BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
HOÀNG XUÂN HIỆP
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VỐN NHÂN LỰC CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP MAY VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ
HÀ NỘI - 2013
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
HOÀNG XUÂN HIỆP
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VỐN NHÂN LỰC CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP MAY VIỆT NAM
Chuyên ngành : Quản trị kinh doanh
Mã số : 62.34.01.02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
1. PGS TS TRƯƠNG ĐOÀN THỂ
HÀ NỘI - 2013
MỤC LỤC Trang
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ
PHẦN MỞ ĐẦU 1
9 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN NHÂN LỰC VÀ CHẤT LƯỢNG
VỐN NHÂN LỰC CỦA DOANH NGHIỆP MAY
9 1.1- Khái niệm về vốn nhân lực
1.1.1 Quan niệm nhân lực là tài sản của doanh nghiệp 9
1.1.2 Khái niệm về vốn nhân lực 10
17
1.1.3 Các thước đo vốn nhân lực
1.1.4 Mối quan hệ giữa vốn nhân lực của cá nhân và vốn nhân lực của doanh 22
nghiệp
1.1.5 Sự khác nhau giữa nguồn nhân lực và vốn nhân lực 23
1.1.6 Sự khác nhau giữa vốn nhân lực và vốn vật chất 24
25 1.2 Các mô hình định lượng vốn nhân lực
1.2.1 Mô hình đi học ở nhà trường 26
1.2.2 Mô hình vốn nhân lực có tính đến đào tạo trong công việc của Mincer 34
43 1.3 Quá trình tạo vốn nhân lực
1.3.1 Tạo vốn nhân lực qua đào tạo chính quy và không chính quy 43
1.3.2 Tạo vốn nhân lực thông qua xác lập một thị trường kiến thức 45
1.3.3 Các chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực 50
52 1.4 Chất lượng vốn nhân lực và các tiêu chí đánh giá
1.4.1 Quan niệm về chất lượng vốn nhân lực 52
1.4.2 Đặc tính vốn nhân lực của các doanh nghiệp 54
1.4.3 Các tiêu chí đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may 55
1.4.4 Nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp may 66
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 72
73
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG VỐN NHÂN LỰC VÀ CHẤT LƯỢNG VỐN
NHÂN LỰC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP MAY
73 2.1 Tổng quan ngành công nghiệp may Việt Nam
77 2.2 Thực trạng quá trình tạo vốn nhân lực cho các doanh nghiệp may
2.2.1 Đánh giá hệ thống các cơ sở đào tạo nhân lực cho các doanh nghiệp may 77
2.2.2 Công tác đào tạo cán bộ quản lý cho doanh nghiệp may 80
2.2.3 Công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật cho doanh nghiệp may 83
2.2.4 Công tác đào tạo công nhân kỹ thuật cho doanh nghiệp may 87
90
2.2.5 Quá trình tạo vốn nhân lực của công nhân kỹ thuật may thông qua tổ
chức hoạt động nhóm
92
2.2.6 Quá trình tạo vốn nhân lực của các doanh nghiệp may thông qua việc xác
lập một thị trường kiến thức
94
2.3 Thực trạng vốn nhân lực và chất lượng vốn nhân lực của các doanh
nghiệp May Việt Nam
94
2.3.1 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực bằng tiêu chí đầu tư tài chính cho giáo
dục
96
2.3.2 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may bằng tiêu
chí số năm đi học
108
2.3.3 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may bằng tiêu
chí số năm kinh nghiệm
110
2.3.4 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may bằng tiêu
chí thu nhập bình quân
114
2.3.5 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may bằng tiêu
chí tốc độ tăng thu nhập
117
2.3.6 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may bằng tiêu
chí năng suất lao động
123
2.3.7 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may bằng tiêu
chí tỷ lệ biến động lao động
129 2.4 Chất lượng vốn nhân lực của Tổng công ty may 10 – công ty cổ phần
129 2.4.1 Một số đặc điểm của Tổng công ty may 10 – công ty cổ phần
2.4.2 Công tác tạo vốn nhân lực của Tổng công ty may 10 130
2.4.3 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực của Tổng công ty may 10 133
139 2.5 Đánh giá chung về chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 144
145 CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VỐN
NHÂN LỰC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP MAY
145
3.1 Quan điểm nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may Việt Nam
154
3.2 Một số giải pháp nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh
nghiệp may Việt Nam
154 3.2.1 Nhóm giải pháp hoàn thiện công tác tạo vốn nhân lực nhằm nâng cao
chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp May
166
3.2.2 Xác lập chiến lược đầu tư tối ưu vào vốn nhân lực để nâng cao năng suất
lao động và chuyển đổi dần từ phương thức sản xuất gia công sang phương
thức sản xuất mua nguyên liệu, bán thành phẩm nhằm nâng cao chất lượng vốn
nhân lực của các doanh nghiệp may
170
3.2.3 Giải pháp nâng cấp dữ liệu thành vốn thông tin để mở rộng quy mô của
vốn nhân lực nhằm nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may
173
3.2.4 Giải quyết hài hoà mối quan hệ lao động trong các doanh nghiệp May
nhằm giảm thiểu biến động lao động, nâng cao năng suất lao động để nâng cao
chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may
177 3.2.5 Đổi mới tổ chức sản xuất nhằm nâng cao chất lượng vốn nhân lực của
các doanh nghiệp may
183
3.3 Một số khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may Việt Nam
3.3.1 Khuyến nghị đối với Nhà nước 183
3.3.2 Khuyến nghị đối với Hiệp hội Dệt May Việt Nam 185
3.3.3 Khuyến nghị đối với Tập đoàn Dệt May Việt Nam 186
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 190
KẾT LUẬN 191
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 193
TÀI LIỆU THAM KHẢO 194
Phụ lục 1 : Dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu chất lượng vốn nhân lực 202
206 Phụ lục 2 : Tổng hợp kết quả khảo sát nguồn nhân lực của Tập đoàn Dệt May
Việt Nam năm 2009
Phụ lục 3 : Phiếu khảo sát vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam 208
Phụ lục 4 : Danh sách doanh nghiệp gửi phiếu điều tra 215
Phụ lục 5 : Các câu hỏi định hướng phỏng vấn chuyên gia 217
Phụ lục 6 : Danh sách các chuyên gia trả lời phỏng vấn 220
222 Phụ lục 7 : Thu nhập bình quân của lao động trong các doanh nghiệp may và
công nghiệp giai đoạn 2000 - 2011
229
Phụ lục 8 : Năng suất lao động bình quân trong các doanh nghiệp may và công
nghiệp giai đoạn 2000 - 2011
LỜI CẢM ƠN
Qua quá trình học tập, nghiên cứu, được sự giúp đỡ tận tình của các thầy, các
cô, các nhà khoa học, các nhà quản lý em đã hoàn thành chương trình học tập và
nghiên cứu hoàn chỉnh luận án với đề tài ”Nâng cao chất lượng vốn nhân lực của
các doanh nghiệp May Việt Nam”
Em xin chân thành cảm ơn Phó Giáo sư Tiến sỹ Trương Đoàn Thể. Thầy đã
hướng dẫn, giúp đỡ tận tình, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình
nghiên cứu luận án. Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Quản
trị kinh doanh đã tận tình giúp đỡ em, cho em những lời khuyên quý giá trong quá
trình nghiên cứu hoàn chỉnh luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cán bộ của Tổng cục thống kê, Hiệp hội Dệt
May Việt Nam, Tập đoàn Dệt May Việt Nam, hơn 100 doanh nghiệp May và các
cán bộ của Trường Cao đẳng Công nghiệp – Dệt May Thời trang Hà Nội đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ và cho tôi những ý kiến bổ ích trong suốt quá trình nghiên cứu
đề tài.
Với tấm lòng biết ơn của một học viên, em xin trân trọng cảm ơn Trường Đại
học Kinh tế Quốc dân, Khoa Quản trị kinh doanh, Viện sau đại học đã tạo mọi điều
kiện cho em trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Em sẽ vận dụng những kết quả đạt được trong nghiên cứu luận án này vào
thực tế quá trình công tác, góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp
phát triển ngành công nghiệp may nói riêng và đất nước nói chung.
Một lần nữa em xin trân trọng cảm ơn.
Nghiên cứu sinh
Hoàng Xuân Hiệp
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án ” Nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp May Việt Nam” là công trình nghiên cứu độc lập của tôi dưới sự
hướng dẫn của Phó Giáo sư Tiến sĩ Trương Đoàn Thể. Các số liệu, kết quả trong
luận án là trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ một công trình nào.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này!
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Compact Disk CD
Cao đẳng CĐ
Công nhân kỹ thuật CNKT
Develop a Curriculum DACUM
Đại học ĐH
Free On Board FOB
Gross Domestic Product GDP
Human development index HDI
Original Design Manufacturer ODM
On the Job Training OJT
Return On Investment ROI
Trung cấp TC
Trung học phổ thông THPT
Trung học cơ sở THCS
Tổng công ty may 10 Tổng công ty may 10 – công ty cổ phần
United State Dollar USD
Vốn nhân lực VNL
World Trade Organization WTO
DANH MỤC CÁC BẢNG
TT Tên bảng
Bảng 1.1 So sánh nguồn nhân lực và vốn nhân lực Trang
23
Bảng 1.2 So sánh vốn nhân lực và vốn vật chất 25
Bảng 1.3 Các đặc điểm của học tập chính quy và không chính quy 44
Bảng 2.1 Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may giai đoạn 2000 – 2011 73
Bảng 2.2 Tổng số lao động ngành may – công nghiệp giai đoạn 2000-2011 73
Bảng 2.3 Tổng số doanh nghiệp ngành may – công nghiệp giai đoạn 2000 – 2010 74
Bảng 2.4 Số doanh nghiệp may năm 2010 phân theo quy mô lao động 75
Bảng 2.5 Các chỉ tiêu chủ yếu trong Chiến lược phát triển ngành Dệt May Việt Nam 75 đến năm 2015, định hướng đến năm 2020
Bảng 2.6 Nhu cầu đào tạo mới lao động dệt may giai đoạn 2011 - 2020 76
Bảng 2.7 Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho lao động dệt may giai 76 đoạn 2011 - 2020
Bảng 2.8 Số lượng học sinh, sinh viên được đào tạo trong giai đoạn 2002-2007 78
Bảng 2.9 Kết quả dự thi đại học của các thí sinh giai đoạn 2007 - 2011 79
Bảng 2.10 Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng của các doanh nghiệp Dệt May giai đoạn 94 2009 – 2010
Bảng 2.11 Trình độ văn hoá của lao động trong các doanh nghiệp may giai đoạn 96 2005 - 2010
Bảng 2.12 Tổng vốn nhân lực phổ cập và vốn nhân lực phổ cập bình quân tính theo 97 số năm đi học phổ thông của doanh nghiệp may giai đoạn 2005 – 2008
Bảng 2.13 Phân bố phần trăm lực lượng lao động theo trình độ học vấn cao nhất đạt 98 được năm 2008
Bảng 2.14 Phân bố lực lượng lao động theo trình độ học vấn cao nhất đạt được năm 99 2008
Bảng 2.15 Số lao động ngành may giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ chuyên 100 môn kỹ thuật
Bảng 2.16 Vốn nhân lực chuyên môn của các doanh nghiệp may giai đoạn 2000 – 102 2011
Bảng 2.17 Số lao động ngành công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ 103 chuyên môn kỹ thuật
Bảng 2.18 Vốn nhân lực chuyên môn của các doanh nghiệp công nghiệp giai đoạn 104 2000 – 2011
TT Tên bảng
Trang
105
108 Bảng 2.19 Chất lượng vốn nhân lực chuyên môn của các doanh nghiệp may
Bảng 2.20 Công nhân kỹ thuật làm việc trong doanh nghiệp dệt may chia theo số năm kinh nghiệm
Bảng 2.21 Cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật chia theo số năm kinh nghiệm
Bảng 2.22 Thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các doanh 109
111 nghiệp may giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ
111
112
Bảng 2.23 Chỉ số giá tiêu dùng giai đoạn 2000 - 2011
Bảng 2.24 Thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các doanh
nghiệp công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ
Bảng 2.25 So sánh thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các 113 doanh nghiệp may và doanh nghiệp công nghiệp
Bảng 2.26 Tốc độ tăng thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các 115 doanh nghiệp may và doanh nghiệp công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011
118
Bảng 2.27 Năng suất lao động bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ
Bảng 2.28 Năng suất lao động bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các 119 doanh nghiệp công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ
Bảng 2.29 Chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may giai đoạn 2000 – 119 2011
Bảng 2.30 Trình độ tay nghề của đội ngũ công nhân kỹ thuật dệt may năm 2010
Bảng 2.31 Biến động lao động của Tập đoàn Dệt May Việt Nam giai đoạn 2000- 121
124 2007
Bảng 2.32 Tỷ lệ biến động lao động trong các doanh nghiệp May được khảo sát giai 124 đoạn 2008 - 2010
Bảng 2.33 Tỷ trọng vốn nhân lực chuyên môn của các doanh nghiệp may và công 125 nghiệp giai đoạn 2005 – 2008
Bảng 2.34 Số lượng tuyển sinh của Trường Cao đẳng nghề Long Biên giai đoạn 131 2009 - 2010
Bảng 2.35 Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng của Tổng công ty may 10 giai đoạn 2009 – 133 2010
Bảng 2.36 Trình độ văn hoá của người lao động trong Tổng công ty may 10 vào năm 134 2010
135 Bảng 2.37 Số năm đi học chuyên môn kỹ thuật của người lao động trong Tổng công ty may 10 vào năm 2010
Bảng 2.38 Người lao động làm việc trong Tổng công ty may 10 vào năm 2010 chia 136 theo số năm kinh nghiệm
TT Tên bảng
Bảng 2.39 Trình độ văn hoá và trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động Trang
138 trong các doanh nghiệp may được khảo sát năm 2010
Bảng 2.40 Tỷ lệ biến động lao động của Tổng công ty may 10 giai đoạn 2008 - 2010 139
Bảng 3.1 Mục tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2008 – 2020 145
Bảng 3.2 Mục tiêu phát triển sản phẩm may giai đoạn 2008 – 2020 146
Bảng 3.3 Nhu cầu lao động công nghiệp ngành dệt may giai đoạn 2010-2020 150
Bảng 3.4 Bảng phân tích nghề may tại doanh nghiệp 163
Bảng 3.5 Bảng phân tích công việc nghề may 164
Bảng 3.6 Bảng phân tích nghề may Công nghiệp 171
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
TT Tên hình vẽ
Hình 1.1 Dòng thu nhập của những người tốt nghiệp trung học phổ thông Trang
27
Hình 1.2 Quỹ tích của tiền lương theo số năm đi học 28
Hình 1.3 Ra quyết định đi học 30
Hình 1.4 Thu nhập theo số năm đi học của những người lao động có tỷ lệ 31
chiết khấu khác nhau
Hình 1.5 Đường quỹ tích tiền lương theo số năm đi học của những người 32
lao động có khả năng khác nhau
Hình 1.6 Số năm đi học và thu nhập của những người lao động có khả 33
năng khác nhau
Hình 1.7 Sự thu nhận vốn nhân lực trong cả cuộc đời. 40
Hình 1.8 Diễn biến thu nhập theo tuổi theo lý thuyết vốn nhân lực 42
48 Hình 1.9 Mô hình nâng cấp dữ liệu thành vốn thông tin
Hình 2.1 Tốc độ tăng năng suất lao động và tốc độ tăng vốn nhân lực 120
chuyên môn bình quân của các doanh nghiệp may giai đoạn
2001 – 2011
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Các nguồn lực dùng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm lao
động, thiết bị, nguyên liệu, đất đai và các tài nguyên khác, trong đó nguồn lực lao
động có vai trò quyết định sự phát triển. Vốn nhân lực (Human Capital) thuộc
nguồn lực lao động và là bộ phận cốt lõi của các nguồn lực này.
Hiện nay, các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang từng
bước chuyển dần sang nền kinh tế tri thức, một nền kinh tế dựa chủ yếu vào trí tuệ
của con người để phát triển. Trong nền kinh tế mới này, nguồn lực quý nhất chính là
tài sản trí tuệ, là tri thức của con người trong doanh nghiệp. Để thúc đẩy doanh
nghiệp phát triển bền vững trong nền kinh tế tri thức thì vốn nhân lực đóng vai trò
quyết định, vì vậy cần có những nghiên cứu để có thể tạo ra được vốn nhân lực có
chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong giai
đoạn tới.
Đối với các doanh nghiệp May Việt Nam, giai đoạn vừa qua là một trong
những giai đoạn mà ngành may có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu mạnh, tuy nhiên
theo nhiều số liệu nghiên cứu và thống kê của các Bộ ngành thì mặc dù các trang
thiết bị, công nghệ được đầu tư cho ngành may tương đối hiện đại so với các nước
trong khu vực nhưng năng suất lao động của ngành may nước ta vẫn thấp hơn đáng
kể, chưa tạo được thương hiệu riêng cho các sản phẩm xuất khẩu vì vậy “hàm lượng
trí tuệ” do các doanh nghiệp may tạo ra kết tinh trong sản phẩm thấp. Đây chính là
lý do giải thích vì sao ngành may nước ta hiện nay tạo ra ít giá trị gia tăng, lợi
nhuận không cao và thường xuyên phải làm thêm giờ do không chủ động được
nguồn hàng. Có nguyên nhân trên là do:
- Thứ nhất : mặc dù ngành công nghiệp may đã được trang bị nhiều thiết bị
hiện đại nhưng do đặc điểm sản xuất của ngành mà các máy móc thiết bị này không
thể thay thế được hoàn toàn khả năng lao động của con người. Có thể nói rằng
ngành công nghiệp may tiến hành sản xuất chủ yếu theo phương thức bán thủ công
nên kỹ năng, mức độ đào tạo, trình độ giáo dục, kinh nghiệm của người lao động có
vai trò rất lớn trong việc tạo ra năng suất lao động cao. Nói một cách khác, chất
2
lượng vốn nhân lực trong ngành may có ảnh hưởng rất lớn tới năng suất lao động
của ngành, nếu chất lượng vốn nhân lực không phù hợp thì không thể nâng cao
năng suất lao động trong doanh nghiệp may.
- Thứ hai: Chất lượng vốn nhân lực có ảnh hưởng rất lớn tới những tư duy
sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đối với ngành công nghiệp may vì
ngành may muốn tồn tại thì cần phải sản xuất ra những sản phẩm có tính thẩm mỹ
cao, hợp thời trang. Có thể nói rằng chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may hiện nay còn rất thấp nên giá trị gia tăng tạo ra trong các sản phẩm may cũng
không thể tăng cao như mong muốn của nhà quản lý.
Vấn đề vốn nhân lực và chất lượng vốn nhân lực đã được đề cập trong một
số nghiên cứu trên thế giới, nhất là từ những năm 1960 trở lại đây nhưng vấn đề này
là một vấn đề mới và hầu như chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống ở Việt
Nam. Theo Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2015, định
hướng đến 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 10/03/2008 thì một
trong những định hướng quan trọng là “Tập trung phát triển và nâng cao khả năng
cạnh tranh cho ngành may xuất khẩu để tận dụng cơ hội thị trường”. Để làm được
điều này thì cần phải nghiên cứu để giải quyết những vấn đề cấp bách về vốn nhân
lực cũng như chất lượng vốn nhân lực của ngành may như đã nói ở trên và đây
chính là mục tiêu của đề tài “Nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh
nghiệp may Việt Nam”.
2- Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở cấp độ doanh nghiệp, vốn nhân lực từ lâu đã được thừa nhận là một nhân
tố quan trọng đối với năng suất của cá nhân [88]. Gần đây, ngày càng có nhiều
người cho rằng vốn nhân lực ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của doanh nghiệp,
[36],[51], [60], [85]. Ngay tại Việt Nam, trong nghiên cứu “Phát triển nguồn vốn
nhân lực - chiến lược tối ưu của nhà lãnh đạo” vào năm 2009, tác giả Đinh Việt Hoà
cũng đề cập đến vấn đề này [18].
Trong tác phẩm “Đầu tư vào vốn nhân lực : một sự phân tích lý thuyết”,
Becker (1962) đã đề cập đến trong tư tưởng về vốn nhân lực của mình các hoạt
động như giáo dục chính quy, đào tạo ngoài công việc (tạo ra vốn nhân lực phổ
3
cập) và đào tạo trong công việc (tạo ra vốn nhân lực chuyên môn) [59]. Theo tác giả
này cũng như đa số các nhà nghiên cứu chấp nhận khung lý thuyết về vốn nhân lực,
thì giáo dục là thành phần quan trọng nhất của vốn nhân lực. Những người sáng tạo
ra lý thuyết về vốn nhân lực đã phân tích chi phí giáo dục như là một dạng đầu tư
trong khi những người tiếp sau họ như Borjas (1996) trong tác phẩm “Kinh tế học
lao động” đã phát triển lý thuyết về tích luỹ vốn nhân lực và tỷ lệ hoàn vốn đầu tư
trong giáo dục và đào tạo[58].
Ngoài việc đề cập đến những quan niệm về vốn nhân lực, có nhiều nghiên
cứu đã cố gắng tìm ra những thước đo để đo lường vốn nhân lực. Ngay tại Việt
Nam cũng có các tác phẩm nghiên cứu về vấn đề này, đó là tác phẩm “ Vốn nhân
lực của người nghèo ở Việt Nam, tình hình và các lựa chọn về chính sách” của Indu
Bhushan và các cộng sự xuất bản năm 2001 hay tác phẩm “Tác động của vốn con
người đối với tăng trưởng kinh tế các tỉnh, thành phố Việt Nam” của tác giả Trần
Thọ Đạt, Đỗ Tuyết Nhung được xuất bản vào năm 2008 [1], [17]. Đa số các nghiên
cứu ở trên đều chấp nhận lấy số năm đi học và đầu tư cho giáo dục là thước đo vốn
nhân lực [1], [17], [58], [60], [88]. Tuy nhiên có thể thấy rằng với cùng 10 năm đi
học nhưng nếu được học ở Mỹ thì chất lượng vốn nhân lực tạo ra sẽ cao hơn 10
năm đi học ở các nước nghèo như Châu phi vì vậy nếu chỉ dùng thước đo vốn nhân
lực là số năm đi học thì chưa phản ánh được hết ý nghĩa của vốn nhân lực. Mặt khác,
với cùng một lượng tài chính cho giáo dục như nhau nhưng tác động tới vốn nhân
lực cũng khác nhau phụ thuộc vào hiệu quả việc sử dụng nguồn đầu tư, vấn đề này
cũng đang được bỏ ngỏ, chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo.
Có rất ít nghiên cứu trước đây xét đến chất lượng vốn nhân lực. Trong tác
phẩm “Vốn nhân lực và sự giàu có của các quốc gia”, Manuelli và Sehadri (2007)
coi độ dài của những năm đi học là số lượng vốn nhân lực, tổng vốn nhân lực cho
một năm đi học tại trường và đào tạo sau khi ra trường là chất lượng của vốn nhân
lực trong khi các nhà kinh tế học của Ba lan lại sử dụng chênh lệch tiền lương làm
thước đo để so sánh chất lượng vốn nhân lực giữa Mỹ và Ba lan [65], [80]. Vậy chất
lượng vốn nhân lực là gì ? có thể sử dụng những tiêu chí gì để đánh giá chất lượng
4
vốn nhân lực của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp may nói riêng? là
một trong những câu hỏi mà luận án phải trả lời.
Luận án này tập chung nghiên cứu vốn nhân lực của các doanh nghiệp may
Việt Nam vì vậy, ngoài những vấn đề chung về vốn nhân lực như đã nêu ở trên,
luận án còn phải giải quyết những vấn đề cụ thể của ngành may Việt Nam như sau :
Có một số nghiên cứu trước đây cho rằng vốn nhân lực là căn cứ cơ bản để
trả công cho người lao động, hay nói một cách khác là nếu chất lượng vốn nhân lực
cao thì sẽ được trả lương cao [36], [58]. Điều này cần phải được nghiên cứu để hiệu
chỉnh thêm đối với các doanh nghiệp may vì :
- Hiện nay các doanh nghiệp may chủ yếu là sản xuất hàng gia công, có một
số doanh nghiệp chỉ chuyên sản xuất một loại sản phẩm có độ phức tạp thấp (như
chuyên sản xuất áo dệt kim…), do yêu cầu về kỹ thuật may sản phẩm không cao
nên hầu hết lao động được tuyển vào làm việc cũng không cần có trình độ cao, tức
là vốn nhân lực thấp.
- Tuy vậy người lao động vẫn được trả lương cao nếu doanh nghiệp đó sản
xuất hàng FOB. Sở dĩ như vậy là do theo quy định chung của ngành may hiện nay,
đối với các doanh nghiệp nhà nước, tỷ lệ trả lương yêu cầu là 50 – 52% đơn giá
lương đối với sản phẩm gia công và 17% doanh thu đối với sản phẩm xuất khẩu
theo phương thức FOB. Chính vì vậy, tiền lương ở những doanh nghiệp làm hàng
FOB thường lớn hơn nhiều so với doanh nghiệp chỉ sản xuất hàng gia công, do đó
có thể thấy rằng mặc dù chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp thấp nhưng
người lao động vẫn có thể có mức lương cao do chiến lược kinh doanh của doanh
nghiệp tốt [53].
Chất lượng vốn nhân lực đối với một doanh nghiệp là phù hợp hay không
phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu vốn nhân lực. Vấn đề này hiện nay vẫn đang được
bỏ ngỏ, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể đối với ngành may. Không phải
đối với bất cứ doanh nghiệp may nào, việc cố gắng thu hút được vốn nhân lực có
chất lượng cao đã là giải pháp tối ưu đối với doanh nghiệp vì vốn nhân lực có chất
lượng cao thường có hiện tượng dễ di chuyển từ doanh nghiệp này sang doanh
nghiệp khác và như vậy sẽ làm cho chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp bị
5
biến động, ảnh hưởng xấu đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy
chất lượng vốn nhân lực ở mức độ nào là phù hợp với quy mô và đặc điểm sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp may là câu hỏi mà luận án sẽ phải tìm được câu trả lời
thoả đáng.
Quá trình tạo vốn nhân lực cho các doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới
chất lượng vốn nhân lực trong các doanh nghiệp. Mỗi ngành công nghiệp có đặc thù
sản xuất riêng, công nghệ riêng, thị trường riêng… do vậy quá trình tạo vốn nhân
lực cho các ngành khác nhau cũng có những đặc thù riêng vì thế nếu chỉ nghiên cứu
quá trình tạo vốn nhân lực chung cho tất cả các doanh nghiệp như các nghiên cứu
trước đây thì chắc chắn sẽ có nhiều hạn chế khi áp dụng để đánh giá quá trình tạo
vốn nhân lực cho một ngành cụ thể. Chính vì vậy cần thiết phải có những nghiên
cứu sâu hơn về quá trình tạo vốn nhân lực cho các doanh nghiệp may.
Đề tài ” Nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt
Nam” nghiên cứu những vấn đề còn chưa được giải quyết ở trên về vốn nhân lực và
chất lượng vốn nhân lực nhằm góp phần vào sự phát triển chung của các doanh
nghiệp may Việt Nam.
3- Mục tiêu nghiên cứu của luận án
- Làm rõ những khái niệm và lý luận về vốn nhân lực, chất lượng vốn nhân
lực và các tiêu chí đánh giá chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp may.
- Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may
Việt Nam, luận án làm rõ những ưu, nhược điểm của vốn nhân lực cũng như quá
trình tạo vốn nhân lực cho các doanh nghiệp may.
- Xây dựng các tiêu chí mới để đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may; tiến hành đánh giá chất lượng vốn nhân lực thực tế của các
doanh nghiệp may theo các tiêu chí thể hiện chất lượng vốn nhân lực.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh
nghiệp may.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may Việt Nam.
6
- Phạm vi nghiên cứu của luận án bao gồm :
+ Phạm vi về không gian : Nghiên cứu chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may Việt Nam trong phạm vi cả nước bao gồm các doanh nghiệp may
ở cả miền Bắc, miền Nam và miền Trung.
+ Phạm vi về thời gian : Phạm vi khảo sát số liệu sơ cấp cũng như thu thập
dữ liệu thứ cấp về các doanh nghiệp may Việt Nam và các doanh nghiệp công
nghiệp Việt Nam từ năm 2000 đến nay.
+ Phạm vi về nội dung : nghiên cứu những vấn đề liên quan trực tiếp đến vốn
nhân lực, chất lượng vốn nhân lực phục vụ cho mục tiêu nâng cao chất lượng vốn
nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam.
5- Phương pháp nghiên cứu
- Luận án sử dụng phương pháp luận chủ đạo là duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, là cơ sở chung cho mọi nhận thức trong quá trình nghiên cứu.
- Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp
điều tra, khảo sát trực tiếp tại khoảng 60 doanh nghiệp may ở 3 miền Bắc, Trung,
Nam để tìm hiểu và thu thập số liệu về thực trạng vốn nhân lực của các doanh
nghiệp may, đặc biệt là các số liệu về cơ cấu nguồn nhân lực, số năm đi học phổ
thông, số năm đi học chuyên môn kỹ thuật, số năm kinh nghiệm công tác, chi phí
của doanh nghiệp cho công tác đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực, biến động lao
động trong các doanh nghiệp.
- Luận án sử dụng nhiều phương pháp phân tích thống kê trong đó chú trọng
đến phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp để xử lý thông tin thu thập được bằng
bảng khảo sát được thiết kế và gửi đến các doanh nghiệp may trong cả nước nhằm
đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may bằng cách so sánh vốn
nhân lực của các doanh nghiệp may với vốn nhân lực của các doanh nghiệp công
nghiệp.
- Trong nghiên cứu còn thực hiện phỏng vấn các chuyên gia đầu ngành trong
lĩnh vực đào tạo và sử dụng đội ngũ nhân lực ngành may tại 60 đơn vị khảo sát trực
tiếp tại ba miền Bắc, Trung, Nam và một số chuyên gia tại Tập đoàn Dệt May Việt
Nam và Hiệp hội Dệt May Việt Nam để bổ sung thông tin cho quá trình đánh giá
7
chất lượng vốn nhân lực, nhất là những thông tin về các tiêu chí đánh giá chất lượng
vốn nhân lực của các doanh nghiệp may, các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng vốn
nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam.
- Ngoài ra, trong nghiên cứu còn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích
và tổng hợp số liệu của Tổng cục thống kê, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ công
thương, Hiệp hội dệt may Việt Nam, Tập đoàn Dệt May Việt Nam , và các cơ sở
đào tạo nhân lực cho ngành may ở trong và ngoài nước. Bộ số liệu thứ cấp khai thác
được giúp đánh giá tổng quát chất lượng vốn nhân lực của tổng thể các doanh
nghiệp may trong phạm vi cả nước.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận
+ Các nghiên cứu trước đây về chất lượng vốn nhân lực không xuất phát từ
nội hàm của chất lượng vốn nhân lực mà đi thẳng vào các thước đo nên tính hệ
thống không cao. Khắc phục nhược điểm này, luận án đã phát triển khái niệm về
chất lượng vốn nhân lực như sau để làm cơ sở nghiên cứu chất lượng vốn nhân lực:
chất lượng vốn nhân lực là mức độ mà một tập hợp các đặc tính của vốn nhân lực
tạo cho vốn nhân lực khả năng thoả mãn những nhu cầu được nêu ra hoặc tiềm ẩn.
+ Căn cứ vào 4 đặc tính thể hiện chất lượng vốn nhân lực và các đặc điểm
của vốn nhân lực trong ngành công nghiệp may Việt Nam, căn cứ vào các mô hình
vốn nhân lực và khái niệm chất lượng vốn nhân lực được phát triển ở trên, luận án
đề xuất 7 tiêu chí mới để đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may, đó là các tiêu chí : Đầu tư tài chính cho giáo dục, số năm đi học, số năm kinh
nghiệm, thu nhập bình quân, tốc độ tăng thu nhập, năng suất lao động và tỷ lệ biến
động lao động.
+ Dựa trên các nghiên cứu đặc thù về chất lượng vốn nhân lực của các doanh
nghiệp may Việt Nam, luận án xác định rõ 6 yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng vốn
nhân lực của các doanh nghiệp may là : đào tạo chính quy, quản trị doanh nghiệp,
nhu cầu vốn nhân lực của doanh nghiệp, nhân khẩu học, hoàn cảnh gia đình và
chính sách của Chính phủ.
8
.- Những phát hiện, đề xuất mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo
sát của luận án
+ Luận án đã đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may
Việt Nam theo 7 tiêu chí đề xuất ở trên và kết quả cho thấy chất lượng vốn nhân lực
của các doanh nghiệp may rất thấp.
+ Kết quả nghiên cứu cho thấy có 5 chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực của
các doanh nghiệp may, nhưng muốn nâng cao chất lượng vốn nhân lực, tối ưu nhất
là các doanh nghiệp may lớn nên sử dụng chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực khi
còn có lợi nhuận, các doanh nghiệp may vừa và nhỏ nên sử dụng chiến lược đầu tư
vào vốn nhân lực theo phương pháp benchmarking.
+ Luận án đề xuất sử dụng phương pháp nâng cấp dữ liệu từ bảng phân tích
nghề, phân tích công việc nghề may công nghiệp thành vốn thông tin để nâng cao
chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may. Qua nghiên cứu, luận án cũng
rút ra kết luận là cần tạo ra thị trường kiến thức trong các doanh nghiệp may để phổ
biến rộng rãi các sản phẩm kiến thức nhằm mở rộng quy mô ứng dụng kiến thức, kỹ
năng để nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
+ Để nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam
ngay trong quá trình tạo vốn, luận án đề xuất với Nhà nước nghiên cứu để xác định
rõ mô hình hoạt động của các trường công lập trong doanh nghiệp cổ phần hoá như
các trường thuộc Tập đoàn Dệt May Việt Nam; đề xuất Chính phủ cho phép thành
lập một trường đại học của ngành dệt may.
7. Nội dung của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được
kết cấu thành ba chương :
Chương 1: Cơ sở lý luận về vốn nhân lực và chất lượng vốn nhân lực của
doanh nghiệp may.
Chương 2 : Thực trạng vốn nhân lực và chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may.
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may
9
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN NHÂN LỰC VÀ CHẤT LƯỢNG
VỐN NHÂN LỰC CỦA DOANH NGHIỆP MAY
1.1- Khái niệm về vốn nhân lực
1.1.1 Quan niệm nhân lực là tài sản của doanh nghiệp
Người lao động là tài sản đã trở thành lối ẩn dụ hay được sử dụng trong quản
lý cuối thế kỷ 20, xét cho cùng, con người là cỗ máy chủ tạo ra sự thịnh vượng cho
hầu hết các tổ chức. Ở một mức độ nào đó, quan niệm này đại diện cho sự nâng cao
giá trị của người lao động, tạo cho người lao động một địa vị mà họ xứng đáng
được hưởng [85]. Có thể thấy rằng quan niệm nhân lực là tài sản đã có từ hơn 200
năm trước. Trong tác phẩm “Sự giàu có của các Quốc gia” xuất bản năm 1776,
Smith đã chỉ ra sự giống nhau giữa con người và thiết bị: “ Khi bất kỳ một máy móc
đắt tiền nào được lắp ráp, một công việc lạ thường được nó thực hiện, trước khi nó
bị mòn, hỏng nó được kỳ vọng là sẽ thay thế lượng vốn đã bỏ ra để tạo ra nó, với
mức lợi nhuận tối thiểu là bằng mức thông thường. Một người được giáo dục với
chi phí nhiều lao động và thời gian để làm những công việc đòi hỏi kỹ năng và sự
khéo léo cao, có thể so sánh với những máy móc đắt tiền”.
Quan niệm nhân lực là tài sản minh hoạ cho quan điểm hướng về người lao
động. Tại Mỹ, vào cuối những năm 1980, đầu 1990 khi những người lao động chưa
đạt tới tình trạng được coi là tài sản trong suy nghĩ của đa số các nhà quản lý cao
cấp, khuynh hướng giảm quy mô ở giai đoạn này đã khiến các nhà quản lý xem
người lao động như là chi phí và có thể cắt giảm bất cứ khi nào sức ép về kinh tế bắt
buộc. Sau năm 1991, kinh tế Mỹ mặc dù còn khó khăn nhưng đã có dấu hiệu hồi
phục thể hiện ở dấu hiệu giảm dần của chỉ số cắt giảm việc làm. Nhiều nghiên cứu ở
Mỹ trong giai đoạn này cho thấy các doanh nghiệp đã không còn thuần tuý quan
niệm người lao động chỉ là chi phí mà đã có dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp bắt đầu
nhìn nhận người lao động dưới góc độ là tài sản của mình.
Quan niệm người lao động như là tài sản đã đặt ra hai vấn đề riêng biệt
nhưng lại có quan hệ với nhau, cụ thể như sau :
10
Thứ nhất, quan niệm này đã nâng cao tầng lớp người lao động bằng cách
nhấn mạnh giá trị mà con người đóng góp cho các doanh nghiệp. Người lao động
mang sự khéo léo, sáng tạo và các sáng kiến đến cho công ty và họ chính là nguồn
tài sản của công ty, họ không bị xem là chi phí theo quan niệm trước đây trong giai
đoạn giảm quy mô sản xuất.
Thứ hai: việc xem người lao động là tài sản có thể dẫn đến hiểu lầm là doanh
nghiệp có quyền sở hữu người lao động, các nhà tư bản tạo ra lợi nhuận cho mình
không phải nhờ sức lao động của nhân công mà nhờ tài sản của chính mình, trong
khi về cơ bản, người lao động rất khác với tài sản thông thường thể hiện trong các
khía cạnh sau :
- Người lao động có thể dễ dàng di chuyển từ doanh nghiệp này sang doanh
nghiệp khác, việc di chuyển nhiều hay ít phụ thuộc chủ yếu vào bản thân người lao
động hay nói một cách khác là phụ thuộc vào lòng trung thành giữa người lao động
và doanh nghiệp. Điều này chứng tỏ rằng doanh nghiệp không thể coi người lao
động là tài sản của mình và doanh nghiệp không thể sở hữu người lao động như sở
hữu các tài sản thông thường khác.
- Tài sản là bị động, được mua, bán, thay thế do suy nghĩ chủ quan của người
chủ sở hữu nó; người lao động thì ngược lại, họ có tính chủ động ngày càng tăng
trong suốt thời kỳ làm việc của họ.
- Các tài sản thông thường của doanh nghiệp được phản ánh một cách đầy đủ
trong kế toán, tuy nhiên đối với tài sản người lao động, hiện nay hệ thống kế toán
vẫn chưa thể gắn giá trị tài chính với nguồn nhân lực.
Nếu con người là tài sản thì các nhà quản lý rõ ràng là ở vị trí người điều
khiển. Như vậy, quan niệm người lao động là tài sản đã duy trì mãi hố sâu ngăn
cách giữa lao động chân tay và lao động trí óc.
1.1.2 Khái niệm về vốn nhân lực
1.1.2.1- Khái niệm về vốn nhân lực
Thuật ngữ vốn nhân lực xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1961 trong bài báo
“đầu tư vào vốn nhân lực “được đăng trong tạp chí Kinh tế học Hoa kỳ của Nhà
11
kinh tế học được giải thưởng Nobel là Theodore W. Schultz, sau đó được phát triển
tiếp bằng các nghiên cứu của nhiều tác giả khác. Đa số các tác giả đều chấp nhận
rằng vốn nhân lực bao gồm các kỹ năng, kinh nghiệm và kiến thức [85], hay theo
nghiên cứu trong tác phẩm “Kinh tế học lao động“ của Borjas vào năm 1996, mỗi
người đều mang vào thị trường lao động một tập hợp nhất định các khả năng và các
kỹ năng thu được hay còn gọi là vốn nhân lực. Như vậy, vốn nhân lực theo quan
niệm của các tác giả trên bao gồm các kiến thức, kỹ năng thu được thông qua đào
tạo chính quy tại các trường, kinh nghiệm thu được trong quá trình làm việc trong
thị trường lao động và khả năng bẩm sinh của người lao động cũng là một thành
phần quan trọng của vốn nhân lực.
Ngoài kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm và khả năng bẩm sinh của con người,
có nhiều quan điểm cho rằng sức khoẻ của người lao động cũng là một thành phần
của vốn nhân lực. Trong nghiên cứu về "Vốn nhân lực của người nghèo ở Việt
Nam- tình hình và các lựa chọn về chính sách" vào năm 2001, Indu Bhushan và các
cộng sự đã cho rằng “vốn nhân lực là tiềm năng và khả năng phát huy tiềm năng về
sức khoẻ và kiến thức của các cá nhân, cái sẽ mang lại lợi ích trong tương lai hay
"vốn con người là kết quả quá trình đầu tư vào các hoạt động nhằm nâng cao năng
suất lao động cá nhân như giáo dục, y tế, đào tạo tại chỗ…" [17].
Có thể thấy rằng vốn nhân lực là một khái niệm được sử dụng rộng rãi với
các định nghĩa hết sức phức tạp và khác nhau. Trong những bối cảnh nhất định, nó
có thể chỉ bao gồm việc học tập chính quy tại trường đào tạo, trong khi ở một số bối
cảnh khác, nó có thể bao gồm sự đầu tư tác động đến sức khoẻ và năng suất của con
người, của doanh nghiệp và của cả quốc gia. Điều này có thể bao gồm việc đầu tư
vào sức khoẻ và dinh dưỡng cũng như đào tạo nghề bên cạnh hệ thống giáo dục phổ
thông [36].
Trong những năm gần đây, ngày càng có sự quan tâm đến vốn nhân lực và
coi đó như là động cơ cho tăng trưởng kinh tế và gắn kết xã hội. Chính vì vậy, vào
năm 2002 khi thảo luận về những yêu cầu cho tăng trưởng kinh tế, các bộ trưởng
của các nước thuộc tổ chức hợp tác và phát triển châu âu (OECD) đã nhấn mạnh
12
đến tầm quan trọng của việc đầu tư vào vốn nhân lực. Có rất nhiều lý do xác đáng
cho vấn đề này, nhất là các bằng chứng cho thấy giáo dục và đào tạo, hai nhân tố
chính của vốn nhân lực, có liên quan chặt chẽ đến việc cải thiện các kết quả kinh tế
[78].
Thông qua việc đầu tư vào giáo dục có thể tác động tích cực đến sức khoẻ
[17]. Mặt khác, nhiều nghiên cứu cũng đã cho thấy giáo dục, đào tạo có nhiều hiệu
ứng ngoại sinh trong đó có sự tác động vào sức khoẻ cá nhân và sức khoẻ của các
thành viên trong gia đình. Điều này là do những người lao động được giáo dục
nhiều sẽ có những hành vi tìm kiếm sức khoẻ trong cộng đồng tốt hơn những người
ít được giáo dục, mặt khác những người được đào tạo nhiều hơn thường có thu nhập
cao hơn những người ít được đào tạo vì vậy họ có điều kiện hơn để chăm sóc sức
khoẻ cho bản thân và gia đình [1]. Chính vì lý do này, trong luận án chỉ nghiên cứu
các thành phần quan trọng nhất của vốn nhân lực là kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm
và khả năng bẩm sinh của người lao động và coi việc nâng cao các yếu tố này tất
yếu sẽ dẫn đến nâng cao sức khoẻ cho người lao động.
Với quan niệm như trên, vốn nhân lực là tổng hợp các kỹ năng, kỹ xảo của
người lao động ; kinh nghiệm nghề nghiệp ; trình độ đào tạo và những khả năng có
thể khai thác của người lao động [21]. Vốn nhân lực không phải là cái sẽ có mà đã
có sẵn của người lao động, tức là cái có thể bán được. Như vậy, vốn nhân lực của
các doanh nghiệp may có thể hiểu là các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm
nghề nghiệp, trình độ đào tạo và những khả năng có thể khai thác của đội ngũ cán
bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật trong các doanh nghiệp may.
1.1.2.2- Quan niệm người lao động là nhà đầu tư
Giống như ý tưởng người lao động là tài sản, hình ảnh người lao động là nhà
đầu tư không phải hoàn toàn mới. Trong tác phẩm “ Sự giàu có của Quốc gia“ được
xuất bản vào năm 1776, khi so sánh con người với máy móc, Adam Smith đã đi sâu
hơn khi nói rằng : “ Công việc mà anh ta học để thực hiện, đó phải là công việc
được kỳ vọng, có mức lương ở trên và cao hơn lao động bình thường, sẽ thay thế
cho anh ta tất cả các chi phí để giáo dục anh ta cộng với mức lợi nhuận bình thường
13
tối thiểu có giá trị bằng vốn tương đương.” Nói một cách khác, Smith đã nói rằng cá
nhân hành động như một nhà đầu tư. Anh ta tích luỹ vốn cá nhân (sự khéo léo và kỹ
năng giỏi đã được đề cập ở trên) trong suy nghĩ của anh ta và cố gắng đầu tư nó một
cách khôn ngoan, tiết kiệm nó và triển khai nó với những lợi thế tốt nhất.
Mặt khác, có thể thấy rằng trong những thời kỳ kinh tế ổn định, tỷ lệ thất
nghiệp sẽ ở mức thấp, khi đó, người lao động, những người chủ thực sự của vốn
nhân lực có quyền lực cao hơn trên thị trường, họ sẽ không cư xử giống như tài sản.
Họ cư xử như những người chủ của hàng hoá có giá trị, đó là vốn nhân lực của bản
thân mình. Họ đóng góp nó một cách cẩn thận và yêu cầu các giá trị trao đổi cho sự
đóng góp đó. Trong thực tế, con người không phải chi phí, không phải các nhân tố
của sản xuất hoặc các tài sản, họ là các nhà đầu tư trong kinh doanh, trả tiền để có
được vốn nhân lực của mình và kỳ vọng vào sự hoàn vốn cho sự đầu tư đó [85].
Có hai ý tưởng quan trọng nhấn mạnh người lao động là nhà đầu tư, đó là sự
sở hữu vốn nhân lực và sự hoàn vốn đầu tư.
Sự sở hữu và điều khiển vốn nhân lực : giống như quan niệm người lao động
là tài sản, việc quan niệm người lao động là nhà đầu tư nhấn mạnh đến giá trị. Việc
đầu tư gợi lên ý tưởng chủ động như là tạo dựng vốn nhân lực và đầu tư nó vào các
tổ chức và kiểm soát việc đầu tư vốn. Mỗi người có những khả năng bẩm sinh,
những hành vi, năng lực cá nhân. Những nhân tố này tạo nên vốn nhân lực và con
người mang nó ra đầu tư vào công việc của họ. Chính người lao động, chứ không
phải các tổ chức sở hữu vốn nhân lực này. Chính người lao động chứ không phải
các tổ chức quyết định khi nào, bằng cách nào và ở đâu họ sẽ góp vốn nhân lực vào.
Với vai trò là chủ vốn nhân lực, người lao động có thể lựa chọn doanh nghiệp để
đầu tư vốn nhân lực của bản thân, nhất là trong những thời điểm tỷ lệ thất nghiệp ở
mức thấp, cán cân quyền lực nghiêng từ người sử dụng lao động sang người lao
động. Quyền điều khiển phân biệt người sở hữu tài sản với tài sản, phân biệt nhà
đầu tư với tiền mà họ đầu tư.
Một người lao động hành động như một nhà đầu tư vốn nhân lực sẽ đặt vốn
đầu tư của mình vào nơi có tỷ suất hoàn vốn cao nhất. Việc hoàn vốn đầu tư này
14
thông qua công việc bao gồm cả “lợi nhuận bình thường” mà Smith đã đề cập đến.
Tư duy về người lao động như một nhà đầu tư khẳng định một thực tế mang tính
nền tảng là : sự đầu tư và việc hoàn vốn tạo nên một dòng hai chiều. Nhiều nghiên
cứu về hiệu quả đào tạo đã chứng minh cho vấn đề này. Theo một nghiên cứu được
trích từ tài liệu của cục nghiên cứu kinh tế quốc gia Mỹ, kiến thức của người lao
động tăng lên giúp cải thiện năng suất khoảng 16% [85]. Đào tạo vì thế được xem
như sự đầu tư hiệu quả vào vốn nhân lực. Đào tạo cũng góp phần vào việc cải thiện
tỷ lệ hoàn vốn đầu tư của con người trong quá trình làm việc. Ở nơi làm việc đòi hỏi
nhiều kiến thức, những kỹ năng mới sẽ giúp người lao động tìm thấy và giữ được
một việc làm hài lòng, đó là việc làm có tỷ suất hoàn vốn cao cho những đầu tư vào
vốn nhân lực của họ. Hơn nữa, tiền lương nhận được có nguồn gốc từ việc đi học
chính là sự hoàn vốn nhân lực của người lao động thể hiện trong công việc.
Quan điểm người lao động là nhà đầu tư so với người lao động là tài sản
nhấn mạnh một thực tế là sự liên kết giữa người làm công và công ty phụ thuộc
không chỉ vào giới chủ và các chính sách có tính áp đặt mà còn phụ thuộc vào bản
thân người lao động. Người lao động và tổ chức gắn chặt với nhau xuất phát từ khả
năng và mong muốn của mỗi bên nhằm cung cấp lợi ích cho nhau. Mối quan hệ này
mang lại lợi ích hai chiều, không có bên nào có thể phát triển bền vững nếu chỉ
muốn lợi dụng những chi phí của bên kia. Nếu doanh nghiệp muốn tăng cường lực
lượng lao động của mình thì doanh nghiệp cần phải thể hiện cho người lao động
biết cái doanh nghiệp mong muốn họ đầu tư và doanh nghiệp sẽ giúp thu lại việc
đầu tư của họ như thế nào. Tóm lại, doanh nghiệp không thể quan niệm người lao
động như là bất kỳ tài sản nào trong bảng cân đối kế toán của mình mà cần phải
quan niệm người lao động là nhà đầu tư. Nơi làm việc là nơi trao đổi hai chiều,
không phải nơi khai thác tài sản một chiều.
1.1.2.3 Các đặc điểm của vốn nhân lực
Trong tác phẩm “ Quan niệm và các thước đo vốn nhân lực trong nền kinh tế
tri thức“ được xuất bản vào năm 1999, Laroche và Mérette cho rằng vốn nhân lực
có những đặc điểm sau đây:
15
Thứ nhất, vốn nhân lực là một loại hàng hoá bất khả thương (trừ chế độ
chiếm hữu nô lệ), nên không có thị trường cho phép trao đổi tài sản vốn nhân lực.
Thứ hai : các cá nhân không phải lúc nào cũng kiểm soát được cách thức và
tốc độ tiếp thu vốn nhân lực của bản thân, nhất là trong những năm đầu của cuộc
đời, các quyết định về vốn nhân lực không phải do những người chủ vốn nhân lực
quyết định mà do bố mẹ, giảng viên, chính phủ và xã hội nói chung quyết định qua
các tổ chức giáo dục và xã hội.
Thứ ba : vốn nhân lực có mặt chất và mặt lượng. Mặc dù có thể dễ dàng
lượng hoá số năm đi học của một cá nhân hay số calo nhận được hàng ngày nhưng
không thể khẳng định rằng đầu tư vào vốn nhân lực đồng nhất về chất lượng. Ví dụ
như những người tốt nghiệp tại những đại học nằm trong tốp 100 trường tốt nhất thế
giới có thể có chất lượng vốn nhân lực tốt hơn những người học tại những trường
đại học ít danh tiếng hơn mặc dù có cùng số năm đi học.
Thứ tư : vốn nhân lực có tính phổ cập hoặc tính chuyên môn. Kiến thức và
kỹ năng được xem là phổ cập nếu có thể sử dụng chúng trong nhiều hoạt động và có
thể dễ ràng chuyển từ người này sang người kia mà không làm giảm nhiều giá trị.
Ngược lại, vốn nhân lực được xem là vốn nhân lực chuyên môn nếu nó chỉ có thể sử
dụng trong những hoạt động nhất định, khi không còn sự hợp tác làm việc giữa
người lao động và doanh nghiệp thì giá trị của vốn nhân lực mất đi đáng kể và phải
có những khoản đầu tư lớn mới có thể thu hồi được lượng vốn nhân lực này.
Thứ năm : Vốn nhân lực tạo ra các hiệu ứng ngoại sinh. Hiệu ứng lan toả này
bao gồm ảnh hưởng của các cá nhân đến năng suất của các cá nhân khác, đến vốn
vật chất cũng như các cá nhân sẽ làm việc có năng suất cao hơn ở mọi mức kỹ năng
trong môi trường có mức vốn nhân lực cao.
Với các đặc điểm nêu trên, vốn nhân lực có bốn đặc trưng nổi bật là : có khả
năng mở rộng, có khả năng tự sinh ra, có khả năng di chuyển và có khả năng chia sẻ
được. Khả năng mở rộng và tự sinh của vốn nhân lực gắn liền với việc tích luỹ các
kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm giúp làm tăng vốn nhân lực của một cá nhân.
Khả năng di chuyển và chia sẻ của vốn nhân lực cho thấy một người sở hữu kiến
16
thức, kỹ năng, kinh nghiệm có thể truyền đạt những kiến thức, kỹ năng và kinh
nghiệm của họ cho những người khác. Hai đặc trưng đầu tiên làm tăng dung lượng
của vốn nhân lực, hai đặc trưng sau làm tăng phạm vi của vốn nhân lực.
Ngoài các đặc điểm chung của vốn nhân lực như trên, qua phỏng vấn và
khảo sát tại các doanh nghiệp may, các chuyên gia đều cho rằng vốn nhân lực trong
các doanh nghiệp may Việt Nam có những đặc điểm riêng sau đây :
Thứ nhất : Do biến động lao động lớn nên các doanh nghiệp may tuyển nhiều
lao động chưa biết nghề vào doanh nghiệp, vốn nhân lực chuyên môn ban đầu của
những lao động chưa biết nghề này bằng không và doanh nghiệp thường phải tự đào
tạo khoảng 1 – 3 tháng trước khi đưa người lao động vào sản xuất. Mặt khác, ngành
may là ngành sản xuất chủ yếu theo phương thức gia công, người lao động làm việc
trong các doanh nghiệp may chủ yếu theo phương thức sản xuất dây chuyền, mỗi
người chỉ đảm nhiệm 1 – 2 nhiệm vụ sản xuất trong dây chuyền nên thời gian tạo
vốn nhân lực ban đầu cho người lao động không dài, vốn nhân lực chuyên môn của
người lao động trực tiếp sản xuất trên các dây chuyền nhìn chung thấp.
Thứ hai :Người lao động trong các doanh nghiệp may được tuyển chủ yếu từ
các vùng nông thôn là nơi có tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông thấp hơn vùng
thành thị, hơn nữa do xuất thân từ nông thôn nên vốn nhân lực của họ chưa đáp ứng
tốt với sản xuất công nghiệp. Nhận thức của người lao động vẫn mang nặng tính
nông nghiệp, nhận thức trong việc tuân thủ các nội quy trong sản xuất công nghiệp,
tuân thủ pháp luật lao động không cao.
Thứ ba : Ngành công nghiệp may là một ngành có tỷ lệ lao động nữ cao nên
vốn nhân lực của lao động nữ cũng cao. Đây là lực lượng lao động có tính cần cù,
chịu khó và có khả năng thực hiện tốt những công việc có tính tỉ mỉ, cẩn thận như
các công việc trong dây chuyền may. Người lao động trực tiếp trong các doanh
nghiệp may có tuổi đời còn trẻ nên rất có tiềm năng để tổ chức đào tạo nhằm nâng
cao chất lượng vốn nhân lực cho các doanh nghiệp may.
Thứ tư : Có một tỷ lệ lớn vốn nhân lực trong các doanh nghiệp may không
phải do lao động địa phương cung cấp. Người lao động trong các doanh nghiệp may
17
hầu hết là làm việc xa gia đình, tỷ lệ lao động nông thôn lên thành phố làm việc từ
năm 2008 trở về trước rất lớn, thậm chí có một số lượng lớn người lao động phía
bắc vào làm việc tại các doanh nghiệp may phía Nam.
Thứ năm : Vốn nhân lực của lao động quản lý và lao động kỹ thuật trong các
doanh nghiệp may tương đối ổn định nhưng còn ở mức thấp. Hầu hết cán bộ quản lý
và cán bộ kỹ thuật được đào tạo tại các trường trong nước, một số được doanh
nghiệp tự bồi dưỡng. Vốn nhân lực quản lý và kỹ thuật trong các doanh nghiệp may
mới ở mức triển khai được sản xuất gia công, chưa có khả năng triển khai sản xuất
hàng mua đứt bán đoạn.
1.1.3 Các thước đo vốn nhân lực
1.1.3.1 Thước đo dựa trên khả năng của nhân viên
a- Kinh nghiệm
Kinh nghiệm là một thước đo quan trọng trong bất kỳ tổ chức nào, nó đặc
biệt quan trọng trong các tổ chức tại đó các dịch vụ phức tạp, công nghệ là then chốt
và công việc yêu cầu có nhiều kinh nghiệm. Kinh nghiệm có thể được giám sát
bằng cách sử dụng mức kinh nghiệm trong phạm vi các chức năng, phòng ban hay
công việc. Sẽ rất hữu ích nếu theo dõi độ dài kinh nghiệm trung bình trong một đội,
một phòng hoặc đo kinh nghiệm theo nghề nghiệp như đo số năm làm việc trung
bình trong một nghề. Một số tổ chức đo kinh nghiệm liên quan bằng thời gian làm
việc trong các tổ chức trước đó.
Một lực lượng lao động có lịch sử với kỹ thuật cao có thể giải quyết nhiều
tình huống khác nhau. Những nhân viên có kinh nghiệm có thể phát triển những
cách tiếp cận mới, các quá trình mới và thậm chí các sản phẩm mới dựa trên cơ sở
kinh nghiệm của họ. Tuy vậy, những cá nhân có kinh nghiệm thường tiêu tốn của tổ
chức nhiều hơn xét về khía cạnh tiền lương, tiền thưởng và lợi ích. Những cá nhân
có kinh nghiệm thường hay được nhiều người yêu cầu và có thể rời khỏi tổ chức
khi được đề nghị những cơ hội mới với mức lương cao hơn.
Sự thiếu kinh nghiệm thường dẫn tới không có khả năng thực hiện nhiệm vụ
và đáp ứng những vấn đề đặt ra nhất định. Điều này đôi khi dẫn đến làm hỏng việc
18
đứng trên giác độ quản lý cũng như khách hàng nội bộ, khách hàng bên ngoài hay là
ngay bản thân nhân viên. Tuy vậy, những cá nhân không có kinh nghiệm thường cởi
mở hơn đối với những ý tưởng mới và có thể linh hoạt hơn. Tuy nhiên, vì những
nhân viên mới thường gia nhập tổ chức khi chưa có kinh nghiệm, có lương thấp hơn
so với những nhân viên có thâm niên nên nếu những người mới không thành công
trong tổ chức, họ có thể được thay thế với chi phí thấp hơn.
Một số tổ chức tập trung xây dựng một môi trường để tư bản hoá dựa trên
việc tăng cường kinh nghiệm làm việc. Sự thành thạo được phát triển nhanh để giúp
một nhân viên có năm năm kinh nghiệm thay cho việc một năm kinh nghiệm được
lặp lại năm lần. Bằng cách sử dụng việc phân công luân chuyển, nhóm làm việc…
hiểu biết và kỹ năng chuyển từ những người có kinh nghiệm sang những người
không có kinh nghiệm và được chia sẻ trong toàn bộ tổ chức. Những nhân viên có
kinh nghiệm được đặt vào vai trò đào tạo, hướng dẫn, giám sát những người khác
trong tổ chức với mục tiêu duy trì sự thành thạo.
b- Kiến thức
Như chúng ta đã biết, kiến thức là vấn đề then chốt trong lĩnh vực vốn nhân
lực. Nỗ lực đo kiến thức có chung mục đích với việc đo các yếu tố khác như kinh
nghiệm, quá trình đi học và năng lực. Mức độ sức mạnh thực tế của kiến thức, được
tính bằng tỷ lệ thu nhập sử dụng cho nghiên cứu và phát triển hay bán hàng nhờ các
bằng sáng chế sắp có hay đã được trao thưởng và cả các thương hiệu khác nhau.
Cách tiếp cận thứ hai là đo tỷ lệ người lao động có kiến thức so với những lao động
còn lại trong tổ chức.
c- Quá trình học tập
Học tập là một thành phần quan trọng tạo ra nền tảng kinh nghiệm và hướng
tới thành công. Rất nhiều nhà điều hành cố gắng tạo ra các tổ chức học tập trong đó
có sẵn nhiều cơ hội cho nhân viên học tập những kỹ năng, nhiệm vụ và quá trình
mới cần thiết để trở thành những người dẫn đầu cạnh tranh.
Đo lường hiệu quả học tập được phát triển dễ dàng ở cấp độ vi mô (đối với
một chương trình đào tạo riêng lẻ) nhưng thường rất khó và mơ hồ ở cấp độ vĩ mô
19
(đối với tất cả các chương trình đào tạo). Thước đo hiệu quả học tập ở cấp độ vi mô
là việc đo các kỹ năng mới và kiến thức mới trong các hoạt động học tập chính quy
thông qua kiểm tra, mô phỏng hay trình diễn quá trình thực hiện công việc. Đôi khi,
các quá trình như tự đánh giá, đánh giá nhóm, đánh giá của người hướng dẫn cũng
được sử dụng để đo lường hiệu quả học tập.
d- Năng lực
Các tổ chức quan tâm đến việc phát triển các năng lực cốt lõi trong những
lĩnh vực cụ thể như các dây chuyền sản xuất chủ yếu và các quy trình độc quyền.
Các năng lực cốt lõi thường được xác định và thực hiện trong những nhóm nghề
nghiệp then chốt. Năng lực được đo bằng cách tự đánh giá của từng nhân viên cũng
như đánh giá của tổ chức. Để có được năng lực cốt lõi, người lao động không những
phải học những kỹ năng mới, các quy trình mới hay kiến thức mới mà còn phải học
cách sử dụng tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và hành vi trong công việc nhằm phát
triển một mức độ kỹ năng có thể chấp nhận được đáp ứng những thách thức trong
cạnh tranh.
Trong những năm gần đây, việc xử lý định lượng đã được sử dụng để xác
định giá trị kỹ năng. Việc hoàn thiện kỹ năng được phân tích và xác định giá trị
bằng tiền dựa trên cơ sở tiền lương của các cá nhân. Khi một cá nhân hoàn thiện
năng lực của mình thêm 10% và không có sự điều chỉnh lương cho nhân viên để
phản ánh sự hoàn thiện đó thì có thể nói rằng nhân viên về mặt lý thuyết đáng giá
thêm 10% đối với tổ chức. Khi những giá trị tăng thêm này được so sánh với chi phí
của chương trình huấn luyện thì sẽ xác định được tỷ lệ hoàn vốn.
e- Mức độ giáo dục
Trong nền kinh tế tri thức, giáo dục có vai trò then chốt và nhiều tổ chức sử
dụng mức độ giáo dục như một thước đo vốn nhân lực quan trọng. Thước đo này
thường là số năm đi học cao đẳng, đại học chính quy và nó thường là 4, bằng với
mức độ kiến thức thu được của một cử nhân hoặc có thể sử dụng mức độ giáo dục
trước đại học như số năm đi học phổ thông, tỷ lệ người có bằng tốt nghiệp trung
học phổ thông hoặc có trình độ tương đương.
20
Sử dụng mức độ giáo dục hết sức quan trọng liên quan đến các mục tiêu cụ
thể và yêu cầu đặt ra. Mức độ cao không phải lúc nào cũng được mong muốn. Mỗi
công ty sẽ xác định một mục tiêu và đo mức độ giáo dục dựa trên mục tiêu đó. Nếu
mức độ giáo dục quá cao, có thể làm tăng sự biến động nhân viên vì vượt quá khả
năng đáp ứng của công ty. Nhân viên này có thể rời bỏ công ty khi có một cơ hội
khác được mở ra. Khi sử dụng mức độ giáo dục làm thước đo thì cần chú trọng đến
chất lượng của quá trình giáo dục được thực hiện.
1.1.3.2 Thước đo dựa trên mức đầu tư cho vốn nhân lực
a- Đầu tư cho lĩnh vực nguồn nhân lực
Mức đầu tư bằng tiền thực tế vào lĩnh vực nguồn nhân lực là một thước đo
quan trọng khác. Giá trị đầu tư này phản ánh phạm vi trong đó tổ chức mong muốn
đầu tư vào nhân viên. Về mặt lý thuyết, chi phí cho lĩnh vực nguồn nhân lực càng
lớn thì năng suất của tổ chức sẽ càng lớn. Mối quan hệ này được phát triển trong
một nghiên cứu tại đó mức đầu tư vào lĩnh vực nguồn nhân lực (chia cho chi phí
vận hành) có mối tương quan mạnh với tổng năng suất (doanh thu của mỗi nhân
viên) và khả năng tạo ra lợi nhuận (thu nhập vận hành của mỗi nhân viên) [60].
b- Tổng đầu tư vào vốn nhân lực
Tổng đầu tư vào vốn nhân lực bao gồm chi phí cho lĩnh vực nguồn nhân lực
và tiền lương, phúc lợi của nhân viên. Về cơ bản, nó xác định chi phí thu nhận, phát
triển, trả lương và giữ nhân viên trong tổ chức.
Để nghiên cứu sâu hơn về các khoản đầu tư cho vốn nhân lực, có thể tính
toán việc đầu tư vào vốn nhân lực bằng chức năng nguồn nhân lực bao gồm : tuyển
dụng và lựa chọn, học định hướng và phát triển, tiền lương và lợi nhuận…. Khi so
sánh với các tổ chức khác, các thước đo này có thể giúp cung cấp cái nhìn sâu sắc
hơn đối với một tổ chức nhất định.
1.1.3.3 Thước đo dựa trên năng suất
Một thước đo quan trọng khác của vốn nhân lực là năng suất. Năng suất là
đầu ra được đo đối với mỗi nhân viên, mỗi giờ hoặc dựa trên một số cơ sở khác.
Đối với các tổ chức sản xuất, thước đo năng suất là sản lượng trung bình tính cho
21
mỗi nhân viên. Năng suất cá nhân chỉ ra số lượng của một đầu ra nào đó tính cho
một nhân viên và nó rất quan trọng để giám sát nội bộ tổ chức. Thước đo này giúp
rút ra nhiều kết luận quan trọng khi so sánh giá trị theo thời gian cũng như giá trị
giữa các phòng, ban, đơn vị.
Một trong những thước đo chung nhất đối với năng suất là doanh thu đối với
mỗi nhân viên. Các lựa chọn khác có thể là thu nhập đối với mỗi nhân viên hay tiền
lương đối với mỗi nhân viên. Dạng thước đo này có ý nghĩa hơn đối với các công ty
trong cùng lĩnh vực kinh doanh, trong cùng một nước.
1.1.3.4 Thước đo dựa trên thu nhập và phúc lợi
a- Thu nhập
Thu nhập là thước đo vốn nhân lực then chốt và được sử dụng như sau:
- Tổng thu nhập cho tất cả nhân viên. Điều này bao gồm tiền công, tiền
lương trực tiếp và biến đổi. Các thu nhập khác có thể được tính đến trừ khi nó được
coi là phúc lợi của nhân viên.
- Chi phí thu nhập tính cho một nhân viên. Thước đo này đo chi phí tiền
lương trung bình cho mỗi nhân viên và thường được phát triển theo nhóm nghề.
Bất kể là thước đo nào nêu trên, điều quan trọng nhất là phải giám sát và so
sánh chúng, xác định xu hướng để điều chỉnh khi chi phí thu nhập vượt ra ngoài
phạm vi cho phép.
b- Phúc lợi của nhân viên
Không có thước đo đơn lẻ nào liên quan đến thu nhập mà thu hút được nhiều
sự chú ý hơn trong thập kỷ gần đây so với chi phí cho phúc lợi nhân viên. Thước đo
đầu tiên phải xét đến là tổng chi phí phúc lợi cho nhân viên. Trong thời điểm kinh tế
thuận lợi, phúc lợi cho nhân viên thường tăng trưởng nhanh vì các công ty cung cấp
những phúc lợi bổ sung để giữ chân các nhân viên chủ chốt. Thước đo thứ hai là
các phúc lợi cho nhân viên được xem như một phần của số tiền phải trả công nhân
viên, thước đo tiêu chuẩn này là sự thống kê so sánh theo chuẩn thường dùng.
Thước đo thứ ba là so sánh tỷ lệ chi phí phúc lợi cho nhân viên mà người sử dụng
22
lao động phải chịu và người lao động phải chịu. Khi chi phí chăm sóc sức khoẻ tăng
lên, nhân viên bị yêu cầu chịu phần lớn hơn của chi phí đó.
Cần chú ý là nếu được sử dụng quá thường xuyên thì thậm chí gói phúc lợi
được quan niệm là tốt nhất cũng sẽ thất bại trong việc tạo ra hiệu lực để tuyển dụng
hoặc giữ chân được nhân viên tốt vì các ứng cử viên và các nhân viên không nhận
ra giá trị thực của những phúc lợi này.
c- Thu nhập biến đổi
Hai thập kỷ gần đây đã chứng kiến việc tăng cường sự tập trung vào thu
nhập biến đổi hay kế hoạch trả tiền cho hiệu suất. Các nhà điều hành sử dụng tiền
như một yếu tố thúc đẩy, đó là phần thưởng khi đạt được những mục tiêu quan
trọng. Các thước đo cụ thể bao gồm tỷ lệ nhân viên trong kế hoạch trả tiền theo sự
biến đổi, dạng kế hoạch trả tiền theo sự biến đổi và trả tiền theo sự biến đổi như là
tỷ lệ của tổng số tiền phải trả. Kết nối việc trả tiền với hiệu suất là cách mà nhiều tổ
chức đã đạt được những thành công lớn và duy trì được hiệu suất theo thời gian.
1.1.4 Mối quan hệ giữa vốn nhân lực của cá nhân và vốn nhân lực của doanh
nghiệp
Các phân tích trong mục 1.1.2 và 1.1.3 cho thấy vốn nhân lực của doanh
nghiệp được tạo thành từ vốn nhân lực của các cá nhân trong doanh nghiệp. Vốn
nhân lực của các cá nhân được hình thành từ trước khi người lao động vào làm việc
tại doanh nghiệp, vì vậy muốn nghiên cứu một cách toàn diện vốn nhân lực của
doanh nghiệp cần phải nghiên cứu cả quá trình hình thành vốn nhân lực của các cá
nhân trước và trong quá trình làm việc cho doanh nghiệp.
Các thước đo vốn nhân lực nêu trong mục 1.1.3 phản ánh quy mô của vốn
nhân lực. Trong các thước đo này, thước đo dựa trên khả năng của nhân viên là
thước đo vốn nhân lực của cá nhân, các thước đo còn lại là thước đo vốn nhân lực
của doanh nghiệp. Vốn nhân lực của doanh nghiệp được hình thành từ vốn nhân lực
của các cá nhân nên quy mô vốn nhân lực của các cá nhân trong doanh nghiệp phần
nào phản ánh quy mô vốn nhân lực của doanh nghiệp. Tuy vậy, quy mô vốn nhân
lực của cá nhân không phải luôn luôn đồng nhất với quy mô vốn nhân lực của
23
doanh nghiệp; có thể thấy ngay rằng một doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động có
trình độ cao hơn mức cần thiết thì mặc dù tổng quy mô vốn nhân lực của các cá
nhân có thể rất cao nhưng tổng quy mô vốn nhân lực của doanh nghiệp không cao
tương ứng vì có một số lượng lớn vốn nhân lực của cá nhân không được sử dụng để
nâng cao năng suất lao động cho doanh nghiệp hay nâng cao thu nhập cho người lao
động. Vì vậy, để đánh giá toàn diện vốn nhân lực của doanh nghiệp, cần sử dụng
đồng thời cả thước đo vốn nhân lực của cá nhân và thước đo vốn nhân lực của
doanh nghiệp.
1.1.5 Sự khác nhau giữa nguồn nhân lực và vốn nhân lực
Xem xét các khái niệm về nguồn nhân lực và vốn nhân lực cũng như các
thước đo nguồn nhân lực và vốn nhân lực, có thể thấy rằng chúng khác nhau tương
đối cơ bản xét dưới góc độ quản lý và góc độ giá trị. Sự khác biệt đó được thể hiện
trong bảng sau :
Bảng 1.1 So sánh nguồn nhân lực và vốn nhân lực
Nguồn nhân lực Vốn nhân lực
- Người lao động là nguồn lực của tổ chức - Người lao động là nhà đầu tư
- Vai trò của người lao động tương đối thụ
động - Vai trò của người lao động rất chủ
động.
- Nghiên cứu các đối tượng đã đủ tuổi lao
động - Nghiên cứu cả quá trình hình thành
vốn nhân lực từ khi mới sinh.
- Không lượng hoá được bằng giá trị tiền tệ - Lượng hoá được bằng giá trị tiền tệ
Nguồn : Tổng hợp của tác giả
Xét dưới góc độ quản lý, nguồn nhân lực là khái niệm mang ý nghĩa chủ
quan của người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động coi nguồn nhân lực như
một nguồn lực phục vụ cho tổ chức của mình. Những nghiên cứu về nguồn nhân lực
chủ yếu nhằm mục đích khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực của tổ
chức để giúp tổ chức đạt được mục tiêu trong hiện tại cũng như trong tương lai.
Những nghiên cứu về nguồn nhân lực chưa thực sự chú trọng đến người lao động
như là những chủ thể có vai trò chủ động, cũng có mục tiêu và mục đích hoạt động
24
của mình, nhất là những mục tiêu về kinh tế và chính người lao động mới là phía
quyết định có trở thành nguồn nhân lực của một tổ chức nào đó hay không chứ
không phải tổ chức quyết định việc này. Mặt khác, các nghiên cứu về nguồn nhân
lực chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu các yếu tố liên quan đến sự vận động của
những đối tượng đã đủ tuổi lao động, ít tập trung vào quá trình hình thành nguồn
nhân lực, nhất là quá trình giáo dục phổ thông. Điều này đã được khắc phục với
quan niệm người lao động là nhà đầu tư, là chủ của vốn nhân lực và việc sử dụng
vốn nhân lực vào tổ chức nào cho có hiệu quả là quyết định của người lao động.
Khái niệm về vốn nhân lực cũng đã bao hàm đầy đủ những kiến thức, kỹ năng, kinh
nghiệm và khả năng bẩm sinh mà người lao động sở hữu và mang vào thị trường lao
động. Nói một cách khác, vốn nhân lực chú trọng đến tất cả các yếu tố trong quá
trình hình thành nguồn nhân lực, vốn nhân lực chính là cốt lõi của nguồn nhân lực.
