoạt chính trị

Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh

X X X X X X X X X

X

Nguyền Hòe Nguyền Hòe Nguyền Hòe Vương Toán Phủ Hào Trần Danh Án Trần Danh Án Trần Danh Án Nguyễn Huy Oánh Nguyễn Thiếp

X X

X

Nguyễn Hữu Chỉnh Võ Huy Tấn Ngô Thì Nhậm

112 Da trắng vỗ bì bạch 113 Dòm nhà bảng nhãn 114 Thơ tức cảnh mót lúa 115 Bài văn hai nghĩa 116 Thừa giấy vẽ voi 117 Tráo thơ giáo thụ 118 Một thí sinh bướng bỉnh 119 Bí quá hóa hay 120 Câu đối nghịch ngợm 121 Thơ hay xiêu lòng tiểu thơ 122 Câu đối trên văn hồ 123 Chày cháy trôi sông 124 Luật hoa 125 Tiến sĩ triều Lê khăn triều Nguyễn 126 Vế đối từ quan 127 Bài thơ leo đèo 128 Thơ vịnh pháo 129 Bài thơ đem lại quốc thể 130 Chết vì câu đối 131 Bia nghè lại dựng trên tòa muôn gian 132 Vịnh tranh tố nữ

X X

vua Quang Trung Phạm Thái

PL57

Stt

Tên truyện

Nhân vật

133 Gà câu đối cho chàng rể 134 Đọc thơ chữa thẹn 135 Mảnh tình xẻ đôi 136 Ấy ái uông 137 Đánh trống qua cửa nhà sấm 138 Ham tìm chỗ ấy 139 Cặc bần ghe phú 140 Cuộc đấu thơ nghịch ngợm 141 Chiêu Bảy và cô Cúc 142 Câu thơ bỏ lửng 143 Chết vì bài thơ 144 Câu thơ hoàng bào 145 Ông cống làm trâu 146 Cho Thị Đào đi lấy chồng 147 Chê khéo 148 Lời thơ khảng khái 149 Thơ kết án con hạc 150 Thơ kết án con vịt 151 Thuyền quyên ứ hự 152 Hỏi anh 153 Làm thơ khất nợ

Sinh hoạt đời thường X X X

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ X X X

Sinh hoạt chính trị X X X X

Nguyễn Huy Lượng Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương - Chiêu Hổ Nguyễn Du Nguyễn Du Nguyễn Văn Thành Lê Văn Duyệt Bà huyện Thanh Quan Bà huyện Thanh Quan Bà huyện Thanh Quan Tổng Trắm Đỗ Cao Mại Đỗ Cao Mại Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ

PL58

Stt

Tên truyện

Nhân vật

154 Được tha phạt vì câu thơ hóm hỉnh 155 Khinh thường quan võ 156 Anh hùng đè xuống dưới 157 Thơ tạ long thần 158 Đối chọi với sư 159 Thơ trách nữ thần 160 Thơ tương tư 161 Con mèo nằm bếp ỉa đầy nồi rang 162 Đả lối văn sáo rỗng 163 Chiết tự chữ Đức 164 Thơ vịnh cây vông 165 Phá đền thì lại làm đền 166 Thơ vần om 167 Cót két, thẩn thơ 168 Quen viết văn bằng giấy bút tốt 169 Siêu đất siêu đồng 170 Thầy lý bớt đi rồi 171 Ở truồng xem vua 172 Khí phách ngang tàng 173 Một bọc sinh đôi 174 Khóc mướn kiếm ăn

Sinh hoạt đời thường X X X X X

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ X

Sinh hoạt chính trị X X X

Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Bù Tú Ý Nguyễn Văn Siêu Nguyễn Văn Siêu Nguyễn Văn Siêu - Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát

PL59

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X X X X

Sinh hoạt đời thường X X X

Sinh hoạt văn nghệ

Sinh hoạt chính trị X

Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Lê Quýnh Phạm Văn Nghị Huuỳnh Mẫn Đạt Cao Huy Diệu Học Lạc Nhiêu Tâm Nhiêu Tâm Nguyễn Quý Tân

175 Bịa thơ tài hơn vua 176 Tự tiễn chữa văn của vua 177 Trên dưới đều chó 178 Một câu đối hai hoàn cảnh 179 Không biết chữ chi 180 Một thầy một cô một chó cái 181 Cụ đốc học hóm hỉnh 182 Bức tranh thơ 183 Nghe thơ xấu hổ 184 Đối đáp chốn quan trường 185 Thơ tạ hương đảng 186 Thơ trả lời người bạn giàu 187 Thơ cục cứt trôi sông 188 Thơ vịnh đèn kéo quân 189 Câu đối khóc chồng chung 190 Phó cối đề thơ 191 Gà câu đối cho trò 192 Thơ mừng bạn đẻ con trai 193 Thơ của người mần đơn 194 Thơ vịnh cái điếu 195 Nằm cùng thì cho

X X X

X X

X

X

Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Đinh Nhật Thận

PL60

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương X X X

Sinh hoạt đời thường X

Sinh hoạt văn nghệ

Sinh hoạt chính trị

Nguyễn Xuân Ôn Nguyễn Xuân Ôn Nguyễn Xuân Ôn Nguyễn Xuân Ôn

196 Bò đen bò vàng 197 Đầy tớ làm gia sư 198 Nam nhi cốt ở tài 199 Trườn sang, lên đường 200 Câu đối đền Thia Thia 201 Trọng khoa hơn hoạn 202 Tang trở chốn quan trường 203 Bài mắng Sở Khanh 204 Đã cho vào bực bố 205 Hoa xưa ong cũ 206 Thi câu đối 207 Thơ vịnh Kiều 208 Đục chân vào đá 209 Một lối dịch thơ kỳ lạ 210 Mặc thằng nghe 211 Dịch thơ đùa tếu 212 Thơ khen tri phủ tài nịnh 213 Thơ tống tiền 214 Thơ điên cuồng ngu ngộ 215 Đít thớt đầu chày 216 Tổng đốc cay mũi

X X X X X X X X X X X X

X X X X

X

Nguyễn Xuân Ôn Hà Duy Phiên Dương Khuê Nguyễn Hữu Khanh Nguyễn Hữu Khanh Nguyễn Hữu Khanh Từ Đạm Từ Đạm Từ Đạm Từ Diễn Hồng Trần Tích Phiên Trần Tích Phiên Nguyễn Thiện Kế Nguyễn Thiện Kế Xiển Ngộ Xiển Ngộ Xiển Ngộ

PL61

Stt

Tên truyện

Nhân vật

217 Ba quan bốn chó 218 Vào huyện đường họa thơ 219 Thơ chửi tri huyện 220 Câu đối vịnh gông cùm 221 Thơ mừng đám cưới 222 Thơ ghi kỷ niệm cụ Tiên Điền 223 Đề thơ mừng lễ thọ 224 Cọp bắt thầy tu 225 Bài phú tức cảnh cô gái đẹp 226 Giễu lệnh cấm quần không đáy 227 Thơ vịnh váy 228 Vạ miệng 229 Ăn trộm chữ 230 Câu hát đồng quê thành câu đối 231 Trâu bò trê lóc 232 Thơ từ biệt cố nhân 233 Họa liền một lúc hai bài thơ 234 Câu đối thành câu sấm 235 Chín nghìn bạn 236 Thơ tập cổ 237 Thơ nói lái

Sinh hoạt đời thường X X X X

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X X X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ

Sinh hoạt chính trị X X

Xiển Ngộ Xiển Ngộ Kép Trà Kép Trà Kép Trà Kép Trà Hoàng Phan Thái Hoàng Phan Thái Hoàng Phan Thái Phan Văn Ái Trịnh Phức Đỗ Huy Uyển Đỗ Huy Uyển Đỗ Huy Uyển Nguyễn Đình Chiểu Nguyễn Đình Chiểu Sương Nguyệt Anh Vũ Duy Thanh Vũ Duy Thanh Vũ Duy Thanh Tự Đức

PL62

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương 238 Thơ vịnh muỗi X 239 Bài vè của vua X 240 Thơ phong hoa tuyết nguyệt X 241 Thơ răng cắn lưỡi X 242 Giận lây cả Sĩ Vương X 243 Cái khố với hai đồng tiền X 244 Họa thơ tỏ ý chí quyết chiến X 245 Hai cẳng đối một đầu X 246 Chó tuốt 247 Thơ ăn thịt cần đước X 248 Thơ con mèo X 249 Chỉ vì một chữ hòa X 250 Câu đối chữ Hán đọc theo vần quốc ngữ X 251 Thơ phú của Đào Mộng Giác X 252 Da báo như da chó dê X 253 Bài ca trù khích lệ anh hùng 254 Thơ chửi tay sai của Pháp X 255 Đùa nhà sư móm X 256 Thơ bồ tiên X 257 Tạ người cho hoa trà X 258 Đòi xem câu đối X

Sinh hoạt đời thường X

Sinh hoạt văn nghệ X

Sinh hoạt chính trị

Tự Đức Tự Đức Tự Đức Nguyễn Đăng Hành Nguyễn Mộng Bạch Lê Ngô Cát Phan Đình Phùng Ông Ích Khiêm Ông Ích Khiêm Phan Văn Trị Phan Văn Trị Vũ Duy Tuân Bùi Bằng Đoàn Phan Chu Trinh Vũ Hữu Lợi Cô đào Nhu Cô đào Nhu Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến

PL63

Stt

Tên truyện

Nhân vật

259 Gặp chó 260 Vịnh phỗng đá 261 Thơ ông phỗng sành 262 Tao có nói đâu 263 Cho chữ thờ 264 Thơ thăm bạn mất cướp 265 Chi chi giã 266 Lo trước thiên hạ 267 Câu đối khóc anh thợ rèn 268 Vợ người hàng thịt khóc chồng 269 Trưởng chợ mừng nhà mới 270 Áo địa ván thiên 271 Kỷ niệm vô giá 272 Vợ thợ nhuộm khóc chồng 273 Quan chẳng quan thì dân 274 Giàu có sang không 275 Một phút hóa trăm năm 276 Ối quan liêm 277 Chày đứng 278 Người đẹp thần thiêng 279 Thơ không chồng bông lông

Sinh hoạt đời thường X X X X X X X X X X X X X

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ

Sinh hoạt chính trị

Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Chu Mạnh Trinh Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến

PL64

Stt

Tên truyện

Nhân vật

280 Thơ loan mó nhạn 281 Chi chòm chí chóp 282 Nước lấy dân làm gốc 283 Thơ bỡn con gái cụ Lý 284 Một đạo hai đường 285 Đọc thơ chịu tội 286 Tiến sĩ dễ, cứ nhân gay 287 Vừa đánh cờ vừa làm thơ 288 Như ngọc là như ngọc hành 289 Kỳ nhân như ngọc 290 Chím bách thanh 291 Làm câu đối cho bà buôn gạo khóc chồng 292 Chén tống chén quân 293 Thơ đề ảnh 294 Một vạch ngang lưng 295 Xu thời xu thế cũng là xu 296 Học tài thi phận 297 Đối hay biện luận giỏi 298 Bài thơ để lộ ky 299 Đưá trẻ kỳ lạ 300 Thơ vịnh Hàm Rồng

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X X X X X X X

Sinh hoạt đời thường X X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ

Sinh hoạt chính trị

Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Danh Tiên Huỳnh Quỳ Trần Bích San Lê Trung Đình Trần Quý Cáp Vũ Phạm Hàm Vũ Phạm Hàm Khuyết danh Tú Xương Tú Xương Tú Xương Tú Xương Tú Xương Tú Xương Tú Xương Kỳ Đồng Kỳ Đồng Kỳ Đồng Cao Ngọc Anh

PL65

Stt

Tên truyện

Nhân vật

301 Vế đối còn bỏ ngỏ 302 Dịch văn chửi tri huyện 303 Bài phú mười roi mười lạng 304 Hai câu thơ điệp âm 305 Thầy trò đối chọi thơ phú 306 Hỏng thi còn được tặng thơ 307 Thơ Kiều phê án 308 Thơ hỏi sư 309 Quan đốc có số đào hoa 310 Thơ tặng người cùng cảnh 311 Một cũng đủ rồi 312 Nghe thơ đoán người 313 Hai nhà thơ lớn gặp nhau 314 Nam Đàn tứ hổ là đây 315 Trời xanh còn hãm anh hùng 316 Chị em cất gánh sơn hà 317 Làm thơ dựa ý vào ca dao 318 Mặc ai khanh tướng công hầu 319 Câu hát đoán tên 320 Thơ Kiều gửi gắm tâm sự 321 Nhuyễn Kiều

Sinh hoạt đời thường

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ X X X X X X X X X

Sinh hoạt chính trị X

Bà Ba Cai Vàng Nguyễn Văn Bật Lê Ninh vua Đồng khánh Trần Quang Cán Lê Sĩ Nghị Vua Thành Thái Nguyễn Thượng Hiền Đặng Nguyên Cẩn Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu

PL66

Stt

Tên truyện

Nhân vật

322 Thuyền quyên với anh hùng 323 Áo bào hốt bạc 324 Thơ mừng mụ đồ 325 Tấn sĩ là cái gì 326 Giống Khổng Mạnh 327 Ngỏ ý bằng thơ 328 Chặt đầu Tây 329 Rau sắng chùa Hương 330 Lên bà khó lắm em ơi 331 Người tình nhân không quen biết 332 Thơ khóc thầm 333 Bài thơ năm cụ 334 Bài thơ gỡ thể diện 335 Câu hò hai bảy mười một 336 Cây không trái, gái không chồng 337 Giá quan giáo thụ bằng hai cân lợn 338 Thơ chửi chó 339 Ông thừa cái chi 340 Thơ cua chơi trăng 341 Ngó da hùm 342 Câu đối kén chồng

Sinh hoạt đời thường X X X X X X X X X

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ X X X

Sinh hoạt chính trị X X

Phạm Văn Ngôn Phạm Văn Ngôn Phạm Văn Thản Huỳnh Thúc Kháng Trần Cao Vân Trần Cao Vân - vua Duy Tân Vua Duy Tân Tản Đà Tản Đà Tản Đà Mai Lâm Nguyễn Trọng Cần Nguyễn Kinh Nguyễn Kinh Nguyễn Kinh Ngô Tất Tố Ngô Tất Tố Phạm Văn Giai Cả Triệu Vương Tứ Đại - Nguyễn Bá Trác Văn Quế

PL67

Stt

Tên truyện

Nhân vật

343 Thơ tập Kiều gỡ bí 344 Tấm vóc giá một chinh 345 Thơ nịnh sư 346 Câu văn ngỗ ngược 347 Thơ mắng muỗi 348 Bài thơ không được giải 349 Hoạ thơ tỏ chí hướng 350 Đu me Tây 351 Tinh sâu nghĩa đầy 352 Mạng phải cách 353 Cậu bé thầy dùi 354 Thi dịch thơ 355 Ông lão kéo xe góp chuyện văn chương 356 Tai mắt Tự lực văn đoàn 357 Người đẹp tri âm 358 Từ câu đối thành bài thơ 359 Thơ ăn mày gạo 360 Quan võ và quan thị 361 Đẹp vàng son, ngon mật mỡ 362 Nghé hầu non quan võ 363 Cô dâu gà chú rể

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X X X X X X X X X X X X

Sinh hoạt đời thường X X

Sinh hoạt văn nghệ X

Sinh hoạt chính trị

Tú Xuất Tú Xuất Tú Xuất Nguyễn Cảnh Lâm Nguyễn Cảnh Lâm Nguyễn Cảnh Lâm Khóa Yển Đỗ Bưởi Nguyễn Ái Quốc Nguyễn Ái Quốc Nguyến Bính Nguyến Bính Nguyễn Công Hoan Tự lực văn đoàn Tú Mỡ Anh Thơ Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

PL68

Stt

Tên truyện

Nhân vật

364 Dạy sai một chữ trừ một quan 365 Lấy thơ để chống chế 366 Dâu thử tài rể 367 Quân tử cố cùng 368 Ông nghè đè ông cống 369 Thơ nhạo tri phủ 370 Chả kém gì Lý Bạch 371 Mượn dịp chửi quan 372 Mắng quan trường 373 Áo đỏ dù xanh 374 Cửa tướng nhà công 375 Thằng quan huyện 376 Trai sừng gái sỏ 377 Chữ thiên trồi đầu 378 Thợ vẽ đề thơ 379 Đề bức tranh tam giáo 380 Xuất xứ ở miệng tôi 381 Thơ bán than 382 Quan án giỏi thơ 383 Phúc đức gì mầy bố đĩ Giai 384 Hé gương

Sinh hoạt đời thường

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X X X X X X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ X X

Sinh hoạt chính trị X

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Nguyễn Đăng Giai Khuyết danh

PL69

Stt

Tên truyện

Nhân vật

385 Họ vắt 386 Vả bây giờ 387 Cô Kiều cười 388 Hương thừa thoang thoảng 389 Bảy con khỉ 390 Âu yếm vòng ngoài 391 Cành kia cội này 392 Gái Nội Duệ Cầu Lim 393 Biết rùa mô meo mà tìm 394 Tên cha thằng bày 395 Văn tế Ngạc Nhe 396 Thơ vịnh vườn bách thú 397 Quý nhất đầm 398 Thơ thi vịnh Hiệp Phật 399 Câu hát quốc sự 400 Long Biên ái hoa hội 401 Thơ vịnh văn miếu 402 Đại lai tiểu vãng 403 Đại điểm quần thần 404 Chết cha dân 405 Câu đối đọc lái

Sinh hoạt đời thường X X

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ X X X X X X X X X X X

Sinh hoạt chính trị

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

PL70

Stt

Tên truyện

Nhân vật

406 Ước con ngu dốt làm quan 407 Ba vợ chồng đều hay thơ 408 Thơ gạ gẫm 409 Thơ vịnh cảnh bình than 410 Ai ve con mụ 411 Câu đối hát giặm 412 Quý vật tặng quý nhân 413 Câu đối cô hàng hương 414 Học thì dốt, việc thì bỏ 415 Naăm canh chỉ sợ gà 416 Chánh tổng thâu đào 417 Nhà muôn cuốn sách 418 Đầu cha quan lớn 419 Câu thơ khó hiểu 420 Vạn lý trường thành 421 Thiên lý nhân lương 422 Mẫu phối Mạnh Đức 423 Miêệng ông quan huyện Thạch Hà 424 Mạc bất hà như 425 Đồ nọ tưởng đồ kia thắc mắc 426 Tớ bán cho ai cái khố rách này

Sinh hoạt đời thường X

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X X X X X X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ X

Sinh hoạt chính trị X

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

PL71

Stt

Tên truyện

Nhân vật

427 Phê đơn li dị 428 Thơ thẩn làm chi 429 Nghé non là vật vô tri 430 Câu hát có hậu 431 Thơ thăm vợ 432 Thơ nói mát 433 Mượn vai hề chửi đổng 434 Dịch thơ chửi Tứ tham 435 Nhà cổ nguyệt 436 Thơ con cóc 437 Thơ vịnh Quan Công 438 Thơ khuyên nhủ của thầy đồ 439 Thơ con có lặn lội bờ sông 440 Bài tán chuồn chuồn 441 Văn luận giải cái rắm 442 Thơ của cô hàng nem

Sinh hoạt đời thường X X

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ X X

Sinh hoạt chính trị X X X

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Hồ Xuân Hương Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

PL72

Công trình Giai thoại folklore của Vũ Ngọc Khánh:

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

Sinh hoạt văn nghệ

Sinh hoạt chính trị

X

Bà Triệu

X

Hồ Quý Ly

1 Lệnh ông không bằng cồng bà 2 Giết con mà lấy uy lòng 3 Câu hát ấy của ai 4 Cắt cỏ bồ đề cho ngựa của ai 5 Phải là con mẹ con cha 6 Chơi với kẻ sốm không ốm cũng què 7 Bảy làng gà, ba làng hóp 8 Ngưởi Nghệ An, gan Thạch Hà 9 Đánh giặc họ Đinh, làm quan họ Đặng 10 Tể tướng vạn hà thiên hạ âu ca

X X X X X X X X

Khuyết danh Võ Uy Lê Thánh Tông Lê Lợi Vũ Đình Cung Nguyễn Hữu Cầu Đinh Văn Tả Nguyễn Quán Nho

Thiếu Kim Văn đỗ tiến sĩ, mất sáu tiền được bà Nghè

11 12 Bùng bình chi tướng, uýnh ướng chi quan 13 Mừng xuân có pháo có nêu 14 Quan hộ được tha, quan gia vạn tuế 15 Một nhà sinh được ba vua 16 Nực cười hai bảy mười ba 17 Trường An tứ hổ 18 Nam Đàn tứ hổ

X X

X

X X X X X

Nguyễn Bá Dương ông Chảng Trần Tử Ca Đề đốc Hộ thành các vua nhà Nguyễn Sô - nhi

PL73

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt chính trị

19 Quảng Nam tứ hổ 20 Nói khoác tận cung vua 21 Tại sao hội thi nói khoác làng Đông An bị vỡ 22 Ai nói khoác 23 Da trắng 24 Nói khoác lừa quan

Sinh hoạt văn chương X

Sinh hoạt đời thường X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

X X X X

X X X X X X X X X X X

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh ông Tư

25 Thua kiện quay ra được kiện 26 Khoai nhà em dẻo lắm 27 Đĩa lưỡi chuột 28 Bạn học của quan 29 Những câu hát gỡ bí 30 Vẫn những câu hát gỡ bí 31 Những câu hát hóc 32 Cau khô và cau nàng 33 Chùm hum cúi xuồng 34 Anh con đối tiền 35 Đát đặng thì đan 36 Ba vạn chín nghìn 37 Máu 38 Vải lộp ô nàng lấy ở đâu ra? 39 Câu hát Dùi Chiêng

PL74

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt chính trị

40 Tình tui với mụ 41 Mặn và ngọt 42 Đít Lý Râu, đầu Áng Cộng 43 Ba đấm như một đạp 44 Trán khỉ mặt rồng 45 Đánh quan quan đánh 46 Tiếng Pháp vào dân ca đối đáp 47 Chia gà trong cỗ tết 48 Căng buồm mời rượu, gánh gạo lội sông 49 Ai ve con mụ 50 Thi tài kết nghĩa 51 Con trâu là vật vô tri 52 Đi khắp được vợ 53 Câu đối hát giặm 54 Nét hóm hỉnh của cụ đốc Phù Quang 55 Đã chào thì tặng 56 Run như cầy 57 La Qua - Phước Chỉ 58 Tao kéo mày về 59 Hương và trăng sao 60 Thì muốn thì theo

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X X

Sinh hoạt đời thường X X X

Sinh hoạt văn nghệ X X X X X

X X X X X

Khuyết danh Khuyết danh Ông Chắm Tế Đặng - Thượng Đàn Cô Son - vua Minh Mạng Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Lê Quý Đôn Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

PL75

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt chính trị

61 Rất mực thanh cao 62 Dâng lệ Phương Hoa 63 Than lửa, bút nghiên 64 Có râu nên thoát tội 65 Ba công 66 Chánh tổng thâu đào 67 Ba đoạn tre, muôn quyển sách 68 Mẹ học trò, cha quan lớn 69 Trăng lộn đèn dài 70 Vạn lý trường thành 71 Thiên lý nhân lương 72 Mẫu phối Mạnh Đức 73 Sau trước, xuống lên 74 Thạch Hà - Kim Động 75 Gia đạo hưng 76 Tương hữu tương vô 77 Đại lai tiểu vãng 78 Giai sĩ hiên 79 Mạt bất hà như 80 Kỳ nhân như ngọc 81 Thể quần thần

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X X X X X X X

Sinh hoạt đời thường X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ X X X

Khuyết danh Phương Hoa Đoàn Hy Trần Ngọc Dư Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Nguyễn Thân Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

PL76

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt chính trị

82 Những câu thơ chống thần 83 Mồ hôi thần 84 Đồ nọ tưởng đồ kia thêm thắc mắc 85 Câu chuyện cấm quần không đáy 86 Ông thừa 87 Thơ mừng đám cưới đặc biệt 88 Hỡi cụ hỡi nàng 89 Cụ chửa về 90 Đám rước quan 91 Phê đơn li dị 92 Xê ra để chị về cho sớm 93 Cu li và phi lu 94 Văn tế một viên tướng Pháp 95 Cô hàng nem cảnh cáo các nhà thơ 96 Thơ năm cụ 97 Ba ông bà đều là thi sĩ 98 Cái quý giá của chức câu đương 99 Ra ngõ gặp gái việc gì mà kiêng 100 Ngựa về đường Bưởi 101 Mũi tên bay từ bờ sông Lương 102 Ôm đầu đã đứt

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X X X X X X X X X

Sinh hoạt đời thường X

Sinh hoạt văn nghệ X

X X X X

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Đào Sư Tích Khuyết danh Liễu Thăng Liễu Thăng

PL77

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt chính trị

103 Nam Nam lại có đứa nào cao hơn ta? 104 Bát canh lươn 105 Chính tôi phải chịu ơn quan bác 106 Phạm Công Trứ xử kiện 107 Bà mẹ Vạn Hà 108 Thế nào mới thực là vẻ vang 109 Cho con cái kết hôn với nhau 110 Chỉ tại nàng yêu cây mía 111 Người đào ao xử kiện 112 Lũ gian tham đâu, vào chỗ đứng 113 Một cách tìm hiểu và dạm vợ cho con 114 Xem cái rỗ kia kìa 115 Bọn kẻ trộm chúng tôi làm đấy 116 Dạ, tôi chỉ làm đến tể tướng thôi 117 Vua Quang Trung và nhân dân 118 Vụ án tổ tôm 119 Hỡi người mặt trắng râu xanh 120 Mẹ tôi lấy vua thì tôi là con vua 121 Cây roi mây cuốn theo tấm lụa 122 Câu kê chẳng thấy, thấy đầm xòe 123 Tri huyện chiếu lệnh phạt đức ông

Sinh hoạt văn chương X X X

Sinh hoạt đời thường X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ X

X X X X X X X X X X X

Liễu Thăng Bùi Cầm Hổ Trần Dực Phạm Công Trứ Nguyễn Quán Nho Nguyễn Khải Khuyết danh Ngọc Liệu Nguyễn Văn Giai Khuyết danh Nguyễn Công Hoàn Nguyễn Huy Lượng Dương Chung Tú Nguyễn Văn Giai Vua Quang Trung Đinh Nhật Thận Khuyết danh Nguyễn Văn Tường Trần Bích San Khuyết danh Phan Văn Ái

PL78

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt chính trị

124 Người cuồng ở Bình Định 125 Cô Miên ngủ một mình 126 Bà Gồm và mười hai nong cơm 127 Phạt mười roi, thường mười lạng 128 Xử Tây 129 Con ta biết trung là hiếu rồi 130 Cô bán cơm gan góc 131 Đôi ta cùng nợ nước non 132 Đồ Nghệ xưng vua 133 Kỳ tài hầu 134 Bức tranh quả dưa 135 Gia đình đồng hồ 136 Bác thợ may trí thức 137 Thợ rèn vụ quang 138 Cậu Hai Hót 139 Nước ngoài khác, nước mình khác 140 Thắp hương cúng thầy để chữa văn thầy 141 Trên vua dưới là ai? 142 Người lạ kẻ quen 143 Tài ứng diễn của Hứa Văn 144 Đã nóng lên thì còn biết thời đại nào

Sinh hoạt văn chương X

Sinh hoạt đời thường

Sinh hoạt văn nghệ X X X X X X X X X X X X X

X X X X X X X

Khuyết danh Bà Ba Cai Vàng Bà Gồm Khuyết danh Lê Xuân Mai Trần Chí Thiện Khuyết danh Cô Tám chợ Tràng Đinh Văn Thụ Tô Phú Vượng Đào Thúc Kiên Khuyết danh Nguyễn Chí Lăm Khuyết danh Hai Hót Bà Từ Dụ Đào Tấn Khuyết danh Khuyết danh Hứa Văn Khuyết danh

PL79

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt chính trị

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

145 Ông thương bạc 146 Vật gì vừa đực vừa cái 147 Đố là cái chi 148 Thùng không 149 Da bố mi đó à? 150 Kinh nghiệm thử thách các quan 151 Ông ỉa mà xáp cái gì? 152 Tài ứng biến 153 Cho tớ hút một hơi 154 Lại một cách ứng biến khác 155 Cứu nguy trên sân khấu 156 Hai tội của Trọng Thủy 157 Thầy Nghêu thử mít 158 Hói Kệ - Khe Giang 159 Cổ Đô - Trình Xá 160 Trâu thiến - Ngựa cương 161 Đối thế nào là chỉnh 162 Xẩm đội cấn

Sinh hoạt văn nghệ X X X X X X X X X X X X X X X X X X

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

Vai hề dở ngưởi sau khủng bố Xô Viết Nghệ Tĩnh

163 164 Tiếng Tây vào sân khấu tuồng

X X

Khuyết danh Khuyết danh

PL80

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt chính trị

165 Cành kia cội này 166 Hé gương 167 Hương thừa 168 Âu yếm vòng ngoài 169 Vả bây giờ 170 Bảy con khỉ 171 Cô Kiều cười 172 Phải mười lăm năm nữa mới tìm thấy 173 Vì sao Tự Đức ghét Nguyễn Du 174 Đau đớn, thẹn thùng 175 Ăn làm sao, nói làm sao 176 Kiều đi Lạng Sơn 177 Kiều yêu ai nhất 178 Kiều đuổi cò 179 Kiều dạy trâu 180 Có lẽ cụ Nguyễn Du ác với chúng mình 181 Kiều mách nước cờ 182 Trăng thề hùm củi 183 Duyên hội ngộ, đức cù lao 184 Bị đánh hỏng cử nhân vì đọc một câu Kiều 185 Đọc như thế thì Kiều hóa ra con mèo

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

Sinh hoạt văn nghệ X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Cụ Quả Ngôn Khuyết danh Ông Nhiêu Tĩnh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

PL81

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt chính trị

186 Mặt mày như thế thì gớm chứ đẹp đẽ gì 187 Không phải đáng ghét mà chính là đáng trọng 188 Hoạn Thư đâu phải người nham hiểm 189 Thúy Kiều con ai? 190 Ai là chị, ai là em? 191 Thúy Kiều làm nghề gì? 192 Nàng Kiều có con không? 193 Thúy Kiều có mắc bệnh gì không? 194 Kim Trọng bao nhiêu tuổi? 195 Kim Trọng làm nghề gì? 196 Từ Hải 197 Hồ Tôn Hiến 198 Tập Kiều phê án 199 Tài sắc anh hùng 200 Lời dặn cuối cùng 201 Phan Bội Châu nhờ Kiều trả lời đồng bào 202 Phan Bội Châu với truyện Kiều 203 Nguyễn Đức Cảnh nhờ Kiều từ biệt mẹ

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường

Sinh hoạt văn nghệ X X X X X X X X X X X X X X X X X X

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Phạm Văn Ngôn Khuyết danh Phan Bội Châu Phan Bội Châu Nguyễn Đức Cảnh

Nguyễn Ái Quốc và Trần Phú trong giấc 204 mơ Kiều 205 Kiều đi đánh Mỹ

X X

Nguyễn Ái Quốc Khuyết danh

PL82

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt chính trị

206 Mai sau dù có bao giờ 207 Làng Nhân 208 Laàng Hữu Lễ 209 Làng Tiên Nông 210 Laàng Trò 211 Làng Năng Cát 212 Tại sao có tên là Chòm Thiu 213 Tại sao có tên là làng Bà 214 Làng Sắt 215 Làng Bất Căng 216 Xử kiện ruộng dưa 217 Giả mù không thoát tội 218 Khoan khoan con nói 219 Bụng sình 220 Ăn mày và chó đói 221 Đình và Võ 222 Gánh nước chứ không bán nước 223 Bầu phải đi với bí 224 Tình văn chương 225 Cua chơi trăng 226 Kim Luông có gái mỹ miều

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X

Sinh hoạt đời thường

Sinh hoạt văn nghệ X X

X X X X X X X X X X X X

Khuyết danh Lê Lợi Lê Lợi Lê Lợi Lê Lợi Lê Lợi Lê Lợi Lê Lợi Lê Lợi Lê Lợi Nguyễn Đăng Khoa Nguyễn Đăng Khoa Lê Trung Đình Lê Trung Đình Lê Trung Đình Lê Trung Đình Lê Trung Đình Cả Triệu Cả Triệu Cả Triệu vua Thành Thái

PL83

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt chính trị

227 Ta có biết mặt mũi đứa nào đâu? 228 Mười bài liên hoàn 229 Trả tiền đò cho trẫm 230 Ngài cho dưới mắt không có người ư? 231 Trời xanh còn hãm anh hùng 232 Chị em cất gánh 233 Khăn gói qua sông 234 Tỏ chí bình sinh 235 Đoán tên 236 Tôi sẽ ăn mừng 237 Lạy cây 238 Câu đối Tết 239 Dưới phường khất cái ta đùa ta thân 240 Tớ không phải là phu 241 Câu đối chửi quan 242 Làm hộ đơn cho người có trâu chết 243 Hồng cậy tứ bàng 244 Hương hỏa chi mày 245 Câu đối dán rạp tuồng 246 Vinh quan sòi 247 Viết chữ thờ

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X

Sinh hoạt đời thường X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ X X X X X

X X X X

vua Thành Thái vua Thành Thái vua Thành Thái Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Sáu Mới Sáu Mới Sáu Mới Phan Điện Phan Điện Xiền Ngộ Xiền Ngộ Xiền Ngộ Tuần Dĩnh Tuần Dĩnh Tuần Dĩnh Phủ Tuấn

PL84

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt chính trị

248 Đại dĩ 249 Phủ Tuấn xử kiện 250 Trâu phải được với chủ nó 251 Đánh lý trưởng 252 Bầy gà chức sắc 253 Mừng đám cưới 254 Bê về với bò mẹ 255 Đích thị kẻ bắt gà 256 Tay nào chặt chuối 257 Chữa bệnh oan gia 258 Hỏi vợ cho quan phủ 259 Ai thua cuộc 260 Chuyện cô Nhẫn 261 Em chỉ cần xắn váy 262 Đái mau cho tao uống 263 Chuyện ông Trần Hàn 264 Trạng Hiền 265 Nỗi oan sư thầy 266 Trạng Lường 267 Cân voi đo giấy 268 Trạng Ăn

Sinh hoạt văn chương X X

Sinh hoạt đời thường X X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ X X

X X X X X X X X X

Phủ Tuấn Phủ Tuấn Phủ Tuấn Thủ Thiệm Thủ Thiệm Thủ Thiệm Thượng Nành Thượng Nành Thượng Nành Mân Nhụy Mân Nhụy Mân Nhụy Cô Nhẫn Cố Duồn Cố Duồn Trần Hàn Nguyễn Hiền Huyền Quang Lương Thế Vinh Lương Thế Vinh Lê Nại

PL85

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt chính trị

269 Mạo trạng nguyên 270 Bảng trạng thi tài 271 Trạng Bịu 272 Trạng Gióng 273 Trạng Quét 274 Trạng Vật 275 Trạng Cờ 276 Để đất phát thợ cạo 277 Để đất phát cho nghề đan bồ 278 Để đất phát cho dân phó cối 279 Trạng Tư Thiên 280 Trạng Trịnh 281 Trạng Khiếu 282 Chú bé con nhà hàng thịt 283 Trở thành trạng nguyên 284 Trạng Lợn đi sứ 285 Đào trường thọ 286 Tiên sư thằng Bảo Thái 287 Lỡm quan thị 288 Lại lỡm quan thị 289 Những bài thi bất hủ

Sinh hoạt văn chương X X X X X X X X

Sinh hoạt đời thường X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ

X X X X X X X X

Nguyễn Giản Thanh Đỗ Uông - Phạm Trấn Nguyễn Đăng Đạo Đặng Công Chất Trạng Quét Võ Phong Võ Huyên Trạng Bờ Ao Trạng Bờ Ao Trạng Bờ Ao Bế Văn Phùng Trạng Trịnh Trạng Khiếu Trạng Lợn Trạng Lợn Trạng Lợn Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh

PL86

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt chính trị

290 Coi thử miệng quan 291 Đánh tráo thư 292 Tượng đá mất thiêng 293 Cúng thành hoàng 294 Vay tiền bà chúa Liễu 295 Trả ơn bà chúa Liễu 296 Mừng chúa thắng trận 297 Bắt sống Ba Bướu Tư Ngang 298 Tú Xuất đóng cũi giải nạp về tỉnh thành 299 Lột quần thầy lý 300 Lột khăn lấy giầy cụ lớn 301 Lột áo quan hàn 302 Chửi thi 303 Lại một cuộc chửi thi khác 304 Chọc con ông đốc học 305 Vén váy quần bà 306 Tú Xuất lật váy bà quan 307 Đòi quan 308 Lấy quần chưng phơi ngoài sào 309 Đòn trừng phạt lão bán tơ 310 Quan phủ bắt đám bạc

Sinh hoạt văn chương X X X

Sinh hoạt đời thường X X X X X X X X X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ

X X X

Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất

PL87

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Sinh hoạt chính trị

311 Cặp vịt đẻ một đêm năm trứng 312 Trò lục sở 313 Tranh thối tranh thơm 314 Hễ ai mà nói dối ai 315 Tấm vóc đáng giá đồng chinh 316 Dại khôn 317 Chọc sư nịnh sư 318 Phúc đức gì mày

Sinh hoạt văn chương

Sinh hoạt đời thường X X X X X X X X

Sinh hoạt văn nghệ

Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất

Kết quả khảo sát nhân vật của một số tuyển tập giai thoại

Công trình Giai thoại văn học Việt Nam của nhóm Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh Mại:

KIỂU NHÂN VẬT

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông

Trí thức

Đạo đức

Nhà nho tài tử

Nhà nho ẩn dật

Nghệ nhân dân gian

1 Bác lái đò hay chữ 2 Bị trói vẫn làm thơ 3 Nam quốc sơn hà 4 Ỷ Lan phu nhân 5 Chương Dương - Hàm Tử 6 Trạng nguyên về học lễ 7 To đầu mà dại

X X X X X

X X

X X X

Đỗ Thận Lý Công Uẩn Lý Thường Kiệt Ỷ Lan Trần Quang Khải Nguyễn Hiền Nguyễn Hiền

PL88

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông

Trí thức

Đạo đức

8 Nỗi oan của nhà sư 9 Ngựa đá lấm bùn 10 Hoa sen trong giếng ngọc 11 Ra đối dễ, đối đối khó 12 Trăng là cung, đạn là sao 13 Chơi chữ - chọi chữ 14 Lưỡng quốc trạng nguyên 15 Chua biết mèo nào cắn mỉu nào 16 Chim chếch - ếch ngộp 17 Câu đối ghép tên người 18 Cười ông quan hai vợ 19 Ngự sử miệng còn hôi sữa 20 Đọc thơ chê Hạng Vũ 21 Chữa thơ Vương Bột 22 Gửi trứng cho ác 23 Thơ của người nghĩa sĩ 24 Lòng ta không phải đá 25 Câu thơ kỳ lạ 26 Ra câu đối dò xét con

X X X X X X X X X X X X X X X X X X

KIỂU NHÂN VẬT Nhà nho tài tử

Nhà nho ẩn dật

X X X X X X

Nghệ nhân dân gian

Huyền Quang Trần Nhân Tông Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Đoàn Nhữ Hài Hồ Tông Thốc Hồ Tông Thốc Trần Nguyên Đán Nguyễn Biểu Lê Hiến Phủ Hồ Quý Ly Hồ Quý Ly

Muốn chết vác mặt làm quan Minh triều

27

X

Khuyết danh

PL89

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông

Trí thức

Đạo đức

X

KIỂU NHÂN VẬT Nhà nho tài X tử X

Nhà nho ẩn dật

X X

Nghệ nhân dân gian

28 Thơ đùa ả bán chiếu 29 Câu thơ nên nghĩa 30 Câu đối nhà hàng nước 31 Hồn bướm mơ tiên 32 Xanh vàng đỏ tía 33 Tận thu lòng dạ thế gian 34 Anh lính với hội Tao Đàn 35 Sư sử sứ, phụ phù phu 36 Ba ông tam thế 37 Thánh quân minh đế 38 Hai anh em họ Quách 39 Văn tức là người 40 Mười tám bát cơm riêu 41 Trạng me đè trạng ngọt 42 Thơ nằm co 43 Khiêng cáng lấy vợ con quan 44 Ngâm thơ cự thần 45 Bảng, trạng tranh nhau 46 Ăn khỏe thơ tài 47 Câu chuyện bài phú 48 Quan tài tài quan

X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X

X X X X

X

Nguyễn Trãi Lê Thánh Tông Lê Thánh Tông Lê Thánh Tông Lê Thánh Tông Lê Thánh Tông Nguyễn Toàn An Lương Thế Vinh Lê Thánh Tông Lương Thế Vinh Quách Đình Bảo Nguyễn Giản Thanh Lê Nại Nguyễn Giản Thanh Vũ Duệ Hứa Tam Tỉnh Nguyễn Thái Thường Phạm Trấn - Đỗ Uông Lương Hữu Khánh Lương Hữu Khánh Vũ Thoát Dĩnh

PL90

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông

Trí thức

Đạo đức

49 Rêu xanh máu đỏ 50 Quân tử chí, xã tắc thần 51 Khoai Đơ, lính Mỗ 52 Tể tướng và thầy đồ 53 Nối thơ Lê Thánh Tông 54 Ta chẳng chịu phong 55 Bây giờ em đã có chồng 56 Ếch ngồi đáy giếng 57 Phong nguyệt vô biên 58 Hay cả ý lẫn lời 59 Rắn trắng rồng vàng 60 Hai cô Điểm, hai ông Luân 61 Không ham phú quý 62 Vế đối hai nghĩa 63 Làm văn khuyên chồng 64 Cha con đọ tài nhau 65 Nhờ có râu mà thoát đòn 66 Hà túc toán giã 67 Ba sông bốn mắt 68 Bài thơ tự trách mình 69 Thư mượn áo cầu

X X X X X X X X X X X X X X X X X X X

X

KIỂU NHÂN VẬT Nhà nho tài tử X

Nhà nho ẩn dật

X X X X X X

Nghệ nhân dân gian

Giang Văn Minh Nguyễn Quý Đức Nguyễn Quý Đức Nguyễn Quý Đức Nguyễn Quý Đức Đào Duy Từ Đào Duy Từ Nguyễn Đăng Cảo Nguyễn Đăng Cảo Nguyễn Đăng Đạo Đoàn Thị Điểm Đoàn Thị Điểm Đoàn Thị Điểm Đoàn Thị Điểm Đoàn Thị Điểm Nguyễn Bá Lân Trần Văn Trứ Vương Toán Lê Quý Đôn Lê Quý Đôn Lê Quý Đôn

PL91

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông

Trí thức

Đạo đức

KIỂU NHÂN VẬT Nhà nho tài tử

Nhà nho ẩn dật

Nghệ nhân dân gian

70 Tài nịnh 71 Cốt đối ý 72 Đánh nhau bằng cả câu đối 73 Chim trong lồng

X X X X

X X

Nguyễn Khản Nguyễn Hữu Cầu Nguyễn Hữu Cầu Nguyễn Hữu Cầu

Ông hoàng giáp chịu tài người ăn xin

74 75 Câu thơ cảnh tỉnh 76 Miêng kẻ sang, đồ nhà khó 77 Chó khôn chớ cắn càn 78 Tú Cát - Bọ hung 79 Xơi hai trứng 80 Dở nguyên quen lạ 81 Cô dâu gà chú tể 82 Một thí sinh bướng bỉnh 83 Bí quá hóa hay 84 Câu đối trên văn hồ 85 Lấy thơ để chống chế 86 Dâu thử tài rể 87 Quân tử cố cùng 88 Ông Nghè đè ông Cống 89 Thơ nhạo tri phủ

X X X X X X X X

X X X X X X X

X X

X

Phạm Nguyễn Du Đặng Kim Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Lợn Khuyết danh Nguyền Hòe Nguyền Hòe Phủ Hào Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

PL92

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông

Trí thức

Đạo đức

90 Quan thị và quan võ 91 Chả kém gì Lý Bạch 92 Mượn dịp chửi quan 93 Mắng quan trường 94 Áo đỏ dù xanh 95 Cửa tướng nhà công 96 Thằng quan huyện 97 Trai sừng gái sỏ 98 Chữ thiên trồi đầu 99 Thợ vẽ đề thơ 100 Đề bức tranh tam giáo 101 Xuất xứ ở miệng tôi X 102 Bài thơ leo đèo X 103 Thơ vịnh pháo X 104 Bài thơ đem lại quốc thể 105 Chết vì câu đối X 106 Đối đáp trong chốn quan trường X 107 Tiến sĩ triều Lê khăn triều Nguyễn X 108 Thơ bán than X 109 Vịnh tranh tố nữ X 110 Đọc thơ chữa thẹn

KIỂU NHÂN VẬT Nhà nho tài tử

Nhà nho ẩn X dật X X X X X X X X X X X X

X X X

Nghệ nhân dân gian X

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Nguyễn Thiếp Nguyễn Hữu Chỉnh Võ Huy Tấn Ngô Thì Nhậm Cao Huy Diệu Trần Danh Án Khuyết danh Phạm Thái Hồ Xuân Hương

PL93

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông

Trí thức

Đạo đức

111 Mảnh tình 112 Đánh trống qua cửa nhà sấm 113 Chiêu Bảy và cô Cúc 114 Câu thơ bỏ lửng 115 Chết vì bài thơ 116 Câu thơ hoàng bào 117 Ông cống làm trâu 118 Cho Thị Đào đi lấy chồng 119 Chê khéo 120 Hạc đeo bài ngài 121 Lời thơ khảng khái 122 Thuyền quyên ứ hự 123 Hỏi anh 124 Làm thơ khất nợ

X X X X X X X X

KIỂU NHÂN VẬT Nhà nho tài tử X X X X

Nhà nho ẩn dật

X X

Nghệ nhân dân gian

Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương Nguyễn Du Nguyễn Du Nguyễn Văn Thành Lê Văn Duyệt Bà huyện Thanh Quan Bà huyện Thanh Quan Bà huyện Thanh Quan Đỗ Cao Mại Tổng Trắm Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ

Được tha phạt vì câu thơ hóm hỉnh

125 126 Khinh thường quan võ 127 Anh hùng đè xuống dưới 128 Say rượu đánh long thần 129 Đối chọi với sư 130 Thơ trách nữ thần

X X X X X X

X X X X X X

Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ

PL94

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông

Trí thức

Đạo đức

X 131 Không ưa nịnh bề trên 132 Thơ tương tư 133 Thơ vịnh người đá X 134 Con mèo nằm bếp ỉa đầy nồi rang X X 135 Đả lối văn sáo rỗng X 136 Văn hay chữ xấu X 137 Quen viết văn bằng giấy bút tốt

X

KIỂU NHÂN VẬT Nhà nho tài tử X

Nhà nho ẩn dật

X

Nghệ nhân dân gian

Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Văn Siêu Nguyễn Văn Siêu

138 Cao Bá Quát và Nguyễn Văn Siêu X

Nguyễn Văn Siêu - Cao Bá Quát

139 Siêu đất siêu đồng 140 Thầy lý bớt đi rồi 141 Ở truồng xem vua 142 Khí phách ngang tàng 143 Một bọc sinh đôi 144 Khóc mướn kiếm ăn 145 Bịa thơ tài hơn vua 146 Tứ nhi 147 Tự tiễn chữa văn của vua 148 Trên dưới đều chó 149 Một câu đối hai hoàn cảnh

X X X X X X X X X X X

X X X X X X

Nguyễn Văn Siêu - Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát

PL95

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông

Trí thức

Đạo đức

150 Bài thơ không họa nổi 151 Thơ tạ hương đảng 152 Bị ngồi trăng 153 Anh hùng có một ngươi 154 Thơ trả lời người bạn giàu 155 Một lũ ăn mày, một lũ quan 156 Câu đối khóc chồng chung 157 Phó cối đề thơ 158 Gà câu đối cho trò 159 Thơ mừng bạn đẻ con trai 160 Nằm cùng thì cho 161 Bò đen bò vàng 162 Thơ con mèo 163 Đái vẽ nên rồng 164 Thơ ăn thịt cần đước 165 Bức tranh sơn thủy kỳ lạ 166 Câu đối kén chồng 167 Quan án giỏi thơ 168 Thơ răng cắn lưỡi 169 Phúc đức gì mày bố đĩ Giai 170 Hé gương

X X X X X X X X X X X X X X X X X X X

X X X X X X X X

KIỂU NHÂN VẬT Nhà nho tài tử

Nhà nho ẩn dật X

X X X X

Nghệ nhân dân gian X

Huuỳnh Mẫn Đạt Học Lạc Học Lạc Tú Quỳ Nhiêu Tâm Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Đinh Nhật Thận Nguyễn Xuân Ôn Phan Văn Trị Phan Văn Trị Phan Văn Trị Phạm Văn Nghị Văn Quế Khuyết danh Nguyễn Đăng Hành Nguyễn Đăng Giai Khuyết danh

PL96

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông

Trí thức

Đạo đức

171 Họ vắt 172 Vả bây giờ 173 Cô Kiều cười 174 Gái Nội Duệ Cầu Lim 175 Biết rùa mô meo mà tìm 176 Tên cha thằng bày 177 Đề thơ mừng lễ thọ 178 Ghẹo sư 179 Cọp bắt thầy tu 180 Bài phú tức cảnh cô gái đẹp 181 Giễu lênh cấm quần không đáy 182 Cái khố với hai đồng tiền 183 Chiến đấu đến cùng 184 Bài cu trù khích lệ anh hùng 185 Thơ chửi tay sai của Pháp 186 Đùa nhà sư móm 187 Thơ bồ tiên 188 Tạ người cho hoa trà 189 Đòi xem câu đối 190 Gặp chó 191 Vịnh phỗng đá

X X X X X X X X X X X X X X X

X X

KIỂU NHÂN VẬT Nhà nho tài tử X

Nhà nho ẩn dật

X X X X X X

Nghệ nhân dân X gian X X X X X

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Hoàng Phan Thái Hoàng Phan Thái Hoàng Phan Thái Hoàng Phan Thái Phan Văn Ái Lê Ngô Cát Phan Đình Phùng Cô đào Nhu Cô đào Nhu Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến

PL97

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông

Trí thức

Đạo đức

192 Thơ ông phỗng sành 193 Cho chữ thờ 194 Thơ thăm bạn mất cướp 195 Chi chi giã 196 Lo trước thiên hạ 197 Khóc anh thợ tèn 198 Vợ người hàng thịt khóc chồng 199 Trưởng chợ mừng nhà mới 200 Áo địa ván thiên 201 Kỷ niệm vô giá 202 Vợ thợ nhuộm khóc chồng 203 Quan chẳng quan thì dân 204 Giàu có sang không 205 Một phút hóa trăm năm 206 Văn tế Ri-vi-e 207 Bài thơ chữa lại 208

Chim bách thanh

X X X X X X X X X X X X X X X X

KIỂU NHÂN VẬT Nhà nho tài tử

Nhà nho ẩn dật X

X X

Nghệ nhân dân gian

Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến - bạn thơ Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Khuyết danh Chu Mạnh Trinh Tú Xương

Làm câu đối cho bà buôn gạo khóc chồng

209 210 Làm hộ bức trướng phúng bạn 211 Nên nghĩa trăm năm

X X

X

Tú Xương Tú Xương Nguyễn Hữu Khanh

PL98

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông

Trí thức

Đạo đức

212 Đã cho vào bực bố 213 Giận lây cả Sĩ Vương 214 Tang chở chốn quan trường 215 Đục chân vào đá 216 Thi câu đối 217 Thơ vịnh Kiều 218 Một lối dịch thơ kỳ lạ 219 Thơ khen tri phủ tài nịnh 220 Ghẹo một trả lời hai 221 Thơ điên cuồng ngu ngộ 222 Thơ chửi tri huyện 223 Câu đối vịnh gông cùm 224 Mặc thằng nghe 225 Dịch thơ xỏ bạn 226 Thơ vịnh vườn bách thú 227 Quý nhất đầm 228 Cháu góa mừng cô góa 229 Thơ vịnh Hiệp Phật

X X X X X X X X X X X

X X X X X X

KIỂU NHÂN VẬT Nhà nho tài X tử X

Nhà nho ẩn dật X X X X

X

Nghệ nhân dân gian

Nguyễn Hữu Khanh Nguyễn Mộng Bạch Dương Khuê Từ Đạm Từ Đạm Từ Đạm Từ Diễn Hồng Nguyễn Thiện Kế Sương Nguyệt Anh Xiển Ngộ Kép Trà Kép Trà Trần Tích Phiên Trần Tích Phiên Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

Câu đối chữ Hán đọc theo vần 230 quốc ngữ 231 Đào Mộng Giác

X X

Bừi Bằng Đoàn Phan Chu Trinh

PL99

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông

Trí thức

Đạo đức

232 Câu hát quốc sự X 233 Da báo như da chó dê X 234 Chặt đầu Tây X 235 Bài thơ ghi vào đá X 236 Thơ hỏi sư X 237 Quan đốc có số đào hoa X 238 Thơ tặng người cùng cảnh 239 Một cũng đủ rồi 240 Nghe thơ đoán người X 241 Thuyền quyên với anh hùng X 242 Áo bào hốt bạc X 243 Thơ mừng mụ đồ X 244 Tấn sĩ là cái gì X 245 Giống Khổng Mạnh X 246 Ngỏ ý bằng thơ 247 Long Biên ái hoa hội 248 Thơ vịnh văn miếu X 249 Rau sắng chùa Hương 250 Lên bà không khó X 251 Người tình nhân không quen biết X X 252 Thơ khóc thầm

KIỂU NHÂN VẬT Nhà nho tài tử X X X X X X

Nhà nho ẩn X dật X X

X X X X X

Nghệ nhân dân gian

Khuyết danh Vũ Hữu Lợi Thành Thái Nguyễn Thượng Hiền Nguyễn Thượng Hiền Đặng Nguyên Cẩn Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phạm Văn Ngôn Phạm Văn Ngôn Phạm Văn Thản Huuỳnh Thúc Kháng Trần Cao Vân Trần Cao Vân - vua Duy Tân Khuyết danh Khuyết danh Tản Đà Tản Đà Tản Đà Tản Đà

PL100

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông

Trí thức

Đạo đức

253 Bài thơ năm cụ 254 Sông Hương núi Ngự

X

KIỂU NHÂN VẬT Nhà nho tài tử X

Nhà nho ẩn dật

X

Nghệ nhân dân gian

Nguyễn Trọng Cần Thúc Giạ Thị - Nguyễn Khoa Vi

Công trình Giai thoại văn học Việt Nam của Kiều Thu Hoạch:

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông

Đạo đức

Trí thức

Nhà nho tài tử

Nhà nho ẩn dật

Nghệ nhân dân gian

Trăng là cung, đạn là sao

1 Tay lái đò hay chữ 2 Bị trói vẫn làm thơ 3 Tay cầm nửa vầng trăng 4 Trạng nguyên về học lễ 5 Đối hay được thưởng dùi sách 6 Bịa thơ hại sư 7 Hoa sen trong giếng ngọc 8 Ra đối dễ, đối đối khó 9 10 Chơi chữ 11 Lưỡng quốc trạng nguyên 12 Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào 13 Chim chếch - ếch ngộp

X X X X X X X X X X

X X

X X X

Đỗ Thận Lý Công Uẩn Ỷ Lan Nguyễn Hiền Lê Văn Hưu Huyền Quang Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi

PL101

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

14 Bốn chữ nhất 15 Cười ông quan hai vợ 16 Chỉ có hai người 17 Ruột vuông 18 Cứu ai 19 Ngự sử miệng còn hôi sữa 20 Đọc thơ chê Hạng Vũ 21 Chữa thơ Vương Bột 22 Gửi trứng cho ác 23 Thơ của người nghĩa sĩ 24 Lòng ta không phải đá 25 Câu thơ kỳ lạ 26 Ra câu đối dò xét con 27 Thơ ghen vần tình 28 Thơ đùa ả bán chiếu 29 To đầu mà dại 30 Bảy mươi mười bảy đang vừa 31 Chữ mã ba chấm 32 Câu thơ nên nghĩa 33 Câu đối nhà hàng nước 34 Hồn bướm mơ tiên

Trí thức X X X X X X X X X X X X X X X X

X

Nhà nho ẩn dật

nho tài tử X X X X

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

X X X

Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Mạc Đĩnh Chi Đoàn Nhữ Hài Hồ Tông Thốc Hồ Tông Thốc Trần Nguyên Đán Nguyễn Biểu Lê Hiến Phủ Hồ Quý Ly Hồ Quý Ly Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi Trịnh Khiết Tường Trịnh Khiết Tường Trịnh Khiết Tường Lê Thánh Tông Lê Thánh Tông Lê Thánh Tông

PL102

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

X

Nhà nho ẩn dật

nho tài tử

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

35 Câu đối nhà thợ nhuộm 36 Câu đối người hốt phân 37 Anh lính với hội Tao Đàn 38 Ba ông tam thế 39 Sư sử sứ, phụ phù phu 40 Thánh quân minh đế 41 Ông Trạng thả diều 42 Khiêng võng quan huyện 43 Cậu bé học lỏm 44 Câu thơ học từ dân dã 45 Văn tức là người 46 Trạng me đè trạng ngọt 47 Câu đối đêm động phòng 48 Ăn hai đấu học thâu canh 49 Thơ nằm co 50 Ngâm thơ cự thần 51 Tựa ngai vàng 52 Thơ bèo 53 Một bảng nháp đỗ ba tiến sĩ 54 Bảng, trạng tranh nhau 55 Ăn khỏe thơ tài

Trí thức X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X

X X X X X

Lê Thánh Tông Lê Thánh Tông Nguyễn Toàn An Lê Thánh Tông Lương Thế Vinh Lương Thế Vinh Lương Thế Vinh Lương Thế Vinh Kiều Phú Nguyễn Văn Nghi Nguyễn Giản Thanh Nguyễn Giản Thanh Hứa Tam Tỉnh Lê Nại Vũ Duệ Nguyễn Thái Thường Nguyễn Bỉnh Khiêm Giáp Hải Ngô Trí Tri Phạm Trấn - Đỗ Uông Lương Hữu Khánh

PL103

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

56 Thơ vịnh trai 57 Úc úc đô đô 58 Câu đối của người hầu trà 59 Quan tài tài quan 60 Rêu xanh máu đỏ 61 Ta chẳng chịu phong 62 Bây giờ em đã có chồng 63 Bài thơ khuyên chúa Sãi 64 Suýt toi mạng vì bài hát 65 Phú ông tỏi hỏi làm chi 66 Ếch ngồi đáy giếng 67 Phong nguyệt vô biên 68 Trả sách không mua 69 Làm bài hát kiếm rượu thịt 70 Đại đăng khoa, tiểu đăng khoa 71 Làm thơ vặn lại thần 72 Vế đối tài hoa 73 Đề thì lừa sĩ tử 74 Đi hán đi hài mỏi chân 75 Nức tiếng thầy 76 Học trò đi chăn trâu

Trí thức X X X X X X X X X X X X X X X X X X

X

Nhà nho ẩn dật X

nho tài tử X X X

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

X X X X

Phùng Khắc Khoan Phùng Khắc Khoan Khuyết danh Vũ Thoát Dĩnh Giang Văn Minh Đào Duy Từ Đào Duy Từ Đào Duy Từ Đào Tá Hán Nguyễn Công Đăng Nguyễn Đăng Cảo Nguyễn Đăng Cảo Nguyễn Đăng Cảo Nguyễn Đăng Cảo Nguyễn Đăng Đạo Nguyễn Đăng Đạo Nguyễn Đăng Đạo Nguyễn Lại Hồ Sĩ Dương Nguyễn Quốc Trinh Nguyễn Quý Đức

PL104

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

77 Thi vịnh cảnh chùa Trấn Quốc 78 Nối thơ đời Hồng Đức 79 Bét thơ phải đi sứ

Trí thức X X X

Nhà nho ẩn dật

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

nho tài tử

Nguyễn Quý Đức Nguyễn Quý Đức Nguyễn Tông Khuê

X

80

Rắn trắng rồng vàng

X

Đoàn Thị Điểm - Đoàn Doãn Luân

81

Hai cô Điểm, hai ông Luân

82 Không ham phú quý 83 Vế đối hai nghĩa 84 Cô hàng nước hay chữ

X X X X

X

Đoàn Thị Điểm - Đoàn Doãn Luân Đoàn Thị Điểm Đoàn Thị Điểm Đoàn Thị Điểm

85

Trẻ con mới học biết gì

86 Văn rỗng như bụng trống 87 Lủm cả quá trứng 88 Bài phú qua đò thành văn 89 Quả hồng buồng cau 90 Quan chủ khảo nhận dốt 91 Nhờ có râu mà thoát đòn 92 Này hi hi 93 Ba sông bốn mắt 94 Bài thơ tự trách mình

