1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM T Ư NG ĐẠ H C NGÂN HÀNG T . HỒ CHÍ MINH

BÙI QUANG TÍN

QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ K NH TẾ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2013

2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM T Ư NG ĐẠ H C NGÂN HÀNG T . HỒ CHÍ MINH

BÙI QUANG TÍN

QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ K NH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG MÃ SỐ: 62.34.02.01

NGƯ HƯỚNG DẪN KHOA H C: PGS.;TS. NGÔ HƯỚNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2013

3

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả Luận án có lời cam đoan danh dự về công trình khoa học này của

mình, cụ thể:

- Tôi tên là: Bùi Quang Tín

- Sinh ngày: 20/10/1976

- Quê quán: Quãng Ngãi

- Hiện công tác tại: Khoa Quản trị Kinh doanh – Trường Đại học Ngân hàng

TP.HCM

- Là Nghiên cứu sinh khóa 15 của Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM

- Đề tài: Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng thương

mại cổ phần tại Thành phố Hồ Chí Minh

- Người hướng dẫn: PGS.;TS. Ngô Hướng

Luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu

có tính độc lập, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa được công bố toàn bộ

nội dung này bất kỳ ở đâu; các số liệu, các nguồn trích dẫn trong Luận án được chú

thích nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tôi.

TP.Hồ Chí Minh, ngày 06 tháng 06 năm 2013

Tác giả

Bùi Quang Tín

4

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

TIẾNG VIỆT

BTGĐ Ban Tổng Giám Đốc

Công ty SJC Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Vàng bạc đá quý Sài Gòn

CSTT Chính sách tiền tệ

HĐQT Hội đồng Quản trị

HTXTD Hợp tác xã tín dụng

KDNH Kinh doanh ngoại hối

NĐTNN Nhà đầu tư nước ngoài

NH NNo&PTNT Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam

NHNN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

NHTM Ngân hàng thương mại

NHTW Ngân hàng trung ương

NK Nhập khẩu

RRHĐ Rủi ro hoạt động

TCTD Tổ chức tín dụng

Thông tư 07 Thông tư số 07/2012/TT- NHNN quy định về trạng thái ngoại tệ

TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh

TSC Tài sản Có

Tài sản Có về ngoại tệ TSCF

TSN Tài sản Nợ

Tài sản Nợ về ngoại tệ TSNF

TTLNH Thị trường liên ngân hàng

TTNH Thị trường ngoại hối

XK Xuất khẩu

XNK Xuất nhập khẩu

VND Việt Nam đồng

5

TIẾNG NƯỚC NGOÀI

Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu ACB

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV

Chỉ số giá tiêu dùng CPI

Nhân viên kinh doanh Phòng Kinh doanh ngoại hối Dealer

ĐongA Bank Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Á

EXIMBANK Ngân hàng Thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam

Quỹ dự trữ liên bang Mỹ FED

Tổng sản phẩm quốc nội GDP

Ngân hàng Thương mại Hồng Kông và Thượng Hải HSBC

Quỹ tiền tệ quốc tế IMF

Cảnh sát Quốc tế Interpol

ISDA

Hợp đồng khung pháp lý do Hiệp hội Quốc tế về Hoán đổi và Phái sinh thực hiện

Thị trường mua bán thứ cấp OTC

SACOMBANK Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín

Chỉ số tin cậy thương mại TCI

VCB.HCM Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh

VIETTINBANK Ngân hàng Công Thương Việt Nam

Ngân hàng Thế giới WB

Tổ chức thương mại thế giới WTO

Đồng đôla Úc AUD

Đồng tiền chung Châu Âu EUR

Đồng Bảng Anh GBP

Đồng Yên Nhật JPY

Đồng Singapore SGD

Đồng đôla Mỹ USD

6

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của ACB .................................................... 70

Bảng 2.2: Kết quả hoạt động kinh doanh của SACOMBANK ................................... 71

Bảng 2.3: Kết quả hoạt động kinh doanh của EXIMBANK ....................................... 71

Bảng 2.4: Kết quả hoạt động kinh doanh của VIETA BANK .................................... 72

Bảng 2.5: Số lượng khách hàng và TCTD khác giao dịch kỳ hạn của Eximbank ...... 87

Bảng 2.6: Giá trị giao dịch kỳ hạn với khách hàng và với TCTD khác của Eximbank87

Bảng 2.7: Số lượng khách hàng và TCTD khác giao dịch hoán đổi của Eximbank ... 87

Bảng 2.8: Giá trị giao dịch hoán đổi với khách hàng và với TCTD khác của Eximbank .................................................................................................................... 88

Bảng 2.9: Giá trị giao dịch quyền chọn với TCTD khác của Eximbank .................... 88

Bảng 2.10: Lời / Lỗ từ giao dịch phái sinh ngoại tệ của Eximbank ........................... 89

Bảng 2.11: Giá trị giao dịch quyền chọn vàng tại ACB ............................................. 89

Bảng 3.1: Thống kê giá vàng SJC thực tế (từ 11/12/2009 – 16/06/2012) ................ 183

Bảng 3.2: Bảng chi tiết tính toán VaR cho vàng (trạng thái trường) ........................ 131

Bảng 3.3: Bảng kết quả VaR cho vàng (trạng thái trường) ...................................... 132

Bảng 3.4: Bảng chi tiết tính toán VaR cho vàng (trạng thái đoản) ........................... 133

Bảng 3.5: Bảng kết quả VaR cho vàng (trạng thái đoản) ......................................... 133

Bảng 3.6: Thống kê giá CHF và các kết quả tính toán của tác giả ........................... 134

Bảng 3.7: Bảng phân tích trạng thái và kết quả VaR của CHF ................................ 136

7

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Tình hình lạm phát qua các năm ............................................................ 73

Biểu đồ 2.2: Thâm hụt/Thặng dư cán cân thương mại................................................ 74

Biểu đồ 2.3: Tỷ giá USD/VND bình quân năm từ năm 2007 đến năm 2012 ............. 77

Biểu đồ 2.4: Lãi/Lỗ thu nhập trong kinh doanh ngoại hối (ngoại tệ và vàng) tại Ngân hàng ACB .......................................................................................................... 77

Biểu đồ 2.5: Lãi/Lỗ thu nhập trong kinh doanh ngoại hối (ngoại tệ và vàng) tại Ngân hàng EXIMBANK ............................................................................................. 78

Biểu đồ 2.6: Lãi/Lỗ thu nhập trong kinh doanh ngoại hối (ngoại tệ và vàng) tại Ngân hàng SACOMBANK ......................................................................................... 79

Biểu đồ 2.7: Lãi/Lỗ thu nhập trong kinh doanh ngoại hối (ngoại tệ và vàng) tại Ngân hàng Ngân hàng VIỆT Á ................................................................................... 80

Biểu đồ 2.8: Tỷ lệ đôla hóa (tín dụng bằng ngoại tệ/M2) ........................................... 81

Biểu đồ 2.9: Giá vàng thế giới bình quân qua các năm .............................................. 83

Biểu đồ 2.10: Giá vàng SJC bình quân qua các năm .................................................. 84

Biểu đồ 3.1: Phân phối xác xuất chuẩn của daily return CHFUSD .......................... 135

8

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG

KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

CỔ PHẦN ......................................................................................................... 1

1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ KINH

DOANH NGOẠI HỐI ..................................................................................... 1

1.1.1. . Quan hệ ngoại hối trong nền kinh tế .................................................................. 1

1.1.2. . Thị trường ngoại hối .......................................................................................... 3

1.1.2.1. Khái niệm thị trường ngoại hối .................................................................... 3

1.1.2.2. Đặc điểm, chức năng của thị trường ngoại hối ............................................ 4

1.1.2.3. Các chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối ........................................... 6

1.1.2.4. Xu hướng phát triển của thị trường ngoại hối trên thế giới ......................... 8

1.1.3. Kinh doanh ngoại hối ....................................................................................... 10

1.1.3.1. Khái niệm ngoại hối ................................................................................... 10

1.1.3.2. Khái niệm kinh doanh ngoại hối và những vấn đề cơ bản trong kinh

doanh ngoại hối .......................................................................................... 11

1.1.3.3. Các loại giao dịch ngoại hối ...................................................................... 14

 Giao dịch ngoại hối giao ngay (Spot) ................................................... 14

 Giao dịch ngoại hối kỳ hạn (Forward) ................................................. 16

 Giao dịch ngoại hối tương lai (Future) ................................................ 18

 Giao dịch ngoại hối hoán đổi (Swap) ................................................... 19

 Giao dịch ngoại hối quyền chọn (Option) ............................................ 20

9

1.2. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN RỦI RO TRONG KINH DOANH

NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI .......................... 22

1.2.1. Các nhân tố chung tác động đến rủi ro trong kinh doanh ngoại hối ................ 23

1.2.1.1. Các yếu tố bên ngoài ...................................................................................... 23

1.2.1.2. Các yếu tố bên trong ...................................................................................... 23

1.2.2. Các nhân tố riêng tác động đến rủi ro trong kinh doanh ngoại hối .................. 31

1.3. CÁC TIÊU CHÍ ĐO LƯỜNG RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI

HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI......................................... 33

1.3.1. Các tiêu chí định lượng .................................................................................... 33

1.3.1.1. Phương pháp đo lường VaR ........................................................................... 33

1.3.1.2. Phương pháp đo lường trạng thái ngoại tệ ................................................... 34

1.3.2. Các tiêu chí định tính ....................................................................................... 34

1.4. QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ..................................................................... 35

1.4.1. Rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương mại ................ 35

1.4.2. Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương mại .... 35

1.4.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối của Ngân hàng thương mại 35

1.4.2.2. Vai trò của quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối đối với Ngân hàng

thương mại ....................................................................................................... 36

1.4.2.3. Các phương pháp quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối tại Ngân hàng

thương mại ....................................................................................................... 37

 Sử dụng các giới hạn trạng thái ngoại hối giao dịch qua đêm .................. 37

 Cân bằng trạng thái ngoại hối ................................................................... 40

 Sử dụng các kỹ thuật dự đoán tỷ giá .......................................................... 40

 Sử dụng các công cụ phái sinh ................................................................... 43

 Sử dụng công cụ VaR – Giá trị chịu rủi ro ................................................ 47

1.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các

Ngân hàng thương mại ...................................................................................... 52

1.4.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng từ phía các NHTM .................................................. 52

10

1.4.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng từ bên ngoài .............................................................. 54

1.5. NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA TỪ KINH NGHIỆM VỀ QUẢN LÝ RỦI

RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA NGÂN HÀNG Ở MỘT

SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI .......................................................................... 55

1.5.1. Bài học thứ nhất về quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ cho các NHTM. 55

1.5.2. Bài học thứ hai về quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ cho các NHTM ... 59

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .......................................................................................... 64

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH

NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI

TP.HCM .......................................................................................................... 66

2.1. KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG CÁC NHTM CỔ PHẦN TẠI TP.HCM .... 66

2.1.1. Tổng quan về hệ thống ngân hàng tại TP.HCM thời kỳ trước 1990 ............... 66

2.1.2. Nhu cầu hình thành các thể chế mới ................................................................ 68

2.1.3. Sự hình thành các Ngân hàng thương mại cổ phần.......................................... 68

2.1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh của các NHTM cổ phần tại TP.HCM ............. 70

2.2. THỰC TRẠNG VỀ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI

CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM ..... 72

2.2.1. Các nhân tố chung tác động đến rủi ro kinh doanh vàng và ngoại tệ ............. 72

2.2.1.1 . Các yếu tố bên ngoài ...................................................................................... 72

2.2.1.2 .Các yếu tố bên trong ...................................................................................... 75

- Lạm phát .................................................................................................. 75

- Thâm hụt cán cân thương mại ................................................................. 78

- Tình trạng đôla hóa nền kinh tế .............................................................. 80

- Trạng thái ngoại tệ .................................................................................. 81

- Cơ chế điều hành tỷ giá .......................................................................... 82

- Các hợp đồng giao dịch phái sinh ngoại hối .......................................... 87

2.2.2 Các nhân tố riêng tác động đến rủi ro kinh doanh vàng và ngoại tệ ................ 90

11

2.3. THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH

NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI

TP.HCM .......................................................................................................... 94

2.3.1. Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng ............................................. 95

2.3.1.1. Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng vật chất ........................ 95

2.3.1.2. Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ............ 101

2.3.1.3. Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu vàng ......... 104

2.3.2. Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ ...................................... 106

2.3.2.1. Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ phái sinh ngoại tệ .................................. 106

2.3.2.2. Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ mua bán ngoại tệ giao ngay .................. 109

2.4. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH

DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ

PHẦN TẠI TP.HCM .................................................................................... 111

2.4.1. Thành tựu ....................................................................................................... 111

2.4.2. Hạn chế .......................................................................................................... 111

2.4.3. Nguyên nhân .................................................................................................. 112

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 113

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG

KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

CỔ PHẦN TẠI TP.HCM ............................................................................ 115

3.1. ĐỊNH HƯỚNG VỀ TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO

TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN.............................................................................. 115

3.2. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO KINH DOANH NGOẠI

HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM117

3.2.1. Tổ chức lại hoạt động kinh doanh ngoại hối ................................................. 117

3.2.2. Sử dụng công cụ hạn mức .............................................................................. 120

3.2.3. Sử dụng các phương pháp dự báo tỷ giá ........................................................ 122

12

3.2.4. Sử dụng công cụ lệnh ..................................................................................... 124

3.3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO KINH

DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ

PHẦN TẠI TP.HCM ........................................................................................ 125

3.3.1 Các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường trong hoạt động quản lý rủi ro kinh

doanh ngoại hối .............................................................................................. 125

3.3.1.1 . Thiết lập trạng thái ngoại hối hợp lý và phù hợp ........................................ 125

3.3.1.2 . Sử dụng mô hình định lượng rủi ro VAR ..................................................... 129

3.3.1.3 . Sử dụng các sản phẩm phái sinh ngoại tệ .................................................... 137

3.3.1.4 . Hạn chế các giao dịch trên thị trường không có nhu cầu thực ................... 140

3.3.2 Các giải pháp khác từ phía các ngân hàng thương mại để hổ trợ cho việc tăng

cường hoạt động quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối .................................. 148

3.3.2.1 . Tăng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại ................................. 148

3.3.2.2 . Đầu tư công nghệ ......................................................................................... 148

3.3.2.3 . Phát triển nguồn nhân lực ........................................................................... 149

3.4. CÁC KIẾN NGHỊ VỚI CƠ QUAN CHỨC NĂNG ................................... 150

3.4.1. Kiến nghị với Chính phủ, Bộ, Ngành liên quan ............................................. 150

3.4.1.1. Ổn định tình hình bên ngoài: kinh tế, chính trị và xã hội ............................ 150

3.4.1.2. Các chính sách vĩ mô cơ bản: lạm phát, thâm hụt cán cân thương mại, tình

trạng đôla hóa nền kinh tế ........................................................................................ 152

3.4.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước ............................................................. 158

3.4.2.1.Chính sách tỷ giá USD/VND ......................................................................... 158

3.4.2.2. Phát triển thị trường sản phẩm phái sinh .................................................... 161

3.4.2.3. Chính sách đối với huy động và tín dụng ngoại tệ ....................................... 163

3.4.2.4. Lập sàn giao dịch vàng, ngoại tệ và các sản phẩm phái sinh mang tính quốc

gia .............................................................................................................................. 164

13

3.4.2.5. Hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ngoại tệ và kinh doanh

vàng ........................................................................................................................... 169

3.4.2.6. Bình ổn thị trường ngoại tệ và thị trường vàng ........................................... 170

3.4.2.7. Thanh tra, kiểm tra, giám sát thị trường ngoại tệ và vàng .......................... 173

3.4.2.8. Chính sách về rủi ro và kiểm soát ................................................................ 175

3.4.2.9. Chính sách kiều hối ..................................................................................... 176

3.4.2.10.Dự trữ ngoại hối .......................................................................................... 176

3.4.2.11. Trạng thái ngoại tệ ..................................................................................... 176

3.4.2.12. Hệ thống pháp luật ..................................................................................... 177

3.4.3. Kiến nghị với Hiệp hội Ngân hàng ................................................................ 177

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................ 178

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 179

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

14

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Kể từ ngày 07/11/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ

chức thương mại thế giới WTO và đang trong tiến trình cải cách để hội nhập vào

nền kinh tế thế giới và song song là tiến trình tự do hóa nền kinh tế mà lĩnh vực

được ưu tiên hàng đầu chính là lĩnh vực tài chính ngân hàng. Khi tự do hóa kinh tế,

các ngân hàng có nhiều thuận lợi hơn trong hoạt động nhưng đồng thời cũng chịu

thêm nhiều áp lực cạnh tranh cũng như rủi ro từ môi trường bên ngoài, trong khi

không thể tiếp tục trông chờ vào chính sách bảo hộ của nhà nước. Tiến trình tự do

hóa kinh tế tất yếu dẫn đến tự do hóa các dòng vốn, tự do hóa lãi suất và tự do hóa

tỷ giá hối đoái. Từ trước tới nay, nhờ chính sách can thiệp của nhà nước đã giúp cho

lãi suất và tỷ giá hối đoái rất ổn định, ngoại trừ một số thời điểm đặc biệt như khủng

hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á năm 1997-1998.

Thêm vào đó, hoạt động của các ngân hàng trong những năm trước đây chủ

yếu tập trung vào khâu tín dụng, có những ngân hàng hoạt động kinh doanh tín

dụng chiếm đến hơn 90%. Vì thế, vấn đề KDNH cũng như quản lý rủi ro tỷ giá

ngoại tệ và giá vàng trong KDNH chưa được các ngân hàng quan tâm đúng mức.