Xét về mặt giá trị : Với quan niệm lực lượng lao động là nguồn nhân lực,
người sử dụng lao động coi con người như là nguồn lực của tổ chức nhưng không
tính toán được giá trị của nguồn lực đó bằng tiền. Trong quá trình sử dụng, công ty
sẽ phải đầu tư bao nhiêu tiền là hợp lý cho người lao động để có nguồn nhân lực
phù hợp với công ty, số tiền mà công ty đầu tư vào nguồn nhân lực đó sẽ mang lại
cho công ty bao nhiêu lợi nhuận. Mặt khác, người lao động, với vai trò chủ động có
thể tự đi học để nâng cao trình độ với mục đích tìm kiếm được một công việc tốt
hơn, với thu nhập cao hơn nhưng thu nhập cao hơn ở mức độ nào thì khuyến khích
được người lao động chủ động đi học ? Câu hỏi này nếu nghiên cứu dưới giác độ
nguồn nhân lực thì sẽ không thể trả lời thoả đáng. Khác với nguồn nhân lực, vốn
nhân lực có thể lượng hoá được bằng giá trị, qua đó có thể tính toán được dòng tiền
mà người sử dụng lao động cũng như người lao động đầu tư vào vốn nhân lực sẽ có
tỷ lệ hoàn vốn như thế nào và quá trình hoàn vốn đó diễn ra trong thời gian bao lâu.
1.1.6 Sự khác nhau giữa vốn nhân lực và vốn vật chất
Vốn thường được định nghĩa là hàng hoá được làm ra để sử dụng trong sản
xuất các hàng hoá và dịch vụ khác [67]. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu
hiện bằng tiền toàn bộ giá trị tài sản được huy động, sử dụng vào hoạt động sản xuất
25
kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thường
xuyên vận động và chuyển hoá từ hình thái ban đầu là tiền sang hình thái hiện vật
và cuối cùng lại trở về hình thái ban đầu là tiền. Sự vận động của vốn kinh doanh
như vậy gọi là sự tuần hoàn của vốn.
Trong kinh tế học, vốn nhân lực thường được đối xử với thái độ như đối với
vốn vật chất. Tuy nhiên, vốn nhân lực và vốn vật chất khác nhau về các khía cạnh
như: quyền sở hữu, khả năng tiêu thụ, quá trình tích luỹ, quá trình hoàn vốn, tài trợ
vốn. Sự khác biệt này thể hiện ở bảng sau đây :
Bảng 1.2 So sánh vốn nhân lực và vốn vật chất
Chỉ tiêu so sánh
Vốn nhân lực
Vốn vật chất
Quyền sở hữu
- Không thể tách rời chủ sở hữu
- Có thể tách rời chủ sở hữu
Tính chất
- Vô hình
- Hữu hình
Khả năng tiêu thụ
- Không có thị trường mua bán
- Có thể mua bán
- Do nhà quản lý quyết định
Quyết định tích luỹ
vốn
- Do nhiều chủ thể quyết định như
bố mẹ, tổ chức, cá nhân
- Mang tính hiện tại nhiều hơn.
Quá trình tích luỹ
vốn
- Ít mang tính hiện tại, bị lệ thuộc
vào hiệu ứng ngoại sinh
Tính di động
- Phụ thuộc khả năng thích nghi
của người lao động
- Phụ thuộc quá trình tái cấu
trúc, toàn cầu hoá
Sự suy giảm
- Mất đi hoàn toàn khi không
còn sử dụng được.
- Không mất đi khi người lao
động chết vì có thể chuyển một
phần cho thế hệ sau
- Khó hơn vì hay gặp rủi ro
Khả năng thu hút
tài trợ
- Dễ hơn vì dễ ràng nắm bắt,
bán, góp vốn
Hoàn vốn
- Người lao động chủ động tạo ra
tỷ lệ hoàn vốn cho bản thân.
- Chủ sở hữu chấp nhận tỷ lệ
hoàn vốn do thị trường hình
thành
Nguồn : Tổng hợp của tác giả
1.2 Các mô hình định lượng vốn nhân lực
Các mô hình vốn nhân lực đã được nghiên cứu thường xuất phát bằng việc
tập trung vào quyết định tham gia giáo dục chính quy. Các kỹ năng mà người lao
động thu được trong giáo dục chính quy tạo nên một phần ngày càng quan trọng đối
26
với việc tích luỹ vốn nhân lực của họ. Mô hình vốn nhân lực sẽ cho biết liệu tiền
được sử dụng cho giáo dục có phải là một sự đầu tư vốn tốt hay không. Đặc biệt là
tỷ lệ hoàn vốn đầu tư vào học tập tại trường so với tỷ lệ hoàn vốn đầu tư vào lĩnh
vực khác diễn biến như thế nào?
1.2.1 Mô hình đi học ở nhà trường
Trong tác phẩm “Kinh tế học lao động” được xuất bản năm 1996, tác giả
Borjas đã đưa ra một câu hỏi như sau : vì giáo dục làm giảm khả năng bị thất nghiệp
và giúp tăng thu nhập, vậy tại sao tất cả người lao động không học để có học vị cao
hay một bằng cấp chuyên nghiệp khác. Nói một cách khác là nhân tố nào thúc đẩy
một số người lao động duy trì việc học tập trong các trường trong khi những người
lao động khác lại rời bỏ trường học trước khi kết thúc bậc trung học phổ thông ?
Câu hỏi quan trọng này được phân tích xuất phát từ giả thiết rằng những
người lao động thu được mức kỹ năng mà nhờ nó họ tối đa hoá được giá trị hiện tại
của thu nhập thu được trong cả cuộc đời. Giáo dục và các dạng khác của đào tạo, vì
thế, có giá trị chỉ vì chúng làm tăng thu nhập.
Xét một tình huống được đưa ra cho một người 18 tuổi, vừa mới nhận bằng
tốt nghiệp trung học phổ thông và đang suy ngẫm xem nên tham gia vào thị trường
lao động ngay hay hoãn lại việc đi làm 4 năm nữa. Giả sử rằng không có đào tạo
trong công việc và những kỹ năng được học trong trường không giảm giá trị theo
thời gian. Giả thiết này hàm ý rằng năng suất của người lao động không thay đổi
ngay khi người đó rời nhà trường, vì thế thu nhập thực tế (đó là thu nhập sau khi
được điều chỉnh do lạm phát) là không thay đổi trong cả cuộc đời.
Giả sử WCOL là thu nhập của người tốt nghiệp đại học, WHS là thu nhập của
người chỉ tốt nghiệp trung học phổ thông, H là chi phí cho một năm học đại học.
Một người kết thúc việc học tập sau khi có bằng trung học phổ thông có mức thu
nhập WHS từ 18 tuổi đến lúc về hưu (65 tuổi). Nếu người đó quyết định học đại học
thì sẽ phải từ bỏ thu nhập này và chịu thêm chi phí H đôla trong 4 năm, sau đó sẽ có
mức thu nhập WCOL cho đến lúc nghỉ hưu. Với giả thiết trên, dòng thu nhập của
người tốt nghiệp trung học phổ thông được biểu diễn trong hình 1.1 dưới đây:
27
Đô la
Vào đại học
WCOL
Không học tiếp sau khi tốt
nghiệp trung học phổ thông
WHS
Tuổi
65 18 22
-H
Hình 1.1: Dòng thu nhập của những người tốt nghiệp trung học phổ thông
Nguồn : [58]
Giá trị hiện tại của dòng thu nhập theo tuổi: giá trị hiện tại của dòng thu nhập
46
PV
w
=
+
+
...
+++
=
nếu người lao động chỉ có bằng trung học phổ thông là PVHS và được tính như sau :
HS
HS
t
2
46
∑
)
w
HS
r
1(
+
HS
r
)
1(
HS
r
)
1(
1(
)
w
+
w
+
w
HS
r
+
t
0
=
(1-1)
Tham số r là tỷ lệ chiết khấu của người lao động. Có 47 số hạng trong tổng
này, mỗi số hạng đại diện cho một năm từ 18 đến 64 tuổi.
Giá trị hiện tại của dòng thu nhập nếu người lao động học đại học là PVCOL
PV
H
−=
−
−
−
+
+
...
+++
và được tính như sau :
COL
2
3
4
5
46
1(
)
r
H
+
1(
)
)
1(
1(
H
r
+
H
r
+
w
COL
1(
r
)
+
w
COL
1(
r
)
+
w
COL
r
)
+
Dòng thu nhập sau khi tốt
nghiệp đại học
3
+
−=
t
t
∑
∑
1(
)
Chi phí trực tiếp của việc học
đại học
46
w
COL
r
1(
)
+
H
r
+
t
4
0
t
=
=
(1-2)
Nguồn : [58]
28
Giả sử rằng quyết định đi học của một cá nhân là để tối đa hoá giá trị hiện tại
của thu nhập trong cả cuộc đời. Vì thế, người lao động tham gia học đại học nếu giá
trị hiện tại của thu nhập trong cuộc đời khi học đại học vượt hơn giá trị hiện tại của
thu nhập trong cuộc đời khi chỉ có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông.
PVCOL > PVHS
Nguồn: [58]
Các công thức trên cho thấy tỷ lệ chiết khấu r đóng vai trò quan trọng trong
việc người lao động quyết định có đi học hay không. Rõ ràng là tỷ lệ chiết khấu
càng cao thì người lao động sẽ ít đầu tư cho việc đi học hơn. Kết quả này rất dễ hiểu.
Khi một người lao động có tỷ lệ chiết khấu cao thì người đó coi các cơ hội thu nhập
trong tương lai có giá trị thấp. Vì việc hoàn vốn đầu tư cho đi học được thu hồi
trong tương lai nên những người có tỷ lệ chiết khấu cao sẽ ít đi học hơn.
Quỹ tích tiền lương theo số năm đi học
Mô hình đi học ở trường đã tìm ra đường quỹ tích tiền lương theo số năm đi
W(Tiền lương tính bằng đô la)
30,000
25,000
23,000
20,000
S(Số năm đi học)
18
12 13 14
học như sau :
Hình 1.2 : Quỹ tích của tiền lương theo số năm đi học
Nguồn : [58]
29
Quỹ tích tiền lương theo số năm đi học ở hình 1.2 có ba tính chất quan trọng:
- Quỹ tích của tiền lương theo số năm đi học dốc lên, những người lao động
được giáo dục nhiều hơn sẽ có thu nhập cao hơn miễn là các quyết định đi học được
thúc đẩy chỉ bởi lợi ích kinh tế.
- Độ dốc của đường quỹ tích cho biết mức độ tăng thu nhập của một người
lao động nếu đi học thêm một năm.
- Quỹ tích là một đường lõm. Lợi ích bằng tiền thu được do đi học thêm một
năm giảm khi học càng nhiều năm. Như với đa số quá trình sản xuất, việc hoàn vốn
giảm dần khi tăng thêm một năm đào tạo. Mỗi năm đào tạo bổ sung tạo ra ít kiến
thức hơn và thu nhập thấp hơn so với các năm học trước đó.
Tỷ lệ hoàn vốn biên cho đầu tư vào quá trình học tập
Độ dốc của đồ thị tiền lương theo số năm đi học (hay ∆w/∆s) cho biết mức
độ tăng thu nhập khi một người học thêm một năm. Tỷ trọng thay đổi thu nhập khi
học thêm một năm là :
= Tỷ trọng thay đổi thu nhập %∆w
∆w/∆s
------ = ------- (1-3)
∆s W
Nguồn : [58]
Tỷ trọng thay đổi thu nhập do thêm một năm đi học được định nghĩa là tỷ lệ
hoàn vốn đi học biên. Tỷ lệ hoàn vốn đi học biên cho biết tỷ trọng thu nhập tăng
thêm khi đầu tư một đôla cho quá trình học tập.
Vì đồ thị tiền lương theo số năm đi học là một đường lõm nên tỷ lệ hoàn vốn
đi học biên giảm khi một người đi học nhiều hơn. Tập hợp các tỷ lệ hoàn vốn biên
vì thế sẽ là một hàm xác định theo mức độ đi học như được minh hoạ trong hình 1.3
dưới đây. Đường tỷ lệ hoàn vốn biên MRR thể hiện sự thay đổi tỷ trọng thu nhập
hàng năm khi thêm một năm đi học.
30
Lãi suất
r’
r
MRR
Số năm đi học
s*
s’
Hình 1.3 : Ra quyết định đi học
Nguồn : [58]
Hình 1-3 cho thấy một người lao động tối đa hoá giá trị hiện tại của thu nhập
trong cả cuộc đời bằng cách đi học cho đến khi tỷ lệ hoàn vốn đi học biên bằng tỷ lệ
chiết khấu r. Như vậy một người lao động có tỷ lệ chiết khấu r sẽ đi học s* năm.
Mô hình đi học ở trường đã tìm ra “nguyên tắc dừng” cho người lao động
biết khi nào nên rời khỏi trường học. Nguyên tắc này là :
Rời khỏi trường học khi tỷ lệ hoàn vốn đi học biên = r (1-4)
Khoảng cách về tiền lương giữa những người khác nhau về giáo dục
Mô hình đi học ở trường đã chỉ rõ hai lý do dẫn đến việc những người lao
động có mức độ đi học khác nhau và vì thế có thu nhập khác nhau : đó là những
người lao động có tỷ lệ chiết khấu khác nhau hoặc là có tỷ lệ hoàn vốn biên khác
nhau. Như vậy, cần phải xem xét liệu sự khác nhau về thu nhập mà chúng ta quan
sát giữa những người lao động khác nhau về thời gian đi học cho phép đánh giá
được tỷ lệ hoàn vốn đi học hay không ?
Sự khác nhau về tỷ lệ chiết khấu
31
W là thu nhập tính bằng đô la
Lãi suất
PBO
wHS
rAL
’
wDROPS
PAL
rBO
MRR
11
12 Số năm đi
11
12
Số năm đi
học
học
(a)
(b)
Hình 1.4 : Thu nhập theo số năm đi học của những người lao động có tỷ lệ chiết
khấu khác nhau
Nguồn : [58] Xét một thị trường lao động có hai người chỉ khác nhau về tỷ lệ chiết khấu
của bản thân như được minh hoạ trên hình 1.4 (a). Tỷ lệ chiết khấu của Al là rAL, tỷ
lệ chiết khấu của Bo thấp hơn là rBO. Hình chỉ ra rằng Al (người có tỷ lệ chiết khấu
cao hơn) rời trường học khi mới chỉ học 11 năm trong khi Bo đã tốt nghiệp và nhận
được bằng trung học phổ thông. Như đã xem xét trước đây, những người lao động
chiết khấu thu nhập trong tương lai nhiều sẽ không đi học nhiều vì họ là người có
định hướng theo hiện tại.
Hình 1.4 (b) chỉ ra hàm ý của những lựa chọn này đối với phân phối thu
nhập quan sát được trong giai đoạn sau khi học xong. Như trên đã giả thiết rằng cả
hai người lao động đều đối diện với một đường tỷ lệ hoàn vốn biên MRR giống
nhau. Căn cứ vào nguồn gốc xây dựng nên đường tỷ lệ hoàn vốn biên, giả thiết này
tương đương với việc phát biểu rằng cả hai người lao động đều đối diện với cùng
một đường quỹ tích tiền lương theo số năm đi học. Quyết định đi học khác nhau của
hai người lao động vì vậy đơn giản là nằm ở hai điểm khác nhau trên một đường
quỹ tích chung. Al kết thúc việc học tập tại điểm PAL, tại đó anh ta đi học được 11
32
năm và có thu nhập wDROP đô la; Bo kết thúc việc học tập tại điểm PBO tại đó anh ta
đi học được 12 năm và có thu nhập wHS đô la. Chú ý rằng bằng cách nối các điểm
PAL và PBO chúng ta có thể vạch ra đường quỹ tích chung của tiền lương theo số
năm đi học của tất cả những người lao động.
Vì vậy, miễn là người lao động chỉ khác nhau về tỷ lệ chiết khấu, chúng ta có
thể tính toán được tỷ lệ hoàn vốn đi học biên từ sự khác biệt về tiền lương giữa hai
người lao động khác nhau về trình độ giáo dục. Nhờ đó, có thể dự đoán được thu
nhập sẽ tăng lên bao nhiêu nếu theo đuổi các chính sách riêng nhằm tạo điều kiện
cho những người lao động cần quan tâm được đi học thêm.
Sự khác nhau về khả năng
Khó hơn nhiều để đánh giá sự hoàn vốn đi học khi tất cả người lao động có
tỷ lệ chiết khấu giống nhau nhưng lại có đường quỹ tích tiền lương theo số năm đi
học khác nhau như minh hoạ đối với những người lao động như Ann và Bob trong
Tiền lương (đô la)
Bob
Ann
hình 1.5 dưới đây.
Số năm đi học
Hình 1.5 :Đường quỹ tích tiền lương theo số năm đi học của những người lao
động có khả năng khác nhau
Nguồn : [58] Đường quỹ tích tiền lương theo số năm đi học của Ann nằm dưới của Bob,
vì thế Ann có năng suất kém hơn Bob. Nói một cách khác những người sử dụng lao
động thưởng cho những kỹ năng giỏi hơn của Bob bằng cách trả lương anh ta nhiều
33
hơn mặc dù cả hai người lao động đều có cùng số năm đi học. Hình 1.5 cũng chỉ ra
rằng quỹ tích tiền lương theo số năm đi học của Bob dốc hơn vì thế Bob thu được
nhiều hơn khi học thêm một năm.
Người nào trong hai người đi học nhiều hơn? Mô hình đi học không cung
cấp được một câu trả lời cắt nghĩa rõ ràng cho câu hỏi này. Để xem xét tại sao,
chúng ta xét xem sự khác nhau về khả năng sẽ dịch chuyển đường diễn biến tỷ lệ
hoàn vốn biên như thế nào. Như trên đã trình bày, tỷ lệ hoàn vốn đi học biên được
tính toán bởi sự thay đổi tỷ trọng thu nhập hay là ∆w/w được suy ra từ một năm đi
học tăng thêm. Bob thu được nhiều tiền hơn nếu đi học thêm một năm vì thế tử số
có số lượng (∆w) sẽ lớn hơn đối với Bob. Mặc dù vậy, Bob cũng có tiền lương cao
hơn vì thế anh ta phải từ bỏ nhiều hơn nếu đi học ở trường, điều này chỉ ra rằng anh
Thu nhập (đô la)
Lãi suất
R
Bob
wHS
PB
Ann
wA
wDROPS
r
PA
MRRB
MRRA
11
12 Số năm đi
12
11
Số năm đi
học
học
(a)
(b)
ta cũng có mẫu số (w) lớn hơn.
Hình 1.6: Số năm đi học và thu nhập của những người lao động
có khả năng khác nhau
Nguồn : [58] Như vậy, đường diễn biến tỷ lệ hoàn vốn biên có thể hoặc là dịch chuyển vào
trong hoặc là dịch chuyển ra ngoài đối với những người lao động có khả năng hơn.
Thường giả thiết rằng mức khả năng cao hơn sẽ dịch chuyển đường diễn biến tỷ lệ
34
hoàn vốn biên sang bên phải, vì thế thu nhập có được từ một năm học thêm nhiều
hơn mức tăng thu nhập bị từ bỏ. Đường diễn biến MRR của Bob vì thế nằm về phía
bên phải của Ann như được chỉ ra trong hình 1.6 (a). Vì Bob và Ann đều có cùng tỷ
lệ chiết khấu nên Bob đi học nhiều hơn (12 năm so với 11 năm). Hình 1.6 (b) minh
họa ảnh hưởng do sự khác nhau về khả năng đến phân phối thu nhập. Bob chọn
điểm PB trên đường quy tích tiền lương theo số năm đi học; Bob đi học 12 năm và
có thu nhập wHS đô la. Ann chọn điểm PA trên đường quỹ tích tiền lương theo số
năm đi học; Ann đi học 11 năm và có thu nhập wDROP đô la.
B Khả năng bẩm sinh rất ít khi được quan sát, vì vậy nối PA và PB trong hình vẽ
và vạch ra một đường được ký hiệu là R. Điều quan trọng cần chú ý là đường này
không trùng với đường quỹ tích tiền lương theo số năm đi học của Ann và Bob. Vì
vậy, kết quả quan sát được về thu nhập và số năm đi học chưa cho phép đánh giá
được việc hoàn vốn đi học.
Nói một cách khác, Khoảng cách về tiền lương giữa Bob và Ann phát sinh vì
hai lý do. Bob đi học nhiều hơn so với Ann vì vậy thu được số tiền hoàn vốn cho
thời gian đi học thêm này. Bob cũng có mức thu nhập cao hơn so với Ann vì Bob có
khả năng hơn. Sự khác nhau về thu nhập của hai người lao động vì vậy sáp nhập cả
ảnh hưởng của giáo dục và khả năng trong thu nhập.
1.2.2 Mô hình vốn nhân lực có tính đến đào tạo trong công việc của Mincer
1.2.2.1 Dòng thu nhập theo tuổi
Việc gia tăng tiền lương trong cuộc đời được minh hoạ bởi dòng thu nhập
theo tuổi. Dòng thu nhập theo tuổi có ba tính chất quan trọng [58]:
- Những người lao động được đào tạo nhiều có thu nhập cao hơn so với
những người ít được đào tạo hơn. Chúng ta thấy rằng giáo dục làm tăng thu nhập vì
giáo dục làm tăng năng suất của người lao động.
- Thu nhập tăng theo thời gian nhưng tốc độ tăng giảm dần. Quan sát diễn
biến tăng thu nhập trong cả đời cho thấy rằng năng suất của người lao động tăng lên
thậm chí sau khi rời trường học, đó là nhờ các chương trình đào tạo trong công việc
và ngoài công việc. Mặc dù vậy, tốc độ tăng lương giảm xuống khi người lao động
35
già đi. Thanh niên dường như phải thêm nhiều hơn vào vốn nhân lực của họ so với
người lao động nhiều tuổi.
- Dòng thu nhập theo tuổi của các nhóm giáo dục khác nhau ngày càng tách
xa nhau theo thời gian. Thu nhập tăng nhanh hơn đối với người có giáo dục cao hơn.
Tốc độ tăng thu nhập nhanh hơn đối với người được giáo dục nhiều hơn cho thấy sự
bổ sung giữa đầu tư vào giáo dục và đầu tư vào đào tạo trong công việc.
1.2.2.2- Đầu tư vào vốn nhân lực sau khi học ở trường
Phần phân tích ở trên đã tập trung vào một khía cạnh cụ thể của việc đầu tư
vốn nhân lực, đó là quyết định đi học. Đa số người lao động tăng tích luỹ vốn nhân
lực của họ sau khi hoàn thành việc đi học, cụ thể là qua các chương trình đào tạo
trong công việc (On the Job Training -OJT). Có bằng chứng cho thấy OJT là một
phần quan trọng trong quá trình tích luỹ vốn nhân lực của người lao động, có lẽ là
tạo ra tối thiểu một nửa vốn nhân lực [58].
Trong tác phẩm “Vốn nhân lực” xuất bản năm 1964, Gary Becker đã trình
bày một khung lý luận để phân tích ảnh hưởng của OJT trong thị trường lao động.
Khung lý luận của Becker tiếp tục là nền tảng trong những tư liệu về vốn nhân lực
và trở thành một phần tất yếu trong bộ công cụ của kinh tế học lao động hiện đại.
Công trình của Becker nhấn mạnh rằng có hai dạng OJT gọi là đào tạo phổ
cập và đào tạo chuyên môn. Đào tạo phổ cập được định nghĩa là dạng đào tạo mà
khi được thực hiện, nó làm tăng năng suất như nhau trong tất cả các công ty. Đào
tạo chuyên môn là dạng đào tạo chỉ làm tăng năng suất trong công ty mà nó được
thực hiện và giá trị của đào tạo bị mất đi ngay khi người lao động rời khỏi công ty.
Trong thực tế, nhiều OJT là một sự kết hợp của đào tạo phổ cập và đào tạo chuyên
môn, nhưng sự chia tách về lý luận thành đào tạo phổ cập thuần tuý và đào tạo
chuyên môn thuần tuý rất có ích.
Theo khung lý luận trong mô hình của Becker, mối quan hệ việc làm giữa
công ty và người lao động trải qua hai giai đoạn. Giả thiết rằng trong giai đoạn thứ
nhất (khi người lao động được thuê), tổng chi phí lao động bằng TC1 đô la, ở giai
đoạn hai, chi phí này là TC2 đô la. Tương tự như vậy, giá trị sản phẩm biên của mỗi
36
thời kỳ tương ứng là VMP1 và VMP2. Gọi r là tỷ lệ chiết khấu. Điều kiện tối đa hoá
+
=
+
lợi nhuận đưa ra mức thuê lao động tối ưu cho công ty qua hai giai đoạn là :
TC
1
VMP
1
2
r
TC
1
+
VMP
2
1
r
+
(1-5)
Nguồn : [58]
Vế trái của phương trình cho biết giá trị hiện tại của chi phí thuê lao động
qua hai thời kỳ trong cuộc đời làm việc của họ. Vế phải đưa ra giá trị hiện tại của
những đóng góp của người lao động cho công ty. Dễ dàng thấy rằng phương trình
này khái quát hoá điều kiện lương bằng giá trị sản phẩm biên.
Giả sử rằng OJT chỉ xảy ra trong giai đoạn thứ nhất. Nó làm công ty phải
tiêu tốn H đôla để đào tạo một người lao động. Các chi phí này bao gồm lương giáo
viên và chi phí mua thiết bị đào tạo. Tổng chi phí thuê một người lao động trong
giai đoạn đầu tiên có thể coi là tổng chi phí đào tạo H và tiền lương phải trả cho
người lao động trong giai đoạn đào tạo là w1. Suy ra là TC1=H + w1. Vì không có
đào tạo phát sinh trong giai đoạn hai nên tổng chi phí thuê lao động trong giai đoạn
hai đơn giản là bằng lương, vì vậy TC2=w2. Chúng ta có thể viết lại điều kiện tối đa
Hw
+
+
=
+
hoá lợi nhuận trong phương trình (1-5) như sau :
1
VMP
1
w
2
1
r
+
VMP
2
1
r
+
(1-6)
Nguồn : [58]
Để xem tổng chi phí hoàn vốn đào tạo được phân phối như thế nào giữa
người lao động và công ty, chúng ta sắp xếp lại một chút các số hạng trong phương
w
2
G
=
trình (1-6). Cụ thể là định nghĩa một biến G như sau :
−
r
VMP
2
1
+
(1-7)
Nguồn : [58]
Trong giai đoạn sau đào tạo, người lao động đóng góp VMP2 đôla vào doanh
thu của công ty, nhưng công ty chỉ trả lương người lao động w2 đô la. Vì vậy, biến
G đưa ra thu nhập được chiết khấu cho công ty đã đào tạo người lao động ở giai
đoạn hai. Bằng việc sắp xếp lại các số hạng trong phương trình (1-6) sẽ thu được :
37
(1-8) w1 + H = VMP1 + G
Nguồn : [58]
Bên trả tiền cho đào tạo phổ cập
Xét trường hợp tất cả là đào tạo phổ cập. Trong giai đoạn sau đào tạo, giá trị
sản phẩm biên của người lao động tăng đến VMP2 trong tất cả các công ty. Vì vậy,
rất nhiều công ty mong muốn trả người lao động mức lương bằng VMP2. Công ty
thực hiện đào tạo phải lựa chọn hoặc theo đề nghị tăng lương tới VMP2 hoặc mất
người lao động. Vì vậy công ty không cảm nhận được bất kỳ lợi ích gì khi thực hiện
đào tạo phổ cập vì phải tăng tiền lương sau đào tạo tương ứng với giá trị sản phẩm
biên sau đào tạo. nếu G=0 thì phương trình (1-8) được viết lại là :
(1-9) w1 = VMP1 - H
Nguồn : [58]
Lương trong giai đoạn đầu tiên bằng giá trị sản phẩm biên ban đầu trừ đi chi
phí đào tạo. Nói một cách khác, người lao động trả tiền cho đào tạo phổ cập bằng
cách chấp nhận mức lương đi học thấp hơn trong giai đoạn đào tạo. Trong giai đoạn
hai, người lao động thu được việc hoàn vốn đào tạo do nhận được mức lương bằng
giá trị sản phẩm biên sau đào tạo. Vì vậy, các công ty cung cấp đào tạo phổ cập
không trả bất kỳ chi phí đào tạo nào.
Bên trả tiền cho đào tạo chuyên môn
Các kết luận trên sẽ thay đổi mạnh mẽ nếu đào tạo mang tính chuyên môn
đối với công ty. Năng suất thu được từ đào tạo sẽ mất đi ngay khi người lao động
rời khỏi công ty. Vì vậy, tiền lương thay đổi của người lao động (đó là tiền lương
mà công ty muốn trả) là độc lập với đào tạo và bằng năng suất trước đào tạo của
người lao động. Vậy ai trả tiền cho đào tạo chuyên môn và ai được hoàn vốn ?
Xét vấn đề xảy ra nếu một công ty trả tiền cho đào tạo chuyên môn. Công ty
có thể phát sinh chi phí và được hoàn vốn vì không thay đổi lương trong giai đoạn
sau đào tạo, mặc dù giá trị sản phẩm biên của người lao động trong công ty này tăng
lên. Vì VMP2 sau đó vượt hơn w2, nên có nhiều ích lợi khi cung cấp đào tạo (sao
cho biến G dương). Tuy vậy, nếu người lao động bỏ đi trong giai đoạn thứ hai, công
38
ty sẽ chịu tổn thất về vốn. Vì thế, công ty sẽ do dự khi trả tiền cho đào tạo chuyên
môn trừ khi có một số đảm bảo rằng người lao động được đào tạo không bỏ đi.
Giả sử rằng người lao động trả tiền cho đào tạo chuyên môn. Người lao động
sau đó sẽ nhận được lương thấp trong quá trình đào tạo và lương cao hơn trong giai
đoạn sau đào tạo. Mặc dù vậy, người lao động chưa có một đảm bảo chắc chắn là
công ty sẽ thuê mình trong giai đoạn hai. Nếu người lao động bỏ đi thì sẽ mất đi sự
đầu tư của mình vì đào tạo chuyên môn không thể di chuyển được. Vì vậy, người
lao động không muốn đầu tư vào đào tạo chuyên môn trừ khi có bằng chứng tin
tưởng rằng mình không bị bỏ rơi.
Như vậy, cả công ty và người lao động đều có những miễn cưỡng khi đầu tư
vào đào tạo chuyên môn. Vấn đề phát sinh vì không tồn tại một hợp đồng ràng buộc
về mặt pháp lý trói buộc người lao động và công ty với nhau “cùng làm việc cho
đến chết”. Không có bên nào muốn đi đầu trong việc trả tiền cho đào tạo.
Becker đã đề xuất một cách thoát khỏi tình thế này bằng cách thông báo rằng
xác suất của cả hai việc rời bỏ công ty và ngừng sản xuất có thể giảm xuống nhờ
điều chỉnh một chút tiền lương sau đào tạo. Xét một hợp đồng lao động trong đó
lương sau đào tạo của người lao động w2 được xác lập như sau :
(1-10) ⎯w < w2 < VMP2
Nguồn : [58]
Trong đó⎯w là tiền lương thay đổi. Hợp đồng này có nghĩa là người lao động
và công ty chia sẻ việc hoàn vốn từ đào tạo chuyên môn. Lương sau đào tạo của
người lao động w2 cao hơn so với năng suất của họ ở bất cứ đâu khác nhưng nhỏ
hơn so với năng suất của họ trong công ty hiện tại Như vậy, người lao động ở lại
công ty hiện tại sẽ tốt hơn so với công ty khác, họ không có động cơ để bỏ đi.
Tương tự như vậy, công ty tốt hơn là thuê người lao động so với để họ ra đi (vì
người lao động sẽ được trả lương ít hơn so với giá trị sản phẩm biên của họ), nên
công ty không muốn để người lao động ra đi. Nếu cả công ty và người lao động
cùng chia sẻ việc hoàn vốn đào tạo chuyên môn thì xác suất rời bỏ công việc trong
giai đoạn sau đào tạo sẽ bị loại trừ. Tóm lại, nếu công ty và người lao động chia sẻ
39
hoàn vốn đào tạo chuyên môn như được nêu ra bởi hợp đồng theo phương trình
(1-10) thì họ cũng sẽ cùng chia sẻ chi phí.
1.2.2.3 Đào tạo trong công việc và diễn biến thu nhập theo tuổi
Vì OJT ảnh hưởng đến tiền lương nên dạng của diễn biến thu nhập theo tuổi
phụ thuộc vào quyết định về thời gian đầu tư vốn nhân lực trong suốt quãng đời làm
việc. Ở mỗi độ tuổi, người lao động muốn đầu tư vào vốn nhân lực tới điểm mà tại
đó doanh thu đầu tư biên bằng chi phí đầu tư biên. Vì thế, để mô tả quyết định thời
gian thu nhận vốn nhân lực, cần phải mô tả cái gì xảy ra với doanh thu biên và chi
phí biên của việc đầu tư vốn nhân lực khi người lao động ngày càng nhiều tuổi.
Sự tích luỹ vốn nhân lực được đo bằng đơn vị hiệu quả. Các đơn vị hiệu quả
đang có hiệu lực là các đơn vị tiêu chuẩn hoá của vốn nhân lực. Tổng tích luỹ vốn
nhân lực của người lao động bằng số đơn vị hiệu quả tồn tại trong người lao động.
Một đơn vị vốn nhân lực hiệu quả có thể được thuê trong thị trường lao động
và giá thuê là R đôla. Thị trường đối với các đơn vị hiệu quả là thị trường cạnh
tranh vì thế giá thuê một đơn vị là R đôla không kể một người lao động có bao
nhiêu đơn vị hiệu quả. Để giữ cho mọi việc đơn giản, giả sử rằng tất cả đào tạo là
đào tạo phổ cập và không có sự giảm giá trị vốn nhân lực tích luỹ theo thời gian. Vì
thế, một đơn vị hiệu quả vốn nhân lực tạo ra R đôla mỗi năm từ thời điểm bắt đầu
tham gia thị trường lao động đến lúc nghỉ hưu ở tuổi 65.
Giả sử người lao động gia nhập thị trường lao động ở tuổi 18. Doanh thu
64
MR
=
18
biên nhờ thu được một đơn vị hiệu quả vốn nhân lực vào lúc này được tính như sau:
18
−
(1-11)
∑
R
t)r
(
1
+
t
18
=
Nguồn : [58]
Trong đó r là tỷ lệ chiết khấu. Phương trình 1-11 cho biết nếu một người lao
động thu được một đơn vị hiệu quả ở tuổi 18, việc đầu tư này thu được sự hoàn vốn
R đôla trong năm đầu tiên. Trong năm thứ hai, một đơn vị hiệu quả giống như vậy
mang lại sự hoàn vốn bằng R/(1+r) đôla (theo giá trị hiện tại); trong năm thứ ba, sự
40
hoàn vốn bằng R/(1+r)2 đôla;…Phương trình 1-11 bổ sung một cách đơn giản sự
hoàn vốn cho một đơn vị hiệu quả được chiết khấu trong suốt quãng đời làm việc.
Đường MR18 trong hình 1.7 minh hoạ mối quan hệ giữa doanh thu biên của
một đơn vị hiệu quả thu được ở tuổi 18 và số đơn vị hiệu quả mà người lao động thu
được. Do đã giả sử rằng giá thuê R là giống nhau bất kể người lao động thu được
bao nhiêu vốn nhân lực nên đường doanh thu biên MR18 là một đường nằm ngang.
Giả sử người lao động nhìn về tương lai và muốn biết sẽ nhận được bao
nhiêu đơn vị hiệu quả vốn nhân lực vào năm tới. Doanh thu biên của một đơn vị
64
MR
=
19
hiệu quả thu được ở tuổi 19 được tính như sau :
18
−
(1-12)
∑
R
t)r
(
1
+
t
19
=
Nguồn : [58]
Phương trình 1-12 cho thấy doanh thu biên của một đơn vị hiệu quả thu được
Đôla
MC
MR18
MR19
Các đơn vị
hiệu quả
Q18
Q19
ở tuổi 19 là tổng được chiết khấu của giá trị hoàn vốn thu được ở tuổi 19, tuổi 20…
Hình 1.7 : Sự thu nhận vốn nhân lực trong cả cuộc đời.
Nguồn : [58]
Bằng cách so sánh doanh thu biên của một đơn vị hiệu quả thu được ở tuổi18
và 19 có thể thấy rằng doanh thu biên của việc đầu tư ở tuổi 18 vượt hơn doanh thu
41
biên của việc đầu tư ở tuổi 19. Điều này được minh hoạ trong hình 1.7 và nó chỉ ra
rằng đường MR19 nằm dưới đường MR18. Doanh thu biên của việc đầu tư vào vốn
nhân lực giảm xuống khi người lao động nhiều tuổi hơn vì một lý do đơn giản là
con người không sống mãi mãi. Vốn nhân lực thu được khi còn trẻ có thể được thuê
trong một thời gian dài trong khi việc đầu tư được tiến hành ở tuổi cao hơn có thể
chỉ được thuê trong một thời gian ngắn hơn. Vì vậy, đầu tư vốn nhân lực càng có
nhiều lợi ích hơn khi người lao động tiến hành đầu tư càng sớm.
Như đã nêu trước đây, số lượng đơn vị hiệu quả thực tế thu được ở bất kỳ
tuổi nào được quyết định bằng cách so sánh tương đương giữa doanh thu biên và
chi phí biên của việc đầu tư vốn nhân lực. Đường chi phí biên (MC) cũng được
minh hoạ trên hình 1.7 có dạng thông thường là : chi phí biên tăng cao khi thu được
nhiều đơn vị hiệu quả. Hình dạng của đường chi phí biên được quyết định bởi hàm
sản xuất cơ sở đối với vốn nhân lực. Giả thiết tỷ lệ hoàn vốn giảm dần của các đơn
vị hiệu quả trong sản xuất đảm bảo rằng chi phí biên tăng (với một tốc độ ngày càng
tăng) khi người lao động cố gắng thu được nhiều vốn nhân lực hơn.
Giao điểm của MR18 và đường cong chi phí biên trong hình 1.7 chỉ ra rằng
người lao động sẽ thu được Q18 đơn vị hiệu quả ở tuổi 18. Vì doanh thu đầu tư vốn
nhân lực biên giảm theo thời gian nên mức đầu tư tối ưu ở tuổi 19 giảm xuống Q19.
Nói một cách khác, người lao động thu được ít đơn vị hiệu quả hơn khi tuổi cao hơn.
Kết quả này giúp chúng ta hiểu tại sao người lao động thường đi học khi còn trẻ, tại
sao giai đoạn chuyên môn hoá hoàn chỉnh việc đầu tư vào vốn nhân lực được tiếp
tục bởi một giai đoạn đào tạo trong công việc và tại sao hoạt động đào tạo trong
công việc giảm khi người lao động nhiều tuổi hơn. Việc quyết định thời gian đầu tư
trong cả đời là để tối đa hoá giá trị thu nhập hiện tại trong thời gian làm việc.
42
Đôla
Đường thu nhập theo tuổi
Tuổi
Hình 1.8 : Diễn biến thu nhập theo tuổi theo lý thuyết vốn nhân lực
Nguồn : [58]
Vì người lao động thu được nhiều vốn nhân lực hơn khi còn trẻ nên diễn biến
thu nhập theo tuổi dốc lên như được minh hoạ trong hình 1.8. Như chúng ta thấy,
người lao động trả tiền cho đào tạo trong công việc thông qua việc chấp nhận lương
bị giảm. Vì thế, người lao động nhiều tuổi hơn sẽ có thu nhập cao hơn so với người
trẻ hơn vì những lao động nhiều tuổi thu được ít đơn vị vốn nhân lực hiệu quả hơn
và vì vậy họ có thu nhập bị từ bỏ thấp hơn. Những người lao động nhiều tuổi có thu
nhập cao hơn vì họ thu được sự hoàn vốn do đã đầu tư trước đây.
Việc quyết định thời gian đầu tư tối ưu trong quãng đời làm việc của người
lao động cũng cho thấy rằng diễn biến thu nhập theo tuổi là một đường lõm vì thế
thu nhập tăng lên theo thời gian nhưng với tốc độ giảm dần. Tốc độ tăng lương từ
năm này sang năm kia phụ thuộc một phần vào số đơn vị hiệu quả bổ sung mà
người lao động nhận được. Vì thu được ít đơn vị hơn khi người lao động nhiều tuổi
hơn nên tốc độ tăng lương giảm theo thời gian.
1.2.2.4 Mô hình vốn nhân lực của Jacob Mincer
Các hệ quả của mô hình vốn nhân lực đối với diễn biến thu nhập theo tuổi đã
trở thành đối tượng của nhiều phân tích thực nghiệm. Hướng nghiên cứu này đạt
43
đỉnh cao khi Mincer phát triển hàm số thu nhập vốn nhân lực. Cụ thể là Mincer đã
(1-13) chỉ ra rằng mô hình vốn nhân lực tạo ra diễn biến thu nhập theo tuổi có dạng :
log w = βs+δ1t+δ2t2+ các biến khác
Nguồn : [58]
Ở đây, w là tốc độ biến đổi tiền lương của người lao động, s là số năm đi học,
t là số năm kinh nghiệm làm việc trong thị trường lao động và t2 biểu thị một
phương trình bậc 2 đối với kinh nghiệm và nó tạo ra tính lõm của đường diễn biến
thu nhập theo tuổi.
Trong hàm số thu nhập Mincer, β ước lượng tốc độ hoàn vốn đi học (mặc dù
chúng ta đã biết, điều này chỉ đúng khi không có độ nghiêng khả năng), hệ số của
kinh nghiệm và bình phương kinh nghiệm đo lường tầm quan trọng của OJT trong
kịch bản vốn nhân lực của người lao động. Nếu người lao động không đầu tư vào
OJT thì các hệ số gắn liền với các biến kinh nghiệm sẽ bằng không.
1.3 Quá trình tạo vốn nhân lực
1.3.1 Tạo vốn nhân lực qua đào tạo chính quy và không chính quy
Có một câu hỏi đặt ra là tăng 10% ngân sách cho giáo dục người lao động
hay tăng 10% vốn giúp làm tăng năng suất nhiều hơn. Câu trả lời là hãy đầu tư tiền
cho giáo dục.
Kết luận này được rút ra từ cuộc khảo sát những người sử dụng lao động
trong cả nước Mỹ (NES) vào năm 1994 do trung tâm chất lượng giáo dục lực lượng
lao động quốc gia (EQW) Mỹ tiến hành. EQW-NES đã tiến hành một cuộc điều tra
qua điện thoại với các đối tượng điều tra là các nhà quản lý và giới chủ của 3000
doanh nghiệp thuê từ 20 lao động trở lên. Kết quả cuộc điều tra đã cho thấy tăng số
năm đi học của người lao động sẽ đóng góp lớn hơn vào năng suất lao động so với
tăng vốn hay tăng giờ làm việc. Tính chung cho tất cả các công ty, 10% tăng lên
trong giáo dục gắn liền với 8,6% tăng lên về năng suất, trong khi tăng 10% vốn chỉ
giúp tăng thêm năng suất 3,4%. Trong lĩnh vực phi sản xuất, kết quả thậm chí còn
ấn tượng hơn. Tăng 10% cho giáo dục, giờ làm việc và vốn tương ứng làm tăng
năng suất thêm 11%, 6,3% và 3,9% [85].
44
Có nhiều nghiên cứu trước đây đều cho thấy rằng một tổ chức có nhiều cách
để tạo dựng vốn nhân lực [17], [36], [72], [78]. Đào tạo chính quy mà những nhân
viên mới mang tới tổ chức chỉ là một nguồn, ngoài ra tổ chức còn có thể thuê vốn
nhân lực hoặc có thể học tập để nâng cao vốn nhân lực ngay trong nội bộ tổ chức.
Đặc biệt là đối với các yếu tố kiến thức và kỹ năng, các cơ hội học tập có thể đóng
góp đáng kể vào vốn nhân lực của cá nhân cũng như tổng vốn nhân lực.
Những người sử dụng lao động thường thể hiện mong muốn tạo dựng vốn
nhân lực thông qua việc thực hiện các khoá đào tạo do tổ chức tài trợ. Các khoá học
này có thể là đào tạo chính quy tại các trường hoặc đào tạo không chính quy trong
công việc. Các đặc điểm của học tập chính quy và không chính quy được thể hiện
trong bảng sau :
Bảng 1.3 Các đặc điểm của học tập chính quy và không chính quy
TT Học tập không chính quy Học tập chính quy
1 Liên quan cao đến nhu cầu cá nhân Liên quan đến một số người, không liên
2 Việc học tập rất khác nhau giữa
những người học. Những người
học học những nội dung khác nhau
căn cứ vào nhu cầu của mình.
3 Khoảng cách giữa kiến thức hiện
tại và kiến thức mục tiêu rất nhỏ.
4 Người học quyết định học tập như
thế nào để áp dụng được ngay
("học đúng lúc")
5 Diễn ra tại nơi làm việc quan nhiều đến một số người khác
Việc học tập có những yêu cầu giống
nhau giữa những người học, nghĩa là tất
cả những học viên phải học cùng nội
dung như nhau.
Khoảng cách giữa kiến thức hiện tại và
kiến thức mục tiêu hay thay đổi.
Giảng viên quyết định thời điểm áp
dụng những nội dung học tập, có thể
học xong sử dụng được ngay, có thể tốt
cho trước đây hoặc tốt cho sau này.
Thường không diễn ra ở nơi làm việc.
Nguồn : [85]
Chính quan điểm cho rằng người lao động là tài sản đã thúc đẩy quá trình
quản lý đi theo con đường truyền thống là chỉ đầu tư vào đào tạo có hiệu quả biên.
Nếu người lao động là tài sản thì càng cung cấp nhiều kiến thức cho họ hơn, giá trị
của họ đối với tổ chức sẽ lớn hơn, vấn đề là làm thế nào để đo được nó. Cách tiếp
45
cận truyền thống là cung cấp nhiều kiến thức cho người lao động thông qua đào tạo
không đạt được mục tiêu do hai nguyên nhân : thứ nhất là việc cung cấp nhiều kiến
thức không tạo điều kiện thuận lợi cho năng lực học tập của một cá nhân ; thứ hai là
không thể tạo thành vốn dựa trên khả năng cung cấp các cơ hội đào tạo của tổ chức.
Lý do là vì những người lao động là những người tham dự chủ động vào quá trình
học tập, họ là những người chủ vốn nhân lực, những người cần kiểm soát toàn bộ
quá trình học tập và tham dự vào việc sáng tạo và truyền đạt kiến thức.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng có hai dạng kiến thức cơ bản là kiến thức
ngầm và kiến thức hiện. Kiến thức ngầm bao gồm những kiến thức mà con người
biết nhưng không thể diễn đạt một cách rõ ràng. Con người nhận thức được chúng
thông qua các biểu tượng, sự tương tự, các ký hiệu và các biểu hiện nhận thức khác.
Bởi vậy, cách tốt nhất để truyền tải kiến thức ngầm giữa những người lao động là
tạo ra và tận dụng các cơ hội để đưa những người có kiến thức làm việc với những
người cần kiến thức đó. Với ý nghĩa này, nhóm làm việc tỏ ra là một phương tiện
hữu hiệu đối với quá trình học tập không chính quy.
Kiến thức hiện hay còn gọi là kiến thức được hệ thống hoá đề cập đến loại
kiến thức mà con người sáng tạo ra và truyền tải chúng thông qua ngôn ngữ một
cách chính quy và có hệ thống. Đây cũng là một dạng kiến thức rất có giá trị và bền
vững. Kiến thức hiện, ngay khi được nắm bắt ở dạng hữu hình có thể duy trì lâu dài
trong tổ chức sau khi được con người tạo ra và ghi chép bằng văn bản. Với dạng
kiến thức này, học tập chính quy sẽ giúp người lao động tiếp thu kiến thức tốt hơn
so với học tập không chính quy.
1.3.2 Tạo vốn nhân lực thông qua xác lập một thị trường kiến thức
Xác lập một thị trường kiến thức cũng là một phương tiện quan trọng trong
công tác tạo dựng vốn nhân lực cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thường đề cập
đến tri thức như một nguồn lực cần được quản lý. Khái niệm này được làm giàu
thêm bằng cách xét một thị trường nội bộ mà thị trường này giúp tăng cường trao
đổi và phân phối kiến thức. Để thực hiện chức năng một cách hiệu quả, một thị
trường kiến thức yêu cầu các thành phần giống như bất kỳ một thị trường hiệu quả
46
nào khác, đó là có sản phẩm, nhà sản xuất, người bán hàng, người mua có nhu cầu
và nhà môi giới trao đổi.
Sản phẩm là kiến thức ẩn được chuyển thành dạng kiến thức hiện ở dạng một
tài liệu, một đĩa CD...Nhu cầu của người mua sản phẩm phát sinh vì một số lý do (ví
dụ vì khoảng cách xa), anh ta không thể tham dự vào một nhóm khác để có thể cập
nhật tới cái mà thành viên khác đã biết. Điều này tạo ra một cơ hội cho nhà sản
xuất-người bán đang sở hữu những kiến thức mà người khác không biết tạo ra một
sản phẩm kiến thức và chuyển nó cho khách hàng để mang lại lợi ích cho cả hai
phía. Một giá trị nào đó phải được chuyển từ khách hàng sang nhà cung cấp để hoàn
thiện giao dịch.
Khi chúng ta nói về các bên trong trao đổi, một thực thể thứ ba, không phải
người bán-nhà sản xuất, cũng không phải khách hàng đã được đề cập đến. Tổ chức
có sự biến đổi kiến thức của chính nó và quan tâm đến sự lan truyền kiến thức. Điều
này có thể bao gồm nhưng vượt quá sự quan tâm của các nhà sản xuất và người mua
cá nhân. Nếu như các công ty dịch vụ chuyên nghiệp, có văn phòng ở một nơi
nhưng lại muốn chia sẻ dữ liệu họ có cho nhiều nơi khác trên thế giới cùng sử dụng
thì những người ở các nơi khác nhau có thể sẽ không còn cảm thấy quá xa cách khi
họ cần những ý tưởng mới hoặc một chút thông tin. Tuy nhiên, do sự phân tán nên
rất khó có thể tạo dựng được các mối liên hệ với nhau. Ngược lại, những người có
công việc ổn định có thể không muốn cố tạo ra các sản phẩm kiến thức ngoài những
gì họ biết mặc dù những kiến thức rất có giá trị của họ có thể có giá trị đối với
những người khác trong tổ chức.
Đôi khi, việc trao đổi kiến thức có thể dễ dàng trong phạm vi các nhóm, cộng
đồng và các cá nhân. Họ chia sẻ các kiến thức mà họ tạo ra một cách tự phát như là
một phần công việc của họ, Trong một số trường hợp, tổ chức có thể nhìn thấy tiềm
năng đối với việc làm hoà hợp và phát huy các kiến thức đang nằm rải rác trong
công ty. Trong khi tìm kiếm để khuyến khích sự biến đổi và phân phối nhiều kiến
thức ở dạng hiện này hơn, tổ chức có thể đóng một số vai trò khác nhau như :
- Phát hiện ra các kiến thức đáng để biến đổi và truyền đạt cho người khác.
47
- Tài trợ cho quá trình biến đổi và phân phối.
- Khích lệ nhà sản xuất-người bán và khách hàng, qua đó tiếp thêm năng
lượng cho thị trường kiến thức. Có thể khích lệ bằng cách tài trợ tiền cho các kiến
thức sử dụng được, tài trợ tiền cho các nhóm tạo ra các sản phẩm kiến thức. Có ba
dạng thanh toán giữa người cung cấp và người mua thông tin trong nội bộ tổ chức.
Đó là : sự trao đổi lẫn nhau (anh phải giúp tôi sau này nếu tôi giúp anh bây giờ) ;
danh tiếng (nhìn nhận tôi một cách công khai với vai trò là nguồn cung cấp thông
tin) ; sự vị tha (đừng đưa cho tôi bất kỳ cái gì, tôi sẽ giúp vì tôi biết nó có ích cho
bạn và cho công ty).
Trong bất kỳ thị trường nào, các đặc trưng của sản phẩm đóng vai trò quyết
định. Đôi khi, các ý tưởng và thông tin chỉ yêu cầu những biến đổi hết sức đơn
giản ; mọi người có thể sẵn sàng áp dụng ngay những kinh nghiệm bán hàng thành
công do những người đi đầu khởi xướng. Tuy nhiên, việc cải tiến và nâng cấp
những kiến thức nguyên bản đó đòi hỏi những nỗ lực biến đổi phức tạp hơn. Những
dữ liệu ban đầu có thể rất ít có giá trị khi môi trường thay đổi, dữ liệu có thể coi là
nguyên liệu thô cho quá trình biến đổi thành thông tin có ích cho doanh nghiệp
thông qua việc định dạng lại các dữ liệu sao cho chúng được biểu diễn ở dạng mô
hình để có thể áp dụng được ngay. Tuy vậy, khi dữ liệu đã trở thành thông tin thì
nhiều tổ chức dừng lại ở đây, mặc dù thông tin chưa thể hiện hết các tiềm năng và
các lợi ích đầy đủ của chúng, có rất nhiều giá trị tiềm ẩn trong thông tin đó vẫn chưa
được khai thác hết. Bằng cách đào sâu thông tin, phân tích các mô hình và xác định
nguyên nhân gốc rễ, định hướng sự tác động, một tổ chức có thể chuyển thông tin
thành tri thức, và bước cuối cùng trong sự biến đổi là chuyển tri thức thành vốn
thông tin [85]. Việc biến đổi này xảy ra khi tổ chức làm các công việc sau :
- Xác định dạng tri thức nào có giá trị chiến lược lớn nhất và thể chế hoá quá
trình thu nhận và phân tích nó.
- Chia sẻ tri thức giữa những người dùng quan trọng thông qua các kênh
thông tin được thiết kế phù hợp.
48
- Tạo dựng các quá trình chính thức để đưa các tri thức vào việc lập kế hoạch
và điều hành các chiến lược cạnh tranh.
Hình 1.9 dưới đây minh hoạ quá trình hình thành vốn thông tin :
Phương pháp chuyển đổi lên mức tiếp theo
ạD ng kiến thức
Dữ liệu
- Thêm dữ liệu liên quan
- Định dạng và tạo báo cáo
Thông tin
- Phân tích dữ liệu
- Khảo sát các nguyên
nhân chính, lập mô hình
Tri thức
- Xác định tri thức có giá trị nhất
- Phân phối cho người sử dụng chính.
- Gắn vào việc lập kế hoạch quá trình
- Gắn vào giáo dục quản lý thường xuyên
Vốn thông tin
Hình 1.9 :Mô hình nâng cấp dữ liệu thành vốn thông tin
Nguồn : [85]
Sản phẩm vốn thông tin có ích sẽ bao gồm các đặc điểm sau đây :
- Ngữ cảnh : Giới thiệu các tài liệu xác lập khuôn khổ cho người dùng biết
kiến thức sẽ vận hành như thế nào, nó giải quyết được vấn đề bằng cách nào và cần
có những kỹ năng và nguồn lực gì để có thể áp dụng được nó.
- Tính toàn diện : các câu trả lời hoặc các nguồn đối với các câu trả lời cho
tất cả các vấn đề liên quan được thể hiện hết trong sản phẩm. Sản phẩm thường là
không chứa mọi tri thức về một chủ đề nào đó nhưng nó có đủ chiều sâu để người
49
dùng hiểu liệu một khía cạnh cụ thể có giải quyết được vấn đề của mình không và
chỉ cho người dùng sự giải thích chi tiết hơn.
- Có thể tiếp cận được : Phân phối ở dạng cho phép các máy tính có cấu hình
tối thiểu có thể truy cập được.
- Được sắp xếp thành từng tầng, từng lớp : bố trí sao cho người sử dụng có
thể đi sâu vào trong thông tin hoặc có thể tìm hiểu những thông tin ở bề mặt một
cách thuận lợi.
- Kết nối với nguồn : khuyến khích người dùng liên hệ với những người
đóng góp những hiểu biết cụ thể cho sản phẩm.
- Trợ giúp quá trình đào tạo : sẵn có những hướng dẫn từ những người đang
hành nghề đã tham gia phát triển sản phẩm. Điều này có thể giới hạn từ việc đào tạo
chính quy do công ty tài trợ (được chuyển giao tốt nhất cho các nhóm tại nơi làm
việc của họ) cho đến các bài học không chính quy, tại đó những người khởi xướng
chia sẻ mọi vấn đề với những người khác.
- Sự tiến bộ liên tục : Quá trình xây dựng các sản phẩm kiến thức cho người
sử dụng đã buộc các nhà phát triển phải biết kiến thức nào là quan trọng khi kinh
nghiệm của thế giới ngày càng nhiều. Mỗi người dùng sẽ tạo ra kiến thức hữu ích
hơn, xứng đáng được đưa vào cuộc sống và biến nó thành các sản phẩm kiến thức.
Như vậy, đối với một doanh nghiệp, rõ ràng là doanh nghiệp có được lợi thế
cạnh tranh không chỉ nhờ vào các kiến thức doanh nghiệp có mà còn phụ thuộc vào
tính hiệu quả của việc tạo ra kiến thức và phân phối kiến thức. Kiến thức có ảnh
hưởng đầy đủ là các kiến thức mà số người có nó ngày càng tăng lên và tăng nhanh.
Hơn nữa, những người đã thu được kiến thức và kỹ năng phải sử dụng được hết
chúng một cách hiệu quả. Công ty có thể có được tính sắc bén trong cạnh tranh
thông qua khả năng và năng lực (của cả cá nhân và tổ chức) chuyển phần lớn những
kiến thức mà một người biết và có thể làm sang cho những người khác. Điều này
giúp công ty làm cho kiến thức đi vào bàn tay, khối óc của nhiều người hơn, đóng
góp nhiều hơn cho kho vốn nhân lực của công ty và tạo dựng " tổ chức học tập"
trong công ty.
50
1.3.3 Các chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực
1.3.3.1 Chiến lược thu hút vốn nhân lực từ doanh nghiệp khác
Chiến lược này hết sức đơn giản, đó là để cho các tổ chức khác đầu tư vào
vốn nhân lực. Động lực thúc đẩy tổ chức thực hiện chiến lược này là nhằm quản trị
chi phí, nghĩa là tổ chức hoặc là có ý định cắt giảm chi phí hoặc là tránh chi những
khoản liên quan đến nhân viên. Việc tập trung vào chi phí như vậy thường là do tính
không ổn định trong một tổ chức hoặc một ngành hoặc tổ chức chỉ có nhu cầu về
chuyên gia trong một lĩnh vực đặc biệt nào đó. Các công ty có các mục tiêu ngắn
hạn hoặc các công ty đang phải cố gắng để tồn tại thường sử dụng chiến lược này.
Các công ty sử dụng chiến lược thu hút vốn nhân lực từ doanh nghiệp khác
thường có ba cách tiếp cận. Cách tiếp cận thứ nhất là tuyển dụng những nhân viên
có đủ khả năng, năng lực để làm việc ngay mà không cần phải đào tạo thêm. Với
cách tiếp cận này, công ty cần rất ít hoặc có thể không cần thực hiện các biện pháp
bổ sung nhằm nâng cao hiệu suất làm việc của nhân viên hoặc phát triển họ cho
công việc trong tương lai. Cách tiếp cận thứ hai là sử dụng hợp đồng thuê người
theo thời vụ. Cách tiếp cận này cho phép tổ chức bổ sung hoặc dừng sử dụng nhân
viên với rất ít hoặc không cần cam kết gì với họ, do đó giảm được chi phí tuyển
dụng và chấm dứt hợp đồng với nhân viên. Cách tiếp cận thứ ba là thuê các tổ chức
bên ngoài thực hiện một số chức năng, thường là với chi phí thấp.
1.3.3.2 Chiến lược đầu tư tối thiểu vào vốn nhân lực
Chiến lược này nhằm đầu tư ít nhất vào nhân viên trên mọi giác độ chi phí
cho nhân viên : Xác lập mức lương xấp xỉ lương tối thiểu hoặc rất thấp trong ngành,
cung cấp các phúc lợi ở mức độ vượt hơn quy định của pháp luật một lượng nhỏ,
đầu tư vào đào tạo chỉ để thực hiện các công việc hiện tại, không tính đến phát triển
nhân lực hoặc chuẩn bị nhân lực cho các công việc trong tương lai, đưa ra rất ít các
dịch vụ hỗ trợ cho nhân viên. Các tổ chức chấp nhận triết lý này vận hành theo văn
hoá chấp nhận cạnh tranh trong nội bộ tổ chức. Các tổ chức này thường có biến
động lao động lớn, thường điều chỉnh các quá trình và hệ thống có tính đến sự xáo
động của nhân viên.
51
Không nên nhầm chiến lược này với chiến lược phân phối nguồn lực hiệu
quả. Rõ ràng hiệu quả nhận được ở đây là giữ chi phí ở mức tối thiểu. Chiến lược
này là một sự cân nhắc để phân phối các nguồn đầu tư tối thiểu vào vốn nhân lực.
1.3.3.3 Chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực theo phương pháp Benchmarking
Một số tổ chức ưa thích đầu tư vào vốn nhân lực ở mức độ giống như các tổ
chức khác đã thực hiện. Sử dụng các dữ liệu theo chuẩn, các tổ chức này xác định
các thước đo đặc thù từ các tổ chức thường được xem là tốt nhất trong thực tế và cố
gắng sao lại mức đầu tư của tổ chức này vào tổ chức của mình. Benchmarking là
một cách tiếp cận phổ biến để hiểu các vấn đề về vốn nhân lực, đặc biệt là vấn đề
đầu tư vào vốn nhân lực.
Chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực theo phương pháp benchmarking bao
gồm việc thu thập đầy đủ các dữ liệu từ một loạt các tổ chức tương đồng, thường là
các tổ chức đang thực hiện tốt nhất trong thực tế, để xác định phạm vi trong đó các
tổ chức này đầu tư vào một loạt các hoạt động, các quá trình và các chức năng vốn
nhân lực. Dữ liệu benchmarking được sử dụng để định hướng cho sự hoàn thiện
hoặc sự thay đổi nếu cần thiết để đạt hoặc vượt hơn mức chuẩn. Về bản chất, chiến
lược này giúp tổ chức có mức đầu tư như của các tổ chức được dùng làm chuẩn.
1.3.3.4 Chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực vượt nhu cầu cần thiết
Trong chiến lược này, các tổ chức đầu tư vào vốn nhân lực vượt quá nhu cầu
cần thiết để đáp ứng mục tiêu của tổ chức. Các nhà điều hành thực hiện hầu như
toàn bộ chương trình hoặc dự án mà họ có, sẵn sàng cung cấp đủ các phúc lợi cho
nhân viên và truyền đạt cho họ tất cả các ý tưởng mới xuất hiện. Đối với đa số các
tổ chức đầu tư vượt quá vốn nhân lực cần thiết, chiến lược này không phải là một sự
theo đuổi cẩn trọng ; có thể là nó xảy ra một cách không có chủ định trước do việc
mong muốn thực hiện mọi việc có thể để đảm bảo vốn nhân lực được tài trợ tốt.
1.3.3.5 Chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực khi còn có lợi nhuận từ việc đầu tư
Một số tổ chức ưa thích đầu tư vào vốn nhân lực khi có bằng chứng rằng việc
đầu tư đó mang lại lợi nhuận. Họ thường so sánh lợi ích tính bằng tiền với chi phí
của các chương trình tạo vốn nhân lực. Chiến lược này trở nên phổ biến hơn khi sử
52
dụng tỷ suất hoàn vốn đầu tư (ROI) như là một công cụ đánh giá công việc kinh
doanh. Với chiến lược này, tất cả các chương trình nguồn nhân lực sẽ được đánh giá
và một số chương trình quan trọng sẽ được đánh giá ở mức ROI, nghĩa là lợi ích
bằng tiền so với chi phí đầu tư.
Chiến lược ROI tập trung vào thực hiện đo lường toàn diện và đánh giá toàn
diện đối với các chi tiêu cho vốn nhân lực trong tổ chức. Việc này bao gồm nắm bắt
tới bảy dạng dữ liệu sau đây khi một chương trình vốn nhân lực được thực hiện. Các
dạng dữ liệu này chính là các thước đo của chương trình tạo vốn nhân lực [60].
- Phản ứng với chương trình và sự hài lòng với chương trình.
- Các kiến thức và kỹ năng cần hoàn thiện để giúp chương trình thành công.
- Việc xin tham dự và việc thực hiện chương trình
- Các thước đo ảnh hưởng đến công việc chuyên môn được liên kết trực tiếp
với chương trình.
- Dữ liệu về tỷ suất hoàn vốn đầu tư so sánh các lợi ích bằng tiền của chương
trình với các chi phí để thực hiện chương trình.
- Tổng chi phí của chương trình vốn nhân lực
- Dữ liệu vô hình, đó là dữ liệu không thể chuyển đổi thành giá trị tiền tệ (khi
việc chuyển đổi tốn quá nhiều chi phí hoặc thiếu sự tin cậy).
Sử dụng triết lý này, chỉ một số lượng nhỏ các chương trình được đánh giá
bằng ROI trong khi chương trình nào cũng được đánh giá bằng các dữ liệu về phản
ứng và sự hài lòng. Tương tự như vậy, khi những tác động vào kinh doanh và ROI
được phát triển cho một chương trình vốn nhân lực thì một hoặc nhiều hơn các kỹ
thuật được sử dụng để phân định rõ ảnh hưởng của chương trình đến các dữ liệu về
kinh doanh.
1.4 Chất lượng vốn nhân lực và các tiêu chí đánh giá
1.4.1 Quan niệm về chất lượng vốn nhân lực
Theo TCVN ISO 8402: “Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể
(đối tượng) tạo cho thực thể (đối tượng) đó khả năng thoả mãn những nhu cầu được
nêu ra hoặc nhu cầu tiềm ẩn”.
53
Các phân tích nêu trong mục 1.1 đã cho thấy vốn nhân lực của người lao
động là tổng hợp các kỹ năng, kỹ xảo của người lao động ; kinh nghiệm nghề
nghiệp ; trình độ đào tạo và những khả năng có thể khai thác của người lao động.
Vốn nhân lực không phải là cái sẽ có mà đã có sẵn của người lao động. Quan niệm
vốn nhân lực như trên đã thể hiện rõ nhân lực trong doanh nghiệp không đơn thuần
là chi phí đầu vào của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể cắt giảm bất kỳ lúc
nào; doanh nghiệp cũng không thể đơn thuần xem nhân lực như là tài sản của doanh
nghiệp vì người lao động có vai trò chủ động của mình, họ có thể di chuyển đi bất
cứ doanh nghiệp nào theo ý muốn (trừ chế độ chiếm hữu nô lệ). Mặt khác, doanh
nghiệp không thể quan niệm người lao động như là bất kỳ tài sản nào trong bảng
cân đối kế toán của mình mà cần phải quan niệm người lao động là nhà đầu tư, nơi
làm việc là nơi trao đổi hai chiều, không phải nơi khai thác tài sản một chiều.
Mặt khác, trong tác phẩm “ Quan niệm và các thước đo vốn nhân lực trong
nền kinh tế tri thức“ được xuất bản vào năm 1999, Laroche và Mérette cho cũng
rằng vốn nhân lực có năm đặc tính mà hai đặc tính trong số đó là : vốn nhân lực là
hàng hoá bất khả thương và vốn nhân lực có mặt chất và mặt lượng. Khẳng định
này của Laroche và Mérette đã cho thấy có thể sử dụng khái niệm về chất lượng của
hàng hoá để phát triển thành khái niệm chất lượng vốn nhân lực, hơn nữa, hoàn toàn
có thể đo lường được mặt chất lượng của vốn nhân lực.
Trong mục 1.1.3 của luận án đã phân tích các thước đo vốn nhân lực, các
thước đo này giúp định lượng được mức độ của vốn nhân lực ở các thời điểm
nghiên cứu nhất định. Trong quá trình nghiên cứu vốn nhân lực, hoàn toàn có thể
xác định được các đặc tính của vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam
và xác định được mức độ đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp của các đặc tính này dựa
vào các thước đo được trình bày trong mục 1.1.3.
Căn cứ vào định nghĩa chất lượng theo TCVN ISO 8402 và các phân tích ở
trên, có thể phát triển khái niệm về chất lượng vốn nhân lực như sau : Chất lượng
vốn nhân lực là mức độ mà một tập hợp các đặc tính của vốn nhân lực tạo cho vốn
nhân lực khả năng thoả mãn những nhu cầu được nêu ra hoặc tiềm ẩn.
54
1.4.2 Đặc tính vốn nhân lực của các doanh nghiệp
Định nghĩa vốn nhân lực nêu trên đã cho thấy vốn nhân lực của doanh
nghiệp được xem là có chất lượng khi nó thoả mãn nhu cầu được nêu ra hoặc tiềm
ẩn của doanh nghiệp. Sự thoả mãn được thường được xem xét dựa trên bốn đặc tính
sau đây của vốn nhân lực :
- Công dụng của vốn nhân lực : Vốn nhân lực thuộc sở hữu của người lao
động, mặt khác vốn nhân lực là đầu vào đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp ; vì vậy công dụng của vốn nhân lực là khả năng tạo thu nhập cho
doanh nghiệp và người chủ vốn nhân lực. Đặc tính này được phản ánh thông qua
thước đo năng suất lao động của doanh nghiệp và thu nhập của người lao động.
Năng suất lao động của doanh nghiệp càng lớn, thu nhập và tốc độ tăng thu nhập
của người lao động càng cao thì chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp càng
cao, vì như vậy sẽ giải quyết được hài hoà lợi ích giữa người chủ vốn nhân lực và
doanh nghiệp. Sở dĩ vốn nhân lực có được công dụng như trên là do nó được tạo
nên từ kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm...của người lao động trong doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp có mức kiến thức, mức kỹ năng, mức kinh nghiệm của người lao
động khác nhau, do vậy sẽ tạo ra chức năng đặc trưng riêng cho hoạt động của vốn
nhân lực tại mỗi doanh nghiệp.
- Sự đa dạng về chủng loại : Vốn nhân lực của doanh nghiệp chỉ được xem là
có chất lượng khi các chủng loại của vốn nhân lực đáp ứng nhu cầu của doanh
nghiệp. Để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, các doanh
nghiệp may Việt Nam thường có nhu cầu đối với hai loại vốn nhân lực là vốn nhân
lực phổ cập và vốn nhân lực chuyên môn. Vì vậy, vốn nhân lực trong doanh nghiệp
chỉ có thể được đánh giá là có chất lượng nếu doanh nghiệp có đủ hai loại vốn nhân
lực này với cơ cấu và số lượng phù hợp với nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp. Đặc
tính này được phản ánh thông qua thước đo số năm đi học trong đó số năm đi học
phổ thông của người lao động đại diện cho vốn nhân lực phổ cập và số năm đi học
chuyên môn kỹ thuật của người lao động đại diện cho vốn nhân lực chuyên môn.
- Chi phí để có được công dụng : Chi phí này được thể hiện ở hai khía cạnh :
55
+ Thứ nhất : Chi phí để có được chất lượng vốn nhân lực phản ánh đầu tư
của doanh nghiệp cho lĩnh vực vốn nhân lực. Nếu đầu tư cho lĩnh vực vốn nhân lực
ở mức hợp lý thì doanh nghiệp mới có cơ hội nâng cao chất lượng vốn nhân lực một
cách bền vững.
+ Thứ hai : Vốn nhân lực chỉ được xem là có chất lượng đối với doanh
nghiệp khi công dụng của vốn nhân lực có được với các chi phí hợp lý mà doanh
nghiệp phải đầu tư. Nói một cách khác, chi phí để có được công dụng của vốn nhân
lực phản ánh tính kinh tế của vốn nhân lực, đó là thu nhập mà doanh nghiệp nhận
được so với chi phí vốn nhân lực tương ứng của doanh nghiệp. Đặc tính này được
phản ánh thông qua tỷ số giữa mức độ tăng năng suất lao động và mức độ tăng vốn
nhân lực trong doanh nghiệp may.
- Độ an toàn của vốn nhân lực : Vốn nhân lực chỉ được xem là có chất lượng
đối với doanh nghiệp khi vốn nhân lực đảm bảo an toàn cho doanh nghiệp trong quá
trình sử dụng. Độ an toàn của vốn nhân lực đối với doanh nghiệp thể hiện ở khả
năng doanh nghiệp có thể chủ động sử dụng vốn nhân lực hiện có của mình để hoàn
thành mục tiêu sản xuất kinh doanh và điều này chỉ có thể thực hiện được khi vốn
nhân lực của doanh nghiệp ít biến động. Độ an toàn của vốn nhân lực được phản
ánh thông qua tính ổn định của vốn nhân lực, nếu vốn nhân lực có tính ổn định cao,
biến động vốn nhân lực thấp thì vốn nhân lực được xem là có chất lượng đối với
doanh nghiệp.
Trong các đặc tính ở trên, mỗi đặc tính có tầm quan trọng khác nhau tuỳ
thuộc vào mục đích và yêu cầu sử dụng của doanh nghiệp. Trách nhiệm của doanh
nghiệp là phải xác định được mức chất lượng tổng hợp giữa các đặc tính này một
cách hợp lý nhất, phù hợp với thực trạng của doanh nghiệp.
1.4.3 Các tiêu chí đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may
Chất lượng vốn nhân lực lần đầu tiên được đề cập đến trong tác phẩm “Ảnh
hưởng của chất lượng vốn nhân lực đến biên giới của công ty trong ngành công
nghiệp truyền thông Mỹ” của Majumdar do nhà xuất bản đại học Oxford xuất bản
vào năm 1998. Để nghiên cứu ảnh hưởng của chất lượng vốn nhân lực đến lợi thế
56
theo quy mô của các công ty có quy mô lớn trong ngành truyền thông, Majumdar đã
sử dụng chất lượng vốn nhân lực là một trong những biến đầu vào độc lập cho mô
hình hồi quy để nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố đầu vào và hiệu quả theo
quy mô thể hiện ở lợi nhuận của các công ty, ông sử dụng tiền lương bình quân của
nhân viên làm thước đo chất lượng vốn nhân lực [84]. Việc sử dụng tiền lương bình
quân làm thước đo chất lượng vốn nhân lực có ưu điểm là phần nào thể hiện được
giả thiết cho rằng người có chất lượng vốn nhân lực tốt thường là người có mức
lương cao, hơn nữa vì nghiên cứu chỉ tập trung vào một đối tượng đồng nhất là các
công ty có quy mô lớn trong ngành công nghiệp truyền thông nên sự chênh lệch về
mức lương giữa các công ty cũng có thể phản ánh phần nào chất lượng vốn nhân lực
khác nhau giữa các công ty. Nghiên cứu này còn có một điểm mạnh nữa là đã xem
xét đến tính phù hợp giữa vốn nhân lực của công ty và quy mô của công ty, tức là
vốn nhân lực của công ty chỉ được coi là có chất lượng khi nó phù hợp và mang lại
lợi nhuận cao cho công ty. Tuy vậy, nghiên cứu này chưa đưa ra được các tiêu chí
thống nhất làm tiêu chuẩn để so sánh, đánh giá chất lượng của vốn nhân lực.