X

X X X X X X X X

X

Đoàn Thị Điểm - Đặng Trần Côn Vũ Công Tuệ Hà Tông Huân Nguyễn Bá Lân Nguyễn Bá Lân Nguyễn Bá Lân Trần Văn Trứ Trần Văn Trứ Lê Quý Đôn Lê Quý Đôn

PL105

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

95 Thư mượn áo cầu 96 Chép lại văn tự cháy 97 Cái cò lặn lội bờ sông 98 Mượn chuyện cổ chửi hoạn quan 99 Câu đố chữ nhất 100 Cái vạ văn chương 101 Thơ nắn nhị đào 102 Ông hoàng giáp chịu tài người ăn xin 103 Mó mít nhựa ra tay 104 Chúa tôi xướng họa 105 Cốt đối ý 106 Đánh nhau bằng cả câu đối 107 Chim trong lồng 108 Miêng kẻ sang, đồ nhà khó 109 Chó khôn chớ cắn càn 110 Tú Cát - Bọ hung 111 Thơ tạ thành hoàng 112 Da trắng vỗ bì bạch 113 Dòm nhà bảng nhãn 114 Thơ tức cảnh mót lúa 115 Bài văn hai nghĩa

Trí thức X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X

X X X X

Nhà nho ẩn dật X X X

nho tài tử

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

X

Lê Quý Đôn Lê Quý Đôn Lê Quý Đôn Lê Quý Đôn Lê Quý Đôn Ngô Thì Sĩ Phạm Nguyễn Du Phạm Nguyễn Du Đặng Thị Huệ Nguyễn Khản Nguyễn Hữu Cầu Nguyễn Hữu Cầu Nguyễn Hữu Cầu Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh

PL106

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

116 Thừa giấy vẽ voi 117 Tráo thơ giáo thụ 118 Một thí sinh bướng bỉnh 119 Bí quá hóa hay 120 Câu đối nghịch ngợm 121 Thơ hay xiêu lòng tiểu thơ 122 Câu đối trên văn hồ 123 Chày cháy trôi sông 124 Luật hoa 125 Tiến sĩ triều Lê khăn triều Nguyễn 126 Vế đối từ quan 127 Bài thơ leo đèo 128 Thơ vịnh pháo 129 Bài thơ đem lại quốc thể 130 Chết vì câu đối 131 Bia nghè lại dựng trên tòa muôn gian 132 Vịnh tranh tố nữ 133 Gà câu đối cho chàng rể 134 Đọc thơ chữa thẹn 135 Mảnh tình xẻ đôi 136 Ấy ái uông

Trí thức X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X

X X X

Nhà nho ẩn dật

nho tài tử X

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

X X X

Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Nguyền Hòe Nguyền Hòe Nguyền Hòe Vương Toán Phủ Hào Trần Danh Án Trần Danh Án Trần Danh Án Nguyễn Huy Oánh Nguyễn Thiếp Nguyễn Hữu Chỉnh Võ Huy Tấn Ngô Thì Nhậm vua Quang Trung Phạm Thái Nguyễn Huy Lượng Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương

PL107

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

137 Đánh trống qua cửa nhà sấm 138 Ham tìm chỗ ấy 139 Cặc bần ghe phú 140 Cuộc đấu thơ nghịch ngợm 141 Chiêu Bảy và cô Cúc 142 Câu thơ bỏ lửng 143 Chết vì bài thơ 144 Câu thơ hoàng bào 145 Ông cống làm trâu 146 Cho Thị Đào đi lấy chồng 147 Chê khéo 148 Lời thơ khảng khái 149 Thơ kết án con hạc 150 Thơ kết án con vịt 151 Thuyền quyên ứ hự 152 Hỏi anh 153 Làm thơ khất nợ 154 Được tha phạt vì câu thơ hóm hỉnh 155 Khinh thường quan võ 156 Anh hùng đè xuống dưới 157 Thơ tạ long thần

Trí thức X X X X X X X X X X X X X X

X X X X

Nhà nho ẩn dật

nho tài tử X X X X

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

X X X

Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương - Chiêu Hổ Nguyễn Du Nguyễn Du Nguyễn Văn Thành Lê Văn Duyệt Bà huyện Thanh Quan Bà huyện Thanh Quan Bà huyện Thanh Quan Tổng Trắm Đỗ Cao Mại Đỗ Cao Mại Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ

PL108

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

158 Đối chọi với sư 159 Thơ trách nữ thần 160 Thơ tương tư 161 Con mèo nằm bếp ỉa đầy nồi rang 162 Đả lối văn sáo rỗng 163 Chiết tự chữ Đức 164 Thơ vịnh cây vông 165 Phá đền thì lại làm đền 166 Thơ vần om 167 Cót két, thẩn thơ 168 Quen viết văn bằng giấy bút tốt

Trí thức X X X X X X X X X

X X X

Nhà nho ẩn dật

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

X

nho tài tử X X

Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ Bù Tú Ý Nguyễn Văn Siêu Nguyễn Văn Siêu

169

Siêu đất siêu đồng 170 Thầy lý bớt đi rồi 171 Ở truồng xem vua 172 Khí phách ngang tàng 173 Một bọc sinh đôi 174 Khóc mướn kiếm ăn 175 Bịa thơ tài hơn vua 176 Tự tiễn chữa văn của vua 177 Trên dưới đều chó

X X X X X X X X X

X X X X X

Nguyễn Văn Siêu - Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát

PL109

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

178 Một câu đối hai hoàn cảnh 179 Không biết chữ chi 180 Một thầy một cô một chó cái 181 Cụ đốc học hóm hỉnh 182 Bức tranh thơ 183 Nghe thơ xấu hổ 184 Đối đáp chốn quan trường 185 Thơ tạ hương đảng 186 Thơ trả lời người bạn giàu 187 Thơ cục cứt trôi sông 188 Thơ vịnh đèn kéo quân 189 Câu đối khóc chồng chung 190 Phó cối đề thơ 191 Gà câu đối cho trò 192 Thơ mừng bạn đẻ con trai 193 Thơ của người mần đơn 194 Thơ vịnh cái điếu 195 Nằm cùng thì cho 196 Bò đen bò vàng 197 Đầy tớ làm gia sư 198 Nam nhi cốt ở tài

Trí thức X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X

X X X X X

Nhà nho ẩn dật X

nho tài tử

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

X

Cao Bá Quát Cao Bá Quát Cao Bá Quát Lê Quýnh Phạm Văn Nghị Huuỳnh Mẫn Đạt Cao Huy Diệu Học Lạc Nhiêu Tâm Nhiêu Tâm Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Nguyễn Quý Tân Đinh Nhật Thận Nguyễn Xuân Ôn Nguyễn Xuân Ôn Nguyễn Xuân Ôn

PL110

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

199 Trườn sang, lên đường 200 Câu đối đền Thia Thia 201 Trọng khoa hơn hoạn 202 Tang trở chốn quan trường 203 Bài mắng Sở Khanh 204 Đã cho vào bực bố 205 Hoa xưa ong cũ 206 Thi câu đối 207 Thơ vịnh Kiều 208 Đục chân vào đá 209 Một lối dịch thơ kỳ lạ 210 Mặc thằng nghe 211 Dịch thơ đùa tếu 212 Thơ khen tri phủ tài nịnh 213 Thơ tống tiền 214 Thơ điên cuồng ngu ngộ 215 Đít thớt đầu chày 216 Tổng đốc cay mũi 217 Ba quan bốn chó 218 Vào huyện đường họa thơ 219 Thơ chửi tri huyện

Trí thức X X X X X X X X X X X X X X X X X

X X X X X X X X X

Nhà nho ẩn dật

nho tài tử X X X X

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

Nguyễn Xuân Ôn Nguyễn Xuân Ôn Hà Duy Phiên Dương Khuê Nguyễn Hữu Khanh Nguyễn Hữu Khanh Nguyễn Hữu Khanh Từ Đạm Từ Đạm Từ Đạm Từ Diễn Hồng Trần Tích Phiên Trần Tích Phiên Nguyễn Thiện Kế Nguyễn Thiện Kế Xiển Ngộ Xiển Ngộ Xiển Ngộ Xiển Ngộ Xiển Ngộ Kép Trà

PL111

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

220 Câu đối vịnh gông cùm 221 Thơ mừng đám cưới 222 Thơ ghi kỷ niệm cụ Tiên Điền 223 Đề thơ mừng lễ thọ 224 Cọp bắt thầy tu 225 Bài phú tức cảnh cô gái đẹp 226 Giễu lệnh cấm quần không đáy 227 Thơ vịnh váy 228 Vạ miệng 229 Ăn trộm chữ 230 Câu hát đồng quê thành câu đối 231 Trâu bò trê lóc 232 Thơ từ biệt cố nhân 233 Họa liền một lúc hai bài thơ 234 Câu đối thành câu sấm 235 Chín nghìn bạn 236 Thơ tập cổ 237 Thơ nói lái 238 Thơ vịnh muỗi 239 Bài vè của vua 240 Thơ phong hoa tuyết nguyệt

Trí thức X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X

X X

Nhà nho ẩn dật

nho tài tử X

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

X X

Kép Trà Kép Trà Kép Trà Hoàng Phan Thái Hoàng Phan Thái Hoàng Phan Thái Phan Văn Ái Trịnh Phức Đỗ Huy Uyển Đỗ Huy Uyển Đỗ Huy Uyển Nguyễn Đình Chiểu Nguyễn Đình Chiểu Sương Nguyệt Anh Vũ Duy Thanh Vũ Duy Thanh Vũ Duy Thanh Tự Đức Tự Đức Tự Đức Tự Đức

PL112

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

Trí thức 241 Thơ răng cắn lưỡi X 242 Giận lây cả Sĩ Vương X 243 Cái khố với hai đồng tiền X 244 Họa thơ tỏ ý chí quyết chiến X 245 Hai cẳng đối một đầu X 246 Chó tuốt X 247 Thơ ăn thịt cần đước X 248 Thơ con mèo X 249 Chỉ vì một chữ hòa X 250 Câu đối chữ Hán đọc theo vần quốc ngữ X 251 Thơ phú của Đào Mộng Giác X 252 Da báo như da chó dê X 253 Bài ca trù khích lệ anh hùng 254 Thơ chửi tay sai của Pháp 255 Đùa nhà sư móm 256 Thơ bồ tiên X 257 Tạ người cho hoa trà X 258 Đòi xem câu đối X 259 Gặp chó X 260 Vịnh phỗng đá X 261 Thơ ông phỗng sành X

X X X X

Nhà nho ẩn dật

nho tài tử

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

X X X X X X

Nguyễn Đăng Hành Nguyễn Mộng Bạch Lê Ngô Cát Phan Đình Phùng Ông Ích Khiêm Ông Ích Khiêm Phan Văn Trị Phan Văn Trị Vũ Duy Tuân Bùi Bằng Đoàn Phan Chu Trinh Vũ Hữu Lợi Cô đào Nhu Cô đào Nhu Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến

PL113

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

262 Tao có nói đâu 263 Cho chữ thờ 264 Thơ thăm bạn mất cướp 265 Chi chi giã 266 Lo trước thiên hạ 267 Câu đối khóc anh thợ rèn 268 Vợ người hàng thịt khóc chồng 269 Trưởng chợ mừng nhà mới 270 Áo địa ván thiên 271 Kỷ niệm vô giá 272 Vợ thợ nhuộm khóc chồng 273 Quan chẳng quan thì dân 274 Giàu có sang không 275 Một phút hóa trăm năm 276 Ối quan liêm 277 Chày đứng 278 Người đẹp thần thiêng 279 Thơ không chồng bông lông 280 Thơ loan mó nhạn 281 Chi chòm chí chóp 282 Nước lấy dân làm gốc

Trí thức X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X

X

Nhà nho ẩn dật

nho tài tử

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

X X

Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Chu Mạnh Trinh Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến Nguyễn Danh Tiên

PL114

Stt

Nhân vật

Tên truyện

Ngông Nhà

Trí thức 283 Thơ bỡn con gái cụ Lý X 284 Một đạo hai đường X 285 Đọc thơ chịu tội X 286 Tiến sĩ dễ, cứ nhân gay X 287 Vừa đánh cờ vừa làm thơ X 288 Như ngọc là như ngọc hành X 289 Kỳ nhân như ngọc 290 Chím bách thanh X 291 Làm câu đối cho bà buôn gạo khóc chồng X 292 Chén tống chén quân X 293 Thơ đề ảnh X 294 Một vạch ngang lưng X 295 Xu thời xu thế cũng là xu X 296 Học tài thi phận X 297 Đối hay biện luận giỏi X 298 Bài thơ để lộ ky X 299 Đưá trẻ kỳ lạ X 300 Thơ vịnh Hàm Rồng X 301 Vế đối còn bỏ ngỏ X 302 Dịch văn chửi tri huyện X 303 Bài phú mười roi mười lạng X

X X X X X

Nhà nho ẩn dật X

nho tài tử

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

X X

Huỳnh Quỳ Trần Bích San Lê Trung Đình Trần Quý Cáp Vũ Phạm Hàm Vũ Phạm Hàm Khuyết danh Tú Xương Tú Xương Tú Xương Tú Xương Tú Xương Tú Xương Tú Xương Kỳ Đồng Kỳ Đồng Kỳ Đồng Cao Ngọc Anh Bà Ba Cai Vàng Nguyễn Văn Bật Lê Ninh

PL115

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

304 Hai câu thơ điệp âm 305 Thầy trò đối chọi thơ phú 306 Hỏng thi còn được tặng thơ 307 Thơ Kiều phê án 308 Thơ hỏi sư 309 Quan đốc có số đào hoa 310 Thơ tặng người cùng cảnh 311 Một cũng đủ rồi 312 Nghe thơ đoán người 313 Hai nhà thơ lớn gặp nhau 314 Nam Đàn tứ hổ là đây 315 Trời xanh còn hãm anh hùng 316 Chị em cất gánh sơn hà 317 Làm thơ dựa ý vào ca dao 318 Mặc ai khanh tướng công hầu 319 Câu hát đoán tên 320 Thơ Kiều gửi gắm tâm sự 321 Nhuyễn Kiều 322 Thuyền quyên với anh hùng 323 Áo bào hốt bạc 324 Thơ mừng mụ đồ

Trí thức X X X X X X X X X X X X X X

Nhà nho ẩn dật

nho tài tử X X X X X X X

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

X X X

vua Đồng khánh Trần Quang Cán Lê Sĩ Nghị Vua Thành Thái Nguyễn Thượng Hiền Đặng Nguyên Cẩn Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phạm Văn Ngôn Phạm Văn Ngôn Phạm Văn Thản

PL116

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

325 Tấn sĩ là cái gì 326 Giống Khổng Mạnh 327 Ngỏ ý bằng thơ 328 Chặt đầu Tây 329 Rau sắng chùa Hương 330 Lên bà khó lắm em ơi 331 Người tình nhân không quen biết 332 Thơ khóc thầm 333 Bài thơ năm cụ 334 Bài thơ gỡ thể diện 335 Câu hò hai bảy mười một 336 Cây không trái, gái không chồng 337 Giá quan giáo thụ bằng hai cân lợn 338 Thơ chửi chó 339 Ông thừa cái chi 340 Thơ cua chơi trăng 341 Ngó da hùm 342 Câu đối kén chồng 343 Thơ tập Kiều gỡ bí 344 Tấm vóc giá một chinh 345 Thơ nịnh sư

Trí thức X X X X X X X X X X X X X X X

X

Nhà nho ẩn dật

nho tài tử X X X X X X

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

X X

Huỳnh Thúc Kháng Trần Cao Vân Trần Cao Vân - vua Duy Tân Vua Duy Tân Tản Đà Tản Đà Tản Đà Mai Lâm Nguyễn Trọng Cần Nguyễn Kinh Nguyễn Kinh Nguyễn Kinh Ngô Tất Tố Ngô Tất Tố Phạm Văn Giai Cả Triệu Vương Tứ Đại - Nguyễn Bá Trác Văn Quế Tú Xuất Tú Xuất Tú Xuất

PL117

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

346 Câu văn ngỗ ngược 347 Thơ mắng muỗi 348 Bài thơ không được giải 349 Hoạ thơ tỏ chí hướng 350 Đu me Tây 351 Tinh sâu nghĩa đầy 352 Mạng phải cách 353 Cậu bé thầy dùi 354 Thi dịch thơ 355 Ông lão kéo xe góp chuyện văn chương 356 Tai mắt Tự lực văn đoàn 357 Người đẹp tri âm 358 Từ câu đối thành bài thơ 359 Thơ ăn mày gạo 360 Quan võ và quan thị 361 Đẹp vàng son, ngon mật mỡ 362 Nghé hầu non quan võ 363 Cô dâu gà chú rể 364 Dạy sai một chữ trừ một quan 365 Lấy thơ để chống chế 366 Dâu thử tài rể

Trí thức X X X X X X X X X X X

X X X X X

Nhà nho ẩn dật X X X X X X X X

nho tài tử X

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

X

Nguyễn Cảnh Lâm Nguyễn Cảnh Lâm Nguyễn Cảnh Lâm Khóa Yển Đỗ Bưởi Nguyễn Ái Quốc Nguyễn Ái Quốc Nguyến Bính Nguyến Bính Nguyễn Công Hoan Tự lực văn đoàn Tú Mỡ Anh Thơ Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

PL118

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

367 Quân tử cố cùng 368 Ông nghè đè ông cống 369 Thơ nhạo tri phủ 370 Chả kém gì Lý Bạch 371 Mượn dịp chửi quan 372 Mắng quan trường 373 Áo đỏ dù xanh 374 Cửa tướng nhà công 375 Thằng quan huyện 376 Trai sừng gái sỏ 377 Chữ thiên trồi đầu 378 Thợ vẽ đề thơ 379 Đề bức tranh tam giáo 380 Xuất xứ ở miệng tôi 381 Thơ bán than 382 Quan án giỏi thơ 383 Phúc đức gì mầy bố đĩ Giai 384 Hé gương 385 Họ vắt 386 Vả bây giờ 387 Cô Kiều cười

Trí thức X

X

Nhà nho ẩn X dật X X X X X X X X X X X X X X X

nho tài tử

Đạo đức Nghệ nhân dân gian X X X X

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Nguyễn Đăng Giai Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

PL119

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

388 Hương thừa thoang thoảng 389 Bảy con khỉ 390 Âu yếm vòng ngoài 391 Cành kia cội này 392 Gái Nội Duệ Cầu Lim 393 Biết rùa mô meo mà tìm 394 Tên cha thằng bày 395 Văn tế Ngạc Nhe 396 Thơ vịnh vườn bách thú 397 Quý nhất đầm 398 Thơ thi vịnh Hiệp Phật 399 Câu hát quốc sự 400 Long Biên ái hoa hội 401 Thơ vịnh văn miếu 402 Đại lai tiểu vãng 403 Đại điểm quần thần 404 Chết cha dân 405 Câu đối đọc lái 406 Ước con ngu dốt làm quan 407 Ba vợ chồng đều hay thơ 408 Thơ gạ gẫm

Nhà nho ẩn dật X X X X X X X X X X X X X X

nho tài tử

Đạo đức Nghệ nhân X dân X gian X X X X X

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

Trí thức

PL120

Stt

Nhân vật

Tên truyện

Ngông Nhà

409 Thơ vịnh cảnh bình than 410 Ai ve con mụ 411 Câu đối hát giặm 412 Quý vật tặng quý nhân 413 Câu đối cô hàng hương 414 Học thì dốt, việc thì bỏ 415 Naăm canh chỉ sợ gà 416 Chánh tổng thâu đào 417 Nhà muôn cuốn sách 418 Đầu cha quan lớn 419 Câu thơ khó hiểu 420 Vạn lý trường thành 421 Thiên lý nhân lương 422 Mẫu phối Mạnh Đức 423 Miêệng ông quan huyện Thạch Hà 424 Mạc bất hà như 425 Đồ nọ tưởng đồ kia thắc mắc 426 Tớ bán cho ai cái khố rách này 427 Phê đơn li dị 428 Thơ thẩn làm chi 429 Nghé non là vật vô tri

Trí thức

Nhà nho ẩn X dật X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X

nho tài tử

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

PL121

Stt

Tên truyện

Nhân vật

Ngông Nhà

Trí thức

Nhà nho ẩn X dật X X X X X X X X X X X X

nho tài tử

Đạo đức Nghệ nhân dân gian

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Hồ Xuân Hương Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

430 Câu hát có hậu 431 Thơ thăm vợ 432 Thơ nói mát 433 Mượn vai hề chửi đổng 434 Dịch thơ chửi Tứ tham 435 Nhà cổ nguyệt 436 Thơ con cóc 437 Thơ vịnh Quan Công 438 Thơ khuyên nhủ của thầy đồ 439 Thơ con có lặn lội bờ sông 440 Bài tán chuồn chuồn 441 Văn luận giải cái rắm 442 Thơ của cô hàng nem

PL122

Công trình Giai thoại folklore của Vũ Ngọc Khánh:

Stt

Tên truyện

Nhân vật

ngông

đạo đức

nhà nho tài tử

nhà nho ẩn dật

nghệ nhân dân gian

trí thức nổi tiếng

X

Bà Triệu

X

Hồ Quý Ly

1 Lệnh ông không bằng cồng bà 2 Giết con mà lấy uy lòng 3 Câu hát ấy của ai 4 Cắt cỏ bồ đề cho ngựa của ai 5 Phải là con mẹ con cha 6 Chơi với kẻ sốm không ốm cũng què 7 Bảy làng gà, ba làng hóp 8 Ngưởi Nghệ An, gan Thạch Hà 9 Đánh giặc họ Đinh, làm quan họ Đặng 10 Tể tướng vạn hà thiên hạ âu ca

X X X X X X X X

Khuyết danh Võ Uy Lê Thánh Tông Lê Lợi Vũ Đình Cung Nguyễn Hữu Cầu Đinh Văn Tả Nguyễn Quán Nho

Thiếu Kim Văn đỗ tiến sĩ, mất sáu tiền được bà Nghè

11 12 Bùng bình chi tướng, uýnh ướng chi quan 13 Mừng xuân có pháo có nêu 14 Quan hộ được tha, quan gia vạn tuế 15 Một nhà sinh được ba vua 16 Nực cười hai bảy mười ba 17 Trường An tứ hổ

X X

X

X X

Nguyễn Bá Dương ông Chảng Trần Tử Ca Đề đốc Hộ thành các vua nhà Nguyễn Sô – nhi Vũ Diễm, Nguyễn Bá Lân

X X

PL123

Stt

Tên truyện

Nhân vật

ngông

đạo đức

nhà nho tài tử

nhà nho ẩn dật

X

nghệ nhân dân gian

18 Nam Đàn tứ hổ

Phan Bội Châu, Nguyễn Đính Sang,…

trí thức nổi tiếng

19 Quảng Nam tứ hổ 20 Nói khoác tận cung vua 21 Tại sao hội thi nói khoác làng Đông An bị vỡ 22 Ai nói khoác 23 Da trắng 24 Nói khoác lừa quan 25 Thua kiện quay ra được kiện 26 Khoai nhà em dẻo lắm 27 Đĩa lưỡi chuột 28 Bạn học của quan 29 Những câu hát gỡ bí 30 Vẫn những câu hát gỡ bí 31 Những câu hát hóc 32 Cau khô và cau nàng 33 Chùm hum cúi xuồng 34 Anh con đối tiền 35 Đát đặng thì đan

X

Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp,… Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

X

X X X X X X X X X X X X X X X

PL124

Stt

Tên truyện

Nhân vật

ngông

đạo đức

trí thức nổi tiếng

36 Ba vạn chín nghìn 37 Máu 38 Vải lộp ô nàng lấy ở đâu ra? 39 Câu hát Dùi Chiêng 40 Tình tui với mụ 41 Mặn và ngọt 42 Đít Lý Râu, đầu Áng Cộng 43 Ba đấm như một đạp 44 Trán khỉ mặt rồng 45 Đánh quan quan đánh 46 Tiếng Pháp vào dân ca đối đáp 47 Chia gà trong cỗ tết 48 Căng buồm mời rượu, gánh gạo lội sông 49 Ai ve con mụ 50 Thi tài kết nghĩa 51 Con trâu là vật vô tri 52 Đi khắp được vợ 53 Câu đối hát giặm 54 Nét hóm hỉnh của cụ đốc Phù Quang 55 Đã chào thì tặng 56 Run như cầy

X X X X

nhà nho tài tử

nhà nho ẩn dật X X X X

X X X X

nghệ nhân X dân gian X X X X X X X X X

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh ông Tư Khuyết danh Khuyết danh Ông Chắm Tế Đặng - Thượng Đàn Cô Son - vua Minh Mạng Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Lê Quý Đôn Khuyết danh Bế Văn Phùng Khuyết danh Út Quàng Hậu Khuyết danh Lê Quýnh Khuyết danh Khuyết danh

PL125

Stt

Tên truyện

Nhân vật

ngông

đạo đức

trí thức nổi tiếng

57 La Qua - Phước Chỉ 58 Tao kéo mày về 59 Hương và trăng sao 60 Thì muốn thì theo 61 Rất mực thanh cao 62 Dâng lệ Phương Hoa 63 Than lửa, bút nghiên 64 Có râu nên thoát tội 65 Ba công 66 Chánh tổng thâu đào 67 Ba đoạn tre, muôn quyển sách 68 Mẹ học trò, cha quan lớn 69 Trăng lộn đèn dài 70 Vạn lý trường thành 71 Thiên lý nhân lương 72 Mẫu phối Mạnh Đức 73 Sau trước, xuống lên 74 Thạch Hà - Kim Động 75 Gia đạo hưng 76 Tương hữu tương vô 77 Đại lai tiểu vãng

X

nhà nho tài tử

nhà nho ẩn X dật X X X X X X X X X X X X X X X X

X

nghệ nhân dân gian X X

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Phương Hoa Đoàn Hy Trần Ngọc Dư Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Nguyễn Thân Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

PL126

Stt

Tên truyện

Nhân vật

ngông

đạo đức

trí thức nổi tiếng

78 Giai sĩ hiên 79 Mạt bất hà như 80 Kỳ nhân như ngọc 81 Thể quần thần 82 Những câu thơ chống thần 83 Mồ hôi thần 84 Đồ nọ tưởng đồ kia thêm thắc mắc 85 Câu chuyện cấm quần không đáy 86 Ông thừa 87 Thơ mừng đám cưới đặc biệt 88 Hỡi cụ hỡi nàng 89 Cụ chửa về 90 Đám rước quan 91 Phê đơn li dị 92 Xê ra để chị về cho sớm 93 Cu li và phi lu 94 Văn tế một viên tướng Pháp 95 Cô hàng nem cảnh cáo các nhà thơ 96 Thơ năm cụ 97 Ba ông bà đều là thi sĩ 98 Cái quý giá của chức câu đương

nhà nho tài tử

nhà nho ẩn X dật X X X X X X X X X X X X X X X X X

X

X X

nghệ nhân dân gian

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

PL127

Stt

Tên truyện

Nhân vật

ngông

đạo đức

trí thức nổi tiếng

99 Ra ngõ gặp gái việc gì mà kiêng 100 Ngựa về đường Bưởi 101 Mũi tên bay từ bờ sông Lương 102 Ôm đầu đã đứt 103 Nam Nam lại có đứa nào cao hơn ta? 104 Bát canh lươn 105 Chính tôi phải chịu ơn quan bác 106 Phạm Công Trứ xử kiện 107 Bà mẹ Vạn Hà 108 Thế nào mới thực là vẻ vang 109 Cho con cái kết hôn với nhau 110 Chỉ tại nàng yêu cây mía 111 Người đào ao xử kiện 112 Lũ gian tham đâu, vào chỗ đứng 113 Một cách tìm hiểu và dạm vợ cho con 114 Xem cái rỗ kia kìa 115 Bọn kẻ trộm chúng tôi làm đấy 116 Dạ, tôi chỉ làm đến tể tướng thôi 117 Vua Quang Trung và nhân dân 118 Vụ án tổ tôm 119 Hỡi người mặt trắng râu xanh

X X X X

X

nhà nho tài tử

nhà nho ẩn dật X

X X X X X X X X X X X X X X

nghệ nhân dân gian X

Đào Sư Tích Khuyết danh Liễu Thăng Liễu Thăng Liễu Thăng Bùi Cầm Hổ Trần Dực Phạm Công Trứ Nguyễn Quán Nho Nguyễn Khải Khuyết danh Ngọc Liệu Nguyễn Văn Giai Khuyết danh Nguyễn Công Hoàn Nguyễn Huy Lượng Dương Chung Tú Nguyễn Văn Giai Vua Quang Trung Đinh Nhật Thận Khuyết danh

PL128

Stt

Tên truyện

Nhân vật

ngông

đạo đức

trí thức nổi tiếng

120 Mẹ tôi lấy vua thì tôi là con vua 121 Cây roi mây cuốn theo tấm lụa 122 Câu kê chẳng thấy, thấy đầm xòe 123 Tri huyện chiếu lệnh phạt đức ông 124 Người cuồng ở Bình Định 125 Cô Miên ngủ một mình 126 Bà Gồm và mười hai nong cơm 127 Phạt mười roi, thường mười lạng 128 Xử Tây 129 Con ta biết trung là hiếu rồi 130 Cô bán cơm gan góc 131 Đôi ta cùng nợ nước non 132 Đồ Nghệ xưng vua 133 Kỳ tài hầu 134 Bức tranh quả dưa 135 Gia đình đồng hồ 136 Bác thợ may trí thức 137 Thợ rèn vụ quang 138 Cậu Hai Hót 139 Nước ngoài khác, nước mình khác 140 Thắp hương cúng thầy để chữa văn thầy

X

X

nhà nho tài tử

nhà nho ẩn dật X

X X X X X X X X X X X

nghệ nhân dân gian X X X X X X X

Nguyễn Văn Tường Trần Bích San Khuyết danh Phan Văn Ái Khuyết danh Bà Ba Cai Vàng Bà Gồm Khuyết danh Lê Xuân Mai Trần Chí Thiện Khuyết danh Cô Tám chợ Tràng Đinh Văn Thụ Tô Phú Vượng Đào Thúc Kiên Khuyết danh Nguyễn Chí Lăm Khuyết danh Hai Hót Bà Từ Dụ Đào Tấn

PL129

Stt

Tên truyện

Nhân vật

ngông

đạo đức

trí thức nổi tiếng

nhà nho tài tử

nhà nho ẩn dật

141 Trên vua dưới là ai? 142 Người lạ kẻ quen 143 Tài ứng diễn của Hứa Văn 144 Đã nóng lên thì còn biết thời đại nào 145 Ông thương bạc 146 Vật gì vừa đực vừa cái 147 Đố là cái chi 148 Thùng không 149 Da bố mi đó à? 150 Kinh nghiệm thử thách các quan 151 Ông ỉa mà xáp cái gì? 152 Tài ứng biến 153 Cho tớ hút một hơi 154 Lại một cách ứng biến khác 155 Cứu nguy trên sân khấu 156 Hai tội của Trọng Thủy 157 Thầy Nghêu thử mít 158 Hói Kệ - Khe Giang 159 Cổ Đô - Trình Xá 160 Trâu thiến - Ngựa cương 161 Đối thế nào là chỉnh

nghệ nhân X dân gian X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X

Khuyết danh Khuyết danh Hứa Văn Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

PL130

Stt

Nhân vật

Tên truyện

ngông

đạo đức

162 Xẩm đội cấn

Khuyết danh

nhà nho tài tử

nhà nho ẩn dật

nghệ nhân X dân gian

trí thức nổi tiếng

Vai hề dở ngưởi sau khủng bố Xô Viết Nghệ Tĩnh

163 164 Tiếng Tây vào sân khấu tuồng 165 Cành kia cội này 166 Hé gương 167 Hương thừa 168 Âu yếm vòng ngoài 169 Vả bây giờ 170 Bảy con khỉ 171 Cô Kiều cười 172 Phải mười lăm năm nữa mới tìm thấy 173 Vì sao Tự Đức ghét Nguyễn Du 174 Đau đớn, thẹn thùng 175 Ăn làm sao, nói làm sao 176 Kiều đi Lạng Sơn 177 Kiều yêu ai nhất 178 Kiều đuổi cò 179 Kiều dạy trâu 180 Có lẽ cụ Nguyễn Du ác với chúng mình 181 Kiều mách nước cờ

X X X X X X X X X X X X X X X X X X X

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Cụ Quả Ngôn Khuyết danh Ông Nhiêu Tĩnh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh

PL131

Stt

Tên truyện

Nhân vật

ngông

đạo đức

trí thức nổi tiếng

182 Trăng thề hùm củi 183 Duyên hội ngộ, đức cù lao 184 Bị đánh hỏng cử nhân vì đọc một câu Kiều 185 Đọc như thế thì Kiều hóa ra con mèo 186 Mặt mày như thế thì gớm chứ đẹp đẽ gì 187 Không phải đáng ghét mà chính là đáng trọng 188 Hoạn Thư đâu phải người nham hiểm 189 Thúy Kiều con ai? 190 Ai là chị, ai là em? 191 Thúy Kiều làm nghề gì? 192 Nàng Kiều có con không? 193 Thúy Kiều có mắc bệnh gì không? 194 Kim Trọng bao nhiêu tuổi? 195 Kim Trọng làm nghề gì? 196 Từ Hải 197 Hồ Tôn Hiến 198 Tập Kiều phê án 199 Tài sắc anh hùng 200 Lời dặn cuối cùng 201 Phan Bội Châu nhờ Kiều trả lời đồng bào 202 Phan Bội Châu với truyện Kiều

X X

nhà nho tài tử X

nhà nho ẩn dật

nghệ nhân X dân gian X X X X X X X X X X X X X X X X X

Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Phạm Văn Ngôn Khuyết danh Phan Bội Châu Phan Bội Châu

PL132

Stt

Nhân vật

Tên truyện

ngông

đạo đức

Nguyễn Đức Cảnh

X

203 Nguyễn Đức Cảnh nhờ Kiều từ biệt mẹ

nhà nho tài tử

nhà nho ẩn dật

nghệ nhân dân gian

trí thức nổi tiếng

Nguyễn Ái Quốc và Trần Phú trong giấc 204 mơ Kiều 205 Kiều đi đánh Mỹ 206 Mai sau dù có bao giờ 207 Làng Nhân 208 Laàng Hữu Lễ 209 Làng Tiên Nông 210 Laàng Trò 211 Làng Năng Cát 212 Tại sao có tên là Chòm Thiu 213 Tại sao có tên là làng Bà 214 Làng Sắt 215 Làng Bất Căng 216 Xử kiện ruộng dưa 217 Giả mù không thoát tội 218 Khoan khoan con nói 219 Bụng sình 220 Ăn mày và chó đói 221 Đình và Võ 222 Gánh nước chứ không bán nước

X X X X X X

X X X X X X X X X X X X

X X

Nguyễn Ái Quốc Khuyết danh Khuyết danh Lê Lợi Lê Lợi Lê Lợi Lê Lợi Lê Lợi Lê Lợi Lê Lợi Lê Lợi Lê Lợi Nguyễn Đăng Khoa Nguyễn Đăng Khoa Lê Trung Đình Lê Trung Đình Lê Trung Đình Lê Trung Đình Lê Trung Đình

PL133

Stt

Tên truyện

Nhân vật

ngông

đạo đức

trí thức nổi tiếng

223 Bầu phải đi với bí 224 Tình văn chương 225 Cua chơi trăng 226 Kim Luông có gái mỹ miều 227 Ta có biết mặt mũi đứa nào đâu? 228 Mười bài liên hoàn 229 Trả tiền đò cho trẫm 230 Ngài cho dưới mắt không có người ư? 231 Trời xanh còn hãm anh hùng 232 Chị em cất gánh 233 Khăn gói qua sông 234 Tỏ chí bình sinh 235 Đoán tên 236 Tôi sẽ ăn mừng 237 Lạy cây 238 Câu đối Tết 239 Dưới phường khất cái ta đùa ta thân 240 Tớ không phải là phu 241 Câu đối chửi quan 242 Làm hộ đơn cho người có trâu chết 243 Hồng cậy tứ bàng

X X X X X X X X X X

X X

nhà nho tài tử X X X X X

nhà nho ẩn dật

X X X X

nghệ nhân dân gian

Cả Triệu Cả Triệu Cả Triệu vua Thành Thái vua Thành Thái vua Thành Thái vua Thành Thái Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Sáu Mới Sáu Mới Sáu Mới Phan Điện Phan Điện Xiền Ngộ Xiền Ngộ Xiền Ngộ

PL134

Stt

Tên truyện

Nhân vật

ngông

đạo đức

trí thức nổi tiếng

244 Hương hỏa chi mày 245 Câu đối dán rạp tuồng 246 Vinh quan sòi 247 Viết chữ thờ 248 Đại dĩ 249 Phủ Tuấn xử kiện 250 Trâu phải được với chủ nó 251 Đánh lý trưởng 252 Bầy gà chức sắc 253 Mừng đám cưới 254 Bê về với bò mẹ 255 Đích thị kẻ bắt gà 256 Tay nào chặt chuối 257 Chữa bệnh oan gia 258 Hỏi vợ cho quan phủ 259 Ai thua cuộc 260 Chuyện cô Nhẫn 261 Em chỉ cần xắn váy 262 Đái mau cho tao uống 263 Chuyện ông Trần Hàn 264 Trạng Hiền

X X X X X X

X X X X

nhà nho tài tử

nhà nho ẩn dật

X X X X X

nghệ nhân dân gian X X X

Tuần Dĩnh Tuần Dĩnh Tuần Dĩnh Phủ Tuấn Phủ Tuấn Phủ Tuấn Phủ Tuấn Thủ Thiệm Thủ Thiệm Thủ Thiệm Thượng Nành Thượng Nành Thượng Nành Mân Nhụy Mân Nhụy Mân Nhụy Cô Nhẫn Cố Duồn Cố Duồn Trần Hàn Nguyễn Hiền

PL135

Stt

Tên truyện

Nhân vật

ngông

đạo đức

trí thức nổi tiếng

265 Nỗi oan sư thầy 266 Trạng Lường 267 Cân voi đo giấy 268 Trạng Ăn 269 Mạo trạng nguyên 270 Bảng trạng thi tài 271 Trạng Bịu 272 Trạng Gióng 273 Trạng Quét 274 Trạng Vật 275 Trạng Cờ 276 Để đất phát thợ cạo 277 Để đất phát cho nghề đan bồ 278 Để đất phát cho dân phó cối 279 Trạng Tư Thiên 280 Trạng Trịnh 281 Trạng Khiếu 282 Chú bé con nhà hàng thịt 283 Trở thành trạng nguyên 284 Trạng Lợn đi sứ 285 Đào trường thọ

X X X X X X X X X X X X X X X

X

nhà nho tài tử

nhà nho ẩn dật

X X

nghệ nhân dân gian

Huyền Quang Lương Thế Vinh Lương Thế Vinh Lê Nại Nguyễn Giản Thanh Đỗ Uông - Phạm Trấn Nguyễn Đăng Đạo Đặng Công Chất Trạng Quét Võ Phong Võ Huyên Trạng Bờ Ao Trạng Bờ Ao Trạng Bờ Ao Bế Văn Phùng Trạng Trịnh Trạng Khiếu Trạng Lợn Trạng Lợn Trạng Lợn Trạng Quỳnh

PL136

Stt

Tên truyện

Nhân vật

ngông

đạo đức

trí thức nổi tiếng

286 Tiên sư thằng Bảo Thái 287 Lỡm quan thị 288 Lại lỡm quan thị 289 Những bài thi bất hủ 290 Coi thử miệng quan 291 Đánh tráo thư 292 Tượng đá mất thiêng 293 Cúng thành hoàng 294 Vay tiền bà chúa Liễu 295 Trả ơn bà chúa Liễu 296 Mừng chúa thắng trận 297 Bắt sống Ba Bướu Tư Ngang 298 Tú Xuất đóng cũi giải nạp về tỉnh thành 299 Lột quần thầy lý 300 Lột khăn lấy giầy cụ lớn 301 Lột áo quan hàn 302 Chửi thi 303 Lại một cuộc chửi thi khác 304 Chọc con ông đốc học 305 Vén váy quần bà 306 Tú Xuất lật váy bà quan

X X X

nhà nho tài tử

nhà nho ẩn dật

X X X X X X X X

nghệ nhân dân gian

Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Trạng Quỳnh Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất

PL137

Stt

Tên truyện

Nhân vật

ngông

đạo đức

trí thức nổi tiếng

X X X

nhà nho tài tử

nhà nho ẩn dật

nghệ nhân dân gian

Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất Ba Giai - Tú Xuất

307 Đòi quan 308 Lấy quần chưng phơi ngoài sào 309 Đòn trừng phạt lão bán tơ 310 Quan phủ bắt đám bạc 311 Cặp vịt đẻ một đêm năm trứng 312 Trò lục sở 313 Tranh thối tranh thơm 314 Hễ ai mà nói dối ai 315 Tấm vóc đáng giá đồng chinh 316 Dại khôn 317 Chọc sư nịnh sư 318 Phúc đức gì mày

PL138

PHỤ LỤC 3: HỆ THỐNG VĂN BẢN VÀ KẾT QUẢ KHẢO SÁT TÌNH TIẾT CỦA CÁC TIỂU LOẠI, NHÓM GIAI THOẠI CÓ TRONG LUẬN ÁN

Các công trình trong phạm vi khảo sát của luận án gồm: 1. Giai thoại văn học Việt Nam (GTVHVN) của các tác giả Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh Mại; 2. Giai thoại làng Nho (GTLN) của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc; 3. Giai thoại văn học Việt Nam, Tổng tập Văn học dân gian Việt Nam, Tập 11, (TTGT VHVN) của Kiều Thu Hoạch chủ biên; 4. Kho tàng giai thoại Việt Nam (gồm 2 tập) (KTGT) của Vũ Ngọc Khánh; 5. Giai thoại folklore Việt Nam (GTFL) của Vũ Ngọc Khánh; 6. Giai thoại văn hóa dân gian người Việt (GTVHDGNV) của Triều Nguyên; 7. Giai thoại Nguyễn Công Trứ (GTNCT) của Phan Thư Hiền; 8. Nghìn năm bia miệng (NNBM) của Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường.

1. GIAI THOẠI VĂN HỌC 1.1 Giai thoại văn học về thách đố, đối chọi văn chương

Hệ thống nhóm giai thoại văn học về thách đố, đối chọi văn chương được chọn lọc và khảo sát:

TÌNH TIẾT CHÍNH

STT

TÊN TRUYỆN

NGUỒN

NVĐT tức tối

NVC thất bại

NVC thách đố NVĐT

NVC bị thách đố

NVC giành chiến thắng

NVC được thán phục

NVC được ban thưởng

NVC được tha tội

NVC bị trừng phạt

NVC được nhờ vả giải câu đố

1 Bác lái đò hay chữ

X

X

X

[1] [1]

2 Trạng nguyên về học lễ

X

X

X

X

PL139

[1]

3 To đầu mà dại

X

X

X

[1]

4 Ra đối dễ, đối đối khó

X

X

X

[1]

5 Trăng lả cung, đạn là sao

X

X

X

X

[1]

6 Chơi chữ - chọi chữ

X

X

X

[1]

7 Lưỡng quốc trạng nguyên

X

X

X

X

[1]

8 Chưa biết mèo nào

X

X

X

[1]

9 Chim chếch - ếch ngộp

X

X

X

[1]

10 Câu đối ghép tên người

X

X

X

[1]

11 Anh lính với hội Tao Đàn

X

X

X

X

[1]

12 Sư sử sứ, phụ phù phu

X

X

X

X

[1]

13 Mười tám bát cơm riêu

X

X

X

[1]

Khiêng cáng lấy vợ

14

con quan

X

X

X

X

[1]

15 Thơ nằm co

X

X

X

X

X

[1]

16 Bảng, trạng tranh nhau

X

X

X

[1]

17 Ăn khỏe thơ tài

X

X

X

X

[1]

18 Quan tài tài quan

X

X

X

X

[1]

19 Rêu xanh máu đỏ

X

X

X

X

[1]

20 Quân tử chí, xã tắc thần

X

X

X

[1]

21 Khoai Đơ, lính Mỗ

X

X

X

X

PL140

[1]

22 Tể tướng và thầy đồ

X

X

X

[1]

23 Nối thơ Lê Thánh Tông

X

X

X

X

[1]

24 Ếch ngồi đáy giếng

X

X

X

X

[1]

25 Phong nguyệt vô biên

X

X

X

X

[1]

26 Hay cả ý lẫn lời

X

X

X

X

[1]

27 Rắn trắng rồng vàng

X

X

X

[1]

28 Hai cô Điểm, hai ông Luân

X

X

X

[1]

29 Không ham phú quý

X

X

X

X

[1]

30 Vế đối hai nghĩa

X

X

X

X

31 Một hóa hai

X

X

X

[4] [4]

32 Dồn đối phương vào chỗ bí

X

X

X

X

[4]

33 Sứ Tàu bị lỡm

X

X

X

[1]

34 Nhờ có râu mà thoát đòn

X

X

X

[1]

35 Cha con đọ tài nhau

X

X

X

[1]

Hà túc toán giã,

36

bất diệc lạc hồ

X

X

X

[1]

37 Ba sông bốn mắt

X

X

X

[1]

38 Bài thơ tự trách mình

X

X

X

X

[1]

39 Thư mượn áo cầu

X

X

X

X

X

[4]

Căng buồm mời rượu, gánh

40

gạo lội sông

X

X

X

PL141

[4]

41 Thiên hạ vô tri vấn bảng Đôn

X

X

X

42 Không biết chữ chi

X

X

[5]

43 Xem cá, xem sao

X

X

X

[4] [1]

44 Cốt đối ý

X

X

[1]

45 Đánh nhau bằng cả câu đối

X

X

X

[1]

46 Miêng kẻ sang, đồ nhà khó

X

X

X

[1]

47 Chó khôn chớ cắn càn

X

X

X

X

[1]

48 Tú Cát - Bọ hung

X

X

X

X

[1]

49 Dở nguyên quen lạ

X

X

X

[1]

50 Một thí sinh bướng bỉnh

X

X

X

[1]

51 Bí quá hóa hay

X

X

X

[1]

52 Câu đối trên văn hồ

X

X

[1]

53 Bài thơ đem lại quốc thể

X

X

X

[1]

54 Chết vì câu đối

X

X

X

[1]

Đối đáp trong chốn

55

quan trường

X

X

X

X

[1]

56 Được tha phạt vì câu thơ hóm hỉnh

X

X

X

X

[1]

57 Khinh thường quan võ

X

X

X

X

[1]

58 Anh hùng đè xuống dưới

X

X

X

[1]

59 Đối chọi với sư

X

X

X

[1]

60 Không ưa nịnh bề trên

X

X

X

PL142

[1]

61 Thơ vịnh người đá

X

X

X

X

[1]

Cao Bá Quát và Nguyễn

62

Văn Siêu

X

X

X

63 Ứng đối với chủ

X

X

X

X

[7] [7]

64 Đối đáp với thầy học

X

X

X

[7]

65 Hậu sinh khả quý

X

X

X

X

[7]

66 Đánh trống trước cửa sấm

X

X

X

67 Ở truồng xem vua

X

X

X

X

[1] [1]

68 Khí phách ngang tàng

X

X

X

X

[1]

69 Một bọc sinh đôi

X

X

X

[1]

70 Khóc mướn kiếm ăn

X

X

X

71 Câu thơ thi xã

X

X

X

[4] [1]

72 Một lũ ăn mày, một lũ quan

X

X

X

[1]

73 Phó cối đề thơ

X

X

X

[1]

74 Gà câu đối cho trò

X

X

[1]

75 Bò đen bò vàng

X

X

X

[1]

76 Bức tranh sơn thủy kỳ lạ

X

X

X

[1]

77 Thơ răng cắn lưỡi

X

X

X

X

X

[1]

78 Ghẹo sư

X

X

X

[1]

79 Cọp bắt thầy tu

X

X

X

[1]

80

Chim bách thanh

X

X

X

[1]

81 Thi câu đối

X

X

X

PL143

[1]

82 Da báo như da chó dê

X

X

X

[1]

83 Chặt đầu Tây

X

X

X

[1]

84 Giống Khổng Mạnh

X

X

X

85 Mời chú khách về

X

X

X

[4] [4]

86 Răng cắn lưỡi

X

X

X

X

X

[4]

Cuộc bút chiến bằng thơ sôi

87

nổi ở miền Nam

X

X

X

[4]

88 Từ chối vào kinh

X

X

X

[4]

89 Trổ tài trước cụ thám

X

X

X

[4]

90 Ăn mày và chó đói

X

X

X

[4]

91 Đình và võ

X

X

X

[4]

92 Câu đối hồi còn bé

X

X

X

[4]

93 Chính là tôi

X

X

X

[4]

94 Cụ Hồ thách đối

X

X

X

PL144

Kết quả tình tiết và tỉ lệ:

Tên tình tiết

Tần số

Tỉ lệ

Stt 1 2

NVC chủ động thách đố NVĐT NVC bị thách dố bởi NVĐT

10/94 82/94

10,6% 87,2%

3 4 5 6 7 8 9 10

NVC là người duy nhất giải được câu đố NVC giành chiến thắng trong cuộc chiến văn chương NVC thất bại trong cuộc chiến văn chương NVC được thán phục NVC được ban thưởng NVC được tha tội NVC bị trừng phạt NVĐT tức tối/bỏ đi

3/94 91/94 3/94 78/94 20/94 11/94 5/94 10/94

3,2% 96,8% 3,2% 82,9% 21,3% 11,7% 5,3% 10,6%

PL145

1.2 Giai thoại văn học về ứng tác văn chương Hệ thống văn bản được chọn lọc khảo sát

TÌNH TIẾT

STT

TÊN TRUYỆN

NGUỒN

Làm thơ tỏ tình

Làm thơ cảm khái

Làm thơ thử lòng

Đối đáp văn chương

Làm thơ tiễn biệt

Làm thơ ca ngợi

Làm thơ tự trào

Làm thơ tuyệt mệnh

Làm thơ mỉa mai, châm biếm

Làm đơn, phê đơn kiện bằng thơ

TÊN NHÂN VẬT

1 Bị trói vẫn làm thơ

Lý Công Uẩn

X

[1] [1]

Nam quốc sơn hà nam đế cư

2

Lý Thường Kiệt

X

[1]

Chương Dương - Hàm Tử

3

Trần Quang Khải

X

[1]

4 Hoa sen trong giếng ngọc

Mạc Đĩnh Chi

X

[1]

5 Cười ông quan hai vợ

Mạc Đĩnh Chi

X

[1]

6 Ra câu đối dò xét con

X

Hồ Quý Ly

[1]

7 Ba ông tham thế

X

Lê Thánh Tông

[1]

8 Nỗi oan của nhà sư

Huyền Quang

X

[1]

10 Ngựa đá lấm bùn

Trần Nhân Tông

X

[1]

11 Đọc thơ chê Hạng Võ

Hồ Tông Thốc

X

[1]

12 Chữ thơ Vương Bột

Hồ Tông Thốc

X

[1]

13 Gửi trứng cho ác

Trần Nguyên Đán

X

[1]

14 Thơ của người nghĩa sĩ

Nguyễn Biểu

X

PL146

[1]

15 Lòng ta không phải là đá

X

X

Lê Hiến Phủ

[1]

Muốn chết vác mặt làm quan Minh triều

16

X

Hồ Quý Ly

[1]

17 Thơ đùa ả bán chiếu

X

Nguyễn Trãi

[1]

18 Văn tức là người

X

Nguyễn Giản Thanh

[1]

19 Ngâm thơ cự thần

X

X

Nguyễn Thái Thường

[1]

Câu chuyện bài phú Tần quan văn kê

20

X

Lương Hữu Khánh

[1]

21 Ta chẳng chịu phong

X

Đào Duy Từ

[1]

22 Bây giờ em đã có chồng

X

Đào Duy Từ

[1]

23 Tài nịnh

X

Nguyễn Khản

[1]

24 Câu thơ cảnh tỉnh

X

Đặng Kim

[1]

25 Xơi hai trứng

X

Trạng Quỳnh

[1]

26 Lấy thơ để chống chế

X

khuyết danh

[1]

27 Chả kém gì Lý Bạch

X

khuyết danh

[1]

28 Chữ thiên trồi đầu

X

khuyết danh

[1]

29 Xuất xứ ở miệng tôi

X

khuyết danh

[1]

30 Bài thơ leo đèo

X

Nguyễn Thiếp

[1]

Tiến sĩ triều Lê, khăn triều Nguyễn

31

X

Trần Danh Án

[1]

32 Chim trong lồng

X

Nguyễn Hữu Cầu

[1]

33 Thơ bán than

X

khuyết danh

[1]

34 Vịnh tranh tố nữ

X

Phạm Thái

[1]

35 Đọc thơ chữa thẹn

X

Hồ Xuân Hương

PL147

[1]

36 Mảnh tình

X

Hồ Xuân Hương

[1]

Đánh trống qua cửa nhà sấm

37

X

Hồ Xuân Hương

38 Đền Thái thú

Hồ Xuân Hương

[4] [4]

39 Khóc tổng Cóc

X

Hồ Xuân Hương

[4]

40 Cảnh cáo anh đồ

X

Hồ Xuân Hương

41 Trấn uy ba góc

X

Hồ Xuân Hương

[1] [1]

42 Chết vì bài thơ

X

Nguyễn Văn Thành

[1]

43 Câu thơ hoàng bào

X

Lê Văn Duyệt

[1]

44 Ông cống làm trâu

X

Bà huyện Thanh Quan

[1]

45 Cho Thị Đào đi lấy chồng

X

Bà huyện Thanh Quan

[1]

46 Chê khéo

X

Bà huyện Thanh Quan

[1]

47 Hạc đeo bài ngà

X

Đỗ Cao Mại

[1]

48 Lời thơ khẳng khái

X

X

Ông Trắm

[1]

49 Làm thơ khất nợ

X

Nguyễn Công Trứ

[1]

Được tha phạt vì câu thơ hóm hĩnh

50

X

Nguyễn Công Trứ

[1]

51 Say rượu đánh long thần

X

Nguyễn Công Trứ

[1]

52 Thơ trách nữ thần

X

Nguyễn Công Trứ

[1]

53 Thơ tương tư

X

Nguyễn Công Trứ

[1]

54 Trời đà biết cho

X

Nguyễn Công Trứ

[1]

55 Che miệng thế gian

X

X

Nguyễn Công Trứ

[1]

56 Bò vàng chi liếm lá

X

Nguyễn Công Trứ

PL148

[1]

57 Làm cây thông đứng giữa trời mà reo

X

Nguyễn Công Trứ

[1]

58 Con mèo nằm bếp

X

Nguyễn Công Trứ

[1]

59 Đả lối văn sáo rỗng

X

Nguyễn Công Trứ

60 Bỗng chốc nên quan

X

Nguyễn Công Trứ

[7] [7]

61 Có rứa rồi ra mới được mùa

X

Nguyễn Công Trứ

[7]

62 Tức cảnh vụ cháy nhà

X

Nguyễn Công Trứ

[7]

63 Ngày Tết cắm đất hương hỏa

X

Nguyễn Công Trứ

64 Du xuân gặp kẻ lắm mồm

X

Nguyễn Công Trứ

[7] [7]

65 Chim bay về núi

X

Nguyễn Công Trứ

[7]

66 Duyên nợ với hát ả đào

X

Nguyễn Công Trứ

[7]

67 Trí sĩ về hưu

X

Nguyễn Công Trứ

[7]

68 Phỉ báng quan Bố chánh Hà Tĩnh

X

Nguyễn Công Trứ

69 Văn hay chữ xấu

X

Nguyễn Văn Siêu

[1] [1]

70 Siêu đồng siêu đất

X

Nguyễn Văn Siêu - Cao Bá Quát

[1]

71 Thầy lý bớt đi rồi

X

Cao Bá Quát

[1]

72 Bịa thơ tài hơn vua

X

Cao Bá Quát

[1]

73 Tự tiện chữa văn vua

X

Cao Bá Quát

[1]

74 Trên dưới đều chó

X

Cao Bá Quát

PL149

[1]

75 Bài thơ không họa nổi

X

Huỳnh Mẫn Đạt

[1]

76 Thơ tạ hương đảng

X

Học Lạc

[1]

77 Bị ngồi trăng

X

X

Học Lạc

78 Thằng Lạc

X

Học Lạc

[4]

79 Chó chết trôi

X

Học Lạc

[4] [1]

80 Anh hùng có một người

X

Tú Quỳ

[1]

81 Thơ trả lời người bạn giàu

X

X

Nhiêu Tâm

[1]

82 Một lũ ăn mày, một lũ quan

X

Nghè Tân

83 Họa thơ tự thọ của Nguyễn Công Trứ

X

Nghè Tân

[4]

84 Thơ mừng bạn đẻ con trai

X

Nghè Tân

[1] [1]

85 Đề thơ mừng thọ

X

Hoàng Phan Thái

[1]

86 Nằm cùng thì cho

X

Đinh Nhật Thận

[1]

87 Thơ con mèo

X

Phan Văn Trị

[1]

88 Đái vẽ nên rồng

X

Phan Văn Trị

[1]

89 Thơ ăn thịt Cần Đước

X

Phan Văn Trị

[1]

90 Quan án giỏi thơ

X

khuyết danh

91 Tài ứng biến bất thần

X

Phan Văn Trị

[4] [4]

92 Trách triều đình

X

Phan Văn Trị

[4]

93 Thơ… cụt cứt

X

Phan Văn Trị

[1]

Bài phú tức cảnh cô gái đẹp

94

X

Phan Hoàng Thái

[1]

Giễu lệnh cấm quần không đáy

95

X

khuyết danh

PL150

[1]

96 Chiến đấu đến cùng

X

Võ Khoa - Phan Đình Phùng

[1]

97 Thơ chửi tay sai của Pháp

X

Bà Nhu

[1]

98 Thơ bồ tiên

X

Nguyễn Khuyến

[1]

99 Đùa nhà sư móm

X

Nguyễn Khuyến

[1]

100 Tạ người cho hoa trà

X

Nguyễn Khuyến

101 Đòi xem câu đối

X

Nguyễn Khuyến

[1] [1]

102 Gặp chó

X

Nguyễn Khuyến

[1]

103 Vịnh phỗng đá

X

Nguyễn Khuyến

[1]

104 Thơ ông phỗng sành

X

Nguyễn Khuyến

[1]

105 Thơ thăm bạn mất cướp

X

Nguyễn Khuyến

106 Trời nói

X

Nguyễn Khuyến

[4] [1]

107 Áo bào hốt bạc

X

Phạm Văn Ngôn

[1]

108 Bài thơ chữa lại

X

Chu Mạnh Trinh

[4]

109 Hóa ra dưa

X

Tú Xương

[4]

110 Đi hát mất ô

X

X

Tú Xương

[4]

111 Thành pháo

X

Tú Xương

[4]

112 Dưới phường khất cái ta đùa ta thân

X

Phan Điện

[4]

113 Gửi Nguyễn Khoa Kỳ

X

Phan Điện

[4]

114 Tớ không phải là phu

X

Phan Điện

115 Thằng đếch nào chứ không phải quan

X

Phan Điện

[4]

PL151

[1]

116 Nên nghĩa trăm năm

X

Nguyễn Hữu Khanh

[1]

118 Giận đến cả Sĩ Vương

X

Nguyễn Mộng Bạch

[1]

119 Tang chở chốn quan trường

X

Dương Khuê

[1]

120 Đục chân vào đá

X

Phạm Ứng Thuần - Từ Đạm

[1]

121 Thơ vinh Kiều

X

khuyết danh

[1]

122 Một lối dịch thơ kỳ lạ

X

Từ Diễn Hồng

[1]

123 Thơ khen tri phủ tài nịnh

X

Nguyễn Thiện Kế

[1]

124 Ghẹo một trả lời hai

X

Sương Nguyệt Anh

125 Đón vua Thành Thái

X

Sương Nguyệt Anh

[4]

127 Không dùng ta lấy ai giúp nước

X

Kỳ Đồng

[4] [1]

128 Thơ điên cuồng ngu ngộ

X

Xiển Ngộ

[1]

129 Thơ chửi tri huyện

X

Kép Trà

[1]

130 Câu đối vịnh gông cùm

X

Kép Trà

131 Lời khẩu chiến dể tỏ chí mình

X

Kép Trà

[4] [4]

132 Được phép chứ sao lại cấm

X

Kép Trà

[4]

133 Chuyện ngâm Kiều

X

Kép Trà

[1]

134 Mặc thằng nghe

X

Trần Tích Phiên

[1]

135 Dịch thơ bạn xỏ bạn

X

Trần Tích Phiên

[1]

136 Thơ vịnh vườn bách thú

X

khuyết danh

[1]

137 Quý nhất đầm

X

khuyết danh

[1]

138 Thơ thi vịnh Hiệp Phật

X

Khuyết danh

PL152

[1]

139 Đào Mộng Giác

X

X

Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Kháng

[1]

140 Câu hát quốc sự

X

khuyết danh

[1]

141 Bài thơ ghi vào đá

X

Nguyễn Thượng Hiền

[1]

142 Thơ hỏi sư

X

Nguyễn Thượng Hiền

[1]

143 Quan đốc có số đào hoa

X

Đặng Nguyên Cẩn

[1]

144 Thơ tặng người cùng cảnh

X

Phan Bội Châu

[1]

146 Thơ mừng mụ đồ

X

Lê Đại

[1]

147 Tấn sĩ là cái gì

X

Huỳnh Thúc Kháng

[1]

148 Ngỏ ý bằng văn thơ

X

Trần Cao Vân

[1]

149 Long biên ái hoa hội

X

khuyết danh

[1]

150 Thơ vịnh văn miếu

X

khuyết danh

[1]

151 Thơ khóc nhầm

X

Mai Lâm

[1]

152 Bài thơ năm cụ

X

Nguyễn Trọng Cẩn

[1]

153 Sông Hương, núi Ngự

X

Thúc Giạ Thị

154 Bài thơ chữa bệnh

X

Nguyễn Khoa Vy

[4] [4]

155 Tức cảnh ở chùa

X

Nguyễn Khoa Vy

[4]

157 Thơ vịnh 12 con giáp

X

Nguyễn Khoa Vy

[4]

158 Bài thơ ngạo thiên nghịch địa

X

Nguyễn Kinh

[4]

159 Cóc mọc đuôi

X

Sư Viên Thành

[4]

160 Họa thơ Nguyễn Thượng Hiền

X

Sư Viên Thành

[4]

161 Trách học trò lười

X

Nguyễn Bỉnh Khiêm

[4]

162 Kiện nhau với thầy đồ

X

Phùng Khắc Khoan

PL153

[4]

163 Niềm vui của Nguyễn Kiều

Nguyễn Kiều - Đoàn Thị Điểm

X

[4]

164 Sữ thần áo rách nón mê

X

Trần Danh Án

[4]

165 Cái khăn triều Nguyễn

Trần Danh Án

X

[4]

167 Kỷ niệm trên đường đi sứ

Nguyễn Du

X

[4]

168 Từ biệt cố nhân

X

Nguyễn Đình Chiều

[4]

169 Đề gươm

Bạch Xỉ

X

[4]

170 Bạch Xỉ và Phan Đình Phùng

X

Bạch Xỉ

[4]

171 Khoan khoan con nói

X

Lê Đình Trung

[4]

172 Bụng sình

X

Lê Đình Trung

[4]

173 Chim trong lồng, cá trên thớt

Lê Đình Trung

X

[4]

174 Cha trẻ con già

Nhiêu Tâm

X

[4]

175 Thơ cục cứt

Nhiêu Tâm

X

[4]

176 Bầu phải đi với bí

X

Cả Triệu

[4]

177 Hỏi cố đạo

Bà Tú Ý

X

[4]

178 Đây là cửa sấm biết hay chưa

Bà Tú Ý

X

[4]

179 Nghe giảng thập điều

Đào Tấn

X

[4]

180 Thơ trung thu gửi Từ Đạm

Từ Diễn Hồng

X

[4]

181 Đơn kiện Trấn Tán Bình

Từ Diễn Hồng

[4]

182 Vịnh Lê Hoan

Nguyễn Thiện Kế

X

[4]

183 Khóc vợ

X

Nguyễn Thiện Kế

[4]

184 Tế chiêu quân

X

Nguyễn Thiện Kế

[4]

Kỳ Đồng

185 Không dùng ta lấy ai giúp nước

X

PL154

[4]

186 Mối tình tri ngộ với Phan Bội Châu

X

Hàn Mặc Tử

[4]

187 Đáp lời thầy học cũ

X

Trần Quang Cán

[4]

189 Tơ nhân sợi nghĩa dây lưng trắng

X

Lê Thị Đàn

[4]

190 Hỡi người mặt trắng râu xanh

X

Nguyễn Văn Tường

[4]

191 Mừng Trương Vĩnh Ký

X

khuyết danh

[4]

192 Tấm bia trời đánh

X

khuyết danh

[4]

193 Đả kích Cao Ngọc Lễ

X

khuyết danh

[4]

Những thơ văn sau cái chết Nguyễn Duy Hàn

194

X

khuyết danh

[4]

195 Cả nhà theo giặc

X

khuyết danh

[4]

196 Mừng xây sinh phần

X

Nguyễn Văn Đằng

[4]

197 Chế Nguyễn Phong Di

X

khuyết danh

[4]

198 Xem da cọp

X

Nguyễn Bá Trác

[4]

199 Câu thơ tỏ chí

X

Hồ Tông Thốc

[4]

200 Câu thơ ca ngợi Bùi Huy Ích

X

Hồ Tông Thốc

[4]

201 Vua Quang Trung ở trại văn chương

X

Vua Quang Trung

[4]

202 Sự biệt đãi bề tôi của vua Quang Trung

X

Vua Quang Trung

[4]

203 Đề đền Mai Hắc Đế

X

Phan Hoàng Thái

[4]

204 Thơ và cấu đối tuyệt mệnh

X

Phan Hoàng Thái

[4]

205 Thơ con muỗi

Tự Đức

[4]

207 Trăng soi vốn vách chi gieo sầu

Hồng Bảo - Tự Đức

[4]

208 Thuê Tàu đánh Tây

X

Lưu Vĩnh Phúc

[4]

209 Thách thức

X

Ông Ích Khiêm

[4]

210 Thơ cái trống

X

Trần Quý Cáp

PL155

Mấy giai thoại về thơ văn của cụ phó Bảng

211

X

Nguyễn Sinh Sắc

[8] [8]

212 Nguyễn Quang Diêu

X

Nguyễn Quang Diêu

[8]

213 Ông đồ Sáu Mới

X

Ông đồ Sáu Mới

[8]

214 Võ Sâm với Vi Yết Ma Bùi Kiệm

X

Võ Sâm

[8]

215 Người thầy thuốc vui tính

X

X

Nguyễn An Cư

216 Thơ vịnh đất sét

X

Nguyễn Sinh Sắc

[4] [4]

217 Thơ hòn non bộ

X

Hồ Chí Minh

[4]

218 Câu đối nói lên chí hướng

X

Hồ Chí Minh

[4]

219 Dịch thơ chữ Hán

X

Hồ Chí Minh

[4]

220 Bài thơ tình viết hộ

X

Hồ Chí Minh

[4]

221 Một cách phân tích, giảng giải văn xưa

X

Hồ Chí Minh

[4]

222 Hồ Chí Minh tự phong mình

X

Hồ Chí Minh

[4]

223 Hồ Chí Minh và Nguyễn Hải Thần đối đáp

X

Hồ Chí Minh

[4]

224 Sự ra đời của một bài thơ

X

Hồ Chí Minh

[4]

X

Hồ Chí Minh

225 Về quê

PL156

Kết quả tình tiết và tỉ lệ

Tần số

Tỉ lệ

STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

Tên tình tiết Làm thơ mỉa mai, châm biếm, hạ bệ Làm thơ cảm khái Làm thơ thử lòng Đối đáp, thù tạc văn chương Làm thơ tỏ tình Làm thơ tiễn biệt Làm thơ tuyệt mệnh Làm thơ ca ngợi Làm thơ tự trào Phê đơn/làm đơn kiện bằng thơ

100/225 55/225 2/225 15/225 13/225 3/225 6/225 12/225 16/225 3/225

44,4% 24,4% 0,8% 6,6% 5,7% 1,3% 2,6% 5,3% 7,1% 1,3%

2. GIAI THOẠI VĂN HÓA DÂN GIAN Nhóm giai thoại văn hóa dân gian có liên quan đến hình thức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian (hò đối đáp các vùng miền)

Hệ thống văn bản được chọn lọc, khảo sát:

NGUỒN: - Văn bản số 1 đến 177 trích từ: Giai thoại văn hóa dân gian người Việt của Triều Nguyên [6]; - Văn bản 178 đến 180 trích từ: Kho tàng giai thoại Việt Nam của Vũ Ngọc Khánh [4]; - Văn bản 181 và 182 trích từ: Giai thoại Nguyễn Công Trứ của Phan Thư Hiền [7].