Chỉ đến thời gian gần đây từ năm 2006-2010, khi thị trường chứng khoán sôi động,

tỷ giá USD/VND tăng giảm nhanh, giá vàng biến động mạnh, tỷ trọng kinh doanh

tín dụng giảm dần, nhiều loại hình kinh doanh mới xuất hiện như đầu tư tài chính,

kinh doanh vàng, v.vv… áp lực cạnh tranh trên thị trường tăng cao thì các ngân

hàng mới bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến việc sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi

ro tỷ giá cho KDNH và các giải pháp khác trong việc quản lý rủi ro trong hoạt động

KDNH. Về phía các Ngân hàng, hoạt động KDNH luôn được kỳ vọng đem lại

nhiều lợi nhuận và rủi ro là thấp nhất. Trong khi đó, sự biến động của tỷ giá ngoại tệ

và giá vàng là rất khó để dự đoán và có thể gây ra nhiều thiệt hại cho cả ngân hàng.

Cho nên, việc tìm ra các giải pháp để phòng ngừa và nâng cao hiệu quả quản lý rủi

ro ngoại hối cho hoạt động KDNH là thật sự cần thiết. Chính vì lẽ đó, tác giả chọn

15

“QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI TẠI CÁC NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TP.HCM” để làm đề tài nghiên cứu cho Luận

án Tiến sĩ.

2. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

Qua tìm hiểu trong thời gian vừa qua, tác giả nhận thấy các đề tài nghiên cứu

có liên quan đến đề tài này chỉ có các tác giả khác thực hiện ở cấp Thạc sỹ ở trong

nước từ năm 2008 trở về trước, còn ở nước ngoài thì không tìm thấy có tác giả nào

làm đề tài có liên quan mật thiết đến đề tài của tác giả đang nghiên cứu.

Các đề tài trên được thực hiện từ năm 2008 về trước nên phần thực trạng

không còn phù hợp với tình hình hiện nay. Ngoài ra, ở chương các giải pháp của các

đề tài cấp Thạc sỹ vẫn còn mang nặng tính lý thuyết hay khó áp dụng vào thực tiễn

hoạt động của các NHTM cổ phần ở TP.HCM. Do đó, việc tìm ra giải pháp căn bản

và khả thi nhất nhằm tăng cường quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại

hối tại các NHTM tại TPHCM là việc làm vô cùng cần thiết, trong đó cần có một

mô hình áp dụng được trong thực tiễn hoạt động của các Ngân hàng nhằm giúp cho

các đơn vị có liên quan trong ngân hàng sử dụng được bất cứ khi nào có nhu cầu

kiểm soát và phòng ngừa rủi ro ngoại hối.

3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

 Xác định những nguyên nhân của tồn tại trong quản lý rủi ro ngoại hối của

Đề tài nghiên cứu nhằm đạt được 4 mục tiêu sau đây:

 Đề ra các giải pháp để hạn chế rủi ro trong kinh doanh ngoại hối tại các ngân

các ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM.

 Đề ra các giải pháp để tăng cường quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối

hàng thương mại cổ phần trên địa bàn TP.HCM.

 Kiến nghị những biện pháp nhằm hổ trợ cho hoạt động kinh doanh ngoại hối

của các Ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn TP.HCM.

và quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối.

16

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu thực trạng và các

giải pháp trong việc tăng cường quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các

ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM.

Ngoài ra, trong hoạt động kinh doanh ngoại hối, Luận án này chỉ giới hạn

phạm vi nghiên cứu là các loại ngoại tệ mạnh (gồm có: USD, EUR, GBP, AUD,

JPY, CAD, CHF, SGD) và vàng, tại vì đây là hai loại ngoại hối có doanh số giao

dịch chủ yếu và lớn nhất hiện nay tại các Ngân hàng thương mại cổ phần tại

TP.HCM, chiếm tỷ lệ trên 90% tổng doanh số giao dịch về kinh doanh ngoại hối.

Khoảng thời gian nghiên cứu cho Luận án này là từ năm 2007 đến năm 2012.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ THU THẬP PHÂN TÍCH DỮ LIỆU

4.1. Tổng quan phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Là công trình nghiên cứu khoa học nên trong quá trình thực hiện đề tài, tác

giả chủ yếu sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh, quy nạp, diễn dịch,

phương pháp VaR để thực hiện nghiên cứu và đối chiếu giữa chính sách quản lý của

nhà nước với thực tế hoạt động của ngành ngân hàng, tham khảo các lý thuyết tài

chính tiền tệ, ngân hàng. Trong quá trình nghiên cứu có sự kết hợp giữa lý luận và

thực tiễn đồng thời tham khảo các tài liệu, các công trình nghiên cứu của các tác giả

trong ngoài nước liên quan đến nội dung nghiên cứu, cũng như sử dụng các số liệu

tham khảo từ các cơ quan hữu quan và các số liệu từ tài liệu nước ngoài.

4.2. Thu thập và phân tích dữ liệu

4.2.1. Thu thập dữ liệu:

Nghiên cứu tập trung vào hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần tại

TP.HCM nên dữ liệu lựa chọn được xác định trên các cơ sở sau:

 Dữ liệu thu thập chủ yếu dựa trên các nguồn chính thức như báo cáo hoạt

động kinh doanh của NHNN, NHTM cổ phần tại TP.HCM, từ các cơ quan

thống kê, các tài liệu nước ngoài, và các báo cáo nội bộ của một số NHTM

cổ phần tại TP.HCM, v.v…Đây là các dữ liệu có thực, dễ kiểm tra.

17

 Bên cạnh đó luận án có tham khảo các nguồn tư liệu từ nghị định của chính

phủ, các văn bản hướng dẫn của NHNN, các tạp chí khoa học, tạp chí chuyên

ngành, các tài liệu của các nhà khoa học, các ý kiến của đồng nghiệp và

những nhà quản lý ngân hàng.

4.2.2. Phân tích dữ liệu

Dữ liệu thu thập sẽ thống kê, phân tích, tổng hợp, hiệu chỉnh và đánh giá;

đồng thời sử dụng của bảng, biểu đồ và hình để minh họa làm tăng độ tin cậy trong

nghiên cứu.

5. KẾT CẤU ĐỀ TÀI

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được trình

bày ba chương:

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG

KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH

NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ

PHẦN TẠI TP.HCM

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH

DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG

MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM

6. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

 Làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngoại hối và gây

ra rủi ro trong kinh doanh ngoại hối trong điều kiện hiện nay.

 Làm rõ những tồn tại trong quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các

 Đề xuất các chính sách và giải pháp để tăng cường quản lý rủi ro trong kinh

ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM.

doanh ngoại hối của các ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM.

18

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO

TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI

CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN

1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ KINH DOANH

NGOẠI HỐI

1.1.1. Quan hệ ngoại hối trong nền kinh tế

Trong lịch sử phát triển của thị trường ngoại hối, có giai đoạn chỉ có các

ngân hàng lớn thực hiện các giao dịch ngoại hối. Sự hạn chế đó đã bị phá bỏ nhanh

chóng nhờ sự phát triển của công nghệ, mạng Internet và đặc biệt là các phần mềm.

Những yếu tố này làm cho tính thanh khoản của thị trường tăng lên còn chi phí thì

giảm xuống. Dần dần, việc giao dịch kiếm lời đã phát triển bùng nổ khi tất cả mọi

người đều có thể tham gia vào thị trường.

Có ba lý do chính khiến các chủ thể trong nền kinh tế tham gia vào quan hệ

ngoại hối: đầu tư, bảo vệ mình khỏi các rủi ro ngoại hối và đầu cơ. Nhưng lý do

cuối cùng là động cơ chính của những người tham gia thị trường, bởi có đến 80-

90% các nhà kinh doanh hướng tới mục đích tìm kiếm lợi nhuận nhờ vào chênh

lệch tỷ giá ngoại tệ và giá vàng. Các đồng tiền và cặp tiền tệ trên thị trường ngoại

hối cũng đồng thời được sử dụng trong các giao dịch tài chính với vai trò là phương

tiện thanh toán. Chính các giao dịch thanh toán quốc tế được thực hiện bởi các

doanh nghiệp và tổ chức là đảm bảo cho sự vận hành của nền kinh tế nói chung,

cũng như hoạt động và sự ổn định thị trường ngoại hối nói riêng.

TTNH là thị trường tài chính toàn cầu lớn nhất, không có một thị trường tài

chính nào có thể so sánh với TTNH về quy mô, nhưng những thị trường tài chính

khác có thể tác động đến TTNH. Ví dụ, thị trường trái phiếu Mỹ có thể tác động tới

giá trị của đồng đôla cũng giống như thị trường chứng khoán Nhật tác động tới giá

trị của đồng Yen Nhật. Từ đó các quan hệ ngoại hối bị tác động nhiều bởi các yếu tố

19

thay đổi của các thị trường khác trong nền kinh tế như thị trường hàng hóa, trái

phiếu, chứng khoán,….

TTNH gần nhau hơn. Mọi nền kinh tế trên thế giới đều phải nhập khẩu một số mặt

Việc nhu cầu hàng hóa toàn cầu gia tăng đã kéo thị trường hàng hóa và

hàng hóa để tiêu dùng, để mua những hàng hóa này, những nhà nhập khẩu phải đổi

đồng tiền của họ ra đồng tiền của nước mà họ muốn nhập khẩu hàng hóa. Giao dịch

này sẽ khiến nhu cầu về đồng tiền của nước xuất khẩu cao hơn và tăng giá trị cho

đồng tiền đó. Giao dịch này cũng sẽ khiến cung tiền của nước nhập khẩu cao hơn và

làm giảm giá trị của đồng tiền đó. Điển hình như trường hợp của ba nước xuất khẩu

lớn: Úc, Canađa và NewZealand, ba đồng tiền lớn là đô Úc, đô Canada và đô New

Zealand có mối quan hệ mật thiết với giá trị của hàng hóa. Khi giá của hàng hóa

tăng, giá trị của những đồng tiền này cũng gia tăng và ngược lại. Mỗi đồng tiền

trong nhóm trên bị tác động bởi rất nhiều loại hàng hóa khác nhau. Ví dụ, đồng đôla

Úc có mối liên hệ chặt chẽ với giá vàng, nếu giá vàng tăng thì giá trị của đồng đôla

Úc cũng tăng theo và ngược lại.

Bên cạnh việc bị tác động bởi thị trường hàng hoá, các quan hệ ngoại hối còn

chịu sự ảnh hưởng của thị trường trái phiếu. Sau thị trường ngoại hối, thị trường trái

phiếu là thị trường tài chính lớn thứ hai trên thế giới, các chính phủ, các tổ chức và

các nhà đầu tư cá nhân đều tham gia hoạt động trên thị trường trái phiếu. Mỗi thành

phần này đều có chung một mục đích đó là tìm kiếm lợi nhuận từ hoạt động đầu tư

của họ. Trái phiếu chính phủ chiếm tỷ lệ lớn nhất trong thị trường trái phiếu, các trái

phiếu này là những tài khoản đầu tư có độ rủi ro gần như bằng không bởi chúng

được đảm bảo bởi niềm tin của chính phủ các quốc gia, một số chính phủ trả lãi suất

trên trái phiếu của họ cao hơn các chính phủ khác. Các nhà đầu tư quốc tế thu được

lợi nhuận khi họ quyết định trái phiếu của chính phủ nào họ sẽ đầu tư. Các trái

phiếu với lãi suất cao hơn sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư hơn khi nền kinh tế của các trái

phiếu đó phát triển ổn định.

Những nhà đầu tư mong muốn mua trái phiếu chính phủ sẽ phải dùng tiền

của chính phủ đó để mua, nếu các nhà đầu tư muốn mua trái phiếu của chính phủ

20

Mỹ, họ phải chuyển đổi sang đồng tiền của chính phủ Mỹ (đồng USD), điều này sẽ

làm tăng nhu cầu của đồng đôla Mỹ và làm tăng giá trị của đồng đôla Mỹ. Cùng

thời điểm đó, nguồn cung của các đồng tiền khác sẽ tăng và làm giảm giá trị của các

đồng tiền đó. Hiểu biết chính phủ nào đưa lãi suất của trái phiếu cao hơn và trái

phiếu nào đang tăng phổ biến sẽ giúp chúng ta biết được cặp đồng tiền nào nên mua

và cặp nào nên bán.

Cho nên, các quan hệ ngoại hối trong nền kinh tế không phát sinh một cách

độc lập, mà luôn chịu ảnh hưởng qua lại bởi rất nhiều yếu tố thị trường khác. Trên

đây chỉ là hai yếu tố điển hình nêu lên sự tác động qua lại giữa các giao dịch ngoại

hối trong TTNH với các thị trường khác như thị trường hàng hóa và trái phiếu.

Ngoài ra, chúng ta có thể đề cập đến các thị trường khác và các chính sách khác

như: thị trường chứng khoán, các chính sách chính trị, xã hội, kinh tế, …cũng tác

động đến các quan hệ ngoại hối trong nền kinh tế.

1.1.2. Thị trường ngoại hối

1.1.2.1. Khái niệm thị trường ngoại hối

Một trong những điểm khác nhau cơ bản giữa thương mại quốc tế và thương

mại nội địa là thương mại quốc tế thường liên quan đến việc chuyển đổi các đồng

tiền khác nhau của các quốc gia khác nhau, trong khi đó thương mại nội địa thường

chỉ liên quan đến nội tệ. Một nhà nhập khẩu Mỹ thường được yêu cầu thanh toán

cho nhà xuất khẩu Nhật bằng Yên Nhật, cho nhà xuất khẩu Đức bằng Euro, cho nhà

xuất khẩu Anh bằng Bảng Anh, v.v.. Với lý do này, để thanh toán tiền hàng, nhà

nhập khẩu Mỹ phải mua các ngoại tệ thích hợp, tức bán nội tệ trên thị trường. Nghĩa

là, một trong hai bên mua hoặc bán phải liên quan đến mua bán đồng ngoại tệ.

Giống như thương mại quốc tế, du lịch quốc tế, đầu tư quốc tế, quan hệ tín

dụng quốc tế và các quan hệ tài chính quốc tế khác đều làm phát sinh nhu cầu mua

bán các đồng tiền khác nhau trên thị trường.

Theo Marc Levinson (2005), thị trường ngoại hối là thị trường giao dịch các

loại ngoại tệ phi tập trung và toàn cầu. [24]

21

Theo Investopedia, thị trường ngoại hối là thị trường toàn cầu giao dịch

ngoại tệ suốt cả ngày và đêm. [29]

Theo Nguyễn Văn Tiến (2006), hoạt động mua bán các đồng tiền khác nhau

được diễn ra trên thị trường, và thị trường này được gọi là thị trường ngoại hối (The

Foreign Exchange Market – FOREX hay viết tắt là TTNH). [9] Một cách tổng quát:

Thị trường ngoại hối là bất cứ đâu diễn ra việc mua, bán các đồng tiền khác nhau.

Theo tác giả, Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các hoạt động chuyển đổi,

mua bán tiền tệ của các nước khác nhau; là nơi thực hiện các giao dịch vàng liên tục

và toàn cầu; là nơi diễn ra các hoạt động đầu tư, lưu chuyển tài chính quốc tế nhằm

thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể kinh tế; đồng thời cũng xác định được các điều

kiện giao dịch.

1.1.2.2. Đặc điểm, chức năng của thị trường ngoại hối

 Đặc điểm của thị trường ngoại hối

TTNH không nhất thiết phải tập trung tại vị trí địa lý hữu hình nhất định, mà

là bất cứ đâu diễn ra hoạt động mua bán các đồng tiền khác nhau, do đó nó còn

được gọi là thị trường không gian.

Đây là thị trường toàn cầu hay thị trường “không ngủ”. Do có sự chênh lệch

về múi giờ giữa các khu vực trên thế giới nên các giao dịch diễn ra suốt ngày đêm.

Thị trường bắt đầu hoạt động từ Úc, Nhật, Singapore, Hongkong, châu Âu,

NewYork, và cứ như vậy, khi thị trường khu vực châu Á đóng cửa thì thị trường

Châu Âu rồi đến châu Mỹ bắt đầu hoạt động theo một chu kỳ khép kín toàn cầu.

Trung tâm của TTNH là TTLNH với các thành viên chủ yếu là các Ngân

hàng thương mại (NHTM), các nhà môi giới ngoại hối và các Ngân hàng trung

ương (NHTW). Doanh số giao dịch trên TTLNH chiếm tới 85% tổng doanh số giao

dịch ngoại hối toàn cầu.

Các nhóm thành viên tham gia thị trường duy trì quan hệ với nhau liên tục

thông qua điện thoại, mạng vi tính, telex và fax. Do thông tin được truyền đi rất

nhanh và hiệu quả, cho nên tuy các thành viên tham gia thị trường ở rất xa nhau

nhưng họ vẫn có cảm giác là đang cùng hoạt động dưới một mái nhà chung.

22

Do thị trường có tính toàn cầu và hoạt động hiệu quả, cho nên các tỷ giá

được yết trên các thị trường khác nhau nhưng hầu như là thống nhất với nhau và có

độ chênh lệch không đáng kể.

Đây là thị trường rất nhạy cảm với các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội, tâm

lý và nhiều yếu tố khác.

Thị trường ngoại hối hoạt động tích cực nhất là London, sau đó là New York,

Tokyo, Singapore, Frankfurt... , đây là thị trường lớn nhất và có doanh số giao dịch

cao nhất.

TTNH toàn cầu có tốc độ phát triển rất nhanh trong mấy thập kỷ qua, đặc

biệt là từ cuối những năm 80 là do có những nguyên nhân chính sau:

Sau khi hệ thống tiền tệ Bretton Woods bị sụp đổ vào năm 1973, tỷ giá các

đồng tiền trên thế giới được thả nổi và dao động mạnh đã buộc những nhà kinh

doanh tiền tệ xuất nhập khẩu và đầu tư quốc tế phải tìm kiếm các biện pháp phòng

chống rủi ro thông qua TTNH; mặt khác, họ cũng tranh thủ thời cơ tỷ giá biến động

mạnh để hoạt động đầu cơ kiếm lời. Điều đó làm tăng nhu cầu giao dịch mua bán

ngoại tệ, góp phần thúc đẩy TTNH phát triển nhanh chóng.

Xu thế tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế diễn ra mạnh mẽ về chiều

rộng lẫn chiều sâu, bao gồm cả các nước đang phát triển cũng đã và đang tích cực

tham gia tiến trình hội nhập, là tiền đề để các nước tiến hành nới lỏng quy chế quản

lý ngoại hối nhằm tạo điều kiện cho chu chuyển hàng hóa, dịch vụ và vốn quốc tế

được hiệu quả. Điều này tạo nên một TTNH quốc tế ngày càng rộng lớn với doanh

số giao dịch ngày một cao.

Tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã

góp phần làm giảm chi phí giao dịch, tăng tốc độ thanh toán, góp phần tích cực thúc

đẩy TTNH phát triển như ngày nay.

Bên cạnh tăng nhanh doanh số giao dịch, TTNH quốc tế còn phát triển mạnh

về chiều sâu, đó là tạo ra nhiều loại hình nghiệp vụ kinh doanh mới, phức tạp hơn,

tinh vi hơn và cũng trở nên rủi ro hơn.

23

 Chức năng của thị trường ngoại hối

Chức năng cơ bản của TTNH là kết quả phát triển tự nhiên của một trong các

chức năng cơ bản của NHTM, đó là: nhằm thực hiện dịch vụ thanh toán cho các

khách hàng trong các giao dịch thương mại quốc tế. Ví dụ: một khách hàng là công

ty muốn nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ từ nước ngoài sẽ có nhu cầu ngoại hối nếu

hóa đơn hàng hóa và dịch vụ được ghi bằng ngoại tệ; hoặc là nhà xuất khẩu có nhu

cầu chuyển đổi ngoại hối thành nội tệ, nếu hóa đơn xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ

được ghi bằng ngoại tệ. Các giao dịch ngoại hối nhằm giúp khách hàng là nhà xuất

khẩu hay nhập khẩu như trên là một trong những dịch vụ mà các NHTM luôn sẵn

sàng cung cấp cho khách hàng, và đồng thời cũng là dịch vụ mà các khách hàng

luôn mong đợi từ phía Ngân hàng.

Ngoài dịch vụ cho khách hàng thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế,

 Giúp luân chuyển các khoản đầu tư, tín dụng quốc tế, các giao dịch tài chính

TTNH còn có một số chức năng khác, như:

 Thông qua hoạt động của TTNH, mà sức mua đối ngoại của tiền tệ được xác

quốc tế khác cũng như các giao lưu giữa các quốc gia.

 TTNH là nơi kinh doanh và cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá

định một cách khách quan theo quy luật cung cầu của thị trường.

bằng các hợp đồng như kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn, tương lai và các loại

 Thị trường ngoại hối là nơi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tiến hành can

hợp đồng phái sinh kết hợp khác.

thiệp để tỷ giá biến động theo chiều hướng có lợi cho nền kinh tế và phù hợp

với các mục tiêu chính trị đã được đề ra của Nhà nước.

1.1.2.3 . Các chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối

 Ngân hàng trung ương: NHTW thực hiện chức năng quản lý nhà nước về

hoạt động ngoại hối, xây dựng và ban hành chính sách quản lý ngoại hối,

hướng dẫn và thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chế độ chứng từ và thông tin

báo cáo có liên quan đến hoạt động ngoại hối. Do đó, NHTW là một chủ thể

24

tham gia trên TTNH với vai trò là nhà tổ chức, kiểm soát, điều hành và ổn

định TTNH.

 Các ngân hàng thương mại: tham gia trên TTNH với tư cách vừa là nhà môi

giới hay kinh doanh cho khách hàng, vừa là nhà đầu tư cho chính Ngân hàng

của mình. Khi NHTM là nhà môi giới, các NHTM thực hiện chức năng

KDNH hưởng phí dịch vụ từ khách hàng. Còn khi NHTM là nhà kinh doanh

cho khách hàng, các ngân hàng thực hiện chức năng mua bán ngoại hối với

khách hàng, ngân hàng có duy trì trạng thái ngoại hối và chấp nhận rủi ro.

Khi ngân hàng kinh doanh cho chính danh mục ngoại hối của mình, các

NHTM có thể thực hiện mua bán với khách hàng hay với các ngân hàng đối

tác khác và có duy trì trạng thái ngoại hối cũng như chấp nhận rủi ro.

 Các nhà môi giới: là chủ thể trung gian trong các giao dịch trên TTNH. Chức

năng của các nhà môi giới là cung cấp cho khách hàng của họ cơ hội giao

dịch trên TTNH, ví dụ như đảm bảo việc thực hiện lệnh nhanh chóng và

chính xác một cặp tiền tệ nào đó theo giá thị trường, hay giúp khách hàng

mua/bán một số lượng vàng trong thời gian nhất định. Một công ty môi giới

không thực hiện giao dịch trên TTNH để thu lợi nhuận trực tiếp cho mình

bởi nó chỉ là đơn vị trung gian, không chịu các rủi ro về thay đổi tỷ giá ngoại

tệ hay giá vàng. Các nhà môi giới tìm kiếm lợi nhuận ngoài việc hưởng phí

dịch vụ, họ còn có thể hưởng chênh lệch giữa giá mua và giá bán.

 Các doanh nghiệp: tham gia chủ yếu trên TTNH là các doanh nghiệp xuất

nhập khẩu. Họ vừa là chủ thể cầu ngoại tệ, vừa là chủ thể cung ngoại tệ. Các

doanh nghiệp thực hiện mua hay bán ngoại tệ nhằm thanh toán cho các hợp

đồng xuất nhập khẩu và giao dịch của họ thường được mua bán thông qua

các NHTM.

 Các cá nhân hay tổ chức trong và ngoài nước khác: theo quy định của pháp

luật, các chủ thể này không thể trực tiếp tham gia trên TTNH, các giao dịch

của họ thường thực hiện qua các NHTM, việc giao dịch mua bán ngoại hối

của họ phải theo đúng các điều kiện quy định của pháp luật.

25

 Các định chế tài chính khác: gồm có các loại hình TCTD khác, Công ty bảo

hiểm, Công ty quản lý quỹ và Quỹ đầu tư: các chủ thể này có thể giao dịch

cho chính mình hoặc thực hiện cho khách hàng trên TTNH nếu họ và khách

hàng đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật.

1.1.2.4. Xu hướng phát triển của thị trường ngoại hối trên thế giới

Cho đến nay, quá trình toàn cầu hóa vẫn tiếp diễn trên nhiều lĩnh vực, đặc

biệt là trên lĩnh vực kinh tế, tài chính, tiền tệ ngày càng mạnh mẽ. Đồng thời, không

có một lực lượng nào hay một thế lực nào có thể ngăn cản được xu hướng tự do hóa

và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Thương mại và đầu tư quốc tế vẫn tiếp tục phát

triển mạnh mẽ không ngừng tại nhiều quốc gia. Tại Mỹ và cũng như ở các nước

khác, bên cạnh nguồn vốn đầu tư vào các dự án trong nước, các nhà đầu tư cũng có

nhiều cơ hội tốt để chuyển hướng ra đầu tư ở nước ngoài. Thực tế cho thấy, xu

hướng tìm kiếm cơ hội đầu tư ra nước ngoài vào những đồng tiền và những quốc

gia khác luôn gia tăng trong thời gian gần đây, điều này hàm ý rằng xu hướng tăng

trưởng của TTNH trong tương lai là rõ ràng.

Sự xuất hiện đồng Euro có ảnh hưởng làm thay đổi cơ cấu danh mục đầu tư

và cơ cấu dự trữ ngoại hối của các NHTW. Đồng thời, nó cũng có thể trở thành

đồng tiền được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế và là đồng tiền để một số

nước làm căn cứ neo tỷ giá của mình. Hiện nay, vai trò của USD trên TTNH và thị

trường tài chính toàn cầu là quá lớn so với tỷ trọng kinh tế và thương mại của Mỹ so

với toàn thế giới. Cụ thể là, nền kinh tế Mỹ chỉ chiếm khoảng 1/4 và ngoại thương

chiếm khoảng 1/5 toàn thế giới, trong khi đó, USD chiếm tỷ trọng trong dự trữ tới

3/5 và USD cũng là một trong hai đồng tiền được sử dụng tới trên 80% trong các

giao dịch ngoại hối toàn cầu. Vấn đề đặt ra là, liệu Euro có thể chia sẻ quyền lực với

USD về các lĩnh vực như dùng làm đồng tiền dự trữ, đồng tiền sử dụng chính trong

các giao dịch ngoại hối và là đồng tiền đầu tư quốc tế? Liệu các chính phủ có tăng

tỷ lệ sử dụng Euro trong giao dịch, trong cơ cấu dự trữ và chuyển hướng can thiệp

thông qua Euro? Cho đến nay, thì các câu trả lời vẫn chưa rõ ràng, một mặt, là do

còn một số nước trong khối Cộng đồng chung Châu Âu vẫn chưa quyết định sử

26

dụng đồng tiền chung Euro (nhất là nước Anh); mặt khác, sau khi đồng Euro xuất

hiện, giá trị không ổn định và luôn giảm giá so với USD.

Sự phát triển của công nghệ sẽ tiếp tục làm thay đổi quá trình KDNH, làm

phát sinh những khái niệm mới cũng như công nghệ mới. Sự chú ý sẽ tập trung vào

ưu điểm của hệ thống khớp lệnh tự động - hệ thống môi giới điện tử. Đây là hệ

thống máy tính điện tử có chức năng khớp lệnh giữa các nhà kinh doanh thành viên

trên toàn thế giới. Hệ thống này đã phát triển và có ảnh hưởng mạnh đến quy trình

giao dịch ngoại hối kể từ khi đưa vào hoạt động từ năm 1972. Doanh số giao dịch

qua hệ thống khớp lệnh tự động chiếm 13% ở Mỹ và 11% ở Anh, và tỷ trọng này

luôn có xu hướng tăng trưởng. Bộ phận có tốc độ tăng trưởng nhanh và có thị phần

lớn được giao dịch trên thị trường, mà tại đó hệ thống giao dịch tự động là phổ biến,

ví dụ, các giao dịch giao ngay có trị giá lớn đối với hai đồng tiền có độ thanh khoản

cao và thường xuyên được giao dịch như cặp đồng tiền USD và EUR. Đối với cặp

đồng tiền này, hệ thống khớp lệnh tự động có thể chào tỷ giá mua bán với chênh

lệch giá rất hẹp, chỉ vào độ từ 1 đến 2 điểm, tức chỉ bằng khoảng 1/3 so với chênh

lệch giá của phương pháp giao dịch truyền thống.

Hiện nay, các công cụ phái sinh đang tiếp tục phát triển. Những hợp đồng kỳ

hạn và quyền chọn được đầu tư để hưởng chênh lệch giá đã trở nên phổ biến và

được đưa vào giao dịch tại một số thị trường mới nổi. Xuất phát từ thực tế này,

trong tương lai hoạt động “mua bán, thanh toán chênh lệch” (Foreign Exchange,

Difference Settled - FXDS) sẽ ngày càng được mở rộng. Công cụ FXDS được sử

dụng trước hết đối với các đồng tiền chính trong nghiệp vụ giao ngay cũng như kỳ

hạn trong trường hợp những đối tác tham gia hợp đồng không muốn thanh toán toàn

bộ hợp đồng, mà chỉ tiến hành thanh toán phần chênh lệch giữa tỷ giá hợp đồng và

tỷ giá thị trường hiện hành. Tuy nhiên, để có thể đưa công cụ FXDS vào giao dịch

một cách phổ biến tại các quốc gia, thì còn nhiều vấn đề về hoạt động và về pháp lý

cần phải hoàn thiện. Một trong những hiệu ứng của FXDS là việc làm giảm doanh

số thanh toán và giảm rủi ro trong thanh toán. Điều này có thể tạo động lực cho các

Ngân hàng quốc tế trong việc hình thành một Ngân hàng Thanh toán bù trừ với

27

chức năng chuyên thực hiện việc thanh toán các giao dịch ngoại hối.

1.1.3. Kinh doanh ngoại hối

1.1.3.1. Khái niệm ngoại hối

Khái niệm ngoại hối thường được hiểu theo luật định và tương đối thống

nhất giữa các quốc gia. Theo Pháp lệnh số 28/2005/PL-UBTVQH11, ngày

13/12/2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt

Nam, khái niệm ngoại hối được quy định tại Điều 4, khoản 1. Ngoại hối (foreign

exchange) bao gồm các phương tiện tiền tệ được sử dụng trong thanh toán quốc tế.

 Ngoại tệ: Là đồng tiền nước ngoài được sử dụng trong thanh toán quốc tế và

[30] Đối với một quốc gia, ngoại hối bao gồm:

khu vực (bao gồm cả đồng tiền chung của các nước khác và Quyền rút vốn

đặc biệt SDR). Ngoại tệ có thể là tiền xu, tiền giấy, tiền trên tài khoản, séc du

 Các giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ, như séc thương mại, chấp phiếu Ngân

lịch, tiền điện tử và các phương tiện khác được xem như tiền.

 Vàng tiêu chuẩn quốc tế: Đây là vàng được sử dụng với vai trò là tiền trong

hàng, kỳ phiếu, hối phiếu, trái phiếu, cổ phiếu và các giấy tờ có giá khác.

 Đồng tiền quốc gia do người không cư trú nắm giữ.

thanh toán quốc tế.

Các giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ không được giao dịch trực tiếp trên thị

trường ngoại hối. Muốn trở thành ngoại tệ để giao dịch trên thị trường này, thì trước

hết phải bán (chiết khấu) các giấy tờ có giá để nhận ngoại tệ, sau đó mới tiến hành

mua bán trên TTNH.

 Mua bán các đồng tiền khác nhau (trong mỗi giao dịch mua bán bao giờ cũng

Như vậy, trên TTNH đối tượng mua bán bao gồm:

 Mua bán vàng tiêu chuẩn quốc tế.

có ngoại tệ tham gia).

Ngày nay, do vai trò tiền tệ của vàng giảm đáng kể tại các quốc gia, chính vì

vậy khi nói đến TTNH người ta thường hiểu đó là thị trường mua bán các đồng tiền

28

khác nhau, hay mua bán ngoại tệ, nghĩa là TTNH thường được hiểu theo nghĩa hẹp

là thị trường mua bán ngoại tệ.

1.1.3.2. Khái niệm kinh doanh ngoại hối và những vấn đề cơ bản trong kinh

doanh ngoại hối

Kinh doanh trên TTNH là một nghề rất khắt khe, đòi hỏi các chuyên viên

phải có những nỗ lực thường xuyên để xác định những gì sẽ xảy ra trên thị trường

và tỷ giá sẽ biến động theo hướng nào. Những giờ kinh doanh hình như dài ra, tính

chất nghề nghiệp tạo ra công việc hầu như là 24/24 giờ mỗi ngày. Những cuộc giao

dịch gọi đi và gọi đến ngay trong lúc nửa đêm là chuyện bình thường. Một số

chuyên viên kinh doanh có sẵn các phương tiện như: màn hình Reuters, Telerate,

hoặc Knight - Ridder, … Do đó họ có thể nắm bắt được kịp thời những gì đang xảy

ra trên thị trường. Họ có thể chuyên kinh doanh một cặp đồng tiền nhất định, nhưng

nếu đồng tiền này luôn ổn định, ít biến động, dẫn đến các cơ hội kinh doanh có lãi

lớn ít phát sinh, do đó họ có thể tìm kiếm các cơ hội kinh doanh thông qua các đồng

tiền khác nhằm mang lại nhiều lợi nhuận hơn.

Hầu như đối với mỗi người đã từng kinh doanh trên TTNH, thì họ thường đã

thực hiện ít nhất một vài những giao dịch lớn và đã gặt hái được lợi nhuận cao,

được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, phần lớn các giao dịch còn lại thì không

được như vậy. Bên cạnh những giao dịch lớn thu lãi cao, thì cũng có những giao

dịch thua lỗ nặng nề, nhưng rất ít người có thể biết được. Việc kinh doanh luôn có

lãi mà không phát sinh lỗ trong một thời gian dài là rất khó đạt được. Đặc trưng của

những nhà kinh doanh là cần có trạng thái tâm lý, trí tuệ tốt và tự tin rằng họ có thể

kiếm được tiền thông qua các giao dịch. Trong mọi tình huống, diễn biến của thị

trường là luôn luôn đúng, do đó, những nhà kinh doanh phải là người thực tế và có

sự hiểu biết nhất định để thừa nhận những sai sót của mình. Họ phải sẵn sàng giảm

các trạng thái ngoại hối đang thua lỗ trước khi khoản lỗ trở nên trầm trọng.

Theo tác giả, kinh doanh ngoại hối là việc mua và bán các đơn vị tiền tệ khác

nhau và vàng nhằm tìm kiếm chênh lệch giá hoặc hưởng phí.

29

Có ba phương pháp cơ bản để phát sinh lãi trong KDNH tại thị trường giao

ngay:

 Lãi phát sinh từ việc tạo trạng thái ngoại hối: Nhà kinh doanh có thể tạo

trạng thái ngoại hối và chờ cho thị trường biến động, sau đó thanh lý trạng

thái ngoại hối với mục đích kiếm lời.

Ví dụ, một chuyên viên A của phòng KDNH mua 5 triệu USD tại tỷ giá

USD/SGD = 1,2540. Khi thị trường biến động đến mức USD/SGD = 1,2640, A bán

số USD đã mua trước đó để lấy lãi. Lãi phát sinh sẽ là 0,0100 SGD/1USD, hay tổng

số lãi thu được là 50.000 SGD.

 Lãi thu được từ chênh lệch tỷ giá giữa các thị trường khác nhau hoặc cùng

trên một thị trường – Arbitrage: Ví dụ, tỷ giá mua của thị trường A là

SGD/USD = 1,2540, nhà kinh doanh có thể bán 5 triệu USD tại tỷ giá 1,2541

ở thị trường B. Lãi phát sinh không chịu rủi ro là 0,0001 SGD/USD, tức tổng

lãi là 500 SGD (0,0001 * 5.000.000 USD).

 Lãi thu được từ chênh lệch tỷ giá mua vào và bán ra - Bid and Offer Spread:

Chuyên viên KDNH tạo thị trường bằng cách yết tỷ giá hai chiều. Các thành

viên tham gia thị trường khác giao dịch với họ thông qua tỷ giá hai chiều, và

chênh lệch tỷ giá là lợi nhuận mà chuyên viên này thu được.