Nhược điểm trên trong nghiên cứu của Majumdar đã được khắc phục phần
nào trong nghiên cứu về chất lượng vốn nhân lực của Cichy và Malaga vào năm
2006. Các giả thuyết do hai tác giả đặt ra xuất phát từ thực tế là 10 năm học tập ở
các nước kém phát triển như châu phi, châu mỹ la tinh không tương đương với 10
năm học tập tại các nước phát triển. Những người được đào tạo tại hai nước có trình
độ phát triển khác nhau này mặc dù có cùng số lượng vốn nhân lực như nhau (đều
được đo bằng 10 năm đi học) nhưng chất lượng khác nhau một cách đáng kể, dẫn
tới năng suất lao động của họ cũng khác nhau và do đó có ảnh hưởng tới tăng
trưởng kinh tế của mỗi nước. Nghiên cứu này đã sử dụng sự khác biệt về tiền lương
tính bình quân cho một đơn vị vốn nhân lực giữa Mỹ và Balan làm thước đo chất
lượng vốn nhân lực, kết quả nghiên cứu cho thấy một người Balan có cùng vốn
nhân lực như một người Mỹ thì chỉ nhận được mức lương bằng 67,8% so với người
Mỹ [65]. Tuy vậy, có thể thấy rằng nghiên cứu của Cichy và Malaga đã so sánh vốn
nhân lực của hai nước có GDP đầu người quá khác nhau (GDP đầu người của Balan
57
chỉ bằng 13,5% của Mỹ vào năm 2002) do đó việc quy tương đương một đơn vị vốn
nhân lực giữa hai nước sẽ tạo ra những sai số đáng kể. Hơn nữa, nghiên cứu về chất
lượng vốn nhân lực của hai ông chưa tính đến yếu tố công nghệ của từng ngành, đây
là một thiếu sót lớn vì vốn nhân lực bao giờ cũng gắn với một ngành nhất định đặc
biệt là khi sử dụng thu nhập của người lao động làm thước đo vốn nhân lực.
Cũng đề cập đến chất lượng vốn nhân lực, trong tác phẩm “Chất lượng vốn
nhân lực và tăng trưởng kinh tế” được xuất bản vào năm 2007, Altinok đã sử dụng
chất lượng giáo dục để đo chất lượng vốn nhân lực, Ông cho rằng chất lượng vốn
nhân lực được thể hiện thông qua chất lượng giáo dục và ông đã sử dụng bộ dữ liệu
về kết quả học tập của học sinh thuộc 120 nước khác nhau trên thế giới để đánh giá
chất lượng giáo dục. Theo quan điểm quản lý chất lượng toàn diện, có thể thấy rằng
chất lượng vốn nhân lực phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng quá trình tạo vốn nhân
lực và việc đánh giá chất lượng quá trình đào tạo cũng là một giải pháp hữu hiệu để
đánh giá chất lượng vốn nhân lực. Tuy vậy, nghiên cứu này vẫn có một khiếm
khuyết là chưa tính đến chất lượng quá trình đào tạo nghề nghiệp, hơn nữa nghiên
cứu này thuần tuý chỉ tính đến quá trình tạo vốn nhân lực mà chưa tính đến nhu cầu
sử dụng vốn nhân lực của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, tức là chưa tính đến
những yêu cầu mà người sử dụng lao động đặt ra đối với vốn nhân lực
Tựu trung lại, có thể thấy rằng các nghiên cứu về chất lượng vốn nhân lực
trước đây cho thấy có hai cách tiếp cận nghiên cứu chất lượng vốn nhân lực. Cách
tiếp cận thứ nhất cho rằng chất lượng vốn nhân lực được xem xét một cách trực tiếp
thông qua sự biến động của một thước đo vốn nhân lực là tiền lương; cách tiếp cận
thứ hai là cách tiếp cận gián tiếp cho rằng chất lượng vốn nhân lực phụ thuộc vào
chất lượng quá trình tạo vốn nhân lực. Mỗi cách tiếp cận ở trên đều có điểm mạnh
nhưng cũng có những khiếm khuyết như đã trình bày ở trên.
Kế thừa những nghiên cứu trước đây và căn cứ vào những đặc điểm
riêng của vốn nhân lực của các doanh nghiệp may, luận án đề xuất các tiêu chí
mới sau đây để đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp nói
chung và doanh nghiệp may nói riêng :
58
1.4.3.1 Tiêu chí đầu tư tài chính cho giáo dục
Xét dưới góc độ quản lý chất lượng toàn diện, có thể thấy rằng chất lượng
vốn nhân lực hoàn toàn có thể được đo bằng chất lượng quá trình tạo vốn nhân lực.
Định nghĩa về vốn nhân lực được nêu trong mục 1.1 đã cho thấy vốn nhân lực của
người lao động là tổng hợp các kỹ năng, kỹ xảo của người lao động ; kinh nghiệm
nghề nghiệp ; trình độ đào tạo và những khả năng có thể khai thác của người lao
động. Mục 1.4.2 đã cho thấy đầu tư cho giáo dục phản ánh một trong những đặc
tính tạo nên chất lượng vốn nhân lực là chi phí để có được vốn nhân lực, mặt khác
mục 1.1.2.3 đã cho thấy vốn nhân lực có một đặc điểm là có nhiều giai đoạn, người
chủ vốn nhân lực không thể tự quyết định được mức vốn nhân lực của mình mà do
chính phủ, xã hội…quyết định thông qua quá trình đào tạo.
Bên cạnh đó, phần e trong mục 1.1.3.1 đã cho thấy vốn nhân lực có thể đo
bằng số năm đi học nhưng có thể thấy ngay rằng cùng số năm đi học như nhau
nhưng quá trình đào tạo ở những nơi có các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo
tốt hơn chắc chắn sẽ tạo ra chất lượng vốn nhân lực cao hơn. Trong khi đó, yếu tố
tài chính là một trong những yếu tố quan trọng để tạo ra các điều kiện đảm bảo chất
lượng đào tạo. Quá trình đào tạo chỉ thực sự có chất lượng khi đầu tư tài chính cho
giáo dục có thể trang trải đủ các chi phí cho đào tạo. Chính vì vậy, chỉ số đầu tư tài
chính cho giáo dục là một tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng vốn nhân lực
của các doanh nghiệp may.
Nhiều công trình nghiên cứu trước đây chấp nhận rằng chủ thể đầu tư cho
giáo dục là nhà nước, doanh nghiệp và cá nhân [1],[17]. Tuy vậy, trong giai đoạn
người lao động làm việc trong các doanh nghiệp may thì vốn nhân lực chuyên môn
của ngành may được đề cao hơn và doanh nghiệp có vai trò lớn trong đầu tư vào
vốn nhân lực chuyên môn của doanh nghiệp. Vì lý do này mà nghiên cứu sinh chỉ
giới hạn nghiên cứu chủ thể đầu tư vào vốn nhân lực là doanh nghiệp trong giai
đoạn người lao động làm việc tại chính các doanh nghiệp đó và việc đầu tư này diễn
ra từ khi doanh nghiệp tuyển dụng người lao động vào làm tại doanh nghiệp. Tiêu
chí đầu tư tài chính cho giáo dục xét dưới góc độ doanh nghiệp được tính toán như
59
sau : đó là phần tài chính mà doanh nghiệp đã đầu tư cho công tác đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp tính theo năm.
1.4.3.2 Tiêu chí số năm đi học
Định nghĩa về vốn nhân lực được nêu trong mục 1.1 đã cho thấy vốn nhân
lực của người lao động là tổng hợp các kỹ năng, kỹ xảo của người lao động ; kinh
nghiệm nghề nghiệp ; trình độ đào tạo và những khả năng có thể khai thác của
người lao động. Mức độ các kỹ năng, kỹ xảo của người lao động là một yếu tố trực
tiếp cấu thành lên chất lượng vốn nhân lực, vì vậy yêu cầu trước tiên mà doanh
nghiệp thường đưa ra đối với đội ngũ nhân lực của mình là trình độ giáo dục của
nguồn nhân lực. Mục 1.1.3.1 đã cho thấy trình độ giáo dục là một trong những
thước đo vốn nhân lực quan trọng. Trình độ giáo dục của người lao động được tạo
thành thông qua giáo dục phổ thông và giáo dục sau phổ thông như dạy nghề, trung
cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học …Mô hình đi học được nêu ở mục 1.2.1 đã
cho thấy trình độ giáo dục của người lao động được thể hiện qua thước đo số năm đi
học. Đây là một thước đo hiệu quả mức vốn nhân lực của doanh nghiệp. Mặt khác,
mục 1.1.2.3, 1.2.2.2 và 1.4.2 cũng cho thấy một trong những đặc tính của vốn nhân
lực là nó được chia thành vốn nhân lực chuyên môn và vốn nhân lực phổ cập vì vậy
nếu so sánh mức vốn nhân lực phổ cập và mức vốn nhân lực chuyên môn của các
doanh nghiệp may với các doanh nghiệp công nghiệp sẽ cho ta một tiêu chí hiệu
quả để đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
1.4.3.3 Tiêu chí số năm kinh nghiệm
Định nghĩa về vốn nhân lực được nêu trong mục 1.1 đã cho thấy kinh
nghiệm là một thành phần của vốn nhân lực, quá trình tạo vốn nhân lực bao gồm cả
những kinh nghiệm mà người lao động thu được trong quá trình làm việc. Mục
1.4.2 cho thấy kinh nghiệm là một trong những yếu tố cấu thành vốn nhân lực để
tạo ra công dụng của vốn nhân lực và đây là một trong những đặc tính quyết định
chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp, hơn nữa mục 1.1.2.3 cho thấy vốn nhân
lực có một đặc điểm là người lao động khi trưởng thành đều có khả năng ra các
60
quyết định độc lập hơn cho quá trình tích luỹ vốn nhân lực của mình mà tích luỹ
kinh nghiệm trong quá trình làm việc là một trong những quá trình như vậy.
Bên cạnh đó, phần a mục 1.1.3.1 cũng cho thấy số năm kinh nghiệm là một
thước đo quan trọng của vốn nhân lực, mặt khác, mô hình vốn nhân lực của Mincer
được trình bày trong mục 1.2.2.4 cũng đã cho thấy số năm kinh nghiệm là một yếu
tố đóng góp vào mức vốn nhân lực của người lao động. Chính vì vậy, chỉ số số năm
kinh nghiệm bình quân của lao động ngành may so với số năm kinh nghiệm bình
quân của lao động làm việc trong lĩnh vực dệt may cũng là một tiêu chí quan trọng
cho thấy chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
Do dệt và may là hai lĩnh vực tương đối gần nhau, tính chất của hoạt động
sản xuất kinh doanh tương đồng nhau, có liên quan mật thiết với nhau và đều cùng
là lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Vì vậy, nếu so sánh số năm kinh nghiệm làm việc
bình quân của lao động trong các doanh nghiệp may và trong toàn bộ lĩnh vực dệt
may thì sẽ cho kết quả đánh giá khá rõ nét về chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may.
1.4.3.4 Tiêu chí thu nhập bình quân
Từ định nghĩa về vốn nhân lực được nêu trong mục 1.1 và công dụng của
vốn nhân lực nêu tại mục 1.4.2 có thể thấy rằng vốn nhân lực của người lao động sẽ
giúp họ có được việc làm và thu nhập trong cuộc sống. Mục 1.1.2.3 cũng đã cho
thấy vốn nhân lực có đặc tính là đầu tư vào vốn nhân lực không đồng chất ; mặt
khác, phần e, mục 1.1.3.1 cũng đã nêu rõ vốn nhân lực có thể được đo bằng số năm
đi học, tuy vậy, có thể thấy rằng người lao động có cùng số năm đi học như nhau
nhưng sẽ có thu nhập khác nhau do có kỹ năng, kỹ xảo khác nhau. Xét dưới góc độ
chất lượng vốn nhân lực có thể thấy rằng với cùng số lượng vốn nhân lực như nhau
nhưng chất lượng vốn nhân lực có thể khác nhau và sự khác nhau đó có thể được đo
bằng sự khác nhau của thu nhập.
Đối với một doanh nghiệp, thu nhập của người lao động là một trong những
yếu tố quan trọng để tạo dựng và duy trì vốn nhân lực. Thu nhập tính cho một đơn
vị vốn nhân lực là một chỉ số hết sức quan trọng để đánh giá khả năng của doanh
61
nghiệp trong việc tạo dựng và duy trì vốn nhân lực. Đối với một ngành, có thể tính
được tổng thu nhập của người lao động của ngành đó trong một năm. Mặt khác,
hoàn toàn có thể tính được mức vốn nhân lực của ngành qua thước đo số năm đi học.
Từ đó có thể tính toán được thu nhập bình quân trên một đơn vị vốn nhân lực. Nếu
so sánh một cách tương đối các giá trị thu nhập bình quân của doanh nghiệp may
với mức bình quân chung của toàn ngành công nghiệp thì có thể thấy được chênh
lệch về thu nhập bình quân của doanh nghiệp may và thu nhập bình quân của toàn
ngành công nghiệp. Có thể cho rằng thu nhập bình quân của toàn ngành công
nghiệp chính là yêu cầu đặt ra đối với thu nhập bình quân của các doanh nghiệp
may. Chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may có thể xem là cao hay
thấp tuỳ thuộc vào mức thu nhập bình quân của các doanh nghiệp may so với toàn
ngành công nghiệp là cao hay thấp. Mức độ chênh lệch về giá trị cũng như tỷ lệ
giữa thu nhập bình quân của các doanh nghiệp may và thu nhập bình quân của
toàn ngành công nghiệp là tiêu chí thể hiện chất lượng vốn nhân lực của doanh
nghiệp may.
Ngành may cũng là một ngành công nghiệp, vì vậy có thể lựa chọn so sánh
thu nhập của các doanh nghiệp may với thu nhập của các doanh nghiệp công nghiệp
vì với phạm vi này, số liệu của các doanh nghiệp tương đối tương đồng với nhau, ít
bị ảnh hưởng bởi những doanh nghiệp ở những lĩnh vực khác như thương mại, dịch
vụ, nông nghiệp…là những lĩnh vực có tính chất sản xuất khác biệt lớn so với lĩnh
vực công nghiệp.
1.4.3.5 Tiêu chí tốc độ tăng thu nhập
Mục 1.4.2 cho thấy một trong những công dụng của vốn nhân lực là mang lại
thu nhập cho người chủ vốn nhân lực. Mặt khác, mục 1.1.3 đã cho thấy số năm đi
học và thu nhập là những thước đo vốn nhân lực. Tuy vậy, thực tế cho thấy rằng
những người có số năm đi học như nhau cũng có thể có thu nhập khác nhau như đã
đề cập đến trong mục 1.4.3.4, hơn nữa, không chỉ có thu nhập khác nhau mà tốc độ
tăng thu nhập của những người có số năm đi học như nhau cũng có thể khác nhau
do kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm của họ khác nhau. Mục 1.1.2.3 cho thấy vốn nhân
62
lực có đặc tính là có mặt chất và mặt lượng, hơn nữa, theo mô hình vốn nhân lực
nêu ở mục 1.2.1, tốc độ tăng thu nhập là một trong những yếu tố quan trọng tác
động đến tỷ lệ hoàn vốn nhân lực cũng như tác động đến quyết định của người lao
động trong việc lựa chọn doanh nghiệp cũng như ngành nghề làm việc. Người lao
động có xu hướng lựa chọn những doanh nghiệp hoặc ngành nghề nào có tốc độ
tăng thu nhập cao. Vì thế chỉ tiêu so sánh giữa tốc độ tăng thu nhập của doanh
nghiệp may với tốc độ tăng thu nhập của các doanh nghiệp công nghiệp là một tiêu
chí quan trọng để đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
1.4.3.6 Tiêu chí năng suất lao động
Định nghĩa về vốn nhân lực được nêu trong mục 1.1 và đặc tính của vốn
nhân lực nêu tại mục 1.4.2 cùng cho thấy một trong những công dụng của vốn nhân
lực là giúp nâng cao năng suất lao động của doanh nghiệp. Hơn nữa, mục 1.1.2.3
cũng cho thấy vốn nhân lực tạo ra các hiệu ứng ngoại sinh. Hiệu ứng lan toả này
bao gồm ảnh hưởng của các cá nhân đến năng suất của các cá nhân khác, đến vốn
vật chất cũng như các cá nhân sẽ làm việc có năng suất cao hơn ở mọi mức kỹ năng
trong môi trường có mức vốn nhân lực cao.
Mặt khác, mục 1.1.3 đã trình bày các thước đo vốn nhân lực trong đó có đề
cập đến thước đo vốn nhân lực bằng số năm đi học của người lao động. Thực tế đã
cho thấy với cùng số năm đi học như nhau nhưng người lao động có thể tạo ra năng
suất lao động khác nhau, vì vậy có thể nói rằng với cùng mức vốn nhân lực như
nhau thì doanh nghiệp nào tạo ra năng suất lao động cao hơn sẽ là doanh nghiệp có
chất lượng vốn nhân lực tốt hơn, đặc biệt là những ngành nghề sử dụng nhiều nhân
lực như ngành công nghiệp may. Vì vậy, chỉ tiêu Năng suất lao động bình quân
toàn ngành may tính cho một đơn vị vốn nhân lực so sánh với năng suất lao động
bình quân toàn ngành công nghiệp tính cho một đơn vị vốn nhân lực sẽ là một tiêu
chí cho thấy chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
Chỉ tiêu năng suất lao động trong luận án được tính như sau :
Giá trị sản xuất = Năng suất lao động
(tính theo số lao động) Tổng số người làm việc bình quân
63
Giá trị sản xuất = Năng suất lao động
(tính cho 1 đơn vị vốn nhân lực) Tổng số năm đi học
Giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có được qua các cuộc điều tra thông tin
về doanh nghiệp hàng năm của Tổng cục thống kê. Tổng số năm đi học được tính
bằng số năm đi học chuyên môn kỹ thuật của người lao động tại doanh nghiệp.
Một trong những đặc tính khác của vốn nhân lực liên quan đến năng suất lao
động được trình bày trong mục 1.4.2 cũng phản ánh khía cạnh chất lượng vốn nhân
lực, đó là số lượng vốn nhân lực mà doanh nghiệp phải sử dụng để có được năng
suất lao động cao. Chỉ tiêu này phản ánh chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có
được công dụng của vốn nhân lực, công dụng đó là tăng năng suất lao động. Xét
dưới góc độ chi phí, có thể thấy rằng vốn nhân lực chỉ được xem là có chất lượng
khi lượng tăng năng suất lao động lớn hơn lượng vốn nhân lực mà doanh nghiệp
phải sử dụng tương ứng. Vì vậy, chỉ tiêu tốc độ tăng năng suất lao động so với tốc
độ tăng số lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may là một trong những tiêu
chí quan trọng để đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may. Tiêu
chí này được tính như sau :
NS1 / NS0 Chỉ tiêu chất lượng vốn nhân lực = VNL1 / VNL0 Trong đó
- NS1 và NS0 lần lượt là năng suất lao động ở kỳ sau và kỳ trước
- VNL1 và VNL0 lần lượt là vốn nhân lực bình quân ở kỳ sau và kỳ trước
Nếu chỉ tiêu này lớn hơn 1 tức là chất lượng vốn nhân lực của các doanh
nghiệp may tốt do năng suất lao động tăng nhanh hơn số lượng vốn nhân lực cần
đầu tư; ngược lại, nếu chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 tức là chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may thấp cho năng suất lao động tăng chậm hơn số lượng vốn nhân
lực cần đầu tư.
1.4.3.7 Tiêu chí tỷ lệ biến động lao động
Mục 1.4.2 cho thấy biến động lao động trong doanh nghiệp phản ánh mức độ
an toàn đối với doanh nghiệp khi sử dụng vốn nhân lực và đây là một trong những
64
đặc tính quan trọng phản ánh chất lượng vốn nhân lực. Trong môi trường kinh
doanh hiện nay, một trong những mối đe doạ lớn nhất với vấn đề chảy máu vốn trí
tuệ là sự ra đi ngoài ý muốn của các nhân viên hiểu biết nhiều và thành thạo công
việc. Sự sống sót của một số công ty phụ thuộc vào tỷ lệ biến động lao động thấp
đối với các nhóm nghề nghiệp then chốt. Sự biến động nhân viên được định nghĩa là
số lượng nhân viên bỏ đi trong một tháng hoặc một năm chia cho số trung bình của
nhân viên trong tháng hoặc năm đó.
Định nghĩa về vốn nhân lực được nêu trong mục 1.1 đã cho thấy vốn nhân
lực của người lao động là tổng hợp các kỹ năng, kỹ xảo của người lao động ; kinh
nghiệm nghề nghiệp ; trình độ đào tạo và những khả năng có thể khai thác của
người lao động, mặt khác mục 1.1.2.3 đã cho thấy vốn nhân lực, nhất là vốn nhân
lực trong các doanh nghiệp may Việt Nam có một đặc tính là có thể di chuyển được.
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, ổn định lao động luôn có vai trò quan trọng
giúp tăng năng suất lao động, qua đó gia tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Chính vì vậy, có thể thấy rằng tỷ lệ biến động lao động của doanh
nghiệp đóng vai trò then chốt trong đánh giá chất lượng vốn nhân lực của doanh
nghiệp. Nếu vốn nhân lực của doanh nghiệp quá thấp so với nhu cầu sử dụng của
doanh nghiệp thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không thể tạo ra
năng suất cao, hiệu quả tốt. Như vậy vốn nhân lực không đáp ứng được yêu cầu đặt
ra cao hơn của doanh nghiệp đối với vốn nhân lực, do đó có thể kết luận rằng chất
lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp không tốt. Ngược lại, nếu vốn nhân lực của
doanh nghiệp quá cao, doanh nghiệp không có khả năng sử dụng toàn bộ vốn nhân
lực hiện có thì mức thu nhập của những người lao động sở hữu nhiều vốn nhân lực
sẽ thấp. Trong tình trạng đó, người lao động tất yếu sẽ tìm cách di chuyển sang
những doanh nghiệp khác có khả năng trả lương theo đúng mức vốn nhân lực mà họ
đang sở hữu. Như vậy thì lực lượng lao động của doanh nghiệp sẽ bị biến động
nhiều. Chất lượng vốn nhân lực trong trường hợp này cũng không tốt vì nó vượt quá
yêu cầu của doanh nghiệp.
65
Đối với các doanh nghiệp may, nhiều nghiên cứu cho thấy biến động lao động
trong doanh nghiệp chủ yếu là biến động lao động trực tiếp sản xuất trong các dây
chuyền, kể cả người lao động đến và đi khỏi doanh nghiệp may. Xét dưới góc độ
doanh nghiệp, thường có hai dạng biến động giảm lao động trực tiếp là lao động có
tay nghề cao chuyển sang doanh nghiệp may khác có thu nhập cao hơn hoặc lao
động may chuyển sang các ngành nghề khác có thu nhập cao hơn. Biến động lao
động này đã dẫn đến hiệu ứng là làm giảm năng suất lao động trong các doanh
nghiệp may, do đó đã làm giảm chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
Trong đề tài “Phát triển nguồn nhân lực-Biện pháp quan trọng để nâng cao năng lực
cạnh tranh của các Doanh nghiệp may trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của
Tổ chức thương mại thế giới” của tác giả Trần Việt Lâm vào năm 2007 cũng đã có
một phát hiện quan trọng liên quan đến chu trình biến động lao động trong các
⇒
doanh nghiệp may, đó là :
Lương thấp Biến động lao động ⇒ Tuyển lao động mới ⇒ Năng suất lao
động thấp ⇒ Lương thấp [20].
Đối với một doanh nghiệp, có thể tính được tỷ lệ biến động lao động bình
quân của doanh nghiệp theo tháng, năm. Mặt khác, qua khảo sát, có thể tính được
mức biến động lao động bình quân chung của toàn ngành. So sánh mức biến động
lao động của doanh nghiệp với mức biến động lao động bình quân của toàn ngành
có thể đánh giá được chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp. Mức độ chênh lệch
về tỷ lệ biến động lao động giữa doanh nghiệp và bình quân chung của toàn ngành
phản ánh chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp. Đối với một ngành công
nghiệp cụ thể, có thể tính được tỷ lệ biến động lao động bình quân của ngành đó
theo năm. Mặt khác, có thể tính được mức biến động lao động bình quân chung của
toàn ngành công nghiệp hoặc mức độ biến động lao động mong muốn của ngành.
So sánh mức biến động lao động của ngành cụ thể với mức biến động lao động bình
quân của toàn ngành công nghiệp hoặc mức độ biến động lao động mong muốn của
ngành có thể đánh giá được chất lượng vốn nhân lực của một ngành. Vì vậy, mức
độ chênh lệch về tỷ lệ biến động lao động giữa ngành công nghiệp may và bình
quân chung của toàn ngành công nghiệp hoặc mức độ chênh lệch về tỷ lệ biến động
66
lao động thực tế của ngành công nghiệp may và tỷ lệ biến động lao động mong
muốn của ngành là tiêu chí phản ánh chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may.
1.4.4 Nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp may
1.4.4.1 Đào tạo chính quy
Trong tác phẩm “Ảnh hưởng của tuổi lực lượng lao động đến sự hình thành
vốn nhân lực” được xuất bản vào năm 2008, Stonawski cho rằng yếu tố đầu tiên ảnh
hưởng đến mức vốn nhân lực của cá nhân là đào tạo chính quy. Theo Stonawski, sở
dĩ như vậy vì đào tạo chính quy là nguồn chính đóng góp vào việc hình thành vốn
nhân lực của một cá nhân trong giai đoạn đầu của cuộc đời. Trong giai đoạn này,
một người thu được những kiến thức và kỹ năng mới từ việc đọc và viết hết sức đơn
giản ở bậc tiểu học cho đến những vấn đề có tính chính xác và phức tạp hơn khi
được học lên các bậc học cao hơn. Tất cả những kiến thức và kỹ năng thu được
trong giai đoạn đào tạo chính quy sẽ trở thành cơ sở cho cuộc sống nghề nghiệp sau
này của người lao động. Tầm quan trọng của đào chính quy trong giai đoạn này đối
với quá trình tích luỹ vốn nhân lực đã được nhấn mạnh trong nhiều tác phẩm như
“Sự hình thành vốn thông qua giáo dục” của Schultz, được xuất bản năm 1960 hay
trong tác phẩm “Vốn nhân lực, phân tích lý thuyết và thực nghiệm với định hướng
giáo dục” được xuất bản vào năm 1993, Becker cũng cho rằng “giáo dục và đào tạo
là đầu tư quan trọng nhất vào vốn nhân lực”.
1.4.4.2 Yếu tố quản trị doanh nghiệp
Quản trị doanh nghiệp có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng vốn nhân lực
dưới hai giác độ : tác động đến năng suất lao động và tác động đến đào tạo trong
công việc.
Về khía cạnh năng suất lao động : Trình độ quản trị doanh nghiệp thấp hay
cao sẽ dẫn đến quá trình tổ chức sản xuất đạt hiệu quả tốt hay không tốt, năng suất
lao động cao hay thấp. Đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp chủ
yếu sản xuất theo phương thức gia công xuất khẩu như các doanh nghiệp may, năng
suất lao động có tác động rất lớn tới thu nhập cũng như thời gian phải dãn ca của
người lao động. Nếu quản trị doanh nghiệp không tốt dẫn đến năng suất lao động
67
thấp thì thu nhập của người lao động thấp dẫn đến chất lượng vốn nhân lực cũng
thấp do thu nhập là một trong những thước đo vốn nhân lực. Hơn nữa, năng suất lao
động thấp còn dẫn đến thời gian làm thêm giờ nhiều thì mới hoàn thành kế hoạch
giao hàng. Hậu quả của thu nhập thấp và làm thêm giờ nhiều tất yếu dẫn đến biến
động lao động lớn làm cho chất lượng vốn nhân lực càng giảm thấp hơn, người lao
động đồng thời cũng mất động lực đầu tư vào nâng cao chất lượng vốn nhân lực của
bản thân và doanh nghiệp.
Về khía cạnh đào tạo trong công việc : hoàn thành giáo dục chính quy chưa
kết thúc quá trình tăng cường tích luỹ vốn nhân lực. Quá trình này còn tiếp diễn
trong cả cuộc đời của một cá nhân thông qua đào tạo trong công việc, học thông qua
làm việc và đây chính là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến mức vốn nhân lực ([58],
[68]). Trong cuộc sống nghề nghiệp của một người, cá nhân có thể tiếp thu được
kiến thức mới thông qua các hoạt động học tập suốt đời như tham dự vào các khoá
học và các bài giảng gắn với nghề nghiệp chuyên môn được tổ chức tại doanh
nghiệp. Mặt khác, doanh nghiệp có thể tạo điều kiện cho các cá nhân trong tổ chức
mở rộng các kiến thức về các mối quan tâm cá nhân, các kỹ năng mềm…thông qua
tổ chức các chương trình đào tạo định hướng, các hội nghị, hội thảo tại doanh
nghiệp…Tất cả các hoạt động này đều bổ sung thêm vốn nhân lực cho các cá nhân
đang làm việc tại doanh nghiệp và giúp tăng cường vốn nhân lực của doanh nghiệp
[90]. Ngoài yếu tố đào tạo trong công việc, học thông qua làm việc (learning by
doing) cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến mức vốn nhân lực, qua đó ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng vốn nhân lực của cả cá nhân người lao động và
doanh nghiệp ([36],[41], [82]). Vốn nhân lực có thể chuyển từ người lao động có
kinh nghiệm sang người lao động mới thông qua hình thức người lao động mới
quan sát người lao động có kinh nghiệm làm việc, từ đó tiếp thu được những kiến
thức cần thiết cho mình [41]. Đào tạo trong công việc thường cung cấp cho người
học những kiến thức, kỹ năng sát với nhu cầu làm việc tại doanh nghiệp hơn các
khoá đào tạo dài hạn, vì vậy sẽ giúp tạo ra thu nhập cao hơn và nhanh hơn, điều này
giúp tăng cường đáng kể vốn nhân lực cho các lao động trong doanh nghiệp, nhất là
lao động trẻ như lao động trong các doanh nghiệp may [62].
68
Để nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp nói chung và hiệu quả quản trị
doanh nghiệp liên quan đến nâng cao chất lượng vốn nhân lực nói riêng thì một
mình doanh nghiệp không thể thực hiện được một cách có hiệu quả mà cần có sự hỗ
trợ, định hướng, của các hiệp hội ngành nghề hoặc tổ chức được giao nhiệm vụ định
hướng cho sự phát triển của các ngành nghề. Đối với các doanh nghiệp may Việt
Nam, Hiệp hội Dệt May Việt Nam và Tập đoàn Dệt May Việt Nam là những tổ
chức có vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện, định hướng cho sự phát triển
của các doanh nghiệp may bên cạnh những can thiệp về chính sách của Chính phủ
nhằm tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp.
1.4.4.3 Yếu tố nhu cầu vốn nhân lực của doanh nghiệp
Nhu cầu sử dụng nhân lực của doanh nghiệp cũng là một yếu tố ảnh hưởng
lớn tới chất lượng vốn nhân lực. Nếu doanh nghiệp xác định nhu cầu sử dụng không
chính xác hoặc không xác định nhu cầu sử dụng thì người lao động sẽ không biết
đầu tư vào học tập những lĩnh vực gì để có thể hoàn vốn nhân lực. Việc học tập
không có định hướng sẽ dẫn đến nhiều kiến thức, kỹ năng, thái độ bị thừa và không
được sử dụng trong thực tế. Việc này một mặt sẽ dẫn đến hệ quả là vốn nhân lực
của người lao động không đồng nhất với nhu cầu về vốn nhân lực của doanh nghiệp
dẫn đến chất lượng vốn nhân lực thấp. Mặt khác, những kiến thức và kỹ năng không
được doanh nghiệp sử dụng thì tất yếu sẽ không được trả lương. Điều này sẽ làm
cho người lao động không thu được sự hoàn vốn cho việc đi học trong thực tế nên
sẽ làm mất đi động lực đầu tư vào vốn nhân lực, như vậy cũng sẽ làm cho chất
lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp bị giảm sút.
Đối với các doanh nghiệp may, vấn đề xác định đúng nhu cầu vốn nhân lực
có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng tới chất lượng vốn nhân lực, nhất là vốn nhân lực
trực tiếp sản xuất. Nguyên nhân là do ngành may chủ yếu tổ chức sản xuất theo dây
chuyền, một số lượng lớn lao động trực tiếp chỉ đảm nhiệm may 1 – 2 bộ phận của
sản phẩm. Do vậy, nếu người lao động đầu tư nhiều hơn vào học tập để có thể may
được nhiều bộ phận thì các khoản đầu tư thừa do với nhu cầu vốn nhân lực của
doanh nghiệp sẽ không được trả lương vì doanh nghiệp không có nhu cầu sử dụng.
1.4.4.4 Yếu tố nhân khẩu học
69
Nhân tố thứ tư ảnh hưởng tới chất lượng vốn nhân lực là yếu tố nhân khẩu
học như tuổi của lực lượng lao động [71]. Theo mô hình đi học, tỷ lệ hoàn vốn đi
học biên giảm dần đối với những người nhiều tuổi vì đối với mỗi người đều có một
thời gian nhất định trong cuộc đời, nếu thời gian đi học nhiều lên thì thời gian tham
gia vào thị trường lao động sẽ ngắn lại. Mặt khác, người càng nhiều tuổi thì sức tiếp
thu càng giảm vì thế tốn nhiều thời gian và đi kèm với đó là cả chi phí học tập như
học thêm…cũng tăng lên, làm tăng chi phí đầu tư vào vốn nhân lực, giảm giá trị
thực thu được từ việc đi học thêm một năm, hơn nữa, thu nhập bị bỏ qua khi nhiều
tuổi mà đi học cũng nhiều hơn người trẻ tuổi, điều này làm giảm động cơ đầu tư vào
vốn nhân lực khi tuổi đã cao và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng vốn nhân lực
[58]. Mặt khác, sự già đi của dân cư sẽ ảnh hưởng đến nguồn cung lực lượng lao
động trẻ và liên quan đến sự già đi của lực lượng lao động. Tuổi tác ảnh hưởng đến
cơ cấu dân cư tham gia hoạt động kinh tế, tăng tỷ lệ đóng góp cho công tác an sinh
xã hội. Mặt khác, việc nguồn cung lao động trở nên nhiều tuổi hơn sẽ có ảnh hưởng
đến thu nhập tương đối của những lao động trẻ và cả những lao động nhiều tuổi, vì
thế ảnh hưởng đến phân phối thu nhập của toàn xã hội. Tuổi của dân cư có thể thực
hiện vai trò như là một động cơ bổ sung cho những lao động trẻ đầu tư vào vốn
nhân lực nếu sự dịch chuyển tương đối trong cung về lao động dẫn đến sự tăng
lương cho lao động trẻ vì tỷ lệ hoàn vốn đi học ở nhóm lứa tuổi này sẽ tăng lên. Yếu
tố nhân khẩu học còn cho thấy cá nhân sinh ra ở những vùng khó khăn sẽ ít có cơ
hội học tập hơn nên cũng ảnh hướng lớn tới mức vốn nhân lực so với trẻ em sinh ra
ở những khu vực thành thị. Điều này có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng vốn nhân
lực của các doanh nghiệp may vì hầu hết lao động trực tiếp trong các doanh nghiệp
may đều có xuất thân từ vùng nông thôn, là nơi mà các điều kiện về giáo dục không
tốt như khu vực thành thị.
1.4.4.5 Hoàn cảnh gia đình
Mô hình hộ gia đình cho thấy hoàn cảnh gia đình (tình trạng thu nhập của gia
đình, kiến thức của bố mẹ…) là nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng vốn nhân
lực. Trong nghiên cứu của mình về quá trình phát triển vốn nhân lực tại Malaysia,
Mustapha cho rằng gia đình đóng vai trò hết sức quan trọng và tạo ra ảnh hưởng lớn
70
tới quá trình phát triển vốn nhân lực của các cá nhân, bằng phương pháp phỏng vấn,
có 93,2% người trả lời khẳng định về vai trò quan trọng của gia đình đối với quá
trình phát triển vốn nhân lực của cá nhân [79]. Vai trò của gia đình còn được khẳng
định qua mô hình vốn nhân lực của hộ gia đình theo nghiên cứu về vốn nhân lực
cho người nghèo. Một gia đình có bố mẹ có giáo dục cao thường tạo ra thu nhập cao
hơn từ lao động của họ và họ thường sử dụng tối ưu hơn lợi ích từ các thu nhập này,
nhất là đầu tư cho việc học tập của những người con trong gia đình Ngoài ra, gia
đình có bố mẹ có giáo dục tốt cũng sẽ là nguồn cung cấp kiến thức và kỹ năng đáng
kể cho những người con [1].
Đây cũng là một đặc điểm có ảnh hưởng lớn tới chất lượng vốn nhân lực của
các doanh nghiệp may vì có một tỷ lệ lớn lao động trong ngành may xuất thân từ
những gia đình thuần nông, điều kiện kinh tế còn nhiều hạn hẹp nên đầu tư cho giáo
dục những người con cũng bị hạn chế. Bên cạnh đó, nguồn cung cấp kiến thức và
kỹ năng cho con từ bố mẹ cũng không đáng kể do bố mẹ bị hạn chế về những kiến
thức văn hoá cũng như kiến thức liên quan đến sản xuất công nghiệp.
1.4.4.6 Chính sách của Chính phủ
Chính sách của Chính phủ cũng sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới vốn nhân lực của
cá nhân cũng như của doanh nghiệp, đặc biệt là các chính sách có tác động trực tiếp
tới quá trình tích luỹ vốn nhân lực như chính sách tài trợ cho quá trình đi học có ảnh
hưởng dương đối với quá trình tích luỹ vốn nhân lực [81]. Chính phủ muốn người
dân tham gia tích cực vào các chương trình đào tạo ở bậc phổ thông, giáo dục sau
phổ thông như dạy nghề, cao đẳng, đại học… thì có thể xây dựng các chính sách tài
trợ chi phí học tập cho người học như các chính sách trợ cấp, cho vay để đi học….
Các chính sách tài trợ này sẽ giúp nhiều người, nhất là những người nghèo có thể
tham gia vào quá trình đào tạo để nâng cao chất lượng vốn nhân lực cho bản thân và
điều này giúp nâng cao chất lượng vốn nhân lực của lực lượng lao động. Tại Việt
Nam hiện nay, Chính phủ đang áp dụng chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho lao
động nông thôn trong đó ngành may là một ngành được hưởng lợi tương đối lớn từ
chính sách này vì ngành sử dụng nhiều lao động nông thôn.
71
Trong nghiên cứu được công bố vào năm 1995, Kaufmann và Wang đã đề
xuất một mô hình nghiên cứu về sự hình thành vốn nhân lực trong đó đề cập chủ
yếu đến một số yếu tố ảnh hưởng đến mức vốn nhân lực. Mô hình cho thấy một
thực tế là việc hình thành vốn nhân lực yêu cầu sự tương tác của cung và cầu giáo
dục và điều này liên quan chặt chẽ đến các điều kiện của thị trường lao động và các
chính sách kinh tế vĩ mô. Tác giả cho rằng một người tối đa hoá lợi ích sẽ lựa chọn
việc đi học theo tỷ lệ hoàn vốn đi học ( tỷ lệ hoàn vốn bị ảnh hưởng bởi thị trường
lao động và các điều kiện kinh tế vĩ mô), chi phí học tập và điều kiện kinh tế của gia
đình. Các nhân tố kinh tế vĩ mô đi vào hàm cầu đối với việc đi học thông qua tỷ lệ
hoàn vốn được kỳ vọng. Lạm phát tạo ra sự bất định và làm giảm tỷ lệ hoàn vốn
thực, tỷ lệ thất nghiệp cao làm giảm tỷ suất hoàn vốn và làm giảm động cơ đầu tư
vào giáo dục. Việc giảm các hạn chế về thương mại sẽ giúp làm tăng nhu cầu của
lao động phổ thông vào lúc ban đầu và sau đó sẽ tạo ra nhiều động cơ cho giáo dục
khi nâng cấp các ngành công nghiệp theo định hướng xuất khẩu.
Sự không hoàn hảo của thị trường vốn gián tiếp tạo ra nhận thức trong việc
đầu tư vào vốn nhân lực và vốn vật chất cũng ảnh hưởng tới mức vốn nhân lực cả cá
nhân và của doanh nghiệp và điều này cũng cần có sự can thiệp bằng chính sách của
Chính phủ để khắc phục những hạn chế. Vốn nhân lực tồn tại bên trong người lao
động nên trong trường hợp không trả được nợ (vỡ nợ) thì các tổ chức tài chính
không thể thu hồi lại được khoản cho vay hoặc đầu tư của mình, trong khi nếu đầu
tư vào tài sản vật chất thì có thể bán tài sản thế chấp để thu hồi vốn đầu tư. Thực tế
này đã khiến các tổ chức tài chính đưa ra mức lãi suất cao cho những người vay đầu
tư vào vốn nhân lực để cân bằng rủi ro với việc cho vay. Những người trẻ tuổi có
khuynh hướng đầu tư vào vốn nhân lực nhiều hơn nhưng vì ít có cơ hội tiếp cận với
nguồn tín dụng cho vay để đi học hơn cũng như ít tài sản thế chấp để vay đi học nên
những đầu tư cho vốn nhân lực của giới trẻ bị hạn chế nhiều.
72
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương 1, luận án đã tập trung làm rõ khái niệm về vốn nhân lực và
phân biệt sự khác nhau giữa nguồn nhân lực và vốn nhân lực, phân biệt sự khác
nhau giữa vốn nhân lực và vốn vật chất.
Chương 1 cũng đã hệ thống hoá các lý luận về vốn nhân lực với những nội
dung chủ yếu như : quan niệm người lao động là chi phí, người lao động là tài sản,
người lao động là nhà đầu tư. Nêu rõ các khái niệm hiện có về vốn nhân lực và rút
ra định nghĩa xác đáng về vốn nhân lực, nhất là vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may. Trong lý luận về vốn nhân lực, luận án đã nêu ra bốn thước đo thường dùng để
đo lường vốn nhân lực, đó là các thước đo dựa trên khả năng của nhân viên biểu
hiện bằng số năm đi học, kinh nghiệm công tác…; khoản đầu tư vào vốn nhân lực;
năng suất lao động; thu nhập và phúc lợi.
Qua việc tổng quan các nghiên cứu trước đây về vốn nhân lực, chương 1 đã
nêu được một số mô hình vốn nhân lực đã được sử dụng trong nhiều nghiên cứu
trước đây như : mô hình số năm đi học, mô hình vốn nhân lực có tính đến đào tạo
trong công việc của Mincer. Các mô hình này là những nền tảng về lý luận để
nghiên cứu vốn nhân lực cũng như chất lượng vốn nhân lực sau này.
Chương 1 cũng đã hệ thống hoá các lý luận về tạo vốn nhân lực cho các
doanh nghiệp thông qua các quá trình chủ yếu như : đào tạo chính quy tại các cơ sở
đào tạo, đào tạo không chính quy, đào tạo trong công việc tại các doanh nghiệp.
Ngoài ra Chương 1 còn nêu ra được phương pháp tạo vốn nhân lực thông qua việc
xác lập một thị trường kiến thức trong các doanh nghiệp. Cũng trong nội dung tạo
dựng vốn nhân lực cho các doanh nghiệp, chương 1 đã nêu rõ được năm chiến lược
mà các doanh nghiệp thường dùng để tạo dựng vốn nhân lực cho mình.
Chương 1 đã phát triển một định nghĩa về chất lượng vốn nhân lực được sử
dụng trong nghiên cứu đề tài này. Mặt khác, đã phân tích để nêu bật các đặc tính
của vốn nhân lực nói chung, vốn nhân lực của các doanh nghiệp may nói riêng cũng
như các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng vốn nhân lực như đào tạo chính quy, quản
trị doanh nghiệp, nhu cầu vốn nhân lực, chính sách của Chính phủ…
Từ những lý luận về chất lượng vốn nhân lực, đề tài đã đề xuất 07 tiêu chí
mới để đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam.
73
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG VỐN NHÂN LỰC VÀ CHẤT LƯỢNG VỐN
NHÂN LỰC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP MAY
2.1 Tổng quan ngành công nghiệp may Việt Nam
Dệt May là ngành công nghiệp quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Trong
nhiều năm qua ngành dệt may đã có những bước tăng trưởng nhanh chóng, đóng
góp đáng kể vào nền kinh tế của đất nước với giá trị xuất khẩu năm 2011 nằm trong
tốp 10 nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn
2000 – 2011 của ngành dệt may thể hiện trong biểu sau đây :
Bảng 2.1 : Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may giai đoạn 2000 – 2011
Đơ n vị tính : triệu USD
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Kim ngạch 1891 1975 2732 3609 4429 4772 5854 7732 9120 9080 11209 15831
Nguồn :[25], [33], [34]
Từ năm 2000 đến 2011, ngành dệt may Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu bình quân 21,3%, là một trong những ngành kinh tế xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam. Mặc dù chịu nhiều hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu nhưng kim ngạch xuất khẩu năm 2012 vẫn đạt 17,2 tỷ USD và trở thành ngành
kinh tế có kim ngạch xuất khẩu dẫn đầu cả nước. Ngành may là ngành có suất đầu
tư thấp, sử dụng nhiều lao động nên có vai trò quan trọng trong tạo việc làm, giảm
đói nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Số lao động công nghiệp làm việc trong
ngành may và ngành công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011 thể hiện trong biểu sau :
Bảng 2.2 :Tổng số lao động ngành may – công nghiệp giai đoạn 2000-2011
Số lượng lao động (người)
2007
2004
2006
2003
2002
2001
2000
2008
2009
2011
2010
1775770 2005769 2440669 2806979 3150324 3370447 3711041 4090679 4480964 4728368 4880870 5446318
13,1
12,6
14,6
15,5
15,8
15,2
15,8
17,3
16,7
18,0
17,8
17,7
2005
May 231.948 253.613 356.395 436.342 498.226 511.278 585.414 706.093 749.647 850.325 866.277 970.660
Công
nghiệp
May /
Công
nghiệp
(%)
Nguồn : Tổng cục thống kê, 2012 và tính toán của tác giả
74
Tính đến hết năm 2011, ngành công nghiệp may sử dụng 970.660 lao động
(chiếm 17,8% tổng số lao động trong toàn ngành công nghiệp). Tuy nhiên ngành
may là ngành có biến động lớn về nguồn nhân lực, chất lượng lao động đã qua đào
tạo chưa cao, thiếu lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có tay nghề, thích
ứng trước yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế thị trường. Điều này đã
trực tiếp ảnh hưởng tới năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và đặc biệt là làm
giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp May. Chính vì vậy, các doanh nghiệp
may Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu sản xuất kinh doanh theo phương thức gia
công xuất khẩu, tỷ lệ giá trị gia tăng chỉ tăng từ 29,27% năm 2005 tới 48,8% năm
2012.
Trong những năm vừa qua, cùng với sự tăng trưởng xuất khẩu nhanh của
ngành dệt may, số lượng các doanh nghiệp may cũng tăng lên nhanh chóng. Tổng
số doanh nghiệp may và doanh nghiệp công nghiệp giai đoạn 2000 – 2010 thể hiện
ở biểu sau đây :
Bảng 2.3 : Tổng số doanh nghiệp ngành may – công nghiệp
giai đoạn 2000 – 2010
2000 2001 2002
996
763
579
Số lượng doanh nghiệp (doanh nghiệp)
2005
1745
2007 2008 2009
2352 3174 3630
2004
1567
2003
1211
2006
1958
2010
4030
10938 13140 15858 18198 23192 27701 30786 35553 43685 49561 51930
5,3
5,8
6,3
6,7
6,8
6,3
6,4
6,6
7,3
7,3
7,8
May
Công
nghiệp
Tỷ lệ
doanh
nghiệp
may/công
nghiệp
(%)
Nguồn : [28], [33]
Bảng 2.3 cho thấy số lượng doanh nghiệp may tăng từ 579 doanh nghiệp
năm 2000 tới 4030 doanh nghiệp năm 2010, chiếm 7,8% tổng số doanh nghiệp công
nghiệp. Điều này chứng tỏ rằng vẫn có nhiều doanh nghiệp may mới được thành lập
hàng năm. Tuy vậy, đa số các doanh nghiệp may có quy mô nhỏ xét theo tiêu chí
lao động.
75
Bảng 2.4 : Số doanh nghiệp may năm 2010
phân theo quy mô lao động
Số doanh nghiệp may phân theo quy mô lao động (doanh nghiệp)
5-9
người
10-49
người
Dưới
5
người
50-
199
người
200-
299
người
300-
499
người
500-
999
người
1000-
4999
người
May
458
771
1190
796
152
218
230
203
5000
người
trở
lên
12
Tỷ trọng (%)
11,4
19,1
29,5
19,8
3,8
5,4
5,7
5
0,3
Nguồn : [33]
Bảng 2.4 cho thấy chỉ có 16,4% số doanh nghiệp có từ 300 lao động trở lên,
có tới 83,6 % các doanh nghiệp may có dưới 300 lao động, số doanh nghiệp có dưới
50 lao động cũng chiếm tới 60 %. Điều này chứng tỏ rằng các doanh nghiệp may đa
số là các doanh nghiệp nhỏ.
Với vai trò tạo việc làm cho lao động nông thôn, đóng góp tích cực vào kim
ngạch xuất khẩu của đất nước, Chính phủ đã xây dựng chiến lược phát triển ngành
công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến 2020 với một số chỉ
tiêu chủ yếu như sau :
Bảng 2.5 : Các chỉ tiêu chủ yếu trong Chiến lược phát triển ngành Dệt May
Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020
Chỉ tiêu
Thực
hiện 2006
7.800
5.834
2.150
32
2020
31.000
25.000
3.000
70
1. Doanh thu
2. Xuất khẩu
3. Sử dụng lao động
4. Tỷ lệ nội địa hóa
5. Sản phẩm chính:
- Bông xơ
- Xơ, Sợi tổng hợp
- Sợi các loại
- Vải
- Sản phẩm may
Đơn vị tính
Triệu USD
Triệu USD
Nghìn người
%
1000 tấn
1000 tấn
1000 tấn
Triệu m2
Triệu SP
Mục tiêu toàn ngành đến
2015
2010
22.500
14.800
18.000
12.000
2.750
2.500
60
50
40
20
210
120
500
350
1.500
1.000
2.850
1.800
60
300
650
2.000
4.000
8
-
265
575
1.212
Nguồn : [16]
Bảng 2.5 cho thấy ngành may vẫn là một ngành được ưu tiên phát triển với
số lượng sản xuất sản phẩm may năm 2015 đạt 2,85 tỷ sản phẩm, tăng 58% so với
năm 2010; năm 2020 đạt 4 tỷ sản phẩm, tăng 122% so với năm 2010.
76
Để đạt được các mục tiêu phát triển nêu trên, ngành dệt may Việt Nam cần
đào tạo mới và bồi dưỡng cập nhật kiến thức cho một số lượng lớn lao động trong
giai đoạn 2011 – 2020. Số liệu thể hiện ở bảng sau đây :
Bảng 2.6 : Nhu cầu đào tạo mới lao động dệt may giai đoạn 2011 - 2020
2011 - 2015
2016 - 2020
Số lượng
Bình
Số lượng
Bình
quân/năm
quân/năm
Quản lý
4.280
860
4.800
960
Khối kinh tế
11.000
2.200
12.500
2.500
Khối kỹ thuật
11.500
2.300
12.900
2.580
Công nhân kỹ thuật
357.800
71.600
430.000
86.000
Đơn vị: người
Tổng số
384.580
76.960
460.200
92.040
Nguồn : [2]
Đơn vị: người
2011 - 2015
2016 - 2020
Số lượng
Số lượng
Bình
quân/năm
2.320
16.200
Bình
quân/năm
3.240
Quản lý
11.600
Chuyên môn nghiệp vụ
47.270
9.450
65.900
13.200
20.270
4.050
28.250
5.650
Khối kinh tế
27.000
5.400
37.650
7.550
Khối kỹ thuật
Công nhân kỹ thuật
180.000
36.000
253.000
50.600
Bảng 2.7 : Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức
cho lao động dệt may giai đoạn 2011 - 2020
286.140
57.220
401.000
80.240
Tổng số
Nguồn : [2]
Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên đầy đủ của WTO, các doanh nghiệp may
sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận thị trường thế giới, bên cạnh đó là thị trường nội địa với
gần 90 triệu người vào năm 2010 với khả năng mua sắm ngày càng tăng. Tuy nhiên
77
Việt Nam sẽ phải cạnh tranh khốc liệt với các nước có nền công nghiệp dệt may
phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh… trên thị trường thế giới
cũng như thị trường nội địa, nhất là Trung quốc vì từ năm 2008, Trung Quốc (đối
thủ cạnh tranh chính của Việt Nam) được dỡ bỏ hạn ngạch. Do đó, nếu các doanh
nghiệp không nhanh chóng nâng cao chất lượng vốn nhân lực thì trong cuộc cạnh
tranh khốc liệt, doanh nghiệp yếu và thiếu nhân lực sẽ không thể đối đầu.
2.2 Thực trạng quá trình tạo vốn nhân lực cho các doanh nghiệp may
Vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam chủ yếu được tạo thành
thông qua quá trình đào tạo chính quy, đào tạo không chính quy và đào tạo trong
công việc. Vốn nhân lực phổ cập của các doanh nghiệp may được tạo thành thông
qua quá trình đào tạo ở bậc học phổ thông, vốn nhân lực chuyên môn của các doanh
nghiệp may được tạo thành thông qua quá trình đào tạo chuyên môn tại các cơ sở
đào tạo như các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề, các
trung tâm dạy nghề và ngay tại các doanh nghiệp may. Cũng giống như các doanh
nghiệp sản xuất khác, trong doanh nghiệp may hiện nay có thể phân chia thành lao
động quản lý, lao động kỹ thuật và đội ngũ công nhân. Quá trình tạo vốn nhân lực
cho các doanh nghiệp may chủ yếu được tiến hành thông qua quá trình đào tạo các
loại nhân lực này cho các doanh nghiệp may.
2.2.1 Đánh giá hệ thống cơ sở đào tạo nhân lực cho các doanh nghiệp may
2.2.1.1 Đội ngũ giảng viên
Vào năm 2007, Viện Dệt May trực thuộc Tập đoàn Dệt May Việt Nam đã
tiến hành khảo sát năng lực đào tạo tại 15 trường có đào tạo nhân lực dệt may, trong
đó: Bộ Giáo dục Đào tạo (6 trường), Bộ Công nghiệp (2 trường), Tập đoàn Dệt May
Việt Nam (5 đơn vị) và 02 tổ chức đào tạo ngoài công lập. Kết quả khảo sát cho
thấy 15 đơn vị này có tổng số cán bộ công nhân viên là 1.106 người, trong đó :
- Số cán bộ trực tiếp giảng dạy: 859 người (chiếm 77,7%); số cán bộ phục vụ
giảng dạy: 247 người (chiếm 22,3%)
- Số Giáo sư, Phó Giáo sư: 7 (0,6%); tiến sỹ: 41 (3,7%); Thạc sỹ: 356
(32,2%); Đại học: 544 (49,2%); Cao đẳng: 84 (7,6%); trình độ khác: 74 (6,7%)
78
Số giảng viên có học vị thạc sĩ trở lên chủ yếu đang công tác tại các trường
đại học và cao đẳng. Kết quả khảo sát cho thấy số giảng viên có học vị tiến sĩ trở
lên chỉ chiếm 4,3%, rất thấp so với bình quân toàn hệ thống là 10,16%, so với yêu
cầu của Chính phủ là 12%. Số giảng viên có học vị thạc sĩ trở lên chỉ chiếm 36,5%,
so với toàn bộ hệ thống các trường đại học và cao đẳng vào năm 2007 là 47,3%.
Có thể thấy rằng trình độ giảng viên của các trường có đào tạo nhân lực cho
ngành dệt may thấp hơn trình độ giảng viên theo mặt bằng chung của toàn hệ thống,
điều này chứng tỏ rằng chất lượng đào tạo của các doanh nghiệp may không thể cao
như mong muốn của các nhà quản lý.
2.2.1.2 Số học sinh sinh viên/giảng viên
Cũng theo khảo sát của Tập đoàn Dệt May Việt Nam tại 15 cơ sở đào tạo
nhân lực cho ngành dệt may vào năm 2007 cho thấy số lượng học sinh sinh viên
được 15 cơ sở này đào tạo trong giai đoạn 2002 – 2007 như sau :
Bảng 2.8: Số lượng học sinh, sinh viên được đào tạo trong giai đoạn 2002-2007
Bậc đào tạo
1.1 Trên đại học Số lượng học viên đã đào tạo
2003
7 2005
13 2004
38 2006 30/6/07
14 14 2002
10
1.2 Đại học 346 365 254 229 734 303
1.3 Cao đẳng 5064 6422 8518 11095 12700 3903
1.4 Trung cấp 5901 9048 10652 14942 16026 3441
1.5 Cao đẳng, trung cấp nghề 2354 2774 2209 2400 2399 1722
1.6 Công nhân kỹ thuật 2512 2686 2510 3700 2300 2239
11618 16184 21333 24156 32380 34173 Tổng số
Nguồn: [35]
Với số lượng 859 giảng viên vào năm 2007, tỷ lệ sinh viên/giảng viên của 15
cơ sở đào tạo nhân lực cho ngành dệt may là :
34.173 học sinh sinh viên / 859 giảng viên = 39,8 học sinh sinh viên/giảng viên.
Tỷ lệ học sinh sinh viên/giảng viên là 39,8 cao hơn tỷ lệ toàn hệ thống đại
học, cao đẳng là 28,6. Theo quy chuẩn của Bộ giáo dục và đào tạo, Bộ Lao động
79
Thương binh và Xã hội, đối với khối kỹ thuật, tỷ lệ sinh viên/giảng viên tối đa là 20
học sinh sinh viên /1giảng viên.
Số liệu trên cho thấy tỷ lệ học sinh sinh viên/giảng viên của các cơ sở đào tạo
nhân lực cho ngành dệt may cao gấp gần 1,4 lần so với toàn bộ hệ thống giáo dục
đại học và cao gấp gần 2 lần so với quy định của nhà nước. Điều này cho thấy chất
lượng đào tạo do các trường này tạo ra không thể cao do một giảng viên phải giảng
dạy cho quá nhiều học sinh sinh viên.
2.2.1.3 Chất lượng tuyển sinh đầu vào
Từ bộ dữ liệu các thí sinh dự thi vào đại học theo đề thi chung của Bộ Giáo
dục và Đào tạo giai đoạn 2007 – 2011, có thể xác định được trình độ đầu vào của
các thí sinh đăng ký học ngành công nghệ may theo bảng sau đây.
Bảng 2.9 : Kết quả dự thi đại học của các thí sinh giai đoạn 2007 - 2011
TT
Nội dung
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Năm
2010
Năm
2011
1
1.149
749
1.115
1.997
4.210
2
12,32
11,66
10,45
8,64
8,53
3
389.340 306.562 461.817 649.036 701.173
4
14,4
13,77
12,06
10,04
8,98
5
85,56
84,68
86,65
86,06
94,99
Số lượng thí sinh dự thi ngành
công nghệ may khối A (người)
Tổng điểm trung bình 3 môn thi
vào đại học của các thí sinh dự thi
ngành công nghệ may khối A
(điểm)
Số thí sinh dự thi đại học khối A
(người)
Tổng điểm trung bình 3 môn thi
vào đại học của thí sinh dự thi
khối A. (điểm)
Tỷ lệ tổng điểm trung bình 3 môn
thi vào đại học của các thí sinh dự
thi ngành công nghệ may khối A
so với trung bình của các thí sinh
dự thi đại học khối A (%)
Nguồn : tính toán của tác giả căn cứ vào dữ liệu thi tuyển sinh đại học giai đoạn
2007 - 2011 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Số liệu tại bảng 2.9 cho thấy trong cả giai đoạn 2007 – 2011, tổng điểm trung
bình 3 môn thi của các thí sinh dự thi vào ngành công nghệ may khối A đều thấp
hơn so với tổng điểm trung bình 3 môn thi vào đại học của thí sinh dự thi khối A.
80
Năm 2007, Tỷ lệ tổng điểm trung bình 3 môn thi vào đại học của các thí sinh dự thi
ngành công nghệ may khối A so với trung bình của các thí sinh dự thi đại học khối
A chỉ là 85,56%; tỷ lệ này vào năm 2010 là 86,06% và năm 2011 là 94,99%. Điều
này cho thấy chất lượng các thí sinh dự thi đầu vào của ngành công nghệ may thấp
hơn so với các thí sinh dự thi vào đại học. Điều này đồng nghĩa với việc chất lượng
đào tạo nhân lực cho ngành công nghệ may sẽ thấp hơn so với chất lượng đào tạo
nhân lực của các ngành khác.
2.2.2 Công tác đào tạo cán bộ quản lý cho doanh nghiệp may
Cũng như nhiều doanh nghiệp ở các ngành nghề khác, cán bộ quản lý trong
doanh nghiệp may bao gồm cán bộ quản lý cấp cao, cấp trung và cấp cơ sở vì thế
công tác đào tạo cán bộ quản lý cho các doanh nghiệp may cũng tập trung vào ba
cấp quản lý này.
2.2.2.1- Công tác đào tạo cán bộ quản lý cấp cao và cấp trung cho các doanh
nghiệp may
Cán bộ quản lý cấp cao như hội đồng quản trị, ban giám đốc ; cán bộ cấp
trung là trưởng các phòng ban chức năng được đào tạo tại các trường chính quy về
quản lý. Công tác đào tạo các kỹ năng quản lý ở các trường chính quy nói chung là
tốt. Tuy nhiên, để các cán bộ quản lý cấp cao và cấp trung có thể làm tốt công tác
lãnh đạo của mình thì ngoài các kỹ năng quản lý chung, đội ngũ cán bộ quản lý này
cần phải có thêm một số kiến thức về kỹ thuật chuyên ngành may như kỹ năng quản
lý dây chuyền may, quản lý chất lượng sản phẩm may… Những kiến thức chuyên
ngành này chính là khoảng trống mà hiện nay các trường đào tạo về quản lý chưa có
giải pháp hữu hiệu để bù đắp cho người học, đây chính là yếu tố ảnh hưởng không
tốt tới việc hình thành vốn nhân lực chuyên môn trong các doanh nghiệp may. Nhận
thức rõ yếu điểm này, đội ngũ cán bộ quản lý cấp cao và cấp trung trong doanh
nghiệp may thường được doanh nghiệp cho đi bồi dưỡng ngắn hạn các kiến thức, kỹ
năng chuyên ngành may như đã nói ở trên hoặc doanh nghiệp tự bồi dưỡng theo
hình thức đào tạo trong công việc (On the Job Training).
81
Đối với đội ngũ cán bộ quản lý cấp trung nhưng làm việc tại phân xưởng sản
xuất như quản đốc, phó quản đốc…thì có cả lao động được đào tạo tại các trường
chính quy về quản lý như đã nói ở trên nhưng đại đa số lại là những công nhân lành
nghề được doanh nghiệp bồi dưỡng thêm để nắm giữ những chức vụ này. Họ
thường được đào tạo, bồi dưỡng tại các trường dạy nghề hoặc đại học, cao đẳng có
đào tạo chuyên ngành may, sau đó được các doanh nghiệp cử đi học theo hình thức
vừa làm vừa học, bằng đại học thứ hai hoặc được cử đi bồi dưỡng ngắn hạn về quản
lý. Đây cũng là một thực trạng đáng quan tâm trong quá trình đào tạo nhân lực quản
lý cho ngành may, nhất là đối với những cơ sở đào tạo nhân lực cho ngành may ở
cấp trình độ đại học và cao đẳng.
Hiện nay, các cơ sở đào tạo nhân lực cho ngành may ở bậc đại học và cao
đẳng chỉ xác định công việc chủ yếu của sinh viên sau khi tốt nghiệp là làm các
công việc về kỹ thuật trong doanh nghiệp may vì vậy các kiến thức về quản trị
doanh nghiệp may thường được đưa vào chương trình đào tạo với thời lượng không
tương xứng với vị trí quản lý doanh nghiệp may. Có thể thấy rõ vấn đề này ở
chương trình đào tạo kỹ sư công nghệ may ở một số trường đại học và cao đẳng tại
Việt Nam trong đó thời lượng các nội dung về quản lý trong chương trình đào tạo
chỉ chiếm từ 3,5 – 6,4% [19]. Với thời lượng như trên, sinh viên sau khi tốt nghiệp
thường không thể đảm nhiệm các vị trí quản lý tại các doanh nghiệp may được mà
thường phải bồi dưỡng thêm các kiến thức về quản lý qua các khoá bồi dưỡng ngắn
hạn. Như vậy, quá trình tạo vốn nhân lực chuyên môn đối với cán bộ quản lý cấp
trung của các doanh nghiệp may phải trải qua cả đào tạo chính quy và đào tạo
không chính quy.
2.2.2.2- Công tác đào tạo cán bộ quản lý cấp cơ sở cho các doanh nghiệp may
Cán bộ quản lý cấp cơ sở trong doanh nghiệp may là các chức danh như
trưởng ca, tổ trưởng, tổ phó. Các cán bộ ở cấp quản lý này đại đa số là các công
nhân có tay nghề tương đối tốt, có tâm huyết với doanh nghiệp nên được doanh
nghiệp giữ lại làm bộ khung quản lý cấp cơ sở. Qua khảo sát cán bộ quản lý cấp cơ
sở tại các doanh nghiệp may, có thể thấy rằng một số được đào tạo tại các trường
82
dạy nghề may chính quy, một số được đào tạo ngắn hạn tại các trung tâm dạy nghề
may và một số ít nữa do doanh nghiệp tự đào tạo. Trong những chương trình dạy
nghề may cho các đối tượng trên, hầu như không đề cập đến những kiến thức về
quản lý chuyên ngành may nên những cán bộ này không có kiến thức về quản lý vì
vậy khi được đề bạt thành tổ trưởng hoặc trưởng ca để quản lý một tổ sản xuất hoặc
một ca sản xuất thường rất lúng túng và quản lý không có hiệu quả vì kiến thức về
quản lý mà họ có được là do tự quan sát và trau dồi trong quá trình làm công nhân
may tại doanh nghiệp, không được đào tạo một cách có hệ thống. Đây chính là
những bất cập làm giảm chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may trong
một giai đoạn tương đối dài do tác động của yếu tố quản trị doanh nghiệp may mà
cụ thể là công tác đào tạo và sử dụng cán bộ quản lý cấp cơ sở chưa hợp lý.
Hiện nay một số doanh nghiệp đã nhận ra vấn đề trên nên đã cải tiến công tác
đào tạo và sử dụng cán bộ quản lý cấp cơ sở thông qua việc tổ chức các khoá học
ngắn hạn về quản lý tổ sản xuất cho đội ngũ này, thậm chí có những doanh nghiệp
đã tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý tổ sản xuất cho 100% cán bộ quản
lý cấp cơ sở. Những chương trình bồi dưỡng ngắn hạn này đều do các trường chính
quy xây dựng và giảng dạy theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp. Nội dung chương
trình thường tập trung vào các chuyên đề về quản lý và điều hành tổ sản xuất, có
nhiều lớp bồi dưỡng còn yêu cầu cung cấp thêm các kiến thức sơ lược về chuẩn bị
sản xuất chuyên ngành may. Những lớp học này thường được tổ chức ngay tại
doanh nghiệp nên học viên có cơ hội trao đổi với giảng viên về những vấn đề xảy ra
trong thực tế sản xuất liên quan đến bài học. Qua những chuyên đề như trên, các
cán bộ quản lý cấp cơ sở này đã tiếp thu được một cách có hệ thống các kiến thức
về quản lý tổ sản xuất, điều này đã giúp họ quản lý dây chuyền may một cách có
hiệu quả hơn.
Ngoài những ưu điểm như đã đề cập ở trên, các chương trình bồi dưỡng cán
bộ quản lý cấp cơ sở ở trên cũng đã bộc lộ một số những nhược điểm như sau :
- Có một số chương trình bồi dưỡng do các trường không đào tạo chuyên
ngành may thiết kế do đó những kiến thức về quản lý trong những chương trình này
83
không đề cập nhiều đến quản lý tổ sản xuất chuyên ngành may mà chỉ là những kiến
thức quản lý chung vì vậy trong thời gian bồi dưỡng ngắn, lượng kiến thức cung cấp
cho học viên không được nhiều mà lại không cụ thể về ngành may nên phần nào
làm hạn chế hiệu quả của các khoá bồi dưỡng này.
- Giáo viên giảng dạy các khoá bồi dưỡng ngắn hạn về quản lý cho cán bộ
quản lý cấp cơ sở trong các doanh nghiệp may thường có rất ít kinh nghiệm về thực
tế sản xuất của ngành may nên gặp nhiều khó khăn khi thiết kế các bài tập hoặc các
tình huống để mô phỏng sát với thực tế của ngành may vì vậy việc truyền đạt kiến
thức quản lý chuyên ngành cũng bị hạn chế về hiệu quả.
- Về công tác quản lý : hầu hết doanh nghiệp không có bộ phận chuyên trách
về đào tạo nguồn nhân lực nên việc tổ chức xác định nhu cầu đào tạo, tổ chức đào
tạo…cho phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp không được thực hiện có hiệu quả.
Đây cũng là một khâu yếu trong doanh nghiệp may do ảnh hưởng của yếu tố quản
trị doanh nghiệp gây ra dẫn đến giảm chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp
Như vậy, vốn nhân lực chuyên môn của cán bộ quản lý cấp cơ sở trong các
doanh nghiệp may chủ yếu được tạo thành thông qua kinh nghiệm tiếp nhận được
trong thực tế sản xuất và qua các khoá đào tạo trong công việc.
2.2.3 Công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật cho doanh nghiệp may
Lực lượng cán bộ kỹ thuật trong các doanh nghiệp may bao gồm các cán bộ
phụ trách công nghệ sản xuất và các cán bộ làm công tác thiết kế thời trang. Công
tác đào tạo cán bộ kỹ thuật cho các doanh nghiệp may cũng được các cơ sở đào tạo
tập trung vào hai lĩnh vực đào tạo nhân lực này.
2.2.3.1- Công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật phụ trách công nghệ sản xuất ngành may
Đội ngũ cán bộ kỹ thuật làm các công tác về công nghệ sản xuất của ngành
may có đặc điểm tương đối khác với các ngành nghề khác. Nghề may là nghề bán
thủ công, cho đến năm 2012, có thể nói rằng, sản xuất của ngành may vẫn chủ yếu
là sản xuất gia công vì vậy mặc dù có sự trợ giúp của nhiều thiết bị hiện đại nhưng
tay nghề của đội ngũ cán bộ kỹ thuật vẫn hết sức quan trọng.
84
Tính đến năm 2012, đội ngũ cán bộ kỹ thuật công nghệ chuyên ngành may
được đào tạo tại 23 trường đại học, cao đẳng trong cả nước. Số lượng tuyển sinh
viên chuyên ngành may của các trường rất khác nhau, có trường tuyển rất ít, chỉ
khoảng 20 – 30 sinh viên/năm, có trường tuyển tương đối nhiều, nhất là các trường
chính quy thuộc Tập đoàn Dệt May Việt Nam, tuyển khoảng 3000 sinh viên ngành
may/năm nhưng chỉ ở bậc cao đẳng. Cả nước chỉ có 12 trường đại học đào tạo nhân
lực kỹ thuật cho ngành công nghiệp may ở trình độ đại học nhưng chỉ tuyển được
khoảng 300 sinh viên/năm, chưa đáp ứng được 15% nhu cầu của toàn ngành. Đây là
nguyên nhân chính dẫn đến chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may thấp
và ngành công nghiệp may không thể chuyển đổi nhanh từ sản xuất gia công sang
phương thức sản xuất mua đứt bán đoạn.
Chương trình đào tạo ở bậc đại học và cao đẳng ngành công nghệ may của
các trường có đào tạo cán bộ kỹ thuật công nghệ chuyên ngành may cũng rất khác
nhau, cụ thể như sau : cùng ở bậc đại học nhưng thời lượng đào tạo có trường chỉ là
173 tín chỉ nhưng cũng có trường tới 231 tín chỉ. Thời lượng chênh lệch nhau như
vậy chắc chắn dẫn đến nội dung đào tạo của các trường cũng khác nhau nhiều.
Nội dung chương trình đào tạo cán bộ kỹ thuật công nghệ chuyên ngành may
có rất nhiều nhược điểm :
- Trong phần cơ sở ngành, có một số trường đưa vào rất nhiều học phần
không liên quan hoặc rất ít có liên quan đến chuyên ngành may. Có một số cơ sở
đào tạo thường gắn việc đào tạo chuyên ngành may với một số chuyên ngành khác
thành các ngành như ngành công nghệ dệt may, ngành may và thời trang. Việc gắn
các ngành đào tạo này lại với nhau trong một chương trình đào tạo vô hình chung đã
làm các trường này xác định mục tiêu đào tạo rất khó hoặc xác định được mục tiêu
đào tạo nhưng lại thuộc hai chuyên ngành khác nhau nên sinh viên không được học
chuyên sâu vào chuyên ngành nào vì thế kiến thức và kỹ năng của cả hai chuyên
ngành đều yếu, không đáp ứng được nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp.
- Trong chương trình đào tạo kỹ sư công nghệ may, thời lượng sinh viên
được trực tiếp thực hành trên sản phẩm thực rất ít, có trường chỉ có 10/286 đơn vị
85
học trình (chiếm 3,5%). Chính vì lý do này mà hiện nay nhiều sinh viên ra trường
không đáp ứng được yêu cầu kỹ năng thực hành trong thực tiễn sản xuất tại doanh
nghiệp. Nguyên nhân của tình trạng trên là do một số trường đại học, cao đẳng xác
định mục tiêu đào tạo không đúng, nhất là mục tiêu về kỹ năng thực hành. Mặt khác,
do chi phí để mua nguyên phụ liệu thực hành tương đối cao nên nhiều trường không
muốn cho sinh viên thực hành nhiều.