PL157

TÌNH TIẾT CHÍNH

Tên NV

STT

TÊN GIAI THOẠI

Yếu tố tục

NVC bị trừng phạt

NVC từ bỏ thi hát

NVC bị thách thức bởi NVĐT

NVC chủ động thách thức NVĐT

Hát mỉa mai ngoại hình ĐT

NVC được tán thưởng, khâm phục

NVC thất bại trong cuộc hát

NVC giành chiến thắng trong cuộc hát

NVC dùng câu hát bày tỏ tĩnh cảm

X

X

khuyết danh

1 Em mất xống thâm 1

X

X

X

khuyết danh

2 Em mất xống thâm 2

X

X

khuyết danh

X

3 Em mà không chổng

khuyết danh

4 Hát ví đồi chè

X

X X

X X X

khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh

X

5 Có vợ thì tránh cho xa 6 Bên bấc bên chì 7 Cái ba vạn chín nghìn 8 Em thiếu anh thừa

X

X

X

khuyết danh khuyết danh khuyết danh

9 Tay em vít cả đôi cành 10 Mua mật với khoai mài anh ăn 11 Đuổi về lầu xanh

X X X

PL158

X X X

X X

X

khuyết danh khuyết danh khuyết danh

12 Hát ví điều khiển trâu 13 Câu hát hóc 14 Khi voi thả vòi ra

X

X

X

Nhiêu Ngọ - O Tộ khuyết danh

15 Nhiêu Ngọ và o Tộ 16 Đề Kiều đi hát phường vải

X

X X

X

X X

X

X

khuyết danh Hạnh rỗ khuyết danh

17 Anh biết đi con nào 18 Bà cố Sĩ và ông Hạng rỗ 19 Thật vàng sao tiếng lại rè

Chữ thiên trồi đầu lại có phết vai

X X

X X

X X X

X

X X X

khuyết danh khuyết danh Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ Đinh Nhật Thận

20 21 Trai sừng gái sỏ 1 22 Trai sừng gái sỏ 2 23 Vì chưng tham chút nhụy vàng 24 Nhà đọc sách, gảy đờn 25 Nằm cùng thì cho

X X

Tình tui với mụ lúc nào cũng xong

X

X

X

26

Những câu hát bắt bí và gỡ bí của các nhà nho

X

X

X

X

27

X

X

X

x

28 Thợ rèn đi hát phường vải 29 Biết rùa meo mô mà tìm

PL159

X X

X

X X

Cô Vân, Cô Long Cô Vân, Cô Long

30 Quỷ thần không cho 31 Mùi trầm hương nỏ chộ

Đôi đũa quấy trong bung thằn lằn

X X X X X X

X X

X X X X X X X X

X X X x X X X X

X

Cô Vân, Cô Long Cô Vân, Cô Long Cô Nhẫn Cô Nhẫn Cô Nhẫn Cô Nhẫn Cô Nhẫn Cô Nhẫn

32 33 Bởi vì ai nên nỗi 34 Nhà nho ba bảy nhà nho 35 Cái nghĩa chữ duyên đang dài 36 Nho Biên và cô Nhẫn 37 Chỉ còn cách cắp ô lủi đi 38 Chàng ra tay báo phục 39 Cô Nhẫn làm thầy gà

X

X

X

Phan Bội Châu

40 Nam Đàn tứ hổ là đây

Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Phan Bội Châu Ông Xã Kiếm ông Xã Kiểm khuyết danh khuyết danh khuyết danh

X X X X X

X

X X X X X X X

X

X X X

X X X X

X X X

41 Đoán chữ 42 Đoán tên 43 Cha thầy Mạnh Tử là ai 44 Mối tình chung 45 Vui cuộc cờ tàn 46 Tầm long điểm huyệt 47 Tầm long điểm huyệt 48 Chùa chiền chốn chơi 49 Chỉ vì lời ru 50 Trâu cày và cá gáy

PL160

X X X X X X

X X X

X X X X X X

X X X X X X

X

X

X X X X X

X X X

Ông Ngụ Ông Ngụ O Ân ông khóa Cật khuyết danh Anh Thi khuyết danh Cửu Hoãn khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh

51 Tui xin nài hai đêm 52 Đó lầm đây cũng trích ve 53 Đứng sau mà dòm 54 Không bát cũng không cạy 55 Xin chôn nhờ đất o 56 Bất đặng cái khi đang trèo 57 Nước trong khe 58 Vì thua hò mà bỏ quê 59 Kiếm trắc bá diệp mà trồng 60 Tại cái chăn chéo hạnh 61 Bạn cu li nghèo viếng thăm 62 Đó có đôi đây cũng ngồi hai đứa 63 Hai chạc dây giằng

Gương lồng thủy, thủy lồng gương

X X

khuyết danh khuyết danh

64 65 Con anh khôn lớn bằng anh

X

X

X

X X

X

khuyết danh khuyết danh

Nhún lên nhún xuống chui ngoài chui vô 66 67 Cái ve vàng

Bốn ba đời chồng mới thành gia thất

X

X

X

khuyết danh

68

Cái du du tát nước mà ngờ lọng che

X X

X X

X X

khuyết danh khuyết danh

69 70 Số ở nhà lều

PL161

X

X X X

X X

X X

x

X X X X X X X X

X X

khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh

71 Thẳng ớt tơ 72 Cự tuyệt 73 Nốc sức mui gặp tay cán vá 74 Vật để treo nghi 75 Cặn kẽ 76 Lương giáo đại đồng 77 Phạm điều cấm 78 Đền nợ uống đắng ăn cay 79 Trở chứng nhỏ nhen

X

X X X

X X

X X X

X X X x X X X X

khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh

80 Em an tâm về bẻ lá mua than 81 Em đà ăn miếng trầu người 82 Trèo lên cây chanh 83 Ai ở bạc 84 Lấy chồng làng xa 85 Góa chống không dễ ghẹo 86 Cái chi để lâu cũng chết 87 Có vợ rồi vợ nữa càng hay 88 Cha tiền mẹ gạo

Ngả bàn tay ra cho anh điểm chi vi bằng

X

X

X X X

khuyết danh khuyết danh khuyết danh

89 90 Chẳng biết vì ai 91 Lỡ tay thua bạc

PL162

Một rỗ một tiền cũng được mấy quan

X

X

X

X

khuyết danh

92

Em can anh mà anh chẳng hề nghe

X

X

X

khuyết danh khuyết danh

93 94 Thầy gà cũng bí

X

khuyết danh

95 Quan phụ mẫu hiệu chính lời hò

Trai con hồng cháu lạc, gái cũng con hồng cháu lạc

X X

X

X

X

X

X

khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh

96 97 Đua tài chính sự 98 Con lươn con lệch trơn lù lu 99 Đòn chữ nghĩa của trường hò

Nhát sơ hiệu ký gặp Trung Am ký

X

X

X

O Quy

100

Không biết thiếp ngồi chầu chỗ mô

X X X X

X X X X X

X

X X X

X

O Quy O Quy khuyết danh Ông Bơi Ông Bơi Ông Quán Ông Quán Ông Quán

101 102 Xin quy ở lại hạc đi chầu trời 103 Cau khô và cau nàng X 104 Chọi nhau bên nào cũng bị thiệt X X 105 Tui cày suông cho chị 106 Nét tơ đồng không sai X 107 Hễ trời mưa dông một trộ 108 Vợ chồng mình như em ả chị tam

PL163

X

X

X

X

X

X X X X X X X X X X X X X

X

Thợ Thiềm Thợ Thiềm Thợ Thiềm Thợ Thiềm Thúc Giạ Thị Thúc Giạ Thị Thúc Giạ Thị Thúc Giạ Thị Thúc Giạ Thị Thúc Giạ Thị Thảo Am Thảo Am Thảo Am - Giạ Thị khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh Đồ Tâm khuyết danh

109 Sợ nam to không chèo 110 Méo tròn cũng phải ăn 111 Thợ Thiềm phá vây 112 Kêu cứu bằng hò 113 Ai là ai trong hai lời hò 114 Cổ động học chữ quốc ngữ 115 Câu hò tặng Tì Bà viện 116 Cơm độc lập nước tự do 117 Hai nhà thơ một lời hò 118 Gà sẵn những lời hò mồi 119 Chữ công có cái quéo 120 Cấm và cứ 121 Thiếu tình yêu, thiếu tiền tiêu 122 Hò giã gạo để gầy nhân duyên 123 Ông già là ông già yêu 124 Mỗi năm được mấy mùa xuân 125 Sợ đi lính chết phải xa em 126 Cưỡi rồng 127 Ai dè lở dở trăm đàng

Gửi mấy nghìn trang giấy, mấy trăm trang thơ

X X X

X

khuyết danh khuyết danh khuyết danh

128 129 Buôn trầu lỗ lắm 130 Hai cặp ảng có mấy cái lù

PL164

X

X

X X

X X X

khuyết danh khuyết danh khuyết danh Giáo Lươn khuyết danh khuyết danh

131 Anh chỉ được hầu ở ngoài sân 132 Lập mưu để cứu nàng 133 So sánh giữa tôi và chị 134 Mi thò đầu lên là tau ngéo 135 Cặp và chiếc 136 Con mèo mấy cái lông

Câu hát của bà chúa tằm tang xứ Quảng

X X X

X X X

X X X

X X X

X X

X X X

X

X X X

X X

Nguyễn Phúc Lan khuyết danh khuyết danh Ông Tờn khuyết danh khuyết danh khuyết danh Tú Thọ khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh

137 138 Đi tu vì một câu hò 139 Anh nho sĩ mù hát xạo 140 Hát ngắn độ một thước 141 Trên méo, dưới méo, giữa tròn 142 Bắt mèo mà hun 143 Cặn thừa đãi anh 144 Rượu ngon cái cặn cũng ngon 145 Vì chưng hộ đối môn đương 146 Sao lại bảo là đám gian 147 Hai ngang hai phết 148 Chờ qua trăng rằm

Phòng loan thiếp đã then cài nửa song

X X X

khuyết danh khuyết danh khuyết danh

149 150 Chỉ e giống quá dễ lầm 151 Mong sao bến mãi bên đò

PL165

X

X

X

X X X X X

khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh

152 Lỡ duyên kết với lỡ thì 153 Kinh tiền cheo cho làng 154 Khất lại lời đáp 155 Mắt bét gặp cổ cò 156 Quanh việc tát nước

Ai ham ruộng đất chàng mau cưới về

X X

X X

X X X

khuyết danh khuyết danh khuyết danh

157 158 Trao túi trầu làm tin 159 Tò mò chuyện riêng của cậu

Nghèo khổ bao nhiêu thiếp cũng tùng

X X

khuyết danh khuyết danh

160 161 Cha mẹ họ hàng phải hay

Gừng cay muối mặn xin đừng phụ nhau

X X

X

X

X X X

X X

X X X X X X

khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh khuyết danh Anh Hàng khuyết danh khuyết danh Bảy Tỏi

162 163 Một lạy tạ lời thề xưa 164 Mặt trắng mà lòng đen 165 Từ nay rõ được nghĩa nhân 166 Mặt đục 167 Cau chưa có đất trồng 168 Dáng ai như dáng 169 Hò về truyện tích 170 Sắm vai chinh phu chinh phụ 171 Đu đưa đủng đởn như ông ở nhà X

PL166

Miếng đất mưa ba năm không ướt nắng sáu tháng không khô

X X

X X X X X X X X

X X X X X X

X

X X X

X

X X X X

Bảy Tỏi Trần Hàn Trần Hàn Trần Hàn Trần Hàn Trần Hàn Nguyễn Bính Nguyễn Kinh Nguyễn Kinh Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ

X 172 X 173 Hát với nàng Dùi Chiêng X 174 Lão Phàn con ai X 175 Cây ai trồng nấy ăn X 176 Bị vậy bủa bốn bề X 177 Chết vì một câu hò 178 Cậu bé thầy bẻ chuyện 179 Cây không trái, gái không chồng X X 180 Hai bảy mười một 181 Hát phường vải X 182 Vì mê hát mà mất vợ

Kết quả khảo sát tình tiết:

Tên tình tiết

Tỉ lệ

Stt 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

NVC chủ động thách đố NVC bị thách đố NVC chấp nhận lời thách đố NVC chiến thắng cuộc hò hát NVC thất bại trong cuộc hò hát NVC dùng câu hát bày tỏ tình cảm NVC được ban thưởng NVC bị trừng phạt NVC được thán phục NVC bỏ nghề thi hát

Tần số 43/182 54/182 54/182 57/182 43/182 84/182 1/182 1/182 43/182 6/182

23,6% 29,6% 29,6% 31,3% 23,6% 46,2% 0,5% 0,5% 23,6% 3,2%

PL167

PHỤ LỤC 4: MỘT SỐ VĂN BẢN GIAI THOẠI TRONG CÁC TUYỂN TẬP GIAI THOẠI ĐƯỢC LUẬN ÁN KHẢO SÁT

A. GIAI THOẠI VĂN HỌC * GIAI THOẠI VĂN HỌC VỀ THÁCH ĐỐ VĂN CHƯƠNG 1. Bác lái đò hay chữ (Sư Đỗ Thuận)

Đời vua Lê Đại Hành (980 – 1005) có sư Đỗ Thuận là người học rộng thơ hay, am hiểu việc đời, giúp nhà vua có công lao lớn, nhưng mỗi lần nhà vua định phong chức cho thì sự đều không nhận. Vì thế, Lê Đại Hành càng kính trọng, nhà vua thường chỉ gọi là Đỗ pháp sư chứ không gọi tên.

Khoảng năm Thiên phúc thứ tám (987), vua nhà Tống sai Quốc tử giám bác sĩ là Lý Giác sang sứ Việt Nam. Vua Lê Đại Hành bèn sai sư Thuận giả làm người chèo đò ra đón sứ ở bên bờ sông Sách Giang. Lý Giác vốn là một tay sính thơ, khi ngồi đò, nhân trông thấy xa xa trên mặt nước có hai con ngỗng trời, liền ngâm hai câu thơ rằng :

“Nga nga lưỡng nga nga, Ngưỡng diện hướng thiên nha”. (Ngông ngỗng hai con ngỗng, Chân trời nghểnh cổ trông)

Sư Thuận nghe xong, tay vẫn nhịp nhàng chèo, miệng tươi tắn liền ngâm tiếp hai câu

cho thành một một bài tứ tuyệt:

“Bạch mao phô lục thủy Hồng trạo bãi thanh ba” (Lông trắng phơi nước biếc; Sóng xanh quậy chèo hồng)

Thấy một tay lái đò mà cũng hay chữ như vậy, Lý hết sức kinh ngạc và cảm phục. Về sau, vua nhà Tống có sai Lý Giác sang Giao Châu một lần nữa. Lúc về, Lý Giác

có tặng sư Thuận một bài thơ từ biệt trong đó có hai câu: “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu” (Ngoài trời còn có trời nên chiếu Sóng lặng khe đầm rọi mảnh thu)

Sư Thuận đưa bài thơ cho Lê Đại Hành. Vua triệu sư Khuông Việt vào giải thích hộ. Khuông Việt nói: “Đây là Trung Hoa tỏ ý kính trọng bệ hạ cũng ngang hoàng đế của họ. Vua hài lòng, bèn sai sư Khuông Việt làm một bài ca tiễn Lý Giác (…).

Nguồn: [GTVHVN, tr.63 – 65]. 2. Trạng nguyên về học lễ (Nguyễn Hiền)

Nguyễn Hiền quê ở làng Hà Dương, huyện Thượng Nguyên, tỉnh Nam Định, đỗ thủ khoa năm Bính Ngọ (1246), đời Trần Thái Tông, đến năm sau, thi đình đỗ trạng nguyên. Hiền vốn thông minh, lúc 6, 7 tuổi theo học một nhà sư ở chùa làng, mỗi ngày sư dạy cho học hai mươi trang sách, Hiền chỉ đọc qua là thuộc. Năm 11 tuổi, Hiền đã nổi tiếng thần đồng. Lúc đỗ trạng nguyên mới 12 tuổi. Khi vào ra mắt vua, vua thấy bé loắt choắt mà ăn nói lại hàm hồ, chưa có phép tắc gì cả, bèn bắt về học lễ ba năm rồi sẽ bổ dụng làm quan.

PL168

Trạng về được ít lâu thì có sứ nhà Nguyên sang, sứ đưa ra một bài thơ ngũ ngôn để

thử nhân tài nước Nam:

“Ngũ nhật bình đầu nhật

Tứ sơn điên đảo sơn Lưỡng vương tranh nhất quốc Tứ khẩu tung hoành sơn” (Hai mặt trời, mặt trời bằng đầu Bốn trái núi, trái núi điên đảo Hai ông vua tranh nhau một nước Bốn cái miệng trong cõi dọc ngang)

Thật là kỳ quặc, cả triều đình đều chịu, không ai hiểu ra sao cả. Có người tâu vua thử cho trạng Nguyễn Hiền đến hỏi xem, vua đành phải y lời. Khi sứ đến làng trạng, gặp một thằng bé đang đùa nghịch ở đầu làng liền hỏi thăm vào nhà Hiền. Nhưng thằng bé cứ làm thinh chẳng nói chẳng rằng. Sứ bực mình lại nhân thấy thằng bé có vẻ ngộ nghĩnh, bèn đọc một câu rằng: “Tự (字) là chữ, cất giằng đầu, tử (子) là con, con ai con ấy?”

Thằng bé thấy sứ trêu chọc bấy giờ mới mở miệng nhưng không phải trỏ nhà Nguyễn Hiền mà đối lại như sau: “Vu (于) là chưng, cất ngang lưng, đinh (丁) là đứa, đứa nào đứa này”. Đối xong lại chạy biến. Nghe câu đối xấc xược mà tài tình, sứ đoán chắc đó là trạng Hiền, liền theo vào nhà. Tới sân, thấy trạng đang đứng trong bếp, bèn đọc thêm một câu nữa: “Ngô văn quân tử viên bào trù, hà tu mị táo?” (Ta nghe người quân tử thường tránh xa bếp núc, sao lại vào nịnh ông bếp?).

Nhưng trạng đâu chịu lép, biện bạch ngay: “Ngã bản hữu quan cư đĩnh nại, khả tạm điều canh!” (Ta vốn là chức quan trong hàng tể tướng, nhưng hãy tạm nêm canh). Sứ triều đình khâm phục vô cùng, bèn mời ngay trạng về kinh đô để hỏi bài thơ kia. Song mời mãi mà trạng cũng chẳng đi, nói rằng: “Trước vua bảo ta không biết lễ phép, nay chính nhà vua cũng không biết lễ phép!”. Thì ra trong lúc vội vàng, sứ đã quên cả nghi thức, sau phải mang xe ngựa, nghi trượng đến đón thật long trọng, trạng mới chịu đi. Tới triều, vua cho xem bài thơ ngũ ngôn của nhà Nguyên ra hỏi. Trạng liền liếc mắt qua rồi giảng đó là chữ “điền” (田). Thì ra bài thơ ấy phải hiểu là:

“Hai nhật (日)bằng đầu để sóng hàng, Bốn sơn (山) xáo lộn dọc cùng ngang, Hai vương (王) nghiêng ngửa lo tranh nước,

Bốn khẩu (口) liền nhau ghép vững vàng”.

Lúc bấy giờ, vua mới vỡ nhẽ, cả triều đình ai cũng phục trạng và khi đưa câu trả lời

cho sứ nhà Nguyên, sứ cũng hoảng hồn không còn dám lên mặt nữa.

Nguồn: [GTVHVN, tr.71 – 73].

3. Ra đối dễ, đối đối khó (Mạc Đĩnh Chi)

Năm Hưng Long thứ 16, Mạc Đĩnh Chi đi sứ sang nhà Nguyên, ông có hẹn ngày ấy ngày nọ thì sứ bộ sẽ đến cửa biên ải để viên quan nhà Nguyên mở cửa đó. Chẳng may hôm lên đường gặp trời mưa gió, thành ra sai hẹn. Lúc tới nơi thì trời tối, cửa ải đóng. Mạc Đĩnh Chi nói mãi người Nguyên cũng chẳng chịu cho qua. Sau họ vứt từ trên ải xuống

PL169

một câu đối, bảo hễ đối được thì mới mở cửa: “Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan” (Qua cửa ải chậm, cửa ải đóng, mời khách qua đường qua cửa).

Thật là một câu đối hiểm hóc, trong có 11 chữ mà riêng chữ “quan” nhắc lại tới bốn lần, chữ “quá” nhắc lại ba lần. Mạc Đĩnh Chi thấy rất khó đối nhưng nếu yên lặng thì e mất thể hiện, ứng khẩu đọc một câu rằng: “Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối” (Ra đối dễ, đối đối khó, mời tiên sinh đối trước).

Tưởng đã bị thế bí hóa ra lại có một câu đối hay. Người Nguyên phải chịu Mạc Đĩnh

Chi là có tài ứng biến, liền tức tốc mở cửa ải để ông đi qua.

Nguồn: GTVHVN, tr.79 – 80.

4. Trăng là cung, sao là đạn (Mạc Đĩnh Chi)

Mạc Đĩnh Chi sang sứ triều Nguyên, lúc vào bệ kiến, vua Nguyên muốn thử tài văn chương của trạng và muốn dò khí tiết của viên bồi thần bằng một câu đối. Vua Nguyên đọc: “Nhật hỏa vân yên, bạch đán thiên tàn ngọc thỏ” (Mặt trời là lửa, ban ngày đốt cháy vầng trăng).

Mạc Đĩnh Chi biết là vua Nguyên kiêu hãnh, tự xem mình là mặt trời, và coi Việt Nam như mặt trăng, ban ngày nhất định bị mặt trời thôn tính, ông bèn ứng khẩu đối ngay: “Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô” (Trăng là cung, sao là đạn, chiều tối bắn rơi mặt trời).

Câu ra đã giỏi mà câu đối lại tài hơn. Vua Nguyên nghe nói biết mình bị trả một miếng đau, nhưng cũng rất kính phục Mạc Đĩnh Chi, bèn thưởng cho trạng nguyên Việt Nam rất nhiều rượu ngon và vàng lụa. Nguồn: [GTVHVN, tr.79 – 80].

5. Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào (Mạc Đĩnh Chi)

Hồi Mạc Đĩnh Chi sang sứ nhà Nguyên thường hay cưỡi lừa đi chơi trên các phố. Một hôm, mải ngắm cảnh hàng phố, đang nghênh ngang đi trên lừa, bỗng chạm phải ngựa của một người trước mặt đi tới. Người ấy tức mình bèn đọc một câu rằng: “Xúc ngã kỵ mã, Đông di chi nhân dã, Tây di chi nhân dã?” (Chạm ngựa ta cưỡi là người rợ phương Đông hay là người rợ phương Tây?).

Từ chữ “Đông di” trở đi là lấy ở sách Mạnh Tử, có ý khinh rẻ coi Mạc Đĩnh Chi là mọi rợ, man di. Mạc Đĩnh Chi thấy người có thái độ kẻ cả như vậy bực lắm, bèn đáp rằng: “Át dư thừa lư, Nam phương chi cường dư, Bắc phương di cường dư?” (Ngăn lừa ta ngồi, hỏi người phương Nam mạnh hay người phương Bắc mạnh?).

Từ chữ “Nam phương” trở đi là lấy ở sách Trung dung. Câu này lời lẽ rất ngang tàng, ý bảo chưa chắc người phương Bắc đã mạnh hơn người phương Nam, chưa biết mèo nào cắn mỉu nào. Người Nguyên nghe Mạc Đĩnh Chi trả lời biết gặp phải tay cứng cổ, ra roi cho ngựa đi thẳng, không dám hoạnh họe gì nữa.

Nguồn: GTVHVN, tr.85 – 86. 6. Chim chếch - ếch ngộp (Mạc Đĩnh Chi)

Thời gian Mạc Đĩnh Chi sang sứ nhà Nguyên, người Nguyên chê tiếng nói của sứ bộ ta líu ríu như chim chích, mới đọc giễu một câu rằng: “Quých tập chi đầu đàm Lỗ luận, tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri” (Chim chích tụ đầu cành, đọc sách Luận ngữ: biết nói là biết, không biết nói là không biết, đó là biết).

PL170

Câu này dùng toàn chữ trong sách Luận ngữ. Mạc Đĩnh Chi cũng dùng toàn chữ trong sách Mạnh Tử để đối lại: “Oa minh trì thượng độc Châu thư, lạc dữ thiểu lạc nhạc, lạc dữ chúng lạc nhạc, thục lạc?” (Ếch kêu trên bờ ao, đọc sách Mạnh Tử: vui cùng ít người vui nhạc, vui cùng nhiều người vui nhạc, đằng nào vui?). Câu này có ý chê bai hiểu biết của các quan nhà Nguyên như ếch ộp ở trong ao. Thế là vỏ quýt dày có móng tay nhọn. Người Nguyên biết là dại, không dám tỏ vẻ chê bai, bỉ báng nữa.

Nguồn: GTVHVN, tr.86 – 87.

7. Hoa sen trong giếng ngọc (Mạc Đĩnh Chi)

Mạc Đĩnh Chi, tự là Tiết Phu, người làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sống vào đầu thế kỷ XVI, không rõ năm sinh và mất. Tục truyền làng ông có một gò mối rất lớn, vốn là khu lăng tẩm lâu đời. Một bữa, mẹ ông vào đó kiếm củi, bị một con khỉ độc hiếp, rồi có mang. Bố ông tức giận, cải trang làm thành đàn bà đi kiếm củi và giết chết con khỉ ấy. Được vài hôm, ở chỗ xác con khỉ bỗng thấy mối đùn lên thành một ngôi mộ. Sau đấy ít lâu thì bố ông mất, lúc hấp hối dặn người nhà chôn mình vào chỗ con khỉ.

Khi Mạc Đĩnh Chi sinh ra, tướng mạo vô cùng xấu xí: lùn, đen, mồm rộng, mũi tẹt, trán dô. Người làng bảo đó là tinh con khỉ nghiệm vào. Nhưng ông lại rất thông minh, từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng. Đời Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 2 (1304), ông đi thi, văn bài làm trội hơn mọi người nhưng vì mặt mũi xấu xí nhà vua không muốn cho ông đỗ. Ông bèn dâng lên bài phú “Ngọc tĩnh liên” (Hoa sen trong giếng ngọc) để nói lên cái phẩm giá thanh cao của mình (…).

Nguồn: GTVHVN, tr.77 – tr.78. 8. Sư sử sứ, phụ phù phu (Lương Thế Vinh)

Vua Lê Thánh Tông đi kinh lý vùng Sơn Nam Hạ, ghé thăm làng Cao Hương, huyện Vụ Bản, quê hương của trạng nguyên Lương Thế Vinh, lúc bấy giờ cũng đang theo hầu vua. Hôm sau, vua đến thăm chùa làng, khi ấy sư cụ đang tụng kinh. Bỗng sư cụ đánh rơi cái quạt xuống đất. Vẫn tiếp tục tụng, sư cụ ra lấy tay ra hiệu cho chú tiểu nhặt. Một vị quan tùy tùng của vua đã nhanh tay nhặt cho vua. Vua Lê Thánh Tông trông thấy vậy, liền nghĩ ra một vế đối, rồi trong bữa tiệc hôm đó thách các quan đối. Vế đối như sau:

“Đường thượng tụng kinh, sư sử sứ” (Trên bục đọc kinh, sư sai khiến được sứ)

Câu này oái oăm ở ba chữ: sư, sử, sứ. Các quan đều chịu, chẳng ai nghĩ ra câu gì. Lương Thế Vinh cứ để cho họ suy nghĩ chán chê. Ông ung dung ngồi uống rượu chẳng nói năng gì. Vua Thánh Tông quay lại bảo đích danh ông phải đối, với hy vọng đưa ông đến chỗ bí. Nhưng ông chỉ cười trừ. Một lúc ông cho lính hầu chạy ngay về nhà mời vợ đến. Bà trạng đến, ông lấy cớ quá say xỉn phép cho vợ dìu mình về.

Thấy Vinh là một tay có tài ứng đối mà hôm nay cũng đành phải đánh bài chuồn, nhà

vua lấy làm tự đắc, liền giục: “Thế nào, đối được hay không, thì nói hẵng rồi về chứ!”.

Vinh gãi đầu, gãi tai, rồi chắp tay ngập ngừng: - Dạ muôn tâu. Thần đối rồi đấy ạ! Vua và các quan lấy làm lạ, bèn bảo Vinh đọc thứ xem. Vinh cứ một mực: “Đối rồi

đấy chứ ạ”. Sau nhà vua gạn mãi, Vinh mới chỉ vào người vợ đang dìu mình mà đọc rằng:

“Đình tiền túy tửu, phụ phù phu”

PL171

(Trước sân say rượu, vợ dìu chồng)

Nhà vua cười và thưởng cho rất hậu. Nguồn: GTVHVN, tr.109 – 110.

9. Hai cô Điểm, hai ông Luân (Đoàn Thị Điểm)

Một hôm, bà Điểm đang soi gương trước cửa sổ, ông Luân trông thấy đọc cho bà

một vế đối như sau:

“Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm” (Soi gương vẽ mày, một nét hóa thành hai nét)

Câu này cũng có nghĩa một cô Điểm hóa thành hai cô Điểm. Bà Điểm nghe xong đối

lại ngay:

“Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân” (Tới xem ao trăng, một vừng biến thành hai vừng) Câu này cũng có ý một ông Luân hóa hai ông Luân. Thế là kẻ tám lạng, người nửa

cân, hai anh em chẳng ai chịu kém ai.

Nguồn: [GTVHVN, tr.139]. 10. Vế đối hai nghĩa (Đoàn Thị Điểm)

Năm bà Đoàn Thị Điểm 25 tuổi (1730) thì thân phụ mất ở nơi dạy học. Bà cùng mẹ và anh đưa linh cữu về quê mai táng, rồi đó, ba mẹ con tới cư ngụ ở làng Vô Ngại, huyện Đường Hào, Hưng Yên.

Bấy giờ bà Điểm thường thay anh trong việc thù tiếp các tân khách. Bà vốn là cô gái tài sắc lại giỏi về giao tế nên tiếng tăm bà lừng lẫy khắp nơi. Người ta đồn rằng: khi bà Điểm thay anh tiếp khách, tuy “dâng rau muối mà hơn cà trân tu”. Do đó, khách đến thăm bà đã nhiều, mà những khách phong lưu công tử đến dòm ngó bà cũng lắm.

Khi ấy có hoàng giáp Vũ Diễm với các bạn là tiến sĩ Nhữ Đình Toản, Nguyễn Công Thái, cùng kéo nhau đến nhà bà Điểm. Các thầy được bà Điểm tiếp đãi rất lịch sự, bà cho người bưng khay trầu ra mời, trên khay có để một bức hoa tiên viết một câu đối:

“Đình tiền thiếu nữ khuyến tân lang”

Hai chữ “thiếu nữ” ở đây có hai nghĩa: gió nhẹ, hoặc cô gái. Hai chữ “tân lang” là cây cau thì đồng âm với hai chữ tân lang là chàng rể. Bởi vậy, vế đối cũng có thể hiểu theo hai nghĩa. Trước sân, gió phảng phất cây cau hoặc trước sân cô gái mời chàng rể.

Các thầy đọc xong vế đối, rồi sáu mắt ngó nhau, chẳng ai đối lại được. Thế là trầu cũng chẳng kịp ăn, ý định chòng ghẹo cũng tiêu tán hết, các thầy đành nhã nhặn gửi lời chào bà rồi vội vả rút lui.

Nguồn: GTVHVN, tr.140 – 141.

11. Thư mượn áo cừu (Lê Quý Đôn)

Tục truyền Lê Quý Đôn có người con trai và người học trò đều nổi tiếng hay chữ. Đến khoa thi, vua Lê và chúa Trịnh đánh cược nhau: vua thì đoán con Lê Quý Đôn đỗ đầu, chúa thì đoán học trò Lê Quý Đôn đỗ đầu. Lúc vào thi, Lê Quý Đôn dặn học trò đánh tráo bài thi cho con trai mình, vì thế con ông đỗ đầu mà anh học trò chỉ đỗ thứ hai. Thế là vua được cuộc, chúa thua. Chúa vốn biết sức học của anh học trò hơn hẳn con trai Lê Quý Đôn mà té ra bị thua cuộc, lấy làm tức lắm. Lâu dần, mưu gian của Lê Quý Đôn bị vỡ lỡ. Chúa nổi giận cách chức Lê Quý Đôn và xóa tên hai người trong sổ trúng tuyển.

PL172

Được vài năm sau, có sứ nhà Thanh sang, tới cửa ải, thì dừng lại không đi nữa, chỉ đưa một tấm vóc có đề một chữ rất kỳ lạ và nhắn chừng nào giải được thì sứ mới vào nước. Vua chúa hội cả quần thần lại hỏi, chẳng ai đoán ra chữ gì cả, chúa lo lắm. Các quan tâu rằng phải hỏi Lê Quý Đôn thì may ra mới xong được. Chúa bất đắc dĩ phải khôi phục chức tước cho Lê Quý Đôn và triệu vào triều để hỏi. Nhưng Lê Quý Đôn khước từ là không biết. Chúa lại phải trả khoa mục cho hai người kia, bấy giờ Lê Quý Đôn mới chịu giải.

Ông bảo xin vua gửi cho sứ nhà Thanh một tấm áo tự khắc sứ sẽ đến. Vua chúa, quần thần cũng chưa hiểu ý nghĩa ra sao, nhưng cứ vẫn phải theo lời Lê Quý Đôn. Quả nhiên, nhận được áo, sứ nhà Thanh đến ngay. Ngày sứ đến, Lê Quý Đôn được cử ra đón sứ. Lê Quý Đôn viết vào mảnh giấy đỏ bốn chữ: Phỉ xa bất đông (匪 車 不 東) để đưa sứ xem. Sứ đứng dậy vái bốn vái rồi lấy áo cầu giả lại phái đoàn Việt Nam, tỏ lòng hết sức khâm phục tài trí người Việt. Bấy giờ, vua chúa quần thần nhà Lê mới ngã ngửa người biết là đố mẹo. Thì ra đó là câu lấy trong Kinh thi, thơ của Mao Khưu: “Hồ cừu mông nhung, phỉ xa bất đông” (Áo hồ cừu rách rưới, chẳng phải không có xe mà không qua phía đông). Sứ nhà Thanh muốn nói là mình không có áo đại lễ nên không dám đến. Cả một câu mà thu gọn vào có một dấu, chỉ một dấu mà thay thế đủ lời lẽ của cả một bức thư. Triều đình xôn xao khen kẻ đố mười phần thì lại càng phục người giải trăm phần.

Nguồn: GTVHVN, tr.149 – 150.

12. Cái cò lặn lội bờ sông (Lê Quý Đôn)

Ai cũng biết Lê Quý Đôn là người có học vấn uyên bác, vì thế người ta đồn đại rằng: “Thiên hạ vô tri vấn bảng Đôn”. Nghĩa là: Thiên hạ có điều gì không hiểu thì cứ hỏi ông Bảng Đôn.

Tương truyền khi Lê Quý Đôn cáo quán về nhà, không mấy ngày là có người đến hỏi han điều này điều nọ. THậm chí có người dựng vợ gả chồng cho con cũng tìm đến xin ý kiến cụ Bảng.

Tuy nhiên, đối với kiến thức ngoài sách vở thì không phải cái gì ông cũng biết. Một hôm, có người đến trao cho Lê Quý Đôn tờ giấy ghi mấy câu chữ Hán và nhờ ông giảng giải, nội dung như sau:

Trương phàm khuyến tửu chi ca Phụ mễ đầu hà chi thán Kỳ tích hà như?

Nghĩa là:

Khúc hát giương buồm mời rượu Lời than gánh gạo lội sông Tích ấy thế nào?

Lê Quý Đôn vốn đã thông làu kinh sử, nhớ nhiều điển tích hay lạ, vậy mà chưa thấy

có điển tích nào như thế. Ông đành phải tạm khất người khách vài ngày để tra cứu thêm.

Qua một đêm vắt óc suy nghĩ, ông vẫn chưa tìm được câu trả lời. Sớm hôm sau, ông buồn bực ra khỏi nhà, lên mặt đê ven làng đi dạo cho khuây khỏa. Chợt ông thấy dưới sông có một con thuyền đang căng buồm trôi nhẹ theo chiều gió, mà ở ngoài đầu khoang lại có mấy người ngồi cắm cúi chừng như đang chén chú chén anh. Thế là ông bỗng nhớ đến ngay câu ca của đám dân chài:

PL173

Thuận buồm xuôi gió, Chén chú chén anh, Nước ngược chèo quanh, Mày tao ngươi tớ!

Một ánh sáng lóe lên trong đầu óc tỉnh táo lúc ban mai, ông lẩm bẩm tự trách mình: “Thế mà ta cứ mãi tìm kiếm những điển cố trong sách vở của Thánh hiền. Chắc điển tích kia cũng từ đời sống của nhân dân mà ra thôi!”. Rồi ông reo lên trong sung sướng, đi thẳng một mạch về nhà. Tình cờ trên đường về gần đến nhà, Lê Quý Đôn nghe vẳng tiếng tiếng hát ru con à ơi của một người đàn bà: Cái cò lặn lội bờ sông Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non

Thế là ông vỡ nhẽ. Vừa vào đến nhà ông lấy giấy bút viết ngay bài ca nôm để trà lời

người khách như sau:

Thuận buồm xuôi gió, Chén chú chén anh, Nước ngược chèo quanh, Mày tao ngươi tớ! Phải chăng tích nọ Có đúng hay không? Cái cò lặn lội bờ sông Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non Lời than lòng dạ héo hon, Ra ngoài chữ nghĩa dấu son thánh hiền

Từ đấy, mọi người càng yêu mến Lê Quý Đôn vì ông rất gần gũi với nhân dân chứ không phải là một trí thức sách vở: Tú tài bất xuất môn, toàn tri thiên hạ sự. (Tú tài không ra khỏi nhà mà biết hết mọi việc trong thiên hạ).

Nguồn: GTVHVN, Tập 11, Tổng tập VHDGNV, tr.202 – 204. (Giai thoại này, trong công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam của Vũ Ngọc Khánh có tên là Căng buồm mời rượu – Gánh gạo lội sông, chỉ khác nhau về tiêu đề, còn nội dung không có gì khác biệt) 13. Câu đố chữ nhất (Lê Quý Đôn)

Tục truyền Lê Quý Đôn là người rất tự phụ, nhất là khi mới đỗ Bảng nhãn (năm 27 tuổi), ông càng tỏ ra mình là người tuổi trẻ tài cao, học rộng biết nhiều, ông cũng từng thường tự nói là không có điều gì trong thiên hạ mà ông Bảng Đôn không biết.

Một hôm, Lê Quý Đôn đi dự đám khao ở đâu đó. Sau khi cỗ bàn xong, đang ngồi

uống nước, xỉa răng trong sạp, chợt có ông lão đến gặp Lê Quý Đôn thưa rằng:

- Lão mới nghe được một câu đố chữ, song ngu dốt nghĩ mãi không ra. Nay may gặp quan Bảng là người học rộng biết nhiều, mong được quan Bảng giải dùm cho.

Được Lê Quý Đôn nhận lời, ông lão liền đọc:

Hạ bất khả hạ, Thượng bất khả thượng, Chỉ nghi tại hạ,

PL174

Bất khả tại thượng.

Nghĩa là:

Dưới không thể dưới, Trên không thể trên, Chỉ nên ở dưới, Không nên ở trên.

Đây là một câu đố về chữ Hán nào đó, song cứ theo nghĩa câu này mà luận thì chỉ thấy chữ dưới, trên; trên, dưới luẩn quẩn không biết đường nào mà lần. Lê Quý Đôn nghĩ mãi cũng không tài nào giải được chữ gì. Sau đành xin chịu. Bấy giờ ông lão mới tủm tỉm cười mà rằng: “Có người mách bảo đó là chữ “Nhất” đấy. Nhưng chẳng biết có đúng không, nhờ quan Bảng chỉ xem xem.

Nghe lời ông lão, Lê Quý Đôn liền lấy ngón tay trỏ nhúng vào chén nước rồi vạch

vạch xuống mặt bàn, vừa vạch vừa lẩm bẩm:

- Chữ “Hạ” (下) là dưới, thì đúng là nét ngang ở trên chứ không thể ở dưới được - Chữ “Thượng” (上) là trên thì đúng là nét ngang ở trên chứ không thể ở dưới - Hai chữ “Chỉ nghi” (止 宜) nghĩa là chỉ nên, thì nét ngang đều ở dưới - Hai chữ “Bất khả” (不 可) nghĩa là không thể, thì nét ngang không ở dưới mà lại ở

trên

Ông tự nhủ thầm: “Nếu không vạch xuống mặt bàn mà phân giải cho cặn kẽ, rạch ròi

như thế, thì cũng có trời mà biết được câu đố này. Đây cũng là chữ Nhất thật rồi!”.

Lê Quý Đôn rất lấy làm khâm phục trí khôn của dân gian, những người đã nghĩ ra câu đố hết sức thông minh này. Ông vỗ đùi reo lên thích thú: “Đúng là chữ Nhất rồi, đúng rồi!”. Nhưng ngửng mặt lên thì không thấy ông lão đâu nữa. Lê Quý Đôn bất giác thẹn đỏ mặt. Nghe nói, từ đó ông Bảng Đôn cũng bớt tự phụ dăm bảy phần. Nguồn: GTVHVN, Tập 11, Tổng tập VHDGNV, tr.205 – 207.

14. Cốt đối ý (Nguyễn Hữu Cầu)

Khoảng đời Lê Hiển Tông (1740 – 1786), có Nguyễn Hữu Cầu là một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa xuất sắc, thường được mọi người ca ngợi là Hạng Võ nước Nam. Nguyễn Hữu Cầu tục gọi là Quận He quê ở Lôi Động, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, không rõ năm sinh, chỉ biết mất vào năm Cảnh Hưng II (1751).

Thuở nhỏ, Nguyễn Hữu Cầu và Phạm Đình Trọng cùng học với nhau một trường. Trọng thường được thầy khen nhưng riêng Cầu thì vẫn không phục Trọng. Một hôm, thầy đi đám, cho Cầu và Trọng cùng theo. Lúc về, nhà đám biếu một cái thủ lợn. Cầu và Trọng tỵ nhau mãi chẳng ai chịu xách. Thầy thấy vậy, ra một vế đối, bảo hễ ai đối được thì miễn xách. Thầy đọc: “Huề trư thử” (Xách đầu lợn). Trọng đối lại: “Phan long lân” (Vin vẩy rồng). Còn Cầu thì đối: “Phá Tần diệt Sở”.

Thầy gõ vào đầu Cầu một giáo quạt, chê câu ấy chẳng đâu vào đâu cả, mà còn thừa

chữ. Rồi thầy bắt Cầu phải xách cái thủ lợn. Nhưng Cầu vẫn gân cố cãi:

- Tôi đối sai thật nhưng ý tôi là tôi muốn bốc vẩy rồng kia, chứ không thèm vin rồng

như thằng Trọng.

Một hôm khác, thầy lại ra một vế đối:

PL175

“Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo” Trọng đối rằng: “Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc” Còn Cầu thì đối bừa là: “Tháng mười sấm rạp, tháng chạp sấm động” Thầy nghe xong bảo: Thằng Trọng có khẩu khí làm quan to, còn thằng Cầu chỉ làm

giặc. Rồi đó, ông thầy sợ không dám dạy Cầu nữa. Lúc ra chơi, Trọng bảo Cầu:

- Tao sẽ cầm quân bắt mày! Cầu đáp: - Nếu tao làm giặc thì tao sẽ đánh tan những đứa ra luồn vào cúi! Quả nhiên về sau, khi cầu làm lãnh tụ khởi nghĩa nông dân, Trọng và Cầu là hai tay

kình địch nhau đến cùng.

Khi Cầu đã chuyển sang học thầy khác, một hôm thầy có việc phải mổ bò thết khách, nhân đó, ra cho học trò vế đối là: “Tể hoàng ngưu” (Giết bò vàng). Cầu nhanh nhảu đối ngay: Trảm bạch xà (Chém rắn trắng). Thầy lắc đầu bảo đối sai luật. Cầu đáp:

- Tôi chỉ cốt đối lấy ý chứ không cần luật. Vả lại, giết bò vàng mà đối với chém rắn

trắng mà không đúng luật à? Thầy chợt hiểu, khen: - Thế thì mày có chí lớn, cố lên con ạ! Nguồn: GTVHVN, tr.152 – 153.

15. Đánh nhau bằng cả câu đối (Nguyễn Hữu Cầu)

Khi cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Cừ thất bại thì Nguyễn Hữu Cầu đứng ra lãnh đạo nghĩa quân chiếm Đồ Sơn, Vân Đồn, xưng là Đông đạo Thống quốc Bảo dân Đại tướng quân, chủ trương lấy của cải nhà giàu chia cho dân nghèo, được quần chúng rất yêu mến và theo ông rất đông, họ thường gọi là quận He.

Dần dần, nghĩa quân kéo ra đánh phá khắp cả vùng đông nam đồng bằng Bắc Bộ. Quan quân triều đình dẹp mãi vẫn không sao trừ được. Về sau chúa Trịnh sai Phạm Đình Trọng ra dẹp. Khi quân của Trọng tới nơi, y viết một vế câu đối sai người đưa cho Nguyễn Hữu Cầu:

“Thổ triệt bán hoành, thuận giả thượng, nghịch giả hạ” (Chữ thổ (土) bỏ một nét ngang, để xuôi là chữ thượng (上), để ngược là chữ hạ

(下))

Câu này có ý nếu Nguyễn Hữu Cầu thuận theo thì sẽ cho một chức quan, nếu không

sẽ bị tiêu diệt. Nguyễn Hữu Cầu xem xong đối lại rằng:

“Ngọc tàng nhất điểm, xuất vi chúa, nhập vi vương” (Chữ ngọc (玉), có một chấm, để lên đầu là chữ chúa (主), bỏ đi là chữ vương (王)) Cầu có ý ngạo nghễ, nói rõ chí lớn của mình một là làm vua hai là làm chúa chứ không thèm hàng. Rồi đó, Cầu và Trọng dàn quân đánh nhau kịch liệt luôn mấy trận vẫn không phân hơn thua được.

Nguồn: GTVHVN, tr.154 – 155.

16. Một lũ ăn mày một lũ quan (Nguyễn Quí Tân)

Nguyễn Quí Tân, hiệu Đinh Trai, biệt hiệu Tán Tiên đình cư sĩ, người làng Thượng Cốc, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, sinh năm 1811 mất năm 1856. Thuở nhỏ, ông nổi

PL176

tiếng là người có văn tài, năm 29 tuổi đậu kỳ thi Hương, năm 31 tuổi đậu tiến sĩ, từ đó tục gọi là Nghè Tân. Ông có ra làm tri phủ được mấy tháng; nhưng rồi chán với công danh, thế sự, ông từ chức, đi ngao du sơn thủy, uống rượu ngâm thơ. Thơ ông phần nhiều nhằm đả kích vào bọn quan lại áp bức lóc lột nhân dân.

Tương truyẻn cuối đời Thiệu Trị (1840 — 1847), ông được triệu vào kinh làm quan ở bộ Hộ, sau lại được bổ làm chức thanh tra quan lại ở Bắc Kỳ nhưng không được bao lâu ông lại lấy cớ ốm đau xin về. Thời kỳ làm thanh tra, ông thường mặc giả học trò nghèo đề dễ điều tra tình hình tham quan ô lại.

Người ta kể chuyện ngay hồi còn đi học, Nghè Tân đã tỏ ra khinh ghét chế độ trường, Một hôm, nhằm ngày rằm trung thu, các quan đâu tỉnh Hải Dương (tỉnh của Nguyễn Quí Tân) rủ nhau cùng vợ hầu, các cô chiêu, cậu ấm ra phố xem nhân dân phá cỗ; lính tráng hò hét đẹp đường om sòm; các ngọn roi quất vào đầu dân kêu vun vút. Nghè Tân có mặt ở đó, tức lắm, không chịu tránh đường cho quan đi. Lính bắt lại cho quan định tội. Nghè Tân nói mình là học trò, mải xem một chiếc đèn kéo quân đẹp quá, nên không biết quan đến.

Một viên quan bảo: - À thế phải anh là học trò mải xem đèn kéo quân thì hãy làm một bài thơ vịnh đèn

kéo quân đi, hay thì các quan lớn tha, dở thì phải đánh đòn.

Nghè Tân vâng lời, chỉ một chốc lát rồi đọc:

“Một lũ ăn mày một lũ quan, Quanh đi quẩn lại cũng một đoàn, Đến khi dầu hết đèn thôi cháy, Chẳng thấy ăn mày, chẳng thấy quan”.

Các quan nghe xong đều bầm gan tím mật nhưng không biết chê vào đâu được đành

phải bấm bụng để cho Nghè Tân đi.

Nguồn: GTVHVN, tr.244.

17. Thơ răng cắn lưỡi (Nguyễn Đăng Hành)

Nguyễn Đăng Hành, con Nguyên Đăng Giai làm quan đời Tự Đức, là người hay chữ. Nhân đẹp được cuộc âm mưu lật đổ của Hồng Bảo, Tự Đức mở tiệc ăn mừng. Trong khi đang đãi yến các quan; nhà vua ăn uống thể nào lại để răng cắn phải lưỡi.

Vua bèn lấy sự việc này bảo các quan làm thơ để mua vui. Các quan đều làm thơ dâng lên vua, nhưng chỉ có bài thơ của Nguyễn Đăng Hành là hay hơn cả. Bài thơ như sau :

“Ngã sinh chi sơ, nhữ vị sinh, Nhữ sinh chi hậu ngã vi huynh, Kim triêu hạnh hưởng cao lương vị, Hà nhẫn độc thương cốt nhục tình”. (Tớ sinh, ngươi chửa ra đời, Ngươi sinh sau tớ, tớ thời làm anh. Hôm nay ăn uống ngon lành, Mối tình cốt nhục, sao đành hại nhau)

PL177

Rõ ràng, đây là một bài thơ nói về việc răng cắn phải lưỡi. Lưỡi có trước khi mọc răng, vậy thì lưỡi là anh, mà răng là em, Thế mà, khi được miếng ăn ngon đáng lẽ cùng nhau hưởng thụ, thì răng lại nỡ lòng cắn lưỡi đề tranh ăn lấy một mình. Nhưng bài thơ lại ngụ ý chê trách nhà vua nỡ giết anh là Hồng Bảo để độc hưởng phú quý.

Tự Đức xem xong biết là Hành ám chỉ việc riệng của mình, tức giận lắm, nhưng cũng phải phục là tài. Rồi để thỏa nỗi tức giận của mình, nhà vưa sai đem tác giả ra cửa Ngọ môn nọc đánh ba chục roi về cái tội châm biếm phạm thượng. Sau đó, đề tỏ rằng mình cũng biết quí trọng văn tài, nhà vua lại thưởng tiền cho tác giả rất hậu.

Nguồn: GTVHVN, tr.259 – 260. 18. Ở truồng xem vua (Cao Bá Quát)

Một hôm, Cao Bá Quát từ Bắc Ninh sang chơi Hà Nội. Bấy giờ, Quát mới còn là một cậu học trò để chỏm. Quát thấy Hà thành có vẻ rộn rịp khác thường, hỏi ra mới biết là vua Minh Mệnh ngự giá Bắc thành, sắp đi thăm Hồ Tây và thắng cảnh khác ở Thăng Long. Chờ đúng giờ đạo ngự đi đến Hồ Tây, thì Quát cởi truồng ra, giả vờ xăm xăm nhảy xuống hồ để tắm.