Mô tả các phương pháp kiếm tiền như trên thật là đơn giản. Việc thực sự

kiếm được tiền trên TTNH lại không đơn giản chút nào.

Thông thường, kinh doanh giao ngay xảy ra trên thị trường có sự biến động

nhanh nhất. Các trạng thái ngoại hối được tạo ra thường có kỳ hạn rất ngắn, do đó,

nhà kinh doanh có thể ở trạng thái trường đối với một đồng tiền nào đó chỉ trong

vòng một phút và sau đó lại ở trạng thái đoản cũng đối với chính đồng tiền này một

phút sau đó. Nhà kinh doanh trên TTLNH luôn phải đối mặt với việc tạo giá suốt

ngày cho những nhà kinh doanh khác. Nhà kinh doanh A muốn có trạng thái trường

một đồng tiền nào đó, nhưng nếu những nhà kinh doanh khác lại gọi hỏi giá và chấp

nhận mua đồng tiền này ở giá Offer, thì nhà kinh doanh A có thể tạm thời bị dồn

vào trạng thái đoản đồng tiền này. Chỉ thông qua hoạt động mua vào thường xuyên,

30

thì nhà kinh doanh A mới có thể duy trì hoặc tạo ra được trạng thái trường như

mong muốn với đồng tiền này.

Nhiều phòng kinh doanh (dealing rooms) của các Ngân hàng hoạt động theo

tổ chức, trong đó, nhà kinh doanh với vai trò lãnh đạo là người ra các quyết định

chính. Bởi vì, nếu kinh doanh mà luôn phải có sự nhất trí tập thể, thì chỉ tốn thời

gian và không tận dụng được các cơ hội sinh lời cao, do đó, nhà lãnh đạo kinh

doanh chỉ ra quyết định trong những tình huống khi thị trường biến động rất nhanh.

Những chuyên viên kinh doanh thông thường phải tự chịu trách nhiệm vể các quyết

định giao dịch của mình; đồng thời họ cũng thường đảm nhận một hoặc một số

đồng tiền để kinh doanh.

Đối với hoạt động kinh doanh chênh lệch giá, nhà kinh doanh tận dụng thời

cơ chênh lệch giá giữa các thị trường hay giữa các nhà kinh doanh để thực hiện

đồng thời việc mua rẻ và bán đắt nhằm kiếm lợi mà không hề chịu rủi ro. Những

hoạt động kinh doanh như vậy có thể xuất hiện trên TTNH ở các hình thức khác

nhau. Trong những năm qua, một nhà kinh doanh có thể mua ở London và bán với

giá cao hơn ở Melbourne trong cùng một thời điểm. Kinh doanh chênh lệch giá

dạng này không tồn tại được lâu trên thị trường giao ngay đối với các đồng tiền

chính. Kinh doanh chênh lệch giá trên TTLNH hoặc thị trường tương lai có thể xuất

hiện, nhưng chênh lệch giá là rất nhỏ. Có hai nguyên nhân chính làm cho các cơ hội

kinh doanh chênh lệch giá giảm xuống đáng kể, đó là: thứ nhất, các hệ thống viễn

thông hoạt động cực kỳ hiệu quả, do đó, các cơ hội kinh doanh chênh lệch dễ dàng

được xác định; thứ hai, các cơ hội kinh doanh chênh lệch giá được nhiều nhà kinh

doanh ráo riết tìm kiếm, và họ sẵn sàng chấp nhận cơ hội ngay cả khi chênh lệch giá

là cực nhỏ. Những hệ thống vi tính tinh vi của các Ngân hàng luôn cảnh báo những

nhà kinh doanh và bảo đảm rằng những độ lệch trong giá cả giữa các thị trường

không thể tồn tại lâu.

Để phòng ngừa rủi ro của những giao dịch đã diễn ra trong ngày mà trạng

thái cuối ngày vẫn còn duy trì, vấn đề định giá cuối ngày cần thiết phải được tiến

hành với tỷ giá từ nguồn ổn định tin tưởng. Trong khi các chuyên viên kinh doanh

31

có thể tự nạp tỷ giá để định giá cuối ngày trạng thái còn lại, nhưng họ không được

đơn phương tự ý đặt ra mức tỷ giá theo ý của mình. Một rủi ro có thể phát sinh nếu

cho phép những nhà kinh doanh tự mình xác định tỷ giá để định giá cuối ngày, bởi

vì, như vậy họ có thể bằng cách nhân tạo che dấu được những khoản thua lỗ.

Bên cạnh các hoạt động kinh doanh diễn ra trên thị trường giao ngay, hoạt

động kinh doanh trên thị trường kỳ hạn cũng diễn ra không kém phần sôi nổi. Khả

năng dự đoán chính xác những thay đổi trên thị trường sẽ mang lại lợi nhuận lớn

cho nhà kinh doanh kỳ hạn. Các giao dịch tuần hoàn và mức chênh lệch tỷ giá mua

vào và bán ra có thể phần nào làm cho kết quả kinh doanh được cải thiện, nhưng

nếu lãi phát sinh chỉ dừng lại ở đó thì chưa đủ. Thông thường, kinh doanh kỳ hạn

không có sự biến động mạnh như kinh doanh giao ngay. Các mức lãi suất thường

không biến động cùng mức độ so với giá cả tiền tệ giao ngay. Trong những điều

kiện kinh tế ổn định, các mức lãi suất có thể là rất ổn định, dẫn đến là các điểm kỳ

hạn cũng biến động rất ít. Tuy nhiên, khi mức lãi suất biến động thì thường biến

động theo một chiều tăng hoặc giảm và sau đó là bình ổn trở lại. Chúng không tăng

lên nhanh chóng rồi sau đó lại giảm xuống cũng nhanh như là tỷ giá giao ngay. Kết

quả là, nếu nhà kinh doanh không nắm bắt được cơ hội biến động của lãi suất hoặc

có những dự tính sai lầm về hướng biến động của lãi suất, thì có ít cơ hội để khắc

phục thua lỗ nặng nề của mình.

1.1.3.3. Các loại giao dịch ngoại hối

 Giao dịch ngoại hối giao ngay (Spot)

Giao dịch giao ngay được thống nhất trên thị trường quốc tế chỉ bao gồm

việc mua bán các đồng tiền khác nhau và các loại vàng có tiêu chuẩn quốc tế có trên

tài khoản Ngân hàng, và các bên mua bán tiến hành thanh toán ngay sau khi đã thỏa

thuận. Khái niệm giao ngay ở đây thường là vào ngày làm việc thứ hai kể từ ngày

ký kết hợp đồng. Đây chính là điểm đặc trưng để phân biệt giữa thị trường giao

ngay với các thị trường khác. Tỷ giá giao ngay được xác định theo quy luật cung

cầu trên TTNH liên Ngân hàng. Thị trường giao ngay được biết đến như là thị

trường rất sôi động, giao dịch với giá trị lớn và với tốc độ giao dịch nhanh nhằm tận

32

dụng những cơ hội chênh lệch tỷ giá dù là cực nhỏ. Trên TTNH có 5 nghiệp vụ kinh

doanh phổ biến là: giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, tương lai và quyền chọn, trong đó,

nghiệp vụ giao ngay là nghiệp vụ gốc, bởi vì tỷ giá áp dụng cho các hợp đồng giao

ngay được hình thành trực tiếp từ quan hệ cung cầu trên thị trường, trong khi đó, 4

nghiệp vụ còn lại gọi là phái sinh, bởi vì tỷ giá áp dụng cho các hợp đồng này

không được hình thành trực tiếp từ quan hệ cung cầu trên thị trường, mà được bắt

nguồn từ tỷ giá giao ngay và chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền.

Theo nghĩa rộng, thị trường giao ngay bao gồm thị trường bán buôn (còn gọi

là thị trường Interbank hay TTLNH) và thị trường bán lẻ. Nhưng do doanh số giao

dịch trên TTLNH là chủ yếu, do đó, theo nghĩa hẹp người ta coi thị trường giao

ngay chính là TTLNH. Thị trường liên Ngân hàng giao ngay là thị trường tài chính

lớn nhất toàn cầu. Kể từ năm 1970 cho đến nay thì cứ hai năm doanh số giao dịch

lại được nhân lên gần gấp đôi. TTNH lớn nhất là thị trường nước Anh, chiếm 27%

doanh số giao dịch toàn cầu, tiếp sau là TTNH Mỹ, Nhật, Singapore (theo: Central

Bank Survey of Foreign Exchange market Activity, BIS, Basle, Thụy sỹ).

TTNH giao ngay là thị trường phi tập trung, không giao dịch trên sở giao

dịch, bao gồm các NHTM, các công ty tài chính lớn, những nhà môi giới ngoại hối

và cả NHTW, trong đó, các NHTM đóng vai trò chủ chốt. Các thành viên tham gia

thị trường liên hệ với nhau bằng điện thoại, telex, mạng vi tính và hệ thống SWIFT.

Các Ngân hàng và các nhà môi giới có mối liên hệ khăng khít, hoạt động của họ ở

một số trung tâm tài chính lớn hầu như là 24 giờ/ngày nhằm nắm bắt kịp thời được

mọi diễn biến của TTNH toàn cầu. Do tốc độ thông tin ngày nay rất nhanh, cho nên

mọi sự kiện quan trọng diễn ra trên thế giới có ảnh hưởng trực tiếp và ngay lập tức

đến TTNH toàn cầu cho dù các nhà kinh doanh ở rất xa nhau. Điều này đã làm cho

hoạt động của TTNH trở nên hiệu quả, giống như toàn bộ các nhà kinh doanh đang

hoạt động dưới một mái nhà chung.

Những nhà kinh doanh không thể bỏ qua những thay đổi có tính đột biến trên

một thị trường rất sôi động và có tính toàn cầu như TTNH. Thật vậy, những nhà

kinh doanh tiền tệ là những người tạo thị trường luôn theo dõi màn hình vi tính để

33

nắm bắt những thông tin và giá cả mới nhất. Những thông tin này do các công ty

chuyên nghiệp cung cấp như Dow Jones Telerate, Reuters và được truyền đi với tốc

độ nhanh như cú gọi điện thoại hay sóng vô tuyến điện.

Trên thế giới, TTNH giao ngay có hai cấp, đó là: Thị trường liên Ngân hàng

trực tiếp giữa các Ngân hàng (thị trường liên Ngân hàng trực tiếp); và thị trường

liên Ngân hàng gián tiếp thông qua môi giới (thị trường liên Ngân hàng gián tiếp).

Trên TTLNH trực tiếp, các Ngân hàng giao dịch trực tiếp với nhau không thông qua

môi giới và tất cả các Ngân hàng tham gia thị trường đều là những nhà tạo thị

trường (market - makers). Điều này có nghĩa là, trên TTLNH, Ngân hàng này yết

giá mua vào và bán ra trực tiếp cho Ngân hàng kia và ngược lại. Vì giao dịch giữa

các Ngân hàng trên TTLNH không diễn ra trên sở giao dịch và các giao dịch được

thực hiện một cách liên tục, nên thị trường này được biết đến như là thị trường phi

tập trung, liên tục, đấu giá mở và giao dịch hai chiều. Trên TTLNH gián tiếp, các

Ngân hàng đặt các lệnh giới hạn (limit orders) một chiều cho các nhà môi giới, ví

dụ: một NHTM đặt một lệnh cho nhà môi giới để mua 10 triệu GBP tại tỷ giá 1

GBP = 1,5677 USD. Nhà môi giới ghi lệnh này vào sổ và cố gắng tìm cách đối

chiếu lệnh mua GBP với các lệnh bán GBP từ các Ngân hàng khác. Trong khi các

Ngân hàng tiến hành các giao dịch, một mặt là cho chính mình, mặt khác cho khách

hàng, thì những nhà môi giới chỉ giao dịch duy nhất là cho khách hàng. Trong giao

dịch nhà môi giới sẽ đưa ra tỷ giá tốt nhất cho khách hàng, tỷ giá này gọi là giá tay

trong (inside spread). Thông qua hoạt động môi giới, nhà môi giới sẽ thu hoa hồng

từ Ngân hàng mua và từ Ngân hàng bán. Do tính chất hoạt động, thị trường qua môi

giới được biết đến như là thị trường: bán tập trung, liên tục, đặt lệnh có giới hạn, và

thông qua phương thức đấu giá một chiều.

 Giao dịch ngoại hối kỳ hạn (Forward)

Giao dịch ngoại hối kỳ hạn là giao dịch trong đó hai bên cam kết sẽ mua bán

với nhau một số lượng ngoại tệ theo một mức tỷ giá nhất định và việc thanh toán sẽ

được thực hiện vào thời điểm xác định trong tương lai. Tỷ giá được xác định tại thời

điểm ký hợp đồng nhưng áp dụng cho một thời điểm xác định trong tương lai.

34

Tỷ giá kỳ hạn (F) không phải là sự dự đoán mà nó là kết quả tính toán, là

tổng đại số của các yếu tố sau:

 S: Tỷ giá giao ngay tại thời điểm ký hợp đồng.

 Rt: Lãi suất của đồng tiền định giá (VNĐ) tính theo năm

 Rc: Lãi suất của đồng tiền yết giá (USD) tính theo năm

 t: Kỳ hạn của hợp đồng.

Công thức áp dụng tính tỷ giá:

(1 + Rt . t) F = S . (1 + Rc . t)

Trong hợp đồng kỳ hạn, ngày giá trị trong giao dịch kỳ hạn là ngày xa hơn

ngày giá trị giao ngay và được ấn định cụ thể trong tương lai. Tỷ giá kỳ hạn là tỷ giá

được thỏa thuận ngày hôm nay, nhưng có ngày giá trị xa hơn ngày giá trị giao ngay.

Về mặt nguyên tắc, thời hạn của hợp đồng kỳ hạn là tùy theo thỏa thuận giữa các

bên tham gia hợp đồng. Hợp đồng kỳ hạn dùng để bảo hiểm rủi ro trong hoạt động

thương mại quốc tế. Trong thực tế, các Ngân hàng còn sử dụng công cụ này để làm

cân bằng trạng thái ngoại hối hay bảo toàn giá trị tài sản ngoại tệ mà Ngân hàng

mình đang có trên thị trường quốc tế. Giao dịch kỳ hạn làm phát sinh rủi ro tín

dụng, do vậy với giao dịch kỳ hạn, các NHTM thường phải yêu cầu các doanh

nghiệp ký quỹ hoặc trừ vào hạn mức tín dụng.

Ở thị trường kỳ hạn, các NHTM là các nhà tạo thị trường. Khi cung cấp các

hợp đồng kỳ hạn cho doanh nghiệp, họ tạo ra các trạng thái ngoại hối, nghĩa là họ

tiếp nhận sự chuyển dịch rủi ro ngoại hối từ phía các doanh nghiệp. Theo lý thuyết,

các NHTM phải thực hiện các giao dịch đối ứng trên TTNH và thị trường tiền tệ để

cân bằng các trạng thái ngoại hối và trạng thái luồng tiền. Khả năng cung cấp các

hợp đồng kỳ hạn của các NHTM vì vậy phụ thuộc vào giới hạn trạng thái ngoại hối

mở của các NHTM và độ sâu của các thị trường. Điều này có nghĩa là không phải

lúc nào một NHTM cũng có thể đáp ứng các nhu cầu mua bán kỳ hạn cụ thể của

khách hàng.

35

Giao dịch kỳ hạn có tính thanh khoản thấp, nó không thể hủy bỏ đơn phương

mà không có sự thỏa thuận giữa hai đối tác, hơn nữa nghĩa vụ của các bên không

thể chuyển giao cho bên thứ ba. Một điều đáng lưu ý khác là không có gì đảm bảo

rằng sẽ không có một bên vỡ nợ hủy bỏ nghĩa vụ hợp đồng. Đặc biệt, điều này dễ

xảy ra khi tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá giao ngay có sự chênh lệch lớn vào thời điểm đến

hạn nghĩa là sẽ có một bên lợi và một bên bất lợi nhiều.

 Giao dịch ngoại hối tương lai (Future)

Giao dịch tương lai là các giao dịch trong đó người bán có nghĩa vụ giao một

số tiền của một loại tiền tệ xác định hay một khối lượng vàng cho người mua vào

một thời điểm xác định trong tương lai với một mức tỷ giá/giá được xác định và

thỏa thuận ngay từ trước. Tuy nhiên, khác với hợp đồng kỳ hạn, các hợp đồng tương

lai được tiêu chuẩn hóa về qui mô hợp đồng và thời hạn giao hàng, được mua bán ở

sở giao dịch, tuân thủ quy trình thanh toán lãi/lỗ mỗi ngày. Hợp đồng tương lai là

công cụ bảo hiểm rủi ro và đầu cơ rất hữu hiệu. Người ta thực hiện nghiệp vụ bán

hợp đồng tương lai để bảo hiểm rủi ro khi đang hoặc sẽ sở hữu một lượng ngoại tệ

hay vàng nhất định và muốn bán số ngoại tệ hay vàng đó tại một thời điểm trong

tương lai. Ví dụ, một nhà xuất khẩu Mỹ biết rằng mình sẽ thu được tiền hàng bằng

đồng Euro sau ba tháng nữa, và có thể bảo hiểm cho mình khỏi sự biến động bất lợi

của tỷ giá bằng cách bán hợp đồng tương lai đối với đồng EUR. Nghiệp vụ mua hợp

đồng tương lai để bảo hiểm rủi ro lại thường được thực hiện khi người ta phải mua

một lượng ngoại tệ hay vàng nhất định ở một thời điểm trong tương lai và muốn ấn

định giá mua ngay từ ngày hôm nay. Nghiệp vụ này ngoài việc giúp bảo hiểm người

mua khỏi sự biến động tỷ giá/giá còn có tác dụng giúp tránh được việc phải trả tiền

ngay nếu mua ngoại tệ hay vàng trên thị trường giao ngay.