2.2.3.2- Công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật làm công tác thiết kế thời trang
Để nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp may thì vấn đề sáng tác và
bán những sản phẩm có giá trị gia tăng cao đang trở thành nhu cầu tất yếu. Để làm
được điều này, yêu cầu đầu tiên là phải có đội ngũ những nhà thiết kế thời trang giỏi
tại các doanh nghiệp may. Hiện nay, những cán bộ làm công tác thiết kế thời trang
thường được đào tạo ở nước ngoài và một số trường đại học và cao đẳng trong nước.
Việc đào tạo đội ngũ này còn nhiều bất cập, thể hiện cụ thể như sau :
- Nhiều trường đại học, cao đẳng có khoa hoặc bộ phận chịu trách nhiệm đào
tạo ngành thiết kế thời trang nhưng thực tế hầu như không tuyển sinh ngành thiết kế
thời trang hoặc có tuyển sinh nhưng lượng tuyển rất nhỏ, không tương xứng với nhu
cầu về nguồn nhân lực thiết kế thời trang của các doanh nghiệp may.
- Đội ngũ giảng viên đào tạo ngành thiết kế thời trang chủ yếu được đào tạo
ở trong nước, ít tham gia vào các cuộc thi trình diễn thời trang ở tầm cỡ khu vực
cũng như thế giới do đó ít được cập nhật với sự phát triển của thời trang thế giới.
Điều này đã làm ảnh hưởng rất lớn đến quá trình xây dựng chương trình đào tạo
ngành thời trang cũng như quá trình đào tạo nhân lực cho ngành thời trang.
- Về chương trình đào tạo : hiện nay có nhiều trường đại học và cao đẳng đào
tạo cán bộ kỹ thuật thiết kế thời trang nhưng chương trình đào tạo của những trường
này rất khác nhau và có nhiều bất cập, cụ thể như sau :
+ Ở Việt Nam hiện nay, đa số các doanh nghiệp may sản xuất theo phương
thức gia công nên ít có nhu cầu sử dụng đội ngũ thiết kế thời trang chuyên nghiệp.
Chính vì vậy mà các cơ sở đào tạo nhân lực cũng chưa chú trọng đến việc xác định
nhu cầu của doanh nghiệp về đội ngũ nhân lực thiết kế thời trang, các chương trình
86
đào tạo do các trường xây dựng hiện nay chỉ là các sản phẩm do tư duy chủ quan
của trường cộng với việc tham khảo chương trình của một số cơ sở đào tạo nhân lực
thời trang trên thế giới, do đó có một số bất cập như : sinh viên ngành thời trang có
thể vẽ rất đẹp nhưng không xác định được thị trường mục tiêu của những sáng tác
đó; thiếu một số kiến thức cốt lõi về thiết kế mẫu vải, chuỗi cung ứng nguyên liệu
cho ngành dệt may.
+ Khi xây dựng chương trình đào tạo, một số trường ghép ngành thiết kế thời
trang với ngành công nghệ may thành chuyên ngành may và thời trang. Vì đây là
hai ngành có kiến thức cơ sở và chuyên ngành rất khác nhau, một ngành thiên về
nghệ thuật, một ngành thiên về kỹ thuât nên việc ghép như trên là không phù hợp,
làm giảm chất lượng vốn nhân lực của người học sau khi tốt nghiệp.
- Ngoài các trường đại học, cao đẳng trong nước, một số trường nước ngoài
cũng đặt cơ sở tại Việt Nam hoặc liên kết với Việt Nam để đào tạo ngành thiết kế
thời trang. Những chương trình đào tạo này có ưu điểm như : chương trình đào tạo
hiện đại, cập nhật với những kiến thức và kỹ năng làm thời trang của khu vực và thế
giới. Trong chương trình đã thể hiện đầy đủ các nội dung để sinh viên có thể thiết
kế sản phẩm thời trang, quản lý sản xuất sản phẩm thời trang, marketing sản phẩm
thời trang…Giảng viên tham gia giảng dạy là những giảng viên nước ngoài, có
nhiều kinh nghiệm về làm thời trang vì vậy kiến thức và phương pháp giảng dạy tốt.
Tuy nhiên các chương trình đào tạo này cũng có một nhược điểm rất lớn đối với
người Việt Nam là học phí cao nên số lượng sinh viên có thể theo học những
chương trình này không nhiều.
Như vậy, quá trình tạo vốn nhân lực chuyên môn của cán bộ kỹ thuật trong
doanh nghiệp may chủ yếu là quá trình đào tạo chính quy tại các cơ sở đào tạo. Tuy
nhiên có thể thấy rằng năng lực đào tạo nhân lực ở bậc cao đẳng và đại học, nhất là
bậc đại học rất yếu. Nguyên nhân chính là trong giai đoạn vừa qua, nhu cầu sử dụng
nhân lực cho ngành dệt may ở bậc đại học rất lớn nhưng nhà nước, mặc dù đã có
chủ trương nhưng chưa cho phép thành lập một trường đại học chuyên ngành của
ngành dệt may để tập trung nguồn lực đào tạo nguồn nhân lực cốt lõi này cho ngành
87
dệt may nói chung và ngành công nghiệp may nói riêng, vì vậy nhân lực có trình độ
đại học trong các doanh nghiệp may vừa thiếu, vừa yếu đã góp phần làm cho chất
lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam thấp.
Một nguyên nhân nữa là Nhà nước, Hiệp hội Dệt May Việt Nam và Tập
đoàn Dệt May Việt Nam chưa làm tốt việc hỗ trợ các cơ sở đào tạo trong công tác
xác định nhu cầu đào tạo, đặc biệt nhu cầu đào tạo về kiến thức, kỹ năng, thái độ
của nguồn nhân lực ở trình độ cao đẳng và đại học để giúp ngành công nghiệp may
chuyển dần từ sản xuất gia công sang phương thức sản xuất mua đứt bán đoạn. Xác
định nhu cầu đào tạo của một ngành thường vượt quá năng lực của một cơ sở đào
tạo, do vậy trong giai đoạn vừa qua các trường đào tạo nhân lực cho ngành công
nghiệp may thường chỉ đào tạo cái mà trường có, chưa đúng nhu cầu của các doanh
nghiệp may, nhiều nhân lực quan trọng như merchandiser chuyên ngành may…lại
chưa có đơn vị nào đào tạo, do vậy chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may thấp.
2.2.4 Công tác đào tạo công nhân kỹ thuật cho doanh nghiệp may
Đội ngũ công nhân kỹ thuật đang giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp may hiện nay. Theo quyết định số 36/2008/QĐ-TTg
ngày 10/03/2008 của Thủ tướng Chính phủ thì tính đến năm 2010, có khoảng 2,5
triệu lao động làm việc trong toàn ngành dệt may Việt Nam, tính đến năm 2015 con
số này sẽ là 2,75 triệu và đến năm 2020, số lao động làm việc trong toàn ngành dệt
may sẽ đạt con số 3,0 triệu. Như vậy có thể thấy rằng số lao động là công nhân kỹ
thuật may cũng sẽ tăng rất nhanh theo sự phát triển chung của toàn ngành. Để đáp
ứng nhu cầu lao động rất lớn của các doanh nghiệp, hiện nay công tác đào tạo công
nhân kỹ thuật may do rất nhiều cơ sở thực hiện như các trường chính quy, các trung
tâm dạy nghề và ngay tại doanh nghiệp.
2.2.4.1- Công tác đào tạo công nhân kỹ thuật chính quy
Theo kinh nghiệm của các doanh nghiệp may, để một dây chuyền may hoạt
88
động ổn định, có năng suất cao thì ít nhất phải có 20 – 25% công nhân có tay nghề
cao, số công nhân còn lại trong dây chuyền chỉ cần có tay nghề ở mức trung bình
cũng có thể đảm đương tốt nhiệm vụ của mình.
Đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề thường được đào tạo tại các trường
chính quy ở các hệ như công nhân kỹ thuật may bậc 2/6, công nhân kỹ thuật may
bậc 3/6, trung cấp nghề, cao đẳng nghề, trung cấp chuyên nghiệp ngành công nghệ
may. Tuy nhiên, một số công nhân trưởng thành từ doanh nghiệp, qua thời gian làm
việc lâu năm (khoảng từ 10 – 15 năm trở lên), họ tự tích luỹ được kiến thức và kỹ
năng nghề của thợ bậc cao thì thường được doanh nghiệp cho đi dự thi nâng bậc thợ
tại các trường chính quy để lấy chứng chỉ nghề bậc 3, 4… Đây cũng chính là cách
doanh nghiệp tự đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề. Cá biệt, có những công ty tự
đào tạo công nhân lành nghề ngay tại doanh nghiệp trong thời gian từ 6 – 9 tháng.
Hiện nay, có rất nhiều đơn vị chuyên đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề
cho ngành may như các trường chính quy của Tập đoàn dệt may Việt Nam, một số
trường đại học, cao đẳng mới được nâng cấp trong khoảng 5 năm trở lại đây, nhất là
các trường trực thuộc Bộ công thương. Trong số các trường có đào tạo công nhân
kỹ thuật may ở trên, lượng đào tạo nhiều nhất thuộc về ba trường cao đẳng của Tập
đoàn dệt may Việt Nam vì những trường này có điều kiện về cơ sở vật chất cũng
như lực lượng giáo viên thực hành mạnh để đào tạo chuyên ngành may. Riêng trong
năm 2012, ba trường cao đẳng thuộc Tập đoàn Dệt May Việt Nam đã đào tạo
khoảng 4000 học sinh chính quy nghề may bậc trung cấp nghề, cao đẳng nghề và kỹ
thuật viên trung học ngành công nghệ may. Tuy nhiên, các trường còn lại tuyển sinh
hệ công nhân kỹ thuật may rất khó khăn do trong vài năm trở lại đây, nghề may
không còn là nghề hấp dẫn do thu nhập không cao, thời gian làm việc dài; mặt khác,
nhiều nghề mới phát triển rất nhanh vì vậy học sinh có nhiều lựa chọn vào các
ngành nghề có thu nhập cao hơn. Hơn nữa, đào tạo nghề may đòi hỏi phải chuẩn bị
nhiều sản phẩm cho học sinh thực hành thì tay nghề mới có thể đáp ứng được nhu
cầu của doanh nghiệp, vì vậy chi phí đào tạo cao (khoảng 700.000 – 800.000
đồng/tháng/học sinh). Do đó một số trường không muốn tuyển nhiều học sinh học
89
nghề may, trừ một số trường có doanh nghiệp sản xuất riêng, có thể tự trang trải
nguồn hàng học tập từ sản xuất.
Như vậy, có thể thấy rằng vốn nhân lực chuyên môn của công nhân kỹ thuật
lành nghề trong các doanh nghiệp may được tạo thành thông qua đào tạo chính quy
tại các cơ sở đào tạo hoặc thông qua quá trình tích luỹ kinh nghiệm trong thực tế
sản xuất tại doanh nghiệp từ 10 – 15 năm.
2.2.4.2- Công tác đào tạo công nhân kỹ thuật may ngắn hạn
Bên cạnh đội ngũ công nhân kỹ thuật may lành nghề thì đội ngũ công nhân
kỹ thuật may có tay nghề trung bình thường được đào tạo tại các trung tâm dạy
nghề hoặc trực tiếp tại doanh nghiệp.
- Đào tạo công nhân kỹ thuật may tại doanh nghiệp: doanh nghiệp thường
thành lập bộ phận đào tạo riêng, thậm chí thành lập một trường đào tạo nghề có tư
cách pháp nhân riêng để đào tạo công nhân may có trình độ trung bình cho riêng
công ty nhằm bổ sung lượng công nhân thiếu hụt do biến động hàng năm hoặc phục
vụ cho nhu cầu mở rộng công ty. Trong khoảng 3 năm trở lại đây, việc tuyển sinh
và đào tạo tại các công ty may cũng gặp rất nhiều khó khăn do nghề may không còn
hấp dẫn. Để có lao động, nhiều doanh nghiệp chấp nhận tuyển sinh đào tạo công
nhân may miễn phí trong vòng 1 – 2 tháng (đối với doanh nghiệp lớn) và 2 – 3
tháng (đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ); sau khi học xong sẽ được bố trí ngay vào
làm việc trong công ty nhưng lượng tuyển sinh cũng vẫn rất hạn chế, nhất là những
công ty nằm trên địa bàn các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh…Đây chính là tác động tiêu cực của yếu tố quản trị doanh nghiệp đến chất
lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp may do một số nhà quản trị doanh nghiệp vẫn
muốn duy trì việc đặt cơ sở sản xuất tại các thành phố lớn để tận dụng lợi thế về
giao thông, địa điểm giao dịch… Bên cạnh đó, nội dung đào tạo công nhân kỹ thuật
tại doanh nghiệp cũng có nhiều bất cập do doanh nghiệp xây dựng chương trình đào
tạo chung cho các đối tượng ở đầu vào, chưa tính đến các công việc đặc thù mà
người lao động phải đảm nhiệm sau khi học xong, vì vậy nhiều nội dung thừa trong
khi đó lại thiếu một số nội dung cần thiết theo nhu cầu của doanh nghiệp.
90
- Trong thời gian vừa qua, các trung tâm dạy nghề thuộc các tỉnh, huyện
cũng đóng vai trò quan trọng trong công tác đào tạo đội ngũ công nhân cho ngành
may. Mục tiêu đào tạo của các trung tâm này chỉ là đào tạo công nhân may trong
thời gian từ 2 – 3 tháng để họ có thể may được các sản phẩm như áo sơ mi hoặc
quần âu loại đơn giản. Chính vì vậy, khi về doanh nghiệp thường phải đào tạo thêm
từ 2 – 3 tháng nữa để học sinh có thể làm quen và phần nào tiếp cận được với nhịp
độ sản xuất công nghiệp.
- Việc đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật ngắn hạn đôi khi cũng do các
trường chính quy thực hiện theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp, nhất là những
doanh nghiệp mới thành lập. Trong quá trình đào tạo, nhà trường thường kết hợp
với doanh nghiệp để chuẩn bị sản phẩm thực hành cho học sinh là những sản phẩm
truyền thống của doanh nghiệp, do vậy học sinh sau khi ra trường sẽ không phải đào
tạo lại mà có thể theo kịp ngay với dây chuyền sản xuất tại doanh nghiệp.
Như vậy, vốn nhân lực chuyên môn của công nhân kỹ thuật bán lành nghề
trong các doanh nghiệp may được tạo thành chủ yếu thông qua các khoá đào tạo tại
các cơ sở đào tạo chính quy, trung tâm dạy nghề hoặc do doanh nghiệp trực tiếp
thực hiện. Đối với các doanh nghiệp may lớn (chỉ chiếm 5,3% số lượng doanh
nghiệp may vào năm 2010), các khoá đào tạo ngắn hạn chỉ tiến hành khoảng 1 – 2
tháng, đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tổ chức các khoá đào tạo công
nhân kỹ thuật may ngắn hạn từ 2 – 3 tháng.
2.2.5 Quá trình tạo vốn nhân lực của công nhân kỹ thuật may thông qua tổ chức
hoạt động nhóm
Trong khoảng 5 năm trở lại đây, các nhà quản trị trong các doanh nghiệp
may rất quan tâm đến quá trình tổ chức sản xuất theo hình thức tăng cường hoạt
động nhóm tại dây chuyền sản xuất. Về khía cạnh này, yếu tố quản trị doanh nghiệp
đã có ảnh hưởng lớn, giúp nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may. Cụ thể là với sự quan tâm của lãnh đạo doanh nghiệp may, quá trình tạo vốn
nhân lực công nhân kỹ thuật may bằng hình thức “dây chuyền cụm” đã được ứng
dụng hết sức phổ biến. Hình thức tạo vốn nhân lực này có nội dung như sau :
91
- Từ năm 2000 trở về trước, hầu hết các doanh nghiệp may đều thiết kế dây
chuyền may theo hình thức “dây chuyền hàng dọc”, nghĩa là mỗi thành viên trong
dây chuyền chịu trách nhiệm may một hoặc hai bộ phận nhất định, tính chuyên môn
hoá cao do đó tạo ra năng suất lao động cao. Tuy nhiên, hình thức này có nhược
điểm rất lớn là khi có biến động lao động, rất khó bố trí người thay thế vào các bộ
phận bị bỏ trống hoặc bố trí được nhưng vì lao động mới, chưa quen việc nên năng
suất lao động cũng như chất lượng sản phẩm đều giảm. Khảo sát thực tế tại các
doanh nghiệp may cho thấy nếu một dây chuyền may thiết kế theo hình thức “dây
chuyền hàng dọc” giảm 5% lao động mà không có người thay thế thì năng suất lao
động sẽ giảm khoảng 10%. Chính vì nhược điểm này mà dây chuyền hàng dọc được
ứng dụng nhiều trong giai đoạn trước năm 2000, khi mà tỷ lệ biến động lao động
nhỏ (dưới 5%/năm).
- Từ năm 2000 đến nay, tỷ lệ biến động lao động trong ngành dệt may bắt
đầu có xu hướng tăng cao. Từ năm 2005 trở lại đây, theo đánh giá của Ông Lê Nho
Thướng, Trưởng Ban quản lý nguồn nhân lực Tập đoàn Dệt May Việt Nam và một
số chuyên gia khác, tỷ lệ biến động lao động trong các doanh nghiệp lớn khoảng 10
– 15%/năm, trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước khoảng 15 – 25%/năm
và trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khoảng 35 – 40%/năm. Với tỷ
lệ biến động lao động lớn nên để đảm bảo năng suất lao động, chất lượng sản phẩm
cũng như tiến độ giao hàng, các doanh nghiệp may đã thay đổi thiết kế dây chuyền
sản xuất từ dây chuyền hàng dọc sang hình thức dây chuyền cụm.
Dây chuyền cụm trong sản xuất may mặc được thiết kế sao cho một nhóm
công nhân chịu trách nhiệm may một cụm bộ phận trong sản phẩm. Nhóm công
nhân đó có người đứng đầu là nhóm trưởng, là công nhân kỹ thuật lành nghề có
trách nhiệm hướng dẫn cho những người lao động trong nhóm may cụm bộ phận
được giao đảm bảo năng suất và chất lượng. Dây chuyền cụm có hai ưu điểm rất lớn
sau đây :
- Khi có biến động lao động, trong một nhóm công nhân may cụm bộ phận
được giao có thể thiếu 1 – 2 người thì những người còn lại vẫn có khả năng may
được đủ số lượng sản phẩm được giao trong ngày, đảm bảo chất lượng mặc dù thời
92
gian có thể bị kéo dài hơn ngày bình thường. Đó là vì mọi thành viên của nhóm đều
có thể may được tất cả các bộ phận trong cụm sản phẩm được giao.
- Đối với quá trình tạo vốn nhân lực : Để đảm bảo năng suất, chất lượng sản
phẩm cũng như thu nhập cho người lao động, người nhóm trưởng có trách nhiệm
hướng dẫn để tất cả thành viên của nhóm đều may được tất cả các bộ phận trong
cụm bộ phận được giao. Như vậy, kiến thức, kỹ năng của người nhóm trưởng đã
được truyền tải một cách tích cực và chủ động từ người nhóm trưởng đến các thành
viên trong nhóm. Nói một cách khác là vốn nhân lực của người nhóm trưởng đã
được truyền tải cho các thành viên trong nhóm và làm tăng phạm vi của vốn nhân
lực trong các doanh nghiệp may.
2.2.6 Quá trình tạo vốn nhân lực của các doanh nghiệp may thông qua việc xác lập
một thị trường kiến thức
Trong các doanh nghiệp may hiện nay, ý thức tạo dựng một thị trường kiến
thức hoặc nâng cấp dữ liệu của doanh nghiệp thành vốn thông tin nhằm mở rộng
phạm vi của vốn nhân lực còn rất hạn chế. Hầu hết các doanh nghiệp may chưa có
bộ phận quản lý đào tạo riêng mà chỉ giao trách nhiệm cho một chuyên viên trực
thuộc phòng tổ chức chịu trách nhiệm về công tác này, chính vì lý do đó mà công
tác tạo vốn nhân lực nói chung và công tác tạo vốn nhân lực bằng hình thức xác lập
một thị trường kiến thức không được thúc đẩy mạnh mẽ.
Nhà sản xuất, người bán trong thị trường kiến thức tại các doanh nghiệp
may: trong các doanh nghiệp may hiện nay, việc truyền đạt kiến thức từ những
người có vốn nhân lực cao đến những người có vốn nhân lực thấp hơn thường chỉ
thông qua hình thức trực tiếp như mời các cán bộ giỏi tham gia giảng dạy tại các lớp
học ngắn hạn hoặc kỹ thuật viên hướng dẫn trực tiếp cho người lao động trong quá
trình triển khai sản xuất tại dây chuyền may. Như vậy thời gian lan truyền cũng như
phạm vi lan truyền kiến thức và kỹ năng mới trong các doanh nghiệp may thường
chậm và không rộng. Quan trọng hơn là quá trình truyền đạt kiến thức ở trên thường
chỉ diễn ra trong nội bộ một doanh nghiệp và do doanh nghiệp chủ động tổ chức quá
trình truyền đạt kiến thức từ người có vốn nhân lực cao đến những người có vốn
nhân lực thấp hơn. Do vậy, người truyền đạt kiến thức chưa có nhận thức mình là
93
người bán những kiến thức mình có, chưa có nhận thức về việc cần phải sản xuất
các sản phẩm kiến thức từ những hiểu biết của mình để bán cho người có nhu cầu;
hơn nữa, ngay chính doanh nghiệp cũng chưa có định hướng trong việc sản xuất các
sản phẩm kiến thức để có thể biến dữ liệu trong doanh nghiệp thành vốn thông tin
nhằm mang lại lợi ích trong tương lai cho doanh nghiệp. Như vậy, có thể thấy một
thực trạng là trong doanh nghiệp may chưa hình thành các nhà sản xuất-người bán
một cách chuyên nghiệp, lý do chính là các nhà quản trị doanh nghiệp chưa nhận ra
tầm quan trọng của công việc này và chính yếu tố quản trị doanh nghiệp đang gây ra
tác động cản trở việc tăng quy mô của vốn nhân lực trong doanh nghiệp, do đó
không thể nâng cao chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp may.
Người mua trong thị trường kiến thức tại các doanh nghiệp may : các doanh
nghiệp may hiện nay có tỷ lệ biến động lao động cao, lượng tuyển mới hàng năm tại
các doanh nghiệp lớn do đó có một số lượng lớn những người lao động mới có nhu
cầu sử dụng các sản phẩm kiến thức để tự học tập nâng cao trình độ của bản thân.
Mặt khác, hàng năm, có một số lượng lớn doanh nghiệp may được thành lập mới.
Số liệu ở bảng 2.3 cho thấy, chỉ riêng trong năm 2010 đã có 400 doanh nghiệp may
được thành lập mới. Đây là những doanh nghiệp ít có kinh nghiệm trong tổ chức
sản xuất và rất muốn được tiếp cận với những sản phẩm kiến thức của các doanh
nghiệp mạnh để có thể gia tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Như vậy, người mua cá nhân và người mua là tổ chức đối với các sản
phẩm kiến thức trong công nghiệp may tương đối lớn.
Về quá trình tạo dựng các sản phẩm kiến thức trong doanh nghiệp may : như
trên đã phân tích, hầu hết các doanh nghiệp may chưa quan tâm đến việc tổ chức
xây dựng các sản phẩm kiến thức như các sách hướng dẫn, đĩa CD, băng
video...chứa các kiến thức hoặc kinh nghiệm của doanh nghiệp, chính vì vậy có
nhiều người muốn học tập hoặc tham khảo kinh nghiệm của những người đi trước
nhưng không có điều kiện để làm việc này. Mặt khác, có những cán bộ giỏi hoặc
công nhân có tay nghề cao muốn đưa các kiến thức và kỹ năng của mình cho các
đồng nghiệp khác tham khảo, học hỏi cũng không thể thực hiện được. Điều này gây
nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp may vì khi những lao động giỏi chuyển công tác
94
hoặc thôi việc thì doanh nghiệp sẽ không giữ lại được vốn kiến thức cũng như kỹ
năng, kinh nghiệm của những người này. Nguyên nhân của tình trạng trên là do tác
động của yếu tố quản trị doanh nghiệp, ngoài việc nhà quản trị doanh nghiệp chưa
quan tâm đúng mức đến việc xây dựng các sản phẩm kiến thức thì còn một nguyên
nhân khác là một số nhà quản trị trong doanh nghiệp lớn, có công nghệ hiện đại lo
ngại tình trạng lộ bí mật công nghệ, giảm lợi thế cạnh tranh nên không có ý định sản
xuất các sản phẩm kiến thức.
2.3 Thực trạng vốn nhân lực và chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp
May Việt Nam
2.3.1 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực bằng tiêu chí đầu tư tài chính cho giáo dục
Kết quả khảo sát kinh phí đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng tại 60
doanh nghiệp may và dệt may năm 2011 được thể hiện ở biểu sau đây :
Vị trí làm việc
T
T
Số lượng
nhân lực
tự đào
tạo
(người)
Bảng 2.10: Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng của các doanh nghiệp Dệt May giai
đoạn 2009 – 2010
Kinh phí đào tạo bồi dưỡng
đã thực hiện
Số lượng
nhân lực
gửi đào
tạo tại các
trường
chính quy
(người)
Kinh phí
bình quân
chi cho
công tác tự
đào tạo
(triệu đồng
/người)
Kinh phí chi
cho công tác
đào tạo nhân
lực tại các
trường chính
quy
(triệu đồng)
Kinh phí
chi cho
công tác tự
đào tạo tại
chỗ
(triệu
đồng)
Kinh phí bình
quân chi cho
công tác đào
tạo tại trường
chính quy
(triệu đồng
/người)
A Năm 2009
I Cán bộ quản lý
141
720
5,1
370
764
2,1
II Cán bộ nghiệp vụ
344
866
2,5
757
1.054
1,4
III Công nhân kỹ thuật 12.172
6.926
0,6
221
736
3,3
Tổng số
12.657
8.512
0,7
1.348
2.554
1,9
B Năm 2010
I Cán bộ quản lý
1.117
2.179
2,0
186
1.149
6,2
II Cán bộ nghiệp vụ
1.378
1.580
1,1
481
896
1,9
III Công nhân kỹ thuật 12.433
8.679
0,7
1.405
2.583
1,8
Tổng số
14.928
12.438
0,8
2.072
4.628
2,2
Nguồn : Khảo sát của tác giả, 2011
95
Số liệu tại bảng 2.10 cho thấy kinh phí chi cho công tác đào tạo tại chỗ bình
quân năm 2009 là 700.000 đồng/người/năm, năm 2010 là 800.000 đồng/người/năm
(tăng 14,3% so với năm 2009). Theo khảo sát tại các doanh nghiệp, các khoá đào
tạo tại chỗ đối với cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, công nhân kỹ
thuật thường kéo dài trong phạm vi 01 tháng cho đến 3 tháng. Với mức đầu tư cho
đào tạo như trên, mức chi cho một tháng học tập của một người năm 2010 chỉ là
267.000 đồng/người/tháng đến 800.000 đồng/người/tháng. Mức chi này rất thấp so
với mức chi mà nhà nước đang áp dụng đối với đào tạo sơ cấp nghề may (khoảng
800.000 – 1.000.000 đồng/người/tháng), như vậy chất lượng vốn nhân lực của đội
ngũ nhân lực do doanh nghiệp tự đào tạo không cao.
Số liệu tại bảng 2.10 cũng cho thấy kinh phí bình quân doanh nghiệp chi cho
đào tạo nhân lực tại các trường chính quy là 1,9 triệu đồng/người/năm vào năm
2009 và 2,2 triệu đồng/người/năm vào năm 2010 (tăng 15,8% so với năm 2009).
Mức chi này gần tương đương với mức học phí mà người học phải nộp cho các
trường công lập chính quy, ngoài ra các chi phí cho sinh hoạt và học tập khác do
người học phải tự chi trả. Với mức hỗ trợ như trên, người học rất khó có thể tập
trung toàn bộ trí tuệ và công sức cho công tác học tập, mà thường phải vừa đi học
nhưng vẫn đảm nhiệm công việc tại công ty. Như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc
tiếp thu các kiến thức, kỹ năng tại nhà trường và chắc chắn chất lượng vốn nhân lực
của người học sẽ thấp.
Có hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc mức chi cho công tác đào tạo của
các doanh nghiệp may thấp :
- Thứ nhất : do chủ yếu sản xuất theo phương thức gia công xuất khẩu, tiến
độ giao hàng phụ thuộc hoàn toàn vào đối tác và thường rất gấp nên doanh nghiệp
không muốn cử người đi học, nhất là đội ngũ cán bộ, do đang tập trung cho sản xuất
- Thứ hai : do chỉ sản xuất gia công, doanh thu hạn chế nên không bố trí
nguồn kinh phí thường xuyên cho đào tạo. Chủ yếu, chỉ tiến hành đào tạo khi có sự
vụ phát sinh như : đào tạo cho lao động tuyển mới do biến động, mở rộng quy mô...
96
Cả hai nguyên nhân trên đều xuất phát từ yếu tố quản trị doanh nghiệp may
chưa theo kịp với xu thế hội nhập quốc tế. Bộ máy quản trị trong các doanh nghiệp
may hiện tại chỉ thích hợp với sản xuất gia công, nhiều nhà quản trị cấp cao trong
các doanh nghiệp may vẫn muốn sản xuất gia công do rủi ro thấp. Đây là yếu tố cản
trở việc nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
2.3.2 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may bằng tiêu chí
số năm đi học
2.3.2.1- Đánh giá chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp may bằng số năm đi
học phổ thông Để nghiên cứu chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may, có thể sử
dụng một thước đo khá phổ biến là thước đo dựa trên số năm đi học. Kết quả khảo
sát của Tập đoàn Dệt May Việt Nam tại 31 doanh nghiệp may vào năm 2009 và kết
quả khảo sát số liệu năm 2011 tại 60 doanh nghiệp may và doanh nghiệp dệt may
của tác giả đã cho thấy thực trạng trình độ văn hoá của nhân lực trong các doanh
nghiệp may vào các năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2010 như sau :
Bảng 2.11 : Trình độ văn hoá của lao động trong các doanh nghiệp may
giai đoạn 2005 - 2010
Năm
2008 Năm
2006
Nhân lực tốt nghiệp các cấp học
phổ thông
Tốt nghiệp trung học phổ thông (người) Năm
Năm
Năm
2010
2007
2005
13136 18375 20234 20563 16159
Tốt nghiệp trung học cơ sở (người) 18152 20281 20866 21300 10789
Tổng số (người) 31288 38656 41100 41863 26948
Tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông (%) 42,0 47,5 49,2 49,1 60,0
Tỷ lệ tốt nghiệp trung học cơ sở (%) 58,0 52,5 50,8 50,9 40,0
Nguồn : Tính toán của tác giả dựa trên kết quả khảo sát của Tập đoàn Dệt May
Việt Nam và khảo sát của tác giả
Số liệu tại bảng 2.11 cho thấy tỷ lệ nhân lực tốt nghiệp trung học phổ thông
trong các doanh nghiệp may tăng dần từ năm 2005 đến năm 2010. Tỷ lệ này tăng
dần hàng năm một phần là do ngành công nghiệp may có chiến lược chuyển nhà
máy về các vùng nông thôn nên các doanh nghiệp may đã thu hút được nhân lực tốt
nghiệp trung học phổ thông tại các vùng nông thôn, chưa có việc làm.
97
Để xác định được vốn nhân lực của các doanh nghiệp may trong các năm
2005 đến 2008 theo đơn vị đo là số năm đi học phổ thông, giả thiết rằng những
người tốt nghiệp trung học cơ sở có 9 năm đi học phổ thông, những người tốt
nghiệp trung học phổ thông có 12 năm đi học phổ thông.
Căn cứ vào giả thiết ở trên, đồng thời căn cứ vào số liệu tổng số nhân lực của
doanh nghiệp may trong các năm 2005 đến 2008 được nêu tại bảng 2.2 và tỷ lệ tốt
nghiệp các cấp học phổ thông nêu trong bảng 2.11, có thể xác định được tổng vốn
nhân lực phổ cập và vốn nhân lực phổ cập bình quân một lao động của doanh
nghiệp may theo số năm đi học phổ thông như sau :
Tổng vốn nhân lực phổ cập của doanh nghiệp may theo số năm đi học phổ
thông vào thời điểm năm 2005 là :
0,58 x 9 x 511.278 + 0,42 x 12 x 511.278 = 5245712 năm.
Vốn nhân lực phổ cập bình quân một lao động theo số năm đi học phổ thông
vào thời điểm năm 2005 là :
5.245.712 / 511278 = 10,26 năm.
Tương tự, có thể tính được tổng vốn nhân lực phổ cập và vốn nhân lực phổ
cập bình quân của các doanh nghiệp may vào thời điểm năm 2006, 2007, 2008. Kết
quả được thể hiện ở bảng sau đây :
Bảng 2.12 : Tổng vốn nhân lực phổ cập và vốn nhân lực phổ cập bình quân
tính theo số năm đi học phổ thông của doanh nghiệp may giai đoạn 2005 – 2008
Chỉ tiêu Năm
2005 Năm
2006 Năm
2007 Năm
2008
Tổng vốn nhân lực (năm) 5.245.712 6.102.941 7.397.030 7.851.053
- 16,34 21,2 6,1 Mức tăng vốn nhân lực so
với năm trước (%)
Vốn nhân lực bình quân một
lao động (năm) 10,26 10,43 10,48 10,47
- 1,66 0.48 - 0,1 Mức tăng vốn nhân lực bình
quân so với năm trước (%)
Nguồn : Tính toán của tác giả
98
Số liệu tại bảng 2.12 cho thấy tổng vốn nhân lực phổ cập của doanh nghiệp
may tăng dần từ năm 2005 đến năm 2008. Tổng vốn nhân lực phổ cập của các
doanh nghiệp may năm 2006 tăng 16,34% so với năm 2005, năm 2007 tăng 21,2%
so với năm 2006 và năm 2008 tăng 6,1% so với năm 2007. Bảng 2.12 còn cho biết
vốn nhân lực phổ cập bình quân của một lao động trong doanh nghiệp may cũng
tăng dần từ năm 2005 đến năm 2007 mặc dù mức tăng không lớn. Vốn nhân lực phổ
cập bình quân năm 2006 tăng 1,66% so với năm 2005; năm 2007 tăng 0,48% so với
năm 2006. Riêng năm 2008 có xu hướng giảm nhẹ (giảm 0,1%) so với năm 2007.
Điều này chứng tỏ rằng trong năm 2008, các doanh nghiệp may khó tuyển dụng
người lao động có vốn nhân lực phổ cập cao vào làm việc.
Để thấy rõ chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may, có thể so
sánh mức vốn nhân lực phổ cập của các doanh nghiệp may với mức vốn nhân lực
phổ cập của toàn bộ lao động trong nền kinh tế. Theo niên giám thống kê năm 2008,
tổng quy mô dân số năm 2008 là 86.210.800 người. Theo số liệu điều tra dân số và
nguồn lao động năm 2008 của Tổng cục thống kê, tại thời điểm 1/4/2008 có 56,6%
dân số nước ta đã tham gia vào thị trường lao động và phân bố phần trăm lực lượng
lao động theo trình độ học vấn cao nhất đạt được năm 2008 thể hiện ở biểu sau :
Bảng 2.13 Phân bố phần trăm lực lượng lao động theo
trình độ học vấn cao nhất đạt được năm 2008
TT Vùng
Tổng số Chưa đi
Chưa tốt
Tốt
Tốt
Tốt
học
nghiệp
nghiệp
nghiệp
nghiệp
tiểu học
tiểu học
THCS
PTTH
1
Cả nước
100
4,0
12,1
28,7
31,9
23,3
2
Thành thị
100
1,3
6,1
21,6
25,9
45,1
3
Nông thôn
100
4,9
14,2
31,3
34,1
15,5
Nguồn: [29]
Căn cứ vào số liệu quy mô dân số năm 2008 và số liệu tại bảng 2.13 có thể
xác định được số lượng lao động theo trình độ học vấn cao nhất đạt được năm 2008
như sau :
99
Bảng 2.14 Phân bố lực lượng lao động theo
trình độ học vấn cao nhất đạt được năm 2008 Đơ n vị tính : người
Vùng
Tổng số
Chưa đi
học
Chưa tốt
nghiệp
tiểu học
Tốt
nghiệp
tiểu học
Tốt
nghiệp
THCS
Tốt
nghiệp
PTTH
Cả nước 48.795.313 1.951.812
5.904.233 14.004.255 15.565.705 11.369.308
Nguồn : Tính toán của tác giả từ số liệu điều tra dân số, nguồn lao động 2008 và số
liệu trong niên giám thống kê 2008.
Để nghiên cứu chất lượng vốn nhân lực phổ cập, giả thiết số năm đi học ở
các cấp học phổ thông như sau :
- Những người chưa đi học có số năm đi học bằng : 0
- Những người chưa tốt nghiệp tiểu học có số năm đi học bằng : 2,5
- Những người tốt nghiệp tiểu học có số năm đi học bằng : 5
- Những người tốt nghiệp trung học cơ sở có số năm đi học bằng : 9
- Những người tốt nghiệp trung học phổ thông có số năm đi học bằng: 12
Với các giả thiết trên, có thể tính được tổng vốn nhân lực phổ cập theo số
năm đi học phổ thông của lực lượng lao động trong nền kinh tế như sau :
1.951.812 x 0 + 5.904.233 x 2,5 + 14.004.255 x 5 + 15.565.705 x 9 + 11.369.308 x
12 = 361.304.899 năm.
Như vậy, vốn nhân lực phổ cập bình quân của một lao động trong nền kinh tế
năm 2008 là :
361.304.899 / 48.795.313 = 7,4 năm
Theo số liệu tại bảng 2.12, vốn nhân lực phổ cập bình quân năm 2008 của
một lao động ngành may là 10,47 năm, lớn gấp 1,41 lần so với vốn nhân lực phổ
cập bình quân của lực lượng lao động trong nền kinh tế. Như vậy có thể thấy chất
lượng vốn nhân lực phổ cập của các doanh nghiệp may tương đối cao. Nguyên nhân
là các doanh nghiệp may chỉ tuyển lao động có trình độ trung học cơ sở trở lên,
không tuyển lao động mới tốt nghiệp tiểu học, không biết chữ...
2.3.2.2- Đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may bằng số năm
đi học chuyên môn kỹ thuật
100
Để đánh giá được chất lượng vốn nhân lực chuyên môn của các doanh
nghiệp may, cần xác định được số năm đi học chuyên môn của đội ngũ nhân lực
làm việc trong các doanh nghiệp may. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, trình độ
chuyên môn kỹ thuật của nhân lực trong các doanh nghiệp may giai đoạn 2000 –
2011 được thể hiện ở biểu sau đây :
Bảng 2.15 : Số lao động ngành may giai đoạn 2000 – 2011
phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Số lượng lao động (người)
Trình độ
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
2009
2010
2011
chuyên
môn
kỹ thuật
231948253613 356395436342 498226511278 585414706093 749647 850325 866277 970660
Tổng số
Tiến sỹ
3
4
5
6
7
7
8
10
12
15
38
59
Thạc sỹ
45
51
63
88
107
113
136
152
172
193
273
344
Đại học
3309
3991
6149
8009
9599 10764 12761 14185 15342
17825
23824
30235
Cao đẳng
3005
3736
5424
6951
8098
9061 10501 12666 13181
15154
19472
32181
Trung cấp
4320
5005
7787
9802 14765 16599 20715 24985 26282
28835
30263
58611
20058 23482 34819 47333 57544 58061 67693 81648 94128 108164 104827
98723
Dạy nghề
dài hạn
103699110385 153503185986 211073214590 244166294499 311593 353499 360705 538547
Dạy nghề
ngắn hạn
97509106959 148645178167 197033202083 229434277948 288937 326640 326875 211960
Chưa qua
đào tạo
Nguồn : Tổng cục thống kê, 2012
Để nghiên cứu chất lượng vốn nhân lực chuyên môn của các doanh nghiệp
may, giả thiết số năm đi học chuyên môn kỹ thuật như sau :
- Nhân lực chưa qua đào tạo là nhân lực chưa từng dự một lớp học nào về
chuyên môn kỹ thuật và có số năm học chuyên môn kỹ thuật bằng : 0
- Các doanh nghiệp công nghiệp nói chung và các doanh nghiệp may nói
riêng thường sử dụng công nhân kỹ thuật bán lánh nghề để thực hiện một hoặc một
số công việc có độ phức tạp không cao trong quy trình sản xuất, thời gian đào tạo
với đối tượng này thông thường là 03 tháng. Vì vậy, giả thiết rằng nhân lực học
nghề ngắn hạn có số năm học chuyên môn kỹ thuật bằng: 0,25 năm.
101
- Do số nhân lực được đào tạo nghề dài hạn tốt nghiệp từ năm 2009 trở về
trước đều học theo chương trình đào tạo công nhân kỹ thuật chính quy, thường có
thời gian đào tạo là 2 năm, vì vậy giả thiết nhân lực học nghề dài hạn có số năm học
chuyên môn kỹ thuật bằng : 2 năm.
- Trong các chương trình đào tạo trình độ trung cấp bao gồm trung cấp
chuyên nghiệp và trung cấp nghề, thời gian đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho cả đối
tượng tốt nghiệp trung học phổ thông và phổ thông cơ sở đều là 02 năm, chỉ khác là
đối tượng tốt nghiệp trung học cơ sở phải học thêm 01 năm văn hoá trước khi học
chuyên môn kỹ thuật. Vì vậy, giả thiết rằng nhân lực học trung cấp chuyên nghiệp,
trung cấp nghề có số năm học chuyên môn kỹ thuật bằng : 2 năm.
- Theo các chương trình khung đào tạo trình độ cao đẳng bao gồm cao đẳng
chuyên nghiệp và cao đẳng nghề, thời gian đào tạo là 03 năm, do vậy giả thiết rằng
nhân lực trình độ cao đẳng có thời gian học chuyên môn kỹ thuật là 03 năm.
- Theo các chương trình khung đào tạo trình độ đại học, sinh viên tốt nghiệp
đại học từ năm 2011 trở về trước thường có thời gian học tập khác nhau giữa hai
khối ngành kinh tế-quản trị kinh doanh và kỹ thuật. Khối ngành kinh tế- quản trị
kinh doanh có thời gian học tập là 04 năm, khối ngành kỹ thuật có thời gian học tập
là 05 năm. Tuy nhiên, để thống nhất chuẩn so sánh tương đối giữa vốn nhân lực
chuyên môn của các doanh nghiệp may và các doanh nghiệp công nghiệp sau này,
giả thiết rằng thời gian học tập chuyên môn kỹ thuật ở bậc đại học là 04 năm.
- Vì các chương trình đào tạo thạc sĩ tập trung có thời gian đào tạo là 02 năm
sau khi tốt nghiệp đại học. Do đó, giả thiết rằng nhân lực tốt nghiệp thạc sĩ có thời
gian học tập chuyên môn kỹ thuật là 06 năm sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học.
- Thời gian đào tạo bậc tiến sĩ thường là 03 năm đối với những nghiên cứu
sinh đã có bằng thạc sĩ. Vì vậy, giả thiết rằng thời gian học tập chuyên môn kỹ thuật
đối với người có bằng tiến sĩ là 09 năm sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học.
Với các giả thiết nêu trên và số liệu ở bảng 2.15, có thể xác định được tổng
vốn nhân lực chuyên môn và vốn nhân lực chuyên môn bình quân của các doanh
nghiệp may giai đoạn 2000 – 2011 như sau :
102
Bảng 2.16 : Vốn nhân lực chuyên môn của các doanh nghiệp may
giai đoạn 2000 – 2011
Số năm đi học (năm)
Trình độ
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
2010
2011
chuyên môn
kỹ thuật
36
306
45
378
63
642
54
528
108
135
1032 1158
342
1638
63
678
72
816
90
912
Tiến sỹ
Thạc sỹ
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
531
27
2064
270
13236 15964 24596 32036 38396 43056 51044 56740 61368 71300 95296 120940
9015 11208 16272 20853 24294 27183 31503 37998 39543 45462 58416 96543
8640 10010 15574 19604 29530 33198 41430 49970 52564 57670 60526 117222
40116 46964 69638 94666 115088 116122 135386 163296 188256 216328 209654 197446
Dạy nghề
dài hạn
25925 27596 38376 46497 52768 53648 61042 73625 77898 88375 90176 134637
Dạy nghề
ngắn hạn
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
Chưa qua
đào tạo
97229 112084 164879 214238 260781 273948 321293 382631 420769 480428 516048 669383
Tổng VNL
chuyên môn
0,42 0,44
0,46
0,49
0,52
0,54
0,55
0,54
0,56
0,56
0,6
0.69
VNLchuyên
môn trung
bình
22548 27514 41291 53471 63395 70980 83435 95740 102051 118055 155692 220078
Tổng VNL
chuyên môn
từ cao đẳng
trở lên
3,54 3,54
3,55
3,55
3,56
3,56
3,56
3,54
3,55
3,56
3,57
3,50
VNL chuyên
môn
trung bình từ
cao đẳng trở
lên
Nguồn : Tính toán của tác giả dựa trên số liệu của Tổng cục thống kê, 2012
Số liệu tại bảng 2.16 cho thấy vốn nhân lực chuyên môn bình quân của các
doanh nghiệp may có xu hướng tăng dần từ năm 2000 đến năm 2011. Vào năm
2000, vốn nhân lực chuyên môn bình quân một lao động là 0,42 năm/người và đã
tăng lên 0,69 năm/người (tăng 64,3%) vào năm 2011. Tuy nhiên, vốn nhân lực
chuyên môn bình quân của nhân lực có trình độ từ cao đẳng trở lên trong giai đoạn
2000 – 2009 hầu như không tăng, chỉ dao động trong khoảng từ 3,50 – 3,57
103
năm/người. Điều này chứng tỏ rằng vốn nhân lực chuyên môn được sử dụng để đầu
tư vào các hoạt động nhằm khai thác chuỗi giá trị như thiết kế, cung ứng nguyên
liệu, phát triển thị trường, tăng cường tỷ lệ nội địa hoá...còn rất hạn chế, đó chính là
nguyên nhân giải thích vì sao hiện nay các doanh nghiệp may vẫn tiến hành sản
xuất kinh doanh theo phương thức gia công xuất khẩu là chủ yếu.
Để đánh giá được chất lượng vốn nhân lực chuyên môn của các doanh
nghiệp may, cần phải xác định được vốn nhân lực chuyên môn của các doanh
nghiệp công nghiệp sử dụng làm chuẩn để so sánh như là những yêu cầu đặt ra đối
với vốn nhân lực chuyên môn của các doanh nghiệp may.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, trình độ chuyên môn của nhân lực làm
việc trong ngành công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011 được thể hiện ở biểu sau :
Bảng 2.17 : Số lao động ngành công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011
phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Số lượng lao động (người)
Trình độ
chuyên
môn
Kỹ thuật 2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Tổng số 17757702005769244066928069793150324 3370447371104140906794480964 4728368 48808705446318
238
1489
269
1682
377
2354
328
2046
597
3672
423
2642
573
3563
549
3430
498
3112
452
2826
726
4671
882
5982
128814 145498 177046 203618 228524 244492 269198 296737 304271 314854 351137 402034
92770 102260 110438 116251 131080 168722
78753 84255
50141
61013
70170
109395 123564 150356 172922 194074 207635 228617 252004 273480 285966 338611 435980
243052 274531 334057 384194 431188 461316 507934 559895 574294 588472 642274 698068
412827 466297 567400 652558 732378 783553 862732 9509911015673 1036258 11113451337397
835564 943787114842313207861482342 1585918174618019248132198672 2382298 23010262397253
Tiến sỹ
Thạc sỹ
Đại học
Cao đẳng 44391
Trung
cấp
Dạy nghề
dài hạn
Dạy nghề
ngắn
hạn
Chưa
qua
đào tạo
Nguồn : Tổng cục thống kê, 2012
Với các giả thiết về số năm đi học của những người đã có bằng tiến sĩ, thạc
sĩ, đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề dài hạn, dạy nghề ngắn hạn và chưa qua
đào tạo như trên và số liệu ở bảng 2.17, có thể xác định được tổng vốn nhân lực
chuyên môn và vốn nhân lực chuyên môn bình quân của các doanh nghiệp công
nghiệp giai đoạn 2000 – 2011 như sau :
104
Bảng 2.18 : Vốn nhân lực chuyên môn của các doanh nghiệp công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011
Trình độ
Số năm đi học (năm)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
chuyên môn
kỹ thuật
Tổng số
6534
28026
2142
2421
8934 10092
5373
22032
5157
21378
4941
20580
3807
15852
2952
12276
4482
18672
3393
14124
4068
16956
1775770 2005769 2440669 2806979 3150324 3370447 3711041 4090679 4480964 4728368 4880870 5446318
7938
35892
515256 581992 708184 814472 914096 977968 1076792 1186948 1217084 1259416 1404548 1608136
133173 150423 183039 210510 236259 252765 278310 306780 331314 348753 393240 506166
218790 247128 300712 345844 388148 415270 457234 504008 546960 571932 677222 871960
486104 549062 668114 768388 862376 922632 1015868 1119790 1148588 1176944 1284548 1396136
103207 116574 141850 163140 183095 195888 215683 237748 253918 259065 277836 334349
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
1467606 1657692 2017127 2319871 2603633 2785547 3067041 3380795 3524399 3643515 4071954 4760577
0,83
0,83
0,83
0,83
0,83
0,83
0,83
0,83
0,79
0,77
0,83
0,87
659505 744928 906451 1042499 1170014 1251757 1378256 1519249 1574933 1635574 1832348 2158132
3,77
3,77
3,77
3,77
3,77
3,77
3,77
3,77
3,76
3,76
3,76
3,74
Tiến sỹ
Thạc sỹ
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
Dạy nghề
dài hạn
Dạy nghề
ngắn hạn
Chưa qua
đào tạo
Tổng VNL chuyên
môn
VNL
chuyên môn
trung bình
Tổng VNL
chuyên môn
từ cao đẳng trở lên
VNL chuyên môn
trung bình từ cao
đẳng trở lên
Nguồn : Tính toán của tác giả dựa trên số liệu của Tổng cục thống kê, 2012
105
Căn cứ vào số liệu tại bảng 2.16 và bảng 2.18 có thể đánh giá được chất
lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may qua bảng so sánh sau đây :
Bảng 2.19 : Chất lượng vốn nhân lực chuyên môn của các doanh nghiệp may
Chỉ tiêu
Số năm đi học chuyên môn kỹ thuật
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
0,42 0,44 0,46 0,49 0,52 0,54 0,55 0,54 0,56 0,56 0,60 0,69
0,83 0,83 0,83 0,83 0,83 0,83 0,83 0,83 0,79 0,77 0,83 0,87
50,7 53,5 56,0 59,4 63,3 64,8 66,4 65,6 71,4 73,3 71,4 78,9
3,54 3,54 3,55 3,55 3,56 3,56 3,56 3,54 3,55 3,56 3,57 3,50
3,77 3,77 3,77 3,77 3,77 3,77 3,77 3,77 3,76 3,76 3,76 3,74
94,0 93,8 94,1 94,2 94,4 94,4 94,6 94,0 94,5 94,7 95,0 93,8
Vốn nhân lực chuyên môn
trung bình của doanh
nghiệp may (năm/người)
Vốn nhân lực chuyên môn
trung bình của doanh
nghiệp
nghiệp
công
(năm/người)
Vốn nhân lực chuyên môn
trung bình của doanh
nghiệp May / Công nghiệp
(%)
Vốn nhân lực chuyên môn
trung bình từ cao đẳng trở
lên của doanh nghiệp may
(năm/người)
Vốn nhân lực chuyên môn
trungbình từ cao đẳng trở
lên của doanh nghiệp công
nghiệp (năm/người)
Vốn nhân lực chuyên môn
trung bình từ cao đẳng trở
lên của doanh nghiệp May
/ Công nghiệp (%)
Nguồn : Tính toán của tác giả dựa trên số liệu của Tổng cục thống kê, 2012
Số liệu ở bảng 2.19 cho thấy chất lượng vốn nhân lực chuyên môn của các
doanh nghiệp may được cải thiện theo hướng tăng dần từ năm 2000 đến năm 2011
biểu hiện bằng chỉ số vốn nhân lực chuyên môn trung bình của doanh nghiệp may
so với doanh nghiệp công nghiệp tăng từ 50,7% vào năm 2000 lên 78,9% vào năm
2011. Tuy nhiên, có thể thấy rằng thậm chí vào năm 2011, chất lượng vốn nhân lực
chuyên môn của các doanh nghiệp may vẫn ở mức thấp vì còn kém vốn nhân lực
chuyên môn của các doanh nghiệp công nghiệp tới 0,18 năm/người, tương đương
với 26,0 %.
106
Số liệu tại bảng 2.19 cũng cho thấy chất lượng vốn nhân lực chuyên môn
trung bình của những người tốt nghiệp từ cao đẳng trở lên có xu hướng tăng dần từ
năm 2000 đến năm 2011, tuy nhiên mức tăng này không đáng kể, chỉ từ 93,8% vào
năm 2001 tới 95% vào năm 2010. Vào năm 2011, mức vốn nhân lực chuyên môn
trung bình của nhân lực có trình độ từ cao đẳng trở lên của các doanh nghiệp may
vẫn thấp hơn các doanh nghiệp công nghiệp 0,24 năm/người tương đương với 6,9%.
Nguyên nhân dẫn đến chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may
thấp là do tác động của yếu tố nhu cầu vốn nhân lực của doanh nghiệp, quản trị
doanh nghiệp và yếu tố nhân khẩu học:
+ Yếu tố nhu cầu vốn nhân lực của doanh nghiệp thể hiện ở tư duy của các
nhà quản trị doanh nghiệp may trong việc xác định nhu cầu vốn nhân lực đối với
doanh nghiệp. Để tránh rủi ro, nhiều doanh nghiệp may vẫn chủ yếu triển khai sản
xuất theo phương thức gia công nên nhu cầu vốn nhân lực cũng chỉ ở mức triển khai
được sản xuất hàng gia công; mặt khác, doanh nghiệp may cũng chưa xác định đúng
nhu cầu vốn nhân lực cần thiết để có thể triển khai sản xuất hàng mua nguyên liệu,
bán thành phẩm. Kết quả khảo sát cho thấy 80% nhân lực sử dụng là chưa qua đào
tạo hoặc chỉ qua đào tạo ngắn hạn, tỷ trọng nhân lực có trình độ cao đẳng trở lên
thấp vì vậy chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may thấp.
+ Yếu tố quản trị doanh nghiệp tác động mạnh đến chất lượng vốn nhân lực
của các doanh nghiệp may thể hiện ở việc các nhà quản trị doanh nghiệp chưa xác
định rõ chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực để có thể chuyển sang sản xuất theo
phương thức mua đứt bán đoạn. Phương thức sản xuất mới này đòi hỏi nhiều nhân
lực ở các khâu quản trị chuỗi cung ứng, thiết kế thời trang, phát triển thị trường,
phát triển kênh phân phối ... Hơn nữa, các loại nhân lực này cần phải được đào tạo ở
trình độ cao đẳng trở lên thì mới đủ kiến thức và kỹ năng để có thể đáp ứng được
yêu cầu công việc. Tuy vậy, thực tế cho thấy tỷ lệ nhân lực có trình độ chuyên môn
kỹ thuật từ cao đẳng trở lên thấp. Như vậy, các doanh nghiệp may cần xác lập được
chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực hợp lý hơn để nâng cao chất lượng vốn nhân lực
chuyên môn lên ít nhất là ngang bằng với vốn nhân lực chuyên môn của các doanh
nghiệp công nghiệp thì mới đủ khả năng tăng cường phương thức sản xuất hàng
107
mua đứt bán đoạn nhằm nâng cao giá trị gia tăng cho các sản phẩm dệt may. Đây
cũng chính là yêu cầu gia tăng vốn nhân lực cốt lõi cho ngành công nghiệp may
trong thời gian tới nhằm cải thiện chất lượng vốn nhân lực để tăng cường mạnh mẽ
sức cạnh tranh cho các sản phẩm có đẳng cấp cao của ngành.
+ Yếu tố nhân khẩu học ảnh hưởng đến chất lượng vốn nhân lực như sau:
Khảo sát các doanh nghiệp may cho thấy lao động trong các doanh nghiệp may, kể
cả các doanh nghiệp đang đóng tại các thành phố lớn, chủ yếu xuất thân từ các vùng
nông thôn. Bên cạnh đó, khảo sát 4210 thí sinh dự thi đại học ngành công nghệ may
năm 2011 cũng cho thấy 3536 thí sinh, chiếm 84,0% thí sinh dự thi vào ngành công
nghệ may xuất thân từ khu vực nông thôn và khu vực miền núi là những nơi có điều
kiện kinh tế khó khăn, nhất là điều kiện về trường học nên tất yếu dẫn đến chất
lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam thấp.
+ Yếu tố chính sách của Chính phủ về đào tạo nghề cho lao động nông thôn
cũng tác động đến chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may thông qua cơ
chế ảnh hưởng đến mức vốn nhân lực chuyên môn của các doanh nghiệp may đóng
tại các vùng nông thôn. Ngày 27/11/2009 Chính phủ đã ban hành quyết định
1956/QĐ-TTg phê duyệt đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020.
Theo đề án này, riêng trong giai đoạn 2011 – 2015, cần đào tạo nghề cho 5,2 triệu
nông dân, trong đó có 3,1 triệu người được học nghề phi nông nghiệp trong đó có
nghề may. Bên cạnh đó, Bộ tài chính, Bộ Lao động Thương Binh Xã hội đã ban
hành thông tư liên tịch số 112/2010/TTLT-BTC-BLĐTBXH hướng dẫn cơ chế tài
chính thực hiện đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn của Chính phủ. Tuy
nhiên, hiện nay đối với các chương trình đào tạo nghề ngắn hạn theo quyết định số
1956/QĐ-TTg, ngân sách được nhà nước cấp về cho các tỉnh có nhu cầu sử dụng
lao động và tỉnh thường giao cho các trung tâm dạy nghề của tỉnh thực hiện đào tạo
nghề mặc dù năng lực đào tạo của các trung tâm dạy nghề này còn rất yếu do đó số
lượng nhân lực được đào tạo không nhiều và chất lượng đào tạo cũng thấp, không
đáp ứng được nhu cầu vốn nhân lực chuyên môn của các doanh nghiệp may. Trong
khi đó, các trường chính quy có năng lực đào tạo nghề may tốt thì lại ít có cơ hội
tham gia đào tạo nghề cho lao động may ở nông thôn do các trường phải qua rất
108
nhiều khâu mới có thể giải ngân được do chưa có cơ chế tài chính chuyển tiền trực
tiếp cho các trường tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Thực tế này đã
làm giảm đáng kể chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam.
2.3.3 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may bằng tiêu chí
số năm kinh nghiệm Như đã phân tích ở trên, lao động trong các doanh nghiệp may biến động rất
lớn. Sự biến động lao động đã gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp may
trong công tác phát triển vốn nhân lực cũng như nâng cao chất lượng vốn nhân lực
bằng cách đầu tư vào đào tạo trong công việc cũng như tăng cường hoạt động nhóm
trong công việc. Tác giả đã có đợt khảo sát số năm kinh nghiệm của lao động làm
việc trong 60 doanh nghiệp dệt may năm 2011, kết quả cụ thể như sau :
Bảng 2.20 : Công nhân kỹ thuật làm việc trong doanh nghiệp dệt may
chia theo số năm kinh nghiệm Đơn vị tính: người
Số lượng
TT
Ngành nghề
Tổng
Tr.đó
: nữ
6 - 10
năm
37.282
4.685
1.466
609
30.522
30.044
3.292
927
187
25.638
Kinh nghiệm làm việc
trong ngành dệt may
16 -
11 -
20
15
năm
năm
7.582 4.231 3.089
559
711
1.047
244
238
211
86
76
122
6.202 3.206 2.200
Dưới
5
năm
19.927
1.539
442
162
17.784
Trên
20
năm
2.453
829
331
163
1.130
I Công nhân công nghệ
- Sợi
- Dệt
- Nhuộm, hoàn tất
- May
100
84,0
58,3
20,3
10,5
7,2
3,7
1.961
112
701
381
266
191
422
II
604
268
Cơ cấu công nhân may
(%)
Công nhân cơ điện,
động lực
III Ngành khác
IV Lao động phổ thông
3.326
1.897
44.466
2.094
1.140
33.390
1.252
1.285
23.165
422
469
46
126
8.835 5.092 3.748
579
172
3.626
Tổng số
100
75,1
52,1
19,9
11,5
8,4
8,2
Cơ cấu công nhân trong
Tập đoàn Dệt May Việt
Nam (%)
Nguồn : Khảo sát của tác giả, 2011
Số liệu tại bảng 2.20 cho thấy 58,3% công nhân may có kinh nghiệm dưới 5
năm, trong khi đó chỉ có 52,1% công nhân dệt may trong các doanh nghiệp khảo sát
109
Cũng trong đợt khảo sát 60 doanh nghiệp của tác giả năm 2011, số năm kinh
có số năm kinh nghiệm nhỏ hơn 5. Số công nhân may có nhiều kinh nghiệm (trên
20 năm) chỉ có 3,7%, nhỏ hơn tỷ lệ 8,2% công nhân dệt may trong các doanh
nghiệp khảo sát có hơn 20 năm kinh nghiệm. Như vậy có thể thấy rằng số năm kinh
nghiệm của công nhân may thấp hơn so với số năm kinh nghiệm của công nhân dệt
may trong các doanh nghiệp khảo sát, do đó chất lượng vốn nhân lực của các doanh
nghiệp may cũng thấp hơn so với các doanh nghiệp dệt may.
nghiệm của đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật được thể hiện ở biểu sau đây :
Bảng 2.21 : Cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật chia theo số năm kinh nghiệm
Đơn vị tính : người
Kinh nghiệm làm việc
trong ngành Dệt May
Ngành nghề
Số lượng
TT
254
445
107
dưới
5
năm
293
243
8
41
1
Tr.đó
Tổng
: nữ
2.865 1.712
2.059 1.386
94
198
34
- Sợi
- Dệt
- Nhuộm hoàn tất
- May
16 -
20
11 -15
năm
năm
550
536
373
381
71
49
87
96
19
10
608
835
37
139
81
118
17
22
18
22
6
6
47
65
7
9
31
17
19
17
14
16
154
128
16,4 13,6
9
194
233
444
337
519
39
97
43
69
8
27
127
17
40
13
38
86
45
54
19
48
407
389
43,3 41,4
82
172
476
532
88
162
I Cán bộ quản lý
1 Tổ trưởng, chuyền trưởng
2 Ban giám đốc nhà máy thành viên
3 Trưởng, phó phòng ban
4 Ban Giám đốc công ty
II Cán bộ chuyên môn nghiệp vụ
1 Kế toán tài chính
2 Quản trị kinh doanh
3 Quản trị nhân sự
4 Ngoại thương
5 Luật
6 Kỹ thuật cơ điện
7 Điện tử, điện toán, tin học
8 Kỹ thuật công nghệ, thiết bị:
Cơ cấu cán bộ kỹ thuật may (%)
9 Mỹ thuật, thiết kế thời trang
10 Ngành khác
Tổng số
Cơ cấu toàn bộ cán bộ (%)
Trên
20
6 - 10
năm
năm
681
805
328
734
101
25
185
36
67
10
510
4.904 2.485 1.876 1.075
70
152
631
69
182
787
27
58
163
10
58
151
2
18
40
43
65
347
4
49
109
30
50
166
19
15
115
20
21
90
42
226
939
4,5
24,1
100
2
49
230
1.136
172
132
7.769 4.197 2.169 1.880 1.371 1.158 1.191
17,6 14,9 15,3
24,2
54,0 27,9
100
Nguồn : Khảo sát của tác giả, 2011
Số liệu tại bảng 2.21 cho thấy cán bộ kỹ thuật may có từ 5 năm kinh nghiệm
trở xuống chiếm 41,4% tổng số cán bộ kỹ thuật may, cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ
110
27,9 % tổng số cán bộ quản lý, kỹ thuật trong các doanh nghiệp khảo sát có số năm
kinh nghiệm nhỏ hơn 5 năm. Số cán bộ kỹ thuật may có nhiều kinh nghiệm (từ 20
năm trở lên) chỉ chiếm 4,5%, nhỏ hơn rất nhiều so với tỷ lệ chung của các doanh
nghiệp khảo sát là 15,3%. Như vậy có thể thấy rằng cán bộ kỹ thuật may có ít kinh
nghiệm hơn so với đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật trong các doanh nghiệp khảo sát,
do đó chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may thấp hơn so với các doanh
nghiệp dệt may.
Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến kinh nghiệm của nhân lực trong các
doanh nghiệp may thấp là do tác động mạnh của yếu tố nhân khẩu học và yếu tố
quản trị doanh nghiệp. Cụ thể là :
+ Tốc độ tăng trưởng của ngành may có được chủ yếu do quy mô lao động
trong các doanh nghiệp may tăng nhanh với tốc độ bình quân 13,9%/năm trong giai
đoạn 2000 – 2011 nên hàng năm, các doanh nghiệp may phải tuyển nhiều lao động
trẻ, chưa biết nghề may để đào tạo cho các dây chuyền sản xuất dẫn đến số năm
kinh nghiệm thấp.
+ Tuổi của lao động trong các doanh nghiệp may còn trẻ nên kỳ vọng hoàn
vốn nhân lực cao. Trong thực tế, do sản xuất theo phương thức gia công nên thu
nhập trong các doanh nghiệp may không cao dẫn đến tỷ lệ hoàn vốn nhân lực thấp
vì vậy lao động có kinh nghiệm có xu hướng chuyển sang các ngành nghề có thu
nhập cũng như điều kiện làm việc hấp dẫn hơn so với các doanh nghiệp may.
2.3.4 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may bằng tiêu chí
thu nhập bình quân
Các mô hình vốn nhân lực đều cho thấy thu nhập bình quân là một tiêu chí
quan trọng để đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may, đặc biệt
là mức thu nhập bình quân được tính cho một đơn vị vốn nhân lực, hay còn gọi là
khả năng tạo ra thu nhập của một đơn vị vốn nhân lực. Nếu vốn nhân lực có chất
lượng tốt thì sẽ có khả năng tạo ra thu nhập cao cho chủ sở hữu vốn nhân lực, chính
là người lao động.
Để giảm thiểu sai số trong nghiên cứu, đề tài chỉ tiến hành nghiên cứu khả
năng tạo ra thu nhập của vốn nhân lực trong các doanh nghiệp may đối với nhân lực
có trình độ từ trung cấp trở lên. Giả thiết rằng những người tốt nghiệp trung cấp đều
111
đã tốt nghiệp lớp 12 vì theo khảo sát, từ năm 2009 trở về trước, số lượng tuyển sinh
trung cấp có trình độ đầu vào tốt nghiệp trung học cơ sở rất nhỏ. Mặt khác, số năm
đi học chuyên môn kỹ thuật ở các bậc đào tạo sẽ được giả thiết như đã nêu rõ ở mục
2.3.2.2.
Với các giả thiết như trên, trong phụ lục 7 đã xác định được thu nhập bình
quân của các doanh nghiệp may tính cho một đơn vị vốn nhân lực giai đoạn 2000 –
2011 phân theo trình độ ở bảng sau:
Bảng 2.22: Thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ
Trình độ
Thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực
(triệu đồng/năm đi học)
chuyên môn 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
3,80 3,86 3,92 4,00 4,17 4,26 4,34 4,41 4,48 4,55 5,34
2,68 2,76 2,80 2,84 2,87 2,91 3,03 3,13 3,18 3,22 3,62
1,22 1,27 1,29 1,31 1,41 1,46 1,79 1,89 2,07 2,25 2,78
1,06 1,12 1,16 1,30 1,38 1,43 1,60 1,68 1,83 1,93 2,51
0,95 1,01 1,07 1,19 1,24 1,33 1,40 1,61 1,70 1,72 2,17
1,08 1,14 1,18 1,27 1,34 1,40 1,58 1,72 1,85 1,94 2,48
Tiến sỹ
Thạc sỹ
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
Bình quân
2011
5,90
4,22
3,16
3,06
2,55
2,86
Nguồn : Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê năm 2012
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng các năm từ 2000
đến 2011 được thể hiện ở biểu sau đây :
Bảng 2.23 : Chỉ số giá tiêu dùng giai đoạn 2000 - 2011 Đơ n vị tính : %
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Năm 2000 = 100 100,0 100,8 104,7 108,0 118,2 128,0137,7155,0190,6203,8 227,7270,0
Năm trước = 100 98,4 100,8 103,9 103,1 109,5 108,3107,5112,6123,0106,9 111,8 118,6
Nguồn: Niên giám thống kê 2006, 2008, 2011 và tính toán của tác giả
Số liệu tại bảng 2.22 và 2.23 cho thấy thu nhập bình quân tính cho một đơn
vị vốn nhân lực tăng dần từ năm 2000 đến năm 2011. Vào năm 2000, một năm đi
học thêm của nhân lực ngành may giúp tạo ra 1,08 triệu đồng/năm, vào năm 2011,
một năm đi học thêm giúp tạo ra 2,86 triệu đồng/năm, tăng 164,8% về giá trị so với
năm 2000. Tuy nhiên, chỉ số giá tiêu dùng năm 2011 đã tăng 170,0 % so với năm
2000. Điều này chứng tỏ rằng khả năng tạo ra thu nhập thực tế của một đơn vị vốn
112
nhân lực vào năm 2011 đã giảm so với năm 2000. Sự suy giảm thu nhập thực tế của
các doanh nghiệp may một phần là do tác động của yếu tố chính sách của Chính phủ
mà cụ thể là chính sách kiểm soát lạm phát. Từ bảng 2.22 có thể tính được thu nhập
bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực giai đoạn 2000 – 2011 chỉ tăng bình
quân 9,3%/năm; trong khi đó tỷ lệ lạm phát bình quân tính theo bảng 2.23 tới
9,5%/năm.
Để có cơ sở đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may,
cần xác định khả năng tạo ra thu nhập của một đơn vị vốn nhân lực của doanh
nghiệp công nghiệp làm chuẩn để so sánh. Để giảm thiểu sai số trong nghiên cứu,
đồng thời để làm chuẩn so sánh giữa các doanh nghiệp công nghiệp và các doanh
nghiệp may, luận án chỉ tiến hành nghiên cứu khả năng tạo ra thu nhập của vốn
nhân lực trong các doanh nghiệp công nghiệp đối với nhân lực có trình độ từ trung
cấp trở lên. Giả thiết rằng những người có trình độ trung cấp đều đã tốt nghiệp lớp
12 vì theo khảo sát, từ năm 2009 trở về trước, số lượng tuyển sinh trung cấp chuyên
nghiệp, trung cấp nghề có trình độ đầu vào tốt nghiệp trung học cơ sở rất nhỏ. Mặt
khác, số năm đi học chuyên môn kỹ thuật ở các bậc đào tạo sẽ được giả thiết như đã
nêu rõ ở mục 2.3.2.2
Với các giả thiết như trên, phụ lục 7 đã xác định được thu nhập bình quân
tính cho một đơn vị vốn nhân lực giai đoạn 2000 – 2011 của các doanh nghiệp công
nghiệp phân theo trình độ ở bảng sau đây:
Bảng 2.24 Thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các
doanh nghiệp công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ
Trình độ
chuyên môn
kỹ thuật
Tiến sỹ
Thạc sỹ
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
Bình quân chung
Thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực
(triệu đồng/năm đi học)
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
3,92 3,95 4,03 4,06 4,15 4,49 4,88 5,14 5,48 5,83 6,73 7,22
3,01 3,04 3,08 3,13 3,19 3,33 3,52 3,73 3,99 4,36 4,82 5,55
1,34 1,34 1,38 1,42 1,54 1,77 2,22 2,44 2,68 2,79 3,57 4,32
1,16 1,19 1,20 1,29 1,48 1,84 2,04 2,23 2,56 2,71 3,28 3,63
1,16 1,27 1,28 1,36 1,47 1,63 1,88 2,05 2,30 2,48 3,15 3,40
3,38 3,85
1,26 1,31 1,33 1,39 1,52 1,74 2,08 2,28 2,53 2,68
Nguồn : Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê, 2012
Số liệu tại bảng 2.23 và 2.24 cho thấy thu nhập bình quân tính cho một đơn
vị vốn nhân lực của doanh nghiệp công nghiệp tăng dần từ năm 2000 đến năm 2011.
113
Vào năm 2000, một năm đi học thêm của nhân lực ngành công nghiệp giúp tạo ra
1,26 triệu đồng/năm, vào năm 2011, một năm đi học thêm giúp tạo ra 3,85 triệu
đồng/năm, tăng 205,5% về giá trị so với năm 2000. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2011
chỉ tăng 170% so với năm 2000, Điều này chứng tỏ rằng khả năng tạo ra thu nhập
thực tế của một đơn vị vốn nhân lực vào năm 2011 đã tăng so với năm 2000.
Nguyên nhân là mặc dù doanh nghiệp công nghiệp cũng chịu nhiều tác động của
chính sách kiểm soát lạm phát của chính phủ nhưng tốc độ tăng thu nhập bình quân
trong giai đoạn 2000 – 2011 vẫn đạt 10,7% cao hơn tỷ lệ lạm phát bình quân là
9,5% nên thu nhập thực tế của doanh nghiệp công nghiệp vẫn tăng.
Từ số liệu ở bảng 2.22 và 2.24, có thể đánh giá chất lượng vốn nhân lực của
các doanh nghiệp may thông qua việc so sánh khả năng tạo ra thu nhập của một đơn
vị vốn nhân lực của các doanh nghiệp may và các doanh nghiệp công nghiệp.
Bảng 2.25 So sánh thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của
các doanh nghiệp may và doanh nghiệp công nghiệp
Thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực
(triệu đồng/năm đi học)
Ngành
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Công nghiệp
1,26 1,31 1,33 1,39 1,52 1,74 2,08 2,28 2,53 2,68 3,38 3,85
May
1,08 1,14 1,18 1,27 1,34 1,40 1,58 1,72 1,85 1,94 2,48 2,86
May / Công nghiệp (%) 85,7 87,1 88,5 91,3 88,0 80,5 75,7 75,4 73,1 72,5 73,4 74,3
Nguồn : Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê, 2012
Số liệu tại bảng 2.25 cho thấy chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may tương đối thấp và có xu hướng thấp dần trong giai đoạn 2000 – 2011. Năm
2000, thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may bằng 85,7% so với các doanh nghiệp công nghiệp, khoảng cách này ngày càng
xa khi ở năm 2011, thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may chỉ bằng 74,3% so với các doanh nghiệp công nghiệp.