Quan quân thấy vậy hoảng hốt, thét bắt trói lại. Càng bị trói, Quát càng gào to và giẫy giụa vùng chạy, gây một cảnh ồn ào, hỗn độn bên bờ hồ. Vừa lúc đó, kiệu vua đi qua. Minh Mệnh truyền lệnh dẫn Quát đến hỏi. Quát tâu là học trò khó mới ở nhà quê lên không biết gì. Minh Mệnh nghe nói liền nảy ra một ý: Nhân dưới hồ nước trong, có nhiều đàn cá lội tung tăng đuổi bắt nhau, Minh Mệnh ra một vế đối:

“Nước trong leo lẻo cá đớp cá”.

Và hứa với Quát đối được sẽ tha. Quát không cần nghĩ ngợi, cũng tức cảnh việc mình

bị trói, đối lại:

“Trời nắng chang chang, người trói người!”

Minh Mệnh cả kinh và tức uất người lên, nhưng vì không muốn mang tiếng với người Bắe hà trong dịp đầu tiên vua ra thăm đất Bắc, nên đành truyền lệnh cởi trói tha cho Cao Bá Quát.

Nguồn: GTVHVN, tr.229.

19. Khí phách ngang tàng (Cao Bá Quát)

Một hôm, Cao Bá Quát sang Hà thành mua sắm. Khi đi ngang qua nhà quan Đốc học, thấy tiếng bình văn liền đứng lại nghe. Câu nào dược thì chẳng nói gì, hễ câu nào dở lại chun mũi, lắc đầu, khạc nhổ tứ tung. Lính coi cửa thấy thế liền bắt vô trình quan. Quan cho là Quát khinh mình dốt, nổi giận đùng đùng, đập nghiên son xuống sập bắn tung tóe, thét Quát hỏi. Quát xưng là học trò thấy bình văn thì đứng lại nghe, chứ không làm gì nên tội cả. Viên quan hỏi học ai thì Quát nói: Học ông Trình ông Chu.

Nghe anh học trò oắt mà nói năng càn rỡ ngông ngạo, viên đốc học cả giận bảo: - Sách có chữ “Tiên học lễ hậu học văn” (trước học lễ phép rồi sau mới học văn chương). Nhà ngươi là học trò hẳn cũng biết điều đó, vậy mà lại còn có hành vi vô lễ. Bây giờ ta ra cho một vế đối, hễ ngươi đối được thì ta tha, bằng không thì phải đánh đòn.

Rồi viên quan đọc rằng: “Nhĩ tiểu sinh hà xử đáo lai, cảm thuyết Trình Chu sự nghiệp?” Nghĩa là: Mày là thằng trò oắt ở đâu đến đây, đám nói sự nghiệp ông Trình ông Chu?

PL178

Quát thấy bị khinh thường thì tính khí ngang tàng bỗng nổi dậy, đối ngay rằng: “Ngã quân tử kiến cơ nhi tác, dục vi Nghiêu, Thuấn quân dân!” Nghĩa là: Ta chính bậc quân tử biết thời mà dấy; muốn làm vua dân đời Nghiêu đời

Thuấn!

Viên quan nghe Quát đối chọi chan chát, chịu là hay, lại thấy có khí phách lớn lao

như vậy thì cũng có ý chờn, vội vàng thả cho Quát đi ngay.

Nguồn: GTVHVN, tr.229 – 230 20. Một bọc sinh đôi (Cao Bá Quát)

Khi Tự Đức lên ngôi (1848) thì Cao Bá Quát vẫn còn phải làm một chức quan nhỏ (hành tẩu) ở bộ. Tự Đức nghe tiếng hai anh em họ Cao đã lâu, một hôm bèn cho triệu Cao vào điện đề xem mặt và hỏi thử tài học. Vua ra đùa một vế đối rằng: “Nhất bào song sinh, nan vi huynh, nan vi đệ” Nghĩa là: một bọc sinh đôi, khó làm anh; khó làm em, ý chỉ hai ông Đạt và Quát sinh

một lần, khó biết ai là anh ai là em.

Cao liền đối lại một cách rất khéo léo : “Thiên tải nhất ngộ, hữu thị quân, hữu thị thần” Nghĩa là: nghìn năm gặp một, có vua ấy, có tôi ấy. Ý Cao Bá Quát muốn nói có ông

vua tài giỏi (như Tự Đức), thì mới có người bề tôi tài giỏi (như Cao Bá Quát).

Tự Đức rất hài lòng về vế đối này. Tuy nhiên, nhà vua đã không lường hết được chỗ thâm thúy của vế đối, vì câu này cũng còn có thể hiểu theo nghĩa khác: Có ông vua như Tự Đức thì cũng có người bề tôi như Cao Bá Quát để đối chọi lại (có ý “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”). Và đó cũng chính là cái ý lắt léo của họ Cao.

Nguồn: GTVHVN, tr.230 – 231.

21. Khóc mướn kiếm ăn (Cao Bá Quát)

Có một lần Cao Bá Quát đi thăm bạn ở xa. Bạn đi vắng, ông phải trở về, bụng đói mà tiền thì đã hết nhẵn. Đang di lang thang thất thểu, chợt nghe gần đấy có kèn trống đám ma. Quát theo chừng lần tới nơi. Hỏi ra biết là đám tang một ông cụ già nhà khá giả. Quát liền bước vào nhà, thấy quan viên ngồi chật ních trong rạp. Ở chính giữa rạp, thấy có dăm bảy ông râu dài, ngồi chễm chệ trên chiếu cạp điều, đang ngất ngưởng nói chuyện chữ nghĩa, lại thấy hiếu chủ chấp tay bẩm báo chầu chực, nên Quát đoán là văn thân hào mục, hay cử tú gì đó.

Quát liền tới gần hiểu chủ nói: - Tôi là khách qua đường này chẳng may cụ năm mươi về chầu Phật, bụng tôi lấy

làm cảm động lắm. Nên xin vào phúng cụ vài câu rồi đi.

Mấy vị ngồi chiếu cạp điều nghe Quát nói thế thì muốn lên mặt đàn anh, vừa rung

đùi vừa hất hảm hỏi:

- Thế nhà thầy ở đâu qua đây? Làm nghề gì? Quát thưa: - Bẩm các quan, tôi ở làng bên đi dạy học về qua đây. Các ông lại tranh nhau hỏi: - Dạy học à? Thế đã thi cử khoa nào chưa?

PL179

Quát đáp : - Bẩm cũng có theo đòi vài ba khoa, nhưng đều hỏng cả. Về nhà văn dốt vũ dát nên

đành phải đi gõ dầu trẻ!

Các quan viên lại hỏi luôn: - Ồ thế nhà thầy định phúng cầu đối Nôm hay chữ đấy? Quát trả lời: - Bẩm có mấy chữ đã dạy trẻ hết mất rồi, giờ xin làm Nôm thôi ạ! Các ông đàn anh được thế lại lên giọng: - Ừ, thế thì làm đi rồi các cụ sẽ phủ chính cho! Quát bèn hẳng dặng rồi ngâm nga rằng: “Thấy xe thiên cổ xịch đưa ra, không thân thích nhẽ đâu mà khóc mướn? Tưởng sự bách niên đùng nghĩ đến, động can tràng nên nỗi phải thương vay!” Các quan viên nghe xong đều lè luỡi thán phục, kéo ngay Quát lên chiếu cạp điều mời cùng đánh chén. Đến sau rượu đã ngà ngà, mấy ông cứ gạn hỏi mãi, Quát đành phải xưng tên thật. Thế là ông nào ông nấy giật mình thon thót, đứng vội dậy chắp tay xin lỗi Quát rối rít.

Nguồn: GTVHVN, tr.231 – 232

22. Bịa thơ tài hơn vua (Cao Bá Quát)

Tự Đức vốn là vua sính thơ và hay khoe thơ mình. Nghĩ được câu thơ nào thường

vẫn đem đọc cho quần thần nghe và lấy làm tự đắc lắm.

Một hôm, sau buổi chầu, Tự Đức nói với các quan: - Đêm qua trẫm nằm mơ làm được hai câu thơ thật kỳ lạ, để trẫm đọc cho các khanh

nghe. Rồi đọc luôn:

“Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ, Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai” Các quan nghe xong đều lấy làm lạ vì chưa hề được nghe lối thơ vừa chữ vừa Nôm ấy bao giờ, nhất là hai chữ “khề khà”, “lấm tấm” nghe thật thú vị. Còn Cao Bá Quát lúc bấy giờ cũng có mặt ở đấy, thì thản nhiên mà tâu rằng:

- Tâu bệ hạ, tưởng gì chứ hai câu ấy thì từ hồi còn để chỏm đi học, thần đã được

nghe rồi ạ. Thần được nghe cả bài tám câu kia, nếu bệ hạ cho phép, thần xin đọc lại tất cả.

Tự Đức đang hí hửng về mấy câu thơ dở chữ dở Nôm rất độc đáo của mình, không dè lại bị Quát dội một ráo nước lạnh thì tức lắm, vì rõ ràng hai câu thơ đó chính ông ta đã nghĩ ra. Tuy nhiên, ông ta vẫn cố trấn tĩnh bảo Quát đọc cho nghe cả bài thơ, với thâm ý nếu không đọc được thì sẽ trị cái tội khi quân ấy cho hả giận.

Còn đình thần cũng bực tức là Quát dám cả gan xúc phạm đến vua, và họ dang chờ một trận lôi đình. Ông nọ lắm lét nhìn ông kia, không khí triều đình trở nên căng thẳng, nặng nề khác thường...

Quát bình thản suy nghĩ một lát như để nhớ lại một bài thơ lâu ngày không nhìn đến,

rồi cất giọng sang sảng ngâm rằng:

“Bảo mã tây phương huếch hoác lai, Huyênh hoang nhân tự thác đề hồi. Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ,

PL180

Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai. Xuân nhật bất văn sương lộp bộp, Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài. Khù khờ thi tứ đa nhân thức, Khệnh khạng tương lai vấn tú tài”. Dịch là: Ngựa báu từ phía Tây huếch hoác lại, Người huênh hoang nhờ cậy dìu về. Trong vườn oanh hót giọng khề khà, Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm, Ngày xuân chẳng nghe tiếng sương rơi lộp bộp, Tiết thu chỉ thấy mưa bài nhài. Tứ thơ khù khờ đã nhiều người biết, Khệnh khạng còn mang đến hỏi tú tài.

Bài thơ vừa dọc dứt, cả đình thần hoang mang nhìn nhau, còn Tự Đức thì biết đích là Cao Bá Quát chơi xỏ mình, nhưng cũng rất sửng sốt và hết sức thán phục. Vua sai lấy chè và quế ban cho Quát và bắt Quát phải thú thật là đã bịa thêm sáu câu.

Nguồn: GTVHVN, tr.232 – 234. 23. Không biết chữ chi (Cao Bá Quát)

Cao Bá Quát lả người rất ngông nghênh ai cũng biết. Nhưng Cao cũng nổi tiếng là người tự phụ về chữ nghĩa. Bình sinh, Cao Bá Quát chưa phục thơ văn của ai bao giờ. Tương truyền, ông từng vỗ bụng khoe: “Trong thiên hạ có bốn bồ chữ, riêng bụng thằng Quát này chứa hai bồ, anh ta Cao Bá Đạt và bạn ta Phương Đình Nguyễn Văn Siêu giữ một bồ, còn một bồ nằm rải rác ở mọi người”.

Khi Quát làm Hảnh tẩu – một chức quan nhỏ ở trong kinh, nghe đồn Mạc Vân thi xã có rất nhiều danh sĩ làm thơ hay, nhưng Quát đọc một số bài thơ xong lại bịt mũi mà ngâm trước mặt mọi người hai câu rằng: Ngán cho cái mũi vô duyên, Câu thơ Thi xã, con thuyền Nghệ An. Có ý chê thơ của Thi xã khắm (như thuyền chở nước mắm ở Nghệ An), không ngửi

được.

Đến hồi cụ thân sinh ra Quát mất, mọi người đem đối trướng đến phúng viếng rất nhiều, song Quát đọc một câu bĩu môi chê dở. Bỗng một buổi chiều nọ, có cụ già chống gậy, tới nhà tự xưng là bạn cũ của cụ thân sinh Cao Bá Quát, nghe tin bạn mới mất nên tìm đến thăm viếng. Rồi ông lão mượn cớ mắt kém nên nhờ Quát lấy giấy bút viết hộ câu đối để phúng viếng người bạn quá cố. Đặng, ông lão đặng hắng rồi đọc to: “Chi”. Quát không ngờ ông lão lại đọc chữ một như vậy, thành ra đâm lúng túng, ngập ngừng, chưa biết hạ chữ “Chi” nào (vì chữ “Chi” có rất nhiều chữ đồng âm). Ông lão lại đọc tiếp: “Chi”. Mà Quát vẫn cầm bút mặt ngẩn tò te, rồi không biết xoay sở ra sao, Quát đành phải hạ thấp giọng:

- Bẩm cụ, chữ Chi nào ạ? Ông lão thở dài:

PL181

- Trời ơi, sao bảo anh có hai bồ chữ kia mà, thế mà một chữ “Chi” cũng không biết

viết? Quát vừa ngượng, vừa cay cú, mặt đỏ bừng bừng. Bây giờ ông lão mới thủng thẳng đọc luôn cả hai vế đối như sau: Chi chi ngũ bách niên tiền, lục thủy thanh sơn hà xứ tại, Tại tại tam thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy cánh hà chi.

Nghĩa là:

Đó đó trước năm trăm năm, nước biếc non xanh nào chốn cũ, Kìa kìa ngoài ba ngàn dặm. hoa đào nước chảy dạt đi đâu?

Quát giật mình kinh ngạc câu văn siêu nhiên, thoát tục, hàm ý tiếc thương da diết mà man mác bâng khuâng “ảnh cũ người xưa đâu tá”; đặc biệt là cách điệp chữ thật tài tình, hiếm lạ. Ông lão đi xa rồi mà Quát còn cứ bàng hoàng như tỉnh như mơ. Nguồn: GTVHVN, Tổng tập VHDGNV, tr.317 – 319.

24. Miệng kẻ sang, đồ nhà khó (Trạng Quỳnh)

Khoảng giừa thể kỷ 18, có trạng Quỳnh là một nhân vật rất nổi tiếng trong việc dùng thơ văn đề đả kích bọn phong kiển thống trị đương thời. Theo lời truyền lại thì trạng Quỳnh tên thật là Nguyễn Quỳnh, quê ở làng Đột Thượng, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, không rõ Quỳnh sinh và mất năm nào, chỉ biết Quỳnh sống vào khoảng Lê Hiển Tông (1740 -1786). Quỳnh là người học giỏi và thông minh, láu lỉnh, năm 16 tuổi đã đậu Hương cống nên người ta cũng thường gọi là cống Quỳnh. Quỳnh không đỗ trạng nguyên bao giờ, nhưng tục vẫn gọi Quỳnh là trạng, vì tài ứng đối lanh lẹn, tài tình của ông.

Thuở Quỳnh còn ít tuổi, có viên quan huyện vừa gian tham lại vừa hống hách, dân chúng ai ai cũng căm ghét. Một lần, Quỳnh trông thấy viên quan huyện đi hành hạt chế vào quán nọ nghỉ trưa. Hắn ta ngồi bệ vệ, miệng luôn luôn bỏm bẻm nhai trầu, Quỳnh định xỏ hắn một đòn chơi, mới mon men lại “ngồi chực” ở trước quán, và khi viên quan ăn trầu xong, vứt bã đi, Quỳnh liền nhặt lấy giơ lên ngắm nghía, rồi bỏ vào túi.

Viên quan thấy lạ mắt, cho đòi Quỳnh lạt hỏi tên tuổi, nghề nghiệp. Quỳnh xưng là

học trò. Viên quan bảo: Học trò ai mà lẩn thẩn thế?

Quỳnh thưa: Bẩm, tôi thấy tục ngữ có câu “Miệng kẻ sang có gang có thép”, nên tôi

muốn thử xem gang thép ra sao!

Viên quan thấy Quỳnh có ý mỉa mình liền nạt: Nếu là học trò thì lập tức phải đối

ngay câu tục ngữ ấy, không là sẽ đánh đòn. Quỳnh vờ sợ sệt:

- Bẩm thế thì khó quá ạ! Viên quan được thế càng quát già: - Khó cũng phải đối, mau! Quỳnh bấy giờ mới thưa: Bẩm có sơ suất gì quan tha tội cho thì mới đám đọc ạ! Được hắn bằng lòng, Quỳnh liền đắng hặng rồi đọc to và rành rọt từng tiếng. Bẩm

xin đối là: “Đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm!”

Viên quan thấy câu đối xỏ xiên quá nhưng tục ngữ lại đối với tục ngữ mà chữ nào chữ ấy chọi nhau chan chát, thành ra không bẻ vào đâu được, đành giả vội tiền bàn rồi thét lính võng đi thẳng.

Nguồn: GTVHVN, tr.159 – 160.

PL182

25. Chó khôn chớ cắn càn (Trạng Quỳnh)

Khi còn nhỏ, Quỳnh vì có khiếu thông mình nên ai cũng có bụng yêu mến, thường hay chòng ghẹo. Một hôm nhân nhà có giỗ, đang làm thịt lợn, ông Tú Cát đến chơi thấy Quỳnh đứng xem mổ lợn, liền chạy tới beo tai và ra cho một vế đối bảo hễ đối được thì mới tha. Quỳnh xuýt xoa kêu đau và giục ra câu đối ngay. Ông Tú bèn mượn hai quẻ trong bát quái đọc rằng :

“Lợn cấn ăn cám tốn”

Quỳnh không ngần ngại nghĩ, đối luôn:

“Chó khôn chớ cắn càn”

Cũng dùng chữ trong bát quái mà lại có ý xược ngầm, bảo ông tú này có khôn thì đừng ra câu đối càn nữa. Ông Tú biết vậy nhưng cũng phải chịu là giỏi, tha ngay không beo tai Quỳnh nữa.

Nguồn: GTVHVN, tr.160 – 161. 26. Tú Cát – Bọ hung (Trạng Quỳnh)

Khi còn nhỏ, trạng Quỳnh đã nổi tiếng thông minh và tinh nghịch. Một hôm có khách là ông Tú Cát đến chơi nhà, ông bố sợ Quỳnh nghịch mới bắt ra đúng hầu trà. Khách thấy ông bố khoe con học thông minh, liền ra một cầu đổi bắt Quỳnh đối:

“Trời sinh ống Tú Cát”.

Câu này có ý hợm hĩnh, kiêu căng. Quỳnh nghe tức mình bèn đối ngay rằng :

“Đất nứt con bọ hung”

Vừa hạ khí thế của ông Tú lại vừa chơi chữ rất hay. (Cát là lành đối với hung là dữ). Tú Cát thấy trạng quả có tài, mẫn tiệp khác thường, nên tuy giận mười mươi mà vẫn yêu, chẳng những không mắng mà còn giúp thêm tiền cho trạng ăn học.

Nguồn: GTVHVN, tr.161.

27. Quân tử chí, xã tắc thần (Nguyễn Quý Đức)

Đời Lê trung hưng có Nguyễn Quý Đức, tự là Thế Nhân, hiệu là Dương Hiệu, người xã Thiên Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Đông, là người thông minh lạ thường. Ông đỗ Thám hoa niên hiệu Vĩnh Trị đời Lê Hy Tông (1676 – 1705).

Tương truyền, thời còn để chỏm, Đức đã nổi tiếng văn hay chữ tốt. Một hôm, sau khi học buổi sáng, lúc trở về qua một quán nước, Đức ghé vào chơi, chợt có ông huyện đi qua cùng vào nghỉ. Ông huyện thấy Đức có mặt mũi sáng sủa, bèn hỏi rằng:

- Cậu đã đọc sách gì rồi? Đức đáp đã học sách Luận ngữ. Ông huyện liền ra một vế đối, dùng toàn chữ Luận

ngữ:

Thực vô cầu bão, cư vô cầu an, quân tử chí. Nghĩa là: Ăn không cầu no, ngủ không cầu yêu, đó là chí của người quân tử. Đức ứng khẩu đối ngay, cũng dùng toàn những chữ trong sách ấy: Chiêu chi bất lai, huy chi bất khứ, xã tắc thần. Nghĩa là: Vẫy tay không chịu lại, xua chẳng chịu đi, đó là bầy tôi xã tắc. Ông huyện rất kinh ngạc, khen ngợi mãi.

28. Ếch ngôi đáy giếng (Nguyễn Đăng Cảo)

Thời Lê trung hưng, có Nguyễn Đăng Cảo là một người nổi tiếng trong việc ứng đối.

PL183

Nguyễn Đăng Cảo quê ở làng Hoài Bão, huyện Tiên Du, Bắc Ninh, không rõ năm sinh và năm mất, chỉ biết ông đậu Thám hoa vào khoảng Lê Hi Tông (1676 – 1705).

Bấy giờ, vua Khang Hi nhà Mãn Thanh sai sứ sang nước Nam, buộc mọi người phải gọt đầu gióc tóc giống như người Mãn. Được tin ấy, vua Lê Hi Tông lo lắm, liền tức tốc sai Nguyễn Đăng Cảo lên ải Nam quan tiếp sứ nhà Thanh để tìm cách thoái thác. Lên đến cửa ải, sau khi đã đem lẽ lợi hại ra để biện luận với sứ giả, Đăng Cảo liền làm một bài biểu gửi sứ giả mang về cho vua Thanh. Vua Thanh xem tờ biểu, phục tài hùng biện của Đăng Cảo, bèn hạ chiếu bãi bỏ việc ấy đi.

Ít lâu sau, Đăng Cảo có dịp đi sứ sang nhà Thanh, vua Thanh thấy Đăng Cảo hay

chữ, bèn ra câu đối như sau:

Lão khuyển lạc mao, do hướng đình tiền phệ nguyệt. Nghe câu đối đầy giọng khinh miệt, Đăng Cảo bực tức bèn đối lại như sau: Tiểu oan đoản cảnh, mạn cư tỉnh để khuy thiên. Nghĩa là: Ếch con ngắn cổ, cũng ngồi đáy giếng dòm trời. Câu trả lời thật ngang tàng, có ý mỉa mai bọn thống trị Mãn Thanh kiến thức hẹp hòi, như ếch ngồi đáy giếng, tầm mắt chỉ thấy trời bằng miệng giếng. chớ có biết đâu là trời rộng bao la.

Vua Thanh thấy Đăng Cảo đối đáp cứng cỏi, khen là người có dũng khí, và tỏ vẻ rất kính trọng ông. Từ đấy, triều Khang Hi và Thanh không còn sách nhiễu gì nước Nam ta nữa.

Nguồn: GTVHVN, tr.134 – 135.

29. Phong nguyệt vô biên (Nguyễn Đăng Cảo)

Tục truyền Nguyễn Đăng Cảo tính nết bừa bãi, phóng túng, ngông ngạo. không coi ai

vào đâu cả; ngoài thịt chó và rượu ngon, không còn ham thích gì nữa.

Ngày ông vào điện thí, đáng lẽ đỗ đầu, nhưng vì tính ông như thế, triều đình mới đánh xuống hàng thứ ba (Thám hoa). Ông cũng biết vậy nên khi con giai ông là Nguyễn Đăng Tuân sinh con đầu lòng là Nguyễn Đăng Đạo, mỗi lần bế cháu, ông thường nựng rằng: Triều đình ghét tao cứng cổ, không cho đỗ Trạng nguyên, nhưng thằng bé này mà không cho đỗ trạng thì không được đâu!

Thường ngày ở trong triều, ông nói năng không sợ gì cả, do đó, cũng mấy lần bị

biếm truất.

Khi sứ nhà Thanh sang sách phong, đi đến trạm Xương Giang thì dừng lại, đưa cho chúa Trịnh một vuông gấm, viết một chữ Càn (乾) thật to. Cả triều không ai giải đoán được, chúa Trịnh phải đặc triệu ông vào để hỏi.

Ông thưa rằng, cái trò đánh đố nhỏ nhặt ấy, bõ bèn gì mà chúa thượng phải bận lòng suy nghĩ. Rồi ông cầm bút quệt đẫm mực viết một nét sổ () để trả lời. Chúa hỏi duyên cớ, ông nói:

- Tượng của quẻ Càn có 3 nét ngang (三) thêm vào nét sổ thì thành chữ Vương (王), có

thế thôi.

Thời gian ông làm chánh sứ sang cống nhà Thanh, một bữa đi qua một cái chùa rường cột hết sức lộng lẫy, viên sứ Thanh cùng đi theo mời ông viết mấy chữ “biển ngạch”

PL184

(bức hoành phi). Ông liền viết ngay hai chữ “Trùng nhị” (虫 二). Cả sứ bộ nhà Thanh đều phân vân không hiểu sứ giả Việt Nam nói gì. Cuối cùng, Nguyễn Đăng Cảo mới cười mà giải thích rằng:

- Đây là bốn chữ: “Phong nguyệt vô biên” viết giản lược. Đây là chữ có sẵn trong sách, có nghĩa là: Gió trăng vô tận, không có bến bờ nào. Nhưng đồng thời cũng có ý nghĩa thứ hai là: Chữ Phong (風), chữ Nguyệt (月) mà không có nét ngoài biên. Bởi thế, ở đây, Đăng Cảo chỉ cần viết một phần của hai chữ ấy (虫 二) là đã nói lên ý niệm cả câu: “Phong nguyệt vô biên”.

Thật là thông minh và dí dỏm. Sứ nhà Thanh và những người đi cùng đều hết sức

kính phục tài mẫn tiệp tuyệt vời của Nguyễn Đăng Cảo.

Nguồn: GTVHVN, tr. 135 – 137.

30. Hà túc toàn giã, bất diệt lạc hồ (Vương Toán)

Vào khoảng thời Lê, có Vương Toán, bố mẹ mất sớm nhà nghèo mà học rất giỏi. Toán lại ham học, thường tìm cách đi với người ta để vừa kiếm ăn, vừa học hành. Toán khôi ngô, tuấn tú, lại rất si tình. Nhưng tương truyền hễ Toán ở lại nhà nào thì nhà ấy lại cháy; lại cái tật đọc sách cứ bô bô làm cả nhà không ai ngủ được. Vì vậy, không ai dám chứa Toán. Toán phải đi chăn vịt và ở luôn lại lều vịt ngoài đồng mà học cho mọi người khỏi kêu.

Một hôm, đang ngồi trong lều vịt, có một toán lính ảo đỏ nẹp xanh đi tời. Toán cố nhìn, thì thấy họ võng theo một cô tiểu thư chừng 17, 18 tuổi, nhan sắc tuyệt vời. Toán liền chạy xổ ra, bám riết đoàn khiêng võng để nhìn cô gái. Bọn lính hò hét mắng nhiếc mấy cũng không lui. Cô tiểu thư trông thấy anh chàng khố rách áo ôm ấy cứ chạy theo võng nhìn mình chằm chằm như vậy thì vừa bực mà cũng vừa buồn cười. Tiểu thư vốn là con độc nhất của rất yêu quý của quan Đô úy trong triều. Về đến dinh, cô mách chuyện với bố và chỉ Vương Toán vẫn còn đứng thập thò ngoài cổng.

Viên Đô úy nghe con gái nói, giận quá, sai lính ra lôi cổ anh chàng si cuồng kia vào. Ai cũng tưởng anh chàng này thấy thế, sẽ ba chân bốn cẵng chạy thoát lấy thân. Không ngờ anh ta lại hí hửng theo lính vào ra mắt quan.

Quan mắng về tội vô lễ đối với tiểu thư, thì Vương Toán trả lời: - Tôi chưa từng thấy ai bắt tội người nhìn hoa. Huống hồ một người con gái đẹp còn

hơn một bông hoa đẹp. Tôi thấy đẹp, tôi cố nhìn, cớ sao lại bắt tội tôi?

Quan nghe lý sự cứng cỏi, hỏi tên, nghề nghiệp, anh ta nói thật cả. Quan bảo: - Có phải là học trò thực thì ta ra thử một vế đối. Đối được, ta sẽ tha tội cho. Rồi viên quan đọc: Trai họ Vương, đầu đội nón trác, tuổi hai mươi, hà túc toán giã.

Câu này chắp chữ Vương (王) và chữ Trúc (竹) và chữ Trấp (廾) là hai mươi thì

thành chữ Toán, chỉ vào tên anh học trò. Ngoài ra, trong câu ấy đã cố ý nhắc đến chữ Vương và chữ Toán. Hơn nữa, câu này lại dùng chữ liền trong sách Luận ngữ: “Hà túc toán giã” (Nào có đáng kể gì?). để chỉ thái độ sẵn sàng của Vương Toán.

Thật là một vế đối hóc búa, bao nhiêu là nút buộc khó gỡ đều nằm trong đó cả. Vương Toán nhân lúc đứng ở ngoài cổng đã dò hỏi và được biết quan Đô úy họ Bạch

PL185

và cô tiểu thư tên là Lạc, năm ấy mười tám tuổi. Toán liền ung dung đối lại rằng:

Gái họ Bạch, lưng thắt dây tơ, xuân mười tám, bất diệc lạc hồ? Câu này chắp chữ Bạch (白), chữ Ty (丝) và chữ Thập bát (十 八) thì thành chữ Lạc

(樂) chỉ vào họ và tên cô gái. Rồi trong câu cũng lại có hai chữ Bạch và Lạc. Mà tài hơn

nữa là cũng lại dùng chữ liền trong Luận ngữ: “Bất diệc lạc hồ” (Há cũng vui sao?). Ý nói giá anh ta mà lấy được cô tiểu thư đây thì há chẳng vui sao?

Quan thấy Toán đối chọi tài tình như vậy, phục là hay chữ, liền bằng lòng gả con gái

cho anh ta. Hỏi ý kiến thì cô ta cũng bằng lòng.

Nguồn: GTVHVN, tr.145 – 147. 31. Chết vì câu đối (Ngô Thì Nhậm)

Ngô Thời Nhiệm người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, sinh năm Cảnh Hưng thứ 7 (1746) và mất vào năm Gia Long thứ 3 (1803). Thuở nhỏ, Nhiệm học giỏi, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 36 (1775) đậu tiến sĩ, vừa tròn 30 tuổi. Lúc đầu ông làm quan với nhà Lê; khi Lê mất, ông được vua Quang Trung trọng dụng, việc ngoại giao của triều Tây sơn với nhà Thanh lúc bấy giờ đều do ông đảm nhiệm. Về sau, ông được thăng đến chức Binh bộ thượng thư, tước Tinh phái hầu và được cử làm chánh sứ sang giao thiệp với nhà Thanh.

Nhiệm có một người bạn học cùng tỉnh là Đặng Trần Thường, hai người vẫn hay đi lại bàn chuyện thế sự với nhau. Khi đã ra làm quan với nhà Tây Sơn, nhiều lần Nhiệm đã giúp đỡ Thường tiền nong, vì Thường hay chơi bời thành túng thiếu. Về sau, muốn khích lệ bạn, Nhiệm bảo Thường :

- Anh phải cố chí lập thân, chứ chẳng lẽ cứ ăn chơi ngông nghênh suốt đời như vậy sao? Thường cho là bạn khinh mình, tức giận lắm, liền vào Nam theo Nguyễn Ánh đánh lại Tây Sơn.

Đến lúc Gia Long lấy được Bắc hà thì Ngô Thời Nhiệm đã về trí sĩ. Nhưng vì có chiếu bắt các cựu thần Tây Sơn phải ra đầu thú, nên Ngô Thời Nhiệm cùng với Phan Huy Ích và một số đồng liêu khác đều phải đến trình diện ở Thăng Long.

Lúc này Đặng Trần Thường được cử làm chức tán lý Bắc thành. Vốn có hiềm khích với Nhiệm như trên đã nói, nay nhân được dược dịp báo thù, Thường cho đòi Nhiệm cùng bọn Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Phan... ra Văn Miếu kể tội một hồi, rồi ra riêng cho Nhiệm một vế câu đối:

“Ai công hầu, ai khanh tướng, trên trần ai, ai dễ biết ai?”

Thường có ý hợm hĩnh hòng làm nhục Nhiệm. Nhưng Nhiệm đời nào chịu khuất

phục con người đê hèn như vậy, ông ngang nhiên đối ngay:

“Thế Chiến quốc, thế Xuân thu, gặp thời thế, thế thời phải thế!”

Thấy ông không chịu nhún nhường, Thường tức lắm nói rằng: Tài ngươi đáng khen, nhưng đầu ngươi không đáng để. Rồi Thường tuyên bố đem Nhiệm ra đánh 30 hèo. Thường vốn chủ tâm giết Nhiệm, nên đã bảo người đánh tẩm thuốc độc vào hèo. Nhiệm về nhà được ba ngày thì chết. Lúc sắp chết, Nhiệm làm 4 câu thơ tuyệt bút, dặn người nhà gửi cho Thường. Bài thơ như sau:

PL186

Ai tai Đặng Trần Thường! Chân như yến xử đường, Vị Ương cung cố sự, Diệc thị nhĩ thu trường.

Bài thơ có nghĩa là: Thương thay cho Đặng Trần Thường, nay quyền thế lắm đấy, nhưng khác nào như con chim yến làm tổ trong một cái nhà sắp cháy, rồi sẽ khốn đến nơi. Ngày xưa Hàn Tín giúp Hán Cao Tổ, công lao lớn biết mấy mà rồi cũng bị Cao Tổ giết chết ở cung Vị Uơng. Kết cục của Hàn Tín ngày xưa cũng là kết cục sau này của ngươi đó!.

Quả nhiên ít lâu sau, Đặng Trần Thường bị Gia Long bắt giam và kết án tử. Nguồn: GTVHVN, tr.187 – 188.

32. Anh hùng đè xuống dưới (Nguyễn Công Trứ)

Các cụ bô lão còn kể rằng, Tả quân Lê Văn Duyệt là ông quan rất hống hách, đi đâu thường cũng cho quân lính dẹp đường và hò hét ôm sồm; mà hề gặp sự gì trái ý là nổi nóng lên ngay. Tương truyền khi Lê Văn Duyệt ra Bắc, binh mã kéo theo ầm ầm, nghi vệ oai nghiêm, đi tới đâu khiến người qua đường đều phải khiếp sợ lẩn tránh không ai đám nom dòm gì cả.

Nguyễn Công Trứ hôm ấy đi học về, đang ngồi nghỉ ở một cái quán bên đường. Thình lình gặp binh mã của Lê Văn Duyệt trẩy qua. Lúc đó mọi người đều xô nhau chạy táo tác. Riêng Nguyễn Công Trứ không chịu tránh đâu cả, lăn kềnh ngay ra cái ổ rơm ở đấy, rồi tiện có chiếc chiếu manh lại vớ luôn đắp lên người, đoạn cố tình kêu rèn ư ử như là đang đau nặng vậy.

Lê Văn Duyệt đi tới nghe tiếng người kêu rên, sai lính vào hỏi. Nguyễn Công Trứ đáp là : Vì sợ oai quan lớn quá nên mới phát sốt lên đây! Lính cứ y lời thưa lại, Duyệt thấy lời lẽ cấc lấc giận lắm, thân hành vào quản sai lính dựng Trứ dậy quát mắng cho một chập. Sau hỏi đến nghề nghiệp, thấy Trứ thưa là học trò, lại nhân thấy Trứ đắp chiếu nằm ổ rơm, Duyệt liền bắt Trứ phải làm một câu đối để vịnh cảnh, hẹn rằng nếu hay thì tha, nếu không sẽ bị đánh đòn trị cái tội lấc cấc.

Trứ vờ làm bộ khép nép run rẩy rồi đọc hai câu rằng: Ba vạn anh hùng đè xuống dưới,

Chín lần thiên tử đội lên trên.

Duyệt nghe xong thấy anh học trò tầm thường mà có khẩu khí to lớn cũng có ý nể,

bèn tha ngay.

Nguồn: GTVHVN, tr.212 – 213.

33. Đối chọi với sư (Nguyễn Công Trứ)

Lúc Nguyễn Công Trứ còn đi học, có lần trọ ở gần một ngôï chùa. Nghe đồn sư ông chùa đó là người hay chữ, nhưng lại rất ghét học trò. Thêm vào đó, nhà sư lại có tính hay ăn thịt chó, thường vùi nồi thịt ở bếp mà hễ ai hỏi thì cứ kêu đó là nồi cà bung.

Nguyễn Công Trứ tức cười về chuyện ấy, một bữa thử vào bếp nhà chùa đề xem hư thực ra sao. Tới nơi, quả nhiên thấy mùi thịt chó thơm lừng mà nhà sư thì đang lúi húi ở đó. Nguyễn Công Trú cố nhịn cười, hỏi han vớ vẩn mấy câu rồi cứ lần khân mãi không chịu ra. Sư ông bị người đến quấy rầy, bực mình mới đọc một câu rằng:

PL187

“Khách khứa kể chi ông núc bếp”.

Nguyễn Công Trứ ngứa tiết, cũng trỏ vào nồi thịt chó đọc:

“Trai chay nào đó vại cà sư!”

Sư ông bị vạch trần chân tướng, vội hốt hoảng chỉ vào pho tượng gần đấy mà rằng:

“Xin chứng minh cho Nam mô a di đà Phật”.

Nguyễn Công Trứ cũng trỏ lên bàn thờ táo quân mà đọc tiếp:

“Có giám sát đó, đông trù tư mệnh táo quân”.

Nhà sư túng thế, đành phải gượng bào chữa rằng:

“Thuộc ba mươi sáu đường kinh, không thần, thánh, Phật, tiên, song khác tục”.

Nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn không buông tha, nói luôn:

“Hay tám vạn tư mặc kệ, không quân, thần, phụ, tử đếch ra người”.

Rồi đó, Nguyễn Công Trứ quay gót bỏ đi. Ra đến giữa sân có hai con chó xổ ra cắn,

một chú tiểu phải ngăn mãi mới được. Nhân thế, Trứ lại buộc miệng đọc:

“Bụt cũng hiền lành sư cũng khá, Còn hai con chó chửa từ bi…”.

Nguồn: GTVHVN, tr.214 – 215.

34. Ghẹo sư (Hoàng Phan Thái)

Hoàng Phan Thái đi trọ học ở một xóm gần chùa, các bạn nói cho biết sư chùa đó chính là một ông sư hổ mang, thường hay ăn thịt chó. Thái biết chuyện, một hôm lấy giẻ quấn vào chân, đi khập khểnh đến chùa ăn xin, vin cớ là học trò nghèo lại đau ốm.

Lúc ấy đã xẩm tối, sư đang ngồi rót dầu vào đèn thờ, nghe nói là học trò, nhà sư liền

bảo rằng:

- Có thật là học trò thì ta cho ra một vế đối, làm được hay ta sẽ bố thí cơm nước và thưởng tiền cho. Nhân vừa nói chuyện, vừa rót dầu đổ vương vãi ra cả đế đèn, sư bèn tức cảnh đọc ra một câu rằng: Dầu vương cả đế

Câu này nhà sư muốn dụng ý chơi chữ, vừa nói việc dầu đổ vương vãi ra đế đèn, lại vừa muốn tỏ ra có khẩu khí đế vương, dùng hai chữ vương, đế theo nghĩa chữ Hán. Hoàng Phan Thái nghĩ bụng: “Lão trọc hổ mang này mà cũng muốn tỏ vẻ khấu khí đế vương à! Được, sẽ cho biết tay”. Rồi đó, cố tình đối liều một câu như sau:

Ỉa vãi vào sư. Nhà sư tức quá, đứng ngay dậy, xông ra chực túm lấy Thái. Nhưng Thái tinh nghịch, đã vừa chạy vừa kêu: “Ối, làng nước ới! Ối, làng nước ơi!”. Người xung quanh nghe kêu đổ xô ra hỏi duyên cớ. Thái bèn mượn câu chuyện tiếu lâm quen thuộc ở vùng đó, trả lời: “Đậu phụ chùa cắn tôi!”.

Thâm ý của Thái là muốn trỏ việc nhà sư hay ăn thịt chó. Nhà sư nghe nhắc tới

chuyện “đậu phụ” thì thẹn quá, phải quay trở vào, không dám đánh đuổi Thái nữa.

Nguồn: GTVHVN, tr.271 – 272.

35. Cọp bắt thầy tu (Hoàng Phan Thái)

Sau Tết, Hoàng Phan Thái đi vãng cảnh chùa. Khi tới một ngôi chùa có dán nhiều câu đối lòe loẹt, ông hỏi thăm, được biết đó là câu đối của một nhà sư thường tự phụ hay chữ. Ông liền xin vào thăm chùa. Tới cửa Tam bảo, thấy có câu đối như sau:

PL188

Khuyến thiện trừng dâm, Cứu nhân độ thế.

Ông Thái đọc xong mỉm cười, Nhân lúc vắng người, ông kiếm bút mực để viêt thêm

vào hai câu thành ra:

Khuyến thiện trừng dâm? Con ai đẻ tháng tư mùng tám, Cứu nhân độ thế? Của ai vay mất một đền mười.

Hai câu sư đề ra là rút ra trong sách Phật: Khuyến thiện, răn dâm và cứu người, giúp đời, Hai câu ông Thái thêm vào là rút từ tục ngữ, có ý hỏi chọc sư: đã trừng dâm sao lại có PHật sinh (ngày mùng tám tháng tư), đã cứu người sao lại còn có câu: của bụt mất một đền mười.

Ông vừa chữa xong, một chú tiểu ra bắt được quả tang, lôi ông vào sư cụ. Sư cụ hỏi về nghề nghiệp, ông Thái tự xung là học trò, đi vãng cảnh chùa ngày Tết. Sư vặn hỏi sách vở thì ông trả lời lưu loát, rõ ràng. Sư ông cũng có ý phục tài nhưng người chưa nguôi giận nên ra một câu đối bắt ông Thái phải đối, không thì sẽ đánh đòn. Nhân trước sân chùa có xây một con voi phục, sư đọc:

Cái là tượng, tượng là voi, voi chầu cửa cái

Ông Thái xin ra sân để suy nghĩ. Rồi ông đọc to câu đối lại rằng: Tu là hổ, hổ là cọp, cọp bắt thầy tu.

Đọc xong, ông phóng ra cửa, ù té chạy thẳng. Nguồn: GTVHVN, tr.272 – 273.

36. Ngon đối với rột (khuyết danh)

Tối ba mươi Tết, một cậu tú mang lễ vật đến chúc Tết quan Đô đốc tỏ ý muốn nương nhờ, xin việc làm ở công đường của quan. Quan biết ý, bèn ra câu đối để thử sức:

“Đô đốc chính là quan, rèm thưa sáo nhặt chỉ trung mác, gươm bịt bạc, giáo

lông ngù, quân kiệu sắp hàng hai: rột!”.

Cậu tú xin đối lại: “Ba mươi cũng là Tết, nêu cao pháo kêu hạ xôi, chè đậu xanh, bánh nếp xẻ,

dưa hành đánh miệng một: ngon!”

Quan Đô đốc gật đầu khen. Chỗ ông hài lòng nhất là tiếng “ngon” vừa khen bánh nếp, dưa hành ngày Tết, vừa hàm ý ca ngợi uy danh ông, tương xứng với “rột”. Quan hứa sẽ nhận cậu ta vào làm việc. (Nguồn: Văn Nhĩ, Thử tài người xin việc, Tập san Nghiên cứu Văn hóa dân gian Thừa Thiên Huế, số 12 – 2005, tr. 150), dẫn lại theo Triều Nguyên, GTVHDGNV, Tập 2, tr.62.

37. Ọt ẹt bất ọt ẹt (khuyết danh)

Thầy đồ nọ dạy học trò ở nhà mình, có khoảng bảy tám em, ở độ tuôi mười ba, mười lăm. Chiều hôm ấy, một nhóm học trò đi học hơi sớm hơn thường lệ. Chúng thấy nhà thầy cửa đóng kín, nhưng nghe bên trong có tiếng động: chiếc giường tre kêu ọt ẹt, ọt ẹt... Chả là thầy mới cưới vợ.

Chúng thì thầm nói chuyện và cười khúc khích với nhau. Thầy đồ biết ngay

bên ngoài là đám học trò. Đề chữa thẹn, thầy dậy hé cửa, đằng hắng, bảo:

PL189

- Bọn bây hãy đợi đó! Nêu đối được câu này, thì thầy sẽ mở cửa cho vào: Sĩ đáo ngoại gia, thầm bất thầm, thì bất thì, thầm thì thầm thì. Bọn học trò rút lui sau vườn bàn bạc. Sau đó, một tên láu cá trong đám tiến đến

cửa, nói vọng vào:

- Thưa thầy, bọn con xin đối lại thế này: Sư ngoạ trung phòng, ọt bất ọt, ẹt bất ẹt, ọt ẹt, ọt ẹt.

Khảo dị:

Câu đối được kể, tương tự với câu đối trong một giai thoại về Cao Bá Quát và

Nguyễn Văn Siêu, chép ở GTVH, [212-213], như sau lược ghi:

Một hôm, Cao Bá Quát từ Bắc Ninh sang Hà Nội chơi, đi ngang qua một nhà nghe có tiếng bình văn, liền bước vào xem thử. Quát thầy một thấy đồ trẻ, đang ngồi trên cái chõng tre cũ kỹ, xiêu vẹo, còn học trò ngồi ở một chiếc chiếu trải giữa nền nhà. Thầy đồ ấy là Nguyễn Văn Siêu. Siêu thấy Quát, hỏi:

- Anh kia, đi đâu mà thơ thân thế? Quát đáp: - Tôi là học trò, nhân đi ngang, tiện thể ghé vào thăm. Siêu nói: - Có phải là học trò thì hãy đối thử một vế đối đã nhé! Rồi Siêu đọc: Tiên sinh tọa tịch thượng, cót chỉ két, két chỉ cót, cót cót két két. Cao Bá Quát đối ngay: Tiểu tử nhập đình trung, thẩn chi thơ, thơ chi thẩn, thẩn thẩn thơ thơ. Nguyễn Văn Siêu rất phục. Hỏi ra mới biết là Cao Bá Quát, người nức tiếng học giỏi. Từ đó, hai người thường đi lại, đàm luận sách vở, thời cuộc với nhau, và trở thành bạn tri âm.

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 2, tr.62 – 64.

38. Đội ra ông phủ (khuyết danh)

Một quan tri phủ đang trên đường đi hành hạt, thì gặp một anh thư sinh. Thư sinh thấy quan nhưng không chào, bị bắt tội vô lễ. Nghe chàng thưa là học trò, quan vốn không chữ nghĩa gì nhiều cho lắm, nhưng cũng tỏ mặt quan, ra một vế đối, bảo đối được thì tha. Anh học trò vâng dạ. Quan ra rằng:

Quan là mũ, để thì mới, đội thì cũ, đội ra tri phủ. Chàng thư sinh đối ngay: Luân là l…, nguyên thì méo, đ… thì tròn, đ… chắc có con. Quan nổi giận vì chàng thư sinh xấc xược, dám đem cái ấy mà đối với cái quan

đội, bèn lôi về công đường làm án, cho giải lên vua.

Vua đọc bản án, hỏi anh thư sinh: - Nhà ngươi dám xấc xược với quan trên đến thế à? Anh ta tâu: - Kẻ bề tôi có đối, nhưng đối khác kia. - Ngươi đối thế nào, đọc cho ta nghe! - Dạ muôn tâu, con đối là:

PL190

Đái là đai, thắt thì ngắn, buông thì dài, thắt để lên ngai. Vua khen hay. Tuy biết là anh mới bịa ra song cho thế là cũng thông minh lắm,

bèn tha tội.

Nguồn: GTVHDGNV,Tập 2, tr.65 – 66.

* GIAI THOẠI VĂN HỌC VỀ ỨNG TÁC VĂN CHƯƠNG 1. Bị trói vẫn làm thơ (Lý Công Uẩn)

Theo truyền thuyết, Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh

(nay thuộc Hà Bắc), là một nhân vật khá kỳ lạ.

Tương truyền ông không có cha, bà mẹ Phạm Thị Nhân đi chơi chùa Tiêu Sơn, ở phủ Từ Sơn, Bắc Ninh, nằm mộng thấy đi lại với thần nhân về có thai mà sinh ra ông. Nhưng có thuyết lại nói Phạm thị là một bà góa chồng đến làm thuê ở chùa Cổ Pháp, người trụ trì chùa ấy là sư Lý Khánh Văn “đi lại” với bà, đến khi bà thụ thai thì đuổi bà đi nơi khác.

Đến ngày sinh đẻ, bà Phạm thị bọc con trong manh áo cũ rồi mang bỏ ngoài cửa tam quan chùa Cổ Pháp. Lý Khánh Văn nghe tiếng trẻ khóc bèn ra nhặt đem vào nuôi và đặt tên là: Lý Công Uẩn. Bây giờ có câu ca dao có ở châm chọc nhẹ nhàng Khánh Văn như sau:

Con ai đem bỏ chùa này Nam mô di phật con thầy, thầy nuôi.

Công Uẩn là một chú bé khôi ngô, rắn rỏi và rất thông minh, nên được bố nuôi yêu quí và chăm sóc dạy dỗ. Lúc Công Uẩn lên sáu tuổi, học đã tinh thông mà tính lại hay tinh nghịch. Một hôm, nhà sư sai Công Uẩn đem oản lên chùa cúng Hộ pháp, chú bé liền khoét oản ăn trước. Đến đêm, Hộ pháp báo mộng cho, sư biết. Sáng hôm sau, sư gọi Công Uẩn lên mắng.

Chú bé tức lắm, lên chùa đánh cho Hộ pháp ba cẳng tay, rồi viết vào sau lưng pho tượng mấy chữ: “Đồ tam thiên lý” (đày ba ngàn dặm). Đêm hôm đó, nhà sư lại thấy Hộ pháp đến, mặt ỉu xìu, ngỏ lời từ biệt: “Hoàng để đã dày tôi ủi xa, xin có lời chào ông”. Sáng hôm sau, nhà sư lên xem pho tượng Hộ pháp thấy sau lưng quả có mày chữ “đồ tam thiên lý” thật. Nhà sư bèn sai tiểu lấy nước rửa, nhưng không sao rửa sạch được. Sau phải bảo Công Uẩn vào rửa thì chú bé chỉ lấy ngón tay xoa xoa là sạch ngay.

Khi Uẩn đã lớn, Lý Khánh Văn thấy để ở chùa mình không tiện, bèn gửi sang chùa Tiêu Sơn, nhờ sư Vạn Hạnh dạy bảo. Vạn Hạnh là em ruột Khánh Văn, một nhà sư có tài văn học và cả tài kinh luân. Ở đây, Công Uẩn vẫn không đổi nết xưa, vẫn học ít chơi nhiều. Một hôm, Công Uẩn trốn học, bị Vạn Hạnh trói lại cả đêm ở Tam quan. Canh khuya muỗi đốt, không ngủ được, Công Uẩn tức cảnh ngâm bốn câu thơ rằng:

“Thiên vi khảm chẩm, địa vi chiên Nhạt nguyệt đồng song đối ngã miền, Dạ thâm bất cảm tràng thản túc, Chỉ khủng sơn hà xã tắc điên” Dịch: Trời làm màn gối đất làm chiên, Nhật nguyệt cùng ta một giấc yẻn.

PL191

Đẻm khuya chẳng dám dang chân duỗi Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng.

Vạn Hạnh nghe thơ, cho là Công Uần có khí tượng đế vương, rất mừng, từ đó ra công dạy dỗ và lo toan cho Công Uẩn nên nghiệp lớn. Nhà sư túc trí đa mưu ấy đưa được Công Uẩn vào làm quan trong triều. Không bao lâu, nhờ tài trí của mình, Lý Công Uẩn thăng lên đến chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ là một địa vị cận thân cực to lúc bấy giờ. Khi Lê Long Đĩnh (Ngọa Triều) chết, (1009), nhận thấy lòng dân rất oán ghét nhà Lê vì những tội ác của Ngọa Triều; sư Vạn Hạnh cùng với bọn Đào Cam Mộc bàn mưu thay đổi triều đại, tôn Lý Công Uẩn lên làm vua. Nhà Lý bắt đầu từ đấy. Nguồn: GTVHVN, tr.65 – tr.67 2. Đọc thơ chê Hạng Vũ (Hồ Tông Thốc)

Hồ Tông Thốc người làng Thổ Thành, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, không rõ sinh và mất năm nào. Thuở nhỏ đã nổi tiếng thơ hay, một lúc có thể làm hàng trăm bài. Ông đậu trạng nguyên năm 1372, đời Trần Nghệ Tông, đã có lần đi sứ sang Trung Quốc. Tương truyền một hôm thuyền của sứ bộ đi trên sông Ô Giang, đến chỗ có miếu thờ Hạng Vũ được dựng ở trên bờ, người ta đồn miếu đó rất thiêng, hễ thuyền bè qua lại trên sông mà không mà không ghé vào lễ bái thì sẽ bị đắm.

Tuy có biết chuyện đó, nhưng khi qua miếu, Hồ Tông Thốc vẫn không cho đốt vàng, cứ để thuyền đi thẳng. Quả nhiên, ngay lúc đó, sóng gió nổi lên ầm ầm, chiếc thuyền tròng trành chỉ chực đắm. Hồ Tông Thốc chẳng hề nao núng, ung dung ra đầu thuyền ngâm một bài thơ:

“Quân bất quân hề, thần bất thần Như hà miếu mạo tại giang tân? Giang Đông tích nhật do hiềm tiểu Hà tích thiêu tiền bách vạn cân”

Dịch:

Vua chẳng vua mà tôi chẳng tôi, Bến sông miếu mạo để thờ ai? Giang Đông ngày trước còn chê nhỏ, Tiền giấy nay sao lại vật nài?

Hồ Tông Thốc đọc xong, tự nhiên gió lặng sóng im và người ta nói miếu từ đó mất

thiêng, thuyền bè qua lại không phải đốt vàng thắp hương nữa.

Nguồn: GTVHVN, tr.91 – tr.92.

3. Chữa thơ Vương Bột (Hồ Tông Thốc)

Vương Bột (650 – 675) là nhà thơ nổi tiếng ở đầu thời Đường. Năm ngoài 20 tuổi, nhân dịp dữ bữa tiệc mừng Tết trùng cửu, ở Đằng Vương Các, ông có làm bài thơ và tựa về Đằng Vương Các rất nổi tiếng. Sau đó, trên đường sang Giao Chỉ thăm cha, ông bị đắm thuyền và chết đuối trên sông Chương Giang.

Tục truyền từ đó khúc sông này, cứ vào khoảng đêm khuya thanh vắng, người ta

thường nghe vẳng có tiếng ngâm hai câu thơ đặc sắc trong bài “Đằng Vương các tự”:

“Lạc hà dữ cô lộ tề phi Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”

PL192

(Ráng chiều với con cò lẻ loi cùng bay Nước thu cùng trời xanh một màu)

Hồ Tông Thốc trong dịp đi sứ sang Trung Quốc, một buổi chiều tà nhân chèo thuyền chơi trên khúc sông Chương Giang, nơi Vương Bột chết đuối, được nhân dân địa phương kể cho nghe câu chuyện nói trên. Hồ Tông Thốc nghe rồi, bèn ra đứng mũi thuyền nói to rằng: “Hà tất dữ, cộng nhị tự?” (Cần gì phải dùng cả hai chữ dữ, cộng?).

Mọi người hỏi tại sao ông lại bảo như vậy, thì ông giải thích rằng: Hai câu tuy hay nhưng thừa hai chữ “dữ” và “cộng”, vì đã nói “tề phi” (cùng bay) thì mặc nhiên là có ý “dữ” (với) trong đó rồi; đã nói “nhất sắc” (một màu) thì mặc nhiên là có ý “cộng” (cùng) trong đó rồi!

Sau đó ông sửa lại hai câu thơ như sau:

“Lạc hà cô lộ tề phi Thu thủy trường thiên nhất sắc”

Mọi người nghe nói đều phục Hồ Tông Thốc là bắt bẻ có lý và cho rằng hai câu của ông về âm hưởng không bằng hai câu của họ Vương nhưng về văn tự thì quả có gọn gàng và hàm súc hơn. Rồi từ đó, trên khúc sông ấy, người ta không còn nghe tiếng ngâm thơ của oan hồn họ Vương nữa.

Nguồn: GTVHVN, tr.92 – tr.92.

4. Câu thơ kỳ lạ (Hồ Quý Ly)

Hồ Quý Ly, người làng Đại Lại, tỉnh Thanh Hóa, vì có người cha nuôi họ Lê nên còn gọi là Lê Quý Ly. Không rõ năm sinh và mất. Ông làm quan đến chức phụ chính Thái sư, rồi cướp ngôi nhà Trần (1400). Sau quân Minh sang xâm lăng nước ta, bắt Hồ Quý Ly và con là Hồ Hán Thương đem về Kim Lăng (1407). Ông là người có nhiều cải cách về kinh tế và văn hóa, thường dùng chữ Nôm làm thơ văn.

Tương truyền, Hồ Quý Ly lúc còn hàn vi, thường theo đường biển đi buôn. Một lần,

thuyền chở bàng ghé vào bờ, Quý Ly thấy trên bãi biển có ai vạch lên cát một câu thơ:

“Quảng Hàn cung ý nhất chi mai”.

Ông ta liền ngâm thuộc lòng lấy câu đó. Đến khi Quý Ly làm quan, một hôm hộ giá vua Trần đi chơi, nửa chừng ghé vào tránh nắng ở điện Thanh Thử, nhân thấy trước sân điện có nhiều cây quế, vua liền ra câu đối:

“Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế”

Các quan đi cùng, đương lúng túng chưa kịp đối lại thì Quý Ly nhớ đến câu thơ trên

bãi biển năm xưa, bèn đọc luôn:

“Quảng Hàn cung ý nhất chi mai”.

Cả hai câu ghép lại thành vế đối rất chỉnh. Tạm dịch: Thanh Thử điện kia ngàn gốc

quế/ Quảng hàn cung nọ một cành mai.

Nghe xong, các quan ai cũng phục tài Hồ Quý Ly. Riêng nhà vua, không giấu nổi ngạc nhiên nói: “Nhà ngươi làm sao biết được việc trong cung ta?”. Nguyên là vì nhà vua có một cô công chúa tên là Nhất Chi Ma, mà lại ở trong tòa lầu riêng, chính vua đã đặt tên là cung Quảng Hàn, đúng như câu thơ của Quý Ly.

Quý Ly cứ thực mà tâu lại việc trước, vua cho là số trời đã định, liền gả công chúa

cho ông ta.

PL193

Nguồn: GTVHVN, tr.98

5. Thơ đùa ả bán chiếu (Nguyễn Trãi)

Nguyễn Trãi là một danh thần thời Lê, hiêu Ức Trai, quê ở làng Nhị Khê, huyện

Thượng Phúc (Thường Tín), Hà Đông. Ông sinh năm 1380, mất năm 1442.

Năm Thánh Nguyên thứ nhất (1400), ông đỗ Thái học sinh và làm quan dưới triều nhà Hồ. Khi nhà Hồ mất, ông bị giặc Minh giam lỏng ở Đông Quan (Hà Nội). Sau ông trốn vào Lam Sơn, giúp Lê Lợi khởi nghĩa và kháng chiến chống quân Minh trong suốt mười năm trời. Kháng chiến thành công, ông thay mặt Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo nổi tiếng. Là người có công lớn trong cuộc kháng chiến chông Minh, ông được Lê Thái Tổ cho theo họ Lê và phong cho tước Quan phục hầu.

Tương truyền, một hôm đi chầu về, trời đã xâm xẩm tối, ông gặp một người con gái

bán chiếu, nhan sắc tuyệt trần, ông liền đọc bải thơ bỡn bốn câu thơ:

Ả ở đâu ta bán chiếu gon, Hỏi xem chiếu ấy hết hay còn, Xuân thu phỏng độ bao nhiêu tuổi, Đã có chồng chưa, được mấy con?

Cô gái bán chiếu tên là Nguyễn Thị Lộ, vốn xuất thân là con nhà gia thế, nên văn

chương chữ nghĩa cũng không xoàng, bèn đọc ngay một bài tứ tuyệt đáp lại:

Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon, Cớ chi ông hỏi hết hay còn, Xuân thu tuổi mới trăng tròn lẻ, Chồng còn chưa có, có chi con!