Hợp đồng tương lai cũng là công cụ được rất nhiều nhà đầu cơ sử dụng. Để

kiếm được lợi nhuận từ sự biến động tỷ giá/giá hoặc để tránh tiếp tục bị thua lỗ, các

nhà đầu tư có thể liên tục chuyển đổi vị thế của mình bằng cách thực hiện các giao

dịch đối ứng trước khi hợp đồng đáo hạn. Hợp đồng tương lai còn được coi là công

cụ giúp các nhà đầu tư nhận biết tín hiệu tỷ giá/giá trong tương lai. Giá hợp đồng

36

tương lai phản ánh dự đoán của thị trường về giá giao ngay trong tương lai. Trong

một thị trường hiệu quả thì giá hợp đồng tương lai sẽ tiến tới bằng hoặc xấp xỉ gần

bằng giá giao ngay khi hợp đồng đáo hạn. Vì thế, giá hợp đồng tương lai sẽ giúp các

nhà sản xuất có được quyết định đúng đắn trong việc phân bổ nguồn lực.

Hợp đồng tương lai có thể được chuyển nhượng và những khoản phụ trội

trên tài khoản ký quỹ có thể được rút ra; và chúng ta có thể thoát ra khỏi trạng thái

của hợp đồng bằng cách tiến hành một giao dịch đối ứng. Các khoản lãi phát sinh từ

hợp đồng tương lai được nhận bằng tiền mặt và ngay trong ngày và chi phí giao

dịch rất thấp. Tuy nhiên, cũng như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai khi đáo

hạn đều phải được các bên chấp nhận và thanh toán. Như vậy, về nguyên lý thì

những người nắm giữ các hợp đồng này khi đến hạn đều phải thanh lý với nhau.

Điều này hàm ý, các đối tác không có bất cứ sự lựa chọn nào khác ngoài việc chấp

nhận và tiến hành thanh lý hợp đồng khi đáo hạn, kể cả trong trường hợp bất lợi cho

họ.

 Giao dịch ngoại hối hoán đổi (Swap)

Giao dịch hoán đổi là giao dịch hối đoái bao gồm đồng thời cả hai giao dịch:

giao dịch mua và giao dịch bán cùng một số lượng đồng tiền này với một đồng tiền

khác (chỉ có hai đồng tiền được sử dụng trong giao dịch) hay của cùng một lượng

vàng này với một đồng tiền khác (chỉ có vàng và đồng tiền đó được sử dụng trong

giao dịch), trong đó kỳ hạn thanh toán của hai giao dịch khác nhau và tỷ giá/giá của

hai giao dịch được xác định tại thời điểm ký kết hợp đồng.

Giao dịch hoán đổi là nghiệp vụ hối đoái kép bao gồm 2 nghiệp vụ: hối đoái

giao ngay và hối đoái có kỳ hạn, 2 nghiệp vụ này tiến hành cùng một lúc, cùng một

lượng ngoại tệ hay vàng nhưng theo hai hướng ngược chiều nhau. Thông qua hợp

đồng hoán đổi các bên tham gia có được ngoại tệ hay vàng mình mong muốn ở

cùng tỷ giá/giá mà không phải mua bán thông qua Ngân hàng nên tránh được rủi ro

do biến động tỷ giá/giá và chênh lệch giữa mua và bán. Giao dịch hoán đổi ngoại

hối không tạo ra trạng thái ngoại hối ròng, nhưng lại tạo ra độ lệch về mặt thời gian

37

(sự không cân xứng) về các luồng tiền xảy ra. Giao dịch hoán đổi ngoại hối bao

gồm hai loại:

 Một giao dịch giao ngay và một giao dịch kỳ hạn (Spot – Forward Swap)

 Cả hai giao dịch đều là giao dịch kỳ hạn được ký kết đồng thời tại ngày

hôm nay, nhưng có ngày giá trị khác nhau (Forward – Forward Swap)

Các giao dịch hoán đổi rất có giá trị đối với những nhà đầu tư và người đi

vay bằng ngoại tệ. Ví dụ, một nhà đầu tư vào trái phiếu kho bạc nước ngoài có thể

sử dụng giao dịch “hoán đổi giao ngay – kỳ hạn” để bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Giá trị

của giao dịch hoán đổi đối với các nhà đầu tư và đi vay quốc tế giúp giải thích tại

sao giao dịch hoán đổi lại được ưa chuộng đến như vậy.

Bên cạnh đó, các giao dịch hoán đổi cũng được các Ngân hàng sử dụng tích

cực vào việc phòng ngừa rủi ro ngoại hối. Bởi vì, với vai trò là nhà tạo thị trường,

Ngân hàng thường sở hữu rất nhiều hợp đồng có các ngày giá trị khác nhau với các

đồng tiền khác nhau. Tại một số ngày giá trị và với một số đồng tiền nhất định,

Ngân hàng có thể ở trạng thái trường, tức là Ngân hàng đã cam kết mua vào nhiều

hơn là bán ra. Tại những ngày giá trị khác và các đồng tiền khác, Ngân hàng lại ở

trạng thái đoản, tức là Ngân hàng đã cam kết bán ra nhiều hơn là mua vào. Các giao

dịch hoán đổi giúp các Ngân hàng giảm được rủi ro tỷ giá. Ngoài ra, các Ngân hàng

có thể sử dụng giao dịch hoán đổi tuần hoàn nhằm hoán đổi trạng thái dư thừa và

thiếu hụt đối với từng loại ngoại tệ.

 Giao dịch ngoại hối quyền chọn (Option)

Giao dịch quyền lựa chọn ngoại hối là một giao dịch giữa bên mua quyền và

bên bán quyền, trong đó bên mua quyền có quyền nhưng không có nghĩa vụ mua

hoặc bán một lượng ngoại tệ hay vàng xác định ở một mức tỷ giá/giá xác định trong

một khoảng thời gian thỏa thuận trước. Nếu bên mua quyền lựa chọn thực hiện

quyền của mình, bên bán quyền có nghĩa vụ bán hoặc mua lượng ngoại tệ hay vàng

trong hợp đồng theo tỷ giá/giá đã thỏa thuận trước.

Không giống như các hợp đồng kỳ hạn và tương lai, hợp đồng quyền chọn

ngoại hối cho phép người mua hợp đồng có quyền (chứ không phải nghĩa vụ) mua

38

hoặc bán ngoại hối tại một mức tỷ giá/giá đã thỏa thuận trước (gọi là tỷ giá quyền

chọn) trong tương lai. Một hợp đồng quyền chọn cho phép người mua quyền chọn

có sự lựa chọn:

 Tiến hành thực hiện quyền chọn theo tỷ giá/giá cố định đã thỏa thuận từ

trước, nếu người mua thấy rằng có lợi cho mình;

 Hoặc là, mặc nhiên để cho hợp đồng tự động hết hạn mà không tiến hành

bất cứ một giao dịch nào, nếu người mua thấy rằng làm như vậy thì ít tốn

kém hơn.

Mặt khác, đối với người bán hợp đồng quyền chọn không có bất cứ sự lựa

chọn nào khác, ngoài việc luôn sẵn sàng tiến hành thanh toán khi người mua tiến

hành thực hiện quyền chọn.

Hợp đồng quyền chọn mua và chọn bán tiền tệ/vàng:

 Hợp đồng quyền chọn mua tiền tệ/vàng là hợp đồng, trong đó người mua

hợp đồng có quyền mua một đồng tiền/vàng nhất định bằng một đồng

tiền/vàng khác tại tỷ giá cố định đã thỏa thuận từ trước, trong một khoảng

thời gian nhất định.

 Hợp đồng quyền chọn bán tiền tệ/vàng là hợp đồng, trong đó người mua

hợp đồng có quyền bán một đồng tiền/vàng nhất định để lấy một đồng

tiền/vàng khác tại tỷ giá cố định đã thỏa thuận từ trước, trong một khoảng

thời gian nhất định.

Quyền chọn kiểu Mỹ và kiểu Châu Âu:

 Quyền chọn kiểu Mỹ cho phép thực hiện quyền chọn vào những ngày

làm việc hợp pháp trong thời gian hiệu lực của hợp đồng và trước khi hợp

đồng đáo hạn. Việc thanh toán thực sự xảy ra sau khi tiến hành quyền

chọn từ 1 đến 2 ngày làm việc giống như trường hợp ngày giá trị trong

các giao dịch giao ngay.

 Quyền chọn kiểu Châu Âu chỉ cho phép thực hiện quyền chọn tại thời

điểm hợp đồng đáo hạn. Việc thanh toán thực sự xảy ra sau khi hợp đồng

39

đến hạn từ một đến hai ngày làm việc giống như trường hợp ngày giá trị

trong các giao dịch giao ngay.

Những rủi ro đối với nghiệp vụ quyền chọn:

 Những rủi ro đối với người mua quyền chọn: Người mua quyền chọn sẽ

phải đối mặt với rủi ro bị mất toàn bộ hay một phần khoản tiền phí đã chi

để mua quyền chọn. Nếu người nắm giữ hợp đồng quyền chọn không bán

lại quyền của mình trên thị trường thứ cấp và cũng không thực hiện nó

trước khi đến hạn, anh ta sẽ mất toàn bộ số tiền phí mua quyền chọn.

 Những rủi ro đối với người bán quyền chọn: Người bán bắt buộc phải

thực hiện hợp đồng vào bất kì thời điểm nào trong thời hạn hợp đồng mà

người mua yêu cầu. Đồng thời họ luôn chịu rủi ro mất đi cơ hội kiếm lời

khi tỷ giá giao ngay vào thời điểm hợp đồng đáo hạn tăng cao hơn tỷ giá

thực hiện đối với bán quyền chọn.

1.2. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN RỦI RO TRONG KINH DOANH

NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Các nhân tố tác động đến rủi ro trong KDNH của các NHTM được chia ra

làm hai nhóm, bao gồm nhóm các nhân tố tác động chung và nhóm các nhân tố tác

động riêng:

Nhóm các nhân tố tác động chung gồm nhóm các yếu tố tác động từ môi

trường kinh tế - chính trị - xã hội của các nước trên thế giới gọi là nhóm các yếu tố

bên ngoài và nhóm các yếu tố chủ yếu từ môi trường kinh tế trong nước gọi là các

yếu tố bên trong.

Nhóm các nhân tố tác động riêng là các yếu tố gây ra rủi ro cho KDNH của

các NHTM xuất phát từ hoạt động của các ngân hàng, có hai nguyên nhân chính

làm phát sinh các rủi ro này là: các ngân hàng mua bán ngoại tệ phục vụ cho khách

hàng hay mua bán cho chính mình; các ngân hàng đầu tư vào tài sản có và huy động

vốn bằng ngoại tệ.

40

1.2.1. Các nhân tố chung tác động đến rủi ro trong kinh doanh ngoại hối

1.2.1.1 . Các yếu tố bên ngoài

Đây là các yếu tố chủ yếu thuộc các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội của

các nước trên thế giới có ảnh hưởng đến nền kinh tế của một Quốc gia nói chung và

hoạt động KDNH nói riêng. Mức độ tác động này có thể tùy theo độ mở cửa của

từng nền kinh tế khác nhau. Tuy nhiên qua các năm, mức độ ảnh hưởng của sự biến

động của các nền kinh tế trên thế giới sẽ tác động ngay đến các hoạt động của nền

kinh tế của một Quốc gia theo chính sách mở cửa của Quốc gia đó.

1.2.1.2 . Các yếu tố bên trong

Đây là các yếu tố tác động từ nội tại của nền kinh tế ở một Quốc gia, trong

đó chủ yếu bao gồm: lạm phát, thâm hụt cán cân thương mại, tình trạng đôla hóa

nền kinh tế, trạng thái ngoại tệ, cơ chế điều hành tỷ giá và các hợp đồng giao dịch

phái sinh ngoại hối.

 Lạm phát

Quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái không phải là quan hệ một chiều

mà là quan hệ vòng, tác động qua lại lẫn nhau, không thể coi yếu tố này là nguyên

nhân và yếu tố kia là kết quả. Điều đó có thể tạo ra các thiệt hại tài chính lớn hơn

nhiều do “vòng xoáy” lạm phát - tỷ giá gây ra. Giá trị tiền đồng giảm sẽ làm tăng

giá hàng nhập khẩu và tạo thêm áp lực lên CPI, rồi từ CPI lên cao trở lại sẽ gây áp

lực mặt bằng lãi suất cao và làm tiền đồng thêm mất giá.

Bên cạnh đó, mức chênh lệch lạm phát của hai nước cũng ảnh hưởng đến sự

biến động của tỷ giá. Giả sử trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh, năng suất lao

động của hai nước tương đương như nhau, cơ chế quản lý ngoại hối tự do, khi đó tỷ

giá biến động phụ thuộc vào mức chênh lệch lạm phát của hai đồng tiền. Nước nào

có mức độ lạm phát lớn hơn thì đồng tiền của nước đó bị mất giá so với đồng tiền

nước còn lại.

Chênh lệch lạm phát dựa vào thuyết ngang giá sức mua của hai đồng tiền

PPP (Purchasing Power Parity Theory). Theo thuyết này, mức giá của một nước

tăng lên tương đối so với mức tăng giá của nước khác trong dài hạn sẽ làm cho

41

đồng tiền của nước đó giảm giá và ngược lại. Như vậy, yếu tố chênh lệch lạm phát

chỉ có ảnh hưởng đến biến động của tỷ giá trong dài hạn. Việc nghiên cứu yếu tố

này để làm cơ sở dự đoán biến động của tỷ giá trong ngắn hạn sẽ đem lại kết quả

không đáng tin cậy.

Một nền kinh tế sẽ vận hành tốt và hiệu quả hơn khi xét về tỷ lệ tăng trưởng

GDP thực tế, về việc làm, và về cải thiện đời sống nhân dân, nếu tỷ lệ lạm phát thấp

và được duy trì ổn định ở mức đó. Bởi vì, kỳ vọng lạm phát sẽ khiến hành vi của

các chủ thể trong nền kinh tế trở nên không ổn định. Có thể nói, mọi động thái bất

thường và bất hợp lý của chỉ số lạm phát đều để lại những hiệu quả tiêu cực cho nền

kinh tế, tạo ra nhiều rủi ro cho các hoạt động trên thị trường ngoại hối. Lạm phát

đồng nghĩa với đồng tiền giảm giá trị là những tin tức tiêu cực đối với hầu hết người

dân, các tổ chức kinh tế. Lạm phát bóp méo giá cả, giảm độ tin cậy vào đồng tiền

của Quốc gia đó, tăng cầu về ngoại tệ (đặc biệt là USD), không khuyến khích đầu

tư, đầu tư vào vàng, hạn chế tăng trưởng kinh tế và tới cực điểm nó có thể gây ra

những bất ổn về mặt xã hội và chính trị.

Cho nên, lạm phát tại một Quốc gia tạo ra tỷ giá của USD hay một ngoại tệ

khác với đồng tiền của Quốc gia đó thường có xu hướng tăng và nhu cầu đầu tư vào

vàng nhằm làm nơi trú ẩn an toàn ngày càng tăng cao và làm cho giá vàng trong

nước thường cao hơn giá vàng thế giới. Từ đó, những biến động trên dễ tạo ra nhiều

rủi ro cho hoạt động KDNH của các NHTM, đặc biệt đối với một nền kinh tế chưa

liên thông đầy đủ với các nền kinh tế trên thế giới như tại Việt nam.

 Thâm hụt cán cân thương mại

Nhập siêu hay tình trạng thâm hụt cán cân thương mại là sự mất cân đối giữa

nhập khẩu và xuất khẩu trong điều kiện nhập khẩu vượt quá xuất khẩu. Nếu tình

trạng này duy trì trong dài hạn và vượt quá mức độ cho phép có thể ảnh hưởng tới

cán cân tài khoản vãng lai và gây nên những biến động bất lợi đối với nền kinh tế

như gia tăng tình trạng nợ quốc tế, hạn chế khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, tác

động tiêu cực đến thu nhập và việc làm và ở mức trầm trọng hơn có thể gây nên

khủng hoảng tài chính tiền tệ.

42

Đối với các nước đang phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa và mở cửa

hội nhập kinh tế, thâm hụt cán cân thương mại là một hiện tượng khá phổ biến với

yêu cầu nhập khẩu rất lớn trong khi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn

chế, do đó mức tăng trưởng xuất khẩu trong ngắn hạn không thể bù đắp thâm hụt

thương mại. Tuy nhiên, nếu tình trạng này diễn ra thường xuyên và dai dẳng cho

thấy sự yếu kém trong điều tiết kinh tế vĩ mô và hậu quả đối với nền kinh tế rất trầm

trọng.

Cán cân thương mại cung cấp những thông tin liên quan đến cung cầu tiền tệ

của một quốc gia, cụ thể là thể hiện sự thay đổi tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ so

với ngoại tệ. Khi một nước nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu, nghĩa là cung đồng tiền

quốc gia đó có khuynh hướng vượt cầu trên thị trường ngoại hối nếu các yếu tố

khác không thay đổi. Và như vậy có thể suy đoán rằng đồng tiền nội tệ của nước đó

sẽ bị sức ép giảm giá so với các đồng tiền khác. Khi đồng tiền của một quốc gia

giảm giá, sẽ làm tăng giá trị nhập khẩu tính bằng đồng tiền nước này. Với cùng một

số tiền không đổi chi cho nhập khẩu, khi giá tăng thì khối lượng nhập khẩu sẽ phải

giảm, tuy số lượng nhập khẩu giảm, nhưng giá trị nhập khẩu có thể tăng. Sau khi

đồng tiền giảm giá, chi tiêu bằng đồng nội tệ cho nhập khẩu có thể tăng, song do giá

xuất khẩu tính bằng ngoại tệ giảm đă kích thích tăng khối lượng xuất khẩu, do đó

không làm cho cán cân thương mại xấu đi.

Như vậy, nhập siêu có tác động nhất định tới tỷ giá hối đoái, làm đồng tiền

nội tệ của một nước có khuynh hướng giảm giá, tuy nhiên trong dài hạn sự giảm giá

của đồng nội tệ không có tác động xấu tới cán cân thương mại, do có tác dụng kích

thích sản xuất hàng thay thế nhập khẩu và hàng xuất khẩu.