Nguyên nhân dẫn đến chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may
thấp, ngoài yếu tố lạm phát tăng cao hơn tốc độ tăng thu nhập như đã phân tích ở
trên thì yếu tố quản trị doanh nghiệp có tác động rất lớn. Cụ thể như sau:
114
- Phần lớn doanh nghiệp may là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn đầu tư thấp
nên để tránh rủi ro, các nhà quản trị doanh nghiệp may thường lựa chọn sản xuất
theo phương thức gia công. Phương thức này tạo ra giá trị gia tăng không cao, đơn
giá tiền lương tính cho người lao động chỉ bằng 50 – 52% giá gia công nên thu nhập
của người lao động trong doanh nghiệp may thấp hơn doanh nghiệp công nghiệp.
- Do lựa chọn sản xuất theo phương thức gia công nên nguồn hàng cho sản
xuất của các doanh nghiệp may phụ thuộc hoàn toàn vào khách hàng và thường có
tính chất mùa vụ. Vào thời điểm tháng 1 đến tháng 4 hoặc tháng 11 đến 12 hàng
năm chủ yếu là sản xuất sản phẩm để bán vào mùa hè. Sản phẩm bán vào mùa hè có
đặc điểm là giá bán thấp hơn hàng mùa đông nên giá gia công cũng thấp hơn dẫn
đến đơn giá tiền lương không cao; mặt khác đơn hàng hè thường có số lượng không
nhiều nên doanh thu gia công cũng thấp dẫn đến thu nhập của người lao động thấp.
Yếu tố nhân khẩu học và yếu tố hoàn cảnh gia đình cũng có ảnh hưởng đáng
kể tới chất lượng vốn nhân lực khi đánh giá bằng tiêu chí thu nhập bình quân. Hầu
hết người lao động trong các doanh nghiệp may hiện nay xuất thân từ các vùng
nông thôn, hơn nữa những lao động trẻ trưởng thành trong một gia đình cùng có bố
mẹ làm nông nghiệp nên bị ảnh hưởng nhiều từ văn hoá thiếu tính kỷ luật công
nghiệp. Vì vậy, khi vào làm việc trong các doanh nghiệp may, nhiều lao động
không thích ứng được với yêu cầu khắt khe của sản xuất công nghiệp, điển hình là
số công nghỉ việc do các lý do về gia đình rất lớn, do đó số sản phẩm làm được
trong tháng không cao dẫn tới thu nhập của người lao động thấp.
2.3.5 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may bằng tiêu chí
tốc độ tăng thu nhập
Vốn nhân lực chỉ được coi là có chất lượng tốt khi tạo ra tỷ lệ hoàn vốn nhân
lực cao. Tỷ lệ hoàn vốn nhân lực phụ thuộc nhiều vào tốc độ tăng thu nhập bình
quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực. Từ số liệu ở bảng 2.22 và 2.24 có thể xác
định được tốc độ tăng thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may và doanh nghiệp công nghiệp như sau :
115
Bảng 2.26 : Tốc độ tăng thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các doanh nghiệp may và doanh
nghiệp công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011
Trình độ chuyên Ngành
Đơn vị tính
Thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực
Bình quân giai
đoạn 2000 - 2011
môn kỹ thuật
lần
Tiến sỹ
lần
lần
Thạc sỹ
lần
lần
Đại học
lần
lần
Cao đẳng
lần
Trung cấp
lần
lần
lần
Triệu đồng/năm 1,08 1,14 1,18 1,27 1,34 1,40 1,58 1,72 1,85 1,94
Bình quân
chung các
trình độ
Công nghiệp Triệu đồng/năm 3,92 3,95 4,03 4,06 4,15 4,49 4,88 5,14 5,48 5,83
Tốc độ tăng
May
Tốc độ tăng
Công nghiệp Triệu đồng/năm 3,01 3,04 3,08 3,13 3,19 3,33 3,52 3,73 3,99 4,36
Tốc độ tăng
May
Tốc độ tăng
Công nghiệp Triệu đồng/năm 1,34 1,34 1,38 1,42 1,54 1,77 2,22 2,44 2,68 2,79
Tốc độ tăng
May
Tốc độ tăng
Công nghiệp Triệu đồng/năm 1,16 1,19 1,20 1,29 1,48 1,84 2,04 2,23 2,56 2,71
Tốc độ tăng
May
Tốc độ tăng
Công nghiệp Triệu đồng/năm 1,16 1,27 1,28 1,36 1,47 1,63 1,88 2,05 2,30 2,48
Tốc độ tăng
May
Tốc độ tăng
Công nghiệp Triệu đồng/năm 1,26 1,31 1,33 1,39 1,52 1,74 2,08 2,28 2,53 2,68
Tốc độ tăng
May
Tốc độ tăng
lần
4,99
1,057
4,42
1,041
3,73
1,057
3,10
1,042
2,23
1,112
1,83
1,091
2,05
1,109
1,67
1,101
1,95
1,103
1,50
1,093
2,11
1,107
1,65
1,092
2000 20012002 2003 20042005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
6,73 7,22
1,008 1,022 1,007 1,021 1,083 1,087 1,053 1,066 1,064 1,155 1,073
Triệu đồng/năm 3,80 3,86 3,92 4,00 4,17 4,26 4,34 4,41 4,48 4,55 5,34 5,90
1,016 1,016 1,019 1,044 1,020 1,019 1,016 1,016 1,016 1,174 1,105
4,82 5,55
1,009 1,015 1,014 1,022 1,042 1,057 1,060 1,069 1,094 1,105 1,151
Triệu đồng/năm 2,68 2,76 2,80 2,84 2,87 2,91 3,03 3,13 3,18 3,22 3,62 4,22
1,031 1,014 1,016 1,008 1,016 1,039 1,035 1,014 1,013 1,125 1,166
3,57 4,32
1,003 1,024 1,033 1,085 1,146 1,254 1,101 1,095 1,044 1,278 1,210
Triệu đồng/năm 1,22 1,27 1,29 1,31 1,41 1,46 1,79 1,89 2,07 2,25 2,78 3,16
1,045 1,015 1,019 1,076 1,036 1,224 1,056 1,094 1,087 1,235 1,137
3,28 3,63
1,023 1,013 1,075 1,144 1,240 1,113 1,092 1,146 1,059 1,211 1,107
Triệu đồng/năm 1,06 1,12 1,16 1,30 1,38 1,43 1,60 1,68 1,83 1,93 2,51 3,06
1,053 1,041 1,120 1,058 1,037 1,120 1,053 1,089 1,053 1,301 1,219
3,15 3,40
1,097 1,011 1,058 1,082 1,111 1,149 1,091 1,125 1,077 1,271 1,079
Triệu đồng/năm 0,95 1,01 1,07 1,19 1,24 1,33 1,40 1,61 1,70 1,72 2,17 2,55
1,062 1,053 1,116 1,044 1,068 1,052 1,155 1,053 1,012 1,263 1,175
3,38 3,85
1,037 1,018 1,047 1,091 1,146 1,193 1,096 1,110 1,057 1,263 1,139
2,48 2,86
1,054 1,033 1,081 1,052 1,048 1,123 1,091 1,076 1,050 1,277 1,153
Nguồn : Tính toán của tác giả dựa trên số liệu của Tổng cục thống kê, 2012
116
Số liệu ở bảng 2.26 cho thấy tốc độ tăng thu nhập bình quân chung của toàn
ngành may là 9,2%/năm trong giai đoạn 2000 – 2011, tốc độ tăng thu nhập bình
quân chung của toàn ngành công nghiệp là 10,7%/năm trong giai đoạn 2000 – 2011,
cao gấp 1,16 lần so với tốc độ tăng của ngành may. Về giá trị tuyệt đối, thu nhập
bình quân chung tính cho một đơn vị vốn nhân lực của ngành công nghiệp trong
giai đoạn 2000 – 2011 là 2,11 triệu đồng/năm đi học, trong khi con số này đối với
ngành may chỉ là 1,65 triệu đồng/năm đi học, thấp hơn ngành công nghiệp 0,46
triệu đồng/năm đi học. Điều này chứng tỏ rằng chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may chưa tốt, khả năng tạo ra thu nhập cho chủ sở hữu vốn nhân lực
thấp.
Số liệu ở bảng 2.26 còn cho thấy tốc độ tăng thu nhập bình quân tính cho
một đơn vị vốn nhân lực ở tất cả các trình độ của các doanh nghiệp may đều thấp
hơn các doanh nghiệp công nghiệp về cả giá trị tuyệt đối và giá trị tương đối. Chênh
lệch lớn nhất thuộc về nhân lực bậc đại học, trong giai đoạn 2000 – 2011, tốc độ
tăng thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực theo giá trị tương đối của
ngành may là 9,1%/năm trong khi con số này của ngành công nghiệp là 11,2%/năm,
cao gấp 1,23 lần so với ngành may; tốc độ tăng thu nhập bình quân tính cho một
đơn vị vốn nhân lực theo giá trị tuyệt đối của ngành may là 1,83 triệu đồng/năm đi
học trong khi của ngành công nghiệp là 2,23 triệu đồng/năm đi học. Điều này chứng
tỏ rằng chất lượng vốn nhân lực chuyên môn và vốn nhân lực phổ cập của các
doanh nghiệp may đều còn thấp.
Tốc độ tăng thu nhập của các doanh nghiệp may thấp do tác động chủ yếu
của yếu tố quản trị doanh nghiệp :
Thứ nhất : Các nhà quản trị trong ngành công nghiệp may chủ yếu vẫn lựa
chọn sản xuất theo phương thức gia công xuất khẩu. Theo phương thức này, giá gia
công chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong cơ cấu giá thành của sản phẩm và giá gia
công này phụ thuộc hoàn toàn vào khách hàng nên rất khó thương lượng với khách
hàng để nâng cao giá gia công, vì vậy tốc độ tăng thu nhập của các doanh nghiệp
may không thể tăng nhanh.
117
Thứ hai : các doanh nghiệp may tập trung nhiều ở các thành phố lớn, vì vậy
có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để có nguồn hàng cho sản xuất. Thực tế này
đã dẫn đến việc khách hàng có quyền lực trong việc giảm giá gia công khi đàm
phán với các doanh nghiệp do đó giá gia công thấp và dẫn đến cả thu nhập và tốc độ
tăng thu nhập của các doanh nghiệp may đều thấp.
Bên cạnh yếu tố quản trị doanh nghiệp, sự tác động của Hiệp hội Dệt May
Việt Nam và Tập đoàn Dệt May Việt Nam đến chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may cũng rất lớn và mang tính chiến lược lâu dài đối với sự phát triển
của toàn ngành. Trong giai đoạn vừa qua, việc liên kết giữa các doanh nghiệp may
cùng sản xuất một hoặc một số mặt hàng chưa tốt nên chưa tạo thành một khối sản
xuất với quy mô lớn nhằm tạo quyền lực trong đàm phán về giá gia công với khách
hàng, vì vậy giá gia công không thể tăng nhanh được dẫn tới tốc độ tăng thu nhập
của các doanh nghiệp may thấp. Ở đây, vai trò của Hiệp hội Dệt May Việt Nam và
Tập đoàn Dệt May Việt Nam rất lớn và hai tổ chức này chưa tìm ra được các giải
pháp hữu hiệu để giúp các doanh nghiệp liên kết với nhau.
2.3.6 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may bằng tiêu chí
năng suất lao động
Đối với một doanh nghiệp, năng suất lao động bao giờ cũng là yếu tố đầu ra
được doanh nghiệp quan tâm trong quá trình sản xuất kinh doanh. Chất lượng vốn
nhân lực của doanh nghiệp chỉ được coi là tốt nếu tạo ra năng suất lao động cao
theo yêu cầu mà doanh nghiệp đặt ra.
Để giảm thiểu sai số, đề tài chỉ tiến hành nghiên cứu năng suất lao động bình
quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các doanh nghiệp may đối với nhân lực
có trình độ từ trung cấp trở lên. Giả thiết rằng những người tốt nghiệp trung cấp
chuyên nghiệp, trung cấp nghề đều đã tốt nghiệp lớp 12, vì theo khảo sát, từ năm
2009 trở về trước, số lượng tuyển sinh bậc trung cấp có trình độ đầu vào tốt nghiệp
trung học cơ sở rất nhỏ. Mặt khác, số năm đi học chuyên môn kỹ thuật ở các bậc
đào tạo sẽ được giả thiết như đã nêu rõ ở mục 2.3.2.2.Với các giả thiết trên, năng
118
suất lao động bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may giai đoạn 2000 – 2011 đã được tính trong phụ lục 8 như sau :
Bảng 2.27 : Năng suất lao động bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực
của các doanh nghiệp may giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ
Năng suất lao động bình quân (Triệu đồng/năm đi học)
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Tiến sỹ
4,18 5,79 5,88 5,99 6,89 6,90 6,94 7,05 7,52 7,28 7,92 8,87
Thạc sỹ
2,81 3,86 4,06 4,21 4,30 4,43 4,69 4,70 5,08 4,83 5,42 5,91
Đại học
1,24 1,59 1,68 1,77 2,05 1,83 2,53 2,65 3,11 3,15 3,57 4,15
Cao đẳng
1,07 1,28 1,45 1,63 1,86 1,93 2,16 2,19 2,69 2,51 3,09 3,57
Trung cấp
0,95 1,13 1,28 1,37 1,52 1,53 1,75 1,93 2,21 2,06 2,77 3,31
1,09 1,34 1,48 1,60 1,79 1,74 2,10 2,22 2,61 2,52 3,15 3,62
Bình quân
chung
Nguồn : Tính toán của tác giả dựa trên số liệu của Tổng cục thống kê, 2012
Số liệu ở bảng 2.27 cho thấy năng suất lao động bình quân tính cho một năm
đi học tăng dần từ năm 2000 đến năm 2011. Vào năm 2000, một năm đi học giúp
làm tăng năng suất thêm 1,09 triệu đồng/năm, con số này vào năm 2011 là 3,62
triệu đồng/năm, tăng gấp 3,32 lần so với năm 2000. Điều này chứng tỏ rằng chất
lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may có xu hướng tăng dần.
Để có cơ sở đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may,
cần xác định năng suất bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của doanh
nghiệp công nghiệp làm chuẩn để so sánh. Để giảm thiểu sai số, đề tài chỉ tiến hành
nghiên cứu năng suất lao động bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các
doanh nghiệp công nghiệp đối với nhân lực có trình độ từ trung cấp trở lên. Giả
thiết rằng những người tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề đều đã
tốt nghiệp lớp 12 vì theo khảo sát, từ năm 2009 trở về trước, số lượng tuyển sinh
bậc trung cấp có trình độ đầu vào tốt nghiệp trung học cơ sở rất nhỏ. Mặt khác, số
năm đi học chuyên môn kỹ thuật ở các bậc đào tạo sẽ được giả thiết như đã nêu rõ ở
mục 2.3.2.2 Với các giả thiết trên, năng suất lao động bình quân tính cho một đơn
vị vốn nhân lực của các doanh nghiệp công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011 đã được
tính toán trong phụ lục 8 như sau :
119
Bảng 2.28 : Năng suất lao động bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực
của các doanh nghiệp công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ
Năng suất lao động bình quân (Triệu đồng/Năm đi học)
2000 2001 2002
2003
2004
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Tiến sỹ
6,27 6,31
6,45
6,50
6,64
7,18 7,81 8,22 8,76 9,32 9,63 10,08
Thạc sỹ
4,52 4,56
4,63
4,69
4,79
5,00 5,28 5,60 5,98 6,55 6,84 7,76
Đại học
1,88 1,88
1,93
1,99
2,16
2,48 3,11 3,42 3,75 3,91 4,47 4,90
Cao đẳng 1,51 1,55
1,57
1,68
1,93
2,39 2,66 2,90 3,32 3,52 3,81 3,94
Trung cấp 1,39 1,52
1,54
1,63
1,76
1,96 2,25 2,46 2,76 2,97 3,32 3,83
Tổng
1,67 1,72
1,76
1,84
2,00
2,30 2,75 3,02 3,34 3,53 3,95 4,34
Nguồn : Tính toán từ nguồn số liệu của Tổng cục thống kê, 2012
Từ số liệu ở bảng 2.27 và 2.28 có thể đánh giá được chất lượng vốn nhân lực
của các doanh nghiệp may qua bảng sau đây :
Bảng 2.29 : Chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may
giai đoạn 2000 – 2011
Năng suất lao động bình quân
Ngành
(Triệu đồng/năm đi học)
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
May
1,09 1,34 1,48 1,60 1,79 1,74 2,10 2,22 2,61 2,52 3,15 3,62
Công nghiệp
1,67 1,72 1,76 1,84 2,00 2,30 2,75 3,02 3,34 3,53 3,95 4,34
May/Công nghiệp (%) 65,6 77,8 84,1 86,8 89,1 75,5 76,4 73,6 78,2 71,5 79,7 83,4
Nguồn : Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê, 2012
Số liệu tại bảng 2.29 cho thấy năng suất lao động bình quân tính cho một đơn
vị vốn nhân lực của các doanh nghiệp may thấp hơn các doanh nghiệp công nghiệp,
điều này thể hiện chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may chưa cao.
Chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may thấp nhất vào năm 2000 khi
một năm đi học của nhân lực trong các doanh nghiệp may chỉ tạo ra năng suất bằng
65,6% của các doanh nghiệp công nghiệp. Chất lượng vốn nhân lực của các doanh
nghiệp may được cải thiện dần trong các năm 2001 đến năm 2004 và chất lượng cao
nhất đạt được vào năm 2004 khi một đơn vị vốn nhân lực của các doanh nghiệp
120
may tạo ra năng suất bằng 89,1% của các doanh nghiệp công nghiệp. Trong giai
đoạn 2005 đến 2011, mặc dù năng suất lao động của các doanh nghiệp may vẫn
tăng về giá trị tuyệt đối nhưng chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may
lại có xu hướng giảm so với năm 2004; vào năm 2011, một đơn vị vốn nhân lực của
các doanh nghiệp may chỉ tạo ra năng suất bằng 83,4% so với các doanh nghiệp
công nghiệp.
Để đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may bằng tiêu
chí năng suất lao động, ngoài việc sử dụng năng suất lao động bình quân tính cho
một năm đi học như trên, còn có thể sử dụng chỉ tiêu chất lượng vốn nhân lực tính
bằng tốc độ tăng năng suất lao động so với tốc độ tăng vốn nhân lực chuyên môn
bình quân. Từ số liệu ở bảng 8.14 trong phụ lục 8, có thể biểu diễn bằng đồ thị chỉ
1.60
1.40
tiêu này như sau :
c
ớ
ư
r
t
1.20
m
ă
n
Tốc độ tăng năng suất lao
động
i
1.00
ớ
v
o
s
Tốc độ tăng vốn nhân lực
chuyên môn bình quân
0.80
0.60
u
a
s
m
ă
n
0.40
Tốc độ tăng năng suất / Tốc
độ tăng vốn nhân lực
chuyên môn
0.20
g
n
ă
t
ệ
l
ỷ
T
0.00
20 01
20 02
20 07
20 05
20 03
20 08
20 06
20 04
20 09
20 10
20 11
Năm
Hình 2.1 : Tốc độ tăng năng suất lao động và tốc độ tăng vốn nhân lực chuyên
môn bình quân của các doanh nghiệp may giai đoạn 2001 – 2011
Nguồn : Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê, 2012
Hình 2.1 cho thấy, trong giai đoạn 2001 – 2011, có 6 năm bao gồm cả năm
2011 có chỉ tiêu chất lượng vốn nhân lực nhỏ hơn 1. Mặt khác, bảng 8.14 tại phụ
lục 8 cho thấy tốc độ tăng năng suất chỉ là 3,0%/năm, chậm hơn tốc độ tăng vốn
121
nhân lực là 4,6%/năm chứng tỏ chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may
thấp do tốc độ tăng năng suất lao động thấp hơn tốc độ tăng vốn nhân lực.
Năng suất lao động của các doanh nghiệp may thấp và tăng chậm là do chịu
tác động của nhiều yếu tố trong đó có vai trò quan trọng của yếu tố quản trị doanh
nghiệp và đào tạo.
Trong quá trình quản trị doanh nghiệp may, vấn đề tay nghề của đội ngũ
công nhân sản xuất trực tiếp chưa được quan tâm đúng mức nên tay nghề của đội
ngũ này còn rất yếu. Kết quả khảo sát số liệu của tác giả về trình độ tay nghề của
đội ngũ công nhân may tại 60 doanh nghiệp dệt may năm 2010 thể hiện ở bảng sau :
Bảng 2.30 : Trình độ tay nghề
của đội ngũ công nhân kỹ thuật dệt may năm 2010
Số lượng
Bậc thợ
Ngành nghề
Tổng
Tr.đó
: nữ
Bậc
1,2
Bậc
3,4
>Bậc
5
Công nhân công nghệ
37.282
30.044
24.560
8.430
4.292
- Sợi
4.685
3.292
1.928
1.506
1.251
- Dệt
1.466
927
406
545
515
- Nhuộm, hoàn tất
609
187
194
216
199
- May
30.522
25.638
22.032
6.163
2.327
Cơ cấu bậc thợ công nhân may (%)
Công nhân cơ điện, động lực
100
1.961
84,0
112
72,2
623
20,2
600
7,6
738
Ngành khác
3.326
2.094
1.561
983
783
Lao động phổ thông
1.897
1.140
1.208
423
266
Tổng số
44.466
33.390
27.952 10.436
6.079
Cơ cấu bậc thợ công nhân dệt may (%)
100
75,1
62,9
23,5
13,7
Nguồn : Khảo sát của tác giả, 2010
Số liệu ở bảng 2.30 cho thấy số lượng công nhân kỹ thuật may bậc 1, 2 trong
các doanh nghiệp khảo sát chiếm tới 72,2%, trong khi tỷ lệ công nhân kỹ thuật dệt
may bậc 1, 2 chỉ chiếm 62,9% trong toàn bộ các doanh nghiệp dệt may được khảo
sát. Công nhân kỹ thuật bậc thấp có số lượng lớn là một trong những nguyên nhân
dẫn đến năng suất lao động trong các doanh nghiệp may thấp hơn trong các doanh
122
nghiệp dệt may nói chung. Sở dĩ công nhân kỹ thuật bậc thấp chiếm tỷ lệ lớn trong
các doanh nghiệp may là do thiếu lao động, các doanh nghiệp thường xuyên phải
tuyển lao động mới để tự đào tạo trong thời gian ngắn và đưa vào sản xuất. Số
lượng công nhân kỹ thuật dệt may có trình độ tay nghề từ bậc 3 trở lên trong các
doanh nghiệp khảo sát chiếm 37,2%, cao hơn tỷ lệ 27,8% của các doanh nghiệp
may.
Một nguyên nhân nữa trong quản trị doanh nghiệp dẫn đến năng suất lao
động trong các doanh nghiệp may thấp là khả năng tổ chức sản xuất yếu nên mặc dù
công nghệ tương đối hiện đại so với khu vực nhưng theo đánh giá của Bà Nguyễn
Thị Thanh Huyền, Tổng Giám đốc Tổng Công ty may 10 và một số chuyên gia khác,
năng suất lao động của các doanh nghiệp may Việt Nam hiện nay chỉ xấp xỉ bằng
60% năng suất lao động của Trung quốc. Đây chính là hệ quả của việc đầu tư đổi
mới phần cứng trong công nghệ tương đối tốt nhưng việc đầu tư vào con người, vào
khâu tổ chức để vận hành có hiệu quả công nghệ mới chưa được quan tâm đúng
mức vì thế các nhà quản trị doanh nghiệp may chưa thể tổ chức sản xuất với năng
suất cao hơn. Cụ thể là các doanh nghiệp may chưa có quy trình cải tiến liên tục để
loại bỏ các lãng phí trong sản xuất, đặc biệt là các lãng phí về vốn nhân lực do thực
hiện các thao tác thừa dẫn đến không tận dụng được tối đa công suất thiết kế của
thiết bị, thời gian thao tác dài; thiết kế dây chuyền và bố trí sản xuất trong dây
chuyền không hợp lý dẫn đến dây chuyền không cân bằng, chu kỳ sản xuất dài…vì
thế số lượng sản phẩm sản xuất ra thấp và tất yếu dẫn đến năng suất lao động thấp.
Yếu tố đào tạo tại doanh nghiệp cũng có tác động mạnh tới tay nghề của đội
ngũ công nhân kỹ thuật may. Qua phỏng vấn chuyên gia tại các doanh nghiệp may
cho thấy, đội ngũ công nhân kỹ thuật từ bậc 3 trở lên chủ yếu trưởng thành từ doanh
nghiệp, ít được đào tạo cơ bản, việc thi nâng bậc lên các bậc 3, 4, 5, 6 chủ yếu do
các doanh nghiệp tự tổ chức theo công việc hiện tại, rất ít công nhân kỹ thuật bậc
cao được đào tạo tại các trường chính quy nên khả năng đảm nhiệm nhiều bộ phận
khó, khác nhau của công nhân may bậc cao trong dây chuyền còn rất nhiều hạn chế,
vì vậy đã ảnh hưởng lớn tới năng suất lao động khi dây chuyền thay đổi mã hàng.
123
2.3.7 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may bằng tiêu chí
tỷ lệ biến động lao động
Như trên đã phân tích, trong giai đoạn 2000 – 2011, ngành may là ngành có
tỷ lệ biến động lao động lớn. Qua khảo sát thực tế tại 60 doanh nghiệp may và dệt
may, đồng thời qua các thông tin phỏng vấn các chuyên gia trong ngành, có thể thấy
rằng tỷ lệ biến động lao động mong muốn trong các doanh nghiệp may ở mức
5%/năm là có thể chấp nhận được. Lý do là :
- Trong các doanh nghiệp may công nghiệp, để khắc phục tình trạng biến
động lao động làm ảnh hưởng đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm,
trong thời gian vừa qua, hầu hết các doanh nghiệp may đều bố trí từ 1 đến 2 công
nhân kỹ thuật bậc cao trong một dây chuyền 50-55 người (chiếm khoảng 2 đến 5%
lao động trong dây chuyền). Hai công nhân kỹ thuật này có thể làm việc ở bất kỳ vị
trí nào trong dây chuyền để thay thế cho những công nhân khác nghỉ đột xuất do ốm,
nghỉ không lý do hoặc nghỉ việc. Nếu không có biến động về lao động thì hai công
nhân kỹ thuật cao này liên tục tăng cường cho những bộ phận bị ùn tắc trong dây
chuyền do dây chuyền thiết kế không cân bằng. Chính vì vậy, nếu lao động trong
các dây chuyền may biến động ở mức dưới 5% thì không làm ảnh hưởng nhiều đến
năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
- Trong trường hợp biến động lao động trong dây chuyền ở mức lớn hơn 5%
thì các doanh nghiệp may thường xử lý theo hai phương pháp sau :
+ Phương pháp thứ nhất là: do không còn lao động thay thế nên các doanh
nghiệp thường sử dụng cả cán bộ tổ như tổ trưởng, tổ phó, kỹ thuật chuyền...vào
chuyền may để thay thế cho các bộ phận. Trong trường hợp này, nếu kéo dài sẽ làm
ảnh hưởng đến công tác quản lý tổ như : thiếu người đôn đốc thực hiện kế hoạch do
tổ trưởng và tổ phó phải vào chuyền may, thiếu người giám sát chất lượng trên
chuyền vì cán bộ kỹ thuật chuyền vào chuyền may, như vậy sẽ làm cho cả năng suất
và chất lượng sản phẩm của dây chuyền may bị giảm.
+ Phương pháp thứ hai là bố trí dây chuyền cụm : như đã phân tích ở mục
2.2.5 ở trên, phương pháp này giúp khắc phục tình trạng phải bố trí người thay thế
124
vào các bộ phận biến động lao động trong dây chuyền, các nhóm tự bố trí để hoàn
thành các cụm chi tiết của sản phẩm được giao. Tuy nhiên, nếu lượng biến động lao
động lớn, mỗi nhóm công nhân có thể bị giảm từ 2 người trở lên hoặc phải thay thế
từ 2 công nhân mới trở lên... và liên tục trong thời gian dài thì thời gian làm việc
của các nhóm sẽ bị kéo dài dẫn đến thời gian làm việc của toàn bộ dây chuyền cũng
sẽ bị kéo dài, gây mệt mỏi và giảm năng suất lao động.
Trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay, tỷ lệ biến động lao động trong các
doanh nghiệp may tương đối lớn. Kết quả khảo sát sự biến động lao động của các
doanh nghiệp trong Tập đoàn Dệt May Việt Nam vào năm 2007 được thể hiện trong
biểu sau đây :
Bảng 2.31 Biến động lao động của Tập đoàn Dệt May Việt Nam
giai đoạn 2000-2007
2003
2002
Lao động (người)
2000 2001
2004
92988 94251 99954 105267 104301
2005
97074
2006 07/2007
96469
96046
Tăng lao động (%)
19,3
16
23,4
24,8
22,5
24,5
31
11
Giảm lao động (%)
12,9 11,6 16,9
19,6
23,2
32,2
29
14
Nguồn : [35]
Tỷ lệ biến động lao động trong các doanh nghiệp may giai đoạn 2008 – 2010
qua kết quả khảo sát của tác giả thể hiện ở biểu sau đây :
Bảng 2.32 Tỷ lệ biến động lao động trong các doanh nghiệp May
được khảo sát giai đoạn 2008 - 2010
Chỉ tiêu
TT
1 Tổng số lao động của doanh nghiệp (người)
2 Biến động tăng lao động (%)
3 Biến động giảm lao động (%)
Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
24,673
24,175
27.6
33.2
26.2
34.4
25,990
29.8
31.7
Nguồn : Khảo sát của tác giả, 2011
Số liệu trong bảng 2.31 và 2.32 cho thấy biến động lao động của ngành dệt
may nói chung và trong các doanh nghiệp may nói riêng giai đoạn 2000 – 2007 rất
lớn. Biến động tăng lao động nhỏ nhất là năm 2001 với mức tăng bằng 16%, lớn
nhất vào năm 2006 tới 31%. Biến động giảm lao động nhỏ nhất là năm 2001 với
mức giảm 11,6%, lớn nhất là vào năm 2005 với mức giảm 32,2%.
125
Trong giai đoạn 2008 – 2010 cũng ghi nhận sự biến động lao động trong các
doanh nghiệp may rất cao, nhất là vào năm 2009 khi tỷ lệ biến động tăng lao động
tới 33,2% và tỷ lệ biến động giảm lao động tới 34,4%. Theo một số chuyên gia
trong ngành, năm 2008, 2009 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới tỷ lệ
biến động lao động trong các doanh nghiệp tiếp tục ở mức cao. Các doanh nghiệp
dệt may lớn có mức biến động lao động khoảng 10 – 15%/năm, trong các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong nước khoảng 15 – 25%/năm và trong các doanh nghiệp dệt
may có vốn đầu tư nước ngoài khoảng 35 – 40%/năm.
Mức biến động lao động như trên lớn hơn rất nhiều mức 5% mà các doanh
nghiệp may mong muốn chứng tỏ rằng chất lượng vốn nhân lực của các doanh
nghiệp may hiện nay thấp hơn so với yêu cầu sản xuất kinh doanh của ngành may.
Nguyên nhân thứ nhất dẫn đến biến động lao động cao là do tác động của
yếu tố nhu cầu vốn nhân lực của doanh nghiệp. Xét dưới giác độ vốn nhân lực, từ số
liệu ở bảng 2.12, 2.16, 2.18 có thể xác định được tỷ trọng vốn nhân lực chuyên môn
trung bình của các doanh nghiệp may và được thể hiện ở bảng sau :
Bảng 2.33 : Tỷ trọng vốn nhân lực chuyên môn của các doanh nghiệp may và
công nghiệp giai đoạn 2005 – 2008
TT
Chỉ tiêu
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
1 10,26 10,43 10,5 10,47
2 0,54 0,55 0,54 0,56
3 10,8 10,98 11,02 11,03
4 0,83 0,83 0,83 0,79
5 5,00 5,01 4,90 5,08
6 65,06 66,27 65,06 70,89 Vốn nhân lực phổ cập trung bình một lao
động của các doanh nghiệp may (năm/người)
Vốn nhân lực chuyên môn trung bình một lao
động của các doanh nghiệp may (năm/người)
Vốn nhân lực trung bình một lao động của
các doanh nghiệp may (năm/người)
Vốn nhân lực chuyên môn trung bình của các
doanh nghiệp công nghiệp
Vốn nhân lực chuyên môn trung bình của các
doanh nghiệp may / Vốn nhân lực trung bình
của ngành may (%)
Vốn nhân lực chuyên môn trung bình của các
doanh nghiệp may / Vốn nhân lực chuyên
môn trung bình của ngành công nghiệp (%)
Nguồn : Tính toán của tác giả dựa trên số liệu khảo sát của Tập đoàn Dệt May Việt
Nam năm 2008 và số liệu của Tổng cục thống kê 2010
126
Số liệu ở bảng 2.33 cho thấy, trong giai đoạn 2005 đến 2008, vốn nhân lực
chuyên môn bình quân của các doanh nghiệp may so với vốn nhân lực bình quân
của các doanh nghiệp may thấp nhất vào năm 2007 là 4,9% và cao nhất là 5,08%
vào năm 2008. So với vốn nhân lực chuyên môn trung bình của các doanh nghiệp
công nghiệp thì vốn nhân lực chuyên môn trung bình của các doanh nghiệp may chỉ
bằng 65,6% vào năm 2005 và cao nhất là 70,89% vào năm 2008. Các số liệu trên
đều chứng tỏ rằng vốn nhân lực chuyên môn của các doanh nghiệp may rất thấp so
với vốn nhân lực phổ cập của các doanh nghiệp may cũng như rất thấp so với vốn
nhân lực chuyên môn trung bình của các doanh nghiệp công nghiệp. Do tỷ trọng
vốn nhân lực phổ cập cao nên lượng biến động lao động của các doanh nghiệp may
lớn do vốn nhân lực phổ cập tạo ra giá trị như nhau cho chủ sở hữu vốn nhân lực dù
họ làm việc trong doanh nghiệp nào. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tỷ trọng vốn
nhân lực chuyên môn của các doanh nghiệp may thấp chính là do tác động của yếu
tố nhu cầu vốn nhân lực của doanh nghiệp vì các doanh nghiệp may chỉ xác định
vốn nhân lực chuyên môn đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất theo phương thức gia công.
Một nguyên nhân khác cũng liên quan đến tác động của yếu tố nhu cầu vốn
nhân lực của doanh nghiệp đến biến động lao động lớn trong các doanh nghiệp may,
nhất là các doanh nghiệp may đóng tại các khu vực thành thị là xác định sai nhu cầu
vốn nhân lực của doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp may lớn, do có lợi thế về địa
điểm, thương hiệu nên đã xác định cần phải tuyển dụng người lao động có vốn nhân
lực càng cao càng tốt, nhất là nhân lực ở trình độ trung cấp, cao đẳng, cao đẳng
nghề ngành công nghệ may tốt nghiệp trong các trường chính quy. Tuy vậy, do
lượng tuyển lớn nên nhiều nhân lực có trình độ cao này chỉ được bố trí may 1 hoặc
2 bộ phận trong dây chuyền sản xuất và chỉ được hưởng thu nhập theo lương sản
phẩm, bên cạnh đó, nhiều kỹ năng của người lao động không được sử dụng và cũng
đồng thời không được trả lương vì vậy dẫn đến thu nhập của người lao động thấp
hơn kỳ vọng nên đã tạo ra tỷ lệ biến động lao động cao trong một số doanh nghiệp
may đóng tại khu vực thành thị.
Yếu tố nhu cầu vốn nhân lực của doanh nghiệp còn tác động đến chất lượng
127
vốn nhân lực của các doanh nghiệp may thể hiện ở việc các doanh nghiệp may
tuyển dụng người lao động có vốn nhân lực không phù hợp với nhu cầu của doanh
nghiệp. Cụ thể là : ngành công nghiệp may là ngành có tính thực hành cao và đòi
hỏi người lao động cần có tính tỷ mỉ, cận thận khi tham gia học tập và làm việc
trong ngành may. Tuy vậy, do thiếu lao động nên các doanh nghiệp, nhất là doanh
nghiệp may tại các vùng nông thôn thường tuyển tất cả lao động đăng ký dự tuyển
để đào tạo ngắn hạn trong thời gian ngắn và đưa vào sản xuất. Phương thức tuyển
dụng như vậy đã tuyển cả lao động không có tính tỷ mỉ, cận thận nên không thể
thực hiện tốt các công việc trong dây chuyền sản xuất hàng xuất khẩu, do đó doanh
nghiệp phải cho họ thôi việc hoặc người lao động tự thôi việc dẫn đến biến động lao
động cao và chất lượng vốn nhân lực trong các doanh nghiệp may thấp.
Nguyên nhân thứ hai dẫn đến biến động lao động lớn trong các doanh nghiệp
may là do chịu tác động của yếu tố quản trị doanh nghiệp. Cụ thể như sau:
- Nhà quản trị doanh nghiệp may vẫn chủ yếu tiến hành sản xuất kinh doanh
theo phương thức gia công xuất khẩu. Trong quá trình nhận đơn hàng, thường có
hiện tượng có những đơn hàng lớn hơn năng lực sản xuất khoảng 15 – 20%. Nếu
không nhận các đơn hàng này thì sẽ thiếu việc làm, nếu nhận các đơn hàng này thì
sẽ phải sản xuất dãn ca, thêm giờ dẫn đến thời gian làm việc trong ngành công
nghiệp may thường dài (9 -11 giờ/ngày), do đó lao động hay bị biến động do phải
chịu áp lực về thời gian làm việc dài.
- Theo phương thức gia công xuất khẩu, đơn giá gia công thường chiếm một
tỷ trọng nhỏ trong giá bán sản phẩm do vậy thu nhập của người lao động không cao
dẫn đến lao động hay biến động. Lao động biến động cao dẫn đến năng suất lao
động thấp, năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập của người lao động thấp, thu
nhập thấp lại dẫn đến biến động lao động cao. Đây chính là vòng luẩn quẩn mà các
doanh nghiệp may hiện nay đang phải đối mặt.
- Các doanh nghiệp may hiện nay chủ yếu tổ chức sản xuất theo phương thức
may sản phẩm theo dây chuyền. Theo phương thức may dây chuyền, mỗi lao động
chỉ chịu trách nhiệm may một hoặc một số bộ phận nên thời gian đào tạo chuyên
128
môn kỹ thuật cho các lao động không nhiều, nhất là công nhân kỹ thuật ngắn hạn
chỉ cần đào tạo trong khoảng từ 1 đến 3 tháng hoặc có một số lao động không qua
đào tạo vẫn có thể làm việc ở một số bộ phận phụ trong doanh nghiệp may. Chính
vì vậy, lao động trong các doanh nghiệp may dễ di chuyển sang các doanh nghiệp
khác và các doanh nghiệp này vẫn sẵn sàng nhận vì chỉ cần bỏ ra chi phí đào tạo
nhỏ hoặc không cần đào tạo lại cho lao động mới.
- Nhiều nhà quản trị doanh nghiệp may, đặc biệt là các doanh nghiệp đang có
trụ sở chính tại các thành phố lớn vẫn muốn đặt doanh nghiệp tại các khu vực thành
thị do có những lợi thế về giao thông, địa điểm giao dịch. Tuy vậy, khu vực thành
thị là khu vực có tính cạnh tranh lớn giữa các doanh nghiệp may với nhau, giữa các
doanh nghiệp may với các doanh nghiệp thuộc các ngành nghề khác về nguồn nhân
lực, do đó đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến biến động lao động lớn. Mặt khác,
phân tích ở mục 1.1.2.3 đã cho thấy đặc điểm của lao động trong các doanh nghiệp
may là có tỷ lệ nữ lớn, hơn nữa các doanh nghiệp may đóng tại các thành phố lớn có
tỷ lệ lao động xuất thân từ các vùng nông thôn cao vì vậy khi có các doanh nghiệp
may được thành lập mới tại quê hương, số lao động này sẽ chuyển về làm việc gần
gia đình để giảm bớt gánh nặng về tiền thuê nhà, tiền gửi trẻ…dẫn tới biến động lao
động lớn tại các doanh nghiệp may đặt tại các đô thị và làm giảm chất lượng vốn
nhân lực của các doanh nghiệp may.
- Các nhà quản trị trong các doanh nghiệp may giải quyết chưa tốt mối quan
hệ giữa doanh nghiệp với người lao động. Công trình “Phát triển nguồn nhân lực-
Biện pháp quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp may
trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới” xuất bản
năm 2007 của tác giả Trần Việt Lâm đã cho thấy nhiều doanh nghiệp may vi phạm
quyền của người lao động như : không đóng bảo hiểm cho người lao động, một
tháng không được nghỉ đủ 4 ngày, kéo dài thời gian lao động trong ngày mà không
được trả lương tăng thêm…Nhiều doanh nghiệp may chưa có tổ chức công đoàn
hoặc có nhưng hoạt động không hiệu quả, chưa ký thoả ước lao động tập thể giữa
công đoàn và người sử dụng lao động để đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
129
Bên cạnh đó, Chính phủ, Hiệp hội Dệt May Việt Nam, Công đoàn dệt may Việt
Nam mặc dù đã hết sức cố gắng trong việc tổ chức ký kết thoả ước lao động tập thể
ngành dệt may nhưng tính đến năm 2011, chỉ có 82 doanh nghiệp tham gia ký thoả
ước, mặt khác vẫn chưa thống nhất được chế tài xử lý đối với các đơn vị vi phạm
thoả ước. Các nguyên nhân trên là nghiêm trọng và thường dẫn tới xảy ra nhiều
cuộc đình công cũng như biến động lao động lớn làm giảm chất lượng vốn nhân lực
của các doanh nghiệp may.
Yếu tố chính sách của Chính phủ cũng tác động mạnh tới biến động lao động
của các doanh nghiệp may do các kênh giới thiệu việc làm tại địa phương chưa nắm
được chính xác nguồn cung cũng như nhu cầu vốn nhân lực phù hợp với doanh
nghiệp may. Theo đánh giá của các chuyên gia, người lao động được tuyển dụng
mới tại các doanh nghiệp may hầu hết thông qua phương thức người lao động trực
tiếp nộp hồ sơ xin việc hoặc doanh nghiệp tự đến các địa phương để tuyển lao động.
Rất ít các kênh giới thiệu việc làm có thể giới thiệu người lao động phù hợp với nhu
cầu của doanh nghiệp do vậy khi người lao động muốn chuyển từ doanh nghiệp này
sang doanh nghiệp khác thường chỉ có thông tin từ bạn bè hoăc người thân về mức
thu nhập cao hơn, không đánh giá được mức độ phù hợp giữa vốn nhân lực của bản
thân với nhu cầu vốn nhân lực của doanh nghiệp nên thường dẫn đến thu nhập ở
doanh nghiệp mới không được như kỳ vọng và lại có xu hướng tiếp tục chuyển việc
đến nơi có mức thu nhập kỳ vọng cao hơn dẫn đến biến động lao động cao và làm
giảm chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
2.4 Chất lượng vốn nhân lực của Tổng công ty may 10 – công ty cổ phần
2.4.1 Một số đặc điểm của Tổng công ty may 10 – công ty cổ phần
Tổng công ty may 10-công ty cổ phần là một trong những doanh nghiệp điển
hình trong ngành công nghiệp may Việt Nam đứng trên giác độ nghiên cứu vốn
nhân lực của các doanh nghiệp may. Tính chất điển hình đó được thể hiện ở những
đặc điểm sau đây :
- Tổng công ty may 10-công ty cổ phần là doanh nghiệp chuyên sản xuất
kinh doanh trong lĩnh vực may mặc trong hơn 50 năm. Tổng công ty là một trong số
130
ít các đơn vị trong lĩnh vực may mặc đang áp dụng hệ thống quản lý chất lượng
theo tiêu chuẩn ISO 9001-2000 và là một trong những doanh nghiệp may mặc thuộc
Tập đoàn Dệt May Việt Nam có tỷ suất lợi nhuận kinh doanh tương đối cao. Vì vậy
có thể thấy rằng Tổng công ty là một doanh nghiệp may có nhiều kinh nghiệm tổ
chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong lĩnh vực may mặc.
- Tổng công ty may 10 – công ty cổ phần là một tổng công ty hết sức quan
tâm đến công tác đổi mới công nghệ và nâng cao năng suất lao động. Tổng công ty
hiện là một trong những đơn vị có quy trình quản lý và công nghệ sản xuất hiện đại
trong Tập đoàn Dệt May Việt Nam.
- Tổng công ty là doanh nghiệp lớn, có quy mô 7490 lao động vào thời điểm
31/12/2010 với 10 đơn vị thành viên hoạt động trong lĩnh vực may mặc, đóng trên
địa bàn của 06 tỉnh, thành phố là Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Thanh
Hoá và Quảng Bình. Các đơn vị thành viên của Tổng công ty hoạt động tương đối
độc lập trên địa bàn của nhiều tỉnh khác nhau nên mặc dù cùng thuộc Tổng công ty
nhưng công tác sản xuất kinh doanh của mỗi đơn vị thành viên lại chịu ảnh hưởng
đặc thù về lao động, môi trường kinh doanh...của các tỉnh nêu trên.
- Tổng công ty may 10 là một đơn vị hết sức quan tâm và thực hiện đầy đủ
các chế độ chính sách đối với người lao động, là một đơn vị áp dụng tiêu chuẩn
trách nhiệm xã hội SA 8000 sớm trong ngành dệt may Việt Nam.
- Tổng công ty là một trong số ít các doanh nghiệp có thành lập trường đào
tạo riêng ngay trong doanh nghiệp để đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao đẳng
nghề và các trình độ thấp hơn cho Tổng công ty và cho xã hội. Đây là kênh tạo vốn
nhân lực quan trọng cho Tổng công ty may 10 trong những năm vừa qua.
2.4.2 Công tác tạo vốn nhân lực của Tổng công ty may 10
2.4.2.1 Tạo vốn nhân lực qua đào tạo chính quy và không chính quy
Như trên đã trình bày, Tổng công ty may 10 là một đơn vị đi tiên phong
trong lĩnh vực tạo vốn nhân lực cho bản thân doanh nghiệp. Trường Công nhân kỹ
thuật trực thuộc công ty may 10 được thành lập từ năm 1995 với chức năng đào tạo
công nhân kỹ thuật may ngắn hạn, công nhân kỹ thuật may lành nghề bậc 2 và bậc 3
131
cho công ty may 10. Đến năm 2008, trường được nâng cấp thành trường Cao đẳng
nghề với tên gọi là “Trường Cao đẳng nghề Long Biên” hoạt động theo mô hình
trường dạy nghề do Bộ Lao động Thương Binh Xã hội quản lý.
Trường được tổ chức theo mô hình bao gồm Hội đồng thành viên, Ban giám
hiệu, các khoa và phòng chức năng. Hội đồng thành viên là cơ quan quyền lực cao
nhất thay mặt Tổng công ty quản lý trường nhằm đảm bảo cho quá trình đào tạo của
trường luôn phù hợp với chiến lược sản xuất kinh doanh của Tổng công ty may 10.
Trong hơn 15 năm hoạt động dưới sự chỉ đạo và hỗ trợ của Tổng công ty
may 10, Trường đã đào tạo được 13.000 công nhân kỹ thuật may lành nghề, ngắn
hạn, tổ trưởng sản xuất cho Tổng công ty may 10. Hiện nay, quy mô đào tạo của
trường ngày càng tăng lên theo chiến lược mở rộng sản xuất may mặc về các vùng
nông thôn của Tổng công ty, số liệu tuyển sinh của trường thể hiện ở bảng sau :
Bảng 2.34 : Số lượng tuyển sinh của Trường Cao đẳng nghề Long Biên
giai đoạn 2009 - 2010
TT Hệ tuyển Số lượng tuyển sinh thực tế
Năm 2009 Năm 2010
1 Cao đẳng nghề và trung cấp nghề 962 790
2 Sơ cấp nghề may 2765 2676
Nguồn : Tập đoàn Dệt May Việt Nam và Tổng công ty may 10, 2011
Số liệu ở bảng 2.34 cho thấy trong hai năm 2009 và 2010, ngoài đào tạo
nghề chính quy, trường còn đào tạo nhiều công nhân kỹ thuật may ngắn hạn cho các
đơn vị thành viên của Tổng công ty may 10, chủ yếu đào tạo theo địa chỉ sử dụng
đối với các doanh nghiệp của Tổng công ty đóng tại các tỉnh, vì vậy công tác đào
tạo có tính phù hợp cao với nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp.
Với mô hình trường trong doanh nghiệp như đang tổ chức tại Tổng công ty
may 10, quá trình đào tạo có một số lợi thế như sau :
- Học sinh sinh viên được sử dụng các thiết bị hiện đại của Tổng công ty may
10 ngay trong quá trình học tập, hơn nữa học sinh sinh viên còn được thực hành
bằng những sản phẩm yêu cầu chất lượng cao trong quá trình sản xuất của Tổng
132
công ty nên có thể làm việc được ngay sau khi tốt nghiệp.
- Nhiều cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý có trình độ đại học đang công tác
trong các đơn vị chức năng của Tổng công ty được cử tham gia giảng dạy chuyên
môn tại các khoá học của trường nên các kiến thức, kỹ năng được đưa ra trong các
bài giảng thường gắn liền với thực tế sản xuất của Tổng công ty may 10.
Cả hai lợi thế nêu trên đã giúp chất lượng vốn nhân lực của Tổng công ty
may 10 tương đối cao vì kiến thức, kỹ năng và thái độ của người học phù hợp với
nhu cầu sử dụng của Tổng công ty.
2.4.2.2 Chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực của Tổng công ty may 10
Khảo sát thực tế tại Tổng công ty may 10 cho thấy Tổng công ty đang sử
dụng chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực theo phương pháp Benchmarking nhưng
luôn cố gắng để vượt mức chuẩn. Cụ thể là :
- Đối với các đầu tư mới như đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất Veston tại
trụ sở chính, Tổng công ty may 10 đã cử chuyên gia tìm hiểu công nghệ, quy trình
sản xuất và đào tạo nhân lực tại Tổng công ty may Nhà Bè – Công ty cổ phần. Từ
đó tiến hành đầu tư vào vốn nhân lực theo mức chuẩn của Tổng công ty may Nhà
Bè – Công ty cổ phần.
- Đối với các nhà máy được đầu tư mới tại các vùng nông thôn, Tổng công ty
may 10 thường tiến hành tạo vốn nhân lực tại các cơ sở mới này theo mức vốn nhân
lực hiện có tại các đơn vị thành viên cùng quy mô tại trụ sở chính.
- Bên cạnh đó, Tổng công ty may 10 thường xuyên mời các chuyên gia trong
các lĩnh vực về quản lý, công nghệ như chuyên gia về công nghệ sản xuất tinh gọn,
chuyên gia về tổ chức quản lý theo tiêu chuẩn ISO9001 – 2000…tham gia bồi
dưỡng cho đội ngũ nhân lực trong Tổng công ty nhằm tăng cường kiến thức, kỹ
năng và kinh nghiệm để đạt năng suất và chất lượng cao hơn các mức chuẩn.
Có thể thấy rằng, với chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực như trên, Tổng
công ty may 10 chỉ có thể nâng cao hiệu quả sản xuất theo phương thức gia công
xuất khẩu, chưa có nhiều khả năng tiếp cận với phương thức sản xuất FOB hay
ODM. Tổng công ty may 10 là một Tổng công ty lớn, có tiềm lực về tài chính mạnh
133
vì vậy, để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, Tổng công ty may 10 cần cân
nhắc đến các chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực khác như chiến lược đầu tư vào
vốn nhân lực khi còn có lợi nhuận thì mới có khả năng sản xuất theo phương thức
ODM trong tương lai.
2.4.3.1 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực bằng tiêu chí đầu tư tài chính cho giáo dục
2.4.3 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực của Tổng công ty may 10
Chỉ tiêu đầu tư tài chính cho giáo dục của Tổng công ty may 10 được thể
hiện trong bảng sau đây :
Năm
T
T
Số lượng
nhân lực
tự đào tạo
(người)
Kinh phí đào tạo bồi dưỡng
đã thực hiện
Số lượng
nhân lực
gửi đào
tạo tại các
trường
chính quy
(người)
Kinh phí
bình quân
chi cho
công tác tự
đào tạo
(triệu đồng
/người)
Kinh phí chi
cho công tác
đào tạo nhân
lực tại các
trường chính
quy
(triệu đồng)
Kinh phí
chi cho
công tác tự
đào tạo tại
chỗ
(triệu
đồng)
Kinh phí bình
quân chi cho
công tác đào tạo
tại các trường
chính quy
(triệu đồng
/người)
1 Năm 2009
2.862
905
0,3
19
42
2,2
2 Năm 2010
4.331
3.172
0,7
10
26
2,6
Bảng 2.35: Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng của Tổng công ty may 10 giai đoạn 2009 – 2010
Nguồn : Khảo sát của tác giả, 2011
Số liệu ở bảng 2.35 cho thấy kinh phí đào tạo tại chỗ bình quân năm 2009
của Tổng công ty may 10 là 300.000 đồng/người/năm, năm 2010 là 700.000
đồng/người/năm, thấp hơn mức bình quân của các doanh nghiệp dệt may được nêu
ra ở bảng 2.10. Tuy vậy, theo đánh giá của Tổng công ty, chất lượng vốn nhân lực
vẫn rất cao mặc dù mức đầu tư không cao. Nguyên nhân là do Tổng công ty may 10
đã chuyên môn hoá sản phẩm theo dây chuyền, vì vậy khi đào tạo công nhân kỹ
thuật cho các dây chuyền thì chỉ tập trung đào tạo kỹ năng để sản xuất các sản phẩm
mà dây chuyền đó sẽ đảm nhận, không đào tạo tràn lan, vì thế chi phí đào tạo thấp
nhưng chất lượng vốn nhân lực vẫn cao vì phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp
Số liệu tại bảng 2.35 cũng cho thấy kinh phí bình quân doanh nghiệp chi cho
134
đào tạo nhân lực tại các trường chính quy của Tổng công ty may 10 là 2,2 triệu
đồng/người/năm vào năm 2009 và 2,6 triệu đồng/người/năm vào năm 2010. Mức
chi tuy vẫn thấp nhưng cao hơn mức chi bình quân của các doanh nghiệp dệt may
nêu trong bảng 2.10. Điều này chứng tỏ chất lượng vốn nhân lực của Tổng công ty
may 10 cao hơn mức bình quân chung của các doanh nghiệp dệt may.
2.4.3.2 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực bằng tiêu chí số năm đi học
a- Đánh giá chất lượng vốn nhân lực bằng số năm đi học phổ thông Số năm đi học phổ thông của người lao động trong Tổng công ty may 10 vào
thời điểm năm 2010 thể hiện trong bảng sau đây :
Bảng 2.36 : Trình độ văn hoá của người lao động
trong Tổng công ty may 10 vào năm 2010
Trình độ văn hoá
TT
Vị trí làm việc
Tổng
Tiểu
học
Trung
học
cơ sở
Trung
học
phổ
thông
Chưa
từng
đi
học
Chưa
học
hết
tiểu
học
1 Cán bộ quản lý
567
567
2 Cán bộ chuyên môn nghiệp vụ
589
589
3 Công nhân công nghệ may
5.639
3.120
2.519
4 Công nhân cơ điện, động lực
81
81
5 Ngành khác
572
551
21
6 Lao động phổ thông
42
Tổng số
Tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông (%)
7.490
100
4.908
65,5
42
2.582
34,5
Nguồn : Khảo sát của tác giả, 2011
Từ số liệu ở bảng 2.36, có thể xác định được vốn nhân lực phổ cập bình quân
một lao động trong Tổng công ty may 10 là :
[(4908 x 12) + (2582 x 9)] / 7490 = 10,97 năm/người.
Từ số liệu tại bảng 2.11 cũng có thể xác định được vốn nhân lực phổ cập
bình quân một lao động trong số các doanh nghiệp may được khảo sát năm 2011 là :
[(0.6 x 26.948 x 12) + (0.4 x 26.948 x 9)] / 26.948 = 10,8 năm/người
Như vậy có thể thấy rằng vốn nhân lực phổ cập bình quân của Tổng công ty
may 10 cao hơn vốn nhân lực phổ cập bình quân của các doanh nghiệp được khảo
135
sát, nói một cách khác là chất lượng vốn nhân lực của Tổng công ty may 10 cao hơn
mức bình quân của các doanh nghiệp may.
b- Đánh giá chất lượng vốn nhân lực bằng số năm đi học chuyên môn kỹ thuật
Số năm đi học chuyên môn kỹ thuật của người lao động trong Tổng công ty
may 10 được thể hiện trong bảng sau đây :
Bảng 2.37 : Số năm đi học chuyên môn kỹ thuật của người lao động trong Tổng
công ty may 10 vào năm 2010
Trình độ chuyên môn kỹ thuật
TT
Vị trí làm việc
Tổng
Tiến
sĩ
Thạc
sĩ
Đại
học
Cao
đẳng
Dạy
nghề
ngắn
hạn
Chưa
qua
đào
tạo
Trung
cấp,
Dạy
nghề
chính
quy
1 Cán bộ quản lý
567
1
4
145
320
81
16
589
2
4
286
191
99
9
Cán bộ chuyên môn
nghiệp vụ
3 Công nhân kỹ thuật
6.334
0
0
452
453
709
3.264
1.456
Tổng số
7.490
1
8
883
964
889
3.289
1.456
Nguồn : Khảo sát của tác giả, 2011
Từ số liệu ở bảng 2.37 và những giả thiết về số năm đi học chuyên môn kỹ
thuật như đã trình bày trong mục 2.3.2.2 có thể tính được vốn nhân lực chuyên môn
bình quân của một lao động trong Tổng công ty may 10 vào năm 2010 như sau :
[( 1 x 9) + (8 x 6) + (883 x 4) + (964 x 3) + (889 x 2) + (3239 x 0,25) +
(1456 x 0)] / 7490 = 1,2 năm/người.
So sánh số liệu trên với số liệu ở bảng 2.16 cho thấy vốn nhân lực chuyên
môn bình quân một lao động của Tổng công ty may 10 lớn hơn 2,14 lần vốn nhân
lực chuyên môn bình quân của các doanh nghiệp may năm 2009 (chỉ là 0,56
năm/người). Như vậy, có thể thấy chất lượng vốn nhân lực của Tổng công ty may
10 cao hơn so với mặt bằng chung của các doanh nghiệp may.
2.4.3.3 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực bằng tiêu chí số năm kinh nghiệm
Số năm kinh nghiệm công tác của nhân lực trong Tổng công ty may 10 được
thể hiện ở bảng sau đây :
136
Bảng 2.38 : Người lao động làm việc trong Tổng công ty may 10
vào năm 2010 chia theo số năm kinh nghiệm Đơn vị tính: người
Kinh nghiệm làm việc
trong ngành Dệt May
TT
Vị trí làm việc
Tổng
dưới
5
năm
6 -
10
năm
11 -
15
năm
16 -
20
năm
Trên
20
năm
1 Cán bộ quản lý
217
149
135
66
0
567
2 Cán bộ kỹ thuật may
5
12
8
2
3
30
3 Cán bộ chuyên môn nghiệp vụ khác
162
119
74
49
155
559
158
Tổng cán bộ quản lý, kỹ thuật
1.156
384
280
217
117
Cơ cấu cán bộ quản lý, kỹ thuật (%)
100
13,7
33,2
24,2
18,8
10,1
4 Công nhân may
5.639 1.159 1.469 1.587
912
512
5 Công nhân kỹ thuật khác
695
132
188
131
177
67
Tổng công nhân kỹ thuật
6.334 1.291 1.657 1.718 1.089
579
Cơ cấu công nhân kỹ thuật (%)
100
20,4
26,2
27,1
17,2
9,1
Nguồn : Khảo sát của tác giả, 2011
So sánh số liệu ở bảng 2.38 với số liệu ở bảng 2.20 cho thấy : số lượng công
nhân kỹ thuật có kinh nghiệm công tác dưới 5 năm trong Tổng công ty may 10 là
20,4%, thấp hơn nhiều so với bình quân của 60 doanh nghiệp được khảo sát thể hiện
trong bảng 2.20 là 52,1%. Mặt khác, tỷ lệ công nhân kỹ thuật trong Tổng công ty
may 10 có hơn 20 năm kinh nghiệm công tác chiếm 9,1%, cao hơn mức bình quân
của 60 doanh nghiệp được khảo sát được thể hiện trong bảng 2.20 là 8,2%.
So sánh số liệu ở bảng 2.38 với số liệu ở bảng 2.21 cho thấy : số lượng cán
bộ quản lý, kỹ thuật có kinh nghiệm công tác dưới 5 năm trong Tổng công ty may
10 là 13,7%, thấp hơn nhiều so với bình quân của 60 doanh nghiệp được khảo sát
được thể hiện trong bảng 2.21 là 27,9%. Như vậy, tỷ lệ cán bộ quản lý, kỹ thuật
trong Tổng công ty may 10 có từ 6 năm kinh nghiệm công tác trở lên cao hơn mức
bình quân của 60 doanh nghiệp được khảo sát.
137
Số năm kinh nghiệm của cả đội ngũ công nhân kỹ thuật và cán bộ quản lý,
kỹ thuật cao hơn chứng tỏ chất lượng vốn nhân lực của Tổng công ty may 10 cao
hơn mức bình quân của 60 doanh nghiệp khảo sát.
2.4.3.4 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực bằng tiêu chí thu nhập bình quân
Từ số liệu ở bảng 2.36 và 2.37 có thể tính được tổng vốn nhân lực của Tổng
công ty may 10 vào năm 2010 là :
[(4908 x 12) + (2582 x 9)] + [( 1 x 9) + (8 x 6) + (883 x 4) + (964 x 3) + (889 x 2) +
(3239 x 0,25) + (1456 x 0)] =93.682 năm
Theo khảo sát, thu nhập bình quân năm 2010 của Tổng công ty may 10 là :
2,9 triệu đồng/người/tháng. Với số lượng cán bộ công nhân viên là 7.490 người thì
Tổng quỹ lương của Tổng công ty năm 2010 là :
2.900.000 x 7.490 x 12 = 260.652.000.000 đồng
Từ các số liệu trên, có thể xác định được thu nhập bình quân tính cho 1 đơn
vị vốn nhân lực của Tổng công ty may 10 năm 2010 là :
260.652.000.000 / 93.682 = 2,78 triệu đồng/năm đi học
Số liệu ở bảng 2.22 cho thấy thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn
nhân lực của các doanh nghiệp may năm 2010 là 2,48 triệu đồng/năm đi học. Như
vậy thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của Tổng công ty may 10
năm 2010 cao hơn 12,1% so với toàn ngành may và thể hiện chất lượng vốn nhân
lực của Tổng công ty may 10 cao hơn mức bình quân của các doanh nghiệp may.
2.4.3.5 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực bằng tiêu chí năng suất lao động
Theo khảo sát của tác giả, doanh thu năm 2010 của Tổng công ty may 10 là
1000 tỷ đồng. Căn cứ vào số liệu tổng số năm đi học của người lao động trong Tổng
công ty may 10 vào năm 2010 tính được ở mục 2.4.3.4, có thể xác định được năng
suất lao động tính cho một đơn vị vốn nhân lực của Tổng công ty may 10 như sau :
1000.000.000.000 / 93.682 = 10.670.000 đồng/năm đi học
Số liệu về trình độ văn hoá và trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao
động trong các doanh nghiệp may được khảo sát năm 2011 thể hiện ở bảng sau :
138
Bảng 2.39 : Trình độ văn hoá và trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao
động trong các doanh nghiệp may được khảo sát năm 2010
Trình độ văn
hoá
Trình độ chuyên môn kỹ thuật
TT
Vị trí công tác
Tổng Tiến
sĩ
Thạc
sĩ
Đại
học
Cao
đẳng
Trung
học cơ
sở
Dạy
nghề
ngắn
hạn
Chưa
qua
đào
tạo
Trung
học
phổ
thông
Trung
cấp,
Dạy
nghề
chính
quy
12 1.096 837 1.006 1.097
0
4.049
0
1
4.049 1
2
759 708 1.785 15.918 3.729 12.110 10.789
22.899
Cán bộ quản lý và
chuyên môn nghiệp
vụ (người)
Công nhân kỹ thuật
(người)
3Tổng số (người)
12 1.855 1.545 2.791 17.015 3.729 16.159 10.789
26.948 1
4
6
4
3
2
0,25
0
12
9
9
5
72 7.420 4.635 5.582 4.254
0 193.908 97.101
312.981 9
Số năm đi học
(năm)
Tổng năm đi học
(năm)
Nguồn : Khảo sát của tác giả năm 2011
Số liệu ở bảng 2.39 cho thấy tổng số năm đi học của người lao động trong 60
doanh nghiệp may được khảo sát vào năm 2011 là : 312.981 năm.
Kết quả khảo sát vào năm 2011 cũng cho thấy doanh thu sản xuất kinh doanh
năm 2010 của 60 doanh nghiệp may được khảo sát là : 4.802,303 tỷ đồng
Từ các số liệu trên, có thể xác định được năng suất lao động tính cho một
đơn vị vốn nhân lực của 60 doanh nghiệp may được khảo sát năm 2011 là :
4.802.303.000.000 / 312.981 = 15.343.800 đồng/năm học
Như vậy năng suất lao động bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của
các doanh nghiệp may được khảo sát lớn hơn của Tổng công ty may 10, điều này
chứng tỏ rằng chất lượng vốn nhân lực của Tổng công ty may 10 vào năm 2010
không cao bằng mức bình quân của các doanh nghiệp may được khảo sát.
Tuy vậy, qua phỏng vấn các chuyên gia tại Tổng công ty may 10 có thể thấy
rằng năng suất lao động năm 2010 của Tổng công ty không cao chủ yếu là do trong
năm 2010, Tổng công ty may 10 khai trương 3 đơn vị mới tại 3 tỉnh là : Nhà máy
Veston tại Hải Phòng; Công ty cổ phần May Thiệu đô tại Thanh Hoá và Nhà máy
139
may Bỉm sơn cũng tại Thanh Hoá. Do các đơn vị này mới được thành lập, lao động
làm việc trong công ty là lao động mới nên năng suất lao động chưa cao.
2.4.3.6 Đánh giá chất lượng vốn nhân lực bằng tiêu chí tỷ lệ biến động lao động
Kết quả khảo sát vào năm 2011 cho thấy tỷ lệ biến động lao động của Tổng
công ty may 10 thể hiện trong bảng sau :
Bảng 2.40 Tỷ lệ biến động lao động của Tổng công ty may 10
giai đoạn 2008 - 2010
TT
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
7.116
6.416
6.334
1
Chỉ tiêu
Tổng số lao động của doanh
nghiệp (người)
9,3
9,4
13,2
11,9
14,6
16,8
2 Biến động tăng lao động (%)
3 Biến động giảm lao động (%)
Nguồn : Khảo sát của tác giả, 2011
Số liệu tại bảng 2.40 cho thấy tỷ lệ biến động lao động của Tổng công ty
may 10 trong giai đoạn 2008 – 2010 vẫn lớn hơn tỷ lệ biến động mong muốn 5%
của các doanh nghiệp may, do đó có thể thấy rằng chất lượng vốn nhân lực của
Tổng công ty may 10 vẫn chưa đáp ứng được mong muốn của các nhà quản lý. Tuy
nhiên, so sánh tỷ lệ biến động lao động của Tổng công ty may 10 với tỷ lệ biến
động lao động của các doanh nghiệp may được khảo sát thể hiện trong bảng 2.32 thì
có thể thấy rằng Tổng công ty may 10 có mức biến động lao động nhỏ hơn. Ngay
trong năm 2010, biến động giảm lao động của Tổng công ty may 10 chỉ là 16,8%
trong khi biến động giảm lao động của các doanh nghiệp may được khảo sát là
26,2%. Điều này chứng tỏ chất lượng vốn nhân lực của Tổng công ty may 10 cao
hơn chất lượng vốn nhân lực bình quân của các doanh nghiệp may được khảo sát.
2.5 Đánh giá chung về chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may
Có thể khái quát hoá kết quả nghiên cứu thực trạng chất lượng vốn nhân lực
của các doanh nghiệp may Việt Nam như sau: Chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may Việt Nam rất thấp và nguyên nhân là do chịu sự tác động trái
chiều của các yếu tố đào tạo tại các cơ sở đào tạo chính quy và đào tạo tại doanh
nghiệp; yếu tố quản trị doanh nghiệp trong nội tại doanh nghiệp may; nhu cầu vốn
nhân lực của doanh nghiệp may; hoàn cảnh gia đình của người lao động làm việc
140
trong doanh nghiệp may; nhân khẩu học của người lao động làm việc trong doanh
nghiệp may và chính sách của Chính phủ cũng như một số đơn vị như Hiệp Hội Dệt
May Việt Nam, Tập đoàn Dệt May Việt Nam tác động đến các doanh nghiệp may.
Trong khâu tạo vốn nhân lực cho các doanh nghiệp may Việt Nam tại các
trường chính quy, việc xác định nhu cầu đào tạo được làm chưa tốt, chưa xác định
được nhu cầu các loại nhân lực phục vụ cho chiến lược chuyển dần từ sản xuất gia
công sang sản xuất theo phương thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm cũng như
nhu cầu đào tạo nguồn lao động tại nông thôn để cung cấp lao động trực tiếp cho
các dây chuyền sản xuất; trình độ đội ngũ giảng viên giảng dạy chuyên ngành may
trong các trường chính quy thấp hơn mặt bằng trình độ chung của hệ thống giảng
viên các trường chính quy; trình độ sinh viên đầu vào học ngành công nghệ may
thấp hơn so với mặt bằng trình độ chung của thí sinh dự thi đại học do sinh viên học
ngành công nghệ may chủ yếu xuất thân từ vùng nông thôn hoặc miền núi, chịu tác
động của yếu tố nhân khẩu học và hoàn cảnh gia đình nên điều kiện học tập ở bậc
phổ thông, thu nhập của bố mẹ cũng như vốn nhân lực của bố mẹ thấp hơn ở thành
thị vì thế không thể giúp những người con có vốn nhân lực cao như học sinh thành
thị; tỷ lệ sinh viên/giảng viên trong các cơ sở đào tạo lớn là nguyên nhân dẫn đến
giảng viên phải giảng dạy nhiều, ít thời gian chuẩn bị tốt cho các bài giảng dẫn đến
chất lượng đào tạo không cao; các chương trình đào tạo cho cán bộ quản lý chưa
mang đặc thù riêng cho ngành công nghiệp may, chương trình đào tạo cán bộ kỹ
thuật còn nặng về lý thuyết, chưa có chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu nhân
lực triển khai sản xuất hàng mua nguyên liệu, bán thành phẩm nên vốn nhân lực thu
nhận được chưa phù hợp với nhu cầu vốn nhân lực của các doanh nghiệp may; chưa
có giải pháp tạo nguồn sản phẩm thực hành trong đào tạo công nhân kỹ thuật cũng
như tạo môi trường thực tập thường xuyên cho đào tạo cán bộ quản lý và kỹ thuật
nên chất lượng đào tạo bị hạn chế. Bên cạnh đó, hầu hết doanh nghiệp may không
có bộ phận chuyên trách tổ chức đào tạo tại doanh nghiệp; công tác đào tạo công
nhân kỹ thuật tại doanh nghiệp còn mang tính đại trà, nội dung chương trình chưa
mang màu sắc riêng theo nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp, nhà quản trị chưa quan
tâm nhiều đến nâng cao trình độ kỹ năng nghề của công nhân sản xuất trực tiếp nên
đội ngũ này có trình độ bậc thợ thấp; hơn nữa, các doanh nghiệp may rất ít tạo điều
141
kiện cho người lao động được đi học chính quy và doanh nghiệp cũng chưa xác
định được chính xác nhu cầu vốn nhân lực của doanh nghiệp để sản xuất hàng mua
nguyên liệu, bán thành phẩm. Tất cả những tác động trên của yếu tố đào tạo đã làm
giảm chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam.
Các phân tích đều cho thấy yếu tố quản trị doanh nghiệp tác động đến chất
lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may trên nhiều phương diện. Đầu tiên có
thể thấy ngay là nhà quản trị trong doanh nghiệp may chưa có tư duy chiến lược
hợp lý trong việc xác lập chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực có trình độ từ cao đẳng
trở lên để triển khai sản xuất hàng mua nguyên liệu, bán thành phẩm. Tỷ lệ vốn
nhân lực có trình độ từ cao đẳng trở lên thấp chính là cản trở lớn nhất hiện nay đối
với việc triển khai sản xuất theo phương thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm tại
các doanh nghiệp may mặc dù hầu hết các doanh nghiệp đều mong muốn sản xuất
theo phương thức này thay vì tiếp tục sản xuất theo phương thức gia công do thu
được lợi nhuận cao hơn.
Yếu tố quản trị doanh nghiệp còn tác động mạnh đến chất lượng vốn nhân
lực ở hai khía cạnh sau : thứ nhất là nhà quản trị doanh nghiệp không quan tâm đến
việc hình thành những người bán các sản phẩm kiến thức cũng như chưa có những
hiểu biết cần thiết để nâng cấp dữ liệu trong các doanh nghiệp may thành vốn thông
tin. Thứ hai là các nhà quản trị doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc xây dựng các
sản phẩm kiến thức, hoặc không muốn xây dựng các sản phẩm kiến thức vì sợ lộ bí
quyết công nghệ. Cả hai vấn đề trên đều dẫn đến làm giảm quy mô của vốn nhân
lực và do đó không thể nâng cao chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp may
một cách nhanh chóng mặc dù đây là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất hiện
nay và có thể thực hiện ngay với chi phí không lớn.
Chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam thấp có
nguyên nhân quan trọng là biến động lao động trong các doanh nghiệp may rất lớn
do chịu tác động đồng thời của yếu tố nhu cầu vốn nhân lực của doanh nghiệp, yếu
tố quản trị doanh nghiệp, do đó tạo ra mối quan hệ lao động tiêu cực giữa người sử
dụng lao động và người lao động. Cụ thể là nhiều doanh nghiệp may vi phạm quyền
lợi của người lao động trong một thời gian dài dẫn tới bức xúc trong người lao
động; một số nhà quản trị doanh nghiệp may muốn đặt doanh nghiệp tại các đô thị
142
dẫn tới cạnh tranh nhau về lao động; nhiều doanh nghiệp may chỉ muốn sản xuất
theo phương thức gia công để hạn chế rủi ro nhưng phương thức này mang lại thu
nhập cho người lao động thấp và hay phải dãn ca, thêm giờ; một số doanh nghiệp
lớn xác định sai nhu cầu vốn nhân lực nên đã tuyển dụng người lao động có vốn
nhân lực lớn hơn nhu cầu sử dụng và không trả lương cho phần vốn nhân lực lớn
hơn đó, bên cạnh đó cũng có một số doanh nghiệp khác tuyển dụng những người
lao động có vốn nhân lực không phù hợp với nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp.