Nguyễn Trãi thấy Thị Lộ có nhan sắc lại có văn từ, bèn lấy làm vợ. Chẳng bao lâu, nàng lại được phong làm Lễ nghi học sĩ trong triều Lê Thái Tông (1434 – 1442) rất yêu mến. Rồi cũng chính vì thế mà gây ra thảm kịch rất đáng thương tâm cho gia đình và họ hàng Nguyễn Trãi. Nguyên sau hồi Lê Thái Tổ mất, Nguyễn Trãi bị bọn gian thần gièm pha nên ông đã xin về nghỉ ở Côn Sơn, Hải Dương (1440). Nhưng không được bao lâu, ông lại bị điều ra làm quan. Năm 1442, Lê Thái Tông đi duyệt binh ở Hải Dương và mất một cách đột ngột ở Lệ chi viên, Bắc Ninh. Thị Lộ vì mối quan hệ thân cận với nhà vua cũng có mặt trong khi vua chết; do đó, triều thần đã vu oan cho Nguyễn Trãi tội sai nàng hầu giết vua, rồi đem tru di cả ba họ Nguyễn Trãi.

Nguồn: GTVHVN, tr.100 – 101.

6. Xơi hai trứng (Trạng Quỳnh)

Quỳnh vốn cũng chẳng tin gì thần thánh, nhưng đang bối rối, lo lắng, gặp ai bảo sao thì bồ quao làm vậy, nghe theo ngay. Quỳnh bèn ra miếu làng khẩn với thành hoàng để xin chữa cho con mình, và hứa rằng hễ con mình khỏi bệnh thi sẽ giả lễ thật hậu.

Mấy ngày sau chẳng hiều vì lý do gì, con Quỳnh khỏi bệnh thật, Quỳnh mừng lắm. Rồi chợt nhớ tới lời hứa với thành hoàng, Quỳnh bèn sai người nhà luộc hai quả trứng gà. Sau đó, Quỳnh đem hai trứng ra đặt lên bệ thờ thành hoàng và chắp tay trịnh trọng đọc to một bài thơ như sau đề tạ ơn:

“Chú là kẻ cả trong làng, Tôi là người sang trong nước.

PL194

Đôi bên chức tước, Chẳng kém gì nhau, Vì trẻ ốm đau, Phải ra khấn vái, Phiên chợ thì trái, Không mua được gà, Nhà có con kha, Mới vừa nhảy ổ, Đem ra mà mổ, - Thì cũng thương tình Chú có anh linh, Xơi hai trứng vậy!...”

Rồi Quỳnh đề lại hai quả trứng gà và đủng đỉnh ra về. Nguồn: GTVHVN, tr.161.

7. Ngâm thơ cự thần (Nguyễn Thái Thường)

Nguyễn Thái Thường người đời Mạc, lúc còn là học trò đi cầu mộng ở núi Yên Tử. Thần báo mộng rằng đến năm 60 tuổi mới đỗ đạt. Thường thức dậy tức quá, liền ngâm một bài thơ để cự lại lời thần:

Sách thuộc, văn hay, sự chẳng ngờ, Trong ba mươi tuổi đỗ thì vừa, Thần nhân sao nói sai làm vậy? Đến sáu mươi thì đã thượng thư

Tục truyền, sau ông thực hiện được đúng như ý định: Ba mươi tuổi đỗ Tiến sĩ, sáu

mươi tuổi làm Lễ bộ Thượng thư.

Cùng thời ấy, có một người học trò còn trẻ lắm, khi sắp đi thi thì thấy thần báo mộng bảo đến ba mươi tuổi thì đỗ Tiến sĩ. Khi tỉnh dậy, anh ta bực mình, cũng làm một bài thơ để mắng lại thần:

Tiến sĩ khoa này quyết lấy tươi, Cớ chi còn đợi đến ba mươi, Thần nhân nói thế là sao vậy? Nên ở người ta, há ở trời.

Quả nhiên, khoa ấy, anh ta đỗ Tiến sĩ, và năm đó anh ta mới 21 tuổi Nguồn: GTVHVN, tr.121 – 122.

8. Đọc thơ chữa thẹn (Hồ Xuân Hương)

Trong các nhà thơ phụ nữ của chúng ta, Hồ Xuân Hương và thơ ca của bà là một

hiện tượng khác đặc biệt, được rất nhiều người đàm luận từ xưa đến nay.

Hồ Xuân Hương người làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Chưa rõ năm sinh và năm mất, chỉ biết bà sống vào khoảng cuối Lê đầu Nguyễn. Tục truyền, hồi Xuân Hương tóc còn để chỏm đi học, một hôm phải trời mưa đến sân nhà trưởng, đất trơn, cô nữ sinh trượt chân ngã oạch một cái, các bạn học thấy đều cười ầm lên. Nhưng Xuân Hương đã đứng dậy ngay, ung dung đọc hai câu thơ rằng:

Giơ tay với thử trời cao thấp,

PL195

Xoạc cẵng đo xem đất vắn dài.

Rồi cắp nón bình thản đi vào. Còn mấy chàng học trò, thấy nàng ứng khẩu tài như

thế cũng phục, không dám chòng ghẹo gì thêm nữa.

Nguồn: GTVHVN, tr.194 – 195.

9. Đánh trống qua cửa nhà sấm (Hồ Xuân Hương)

Một hôm, Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc về, nàng đang lững thững bên Hồ Tây, bỗng có mấy thầy khóa bước rảo lên, theo sát nàng ở đằng sau. Rồi các thầy giở giọng chớt nhả trêu ghẹo nàng. Có thầy lại hứng chí tung cả văn chương chữ nghĩa ra nữa.

Xuân Hương thấy họ trêu ghẹo thì vẫn lặng thinh không nói gì. Nhưng đến khi nghe cái thứ “thơ thẩn” nửa mùa ấy thì nàng không nhịn được nữa, nàng mới quay lại, đọc dồn cho các thầy một bài thơ rằng:

Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ, Lại đây cho chị dạy làm thơ. Ong non nứa nọc châm hoa rữa, Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa.

Bấy giờ các thầy khóa nghe xong, là biết ngay Hồ Xuân Hương. Riêng thầy đọc thơ lúc nãy thẹn chín người, vì trót đánh trống qua cửa nhà sấm. Rồi đó, các thầy lẩm bẩm nhau lui lại, để Xuân Hương đi trước. Nguồn: GTVHVN, tr.196.

10. Tiến sĩ triều Lê, khăn triều Nguyễn (Trần Danh Án)

Đầu thời Nguyễn, đàn thường quấn khăn nhiều vòng (giống như kiểu khăn xếp sau này) chứ không quấn khăn mỏ rìu là kiểu khăn thịnh hành từ thời Lê về trước. Riêng các quan thì đều đội mũ chứ không quấn khăn. Chính vì chuyện khăn mũ này mà Trần Danh Án, một cựu thần nhà Lê bị mắc cỡ với ông đồ quê…

Chuyện như sau: Khi Nguyễn Huệ sắp đem quân ra lấy Bắc hà, thì nhà Lê dã tàn tạ quá rồi, triều đình hầu như không còn ai là người có tài có đức nữa. Bởi vậy, Trần Danh Án vừa mới đỗ Hoàng giáp xong (khoa cuối cùng niên hiệu Lê Cảnh Hưng) thì đã bị Lê Chiêu Thống cử ngay làm sứ thần đề sang cầu cứu quân Thanh. Tình thế khẩn cấp quá, đến nỗi Án chẳng những không vinh qui, mà ngay mũ mãng cân đai đi sứ cũng không đủ thời giờ sắm sửa nữa. Lúc lên đường, trang phục của Án chỉ vẻn vẹn có chiếc nón mê và chiếc áo tơi rách. Vì thế, Án đã phải tức cảnh hai câu thơ:

“Vạn ưng truyền kỳ tuyệt sự, Tệ thoa tàn lạp sứ thần trang”. `

Dịch là:

Muôn thuở đáng truyền điều quái lạ, Sứ thần áo rách nón mê tàn.

Rồi đó, Lê Chiêu Thống bỏ kinh thành chạy trốn, ông ta đi đâu, Ấn cũng lẽo đẽo đi theo. Đến khi nhà Lê mất, một số cựu thần ra làm quan với triều Tây Sơn, rồi triều Nguyễn. Riêng Án vẫn cố chết không chịu ra.

Một lần, Gia Long tuần du Bắc hà, gọi Án tới hầu, ban cho chiếc khăn và muốn phong chức gì đó. Nhưng Án chỉ lấy có chiếc khăn, còn chức quan thì không nhận. Sau

PL196

đấy, về nhà Án lấy làm tự đắc về thái độ cư xử đó lắm, liền làm bài thơ cảm khái rằng:

“Nhân chỉ dữ vật bất đồng quần, Phong nghĩ tuy vi thượng hữu quân. Huống thị thiếu niên tằng bội phục, Kiêm tri tráng tế dĩ quan thân. Bắc Song xử sĩ do tri Tấn, Đông hải tiên sinh bất đế Tần. Tử hậu mộ bàng nhân chỉ điểm, Cố Lê triều tiến sĩ tính Trần”. Tạm dịch : Người và giống vật khác trăm phần, Ong kiến kia còn nghĩa chúa quân. Huống đã tuổi thơ khuôn lễ giáo, Lại thêm hồi lớn vẻ đai cần. Bắc song xử sĩ không quên Tấn, Đông hải tiên sinh chẳng chịu Tần. Người sau bên mộ giơ tay trỏ: Tiến sĩ triều Lê cũ họ Trần.

Làm xong, chợt có ông đồ bên láng giềng sang chơi. Án rung đùi ngâm lại cho nghe. Ông đồ khen hay, nhưng chê câu cuối là thất niêm, vì ở chỗ chữ tính là vần trắc, đáng ra phải có một chữ vần bằng kia. Ông đồ xin phép sửa. Án cũng nhận thấy như vậy, nên bằng lòng ngay:

- Nhân ghét lối khí khái rởm của Án, ông đồ bèn sửa rằng:

“Tử hậu mộ bàng nhân chỉ điểm. Lê triều tiến sĩ, Nguyễn triều cân”

Dịch là:

Bên mộ người sau tay chỉ bảo Triều Lê tiễn sĩ, Nguyễn triều khăn.

Ý ông đồ muốn chửi xỏ Án: đã tỏ ý bất hợp tác không nhận quan chức của triều Nguyễn, mà lai còn đi nhận khăn của Gia Long ban, thì chẳng qua cũng chỉ là khí khái rởm.

Thì ra lúc ấy Án vẫn đội lù lù cái khăn do Gia Long ban cho. Vừa cáu vừa thẹn, y giật chiếc khăn ném xuống đất nhưng rồi cũng đành chịu, không nói ông đồ làm sao được, vì đó là sự thật hiển nhiên.

Nguồn: GTVHVN, tr.190 – 192.

11. Ông Cống làm trâu (Bà huyện Thanh Quan)

Bà huyện Thanh Quan, người làng Nghi Tàm, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông, không rõ năm sinh và mất. Tên họ bà hiện nay cũng chưa rõ, chỉ biết chồng bà là Lưu Nguyên Uẩn, đỗ cử nhân năm Mậu Tý thời Minh Mệnh (1828) và được bổ tri huyện Thanh Quan (tức huyện Thái Ninh, tỉnh Thái Bình bây giờ), vì thế người ta thường thường gọi bà là bà huyện Thanh Quan. Bà là một người làm thơ Nôm rất có tài, từng được cử làm Cung trung giáo tập ở trong triều.

PL197

Tương truyền, khi ông huyện Nguyên Uẩn ngồi huyện Thauh Quan, mỗi lần đi vắng, bà thường vẫn nhận đơn thay chồng. Một hôm, có một ông cống mới đỗ, đệ đơn xin làm thịt trâu để ăn khao trả nợ miệng. Lúc ấy đang mùa cày cấy, theo lệnh trên không được mổ trâu. Nhưng vốn là một nhà thơ, nên bà huyện cũng có ý nể ông cử tân khoa, lại cũng muốn nhân dịp đùa ông cử bằng văn tự chơi, bà liền cầm bút phê vào đơn bai câu rằng:

“Người ta thì chẳng được đâu, Ừ thì ông cống làm trâu thì làm!”

Ông cống đọc lời phê, thấy rõ ý xỏ xiên hóm hỉnh của bà huyện (Ừ, ông muốn làm trâu, làm ngựa thì làm) thì cũng hơi đỏ mặt; song cái điều mà ông mong muốn nhất là mổ trâu thì đã được phê chuẩn rồi, cho nên ông rất lấy làm hài lòng và vui vẻ ra về.

Nguồn: [GTVHVN, tr.202].

12. Cho Thị Đào đi lấy chồng (Bà huyện Thanh Quan)

Một hôm khác, cũng gặp lúc ông huyện đi vắng, có người phụ nữ tên là Nguyễn Thị Đào đưa đơn xin bỏ chồng; vì chồng yêu một người khác mà xử tệ với mình. Bà huyện đầu đuôi cặn kẽ, biết người phụ nữ có chuyện khổ tâm, bà liền phê luôn vào đơn bốn câu lục bát như sau:

“Phó cho con Nguyễn Thị Đào, Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai, Chữ rằng xuân bất tái lai, Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già”.

Thị Đào cứ thế mà bỏ chồng. Anh chồng bèn kiện quan huyện. Nghe nói quan huyện Nguyên Uẩn bị cách chức vì nhiều lý do nhưng việc để bà huyện phê đơn quấy này cũng là một trong những lý do đó.

Nguồn: GTVHVN, tr.203. 13. Chê khéo (Bà huyện Thanh Quan)

Trong thời kỳ làm Cung trung giáo tập, bà Thanh quan do tài làm thơ và đức dạy học, được Minh Mệnh tin dùng, quý mến. Bà thường được ra đàm luận văn thơ với vua mặc dù Minh Mệnh vốn rất khắc nghiệt.

Một lần, có bộ chén ký kiều của Trung Quốc mới đưa sang, chén vẽ sơn thủy Việt Nam và có đề thơ Nôm, cúng như một số đồ sứ ký kiểu thời đó. Minh Mệnh đưa khoe với những người chung quanh. Người ta yêu cầu bà huyện Thanh quan làm một câu thơ Nôm. Bà làm hai câu thơ rằng:

“Như in thảo mộc trời Nam lại, Đem cả sơn hà Bắc quốc sang”

Minh Mệnh rất thích thú. Cùng hôm đó, vua viết hai chữ phúc thọ rất lớn, hình như để ban ơn, chúc mừng một

đại thần nào đó. Vua hỏi bà Thanh Quan chữ viết thê nà. Bà khen: “PHÚC tối hậu, THỌ trường”.

Nghĩa là: Phúc rất dày, và thọ rất dài. Ban dầu vua hơi ngơ ngác, sau nhìn kỹ lại vua mới hiểu ý, mỉm cười và gật đầu, thì ra vua đã viết một chữ PHÚC béo phục phịch và một chữ THỌ dài lêu nghêu. Bà huyện Thanh Quan chê vua viết chữ xấu nhưng lời chế thật là khéo léo và văn vẻ.

PL198

Nguồn: GTVHVN, tr.203 – 204.

14. Say rượu đánh long thần (Nguyễn Công Trứ)

Lúc còn trẻ, Nguyễn Công Trứ là người rất tinh nghịch. Trưa, tối thường bay lảng vảng vào các miếu long thần, thổ địa ở làng đề chơi đùa, vẽ bậy. Có lần lai bê cả xôi chuối rượu thịt ở bệ thờ để đánh chén, khiến thủ từ cứ nghỉ nghi hoặc hoặc mà chẳng dám kêu ca...

Một buổi tối, Trứ lẻn vào miếu lấy rượu, thịt xuống nhắm say khước, rồi lại nâng chén ghé mãi vào miệng long thần. Thấy pho tượng cứ ngồi yên không nhúc nhích, ông tức mình vật ngửa tượng ra, đổ rượu vào mồm, đánh cho mấy bạt tai rồi mới ngật ngưởng ra về. Sáng mai tỉnh dậy, không biết là ông hối hận hay thế nào mà lại làm bài thơ yết hậu sau đây dán ở miếu để tạ lỗi với long thần:

“Hôm qua trời tối tớ chơi đây, Đánh phải long thần mấy cẳng tay, Khi tỉnh nào thời ai có dám…? Say!”

Bấy giờ ông từ mới vỡ lẽ nhưng thấy anh học trò có lời thơ sắc sảo, hài hước, cũng

chỉ răn đe cho qua loa chứ không đem bắt vạ. Nguồn: GTVHVN, tr.213 – 214. 15. Thơ trách nữ thần (Nguyễn Công Trứ)

Tương truyền tỉnh Đình Định có ngôi đền tục gọi là đền Châu Chấu rất linh thiêng. Trong đền thờ một nữ thần, hễ người qua kẻ lại, ai không ghé vào thắp nhang hoặc xuống cáng, xuống ngựa thì đều bị bà ta quật ngã thẳng cẵng.

Lúc Nguyễn Công Trứ có dịp di công cần qua, phu dáng xin ông xuống cáng vào thắp hương nhưng ông cho là chuyện nhảm nhí nhất định không chịu. Hai người phu vốn sùng tín ngôi đền này, bây giờ bị bắt buộc phải khiêng qua thì kinh sợ lắm. Hôm ấy, trời lại mới mưa trơn, bước chân lập cập, trẹo trọ thế nào suýt nữa thì té nhào, làm cho Nguyễn Công Trứ nằm trên cáng cũng phải một phen hú vía.

Nhân thế Nguyễn Công Trứ mới đọc ngay một bài thơ:

“Mụ thần như rửa; rửa thì thôi, Chút nữa làm ông thịch cái rồi. Dầu có khôn thiêng đành phận dưới, Lẽ nào châu chấu đấu ông voi?”

Rồi chẳng mấy chốc bài thơ đến tai những khách bộ hành và lan đi khắp vùng. Thế là, từ đấy người ta sinh ra nhờn với nữ thần, chẳng mấy ai chịu xuống cáng, xuống ngựa nữa. Câu chuyện đền thiêng cũng từ đấy đâm ra nhạt dần.

Nguồn: GTVHVN, tr.215 – 216.

16. Tự tiện chữa văn của vua (Cao Bá Quát)

Tự Đức có làm hai câu đối để ở diện Cần Chánh như sau:

“Tử năng thừa phụ nghiệp, Thần khả báo quân ân”.

Nghĩa là :

“Con nối được nghiệp bổ,

PL199

Tôi đền được ơn vua”

Các đình thần từ lâu vẫn phục hai câu này là hay, cho rằng nói lên dược hai giường mối lớn trong đạo tam cương... Một hôm, Cao Bá Quát có dịp vào điện Cần Chánh, thấy câu đối như vậy thì bỗng nảy ra một ý tinh nghịch, lấy bút ngoáy ngay vào bên cạnh mấy chữ rằng: “Hảo hề: Hảo hề! Phụ tử, quân thần điên đảo”. (Hay chưa! Hay chưa! Cha con, vua tôi đảo lộn.) Việc đó được tâu lên vua. Tự Đức giận lắm, cho dòi Quát đến đề hỏi tội. Quát thản nhiên đáp lại:

- Tâu bê hạ, thần thường nghe nói đạo vua tôi phải trên đạo cha con và từ ngàn xưa bao giờ cũng vẫn vua truớc mà tôi sau, cha trước mà con sau. Nay bệ hạ để như vậy chẳng phải là đã làm đảo lộn hết cả rồi sao?

Tự Đức nghe biện bạch cũng thấy xuôi tai, bèn bảo Quát thử chữa lại xem thế nào.

Bấy giờ Quát mới chữa ngoặc lại như sau :

“Quân ân, thần khả báo Phụ nghiệp, tử năng thừa”

Nghĩa là :

“Ơn vua, tôi phải báo, Nghiệp bố, con phải theo”

Tự Đức và các quan lúc ấy đều phải chịu là câu của Quát quả sắc sảo và chắc tay hơn; không ai có thể bắt bẻ vào đâu được nữa vì dù sao thì Quát cũng làm một việc rất ư vô lễ là tự tiện chữa văn của nhà vua. Nguồn: GTVHVN, tr.235 – 236.

17. Trên dưới đều chó (Thượng hạ giai cẩu) (Cao Bá Quát)

Hồi Cao Bá Quát còn đang làm hành tẩu ở Huế, một hôm ở chỗ làm việc của ông bỗng xảy ra một đám đánh nhau. Nghe đâu, đó lại chính là hai vị quan khá to ở triều đình. Nguyên nhân thế nào thì Quát không rõ, nhưng chỉ thấy hai người đầu thì cãi nhau, sau đến chửi nhau rồi thì đi tới chỗ “thượng cẳng chân hạ cẳng tay”, không còn ra thể thống gì nữa. Đến khi phân xử phải trái, Tự Đức thấy Quát là người được thấy tận mắt cái cảnh đó, liền bắt Quát ra làm nhân chứng. Quát vốn không ưa gì bọn này, muốn nhân dịp xỏ xiên chơi, mới lựa lấy một câu chửi đã được nghe để viết vào tờ khai như sau: “Tiền Quát bất tri Hậu Quát bất tri Trung gian Quát chí, Đãn kiến: Thượng bàn hô cẩu! Hạ bàn hô cẩu! Thượng hạ giai cẩu Lưỡng tương đấu ẩu Thần gián bất đắc, Thần kiến thế nguy Thần hoảng, thần tẩu! Nghĩa là: Trước Quát không biết,

PL200

Sau Quát chẳng hay, Nửa chừng Quát đến, Quát thấy thế này: Bàn trên chửi chó! Bàn dưới chửi chó! Trên dưới đều chó! Rồi choảng nhau luôn, Thần can chẳng bỏ, Thần thấy thế nguy, Thần hoảng thần chuồn!

Khai xong, Quát dâng lên cho Tự Đức, rồi cứ đứng mỉm cười ra vẻ hả hê lắm, vì không dễ mấy khi đã được chửi từ trên xuống dưới một bữa suớng miệng như thế. Còn Tự Đức khi đọc đến câu “Thượng hạ giai cẩu” thì cũng biết thừa là Quát có ý xược nhưng khốn nỗi đó chỉ là lời khai đúng sự thật mà thôi. Cho nên, không thể bắt tội Quát vào đâu được.

Nguồn: GTVHVN, tr.236 – 237. 18. Bài thơ không họa nổi (Huỳnh Mẫn Đạt)

Lúc thực dân Pháp chiếm đóng Nam Bộ, trong khi Tôn Thọ Tường cam tâm ra làm tay sai cho giặc thì Huỳnh Mãn Đạt xin từ quan lui về ở ẩn đề giữ tròn khí tiết. Người ta kể rằng, một buổi Huỳnh từ Rạch Giá lên chơi Sài Gòn. Chiều hôm ấy, có phường nhạc nhà binh diễn tấu cho công chúng nghe tại bồn kèn. Huỳnh đi hóng gió, thấy vậy liền dựa lưng vào gốc me mà nghe. Lúc đó tay ông cầm chiếc dù, còn đầu thì đội chiếc nón ngựa, thứ nón to bằng lông chim, trên có chóp bằng đồng hoặc bạc. Tình cờ Tôn ở đâu đi xe song mã tới. Huỳnh trông thấy vội kéo sụp chiếc nón xuống che mặt. Nhưng Tôn lanh mắt cũng đã nhận ra, sai dừng xe, bước xuống giả vờ vồn vã hỏi han. Rồi Tôn ngỏ ý trách Huỳnh sao đã lên Sài gòn mà lại không vào nhà chơi. Song Huỳnh chỉ cười dài và đọc bài thơ rằng: ` Cừu mã dăm ba dạo cặp kè, Duyên sao giải cấu, khéo đè ne. Đã cam bịt mắt cùng trời đất, Đâu dám nghiêng mày với ngựa xe. Hớn hở trẻ giong đường dặm liễu, Lơ thơ già núp cội cây hòe Sự đời thấy vậy, thời hay vậy, Thà ẩn non cao chẳng muốn nghe!

Tôn nghe xong hiểu ý nhưng không hiểu vì hổ thẹn với bạn đâm ra lúng túng, hay vì khó họa mà họa không nổi nên đành nói thêm vài câu khách sáo rồi ngượng nghịu từ giã Huỳnh lên xe ra về.

Nguồn: GTVHVN, tr.238 – 239.

19. Thơ tạ hương đảng (Học Lạc)

Học Lạc tức Nguyễn Văn Lạc (không biết sinh năm nào) người làng Mỹ Chánh, tỉnh Mỹ Tho, ông học giỏi, Nôm hay nhưng thi thì không đỗ, chỉ được vào ngạch học sinh,

PL201

nghĩa những người được cấp lương; học ở trường Đốc học. Vì vậy, mà người ta gọi là học sinh Lạc. Rồi bỏ chữ sinh thành Học Lạc. Ông tính khí ngang tàng không chịu khuất phục trước sự áp chế của cường hào, nên đã làm một số thơ về bọn này.

Người ta kể rằng theo lệ làng xưa, thì hễ mỗi năm đến lễ kỳ yên (tức Cầu Yên) các chức sắc trong làng phải làm mâm xôi ra lễ đình. Lúc đưa cỗ ra, phải có giấy đề tên và chức vị người đứng lễ. Học Lạc cũng là chức sắc trong làng nên cũng phải có mâm xôi đóng góp, nhưng lúc đề tên, ông chỉ viết hai chữ “Thằng Lạc” vào vành mâm. Bọn ông làng hạch hai chữ này, cho là Học Lạc có ý ngạo thần và khinh dân xã.

Tội to quá! Các ông bợm làng thù oán, thổi to lên để bắt Học Lạc ra đình cúi đầu xin lỗi hương lý và dân xã. Lưới sự khuyên dỗ của bà con và gia quyến, Học Lạc cũng chịu khó ra xin lỗi, nhưng lúc sắp về, ông lại làm và ngâm luôn bài thơ “Tạ hương đảng” như sau:

,

“Vành mâm xôi, đề Thằng Lạc, Nghĩ mình ti tiện không đài các. Văn chương uốn thiệt bợm mèo quào, Danh phận không ra cái cóc rác. Bởi thế bơ thờ thẹn núi sông, Đám đậu vục vặc ngạo cô bác. Việc này dầu có thấu lòng chăng Trong có ông thần, ngoài cặp hạc”.

Tuy Học Lạc đã xin lỗi và làm thơ tạ làng nhưng bọn hương lý vẫn chưa chịu. Bọn đó cho bài thơ vẫn có giọng mỉa mai và câu cuối vẫn láo xược. Mấy hôm sau, Học Lạc ra bờ ao công cộng của làng thấy đàn bà bơi lội, ông nhân vẫn còn tức bọn hương đảng liền đọc một bài “Thơ tôm” rằng:

Chẳng phải vương công chẳng phải hầu, Học đòi đai kiếm lại mang râu, Khoe khoang mặt đỏ trong dòng bích, Chẳng biết mình ra cứt lộn đầu!

Bài thơ lại chua cay gấp mấy bài thơ trước; vì thế bọn bợm làng càng bực bội hơn,

quyết tâm báo thủ Học Lạc cho kỳ dược. Nguồn: GTVHVN, tr.240.

20. Bị ngồi trăng (Học Lạc)

Học Lạc thường hay làm thơ châm chọc, đả kích bọn bợm làng, vì thế bọn này luôn luôn tìm dịp báo thù ông. Không biết Học Lạc trong khi bốc thuốc có sai làm hoặc thiếu giấy tờ gì đó, bọn bợm làng buộc tội ông là phạm pháp, nên bắt trói lại và phải “ngồi trăng”. Có người nói ông bị bắt vì ông đánh bong vụ (đánh thò lò) là một thứ cờ bạc quốc cấm.

Người ta tưởng vậy là vì Học Lạc bị ngồi trăng với một người Trung Quốc cầm cái đám bong vụ. Lý do bắt không đáng chú ý vi bọn bợm làng sẵn sàng bịa ra tội để báo thù. Cái đáng chú ý là thái độ ông lúc bị bắt: ông vẫn thản nhiên, coi khinh hành động của chúng. Ông thấy anh chủ bong vụ lo sợ phát khóc, mà ông buồn cười và thương hại. Ông làm một bài thơ đùa “Ngồi trăng” mà ngâm cho anh ta nghe:

PL202

“Hóa An Nam lứ khách trú Trăng trối lằng xằng nhau một lũ Ngoài mặt ngỡ ngàng lạ Bắc Nam Trong tai cắc cớ xui đoàn tụ Bợm làng chẳng vị sĩ năm kinh Ông Bổn không thương người bảy phủ Phạt ta xong rồi trở về nhà Hóa thời bốc thuốc, lứ bong vụ”

Bài thơ ngâm xong từ đấy phổ biến rộng rãi và truyền miệng khắp dân gian. Nguồn: GTVHVN, tr.241 – 242. 21. Anh hùng có một ngươi (Tú Quỳ)

Nguyễn Quỳ, tức Tú Quỳ, người làng Giảng Hòa, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, sống vào khoảng cuối thế kỷ XIX, là bạn thân với Trần Đinh, một lãnh tụ Cần vương ở Quảng Nam lúc bấy giờ. Ông có tài làm thơ trào phúng.

Trần Đinh, người làng Gia Cốc, cũng đỗ tú tài, tham gia phong trào Cần Vương với

chức Tán tương quân vụ nghĩa quân (nên tục gọi là Tán Đinh).

Ông có tật chột mắt, đánh trận giỏi, đã thắng Pháp vài ba trận. Một hôm, sau một trận thắng, Đinh mời Tú Quỳ đến uống rượu, nhân vui chuyện, rủ Quỳ theo Cần Vương, rồi bảo Quỳ ứng khẩu một bài thơ vịnh mình. Tú Quỳ không để đợi lâu, đọc ngay:

“Bình Tây sát tả thiếu chi người, Ngó lại anh hùng có một ngươi”

Mới nghe hai câu, Tán Đinh đã giơ tay ra hiệu ngăn lại mà nói: - Thôi xin ông! Xin ông! Đã xiên xỏ rồi! Rồi hai người cùng cười xòa. Nguồn: GTVHVN, tr.242.

22. Thơ trả lời bạn nhà giàu (Nhiêu Tâm)

Nhiều Tâm tên thật là Đỗ Minh Tâm, quê ở Vĩnh Long, cùng thời với Học Lạc. Ông giỏi Hán học, tài thơ Nôm, hay làm thơ châm biếm, ngạo đời. Người ta bảo ông châm biếm để mua vui, cười để sửa bỏ thói hư tật xấu, không có ác ý, vì thế không kiêng kỵ ai cả.

Ông quen biết nhiều, thường hay đi đây đi đó thăm hỏi bạn bè, bạn nghèo và cả bạn giàu. Một hôm, ông đến làng Long Châu, tức là làng sở tại của châu thành Vĩnh Long, để thăm mấy người bạn thì gặp ngay ông bá hộ giàu nhất làng tên là Nọn. Hai người bạn quen lâu ngày mới gặp nhau niên rất niềm nở. Bá Nọn lại quan tâm hỏi cả đến việc làm ăn của ông bạn nghèo, trong lời hỏi có ý vừa hợm mình vừa thương hại cho tình cảnh của Nhiêu Tâm. Nhiêu Tâm kiêu hãnh mà khôn ngoan đọc ngay một bài thơ trả lời như sau:

“Thấy anh, tôi nghĩ lại, tôi buồn, Tôi khó, anh giàu đã quá muôn, Anh vậy, tôi vầy, trời khiến vậy, Chúc cho con cháu vậy luôn luôn”.

Bá Nọn về nhà cũng không đề ý đến thơ của bạn lắm. Nhưng được ít hôm, Bá Nọn có thuật lại chuyện gặp bạn và đọc bài thơ cho một đồ nho nghe. Ông này giải thích câu

PL203

thứ hai: “anh giàu đã quá muôn”, trong thơ thì đọc là muôn, nhưng dân gian Nam Bộ đọc là “muông”, nghĩa là con chó. Vậy câu này có thể hiểu: Anh già đã quá chó! Bá hộ Nọn nghe giải thích giận tái người nhưng biết bao giờ mới có dịp gặp lại Nhiêu Tâm để mà trút cơn giận!

Nguồn: GTVHVN, tr.242.

23. Đái vẽ nên rồng (Cử Trị)

Phan Văn Trị đỗ cử nhân xong, không ra làm quan, ở nhà dạy học, làm thơ. Ông hết sức căm thù giặc Pháp và ghét cay ghét đắng bọn làm tay sai cho giặc. Đối với bọn vua quan nhà Nguyễn đầu hàng giặc, ông lại càng căm ghét thậm tệ.

Một hôm, ông cùng người bạn là Đốc Trừng di Cần Thơ để thăm Bùi Hữu Nghĩa. Hai người đang rảo bước trên con đường nắng gió, thì ông bạn đứng lại đi giải. Cử Trị kéo áo bạn và đọc luôn hai câu thơ:

“Đứng lại làm chỉ cho mất công, Vừa đi vừa đái vẽ nên rồng”

Rồi Cử Trị thực hành ngay, vẽ ra đường những nét ngoèo như rồng lượn. Ai cũng biết là rồng tượng tượng trưng cho vua. Hành động ấy của cử Trị quả là một đòn mạnh mẽ đập vào đầu bọn vua chúa.

Nguồn: GTVHVN, tr.250.

24. Thơ ăn thịt cần đước (Cử Trị)

Một hôm, Phan Văn Trị đi chơi cùng các bạn, tối ngày kéo nhau vào một quán cơm. Nhà hàng dọn cơm rượu, có món thịt cần đước (một loại ba ba). Giống này có tiếng là sợ sấm, lúc thường ăn uống hoặc cắn người thì thò đầu ra, mà lúc nghe tiếng động lại rụt cổ lại, nhất là lúc có sấm to.

Các ông bạn uống rượu, nhắm thịt cần đước, rượu vào lời ra ngẫu hứng làm thơ. Có

người bèn làm thơ tức cảnh ăn thịt cần đước. Nhưng Cử Trị gạt đi nói: - Đối với giống cần đước thì việc gì thơ với thổng? Chỉ cần:

“Trảm cần đước chi đầu, Ẩm cần đước chi huyết, Phân cần đước chi thi Thực cần đước chi nhục” (Cần đước, đem chém đầu. Cần đước, ta uống huyết. Cần đước, phanh thây mau. Cần đước, thịt ngon tuyệt!)

Như vậy, vô hình chung cùng đã thành một bài thơ, mà lại là một bài thơ có ý nghĩa sâu sắc. Rồi đó, Cử Trị vừa cười vừa giải thích rằng: Cần đước đây chính là Tự Đức, đó là bọn vua quan hèn nhát hàng giặc, mà lại hống hách với dân!

Các bạn nghe xong đều thích thú cười ha hả, lại gọi nhà hàng lấy thêm cần đước và

rượu, nhậu với nhau một bữa say túy lúy.

Nguồn: GTVHVN, tr.255.

25. Hóa ra dưa (Tú Xương)

Một buổi trưa hè, vừa tạnh mưa, Tú Xương đứng ngóng sang nhà đối diện, thấy cô

PL204

Nghĩa nhà hàng xóm đang rửa dưa trong cái chậu thau đồng, bất giác đọc lên mấy câu:

“Ước gì ta hóa ra dưa Để cho người tắm nước mưa chậu hồng Ước gì ta hóa ra hồng Để cho người bế người bồng trên tay”

Nguồn: KTGTVN, tr.431.

26. Thơ nói lái (Tự Đức)

Tự Đức tên thật là Nguyễn Phúc Thì, sinh năm 1829, mất năm 1883, là con thứ hai

của vua Thiệu Trị. Ông là người thông minh, hiếu học và sáng tác nhiều thơ văn.

Chuyện kể rằng, sau một buổi chầu, Tự Đức họp các quan để bàn chuyện cổ kim cùng ngâm vịnh thơ phú cho vui. Hôm ấy, có một viên quan ở Hàn lâm viện, chức khá cao, đứng lên xin kể chuyện đức Thánh Trèm. Theo truyền thuyết, đức Thánh Trèm tên thật là Lý Ông Trọng, quê ở làng Trèm (nay thuộc Từ Liêm, Hà Nội), có thân hình cao to hơn hai trượng, sức khỏe phi thường, thi đỗ và làm quan dưới triều nhà Tần, có công đánh đuổi quân Hung Nô. Sau khi ông Trọng trở về nước Nam, vua Tần sai đúc tượng ông Trọng đặt ở cửa Kim Mã, kinh đô Hàm Dương để quân Hung Nô khiếp oai không dám xâm phạm bờ cõi nước Tần. Khi kể chuyện, viên quan muốn tỏ ra uyên bác, đã nói rằng sử sách Trung Quốc và cả Đại Nam đều chép sai, phải nói là Lý Trọng Ông mới đúng. Nhiều người có ý kiến bảo chính ông ta nói sai nhưng ông ta không chịu cứ gân cổ lên mà cãi bừa, rằng từ nay phải gọi là Lý Trọng Ông.

Tự Đức nghe hai bên cãi nhau ầm ĩ thấy cũng tức cười, bèn ứng khẩu đọc một bài

thơ rằng:

Ông Trọng như hà oán Trọng Ông, Chỉ nhân học vấn thiều phu công, Tư nhân an đắc cư lâm hãn, Nghi truất Nội Hà tác phán thông. Có người dịch ra thơ Nôm như thế này:

Ông Trọng làm sao gọi Trọng Ông, Chỉ vì học vấn kém phu công, Người này không ở Hàn lâm được, Đuổi quách ra Hà giữ phán thông.

Ý chế giễu của bài thơ là ở chỗ câu nào cũng dùng những chữ nói lái như: Ông Trọng thành Trọng Ông, công phu thành phu công, hàn lâm thành lâm hãn, Hà Nội thành Nội Hà, thông phán thành phán thông.

Các triều thần nghe những câu thơ nói lái hài hước của vua Tự Đức, ai nấy đều phì

cười, còn viên quan Hàn lâm thì thẹn quá, chỉ biết cúi đầu đỏ mặt mà thôi. Nguồn: GTVHVN, Tổng tập VHDGNV, Tập 11, tr.400 – 401.

27. Trâu bò dê lóc (Nguyễn Đình Chiểu)

Nguyễn Đình Chiểu quê ở làng Tân Khánh, tổng Bình Trị Thượng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, hạt Gia Định, (Sài Gòn), sinh năm 1822, mất năm 1888. Khoa thi Hương năm Quý Mão (1843), đời Thiệu Trị thứ 3, ông đỗ Tú tài đầu xứ.

Khoa thi ở Huế năm Kỷ Dậu (1849), Nguyễn Đình Chiểu chưa kịp thi thì chẳng may

PL205

bị mù mắt. Sau đó, ông mở trường dạy học và làm thuốc ở Gia Định. Dù biết ông bị mù, nhưng do đức độ và văn tài nên học trò các nơi vẫn tìm đến học rất đông, thường có tới vài trăm người. Từ đó, nhân dân gọi ông là Đồ Chiểu, cái tên sống mãi với thời gian.

Tương truyền, ở xã Trường Bình, có một thầy thuốc, tai nghễnh ngãng, nhưng trức tính tới mức ngang bướng, nhân dân quen gọi là Thầy Tàng. Thầy Tàng thường hay qua lại chơi với Đồ Chiểu.

Một hôm, hai thầy đang ngồi uống nước, thầy Tàng liền đọc một vế đối rằng: Trâu khát nước, bò xuống uống. Câu ra bình dị, chẳng có điển cố gì, song khó đối ở chỗ chơi chữ: trâu với bò. Đồ

Chiểu nhanh miệng đối ngay:

Trê thèm mồi, lóc lên ăn. Câu đối lại thật tài giỏi, cũng theo lối chơi chữ, có cả trê, có cả lóc (còn gọi là cá

chuối). Mà lóc lên còn có nghĩa là trườn lên, lách lên, đối với bò xuống là rất chọi.

Thầy Tàng nghe đối phục lắm. Tiếp đó, Đồ Chiểu cũng ra một vế đối, thách Thầy

Tàng đối lại:

Thầy Tàng tai không nghe sấm. Câu này lấy ý từ câu văn nói về con vịt: “Võng khiếp thiên uy, trí lôi thanh ư nhĩ ngoại” (Chẳng sợ oai trời, để tiếng sấm ở ngoài tai). Như thế, vừa có ý lỡm Thầy Tàng hơi nghễnh ngãng tai, vừa khen thầy cứng đầu cứng cổ không biết sợ ai.

Thầy Tàng ngẫm nghĩ một lúc, rồi đối lại rằng: Đồ Chiểu mắt chẳng xé mây. Đây là điển trong Tam quốc chí, lấy ý từ câu của Mã Siêu khi mới hàng Lưu Bị: “Nay gặp được minh chúa, khác nào vén đám mây mù mà trông thấy trời xanh”. Như thế là vừa đùa Đồ Chiểu mắt lòa, lại vừa hàm ý nói đời nay làm gì có minh chúa để mà tôn thờ, vậy thì làm gì phải vén mây mà nhìn trởi xanh…

Thầy Tàng đối xong, cả hai người cùng nắm tay, cười ha hả. Nguồn: GTVHVN, Tổng tập VHDGNV, Tập 11, tr.391 – 392.

28. Muôn quyển sách – ba đoạn tre (khuyết danh)

Một ông đồ nghèo xơ xác, nhà cửa tiêu điều, chẳng có ngoài một bộ sách cũ. Bên kia đường, đối diện với nhà ông, là dinh cơ của một phú ông: cổng cao, tường kín, phía trước cửa lại có một bụi tre to.

Tết đến, ông đồ làm câu đối tức cảnh, đem treo trước cửa: Gia trung vạn quyển thư, Môn ngoại tam can trúc. (Trong nhà muôn quyển sách; Ngoài cửa ba cành tre). Có người nói với phú ông: “Nó viết thế là xỏ ông đấy. Nhà nó thì chữ nghĩa trùng trùng, bên ông chỉ ba cành tre gộc gạc”. Phú ông tức giận, sai người chặt cụt bụi tre.

Ông đồ thấy vậy, vào lấy giấy bút, dấn thêm vào mỗi vế một chữ: Gia trung vạn quyển thư trường, Môn ngoại tam can trúc đoản.

PL206

Người nọ lại tán với phú ông: “ Ông chặt bụi tre, người nọ lại tán với phú ông: “Ông chặt ngắn bụi tre, câu đối lại mỉa mai hơn: sách của hắn dồi dào, tre của ông cũn cỡn. Láo quá!”.

Phú ông điên lên, sai người đào cả bụi tre lên, san thành đất bằng, chắc mẩm

ông thầy đồ hết vin vào đâu để mà viết lách.

Nào ngờ ông đồ lại điềm nhiên, viết thêm vào mỗi vế một chữ nữa: Gia trung vạn quyển thư trường: hữu, Môn ngoại tam can trục đoản: vô! (Trong nhà muôn cuồn sách dài: sẵn; Ngoài cửa ba cành tre ngắn: không) Đến đây, phú ông hoàn toàn hết phép. Nguồn: GTVHDGNV, Tập 2, tr.71 – 72.

29. Bốn chàng sĩ tử (khuyết danh)

Có bốn chàng học trò xứ Bắc sang Hà Nội dự kỳ thì Hương. Trên đường đi, có qua công tư dinh quan tri phủ. Trước công dinh này có hai con sư tử bằng đá rất to. Nghe đâu, quan tri phủ thích đôi sư tử ấy lắm.

Quan tri phủ vốn xuất thân khoa bảng, người phương phi, đường bệ, có tiếng hay chữ, lại biết quý học trò giỏi. Bốn chàng xin được diện kiến quan. Sau khi nghe ý nguyện của bốn chàng học trò, quan phủ phán:

- Ta sẽ thưởng cho bốn thầy, nếu các thầy cho ta nghe một bài thơ vịnh hay

về gia cảnh của ta.

Bốn chàng sĩ tử ngó trước ngó sau, chỉ thấy đôi sư tử ngoài cổng là hùng dũng

và có khí phách, bèn dồn tâm trí vào vịnh hai con sư tử ấy.

Chàng thứ nhất ứng khẩu:

Chẳng phải chó dê, chẳng chó mèo

Chàng thứ hai ngắm nghía kĩ phần đầu con vật, thốt lên:

Mặt thì phèn phét, tóc quăn queo.

Chàng thứ ba ngắm tư thế đôi sư tử, đặt câu hỏi: Chúa rừng sao chịu ngồi canh cổng?

Chàng thứ tư chú ý đến cái bụng thon thon của đôi sư tử:

Chẳng được ăn gì, bụng đói meo!

Ghép lại tác phẩm của bốn anh học trò, thì đó là bài thơ:

Chẳng phải chó dê, chẳng chó mèo Mặt thì phèn phét, tóc quăn queo. Chúa rừng sao chịu ngồi canh cổng? Chẳng được ăn gì, bụng đói meo!

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 2, tr.96 – 97.

30. Nỏ biết ông chi mặt đỏ gay (khuyết danh)

Có một ông đồ xứ Nghệ ra bắc tìm chỗ dạy học. Vào đến thờ đức Thánh Quan, ông trông thấy tượng ngài uy nghi ngồi giữa, ông Châu Xương vác ngọn đao, ông Quan Bình bưng hòm ấn đứng hầu hai bên. Trên án có cái đỉnh, nắp tạc hình con kì

PL207

lân. Ngoài sân có đôi hạc đứng chầu trên lưng rùa. Thầy liền tức cảnh làm bài thơ rằng:

Nỏ biết ông chỉ mặt đỏ gay, Thế mà hương hoả bấy lâu nay. Bên kia chủ lái cầm dao quắm, Bên này thằng sãi bưng cái khay. Trên án lư hương, con chó đứng, Ngoài sân, cò trắng đ. cà cay!

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 2, tr.110 – 111.

31. Làng biết có đi đời (khuyết danh)

Nhà sư trụ trì ở một ngôi chùa nọ đã đề ý một bà vãi từ lâu. Một hôm, bà vãi ấy

đến thăm chùa. Nhà sư nhìn quanh chẳng thấy ai, mới đến cạnh bà vãi, nói:

Nhân khi vắng chiền gia Yêu nhau chút gọi là Mời vãi xuống nhà oản Ta…

Bà vãi không đồng ý, đáp:

Đã mang tiếng xuất gia Còn đeo thói nguyệt hoa Sư mô đâu có thế Ma…

Chú tiểu ở gian bên cạnh nghe được, lên tiếng:

Bữa nay có chuyện hay Sư ghẹo vãi ban ngày Vãi chẳng nghe, sư cáu Hay…

Thấy việc xấu của mình bị lộ, nhà sư phải năn nỉ chú tiểu rằng:

Chú tiểu thật là gan Chuyện đó chớ nói càn Mai cho nhiều oản chuối Ngoan…

Chú tiểu cũng cho qua:

Biết việc chỉ mình tiểu Làng biết có đi đời Đã van không nói nữa Thôi…

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 2, tr.115 – 116.

C. GIAI THOẠI VĂN HÓA DÂN GIAN

Các văn bản trích dẫn dưới đây được trích từ công trình Giai thoại văn hóa dân gian người Việt (GTVHDGNV) của Triều Nguyên.

PL208

GIAI THOẠI SINH HOẠT VĂN HÓA, VĂN NGHỆ DÂN GIAN GIAI THOẠI HÒ ĐỐI ĐÁP BÌNH TRỊ THIÊN 1. Tui cày suông cho chị (Ông Bơi) Ba Thi hò trêu ông Bơi: Cửa nhà tui đây hào phú, chộ cụ túng tiên, Nhà tui có ruộng, có nương, muốn nuôi cụ ở có phiền chi không? Ông Bơi đáp lời: Tui đây gặp cơn lỡ bước hàn vi, Chị giàu sang phú túc, tui ở với chị, chị nhờ chị tui cũng mần. Bà Thi hò: Cụ ở với tôi áo ấm cơm no, Phải lo đàng trưa ruộng, tru bò, Đừng có chao lơ lủng lẳng, bỏ việc kho không mần. Ông Bơi đáp: Tui ở với ai không nói, Còn ở với chị đêm ngày mần việc ra ba. Ngày thì lo việc cửa việc nhà, đêm hôm đấm bóp, thoa lại thoa qua nhẹ nhàng. Bà Thi lái sang điều ông Bơi đề cập, là “chợn với bò”: Cụ ở với tui áo ấm cơm no, Lo đàng trưa ruộng, tru bò, Vì răng cày thưa bừa sống, chỉ lo chợn với bò mà tính công? Ông Bơi đáp: Đập trâu đực thì cực lòng chị Không cho trâu cày thì sĩ bụng tui Thôi thì tui cày suông cho chị, xong xuôi tui về! Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.370 – 371.

2. Nét tơ đồng không sai (Thợ Quán)

Ông Quán ở Quảng Cư (huyện Lệ Ninh, tỉnh Quảng Bình) làm nghề thợ nề, thường gọi là thợ Quán. Thợ Quán thích hò đối đáp với cô Hảo, người lớn hơn ông sáu tuổi. Cô Hảo người Xuân Bồ, sở dĩ gọi “cô” vì làm vợ một ông thầy chùa. Hôm ấy, gặp cô Hảo ở cối hò giã gạo, thợ Quán vận theo tích Truyện Kiều, với ý trách cô Hảo mới lấy thầy chùa, được gọi bằng cô, đã ra bộ làm sang: Khi Lâm Tri da chì tóc rối, Lúc Vô Tích đá nát vàng tan, Chưa sang bạn đã lấy làm sang, Có nhớ khi dưới tiệc vặn đàn hay không? Cô Hảo hò đáp lại: Gái như em Châu Trần nỏ(1) thiếu, Hiềm vì chữ hiếu nên chịu long đong, Nay tàn dương gặp được mây rồng, Oán ân trả được, nét tơ đồng không sai!

PL209

______ (1): Nỏ: tiếng địa phương, nghĩa là chẳng, không. Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.372 – 373.

3. Hễ trời mưa giông một trộ (Thợ Quán)

Lần khác, ông thợ Quán muốn trêu đùa cô Hảo, nhưng ngại cô Hảo đáp trả nặng lời, bèn trao lời hò đã đặt cho ông Bình, một người làm nghề đánh cá, để ông này hò thay.

Gặp cô Hảo, ông Bình hò trêu: Đời chừ văn minh lắm thứ, Người ta chuộng tới Mỹ, Đức, Phù Tang, Người sang thì trên dù dưới mũ bận áo bận ba – đờ - xuy, Tốt lành chỉ o ba cái tơi cụt, mà công đi công về! Nguyên là, lúc còn trẻ, cô Hảo làm nghề chăm tơi, thường gánh đi các chợ bán.

Biết ông thợ Quán đã gà cho ông Bình trêu tức mình, o Hảo đáp ngay rằng:

Mai này tôi công mấy cái tơi qua chợ Tréo Kẻ trả một tiền ba sáu, người trả một tiền hăm tư Tôi sợ lộ(2) vốn nên phải côông(1) về Hễ trời mưa dông một trộ, thì người đánh cá, và cả mấy ông thợ nề họ quơ trơn(3)! ___________

- - -

(1) Côông: tiếng địa phương, nghĩa là gánh. (2) Lộ: lỗ. (3) Quơ trơn: vơ sạch, ở đây là mua hết tất cả.

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.373 – 374.

4. Vợ chồng mình như em ả, chị tam (Thợ Quán)

Lại có lần, ông thợ Quán hò cùng mẹ Con. Cũng như cô Hảo, mẹ Con hơn ông

Quán nhiều tuổi. Ông thợ hò nghịch: Thế gian đồn đỏ, đồn xanh, Đồn em là vợ, đồn anh là chồng. Mẹ Con không tha: Thế gian họ đồn chà chạ(1) Mai em ở nhà mắng đã, Hai vợ chồng mình cũng ví như em ả, chị tam(2)

Ông thợ Quán không sao trả lời được, từ đó không hò nghịch với mẹ Con nữa. __________ (1) Chà chạ: bậy bạ, không nghiêm túc. (2) Chị tam: chị với em.

- -

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.374 – 375.

5. Nam to không chèo (Thợ Thiềm)

Thợ Thiềm, vốn nghề thợ mộc, sống vào nửa đầu thế kỷ XX, quê làng Dạ Độ (huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị), là người nổi tiếng về hò hát. Lần ấy, trên chuyến đò dọc đi Đông Hà, tình cờ thợ Thiềm gặp lại người bạn gái thuở nào. Giữa họ từng

PL210

xảy ra chuyện không vui, nhưng nay nghe tiếng hò của bạn, Thiềm không cưỡng được, cất lời:

Tiếng ai văng vẳng nghe xa, Có phải người tình thuở trước vắng ta mà đi tìm? Cô kia nhận ra Thiềm, hỏi ngay rằng: Kể từ ngày duyên nợ cách xa, Chớ Hà Tây quê hát, sao mời mà không qua? Thiềm đáp:

Nhớ lời đặn, nhớ tiếng hò,

Muốn ghé qua thăm cho trọn tình trọn nghĩa, Vì chưng ông lái nói: Sợ nam to không chèo! Vừa dứt lời, cô kia đã ra chiều mỉa mai: Rượu Quỳnh Tương đợi người lữ thứ, Té ra đằng bạn cũng muốn rày tiếng mai lai, Chẳng qua là đò xuôi không đặng, mà đến đò ngang cũng không chèo! Bị bắt thóp, thợ Thiềm thấy khó xử, bèn hò thêm dăm ba câu cho qua chuyện, rồi rút êm. Thì ra, họ từng một lần lỡ hẹn, muốn tránh mặt nhau. Nay tình cờ gặp lại, riêng với Thiềm thì vẫn còn ngọng nghịu, chưa thể “hòa âm”.

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.375 – 376.

6. Méo tròn cũng phải ăn (Thợ Thiềm)

Hôm ấy, thợ Thiềm đang hò với các cô gái. Đang ra sức chinh phục các cô bằng giọng hò bay bướm của mình, thì phía bạn muốn trêu tức anh, bằng cách đẩy vào cối hò giã gạo một bà sồn sồn. Đã mấy lần, gặp trường hợp này, anh lấy cớ rút lui. Nhưng lần này, thấy khó bề bỏ dở cuộc hò, Thiềm đành lên tiếng:

Chẳng qua cái số long đong, Đi mô cũng gặp Gia Long bảy đời! “Gia Long bảy đời”, tức tiền Gia Long cũ rích, hàm ý: người già cả, không có

gì thú vị. Nào ngờ, bà nọ không phải tay vừa, thản nhiên đáp lại:

Gia Long, Minh Mạng hãy còn, Bảng treo giữa chợ, méo tròn cũng phải ăn. Tức tiền Gia Long, tiền Minh Mạng (bằng kim loại) nhà nước đã có quy định phải tiêu dùng, thì dù méo tròn thế nào, cũng không được từ chối. Và hàm ý cũng không khó nhận ra: ca dao chẳng bảo “Bà già tuổi tám mươi hai; Ngồi trong quan tài, hát ví thợ sơn”, huống là... Bị sửa lưng, thợ Thiềm không còn dám coi thường bà sồn sồn nọ. Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.376– 377.

7. Thợ Thiềm phá vây (Thợ Thiềm)

Hầu như Thiềm đi đâu cũng gặp những người hâm mộ hoặc mê hát quấy rầy. Nhất là số chị em táo bạo, nhiều khi chẳng kiêng nể gì. Lắm khi, Thiềm nổi cáu rồi nói xằng.

PL211

Lần ấy, Thiềm đi từ Đông Hà về, ngang qua Dạ Độ, bỗng nghe mấy cô gái bên sông vẫy tay hò. Đò sắp cập bến, có lẽ Thiềm đã coi thường các cô, về việc ngóng đợi mình, nên một người đã đáp lại:

Tiếng đồn anh lên lên xuống xuống, Bởi ngọn gió hiu hiu phảng phất, nên con nào muốn cũng trông! Nghe qua, tưởng những kẻ hâm mộ, đua chạy theo anh. Kỳ thật, các cô muốn ví sự “lên xuống” của ông như việc đi đại tiện. Chó ngửi thấy mùi mà chạy đến, chứ có gì mà làm cao. Thiềm ức lắm, quay lái thẳng đi, không ghé hò nữa.

Lần khác, bên nữ đưa ra những câu hò trêu ghẹo khá tục, coi Thiềm như con nít. Họ lại đông người như bủa vây ông. Thiềm bước lên chỗ cao, tay chống nạnh, hò đáp:

Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình, Có một cây cổ thụ, nó tuột chình ình ra đây! Người xem được một trận cười hả hê, vì phục tài năng ứng đối nhanh nhẹn, khôn ngoan, lại còn tự phụ của Thiềm. Ý ông muốn nói: Vóc dáng trai tráng này hẳn dư sức đối chọi lại với hàng chục cô, chớ coi thường là con nít. Nhưng điều quan trọng hơn là ông đã phá được vòng vây của các cô mà đi làm công việc của mình.

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.377– 378.

GIAI THOẠI HÒ KHOAN NAM TRUNG BỘ VÀ HÁT PHƯỜNG VẢI NGHỆ TĨNH

Chúng tôi xin giới thiệu một số giai thoại có liên quan đến các nghệ nhân dân gian nổi tiếng về hò khoan của vùng đất Nam Trung Bộ như: đồ Tâm – cô Rồng, ông Bảy Tỏi, ông Trần Hàn, bà Út, cô Hai Nên và một số giai thoại hò hát khuyết danh. Các giai thoại này được trích lại từ công trình GTVHDGNV, tập 1 của Triều Nguyên.

1. Cưỡi rồng (Đồ Tâm – Bà Rồng)

Nhà ông đồ Tâm (người làng Phong Thử, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) hôm ấy có giỗ, vợ con đi chợ, ông ở nhà lo quét dọn, lau chùi đồ thờ để trưa cúng cơm và đón bà con lối xóm đến dự. Khi đang cắm cúi làm thì nghe ngoài đường có tiếng rao hàng bánh của cô Rồng, một người quen biết cũ, ông dừng tay, đánh tiếng để cô vào nhà.

Cô Rồng đặt gánh trước thềm nhà, ngồi lên đòn gánh, niềm nở hỏi: - Dạ thưa thầy, lâu ni vẫn khỏe ạ. Ông đồ Tâm: - Cảm ơn! Thế lâu nay cô có hát đối đáp không? - Thưa thầy, em bận bánh bung, ít có dịp - Cô Rồng đưa mắt nhìn vào phía nhà

trong - Nhờ thầy nhắc cô mua giúp để em còn đi ạ!

- Nhà tôi và cháu đi chợ cả rồi. Hôm nay nhà có kị, nhân lâu ngày mới gặp lại,

ta đối nhau mấy câu cho vui nhé!

Thấy cô Rồng gật đầu, ông Tâm tươi cười, hát:

Mình chừ giả tiết ông Thần Nông, Ngăn mây đón gió cưỡi rồng dạo chơi.

Cô Rồng đáp lời:

PL212

Cưỡi rồng mà chẳng đặng rồng, Sợ e rồng lộn văng lông nhằm mình!

Đồ Tâm à lên một tiếng dài, chừng như để có thời gian suy nghĩ. Rồi đáp lời:

Mình đà học phép cưỡi rồng, Rồng kia có lộn, ta gồng lên trên, Hai tay nương lấy hai bên, Diện nhi đối diện, tắt bền như xông, Dù cho rồng có rụng lông, Cũng rơi xuống đấy, chứ không nhằm mình!

Cô Rồng mỉm cười đáp:

Sức rồng thầy được bao nhiêu, Mình rồng phơi phới gấp nhiều lần hơn, Giá đành chịu ép van lơn, Rồng ban lông lạ, trợ cơn ngặt nghèo!

Thật may cho ông Tâm, lúc đó vợ con ông đi chợ về, cuộc đối đáp kết thúc. Nghe nói sau đó ông đồ Tâm không dám nghĩ tới chuyện cưỡi rồng nữa, nên thường lánh mặt mỗi khi gặp cô Rồng.

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.397 – 398.

2. Buôn trầu lỗ lắm (khuyết danh)

Ở nông thôn xứ Quảng ngày trước, phân trâu bò rất quý vì dùng để bón lúa. Do đó, nhiều cô gái hàng ngày phải đi hốt phân về ủ với lá cây mà bón ruộng. Một hôm, gặp một cô đi hốt phân trâu, một anh hát:

Em ơi hốt cứt làm chi, Rửa tay cho sạch mà đi buôn trầu.

Cô gái trả lời:

Buôn trầu lỗ lắm anh ơi Để em hốt cứt lần hồi nuôi anh. Thấy cô gái giận dữ như vậy, chàng trai vội vã tránh đi. Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.401 – 402.

3. Hai cặp ảng có mấy cái lù? (khuyết danh)

Một hôm, các chị gặp các anh thợ làm ảng, hát rằng: Gặp trượng phu thiếp xin hỏi trượng phu, Ảng(1) kia hai cặp, có mấy cái lù(2) bạn biết không?