Ngoài ra, nhập siêu ở mức cao, kéo dài gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế

và điều hành chính sách tiền tệ, thể hiện qua các đặc điểm cụ thể sau:

Thứ nhất, nhập khẩu lạm phát gây khó khăn cho việc điều hành các chính

sách kinh tế vĩ mô nhằm đạt được các mục tiêu tăng trưởng và kiểm soát lạm phát,

ổn định thị trường ngoại hối. Mặc dù vậy, cơ cấu đầu vào sản xuất theo nguồn của

nước ta cho thấy nhập khẩu có tác động không nhỏ tới giá cả trong nước. Với

43

những đặc điểm như vậy, giá cả nhập khẩu sẽ tác động mạnh tới chi phí sản xuất

của nhiều ngành sản xuất, gây áp lực tới giá bán và giá sản phẩm tiêu dùng cuối

cùng. Trong điều kiện nhập khẩu chủ yếu phục vụ sản xuất hay nói cách khác là hỗ

trợ tăng trưởng, việc điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát nhập khẩu trong

trường hợp có dấu hiệu của nhập khẩu lạm phát nhằm ổn định giá cả và duy trì tăng

trưởng là không dễ dàng.

Thứ hai, nhập siêu gây bất ổn cán cân thanh toán tổng thể, từ đó tạo áp lực

tới cung cầu ngoại tệ và tỷ giá.

Thứ ba, nhập siêu tạo áp lực suy giảm dự trữ ngoại hối.

Thứ tư, thâm hụt cán cân thương mại tạo ra sự giảm lòng tin của người dân

vào đồng tiền của một Quốc gia, tăng cầu về USD hay một ngoại tệ khác và tăng

đầu tư vào vàng nhằm bảo tồn giá trị.

Với các đặc điểm trên, thâm hụt cán cân thương mại càng làm cho tỷ giá của

USD hay một ngoại tệ khác với đồng tiền của Quốc gia đó và giá vàng trong nước

thường biến động theo chiều hướng tăng; cuối cùng tạo ra nhiều rủi ro cho KDNH

của các NHTM một khi cung cầu trên thị trường thay đổi.

 Tình trạng đôla hóa nền kinh tế

Theo IMF, đôla hóa là tình trạng mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm

trên 30% tổng khối tiền tệ mở rộng (M2) bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi

không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ.

Đôla hóa được hiểu theo cách đơn giản nhất là ngoại tệ USD được sử dụng

rộng rãi bên cạnh đồng nội tệ làm đồng tiền thanh toán trong các giao dịch thương

mại. Điển hình như, IMF đã xếp Việt Nam thuộc nhóm quốc gia đôla hóa không

chính thức. Đôla hóa không chính thức là trường hợp đồng đôla được sử dụng rộng

rãi trong nền kinh tế nhưng không được quốc gia đó chính thức thừa nhận.

Đôla hóa tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đôla

hóa có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân và các tổ chức

kinh tế có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đôla Mỹ, làm cho cầu của đôla Mỹ

tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá.

44

Đối với quốc gia có tình trạng đôla hóa không chính thức, nhu cầu về nội tệ

không ổn định, trong trường hợp có biến động, người dân và các tổ chức kinh tế bất

ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ

lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay

đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng

tiền này sang đồng tiền khác hay còn gọi là hoạt động đầu cơ tỷ giá. Những thay đổi

này sẽ gây khó khăn cho NHTW trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có

thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng và hoạt động của thị trường

ngoại hối.

Ngoài ra, tình trạng đôla hóa còn gây áp lực tới việc NHTW can thiệp trên

thị trường ngoại hối ngay cả khi tổng thể nền kinh tế không bị mất cân đối cung cầu

ngoại tệ, tại vì các khu vực của nền kinh tế có xu hướng găm giữ ngoại tệ. Một nền

kinh tế không có sự găm giữ ngoại tệ, NHTW chỉ bán ngoại tệ khi các khu vực

trong nền kinh tế đã giao dịch với nhau nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu

ngoại tệ. Tuy nhiên, ở Việt Nam lại khác, ngay cả khi tổng thể nền kinh tế có dư

cung ngoại tệ, NHNN vẫn phải bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.

Cũng giống như các phân tích trên, một khi nền kinh tế bị đôla hóa nặng nề,

người dân ưa chuộng sử dụng USD hay một ngoại tệ mạnh khác trong các thanh

toán hàng ngày, càng làm cho cầu USD hay một ngoại tệ mạnh khác tăng cao và họ

mất niềm tin vào đồng tiền của Quốc gia mình. Cho nên, người dân có xu hướng

tìm đến vàng và giảm dần niềm tin vào đồng tiền của Quốc gia mình. Từ các diễn

biến như vậy trên thị trường ngoại hối, hoạt động KDNH rất dễ gặp rủi ro một khi

giá vàng trên thị trường thế giới biến động mạnh và giá trị USD không duy trì được

sức mạnh của mình.

 Trạng thái ngoại tệ

Điển hình như tại Việt nam, theo Thông tư số 07/2012/TT-NHNN ngày

20/03/2012 do NHNN ban hành quy định về trạng thái ngoại tệ của các TCTD, chi

nhánh ngân hàng nước ngoài, trạng thái ngoại tệ là trạng thái nguyên tệ của ngoại tệ

đó được quy đổi sang đồng Việt Nam theo tỷ giá quy đổi trạng thái.

45

Thông tư cũng quy định một số nội dung mới so với các quy định trước đây

về giới hạn tổng trạng thái ngoại tệ như sau: Giới hạn tổng trạng thái ngoại tệ được

tính bằng tỷ lệ giữa tổng trạng thái ngoại tệ dương hoặc tổng trạng thái ngoại tệ âm

chia cho vốn tự có của TCTD. Vốn tự có để tính giới hạn tổng trạng thái ngoại tệ

của TCTD là vốn tự có của tháng liền kề trước kỳ báo cáo của TCTD. Tổng trạng

thái ngoại tệ dương cuối ngày của TCTD không được vượt quá 20% vốn tự có và

tổng trạng thái ngoại tệ âm cuối ngày của TCTD không được vượt quá 20% vốn tự

có của TCTD, riêng các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam có vốn tự có

từ 25 triệu đô la Mỹ trở xuống thì trạng thái ngoại tệ được quy định: tổng trạng thái

ngoại tệ dương cuối ngày quy ra đô la Mỹ không được vượt quá 5 triệu đô la Mỹ và

tổng trạng thái ngoaị tệ âm cuối ngày quy ra đô la Mỹ không được vượt quá 5 triệu

đô la Mỹ.

Đây cũng là một trong những công cụ để điều hành của NHNN. Càng co hẹp

trạng thái ngoại tệ, càng hạn chế được khả năng đầu cơ ngoại tệ, hạn chế việc

chuyển đổi các đồng tiền. Do vậy, với việc giảm trạng thái ngoại tệ trong quy định

mới có thể khiến thị trường ngoại tệ biến động nhiều hơn trong thời gian tới và tạo

ra nhiều biến động cho tỷ giá USD/VND. Mặt khác, việc các TCTD phải điều chỉnh

lại trạng thái ngoại tệ theo hạn mức mới đồng nghĩa với việc tổ chức phải mua lại

nếu đang ở trạng thái âm lớn hơn hạn mức. Nhu cầu mua lại có lẽ sẽ gây áp lực nhất

định cho thị trường ngoại hối vì tình trạng chênh lệch lãi suất vay USD và VND

thời gian qua đã khuyến khích hoạt động chuyển vốn, chẳng hạn bán USD ra để đổi

sang VND nhằm cho vay.

Ngoài ra, hoạt động kinh doanh vàng thông qua việc mua bán vàng trên tài

khoản vàng tại nước ngoài cũng có ảnh hưởng nhất định đến trạng thái ngoại tệ của

các NHTM. Từ đó, trạng thái ngoại tệ này ảnh hưởng đến rủi ro trong hoạt động

KDNH của các ngân hàng.

 Cơ chế điều hành tỷ giá

Kể từ năm 1999, khi Việt Nam có sự thay đổi lớn trong cơ chế tỷ giá, bảng

phân loại cơ chế tỷ giá của IMF xếp Việt Nam vào nhóm cơ chế tỷ giá thả nổi với

46

mức phân định là cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý không định trước (Managed

floating with no predetermined for exchange rate) cùng với các nước trong khu vực

như Thái Lan, Singapore. Ở cùng thời gian này, Malaysia và Trung Quốc vẫn được

xếp vào nhóm cố định truyền thống (Conventional pegged arrangement) tức là có

cơ chế tỷ giá “cứng” hơn so với Việt Nam. Tuy nhiên, từ cuối năm 2004 trở lại đây,

IMF chuyển Việt Nam sang nhóm nước có cơ chế cố định truyền thống vì nhận

định rằng kể từ tháng 8/2004, NHNN công bố sẽ không để tỷ giá USD/VND tăng

quá 1%/năm. Có thể thấy, dưới góc nhìn của IMF, Việt Nam đã có sự chuyển đổi cơ

chế tỷ giá theo hướng lùi về nhóm “cứng”.

Với độ mở thương mại khá cao, sự thiếu ổn định của tỷ giá sẽ gây nên vấn đề

nghiêm trọng cho toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Trong ngắn hạn và kể cả trung hạn,

Việt Nam khó có thể chuyển sang trạng thái có độ mở thương mại thấp nên nếu dựa

trên yếu tố này, điều đương nhiên là Việt Nam sẽ chưa thể lựa chọn cơ chế thả nổi.

Tuy nhiên, nếu đeo đuổi cơ chế tỷ giá theo hướng cứng kém linh hoạt, Việt Nam sẽ

đối mặt với áp lực điều chỉnh tỷ giá lớn “bất thường” (dù có thể không liên tục) khi

nền kinh tế đối mặt với bất ổn trong cán cân thanh toán, vì duy trì tỷ giá cứng khá

lâu. Kết quả là chính những lần điều chỉnh lớn “bất thường” như vậy sẽ làm gia tăng

rủi ro tỷ giá, tăng chi phí giao dịch, tác động tiêu cực đến việc khuyến khích hoạt

động thương mại và đầu tư, gây rối loại trên thị trường ngoại hối.

Ngoài ra, với việc quy định tỷ giá USD/VND theo hướng thị trường và có

điều tiết của NHNN dễ dàng tạo ra rủi ro tỷ giá như phân tích ở trên, đồng thời kéo

theo rủi ro cho hoạt động kinh doanh vàng của các ngân hàng với lý do là giá vàng

trong nước được xác định dựa vào giá vàng thế giới, tỷ giá USD/VND và các chi

phí khác, cho nên rủi ro tỷ giá cũng tất yếu gây nên rủi ro trong hoạt động kinh

doanh vàng của ngân hàng.

 Các hợp đồng giao dịch phái sinh ngoại hối

Công cụ tài chính phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành trên

cơ sở những công cụ tài chính đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán

rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt

47

nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỷ giá, lãi suất, v.v... Công cụ tài chính

phái sinh xuất hiện lần đầu tiên nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn rủi ro,

trong đó thường được sử dụng cao nhất là hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai,

hợp đồng hoán đổi hay những sản phẩm phái sinh kết hợp.

Mặc dù, xuất hiện lần đầu tiên với tư cách là một công cụ phòng chống rủi ro

nhưng cùng với sự lớn mạnh và phức tạp của thị trường tài chính, các công cụ tài

chính phái sinh cũng được sử dụng nhiều hơn để tìm kiến lợi nhuận và thực hiện các

hoạt động đầu cơ. Ngày nay, hoạt động kinh doanh của các NHTM trở nên phong

phú và đa dạng hơn bao giờ hết, bên cạnh các nghiệp vụ ngân hàng mang tính

truyền thống thì các ngân hàng đã không ngừng phát triển các nghiệp vụ tài chính

mới, hiện đại, trong đó, phải kể đến các giao dịch kinh doanh ngoại tệ với doanh số

giao dịch lớn hơn nhiều so với trước đây. Đây là hoạt động kinh doanh có thể đem

lại lợi nhuận rất cao cho NHTM, nhưng cũng chứa không ít rủi ro. Khi tham gia

hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng sẽ tạo ra trạng thái ngoại tệ mở và dẫn đến

rủi ro tỷ giá cho ngân hàng nếu tỷ giá trên thị trường biến động. Để có thể hạn chế

được rủi ro này, ngân hàng sẽ phải tiến hành các biện pháp phòng ngừa, một trong

những công cụ hữu hiệu phòng ngừa tỷ giá đó chính là các hợp đồng phái sinh tiền

tệ. Các hợp đồng phái sinh tiền tệ cơ bản bao gồm: hợp đồng ngoại hối kỳ hạn, hợp

đồng ngoại hối hoán đổi, hợp đồng ngoại hối quyền chọn và hợp đồng ngoại hối

tương lai. Công cụ phổ biến nhất để kiểm soát rủi ro giao dịch ngoại hối là những

hợp đồng tương lai, hoán đổi và quyền chọn tiền tệ. (Joel Bessis, 2011)

Như vậy, công cụ phái sinh ngoại hối ra đời là để bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Tỷ

giá biến động theo một biên độ lớn và ngẫu nhiên, phản ánh quan hệ cung cầu về

ngoại tệ trên thị trường là điều kiện tiên quyết cho việc sử dụng các công cụ phòng

chống rủi ro. Trên thị trường ngoại hối, bên cạnh việc phản ánh quan hệ cung cầu

về ngoại tệ thì thị trường còn ẩn chứa các yếu tố đầu cơ và chênh lệch giá về ngoại

tệ. Đây cũng là những yếu tố quan trọng trong việc làm cho tỷ giá hối đoái trên thị

trường ngoại hối biến động một cách khó dự đoán. Chính vì sự không dự đoán trước

được những thay đổi của tỷ giá trên thị trường các NHTM luôn có mong muốn bảo

48

hiểm rủi ro để chống lại những tổn thất có thể xảy ra đối với các dòng tiền ngoại tệ

của mình. Ngược lại, một khi các NHTM không sử dụng các sản phẩm phái sinh

cho các giao dịch ngoại hối thì đây là một trong các nguyên nhân gây ra rủi ro ngoại

hối cho các ngân hàng.

1.2.2. Các nhân tố riêng tác động đến rủi ro trong kinh doanh ngoại hối

Có hai nguyên nhân chính làm phát sinh rủi ro trong KDNH tại các Ngân

hàng, đó là:

 Các Ngân hàng mua bán ngoại tệ hay vàng phục vụ cho khách hàng và mua

bán cho chính mình;

 Các Ngân hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn bằng ngoại tệ hay

vàng.

Cả hai nguyên nhân này tạo ra một xu hướng trạng thái ngoại hối ròng

(trường hoặc đoản) đối với hầu hết các NHTM hiện nay. Chúng ta thấy rằng, nếu tỷ

giá ngoại tệ hay giá vàng biến động càng mạnh thì rủi ro ngoại hối sẽ càng lớn;

chính vì vậy, theo nghĩa hẹp người ta thường xem rủi ro ngoại hối là rủi ro tỷ giá

ngoại tệ hay rủi ro về giá vàng.

Trong môi trường toàn cầu hóa tài chính - ngân hàng như ngày nay, nhà quản

trị Ngân hàng ngày càng phải đối mặt nhiều hơn với rủi ro ngoại hối, điều này cũng

làm phát sinh nhiều nghiệp vụ mới (gọi là nghiệp vụ phái sinh) trong kinh doanh

ngoại hối và được sử dụng tích cực vào việc phòng ngừa rủi ro ngoại hối.

Để xác định rủi ro ngoại hối, thông thường người ta sử dụng trạng thái ngoại

tệ ròng áp dụng đối với ngoại tệ và mô hình VaR áp dụng đối với vàng. Như tại

Việt nam, theo hướng dẫn của Thông tư 07/2012/TT-NHNN ngày 20/03/2012,

trạng thái ngoại tệ ròng của một TCTD được xác định bằng trạng thái nội bảng cộng

với trạng thái ngoại bảng, hay là bằng chênh lệch giữa tài sản có và tài sản nợ bằng

ngoại tệ cộng với chênh lệch giữa mua vào và bán ra bằng ngoại tệ được ghi nhận ở

ngoại bảng. Tổng trạng thái ngoại tệ cuối ngày của các TCTD, chi nhánh Ngân hàng

nước ngoài không được vượt quá 20% vốn tự có của TCTD, chi nhánh Ngân hàng

49

nước ngoài. Các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam có vốn tự có từ hai

mươi lăm triệu đô la Mỹ trở xuống được phép áp dụng mức giới hạn tổng trạng thái

ngoại tệ là tổng trạng thái ngoại tệ cuối ngày quy ra đô la Mỹ không được vượt quá

năm triệu đô la Mỹ. Nếu trạng thái ròng của ngoại tệ lớn hơn 0, thì ta gọi là trạng

thái trường, hay trạng thái dương; còn nếu nhỏ hơn 0 thì gọi là trạng thái đoản hay

trạng thái âm. Rõ ràng là, để tránh được rủi ro ngoại hối đối với một ngoại tệ nhất

định, tức để cho ngoại tệ này có trạng thái ròng bằng 0, thì Ngân hàng có thể tiến

hành theo hai cách: Thứ nhất, đồng thời làm cân xứng giữa doanh số mua vào và

doanh số bán ra được ghi nhận ở ngoại bảng và cân xứng giữa số dư tài sản có và số

dư tài sản nợ đối với ngoại tệ này được ghi trong nội bảng; Thứ hai, làm cho trạng

thái nội bảng và ngoại bảng ngược dấu với nhau. Về mặt logic, chúng ta cũng thấy

rằng, để một Ngân hàng tránh được hoàn toàn rủi ro ngoại hối thì Ngân hàng này

phải có trạng thái bằng 0 đối với tất cả các ngoại tệ, nhưng lúc đó lợi nhuận cho các

giao dịch này cũng gần như không có.