Một nguyên nhân khác dẫn đến biến động lao động là do tác động của yếu tố nhân
khẩu học. Người lao động trong các doanh nghiệp may còn trẻ, lại làm việc trong
môi trường có thu nhập không cao nên kỳ vọng hoàn vốn nhân lực cao khi tuổi trẻ
không được như mong muốn, vì vậy lao động có kinh nghiệm có xu hướng chuyển
sang làm việc tại các ngành nghề khác có thu nhập cao hơn nên gây ra biến động lao
động. Tất cả những yếu tố trên đã tác động tiêu cực đến quan hệ lao động giữa
doanh nghiệp và người lao động dẫn tới biến động lao động lớn trong các doanh
nghiệp may và làm giảm chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp.
Yếu tố quản trị doanh nghiệp còn ảnh hưởng mạnh đến chất lượng vốn nhân
lực của các doanh nghiệp may dưới giác độ tổ chức sản xuất chưa tốt, bố trí sản
xuất chưa hợp lý để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng vốn nhân lực
của doanh nghiệp may. Cụ thể như sau : hình thức tổ chức hoạt động nhóm chưa đa
dạng, mới chỉ sử dụng hình thức hoạt động nhóm theo “dây chuyền cụm” nên hiệu
ứng lan truyền vốn nhân lực trong doanh nghiệp và nâng cao mức vốn nhân lực
trong doanh nghiệp còn bị hạn chế. Bên cạnh đó, trình độ tổ chức sản xuất trong các
doanh nghiệp may chưa tương xứng với trình độ công nghệ được đầu tư; trong triển
khai sản xuất, chưa có quy trình cải tiến để giảm các lãng phí, nhất là lãng phí về
vốn nhân lực do thao tác thừa, lãng phí do dây chuyền không cân bằng... nên năng
suất lao động thấp. Những tác động trên đã dẫn tới làm giảm chất lượng vốn nhân
lực của các doanh nghiệp may.
Có thể thấy một yếu tố nữa có tác động hết sức quan trọng tới chất lượng vốn
nhân lực của các doanh nghiệp may là chính sách của chính phủ, vai trò của Hiệp
hội Dệt May Việt Nam và Tập đoàn Dệt May Việt Nam. Hiện nay nước ta chưa có
một trường đại học chuyên ngành dệt may để tạo vốn nhân lực chất lượng cao cho
143
ngành dệt may, nhất là vốn nhân lực để triển khai sản xuất theo phương thức mua
nguyên liệu, bán thành phẩm, phương thức FOB ở cấp độ ODM và đây là một thiếu
sót của Chính phủ. Hiệp Hội Dệt May Việt Nam, Tập đoàn Dệt May Việt Nam cũng
chưa có giải pháp phù hợp để giúp các doanh nghiệp may xác định đúng nhu cầu
vốn nhân lực có khả năng triển khai sản xuất theo phương thức mua nguyên liệu,
bán thành phẩm. Nhà nước chưa có chính sách phù hợp, nhất là cơ chế tài chính phù
hợp để các trường chính quy có thể tham gia đào tạo nghề may cho lao động nông
thôn theo quyết định số 1956/QĐ-TTg của Chính phủ nhằm nâng cao mức vốn nhân
lực cho các doanh nghiệp may đóng lại địa bàn nông thôn. Trong một giai đoạn dài,
chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ chưa được thực hiện có hiệu quả dẫn
đến thu nhập thực tế của người lao động bị giảm sút do đó làm giảm chất lượng vốn
nhân lực của các doanh nghiệp may vì tỷ lệ hoàn vốn nhân lực thực tế bị giảm.
Chính phủ, Hiệp hội Dệt May Việt Nam và Tập đoàn Dệt May Việt Nam cũng chưa
có giải pháp hữu hiệu để khuyến khích nhiều doanh nghiệp may tham gia thoả ước
lao động tập thể. Hiệp hội Dệt May Việt Nam chưa thực hiện tốt vai trò liên kết các
doanh nghiệp may với nhau nhằm tạo lợi thế đàm phán về giá gia công với khách
hàng vì vậy thu nhập và tốc độ tăng thu nhập bình quân của các doanh nghiệp may
thấp. Chính phủ chưa tổ chức vận hành có hiệu quả mạng lưới các trung tâm giới
thiệu việc làm tại các tỉnh để có thể giúp người lao động trong các doanh nghiệp
may tìm được công việc phù hợp với vốn nhân lực của bản thân nên chất lượng vốn
nhân lực của các doanh nghiệp may vẫn chưa được nâng cao như ý muốn của các
nhà quản lý.
Tất cả các điểm yếu nêu trên về chất lượng vốn nhân lực của các doanh
nghiệp may Việt Nam kết hợp với các yêu cầu về chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may trong thời kỳ hội nhập đòi hỏi phải có một hệ thống giải pháp
đồng bộ để nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam.
144
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Nội dung chương 2 tập trung chủ yếu vào đánh giá thực trạng quá trình tạo
vốn nhân lực, thực trạng vốn nhân lực và chất lượng vốn nhân lực của các doanh
nghiệp may Việt Nam. Chương hai đã giải quyết được một số vấn đề sau đây :
- Đánh giá thực trạng quá trình tạo vốn nhân lực chuyên môn của các doanh
nghiệp may bao gồm : đánh giá quá trình tạo vốn nhân lực của đội ngũ cán bộ quản
lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật tại các trường đào tạo chính quy và tại các
cơ sở đào tạo khác như các trung tâm dạy nghề, các doanh nghiệp. Trong quá trình
đánh giá đã nêu bật được các ưu điểm và nhược điểm trong quá trình tạo vốn nhân
lực của các doanh nghiệp may.
- Trong chương 2 đã tiến hành đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may Việt Nam theo 07 tiêu chí bao gồm : Đầu tư tài chính cho giáo
dục, số năm đi học, số năm kinh nghiệm, thu nhập bình quân, tốc độ tăng thu nhập,
năng suất lao động và tỷ lệ biến động lao động. Trong quá trình đánh giá chất lượng
vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam, chương 2 đã chỉ rõ những tiêu
chí mà chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may được đánh giá là tốt và
chưa tốt, làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng vốn nhân lực để từ đó tìm ra
các nguyên nhân dẫn đến thực trạng chất lượng vốn nhân lực hiện tại.
- Trong chương 2, luận án đã lựa chọn một doanh nghiệp may điển hình là
Tổng công ty may 10 và sử dụng các tiêu chí nêu trên để tiến hành đánh giá chất
lượng vốn nhân lực của Tổng công ty may 10. Quá trình đánh giá này nhằm một lần
nữa khẳng định tính đúng đắn khi sử dụng các tiêu chí mà luận án đưa ra trong đánh
giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may, đồng thời minh hoạ hình
ảnh chất lượng vốn nhân lực của một doanh nghiệp may điển hình trong ngành may
mặc Việt Nam hiện nay.
Các đánh giá trên là các tiền đề quan trọng để đề xuất các giải pháp nâng cao
chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may được trình bày trong chương 3.
145
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VỐN
NHÂN LỰC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP MAY
3.1 Quan điểm nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may
Việt Nam
3.1.1 Nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp May về vai trò của vốn nhân lực
và chất lượng vốn nhân lực đối với sự phát triển của doanh nghiệp
Nền kinh tế thế giới đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức, một nền kinh
tế chủ yếu dựa trên tri thức để phát triển. Xu thế tất yếu đó đòi hỏi các doanh nghiệp
may muốn tồn tại và phát triển bền vững, cần phải sản xuất được các sản phẩm có
“hàm lượng trí tuệ” cao. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần quan tâm đúng mức đến
việc đầu tư vào vốn nhân lực sao cho mức vốn nhân lực của doanh nghiệp phù hợp
với chiến lược phát triển và điều cốt lõi là chất lượng vốn nhân lực của các doanh
nghiệp may phải được nâng cao để có đủ khả năng giúp các doanh nghiệp may nâng
cao năng suất lao động và chuyển đổi mạnh mẽ từ phương thức sản xuất gia công
xuất khẩu sang phương thức sản xuất mua nguyên liệu, bán thành phẩm. Đây chính
là tiền đề quan trọng giúp các doanh nghiệp may phát triển bền vững trong thời kỳ
hội nhập, góp phần tích cực thực hiện thành công chiến lược phát triển ngành công
nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến 2020 của Chính phủ.
Chiến lược phát triển Ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam nói chung và
ngành Công nghiệp May nói riêng đã được thể hiện rõ trong quyết định số
36/2008/QĐ-TTg ngày 10/03/2008 của Thủ tướng Chính phủ. Mục tiêu phát triển
được đặt ra cho ngành Dệt May được thể hiện ở biểu sau :
Bảng 3.1 : Mục tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2008 – 2020
Tốc độ tăng trưởng
Giai đoạn 2008-2010
Giai đoạn 2011-2020
- Tăng trưởng sản xuất hàng năm
16 - 18%
12-14%
- Tăng trưởng xuất khẩu hàng năm
20%
15%
Nguồn : [16]
Số liệu ở bảng 3.1 cho thấy Chính phủ đặt ra tốc độ tăng tưởng sản xuất và
tăng trưởng xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam rất cao trong giai đoạn 2011 –
146
2020. Trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011 – 2015, tốc độ tăng
trưởng GDP hàng năm đưa ra trong giai đoạn 2011 – 2015 là 6,5 đến 7,0% trong
khi tăng trưởng sản xuất hàng dệt may giai đoạn 2011 – 2020 yêu cầu từ 12 – 14%,
gấp gần 2 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cả nước
giai đoạn 2011 – 2015 đề ra trong Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hoá giai đoạn
2011 - 2020 chỉ là 12%/năm nhưng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may giai
đoạn 2011 – 2015 đề ra là 15%/năm, gấp 1,25 lần so với tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu của cả nước. Điều này chứng tỏ rằng Chính phủ đặt quyết tâm và kỳ vọng rất
lớn vào sự phát triển bền vững của ngành dệt may Việt Nam.
Có thể nói rằng không chỉ Chính phủ kỳ vọng vào sự phát triển của ngành
dệt may Việt Nam mà bản thân ngành dệt may Việt Nam cũng đặt ra cho mình
những chỉ tiêu phát triển hết sức mạnh mẽ. Kết thúc năm 2012, ngành dệt may Việt
Nam đạt kim ngạch xuất khẩu 17,2 tỷ USD và đứng trong nhóm 5 nước xuất khẩu
hàng dệt may lớn nhất thế giới. Lãnh đạo ngành dệt may Việt Nam đưa ra chỉ tiêu
đến năm 2015, ngành dệt may Việt Nam phải vươn lên vị trí thứ 3 trên thế giới về
xuất khẩu hàng dệt may.
Trong Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2015, định
hướng đến 2020 có đưa ra nhiều chỉ tiêu phát triển cụ thể cho cả lĩnh vực trồng
bông, dệt, sợi…Tuy nhiên, mục tiêu phát triển ngành công nghiệp may là một trong
những mục tiêu lớn thể hiện ở chỉ tiêu tăng trưởng sản phẩm may trong giai đoạn
2010 đến 2020 như sau :
Bảng 3.2 : Mục tiêu phát triển sản phẩm may giai đoạn 2008 – 2020
Mục tiêu toàn ngành đến
Chỉ tiêu Đơn vị tính 2010 2015 2020
Sản phẩm may Triệu SP 1.800 2.850 4.000
Nguồn : [16]
Số liệu ở bảng 3.2 cho thấy quyết tâm của Chính phủ trong việc phát triển
mạnh ngành công nghiệp may mặc trong giai đoạn 2010 – 2020. Số lượng sản phẩm
147
may vào năm 2015 sẽ tăng gấp 1,58 lần so với năm 2010 và số lượng sản phẩm may
vào năm 2020 sẽ tăng gấp 2,22 lần so với năm 2010.
Định hướng lớn trong phát triển ngành công nghiệp may được nêu trong
chiến lược là “Tập trung phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngành may
xuất khẩu để tận dụng cơ hội thị trường. Nâng cao tỷ lệ nội địa hóa để nâng cao
hiệu quả trong sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc. Chú trọng công tác thiết kế
thời trang, tạo ra các sản phẩm dệt may có đặc tính khác biệt cao, từng bước xây
dựng thương hiệu sản phẩm cho các doanh nghiệp. Đẩy nhanh việc áp dụng các tiêu
chuẩn quản lý chất lượng phù hợp với yêu cầu hội nhập trong ngành Dệt May. Tăng
nhanh sản lượng các sản phẩm dệt may, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng
trong nước.”. Định hướng này của Chính phủ đã nêu rõ cần tập trung nâng cao khả
năng cạnh tranh cho ngành may xuất khẩu để tận dụng cơ hội thị trường. Sức cạnh
tranh của ngành may xuất khẩu sẽ được gia tăng nhanh nếu ngành tìm giải pháp
nâng cao chất lượng vốn nhân lực của mình nhằm nâng cao năng suất lao động và
chất lượng sản phẩm đối với lĩnh vực may gia công. Mặt khác, muốn nâng cao giá
trị gia tăng trong các sản phẩm may xuất khẩu cũng như sản phẩm may bán tại thị
trường trong nước thì ngành cần tập trung vào nâng cao chất lượng vốn nhân lực
chuyên môn, nhất là chất lượng vốn nhân lực chuyên môn của lao động có trình độ
từ cao đẳng trở lên của ngành thời trang và quản trị chuyên ngành dệt may, có như
vậy mới có thể thực hiện được định hướng chú trọng công tác thiết kế thời trang
nhằm tạo ra các sản phẩm dệt may có đặc tính khác biệt cao, từng bước xây dựng
thương hiệu sản phẩm cho các doanh nghiệp may.
3.1.2 Nâng cao chất lượng vốn nhân lực trong các doanh nghiệp May phải được
ưu tiên hơn các loại vốn khác
Nguồn vốn được sử dụng cho sản xuất kinh doanh bao gồm vốn hữu hình có
hình thái biểu hiện là tài nguyên, cơ sở vật chất, tiền… và các loại vốn vô hình như :
vốn nhân lực, vốn thông tin…Vốn nhân lực chính là phần cốt lõi của nguồn nhân
lực, là chủ thể sử dụng các loại vốn hữu hình ở dạng vật chất. Vì vậy, vốn hữu hình
có được sử dụng hiệu quả hay không phụ thuộc chủ yếu vào công nghệ được sử
148
dụng trong doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, cơ chế quản lý trong
doanh nghiệp…Tất cả các yếu tố này đều do nguồn nhân lực trong doanh nghiệp
quyết định, hay nói một cách khác là các yếu tố này đều chịu tác động của chất
lượng vốn nhân lực trong doanh nghiệp.
Ngành công nghiệp may Việt Nam là ngành sản xuất có đặc thù yêu cầu tính
thực hành cao, vì vậy kiến thức, kỹ năng của người lao động có ảnh hưởng rất lớn
đến việc sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị trong quá trình sản xuất sản phẩm để
tạo ra năng suất lao động cao. Mặt khác, do sử dụng nhiều lao động nên hàm lượng
lao động chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm may tại Việt Nam hiện nay.
Do đó, nâng cao chất lượng vốn nhân lực trong các doanh nghiệp may phải được ưu
tiên hơn các loại vốn khác nhằm khai thác có hiệu quả vốn vật chất, đồng thời giảm
thiểu những hao phí về vốn nhân lực cho sản xuất để giảm giá thành và nâng cao lợi
nhuận cho doanh nghiệp.
3.1.3 Nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may phải phù hợp
với yêu cầu hội nhập khu vực và thế giới; phù hợp với nhu cầu phát triển của đất
nước cũng như của các doanh nghiệp may.
Các doanh nghiệp may Việt Nam muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế
mang tính toàn cầu hoá như hiện nay thì cần tìm các giải pháp nâng cao chất lượng
vốn nhân lực nhằm góp phần tạo lợi thế cạnh tranh trong một thị trường dệt may thế
giới mang tính cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay. Nhất là khi Việt Nam
nằm cạnh Trung quốc, một nước có nền công nghiệp dệt may phát triển nhất thế
giới và là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam trong khu vực Châu á cũng như
tại tất cả các thị trường quốc tế khác.
Để chiếm được lợi thế trong cạnh tranh, các doanh nghiệp may Việt Nam cần
chú trọng nâng cao chất lượng vốn nhân lực ngang tầm với các nước trong khu vực
và thế giới. Chất lượng vốn nhân lực được nâng cao sẽ giúp các doanh nghiệp May
Việt Nam khai thác được những khâu tạo ra giá trị cao trong chuỗi giá trị toàn cầu
của các sản phẩm dệt may như thiết kế, phát triển thị trường…Đây là điều kiện tiên
149
quyết để ngành công nghiệp may Việt Nam hội nhập thành công vào khu vực và thế
giới.
Nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may cần đảm bảo
hài hoà giữa sự phát triển của các doanh nghiệp may và sự chuyển dịch cơ cấu lao
động của đất nước theo hướng giảm dần lao động trong nông nghiệp và tăng dần lao
động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Một trong những định hướng lớn của
ngành dệt may Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2020 là “Từng bước di dời các cơ
sở sản xuất về các địa phương có nguồn lao động nông nghiệp và thuận lợi giao
thông”. Với định hướng như vậy, Ngành dệt may Việt Nam có vai trò quan trọng
trong tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta từ nông nghiệp
sang công nghiệp và thực hiện chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn của Đảng và Nhà nước.
3.1.4 Nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam phải
được thực hiện đồng bộ từ khâu tạo vốn nhân lực phổ cập, tạo vốn nhân lực chuyên
môn và xác định nhu cầu vốn nhân lực cần thiết đối với sự phát triển toàn diện của
các doanh nghiệp may Việt Nam.
Muốn nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may cần phải
chú trọng từ khâu đào tạo phổ thông, đào tạo chính quy tại các trường chuyên
nghiệp, đào tạo không chính quy và học trong quá trình làm việc tại doanh nghiệp.
Quan điểm này cũng phù hợp với chính sách phát triển nguồn nhân lực Dệt May
của Chính phủ được đặt ra trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp Dệt May
Việt Nam đến 2015, định hướng đến 2020. Chiến lược này đề cập khá nhiều đến
việc tổ chức các khoá học chính quy và bồi dưỡng ngắn hạn cho đội ngũ cán bộ
quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật chuyên ngành dệt may, trong đó có
một giải pháp đáng chú ý là đề xuất thành lập một trường đại học chuyên ngành dệt
may để tạo vốn nhân lực cho ngành dệt may Việt Nam. Nếu trường đại học này
được thành lập sẽ là một tiền đề quan trọng giúp tạo lập một trung tâm đào tạo
chính quy chất lượng cao chuyên ngành dệt may. Đây là yếu tố nền tảng giúp nâng
cao chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp may ngay trong quá trình tạo vốn.
150
Mặt khác, chương trình đào tạo nguồn nhân lực dệt may Việt Nam đến năm
2015, tầm nhìn đến năm 2020 đã được Bộ Công Thương phê duyệt theo quyết định
số 39/2008/QĐ-BCT ngày 23/10/2008. Xét dưới góc độ tạo vốn nhân lực và nâng
cao chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp may, có thể nói rằng chương trình
này là một kế hoạch dài hạn nhằm giúp các doanh nghiệp dệt may nói chung và các
doanh nghiệp may nói riêng tạo dựng được vốn nhân lực chuyên môn có chất lượng
cao, phù hợp với yêu cầu phát triển của các doanh nghiệp dệt may trong giai đoạn
2011 – 2015.
Mức vốn nhân lực của các doanh nghiệp may cần phải được tạo ra sao cho
phù hợp với yêu cầu về mức vốn nhân lực của các doanh nghiệp may trong giai
đoạn từ nay tới 2015 và 2020, có như vậy mới đảm bảo nâng cao chất lượng vốn
nhân lực và đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện của các doanh nghiệp may. Theo
số liệu khảo sát của Tập đoàn Dệt May Việt Nam, nhu cầu lao động công nghiệp
cho ngành dệt may Việt Nam trong giai đoạn 2010 đến 2020 được thể hiện trong
biểu sau đây :
Bảng 3.3 Nhu cầu lao động công nghiệp ngành dệt may giai đoạn 2010-2020
Đơn vị: người
2015 2020
15.100 19.500 Cán bộ quản lý
70.100 93.800 Chuyên môn nghiệp vụ
32.350 44.250 Khối kinh tế
37.750 49.550 Khối kỹ thuật
1.264.800 1.653.700 Công nhân, khác
T(cid:31)ng 1.350.000 1.767.000
Nguồn : [35]
Số liệu ở bảng 3.3 cho thấy nhu cầu lao động công nghiệp cho ngành dệt
may năm 2015 dự kiến là 1.350.000 người, năm 2020 là 1.767.000 người. Theo số
liệu của Tổng cục thống kê, lao động làm việc trong ngành công nghiệp may năm
2009 chiếm 79,2% lao động công nghiệp làm việc trong ngành dệt may và theo dự
151
báo của Tập đoàn Dệt May Việt Nam trong đề tài xác định nhu cầu đào tạo nguồn
nhân lực dệt may Việt Nam giai đoạn 2009 – 2020, tỷ lệ lao động làm việc trong
ngành may sẽ chiếm 81% lao động dệt may vào năm 2015. Như vậy, dự báo số lao
động công nghiệp làm việc trong ngành công nghiệp may vào năm 2015 dự kiến là
1.093.500 người và vào năm 2020 dự kiến là 1.431.270 người.
Với những dự báo ở trên, theo số liệu được nêu trong quyết định số
39/2008/QĐ-BCT, để đạt được mục tiêu 70% lao động dệt may qua đào tạo chính
quy, trong giai đoạn 2008 đến 2020, ngành dệt may cần đào tạo mới cho 1.061.530
người. Trong số nhân lực được đào tạo mới, riêng đội ngũ công nhân kỹ thuật
ngành dệt may cần đào tạo mới 989.800 người trong đó đào tạo chính quy dài hạn là
692.560 người, bình quân mỗi năm cần đào tạo gần 58.000 lao động theo hình thức
đào tạo chính quy. Quyết định này còn nêu rõ trong giai đoạn 2008 – 2020, ngành
dệt may cần bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho 702.670 lao động theo hình thức học
tập ngắn hạn.
3.1.5 Nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may cần phù hợp
với sự tiến bộ của khoa học công nghệ và khoa học quản lý trong ngành công
nghiệp may nhằm tránh lãng phí
Ngành công nghiệp may là ngành có suất đầu tư thấp, chính vì vậy, trong
khoảng 10 năm trở lại đây, đầu tư đổi mới công nghệ trong ngành diễn ra nhanh
chóng. Nếu mức vốn nhân lực của các doanh nghiệp may không theo kịp với sự tiến
bộ của công nghệ trong các doanh nghiệp may thì sẽ dẫn đến không sử dụng hết
năng lực của thiết bị nhằm tạo ra giá trị cho cả doanh nghiệp và người lao động sở
hữu vốn nhân lực và tất yếu gây ra lãng phí nguồn vốn đầu tư. Ngược lại, nếu mức
vốn nhân lực ở mức quá cao trong điều kiện ngành công nghiệp may chủ yếu vẫn
sản xuất kinh doanh theo phương thức gia công là chủ yếu sẽ dẫn đến không sử
dụng hết vốn nhân lực, điều này tất yếu dẫn đến lãng phí nguồn vốn nhân lực. Cả
hai khuynh hướng nêu trên đều cần phải tránh vì nó cho thấy chất lượng vốn nhân
lực trong các doanh nghiệp may thấp do không phù hợp với sự tiến bộ của khoa học
công nghệ và khoa học quản lý trong doanh nghiệp may.
152
3.1.6 Nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may là trách nhiệm
chung của nhà nước, các doanh nghiệp may, các cơ sở đào tạo nhân lực cho ngành
công nghiệp may và chính người lao động làm việc trong ngành công nghiệp may
Muốn nâng cao chất lượng vốn nhân lực, không chỉ riêng các doanh nghiệp
may có thể thực hiện được mà cần có sự hỗ trợ của nhà nước thông qua các chính
sách nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp may hoạt
động. Các doanh nghiệp may Việt Nam là các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động,
tạo ra nhiều việc làm và có đóng góp lớn vào sự thành công của mục tiêu chuyển
dịch kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp. Vì vậy, nhà nước có trách nhiệm
thực thi các chính sách giúp các doanh nghiệp may nâng cao chất lượng vốn nhân
lực, đây là tiền đề quan trọng để các doanh nghiệp may phát triển bền vững trong
thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Vốn nhân lực chỉ được coi là có chất lượng khi mức vốn nhân lực hiện có
của doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu về vốn nhân lực do doanh nghiệp đặt ra. Do
vậy, muốn nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may thì điều
đầu tiên cần phải làm rõ chính là nhu cầu về mức vốn nhân lực của các doanh
nghiệp may. Đây chính là trách nhiệm của các doanh nghiệp may cần nêu rõ nhu
cầu về mức vốn nhân lực của doanh nghiệp, làm cơ sở cho chính doanh nghiệp, các
cơ sở đào tạo và bản thân người lao động có định hướng về mục tiêu tạo vốn nhân
lực cho ngành. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng đóng góp đáng kể vào việc nâng
cao chất lượng vốn nhân lực thông qua đào tạo trong công việc, tạo điều kiện để
người lao động tích luỹ kinh nghiệm trong quá trình tổ chức sản xuất tại doanh
nghiệp.
Muốn có chất lượng vốn nhân lực thì các cơ sở tạo vốn nhân lực thông qua
đào tạo chính quy giữ vai trò nền tảng, nhất là các cơ sở tạo vốn nhân lực chuyên
môn. Các cơ sở đào tạo chính quy giúp tạo vốn nhân lực chuyên môn ban đầu, làm
cơ sở để người lao động mở rộng phạm vi và quy mô vốn nhân lực của bản thân
trong quá trình đào tạo không chính quy và tích luỹ kinh nghiệm sau này. Đây chính
là cơ sở quan trọng để nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
153
Vốn nhân lực thuộc quyền sở hữu của người lao động. Chính bản thân người
lao động chứ không phải doanh nghiệp có thể xác định mục tiêu cần đầu tư vào vốn
nhân lực của mình ở mức nào là hợp lý. Do đó, muốn nâng cao chất lượng vốn
nhân lực của các doanh nghiệp may thì cần giúp người lao động hiểu rõ trách nhiệm
của mình trong việc cùng với doanh nghiệp đóng góp vào quá trình tạo vốn nhân
lực phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp.
3.1.7 Nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may phải gắn liền
với giải quyết hài hoà mối quan hệ lao động trong doanh nghiệp may, nâng cao
quyền lợi, nâng cao điều kiện sống và làm việc của người lao động
Ngành Công nghiệp may Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn sản xuất theo
phương thức gia công xuất khẩu. Thực tế này dẫn đến giờ làm của người lao động
thường bị kéo dài, thu nhập không cao so với các ngành nghề khác. Với đặc điểm
này, người sử dụng lao động cần tìm nhiều giải pháp để giải quyết hài hoà mối quan
hệ lao động giữa người lao động và doanh nghiệp thì mới có thể giảm thiểu tỷ lệ
đình công, tỷ lệ biến động lao động trong các doanh nghiệp may, trên cơ sở đó có
thể nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
Quan niệm người lao động là nhà đầu tư đã thể hiện vai trò chủ động của nhà
đầu tư vào vốn nhân lực hay chính là vai trò của người lao động. Người lao động
chỉ đầu tư vào vốn nhân lực khi xác định được khoản đầu tư đó sẽ được hoàn vốn
trong tương lai. Vì vậy, nâng cao chất lượng vốn nhân lực phải gắn liền với việc tạo
ra tỷ lệ hoàn vốn thích hợp cho người lao động thông qua tăng thu nhập cho một
năm đi học, đây cũng chính là điều kiện tiên quyết để nâng cao điều kiện sống, điều
kiện làm việc cho người lao động. Làm được như vậy mới có thể nâng cao chất
lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may một cách bền vững.
3.2 Một số giải pháp nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may Việt Nam
3.2.1 Nhóm giải pháp hoàn thiện công tác tạo vốn nhân lực nhằm nâng cao chất
lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp May
3.2.1.1 Giải pháp hoàn thiện công tác đào tạo nhân lực tại các cơ sở đào tạo
154
Đào tạo chính quy là yếu tố ảnh hưởng mạnh đến chất lượng vốn nhân lực
của các doanh nghiệp, vì vậy quá trình tạo vốn nhân lực tại các cơ sở đào tạo nhân
lực cho ngành may Việt Nam cần phải được ưu tiên hoàn thiện một số khía cạnh
như sau :
a- Hoàn thiện công tác xác định nhu cầu đào tạo nhân lực ngành may
Nhu cầu sử dụng nhân lực của doanh nghiệp là yếu tố ảnh hưởng lớn tới chất
lượng vốn nhân lực. Về bản chất, nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp chính
là nhu cầu về kiến thức, kỹ năng, thái độ mà người lao động sở hữu sau khi kết thúc
quá trình đào tạo; nhu cầu sử dụng lao động còn thể hiện số lượng người lao động
cần thiết phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp may sở hữu
những kiến thức, kỹ năng và thái độ cần cho doanh nghiệp. Trong khi đó kiến thức,
kỹ năng, thái độ chính là các thành phần cơ bản cấu thành nên vốn nhân lực, vì vậy
có thể thấy rằng nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp có phần nội dung cốt
lõi là nhu cầu về vốn nhân lực mà các trường cần cung cấp cho các doanh nghiệp
may. Vốn nhân lực do các trường tạo ra càng gần với nhu cầu sử dụng của các
doanh nghiệp may thì có nghĩa là chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may đã được nâng cao. Với ý nghĩa đó, việc xác định nhu cầu đào tạo nhân lực cho
các doanh nghiệp may gắn liền với yêu cầu nâng cao chất lượng vốn nhân lực của
các doanh nghiệp may và để làm tốt khâu này, các cở sở đào tạo cần thực hiện tốt
một số giải pháp sau :
+ Các cơ sở đào tạo, nhất là các trường chính quy cần phải căn cứ vào những
quy hoạch cụ thể phát triển ngành may theo chiến lược phát triển ngành dệt may
đến năm 2015. Cần đặc biệt chú ý tới xu hướng chuyển các doanh nghiệp may về
các vùng nông thôn nhằm giải quyết vấn đề thu hút lao động. Như vậy, chắc chắn
rằng nhu cầu đào tạo lao động nông thôn thành công nhân kỹ thuật may sẽ rất lớn và
đây cũng sẽ là những thách thức lớn cho công tác đào tạo nhân lực cho ngành may
trong thời gian tới vì khu vực nông thôn thường là các tỉnh còn nghèo, thu nhập
thấp, trình độ giáo dục cũng thấp, ý thức lao động công nghiệp chưa cao là rào cản
rất lớn trong việc nâng cao chất lượng vốn nhân lực cho ngành may của các trường.
155
+ Việc xác định nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực dệt may cần chú trọng đến
việc xác định kiến thức, kỹ năng, thái độ của những loại nhân lực giúp các doanh
nghiệp may khai thác được giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị toàn cầu của các sản
phẩm may như đã đề cập đến ở trên như nhân lực thiết kế thời trang, xây dựng
thương hiệu, phát triển kênh phân phối, quản trị sản xuất, merchandiser cho ngành
may…Trong điều kiện thực tế của các doanh nghiệp may hiện nay, chủ yếu vẫn sản
xuất theo phương thức gia công và đang có xu hướng chuyển dịch dần sang sản xuất
theo phương thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm thì cần chú trọng tới việc xác
định nhu cầu đào tạo của một loại nhân lực hết sức quan trọng là nhân lực
merchandiser. Đây là loại nhân lực giúp thực hiện việc kết nối chuỗi cung ứng của
các doanh nghiệp may, các nhà sản xuất may mặc trong nước và các kênh phân phối
của các doanh nghiệp may. Loại nhân lực này hiện chưa có cơ sở nào ở Việt Nam
tiến hành đào tạo và đây cũng là loại nhân lực đòi hỏi nhiều kiến thức, kỹ năng và
thái độ có tính tổng hợp cao, giúp nâng cao đáng kể chất lượng vốn nhân lực của
các doanh nghiệp may hiện nay vì đây chính là những kiến thức và kỹ năng mà các
doanh nghiệp may đang rất muốn có để nâng cao giá trị gia tăng cho các sản phẩm
của mình.
b- Nâng cao trình độ và số lượng đội ngũ giảng viên
Trình độ đội ngũ giảng viên là yếu tố quyết định chất lượng đào tạo, tức là
quyết định mức độ kiến thức, kỹ năng, thái độ mà người học đạt được sau khi kết
thúc khoá đào tạo. Chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may phụ thuộc
nhiều vào trình độ đội ngũ giảng viên của các trường đào tạo nhân lực cho ngành
may. Theo số liệu được nêu ở mục 2.2.1.1, so với bình quân toàn hệ thống giáo dục
đại học, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ trở lên của các trường có đào tạo chuyên
ngành may chỉ bằng 42,3% toàn hệ thống; so với yêu cầu tối thiểu về tỷ lệ giảng
viên có trình độ tiến sĩ trở lên của các trường đại học, cao đẳng thì tỷ lệ giảng viên
có trình độ tiến sĩ trở lên của các trường có đào tạo chuyên ngành may chỉ bằng
35,8%. Như vậy, muốn nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay thì cần phải tăng
156
cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên của các cơ sở đào tạo nhân lực chính
quy cho ngành công nghiệp may nhằm nâng tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ lên ít
nhất là ngang bằng với bình quân toàn hệ thống vào năm 2015.
Về số lượng giảng viên giảng dạy trong các trường đào tạo nhân lực cho
ngành may. Một trong những yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo và cũng là yếu tố
đảm bảo chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may là số lượng sinh
viên/giảng viên. Các trường đào tạo nhân lực cho ngành may cần thực hiện đồng bộ
các giải pháp để tăng cường đội ngũ giảng viên nhằm giảm tỷ lệ sinh viên/giảng
viên hiện nay là 39,8 sinh viên/giảng viên xuống bằng quy định của Bộ Giáo dục và
Đào tạo cũng như Bộ Lao động Thương binh Xã hội là 20 học sinh sinh viên/giảng
viên. Tỷ lệ này giảm xuống sẽ giúp giảng viên không phải dạy vượt quá nhiều giờ
so với tiêu chuẩn. Giảng viên có thể đầu tư nhiều thời gian hơn cho công tác nghiên
cứu khoa học, nghiên cứu phương pháp giảng dạy mới, cập nhật công nghệ mới
theo nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp…để truyền đạt và hướng dẫn cho học sinh
sinh viên tiếp cận với những kiến thức, kỹ năng mới. Đây chính là một yếu tố quan
trọng giúp nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
Phân tích cụ thể đối với giảng viên ở từng cấp trình độ, có thể thấy đội ngũ
giảng viên cần được kiện toàn ở các khía cạnh sau đây :
Đối với nhóm giảng viên đào tạo cán bộ kỹ thuật cũng như công nhân kỹ
thuật cho ngành may, ngoài trình độ lý thuyết còn đòi hỏi phải có kỹ năng thực
hành tốt, có như vậy mới có thể đào tạo được đội ngũ nhân lực kỹ thuật và công
nhân có kỹ năng thực hành tốt, nâng cao mức vốn nhân lực của đội ngũ này nhằm
đáp ứng với nhu cầu vốn nhân lực của doanh nghiệp. Điều này trực tiếp làm tăng
chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
Đối với giảng viên ngành thiết kế thời trang, cần thường xuyên được cử đi
bồi dưỡng và cập nhật kiến thức ở nước ngoài, thường xuyên tham gia những cuộc
thi trình diễn thời trang ở trong nước và quốc tế để các giảng viên có cơ hội giao lưu
và tích luỹ thêm những kinh nghiệm tiên tiến về làm thời trang của thế giới, đặc biệt
là tiếp cận với xu thế sản xuất hàng may mặc theo phương thức mua nguyên liệu,
157
bán thành phẩm và mang những kinh nghiệm này vào làm phong phú thêm bài
giảng cho sinh viên ngành thời trang. Điều này sẽ giúp tăng cường các kiến thức, kỹ
năng và thái độ của sinh viên theo chuẩn quốc tế và trực tiếp giúp nâng cao chất
lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
Đối với giảng viên giảng dạy về quản lý cho ngành may, cần cập nhật thêm
những kiến thức cơ bản về chuyên ngành may cũng như tăng cường tham quan,
khảo sát thực tế tại các doanh nghiệp may để có thể tìm hiểu sâu những đặc điểm
riêng của quá trình quản lý trong ngành may cũng như thiết kế được các bài tập thực
hành ứng dụng vào xử lý các tình huống quản lý trong ngành may. Có như vậy thì
học viên mới có thể vận dụng được những kiến thức được học vào nâng cao hiệu
quả quản lý của doanh nghiệp may sau khi kết thúc khoá học.
c- Hoàn thiện chương trình đào tạo
Chương trình đào tạo thể hiện rõ các kiến thức, kỹ năng, thái độ mà người
học cần đạt được sau khóa học. Mặt khác, trong chương trình đào tạo còn thể hiện
rõ các nội dung đào tạo, phương pháp đào tạo cũng như các điều kiện cần thiết để
giúp người học tiếp thu được các kiến thức, kỹ năng và thái độ đã đề ra trong mục
tiêu đào tạo. Như vậy, chương trình đào tạo chính là bản kế hoạch đặt ra để tăng
cường mức vốn nhân lực cũng như nâng cao chất lượng vốn nhân lực cho những
người tham gia học tập theo chương trình đào tạo này. Với ý nghĩa đó, việc cải tiến
chương trình đào tạo trong các trường chính quy đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc tạo dựng vốn nhân lực và nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may.
Đối với các chương trình đào tạo cán bộ quản lý : các chương trình đào tạo
cán bộ quản lý cho ngành may cần phải được xây dựng có tính đến những đặc thù
riêng của ngành may. Đối với cán bộ quản lý cấp cao và cấp trung làm việc tại các
phòng ban thì nên xây dựng các chương trình đào tạo ngắn hạn để cập nhật thêm
những kiến thức về quản lý chuyên sâu của ngành may như : quản lý doanh nghiệp
may, quản lý chất lượng trong ngành may, marketing sản phẩm may mặc…Đối với
công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý cấp trung nhưng làm việc trực tiếp tại các phân
158
xưởng may hoặc cán bộ quản lý cấp cơ sở như tổ trưởng các tổ sản xuất hàng may
mặc thì khi xây dựng chương trình bồi dưỡng cần chú ý đưa nhiều nội dung quản lý
cụ thể của ngành may vào như : quản lý lương sản phẩm trong dây chuyền may,
quản lý năng suất trong dây chuyền may, quản lý thiết bị trong dây chuyền may…
Đối với chương trình đào tạo cán bộ kỹ thuật công nghệ may, cần chú ý tăng
cường thời lượng thực hành vì ngành may là ngành có tính thực hành cao. Để đảm
bảo tăng cường thời lượng thực hành một cách có hiệu quả, các cơ sở đào tạo cần
chuẩn bị tốt sản phẩm cho sinh viên thực hành bằng một số giải pháp như nhận
hàng trực tiếp từ thị trường cho sinh viên thực tập hoặc tự thiết kế sản phẩm, tự mua
vật tư để sản xuất và bán hàng
Đối với chương trình đào tạo cán bộ kỹ thuật thiết kế thời trang : các trường
cần chú ý tăng cường các môn học như thiết kế vải, kỹ thuật may, thiết kế mẫu, thiết
kế chuyển cỡ... cho sinh viên để họ có khả năng thiết kế và thể hiện một cách
chuyên nghiệp các tác phẩm của mình. Do điều kiện ngành dệt của Việt Nam chưa
phát triển nên trong chương trình đào tạo, cần thiết thêm vào các nội dung để cung
cấp cho sinh viên cách thức khai thác chuỗi cung ứng nguyên liệu phục vụ cho thiết
kế thời trang. Mặt khác, trong chương trình đào tạo cử nhân thời trang cần đưa thêm
vào các nội dung định hướng thị trường như : nghiên cứu thị trường thời trang, quản
trị sản xuất hàng thời trang…để giúp sinh viên có khả năng sáng tác được các trang
phục thời trang có khả năng thương mại hoá cao.
Đối với các chương trình đào tạo nghề may, cần chú ý đưa vào những nội
dung liên quan đến rèn luyện kỹ năng sử dụng các thiết bị hiện đại trong ngành may
như : máy may một kim điện tử cắt chỉ tự động, máy may hai kim điện tử, máy
thùa khuyết điện tử, máy đính cúc điện tử, máy di bọ điện tử…. Ngoài ra, trong
chương trình, cần nghiên cứu để đưa ra những tiêu thức đánh giá năng suất của học
sinh sinh viên trong quá trình thực hành, không chỉ quan tâm đến chất lượng sản
phẩm, điều này sẽ giúp giảng viên có cơ sở rèn luyện tác phong công nghiệp cho
học sinh sinh viên trong quá trình đào tạo. Các nội dung trên đều trực tiếp giúp tăng
cường vốn nhân lực của học sinh sinh viên sao cho sát với nhu cầu vốn nhân lực của
159
doanh nghiệp, điều này đóng góp tích cực vào nâng cao chất lượng vốn nhân lực
của các doanh nghiệp may.
d- Nâng cao chất lượng tuyển sinh đầu vào
Vốn nhân lực nói chung và vốn nhân lực của các doanh nghiệp may nói riêng
đều bao gồm vốn nhân lực phổ cập và vốn nhân lực chuyên môn. Để nâng cao chất
lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may thì cần chú trọng nâng cao chất
lượng của cả vốn nhân lực phổ cập và vốn nhân lực chuyên môn. Theo chủ trương
đề ra trong chương trình đào tạo nguồn nhân lực dệt may đến 2015, tầm nhìn đến
2020 cũng như qua khảo sát thực tế tại các doanh nghiệp may, có thể thấy rằng các
doanh nghiệp may có nhu cầu tuyển dụng người lao động sở hữu vốn nhân lực phổ
cập tối thiểu là 9 năm, tức là người lao động phải tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên,
tránh tuyển sinh đào tạo các đối tượng mới tốt nghiệp tiểu học, kể cả đối tượng
tuyển sinh đào tạo ngắn hạn. Trong tình hình hiện nay, việc tuyển sinh để đào tạo
chính quy hay ngắn hạn các đối tượng tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên tương đối
thuận lợi. Theo báo cáo tổng kết năm học 2009 – 2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo,
tính đến ngày 30/06/2010, toàn bộ 63 tỉnh và thành phố trong cả nước đã hoàn
thành mục tiêu phổ cập giáo dục trung học cơ sở, tỷ lệ đơn vị cấp xã đạt chuẩn phổ
cập giáo dục trung học cơ sở là 10.338/10.344.
Để nâng cao chất lượng vốn nhân lực chuyên môn thông qua việc nâng cao
chất lượng tuyển sinh đầu vào của các đối tượng học chuyên ngành may bậc đại học,
cao đẳng, dạy nghề chính quy, cần chú trọng một số giải pháp sau đây :
+ Về phía các trường đào tạo : hiện nay, tỷ trọng giá trị gia tăng trong các
sản phẩm may đang ngày càng tăng lên, sự kết hợp của ngành công nghiệp may và
công nghiệp thời trang sẽ tạo ra diện mạo mới cho ngành công nghiệp may Việt
Nam với mức thu nhập cao hơn, giờ làm đúng chế độ. Vì vậy, với vai trò là các cơ
sở giáo dục, các trường đào tạo cần có chiến lược tiếp cận với các trường trung học
cơ sở, trung học phổ thông, nhất là những trường đóng trên địa bàn các khu công
nghiệp dệt may, khu vực nông thôn có nhiều doanh nghiệp may để tuyên truyền,
thực hiện các hoạt động hướng nghiệp nhằm giải thích cho người học, phụ huynh
160
học sinh và cả xã hội hiểu về thực trạng ngành công nghiệp may mặc hiện nay nhằm
dần thay đổi nhận thức của một số học sinh, phụ huynh học sinh về một ngành may
luôn phải dãn ca, thêm giờ và thu nhập không cao. Có như vậy thì các trường mới
có khả năng thu hút học sinh, sinh viên khá giỏi vào học tập chuyên ngành may
nhằm nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
+ Về phía các doanh nghiệp may : cần tìm các giải pháp về đầu tư, chiến
lược nguồn hàng, tối ưu hoá nguồn nhân lực…để tăng năng suất lao động, tăng
cường tỷ trọng hàng sản xuất theo phương thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm
nhằm tăng thu nhập của lao động ngành may, giảm giờ làm việc xuống không quá 8
giờ/ngày. Như vậy sẽ tạo sức hấp dẫn về chỗ làm việc sau tốt nghiệp nhằm thu hút
các học sinh khá, giỏi đăng ký học chuyên ngành may. Các giải pháp trên sẽ giúp
tuyển được các học sinh có trình độ khá ở đầu vào, góp phần tạo ra mức vốn nhân
lực cao ở đầu ra theo nhu cầu của doanh nghiệp may, đến lượt mình, mức vốn nhân
lực cao ở đầu ra lại giúp các doanh nghiệp may tạo ra năng suất lao động cao, thu
nhập cao, sức hấp dẫn của ngành công nghiệp may cao để thu hút học sinh khá, giỏi
ở đầu vào. Vòng luân chuyển như trên sẽ giúp nâng cao chất lượng vốn nhân lực
của các doanh nghiệp may do nâng cao được trình độ nhận thức của học sinh sinh
viên ở đầu vào.
e- Xây dựng mô hình doanh nghiệp loại vừa trong trường
Đây là một mô hình đào tạo gắn với sản xuất có rất nhiều ưu điểm, nhất là
đối với những ngành nghề kỹ thuật mang tính thực hành cao như ngành công nghiệp
may. Doanh nghiệp trong trường sẽ giải quyết được nhiều vấn đề lớn cho đào tạo
như sau :
- Nguồn sản phẩm cho học tập được lấy từ chính các sản phẩm xuất khẩu
đang được sản xuất thực tế tại công ty. Vì vậy, trường tiết kiệm được chi phí để
mua vật tư cho học sinh sinh viên học tập. Mặt khác, các sản phẩm đưa vào học tập
đều là sản phẩm xuất khẩu, yêu cầu chất lượng cao và có khách hàng quốc tế kiểm
tra hàng ngày, do đó học sinh sinh viên khi thực hành, thực tập bằng những sản
phẩm này thường có tính nghiêm túc cao trong rèn luyện kỹ năng, tác phong công
161
nghiệp. Như vậy, việc thực hành, thực tập bằng hàng xuất khẩu đã giúp học sinh
sinh viên nâng cao mức vốn nhân lực của mình phù hợp với nhu cầu về vốn nhân
lực của doanh nghiệp và sinh viên có thể tiếp cận được ngay với sản xuất tại các
doanh nghiệp sau khi tốt nghiệp. Điều này giúp nâng cao nhanh chóng chất lượng
vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
- Ngoài bộ phận công nhân kỹ thuật trực tiếp sản xuất, các cán bộ kỹ thuật
chuyên ngành may cũng được thực tập triển khai các công việc kỹ thuật như : thiết
kế dây chuyền, viết tài liệu hướng dẫn sản xuất, giác sơ đồ, thiết kế chuyển cỡ, may
mẫu đối…bằng chính các tài liệu kỹ thuật và sản phẩm mẫu đang được sản xuất tại
công ty của trường. Vì vậy, kiến thức, kỹ năng và thái độ của đội ngũ cán bộ kỹ
thuật ngành may sẽ được nâng cao, điều này sẽ giúp nâng cao mức vốn nhân lực
cũng như chất lượng vốn nhân lực chuyên môn của cán bộ kỹ thuật của các doanh
nghiệp may ngay khi lực lượng này còn đang học tập tại nhà trường.
3.2.1.2 Giải pháp hoàn thiện công tác đào tạo nhân lực tại các doanh nghiệp may
a- Củng cố bộ máy quản lý đào tạo nguồn nhân lực tại doanh nghiệp may
Có thể nói rằng, công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực bao giờ cũng
bắt đầu từ việc xác định nhu cầu nguồn nhân lực mà muốn tổng hợp chính xác nhu
cầu này thì phải xuất phát từ doanh nghiệp. Chính vì lý do này mà các doanh nghiệp
cần phải có bộ máy quản lý đào tạo một cách chuyên nghiệp để có thể xác định
được chính xác nhu cầu đào tạo của doanh nghiệp, từ đó xây dựng được chiến lược
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với doanh nghiệp mình. Bộ phận phụ
trách đào tạo phải bao gồm những cán bộ được huấn luyện chuyên nghiệp về công
tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, đồng thời bộ phận này cần thường xuyên
liên hệ với các cơ sở đào tạo để cung cấp cho các cơ sở này các kiến thức và kỹ
năng mới phát sinh tại doanh nghiệp cũng như tiếp nhận những thông tin về công
tác đào tạo của các trường làm căn cứ cho công tác tuyển dụng nhân lực vào những
vị trí còn thiếu trong doanh nghiệp.
Với việc củng cố bộ máy quản lý đào tạo nguồn nhân lực như đã nêu ở trên,
doanh nghiệp sẽ luôn luôn có dữ liệu về các kiến thức, kỹ năng, thái độ và kinh
162
nghiệm mà doanh nghiệp cần ở người lao động trong hiện tại cũng như trong tương
lai, nghĩa là doanh nghiệp luôn có dữ liệu về vốn nhân lực mà mình cần. Những dữ
liệu này được cung cấp đầy đủ cho các cơ sở đào tạo sẽ giúp các cơ sở này đào tạo
người lao động có mức vốn nhân lực phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp, tức là
chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may sẽ được nâng cao ngay từ trong
quá trình tạo vốn.
b- Nâng cao chất lượng đào tạo trong công việc tại các doanh nghiệp may
Đào tạo trong công việc là một trong những khâu quan trọng trong quá trình
tạo vốn nhân lực cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp may nói riêng.
Hiện nay, do thiếu lao động, do sự biến động lớn về lao động cũng như do nhu cầu
bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho công nhân mới, hầu hết các doanh nghiệp vừa và
lớn đều tổ chức đào tạo công nhân kỹ thuật ngắn hạn. Để hoạt động này có hiệu quả,
nâng cao được chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may thì các doanh
nghiệp cần chú trọng một số vấn đề sau :
- Tiến hành phân tích nghề may đối với các sản phẩm đặc thù mà doanh
nghiệp thường xuyên sản xuất. Việc phân tích nghề được tiến hành như sau:
+ Phương pháp phân tích nghề : Phương pháp phân tích nghề nên dùng là
phương pháp DACUM. Triết lý cơ bản của phương pháp DACUM là :
• Những người lao động lành nghề là những người có thể mô tả và xác định
nghề của họ chính xác hơn bất kỳ ai khác.
• Cách có hiệu quả để xác định một nghề là mô tả chính xác những công việc
mà những người lao động lành nghề đang thực hiện.
• Tất cả những công việc được thực hiện một cách chính xác sẽ dẫn đến
những kiến thức, kỹ năng và thái độ của người lao động khi hành nghề.
+ Các bước tiến hành phân tích nghề may tại một doanh nghiệp cụ thể nên
thực hiện như sau :
• Thứ nhất : xác định các nhiệm vụ của nghề may tại doanh nghiệp: nhiệm
vụ của nghề được hiểu là những phần việc, nhiệm vụ chuyên môn nghiệp vụ của
nghề đang được thực hiện tại doanh nghiệp. Một nhiệm vụ thường bao gồm từ 6- 20
163
công việc. Một nghề có thể có nhiều cách để phân ra các nhiệm vụ khác nhau,
nhưng theo kinh nghiệm thì mỗi nghề thường có từ 8 - 12 nhiệm vụ.
• Thứ hai : xác định các công việc phải thực hiện trong từng nhiệm vụ của
nghề : Công việc được hiểu là một đơn vị độc lập có ý nghĩa trong nghề, không phụ
thuộc vào một nhiệm vụ hay công việc nào khác. Sau khi xác định được các nhiệm
vụ và các công việc của nghề may được thực hiện tại doanh nghiệp, nên lập bảng
phân tích nghề theo sơ đồ sau :
Bảng 3.4 : Bảng phân tích nghề may tại doanh nghiệp
CÁC NHIỆM VỤ
CÁC CÔNG VIỆC
A-…………
A1-… A2-
A6-…
A7-…
A8-…
A3-
A4-
A5-
…
…
…
…
B3-
B4-
B5-
B2-
B-
B1-
B6-
B7-
B8-
………………….
………
……
……
……
……
……
……
……
C-
C1-
C2-
C3-
C4-
C5-
C6-
C7-
……….
………………….
………
……
……
……
……
……
……
D-
D1-
D2-
D3-
D4-
D5-
………. ………. ……..
…………………
………
……
……
……
……
Nguồn : [12]
• Thứ ba : đánh giá mức độ quan trọng của các nhiệm vụ và công việc theo
phương pháp lượng hoá bằng điểm : Đây là một ưu điểm rất quan trọng của kỹ
thuật DACUM, nó có ý nghĩa quan trọng đối với việc lựa chọn nội dung đào tạo.
Độ quan trọng của mỗi nhiệm vụ và công việc được đánh giá theo 3 tiêu chí:
o Mức độ thường xuyên lặp đi lặp lại của công việc
o Mức độ khó khăn khi thực hiện công việc
o Mức độ trầm trọng của sai lầm khi phạm phải
Mỗi tiêu chí được đánh giá theo thang bậc 5 điểm, trong đó có mức độ tăng
dần từ điểm 1 tới điểm 5.
• Thứ tư : phân tích công việc : quá trình phân tích công việc nên giao cho
các cán bộ kỹ thuật trực tiếp dạy thực hành nghề thực hiện, có sự tham gia góp ý
164
của các chuyên gia trong và ngoài doanh nghiệp. Kết quả phân tích chi tiết các công
việc được thể hiện trong các phiếu phân tích công việc và được tập hợp trong bảng
phân tích công việc như sau :
Bảng 3.5 : Bảng phân tích công việc nghề may
Kiến thức
cần có
Kỹ năng
cần có
Thái độ
cần có
Tiêu chuẩn
thực hiện
Các bước
thực hiện
công việc
(Trong phần
này nêu các
kiến thức cần
thiết để thực
hiện
mỗi
bước)
(Trong
phần này
nêu các kỹ
năng cần
thiết
để
thực hiện
mỗi bước)
(Trong
phần này
các
nêu
độ
thái
cần
thiết
thực
khi
hiện mỗi
bước)
Các quyết
định, tín
hiệu, và lỗi
thường gặp
(Trong phần
này nêu các
quyết định,
tín hiệu và
lỗi
thường
gặp khi thực
hiện
bước
đó.)
(Trong
này
phần
khái
ghi
quát
về
công việc
và các bước
thực
hiện
công việc;
rõ,
ghi
ngắn
gọn
và bắt đầu
bằng một
từ chỉ hành
động)
(Trong phần
này ghi rõ
các đặc tính
phẩm
sản
như:
độ
chính xác,
hình dáng,
thẩm mỹ...
các
hoặc
yêu cầu về
chất
lượng
phẩm;
sản
gian
thời
thực
hiện
nếu thấy cần
thiết và có
thể được...)
Dụng cụ,
trang bị,
vật liệu để
thực hiện
(Trong phần
này nêu rõ
tất cả các tài
liệu kỹ thuật
như sổ tay,
phiếu công
các
nghệ,
thiết
bị,
cụ,
công
nguyên vật
liệu và các
cầu
yêu
khác cần có
để thực hiện
công việc;
nêu rõ đặc
tính kỹ thuật
của một số
trang
thiết
bị nếu cần
thiết)
Nguồn : [12]
- Với kết quả thu được là bảng phân tích công việc nêu trên, doanh nghiệp đã
chỉ rõ được các kiến thức, kỹ năng, thái độ ở từng công việc mà người công nhân kỹ
thuật phải có khi làm việc tại doanh nghiệp. Đây là một trong những cơ sở quan
trọng để tạo vốn nhân lực cho các doanh nghiệp may phù hợp với yêu cầu về vốn
nhân lực của doanh nghiệp thông qua việc tổ chức các khoá đào tạo công nhân kỹ
thuật ngắn hạn. Khi xuất hiện nhu cầu bồi dưỡng hoặc kèm cặp cho một nhóm nhân
165
lực nào đó về một hoặc một số công việc cụ thể của nghề. Người thợ cả hoặc cán bộ
quản lý, cán bộ kỹ thuật được giao nhiệm vụ giảng dạy sẽ căn cứ vào bảng phân tích
công việc để tìm kiếm các công việc cần bồi dưỡng cho người lao động. Các công
việc này có thể nằm chung trong một nhiệm vụ hoặc nằm rải rác trong nhiều nhiệm
vụ khác nhau. Sau khi tìm kiếm đủ các nhiệm vụ, người giảng viên sẽ căn cứ kết
quả phân tích công việc để tổng hợp các kiến thức, kỹ năng, thái độ cần phải bồi
dưỡng thêm cho những lao động có nhu cầu. Từ đó xây dựng được chương trình bồi
dưỡng, kèm cặp cho đội ngũ nhân lực có nhu cầu.
c- Tạo điều kiện về tài chính, thời gian cho người lao động tham gia các khoá học
để nâng cao trình độ chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng vốn nhân lực
Muốn nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động thì một trong những
giải pháp hữu hiệu là doanh nghiệp may cần xác định đúng nhu cầu vốn nhân lực
của doanh nghiệp và công khai cho người lao động trong doanh nghiệp biết thông
tin về các nhu cầu vốn nhân lực của doanh nghiệp, nhất là nhu cầu vốn nhân lực
phục vụ chiến lược sản xuất hàng mua nguyên liệu, bán thành phẩm cũng như khả
năng hoàn vốn nhân lực của người lao động sau quá trình đầu tư vào vốn nhân lực
của bản thân. Với phương thức như trên sẽ phát huy được vai trò chủ động của nhà
đầu tư vốn nhân lực trong việc tự đầu tư vào vốn nhân lực của bản thân đúng với
nhu cầu của doanh nghiệp, như vậy sẽ nâng cao được chất lượng vốn nhân lực của
các doanh nghiệp may.
Theo lý thuyết về chia sẻ đầu tư vào vốn nhân lực chuyên môn của Becker
được trình bày trong mục 1.2.2.2, doanh nghiệp may cũng cần phải tạo điều kiện hỗ
trợ một phần về thời gian và tài chính cho người lao động được cử đi học. Việc đầu
tư vào vốn nhân lực chuyên môn của người lao động sẽ mang lại lợi ích cho cả
người lao động và doanh nghiệp, nhất là vốn nhân lực ở bậc cao đẳng và đại học sẽ
giúp doanh nghiệp may chuyển dần sang phương thức sản xuất mua nguyên liệu,
bán thành phẩm, nâng cao chất lượng vốn nhân lực của bản thân người lao động và
của cả doanh nghiệp may.
d- Hoàn thiện công tác xác định nhu cầu vốn nhân lực tại doanh nghiệp
166
Trong quá trình doanh nghiệp may xác định nhu cầu vốn nhân lực phục vụ
cho quá trình sản xuất theo dây chuyền, cần chú ý xác định đúng tỷ lệ nhân lực lành
nghề trong các dây chuyền căn cứ vào loại sản phẩm mà dây chuyền sản xuất. Tỷ lệ
hợp lý của nhân lực lành nghề trong một dây chuyền là khoảng 20 – 25% tuỳ từng
loại sản phẩm. Nếu xác định tỷ lệ nhân lực lành nghề quá cao sẽ diễn ra tình trạng
không sử dụng hết vốn nhân lực của người lao động, nhiều kỹ năng của người lao
động không được trả lương, thu nhập của người lao động có mức vốn nhân lực cao
sẽ thấp hơn kỳ vọng và tất yếu dẫn đến biến động lao động lớn, chất lượng vốn
nhân lực thấp.
Ngành công nghiệp may là ngành có tính thực hành cao vì vậy khi xác định
nhu cầu vốn nhân lực của công nhân trực tiếp sản xuất, cần đề cao đức tính tỷ mỉ,
cẩn thận. Đây là những đức tính có mức độ ảnh hưởng lớn tới sự thích nghi của
người lao động với công việc được giao sau này. Nhu cầu về tính tỷ mỉ, cẩn thận
của người lao động được coi trọng sẽ giúp doanh nghiệp may tuyển dụng, đào tạo
được đúng đối tượng có tiềm năng làm việc lâu dài tại doanh nghiệp, giảm thiểu
biến động lao động do người lao động không thích nghi được với kỹ thuật sản xuất
của ngành công nghiệp may và giúp nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may.
3.2.2 Xác lập chiến lược đầu tư tối ưu vào vốn nhân lực để nâng cao năng suất
lao động và chuyển đổi dần từ phương thức sản xuất gia công sang phương thức
sản xuất mua nguyên liệu, bán thành phẩm nhằm nâng cao chất lượng vốn nhân
lực của các doanh nghiệp may
Như đã trình bày trong mục 2.1, phần lớn các doanh nghiệp may Việt Nam là
doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp lớn chiếm tỷ trọng nhỏ. Vì vậy, khả năng
về vốn, khả năng về công nghệ cũng như khả năng đầu tư vào vốn nhân lực có rất
nhiều hạn chế. Trong điều kiện như vậy, các doanh nghiệp may cần xác định cho
mình một chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực sao cho tối ưu nhất, tức là đạt được
chất lượng vốn nhân lực tốt nhất trong điều kiện hạn chế về nguồn lực tài chính. Để
167
thực hiện tốt vấn đề này, các doanh nghiệp may nên chú trọng một số vấn đề sau
đây :
- Đối với các doanh nghiệp lớn, khả năng tài chính tương đối tốt nên sử dụng
chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực khi còn có lợi nhuận. Doanh nghiệp may lớn tại
Việt Nam hiện nay là các doanh nghiệp có xu hướng tăng dần tỷ trọng hàng mua
nguyên liệu, bán thành phẩm trong tỷ trọng doanh thu sản xuất của doanh nghiệp.
Muốn thực hiện tốt công việc này, các doanh nghiệp may lớn cần tập trung đẩy
mạnh việc đầu tư vào vốn nhân lực chuyên môn của một số loại nhân lực đặc thù
như thiết kế thời trang, phát triển thị trường, merchandiser …Để xác định được tỷ
suất hoàn vốn đầu tư vào vốn nhân lực theo chiến lược này, các doanh nghiệp may
cần theo dõi đầy đủ các chi phí liên quan đến vấn đề tuyển dụng, đào tạo, trả lương,
phúc lợi …cho những người lao động ở trình độ cao này. So sánh các chi phí đó với
lợi ích thu được từ sản xuất kinh doanh để đánh giá chính xác tỷ suất hoàn vốn đầu
tư. Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu sâu hơn để lượng hoá đối với các doanh
nghiệp may trong giai đoạn tới đây.
- Đối với các doanh nghiệp may vừa và nhỏ, tiềm lực tài chính hạn chế,
thường có xu hướng chọn một chiến lược sản xuất kinh doanh ít gặp rủi ro, đó là
chiến lược sản xuất hàng gia công. Theo chiến lược này, doanh nghiệp sẽ cần đầu tư
vào vốn nhân lực để tăng năng suất lao động nhằm tăng cường sức cạnh tranh của
các doanh nghiệp may. Hiện nay, các doanh nghiệp may có quy mô vừa và nhỏ hầu
hết đều tiến hành sản xuất kinh doanh theo phương thức gia công xuất khẩu. Vì vậy,
muốn tăng năng suất lao động, các doanh nghiệp cần đầu tư vào nâng cao kiến thức,
kỹ năng, thái độ của đội ngũ công nhân kỹ thuật trực tiếp sản xuất trong dây chuyền
để nâng cao mức vốn nhân lực của doanh nghiệp. Vì các doanh nghiệp may sản
xuất theo phương thức gia công xuất khẩu, quy trình công nghệ và sản phẩm giữa
các doanh nghiệp có mức độ tương đồng nhau cao nên các doanh nghiệp may vừa
và nhỏ nên sử dụng chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực theo phương pháp
benchmarking sẽ mang lại hiệu quả tối ưu nhất.
168
- Trong quá trình xác định chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực, cần chú ý
khía cạnh tối ưu hoá việc đầu tư thể hiện như sau : các doanh nghiệp may có suất
đầu tư nhỏ nên các doanh nghiệp lớn, có tiềm lực tài chính mạnh thường đổi mới
công nghệ nhanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tốc độ đổi mới công nghệ chậm
hơn do tiềm lực tài chính yếu hơn. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng vốn nhân lực
của các doanh nghiệp may cần xác định mức đầu tư vào vốn nhân lực phù hợp với
mức đầu tư vào vốn vật chất. Nếu vốn nhân lực quá nhỏ so với yêu cầu sử dụng vốn
vật chất sẽ dẫn đến lãng phí vốn vật chất, không tạo được năng suất cao dù đầu tư
vào công nghệ lớn. Nếu vốn nhân lực quá lớn so với yêu cầu sử dụng vốn vật chất
thì sẽ dẫn đến lãng phí vốn nhân lực, ngoài ra còn gây ra tình trạng biến động lao
động trong các doanh nghiệp may. Để đầu tư vào vốn nhân lực khớp với đầu tư vào
vốn vật chất, cần thực hiện như sau :
+ Xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp may, trong đó xác định
rõ các công nghệ sẽ đầu tư cho sản xuất kinh doanh phù hợp với từng giai đoạn của
chiến lược.
+ Xác định số lượng lao động, các kiến thức, kỹ năng, thái độ, kinh nghiệm
cần thiết để vận hành công nghệ sản xuất với công suất tối ưu.
+ Xác định các mức đầu tư vào vốn nhân lực để đạt được số lượng lao động
cũng như các kiến thức, kỹ năng, thái độ, kinh nghiệm của người lao động như yêu
cầu đặt ra. Đầu tư vào vốn nhân lực lúc này bao gồm đầu tư cho các khoá đào tạo,
đầu tư cho tuyển dụng người có kinh nghiệm…Vấn đề xác định mức đầu tư vào vốn
nhân lực sao cho tối ưu so với mức đầu tư vào vốn vật chất đối với các doanh
nghiệp may cũng là một vấn đề cần được nghiên cứu để lượng hoá trong thời gian
sắp tới.
Để nâng cao chất lượng vốn nhân lực chuyên môn, các doanh nghiệp may
cần xây dựng chiến lược để nâng cao mức vốn nhân lực chuyên môn lên ít nhất là
ngang bằng với mức vốn nhân lực chuyên môn của các doanh nghiệp công nghiệp.
Muốn vậy, cần áp dụng các giải pháp sau :
169
- Về phía doanh nghiệp : các doanh nghiệp may cần có chiến lược nâng cao
chất lượng vốn nhân lực chuyên môn theo các hình thức sau đây :
+ Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho các đối tượng chưa qua đào
tạo chuyên môn trong các doanh nghiệp may. Hiện nay, số lượng này rất lớn, vào
năm 2011, số lao động chưa qua đào tạo chuyên môn trong các doanh nghiệp may
là 211.960 lao động, chiếm 21,8% tổng số lao động trong các doanh nghiệp may.
Nếu tổ chức đào tạo chuyên môn khoảng 03 tháng cho mỗi lao động ngay tại doanh
nghiệp thì những kiến thức, kỹ năng và thái độ mà người lao động tiếp thu được sẽ
phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp, như vậy chắc chắn sẽ nâng cao chất lượng
vốn nhân lực. Mặt khác, nếu mỗi lao động chưa qua đào tạo được bồi dưỡng thêm
03 tháng sẽ giúp mức vốn nhân lực chuyên môn bình quân của lao động ngành may
tăng thêm là : 211.960 x 0,25 : 970.660 = 0,055 năm/người. Như vậy sẽ rút ngắn
khoảng cách giữa vốn nhân lực chuyên môn bình quân giữa các doanh nghiệp công
nghiệp và các doanh nghiệp may năm 2011 từ 0,18 năm/người xuống còn 0,125
năm/người, do đó sẽ giúp nâng cao chất lượng vốn nhân lực chuyên môn của các
doanh nghiệp may.
+ Liên hệ với các trường đại học, cao đẳng để mở các lớp đào tạo đại học,
cao đẳng ngay tại doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho các cán bộ kỹ thuật, cán bộ
quản lý được học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ. Các ngành học cần chú trọng là
công nghệ may, thiết kế thời trang, quản trị doanh nghiệp, merchandiser. Trong quá
trình học tập, các bài tập, các tình huống trong giảng dạy cần yêu cầu giảng viên
thiết kế từ các tình huống thực tế tại các doanh nghiệp. Đây sẽ là các ngành học
giúp cung cấp các kiến thức, kỹ năng, thái độ phù hợp với yêu cầu của doanh
nghiệp. Mặt khác, số lượng người học cao đẳng, đại học tăng lên sẽ giúp nâng cao
khả năng chuyển sang sản xuất theo phương thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm,
nâng cao mức vốn nhân lực chuyên môn của các doanh nghiệp may. Cả hai yếu tố
trên đều giúp nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
- Về phía các trường : cần đầu tư nâng cao năng lực đào tạo ngành công nghệ
may, thiết kế thời trang từ bậc trung cấp, cao đẳng, đại học, sau đại học....nhằm
170
tăng cường quy mô đào tạo nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp may. Các
trường cần liên hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp may để tổ chức các lớp đào tạo
ngay tại doanh nghiệp theo hình thức ký hợp đồng đào tạo giữa trường và doanh
nghiệp. Với hình thức đào tạo này, các khoá đào tạo sẽ cung cấp các kiến thức, kỹ
năng và thái độ phù hợp với yêu cầu đặt ra của doanh nghiệp, điều này sẽ giúp nâng
cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
3.2.3 Giải pháp nâng cấp dữ liệu thành vốn thông tin để mở rộng quy mô của
vốn nhân lực nhằm nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may
Trong các doanh nghiệp may hiện nay, vốn nhân lực của đội ngũ công nhân
kỹ thuật đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Với sự biến
động của đội ngũ công nhân kỹ thuật lớn như hiện nay, các doanh nghiệp may cần
chú trọng đến việc nâng cấp một số dữ liệu liên quan đến đội ngũ công nhân kỹ
thuật trong doanh nghiệp thành vốn thông tin để chủ động trong việc tạo vốn cũng
như nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
Như đã trình bày ở mục 3.2.2.2, bảng phân tích nghề, phân tích công việc
của nghề may là một trong những thông tin quan trọng góp phần vào công tác tạo
vốn nhân lực cũng như nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may. Với các doanh nghiệp may đã có kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất may
mặc cần thực hiện các bảng phân tích nghề may riêng cho doanh nghiệp mình. Với
các doanh nghiệp may mới được thành lập, có thể sử dụng bảng phân tích nghề,
phân tích công việc của nghề may do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ
Công Thương hoặc một số cơ sở đào tạo nhân lực cho ngành may xây dựng, làm cơ
sở để nâng cấp dữ liệu thành vốn thông tin trong doanh nghiệp. Bảng phân tích
nghề may do Bộ Công Thương xây dựng năm 2008 được thể hiện qua bảng 3.6 :
171
BẢNG 3.6 : BẢNG PHÂN TÍCH NGHỀ MAY CÔNG NGHIỆP
2. Đo, xử lý thông số
3.Thiết kế mẫu
6. Nhảy cỡ
7. Giác sơ đồ
NHIỆM VỤ CÔNG VIỆC
ThiÕt kÕ mÉu
8. Thiết kế mẫu phụ trợ
A
1. Nghiên cứu sản
phẩm mẫu
4. Hoàn chỉnh mẫu và
khớp mẫu
5. May mẫu chế thử,
chỉnh sửa mẫu
1. Trải vải
2. Cắt phá
3. Cắt gọt
4. Đánh số
5. Ép mex
6. Phối kiện
8. Hạch toán bàn cắt
B
7. Chuyển giao bán
thành phẩm
CẮT BÁN THÀNH
PHẨM
3. Lập qui trình may
C
1. Xây dựng tiêu chuẩn
kỹ thuật
2. Xây dựng định mức
NPL
4. Thiết kế dây chuyền
sản xuất
ThiÕt kÕ c«ng
nghÖ
1. May cổ áo có chân
2. May cổ áo không
3. May nẹp áo
4. Làm dấu
5. May túi
6. May nhãn
7. May cầu vai
8. May thép tay
9. May măng sét
10. May các loại nắp túi
D
chân
MAY CÁC LOẠI ÁO
SƠ MI
11. Vắt sổ
12. Là chi tiết
13. Ráp vai con
14. Tra mí cổ
15. May cổ liền thân
16. Tra tay
17. May sườn
18. May xẻ sườn
19. Tra măng sét
20. May cửa tay
21. May gấu
22. Thùa khuyết
23. Đính cúc
1. Làm dấu
2. Là chi tiết
3. Vắt sổ
4. May li
5. May dây khuyết
6. May các loại túi bổ
7. May các loại túi dán
8. May các loại túi dọc
9. May các loại nắp túi
10. May các loại túi
E
chéo
MAY CÁC LOẠI
QUẦN ÂU
11. May cửa quần
12. Chắp dọc
13. May ràng
14. May đũng
15. May nhãn
16. May bọc viền
17. May cạp
18. May dây bát xăng
19. May gấu
20. Thùa khuyết
21. Đính cúc
22. Đính móc
23. Đính bọ
1. Làm dấu
2. Trần bông
3. Xén bông
4. May các loại túi có
5. May các loại túi bổ
6. May các loại túi dán 7. May các loại túi
8. May các loại nắp túi 9. May nhám
10. May viền trang trí
F
khóa
hộp
MAY CÁC LOẠI ÁO
JACKET
11. Là chi tiết
12. Lắp ráp các chi tiết
13. May vai
14. Tra tay
15. May sườn, xẻ sườn
16. Dập Ô zê
17. Đính bọ
18. May dây treo áo
19. May nhãn
20. May cổ áo không
chân
21. May cổ áo có chân
22. May cổ áo liền thân 23. May mũ
24. May đáp eo
25. May các loại cá
26. Tra khóa
27. May nẹp
28. May mở cửa tay
29. May bo tay
30. May măng sét
31. May bo đai
32. May gấu
33. Thùa khuyết
34. Đính cúc
35. Đóng cúc
36. Luồn dây
1. Làm dấu
2. May túi ốp ngoài
3. May túi bổ
4. Bổ các loại nẹp
5. Là chi tiết
6. V ắt sổ chi tiết
7. May vai con
8. May cửa tay áo cộc
9. Tra tay
10. Chắp sườn
G
MAY CÁC LOẠI ÁO
DỆT KIM
11. May thép tay
12. May xẻ sườn
13. May cổ áo không
14. May cổ áo có chân
15. May khoá
16. May nhãn
17. May măng sét
18. May bo
19. May gấu
20. Dập Ô zê
chân
21. Đính bọ
22. Thùa khuyết
23. Dập cúc
24. Đính cúc
1. Làm dấu
2. Vắt sổ
3. May chiết
4. Là
6. May nhãn
9. Đột dựng
10. May nẹp
I
MAY CÁC LOẠI ÁO
VESTON
7. May các loại túi
bổ
8. May các loại túi
dán
5. May các loại nắp
túi
May các loại cổ
11. May xẻ
13. Ráp vai con
16. Tra tay
17. May ken vai
18. May lót
19.