Mỗi cái ảng đều có trổ một lỗ lù để thoát nước. Các anh biết, nêu trả lời “bốn

lù” thì sẽ mắc mưu các cô gái (do lái âm), nên đã đáp tránh đi:

Bao nhiêu lù là bấy nhiêu cái ảng, Có kia sang sảng, khéo hỏi khù khờ, Ảng kia hai cặp, mấy cái lù giờ biết chưa?

Các cô gái đang chúm chím cười trước cái bẫy việt vị của của họ, bỗng bị chê

khù khờ, lơ mơ trở nên chưng hửng.

——————

-

(1) Ảng: Đồ đựng nước bằng đất nung, miệng rộng, thường có ba chân thấp.

PL213

- (2) Lù: Lỗ thoát nước ở đáy ảng, bể cạn. Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.402.

4. Anh chỉ được đứng hầu ở ngoài sân (Cô Hai Nên)

Cô Hai Nên giỏi hò có tiếng. Một hôm, gặp anh lính thổi kèn tây, cô Hai lên

tiếng trước:

Tiếng đồn anh học nhạc đã lâu, Ông Tây đòi, ông sứ bắt, đứng dưới cái đồn lầu(1) thổi chơi, Khen anh giọng tốt dư hơi, Lưỡi lê liếm lỗ, ngồi nơi xó hè.

Anh lính kèn không phải tay vừa, đã trả lời sát phạt:

Chấp sự giả các tư kỳ sự dã(2) Ông thân em già cả nên được đứng dưới đồn lầu Phận anh đây là lễ nhạc, chỉ được hầu ở ngoài sân.

___________

-

-

(1) Đồn lầu: là cái đồn xây theo kiểu nhà lầu, ở đây cô gái sử dụng phép lái âm để dè bĩu anh lính kèn. (2) Chấp sự giả các tư kỳ sự dã: Người đứng lo việc mỗi người đều làm phần việc của mình. Đây là lời xướng của lễ sinh, thường dùng khi bắt đầu cuộc lễ tế thần.

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.403.

5. So sánh giữa tôi và chị (khuyết danh)

Con trai ở Đông Yên và con gái Ở Mã Châu Thành thường hát đối đáp với

nhau. Lần ấy, bên gái Mã Châu Thành hát trước:

Tiếng đồn chàng ở Đông Yên xã, Thiếp ở Mã Châu Thành, Hỏi thăm chút: trường thành của thiếp bao nhiêu?

Con trai Đông Yên đáp lại:

Cây ngọt sanh ra trái đắng, Năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài, Tôi đến đây không ham sắc, cũng chẳng khoe tài, Bề ngang tôi thua chị, chứ bê dài chị thua tui!

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.405.

6. Mi thò đầu lên là tau ngoéo (Giáo Lươn)

Người ta gọi ông là giáo Lươn. Đến nay các nhà sưu tầm, nghiên cứu về hát hò khoan xứ Quảng chưa ai có tài liệu về năm sinh và năm mất của ông, cũng không rõ tên ông có thật là Lươn, hay Lương. Chỉ biết rằng ông là người có học, sinh thời ông làm nghề dạy học và cũng là người rất mê hát hò khoan.

Giáo Lươn thường tham gia các cuộc hát, và có nhiều câu hát hay. Một lần đi

hát gặp cô gái tên Khai, ông hát khiêu khích:

Con kia mi đừng nói lừng khừng, Xung điên bắt rắn bỏ quần mi phải khai.

Cô gái đáp:

Bụng đàn bà, dạ con nít,

PL214

Thầy rắn phải la làng, Rắn không phải rắn, nó vàng vàng như chú lươn(1).

Ông giáo Lươn cũng không vừa, hát tiếp: Giống lươn là giống hay trườn, Dù mi có lấy rổ(2) phân úp lại, bốn cẳng giường chần lên!

Tuy nhiên, trong cuộc đời đi hát ông cũng để lại một số giai thoại, mà những giai thoại này đều gắn liền với những câu hát mà ông không đối lại được. Một lần, một cô gái đem tên ông (Lươn) ra đề nhạo báng: Sáng ra đau bụng đi cầu, Thò tay rửa đít, đụng đầu con lươn.

Một lần khác, có người lại hát:

Nực cười cần ngắn chỉ dài, Lưỡi câu cũng được một vài túm quăn, Móc mồi thả xuống mi ăn, Tau rị, mi rị thẳng căng như dây đờn, Thử tài thử sức ai hơn, Mi thò đầu lên là tau ngoéo(3), xem mi trơn chừng nào!

Đây là những câu hát có vế ra rất hiểm, và ông giáo Lươn đã không đáp lại

được.

__________ (1) Lươn: Trong lỗi phát âm của người địa phương thì “lươn” và “lương” là

một.

(2) Rổ phân: cũng nói là “rổ tràng phân”, loại rổ to, đan dày và chắc. (3) Ngoéo: Dùng các ngón tay (cái, trõ và giữa) bẻ và kẹp chặt, khiến lươn bị giãn xương sống, không trườn nổi (đây cũng là một trong những cách bắt lươn của dân gian)

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.406 – 407.

7. Cặp và chiếc (khuyết danh)

Gặp được cô gái nổi tiếng trong việc bẻ chữ đặt lời, chàng trai hò:

Con vịt nó kêu “cặp cặp”, Nó kêu không hồi không chặp, kêu khắp dòng sông, Kêu: “Đào hoa giang thượng tương chiếu hồng1”, Nguyện làm sao đó vợ, đây chồng cân đôi, Đã đành nước chảy bèo trôi, Tuy rằng kêu “cặp”, nhưng mồ côi một mình.

Lời chàng không dài nhưng dảy đặc chữ nghĩa: có một câu Hán Việt và sử dụng cách chơi chữ trái nghĩa (trái nghĩa ngữ cảnh): “Cặp” (đủ đôi đủ cặp) - “một mình”. Cô gái đáp trả:

1 Đào hoa giang thượng tương chiếu hồng: Trên sông, cánh hoa hồng phản chiếu

màu hồng của nó qua dòng nước.

PL215

Con gà hắn kêu “chiếc chiếc”, Hắn kêu tha kêu thiết, kêu riết1 cả năm canh, Kêu: “Cô sản lưu thủy bất vị thần2”, Trời kia khéo để duyên lành nhởn nhơ. May mô ngộ gặp tình cờ, Tuy rằng kêu “chiếc ” nhưng bây giờ thành đôi.

Lời đáp này được hình thành theo hình thức đối. Tiếng kêu “cặp cặp” của vịt được đối bằng tiếng kêu “chiếc chiếc” của gà. Về mặt thể thơ, dòng thứ hai mỗi lời đều dùng yêu vận trắc, được láy lại (“chặp - “khắp”; “thiết” - “riết”) trước khi hiệp vận với dòng một (“chặp”- “khắp, “cặp cặp”; “thiết” - “riết” - “chiệc chiếc”); dòng thứ ba sử dụng một câu theo hình thức Hán Việt, và từ dòng bốn trở đi, vần được thực hiện theo thể lục bát; dòng cuối dùng kiểu câu tuy A nhưng B để nhấn mạnh B: nếu chàng đang “một mình” thì nàng sẵn lòng ghép vào để “thành đôi”.

Thật là đăng đối, không ai hơn kém ai! Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.408 – 409.

8. Đu đưa đủng đởn như ông già (Bảy Tỏi)

Ông Bảy Tỏi là người rất giỏi hò khoan. Giai thoại kể rằng trong một lần đi

hát, ông bị bà Út hát trước đánh phủ đầu bằng cách đem tên ông ra châm chọc:

Nửa đêm thức giấc hoảng hồn, Con chi nó cựa quậy trong l… của tui, Tưởng là một dậu thì thôi, Hay đâu tới bảy dậu, trời ơi là trời!

Bị tấn công quá mạnh, ông Bảy Tỏi đành thúc thủ. Lần khác, lại gặp nhau và

cô Út hát trước:

Lâu ngày mời gặp bạn Ta, Làm ăn có khắm khả hay sát da như mình?

Ông Bảy Tỏi còn có tên tục là Ta. Việc gọi xách mé tên tục của đối phương là một cách châm chọc. Tổ hợp “sát da" có hai nghĩa: thứ nhất, nói công việc làm ăn khó khăn nên người gầy ốm sát da; thứ hai, quan trọng hơn, đây là muốn châm chọc, chỉ bộ phận kín của người nữ. Ông Bảy Tỏi hiểu ý rất nhanh nên trả lời hết sức lý thú:

Làm ăn không khá không không, Đu đưa đủng đởn như ông ở nhà3.

1 Riết: Miết, mải miết, suốt

2 Cô sản lưu thủy bất vị thần: Dưới dòng nước chảy, cành cây lẻ loi, không đâu là

3 Chú theo nguồn trích dẫn giai thoại: Chính từ câu hát hò khoan này

bến bờ (Sản: cây tương tự như cây mơ, quả chua).

mà có câu ca dao đối đáp bông đùa ở xứ Quảng:

Gặp anh Ba đây khiến hỏi anh Ba,

PL216

Ông dùng cụm từ tượng hình “đu đưa đủng đởn” để chỉ bộ phận sinh dục nam,

thật là một cầu trả lời đắc ý.

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.480 – 481.

9. Miếng đất mưa ba năm không ướt, nắng sáu tháng không khô (Bảy Tỏi)

Cô Út gặp anh Bảy Tỏi giữa đường. Cô chủ động hát trước:

Hai bên rừng núi rậm rì, Ở giữa có khe nước chảy, anh đi đường nào?

Anh Bảy Tỏi đáp trả:

Hai tay anh nương hai cái cù lao, Nước chảy mặc nước, anh cứ chống sào anh qua!

Một lần khác lại thách thức:

Em đưa cho anh một nắm bắp khô, Đố anh trỉa cho mọc, em xin vô kết nguyền?

Anh Bảy Tỏi trả lời:

Anh biết em có miếng đất bỏ không, Mưa ba năm không ướt, nắng sáu tháng ròng cũng không khô. Vậy thì có khó chi mô, Em đưa đây cho anh mượn, anh trỉa vô mọc liền1

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.483 – 484.

10. Hát với nàng Dùi Chiêng (Trần Hàn)

Ngày nọ, Trần Hàn đến thăm một người bạn ở làng Bình Yên, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Các cô giỏi hò hát ở đây kéo đến thử tài ông. Họ ra điều kiện, ông hát trước một lời có tên ngọn núi địa phương là Dùi Chiêng, để mở đầu cuộc hát. Ông cất giọng:

Tôi đây khách lạ qua đường, Các cô bảo hát với nàng Dùi Chiêng. Ngày mai rời dốc Bình Yên,

1 Chú theo nguồn trích dẫn giai thoại: Chính câu hát hò khoan này là cơ

Lâu nay làm ăn có khấm khá hay cũng sát da như bọn mình? Thời buổi bây giờ công việc sớt sưa, Dư không dư, thiếu không thiếu, cũng đu đưa như mọi ngày!

sở để ra đời câu ca dao bông đùa quen thuộc xứ Quảng:

Em liều một nắm bắp khô, Đố anh trỉa mọc, em vô kết nguyền. Trời mưa ba năm không ướt, Trời hạn sáu tháng không khô, Em không cho anh trỉa, chớ anh trỉa vô mọc liền!

PL217

Các cô ở lại có chiêng không dùi. Ra về lắm nỗi bùi ngùi, Một mình dưới nớ, có dùi không chiêng. Trai anh hùng, gái thuyền quyên, Gặp đây có bạn, có chiêng có dùi!

Từ núi Dùi Chiêng được ông biến đổi thành “dùi”,“chiêng”, rồi cụ thể hóa chúng qua “vật chủ” của các cô gái và chính bản thân mình. Việc làm này khiến các cô bối rối, kéo nhau lui gót.

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.485 – 486.

Khảo dị:

Tài liệu [KTGT, tr.978] của Vũ Ngọc Khánh chép mẩu giai thoại tương tự, nhưng người hát về Dùi Chiêng không phải Trần Hàn mà là ông Tư, một người ở vùng khác đến Dùi Chiêng kiếm việc làm. Lời hò của hai nhân vật mang tính đại đồng tiểu dị.

11. Lão Phàn con ai? (Trần Hàn)

Trần Hàn xuất thân Nho học, lại sử dụng thành thạo ngôn ngữ dân gian, ông ứng khẩu rất nhanh, thường thắng lớn trong những cuộc hát đối đáp. Giai thoại kể rằng ở một đám hò khoan nọ, mấy ông đồ định dồn ông vào thế bí, họ gà cho một cô gái hát:

Lộ đồ quan ải, quả đi quan, Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng, Thứ ba Sơn Hậu lão Phàn con ai?

Câu hò vừa Nôm vừa Hán rút từ sự tích vở tuồng Sơn Hậu. Xưa nay từ kịch bản đến diễn xuất không có nơi nào chỉ rõ lai lịch nhân vật lão Phàn, tức Phàn Đình Công, chỉ biết nhân vật này là một trung thần nhà Hán. Thế mà Trần Hàn tự tin hát đáp rất nhanh:

Nan thế nan lưu, nan thế sự, Bần cư gia thất hữu thất gia, Thiếp hỏi chàng: Chàng phải nói ra, Phàn Đình Công thuở trước con bà già ông sinh...

Tất nhiên, đó là một câu trả lời có tính đối phó, nhưng ở đây từ thế bí ông

chuyển thành thế chủ động. Do đó, ông được thế phản công luôn:

Thế gian ai chẳng có thân huynh, Chớ chàng hỏi thiếp đôi đứa mình ai sinh?

Trần Hàn không chỉ dành thế chủ động tấn công mà còn chuyển tử chỗ tình cảm sơ giao thành tình cảm thân mật: tổ hợp từ đôi đứa mình nghe thật gần gũi, thật gắn bó, vì nó chỉ dành cho những người đang yêu nhau. Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.486 – 487.

12. Cây ai trồng nấy ăn (Trần Hàn)

Có lần, Trần Hàn cùng nhóm bạn xuống huyện Duy Xuyên để đối đáp với mấy

cô hò khoan có tiếng. Thấy ông, họ tấn công ngay:

Gặp mấy chàng, xin hỏi mấy chàng:

PL218

Cây chi mà đứng bên đàng, Thực bất tri kỳ vị, hỏi chàng cây chi?

Trần Hàn đáp ngay:

Cây chi mà đứng bên đàng, Đó là cây đặt, hỏi nàng đúng không? Bốn mùa ra trái trổ bông, Thực bất tri kỳ vị, ai trồng nấy ăn!

Dùng cách lái âm “cây đặt” và giải thích “ai trồng nấy ăn” như vậy, khiến cho

các cô gái xấu hổ, không thể tiếp tục cuộc hò.

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.488.

13. Bị vây bủa bốn bề (Trần Hàn)

Bị Trần Hàn trêu chọc ở lời hò “cây ai trồng nấy ăn” lần nọ, các cô lấy làm giận. Hôm ấy, thấy Trần Hàn vừa bước đến, các cô gái lập tức bàn định, rồi xướng lên rằng:

Tiếng ai như tiếng Trần Hàn, Con ông Quyền Liệu ở làng Xuân Quê, Nhà thì ruộng đất bề bề, Vợ năm bảy mụ, sao lại theo nghề hò khoan?

Ông chưa kịp lựa lời, thì một cô gái hát tiếp:

Trần ai gặp lúc cơ hàn Rổ đan mặt mốt, xuống làng mót khoai!

Với người ngoài cuộc thì lời hát rất hợp lẽ (gặp lúc đói rét, phải mang rổ đi mót khoai, là bình thường). Nhưng với ông, lời hát đã cùng lúc nêu ba chi tiết nhắm vào đặc điểm bản thân, theo lối chơi chữ: a) Họ tên: Trần Hàn (chơi chữ theo cách tách ghép từ); b) Mặt bị rỗ (chơi chữ theo cách cùng âm – trong lối phát âm của phân lớn người miền Trung và miền Nam, “rỗ” và “rổ” là cùng âm); c) Chỉ một mắt (chơi chữ theo cách lái âm: “mặt mốt” là “một mắt”). Ông không đỡ nỗi, đành chịu thua cuộc, bỏ về.

Lại một lần, đám các cô gái giỏi hò hát đã “đón tiếp” Trần Hàn bằng câu:

Chim quyên đậu miếu thổ thần, Ở xa thấy một cặp, lại cần thấy một con!

“Một con” ở đây là một con mắt, ý châm chọc việc chột một mắt của Trần Hàn. Trong lúc ông đang lựa lời để đáp trả, phía nữ lại bồi thêm rằng:

Nồi, niêu, tích để hững hờ, Sụp giàn xán bể, đợi chờ hàn the.

Tên ông (Hàn) và bốn bà vợ (Nồi, Tích, Hững, Xán) được kể ra (dùng cách

chơi chữ cùng trường nghĩa). Ông phát hoảng, lại đành chịu thua cuộc.

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.489 – 490.

14. Chết vì một câu hò (Trần Hàn)

Một cô ái xinh đẹp lễ phép mời Trần Hàn cùng hò hát đối đáp với cô. Cô ngỏ ý

sẵn lòng làm thê thiếp ông, nếu như ông đối đáp được lời hò sau:

Quần em rách dọc rách gang,

PL219

Thầy liệu thầy hàn em trả công cho!

Đây là một lời hò hiểm hóc, lại hỗn xược. Có thể suy: quần rách theo đường dọc đường ngang là rách giữa đũng, “thầy liệu thầy hàn” có nghĩa là nhờ thầy xem xét để mà hàn (vá) nhưng Liệu và Hàn lại là tên hai cha con ông (đều được gọi là thầy) - đem cha con ông ra vá cái đũng quần của cô ta (cũng hàm ý làm cho liền lại cái không thể liền được cả), thì... thật là xác láo!

Trần Hàn không tìm được lời tương xứng đề đáp trả. Ông cảm thấy nhục. Sau

đó ít hôm, ông lâm bệnh ói ra máu, rồi qua đời ở tuổi bốn chín.

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.490 – 491.

15. Thầy gà cũng bí (khuyết danh)

Đám thanh niên đi gặt lúa làng xa. Hầu hết mọi người đều biết hò và kiến tác lời hò. Nhưng để an tâm, phòng khi gặp phải kẻ “cao tay”, hay ra lời hò hóc búa, họ nài nỉ cho được anh Sắc đi cùng. Anh Sắc là “thầy gà” nổi tiếng của tổng Lương Văn (huyện Hương Thủy). Có thầy đi cùng, ai cũng phấn chấn, tự tin.

Quả nhiên, mối lo của họ không phải là viển vông. Vừa gặt buổi đầu tiên, khi

một người trong số họ lên tiếng chòng ghẹo cô gái, lập tức được cô “nghênh đón”:

Chấp sự dã1 khoan đã anh ơi, Để em vô thưa thầy với mẹ, có đành đã hay!

Lời hò khó đáp vì có máy tiếng, “chấp sự giả” thường xuất hiện trong lời xướng của lễ khi cúng tế ở đình làng. Anh chàng nọ không há nổi miệng, chạy đến cấp báo với thầy Sắc. Sau khi được “gà” anh quay lại hò trả:

Hành sơ hiến2 cho anh thăm viếng chút chơi, Trước do căn duyên cho rõ, khi nó mới ngỏ lời với phụ thân.

Lời hò hay quá! “Hành sơ hiến” cũng được dùng trong tế lễ. Nhiều người có mặt vỗ tay đôm đốp tán thưởng. Anh chàng nọ đang hớn hở thì đột nhiên cô gái nọ kia lên:

Không cho trống rập, trứng ung, Để cho trống rập cắn mồng mái đau.

Lời lẽ như chẳng nhắm vào ai, lại như chọc cả đám trai tráng làng xa. Nó được bạn gặt chuyển đến tai thầy Sắc. Thầy Sắc ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi lắc đầu chửi đổng: “Tổ cha con gà mái lăng loàn!”. Thầy gà tài danh lúc này đành chịu bí.

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.443 – 444.

1 Chấp sự dã: nguyên là lời xướng, dùng khi tế thần: Chấp sự dã các tư kỳ sự (người

2 Hành sơ hiến: nguyên là lời xướng, dùng khi tế thần: Hành sơ hiến lễ (cử

đứng lo việc, mỗi người hãy làm phần việc của mình).

hành giai đoạn đầu của lễ).

PL220

16. Con lươn, con lạch trơn lù lu (khuyết danh)

Viên quan nọ vốn dốt nát nhưng luôn giỏi luồn lỏi nên được thăng tiến. Một hôm, quan nằm võng đi công cán, gặp người rách rưới chạy theo xin tiền. Quan tỏ vẻ khinh miệt hạng dân nghèo cùng khổ, mới ra lời hò đối rằng:

Con mèo, con cho có lông, Ai mà đối đặng, thì ông cho tiền!

Nghĩ trong đám ăn xin này rặt loại dốt đặc cán mai, không ai đối nổi, quan toan

bỏ đi, thì bỗng có giọng hò cất lên:

Con lươn, con lệch trơn lù lu! Ông ra đi có võng, có dù, Có lính xách tráp, có phu ôm giày, Ông ra câu đối thật hay, Con đây đối đăng, ngả tay xin tiền!

Người ứng tác câu hò này là một chị khố rách áo ôm, nhưng viên quan thấy run sợ. Vì chị ta cũng dùng hình ảnh lươn, lệch, loài trơn lù lu và chui lủi dưới bùn đen tanh tưởi để ám chỉ ông. Nó là sự hạ bệ tương xứng với mức coi dân như chó mèo. Quan càng ngẫm thấy càng hãi. Ông làm ra vẻ hào phóng, cho chị kia khá nhiều tiền rồi bảo lính đánh đi, rồi nhắm mắt vờ ngủ.

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.452 – 353.

16. Đòn chữ nghĩa của trường hò (khuyết danh)

Rạp Đồng Xuân Lâu1 chẳng những nổi tiếng về hát bội, mà còn là nơi tổ chức những cuộc hò giã gạo sôi động, tiếng tăm nhiều lúc không kém so với các tuồng tích cũ. Chẳng hạn như cuộc thi hò thử tài đối đoạn2 giữa hai nhóm nam nữ sắp được kể ra đây.

Mở đầu cuộc hò, bên nữ được ưu tiên lên tiếng trước. Khi chuyển sang các kiểu, các lớp hò cũng vậy. Ở cuộc thi tài này, lúc bước qua giai đoạn chơi chữ (hay đối chữ), bên nữ hò:

Dạ là đêm, đêm nay rồi đêm nữa, Hỏa là lửa, lửa ngọn đến lửa than, Em thấy anh cao họ, lớn làng, Muốn trao duyên gởi nợ, nhưng ngại ngái đàng3 không dám trao.

Bên nam đáp lời:

Nhật là ngày, ngày này sau ngày trước,

1 Rạp Đồng Xuân Lâu: nằm ở đường Phan Đăng Lưu, thành phố Huế, tỉnh Thừa

2 Đối đoạn: Chỉ việc hát đối (là một phần/chặng trong cuộc hò hát).

3 Tri vi tri, bất tri vi bất tri: đây là câu trích trong sách Luận ngữ. Giai thoại đi sứ

Thiên (nay không còn).

của Mạc Đĩnh Chi – Chim chếch ếch ngộp (đối đáp cùng quan nhà Nguyên Trung

Quốc) cũng sử dụng câu này.

PL221

Thủy là nước, nước đục, lại nước trong, Tiếng đồn em cao họ, lớn dòng, Ước kết duyên Tần Tấn, nhưng ngại ngùng biết nói sao!

Bên nữ tung ngay đòn hiểm:

Năm con chim đậu cành cây ngủ, Sáu con bọ xít sắc lục đó tề, Trai nam nhi đối đặng thiếp chịu bề nâng khăn!

Lối hò dùng lối chơi chữ đặc biệt giữa từ thuần Việt và Hán Việt: năm = ngũ (五) = xanh (cinq); sáu = lục (六) = xít (six). Nhưng đấng mày râu cũng tỏ ra sành chữ không kém. Họ đỡ đòn:

Tám con tu huýt kêu cây bát bát, Mười con chuồn chuồn đỏ đít, lượn thập ác nhà, Tui đây đối đặng đó đã nghe chưa? Về xin cha mẹ định giờ nghi gia!

Lời hò cũng đáp lại được lớp từ đồng nghĩa, cùng một kiểu dạng với lời hò ra: tám = bát (八) = huýt (huit); mười = thập (十) = đít (dix). Thấy vậy, cánh nữ tung ra đòn hiểm hơn:

Con chim chàng làng đậu hàng tre họ, Kêu lên tám tiếng: “Tri vi tri, bất tri vi bất tri”(3), Chàng kêu hay chữ đối đi,

Nếu không thì đứng ngoại trường thi

chớ vào

Lời hò đã có “chim”, “chàng”, “làng”, “họ” rối rắm lại thêm lời Hán Việt có nhiều tiếng điệp, khó tìm được lời tương ứng, quả là nan giải. Sau ba nhịp chày tìm lời cho lời đáp trả, các chàng trai trong cuộc buông chày, chào mọi người nói: “Tui xin chịu thua, chưa thể đối ngay được!”.

Khán giả sau phút lặng yên trước thái độ cầu thị của chàng trai, liền bật lên hò

reo, tán thưởng.

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.353 – 356.

17. Không biết thiếp ngồi chầu chỗ mô (o Quy)

Từ lần gặp gỡ đầu tiên ở làng Cao Xá, anh Long và o Quy thỉnh thoảng cũng chạm trán nhau qua các cuộc hò giã gạo trong vùng. Một lần, gặp anh Long cùng vào cối làm cặp bạn hò với mình, o Quy không chào hỏi, giới thiệu tên tuổi nữa, mà tung ngay một lời trêu chọc:

Buổi mai thiếp ra ngành, còn sương sa lác đác, Chiều lại đi về, gió mát cành dâu, Mùi hương trên lầu sa xuống đã lâu lâu, Xui duyên kỳ ngộ, bỗng đâu gặp chàng!

Lời hò đã ví anh Long là con chó. Anh Long tinh ý hiểu ngay, và đã đáp trả:

Buổi sáng thiếp ra đi sương sa lác đác, Chiều lại đi về, gió mát cành dâu, Mùi hương trên lầu sa xuống thiếp chẳng thấy đâu,

PL222

Cầm hèn chi1 khi trưa trên nhà ăn cơm thấy không có, kêu gào, tìm kiếm đã lâu Vắng tăm biệt tích, không biết thiếp ngồi chầu chỗ mô?

Lời hò đáp trả thật thích đáng. Rõ là gậy ông đập lưng ông. Anh Long dùng ý của lời hò ra, ví o Quy là con chó. Vậy là hòa nhưng o Quy thì giận mà không hò tiếp nữa.

18. Xin Quy ở lại, hạc đi chầu trời ( o Quy)

Chuyện “một rỗ một tiền”2 của thầy Điệt đến tai o Quy. O Quy biết thầy Điệt

muốn làm rễ đất Cao Ban. Một hôm, o đón đường thầy, hỏi:

Long, lân, quy, phượng: đệ tam hiệu ký, Đất Cao Ban này, nữ chí ly hương3?

Lời hò ngoài phần xưng danh (phát ngôn đầu) là để hỏi: có phải anh định làm rễ đất Cao Ban này không? Nhưng lời lẽ có vẻ phách lối, tay trên, đồng thời cũng hàm ý chê thầy Điệt là kẻ “tha phương cầu thực”.

Thầy Điệt hò đáp rằng:

Long, lân, quy, phượng: đệ tam hiệu ký, Đất Cao Ban này, chính thị rùa meo, Mai sau gặp hạc, hạc trèo lên trên!

Bị coi là “rùa meo”, lại bị “hạc trèo lên trên”, trong lúc chưa chồng, o Quy xấu

hổ đến không còn nghĩ ra lời hò nào khác, đành bỏ về.

Vài ngày sau, o Quy lại chặn đường thầy Điệt, quyết rửa hận. O dùng tên các quân cờ và cách chơi cờ oi, cờ quân, món mà thầy Điệt rất thích, để làm vũ khí chữ nghĩa đánh thầy:

Em bắt bộ tứ quý đỏ, bộ ba lát, êm đã quá êm, Người ngồi thứ hai vụ ra số bốn, em lại bắt thêm con tướng điều.

Trong lối chơi cờ oi, cờ quân, những quân cờ trên kèm với cái quyền đi trước, thì thắng, mà những người cùng chơi không còn có cách nào khác để cứu vãn. Thầy Điệt cũng cứng họng, không tìm ra lời đáp.

Lần khác, o Quy cũng chặn thầy Điệt giữa đường, và tung những quân bài kiệu

(tổ tôm), là một món chơi nữa của thầy:

1 Cầm hèn chi: thông thường nói là cầm hèn chi phải, nghĩa như ra thế; thì ra là vậy

(cụm từ biểu thị đột nhiên nhận thức được điều trước đó còn mơ hồ, hoặc nghĩ theo

2 Chi tiết liên quan ở giai thoại Một rỗ tiền cũng được mấy quan.

3 Chơi chữ theo cách tách ghép chữ Hán: chữ “nữ” [女] ghép với chữ “chí” [至],

hướng khác).

thành chữ “điệt” [姪]. Nhằm ý, thầy Điệt bỏ quê theo vợ.

PL223

Bên chàng hai hàng suốt triệt, Bên thiếp cũng suốt triệt hai hàng, Thiệp thua chàng con rác, cho chàng ăn đi! Lời hò xấc mà kín quá, thầy Điệt chỉ còn biết kêu trời. Lần tiếp theo gặp o Quy, thấy Điệt lên tiếng chủ động hò đón:

Lâu nay Hạc lại gặp Quy, Xin Quy ở lại, Hạc đi chầu trời!

Hò xong, thầy đi ngay mặc o Quy đang lúng túng tìm lời đáp trả. Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.365 – 367.

19. Cau khô và cau nàng (Thợ Bơi)

Ông thợ Bơi là một nghệ nhân hò khoan nổi tiếng vùng Lệ Thủy, Quảng Ninh (tỉnh Quảng Bình), bà Bơi cũng là người thạo hò hát. Một hôm, cô con gái lớn của Ông bà từ đám hội hò khoan chạy như ma đuổi về nhà, mắt đỏ hoe. Bà Bơi tưởng con gái bị đám trai làng chòng ghẹo mắng yêu con:

- Làm hoa để cho người ta hái, làm gái để gái đề người ta trêu, răng mà phải

khóc?

Giọng tấm tức, cô gái thưa: - Mạ nghĩ có tức không? Câu hò ni mà con không trả cho xứng, chịu thua, khắc

cối để rút lui khỏi hội. - Câu răng? - Eng1 nớ hò:

Trai nhiều vợ cửa nhà xếch xác, Gái nhiều chồng chú bác no say, Anh đây như vàng chỉ cầm tay, Thân em như cau khô giữa chợ, không biết mấy tay trơ rờ2

Bà nói ngay: - Câu hò nớ khó chỉ mà không trả được. Mạ nói cho con nhập tâm để ra mà hò

lại với anh ta:

Thần linh miếu vũ, Trọng chủ trầu cau, Trước nhờ ông làm phúc, sau nên câu cứu chàng.

Từ nãy ông Bơi vẫn nằm theo dõi chuyện giữa bà Bơi và con gái. Nghe câu hò

vợ gà cho con, ông nhổm dậy đung đưa võng, nói:

- Không xác, không xác! Câu nớ chỉ có nghĩa thực. Nghĩa bóng như rứa thì

ngoa ngoắt, xấc xược. Phải như ri nì:

Miếng cau khô nửa rời nửa dính Cau vàng đây mỗi miếng một đồng

1, 2 Một số từ ngữ địa phương: răng: tại sao, thế nào, mạ: mẹ, ni: này, eng nớ: anh

ấy, trơ rờ: sờ mó vào; như rứa: như thể, như vậy, như ri nì: như thế này nè.

PL224

Tiền vô vác, bạc vô phong, Hả lời hả dạ, thiếp mới cho mở mủng lòng đến cau(3)

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.367 – 368. 20. Chọi nhau, gà bên nào cũng chịu thiệt (Thợ Bơi)

Một hôm, ông Bơi cùng bà Bổ rủ nhau đến chợ xem chọi gà. Khi hai con gà

đang đá nhau, bà Bổ bỗng dưng cất tiếng hò:

Đến nơi đây, gà tui cũng lạ, gà cụ cũng lạ, Hai con đáng giá hai đồng, Ai đem nhốt lại một lồng: Mần răng gà cụ, thốt sứt mồng gà tui?

Ông Bơi bèn ứng khẩu hò lại:

Khoan khoan! Đừng chối! Để hai con nó chọi cho bui, Gà chị sứt mồng thì chị kể, còn gà tui trặc cùi, chị tính răng1?

Bà Bổ hò tiếp:

Cô gái Gia Cốc mang một oi nhái, Qua ảo chàng Ếch, bán chợ Mĩ Hương Trai nam nhi chàng đối đặng, thiếp kết nghĩa cang thường trăm năm!2

Ông Bơi đáp lại:

Chàng trai xóm Ốc xéc một rổ hến, Đi chợ Quán Hàu, miệng hát nghêu ngao, Trai nam nhi chàng đối đặng, thiếp phải trao ân tình3.

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.369 – 370. 21. Hát phường vải (Nguyễn Công Trứ)

Dân Nghệ Tĩnh thích sinh hoạt văn nghệ. Hát phường vải là một hình thức quen thuộc và là đặc điểm riêng của dân ca xứ Nghệ. Hát phường vải thiên về đối đáp văn chương, bộc lộ tài năng chí hướng. Nguyễn Công Trứ lúc còn thanh niên thường đi với các phường, dự các cuộc thi. Đêm hát nào có Nguyễn Công Trứ tham dự thường sôi nổi, gây hứng thú bất ngờ.

Hai phe phường vải đêm ấy đối đáp với nhau. Phe bên này mời cụ Hà sang làm thầy dùi. Phe bên kia thì có ông tú Đỗ Tâm. Thông thường, khi hát người ta hay máy

1, 2, 3 Một số từ ngữ địa phương ở hai lời hò: mần răng: làm sao, tại làm sao; thốt:

mô: bui: vui; răng: sao, thế nào. “Trặc cùi” được dùng lối lái âm: “trùi c. ; oi: cái

giỏ, xéc: xách. Các lời hò này đối nhau tuân theo trường nghĩa về: động vật lưỡng

thê: cóc, nhái, ếch, chàng hương và các động vật sống dưới nước: ốc, hến, hào,

nghêu, ngao.

PL225

móc nhau. Nếu bên này hát một câu, gò được tên thầy dùi hay chủ phường bên kia, mà đối phương không đối được, thì là một sự thất bại tẽn tò. Phe bên kia hát:

Thuyền ai đậu bến Cô Tô, Nửa đêm nghe thống chuông chùa Hàn San.

Câu này là dịch từ một câu thơ Đường. Nhưng xuất xứ không quan trọng. Điều gay go là họ đã cái tên Hàn San, lại còn kèm một chữ “thống” để ngụ ý chế giễu. Cụ Hàn San không nghĩ ra câu đối lại, đang định cắp ô, áo ra về. Nguyễn Công Trứ đã dò biết tên thầy dùi bên kia, gà giúp câu đối lại:

Nay mừng quảng lượng độ tâm, Cửa Vũ Môn cá vượt, thỏa lòng xuân khách trần!

Câu hát đối này không những lôi được tên thầy dùi Đỗ Tâm ra, mà còn móc được cả “tiểu sử” của ông ta nữa. Ông này mới thi đỗ (cá vượt vũ môn), mà đỗ là nhờ có bà vợ họ Trần đi cầu cúng ở các đền chùa. Thế là cuộc hát chuyển bại thành thắng. Cụ Hàn nhường tiền thưởng cho ông Trứ. Cả phường mở tiệc bánh trái chiêu đãi các thầy nho.

Thời gian thi mãi không đỗ, Nguyễn Công Trứ phải làm phu đò dọc cho phường buôn chè xanh xuôi ngược trên sông Lam từ Đô Lương tới chợ Giang Đình. Một lần, thuyền qua bến chợ Rồng ở Trung Cần, Nam Đàn, thấy một cô gái xắn váy giặt lụa ven sông, có cặp đùi trắng nõn nà, Nguyễn Công Trứ liền hát nghịch một câu:

Ra đây anh hượt một sào, Lạch này coi thử chỗ nào cạn sâu? Liền bị cô gái nọ bốp chát ngay một câu: Lạch này chỗ cạn, chỗ sâu, Sa chân cũng dễ ngập đầu ơi anh!

Trong khi Nguyễn Công Trứ đang lúng túng chưa tìm ra cách “trả đũa”, đã bị

cô gái tấn công tiếp:

Thuyền tình sào ngắn, sông dài, Coi chừng cũng nốc màu chỉ mô?

Lần này, Nguyễn Công Trứ mới lấy đủ can đảm đáp lại:

Gió phất cành lau, gió thổi cành lau, ` Ra đây cho thử cái màu của anh! Màu này nó chắc như đinh, To dài như cán rựa, có thỏa tình không em?

Nguồn: GTNCT, 84 – 87 22. Vì mê hát mà mất vợ (Nguyễn Công Trứ)

Như ta biết Nguyễn Công Trứ ngoài vợ cả còn có đến 13 vợ bé. Thuở còn hàn vi, ông có một người thiếp rất xinh đẹp. Nàng thường đi bán rau ở chợ Giang Đình và không may người đẹp đã lọt vào con mắt háu gái của một nhà buôn ở Vinh. Ông ta tìm cách chiếm đoạt. Mấy lần gặp gỡ cô nàng ở chợ Giang Đình, ông ta đã dùng lời lẽ ngọt ngào tán tỉnh, gạ gẫm... nhưng không được. Biết anh chàng Trứ cũng rất mê hát ví, ông ta nghĩ cách hát thi. Đôi ba lần hát đối đáp với nhau, ông ta đã rõ tài

PL226

ứng tác câu hát và đối chọi chữ nghĩa rất thông minh của Nguyễn Công Trứ nhưng lại có tính thích hiếu thắng. Thế rồi ông ta đề nghị với Nguyễn Công Trứ hát thi. Ông ta thua sẽ mất nửa gia tài, Nguyễn Công Trứ thua sẽ mất người vợ bé ấy. Đang lúc nghèo túng và rất tự phụ về tài văn chương của mình, Nguyễn Công Trứ nhận lời ngay. Hai bên làm bản giao kèo, có xác nhận của tri huyện Nghi Xuân lúc đó.

Để chiếm được người đẹp, nhà buôn kia đến gặp các danh nho trong vùng, năn nỉ nhờ họ sáng tác cho môt số câu hé thật hóm hỉnh, thật hóc búa búa. Còn Nguyễn Công Trứ thì cứ nhởn nhơ, ra chừng coi khinh địch thủ. Cuộc thi hát có một không hai diễn ra, nhân dân đến tham dự rất đông. Những câu hát ở chặng đầu Nguyễn Công Trứ đều thắng, nhưng rồi cuối cùng Nguyễn Công Trứ đã thua và mất vợ. Thua vì chủ quan, thua vì một câu hát quá hóc hiểm mà mãi sau này cũng chưa ai đối được. Đó là câu:

Nồi đồng ba nấu cháo ba ba, Tam tam nhi cửu hỏi đà chín chưa?

Câu hát quanh chữ “ba” mà mỗi chữ “ba” một nghĩa: nồi đồng ba, con ba ba, tam tam cũng là ba ba, ba ở đây là con số trong toán học (phép nhân), rồi chín là chín, sống song cũng là bội số của số 3. Nguồn: GTNCT, tr.88 – 89. 23. Duyên nợ với hát ả đào (Nguyễn Công Trứ)

Nét riêng đối với Nguyễn Công Trứ là trong những bước thăng trầm của cuộc đời mình, ông đã không bao giờ quên thú hát ả đào. Đối với Hy văn tướng công có ả đào bên cạnh không chỉ có thú vui đơn thuần mà còn như một điều kiện cần thiết để ông thể nghiệm các bài thơ mới của mình được hay hơn và nhằm tiến tới hoàn chỉnh một thế loại; ông nương theo tiếng đàn nhịp phách điều chỉnh hợp lý bài hát của mình. Có thể sinh hoạt hát ả đào đã làm nảy sinh trong Nguyễn Công Trứ tư tưởng an nhàn, nhưng mặt khác hát ả đào cũng đã nâng Nguyễn Công Trứ lên một tầm cao về hồn người, hồn thơ.

Và một điều đặc biệt của Nguyễn Công Trứ là thơ hát nói của ông gần như toàn thơ Nôm. Ai hỏi về nguồn gốc lối văn này, Nguyễn Công Trứ không chịu nói ra nên người ta đoán anh có hiểu biết nhưng phải chờ người tri kỷ mới giảng giải rõ ràng. Lớp nho sĩ địa phương hồi ấy bàn tán:

- Ca trù thì phải bác Trứ nhà ta mới làm được. Lối văn ấy phóng túng, dù có mẹo luật mà vần có thể ra ngoài khuôn khổ như vậy rất hợp với bác ấy. Có người lại nói:

- Tôi cho rằng bác Trứ thích ca trù còn ở một lẽ khác nữa, bởi trong các thể văn có thể nào cùng một lúc phải kết hợp cả cầm, cả xướng, cả thi, cả ngôn, cả cách, cả cổ như lối văn ca trù? Phải là người tài tử mới chơi được ca trù. Bác Trứ ta là đệ nhất tài tử mà đệ nhất tài tình thì phải chọn ca trù làm lối sở trường là phải. Có người lại nói thêm vào:

- Nói như các bác là mới xét có mặt ngoài tài hoa của bác Trứ mà quên mất cái chí anh hùng của bác ấy! Văn ca trù dõng dạc, phải có bút pháp hùng hồn, ngay những bài ca trù buồn, lời ca vẫn cứng rắn!

PL227

Kẻ bàn ra, người tán vào ra sao Nguyễn Công Trứ đều biết, nhưng anh vẫn im

lặng.

Thế rồi, với năng khiếu trời cho và với phong thái hào hoa, phong nhã, Nguyễn Công Trứ đã nổi lên giữa đám ca trù: “Tay lướt nhẹ trên phím đáy, ông họa, phổ thơ mình vào những tiếng tơ, lúc phấn chấn hào hùng, khi rưng rưng não ruột…”. Phong thái dân dã và tấm lòng cao cả của Nguyên Công Trứ dã khiến cho các nam thanh, nữ tú có tiếng tăm trong làng hát ả đào đều quý nể. Họ tôn ông làm kép cho nhiều phường ca.

Nhớ lại ngày thành Tĩnh Nghệ được xây dựng ở địa điểm mới, phố xá được mở mang, khu trường thi được tổ chức quy mô hơn, các hoạt đông vui chơi của các văn nhân tài tử trong vùng cũng được tập trung về đó cả. Nhiều lần các nhóm ca công một số huyện lân cận được mời về tỉnh lị giúp vui cho những ngày yến tiệc, những đám hội hè. Nhóm ca công nổi tiếng hơn hết vẫn là nhóm ở làng Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân.

Nguyễn Công Trứ thì quá quen biết với nhóm nghệ nhân này. Hát ca trù, tài sáng tác văn ca trù vốn là sở trường của anh và những ngày lảo đảo với trường thi suốt mấy năm qua cũng là những ngày anh tìm chút khuây khỏa trong các buổi đàn đúm ở làng Cổ Đạm. Bây giờ đây chuyện thi cử chưa thay đổi được hoàn cảnh hàn nho của mình nên anh lại tìm cách giết chết thời giờ dưới xóm chị em. Một phần, chuyện thi cử luẫn quấn làm cho anh không, khỏi ngượng ngùng khi tiếp xúc với vợ và mẹ. Ở nhà đã chẳng giúp đỡ được gì cho gia đình lại thêm tốn miệng ăn. Đi theo nhóm ca công, dẫu sao cũng có vài ba quan tiền công mà chi dùng. Phường hát này có cảm tình đặc biệt với cậu khóa, vì Nguyên Công Trứ ở trong phường người ta chắc chăn có sẵn bài hát mới và có thêm một cây đàn xuất sắc.

Tài gảy đàn của anh Trứ thì thật đặc biệt. Cây đàn đáy trong tay anh dù là cung nam, cung bắc hay cung nao, cung pha, cung huỳnh, cậu cũng đều dạo một cách điêu luyện. Khi đánh đàn khuôn, tiếng gảy của anh thấp cao, lên xuống không thiếu, không thừa. Khi đánh đàn hàng hoa, lối gảy của anh thực tài tình biến hóa. Ngón đàn của anh điêu luyện đến mức khiến cho hết thảy mọi ả đào phải đắm say. Nếu ai được kép Trứ đánh đàn cho hát thì đó là niềm hạnh phúc, hãnh diện với họ.

Tiếng đàn làm thăng hoa tiếng hát của người ca nữ. Nguyễn Công Trứ là một nhà thơ ca trù, hơn thể ông còn thực sự chứng tỏ là người sống với ả đào, có không biết bao nhiêu giai thoại kể về Nguyễn Công Trứ gắn bó với hát ả đào từ thời còn trẻ đến lúc về già. Từ chuyện “Giang sơn một gánh giữa đồng” với nàng Hiệu Thư, để rồi từ đó: chuyện “Thuyền quyên ứ hự” sau này khi ông đã làm quan; đến chuyện đem quân đánh trận miền Tuyên Quang, Cao Bằng xông pha nơi Lam Sơn chướng khí ông vân đưa cả đào kép lẫn nhạc khí đi theo và say sưa với thú này đến nỗi tuần phủ Lạng Sơn Trần Văn Tuân đã dâng một sớ về Kinh thành tâu với Minh Mạng rằng ông không chịu đánh giặc.

Rồi chuyện làm chủ khảo trường thi ở vào một hoàn cảnh nghiêm ngặt, thế mà ông vẫn chọn ả đào, gọt tóc để trái đào giả làm tiểu đồng để thỉnh thoảng ca hát. Mãi cho đến 70 tuổi, về hưu rồi ông vẫn không chịu chia tay với ả đào, hơn thế nữa càng

PL228

ngày ông càng nuôi đâm ca nương nhiều hơn, thậm chí còn ngang nhiên đưa cả ả đào lên chùa và cưới một cô đào bằng tuổi con, tuổi cháu.

Ông thông cảm và sẵn sàng chia sẻ với nhưng có cảnh ngộ éo le, những người có tâm trạng, cử chỉ không thuận theo lễ giáo phong kiến nhưng cũng rất dễ thể tình cho những khách mũ cao, áo dài mà vướng vào món nợ cầm ca.

*** Chuyện rằng, có một ông quan to đến hát ca trù ở làng Cổ Đạm. Ông quan kia thấy một đào nương xinh đẹp, hát mùi rồi si mê. Tiếng sềnh, giọng ca, ảnh mắt, khoé môi cứ làm cho hai người ngày một quyến luyến, nhưng một ngày ông quan kia bị đổi đi xa. Mối tình dang dở, trước cảnh bịn rịn của hai người, Nguyễn Công Trứ đã thay mặt khách cầm ca làm thơ tặng ông quan nọ:

Tao phùng rồi tiễn biệt Khách với mình đã quen biết được bao Quê quán đâu và nhà cửa đâu đâu Bực vì nỗi nước lũ, ao bèo trôi lễnh lãng Khi chén rượu, khi câu thơ thi thoảng Người nghe chơi thì ta cũng hát chơi Thân thiết gì khiến luy ngọc tuôn rơi Để mai kia người một xứ Cô nhạn Nam phi, hồng bắc khứ Hành vân tâng vãng, thuỷ đông lưu Nơi kia xa không thiếu, bạn khâm trủ, Dưới nguyệt đêm thu vui mỏ tiệc Chốn ngõ cũ ta ôm cầm đơn chiếc Khách tri âm còn dấu biệt tăm hơi Kìa trông, cá nước chim trời!

Lại một bậc văn nhân vì say hát cô đầu mà bỏ quan, nguyện làm một khách lãng du. Đến làng Cổ Đạm, khách gặp một danh ca ở goá, tuổi đã trung niên nhưng dung nhan còn mỹ miều và giọng hái thì mê hồn. Khách văn nhân lân la tỏ tình nhưng người ca kỹ nhan sắc lại từ chối. Chắc một trong những lý do mà nàng không muốn đi bước nữa là nàng muốn dốc tình thương của mình cho đứa con gái duy nhất của mình lúc này mới hơn 10 tuổi. Cô bé này tuy chưa qua thời thơ ấu nhưng đã có nhiều đường nét hứa hẹn là một trong kiều diễm vượt lên cả sắc tài của mẹ. Các buổi họ ngồi nói với nhau những lời từ biệt thì cô con gái dễ thương kia được chứng kiến. Cô bé nghe lời đoạn tuyệt tình yêu của mẹ thì nhìn mẹ bằng cái nhìn trách móc, rồi lạ nhìn người đàn ông bằng cái nhìn thông cảm, sẻ chia và có phần nuối tiếc. Thế là vị khách nhân kia không chỉ bịn rịn, luyến tiếc vì mẹ mà cả vì con.

Nguồn: GTNCT, tr.90 – 95

24. Giang sơn một gánh giữa đồng (Nguyễn Công Trứ)

Hồi trước, ở làng Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân có một cô đào tên Hiệu Thư nổi tiếng tài sắc, giọng hát tuyệt hay, nhưng tính nết kiêu kỳ không phải vương tôn công tử, khó mà được gần nàng. Nhờ có tài đánh đàn mà thầy khoá Trứ được cô Hiệu Thư

PL229

cho theo làm kép. Thường Hiệu Thư đi hát ở đâu thì Nguyễn Công Trứ cắp đàn theo đó. Một hôm, vào buổi chiều tà, gánh hát ca trù Cổ Đạm được mời sang hát mừng đám hội quan ở bên làng Vĩnh Yên. Từ Cổ Đạm Nghi Xuân sang tỉnh lị Nghệ An không xa lắm nhưng phải đi qua cả một quảng đường vắng vẻ, vượt qua nhiều đoạn đường từ núi Mồng Gà đến núi Lần. Vô tình hay cố ý không biết, nhưng cả anh Khoá Trứ, cô đào Hiệu Thư và chú tiểu đồng đi theo đều bước chậm lại sau đoàn một đoạn khá xa. Hai người đi sóng đôi, mỗi khi chàng liếc mắt đưa tình thì nàng đỏ mặt, cúi đầu e lệ.

Thực tình hai người vốn quý mến nhau từ lâu nhưng chẳng mấy khi được trò chuyện thoải mái, nay là dịp may cho tài tử đến với giai nhân. Anh Khoá nghĩ ước gì dưới vòm trời xanh này chỉ có hai người... nhưng lúc này anh thấy vướng vì chú tiểu đồng. Đoán định cậu Trứ đang gặp phải những điều khó nói, Hiệu Thư tìm cách lái câu chuyện, nàng nói:

- Này, cậu kép! Cậu có biết sự tích ngày xưa của làng Ca Công ta không nhỉ?

Tại sao lại có hát ả đào này?

- Chuyện dài lắm, mà bây giờ cũng mệt rồi, hay chúng ta ngồi tạm nghỉ một lát

tôi kể cho mà nghe.

Đang lúc mải mê muốn biết sự tích tổ nghề, nàng Hiệu Thư đồng ý. Cả ba người ngồi xuống bãi cỏ cạnh một gốc cây bóng mát. Sau khi giúp đỡ chú tiểu đồng xếp gọn gàng đồ đạc, Nguyễn Công Trứ thong thả kể câu chuyện một cách tình tiết, trân trọng và thành kính:

(lược đoạn này: nôi dung Nguyễn Công Trứ kể về sự tích làng Ca Công) Nghe xong câu chuyện, nàng Hiệu Thư gật đầu tán thưởng: - Hay quá nhỉ, thì ra câu chuyện tiên tổ ngành là như vậy. Cậu Trứ giỏi đọc sách và nhớ thật. À, thế người ta có truyền lại được bài ca nào của hai vợ chồng này không?

- Có chứ! - Câu kép đọc luôn đi! - Tôi chỉ nhớ mấy câu:

... Mừng lứa đôi gặp gỡ lạ lùng Trước gió xuân dìu dặt tiếng tơ đồng Ấy Lưu Nguyễn xưa cùng duyên đào ngãi Vì một khúc đàn tươi thắm mãi Xui nên khách tục sánh người tiên...

- Thơ hay quá, cậu cố nhứ đọc hết cho tôi học ngâm rồi cậu đánh đàn đệm cho

tôi hát luôn hôm nay nhé!

- Vâng, để tôi nhớ xem! Vừa nói Nguyễn Công Trứ vừa vỗ trán ra chiều suy nghĩ. Anh nhìn quanh ra bộ không chú ý đến Hiệu Thư và quay lại nhìn chằm chằm vào gánh hành lý rồi thốt lên một tiếng:

- Ôi chết, tôi bỏ quên mất dây đàn ở nhà rồi. Hiệu Thư liền an ủi:

PL230

- Không sao, sang đấy rồi ta mua hoặc nhờ đàn của các chú kép bên kia cũng

được.

Anh Khóa vẫn giãy nãy lên: - Không được, dây đàn của tôi là tôi trau lắm kia, không có nó thì âm lượng tiếng đàn chẳng ra hồn. Thật quá đoảng! Chẳng khác gì đi cày mà quên mất trâu. Quên dây đàn thì sang bên hội cũng ngồi trơ trơ mà nhìn thôi. Hiệu Thư tỏ ra ngây thơ, thương hại và cũng muốn đem nay tiếng đàn của anh Khóa hoà cùng lời ca của mình sẽ làm say đắm lòng người, nên nhiệt tình đề nghị:

- Thôi, chú nhỏ (chỉ tiểu đồng) vù chạy về nhà lấy giúp cho cậu Khoá đi! Lúc này anh Trứ mới thở phào nhẹ nhỏm: - Phải đấy, nhờ chú chạy mau đi lấy hộ, nay sang bên tỉnh anh đền cho chú một

bữa thật hậu.

Chú tiểu đồng vâng lệnh, thế là nàng Hiệu Thư lại thêm một lần bị động, nàng

sửa soạn túi hành lý một cách lúng túng, cậu Trứ ngồi lại gần bên và nói:

- Này, cô ạ, tôi nhớ cả bài rồi, một bài ca trù rất hay và hay nhất là hai câu

giữa.

- Vậy thì cậu đọc đi! - Ừ đọc nhé, lúc nãy có một câu tôi cũng đọc sai, chính ra là như thế này: “Ấy Lưu Nguyễn xưa cùng duyên bạn lứa” chứ không phải “Ấy Lưu Nguyễn xưa cùng duyên đào ngãi”. Duyên bạn lứa! Cô ạ. Chữ bạn lứa hay hơn và sát hơn nhiều. Còn các câu thơ khác là như thế này:

Dưới Nguyệt Ngưu Lang hòa Chức Nữ Trên đồng nàng Sử (Hiệu Thư) gặp Hi Văn (Công Trứ) Đàn thơ nức tiếng tri âm Khúc loan phượng hòa minh truyền nối mãi!

Nàng Hiệu Thư cô nguýt yêu anh Trứ một cái tưởng chừng như đổ cả dãy núi Lần. Đôi má bừng đỏ, hai vai rung rinh, khép nép. Anh Trứ ngồi sát vào bên cô rồi bất thần ôm chặt. Cô nàng Hiệu Thư vừa ngượng ngùng, vừa luống cuống đành nép đầu vào ngực anh và thốt lên một tiếng “ứ hự”!. Nguồn: GTNCT, tr.96 – 105. 25. Thuyền quyên ứ hự (Nguyễn Công Trứ)

Vào khoảng 20 năm sau, khi đến nhậm chức Hải An, quan tân Tổng đốc cho gọi một số ả đào tiếng tăm đến hát mừng. Trong số danh ca do quan địa phương chọn đến có Hiệu Thư. Lúc này nàng ca nữ vẫn mắt phụng, mày ngài như xưa. Nàng nhìn vị Tổng đốc đại thần ngồi chiễm chệ trên cao kia nào phải ai xa lạ, chính là anh Khoá làng Uy Viễn đã đóng vai kép đánh đàn dạo nào, đã từng trêu ghẹo mình giữa đồng không mông quạnh.

Gương mặt quắc thước ẩn những nét tài hoa mà uỷ mị ấy thì làm gì mà đổi thay đi được theo thời gian, cộng với tiếng Nghệ nghe nặng mà ấm áp làm sao nỡ quên? Với nàng, bây giờ một bên là Tổng đốc đại thần, một bên là phận ca bèo bọt. Biết hát gì đây? Biết đâu con người “lạ vẽ cân đai" kia đã mãi công hầu mà quên đi chút kỷ niệm giây phút buổi hàn vị. Nàng bèn nhắc khéo bằng hai câu hát mưỡu:

PL231

Giang sơn một gánh giữa đồng Thuyền quyên “ứ hự” anh hùng nhớ chăng?

“Ứ hự”! Tiếng kêu như một lời trách móc vừa biểu thị một nỗi niềm hoan lạc của một người ca nữ khiến Nguyễn Công Trứ không thể nào quên. Nhưng vì hàng năm mùa màng thất bát, phường Cổ Đạm đất Nghi Xuân nghèo đói không nuôi nổi một ca nữ tài hoa. Còn chàng trai thì lận đận vì thi cử. Cơn sóng lưu lạc đã xô đẩy Nguyên Công Trứ và nàng Hiệu Thư đi khỏi quê hương với kỷ niệm sâu sắc của tuổi hoa niên. Ngày gặp lại, trong phút giao duyên đặc biệt và tiếng lòng e ấp nửa cưỡng, nửa ưng của cô gái tài hoa diễm lệ kia đã gây được ấn tượng mạnh mẽ với Nguyên Công Trứ từ phút đầu gặp gỡ. Chính vì vậy, nghe xong câu hát, Nguyễn Công Trứ bỗng nhớ ngay chuyện cũ. Hỏi ra mới biết trải qua bao phen sóng gió, nàng đang chờ đợi chưa lấy ai. Cảm động trước tình cảm của nàng Hiệu Thư, giữa ba quân thiên hạ, ông bước ra nâng nàng đứng dậy rồi thề nguyền:

Ánh ngọc gương tình sao vạn cổ, Đỉnh trần lửa kiếp nấu ba sinh.

Và sau lần gặp gỡ đó, ông giữ nàng Hiệu Thư lại trong nhà để làm người bạn đời, giúp nàng chấm dứt cuộc đời giang hồ lưu lạc của khách đào nương. Nguyễn Công Trứ đã kỷ niệm cuộc tái ngộ bằng một bài thơ vô cùng đằm thắm:

Liếc trông giá đáng mấy mười mươi Đem lạng vàng mua lấy tiếng cười Giăng xế nhưng mà cung chẳng khuyết Hoa tàn song lại nhụy còn tươi Chia đôi duyên nợ đà hơn một Mà nét xuân kia vẹn cả mười Vì chút tình duyên nên đằm thắm Khéo làm cho bận khách làng chơi. (Bốn cô đào già)

Quả thực, Hiệu Thư rất muốn được giữ phận tiểu tinh với quan Tổng đốc ở đất Hải An này mãi, chẳng muốn đi đâu nữa. Nhưng Nguyễn Công Trứ, con người vốn dễ “động lòng bốn phương”, chàng lại đang là con xe, con pháo của triều đình, do vậy ít lâu sau, Nguyễn Công Trứ được lệnh đem quân đi dẹp giặc ở vùng Tuyên Quang, Cao Bằng. Lòng nhớ thương vợ, ông đã làm bài thơ tương tư:

Tương tư không biết cái làm sao Muốn vẽ mà chơi, vẽ được nào Khi đứng, khi ngồi, khi nói chuyện Lúc say, lúc tỉnh, lúc chiêm bao Trăng soi trước mắt, ngờ chân bước Gió thổi bên tai tưởng miệng chào Một nước, một non, người một ngã Tương tư không biết cái làm sao? (Tương tư)

PL232

Một hôm, đang ở ngoài trận mạc, bỗng có tin Hiệu Thư lặn lội đến tìm. Nghĩ

thương cảnh thân gái dặm trường, khi gặp nàng ông ngâm: Đành nhẽ bút nghiên mà kiêm mã Thương ôi kim chỉ cũng phong trần.

Giai thoại này đủ tỏ rằng trong cái say mê đào, trong cái tình si đối với đào nương của Nguyễn Công Trứ, có rất nhiều chất nhục dục len vào làm động lực căn bản. Khi chia tay nàng, ông đã xúc động thốt lên:

Kẻ về người ở bồi hồi thay lúc phân kỳ Khéo quầy người hai chữ tình si Lửa ly biệt bầng bầng không lúc nguội Bát ngát trăm đường bối rối Biệt thời dung dị kiến thời nan! Trót đa mang khúc hát cung đàn Nên gian díu mối tình chưa dứt Sá nghĩ xa xôi nghìn dặm đất Tiếc công đeo đẳng mấy năm trời Khi ra vào tiếng nói giọng cười Một ngày cũng là người tri kỷ Sao nở để kẻ vui người tẻ!