Như trên đã trình bày, chúng ta có thể lượng hóa được quy mô tiềm ẩn rủi ro

ngoại hối bằng cách xác định trạng thái ròng nội bảng và ngoại bảng đối với từng

ngoại tệ. Tuy nhiên, mức rủi ro đối với trạng thái của một ngoại tệ còn phụ thuộc

vào mức độ biến động của tỷ giá. Chúng ta có thể viết:

Lãi/lỗ đối với ngoại tệ (i) = Trạng thái ngoại hối ròng ngoại tệ (i) x

Mức biến động tỷ giá của ngoại tệ (i)

(Trong đó: i là một loại ngoại tệ)

Ví dụ, một Ngân hàng có trạng thái ngoại hối trường ròng là 100 triệu USD

và giả sử rằng sau một tuần tỷ giá giao ngay VND/USD tăng từ 1 USD = 20.520

VND lên 1 USD = 20.535 VND.

Gọi St-1 là tỷ giá của USD trước khi thay đổi, tức là: St-1 = 20.520

Gọi St là tỷ giá của USD sau khi thay đổi, tức là: St = 20.535

Ta tính được tỷ lệ % thay đổi tỷ giá (% thay đổi giá trị của USD):

50

Do USD có trạng thái trường, mà USD lại tăng giá nên Ngân hàng thu được

lãi hối đoái quy VND là:

100 x (20.535 - 20.520) = 1.500 triệu VND

Rõ ràng là, nếu Ngân hàng duy trì một trạng thái ngoại hối ròng với bất cứ

ngoại tệ nào thì khi tỷ giá của đồng tiền này biến động càng lớn thì khả năng thu

được lợi nhuận (hay lỗ) cũng càng lớn.

1.3. CÁC TIÊU CHÍ ĐO LƯỜNG RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI

HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.3.1. Các tiêu chí định lượng

1.3.1.1. Phương pháp đo lường VaR

Một trong những phương pháp đo lường rủi ro trong hoạt động KDNH tại

các NHTM phổ biến nhất hiện nay là sử dụng mô hình VaR. Mô hình sẽ được phân

tích chi tiết trong mục 1.4.2.3 của chương 1 Luận án này.

Mô hình này không những nêu ra các tiêu chí để đo lường về rủi ro trong

kinh doanh ngoại tệ gồm USD và bảy loại ngoại tệ mạnh khác đã được nêu trong

phạm vi nghiên cứu cũng như hoạt động kinh doanh vàng theo công thức chung bên

dưới: (các yếu tố trong công thức này sẽ được giải thích trong mục 1.4.2.3)

Với việc sử dụng mô hình VaR, các nhà kinh doanh và quản trị ngân hàng

xác định được một con số cụ thể về mức độ rủi ro của danh mục ngoại hối mà ngân

hàng đang nắm giữ. Từ đó, các nhà quản trị ngân hàng xác định được mức độ rủi ro

này có nằm trong phạm vi tổn thất cho phép của các lãnh đạo cao hơn trong ngân

hàng hay không. Phương pháp này có thể được thực hiện trước, trong hay sau khi

các dealer thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, việc thực hiện tính toán VaR trước khi

thực hiện giao dịch ngoại hối sẽ tốt hơn cho việc quản trị ngân hàng.

51

1.3.1.2. Phương pháp đo lường trạng thái ngoại tệ

Đây cũng là một trong những phương pháp đo lường định lượng phổ biến

hiện nay trên thế giới về mức độ rủi ro của các giao dịch ngoại hối mà ngân hàng

thực hiện. Các tiêu chí của công thức này được trình bày chi tiết trong Mục 1.2.2

của Luận án này.

Lãi/lỗ đối với ngoại hối (i) = Trạng thái ngoại hối ròng (i) x

Mức biến động tỷ giá của ngoại tệ (i) hay giá vàng

Mức độ chính xác của việc sử dụng phương pháp này phụ thuộc rất lớn vào

việc dự đoán mức độ biến động của tỷ giá ngoại tệ hay giá vàng. Kết quả của công

thức này là một con số cụ thể thể hiện mức độ rủi ro của hoạt động kinh doanh vàng

hay ngoại tệ của ngân hàng.

1.3.2. Các tiêu chí định tính

Các chỉ tiêu này bao gồm: mức độ sử dụng các công cụ phái sinh (mục

1.4.2.3), sử dụng các kỷ thuật dự đoán tỷ giá, hạn mức (mục 1.4.2.3), tình hình kinh

tế - chính trị - xã hội trong và ngoài nước (mục 1.2.1), các chính sách của Chính

phủ và các cơ quan có thẩm quyền (mục 1.2.1), v.v…

Mức độ thường xuyên sử dụng các công cụ trên trong việc phòng ngừa rủi ro

trong hoạt động KDNH hay diễn biến tình hình trong và ngoài nước quyết định

quan trọng đến mức độ rủi ro của KDNH tại các NHTM hiện nay. Do đó, việc ý

thức được các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động kinh doanh của các cấp lãnh đạo

ngân hàng có tầm ảnh hưởng lớn đến rủi ro xảy ra là cao hay thấp đến kết quả lợi

nhuận của ngân hàng; đồng thời việc phân tích và dự báo tình hình trong và ngoài

nước cũng chi phối đến mức độ rủi ro trong hoạt động KDNH của ngân hàng.

52

1.4. QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.4.1. Rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng thương mại

Về bản chất, KDNH tự nó chứa đựng rủi ro rất cao. Ngoài các rủi ro thông

thường mà các hoạt động khác cũng phải đối mặt như: rủi ro lãi suất, rủi ro tín

dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro kỹ thuật, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý và rủi ro

quốc gia, thì KDNH còn chịu thêm một rủi ro đặc biệt, đó là rủi ro về tỷ giá ngoại tệ

và giá vàng. Do tỷ giá ngoại tệ và giá vàng biến động thường xuyên và bất thường,

nên rủi ro tỷ giá ngoại tệ và giá vàng được xem là rủi ro thường trực, gắn liền và trở

thành rủi ro đặc trưng của hoạt động KDNH của các ngân hàng.

Theo tác giả, rủi ro ngoại hối là rủi ro phát sinh do sự biến động của tỷ giá

ngoại tệ và giá vàng làm ảnh hưởng xấu đến giá trị kỳ vọng trong tương lai. Có hai

nguyên nhân chính gây nên rủi ro tỷ giá ngoại tệ và giá vàng: (1) các ngân hàng

giao dịch các đồng tiền nước ngoài, vàng nhằm phục vụ cho khách hàng và cho

chính ngân hàng mình; (2) các ngân hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn

bằng các ngoại tệ. Cả hai nguyên nhân này tạo ra một xu hướng trạng thái ngoại hối

ròng (trường hoặc đoản) trong mua bán ngoại hối và trong cơ cấu tài sản bằng ngoại

tệ. Nếu tỷ giá ngoại tệ và giá vàng biến động càng mạnh thì rủi ro ngoại hối sẽ càng

lớn.

Các nguyên nhân làm cho tỷ giá ngoại tệ và giá vàng biến động gây nên rủi

ro trong KDNH tại các NHTM đã được trình bày và phân tích chi tiết ở mục 1.2 của

Luận án này.

1.4.2. Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương

mại

1.4.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối của NHTM

Để kinh doanh ngoại tệ có lãi thì các NHTM phải tạo trạng thái ngoại hối mở

và tỷ giá phải biến động. Muốn tránh hoàn toàn rủi ro tỷ giá thì nhà kinh doanh chỉ

việc không tiến hành bất kỳ giao dịch ngoại hối nào hoặc nếu đã tạo trạng thái ngoại

53

hối thì tiến hành đóng trạng thái ngoại hối bằng các giao dịch đối ứng để làm cân

bằng trạng thái. Tuy nhiên, là Dealer thì việc tạo trạng thái ngoại hối và hy vọng tỷ

giá biến động theo chiều hướng có lợi là công việc hằng ngày của anh ta. Do đó, tỷ

giá luôn biến động thất thường và không giới hạn làm cho cơ hội kiếm lãi trở nên

thường xuyên và vô cùng hấp dẫn. Tiềm năng thu lãi và tiềm ẩn rủi ro trong KDNH

là đồng hành với nhau. Lãi lỗ trong KDNH có thể phát sinh cùng với quy mô biến

động tỷ giá, trong khi tỷ giá biến động là không giới hạn nên có thể làm cho lãi lỗ

phát sinh là rất lớn. Điều này buộc ngân hàng phải có một cơ chế quản lý và giám

sát hoạt động kinh doanh ngoại tệ và vàng một cách chặt chẽ.

Rủi ro KDNH là một yếu tố khách quan, ngân hàng không thể loại trừ được

tất cả mọi rủi ro có thể xảy ra khi tham gia giao dịch KDNH, mà ngân hàng chỉ có

thể đưa ra các biện pháp và công cụ nhằm hạn chế sự xuất hiện của rủi ro.

Cho nên, theo tác giả, quản lý rủi ro KDNH tại ngân hàng là quá trình tiếp

cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát,

phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất do rủi ro gây ra. Quy trình quản lý rủi ro

thông thường gồm năm bước: nhận dạng rủi ro, phân tích rủi ro, đo lường rủi ro,

kiểm soát, phòng ngừa rủi ro và tài trợ rủi ro.

1.4.2.2. Vai trò của quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối đối với NHTM

Một hệ thống quản lý rủi ro được tổ chức tốt và vận hành hiệu quả sẽ giúp

các Ngân hàng đứng vững và vượt qua những biến động lớn trong các giai đoạn khó

khăn.

Theo như phân tích ở mục 1.2 của Luận án này, các nhân tố gây nên rủi ro

đối với hoạt động KDNH của các Ngân hàng là luôn hiện hữu, cho nên hoạt động

quản trị rủi ro KDNH của các NHTM là một nội dung quan trọng và luôn cần thiết

mà các cấp lãnh đạo và điều hành ngân hàng cần đặc biệt quan tâm.

Quản trị rủi ro KDNH tốt giúp góp phần làm giảm thiểu chi phí hoạt động và

hạn chế tổn thất cho các ngân hàng, từ đó sẽ giúp tối đa hóa lợi nhuận và giá trị cho

cổ đông của ngân hàng.

54

Quản lý rủi ro KDNH hiệu quả góp phần tạo điều kiện làm lành mạnh tình

hình tài chính, ngăn ngừa nguy cơ phá sản và gia tăng uy tín cho các NHTM. Qua

đó, các NHTM góp phần tăng lòng tin nơi khách hàng và các đối tác trong và ngoài

nước; đồng thời thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế ổn định và bền vững cho

đất nước.

Quản lý rủi ro KDNH tốt giúp phát hiện kịp thời những nguyên nhân có thể

gây nên rủi ro cho hoạt động KDNH, từ đó ngân hàng có những giải pháp phòng

ngừa và hạn chế rủi ro thích hợp.

Quá trình này giúp xây dựng hình ảnh tốt đẹp cho ngân hàng, đáp ứng yêu

cầu của các quy định trong nước và các chuẩn mực quốc tế.

Hệ thống quản lý rủi ro KDNH hiệu quả giúp các NHTM có được các nhân

tố tích cực sau trong quá trình hoạt động của ngân hàng như có sự giám sát và quản

lý tích cực của Hội đồng quản trị và Ban điều hành; ban hành và triển khai đầy đủ

các chính sách, quy trình quản lý rủi ro và các giới hạn rủi ro; thiết lập hệ thống

thông tin quản lý rủi ro phù hợp; và thiết lập được hệ thống kiểm soát nội bộ và

kiểm toán nội bộ hoạt động phù hợp.

Ngoài ra, việc thực hiện quản lý rủi ro KDNH một cách nghiêm túc giúp

ngân hàng đảm bảo rằng vốn pháp định của ngân hàng không bị suy giảm và khả

năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng đủ bù đắp tất cả các rủi ro mà có thể dẫn đến

tổn thất cho ngân hàng tại mọi thời điểm. Bộ phận kiểm soát rủi ro thực hiện việc

theo dõi, đo lường tất cả các rủi ro của ngân hàng và đánh giá mức độ đầy đủ của

khả năng chịu đựng rủi ro. Nếu khả năng chịu đựng rủi ro là không đảm bảo, ngân

hàng sẽ có các biện pháp xử lý kịp thời.

1.4.2.3. Các phương pháp quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối tại ngân hàng

thương mại

Trên thế giới, các Ngân hàng thường sử dụng các phương pháp sau đây để

quản lý rủi ro trong hoạt động KDNH của Ngân hàng:

55

 Sử dụng các giới hạn trạng thái ngoại hối giao dịch qua đêm

Hạn mức (position limits) là giới hạn trạng thái ngoại hối tối đa mà mỗi

nhóm, cá nhân KDNH được phép thực hiện. Tùy theo kinh nghiệm, trình độ, mục

đích kinh doanh, năng lực tài chính và trang thiết bị mà hạn mức giữa các tổ chức,

giữa các nhân viên kinh doanh là không giống nhau. Việc quản lý hạn mức kinh

doanh tại một NHTM có thể căn cứ vào một số tiêu chí như sau:

 Hạn mức chung cho cả phòng kinh doanh, trên cơ sở đó phân bổ hạn mức

cho từng nhà kinh doanh cụ thể. Nguyên tắc phân bổ hạn mức cho từng nhà

kinh doanh chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thâm niên và năng lực kinh doanh

trên thị trường ngoại hối. Những nhà kinh doanh chuyên nghiệp, có thâm

niên, đã gặt hái được nhiều thành công thường là những nhà kinh doanh

chính (chief dealer) được giao hạn mức cao hơn rất nhiều so với những nhân

viên kinh doanh vừa vào nghề.

 Hạn mức theo các đồng tiền kinh doanh: Ngoài việc quy định tổng hạn mức

chung, đối với những nhóm và cá nhân kinh doanh liên quan đến nhiều đồng

tiền, thì việc quy định hạn mức kinh doanh đối với mỗi đồng tiền là cần thiết.

Những đồng tiền ít biến động thì hạn mức có thể cao, còn những đồng tiền

 Hạn mức cho các loại nghiệp vụ cụ thể, ví dụ hạn mức cho từng nghiệp vụ

biến động mạnh thì hạn mức thấp hơn.

giao ngay, kỳ hạn, tương lai, hoán đổi và quyền chọn. Phương pháp quản lý

và đánh giá đối với một số trạng thái chính như sau:

 Trạng thái giao ngay:

Do đặc thù của thị trường giao ngay là chịu sự tác động bởi các yếu tố ngắn

hạn lên tỷ giá. Những tin đồn, những cuộc giao dịch lớn, can thiệp của NHTW,

những biến cố bất ngờ xảy ra,... đều có thể ảnh hưởng nhanh chóng và mạnh mẽ lên

sự biến động tỷ giá. Những biến động đến ngạc nhiên của tỷ giá chỉ diễn ra trong

vài phút, do đó, nhà kinh doanh phải nhanh chóng và thường xuyên thay đổi trạng

thái kinh doanh để chớp cơ hội kiếm lãi hoặc thoát khỏi rủi ro.

56

Tại bất kỳ thời điểm nào, nếu nhà kinh doanh duy trì trạng thái giao ngay

(trạng thái mở) đều phải chịu rủi ro tỷ giá. Tỷ giá biến động càng mạnh thì rủi ro

càng lớn. Để quản lý tiềm năng thu lãi và tiềm ẩn lỗ vốn, người ta sử dụng kỹ thuật

định giá cuối mỗi ngày giao dịch. Căn cứ vào trạng thái cuối ngày, từng nhà kinh

doanh phải định giá kết quả kinh doanh của chính mình theo tỷ giá đóng cửa của

ngày giao dịch. Kết quả này phải được báo cáo cho nhà kinh doanh chính và lãnh

đạo phòng KDNH.

 Trạng thái kỳ hạn

Trên thị trường liên Ngân hàng, các giao dịch kỳ hạn thường thuộc loại Spot

- Forward Swap, nghĩa là mỗi giao dịch gồm hai vế là: vế giao ngay áp dụng tỷ giá

giao ngay, còn vế kỳ hạn áp dụng tỷ giá kỳ hạn, và hai vế có ngày giá trị khác nhau.

Do đó, trạng thái ròng của giao dịch kỳ hạn phụ thuộc vào độ lệch giữa tỷ giá kỳ

hạn và tỷ giá giao ngay. Tỷ giá kỳ hạn được hình thành trên cơ sở chênh lệch lãi

suất giữa hai đồng tiền. Trong điều kiện bình thường, các mức lãi suất tiền tệ là ổn

định, làm cho các điểm kỳ hạn biến động cũng ít. Lãi suất không tăng lên nhanh

chóng rồi sau đó lại giảm xuống nhanh chóng giống như tỷ giá giao ngay. Do đó,

nếu nhà kinh doanh dự tính sai lầm về hướng biến động của lãi suất, thì ít có cơ hội

để khắc phục thua lỗ nặng nề trong tương lai. Kinh doanh kỳ hạn không thể có tốc

độ nhanh như kinh doanh giao ngay. Nhà kinh doanh kỳ hạn không thể thay đổi

thường xuyên trạng thái kỳ hạn, mà nó thường được duy trì trong một khoảng thời

gian nhất định.

Cũng giống như giao ngay, trạng thái kỳ hạn ròng cuối ngày cũng có thể

trường hoặc đoản, bao gồm các trạng thái của tất cả các hợp đồng còn hiệu lực và

có các ngày giá trị khác nhau. Việc định giá kết quả kinh doanh kỳ hạn hằng ngày

được tính theo phương pháp giả định rằng tất cả các hợp đồng kỳ hạn còn hiệu lực

đều được thanh lý ngay lập tức theo tỷ giá kỳ hạn cuối ngày hôm đó áp dụng tương

ứng cho từng kỳ hạn.

57

Ngoài việc định giá lại hằng ngày các trạng thái kỳ hạn, để quản lý rủi ro tỷ

giá tốt hơn, các nhà kinh doanh kỳ hạn còn phải duy trì hạn mức cho từng kỳ hạn cụ

thể theo quy tắc kỳ hạn càng dài hạn mức càng thấp.

Để quản lý rủi ro các trạng thái kỳ hạn một cách vĩ mô, các NHTM còn áp

dụng “Hạn mức rủi ro tỷ trọng của các trạng thái theo kỳ hạn”. Thông thường các

trạng thái kỳ hạn thường có các kỳ hạn khác nhau, từ một ngày đến vài năm. Một

trạng thái trường 12 triệu USD kỳ hạn 6 tháng sẽ có rủi ro nhiều hơn một trạng thái

đoản cũng 12 triệu USD có kỳ hạn 1 tháng. Trong khi đó, về mặt hình thức thì trạng

thái ngoại hối kỳ ngày hôm nay của nhà kinh doanh là bằng 0, nhưng rủi ro thực tế

đối với hai trạng thái này là rất khác nhau.