Đính bọ
20.
Vắt gấu
15. Ráp sườn
12. Lắp ráp các chi
tiết
21.
Thùa khuyết
22.
ính
Đ
cú
c
1. Vệ sinh sản phẩm
2. Là sản phẩm
6. Dán thùng, kẹp đai
K
3. Treo thẻ , gấp xếp
sản phẩm
5. Ghi thùng, đóng
thùng
thùng
Hoμn thiÖn s¶n
phÈm
4. Đóng gói, phân cỡ,
phân loại sản
phẩm
1. Kiểm tra nguyên phụ
2. Kiểm tra công nghệ
5. Kiểm tra thành phẩm 6. Kiểm tra công đoạn
L
liệu
hoàn thiện
4. Kiểm tra công
đoạn may
KiÓm tra chÊt
l−îng s¶n phÈm
3. Kiểm tra công
đoạn cắt
3. Quản lý vật tư
1. Triển khai sản xuất
2. Quản lý chất lượng
4. Quản lý thiết bị
5. Quản lý tiến độ sản
6. Quản lý lao động
M
xuất
qu¶n lý §iÒu hμnh
s¶n xuÊt
3. Đào tạo thợ bậc dưới.
N
2 . Bồi dưỡng kiến thức
tin học, ngoại ngữ.
Båi d−ìng n©ng
cao tr×nh ®é
1. Bồi dưỡng kiến thức
chuyên môn, tay
nghề.
Tổng số có : 12 nhiệm vụ và 169 công việc
Nguồn : Đề tài xây dựng tiêu chuẩn bậc thợ may công nghiệp, Bộ Công Thương, 2008
172
Căn cứ vào bảng phân tích nghề nêu trên và bảng phân tích công việc, có thể
nâng cấp dữ liệu trong bảng phân tích nghề, phân tích công việc của nghề may
thành vốn thông tin như sau :
- Bước 1 : Bổ sung các dữ liệu cho bảng phân tích nghề, phân tích công việc
của nghề may để nâng cấp các dữ liệu trong bảng phân tích nghề, phân tích công
việc thành thông tin. Hiện nay, trong bảng phân tích nghề may do Bộ Công Thương
xây dựng đã nêu lên đầy đủ các nhiệm vụ và công việc mà người công nhân kỹ
thuật phải thực hiện. Mỗi công việc trong bảng phân tích nghề đều được phân tích
đầy đủ thành các bước thực hiện và các kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết để thực
hiện bước công việc đó. Tuy nhiên, bảng phân tích công việc có một nhược điểm là
liệt kê các bước để thực hiện công việc nhưng lại không đưa vào các bản vẽ kỹ thuật
thể hiện bộ phận cần phải may. Vì vậy, để tường minh cho quá trình thực hiện, các
doanh nghiệp cần căn cứ vào bảng phân tích nghề này tìm ra tất cả các nhiệm vụ và
công việc sẽ được thực hiện tại doanh nghiệp, sau đó bổ sung thêm các bản vẽ chi
tiết để giúp những người quan tâm có thể tự nghiên cứu các yêu cầu trong quá trình
may các bộ phận của sản phẩm.
- Bước 2 : Nâng cấp thông tin thành tri thức. Sau khi bổ sung bản vẽ, các
chuyên gia về công nghệ may của doanh nghiệp cần phân tích các bản vẽ kỹ thuật,
cụ thể hoá các bước may của bộ phận trong hình vẽ theo trình tự nêu trong bảng
phân tích công việc. Mặt khác, các chuyên gia cần phân tích để làm rõ sự cần thiết
của các kiến thức, kỹ năng, thái độ được nêu trong bảng phân tích công việc nhằm
may được các bộ phận của sản phẩm theo bản vẽ.
- Bước 3 : Nâng cấp tri thức thành vốn thông tin. Trong bảng phân tích công
việc chỉ trình bày được các bước may, chưa nêu rõ được thời gian may và chưa thể
hiện được các thao tác trong quá trình may các bộ phận của sản phẩm. Bước 2 đã
giúp người công nhân hiểu rõ những kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết để may
được bộ phận theo bản vẽ kỹ thuật. Tuy nhiên, để có thể giúp người công nhân quan
sát được những phần cốt lõi nhất trong quá trình may các bộ phận, đồng thời tạo
điều kiện dễ dàng cho quá trình phân phối tri thức cho những người sử dụng, tạo
173
điều kiện lượng hoá thời gian các bước may một cách trực quan để đưa vào kế
hoạch bồi dưỡng, doanh nghiệp nên thực hiện quay video và ghi vào đĩa CD quá
trình may các bộ phận theo bản vẽ. Quá trình này nên được thực hiện bằng cách cử
các công nhân giỏi tiến hành may các bộ phận ở bảng phân tích nghề theo bản vẽ,
ghi lại vào băng hoặc đĩa CD quá trình may đó. Các đĩa CD hoặc băng video này
chứa đựng toàn bộ vốn thông tin về nghề may của doanh nghiệp. Khi bồi dưỡng
công nhân kỹ thuật, doanh nghiệp có thể sử dụng đĩa CD này trong quá trình giảng
dạy; các đĩa CD này có thể dễ dàng được cung cấp cho người quan tâm trong doanh
nghiệp nhằm tự nghiên cứu để nâng cao kiến thức, kỹ năng may của mình; khi
những lao động giỏi chuyển khỏi doanh nghiệp, vốn thông tin của doanh nghiệp vẫn
còn nguyên, không bị mất đi theo sự biến động lao động. Như vậy, tạo dựng vốn
thông tin trong các doanh nghiệp may chính là giải pháp hữu hiệu để cung cấp kiến
thức, kỹ năng, kinh nghiệm cho người lao động và những kiến thức, kỹ năng, kinh
nghiệm đó hoàn toàn phù hợp với yêu cầu sử dụng của doanh nghiệp, điều này sẽ
giúp nâng cao nhanh chóng chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
3.2.4 Giải quyết hài hoà mối quan hệ lao động trong các doanh nghiệp May
nhằm giảm thiểu biến động lao động, nâng cao năng suất lao động để nâng cao
chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may
Giải quyết hài hoà mối quan hệ lao động trong các doanh nghiệp may Việt
Nam hiện nay là giải pháp có tính chất tổng hợp giúp giải quyết nhiều vấn đề đang
tồn tại để nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam.
Cụ thể là :
- Giải quyết hài hoà mối quan hệ lao động sẽ giúp người lao động có thêm
động lực để làm việc tích cực hơn, từ đó tạo ra năng suất lao động cao hơn, chất
lượng sản phẩm tốt hơn và doanh nghiệp chắc chắn sẽ nhận được nhiều hơn sự hài
lòng của khách hàng đối với các sản phẩm của doanh nghiệp. Đây là nền tảng vững
chắc giúp doanh nghiệp tạo ra hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn và tạo ra thu
nhập cao hơn cho người lao động, là tiền đề giúp các doanh nghiệp may nâng cao
chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp.
174
- Giải quyết hài hoà mối quan hệ lao động sẽ giúp người lao động gắn bó với
doanh nghiệp hơn, giảm thiểu tình trạng biến động lao động và đình công tràn lan
tại các doanh nghiệp may như những năm vừa qua. Ngành công nghiệp may là
ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động nên nếu giữ được lực lượng lao động ổn
định thì chắc chắn sẽ giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao động, từ đó tăng cường
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thu nhập của người lao động. Tất
cả những yếu tố này đều đóng góp tích cực vào việc nâng cao chất lượng vốn nhân
lực của các doanh nghiệp may Việt Nam.
Để tạo dựng được mối quan hệ lao động hài hoà trong các doanh nghiệp
may, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau đây :
- Thực hiện nghiêm túc thoả ước lao động tập thể ngành Dệt May
+ Ngành dệt may là ngành đầu tiên thực hiện thí điểm ký kết Thoả ước lao
động tập thể ngành vào năm 2010. Thoả ước lao động tập thể ngành Dệt May được
xây dựng trên cơ sở thoả thuận thống nhất giữa người sử dụng lao động và người
lao động thông qua các nghĩa vụ và quyền lợi cụ thể như chế độ tiền lương, thu
nhập bình quân, văn hoá ứng xử trong doanh nghiệp, bình đẳng giới, tranh chấp lao
động…Trong thời gian áp dụng thoả ước, nếu người sử dụng lao động thực hiện
đúng các nội dung của thoả ước thì tập thể người lao động không tự ý tổ chức đình
công về những nội dung đã được thoả thuận. Trường hợp người lao động đình công
không đúng trình tự của pháp luật thì ngay sau khi xảy ra đình công Ban chấp hành
công đoàn cơ sở phải cử đại diện để đàm phán với người sử dụng lao động. Khi có
tranh chấp dẫn đến đình công thì Hiệp hội Dệt may Việt Nam và Công đoàn Dệt
may Việt Nam phải cử đại diện phối hợp cùng với doanh nghiệp và các cơ quan liên
quan giải quyết kịp thời theo qui định của pháp luật. Qua một năm thực hiện, trong
tổng số 70 đơn vị tham gia Thoả ước lao động tập thể ngành dệt may, không có đơn
vị nào xảy ra đình công, thu nhập của người lao động được nâng cao hơn so với các
quy định của Nhà nước. Vì vậy số lượng doanh nghiệp tham gia vào Thoả ước lao
động tập thể ngành dệt may đã tăng từ 70 đơn vị năm 2010 lên 82 đơn vị vào năm
2011.
175
+ Để Thoả ước lao động tập thể ngành dệt may nhanh chóng đi vào cuộc
sống, Ban chấp hành công đoàn tại các doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ với
người sử dụng lao động rà soát, sửa đổi, bổ sung Thoả ước lao động tập thể cũng
như những nội quy, quy chế của doanh nghiệp cho phù hợp với Thoả ước lao động
tập thể ngành dệt may nhằm nâng cao quyền lợi và trách nhiệm của cả doanh nghiệp
và người lao động trong việc tạo dựng môi trường làm việc công bằng, an toàn và
mang tính xây dựng. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng mối quan hệ lao động hài
hoà trong doanh nghiệp.
+ Tuyên truyền, phổ biến để tất cả người lao động nắm đưược quyền lợi và
trách nhiệm của mình trong Thoả ước lao động tập thể ngành dệt may. Mặt khác,
doanh nghiệp cần nắm vững kiến thức về pháp luật lao động để nghiên cứu đề xuất,
kiến nghị Nhà nưước, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Công đoàn Dệt May Việt
Nam sửa đổi, bổ sung Thoả ước lao động tập thể ngành dệt may cho phù hợp với
thực tiễn.
+ Xây dựng cơ chế đối thoại ba bên : Ban chấp hành công đoàn, người sử
dụng lao động, người lao động để tạo cơ chế tham vấn thông tin nhằm nắm bắt
những yêu cầu, vướng mắc của người lao động để kịp thời xử lý. Các doanh nghiệp
cần đặc biệt chú ý tập huấn kỹ năng quan hệ lao động và thu thập thông tin cho đội
ngũ tổ trưởng, chuyền trưởng. Đây là những cán bộ quản lý hàng ngày trực tiếp làm
việc với đội ngũ công nhân kỹ thuật nên cần có kỹ năng xử lý tốt các tình huống về
quan hệ lao động cũng như kỹ năng thu thập thông tin để truyền tải kịp thời tới ban
lãnh đạo doanh nghiệp.
- Nâng cao mức thu nhập cho người lao động trong các doanh nghiệp may
Tiền lương là một trong những yếu tố quan trọng nhất đối với bản thân người
lao động và đó cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến hiệu quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp may do tiền lương chiếm tỷ trọng lớn trong
cơ cấu giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp may hiện nay. Vì vậy, tiền lương
phải được nâng cao lên mức hợp lý để vừa đảm bảo quyền lợi của người lao động,
vừa đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có như vậy mới có
176
thể giải quyết được hài hoà mối quan hệ lao động trong doanh nghiệp. Mặt khác,
tiền lương cũng là một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng vốn nhân lực nên
việc nâng cao tiền lương cho người lao động chắc chắn sẽ giúp nâng cao chất lượng
vốn nhân lực của doanh nghiệp. Tiền lương trong doanh nghiệp nói chung và doanh
nghiệp may nói riêng do nhiều yếu tố tạo nên. Muốn nâng cao thu nhập cho người
lao động, cần thực hiện các giải pháp sau đây :
+ Cần có chiến lược nguồn hàng hợp lý theo hướng sản xuất các mặt hàng
đòi hỏi chất lượng cao nhưng giá gia công hay giá bán cũng cao. Chiến lược này sẽ
giúp phát huy sức mạnh của nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp may Việt Nam
hiện nay là kỹ năng thực hành tốt do đó sẽ sản xuất được hàng chất lượng cao; mặt
khác việc sản xuất hàng chất lượng cao sẽ giúp nâng cao thu nhập cho người lao
động có kỹ năng tốt vì giá gia công hay giá bán đều được nâng cao phù hợp với yêu
cầu về chất lượng. Khi xác định chiến lược nguồn hàng, cần chú ý những mã hàng
có số lượng lớn. Những mã hàng này tuy có đơn giá tương đối thấp vì chất lượng
không đòi hỏi quá cao, nhưng bù lại, thời gian sản xuất mã hàng này thường dài,
doanh nghiệp sẽ tận dụng được tối đa những kiến thức, kỹ năng, thái độ, kinh
nghiệm hiện có của người lao động để tăng năng suất, giảm giờ làm việc trong ngày
và tăng thu nhập cho người lao động. Điều này giúp người lao động trong các doanh
nghiệp may yên tâm công tác, giảm thiểu biến động lao động làm ảnh hưởng đến
chất lượng vốn nhân lực.
+ Do có nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực may mặc nên các
doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ thường có các mặt hàng sản xuất gia công
tương đồng như nhau, vì vậy cần tránh để xảy ra cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
về nguồn hàng, thị trường làm kéo thấp giá gia công hay giá bán, gây thiệt hại cho
ngành công nghiệp may. Với việc nâng cao chất lượng sản phẩm và đảm bảo tiến độ
giao hàng, các doanh nghiệp may mặc Việt Nam sẽ thu hút được một số lượng lớn
khách hàng đang sản xuất kinh doanh tại các thị trường khác về đặt hàng tại Việt
Nam. Hệ quả này giúp đa dạng hoá khách hàng và giúp các doanh nghiệp may Việt
Nam có nhiều khách hàng để lựa chọn trong quá trình sản xuất kinh doanh nên cơ
177
hội chiếm được quyền lực trong đàm phán về giá rất lớn. Như vậy, nhờ có kỹ năng
thực hành của người lao động tốt, tức là chất lượng vốn nhân lực tốt giúp các doanh
nghiệp may có được nguồn hàng có giá tốt hơn. Đến lượt mình, nguồn hàng tốt hơn
sẽ giúp nâng cao thu nhập cho những người có kỹ năng thực hành tốt.
+ Tăng cường thực hiện chiến lược chuyển các doanh nghiệp may về các
vùng nông thôn, nhất là các doanh nghiệp mới thành lập nhằm tận dụng nguồn lao
động dồi dào tại các vùng nông thôn. Mặt khác chuyển các doanh nghiệp may về
vùng nông thôn còn giúp giảm cạnh tranh về lao động giữa các doanh nghiệp may
nằm quá nhiều ở các thành phố lớn như hiện nay. Cả hai yếu tố trên đều giúp giảm
thiểu mức độ biến động lao động của các doanh nghiệp may do chuyển việc, bỏ việc
và trực tiếp giúp các doanh nghiệp may tăng năng suất lao động, nâng cao thu nhập
cho người lao động. Đây là những tiền đề quan trọng giúp doanh nghiệp giải quyết
hài hoà mối quan hệ lao động trong doanh nghiệp và nâng cao chất lượng vốn nhân
lực của doanh nghiệp.
3.2.5 Đổi mới tổ chức sản xuất nhằm nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may
3.2.5.1 Hình thành nhóm làm việc trong các doanh nghiệp may
Hình thành nhóm làm việc theo hình thức dây chuyền cụm như đã nêu ở mục
2.2.5 đã cho thấy ưu điểm rất lớn trong quá trình tạo vốn nhân lực cho các doanh
nghiệp may. Tuy vậy, có thể thấy rõ một thực tế là việc học tập của những người
lao động trong các doanh nghiệp may không chỉ đơn thuần thông qua hình thức
nhận sự hướng dẫn trực tiếp từ người nhóm trưởng với mục tiêu rõ ràng là giúp
thành viên của nhóm may được cụm sản phẩm được giao. Việc học tập còn có thể
diễn ra dưới các hình thức khác, hết sức có hiệu quả như : cán bộ kỹ thuật hoặc tổ
trưởng quan sát người công nhân làm việc và hướng dẫn họ một số bí quyết đạt
năng suất cao, chất lượng tốt hoặc việc học tập có thể diễn ra bằng cách người lao
động theo dõi những đồng nghiệp có kiến thức và kỹ năng cao hơn làm việc, sau đó
họ bắt chước làm theo để cố gắng đạt được năng suất và chất lượng như người giỏi
hơn.
178
Ngành may là ngành có tính thực hành cao, nhất là đối với các đối tượng làm
công tác của một kỹ thuật viên hay công việc của người công nhân trong dây
chuyền sản xuất. Vì vậy, để nâng cao trình độ kiến thức, kỹ năng, thái độ, kinh
nghiệm của người lao động có trình độ thấp, doanh nghiệp nên tạo điều kiện cho
những người này tiếp xúc với những người lao động có trình độ cao hơn, có thể là
làm việc cùng nhau hoặc có thể tạo thành các nhóm làm việc với nhau để người có
trình độ thấp có thể quan sát quá trình làm việc của người có trình độ cao để học hỏi
hoặc người có trình độ cao có thể hướng dẫn thêm những bí quyết công việc cho
người có trình độ thấp hơn. Điều này sẽ giúp nâng cao chất lượng vốn nhân lực của
các doanh nghiệp may nhờ việc tạo ra môi trường học tập cho người lao động, đặc
biệt là học thông qua làm việc ngay tại doanh nghiệp. Các doanh nghiệp may nên
tạo nhóm làm việc theo các hình thức sau đây :
- Người lao động có trình độ khác nhau được cùng tham gia nhóm phát huy
sáng kiến, cải tiến kỹ thuật. Quá trình thảo luận trong nhóm để hình thành các sáng
kiến kỹ thuật chính là quá trình học tập lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm.
Những người có trình độ chuyên môn thấp sẽ học tập được nhiều kiến thức, kỹ năng,
thái độ và kinh nghiệm làm việc của những thành viên có trình độ chuyên môn cao
hơn. Điều này sẽ giúp tăng cường chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may. Để các nhóm này hoạt động có hiệu quả, doanh nghiệp may cần có những
chính sách hỗ trợ tài chính cho nhóm trong quá trình hoạt động, sử dụng các biện
pháp khích lệ về mặt tinh thần nhằm khuyến khích nhiều cán bộ công nhân viên
trong các doanh nghiệp may tham gia vào các nhóm phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ
thuật.
- Hiện nay, nhiều doanh nghiệp may vẫn tiến hành bố trí sản xuất theo dây
chuyền hàng dọc. Dây chuyền hàng dọc trong các doanh nghiệp may có đặc điểm là
các vị trí làm việc được bố trí tương đối gần nhau, các thành viên may các bộ phận
liên tiếp nhau có thể quan sát quá trình làm việc của nhau tương đối dễ dàng. Vì vậy,
nếu doanh nghiệp bố trí sản xuất theo hình thức dây chuyền hàng dọc thì nên bố trí
xen kẽ những người có kỹ năng tốt và những người có kỹ năng chưa tốt để các đối
179
tượng này có thể quan sát hoặc trợ giúp lẫn nhau trong quá trình lao động. Như vậy
sẽ tạo điều kiện rất lớn cho việc học thông qua làm việc, tức là học ngay trong quá
trình làm việc. Kiến thức, kỹ năng, thái độ và kinh nghiệm làm việc sẽ được lan
truyền từ người có trình độ chuyên môn cao sang người có trình độ chuyên môn
thấp hơn một cách tự nhiên, tạo ra môi trường học tập tích cực trong các doanh
nghiệp may. Điều này sẽ giúp nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh
nghiệp may.
- Ngoài các hình thức tổ chức nhóm làm việc như trên, các doanh nghiệp
may nên tiếp tục phát huy những ưu điểm của hình thức bố trí sản xuất theo dây
chuyền cụm, đặc biệt là tại các doanh nghiệp may có biến động lao động lớn. Bố trí
theo hình thức dây chuyền cụm sẽ tạo điều kiện tương đối thuận lợi cho mục tiêu
nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may như đã trình bày ở
mục 2.2.5.
- Hiện nay, do biến động lao động tương đối lớn, nhiều doanh nghiệp may có
xu hướng muốn nhận học sinh sinh viên của các trường về thực tập tại doanh nghiệp.
Doanh nghiệp sẵn sàng hướng dẫn học sinh sinh viên trong quá trình thực tập để
vừa đảm bảo mục tiêu sản xuất kinh doanh, vừa đảm bảo mục tiêu thực tập của học
sinh sinh viên. Đây là một xu hướng thuận lợi cho các doanh nghiệp may vì có thể
thu hút được lao động về làm việc tại công ty ngay sau khi sinh viên tốt nghiệp nếu
doanh nghiệp kết hợp với các cơ sở đào tạo tổ chức tốt quá trình thực tập của học
sinh sinh viên. Học sinh sinh viên ngành công nghệ may được đào tạo tại các trường
thường có các kiến thức và kỹ năng cơ bản tốt nhưng thái độ và tác phong làm việc
chưa theo kịp với yêu cầu trong thực tế sản xuất. Để quá trình thực tập đạt hiệu quả
cao, doanh nghiệp cần tạo thành các nhóm làm việc trong đó các cán bộ giỏi trong
doanh nghiệp làm việc cùng với một nhóm học sinh sinh viên để giải quyết các vấn
đề thực tiễn đang diễn ra tại doanh nghiệp. Như vậy sẽ giúp các học sinh sinh viên
có thể nhanh chóng học tập từ các cán bộ của doanh nghiệp những kiến thức, kỹ
năng và thái độ cũng như kinh nghiệm làm việc. Ngoài ra, nếu học sinh sinh viên
tham gia vào quá trình tạo thành sản phẩm, các doanh nghiệp may cần có chế độ hỗ
180
trợ tài chính cho học sinh sinh viên thực tập theo công việc đang đảm nhiệm tại
doanh nghiệp. Thực hiện được như vậy sẽ giúp học sinh sinh viên chóng nâng cao
được mức vốn nhân lực của bản thân phù hợp với mức vốn nhân lực mà doanh
nghiệp yêu cầu, mặt khác sẽ thu hút được học sinh sinh viên về làm việc tại doanh
nghiệp sau khi tốt nghiệp. Điều này sẽ giúp nâng cao chất lượng vốn nhân lực của
các doanh nghiệp may một cách chủ động ngay trong quá trình chuẩn bị nhân lực
cho công tác tuyển dụng sau này.
3.2.5.2 - Đổi mới tổ chức sản xuất để nâng cao chất lượng vốn nhân lực
Đối với một doanh nghiệp, vốn nhân lực được xem là có chất lượng cao khi
giúp tạo ra năng suất lao động cao cho doanh nghiệp. Phân tích tại mục 2.3.6 đã cho
thấy khâu tổ chức sản xuất trong các doanh nghiệp may tạo ra nhiều lãng phí về vốn
nhân lực do thao tác thừa, dây chuyền không cân bằng…dẫn tới năng suất lao động
thấp do đó chất lượng vốn nhân lực thấp. Các lãng phí trên hoàn toàn có thể được
giảm thiểu nếu các doanh nghiệp may triển khai sản xuất tinh gọn trong đơn vị.
Sản xuất tinh gọn bao gồm một hệ thống các công cụ và phương pháp nhằm
liên tục loại bỏ tất cả những lãng phí trong quá trình sản xuất, định hướng quá trình
sản xuất theo nhu cầu của khách hàng bên ngoài và khách hàng nội bộ. Lợi ích
chính của hệ thống này là giảm chi phí sản xuất, tăng sản lượng, và rút ngắn thời
gian sản xuất. Sản xuất tinh gọn đặc biệt có hiệu quả trong các ngành công nghiệp
thiên về gia công, lắp ráp hoặc có quy trình nhân công lặp đi lặp lại như ngành công
nghiệp may. Trong quá trình sản xuất tại các doanh nghiệp may, tính hiệu quả của
thao tác và khả năng chú tâm vào chi tiết của người công nhân khi làm việc với các
công cụ thủ công hoặc vận hành máy móc có ảnh hưởng lớn đến năng suất, vì vậy
hệ thống cải tiến liên tục được sử dụng trong sản xuất tinh gọn có thể giúp loại bỏ
nhiều lãng phí hoặc bất hợp lý để tăng sản lượng đầu ra cho các dây chuyền may
với cùng một lượng vốn nhân lực như nhau ở đầu vào. Cụ thể là sản xuất tinh gọn
giúp giảm thời gian quy trình và chu kỳ sản xuất bằng cách giảm thiểu thời gian chờ
đợi giữa các công đoạn, cũng như thời gian chuẩn bị cho quy trình và thời gian
chuyển đổi mẫu mã hay quy cách sản phẩm. Mặt khác, sản xuất tinh gọn giúp cải
181
thiện năng suất lao động bằng cách vừa giảm thời gian nhàn rỗi của công nhân,
giảm thao tác thừa của người công nhân trong quá trình sản xuất.
Để triển khai được sản xuất tinh gọn tại các doanh nghiệp may, cần thực hiện
tốt các bước sau đây :
- Bước 1 : Khảo sát và đánh giá dây chuyền may bao gồm các công việc :
+ Khảo sát và đánh giá thực trạng dây chuyền sản xuất hiện tại
+ Xác định điều kiện sản xuất
- Bước 2 : Xây dựng qui trình cải tiến bao gồm các công việc :
+ Xây dựng qui trình sản xuất
+ Xây dựng trình tự thực hiện cải tiến liên tục
+ Xác định các nguyên tắc thực hiện cải tiến liên tục
- Bước 3 : Đào tạo triển khai cải tiến liên tục bao gồm các công việc :
+ Xác định nhiệm vụ cụ thể trong quá trình cải tiến
+ Xác định các điều kiện để thực hiện cải tiến liên tục
+ Xác định trình tự triển khai cải tiến liên tục
- Bước 4 : Xác định điều kiện dây chuyền áp dụng mô hình sản xuất tinh gọn
+ Xác định điều kiện thiết bị
+ Xác định các công cụ hỗ trợ
+ Xác định nhân lực thực hiện
+ Xác định chủng loại sản phẩm
- Bước 5.Thiết kế dây chuyền sản xuất tinh gọn
+ Xây dựng qui trình gia công sản phẩm
+ Lưạ chọn công nghệ gia công sản phẩm
+ Chuẩn hóa thao tác, chuẩn hóa công việc
+ Xác định định mức thời gian bước công việc
- Bước 6 : Xác định thiết bị cụ thể trong dây chuyền
+ Xác định chủng loại thiết bị
+ Xác định tính năng công nghệ của thiết bị
+ Xác định công suất từng loại thiết bị
182
- Bước 7 : Tổ chức sản xuất
+ Triển khai công nghệ mới
+ Xác định tay nghề công nhân
+ Ghép thời gian phân chia bước công việc
+ Bố trí mặt bằng sản xuất
+ Phân công lao động
- Bước 8 : Triển khai sản xuất
+ Chuẩn bị siêu thị nguyên phụ liệu
+ Chuẩn bị biển báo
+ Chuẩn bị công cụ trực quan
+ Kiểm tra tình trạng hoạt động của thiết bị
+ Xếp chuyền theo sơ đồ
+ Hướng dẫn sản xuất
- Bước 9 : Cân bằng dây chuyền
+ Đánh giá qui trình, nhịp dây chuyền
+ Cân bằng dây chuyền
- Bước 10 : Cải tiến sản xuất
+ Đánh giá hiện trạng dây chuyền sau khi ứng dụng sản xuất tinh gọn
+ Cải tiến nhịp độ sản xuất
+ Cải tiến điều kiện sản xuất
+ Cải tiến các khu vực liên quan
Trong quá trình triển khai sản xuất tinh gọn tại các doanh nghiệp may, cần
chú ý là bước đầu chỉ nên triển khai một phần của sản xuất tinh gọn và dần dần tiến
tới triển khai toàn diện hơn. Hơn nữa, trong quá trình triển khai, các doanh nghiệp
may nên thử nghiệm ở một bộ phận nhỏ trước khi áp dụng cho toàn bộ hoạt động
sản xuất, nhất là khi chuyển đổi từ hệ thống sản xuất theo kiểu “đẩy” sang sản xuất
tinh gọn vì sự thay đổi này có thể gây gián đoạn sản xuất. Tốt nhất là các doanh
nghiệp may nên thử nghiệm trên một dây chuyền sản xuất vì điều này sẽ giúp giảm
thiểu rủi ro làm gián đoạn công việc, tiến hành huấn luyện nhân viên về các nguyên
183
tắc của sản xuất tinh gọn đồng thời thuyết phục những người khác trong công ty về
lợi ích của sản xuất tinh gọn.
3.3 Một số khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh
nghiệp may Việt Nam
Để góp phần nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may
Việt Nam, nếu chỉ một mình doanh nghiệp may tổ chức thực hiện thì sẽ không đạt
được hiệu quả mong muốn mà cần có sự tham gia của Nhà nước, Hiệp hội Dệt May
Việt Nam và Tập đoàn Dệt May Việt Nam.
3.3.1 Khuyến nghị đối với Nhà nước
Hiện nay, các doanh nghiệp may đang có chiến lược chuyển về các vùng
nông thôn, vì vậy Nhà nước cần có các chính sách tạo quỹ đất tại các vùng này để
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp may di rời, đầu tư đúng tiến độ. Đây là yếu tố
quan trọng nhất giúp các doanh nghiệp may nhanh chóng ổn định để triển khai sản
xuất tại các vùng nông thôn.
Nhà nước nghiên cứu chính sách giảm thuế cho các doanh nghiệp sử dụng
nhiều lao động như doanh nghiệp may. Nếu các doanh nghiệp may được giảm thuế
sẽ giúp giảm chi phí đầu vào, doanh nghiệp có điều kiện tăng thu nhập cho người
lao động nhằm góp phần nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may Việt Nam.
Nhà nước cần có chính sách đảm bảo môi trường cho vốn nhân lực hoạt
động hiệu quả trong thị trường lao động. Một trong những yêu cầu cấp bách hiện
nay là tăng cường các cơ sở giao dịch vốn nhân lực như các trung tâm giới thiệu
việc làm, các sàn giao dịch việc làm...nhằm giúp vốn nhân lực nói chung và vốn
nhân lực của các doanh nghiệp may nói riêng có thể luân chuyển thuận lợi trong thị
trường lao động, giúp các doanh nghiệp thu nhận được vốn nhân lực phù hợp với
nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp, như vậy chất lượng vốn nhân lực của doanh
nghiệp sẽ được nâng cao.
Vùng nông thôn là những vùng có thu nhập thấp hơn khu vực thành thị, các
hộ gia đình tại nông thôn do có thu nhập thấp hơn nên ít có xu hướng đầu tư nhiều
184
cho con em đi học. Vì vậy, Nhà nước cần đảm bảo hỗ trợ kinh phí để giữ vững mục
tiêu phổ cập trung học cơ sở trên toàn quốc, đây chính là nguồn tuyển lao động rộng
rãi để đào tạo chuyên môn cho các doanh nghiệp may sau này, là cơ sở để tăng
nhanh vốn nhân lực chuyên môn cho các doanh nghiệp may trong quá trình đào tạo
chuyên môn. Chính sách này sẽ giúp các doanh nghiệp may đạt được mục tiêu đào
tạo 70% lực lượng công nhân kỹ thuật chính quy với đối tượng đầu vào tốt nghiệp
trung học cơ sở trở lên như đã nêu trong chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho
ngành dệt may của Bộ Công Thương.
Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế tài chính hỗ trợ chương trình đào tạo nguồn
nhân lực dệt may đến năm 2015 để thu hút học sinh sinh viên vào học các chuyên
ngành này, đặc biệt là cơ chế đặt hàng đào tạo theo nhu cầu của các doanh nghiệp.
Cơ chế đặt hàng sẽ giúp người học có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp; mặt khác
người học có môi trường thực tập ngay tại doanh nghiệp. Cả hai yếu tố này đều giúp
nâng cao mức độ kiến thức, kỹ năng, thái độ của người học theo hướng tiếp cận gần
hơn với yêu cầu của doanh nghiệp và giúp nâng cao chất lượng vốn nhân lực của
các doanh nghiệp may. Khi thực hiện cơ chế đào tạo theo đơn đặt hàng cho lao
động nông thôn theo quyết định 1956/QĐ-TTg, Chính phủ nên cải tiến cơ chế tài
chính theo hướng : đối với các ngành nghề hoặc các chỉ tiêu đào tạo mà các trường
chính quy đảm nhiệm để đào tạo cho địa phương, kiến nghị với Nhà nước cho phép
ký hợp đồng trực tiếp ba bên giữa Tổng cục dạy nghề, trường đào tạo, doanh nghiệp
nhận lao động sau tốt nghiệp. Nguồn ngân sách được chuyển trực tiếp cho các
trường. Thực hiện được như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các trường chính quy
mở rộng quy mô đào tạo nghề cho lao động nông thôn nhằm tạo nguồn lao động có
kiến thức, kỹ năng tốt cho các doanh nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng vốn
nhân lực của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp may nói riêng.
Nhà nước cần nghiên cứu để ổn định kinh tế vĩ mô hơn nữa, nhất là chỉ tiêu
lạm phát và lãi suất. Thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp may so
với các doanh nghiệp công nghiệp vẫn ở mức thấp nên nếu tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm
thu nhập thực tế của người lao động càng thấp hơn và làm giảm chất lượng vốn
185
nhân lực của các doanh nghiệp may. Mặt khác, tỷ lệ lãi suất cao sẽ làm các doanh
nghiệp may đang có định hướng đầu tư di rời về các vùng nông thôn gặp nhiều khó
khăn vì ngành công nghiệp may là ngành tạo ra lợi nhuận không cao nên nếu tỷ lệ
lãi suất quá cao thì các doanh nghiệp may rất khó tiếp cận với nguồn vốn đầu tư từ
các ngân hàng, như vậy sẽ làm giảm tiến độ chuyển dịch doanh nghiệp may về các
vùng nông thôn như mong muốn của các doanh nghiệp. Hơn nữa, lãi suất quá cao
còn gây áp lực lên các doanh nghiệp may đang hoạt động, buộc doanh nghiệp may
phải tìm cách giảm chi phí trong đó có tính tới giảm thu nhập của người lao động.
Như vậy sẽ làm giảm chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
3.3.2 Khuyến nghị đối với Hiệp hội Dệt May Việt Nam
Hiệp hội Dệt May Việt Nam là tổ chức tập hợp được đa số các doanh nghiệp
dệt may nói chung và doanh nghiệp may nói riêng trong cả nước. Vì vậy, Hiệp hội
Dệt May Việt Nam cần chú trọng đến các yếu tố sau đây để trợ giúp các doanh
nghiệp nâng cao chất lượng vốn nhân lực :
- Nhu cầu sử dụng vốn nhân lực của các doanh nghiệp là một trong những khía
cạnh của chất lượng vốn nhân lực. Hiệp hội Dệt May Việt Nam cần thiết kế một
kênh thông tin như một trang web chuyên về nhân lực của ngành dệt may sao cho
các nhu cầu về vốn nhân lực của các doanh nghiệp dệt may thường xuyên được cập
nhật để các cơ sở đào tạo tham khảo trong xây dựng chương trình đào tạo, xây dựng
kế hoạch đào tạo. Đây chính là yếu tố hỗ trợ quan trọng nhất giúp nâng cao chất
lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may ngay từ trong quá trình tạo vốn. Mặt
khác, kênh thông tin này cũng sẽ giúp sinh viên của các trường sau khi tốt nghiệp
tìm được đúng địa chỉ phù hợp nhất với vốn nhân lực mà mình đang sở hữu để xin
việc làm, như vậy một mặt doanh nghiệp nhận được vốn nhân lực đúng yêu cầu,
mặt khác người lao động cũng tìm được đúng địa chỉ giúp họ sử dụng hết vốn nhân
lực mà mình có để tạo ra tỷ lệ hoàn vốn cao nhất. Cả hai yếu tố trên đều giúp doanh
nghiệp nâng cao chất lượng vốn nhân lực.
- Ngành dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động và hiện tại các doanh nghiệp
dệt may nói chung và các doanh nghiệp may nói riêng đều hết sức quan tâm đến
186
việc tuyển dụng được người lao động phù hợp với nhu cầu sử dụng của doanh
nghiệp, mặt khác các cơ sở đào tạo cũng hết sức quan tâm đến công tác xác định
đúng nhu cầu đào tạo của các doanh nghiệp để triển khai các chương trình đào tạo
phù hợp với nhu cầu sử dụng của các doanh nghiệp. Để hỗ trợ các trường cũng như
các doanh nghiệp trong việc xác định nhu cầu đào tạo, giúp cho quá trình đào tạo
của các trường sát hơn với nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp thì khoảng 2 năm một
lần, Hiệp Hội Dệt May Việt Nam nên tổ chức những hội nghị về đào tạo nhân lực.
Hội nghị này là cơ hội để cán bộ quản lý đào tạo tại doanh nghiệp may và các
trường có cơ hội trao đổi với nhau nhằm nắm bắt nhu cầu đào tạo của doanh nghiệp
để cập nhật vào chương trình đào tạo. Đây là yếu tố hết sức quan trọng giúp nâng
cao nhanh chóng chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam.
Hiệp hội Dệt May Việt Nam cần xây dựng các mối liên kết chặt chẽ hơn giữa
các doanh nghiệp cùng ngành nghề trong Hiệp hội để tạo lợi thế trong đàm phán về
giá gia công với các khách hàng nước ngoài, khắc phục tình trạng cạnh tranh về giá
giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại sản phẩm. Làm được như vậy sẽ giúp
nâng cao giá gia công, nâng cao thu nhập cho người lao động và nâng cao chất
lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam. Để hình thành các mối
liên kết giữa các doanh nghiệp cùng ngành nghề, Hiệp hội Dệt May Việt Nam nên
bắt đầu thí điểm triển khai với các doanh nghiệp may thuộc Tập đoàn Dệt May Việt
Nam, là các doanh nghiệp tuy có tư cách pháp nhân độc lập nhưng vẫn có mối liên
kết tương đối chặt chẽ do cùng nhận vốn đầu tư từ công ty mẹ Tập đoàn Dệt May
Việt Nam.
3.3.3 Khuyến nghị đối với Tập đoàn Dệt May Việt Nam
a- Định hướng quy hoạch các vùng phát triển dệt may trên phạm vi cả nước
Do sức ép về lao động nên các doanh nghiệp dệt may đang có xu hướng
chuyển sản xuất về các vùng nông thôn. Tập đoàn Dệt May Việt Nam là doanh
nghiệp nhà nước, được nhà nước giao nhiệm vụ định hướng cho sự phát triển của
ngành dệt may cả nước, vì vậy Tập đoàn Dệt May Việt Nam cần nhanh chóng triển
187
khai nghiên cứu và định hướng các vùng có khả năng đầu tư phát triển ngành dệt
may trên phạm vi cả nước. Quy hoạch định hướng cần làm rõ các vấn đề sau đây :
- Xác định rõ các tiêu chí lựa chọn các địa phương đưa vào quy hoạch đầu tư
phát triển ngành dệt may. Trong các tiêu chí đưa ra, cần chú trọng nghiên cứu tiêu
chí về quy mô và trình độ lao động tại các điạ phương dự kiến đầu tư để tránh có
cạnh tranh lao động khi các doanh nghiệp đầu tư vượt quy mô lao động hiện có tại
địa phương. Mặt khác, khi xác định các địa phương đầu tư phát triển ngành dệt may,
cần chú ý tới thu nhập hiện tại của lao động tại các địa phương này. Tối ưu nhất là
lựa chọn những địa phương mà thu nhập bình quân hiện tại và dự báo tới 2015 thấp
hơn thu nhập bình quân của các doanh nghiệp dệt may.
- Song song với xây dựng quy hoạch đầu tư phát triển ngành dệt may tại các
vùng nông thôn, Tập đoàn Dệt May Việt Nam cần nghiên cứu triển khai xây dựng
quy hoạch nguồn nhân lực cho các dự án đầu tư mới này. Quy hoạch nguồn nhân
lực cần thể hiện rõ chương trình hành động về tuyển dụng nguồn nhân lực, đào tạo
và phát triển nguồn nhân lực, sử dụng nguồn nhân lực...phù hợp với các dự án đầu
tư của Tập đoàn giai đoạn 2011 – 2015. Đây chính là những định hướng cho toàn
ngành dệt may Việt Nam nói chung và cho các doanh nghiệp may nói riêng trong
công tác nâng cao chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp.
b- Kiến nghị và cùng với Nhà nước nghiên cứu mô hình trường thuộc doanh nghiệp
Hiện nay, một số trường chuyên đào tạo số lượng lớn nhân lực cho ngành dệt
may là các trường thuộc doanh nghiệp. Tập đoàn Dệt May Việt Nam cần kiến nghị
với nhà nước cần có những nghiên cứu sâu về mô hình trường trong doanh nghiệp
nói chung nhằm thúc đẩy sự phát triển của mô hình này trong các doanh nghiệp.
Các nghiên cứu này phải hướng tới tìm ra các giải pháp khắc phục được những
nhược điểm có tính hệ thống của các trường trong doanh nghiệp hiện nay như sau :
- Chưa có mô hình trường thích hợp: trường trong các doanh nghiệp nhà
nước cần phải hoạt động theo mô hình nào, công lập hay tư thục trong điều kiện các
doanh nghiệp nhà nước đang đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá. Hiện nay chưa có
khung pháp lý cho công tác cổ phần hoá trường và cũng chưa có nghiên cứu nào
188
đánh giá đúng những thuận lợi và khó khăn đối với các trường thuộc doanh nghiệp
nhà nước trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp.
- Cơ chế tài chính không phù hợp đối với các trường thuộc doanh nghiệp :các
trường thuộc các doanh nghiệp nhà nước hiện nay vẫn hoạt động theo mô hình
trường công lập. Trường công lập không được thu học phí vượt khung theo các quy
định của nhà nước trong khi trường thuộc doanh nghiệp không được hỗ trợ kinh phí
chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước mà phải do doanh nghiệp tự trang trải phần
thiếu hụt. Tuy nhiên, thực tế hiện nay các trường thường đào tạo với số lượng lớn,
doanh nghiệp chỉ sử dụng khoảng 10% nhân lực do trường đào tạo, 90% nhân lực
còn lại là trường đào tạo cho xã hội. Vì vậy nếu yêu cầu doanh nghiệp trang trải chi
phí đào tạo cho cả 100% nhân lực do trường đào tạo là không hợp lý do doanh
nghiệp không đủ nguồn lực và cũng không có cơ chế tài chính cho phép các doanh
nghiệp được sử dụng những khoản chi không phải cho doanh nghiệp.
Hoàn thiện được mô hình trường trong doanh nghiệp sẽ phát huy được ưu
điểm rất lớn của mô hình này là gắn đào tạo với nhu cầu của doanh nghiệp. Các
kiến thức, kỹ năng, thái độ, kinh nghiệm mà trường cung cấp cho người học phù
hợp với yêu cầu của các doanh nghiệp. Lợi thế này sẽ giúp nâng cao đáng kể chất
lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp.
c- Kiến nghị với Nhà nước thành lập trường đại học của ngành dệt may
Như trên đã phân tích, nhu cầu sử dụng nhân lực của ngành dệt may trong
thời gian tới rất lớn, năm 2010 là 2,5 triệu, năm 2015 là 2,75 triệu và năm 2020 là
3,0 triệu. Như vậy bình quân mỗi năm, hệ thống đào tạo nhân lực cho ngành dệt
may sẽ phải đào tạo khoảng 50.000 lao động cho ngành ở tất cả các khâu quản lý,
kỹ thuật và công nhân. Hiện nay, có nhiều cơ sở đào tạo nhân lực cho ngành dệt
may nhưng với yêu cầu đào tạo nhân lực ngày càng lớn thì cần thiết phải thành lập
một trường đại học chuyên đào tạo nhân lực cho ngành dệt may nói chung và ngành
may nói riêng.
Trường đại học của ngành dệt may được thành lập sẽ giúp đào tạo cán bộ
quản lý, cán bộ kỹ thuật có trình độ cao cho ngành dệt may có khả năng triển khai
189
sản xuất theo phương thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm như : nhân lực quản trị,
thiết kế thời trang, marketing chuyên ngành dệt may, merchandiser chuyên ngành
dệt may; đồng thời đây sẽ là địa chỉ tin cậy làm cơ sở để mở rộng hợp tác quốc tế về
đào tạo và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực dệt may. Trường đại học chuyên
ngành dệt may sẽ là nòng cốt trong quá trình truyền đạt các kiến thức, kỹ năng, thái
độ, kinh nghiệm cho một số lượng lớn nhân lực trong ngành dệt may; đồng thời
trường cũng sẽ giữ vai trò quan trọng trong công tác nghiên cứu, sáng tạo ra các tri
thức mới trong lĩnh vực dệt may. Các yếu tố này sẽ góp phần tích cực nâng cao chất
lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp dệt may nói chung và doanh nghiệp may
nói riêng.
190
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Căn cứ vào cơ sở lý luận được nêu rõ tại chương thứ nhất; căn cứ vào kết
quả đánh giá thực trạng chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt
Nam tại chương 2; căn cứ vào những chủ trương phát triển ngành công nghiệp may
của nhà nước; Nội dung của chương 3 đã giải quyết được một số vấn đề sau đây :
- Xác định bảy quan điểm có tính chất định hướng cho công tác nâng cao
chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam với những nội dung
trọng tâm là : nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp về vai trò của vốn nhân lực
và chất lượng vốn nhân lực, nâng cao chất lượng vốn nhân lực và phát triển vốn
nhân lực phải được ưu tiên hơn các loại vốn khác; nâng cao chất lượng vốn nhân
lực của các doanh nghiệp may phải phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế của ngành,
phải được thực hiện đồng bộ cho cả vốn nhân lực phổ cập và vốn nhân lực chuyên
môn trong đó ưu tiên cho nâng cao chất lượng vốn nhân lực chuyên môn; phải phù
hợp với sự phát triển của vốn vật chất và gắn liền với nâng cao chất lượng cuộc
sống của người lao động. Nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may là trách nhiệm của cả nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh
nghiệp may trong quá trình tạo vốn nhân lực, bao gồm một số giải pháp như: hoàn
thiện công tác tạo vốn nhân lực cho các doanh nghiệp may tại các cơ sở đào tạo và
công tác tạo vốn nhân lực cho các doanh nghiệp may tại các doanh nghiệp.
- Nội dung chương 3 còn đề cập đến các giải pháp khác để nâng cao chất
lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam như : nâng cấp dữ liệu
trong doanh nghiệp may thành vốn thông tin, xác lập chiến lược đầu tư tối ưu vào
vốn nhân lực của doanh nghiệp, xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà trong các
doanh nghiệp may, đổi mới tổ chức sản xuất thông qua việc tạo thành các nhóm làm
việc trong quá trình tạo vốn nhân lực tại doanh nghiệp may, áp dụng công nghệ sản
xuất tinh gọn trong doanh nghiệp may . Ngoài ra, chương 3 còn khuyến nghị vai trò
của Nhà nước, Hiệp hội Dệt May Việt Nam và Tập đoàn Dệt May Việt Nam trong
công tác nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam.
191
KẾT LUẬN
Nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp May sẽ giúp các
doanh nghiệp tạo dựng và duy trì lợi thế cạnh tranh trong thời kỳ toàn cầu hoá, nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và đóng góp tích cực cho sự phát triển bền vững
của các doanh nghiệp May. Đề tài “Nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp May Việt Nam” là một công trình nghiên cứu cụ thể về vấn đề chất
lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp May. Đề tài đã đạt được các kết quả mới
và chủ yếu sau đây :
1. Các nghiên cứu trước đây về chất lượng vốn nhân lực không xuất phát từ
nội hàm của chất lượng vốn nhân lực mà đi thẳng vào các thước đo nên tính hệ
thống không cao. Khắc phục nhược điểm này, luận án đã phát triển khái niệm về
chất lượng vốn nhân lực như sau để làm cơ sở nghiên cứu chất lượng vốn nhân lực:
chất lượng vốn nhân lực là mức độ mà một tập hợp các đặc tính của vốn nhân lực
tạo cho vốn nhân lực khả năng thoả mãn những nhu cầu được nêu ra hoặc tiềm ẩn.
2. Căn cứ vào 4 đặc tính thể hiện chất lượng vốn nhân lực và các đặc điểm
của vốn nhân lực trong ngành công nghiệp may Việt Nam, căn cứ vào các mô hình
vốn nhân lực và khái niệm chất lượng vốn nhân lực được phát triển ở trên, luận án
đề xuất 7 tiêu chí mới để đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp
may, đó là các tiêu chí : Đầu tư tài chính cho giáo dục, số năm đi học, số năm kinh
nghiệm, thu nhập bình quân, tốc độ tăng thu nhập, năng suất lao động và tỷ lệ biến
động lao động.
3. Dựa trên các nghiên cứu đặc thù về chất lượng vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may Việt Nam, luận án xác định rõ 6 yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may là : đào tạo chính quy, quản trị
doanh nghiệp, nhu cầu vốn nhân lực của doanh nghiệp, nhân khẩu học, hoàn cảnh
gia đình và chính sách của Chính phủ.
4. Luận án đã đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may
Việt Nam theo 7 tiêu chí đề xuất ở trên và kết quả cho thấy chất lượng vốn nhân lực
của các doanh nghiệp may rất thấp.
192
5. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 5 chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực của
các doanh nghiệp may, nhưng muốn nâng cao chất lượng vốn nhân lực, tối ưu nhất
là các doanh nghiệp may lớn nên sử dụng chiến lược đầu tư vào vốn nhân lực khi
còn có lợi nhuận, các doanh nghiệp may vừa và nhỏ nên sử dụng chiến lược đầu tư
vào vốn nhân lực theo phương pháp benchmarking.
6. Luận án đề xuất sử dụng phương pháp nâng cấp dữ liệu từ bảng phân tích
nghề, phân tích công việc nghề may công nghiệp thành vốn thông tin để nâng cao
chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may. Qua nghiên cứu, luận án cũng
rút ra kết luận là cần tạo ra thị trường kiến thức trong các doanh nghiệp may để phổ
biến rộng rãi các sản phẩm kiến thức nhằm mở rộng quy mô ứng dụng kiến thức, kỹ
năng để nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
7. Để nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam
ngay trong quá trình tạo vốn, luận án đề xuất với Nhà nước nghiên cứu để xác định
rõ mô hình hoạt động của các trường công lập trong doanh nghiệp cổ phần hoá như
các trường thuộc Tập đoàn Dệt May Việt Nam; đề xuất Chính phủ cho phép thành
lập một trường đại học của ngành dệt may.
8. Một số vấn đề mở có thể tiếp tục nghiên cứu của luận án bao gồm :
a- Nghiên cứu tỷ lệ hoàn vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
b- Nghiên cứu sự tương quan giữa đầu tư vào vốn nhân lực và đầu tư vào
vốn vật chất để mang lại hiệu quả tối ưu cho các doanh nghiệp may.
193
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1- Hoàng Xuân Hiệp (2006), “Hoàn thiện công tác xác định nhu cầu đào tạo và
gắn đào tạo với sản xuất kinh doanh tại các trường chính quy của Tập đoàn
Dệt May Việt Nam” , Tạp chí Kinh tế phát triển, (104), tr. 52 – 56
2- Hoàng Xuân Hiệp (2007), “ Tổ chức hội thi học sinh giỏi - giải pháp hữu
hiệu để nâng cao chất lượng đào tạo”, Tạp chí Kinh tế phát triển, (117), tr 44
– 47
3- Hoàng Xuân Hiệp (2010), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng vốn nhân
lực của các doanh nghiệp may Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế phát triển, (161),
tr. 20 – 24
4- Hoàng Xuân Hiệp (2010), “Nâng cấp dữ liệu thành vốn thông tin để cải thiện
chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp may Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế
phát triển, (158), tr. 80 – 84
5- Hoàng Xuân Hiệp (2010), “Mô hình vốn nhân lực và giải pháp áp dụng đối
với ngành công nghiệp dệt may Việt Nam”, Tạp chí công nghiệp, tr. 38 – 41
6- Hoàng xuân Hiệp (2011), “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là giải pháp
nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp dệt may”, Tạp chí
Dệt May và Thời trang Việt Nam, (281), tr. 48 – 49
7- Hoàng Xuân Hiệp (2011), “Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực Merchandiser
cho ngành dệt may Việt Nam”, Tạp chí Dệt May và Thời trang Việt Nam,
(282), tr. 40 – 41
8- Hoàng Xuân Hiệp (2011), “Chiến lược đầu tư vốn nhân lực cho doanh
nghiệp dệt may Việt Nam”, Tạp chí Dệt May và Thời trang Việt Nam, (283),
tr. 58 – 59
194
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1- Indu Bhushan, Erik Bloom, Nguyễn Minh Thắng, Nguyễn Hải Hữu (2001), Vốn
nhân lực của người nghèo ở Việt Nam, tình hình và các lựa chọn về chính sách,
Nhà xuất bản lao động xã hội, Hà Nội.
2- Bộ Công Thương (2008), Quyết định số 39/2008/QĐ-BCT phê duyệt Chương
trình đào tạo nguồn nhân lực ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn
đến năm 2020 , Hà Nội
3- Bộ Công thương (2008), Đề tài Xây dựng tiêu chuẩn bậc thợ may công nghiệp,
Hà Nội.
4- Bộ Công Thương (2009), Kỷ yếu hội thảo những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
hội nhập kinh tế quốc tế, Hà Nội.
5- Bộ Lao động Thương binh Xã hội (2009), Dự thảo đề án đổi mới và phát triển
dạy nghề đến năm 2020, Hà Nội.
6- Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Báo cáo sự phát triển của hệ thống giáo dục đại
học, các giải pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục đại học, Hà Nội
7- Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Báo cáo tổng kết năm học 2009 – 2010 khối các
trường đại học, cao đẳng, Hà Nội
8- Bộ giáo dục và đào tạo (2010), Báo cáo tổng kết năm học 2009 – 2010 của giáo
dục phổ thông, Hà Nội
9- Bộ giáo dục và đào tạo (2007), Dữ liệu tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2007,
Hà Nội.
10- Bộ giáo dục và đào tạo (2008), Dữ liệu tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2008,
Hà Nội.
11- Bộ giáo dục và đào tạo (2009), Dữ liệu tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2009,
Hà Nội.
195
12- Bộ Lao động Thương binh Xã hội (2008), Quyết định số 09/2008/QĐ-
BLĐTBXH ban hành nguyên tắc, quy trình xây dựng và ban hành tiêu chuẩn kỹ
năng nghề quốc gia, Hà Nội.
13- Công đoàn Dệt May Việt Nam (2008), Văn kiện đại hội III Công đoàn Dệt May
Việt Nam giai đoạn 2008 – 2013, Hà Nội.
14- Mai Quốc Chánh và Trần Xuân Cầu (2000), Giáo trình Kinh tế lao động, Nhà
xuất bản lao động – xã hội, Hà Nội
15- Chính phủ (2009), Quyết định số 07/2009/QĐ-TTg ban hành điều kiện và thủ
tục thành lập, đình chỉ hoạt động, sáp nhập, chia, tách, giải thể trường đại học,
Hà Nội
16- Chính phủ (2008), Quyết định số 36/2008/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát
triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến
2020, Hà Nội.
17- Trần Thọ Đạt, Đỗ Tuyết Nhung (2008), Tác động của vốn con người đối với
tăng trưởng kinh tế các tỉnh, thành phố Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế
Quốc dân, Hà Nội.
18- Đinh Việt Hoà (2009), “Phát triển nguồn vốn nhân lực - chiến lược tối ưu của
nhà lãnh đạo”, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội 25, tr. 150-158
19- Đại học Bách khoa Hà Nội (2010), Chương trình đào tạo kỹ sư công nghệ may,
Hà Nội
20- Trần Việt Lâm (2007), Phát triển nguồn nhân lực-Biện pháp quan trọng để
nâng cao năng lực cạnh tranh của các Doanh nghiệp may trong bối cảnh Việt
Nam là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, Đại học Kinh tế Quốc dân,
Hà Nội
21- Nguyễn Đình Phan - Nguyễn Kế Tuấn (2007), Giáo trình kinh tế và quản lý
công nghiệp, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội
22- Nguyễn Tiệp (2008), Giáo trình Nguồn nhân lực, Nhà xuất bản lao động – xã
hội, Hà Nội.
196
23- Nguyễn Tiệp (2006), Giáo trình Kế hoạch nhân lực, Nhà xuất bản lao động –
xã hội, Hà Nội.
24- Tập đoàn Dệt May Việt Nam (2007), Báo cáo nhu cầu đào tạo nguồn nhân
lực của Tập đoàn Dệt May Việt Nam, Hà Nội.
25- Tập đoàn Dệt May Việt Nam (2011), Báo cáo nhu cầu đào tạo nguồn nhân
lực của Tập đoàn Dệt May Việt Nam, Hà Nội.
26- Tập đoàn Dệt May Việt Nam (2010), Báo cáo sơ kết sáu tháng đầu năm 2010,
Hà Nội.
27- Tập đoàn Dệt May Việt Nam (2008), Dệt may – Da giầy và Thời trang Việt
Nam, Nhà xuất bản thông tấn, Hà Nội.
28- Tổng cục thống kê (2010), Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu thế kỷ 21, Nhà
xuất bản Thống kê, Hà Nội.
29- Tổng cục thống kê (2009), Điều tra biến động dân số, nguồn lao động và
kế hoạch hoá gia đình 1/4/2008, Hà Nội.
30- Tổng cục thống kê (2009), Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm
2006, 2007, 2008, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội
31- Tổng cục thống kê (2010), Báo cáo điều tra lao động và việc làm tại Việt Nam
1/9/2009, Hà Nội.
32- Tổng cục thống kê (2010), Niên giám thống kê 2009, Nhà xuất bản thống kê, Hà
Nội.
33- Tổng cục thống kê (2012),Niên giám thống kê 2011, Nhà xuất bản thống kê, Hà
Nội.
34- Tổng cục thống kê (2006), Niên giám thống kê 2005,Nhà xuất bản thống kê, Hà
Nội.
35- Viện Dệt May (2007), Chương trình đào tạo nhân lực ngành dệt may đến năm
2015 tầm nhìn đến 2020 , Hà Nội.
Tiếng Anh
36- Aurora Teixeira (2002), On the link between Human Capital and Firm
performance, Porto University.
197
37- A Erosa, T.A Koreshkova, D. Restuccia (2010), “How Important is Human
Capital? A Quantitative Theory Assessment of World Income Inequality”,
Review of Economic Studies 01, pp.1–32
38- Andrew Sharpe (2001), The development of Indicators for Human Capital
substanability, Center for the Study of Living standard
39- Agapitos Papagapitos and Robert Riley (2009), “Social trust and human capital
formation”, Economics Letters 102 , pp. 158–160
40- Abraham Carmeli (2004), “Strategic human capital and the performance of
public sector organizations”, Scandinavian Journal of Management 20, pp. 375 -
392
41- Boyan Jovanovic and Yaw Nyarko (1995), “The transfer of human capital”,
Journal of Economic Dynamics and Control 19, pp. 1033 - 1064
42- Bernadette (2002), Human Capital Accumulation and Economic Growth in Asia,
University of Limerick-Ireland.
43- Barry R. Chiswick (2003), “Jacob Mincer, Experience and the Distribution of
Earnings”, Review of Economics of the Household 1, pp. 343 – 361
44- Bogdan Vasile Ileanu and Ovidiu Emil Tanasoiu (2008), “Factors of the earning
fuctions and their influence on the intelectual capital of an organization”,
Journal of applied quantitative methods, Vol.3, No.4
45- Center for the Study of Living standards (2001), The Development of Indicators
for Human Capital Sustainability, Montreal.
46- Chun Chang and Yijiang Wang (1995), “A framework for understanding
differences in labor turnover and human capital investment”, Journal of
Economic Behavior and Organization, Vol 28, pp. 91-105
47- C.B. Mulligan and X. Sala-i-Martin (1997), “A labor income-based measure of
the value of human capital:An application to the states of the United States”,
Japan and the World Economy 9, pp. 159-191
198
48- Chul In Lee (2008), “ On-the-job human capital investment and intertemporal
substitution: New evidence on intertemporal substitution elasticity”, Journal of
Economic Dynamics & Control 32, pp. 3350–3375
49- Diego Lanzi (2007), “Capabilities, human capital and education”, Journal of
Socio-Economics 36, pp. 424–435
50- Daiji Kawaguchi (2003), “Human capital accumulation of salaried and self-
employed workers”, Labour Economics 10, pp. 55–71
51- David A.Griffith (2006), “Human Capital in the Supply Chain of Global Firms”,
Organizational Dynamics, Vol. 35, No. 3, pp. 251–263
52- Debbie Whitaker; Laura Wilson (2007), “Human Capital Measurement: From
Insight to Action”, Organization Development Journal Vol. 25, No 3, pg. 59
53- Eiji Yamamura, Tetsushi Sonobe and Keijiro Otsuka (2003), “Human capital,
cluster formation, and international relocation: the case of the garment industry
in Japan, 1968-98”, Journal of Economics Geography 3, pp. 37-56
54- Eiji Yamamura (2009), “Dynamics of social trust and human capital in the
learning process:The case of the Japan garment cluster in the period 1968–2005”,
Journal of Economic Behavior & Organization 72, pp. 377-389
55- E. Wayne Nafziger and Dek Terrell (1996), “Entrepreneurial Human Capital and
the Long-RunSurvival of Firms in India”, World Development, Vol. 24, No. 4,
pp. 689-696
56- European Central Bank (2006), Human capital, the structure of production and
growth, Frankfurt
57- Etienne Wasmer (2001), “Measuring human capital in the labor market: The
supply of experience in 8 OECD countries”, European Economic Review 45, pp.
861- 874
58- George J.Borjas (1996), Labor economics, The McGraw-Hill comp., Inc
59- Gary Becker (1962), “Investment in Human Capital : A Theoretical Analysis”,
Journal of Political Economy 70, pp. 9 - 49
199
60- Jack J. Phillips (2005), Investing in your company's human capital : strategies to
avoid spending too little-or too much, Amacom Publishing House, New York.
61- John C Groth (1994), “Human capital and Europe's future”, European Business
Review Vol 94, No. 5, pp. 20-27
62- James J. Heckman (2005), “China’s human capital investment”, China
Economic Review 16, pp 50–70
63- Joseph S. Lee, Ping-Lung Hsin (2004), “Employee training and human capital in
Taiwan”, Journal of World Business 39, pp.362–376
64- Jame J Heckman (2000), “Policies to foster human capital”, Research in
65- Krzysztof Cichy and Krzysztof Malaga (2006), “The quantity and quality of
Economics 54, pp. 3–56
human capital in Poland and USA analyzed in the framework of the Manuelli-
Seshadri model”, Poznań University of Economics, Vol 6, No. 1
66- Luciano Nakabashi, Márcio A. Salvato (2007), “Human Capital Quality in the
Brazilian States”, EconomiA Brasília(DF), Vol.8, No.2, pp.211–229
67- Mireille Laroche, Marcel Mérette and G.C. Ruggeri (1999), “On the Concept
and Dimensions of Human Capital in a Knowledge-Based Economy Context”,
Canadian Public Policy , Vol. XXV, No. 1
68- Marcin Stonawski (2008), Influence of Workforce Ageing on Human Capital
Formation, International Institute for Applied System Analysis, Austria
69- Massimo G. Colombo, Marco Delmastro, Luca Grilli (2004), “Entrepreneurs’
human capital and the start-up size of new technology-based firms”,
International Journal of Industrial Organization 22, pp.1183-1211
70- Massimo G. Colombo, Luca Grilli (2005), “Founders’ human capital and the
growth of new technology-based firms: A competence-based view”, Research
Policy 34, pp. 795–816
71- Michael Fertig et. al.(2009), “The impact of demographic change on human
capital accumulation”, Labour Economics 16, pp. 659–668
200
72- Nadir Altinok (2007), “Human capital Quality and Economic Growth”, Institute
for Research in the Sociology and Economic of Education.
73- Organisation for Economic Co-operation and Development (1998), Measuring
Intangible Investment, Canada
74- Peter Robert (2004), Graduate Profile and Human Capital Quality in Hungary,
Social Research Center.
75- Pieter Serneels (2008), “Human capital revisited: The role of experience and
education when controlling for performance and cognitive skills”, Labour
Economics 15 , pp. 1143–1161
76- Pantzalis, C., Park, J.C.(2009), “Equity market valuation of human capital and
stock returns”, Journal of Banking & Finance, doi.org/10.1016/j.jbankfin.
2009.03.008
77- Per Davidsson, Benson Honig (2003), “The role of social and human capital
among nascent entrepreneurs”, Journal of Business Venturing 18, pp. 301–331
78- Raymond Torres (2003), Investing in Human Capital: Experiences from OECD
countries and Policy lessons, OECD.
79- Ramlee Mustapha et al (2010), “Human Capital Development of Orang Asli
Youth: Supportive and Suppressive Factors”, Procedia Social and Behavioral
Sciences 7, pp. 592–600
80- Rodolfo E. Manuelli and Ananth Seshadri (2007), Human Capital and the
Wealth of Nations, University of Wisconsin-Madison
81- Radim Bohacek, Marek Kapicka (2008), “Optimal human capital policies”,
Journal of Monetary Economics 55, pp. 1–16
82- Rita Almeida and Pedro Carneiro (2009), “The return to firm investments in
human capital”, Labour Economics 16, pp. 97–106
83- Shuanglin Lin (1998), “Government education spending and human capital
formation”, Economics Letters 61 , pp. 391–393
201
84- Sumit K. Majumdar (1998), “The impact of Human capital Quality on the
Boundaries of the Firm in the US Telecommunications Industry”, Industrial and
Corporate Change, Vol. 7, No.4
85- Thomas O. Davenport (1999), Human Capital - What is it and Why people
Invest it, Jossey-Bass Publisher, San Francisco
86- Trinh Le, John Gibson, Les Oxley (2003), “Cost- and Income-Based Measures
of human capital”, Journal of Economics Surveys, Vol. 17, No. 3
87- Theodore W. Schultz (1989), “Investing in People:Schooling in Low Income
Countries”, Economics of Education Review, Vol. 8, No. 3, pp. 219-223
88- Theodore W. Schultz (1961), “Investment in Human capital”, The American
Economic Review, Vol. 51, No.1, pp. 1-17.
89- Wei Chi (2008), “The role of human capital in China's economic development:
Review and new evidence”, China Economic Review 19, pp. 421–436
90- Yasmeen Rizvi (2010), “Human Capital Development Role of HR during
Mergers and Acquisitions”, The South East Asian Journal of Management, Vol
IV, No. 1
202
PHỤ LỤC 1 : DỮ LIỆU SỬ DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU
CHẤT LƯỢNG VỐN NHÂN LỰC 1- Dữ liệu thứ cấp
1.1 Bộ dữ liệu điều tra lao động việc làm 2009, 2010, 2011 của Tổng cục thống kê,
Bộ dữ liệu điều tra dân số - nguồn lao động năm 2008 của Tổng cục thống kê
Bộ dữ liệu điều tra lao động việc làm giai đoạn 2009-2011 của Tổng cục
thống kê bao gồm các dữ liệu về lao động và việc làm giai đoạn 2009 - 2011. Bộ dữ
liệu điều tra dân số - nguồn lao động năm 2008 của Tổng cục thống kê bao gồm các
dữ liệu về nguồn lao động năm 2008. Trong các bộ dữ liệu này có số liệu cụ thể về
các lĩnh vực sau :
- Tổng số người trong độ tuổi lao động có việc làm chia theo ngành kinh tế.
Đây là một số liệu quan trọng để xác định tổng vốn nhân lực theo ngành kinh tế
theo mô hình đi học.
- Số người trong độ tuổi lao động được thống kê về trình độ văn hoá theo 5
cấp độ là : chưa biết chữ, chưa tốt nghiệp tiểu học, tốt nghiệp tiểu học, tốt nghiệp
trung học cơ sở, tốt nghiệp trung học phổ thông. Đây là một số liệu quan trọng để
xác định vốn nhân lực theo mô hình đi học, từ đó tính được tổng vốn nhân lực của
nền kinh tế theo mô hình đi học.
- Từ các số liệu ở trên, có thể dễ dàng tính được vốn nhân lực bình quân của
một người lao động trong nền kinh tế tại thời điểm quan sát. Đây là dữ liệu quan
trọng, có thể sử dụng làm cơ sở để so sánh và đánh giá chất lượng vốn nhân lực của
doanh nghiệp may khi tính được vốn nhân lực bình quân của doanh nghiệp may tại
cùng thời điểm với các quan sát trong bộ dữ liệu điều tra dân số - nguồn lao động
năm 2008.
1.2 Dữ liệu về lao động ngành may trong báo cáo từ năm 2001 đến 2011 của Tập
đoàn Dệt May Việt Nam
Trong các báo cáo và nghiên cứu của ngành dệt may, đặc biệt là các báo cáo
của Viện dệt may, Tập đoàn Dệt May Việt Nam, Hiệp hội Dệt may Việt Nam có
nhiều thông tin phục vụ tốt cho nghiên cứu này, đó là các dữ liệu sau :
203
- Bộ dữ liệu khảo sát thực trạng trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ văn
hoá trong các doanh nghiệp dệt may trực thuộc Tập đoàn Dệt May Việt Nam giai
đoạn 2005 - 2008. Bộ dữ liệu này có thể được sử dụng như một mẫu để tính toán cơ
cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ văn hoá của lao động toàn ngành may
khi kết hợp với các số liệu thống kê về lao động ngành may trong các niên giám
thống kê do Tổng cục thống kê xây dựng. Đây là một bộ số liệu quan trọng và có ý
nghĩa lớn để tính toán tổng vốn nhân lực của doanh nghiệp may, vốn nhân lực bình
quân của một lao động ngành may theo mô hình đi học. Các số liệu về vốn nhân lực
của doanh nghiệp may này là cơ sở quan trọng để so sánh với các số liệu tương tự
được tính toán cho toàn ngành công nghiệp sau này nhằm đánh giá chất lượng vốn
nhân lực của doanh nghiệp may.
- Các báo cáo của Tập đoàn Dệt May Việt Nam và Công đoàn Dệt May Việt
Nam còn cho biết biến động lao động của các doanh nghiệp may thuộc Tập đoàn
bao gồm tỷ lệ tăng lao động, tỷ lệ giảm lao động của các năm từ 2001 đến 2010.
Đây cũng có thể xem là nguồn số liệu đại diện cho sự biến động của các doanh
nghiệp trong toàn ngành dệt may mà chủ yếu là của các doanh nghiệp may. Số liệu
này sẽ được so sánh với số liệu khảo sát sơ cấp về tỷ lệ biến động lao động mà các
doanh nghiệp may yêu cầu để từ đó đánh giá được chất lượng vốn nhân lực hiện tại
của các doanh nghiệp may.
1.3 Dữ liệu về nhân lực của doanh nghiệp nói chung và nhân lực ngành may nói
riêng của Tổng cục thống kê trong giai đoạn 2001 – 2011
Bộ dữ liệu của Tổng cục thống kê là một trong những bộ dữ liệu phong phú
nhất trong các tài liệu thứ cấp để nghiên cứu vốn nhân lực trong ngành may. Các dữ
liệu do Tổng cục thống kê biên soạn và phát hành bao gồm các niên giám thống kê
trong giai đoạn 2005 - 2011, doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu thế kỷ 21 có nêu rõ
số lượng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp cũng như số lượng lao động
của các doanh nghiệp may vào các năm từ 2001 đến 2011. Đây là số liệu quan trọng
để tính toán vốn nhân lực trong ngành may theo mô hình đi học bằng cách kết hợp
204
số liệu này với cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật của doanh nghiệp may được
tính toán trong Bộ dữ liệu của Tập đoàn dệt may Việt Nam.
1.4 Dữ liệu thi tuyển sinh đại học, cao đẳng theo đề thi chung của Bộ giáo dục và
đào tạo và các dữ liệu về thí sinh dự thi tốt nghiệp tại các trường đào tạo ngành
may
Trong bộ dữ liệu tuyển sinh đại học, cao đẳng của Bộ giáo dục và đào tạo thể
hiện rõ điểm số trung bình của tất cả các thí sinh dự thi vào đại học cao đẳng theo
đề thi chung của Bộ giáo dục và đào tạo từ năm 2007 đến 2011. Từ bộ dữ liệu này,
có thể tính được điểm trung bình của các thí sinh dự thi và điểm trung bình của các
thí sinh dự thi vào ngành may. Đây là cơ sở đánh giá quá trình tạo vốn nhân lực cho
các doanh nghiệp may.
1.5 Dữ liệu về công tác đào tạo của Bộ giáo dục và đào tạo
Hàng năm, Bộ Giáo dục và Đào tạo đều có báo cáo đánh giá giáo dục đại hoc,
trung cấp chuyên nghiệp trong đó thể hiện rõ số lượng sinh viên/giảng viên của toàn
bộ hệ thống. Căn cứ vào số liệu báo cáo của Bộ giáo dục và đào tạo cũng có thể tính
được tỷ lệ sinh viên/giảng viên của những trường có đào tạo ngành dệt may. So
sánh hai số liệu này cũng đánh giá được quá trình tạo vốn nhân lực cho các doanh
nghiệp may.