Không thể lần ra dấu vết của Nông Văn Vân, một kẻ lúc ẩn, lúc hiện, lại được núi rừng và bản mường bảo vệ. Không có mẹo giỏi thì không thể nào tấn công vào nơi ẩn của Vân. Cuối cùng Nguyền Công Trứ đi đến một quyết định riêng. Ông đóng quân lại, không hoạt động gì, gửi đơn lên tâu với vua, lấy cớ mưa to gió rét, lại năm hết tết đến, đánh nhau không có lợi. Lúc này nghĩa quân của Nông Văn Vân lại tăng cường khiêu khích ở Lạng Sơn. Trần Văn Tuân đã nhiều lần viết thư cho Nguyên Công Trứ yêu cầu ông tăng quân cứu viện. Nguyên Công Trứ viện mọi lý do để từ chối, Trần Văn Tuân vì thế mà thêm giận. Điều làm ông bực mình nhất là Nguyễn Công Trứ đã không cho xuất quân mà còn cho quân sĩ nghỉ ngơi, ca hát. Nguyễn Công Trứ mở tiệc ca trù ngay trong doanh trại của mình, giữa chốn rừng thiêng và cả ven bản mường có người qua lại. Đàn sáo, trống phách nổi lên, không chỉ hát xướng ban ngày, mà còn hát thâu đêm suốt sáng. Giọng hát của nàng Hiệu Thư và các ca nữ vang lên réo rắt. Dinh trại của Tổng đốc Hải Yên trở thành sân khấu của giáo phường. Thấy vậy, Trần Văn Tuân càng thêm cáu giận, ông mật tấu về cho nhà vua hạch tội Nguyễn Công Trứ: cầm quân mà không chịu giao chiến, chỉ say sưa với hát ả đào! Biết chắc vị nho tướng này đang có mẹo riêng, nên vua Minh Mạng liền phê sớ của Trần Văn Tuân: “Nguyễn Công Trứ tự thử sở hành, tất hữu biệt toán. Quân lử chi gian, bấy khả dĩ phú ngôn giao động tướng tâm, thích y xử trí”.

Nghĩa là: Nguyễn Công Trứ làm như vậy chắc là có tính toán riêng. Trong

quân không được bàn phiếm làm cho lòng tướng băn khoăn. Cứ để yên vậy xem.

Nguyễn Công Trứ bày ra kế hát ả đào ngay giữa chiến trận nhằm hai mục đích: một là để động viên quân lính; hai là làm giảm sút tinh thần cảnh giác của quân

PL233

tướng Nông Văn Vân. Tướng tá đã lao vào hát xướng thì đối phương sẽ cho là việc đối phó chẳng lấy gì làm căng thẳng. Ai chẳng nghĩ như vậy!

Thế rồi, những cuộc hát ả đào đã lôi cuốn người dân bản này, bản nọ, kế cả khách buôn bán qua đường. Nguyễn Công Trứ tìm cách tạo ra sự trà trộn ấy để tìm cho ra con đường tắt vào Ngọc Mao. Rốt cuộc, ông đã do thám được chỗ giấu mình của Nông Văn Vân là ở khu rừng Thẩm Bát.

Ông liền cẩn thận bố trí những đội quân cảm tử cải trang mặc quần áo đen như quân của Nông Văn Vân, dùng vải hẹp khổ bên làm dây vắt qua vách núi để leo xuống. Bị bao vây bất ngờ, nghĩa quân của Nông Văn Vân người thì chết tại chỗ, kẻ phá vây bỏ chạy, còn Nông Văn Vân bị chết cháy và rơi xuống hang đá.

Đánh được Nông Văn Vân, Nguyễn Công Trứ thực sự được vua Minh Mệnh công nhận ông là con người văn võ song toàn. Nhà vua phong ông lên Tổng đốc Hải Yên để tiếp tục dẹp loạn ở Chàng Sơn và tiếp tục những biện pháp khẩn hoang nhằm mục đích an dân như ông đã đề nghị.

Lập được chiến công lần này, cũng như những lần trước. Nguyễn Công Trứ chỉ quan niệm ông làm được nhiệm vụ dẹp loạn, yên dân chứ không vì vua chúa mà gây nên tang tóc cho dân chúng. Đối với việc ân sủng của nhà vua lần này, Nguyễn Công Trứ hầu như không thấy hào hứng như những lần trước nữa, ông cảm nhận sâu sắc cái trò lợi danh chức tước, cũng như chuyện thế thái nhân tình. Nguồn: GTNCT, tr.106 – 114 26. Nam Đàn tứ hổ là đây (Phan Bội Châu)

Phan Văn San có ba người bạn thân, là Nguyễn Quý Song, Vương Thúc Quý, và Trần Văn Lương. Họ đều học giỏi và được mệnh danh là “Nam Đàn tứ hổ”. Ở đây có lưu truyền mấy câu: “Uyên bác bất như San/Thông minh bất như Song/Tài hoa bất như Quý/Cường ký bất như Lương” (Học rộng không ai bằng San/Thông minh không ai bằng Song/Tài hoa không ai băng Quý/Nhớ dai không ai bằng Lương). Hôm nọ, cả bến người rủ nhau đi hát ở phường vải Nam Kim.

Một cô gái cất lời hỏi:

Bốn chàng quê quán ở đâu Xin tường danh tính, để sau khuyên mời?

Không chần chừ, Phan Văn San đã thay lời các bạn, đáp rằng:

Nam Đàn tứ hổ là đây, San, Song, Lương, Quý một bầy bốn anh Thế là rõ. Hai bên có thể bắt đầu cuộc đối đáp. Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.269.

27. Đoán chữ (Phan Bội Châu)

Tại phường hát Thịnh Lạc, chắc có một nhà nho nào đó đã gà cho các o hát

một câu đố chữ khá hóc hiểm, rằng:

Độc đạo Nam thành chí Bắc thành Thiên trung bản nguyệt lộ tam tinh Tam nhân đồng tọa ngưu vô giác Nhất điểm tam hoành dữ khẩu thanh

PL234

Chàng mà giải được, thiếp đinh ninh theo về!

Với câu đố loại này, Phan Văn San chẳng cần phải suy nghĩ gì lâu. Lật lại vài

lần mấy câu trên, ông nhận ra, và đáp lời:

Con đường từ thành Nam đến thành Bắc, là chữ “nhất” (一) Nửa vành trăng với ba ngôi sao giữa trời, là chữ “tâm” (心) Ba người ngồi trên con trâu không có sừng, là chữ “phụng” (奉) Một chấm ba ngang với chữ khẩu chữ thanh, là chữ “thỉnh” (請)

Phan đã giải ra bốn chữ “nhất tâm phụng thỉnh” (một lòng kính mời)”, tức

phường vải ngỏ lời mời ông đến chơi. Ông vui vẻ tiếp lời: Nhất tâm phụng thỉnh, ơn nàng, Một lời ghi tạc đá vàng thủy chung. Phường vải đều cất tiếng khen rang rảng:

Văn hay thật thậm là giòn, Son tàu bút thủy khuyên tròn mười khuyên

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.270.

28. Đoán tên (Phan Bội Châu)

Ông Cửu Thiện ở làng Hữu Băng, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, vốn tự đắc là người thông thái, biết nhiều chữ nghĩa, điển tích. Nghe bên Nam Đàn có đầu xứ nổi tiếng hay chữ, ông tìm đến thử tài. Cửu Thiện đến một cuộc hát phường vải có Phan Văn San tham dự.

Thầy Cửu Thiện là người khá xa lạ với mọi người, bên nữ liền hát ngay một

câu thăm dò:

Tối tăm biết trúc hay mai Biết đào hay liễu, biết ai mà chào?

Ý nói, người khách là Cửu Thiện phải xưng danh trước mọi người. Vẻ như ông

này đã chuẩn bị trước, lên tiếng giới thiệu:

Đào Nguyên một giải thanh thanh Tiền Triều đã định, liên thành còn in!

Nói cái gì lạ vậy? Chẳng rõ danh tính, làng tông gì! Các bạn phường vải ngơ ngác, các nho sĩ tham dự cũng lúng túng, ngỡ ngàng. Mọi người đổ mắt vào đầu xứ San. Ông San cũng đang suy nghĩ. Im lặng khá lâu. Đột nhiên, San mỉm cười, rồi lẩm nhẩm câu hát cho một o trong phường. O này hào hứng hát lên:

Hương Sơn là chốn quê nhà, Phải rằng danh Bích có là đúng chăng?

Ngồi phía bên kia, Cửu Thiện đang ung dung châm mồi điếu thuốc, chờ đợi thắng lợi của mình từ việc chấp nhận “bí” của giới phường vai Nam Đàn, bỗng giật nảy mình, cái điếu cày đang cầm trên tay rơi xuống. Ông reo lên: “Bái phục! Bái phục!”.

Thì ra, lời hát của ông ta đã lẩy “thi liệu” từ các văn bản ở địa phương mình, người ngoài khó lòng hiểu được: a) “Đào Nguyên” là tên gọi khác, chỉ trong sách vở, của sông Ngàn Phố (huyện Hương Sơn); b) “Tiền Triều” cũng là một tên gọi không

PL235

phổ biến của làng Tuần Lễ; c) “Liên thành” là chữ mượn từ sách cổ “liên thành vi bích” (ngọc bích là ngọc liên thành), nhằm chỉ tên Bích. Phan Văn San đã kết hợp ba yếu tố vừa nêu để giải đoán tên và quê quán của ông Cửu Thiện.

Người trong cuộc lâu nay đều công nhận tài năng của San, đến chuyện này càng thấy tự hào về đồng hương của họ. Nghe nói, ngay sau cuộc hò, Cửu Thiện xin về tận nhà đầu xứ San để trò chuyện, hỏi han suốt đêm cho bõ lòng khao khát.

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.271 – 272. 29. Cha thầy Mạnh Tử là ai? (Phan Bội Châu)

Trai Nam Đàn thường tổ chức những cuộc hát với gái Thanh Chương. Hôm nào không rủ được Phan cùng là lo sốt vó. Còn hôm nào có San tham dự thì yên tâm vô cùng. Bởi vì, ông là người học rộng biết nhiều. Không một thách đố nào ông chịu lùi bước. Có một lần phe nữ Thanh Chương ra câu hát đố:

Đưa chàng mấy hạt ngô rang, Trồng nơi mô cho mọc, thiếp theo chàng về ngay?

Phe nữ hí hửng, câu này khó quá chắc trai Nam Đàn bó tay. Nhưng San không những đáp được mà còn làm cho phe nữ Thanh Chương phải tâm phục khẩu phục về tài ứng phó linh hoạt, dí dỏm, nghịch ngợm của mình: Nơi nào mà nắng không khô, Mà mưa không ướt, đúc vô mọc liền.

Một lần khác phe nữ hát đối:

Vua Nghiêu có chín con trai, Đan Chu là một, còn ai tám người?

Vua Nghiêu là một trong năm vị Ngũ đế, ông kế vị Tam Hoàng là bậc đại hiền. Vua sinh được chín người con trai, song chính sử Trung Quốc chỉ ghi tên một đứa nghịch ngỗ nhất là Đan Chu. Cho dù có nắm được chi tiết lịch sử như thế cũng không dễ trả lời. Huống chi mọi người thuộc phe nam chưa ai đọc đến nơi. Phe nữ chờ mãi không thấy phe nam trả lời, hát tiếp như để khiêu khích hay dồn tiếp phe nam vào chân tường:

Phường ơi thắp đuốc cho nhờ, Kẻo mà tôi chỉ mối rờ không ra. Nhưng Phan Văn San đã kịp có câu trả lời:

Em là phận gái nữ nhi, Một Đan Chu cũng đủ, hỏi mần chi tám người?

Thì ra câu trả lời rất chững chạc, lại còn trách móc một cách hóm hỉnh nữa! Phe nữ vẫn tiếp tục thử tài. Nêu không khó hơn những lần trước thì ra câu hát đố làm gì. Nhưng phe nam vẫn thản nhiên, bởi có San đây rồi. Quả thật, câu hát đối lần này hóc búa không chịu được. Đọc xong câu hát đố, San cũng rịn cả mồ hôi trán:

Nghe chàng kinh sử đã tài, Cha thầy Mạnh Tử là ai rứa chàng?

Chính sử Trung Quốc chỉ ghi Mạnh Tử mồ côi cha, nhưng không ghi tên người cha đó. Ngay cả người Pháp có thói quen ghi tỉ mỉ đến gốc rễ ngọn nguồn, vậy mà khi viết về Mạnh Tử, họ cũng chỉ ghi trong mục “Người học trò kiên chí”, là: “Ngày

PL236

xưa ở nước Tàu, một người đàn ông qua đời để lại duy nhất một người vợ và một cậu con trai nhỏ gọi là Mạnh Tử”. Rõ ràng câu hát đố này không phải do các cô gái dệt vải nghĩ ra. Hắn là do một nhà nho nào đó ở Thanh Chương uyên thâm lắm mới có thể nghĩ được như thế. Nếu không trả lời được câu này, lần sau ai còn dám vác mặt tới nữa. Chẳng nhẽ mình cũng bó tay sao? Họ dùng mẹo để đố thì sao mình không dùng mẹo đề trả lời. Như một tia chớp vụt lóe sáng, San đã tìm được lời giải tuy chưa thật đắt giá lắm:

Thầy Mạnh, cụ Mạnh sinh ra, Trả lời câu đố, tổ cha thằng bày1! Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.272 – 274.

30. Mối tình chung (Phan Bội Châu)

Trong số những nho sĩ tham gia hát phường vải, Phan Văn San thường được chị em dành cho nhiều thiện cảm hơn cả, vì tài năng xuất sắc, cốt cách hiên ngang. Nhiều cuộc hát, các cô mạnh dạn gửi gắm cho Phan những tình cảm riêng, không giấu giếm.

Lần hát ở Nam Kim, cô Ban hát:

Sắp nhau một gánh nặng nề, Giang sơn bịn rịn, tình quê nghẹn ngào.

Tiếng địa phương “sắp nhau” là gặp nhau. Cô gái nói đến tình quê mà bứt rứt.

Phan trả lời:

Đêm xuân gặp gỡ giữa đường, Non sông một đội, cương thường hai vai.

Thế là rõ. Người thanh niên nay không dễ gì mà quên nghĩa lớn. Cô gái mạnh

dạn hơn, ngỏ lời kết đôi:

Chung vai, chung cả đò đầy, Cho em chung mẹ, chung thầy với anh!.

Tình cảm quả là chân thành. Nhưng Phan muốn hướng cô gái đến những gì lớn

lao hơn, ông đáp:

Chung binh, chung tướng, chung vương, Cùng anh chung cả tứ phương sơn hà.

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.277

31. Vui cuộc cờ tàn (Phan Bội Châu)

Khi đã trở thành lãnh tụ hội Duy Tân, mỗi dịp trở về làng, nếu không bị mật thám theo dõi, Phan Văn San (bây giờ lấy tên là Phan Bội Châu) vẫn tranh thủ tham gia hát vui vẻ với bà con. Dịp nọ, Phan mới đi xa về, đến chơi một đám phường vải. Một nho sĩ bên nữ tỏ ra lo lắng cho công việc của Phan, bày cho họ câu hát:

1 Câu này trong tài liệu Văn hóa dân gian xứ Nghệ của Ninh Viết Giao chép

có phần “dân gian” hơn là: “Đ. mẹ con hát, tổ cha thằng bày!”.

PL237

Hay chi một cuộc cơ tàn, Mà chàng xe ngựa một đoàn qua giang?

Thật không ngờ cho đối phương, Phan đã trả lời một cách hào hùng, rắn rỏi:

Nhất vui là cuộc cờ tàn, Mã toan giao túc, pháo toan chiếu trùng!

Và sau đó, khi biết được Phan quyết tâm ra đi vì sự nghiệp cứu nước, các cô

gái đã tiễn chàng bằng lời ca bát ngát:

Nên chăng trống giục, chiêng hồi, Thuyền tình ta sẽ xa vời rộng thênh.

Nguồn: GTVHDGNV, Tập 1, tr.278

PL238

PHỤ LỤC 5: VĂN BẢN SO SÁNH VỀ MỘT SỐ KIỂU TRUYỆN TRONG CỔ TÍCH VÀ GIAI THOẠI

1. Kiểu truyện Kén rể

Thơ ngựa ông phi (Giai thoại văn học) “Nhà nọ có một cô con gái xinh đẹp, nết na, đến tuổi kén chồng. Gia đình thuộc loại khá giả nên cha mẹ chỉ mong có được chàng rể có chữ nghĩa. Hôm nọ, có ba chàng trai cùng đến. Người bố ra trò chuyện với họ, nói:

- Nhà tôi có một con ngựa khỏe. Ai làm thơ tả con ngựa của tôi phi nhanh nhất thì tôi sẽ gả con gái cho. Điều kiện: Thơ bốn câu, tứ thơ phải đối cảnh sinh tình, nghĩa là phải cảm xúc từ hoàn cảnh, sự việc xảy ra trước mắt.

Ông bố vừa nói xong, thì một cơn gió bay qua, khiến cây bàng trước sân rụng lá. Anh chàng thứ nhất ứng khẩu ngay: Ngoài sân lá bàng bay/ Ngựa ông phi như bay/ Phi đi rồi phi lại/ Lá bàng vẫn còn bay!

Nghe thơ, bà mẹ ngồi khâu áo bên bể nước vỗ tay khen, chẳng may đánh rơi kim xuống nước. Anh chàng thứ hai đọc nhanh: Trước ao bà rơi kim/ Ngựa ông phi như chim/ Phi đi rồi phi lại/ Cái kim vẫn chưa chìm!

Ông bố nhổm lên, vỗ đùi khen hay, vô tình đánh một cái rắm. Anh chàng thứ ba chớp lấy, đọc ngay: Trên giường ông đánh... xịt/ Ngựa ông phi mù tít/ Phi đi rồi phi lại/ Lỗ khu vẫn còn khít! Ông bố thừa nhận bài thơ vừa rồi của anh thứ ba tả ngựa phi nhanh nhất, dù có phần tục tĩu, bèn tuyên bố anh này được vợ”.

(Giai thoại văn hóa dân gian người Việt, Tập 2, Triều Nguyên, [113, tr.87 –

88]).

Khảo sát công trình Từ điển type truyện dân gian Việt Nam [74], chúng tôi xác định có 2 type truyện có liên quan đến hình thức thi tài bằng văn chương là: Kén rể hay chữ và Một cuộc tranh tài:

Kén rể hay chữ (Cổ tích sinh hoạt)

“1. Điều kiện kén rể Một phú ông muốn kén một chàng rể tinh thông chữ nghĩa và thơ phú nên viết

hai câu đối đem treo trước cửa và giao hẹn nếu ai giải được thì sẽ gả con gái cho.

II. Chàng trai ít học nhưng thông minh Một chàng trai không biết chữ đã tìm mua hai thúng sách cũ đem nhúng nước rồi mang ra vạt cỏ trước nhà phú ông phơi, lại nói rằng câu đối nhà ông ta có mười chữ mà anh “không biết một chữ” (nào cả). Phú ông tưởng đó là người đọc sách nhiều, hay chữ (chỉ không biết một chữ trong mười chữ) nên gả con gái cho.

III. Trút bỏ nỗi lo Mượn cớ qua mặt mình trong việc thảo văn tế cho làng, anh ta thề không bao giờ đụng tới sách vở, bút nghiên nữa. Từ đó, anh ta trút bỏ được nỗi lo của kẻ “không biết một chữ”

(Trích từ Từ điển type truyện dân gian Việt Nam, tập 1, [74, tr.588 – 589]).

PL239

Một cuộc tranh tài (Cổ tích sinh hoạt)

“I. Kén rể Một cô gái xinh đẹp kén chồng. Có bốn chàng trai đến thi tài: một người văn hay chữ tốt, một người võ nghệ cao cường, người người giỏi nghề đan bện, một người là nông dân hiền lành, chất phác.

II. Cuộc thi tài Ông bố yêu cầu các chàng trai thi thố tài năng của mình. Anh văn hay thì làm một bài văn sách, người giỏi võ bắn nỏ vào cái đích cách trăm thước, anh tài đan thì bện cái nia to, anh nông dân phải chạy sang Tàu lấy trống mang về

III. Kết quả Vì kiêu ngạo, hai chàng trai giỏi văn và giỏi võ như cầm chắc phần thắng trong tay, không chú tâm đến cuộc thi nên thất bại. Vì sợ mất nghề, anh đan nia đem tre vào buồng hì hục làm nhưng cái nia quá to, không làm sao ra lọt cửa buồng được nên cũng thua cuộc. Anh nông dân được mọi người giúp đỡ, cho cái trống mới mau nên thắng cuộc, được cưới cô gái làm vợ” .

Nguồn: Từ điển type truyện dân gian Việt Nam, Nguyễn Thị Huế chủ biên, Tập

1, [74, tr.607 – 609].

Anh học trò sửa liễn cửa ngõ phủ ông hoàng “Có người học trò còn nhỏ tuổi mà đã già chữ nghĩa lắm. Lúc dọn nhà cho đức ông nhứt ở, thì triều đình có hội nhau; mà lại đặt một câu liễn cửa ngõ đức ông. Đắp chữ vôi thếp vàng tử tế.

Hau câu ấy đặt như vầy:

Tử năng thừa phụ nghiệp, Thần khả báo quân ân.

Anh học trò đi nang qua cửa, thấy câu liễn, đứng lại coi nhưng không như ý: đi học về đứng lại đó, không cất nón. Quân canh nhựt cửa đó, liền bắt: hỏi sao vô phép không cất nón. Có biết đó là phủ ông nào chăng? Người học trò nói: Tôi biết, mà mắc tôi giận, thấy câu liễn đặt không nhằm, nên quên lấy nón xuống.

Quân mới dẫn vào Thái tử đông cung. Đức ông hỏi. Người học trò cũng cứ khai thiệt làm vậy. Chừng đức ông cho mời đình thần vào, mới kể tự sự cho các quan nghe, rằng tên học trò chê câu liễn các quan đã đặt ngoài cửa.

Vậy mới hỏi học trò, vì làm sao mà chế, bây giờ có dễ sửa hay không? Thì anh học trò nói: Đặng Đức ông hiểu: Bẻ làm sao thì bẻ đi, rồi sửa đi thử coi. Anh học trò mới bẩm: câu liễn ấy thất lễ, là vì đặt con đứng trước đầu cha, tôi đứng trước vua; làm vậy sao cho phải? - Ừ, nói nghe được. Mà bây giờ sửa lại làm sao? - Bẩm lịnh các ông lớn, sửa lại như vầy, thì hay quyết đi mà thôi:

Phụ nghiệp tử năng thừa Quân ân thần khả báo

Các quan ai nấy đều khen. Vua cho người ấy đậu tấn sĩ: lại ban cho ngàn quan

tiền thưởng tài; triều đình lại thưởng ít ngàn nữa”

PL240

Nguồn: Chuyện đời xưa, Trương Vĩnh Ký, [82, tr.65 – 66].

2. Kiểu truyện Em bé thông minh

Ngày xưa có một ông vua sai một viên quan đi dò la khắp nước tìm người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi nhiều nơi, đến đâu cũng đưa ra những câu đố oái oăm để hút mọi người, nhưng tuy mất nhiều công mà chưa thấy có người nào thật lỗi lạc.

Một hôm, viên quan đi qua một cánh đồng làng kia, chợt thấy bên vệ đường có hai cha con nhà nọ đang làm ruộng: cha đánh trâu cày, con đập đất. Ông bèn dừng ngựa lại hỏi:

- Này ông lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường? Người cha đứng ngẩn ra chưa biết trả lời thế nào thì đứa con chừng bảy tám

tuổi nhanh miệng hỏi vặn lại quan rằng:

- Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày

được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.

Viên quan nghe hỏi lại như thế thì há hốc mồm sửng sốt, không biết đáp sao cho ổn. Ông thầm nghĩ bụng nhất định nhân tài ở đây rồi, chả phải tìm đâu nữa mất công. Quan bèn hỏi tên họ làng xã quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch về tâu vua.

Nghe nói, vua lấy làm mừng lắm. Nhưng để biết đích xác hơn nữa, vua bèn sai ban cho làng ấy ba thúng gạo nếp vài ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội. Khi dân làng nhận được lệnh vua ai ấy đều tưng hửng và lo lắng, không thể hiểu thế là thế nào. Bao nhiêu cuộc họp làng, bao nhiêu lời bàn tán, vẫn không nghĩ ra được cách gì giải quyết cả. Từ trên xuống dưới mọi người đều coi là một tai vạ. Việc đến tai em bé con người thợ cày. Em liền bảo cha:

- Chả mấy khi được lộc vua ban, bố cứ thưa với làng ngả thịt hai trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một trận cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho bố con ta trẩy kinh lo liệu việc đó.

- Đã ăn thịt còn lo liệu thế nào? Mày đừng có làm dại mà bay đầu đi đó con ạ! Nhưng đứa con quả quyết: - Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi. Người cha vội ra đình trình bày câu chuyện. Cả làng nghe nói vẫn còn ngờ vực,

bắt cha con phải làm giấy cam đoan, mới dám ngả trâu đánh chén.

Sau đó mấy hôm, hai cha con khăn gói tìm đường tiến kinh. Đến hoàng cung, con bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn mình thì nhân lúc mấy tên lính canh vô ý, lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua sai lính điệu vào phán hỏi: - "Thằng bé kia mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?". - "Tâu đức vua - em bé vờ vĩnh đáp - mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ". Nghe nói, vua và các triều thần đều bật cười. Vua lại phán: - Mày muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố mày, chứ bố mày là giống

đực làm sao mà đẻ được!

Em bé bỗng tươi tỉnh:

PL241

- Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành

chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ!

Vua cười bảo: - Ta thử đấy thôi mà? Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra ngả thịt

mà ăn với nhau à?

- Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp biết là lộc

của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.

Vua và đình thần chịu thằng bé là thông minh lỗi lạc[1], nhưng vua vẫn còn muốn thử cho đến cùng. Qua hôm sau, khi hai cha con đang ăn cơm ở nhà công quán, bỗng có sứ nhà vua mang tới một con chim sẻ và lệnh chỉ bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Em bé bảo cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:

- Ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ

thịt chim.

Vua nghe nói, từ đó mới phục hẳn. Lập tức vua cho gọi cả cha con vào ban thưởng rất hậu.

* Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm bờ cõi của nhà vua. Để dò xem bên này có nhân tài hay không, họ mới sai sứ đưa sang một cái vỏ con ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.

Sau khi nghe sứ thần trình bày mục đích cuộc đi sứ, vua quan đưa mắt nhìn nhau. Không trả lời được câu đố oái oăm ấy tức là tỏ ra thua kém và phải thừa nhận sự lép vế của mình đối với nước láng giềng. Các đại thần đều vò đầu suy nghĩ. Có người dùng miệng hút mong cho sợi chỉ lọt qua, có người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để cho dễ xâu. v.v... nhưng tất cả mọi cách đều vô hiệu. Bao nhiêu các ông trạng, các nhà thông thái triệu vào đều lắc đầu bó tay. Cuối cùng, triều đình đành tìm cách mời sứ thần tạm nghỉ ở công quán để có thì giờ đi hỏi ý kiến em bé thông minh ngày nọ.

Một viên quan mang dụ chỉ của vua đến nhà em bé vào lúc em còn đùa nghịch ở sau nhà. Nghe quan trình bày ngọn ngành câu đố của sứ giả ngoại quốc, em bé không đáp, chỉ hát lên một câu:

Tang tính tang! Tính tình tang! Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng Bên thời lấy giấy mà bưng, Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang Tang tình tang... Rồi bảo: - Không cần tôi phải về triều làm gì. Cứ theo cách đó là xâu được

ngay!".

Viên quan sung sướng lật đật trở về tâu vua. Vua và các triều thần nghe nói như mở cờ trong bụng. Quả nhiên con kiến càng đã xâu được sợi chỉ xuyên qua đường ruột ốc hộ cho nhà vua trước con mắt kính phục của sứ giả nước láng giềng.

PL242

Rồi đó, vua phong cho em bé làm trạng nguyên. Vua sai xây dinh thự ở một

bên hoàng cung cho em ở để tiện hỏi han.

Nguồn: Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi, Quyển 1, Tập 2,

truyện số 79, [24, tr.739 – 732]. 3. Kiểu truyện Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng Ngày xưa có một người học trò nghèo nhưng học giỏi, được Thiên đình rất chú ý. Trong sổ thiên tào hồi đó đã ghi cho anh chàng đậu tiến sĩ, làm quan đến thượng thư. Mỗi lần anh đi học thường qua một ngôi đền thờ thần ở làng bên cạnh. Vị thần làng đó vốn đã có đọc ở sổ thiên tào nên tỏ vẻ cung kính người học trò ấy. Những khi anh ta đi qua đền thì tượng thần đang ngồi trên bệ lật đật đứng dậy rất lễ phép.

Một hôm người từ giữ đền nằm mơ thấy thần bảo: - "Ngày mai ngươi phải quét dọn đền cho sạch sẽ tử tế vì có quan lớn đến chơi nhà ta". Người từ làm y như lời và suốt ngày hôm ấy hắn đứng trực ở cổng đền chờ đón vị khách quý của ông thần. Nhưng đợi mãi, hắn ta chả thấy một ai cả, trừ ra anh học trò xơ xác nói trên hôm đó vô tình có ghé vào đền nghỉ chân một lúc. Người từ cho là dân thường không để ý gì đến.

Ít lâu sau, người từ cũng lại chiêm bao thấy ông thần dặn dò như trước. Lần này, hắn cũng chả thấy ai lạ hơn là anh học trò hôm nọ đến đây ngâm một bài phú rồi lại đi. Nhưng hắn vẫn không tin. Đến lượt thứ ba cũng thế. Bây giờ người từ mới cho là quả phù hợp với lời thần dặn, bèn kể chuyện cho người học trò nọ nghe và bảo:

- Đã ba lần như thế, nên tôi chắc rằng nhà thầy sau này sẽ đỗ đạt làm quan to chứ

chẳng chơi.

Nghe nói, người học trò như mở cờ trong bụng. Anh ta quyết chắc cầm sự vinh hoa phú quý trong tay. Hắn nghĩ ngợi rất nhiều về tương lai của mình. Một hôm khi ngắm lại nhan sắc vợ mình, hắn thấy không được đẹp tý nào cả. Thế rồi đêm hôm ấy nằm dưới bóng trăng, hắn mơ tưởng một người đẹp như chị Hằng. Hắn bụng bảo dạ: - "Rồi ta sẽ cho vợ ta về đi thôi! Một khi đỗ đạt thì thiếu gì nơi ngấp nghé muốn làm bà. Lúc đó ta sẽ tìm những đám con vua cháu chúa; đã da trắng môi son lại vừa lắm của". Nghĩ thế, qua ngày hôm sau hắn kiếm cớ gây sự với vợ và đòi bỏ cho kỳ được. Mọi người đều lấy làm lạ và tỏ vẻ khinh bỉ một người có học như hắn lại có thể nhẫn tâm đến thế được. Nhưng hắn chỉ cười khẩy mà không kể gì dư luận.

Một hôm khác có một người đến đòi nợ hắn. Vừa mới bước chân vào sân, người ấy

đã bị hắn chỉ tay vào mặt mắng cho một trận:

- Ta chưa có trả. Không khéo nay mai ta sẽ cắm đất vào vườn ở của mày cho mày

biết mặt.

Hắn còn đe dọa nhiều người nữa. Gặp ai không vừa ý, hắn nói: - Rồi chúng mày sẽ biết tay ông! Tất cả những hành động của người học trò đều được tâu báo về Thiên đình. Ngọc hoàng nghe nói rất phật ý. Cho nên ít lâu sau đó, người từ giữ đền lại nằm mơ thấy ông thần tin cho biết là không phải kinh sợ đối với người học trò nữa vì trên Thiên đình đã tước sổ mất rồi, không cho đỗ đạt nữa.

Ông từ hỏi: - "Tội của nó như thế nào?" - "Nó bị kết án là "dưới trăng bỏ vợ, trước

sân đòi nhà, chưa làm nên đã thất đức". Bây giờ nó không được hưởng phúc nữa".

PL243

Quả nhiên người học trò đó thi mãi không đỗ, muốn nối duyên lại với vợ cũ cũng không được. Cửa nhà hắn ngày một sa sút dần. Do đó mà có câu tục ngữ: "Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng".

Nguồn: Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi, Quyển 1, Tập 2, [24,

tr.564 – 565]. 4. Kiểu truyện Người học trò và con quỷ

Ngày xưa, ở một vùng nọ có hai vợ chồng một nhà phú hộ tuổi đã già mới sinh được mụn con gái, nên hết sức chiều chuộng. Cô gái lớn lên hình dung đẹp đẽ ít ai bì kịp, bố mẹ lại càng nâng niu như vàng như ngọc. Họ bỏ tiền ra xây một ngôi lầu cho con ở. Lầu dựng xong, phú hộ lại cho người đi tìm hoa thơm cỏ lạ trồng xung quanh vườn để con thưởng ngoạn.

Bấy giờ trong đám rừng sâu gần đấy có ba con cáo sống lâu năm thành quỷ, có phép biến hóa, thường quen thói hại người. Nghe tin có cô gái đẹp cấm cung mà bố mẹ thì đang bỏ tiền ra mua các cây hoa trồng ở vườn, chúng rắp tâm phá phách, bèn hóa thành một thứ cây có hoa rất lạ. Hoa có ba cánh: một cánh mầu xanh, một cánh mầu trắng, một cánh mầu đỏ. Một người tiều phu lên rừng hái củi thấy hoa đẹp chưa từng có, liền bứng lấy đưa về bán cho phú hộ. Thấy cây hoa đặc biệt, phú hộ vội mua ngay rồi đem trồng ở vườn. Tuy hoa rất lạ và trông thật đẹp mắt nhưng cô gái lại tỏ vẻ không thích, vì thế mưu kế của lũ quỷ không thành. Lâu ngày hoa tàn cây héo, lũ quỷ sắp sửa bỏ đi nơi khác. Giữa lúc ấy, người phú hộ chặt cây thấy thớ gỗ đẹp, bèn chọn lấy một khúc, đẽo thành then cửa đem về chốt ở cửa buồng của con gái.

Thế rồi sau đó mấy hôm, một đêm kia trong khi cô gái đang ngủ, thì một con quỷ từ chiếc then cửa bỗng hiện ra, lên giường, toan sinh sự với cô. Nhưng cô đã vùng dậy, hết sức chống cự và kêu la inh ỏi. Biết không xong, con quỷ liền hớp lấy hồn nàng rồi lại biến vào then cửa. Khi vợ chồng phú hộ và người nhà chạy vào buồng thì thấy cô gái năm thiêm thiếp trên giường như người đã chết, ngực thoi thóp đập nhưng lay gọi mãi vẫn không tỉnh. Chưa kịp tìm thầy cứu chữa, thì tối hôm sau, trong khi người cha một mình chăm sóc cho con, con quỷ thứ hai lại hiện ra hớp lấy hồn ông. Tối hôm sau nữa lại đến lượt một người nhà bị con quỷ thứ ba hớp hồn. Vợ phú ông sợ quá vội cho người mời một thầy phù thủy đến bắt quyết trừ tà. Thầy làm phép trong ba ngày ba đêm thì phú ông và người hầu tỉnh lại. Duy chỉ có cô con gái là quỷ đầu đàn vẫn không chịu buông tha. Thầy tuy đã cao tay nhưng quỷ vẫn chẳng coi ra mùi gì. Cuối cùng thầy đành xách gói cáo từ vì phép thuật đã giở ra hết mà cô gái vẫn nằm lịm trên giường, nửa mê nửa tỉnh. Từ đấy người ta tin rằng ngôi lầu có quỷ nên không ai dám lui tới.

Một buổi chiều nọ, có một thầy cử tên là Long đi thi hội, đến đây thì lỡ độ đường. Thấy có ngôi nhà tốt, anh bèn ghé vào xin nghỉ trọ. Người nhà kể lại câu chuyện đã qua và nói:

- Chẳng giấu gì ông, nhà chúng tôi đang bị lũ quỷ quấy nhiễu. Ông nên tìm chỗ khác

mà trọ, kẻo mang vạ vào thân.

Nghe đoạn, Long vội nói với vợ chồng phú ông: - Đã là học trò đọc sách thánh hiền thì yêu tinh ma quỷ dám đâu trêu ghẹo. Ông bà

cứ cho tôi nghỉ lại một đêm. Biết đâu tôi lại không trừ được nạn cho ông bà.

PL244

Vợ chồng phú hộ nghe nói bèn mở cửa đón khách vào. Ăn xong bữa chiều, Long khoan thai bước lên lầu. Anh chỉ xin nhà chủ cho mình một ngọn đèn và một con dao sắc. Đêm lại, anh thắp đèn ngồi trước án thư đọc sách, con dao để sẵn bên người. Đến khuya, một con quỷ từ then cửa buồng cô gái hiện ra với trạng mạo một cô gái xinh đẹp. Long vẫn điềm nhiên đọc sách không nói gì cả cho đến lúc nó biến đi. Lần thứ hai, một con khác tiến vào dưới dạng một người mặt mày hung ác, tóc xõa, lưỡi thè chừng một gang. Nó chạm vào người Long, nhưng anh vẫn thi gan mặc kệ. Đến lượt con thứ ba tức là con quỷ đầu đàn đang hớp hồn cô gái, bước vào. Thấy bóng anh học trò, nó vội quay trở ra, chỉ kịp rú lên mấy tiếng: - "Có bậc quý nhân... Trốn cả mau!". Long lần này đã cầm sẵn dao ngồi rình, nhanh như cắt, nhảy đến chém một nhát, con quỷ đứt mất một chân. Long chạy theo đến cửa buồng cô gái thì thoáng thấy cả ba con quỷ chui biến vào then cửa. Anh cầm lấy chân quỷ soi vào đèn xem, thì thấy đấy là một cái chân con cáo. Vì quỷ đau quá phải buông thả hồn ra nên ngay lúc đó cô gái cũng tỉnh dậy. Long liền đến gần hỏi chuyện. Biết đó là người cứu mình, nàng cúi đầu chào và ngỏ lời cảm ơn. Long dẫn nàng ra cho vợ chồng phú hộ. Lại đem chân con quỷ cho mọi người xem. Ai nấy đều lắc đầu lè lưỡi phục tài anh học trò.

Sáng hôm sau lúc lên đường. Long từ chối vàng bạc của hai vợ chồng phú hộ đưa tặng, chỉ xin họ cái then cửa buồng giắt vào thắt lưng. Đi được nửa ngày, anh đã thấy ba con quỷ hiện ra, phủ phục trước mặt, khẩn khoản xin anh làm phúc bỏ lại cái then cửa. Long cười:

- Không được! Chúng mày có tài phép gì thì cứ giở ra cho hết để tao xem, rồi tao sẽ

cho chúng mày vào lửa.

- Xin ngài tha cho chúng tôi - ba con quỷ đáp - chúng tôi xin tặng ngài những vật

quý.

- Vậy thì đưa ra đây ngay, nếu không thì đừng có trách! Con quỷ thứ nhất đưa tặng Long một cái mặt trời đựng trong túi, dặn rằng ban đêm hễ rút ra khỏi túi thì trời sẽ sáng như ban ngày, cất vào túi thì trời lại tối sẫm như cũ. Con thứ hai tặng một mặt trăng cũng vậy, hễ ban đêm tối tăm rút ra khỏi túi thì không cần đến đèn đuốc. Còn con thứ ba tặng một con ngựa mỗi ngày có thể đi ngàn dặm đường. Long vui lòng nhận lấy những món quà tặng rồi ném cái then cửa vào một bụi rậm bên đường.

Sau đó, Long nhảy lên lưng ngựa, bảo đưa mình tới kinh đô. Lập tức ngựa hý lên một tiếng rồi lao rất nhanh, bàn chân không chạm đất. Chỉ một lát sau, ngựa đã đặt anh xuống ở phía ngoài hoàng thành. Long ở lại đây sắm sửa mọi thứ để dự kỳ thi hội.

Hôm bắt đầu thi, bài của Long làm rất đắc ý. Cho nên thi vừa xong buổi sáng, anh bỗng nhớ đến vợ. Sẵn có con ngựa quý, anh nhảy lên lưng, bảo nó đưa mình về quê nhà. Ngựa phóng tít mù, chỉ vừa chập tối là đã đến nơi. Anh khe khẽ gọi cửa. Vợ Long đang ngủ, rất kinh ngạc vì thấy chồng mình đi thi chưa được mấy ngày đã vội trở về. Long không muốn thức cha mẹ dậy, nên dặn vợ giấu kín chuyện mình về. Rồi hai vợ chồng nhỏ to trò chuyện cho đến tờ mờ sáng anh mới lại lên đường. Mặc dầu vậy đêm ấy tiếng chuyện trò rì rầm của đôi vợ chồng đã thức tỉnh cha mẹ Long nằm ở buồng bên. Hai ông bà không tin là con trai mình về, chỉ ngờ rằng nàng dâu có nhân tình nhân ngãi chi đây. Cho nên sáng hôm sau ngủ dậy - lúc ấy Long đã cưỡi ngựa trở lại kinh đô để kịp nghe loa

PL245

báo tin - hai ông bà vội vào buồng nàng dâu gạn hỏi. Vợ Long trước còn giấu quanh, nhưng sau thấy không giấu được nữa, đành phải kể lại câu chuyên chồng về tối hôm qua, cùng những việc chồng mình trị quỷ và được chúng tặng ngựa quý ra sao, v.v... Nhưng bố mẹ chồng làm sao mà tin được một việc khó nghe đến thế, nên trách mắng con dâu thậm tệ. Vợ Long không biết lấy gì làm chứng, đành chỉ ôm mặt ngồi khóc. May sao chiều ấy Long lại về. Được tận mắt thấy con trai và con ngựa thần, hai ông bà mới tin là thực. Long kể chuyện cho bố mẹ và mọi người cùng nghe:

- Sáng hôm nay ngựa đưa con vào đến kinh đô thì cũng vừa lúc tiếng loa trường thi bắt đầu gọi tên những ai thi đỗ. Nghe loa gọi đến tên con, con mừng rỡ vội ra nhà trọ thu xếp hành lý, phóng ngựa về đây. Ba ngày nữa con lại trẩy kinh để còn dự yến đêm do đức hoàng đế đãi các ông nghè ở điện Thiên quang.

Nghe nói có con ngựa thần một ngày ngàn dặm, người cha ngỏ ý muốn cưỡi thử.

Long hỏi:

- Bố muốn đi chơi đâu bây giờ? - Bố thường ao ước được vào tận trong Đồng-nai Gia-định để du ngoạn một phen. - Được. Sáng hôm sau, ông già cơm nước xong, nai nịt chỉnh tề bước ra sân. Long nắm dây cương trao cho cha. Ông già vừa nhảy lên yên thốt ra hai tiếng "Gia-định!", ngựa đã phóng đi vùn vụt, loáng một cái không thấy đâu nữa. Cho đến tận chiều, vào lúc mặt trời gác núi, con ngựa quý lại phóng như bay trở về, đặt ông già xuống giữa sân. Ông vui vẻ mở tay nải lấy quà mời mọi người nếm thử, rồi kể chuyện tai nghe mắt thấy ở Gia-định.

Mẹ Long nghe chồng hết lời ca ngợi con ngựa thần, cũng có ý định muốn đi chơi Đồng-nai Gia-định một chuyến dối già. Qua hôm sau, Long lại dắt ngựa ra sân rồi đỡ mẹ lên yên. Nhưng ngựa chưa kịp bước ra khỏi cổng, tự nhiên ngã khuỵu, hất bà già ngã lăn xuống đất. Một luồng khói trắng từ trong mình ngựa phóng ra và bay cuộn lên trời. Mọi người xúm lại xem thì con ngựa đã tắt thở từ lúc nào. Thì ra bà mẹ Long đã cưỡi ngựa thần không đúng lúc vì bà đang thấy kinh nên thần ngựa hoảng sợ, bỏ lốt ngựa mà đi.

Không những mất một tặng vật vô giá, ông tiến sĩ tân khoa còn đứng trước mối hiểm nguy khó thoát được tội "khi quân", vì trước mắt không có cách gì để tiến kinh cho kịp chiều mai dự yến. Đường từ quê Long đến kinh thành đi bộ mất bốn năm ngày đường, đi ngựa cũng phải hơn hai ngày. Không còn kế gì hơn, Long đành bắt một con ngựa thường, chẳng kịp từ biệt cha mẹ vợ con, vội ra roi cho con vật phi nước đại.

Con ngựa đi đến tối mịt mà vẫn chưa được một nửa đường. Nằm nghỉ ở quán trọ, Long lo lắng hết sức. Anh sực nhớ tới một tặng vật "mặt trời" do con quỷ thứ nhất biếu vẫn còn cất trong túi vải. Thế là Long tìm ra một diệu kế. Ngay hôm sau, Long lại lên ngựa phóng đi Cho đến khi mặt trời sắp gác núi, anh liền lôi "mặt trời" của mình ra treo trước đầu ngựa Thốt nhiên, một chuyện lạ chưa từng có xảy ra: đâu đâu cũng không thấy tắt ánh mặt trời. Cho đến khi con ngựa đưa Long đến trước điện Thiên-quang, anh mới cất "mặt trời" vào túi, bấy giờ bầu trời đang từ ban ngày mới chuyển sang đêm một cách đột ngột.

Long buộc ngựa xong, bước vào điện. Nhưng cũng đã muộn mất rồi. Mọi người chờ mãi không thấy đêm xuống, song thức ăn thì đã nguội cả, nên sau cùng Hoàng đế đành ra lệnh cha các ông tiến sĩ cứ bốn người một, ngồi vào mâm. Khi Long bước vào. thì tiệc

PL246

rượu đã hầu tàn. Biết việc chậm trễ có thể khiến mình mất đầu như chơi, nên anh cởi mũ "phủ phục" trước sân điện, một hai viện lý do "không thấy trời tối" để mong được nhẹ tội. Vua tha cho anh, nhưng để anh nhớ lỗi, bắt bổ anh về làm tri huyện một huyện từng nổi tiếng có nhiều vụ án ma. Mặc dầu vẫn nghe nhiều tin đồng rùng rợn rằng từ trước đến nay, hễ quan nào được bổ về huyện ấy đều bị ma quỷ vật chết, Long vẫn ung dung về trị nhậm.

Theo tục lệ ở vùng này, mỗi khi quan mới bổ đến, dân các làng xã đều phải mang lễ vật đến chào quan. Cho nên những ngày Long mới chân ướt chân ráo đến nơi, dân các làng kéo nhau đội lễ vật đến đầy cả công đường. Long tiếp chuyện mọi người rất ân cần, nhưng nhất thiết từ chối mọi lễ vật. Chàng kín đáo dặn lính hầu mỗi khi có toán dân nào ra về thì lén đi theo để biết rõ tung tích. Vào ngày thứ ba, một trong những người lính hầu mà Long phái đi theo bén gót hai người dân đội một mâm lễ vật trở về. Người lính thấy hai người này đi mãi, đi mãi, bóng chiều đã ngả mà vẫn chưa đến nơi. Cho đến khi tắt ánh mặt trời mới thấy họ đến sát một cái giếng hoang bên cạnh đường. Thốt nhiên họ đội cả mâm, lội vùng xuống giếng, rồi thoáng một cái đã biến mất. Vừa kinh ngạc, vừa sợ hãi, người lính vội đi suốt đêm trở về báo lại tình hình cho quan biết.

Sáng hôm sau, Long hạ lệnh cho một toán lính huyện tới tát cạn cái giếng ấy. Họ ra sức tát suốt cả một ngày. Nhưng thật là lạ lùng! Tát được bao nhiêu nước lại đầy ắp bấy nhiêu. Mấy ngày sau nữa công việc cũng không nhích lên được tý nào. Bọn lính huyện cảm thấy rất chán nản. Một đêm nọ, vào giữa canh khuya, một người lính nằm ngủ bỗng thức giấc thấy có hai con quỷ đang ngồi vắt vẻo trên cành cây nói chuyện với nhau. Một con hỏi: -"Nếu chúng nó kéo tới đông thì có tát cạn chăng?". Con kia đáp: - "Nhiều người cũng vô ích thôi. Chỉ có rồng mới có thể tát cạn, ngoài ra không có cách nào khác".

Người lính bèn đem câu chuyện ấy trình lên quan. Long nói ngay: - Chính ta là rồng đây! Ta sẽ thân hành tát cạn giếng. Nói xong Long cưỡi ngựa về tận nơi. Sau khi xem xét tình hình, quan xắn áo quần cầm lấy gầu tát lấy tát để. Quả nhiên chỉ một mình Long đã làm cho nước giếng dần dần cạn thấu đáy. Nhưng khi giếng cạn hết, cả quan và lính đều không tìm thấy quỷ. Giữa ban ngày, quỷ có phép tàng hình, mắt người không thể nhìn thấy được. Nhưng đêm đến, quỷ lại dựa vào tối trời, lẩn lút trốn nấp trong các hang hốc làm cho Long và lính hầu tìm hết hơi mà không ra. Họ thắp đuốc lên nhưng bó đuốc nào hễ đưa vào cửa hang cũng đều tắt ngấm, không thể chụm lên được. Long sực nhớ tới món tặng vật bèn mở túi lấy "mặt trời" ra treo lên đầu ngọn tre. Lập tức cả một vùng sáng rực như ban ngày. Nhưng vì là ban ngày nên quỷ lại tàng hình lọt khỏi con mắt của mọi người. Sau cùng Long nhớ đến món tặng vật thứ hai. Vừa đưa ra khỏi túi, "mặt trăng" tỏa một thứ ánh sáng dịu mát vào khắp mọi nơi. Long liền mang "mặt trăng" đi lần xuống giếng, tiến vào các hang các hốc. Dưới ánh sáng trăng, quỷ đành lộ mặt, không thể tàng hình nổi. Cho nên chỉ một chốc, chưa giập miếng bã trầu, quan và lính đã tóm được hai con quỷ. Chính đó là hai con xà tinh quen thói hại người, thường dùng một cái hang ở đáy giếng làm sào huyệt. Trước mặt Long, hai con quỷ cúi đầu van lạy xin quan sinh phúc tha cho tính mạng, từ rày không dám làm hại ai nữa. Long sai lính giải chúng đi đày thật xa. Từ đây dân huyện ấy sống yên ổn.

PL247

Nguồn: Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi, Quyển 2, Tập III, truy tại: https://www.sachhayonline.com/tua-sach/kho-tang-truyen-co-tich-viet-

cập online nam/nguoi-hoc-tro-va-ba-con-quy/1702

Giai thoại Phạm Trấn – Đỗ Uông Huyện Gia Phúc (bây giờ là Gia Lộc), tỉnh Hải Dương, một người tên là Phạm Trấn ở làng Lam Kiều; một người tên là Đỗ Uông ở làng Đoàn Lâm, hai làng giáp với nhau. Làng Đoàn Lâm có một con yêu tinh, thường thường biến hiện trăm vẻ, trêu ghẹp người ta, làng ấy tìm phương kế trừ mãi không được.

Ông Đỗ Uông khi còn nhỏ, một đêm ngồi học ở nhà, con yêu tinh thò tay vào trong cửa sổ trước bàn học để trêu ghẹo Đỗ Uông. Đỗ Uông nói chuyện với thầy phù thủy, thầy phù thủy xuy lấy chỉ ngũ sắc mà buộc tay lấy nó. Đêm hôm sau, con yêu tinh quen thói lại đến, Đỗ Uông vội lấy chỉ ngũ sắc trói lại, buộc vào cửa sổ. Con yêu quả nhiên không biến được nữa, mới kêu van, Đỗ Uông nhất định không tha. Mãi đến gần sáng, con yêu lại kêu rằng:

- Ông này sau đại quý, tôi muốn bỡn đấy thôi, nỡ nào ông lại hại tôi? Đỗ Uông nói: - Như tài sức tao, thì có đỗ được trạng nguyên không? Con yêu nói: - Trạng nguyên đã có một ông họ Phạm, ông chỉ đỗ được bảng nhãn thôi. Lại hỏi: - Mày có của gì mà thiêng được, hễ cho tao xem thì tao sẽ tha cho mày. Một lát, thấy con yêu tinh nôn ọe, thổ ra một hòn ngọc, cầm ở trong tay, ánh sáng lòe ra vào trong nhà, rồi nói rằng: - Tôi chỉ có của này mới thiêng, nay xin dâng ông để giúp thêm việc học hành. Đỗ Uông cầm lấy hòn ngọc, nuốt vào bụng, rồi mới tha cho nó đi. Từ bấy giờ con yêu tinh mất thiêng, không quấy nhiễu gì nữa. Mà ông Đỗ Uông từ khi nuốt hòn ngọc ấy, văn chương mỗi ngày một hay, nổi tiếng trong các vùng, văn ông Phạm Trấn vẫn không kịp (…). Nguồn: trích từ Nam Hải dị nhân liệt truyện, Phan Kế Bính, [17, tr.125 – 127].

PL248

PHỤ LỤC 6: DẪN CHỨNG NGUỒN TƯ LIỆU LỊCH SỬ CỦA QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN CÓ DÙNG TRONG LUẬN ÁN

I. Sách Đại Nam nhất thống chí

Về trường hợp của Cao Bá Quát, sách Đại Nam nhất thống chí, ở quyển 46, Truyện về các nghịch thần, ở mục II, ghi nhận ba việc có liên quan đến họ Cao: thứ nhất là tính tình tự phụ, giân lận trong chấm thi và thứ hai là sự phản nghịch chống lại triều đình nhà Nguyễn:

Tính tình tự phụ, giân lận trong chấm thi được viết như sau: “Đầu năm Thiệu Trị (1841) sung làm Sơ khảo ở trường Thừa Thiên, cùng với đồng viện là Phan Nhạ lén đem muội đèn thêm lời lẽ trong văn của sĩ nhân cộng 24 quyển, sau đỗ được 5 tên, sĩ tử bàn luận xôn xao. Viên giám sát trường vụ là Hồ Trọng Tuấn tham hặc, khi bản án dâng lên, kết định tội chết. Vua cho bọn Quát sính ý làm càn, nguyên không có tình tiết gì, gia ơn đối xử giảo giam đợi lệnh, sau được tha lại khởi dụng. Tự Đức năm thứ 7 (1854) trải bổ Giáo thụ phủ Quốc Oai, Quát tự phụ là tài danh khuất mình ở địa vị thấp thường u uất không vui bèn cáo về Bắc Ninh”.

Còn kết cục của việc phản loạn là: “Bấy giờ ở Tuyên Cao Thái Lạng đều có báo động ở ngoài biên (đám thổ phỉ nước Thanh), lại có Lê Duy Cự tự xưng con cháu nhà Lê. Quát ngầm họp đồ đảng lén mưu việc bất pháp, ước hẹn ngày tới thành Hà Nội cử sự, mưu bị tiết lộ. Tỉnh Bắc Ninh và Hà Nội cho đòi rất gấp. Bá Quát bèn cùng đảng phái suy tôn Duy Cự làm minh chủ mà tự làm quốc sư, rồi lén dụ dỗ tên thổ mục ở Sơn Tây là Đinh Công Mỹ và Bạch Công Trân gọi đảng phái lan tràn xuống Hà Nội, đốt luôn phủ Ứng Hòa và huyện Thanh Oai. Quan quân Hà Nội đánh phá ở xã Đồng Dương, Bá Quát lại do huyện Mỹ Lương trốn qua phủ Vĩnh Tường đốt cướp huyện thành Tam Dương, rồi lẩn tới các phủ huyện Quốc Oai, An Sơn lan tràn quấy nhiễu. Phó lãnh binh ở Sơn Tây là Lê Thuận Đại đem quân tới đánh, Bá Quát bị thua chết ở trận. Ngụy Thượng thư là Nguyễn Kim Thanh, ngụy Phó vệ là Nguyễn Văn Thực cũng bị bắt (sau đều chém cả) và chém được một trăm thủ cấp, bắt sống hơn 80 tên, việc đến tai vua, sai đem thủ cấp Bá Quát truyền giao cho các tỉnh Bắc kỳ bêu lên để khuyên bảo dân chúng rồi xé xác vất xuống sông”. II. Sách Việt sử thông giám cương mục 1. Một số giai thoại lịch sử có nguồn gốc từ chính sử

1. TRẦN KHẮC CHUNG: CHÓ DỮ KHÔNG CẮN NGƯỜI LẠ

“Khi Khắc Chung đến nơi, Ô Mã Nhi trách móc về hai chữ "sát Thát" và nói: "Nước anh dám khinh lờn đại binh của thiên triều, cái lỗi ấy to lắm đấy!". Khắc Chung trả lời: "Con chó trong nhà cắn người lạ, là vì không phải chủ của nó. Việc thích chữ vào cánh tay là do lòng trung phẫn của người nước tôi, tự ý thích vào đấy". Ô Mã Nhi nói: "Đại binh từ phương xa đến đây, sao không theo lễ nghi nghênh tiếp, mà lại dám kháng cự lại mệnh lệnh?". Khắc Chung nói: "Hiền tướng không bắt chước sách lược bình định nước Yên ngày trước, đóng quân ở địa đầu quan ải, trước

PL249

hết đưa thư báo tin; hiền tướng không đem lòng tốt đến với nước tôi, đấy là lỗi của hiền tướng; nay tự đem quân đến ức hiếp nhau thì, dầu con thú đến lúc cùng tất phải đánh lại, con chim đến lúc cùng tất phải mổ lại, huống chi là người?". Ô Mã Nhi nói: "Đại binh chỉ mượn đường sang đánh Chiêm Thành, nếu vua nước anh thân đến đây cùng nhau hội kiến, thì trong nước được yên, không xâm phạm tơ hào gì cả. Nếu trái lại, thì chỉ trong khoảng giây phút, non sông đều bị san phẳng, đến lúc ấy, dầu có muốn hối lại cũng không được nữa". Khắc Chung cáo từ ra về. Mã Nhi bảo với tướng tá rằng: "Người này trong lúc bị uy hiếp mà lời lẽ và khí sắc vẫn bình tĩnh như thường, không hạ thấp vua mình là chú Chích, không tâng bốc ta là vua Nghiêu, chỉ nói "chó trong nhà cắn người lạ", ứng đối thật là khéo léo, người này có thể nói là "không làm nhục mệnh lệnh của vua phó thác cho". Trong nước họ có người như thế, chưa dễ đã làm gì họ” (Quyển VII, tr.228)

2. TRẦN BÌNH TRỌNG

“Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng đánh nhau với quân nhà Nguyên ở bãi

Tha Mạc, bị bại trận. Bình Trọng bị giết chết.