Các báo cáo hàng năm của Bộ giáo dục và đào tạo, Bộ Công Thương cũng
cho thấy trình độ giảng viên của các trường trong toàn bộ hệ thống và trình độ giảng
viên của các trường có đào tạo ngành may. So sánh trình độ giảng viên bình quân
của các trường có đào tạo ngành may và các trường trong toàn hệ thống cũng là một
chỉ tiêu đánh giá chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may.
2. Dữ liệu sơ cấp
2.1 Dữ liệu về biến động lao động, số năm đi học phổ thông, số năm được đào tạo
chuyên nghiệp, số năm tích luỹ kinh nghiệm, kỹ năng thực hành của người lao
động trong các doanh nghiệp may
Các số liệu này sẽ được thu thập trực tiếp từ các doanh nghiệp may và các cơ
sở đào tạo nhân lực cho ngành may thông qua việc thiết kế các bảng khảo sát. Các
205
số liệu này là cơ sở để tính toán các tiêu chí đánh giá chất lượng vốn nhân lực của
các doanh nghiệp may liên quan đến số năm đi học, thu nhập, kinh nghiệm, tỷ lệ
biến động lao động.
2.2 Dữ liệu về chi phí đào tạo nhân lực của các doanh nghiệp may, các cơ sở có
đào tạo nhân lực cho ngành may.
Dữ liệu này cũng sẽ được thu thập thông qua hình thức bảng khảo sát tại các
doanh nghiệp may và các cơ sở có đào tạo nhân lực cho ngành may. Từ số liệu khảo
sát có thể tính được chi phí bình quân để đào tạo một nhân lực trong ngành may.
Đây là cơ sở để tính toán tỷ lệ hoàn vốn đi học cũng như đầu tư vào đào tạo.
Dữ liệu về chi phí đào tạo một nhân lực ngành may cũng có thể được tính
toán căn cứ vào các hợp đồng đào tạo thông qua đấu thầu giữa các cơ sở đào tạo với
Tổng cục dạy nghề, hợp đồng giữa các cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp may.
206
PHỤ LỤC 2 : TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHẢO SÁT NGUỒN NHÂN LỰC CỦA TẬP ĐOÀN DỆT MAY VIỆT NAM NĂM 2009
Số lượng
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
TT
Nội dung
lành hạn
hạn
hạn
hạn
CĐ,
ĐH
và
trên
ĐH
TC, CN
CN KT
KT ngắn THPT THCS
lành
nghề
CĐ, TC, CN
ĐH CN KT
và KT ngắn THPT THCS
trên lành
ĐH nghề
CĐ, TC, CN
ĐH CN KT
và KT ngắn THPT THCS
trên lành
ĐH nghề
CĐ, TC, CN
ĐH CN KT
và KT ngắn THPT THCS
trên
ĐH nghề
167
774 2,723 1,393 2,271
958 5,278 2,654
921 5,856 2,600
597 3,634 1,743 2,781
3,996 364
4,541 293
I Dệt
414
97
191
146
163
194
560
0 155
176
238
569
0 165
167
242
574
1
434
0
203
0
Cán bộ quản lý (từ tổ trưởng sản xuất
trở lên)
- Công nghệ sợi
35
68
26
129
49
35
179
0
52
54
43
149
0
70
39
68
177
0
95
0
- Công nghệ dệt
15
29
51
95
29
68
130
0
38
35
83
156
0
17
32
74
123
0
33
0
- Công nghệ nhuộm hoàn tất
10
12
7
29
5
10
32
0
3
5
12
20
0
12
17
11
40
0
17
0
- Kinh tế(kế toán, tài chính, ...)
13
48
34
95
43
44
114
0
29
41
55
125
0
34
39
49
122
0
27
0
- Khác(bảo trỡ thiết bị)
24
34
28
86
37
37
105
0
33
41
45
119
0
32
40
40
112
0
31
0
50
360
178
332
694
403
732
0
99
109
400
608
0
2 Cán bộ kỹ thuật
109
201
184
0 176
153
0
- Sợi
22
59
46
127
101
137
319
0
67
73
163
303
0
50
42
177
269
0
81
0
- Dệt
25
46
138
209
64
173
292
0
64
67
212
343
0
32
52
189
273
0
55
0
- Nhuộm hoàn tất
3
4
17
24
13
22
83
0
45
13
28
86
0
17
15
34
66
0
48
0
33
29
4,541
321 2,992
561 2,781
3 Công nhân kỹ thuật
20
474 2,376
599 2,271
617 4,752 1,400
3,996
592 5,215 1,299
27
- Sợi
819
5
756
4
2,301
128 1,354
343 1,143
3
242 1,172
350 1,067
253 2,605
2,043
257 2,795
4
- Dệt
461
26
428
23
1,864
183 1,511
206 1,511
16
225 1,116
241 1,116
355 1,721
1,636
324 1,942
21
- Nhuộm
120
2
115
2
376
10
127
12
127
1
7
88
8
88
9
426
317
11
478
2
II May
1,231 9,78120,276 13,13618,152
1,71814,06422,87418,375 20,2811,85416,27923,05720,324 20,8661,96816,39823,49720,563 21,300
0
1
724 3,297 1,128 5,149
1,083 3,507 1,601 6,191
01,255 3,193 1,384 5,832
01,365 3,162 1,349 5,876
0
0
Cán bộ quản lý (từ tổ trưởng sản xuất
trở lên)
- May, cắt, hoàn thành
81 2,567
985 3,633
193 2,689 1,240 4,122
0 187 2,374
989 3,550
0 254 2,309
948 3,511
0
207
Số lượng
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
TT
Nội dung
lành hạn
hạn
hạn
hạn
CĐ,
ĐH
và
trên
ĐH
CĐ, TC, CN
ĐH CN KT
và KT ngắn THPT THCS
trên lành
ĐH nghề
CĐ, TC, CN
ĐH CN KT
và KT ngắn THPT THCS
trên lành
ĐH nghề
- Kinh tế(kế toán, tài chính, QTKD...)
CĐ, TC, CN
ĐH CN KT
và KT ngắn THPT THCS
trên
ĐH nghề
540
70 1,081
471
TC, CN
CN KT
KT ngắn THPT THCS
lành
nghề
553
121 1,439
0 909
560
131 1,600
0 957
581
135 1,673
0
765
0
- Khác
103
259
73
435
265
240
630
0 159
259
264
682
0 154
272
266
692
0
125
0
2 Cán bộ kỹ thuật
306
677 1,005 1,988
697
967 2,113
0 459
619
797 1,875
0 446
735
824 2,005
0
449
0
3 Công nhân kỹ thuật
201 5,80718,143 5,99918,152
186 9,86020,30610,071 20,281 14012,46720,87612,617 20,866 15712,50121,32412,682 21,300
III Thời trang
26
11
36
73
38
43
130
0
51
39
45
135
0
63
44
54
161
0
49
0
1 Cán bộ quản lý
15
2
8
25
1
5
8
4
4
0
2
1
1
3
1
0
4
4
0
2
3
17
15
55
0
2
1
0
- Thiết kế thời trang
13
1
5
19
12
5
36
0
20
12
6
38
0
20
15
9
44
0
19
0
- Marketing thời tran g
2
1
3
6
3
3
8
0
1
1
4
6
0
3
2
6
11
0
2
0
2 Cán bộ kỹ thuật thiết kế thời trang
11
9
28
48
23
35
86
0
03
26
35
91
0
40
27
39
106
0
28
0
Tổng cộng:
1,424 10,56623,035 14,60220,423
2,18115,06028,19521,159 24,2772,26917,23928,95823,059 25,4072,32417,03927,18522,467 24,081
208
PHỤ LỤC 3
PHIẾU KHẢO SÁT VỐN NHÂN LỰC
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP MAY VIỆT NAM Phiếu khảo sát này được thiết kế để thu thập dữ liệu phục vụ cho quá trình
nghiên cứu chất lượng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may Việt Nam. Trước
hết, tác giả xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến các cá nhân và doanh nghiệp dệt may
đã quan tâm và hợp tác với tác giả trong công tác nghiên cứu chất lượng vốn nhân
lực của các doanh nghiệp may.
Vốn nhân lực là tổng hợp các kỹ năng, kỹ xảo của người lao động ; kinh
nghiệm nghề nghiệp ; trình độ đào tạo và những khả năng có thể khai thác của
người lao động. Chất lượng vốn nhân lực là mức độ mà một tập hợp các đặc tính
của vốn nhân lực tạo cho vốn nhân lực khả năng thoả mãn những nhu cầu được nêu
ra hoặc tiềm ẩn.
Để triển khai nghiên cứu vốn nhân lực và chất lượng vốn nhân lực một cách
có hệ thống, cần thiết phải thu thập đủ số liệu về thực trạng trình độ đào tạo, kinh
nghiệm nghề nghiệp… của người lao động trong các doanh nghiệp dệt may; nhu
cầu sử dụng vốn nhân lực, biến động lao động, kết quả kinh doanh của các doanh
nghiệp may. Vì vậy, tác giả rất mong nhận được thông tin của Ông/Bà và doanh
nghiệp qua các biểu khảo sát từ biểu số 1 đến biểu 5.
Tác giả xin cam kết chỉ sử dụng những thông tin của Ông/Bà và doanh
nghiệp cho mục đích nghiên cứu và tuyệt đối bảo mật. Sau khi hoàn thành nghiên
cứu, tác giả cam kết sẽ cung cấp đầy đủ cho các doanh nghiệp kết quả nghiên cứu
của đề tài để phục vụ cho công tác nâng cao chất lượng vốn nhân lực của các doanh
nghiệp.
Tác giả rất mong nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của Ông/Bà và doanh
nghiệp. Xin chân thành cảm ơn Ông/Bà đã dành thời gian để giúp đỡ và chia sẻ
những kinh nghiệm quý báu của mình với tác giả.
209
TỔNG HỢP HIỆN TRẠNG CÔNG NHÂN SẢN XUẤT NĂM 2010
Biểu 1
Đơn vị tính : người
ĐƠN VỊ :
Số lượng
Bậc thợ
Trình độ đào tạo
Trình độ văn hoá
Kinh nghiệm làm việc
trong ngành dệt may
TT
Ngành nghề
Tổng
6 - 10
năm
11 -15
năm
Tiểu
học
Đại
học
Cao
đẳng
16 - 20
năm
Tr.đó
: nữ
Bậc
1,2
Bậc
3,4
>Bậc
5
Chưa
từng đi
học
Dưới
5
năm
Trung
học
cơ sở
Trên
20
năm
Dạy
nghề
ngắn
hạn
Chưa
qua
đào
tạo
Trung
học
phổ
thông
Chưa
học
hết
tiểu
học
Trung
cấp,
Dạy
nghề
chính
quy
A
B
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
I
Công nhân công nghệ
- Sợi
- Dệt
- Nhuộm, hoàn tất
II
- May
Công nhân cơ điện, động
lực
III
Ngành khác
IV
Lao động phổ thông
Tổng số
Ghi chú : Cột 1 = cột 3 + cột 4 + cột 5 = cột 6 + cột 7 + cột 8 + cột 9+ cột 10 = cột 11 + cột 12 + cột 13 + cột 14 + cột 15 = cột 16 + cột 17 + cột 18 + cột 19 + cột 20
210
ĐƠN VỊ :
Biểu 2
TỔNG HỢP HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG CÁN BỘ QUẢN LÝ, CHUYÊN MÔN KỸ THUẬT, NGHIỆP VỤ NĂM 2010
Đơn vị tính : người
Số lượng
Trình độ chuyên môn kỹ thuật
Trình độ văn hoá
Kinh nghiệm làm việc
trong ngành Dệt May
TT
Ngành nghề
Tổng
Tiểu
học
6 - 10
năm
11 -15
năm
Tr.đó
: nữ
Tiến
sĩ
Thạc
sĩ
Đại
học
Cao
đẳng
16 -
20
năm
Trên
20
năm
Trung
học cơ
sở
Chưa
từng đi
học
dưới
5
năm
Dạy
nghề
ngắn
hạn
Chưa
qua
đào
tạo
Trung
học
phổ
thông
Chưa
học
hết
tiểu
học
Trung
cấp,
Dạy
nghề
chính
quy
Trình
độ
ngoại
ngữ
(giao
tiếp
thành
thạo)
15
2
9
8
7
6
5
4
3
1
B
14
13
11
10
20
- Sợi
- Dệt
- Nhuộm hoàn tất
- May
A
I Cán bộ quản lý
1 Tổ trưởng, chuyền trưởng
2 Ban giám đốc nhà máy thành viên
3 Trưởng, phó phòng ban
4 Ban Giám đốc Tổng Công ty, công ty
II Cán bộ chuyên môn nghiệp vụ
1 Kế toán tài chính
2 Quản trị kinh doanh
3 Quản trị nhân sự
4 Ngoại thương
5 Luật
6 Kỹ thuật cơ điện
7 Điện tử, điện toán, tin học
8 Kỹ thuật công nghệ, thiết bị:
9 Mỹ thuật, thiết kế thời trang
10 Ngành khác
Tổng số
12
17
18
19
16
Ghi chú : Cột 1 = cột 3 +cột 4 +cột 5 + cột 6 + cột 7 + cột 8+ cột 9 = cột 10 + cột 11 + cột 12+ cột 13 + cột 14 = cột 16 + cột 17+cột 18 + cột 19 + cột 20
211
Biểu 3
ĐƠN VỊ :
TỔNG HỢP NHU CẦU NGUỒN NHÂN LỰC DỆT MAY GIAI ĐOẠN 2011 - 2015
Đơn vị tính : người
Nhu cầu nhân lực năm 2011
Nhu cầu nhân lực giai đoạn 2012 - 2015
TT
Ngành nghề
Số lượng
lao động cần bổ sung
Số lượng
lao động cần bổ sung
Tổng số
Tổng số
Địa bàn sử dụng
nhân lực bổ
sung
(huyện, tỉnh)
Địa bàn sử
dụng nhân lực
bổ sung
(huyện, tỉnh)
Số lao động
gửi đào tạo
tại các trường
chính quy
Số tuyển
mới,
có thể bố trí
ngay vào
sản xuất
Số lao
động
doanh
nghiệp tự
đào tạo
Số tuyển
mới,
có thể bố trí
ngay vào
sản xuất
Số lao
động
doanh
nghiệp tự
đào tạo
Số lao động
gửi đào tạo
tại các
trường
chính quy
A
B
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
I Cán bộ quản lý
1 Tổ trưởng, chuyền trưởng
2 Ban giám đốc nhà máy thành viên
3 Trưởng, phó phòng ban
4 Ban Giám đốc Tổng Công ty, công ty
II Cán bộ chuyên môn nghiệp vụ
1 Kế toán tài chính
2 Quản trị kinh doanh
3 Quản trị nhân sự
4 Ngoại thương
5 Luật
6 Kỹ thuật cơ điện
7 Điện tử, điện toán, tin học
212
Nhu cầu nhân lực năm 2011
Nhu cầu nhân lực giai đoạn 2012 - 2015
TT
Ngành nghề
Số lượng
lao động cần bổ sung
Số lượng
lao động cần bổ sung
Tổng số
Tổng số
Địa bàn sử dụng
nhân lực bổ
sung
(huyện, tỉnh)
Địa bàn sử
dụng nhân lực
bổ sung
(huyện, tỉnh)
Số lao động
gửi đào tạo
tại các trường
chính quy
Số tuyển
mới,
có thể bố trí
ngay vào
sản xuất
Số tuyển
mới,
có thể bố trí
ngay vào
sản xuất
Số lao
động
doanh
nghiệp tự
đào tạo
Số lao
động
doanh
nghiệp tự
đào tạo
Số lao động
gửi đào tạo
tại các
trường
chính quy
A
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
B
8 Kỹ thuật công nghệ, thiết bị:
- Sợi
- Dệt
- Nhuộm hoàn tất
- May
9 Mỹ thuật, thiết kế thời trang
10 Cán bộ chuyên môn thuộc ngành khác
III Công nhân kỹ thuật
1 Công nhân công nghệ
- Sợi
- Dệt
- Nhuộm, hoàn tất
- May
2 Công nhân cơ điện, động lực
3 Công nhân ngành khác
4 Lao động phổ thông
Tổng số
Ghi chú : - Cột 4 = cột 1 + cột 2 + cột 3
- Cột 9 = cột 6 + cột 7 + cột 8
213
ĐƠN VỊ :
Biểu 4
TT
Ngành nghề
Kinh phí đào tạo bồi dưỡng
đã thực hiện năm 2009
TỔNG HỢP NHU CẦU KINH PHÍ ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG NGUỒN NHÂN LỰC DỆT MAY CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
GIAI ĐOẠN 2011 - 2015
Kinh phí đào tạo bồi dưỡng
ước thực hiện năm 2010
Số
lượng
nhân
lực tự
đào tạo
(người)
Số
lượng
nhân
lực tự
đào tạo
(người)
Kinh
phí chi
cho
công
tác tự
đào tạo
tại chỗ
(triệu
đồng)
Kinh
phí chi
cho
công
tác tự
đào tạo
tại chỗ
(triệu
đồng)
Kinh
phí chi
cho
công
tác tự
đào tạo
tại chỗ
(triệu
đồng)
Kinh
phí chi
cho
công
tác tự
đào tạo
tại chỗ
(triệu
đồng)
Số
lượng
nhân
lực gửi
đào tạo
tại các
trường
chính
quy
(người)
Số
lượng
nhân
lực gửi
đào tạo
tại các
trường
chính
quy
(người)
Số
lượng
nhân
lực gửi
đào tạo
tại các
trường
chính
quy
(người)
Số
lượng
nhân
lực gửi
đào tạo
tại các
trường
chính
quy
(người)
Kinh phí đào tạo bồi dưỡng
dự kiến thực hiện năm 2011
Kinh
Số
phí chi
lượng
cho
nhân
công
lực tự
tác đào
đào tạo
tạo
(người)
nhân
lực tại
các
trường
chính
quy
(triệu
đồng)
Kinh phí đào tạo dự kiến thực
hiện giai đoạn 2012 - 2015
Kinh
Số
phí chi
lượng
cho
nhân
công
lực tự
tác đào
đào tạo
tạo
(người)
nhân
lực tại
các
trường
chính
quy
(triệu
đồng)
Kinh
phí chi
cho
công
tác đào
tạo
nhân
lực tại
các
trường
chính
quy
(triệu
đồng)
Kinh
phí chi
cho
công
tác đào
tạo
nhân
lực tại
các
trường
chính
quy
(triệu
đồng)
A
B
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
I Cán bộ quản lý
II Cán bộ chuyên môn
nghiệp vụ
III Công nhân kỹ thuật
Tổng số
214
ĐƠN VỊ :
Biểu 5
TỔNG HỢP MỘT SỐ CHỈ TIÊU VỀ KẾT QUẢ
SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
Chỉ tiêu
TT
Kế hoạch
2011
Thực
hiện
Năm 2009
Kế
hoạch
2015
Thực
hiện
năm
2010
1 Doanh thu (triệu đồng)
Giá trị sản xuất công nghiệp
(triệu đồng)
2
3 Lợi nhuận sau thuế (triệu đồng)
4 Tỷ suất lợi nhuận / vốn (%)
5
Thu nhập bình quân/lao động
(Triệu đồng/người/tháng)
TỶ LỆ BIẾN ĐỘNG LAO ĐỘNG HÀNG NĂM CỦA DOANH NGHIỆP
TT
Chỉ tiêu
Năm 2008
Năm
2009
Năm
2010
Ứớc năm
2011
1
Tổng số lao động của doanh
nghiệp
lao động
tăng
2
lao động
3
Biến động
(do tuyển mới..)
Biến động giảm
(do thôi việc, chuyển việc, …)
215
PHỤ LỤC 4 : DANH SÁCH DOANH NGHIỆP GỬI PHIỀU ĐIỀU TRA
TT
1
Địa chỉ
104 Vũ Xuân Thiều, Phường. Sài
Đồng, Long Biên, Hà Nội
2 160 Minh Cầu - Thành phố Thái
Nguyên - TỈnh Thái Nguyên Tên doanh nghiệp
Công ty Cổ phần cơ khí May Gia
Lâm
Công ty Cổ phần đầu tư và Thương
mại
TNG
(5 xí nghiệp hạch toán phụ thuộc)
3 Công ty Cổ phần Dệt May Nha
Trang
4 lộ 1A, Xã Vĩnh
Km1447, Quốc
Phương, Thành phố Nha Trang, Tỉnh
Khánh Hòa
Số 32 Tràng Tiền, Quận Hoàn Kiếm,
Hà Nội
5 mẹ và Khu 6 Phường Thị Cầu, Thành phố
Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Ninh
6 Công ty Cổ phần Hợp tác Lao động
và Thương mại
Công ty Cổ phần May Đáp cầu
2
ty
(Công
công ty con)
Công ty cổ phần sản xuất xuất nhập
khẩu dệt may
7 Công ty Cổ phần Dệt May Huế
8 Công ty Cổ phần Len Việt Nam
9
10
11
12
13 Tổng Công ty Dệt May Hoà Thọ (9
Công ty thành viên)
Tổng Công ty May Việt Tiến (5
Công ty con)
Công ty TNHH 1 Thành viên Dệt
Kim Đông Phương
Tổng Công ty Cổ phần Phong Phú
(9 công ty con)
Tổng công ty May 10 (10 công ty
thành viên)
14 Công ty Cổ phần Vinatex Đà Nẵng 20 đường Lĩnh Nam, Phường. Mai
Động, Hoàng Mai, Hà Nội
Xă Thủy Dương, Huyện Hương Thủy,
Tỉnh Thừa Thiên Huế
63 Hồ Bá Phấn, Phường. Phước Long
A, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh
36 Ông Ích Đường, Quận Cẩm Lệ,
Thành phố Đà Nẵng
Số 7 Lê Minh Xuân, Quận.Tân Bình,
Thành phố Hồ Chí Minh
10 Âu Cơ, Phường Tân Thành, Tân
Phú, TP Hồ Chí Minh
Số 159 Điện Biên Phủ, Phường. 15,
Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh
765A Nguyễn Văn Linh, Sài Đồng,
Long Biên, Hà Nội
25 Đường Trần Quý Cáp, Quận Hải
Châu, Đà Nẵng
15 524 Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà Nội Công ty TNHH 1 Thành viên Dệt
Kim Đông Xuân
16 Tổng Công ty Cổ phần Dệt May
Nam Định 43 Tô Hiệu, Phường Ngô Quyền,
Thành phố. Nam Định, Tỉnh Nam
Định
216
TT
17 Tên doanh nghiệp
Tổng công ty Cổ phần Dệt May Hà
Nội (8 Công ty con) Địa chỉ
25 ngõ 13 đường Lĩnh Nam, Quận
Hoàng Mai, Hà Nội
18 Công ty Cổ phần May Hữu Nghị 636-638 Bến Nguyễn Du, Quận 8,
Thành phố Hồ Chí Minh
19 Tổng Công ty cổ phần May Hưng
Yên (8 đơn vị thành viên) Số 83 Trưng Trắc, Minh Khai, Thị xã
Hưng Yên, Tỉnh Hưng Yên
20 Tổng Công ty Đức Giang - Công ty
cổ phần Số 59 Phố Đức Giang, Quận Long
Biên, Hà Nội
21 Công ty cổ phần May Chiến Thắng 22 Phố Thành Công, Ba Đình, Hà Nội
22 Công ty cổ phần May Hồ Gươm 201 Đường Trương Định, Quận Hoàng
Mai, Hà Nội
23 Công ty cổ phần May Nam Định Lô H1+ H5 Phạm Ngũ Lão, Khu Công
nghiệp Hòa Xá, TP. Nam Định, Tỉnh
Nam Định
24 Công ty cổ phần May Hải Nam Thôn Kim Hồ, Xã Lệ Chi, H.Gia Lâm,
Hà Nội
25 Công ty cổ phần Sản xuất Xuất
Nhập khẩu Á đông May Hải Nam Thôn Kim Hồ, Xã Lệ Chi, H.Gia Lâm,
Hà Nội
26 Công ty cổ phần May Thăng Long 250 Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà Nội
27 Công ty cổ phần Dệt Công nghiệp
Hà Nội 93 Lĩnh Nam, Mai Động, Hoàng Mai,
Hà Nội
28 Tổng Công ty Việt Thắng - Công ty
cổ phần 127 Lê Văn Chí, Phường Linh Trung,
Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh
29 Tổng Công ty May Đồng Nai-
Công ty Cổ phần Khu công nghiệp Biên Hoà 1, Thành
phố Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai
30 Công ty cổ phần May Bình Minh 440 Nơ Trang Long, Phường 13, Bình
Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh
31 Công ty cổ phần May Phương
Đông 1B Quang Trung, Phường 8, Gò Vấp,
Thành phố Hồ Chí Minh
Tổng số : 31 đầu mối= 80 đơn vị
217
PHỤ LỤC 5 : CÁC CÂU HỎI ĐỊNH HƯỚNG PHỎNG VẤN CHUYÊN GIA 1- Vốn nhân lực trong các doanh nghiệp may là kiến thức, kỹ năng, kinh
nghiệm và những khả năng có thể khai thác của người lao động. Theo
Anh/Chị, vốn nhân lực trong các doanh nghiệp may có những đặc điểm gì ?
2- Chất lượng vốn nhân lực là mức độ các đặc tính của vốn nhân lực đáp ứng
nhu cầu sử dụng vốn nhân lực của doanh nghiệp. Theo Anh/Chị, những yếu
tố nào ảnh hưởng đến chất lượng vốn nhân lực của doanh nghiệp may.
3- Công ty của Anh/Chị thường tuyển dụng lao động tốt nghiệp trung học phổ
thông, trung học cơ sở hay mới học xong tiểu học ? Tại sao ? Anh Chị gặp
khó khăn gì khi nhận nhân lực có trình độ trung học cơ sở trở xuống? Công
ty của Anh/Chị thường gặp khó khăn gì trong sử dụng các đối tượng này ?
4- Số lượng công nhân kỹ thuật bậc 1, 2 trong công ty của Anh/Chị chủ yếu
được đào tạo như thế nào ? Đội ngũ công nhân kỹ thuật bậc cao (3,4 trở lên)
tại công ty của Anh Chị được đào tạo tại các trường hay do thi nâng bậc tại
doanh nghiệp ? Việc thi nâng bậc được thực hiện như thế nào, nhất là việc thi
lên các bậc thợ 3, 4 trở lên ? Anh Chị thường cho công nhân của mình thi
nâng bậc theo những nội dung gì ?
5- Anh/Chị có sử dụng người lao động được đào tạo nghề ngắn hạn làm cán bộ
kỹ thuật hoặc cán bộ quản lý trong doanh nghiệp không ? Nếu có, công ty
của Anh/Chị sử dụng những người đã tốt nghiệp trung học phổ thông hay cả
những người tốt nghiệp trung học cơ sở vào các vị trí này? tại sao ?
6- Anh/Chị hãy cho biết đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân
kỹ thuật trong công ty của Anh/Chị thường được đào tạo tại những cơ sở đào
tạo nào ? Theo Anh/Chị, học viên tốt nghiệp những cơ sở đào tạo đó, khi về
làm việc tại công ty của Anh chị thì khả năng đáp ứng với thực tế sản xuất ở
mức nào ? vì sao ?
7- Số lượng học sinh trung cấp chuyên nghiệp có đầu vào trung học cơ sở
chiếm tỷ lệ khoảng bao nhiêu % trong số lượng học sinh trung cấp chuyên
nghiệp trở lên học ngành công nghệ may đang công tác tại công ty của
218
Anh/Chị ? Theo Anh/Chị, có sự khác biệt nào đáng kể giữa những người
được đào tạo ở bậc trung cấp chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật lành
nghề ? tại sao ?
8- Trong khoảng 5 năm trở lại đây, Công ty của Anh Chị thường áp dụng những
biện pháp nào để nâng cao năng suất lao động ? Anh/Chị cho biết năng suất
lao động của các doanh nghiệp may Việt Nam hiện nay so với các nước
trong khu vực thì ở mức độ nào ? Theo Anh/Chị, những yếu tố nào làm năng
suất lao động trong các doanh nghiệp may chưa cao ? Có thể sử dụng những
giải pháp nào là có tính khả thi nhất để tăng năng suất lao động trong công ty
của Anh/Chị ?
9- Anh/Chị hãy cho biết những nguyên nhân chính dẫn đến biến động lao động
trong công ty ? Theo Anh/Chị, tỷ lệ biến động lao động ở mức nào thì không
ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty ? tại sao ? Anh
chị hãy nêu một số giải pháp mà công ty đang áp dụng để giảm thiểu biến
động lao động tại doanh nghiệp ?
10- Theo Anh/Chị, thu nhập bình quân của các doanh nghiệp may năm 2010 đã
tăng khoảng bao nhiêu % so với năm 2009 ? Theo các Anh/Chị dự đoán, thu
nhập bình quân của lao động trong công ty của Anh/Chị phải tăng bình quân
bao nhiêu %/ năm cho tới 2015 thì doanh nghiệp sẽ giữ được ổn định về lao
động ? Anh chị dự đoán thu nhập bình quân của lao động trong công ty của
Anh/Chị và ngành dệt may vào năm 2015 sẽ là khoảng bao nhiêu ?
11- Theo Anh/Chị, đối với các doanh nghiệp may Việt Nam, những yếu tố nào
phản ánh rõ nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ? tại sao ?
12- Anh Chị thường bố trí bộ máy quản lý công tác đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực tại đơn vị của Anh/Chị như thế nào ? Bộ phận này thường thực hiện
những công việc gì ? Theo Anh/Chị, những công việc hiện đang thực hiện
đóng góp như thế nào cho công tác tạo vốn nhân lực của doanh nghiệp.
Anh/Chị dự định có những cải tiến gì trong công tác này trong tương lai sắp
tới ?
219
13- Anh Chị hiểu giải quyết hài hoà mối quan hệ lao động trong các doanh
nghiệp may là làm gì ? Vai trò của giải quyết mối quan hệ lao động hài hoà
như thế nào đối với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp may ? Hiện nay,
Công ty của Anh/Chị đang sử dụng những giải pháp gì để giải quyết hài hoà
mối quan hệ lao động trong đơn vị ?
14- Công ty của Anh/Chị thường chi bao nhiêu tiền một tháng, năm cho công tác
đào tạo cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật ? Những khoản
chi đó thường được sử dụng như thế nào ?
15- Tại sao các doanh nghiệp may lại có chiến lược chuyển về các vùng nông
thôn ? Những thuận lợi và khó khăn khi chuyển về các vùng nông thôn đối
với các doanh nghiệp may là gì ? Doanh nghiệp dự kiến áp dụng những giải
pháp nào giải quyết khó khăn ?
16- Anh/Chị có những kiến nghị gì với Nhà nước, Hiệp hội Dệt May Việt Nam,
Tập đoàn Dệt May Việt Nam để giúp các doanh nghiệp may nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh nói chung và công tác nâng cao chất lượng vốn nhân
lực nói riêng ?
220
PHỤ LỤC 6 : DANH SÁCH CÁC CHUYÊN GIA TRẢ LỜI PHỎNG VẤN
TT Học và Tên Chức vụ Đơn vị công tác
1 Lê Nho Thướng Tập đoàn Dệt May Việt Nam Trưởng Ban Quản
lý Nguồn nhân lực
2 Nguyễn Thanh Bình Tập đoàn Dệt May Việt Nam Phó Ban Quản lý
Nguồn nhân lực
3 Phạm Văn Tuyên Tập đoàn Dệt May Việt Nam Trưởng Ban Kỹ
thuật đầu tư
4 Cao Hữu Hiếu Tập đoàn Dệt May Việt Nam Phó Ban Kỹ thuật
Đầu tư
5 Hoàng Minh Khang Tổng Giám đốc Công ty cổ phần May Hải Nam
6 Nguyễn Thị Mận Công ty cổ phần May Hải Nam Trưởng phòng tổ
chức
7 Nguyễn Đức Thắng Chủ tịch Hội đồng
quản trị Công ty cổ phần sản xuất xuất
nhập khẩu Á đông
8 Nguyễn Văn Phong Công ty cổ phần dệt may Huế Trưởng phòng tổ
chức
9 Phạm Thanh Tùng Tổng Công ty Đức Giang- công
ty cổ phần Giám đốc điều hành
- Trưởng phòng tổ
chức
10 Phạm Nguyên Hạnh Tổng Giám đốc Công ty cổ phần sản xuất xuất
nhập khẩu dệt may
11 Bạch Thị Kim Dung Phó Tổng giám đốc Công ty cổ phần May Đáp Cầu
12 Hà Toàn Thắng Công ty cổ phần May Đáp Cầu Trưởng phòng tổ
chức
13 Nguyễn Văn Hoàn Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghiệp
- Dệt May Thời trang Hà Nội
14 Nguyễn Xuân Khán Trưởng Khoa Công
nghệ May Trường Cao đẳng Công nghiệp
- Dệt May Thời trang Hà Nội
15 Nguyễn Thị Thu
Hường Trưởng phòng đào
tạo Trường Cao đẳng Công nghiệp
- Dệt May Thời trang Hà Nội
16 Nguyễn Hữu Bình Hiệu trưởng
Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ
thuật Vinatex Thành phố Hồ
Chí Minh
221
TT Học và Tên Chức vụ Đơn vị công tác
17 Phan Thị Hải Vân Trưởng phòng đào
tạo Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ
thuật Vinatex Thành phố Hồ
Chí Minh
18 Hứa Thị Thuỳ Trang Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng nghề Long
Biên
19 Tổng giám đốc Nguyễn Thị Thanh
Huyền Tổng công ty may 10 – Công ty
cổ phần
20 Nguyễn Việt Hà Phó phòng Tổ chức Tổng công ty may 10 – Công ty
cổ phần
21 Trần Tường Anh Tổng công ty dệt may Hoà Thọ Trưởng phòng tổ
chức
22 Nguyễn Sỹ Phương Phó Viện trưởng Viện Dệt May
23 Nguyễn Bích Vân Trưởng phòng tổ
chức Công ty cổ phần Dệt Công
nghiệp Hà Nội
24 Nguyễn Như Hùng Tổng Giám đốc Công ty cổ phần hợp tác lao
động và Thương mại Dệt May
25 Phạm Duy Hạnh Giám đốc Công ty Cổ phần May Nam
Định
26 Nguyễn Xuân Dương Tổng giám đốc Tổng công ty May Hưng yên
27 Nguyễn Doãn Sơn Tổng công ty May Hưng yên Trưởng phòng tổ
chức
28 Hồ Viết Thanh Trưởng phòng tổ
chức Công ty cổ phần Vinatex Đà
Nẵng
29 Bùi Thị Hải Trưởng phòng quản
trị nhân sự Tổng công ty cổ phần Dệt May
Hà Nội
30 Phan Thị Kim Liên Tổng công ty May Việt Tiến Phó phòng tổ chức
lao động tiền lương
31 Phạm Xuân Lập Tổng giám đốc Tổng công ty cổ phần Phong
Phú
222
PHỤ LỤC 7 : THU NHẬP BÌNH QUÂN CỦA LAO ĐỘNG TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP MAY VÀ CÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2000 – 2011
7.1- Thu nhập bình quân của lao động trong các doanh nghiệp may giai đoạn
2000 – 2011 chia theo trình độ
Số liệu về thu nhập bình quân của lao động trong các doanh nghiệp may
trong giai đoạn 2000 – 2011 được biểu hiện trong bảng sau :
Bảng 7.1 : Thu nhập bình quân của lao động trong các doanh nghiệp
May giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ
Trình độ
Chuyên môn
Thu nhập bình quân (Triệu đồng/Người/Tháng)
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 20072008 2009 2010 2011
6,648 6,754 6,862 6,992 7,303 7,451 7,5937,7137,836 7,961 9,352 10,326
Tiến sỹ
4,015 4,139 4,198 4,265 4,299 4,368 4,5384,6974,764 4,826 5,425 6,328
Thạc sỹ
1,621 1,694 1,719 1,752 1,885 1,952 2,3892,5242,761 3,001 3,712 4,214
Đại học
1,326 1,396 1,453 1,627 1,722 1,785 2,0002,1052,291 2,412 3,140 3,830
Cao đẳng
1,113 1,182 1,245 1,390 1,451 1,549 1,6291,8811,981 2,004 2,534 2,971
Trung cấp
Dạy nghề dài hạn 0,956 1,018 1,029 1,179 1,215 1,296 1,4991,6871,805 1,920 2,139 2,457
Dạy nghề ngắn hạn 0,805 0,871 0,871 1,019 1,095 1,175 1,3151,5831,683 1,721 1,923 2,027
Chưa qua đào tạo 0,621 0,715 0,705 0,839 0,919 0,958 1,1981,2971,375 1,435 1,524 1,756
Nguồn : Tổng cục thống kê, 2012
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, trình độ chuyên môn kỹ thuật của nhân
lực trong doanh nghiệp may giai đoạn 2000 – 2011 được thể hiện ở biểu sau đây :
Bảng 7.2 : Số lao động ngành may giai đoạn 2000 – 2011
phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Số lượng lao động (người)
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
2009
2010
2011
Trình độ
chuyên
môn
kỹ thuật
10
152
7
113
231948253613 356395436342 498226511278 585414706093 749647 850325 866277 970660
59
344
30235
32181
58611
12
8
7
6
107
172
136
88
9599 10764 12761 14185 15342
8009
6951
9061 10501 12666 13181
8098
9802 14765 16599 20715 24985 26282
38
273
23824
19472
30263
15
193
17825
15154
28835
5
63
6149
5424
7787
4
51
3991
3736
5005
3
45
3309
3005
4320
20058 23482 34819 47333 57544 58061 67693 81648 94128 108164 104827
98723
103699110385 153503185986 211073214590 244166294499 311593 353499 360705 538547
97509106959 148645178167 197033202083 229434277948 288937 326640 326875 211960
Tổng số
Tiến sỹ
Thạc sỹ
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
Dạy nghề
dài hạn
Dạy nghề
ngắn hạn
Chưa qua
đào tạo
Nguồn : Tổng cục thống kê, 2012
223
Từ số liệu tại bảng 7.1 và bảng 7.2 ở trên, có thể xác định được tổng thu
nhập của các lao động trong các doanh nghiệp may giai đoạn 2000 – 2011 như sau :
Bảng 7.3 : Tổng thu nhập của lao động trong các doanh nghiệp may giai đoạn
2000 – 2011 phân theo trình độ
Tổng thu nhập (triệu đồng/năm)
2000 2001 2002 2003 2004 2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
4265
7311
Trình
độ
chuyên
môn
kỹ thuật
Tiến sỹ
239
324
412
503
613
626
729
926
1128
1433
26122
17772
Thạc sỹ
2533
3174
4504
5923
5520
8567
7406
9832 11177
57698 71018116360163478257088308542 404904 563961 624738 693424 920237 2089810
2168
64367 81126126830168360217129252136 365894 429635 508330 6419141061216 1528923
Đại học
Cao đẳng 47816 62568 94562135726167337194087 252011 319943 362420 438544 733705 1479039
Trung
cấp
Tổng
172288217570341338472572647688761314103094413230331506449 17864932737196 5131205
Nguồn : Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục thống kê năm 2012
Để giảm thiểu sai số trong nghiên cứu, đề tài chỉ tiến hành nghiên cứu khả
năng tạo ra thu nhập của vốn nhân lực trong các doanh nghiệp may đối với nhân lực
có trình độ từ trung cấp trở lên. Giả thiết rằng những người tốt nghiệp trung cấp
chuyên nghiệp, trung cấp nghề đều đã tốt nghiệp lớp 12 vì theo khảo sát, từ năm
2009 trở về trước, số lượng tuyển sinh ở bậc trung cấp có trình độ đầu vào tốt
nghiệp trung học cơ sở rất nhỏ. Mặt khác, số năm đi học chuyên môn kỹ thuật ở các
bậc đào tạo sẽ được giả thiết như sau :
- Nhân lực chưa qua đào tạo là nhân lực chưa từng dự một lớp học nào về
chuyên môn kỹ thuật và có số năm học chuyên môn kỹ thuật bằng : 0
- Các doanh nghiệp công nghiệp nói chung và các doanh nghiệp may nói
riêng thường sử dụng công nhân kỹ thuật bán lánh nghề để thực hiện một hoặc một
số công việc có độ phức tạp không cao trong quy trình sản xuất, thời gian đào tạo
với đối tượng này thông thường là 03 tháng. Vì vậy, giả thiết rằng nhân lực học
nghề ngắn hạn có số năm học chuyên môn kỹ thuật bằng: 0,25 năm.
- Do số nhân lực được đào tạo nghề dài hạn tốt nghiệp từ năm 2011 trở về
trước đều học theo chương trình đào tạo công nhân kỹ thuật chính quy, thường có
224
thời gian đào tạo là 2 năm, vì vậy giả thiết nhân lực học nghề dài hạn có số năm học
chuyên môn kỹ thuật bằng : 2 năm.
- Trong các chương trình đào tạo trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề
hiện nay, thời gian đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho cả đối tượng tốt nghiệp trung
học phổ thông và phổ thông cơ sở đều là 02 năm, chỉ khác là đối tượng tốt nghiệp
trung học cơ sở phải học thêm 01 năm văn hoá trước khi học chuyên môn kỹ thuật.
Vì vậy, giả thiết rằng nhân lực học ở bậc trung cấp có số năm học chuyên môn kỹ
thuật bằng : 2 năm
- Theo các chương trình khung đào tạo trình độ cao đẳng, cao đẳng nghề hiện
hành, thời gian đào tạo là 03 năm, do vậy giả thiết rằng nhân lực có trình độ ở bậc
cao đẳng có thời gian học chuyên môn kỹ thuật là 03 năm.
- Theo các chương trình khung đào tạo trình độ đại học, sinh viên tốt nghiệp
đại học từ năm 2011 trở về trước thường có thời gian học tập khác nhau giữa hai
khối ngành kinh tế-quản trị kinh doanh và kỹ thuật. Khối ngành kinh tế- quản trị
kinh doanh có thời gian học tập là 04 năm, khối ngành kỹ thuật có thời gian học tập
là 05 năm. Tuy nhiên, để thống nhất chuẩn so sánh tương đối giữa vốn nhân lực
chuyên môn của các doanh nghiệp may và các doanh nghiệp công nghiệp sau này,
giả thiết rằng thời gian học tập chuyên môn kỹ thuật ở bậc đại học là 04 năm.
- Vì các chương trình đào tạo thạc sĩ tập trung có thời gian đào tạo là 02 năm
sau khi tốt nghiệp đại học. Do đó, giả thiết rằng nhân lực tốt nghiệp bậc thạc sĩ có
thời gian học tập chuyên môn kỹ thuật là 06 năm sau khi tốt nghiệp phổ thông trung
học.
- Thời gian đào tạo bậc tiến sĩ thường là 03 năm đối với những nghiên cứu
sinh đã có bằng thạc sĩ. Vì vậy, giả thiết rằng thời gian học tập chuyên môn kỹ thuật
đối với người có bằng tiến sĩ là 09 năm sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học.
Với các giả thiết như trên và số liệu ở bảng 7.2, tổng vốn nhân lực phổ cập
và vốn nhân lực chuyên môn theo số năm đi học của lao động trong các doanh
nghiệp may được biểu hiện ở bảng sau :
225
Bảng 7.4 : Tổng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may giai đoạn 2000 – 2011
phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Số năm đi học phổ thông và chuyên môn kỹ thuật (năm)
Trình độ
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
2011
chuyên
môn
1239
Tiến sỹ
63
84
105
126
147
147
168
210
252
315 798
6192
Thạc sỹ
810
918
1134
1584
1926
2034
2448
2736
3096
3474 4914
Đại học
52944 63856 98384128144153584172224204176226960245472285200 381184 483760
Cao đẳng 45075 56040 81360104265121470135915157515189990197715227310 292080 482715
Trung cấp 60480 70070109018137228206710232386290010349790367948403690 423682 820554
Tổng
1593721909682900013713474838375427066543177696868144839199891102658 1794460
Nguồn : Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê năm 2012
Từ số liệu ở bảng 7.3 và 7.4, có thể xác định được thu nhập bình quân của
các doanh nghiệp may tính cho một đơn vị vốn nhân lực giai đoạn 2000 – 2011
phân theo trình độ ở bảng sau:
Bảng 7.5: Thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các
doanh nghiệp may giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ
Trình độ
Thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực
(triệu đồng/năm đi học)
chuyên môn 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
3,80 3,86 3,92 4,00 4,17 4,26 4,34 4,41 4,48 4,55 5,34 5,90
2,68 2,76 2,80 2,84 2,87 2,91 3,03 3,13 3,18 3,22 3,62 4,22
1,22 1,27 1,29 1,31 1,41 1,46 1,79 1,89 2,07 2,25 2,78 3,16
1,06 1,12 1,16 1,30 1,38 1,43 1,60 1,68 1,83 1,93 2,51 3,06
0,95 1,01 1,07 1,19 1,24 1,33 1,40 1,61 1,70 1,72 2,17 2,55
1,08 1,14 1,18 1,27 1,34 1,40 1,58 1,72 1,85 1,94 2,48 2,86
Tiến sỹ
Thạc sỹ
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
Bình quân
Nguồn : Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê năm 2012
7.2- Thu nhập bình quân của lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp giai
đoạn 2000 – 2011 chia theo trình độ
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, thu nhập bình quân của một lao động
công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011 được biểu hiện ở bảng sau :
226
Bảng 7.6 : Thu nhập bình quân của lao động công nghiệp
giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ
Trình độ chuyên
môn kỹ thuật
5.756
4.536
3.968
3.704
3.135
2.465
Thu nhập bình quân (Triệu đồng/Người/Tháng)
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Tiến sỹ
6,8536,906 7,0597,1087,2587,858 8,540 8,989 9,58310,198 11.780 12.632
Thạc sỹ
4,5164,558 4,6264,6894,7924,995 5,280 5,598 5,984 6,545 7.236
8.325
Đại học
1,7881,793 1,8361,8972,0582,358 2,958 3,258 3,568 3,724 4.765
Cao đẳng
1,4521,486 1,5051,6181,8512,295 2,555 2,789 3,197 3,386 4.102
Trung cấp
1,3511,482 1,4981,5851,7151,905 2,189 2,388 2,686 2,892 3.675
Dạy nghề dài hạn
1,2151,355 1,3891,4051,5091,713 1,993 2,158 2,485 2,538 3.325
Dạy nghề ngắn hạn 1,0681,108 1,1111,1851,3401,543 1,632 1,989 2,230 2,346 2.765
Chưa qua đào tạo
0,8950,744 0,8590,9901,1031,195 1,360 1,589 1,753 1,823 2.236
Nguồn : Tổng cục thống kê, 2012
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, trình độ chuyên môn của nhân lực làm
việc trong ngành công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011 được thể hiện ở biểu sau :
Bảng 7.7 : Số lao động ngành công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011
phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Số lượng lao động (người)
Trình độ
chuyên
môn
Kỹ thuật 2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Tổng số 17757702005769244066928069793150324 3370447371104140906794480964 4728368 4880870 5446318
238
1489
377
2354
328
2046
269
1682
597 726
3672 4671
423
2642
573
3563
549
3430
498
3112
Tiến sỹ
882
452
Thạc sỹ
5982
2826
Đại học 128814 145498 177046 203618 228524 244492 269198 296737 304271 314854 351137 402034
Cao đẳng 44391
92770 102260 110438 116251 131080 168722
78753 84255
50141
70170
61013
109395 123564 150356 172922 194074 207635 228617 252004 273480 285966 338611 435980
243052 274531 334057 384194 431188 461316 507934 559895 574294 588472 642274 698068
412827 466297 567400 652558 732378 783553 862732 9509911015673 1036258 1111345 1337397
835564 943787114842313207861482342 1585918174618019248132198672 2382298 2301026 2397253
Trung
cấp
Dạy nghề
dài hạn
Dạy nghề
ngắn
hạn
Chưa
qua
đào tạo
Nguồn : Tổng cục thống kê, 2012
Căn cứ vào số liệu ở bảng 7.6 và 7.7 có thể xác định được tổng thu nhập của
lao động công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011 như sau :
227
Bảng 7.8 : Tổng thu nhập của lao động công nghiệp
giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Tổng thu nhập (triệu đồng/năm)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Trình
độ
chuyên
môn
Tiến sỹ
36842
42622
51035
59220
65893
73058
102627 133697
19572 22293 27784 32157
Thạc sỹ 80685 91999 113573 132455
151926 169390 197176
230414 255852 288399
405592 597602
Đại học 2763833 3130535 3900677 4635160 5643629 6918146 955545211601586 13027667 1407019620078856 27771222
773469 894114 1101895 1362421 1749262 2320383 2844106 3422438 4236843 4723511 6452282 9184686
1773512 2197462 2702799 3288976 3994043 4746785 6005311 7221427 8814807 992416414932745 20759624
Cao
đẳng
Trung
cấp
Tổng 5411071 6336403 7846729 945116911575700 14197326 1865308022535083 26401063 2907932841972103 58446831
Nguồn : Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục thống kê năm 2012
Để giảm thiểu sai số trong nghiên cứu, đồng thời để làm chuẩn so sánh giữa
các doanh nghiệp công nghiệp và các doanh nghiệp may, đề tài chỉ tiến hành nghiên
cứu khả năng tạo ra thu nhập của vốn nhân lực trong các doanh nghiệp công nghiệp
đối với nhân lực có trình độ từ trung cấp trở lên. Giả thiết rằng những người tốt
nghiệp ở bậc trung cấp đều đã tốt nghiệp lớp 12 vì theo khảo sát, từ năm 2009 trở về
trước, số lượng tuyển sinh bậc trung cấp có trình độ đầu vào tốt nghiệp trung học cơ
sở rất nhỏ. Mặt khác, số năm đi học chuyên môn kỹ thuật ở các bậc đào tạo sẽ được
giả thiết như đã nêu rõ trong mục 7.1 ở trên.
Với các giả thiết như trên và số liệu ở bảng 7.7, tổng vốn nhân lực phổ cập
và vốn nhân lực chuyên môn theo số năm đi học của lao động trong các doanh
nghiệp công nghiệp được biểu hiện ở bảng sau :
Bảng 7.9 : Tổng vốn nhân lực của các doanh nghiệp công nghiệp
giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Số năm đi học phổ thông và chuyên môn kỹ thuật (năm)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Trình độ
Chuyên
môn
Tiến sỹ
5649
6888
7917
8883
9492
10458
11529
12033
12537
4998
15246
18522
Thạc sỹ
47556 50868
56016
61740
64134
66096
26802 30276 36828 42372
84078
107676
Đại học 2061024 2327968 2832736 32578883656384 3911872 4307168 4747792 4868336 5037664 5618192 6432544
Cao đẳng 966836 1117643 1377368 17030262186577 2900478 3555132 4278047 5296054 5904388 1966200 2530830
Trung cấp 1531530 1729896 2104984 24209082717036 2906890 3200638 3528056 3828720 4003524 4740554 6103720
Tổng
4591190 5211432 6358804 74321118616436 9779600 11129412 1262716414069277 15024209 12424270 15193292
Nguồn : Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê năm 2012
228
Từ số liệu ở bảng 7.8 và 7.9, có thể xác định được thu nhập bình quân tính
cho một đơn vị vốn nhân lực giai đoạn 2000 – 2011 của các doanh nghiệp công
nghiệp phân theo trình độ ở bảng sau đây:
Bảng 7.10 Thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các
doanh nghiệp công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ
Trình độ
Thu nhập bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực
chuyên môn
(triệu đồng/năm đi học)
kỹ thuật
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
2011
Tiến sỹ
3,92 3,95 4,03 4,06 4,15 4,49 4,88 5,14 5,48 5,83
6,73
7,22
Thạc sỹ
3,01 3,04 3,08 3,13 3,19 3,33 3,52 3,73 3,99 4,36
4,82
5,55
Đại học
1,34 1,34 1,38 1,42 1,54 1,77 2,22 2,44 2,68 2,79
3,57
4,32
Cao đẳng
1,16 1,19 1,20 1,29 1,48 1,84 2,04 2,23 2,56 2,71
3,28
3,63
Trung cấp
1,16 1,27 1,28 1,36 1,47 1,63 1,88 2,05 2,30 2,48
3,15
3,40
Bình quân chung
1,26 1,31 1,33 1,39 1,52 1,74 2,08 2,28 2,53 2,68
3,38
3,85
Nguồn : Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê, 2012
229
PHỤ LỤC 8 : NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG BÌNH QUÂN TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP MAY VÀ CÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2000 – 2011
8.1- Năng suất lao động bình quân trong các doanh nghiệp may giai đoạn 2000
– 2011 chia theo trình độ
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, trình độ chuyên môn kỹ thuật của nhân
lực trong doanh nghiệp may giai đoạn 2000 – 2011 được thể hiện ở bảng sau đây :
Bảng 8.1 : Số lao động ngành may giai đoạn 2000 – 2011
phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Số lượng lao động (người)
Trình độ
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
2009
2010
2011
chuyên
môn
kỹ thuật
Tổng số
231948253613 356395436342 498226511278 585414706093 749647 850325 866277 970660
Tiến sỹ
3
4
5
6
7
7
8
10
12
15
38
59
Thạc sỹ
45
51
63
88
107
113
136
152
172
193
273
344
Đại học
3309
3991
6149
8009
9599 10764 12761 14185 15342
17825
23824
30235
Cao đẳng
3005
3736
5424
6951
8098
9061 10501 12666 13181
15154
19472
32181
Trung cấp
4320
5005
7787
9802 14765 16599 20715 24985 26282
28835
30263
58611
20058 23482 34819 47333 57544 58061 67693 81648 94128 108164 104827
98723
Dạy nghề
dài hạn
103699110385 153503185986 211073214590 244166294499 311593 353499 360705 538547
Dạy nghề
ngắn hạn
97509106959 148645178167 197033202083 229434277948 288937 326640 326875 211960
Chưa qua
đào tạo
Nguồn : Tổng cục thống kê, 2012
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, năng suất lao động bình quân của các
doanh nghiệp may giai đoạn 2000 – 2011 được biểu hiện trong bảng sau :
230
Bảng 8.2 : Năng suất lao động bình quân của doanh nghiệp may tính cho một
lao động giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ
Năng suất lao động bình quân (Triệu đồng/Người/Tháng)
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Tiến sỹ
7,31310,131 10,29310,48812,04912,07112,14812,34113,165 12,738 13,854 15,527
Thạc sỹ
4,216 5,795 6,087 6,313 6,449 6,639 7,034 7,046 7,622 7,239 8,125 8,861
Đại học
1,653 2,117 2,234 2,365 2,733 2,440 3,369 3,534 4,142 4,201 4,756 5,529
Cao đẳng 1,339 1,605 1,816 2,034 2,325 2,410 2,700 2,737 3,368 3,135 3,862 4,465
Trung cấp 1,114 1,313 1,494 1,598 1,770 1,781 2,036 2,257 2,575 2,405 3,236 3,862
Dạy nghề
0,961 1,069 1,132 1,250 1,458 1,452 1,814 1,856 2,165 2,112 2,762 3,164
dài hạn
Dạy nghề
0,847 0,915 0,915 1,059 1,205 1,293 1,460 1,662 2,020 1,807 2,434 2,737
ngắn hạn
Chưa qua
0,649 0,729 0,740 0,855 0,965 1,035 2,276 1,362 1,513 1,464 1,724 1,936
đào tạo
Bình quân
2,33
2,82
0,80
0,89 0,91
1,05
1,20
1,27
1,91
1,65
1,93
1,81
chung
Nguồn : Tổng cục thống kê, 2012
Từ số liệu ở bảng 8.1 và 8.2 có thể xác định được tổng giá trị sản xuất của
các doanh nghiệp may tạo ra. Để giảm thiểu sai số, đề tài chỉ tiến hành nghiên cứu
năng suất lao động bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các doanh
nghiệp may đối với nhân lực có trình độ từ trung cấp trở lên. Giả thiết rằng những
người tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề đều đã tốt nghiệp lớp 12,
vì theo khảo sát, từ năm 2009 trở về trước, số lượng tuyển sinh trung cấp chuyên
nghiệp có trình độ đầu vào tốt nghiệp trung học cơ sở rất nhỏ. Mặt khác, số năm đi
học chuyên môn kỹ thuật ở các bậc đào tạo sẽ được giả thiết như đã nêu rõ ở mục
7.1 trong phụ lục 7. Tổng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp may tạo ra giai
đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ được thể hiện ở bảng sau :
231
Bảng 8.3: Tổng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp may tạo ra
giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ
Tổng giá trị (Triệu đồng/năm)
2000 2001 2002 2003 2004 2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Tiến sỹ
263
486
618
755
1012
1014
1166
1481
1896
2293
6317
10993
Thạc sỹ
2277
3547
4602
6666
8280
9003
11479
12851
15732 16766
26618
36578
Đại học 65654101408164879227286314838315170 515910 601489 762495 8986791359683 2006032
Cao
48294 71953118203169657225905262017 340215 415926 532758 570108 902410 1724258
đẳng
Trung
57756 78830139632188000313648354824 506131 676754 812160 8321091175318 2716550
cấp
174243256224427934592365863682942027137490117085012125040 23199553470347 6494411
Tổng
Nguồn : Tính toán của tác giả dựa trên số liệu của Tổng cục thống kê, 2012
Với các giả thiết như trên, tổng vốn nhân lực phổ cập và vốn nhân lực
chuyên môn theo số năm đi học của lao động trong các doanh nghiệp may đã
được biểu hiện ở bảng 7.4 của phụ lục 7 như sau :
Bảng 8.4 : Tổng vốn nhân lực của các doanh nghiệp may giai đoạn 2000 – 2011
phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Trình độ
Số năm đi học phổ thông và chuyên môn kỹ thuật (năm)
chuyên
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
2009
2010
2011
môn
Tiến sỹ
147
147
168
210
252
315
63
84
105
126
798
1239
Thạc sỹ
2034
2448
2736
3096
3474
810
918
1134
1584 1926
4914
6192
Đại học
52944 63856 98384 128144 153584 172224204176226960245472 285200 381184
483760
Cao đẳng 45075 56040 81360 104265 121470 135915157515189990197715 227310 292080
482715
Trung
60480 70070109018 137228 206710 232386290010349790367948 403690 423682
820554
cấp
Tổng
159372190968290001 371347 483837 542706654317769686814483 919989 1102658
1794460
Nguồn : Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê năm 2012
Căn cứ vào số liệu ở bảng 8.3 và bảng 8.4 có thể xác định được năng suất lao
động bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các doanh nghiệp may giai
đoạn 2000 – 2011 như sau :
232
Bảng 8.5 : Năng suất lao động bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của
các doanh nghiệp may giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ
Năng suất lao động bình quân (Triệu đồng/năm đi học)
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Tiến sỹ
4,18 5,79 5,88 5,99 6,89 6,90 6,94 7,05 7,52 7,28 7,92 8,87
Thạc sỹ
2,81 3,86 4,06 4,21 4,30 4,43 4,69 4,70 5,08 4,83 5,42 5,91
Đại học
1,24 1,59 1,68 1,77 2,05 1,83 2,53 2,65 3,11 3,15 3,57 4,15
Cao đẳng
1,07 1,28 1,45 1,63 1,86 1,93 2,16 2,19 2,69 2,51 3,09 3,57
Trung cấp
0,95 1,13 1,28 1,37 1,52 1,53 1,75 1,93 2,21 2,06 2,77 3,31
1,09 1,34 1,48 1,60 1,79 1,74 2,10 2,22 2,61 2,52 3,15 3,62
Bình quân
chung
Nguồn : Tính toán của tác giả dựa trên số liệu của Tổng cục thống kê, 2012
8.2- Năng suất lao động bình quân trong các doanh nghiệp công nghiệp giai
đoạn 2000 – 2011 chia theo trình độ
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, năng suất lao động bình quân của một
lao động công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011 được biểu hiện ở bảng sau :
Bảng 8.6 : Năng suất lao động bình quân của doanh nghiệp công nghiệp tính
cho một lao động giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ
Năng suất lao động bình quân (Triệu đồng/Người/Tháng)
2008
2009
2010
2011
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Trình độ
chuyên
môn
Tiến sỹ
10,96511,050 11,294 11,37311,61312,573 13,66414,382
15,333 16,317 16,856 17,636
Thạc sỹ
6,773 6,837 6,939
7,034 7,188 7,493 7,920 8,397
8,976 9,818 10,265 11,637
Đại học
2,503 2,510 2,570
2,656 2,881 3,301 4,141 4,561
4,995 5,214
5,964 6,536
Cao đẳng
1,888 1,932 1,957
2,103 2,406 2,984 3,321 3,626
4,156 4,402
4,762 4,927
Trung cấp
1,621 1,778 1,798
1,902 2,058 2,286 2,627 2,866
3,223 3,470
3,876 4,463
1,337 1,490 1,528
1,546 1,659 1,884 2,192 2,374
2,734 2,792
3,679 3,954
Dạy nghề
dài hạn
1,153 1,197 1,200
1,280 1,447 1,666 1,763 2,148
2,408 2,534
2,943 3,308
Dạy nghề
ngắn hạn
1,040 1,158 1,255 1,428 1,668
1,841 1,914
0,940 0,781 0,902
2,325 2,603
Chưa qua
đào tạo
Nguồn : Tổng cục thống kê, 2012
233
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, trình độ chuyên môn của nhân lực làm
việc trong ngành công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011 được thể hiện ở biểu sau :
Bảng 8.7 : Số lao động ngành công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011
phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Số lượng lao động (người)
Trình độ
chuyên
môn
Kỹ thuật 2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Tổng số 17757702005769244066928069793150324 3370447371104140906794480964 4728368 4880870 5446318
Tiến sỹ
238
269
328
377
423
452
498
549
573
597
726
882
Thạc sỹ
1489
1682
2046
2354
2642
2826
3112
3430
3563
3672
4671
5982
Đại học 128814 145498 177046 203618 228524 244492 269198 296737 304271 314854 351137 402034
Cao đẳng 44391
50141
61013
70170
78753 84255
92770 102260 110438 116251 131080 168722
109395 123564 150356 172922 194074 207635 228617 252004 273480 285966 338611 435980
Trung
cấp
243052 274531 334057 384194 431188 461316 507934 559895 574294 588472 642274 698068
Dạy nghề
dài hạn
412827 466297 567400 652558 732378 783553 862732 9509911015673 1036258 1111345 1337397
Dạy nghề
ngắn
hạn
835564 943787114842313207861482342 1585918174618019248132198672 2382298 2301026 2397253
Chưa
qua
đào tạo
Nguồn : Tổng cục thống kê, 2012
Từ số liệu ở bảng 8.6 và 8.7 có thể xác định được tổng giá trị sản xuất của
các doanh nghiệp công nghiệp tạo ra. Để giảm thiểu sai số, đề tài chỉ tiến hành
nghiên cứu năng suất lao động bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các
doanh nghiệp công nghiệp đối với nhân lực có trình độ từ trung cấp trở lên. Giả
thiết rằng những người tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề đều đã
tốt nghiệp lớp 12 vì theo khảo sát, từ năm 2009 trở về trước, số lượng tuyển sinh
bậc trung cấp có trình độ đầu vào tốt nghiệp trung học cơ sở rất nhỏ. Mặt khác, số
năm đi học chuyên môn kỹ thuật ở các bậc đào tạo sẽ được giả thiết như đã nêu rõ ở
mục 7.1 của phụ lục 7. Với các giả thiết trên, tổng giá trị của các doanh nghiệp
công nghiệp tạo ra được biểu hiện ở bảng sau:
234
Bảng 8.8 Tổng giá trị của các doanh nghiệp công nghiệp tạo ra
giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ
Trình
Tổng giá trị sản xuất (Triệu đồng/ Năm)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
độ
Tiến
31315 35668
44455
51451
58947
68195
81656
94751 105428
116894 146849 186659
sỹ
Thạc
121027 137998 170359
198682 227888 254086
295764 345621 383778
432598 575396 835350
sỹ
Đại
3869366 4382749 5460948 6489224 7901080 968540413377633 16242220 1823873419698274 25130173 31534260
học
Cao
1005509 1162349 1432463 1771147 2274040 3016498 3697337 4449169 5507896 6140564 7490436 9975520
đẳng
Trung
2128214 2636955 3243359 3946772 4792852 5696142 7206374 8665712 1057776911908997 15749475 23350511
cấp
Tổng 7155433 8355718 1035158512457276 15254807 1872032424658764 29797473 3481360538297326 49092329 65882301
Nguồn : Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê 2012
Tổng vốn nhân lực phổ cập và vốn nhân lực chuyên môn theo số năm đi học
của lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp đã được tính toán trong bảng 7.9
của phụ lục 7, cụ thể như sau :
Bảng 8.9 : Tổng vốn nhân lực của các doanh nghiệp công nghiệp
giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Số năm đi học phổ thông và chuyên môn kỹ thuật (năm)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Trình độ
Chuyên
môn
Tiến sỹ
5649
6888
7917
8883
9492
10458
11529
12033
12537
4998
15246
18522
Thạc sỹ
26802 30276 36828 42372
47556 50868
56016
61740
64134
66096
84078
107676
Đại học 2061024 2327968 2832736 32578883656384 3911872 4307168 4747792 4868336 5037664 5618192 6432544
Cao đẳng 966836 1117643 1377368 17030262186577 2900478 3555132 4278047 5296054 5904388 1966200 2530830
Trung cấp 1531530 1729896 2104984 24209082717036 2906890 3200638 3528056 3828720 4003524 4740554 6103720
Tổng
4591190 5211432 6358804 74321118616436 9779600 11129412 1262716414069277 15024209 12424270 15193292
Nguồn : Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê năm 2012
235
Căn cứ vào số liệu ở bảng 8.8 và bảng 8.9 có thể xác định được năng suất lao
động bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực của các doanh nghiệp công
nghiệp giai đoạn 2000 – 2011 như sau :
Bảng 8.10 : Năng suất lao động bình quân tính cho một đơn vị vốn nhân lực
của các doanh nghiệp công nghiệp giai đoạn 2000 – 2011 phân theo trình độ
Năng suất lao động bình quân (Triệu đồng/Năm đi học)
2000 2001 2002
2003
2004
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Tiến sỹ
6,27 6,31
6,45
6,50
6,64
7,18 7,81 8,22 8,76 9,32 9,63 10,08
Thạc sỹ
4,52 4,56
4,63
4,69
4,79
5,00 5,28 5,60 5,98 6,55 6,84 7,76
Đại học
1,88 1,88
1,93 1,99
2,16
2,48 3,11 3,42 3,75 3,91 4,47 4,90
Cao đẳng 1,51 1,55
1,57
1,68
1,93
2,39 2,66 2,90 3,32 3,52 3,81 3,94
Trung cấp 1,39 1,52
1,54
1,63
1,76
1,96 2,25 2,46 2,76 2,97 3,32 3,83
Tổng
1,67 1,72
1,76 1,84
2,00
2,30 2,75 3,02 3,34 3,53 3,95 4,34
Nguồn : Tính toán từ nguồn số liệu của Tổng cục thống kê, 2012
8.3 Mức tăng năng suất lao động theo mức tăng vốn nhân lực chuyên môn của
các doanh nghiệp may
Để nghiên cứu chất lượng vốn nhân lực chuyên môn của các doanh nghiệp
may, giả thiết số năm đi học chuyên môn kỹ thuật như sau :
- Nhân lực chưa qua đào tạo là nhân lực chưa từng dự một lớp học nào về
chuyên môn kỹ thuật và có số năm học chuyên môn kỹ thuật bằng : 0
- Các doanh nghiệp công nghiệp nói chung và các doanh nghiệp may nói
riêng thường sử dụng công nhân kỹ thuật bán lánh nghề để thực hiện một hoặc một
số công việc có độ phức tạp không cao trong quy trình sản xuất, thời gian đào tạo
với đối tượng này thông thường là 03 tháng. Vì vậy, giả thiết rằng nhân lực học
nghề ngắn hạn có số năm học chuyên môn kỹ thuật bằng: 0,25 năm.
- Do số nhân lực được đào tạo nghề dài hạn tốt nghiệp từ năm 2011 trở về
trước đều học theo chương trình đào tạo công nhân kỹ thuật chính quy, thường có
thời gian đào tạo là 2 năm, vì vậy giả thiết nhân lực học nghề dài hạn có số năm học
chuyên môn kỹ thuật bằng : 2 năm.
236
- Trong các chương trình đào tạo trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề
hiện nay, thời gian đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho cả đối tượng tốt nghiệp trung
học phổ thông và phổ thông cơ sở đều là 02 năm, chỉ khác là đối tượng tốt nghiệp
trung học cơ sở phải học thêm 01 năm văn hoá trước khi học chuyên môn kỹ thuật.
Vì vậy, giả thiết rằng nhân lực học trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề có số
năm học chuyên môn kỹ thuật bằng : 2 năm
- Theo các chương trình khung đào tạo trình độ cao đẳng hiện hành, thời gian
đào tạo cao đẳng, cao đẳng nghề là 03 năm, do vậy giả thiết rằng nhân lực trình độ
cao đẳng có thời gian học chuyên môn kỹ thuật là 03 năm.
- Theo các chương trình khung đào tạo trình độ đại học, sinh viên tốt nghiệp
đại học từ năm 2011 trở về trước thường có thời gian học tập khác nhau giữa hai
khối ngành kinh tế-quản trị kinh doanh và kỹ thuật. Khối ngành kinh tế- quản trị
kinh doanh có thời gian học tập là 04 năm, khối ngành kỹ thuật có thời gian học tập
là 05 năm. Tuy nhiên, để thống nhất chuẩn so sánh tương đối giữa vốn nhân lực
chuyên môn của các doanh nghiệp may và các doanh nghiệp công nghiệp sau này,
giả thiết rằng thời gian học tập chuyên môn kỹ thuật ở bậc đại học là 04 năm.
- Vì các chương trình đào tạo thạc sĩ tập trung có thời gian đào tạo là 02 năm
sau khi tốt nghiệp đại học. Do đó, giả thiết rằng nhân lực tốt nghiệp bậc thạc sĩ có
thời gian học tập chuyên môn kỹ thuật là 06 năm sau khi tốt nghiệp phổ thông trung
học.
- Thời gian đào tạo bậc tiến sĩ thường là 03 năm đối với những nghiên cứu
sinh đã có bằng thạc sĩ. Vì vậy, giả thiết rằng thời gian học tập chuyên môn kỹ thuật
đối với người có bằng tiến sĩ là 09 năm sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học.
Với các giả thiết nêu trên và số liệu ở bảng 8.2, có thể xác định được tổng
vốn nhân lực chuyên môn và vốn nhân lực chuyên môn bình quân của các doanh
nghiệp may giai đoạn 2000 – 2011 như sau :
237
Bảng 8.11: Vốn nhân lực chuyên môn của các doanh nghiệp may
giai đoạn 2000 – 2011
Trình độ
Số năm đi học (năm)
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
2010
2011
chuyên môn
kỹ thuật
45
378
36
306
63
642
54
528
342
135
1158 1638
108
1032
72
816
90
912
63
678
27
270
Tiến sỹ
Thạc sỹ
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
531
2064
13236 15964 24596 32036 38396 43056 51044 56740 61368 71300 95296 120940
9015 11208 16272 20853 24294 27183 31503 37998 39543 45462 58416 96543
8640 10010 15574 19604 29530 33198 41430 49970 52564 57670 60526 117222
40116 46964 69638 94666115088116122135386163296188256 216328 209654 197446
Dạy nghề
dài hạn
25925 27596 38376 46497 52768 53648 61042 73625 77898 88375 90176 134637
Dạy nghề
ngắn hạn
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
Chưa qua
đào tạo
97229 112084164879214238260781273948321293382631420769 480428 516048 669383
Tổng VNL
chuyên môn
0,42 0,44
0,46
0,49
0,52
0,54
0,55
0,54
0,56
0,56
0,6
0.69
VNLchuyên
môn trung
bình
22548 27514 41291 53471 63395 70980 83435 95740102051 118055 155692 220078
Tổng VNL
chuyên môn
từ cao đẳng
trở lên
3,54 3,54
3,55
3,55
3,56
3,56
3,56
3,54
3,55
3,56
3,57
3,50
VNL chuyên
môn
trung bình từ
cao đẳng trở
lên
Nguồn : Tính toán của tác giả dựa trên số liệu của Tổng cục thống kê, 2012
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng các năm từ 2000
đến 2011 được thể hiện ở biểu sau đây :
238
Bảng 8.12 : Chỉ số giá tiêu dùng giai đoạn 2000 - 2011 Đơ n vị tính : %
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Năm 2000 = 100 100,0 100,8 104,7 108,0 118,2 128,0137,7155,0190,6203,8 227,7270,0
Năm trước = 100 98,4 100,8 103,9 103,1 109,5 108,3107,5112,6123,0106,9 111,8 118,6
Nguồn: Niên giám thống kê 2006, 2008, 2011 và tính toán của tác giả
Từ số liệu tại bảng 8.2 và 8.12, có thể xác định được năng suất lao động của
các doanh nghiệp may sau khi giảm trừ theo tỷ lệ lạm phát như sau :
Bảng 8.13 : Năng suất lao động bình quân của các doanh nghiệp may
đã giảm trừ theo lạm phát giai đoạn 2000 – 2011
Chỉ tiêu
Năng suất lao động bình quân
(Triệu đồng/Người/Tháng)
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
0,80 0,89 0,91 1,05 1,20 1,27 1,91 1,65 1,93 1,81 2,33 2,82
0,80 0,88 0,87 0,97 1,03 1,01 1,41 1,12 1,07 0,94 1,08 1,10
Năng suất lao động theo
giá thực tế
Năng suất lao động đã
giảm trừ theo tỷ lệ lạm
phát
Nguồn : Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê, 2012
Từ số liệu tại bảng 8.11 và 8.13, có thể xác định được tốc độ tăng năng suất
lao động và tốc độ tăng vốn nhân lực chuyên môn bình quân của các doanh nghiệp
may giai đoạn 2001 – 2011 như sau :
Bảng 8.14 : Tốc độ tăng năng suất lao động và tốc độ tăng vốn nhân lực chuyên
môn bình quân của các doanh nghiệp may Việt Nam giai đoạn 2001 – 2011
Tỷ lệ tăng năm sau so với năm trước
Chỉ tiêu
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Tỷ lệ
tăng
bình
quân
1,11 0,99 1,11 1,06 0,97 1,40 0,80 0,95 0,88 1,15 1,02
1,030
1,05 1,05 1,06 1,07 1,02 1,02 0,99 1,04 1,01 1,05 1,16
1,046
1,05 0,94 1,05 1,00 0,95 1,36 0,81 0,92 0,87 1,09 0,88
0,98
Tốc độ tăng năng suất
lao động
Tốc độ tăng vốn nhân
lực chuyên môn bình
quân
Tốc độ tăng năng suất
/ Tốc độ tăng vốn nhân
lực chuyên môn
Nguồn : Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê, 2012