Quân nhà Nguyên đóng ở bãi Tha Mạc, Bình Trọng kéo quân đến đánh với quân giặc, bị thua to và bị bắt, Bình Trọng không chịu ăn uống gì. Tướng Nguyên tra hỏi về việc nước, Bình Trọng không trả lời. Tướng Nguyên hỏi: "Có muốn nhận tước vương đất Bắc không?". Bình Trọng quát to, nói: "Ta thà làm con ma ở đất Nam, không thèm nhận tước vương đất Bắc". Vì thế, Bình Trọng bị giết chết. Nhà vua được tin này, vật vã thương khóc”. (Quyển VII, tr.229)

3. MỐI HIỀM KHÍCH GIỮA TRẦN QUANG KHẢI VÀ TRẦN

QUỐC TUẤN

“Quang Khải với Quốc Tuấn trước vốn không hòa hiệp với nhau, sau đó một hôm, Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp về, Quang Khải cùng Quốc Tuấn đánh cờ chơi đùa suốt ngày. Quang Khải tính không hay gội tắm, Quốc Tuấn cởi áo và lau rửa giúp Quang Khải, rồi nói: "Hôm nay được tắm cho thượng tướng". Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được quốc công tắm rửa cho". Tự bấy giờ hai người chơi với nhau thân mật lắm”. (Quyển VIII, tr.243) 4. ĐOÀN NHỮ HÀI “Khi bấy giờ thượng hoàng từ phủ Thiên Trường về kinh, các quan trong triều đều không ai biết cả. Nhà vua uống rượu xương bồ, say, nằm ngủ, đánh thức mãi không dậy. Thượng hoàng đi thong thả, xem khắp các cung điện một hồi lâu. Lúc người hầu nội dâng cơm, Thượng hoàng không thấy nhà vua, lấy làm lạ, liền hỏi, sau khi biết chuyện, Thượng hoàng giận lắm, lập tức trở về Thiên Trường, hạ chiếu cho trăm quan đến ngày mai phải tề tập để nghe chỉ dụ. Đến quá trưa, nhà vua mới tỉnh dậy. Cung nhân đem việc đó tâu bày, nhà vua sợ quá, đi bộ ra ngoài cửa cung. Khi đi qua chùa Tư Phúc, gặp người học trò là Đoàn Nhữ Hài, nhà vua ban hỏi. Nhữ Hài vội vàng cúi rạp xuống đất thưa là "học trò đi học". Nhà vua cho theo vào cung, bảo rằng: "Mới đây trẫm say rượu, bị Thượng hoàng hỏi tội, nay muốn dâng biểu tạ tội, nhà ngươi nên thảo giúp ta tờ biểu ấy". Nhữ Hài vâng lời, thảo xong

PL250

ngay. Nhà vua liền dùng chiếc thuyền nhỏ, cho Nhữ Hài đi theo, đêm đi đến Thiên Trường. Sớm hôm sau, sai Nhữ Hài đội tờ biểu dâng lên, Thượng hoàng hỏi: "Người dâng biểu là người nào?". Người hầu cận thưa rằng: "Đấy là người của quan gia2 sai dâng biểu tạ tội". Thượng hoàng không nói gì cả. Trời gần tối, gió mưa kéo đến ầm ầm,

Nhữ Hài vẫn quỳ yên không di chuyển. Thượng hoàng bèn cho người lấy tờ biểu vào xem, thấy lời lẽ ý tứ trong tờ biểu thành khẩn thiết tha, mới cho triệu nhà vua vào dạy rằng: "Trẫm không còn có người con nào nữa để nối ngôi vua hay sao? Nay trẫm còn sống mà còn như thế, nếu sau này sẽ ra thế nào?". Nhà vua cúi đầu tạ tội. Thượng hoàng hỏi: "Ai soạn tờ biểu này?". Nhà vua tâu: "Tên học trò là Đoàn Nhữ Hài".

Thượng hoàng lại cho triệu Nhữ Hài vào, dụ bảo rằng: "Tờ biểu của nhà ngươi soạn, thực hợp ý trẫm". Sau đó, Thượng hoàng cho nhà vua lại được làm vua và trăm quan trở về triều như trước. Nhà vua ở phủ Thiên Trường về, cho Nhữ Hài làm Ngự sử trung tán. Khi bấy giờ Nhữ Hài mới 20 tuổi, có kẻ ghen ghét cho là ít tuổi đã làm quan, họ có câu thơ mỉa mai rằng: "Phong hiến luận đàm truyền cổ ngữ, khẩu tồn nhũ xú Đoàn trung tán". (Trong ngự sử đài người ta truyền tụng câu cổ ngữ "khẩu tồn nhũ xú")” (Quyển VIII, tr.246).

5. HỒ QUÝ LY RA CÂU ĐỐI THỬ LÒNG NGUYÊN TRỪNG “Quý Ly truyền ngụy vị cho con là Hán Thương, tự xưng là thái thượng hoàng, cùng giữ chính quyền trong nước. Hán Thương lập vợ là Trần Thị làm hoàng hậu.

Hán Thương là con thứ của Quý Ly và là em Nguyên Trừng. Mẹ Hán Thương, Huy Ninh công chúa, là con gái Trần Minh Tông. Trước kia Quý Ly vẫn có ý muốn lập Hán Thương nối ngôi, nhưng chưa quả quyết, bèn ngụ ý vào cái nghiên đá, ra một câu đối cho Nguyên Trừng đối lại, để dò xét khí khái.

Nguyên Trừng: "Thử nhất quyền kỳ thạch, hữu thời vi vân, vi vũ, dĩ nhuận sinh dân". (Viên đá nhỏ bằng nắm tay, có lúc làm mây, làm mưa, để thấm nhuần cho nhân dân). Nguyên Trừng đối lại: "Giá tam thốn tiểu tùng, tha nhật tác đống, tác lương, dĩ phù xã tắc". (Cây thông nhỏ chừng ba tấc, sau này làm cột, làm xà, để phù trì xã tắc). Quý Ly bèn lập Hán Thương nối ngôi” (Quyển XI, tr.325) 2. Sự khác biệt trong việc phản ánh nhân vật, sự kiện lịch sử trong giai thoại và chính sử (hay là đặc điểm hư cấu của giai thoại so với chính sử)

- Việc đi sứ của Mạc Đĩnh Chi được sử chép rất sơ sài, và không thấy ghi lại các cuộc đối chọi văn chương giữa ông với vua quan nhà Nguyên Trung Quốc (như trong giai thoại):

“Sứ thần nhà Nguyên sang. Thái Định đế nhà Nguyên mới lên ngôi, sai Mã Hợp Mưu và Dương Tôn Thụy sang báo cáo và ban lịch mới; lại dụ nhà vua không nên cho quan lại ở biên giới sang xâm nhiễu Chiêm Thành. Hợp Mưu cưỡi ngựa đến cái cầu ở ao Tây Thấu vẫn không xuống ngựa. Những người hiểu tiếng Trung Quốc vâng chỉ dụ nhà vua ra bảo sứ thần xuống ngựa, tranh luận mãi vẫn không thể giải quyết được. Nhà vua sai Thị ngự sử Nguyễn Trung Ngạn ra đón tiếp, Trung Ngạn

PL251

dùng lý lẽ bẻ bác, Hợp Mưu không cãi lại được, mới chịu xuống ngựa; nhà vua rất hài lòng. Khi Hợp Mưu về, nhà vua sai Mạc Đĩnh Chi sang chúc mừng” (Quyển IX, tr.267).

- Hồ Tông Thốc cũng được chép rất sơ sài, không thấy nhắc đến thơ văn lúc

ông đi sứ sang Tàu như trong giai thoại:

“Dùng Hồ Tôn [Tông] Thốc làm quan Hàn lâm viện Học sĩ phụng chỉ. Thốc, tuổi trẻ đỗ sớm, nổi tiếng về văn học. Khi làm An phủ sứ, Thốc ăn lễ của dân. Sự phát giác, Nghệ Tông lấy làm lạ, có đòi hỏi, Thốc lạy tạ mà rằng: "Một người được ơn vua thì cả nhà hưởng lộc nước". Nghệ Tông tha tội cho. Đến đây, được trao cho chức này, lại kiêm cả chức Thẩm hình viện sứ. Thốc có làm Thảo nhàn hiệu tần thi, ngụ ý cảm khái về việc Quý Ly chuyên chính. Tuổi ngoài 80, Thốc mất” (Quyển XI, tr.306 ).

- Về Nguyễn Trãi, sử quan phương quan tâm đến vụ án Lệ chi viên hơn là các cuộc ứng tác thơ văn của ông với Nguyễn Thị Lộ, cũng không nhắc đến tình tình hay ghen tuông của ông (như trong giai thoại) :

“Nhà vua ở ngôi 9 năm thọ 20 tuổi. Trước kia, Nguyễn Thị Lộ, vợ lẽ Lê Trãi, người đẹp mà lại hay chữ. Nhà vua nghe tiếng, vời đến, phong làm Lễ nghi học sĩ, ngày đêm cho hầu ở bên, nhân đó, sàm sỡ với Thị Lộ. Đến đây, đi tuần phía đông, xa giá quay về đến trại Vải1, làng Đại Lại, huyện Gia Định, thì mắc chứng sốt rét. Thị Lộ vào hầu suốt đêm, nhà vua mất. Trăm quan giấu kín việc này, lặng lẽ rước ngự giá về kinh đô. Nửa đêm vào đến trong cung, mới phát tang. Người ta đều nói Thị Lộ giết vua, bèn bắt giết Thị Lộ” (Quyển XVII, tr.440).

- Về Trạng lường Lương Thế Vinh, sử cũng không chép các cuộc thù tạc, ứng tác thơ văn, câu đối như trong giai thoại, mà chỉ được chép một cách ngắn gọn như sau:

“Thi nho thần ở Phượng Nghi đường. Nhà vua cho triệu những người trước đã đỗ tiến sĩ hện làm việc ở các nha môn là bọn Lê Đình Tuấn cùng với bí thư giám là bọn Lương Thế Vinh, cộng 30 người, đến Phượng Nghi đường. Nhà vua ra đầu bài để khảo thí bọn này. Trong số ấy có thị chế Dương Như Châu vì học nghiệp không tiến, phải xuất ra làm Hồng lô tự thừa” (Quyển XXI, tr. 506).

- Sự cấm kỵ, hạn chế của triều Lê đối với việc hát xướng của quần chúng nhân dân được ghi chép cụ thể. Đầu năm Hồng Đức (1470), vua Thánh Tông định ra 24 huấn điều, trong đó có điều 1 quy định về ca hát và điều 19 quy đinh về trách nhiệm của các nhà nho ở làng xã như sau:

“1. Cha mẹ dạy con, phải dùng khuôn phép hợp với lẽ phải; con trai, con gái đều dạy cho có nghề nghiệp, không được để buông tuồng vào cờ bạc rượu chè, tập nghề xướng hát, để hại đến phong tục.

2. Người gia trưởng tự mình giữ lễ phép tiết độ, để uốn nắn người trong nhà

mình; nếu con em trong nhà làm việc trái, thì người gia trưởng sẽ bị tội.

3. Vợ chồng siêng năng, sẻn nhặt, sửa sang công việc trong nhà; đối với nhau có ân có nghĩa không bao giờ thay đổi; chỉ lúc nào người vợ phạm vào tội "thất

PL252

xuất"1 bấy giờ phải dùng lý mà xử đoán, không được quá yêu quyến luyến dung túng xuê xoa, để hại đến phong hóa.

4. Con em trong nhà, nên thân yêu với anh em, hòa thuận với làng xóm, lấy lễ nghĩa tự giữ mình, nếu người nào làm trái thì tôn trưởng dạy bảo bằng cách roi vọt nhỏ để quở phạt, quá lắm thì cáo tố ở cửa công xét xử.

5. Ngoài làng xóm, trong họ hàng, người nào gặp hoạn nạn, thì nên chu cấp thương xót lẫn nhau. Nếu có người làm việc nghĩa nổi tiếng, thì các viên phủ huyện sở tại trình với hai ty Thừa chính và Hiến sát thực tâu bày đầy đủ, sẽ được triều đình biểu dương.

6. Người đàn bà có lỗi, nếu cha mẹ và chồng có trừng trị, thì phải bỏ hẵn lòng tà, sửa đỗi tội lỗi, không được thiện tiện tự ý bỏ trốn, có điều trái với đạo người đàn bà.

7. Đàn bà góa chồng, không được tìm kiếm người trai trẻ, nói thác là con nuôi,

làm việc gian dâm vụng trộm.

8. Đàn bà, sau khi chồng chết, hoặc chồng có các con của người vợ trước cũng như con vợ lẽ nàng hầu, thì mình phải mang lòng yêu thương, không được lập tâm tham chiếm tài sản, lo toan làm việc lợi riêng cho mình.

9. Đàn bà, khi chồng chết mà mình chưa có con, thì nên ở nhà chồng, theo việc tang việc tế đúng như nghi lễ; không được tư túi tài sản đem lén lút về nhà cha mẹ đẻ của mình.

10. Bổn phận chính của người đàn bà là phải thuận theo chồng, không được cậy là cha mẹ mình giàu sang, mà kêu ngạo với nhà chồng; người đàn bà nào trái lệnh, thì cả cha mẹ người ấy cũng phải tội.

11. Bọn sĩ phu phải đôn đốc học nghiệp, phẩm hạnh, giữ điển lễ chung; nếu có người nào thi thọt cửa quyền, dựa thế lực người trên, ra oai nạt nộ người khác, sẽ phải tước bỏ tên tuổi, suốt đời không được kể là hạng sĩ phu

12. Bổn phận người điển lại chỉ có việc giữ sổ sách văn thư, làm công việc theo chức phận của mình; nếu có người nào dùng trí thuật làm điên đảo giấy tờ, thì viên quan cai quản phải kiểm xét cho ra để trị tội.

13. Quân và dân nên hiếu với cha mẹ, thảo với anh em, hết sức làm ruộng; người ra ngoài, người ở nhà, phải giữ gìn lẫn cho nhau: đến kỳ thượng phiên1 thì vui vẽ đi làm công việc, không được lười biếng trốn tránh. Nếu có ai nổi tiếng là người lương thiện, thì các viên phủ, huyện sở tại trình lên hai ty Thừa Chính và Hiến sát xét thực, rồi tâu bày đầy đủ, sẽ được khen thưởng.

14. Người buôn bán nên theo thời mà lưu thông phẩm vật, không được lừa thưng tráo đấu, không được nhân cơ hội tụ tập đồ đảng, lén lút làm trộm cướp, người nào phạm pháp, sẽ bị trị tội nặng.

15. Việc cưới gả, việc tế tự, phải dựa theo lễ pháp, không được tiếm vượt quá

phận định của mình.

16. Khi chèo hát, lúc hội hè, trai gái đến chơi xem, không được đứng ngồi lẫn

lộn để ngăn ngừa thói dâm ô.

PL253

17. Nhà cửa, hàng quán ở dọc đường, nếu có phụ nữ đi xa vào ngũ trọ, thì cửa ngõ phải đề phòng cẩn mật; nếu người nào dám lấy sức khỏe làm việc ô nhục, khi việc phát giác, thì người can phạm và chủ nhà đều phải trị tội.

18. Các viên phủ, huyện đều chiểu theo địa phận sở tại, cắm thẻ bài răn chặn

trai gái không được tắm cùng một bến, để tỏ rõ sự phận biệt về lễ phép.

19. Xã thôn nên chọn một, hai người tuổi cao, đạo đức, học lực khá, phẩm hạnh tốt làm người đứng đầu, cứ những ngày nhàn rỗi, đưa nhân dân đến đình quán, công sở, hội họp giảng giải lời cáo dụ, để cùng nhau trông vào đấy mà làm điều lành, cùng tiến đến phong tục tốt đẹp.

20. Trong hạt các phủ huyện, nếu có kẻ nào cường xâm chiếm ruộng đất, ức hiếp người cô độc, xui nguyên giục bị kiện cáo lẫn nhau, thì cho phép xã thôn dò xét tố giác để nghĩ trị; nếu phủ huyện nào vì tình riêng mà ẩn giấu đi, sẽ bị luận vào tội giáng chức hoặc bãi chức.

21. Những nhà tước vương, tước công và đại thần chứa chấp người tư cách hèn hạ làm cò mồi đưa đồ đút lót, cùng nô tỳ những nhà ấy mua ức phẩm vật của dân, thì cho phép người đương sự đến cửa quan tố cáo, bọn can phạm sẽ bị trừng phạt nặng.

22. Viên quan giữ chức trách chăn dắt dân2, nếu viên nào biết dạy bảo đốc sức nhân dân trong hạt hăng hái theo lễ nghĩa nhún nhường, thì ty hiến sát xét thực, ghi vào hạng nhất trong dịp khảo công; nếu viên nào không siêng năng dạy bảo nhân dân, khi khảo công, liệt vào hạng không làm đầy đủ chức phận.

23. Xã trưởng, thôn trưởng, và phường trưởng người nào biết siêng năng, năng dạy bảo đốc sức, làm cho phong tục làng xóm trở nên tốt lành, thì các viên phủ huyện trình bày rõ với hai ty Thừa chính và Hiến sát xét thực, tâu lên triều đình, sẽ ban thưởng.

24. Phàm những người Man, người Lạo ở ven biên giới, phải kinh giữ luân lý, không được làm rối loạn đạo thường, như sau khi cha, anh, chú bác đã mất rồi, người nào là con cháu, anh em với người đã chết ấy không được nhận lấy vợ cả hoặc vợ lẽ của họ làm vợ mình; nếu ai trái lệnh, sẽ phải trừng trị” (Quyển XIV, tr. 575 – 576).

- Sự kiện Cừu Loan sai Mao Bá Ôn sang đánh Mạc Đăng Dung không hề có

liên quan đến tình tiết thơ văn như trong giai thoại:

“Đinh Dậu, năm thứ 5 (1537). (Mạc, năm Đại Chính thứ 8 - Minh, năm Gia

Tĩnh thứ 16).

Tháng 2, mùa xuân. Minh dùng Cừu Loan làm tổng đốc, Mao Bá Ôn làm

tán lý quân vụ, đi đánh Mạc Đăng Dung.

Vua Minh đã biết rõ tội trạng tiếm nghịch của Đăng Dung Tuần phủ Vân Nam là U ông Văn Thịnh lại tâu nói Đăng Dung ngầm sai bọn tri châu Nguyễn Cảnh đi sang rình dò hư thực, đến núi Nạp Canh bị thổ xá là Lý Mạnh Quang bắt được luôn với một bài Đại cáo do ngụy Mạc soạn ra, rồi đem trình nộp. Vua

Minh cả giận, bèn phong Hàm Ninh hầu Cừu Loan làm tổng đốc, thượng thư Mao Bá Ôn làm tán lý quân vụ, đem quân đi đánh U Ông Văn Thịnh truyền hịch mọi nơi, đem họa phúc dụ bảo.

PL254

Lời cẩn án: Sử cũ, trong năm Nguyên Hòa thứ 1 (1533), chép vua Lê sai Trịnh Duy Liểu sang Minh xin quân [đánh Mạc]; đến năm thứ 2 (1534), chép vua Minh sai tướng sang đánh Đăng Dung. Nay tra trong Minh sử: tháng 2, mùa xuân, năm Gia Tĩnh thứ 16 (Đinh Dậu, 1537 ) chép vua Minh sai tướng sang đánh Đăng Dung thì chính đúng vào năm Nguyên Hòa thứ 5. Này, Duy Liểu sang Minh hàng hai năm mới đến được quốc đô [Trung Quốc]; kịp khi được U Ông Văn Thịnh tâu trình lên thì (triều đình nhà Minh ) mới bàn đến việc ra quân. Vậy xét theo sự thực thì Minh sử đúng” (Quyển XVII, tr.632)

Sự thật là Mạc Đăng Doanh xin cầu hòa và dùng lời lẽ dối trá để qua mặt thiên

triều nhà Minh:

“Mạc Đăng Doanh sai bầy tôi là bọn Nguyễn Văn Thái sang nhà Minh, xin

hàng.

Đăng Doanh được tin quân Minh sang đánh, cả sợ, liền sai đồ đảng là bọn

Nguyễn Văn Thái đem tờ biểu đầu hàng sang Minh nói dối trá rằng:

"Tương Dực đế bị nghịch tặc Trần Cao giết hại, Đăng Dung cùng người trong nước tôn lập vua Chiêu Tông. Không bao lâu, Chiêu Tông lại bị gian thần là bọn Đỗ Ôn Nhuận và Trịnh Tuy dụ dỗ dời vào Thanh Hoa, Đăng Dung lại tôn lập Cung đế làm vua. Liền đó Đăng Dung lại đón Chiêu Tông từ Thanh Hoa về. Rồi Chiêu Tông và Cung đế đều bị bệnh chết. Họ Lê không người kế tự. Cung đế, khi bệnh kịch, có bàn với quần thần, cho rằng cha con Đăng Dung có công với nước, bèn vời vào, trao cho ấn chương để nối coi việc nước. Đăng Dung bèn được người nước suy tôn.

Còn lý do chưa được dâng biểu và sai sứ sang cống, là trước vì Trần Cung chiến giữ Lạng Sơn làm nghẽn đường, sau vì quan giữ biên cương đóng cửa ải không tiếp nhận. Đến như người nhận là dòng dõi họ Lê bây giờ chỉ là con của kẻ khác, chứ không phải là con của Chiêu Tông".

Vua Minh biết rõ những lời trong bài biểu đều là lừa dối bưng bịt. Vả lại, tuy xin hàng, nhưng lời lẽ vẫn không thành khẩn khuất phục, Đăng Dung lại không tự trói nộp mình để đợi tội. Vua Minh bèn quyết đánh, mới sai bọn Cừu Loan và Mao Bá Ôn mau đến Quảng Tây chiêu tập binh lính để tiến đánh nhà Mạc.

Tháng 11, mùa đông. Mao Bá Ôn nhà Minh đóng quân ở ngoài cửa ải. Mạc Đăng Dung đến cửa quân tướng Minh, xin hàng, và đem đất năm động hối lộ nhà Minh”. (Quyển XVII, tr. 633).

- Về nhân vật Nguyễn Hữu Cầu, sử chép rất chi tiết về cuộc nổi dậy của ông và địch thủ không đội trời chung – Phạm Đình Trọng. Tuy nhiên, không có phần thơ văn đối chọi nào giữa hai nhân vật. Ở đây, xin dẫn ra một đoạn làm minh chứng:

“Từ đấy, thanh thế Hữu Cầu ngày càng lừng lẫy, tự xưng là Đông Đạo tổng quốc bảo dân đại tướng quân, chiếm cứ ven biển Đồ Sơn và Vân Đồn làm nơi kiên cố. Trịnh Doanh sai Hoàng Công Kỳ thống lãnh đạo bộ binh ở Hải Dương, Trần Cảnh thống lãnh đạo thủy binh, lúc ra đi, Trịnh Doanh thân hành trao cho mưu kế phương pháp. Sau đó, sai Công Kỳ thống suất số quân thuộc dưới quyền Trần Cảnh và các đạo quân của đốc lãnh Vũ Tá Liễn, gồm binh thuyền của 29 cơ, nghiêm hạn nhật kỳ tiến quân càn quét. Công Kỳ dâng tờ khải nói: "Giặc nương vào núi, dựa vào

PL255

biển làm nơi kiên cố; vả lại nước biển khi lên khi xuống không nhất định, muốn phá Đồ Sơn, không tranh chiếm địa lợi trước là không được, mà muốn tranh chiếm địa lợi, cần phải dùng thủy binh. Vậy xin giữ quân thủy của đội Tứ Trạch lại để phòng bị việc điều khiển". Trịnh Doanh y cho. Công Kỳ cùng tướng thủy đạo là Nguyễn Công Hiển, góp sức nhau cùng càn quét, Hữu Cầu đánh nhau, bị bại trận, chạy trốn ra bãi biển, nhưng bọn Công Kỳ không lập tức đuổi bắt, Đăng Hiển lại tự dẫn đại binh về kinh sư.

Hữu Cầu biết Yên Quảng sơ hở yếu ớt, lại trở về chiếm cứ Đồ Sơn, thường ra cướp phá vùng đông nam, thế lực mạnh dần, không ai có thể chống cự được. Đến nay đem quân cướp huyện Thanh Hà. Công Kỳ bị vây đã hàng tuần, bèn sai người vượt ra ngoài vòng vây, về triều cáo cấp. Quân cứu viện chưa kịp đến, thì Hoàng Ngũ Phúc, đốc lãnh lính kỳ đạo thúc quân đến cứu. Khi quân của Ngũ Phúc đến huyện Vĩnh Lại, bị giặc chẹn lại, không tiến lên được.

Về phía Công Kỳ thì tán lý Vũ Khâm Lân bày mưu rằng: "Quân ở kinh sư chưa thể đến ngay, nếu cứ ngồi để đợi viện binh, thì làm thể nào có thể kịp được? Nay giặc đánh nhau với binh lính kỳ đạo, chúng tất dồn quân về mặt trước, nếu ta tranh cướp lấy mặt sau mà đem quân ra, hai đạo quân hợp sức lại để đánh, thì thế nào cũng phá được quân địch". Công Kỳ nghe theo kế ấy, bèn nhân đêm kéo ra cửa sông Ngư Đại, gặp quân giặc có ít, đánh thắng được, rồi hợp sức phá nhổ kè, tiến ra sông Ngư Đại, kéo về đóng ở sông Tranh, hội hợp với Hoàng Ngũ Phúc tiến đánh, phá tan được địch” (Quyển XXXIX, tr. 859 – 860).

Đoạn kết về Nguyễn Hữu Cầu được mô tả như sau: “Hữu Cầu bị bọn Ngũ Phúc đánh bại, nhân đêm chạy trốn, sai đồ đảng là tên Thông (sót họ) đem hạng thuyền nhanh nhẹ chở các đồ quý trọng, thuận theo dòng nước để về vùng đông. Quan quân lại đón đánh, bắt được rất nhiều. Tên Thông bỏ thuyền chạy. Hữu Cầu lại ra Yên Quảng, chiếm cứ Hạc Động, nhờ vào biển để làm kiên cố, thường dùng hạng thuyền nhanh nhẹ cướp bóc vùng đông nam.

Đình Trọng cùng Ngũ Phúc đem các tướng đi đánh, chém được bọn tên Thông hơn 10 người, quân nhu và ngựa chiến hết thảy đều bị quan quân bắt được. Thông là người nhanh nhẹn, mạnh khỏe, có trí mưu, Hũu Cầu dựa vào Thông là người ruột thịt, nay Thông bị chết, thế lực Hữu Cầu thành ra cô đơn, chạy trốn lẫn lút, chỗ ở không nhất định, những người phục tòng cũng tan tác dần, sau cùng đều bị bắt. Như thế là phần nhiều nhờ ở công của Đình Trọng và Ngũ Phúc” (Quyển XL, tr.869)

“Hữu Cầu bị Đình Trọng đánh dồn, vì thua luôn, nên thế lực mòn mỏi. Nhân sai đồ đảng tên là Hựu đem nhiều bạc đút lót cho người quyền thần là Đỗ Thế Giai và nội giám Nguyễn Phương Đĩnh, để xin đầu hàng. Trịnh Doanh y cho, hạ lệnh cho Hữu Cầu cùng đảng giặc là bọn Hoàng Phùng Cơ đều được phép rửa hết tội trước, ban cho hiệu là Ninh Đông tướng quân và phong tước Hương Nghĩa hầu, còn tướng hiệu của Cầu đều được thăng làm quan, lại ban thưởng rất hậu, rồi hạ lệnh triệu về kinh sư.

Nhưng thực ra Hữu Cầu không có ý đầu hàng, hắn thường lấy cớ bị Đình Trọng ngăn đón để tố cáo về triều. Trịnh Doanh sai thiêm tri Nguyễn Phi Sảng đem

PL256

lệnh chỉ đến phủ dụ và triệu về, mặt khác dụ bảo Đình Trọng hoãn lại đừng đánh Hữu Cầu vội.

Trước kia, Hữu Cầu nhiều lần bị Đình Trọng đánh bại, bèn đào mã mẹ Đình Trọng quẳng xuống sông, Đình Trọng khóc lóc tố cáo với Trịnh Doanh, thề quyết chí giết Hữu Cầu, Doanh rất khen chí khí Đình Trọng. Nay Phi Sảng đem dụ chỉ đến, Đình Trọng nói: "Người làm tướng ở ngoài chiến trường, có khi không chịu nhận mệnh lệnh của vua. Tôi với Hữu Cầu không cùng đội trời chung, tôi đã từng nói ở trước chúa thượng. Nay ông tự nhận mệnh lệnh đi chiêu hàng, tôi tự nhận mệnh lệnh đi giết giặc, nếu gặp thế có thể đánh được giặc, thì tôi cũng không vì cớ ông đến chiêu hàng mà ngần ngại". Phi Sảng cùng bạn bè nghe câu nói ấy đều sợ thất sắc, nhân từ giả ra đi. Phi Sảng đến quân doanh Hữu Cầu, bày tỏ dụ chỉ của chúa Trịnh, lại đem câu nói của Đình Trọng bảo cho Hữu Cầu biết. Câu chuyện chưa nói dứt lời thì Đình Trọng ập đến đánh úp. Hữu Cầu sai người dẫn Phi Sảng theo đường tắt trở về, rồi ra đánh nhau, Đình Trọng đánh cho Hữu Cầu đại bại, Cầu phải bỏ trốn.

Trước kia, Đình Trọng nhận mệnh lệnh đi đánh giặc, chiêu mộ các người mạnh khỏe ở Thanh Hà, Tứ Kỳ, Vĩnh Lại và Thượng Hồng làm nghĩa binh, đặt hiệu riêng là bốn cơ Thanh, Kỳ, Hồng, Vĩnh, mà dùng hai người thủ hạ để quản lãnh. Đến nay, Thế Giai gièm pha nói: "Đình Trọng cầm quân ở ngoài, đặt bộ ngũ riêng, chẳng khỏi không có ý khác", Trịnh Doanh biết Đình Trọng là người tự nguyện một lòng trung thành, nên bỏ lời Thế Giai đi, không hỏi, lại đặc chỉ ban cho bài thơ để yên ủi Đình Trọng” (Quyển XL, tr. 870)

“Nguyễn Hữu Cầu xâm phạm sông Bồ Đề. Phạm Đình Trọng đuổi đánh,

Hữu Cầu thua chạy.

Hữu Cầu bị Đình Trọng đánh bại ở Cẩm Giàng, nhân đấy, hắn bàn với đồ đảng rằng: "Ta mới bị thua, tin thắng trận đưa về, tất nhiên ở kinh sư không phòng bị, ta đem quân đánh úp thế nào cũng thắng được". Hắn bèn nhân ban đêm đi gấp đường, hẹn trống canh năm đến bến Bồ Đề, lẻn cho quân sang sông, nhưng khi đến bến, thì trời đã sáng rồi. Trịnh Doanh tự làm tướng, chống cự ở bến sông phía Nam. Đình Trọng được tin, đem hết quân lính đuổi theo, lại đánh thắng được, Hữu Cầu bỏ trốn.

Trước kia, năm Canh Thân và Tân Dậu (1740-1741) liền hai năm mất mùa, kém đói, vùng Hải Dương lại kém đói hơn cả. Hữu Cầu cướp thuyền buôn lấy được thóc gạo, bèn đem chia cho dân; nhờ đấy nhiều người được cứu sống. Hữu Cầu lại đưa đẩy bằng mưu mô xảo quyệt, sai khiến bằng uy quyền võ lực, nhân dân người bị uy hiếp, người bị dụ dỗ, thành ra lâu ngày tự nhiên tín phục, cho nên Hữu Cầu tuy thường bị thua đau, chỉ một thân thoát nạn, những hễ giơ tay hô một tiếng, thì chốc lát lại sum hợp như mây, vì thế mà có thể tung hoành ở mặt đông bắc, làm tên giặc kiệt hiệt trong một đời” (Quyển XL, tr. 874).

Nguyễn Hữu Cầu bị bắt: “Tân Mùi, năm thứ 12 (1751). (Thanh, năm Càn Long thứ 16). Tháng giêng, mùa xuân. Phạm Đình Trọng bắt được Nguyễn Hữu Cầu ở

Nghệ An.

PL257

“Hữu Cầu lúc còn nhỏ là hạng đầu trộm, sau theo Nguyễn Cừ, tướng giặc Ninh Xá, Cừ gã con gái cho. Khi Cừ bị bại, Hữu Cầu lại hô hào tụ họp đồ đảng cướp bóc. Lúc ấy, Nguyễn Danh Phương chiếm cứ Sơn Tây, Nguyễn Diên chiếm cứ Nghệ An, Hoàng Công Chất chiếm cứ Khoái Châu, Lê Duy Mật chiếm cứNgọc Lâu, người nào cũng nắm trong tay vài ba vạn quân, riêng Hữu Cầu là kiệt hiệt hơn cả. Hữu Cầu lại là người mạnh khỏe, nhanh nhẹn, chiến đấu hăng, trí mưu quỷ quyệt trăm đường, nhiều lần bị mấy vòng vây, chỉ một mình một ngựa vượt vây xông ra, rồi vài hôm sau lại có quân chúng hàng vạn. Khi ra trận, một mình cưỡi ngựa, cầm siêu đao, đi lại như bay, quân sĩ không ai là không sợ hãi chạy giạt, đến các tướng cũng phải tránh uy phong của hắn, chỉ một mình Đình Trọng thề quyết chí giết cho bằng được, nên triều đình vững lòng dựa vào Đình Trọng. Đình Trọng cầm quân có kỷ luật, hễ trận nào Hữu Cầu gặp Đình Trọng liền bị thua. Các tướng lúc bấy giờ, Hữu Cầu chỉ sợ có Đình Trọng mà thôi.

Từ khi bị thua trận Bồ Đề, Hữu Cầu hợp lực với Hoàng Công Chất, đánh phá cướp bóc các huyện Thần Khê, Thanh Quan. Đình Trọng cùng Ngũ Phúc đốc suất binh sĩ đi đánh, sang đò Hoàng Giang qua huyện Nam Xang, đến huyện Bình Lục, đánh nhau với Hữu Cầu ở các sông Mã Não và Hương Nhi, quân giặc bị thua. Lại đuổi đến xã Quang Dực và Lộng Khê, đánh luôn mấy trận đều phá tan được, đảng giặc bị tan tác. Công Chất chạy vào Thanh Hoa, Hữu Cầu cũng trốn vào Nghệ An nương nhờ Nguyễn Diên. Diên giúp cho binh lính, lương thực, Hữu Cầu nương thân ở Nguyên Lãm.

Ít lâu sau, Đình Trọng đem đại binh đuổi theo đến nơi, quân của Hữu Cầu bèn tan vỡ. Hữu Cầu bị khốn quẫn bức bách, liền vượt ra biển, toan quayvề vùng đống. Vì gặp gió bão thình lình nổi lên, Hữu Cầu bèn cùng mấy chục thủ hạ lên bộ, tranh cướp lấy đường mà chạy, ẩn trốn trong núi Hoàng Mai, bị Phạm Đình Sĩ, thuộc tướng của Đình Trọng, bắt được, liền đóng cũi đưa về quân thứ Trịnh Doanh” (Quyển XLI, tr. 880)

- Về nhân vật Lê Quý Đôn, sách trên phê phán nhân vật này rất nặng nề (khác hẳn với cảm hứng đề cao trong giai thoại). Xin dẫn ra đây một số đoạn làm minh chứng:

“Ất Dậu, năm thứ 26 (1765). (Thanh, năm Càn Long thứ 30). Tháng 6, mùa hạ. Lê Quý Đôn, tham chính Hải Dương bị bãi. Từ khi sang sứ nhà Thanh trở về nước, rồi bổ làm tham chính Hải Dương, Quý Đôn tự giải bày chín tội, nhưng thực ra là tự kể công lao của mình. Trong lời giải bày lại nói: "Tôi đem cái thân sống sót ở muôn dặm trở về nước, mà nay xiêu giạt nơi giang hồ, xin cho tôi được về quê quán". Trịnh Doanh không bằng lòng, nhưng vẫn y cho.

Quý Đôn nổi tiếng về văn học, vì phải bổ ra làm quan ở ngoài, nên bất đắc chí, lời nói có giọng oán hờn, đại để cũng như tờ biểu tự trách mình của Bộc Cố Hoài Ân, nên người có kiến thức lấy làm chê cười.

Lời phê: Học rộng thì có làm gì, chỉ đủ để giúp cho lòng tư của mình, như

hạng Vương An Thạch. Sở dĩ đến như thế, cũng do kiến thức lệch lạc mà ra.

PL258

Lời chua: Quý Đôn tự giãi bày chín tội: Như nói, tôi không đoái thương đến mẹ già , đem thên theo tiên vương ở nơi hành tại để mộ quân đánh giặc. Đấy là tôi phạm một tội không trung với nước. Dấn mình vào nơi hàng trận, là vì trong chí muốn cho nước nhà được yên. Đấy là tôi phạm hai tội không trung với nước. Còn ra không khảo cứu được. Bài biểu tự trách mình của Bộc Cố Hoài Ân: Đời vua Đại Tông nhà Đường, Hoài Ân tự nghĩ mình có công to, mà bị người ta gây sự hãm hại, có ý bực tức oán hờn, bèn dâng tờ biểu tự trách mình có sáu tội: 1. Trước kia, bộ lạc Đồng La làm phản loạn, tôi vì tiên đế mà quét sạch giặc giã ở Hà Khúc; 2. Con trai tôi là Phân sa vào tay giặc, khi trốn ra trở về, tôi bắt đem chém, để hiệu lệnh quân sĩ; 3. Con gái tôi vì trong nước hòa thân với Hồi Hột mà đem gả ở nơi xa; 4. Tô cùng con trai là Dương dốc hết tính mạng vào việc nước; 5. Đất Hà Bắc mới quy thuận triều đình, tôi vỗ về yên ủi để cho người giáo giở được yên lòng; 6. Tôi dụ dỗ Hồi Hột, để chúng đem quân đến cứu nạn nước. Tôi chịu sáu tội kể trên, thật đáng muôn vàn tội trạng” (Quyển XLII, tr. 805).

Việc Lê Quý Đôn được phục chức không phải do giúp triều đình giải được câu đố của sứ thần nhà Thanh như trong giai thoại Thư mượn áo cầu mà là được chúa Trịnh ân xá. Xin dẫn ra đây làm minh chứng: “Tháng 7, mùa thu. Không mưa. Tháng này, mấy tuần không có mưa, Trịnh Sâm thân hành cầu đảo ở lầu Kính Thiên, hạ lệnh các quan trong kinh ngoài trấn dâng tờ khải niêm phong trình bày công việc. Nguyễn Bá Lân dâng tờ khải nói: "Chính sự vua chúa, thông cảm với trời. Nay vương thượng mới cầm quyền, nên chuộng đều khoan hậu, vậy xin: Lục dụng Lê Quý Đôn và Phan Cẩn để nâng đỡ người bị oan ức lâu ngày; rộng gia ơn về việc, chuộc tội, cứu vớt dân xiêu lưu, để dân khỏi đau khổ. Như thế, may ra có thể thu phục được lòng người, và báo đáp được tội lỗi mà trời quở trách". Trịnh Sâm cho là phải, bèn khởi phục Lê Quý Đôn giữ chức Thị thư (Chánh lục phẩm, Phan Cẩn giữ chức Cấp sự trung (Tòng bát phẩm). Sau lại hạ lệnh: Viên trưng phủ ở các phủ đều tâu bày tình trạng nghèo đói phiêu tán và đau khổ của dân trong hạt; viên quan trong Ty Hiến sát sứ đi khám xét ruộng bỏ hoang không cày cấy ở dân gian và dò hỏi sự tệ hại uất ức của dân sở tại, rồi tâu bày để triều đình biết. Một mặt liệu lượng tha thuế tô cho những nơi bị thiệt hại từ bốn phần trở lên. Lúc ấy, về chính tô và gia tô được tha tiền hơn một vạn bốn ngàn quan, thóc hơn ba ngàn sọt. Những thuế bỏ thiếu từ năm Kỷ Mão (1759) trở về trước, đều được tha cả (Quyển XLII, tr.911).

Chính sử phê phán Lê Quý Đôn rất nặng nề về tội trạng ăn hối lộ và lo lót để

được thăng quan tiến chức:

“Tân Mão, năm thứ 32 (1771). (Thanh, năm Càn Long thứ 36). Bổ dụng. Lê Quý Đông làm tả thị lang bộ Công, quyền giữ chức đô ngự sử. Trước kia, Quý Đôn làm phó đô ngự sử, thường dùng số bạc đút lót trong khi xét kiện để dâng chúa Trịnh, bèn được thăng chức Hữu thị lang bộ Hộ. Đến nay, nhân khi khám xét hạt Thanh Hoa trở về, lại dâng hơn một ngàn lạng bạc đã ăn của đút, nên do chức Hữu thị lang bộ Hộ thăng lên chức này.

Quý Đôn lại trình bày bốn việc: 1. Cống sĩ thi hội trúng được kỳ đệ tam phần

PL259

nhiều xin lạm sắc nội hoàng gia ơn, nhảy qua tư cách trao chức vượt bậc. Xin xét thực, bắt trở về bậc cũ; 2. Hiến sát phó sứ và tham nghị là người có chuyên trách ở một địa phương, thế mà ít lâu nay những bọn cầu may để làm quan phần nhiều không do các quan trong triều đường bảo cử, chỉ lén lút cầu cạnh để được dự vào sự bổ dụng. Xin thu hồi lệnh trước, mà cho các quan trong triều đường bảo cử theo như lệ cũ; 3. Đất bãi ở các lộ xin phái các quan chia nhau đi khám lại; 4. Những dân xã ở các lộ, trước đây phụng mệnh được miễn trừ, gần đây vì chép lại sổ sách, rồi sinh ra sự thay đổi thêm bớt gian trá. Xin sai tín thần xét thực để chỉnh đốn lại cho được đúng". Trịnh Sâm cho là phải lẽ cả, lập tức hạ lệnh thi hành.

Lời phê: Chỉ có tiếng mà không có thực, thì trước kia tự trình bày tội lỗi của mình, chẳng qua cũng chỉ vì nóng ruột muốn nhảy lên quan to mà thôi” (Quyển XLIII, tr. 923).

Còn việc Lê Quý Đôn bị giáng chức vì gian lận trong thi cử và táng trộm mồ

mả tổ tiên vào đất quý cũng bị phê phán nặng nề như sau:

“Ất Mùi, năm thứ 36 (1775). (Thanh, năm Càn Long thứ 40). Tháng 10, mùa đông. Mở khoa thi hội các cống sĩ. Cho bọn Ngô Thế Trị và Phan Huy Ích 18 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân; xử tội Đinh [Thì] Trung đày đi Viễn Châu; giam Lê Quý Kiệt vào ngục.

Quý Kiệt con Quý Đôn. Kỳ đệ tứ khoa thi này, Quý Kiệt cùng Đinh [Thì] Trung đổi quyển cho nhau để làm bài. Việc bị lộ, Đinh [Thì] Trung phải tội lưu đi Yên Quảng, Quý Kiệt phải trở về làm dân. Đinh [Thì] Trung nhân phát giác bức thư riêng của Quý Kiệt và cáo tố là do Quý Đôn chủ sự. Trịnh Sâm lấy cớ Quý Đôn là bậc đại thần, bỏ đi không xét, mà luận thêm tội Quý Kiệt, bắt giam cấm ở ngục ở cửa Đông.

Lời phê: Hai người cùng một tội mà xử phạt khác nhau, sao gọi là công bằng thỏa đáng được? Xét hành trạng của Quý Đôn, không có một điều gì đáng khen” (Quyển XLIV, tr. 937).

Năm 1776, Lê Quý Đôn cũng bị luận tội mặc dù Trịnh Sâm không chuẩn y tờ

sớ này:

“Tháng 4, mùa hạ. Hạn hán. Hạ chiếu cầu người trình bày lời trung thực. Lúc ấy, luôn mấy năm hạn hán, kém đói, Trịnh Sâm hạ lệnh cho bầy tôi và sĩ thứ nói thẳng những điều thiếu sót, sai lầm. Lê Thế Toại, tham nghị cũ ở xứ Thanh Hoa dâng tờ khải, đại lược nói: "Dĩnh Thành hầu Lê Quý Đôn dụng tâm quanh co, bỉ ổi, mong muốn càn rỡ những điều quá hạn định của mình: nào lập mưu cho con ăn cắp bài văn thi ở trong trường, nào vụng trộm chiếm nơi cấm địa. Ông Mạnh Tử nói: "Quan sát con ngươi của từng người, thì người gian người ngay, không thể nào giấu giếm được". Con người của Lê Quý Đôn lúc nào cũng đưa đẩy lia lịa, nếu dùng người này giữ chức cao cả tất nhiên làm tai hại cho nhân dân. Kiều Nhạc Hầu Nguyễn Lệ từ khi được dự vào chính phủ đến nay, chưa nghe mở mang được điều gì có lợi, trừ bỏ được việc gì có hại, chỉ chuyên dùng mánh khoé khéo léo để mê hoặc lòng vua chúa; vừa mới bổ ra giữ chức tham đốc xứ Nghệ, mà quá nửa số nhân dân bị phiêu lưu. Vậy xin: Nghiêm ngặt trị tội Quý Đôn và Nguyễn Lệ, để tạ tội với mọi

PL260

người trong nước, thì tự nhiên được trời mưa". Tờ khảo này không được Trịnh Sâm trả lời.

Lời chua: Lập mưu cho con ăn ắp văn thi ở trong trường: Kỳ đệ tứ khoa thi Hội năm Ất Mùi (1775), Quý Đôn nhờ Đinh [Thì] Trung làm bài cho con mình là Quý Kiệt. Vụng trộm chiếm nơi cấm địa: Quý Đôn táng trộm mả tổ ở cấm địa tại sơn phận Tả” (Quyển XLV, tr. 945). - Về nhân vật Đặng Thị Huệ, sử chép như sau:

“Khải, là con Dương thị, một phi tần trong phủ chúa. Theo thể lệ cũ, con chúa cứ đến 7 tuổi, cho ra ở nhà riêng để học, nếu là con trưởng thì đến 13 tuổi cho mở phủ đệ và được phong làm thế tử. Nhưng Sâm cho rằng Khải (tên cũ là Tông) không phải do vợ cả sinh ra, nên không yêu quý, dùng Nguyễn Phương Đĩnh, hoạn quan, làm bảo phó của Khải. Lúc Khải đã 9 tuổi mới cho đi học, dùng Nguyễn Lệ và Lý Trần Thản làm tả tư giảng và hữu tư giảng. Chưa được bao lâu, Trần Thản mất, Nguyễn Lệ cũng ra trấn thủ Sơn Tây, chỉ sai Khải đến ở nhà riêng Nguyễn Phương Đĩnh, theo thời tiết vào phủ đường triều yết mà thôi. Viên quan trong Ngự sử là Nguyễn Thưởng và Vũ Huy Đĩnh trước sau nhiều lần xin với Sâm về việc lập thế tử, đều bị giáng chức. Sau vì Đặng Thị Huệ, một thị nữ được yêu nuông, sinh con là Cán, Sâm rất yếu quý, sách phong Đặng Thị là Tuyên Phi. Đặng Thị tự gây dựng lấy bè đảng cho vây cách được dầy dặn, bên ngoài nương nhờ Hoàng Đình Bảo làm viện trợ, ngầm có ý cướp ngôi thế tử cho Cán. Khải không được yên tâm. Lúc Sâm có bệnh, nhiều lần Khải đến cửa tẩm thất để vào chầu thăm hỏi, thường bị quân giữ cửa ngăn cản, không được vào.

Ngoài phủ đường có lời phao đồn là Sâm bị bệnh nặng. Khải bàn mưu với gia thần là Đàm Xuân Thụ và bọn đầy tớ nhỏ là Thế và Thẩm (hai người đều sót họ) rằng: "Vương thượng mắc mệnh mà ta không được vào chầu, nếu xảy ra biến cố như việc tên Cao, tên Tư đã làm ngày trước1, thì toan tính thế nào?". Bọn Xuân Thụ xin bí mật chứa sẵn binh khí, chiêu mộ dũng sĩ, nếu một ngày kia trong phủ đường có sự không lành, thì đóng cửa thành lại, giết Đình Bảo, bắt giam Đặng Thị, rồi phi báo cho quan hai trấn, đem quân vào hộ vệ, thì ngôi chúa có thể vững vàng được. Khải cho lời bàn ấy là đúng, bèn vay ngầm của nội thị Chu Xuân Hán 1.000 lạng bạc, để nuôi dũng sĩ và sắm khí giới. Nguyễn Lệ trấn thủ Sơn Tây, từng giữ chức tư giảng cho Khải, Nguyễn Khắc Tuân trấn thủ Kinh Bắc, là con nuôi Nguyễn Phương Đĩnh, cùng Khải vốn có tình thân mật, nay đều cho mật báo, để họ sẵn sàng dự bị.

Ngô [Thì] Nhậm, đốc đồng Kinh Bắc, trước kia, giữ việc hàng ngày giảng nghĩa sách cho Khải, rất được Khải thân yêu kính trọng. Hà Như Sơn, một tên đầy tớ nhỏ, là học trò [Thì] Nhậm, hiện làm người giữ sách cho Khải. Như Sơn biết được việc này, đem nói với Nhậm, Nguyễn Huy Bá, cấp sự trung là người giảo hoạt thâm hiểm, vì tội tham tang, bị bãi chức. Bá cho con dâu vào làm thị tỳ hầu hạ Đặng Thị, lại sai người thân tín cầu cạnh làm hầu hạ Nguyễn Khắc Tuân, nên dò biết việc này, bèn vào phủ tố cáo với Đặng Thị. [Thì] Nhậm định tự mình phụ hoạ với Đặng Thị, bèn cùng Huy Bá hợp mưu cáo tố là Khải lén lút cấu kết với hai viên trấn thủ, mưu toan làm việc trái phép. Sâm giận lắm, cho triệu Đình Bảo vào phủ bảo về việc này, ý

PL261

Sâm muốn phê phó giao xuống để trị tội ngay. Đình Bảo can rằng: "Khải dám làm việc to lớn này, chính do viên quan hai trấn ở Tây và Bắc chủ mưu, nay họ đều cầm quân ở ngoài nếu trị tội một cách vội vàng, e sẽ xảy ra biến cố khác. Vậy chi bằng trước hết triệu hai viên trấn thủ ấy về triều, rồi sau sẽ dần dà phát giác sự trạng để trị tội". Sâm nhận là phải, bèn hạ lệnh triệu Nguyễn Lệ trấn thủ Sơn Tây. Khi Lệ về đến nơi, Sâm yên ủi có phần hơn trước. Cách mấy hôm sau, mật bắt được bè đảng của Lệ; nhân đấy lại cho triệu Nguyễn Khắc Tuân, trấn thủ Kinh Bắc. Khi Tuân đã về, bắt giam lại cùng với Nguyễn Lệ và Nguyễn Phương Đĩnh, rồi sai Ngô [Thì] Nhậm cùng với hoạn quan là Phạm Huy Thức tham dự việc tra hỏi. Gặp lúc ấy, [Thì] Nhậm vì cha mất, từ chức về, nên đổi sai Lê Quý Đôn tra hỏi lại, bọn Xuân Thụ, Thế và Thẩm nhận hết tội lỗi. Sâm bèn truất Khải xuống làm con út (quý tử), giam ở nội phủ. Bọn Xuân Thụ đều bị giết. Nguyễn Lệ và Nguyễn Khắc Tuân bị giam vào ngục. Phương Đĩnh vì nuôi dưỡng Trịnh Khải không thành công trạng gì, nên bị lột hết chức tước đuổi về làng. Khắc Tuân và Chu Xuân Hán đều uống thuốc độc chết. Trịnh Khải đã bị phế, ở ngôi nhà ba gian, ăn uống ra vào không được tự do, người ta đều lo ngại cho Khải, nhưng không người nào dám nói. Lúc ấy có viên tri châu cũ là Lê Vĩ, dâng thư biện bạch cho Khải là bị tội oan, nhưng không được Trịnh Sâm xét đến. Trước kia, Ngô [Thì] Nhậm sắp phát giác tội của Khải, đem việc ấy bàn với cha Ngô [Thì] Sĩ, Sĩ cố sức can ngăn, đến nổi phải đem cái chết để thề bồi với con, nhưng chung quy Nhậm vẫn không theo. Kịp khi nghe tin Nhậm đã phát giác việc ấy, Sĩ buồn bực, bèn uống thuốc độc tự tử. Về phần Nhậm, vì có công phát giác, được thăng hữu thị lang bộ Công. Lúc ấy người ta có công rằng: "Sát tứ phụ nhi nhị lang", nghĩa là giết 4 người cha để mà làm thị lang. Câu ấy là có ý khinh bỉ Thì Nhậm đó.

Lời chua: Ngô [Thì] Nhậm: người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, là con Ngô [Thì] Sĩ, đỗ tiến sĩ khoa Ất Mùi (1775) năm Cảnh Hưng. Sau thờ nhà Tây Sơn, làm quan thượng thư bộ Binh; đến năm Gia Long thứ nhất, bị đánh bằng trượng cho đến chết”. (Quyển XLV, tr.591).

Trong chính sử không thấy chép chuyện thông gian của Đặng Thị Huệ và Quận

Huy như trong giai thoại, chỉ ghi vắn tắt như sau:

“Cán tuy được lập làm chúa, nhưng lòng người không ủng hộ, lại vì Đình Bảo bè đảng phụ họa với Đặng Thị, nên ai cũng ghét. Họ quần tụ ở đầu đường xó chợ bàn tán: có người nói Đình Bảo mưu toan làm việc trái phép; có người nói tân vương bị bệnh nặng, Đình Bảo tư thông với Đặng Thị, lập mưu để giết quý tử. Lời ngoa truyền phao đi khắp nọi nơi, không sao ngăn cấm được. Dự Vũ, bầy tôi của Khải, lẻn vào chỗ các quân sĩ uống rượu, nói vụng với quân sĩ rằng: "Thế tử của tiên vương không tội trạng gì, chỉ vì Đặng Thị là người đàn bà ác nghiệt, làm mê hoặc tiên vương để cướp ngôi cho con; Đình Bảo vốn có chí làm phản, hắn lợi dụng tân vương còn thơ ấu để áp chế, nên phụ hoạ với Đặng Thị để thành cái kế cướp ngôi. Nay tân vương bị bệnh nguy kịch, tất nhiên xảy ra họa loạn. Các quân sĩ đều là người cũ ở nơi thang mộc, làm nanh vuốt của nước, vốn giữ lòng trung nghĩa, nếu một bụng tôn phò, yên định được nhà chúa, thì tên tuổi sẽ chép trong thư đỏ, khoán sắt8, công ấycòn gì lớn

PL262

hơn?". Quân sĩ đều tức bực cảm khích, họ ước hẹn nhau hội hợp riêng ở chùa Khán Sơn, bí mật mưu tính thi hành công việc, nhưng chỉ ngại về uy quyền thế lực của Đình Bảo, bàn tính chưa nghĩ ra mưu mẹo gì. Lúc ấy, trong chỗ các quân ngồi, có Nguyễn Bằng, quân lại trong đội Tiệp Bảo, một mình mạnh dạn nói: "Các quân sĩ nếu định một lòng làm việc này, thì chẳng qua cứ đợi xong lễ tế điện buổi sáng, trong phủ đường nổi hiệu ba hồi trống, chúng mình sấn đến lôi nó ra quật cho ngã xuống, thế là xong việc, có gì là khó khăn?". Mọi người đều mừng, bèn cử Nguyễn Bằng làm người đứng đầu, cùng nhau uống máu ăn thề, bàn tính không dự định nhật kỳ, chỉ hẹn nhau hễ nghe tiếng trống trong phủ đường, thì nhất tề khời sự.

Mưu mô bí mật đã định xong. Lúc ấy có viên ngoại lang Bùi Bật Trực biết chuyện, bèn đem việc này bảo cho Nguyễn Trọng Chiểu, là con Nguyễn Trọng Viêm biết, để Trọng Chiểu dự vào cuộc hợp, mà hắn tự đứng giới thiệu, để mong lập công. Nhân đấy, Bật Trực bảo các quân sĩ rằng: "Việc này quan hệ rất to, cần phải nhờ quốc cữu (tức Nguyễn Trọng Viêm, em Trịnh Thái Phi) tâu lên thái phi rõ. Vạn Nhất mà Đình Bảo biết chuyện, thì cứ nói là có mệnh lệnh bí mật của thái phi, rồi cử sự một cách minh bạch, như thế là hơn". Quân sĩ theo lời, bọ bèn sai Bật Trực đem việc này đến nói kính với Trọng Viêm, Trọng Viêm lại đem nói với Nguyễn Hoàn. Hoàn muốn theo như việc cũ của Trịnh Doanh, xin hạ lệnh cho Khải tạm giữ chính quyền, để yên lòng quân sĩ. Trọng Viêm vào tâu thái phi Nguyễn Thị, thái phi sai người nói với Đình Bảo. Đình Bảo nói: "Tiên vương có hai người con, nếu tân vương vì bệnh không khỏi, thì ngôi báu tự nhiên thuộc quyền quý tử. Còn như việc cho quý tử tạm giữ chính quyền tức là đi dần đến chỗ cướp ngôi đấy. Tôi vâng nhận lời phó thác của tiên vương trối lại, việc ấy tôi không dám vâng theo mệnh lệnh". Trọng Viêm e rằng việc này mà tiết lộ, mình sẽ bị vạ lây, bàn mưu với Nguyễn Hoàn. Nguyễn Hoàn nói: "Việc đã như thế, để mặc các quân sĩ muốn làm thế nào thì làm". Trong kinh thành huyên truyền ầm lên rằng: "Tất nhiên quân sĩ gây ra sự biến loạn". Duy Đình Bảo vẫn yên nhiên, không biết gì cả.

Sáng ngày 24 tháng ấy, Nguyễn Bằng đi tắt lên trên lầu phủ đường, đánh trống, các quân sĩ họp tập đông đủ, tuốt trần mủi gươm, ồ ạt xông tràn vào. Đình Bảo tay cầm kiếm, ngồi trên lưng voi, ngăn giữ cửa phủ để đánh chặn lại, quân sĩ tranh nhau dùng gạch đá ném chết, em Đình Bảo là Vũ Khanh hầu Hoàn Lương cũng bị loạn quân giết. Quân sĩ bèn đem nhau đến sở giam, phò Trịnh Khải ra ngồi phủ đường, rồi lấy chỉ dụ của Nguyễn Thái Phi tâu xin mệnh lệnh nhà vua lập Khải làm nguyên soái Đoan Nam Vương, truất Cán làm Cung quốc công. Sau đó, Cán bị bệnh chết.

Quân sĩ hoành hành cướp bóc, phàm tộc thuộc hai nhà họ Đặng, họ Hoàng và những nhà trước kia phát giác việc Trịnh Khải, họ cướp phá hầu hết. Kinh thành rối loạn, mấy hôm sau mới được yên ổn. Quân sĩ cậy công cứ đòi ban thưởng mãi, bèn bàn định phong Nguyễn Bằng làm suy trung dực vận công thần phong cho tước hầu; 30 người nhóm cuộc hội bàn đầu tiên là bọn quân lại Nguyễn Trù được đặc biệt thăng thưởng; còn các quân thủy, quân bộ trong kinh ngoài trấn đều được thăng chức một bậc, và đều được ban thưởng tiền bạc có người nhiều người ít khác nhau. Lại rộng cấp cho mỗi người một đạo "không đầu sắc", cho phép họ được nhường cho

PL263

thân thuộc, để tỏ ra việc đền công một cách phi thường. Từ đấy, kiêu binh ngày càng càn rỡ, viên quan cai quản không thể nào thống trị khống chế được, chỉ ràng buộc lỏng lẻo mà thôi.

Lời phê: Cuối đời Lê Trịnh, cái tệ kiêu binh lại hơn đời Ngũ Đại, sở dĩ đến như thế đều là do danh nghĩa chức phận không rõ ràng. Thế mới biết xây dựng một nước mà không dùng lễ nghĩa” (Quyển XLV, tr.955).

Cái chết của Huệ cũng không giống như trong giai thoại (chết trước bàn thờ

chồng là Trịnh Sâm trong ngày giỗ) mà được mô tả như sau:

“Tháng 12. Quận công Trịnh Kiều, tham tụng Phan Lê Phiên và tri Lại

phiên Nhữ Công Điền đều bị bãi chức.

Trước kia, Trịnh Sâm bị bệnh nặng, cho con là Cán nối ngôi, sai bọn Phan Lê Phiên viết thư cố mệnh của Trịnh Sâm và chế sách về Tuyên Phi Đặng Thị. Khi thư cố mệnh đã viết xong, Sâm không thể phê chữ ["Cán"] vào thư được nữa, sai Trịnh Kiều viết thay. Đến nay, Trịnh Khải đưa thư cố mệnh ấy ra, trong thư có chữ thái phi Nguyễn Thị phê rằng: "Không phải chữ chính tay tiên vương viết, không lấy gì làm bằng cứ, giao xuống cho chính phủ bàn luận". Thiêm sai Phạm Nguyễn Du làm lời luận "quốc thị" đại lược nói: "Việc lập Điện đô vương và hạ lệnh cho Tuyên Phi cùng xét đoán việc nước, đều là lời trối trăn lầm lẫn trong lúc Thịnh vương sắp mất, không thể coi là chính đáng được. Nay thái phi lấy địa vị người mẹ thay đỗi việc làm của con, rất hợp sự lý đúng đắn. Xin truy xét tội bầy tôi phụ họa, làm sáng tỏ nghiêm chỉnh điển hình trong nước". Vì thế, bọn Trịnh Kiều đều can tội thiên tiện ra mệnh lệnh, bị bãi chức. Lại truất Đặng Thị làm thứ nhân, sau Đặng Thị uống thuốc chết” (Quyển XLVI, tr.957).