 Cân bằng trạng thái ngoại hối

Có hai nguyên nhân chính làm phát sinh rủi ro ngoại hối, đó là:

 Ngân hàng duy trì sự không cân bằng trạng thái ngoại hối: do Ngân hàng

mua bán ngoại tệ phục vụ khách hàng và mua bán cho chính mình, và Ngân

hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn bằng ngoại tệ. Cả hai nguyên

nhân này tạo ra một xu hướng trạng thái ngoại tệ ròng (trường hoặc đoản)

đối với hầu hết các NHTM.

 Sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nếu Ngân hàng duy trì trạng thái trường

(hoặc đoản) về ngoại tệ mà không có thay đổi về tỷ giá, Ngân hàng sẽ không

gặp phải rủi ro hối đoái. Nếu tỷ giá biến động càng mạnh thì rủi ro ngoại hối

sẽ càng lớn và ngược lại.

 Sử dụng các kỹ thuật dự đoán tỷ giá

Kinh doanh ngoại tệ đã từ lâu chắc chắn không chỉ là một nghiệp vụ chuyên

biệt của các NHTM tại Việt Nam, mà còn trở thành một kênh đầu tư, kinh doanh

kiếm lợi của một bộ phận không nhỏ tổ chức hay cá nhân trong nền kinh tế. Với tốc

độ hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, chắc chắn lĩnh vực này sẽ ngày càng phát

triển mạnh thành một kênh đầu tư chính thức và quan trọng trong nền kinh tế, như

đầu tư vào thị trường chứng khoán và bất động sản. Chúng ta có thể phần nào nhận

biết mức độ phổ biến của kênh đầu tư này qua việc hầu hết các Ngân hàng có uy tín

58

trên thế giới đều duy trì các trang web giao dịch kinh doanh ngoại tệ qua mạng với

mục đích phục vụ nhiều dạng nhà đầu tư, từ nhà đầu tư nhỏ với các tài khoản tối

thiểu từ 200-300 USD cho đến các nhà đầu tư “vừa và lớn” với các tài khoản có

mức ký quỹ trên 50.000 USD. Trước tình hình như vậy, việc sử dụng kỹ thuật dự

đoán tỷ giá là vô cùng quan trọng trong việc quản lý và phòng ngừa rủi ro trong

KDNH tại các NHTM.

Phương pháp được sử dụng phổ biến hiện nay là phân tích cơ bản. Những

người sử dụng phương pháp này dựa vào những phân tích về “những nhân tố cơ

bản” như GDP, đầu tư, tiết kiệm, sản lượng, lạm phát, cán cân thanh toán,….

Những phân tích này không được mô hình hóa bằng kinh tế lượng mà chỉ mang tính

định tính nhằm xác định tác động của nhân tố này đến xu hướng biến động dài hạn

của tỷ giá. Một phương pháp khác cũng được nhiều nhà quản trị Ngân hàng sử dụng

là phương pháp phân tích kỹ thuật. Phương pháp này dựa trên những nguyên tắc của

trường phái nghiên cứu “hành vi học trong tài chính” (behavioral finance). Theo

quan điểm này, các nhà phân tích kỹ thuật có thể dự báo được những “mẫu hình”

của thị trường bằng cách “đọc” các đồ thị tỷ giá. Phương pháp này ra đời vào

khoảng hơn một thế kỷ trước, đánh dấu bằng việc Charles Dow (1851-1902, cha đẻ

của các nguyên lý cơ bản trong phân tích kỹ thuật thuộc lĩnh vực chứng khoán) sử

dụng biến động giá chứng khoán trong quá khứ làm hướng dẫn cho những quyết

định đầu tư. Phương pháp này đã được sử dụng phổ biến trong thị trường chứng

khoán và thị trường tương lai hàng hóa. Kể từ thập niên 1970, phương pháp này

được ứng dụng rộng rãi trong thị trường ngoại hối, đặc biệt là sau khi chế độ

Bretton Wood sụp đổ khiến cho mức độ bất ổn của tỷ giá ngày một gia tăng. Những

nhà phân tích kỹ thuật thì tin rằng thị trường về mặt nào đó là không hiệu quả và do

đó “nhân loại có thể tìm thấy tương lai trong quá khứ”.

Phương pháp phân tích kỹ thuật dựa trên nền tảng những lý thuyết sau:

 Lý thuyết về chu kỳ thị trường: Lý thuyết cho rằng thị trường có những xu

hướng, có xu hướng chính, xu hướng hiện tại và xu hướng phụ với mức độ

dài hạn và ngắn hạn khác nhau ứng với từng xu hướng. Và vì có những xu

59

hướng khác nhau như vậy nên thị trường sẽ thường xuất hiện trường hợp đảo

chiều xu hướng (trend reversal) và vì vậy hình thành nên đỉnh và đáy của các

đồ thị giá. Nhiệm vụ của nhà phân tích kỹ thuật là phải dự đoán được khi nào

xu hướng thị trường đảo chiều, đỉnh và đáy ở đâu.

 Lý thuyết thị trường tài chính và chu kỳ kinh doanh: Các nhà đầu tư của thị

trường tài chính sẽ có những phản ứng tâm lý khác nhau ứng với các thông

tin cơ bản về nền kinh tế đồng thời bản thân họ cũng có những kỳ vọng về

triển vọng của nền kinh tế. Vì vậy, nhà đầu tư trên thị trường tài chính đặc

biệt quan tâm đến chu kỳ kinh doanh, nhất là giai đoạn mà nền kinh tế không

ở trong tình trạng ổn định hoặc cân bằng, vì ở những thời điểm đó họ mới có

thể tìm kiếm được lợi nhuận từ giao dịch một cách nhanh chóng. Khi họ

nhận thấy nền kinh tế bắt đầu chuyển hướng và từ bỏ một trạng thái này và

có xu hướng tiến trở về trạng thái cân bằng (theo lý thuyết này thì nền kinh tế

biến động quanh trạng thái cân bằng), họ sẽ có những quyết định mua bán

tương ứng ngay lập tức.

 Lý thuyết Dow: đây là lý thuyết lâu đời nhất về xác định các xu hướng chính

trên thị trường. Lý thuyết này có sáu nguyên tắc cơ bản. Các nguyên tắc này

có thể tóm tắt như sau: thay đổi trong mức giá đóng cửa phản ánh tất cả tâm

lý và nhận định về thị trường của các thành viên tham gia; các thị trường

đang tăng giá và giảm giá có ba giai đoạn biến động: biến động chính, biến

động thứ cấp và biến động phụ; tất cả những dấu hiệu chỉ báo trong các giai

đoạn này như đường biểu diễn giá, mối quan hệ giá/khối lượng giao dịch

cung cấp các chỉ dẫn hữu ích về việc đảo ngược xu hướng thị trường; và

những chỉ dẫn đó sẽ được khẳng định là hữu ích hay không thông qua việc

phân tích đường trung bình. Các công cụ để phân tích kỹ thuật đã phát triển

trong hơn một thế kỷ qua, tuy nhiên, để thuận tiện cho việc sử dụng và

truyền đạt thông tin, người ta có thể chia ra hai nhóm công cụ sau: nhóm

công cụ về đồ thị và cách đọc đồ thị (charting), và nhóm công cụ về quy tắc

quyết định (mechanical rules). Các nhà phân tích kỹ thuật bằng đồ thị thường

60

xác định các đỉnh, đáy và xu hướng của thị trường và điểm đảo ngược xu

hướng. Các nhà phân tích này có thể sử dụng các phương pháp mẫu hình đồ

thị (chart pattern), các đường xu hướng, đường kháng cự và chống đỡ để dự

báo và ra quyết định mua bán. Ngoài ra, hiện nay phương pháp phân tích

bằng đồ thị hình nến (candle stick) của người Nhật cũng rất phổ biến. Gần

đây, một công cụ phân tích kỹ thuật khác đang bắt đầu được sử dụng rất phổ

biến là công cụ tính toán số Fibonacci kết hợp lý thuyết sóng Elliot.

Có người cho rằng phương pháp này vẫn còn quá phức tạp so với trình độ

chung của thị trường ngoại hối Việt Nam nên chưa thể áp dụng được và chỉ nên áp

dụng phương pháp phân tích cơ bản truyền thống và tiếp cận phương pháp kỹ thuật

sau một thời gian nữa khi thị trường đã được phát triển hơn. Tuy nhiên, nếu nhìn

vào tốc độ hội nhập kinh tế và tiến trình mở cửa thị trường tài chính thì chúng ta có

thể nhanh chóng nhận ra rằng thị trường sẽ không cho chúng ta thêm thời gian

chuẩn bị. Với việc mở cửa, nhà đầu tư Việt Nam chắc chắn sẽ được tiếp cận với các

phương thức giao dịch trực tuyến, dịch vụ KDNH bằng tài khoản ký quỹ (margin

trading) của các Ngân hàng và công ty tài chính nước ngoài. Các Ngân hàng trong

nước chắc chắn cũng không chịu thua kém và cũng sẽ xin triển khai các dịch vụ

tiềm năng này. Bên cạnh đó, có một thực tế là các NHTM - những chủ thể có thể

nói đã đầy kinh nghiệm với thị trường ngoại hối cũng chưa quen sử dụng phương

pháp này, và do đó chưa thể tư vấn và hướng dẫn cho các nhà đầu tư tiếp cận với

các công cụ phân tích kỹ thuật một cách tốt nhất.

 Sử dụng các công cụ phái sinh

Công cụ tài chính phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành trên

cơ sở những công cụ tài chính đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán

rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt

nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỷ giá, lãi suất, giá vàng, …. Công cụ tài

chính phái sinh xuất hiện lần đầu tiên nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn rủi

ro, trong đó thường được sử dụng cao nhất là hợp đồng kỳ hạn (forward contracts),

61

hợp đồng tương lai (future contracts). Những công cụ trên còn có thể kết hợp với

nhau để tạo nên các công cụ lai tạo.

Mặc dù xuất hiện lần đầu tiên của công cụ tài chính phái sinh với tư cách là

một công cụ phòng chống rủi ro nhưng cùng với sự lớn mạnh và phức tạp của thị

trường tài chính, các công cụ tài chính phái sinh cũng được sử dụng nhiều hơn để

tìm kiến lợi nhuận và thực hiện các hoạt động đầu cơ. Chính vì những biến tướng

như vậy nên không phải lúc nào sử dụng công cụ tài chính phái sinh để phòng ngừa

rủi ro cũng có hiệu quả. Các công cụ phái sinh ngày càng tinh vi và mang theo một

số rủi ro gây gián đoạn lớn hơn độ rủi ro thông thường. Tuy vậy, các công cụ tài

chính phái sinh vẫn phát triển mạnh mẽ và được sử dụng rộng rãi tại các thị trường

tài chính lớn của thế giới với mục đích chính và phổ biến là để phòng chống rủi ro

trong hoạt động KDNH.

Thị trường phái sinh là thị trường dành cho các công cụ tài chính phái sinh,

những công cụ mang tính hợp đồng, mà thành quả của chúng được xác định trên

một hoặc một số công cụ tài sản khác. Các loại công cụ phái sinh khác nhau bao

gồm: Hợp đồng kỳ hạn, Hợp đồng tương lai, Hợp đồng quyền chọn, Hợp đồng hoán

đổi và các sản phẩm lai tạp.

 Phòng ngừa rủi ro ngoại hối bằng hợp đồng kỳ hạn

Trên thị trường mua bán hàng hóa quốc tế, các doanh nghiệp xuất hay nhập

khẩu thường có nhu cầu bán ngoại tệ hay mua ngoại tệ để thanh toán cho các hợp

đồng xuất nhập khẩu với các nước khác. Với tình trạng tỷ giá ngoại tệ luôn biến

động bất thường, các nhà xuất nhập khẩu có xu hướng mua các hợp đồng kỳ hạn

với các ngân hàng để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Sau khi đã thực hiện hợp đồng bán

kỳ hạn với các doanh nghiệp, để phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho chính ngân hàng

mình, các ngân hàng này cần thực hiện mua đối ứng các giao dịch kỳ hạn này tại thị

trường ngoại hối nước ngoài hoặc tại thị trường ngoại hối trong nước. Với các giao

dịch kỳ hạn này, ngân hàng trong nước chỉ hưởng phí dich vụ, là khoản chênh lệch

giữa phí kỳ hạn tính cho khách hàng trong nước và phí kỳ hạn mà ngân hàng nước

ngoài tính cho ngân hàng trong nước khi thực hiện giao dịch kỳ hạn ngoại tệ.

62

Hàng hóa ở đây có thể là bất kỳ thứ hàng hóa nào: các loại ngoại tệ hay

vàng. Theo hợp đồng này thì chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai

bên tự thỏa thuận với nhau, dựa theo những ước tính mang tính cá nhân. Giá hàng

hóa đó trên thị trường giao ngay vào thời điểm giao nhận hàng hóa có thể thay đổi,

tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã ký kết trong hợp đồng. Khi đó, một

trong hai bên mua và bán sẽ bị thiệt hại do đã cam kết một mức giá thấp hơn (bên

bán) hoặc cao hơn (bên mua) theo giá thị trường. Như vậy bằng việc tham gia vào

một hợp đồng kỳ hạn, cả hai bên đều giới hạn được rủi ro tiềm năng cũng như hạn

chế lợi nhuận tiềm năng của mình. Vì chỉ có hai bên tham gia vào hợp đồng, cho

nên mỗi bên đều phụ thuộc duy nhất vào bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Khi

có thay đổi giá cả trên thị trường giao ngay, rủi ro thanh toán sẽ tăng lên khi một

trong hai bên không thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, vì mức giá đặt ra mang tính cá

nhân và chủ quan nên rất có thể không chính xác.

 Phòng ngừa rủi ro ngoại hối bằng hợp đồng tương lai

Cách thức phòng ngừa rủi ro bằng hợp đồng tương lai cũng gần tương tự như

trường hợp phòng ngừa rủi ro bằng hợp đồng kỳ hạn, như: khách hàng có nhu cầu

bán hay mua một loại ngoại tệ nào đó trong tương lai cho nhu cầu xuất nhập khẩu

của doanh nghiệp và lo ngại tỷ giá biến động nhiều sẽ gây rủi ro cho số lượng ngoại

tệ mà họ cần bán hay mua trên, khách hàng sẽ mua một hợp đồng tương lai để

phòng ngừa rủi ro tỷ giá, ngân hàng sau khi bán hợp đồng tương lai, phải thực hiện

giao dịch đối ứng trên thị trường ngoại hối và hưởng chênh lệch phí đồng thời

phòng ngừa được rủi ro có thể xảy ra khi tỷ giá biến động bất lợi.

Tuy nhiên, một trong những điểm khác biệt cơ bản của giao dịch tương lai và

kỳ hạn trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá là: hợp đồng kỳ hạn được thương lượng

trực tiếp giữa hai chủ thể, không cần chuẩn hóa sản phẩm và không yêu cầu thủ tục

phức tạp, trong khi hợp đồng tương lai được giao dịch trên Sở giao dịch tương lai

nên việc chuẩn hóa hợp đồng là điểm quan trọng, vì vậy rủi ro tín dụng cũng được

hạn chế nhiều hơn so với các giao dịch kỳ hạn.

63

 Phòng ngừa rủi ro ngoại hối bằng hợp đồng quyền chọn

Tương tự như hai loại sản phẩm phái sinh trên, khách hàng xuất nhập khẩu

có nhu cầu mua sản phẩm phái sinh để phòng ngừa rủi tỷ giá do tỷ giá có thể biến

động bất lợi và gây tổn thất đến số lượng ngoại tệ dự kiến trong tương lai. Trong

trường hợp này, khách hàng chọn mua hợp đồng quyền chọn (quyền chọn bán hoặc

hoặc chọn mua). Còn ngân hàng thì bán quyền chọn bán hoặc bán quyền chọn mua.

Đối với nước ta, trong thời gian trước đây khi cho thực hiện giao dịch quyền chọn,

thì khách hàng chỉ được mua quyền chọn, chứ không được bán quyền chọn để

phòng ngừa rủi ro hay đầu cơ. Ngân hàng chỉ được thực hiện bán quyền chọn cho

khách hàng có nhu cầu phòng ngừa rủi ro tỷ giá.

Sau khi ngân hàng bán quyền chọn bán hoặc quyền chọn mua cho khách

hàng, để phòng ngừa rủi ro tỷ giá, ngân hàng cần thực hiện mua lại quyền chọn bán

hoặc quyền chọn mua trên thị trường ngoại hối. Lúc đó, ngân hàng chỉ hưởng phí

quyền chọn chênh lệch.

Do khách hàng là bên mua quyền chọn, cho nên khách hàng có quyền mà

không có nghĩa vụ phải thực hiện quyền chọn. Khi khách hàng thực hiện quyền

chọn bán hoặc quyền chọn mua, ngân hàng cũng phải nhận hàng hay giao hàng

tương ứng. Cùng lúc đó, do ngân hàng cũng là người mua trên thị trường ngoại hối,

nên ngân hàng cũng được quyền thực hiện hợp đồng và yêu cầu phía ngân hàng đối

tác nhận hàng và giao hàng với số lượng tương ứng với số lượng phải giao cho

khách hàng. Lúc đó, ngân hàng không gặp rủi ro khi khách hàng yêu cầu thực hiện

hợp đồng.

Ngược lại, khách hàng không thực hiện hợp đồng do tỷ giá biến động bất lợi

cho họ, ngân hàng cùng lúc cũng không thực hiện hợp đồng với phía ngân hàng đối

tác. Lúc này, ngân hàng cũng không phải chịu rủi ro phát sinh do khách hàng không

thực hiện hợp đồng.

 Phòng ngừa rủi ro ngoại hối bằng hợp đồng hoán đổi

Giao dịch hoán đổi là một sự kết hợp giữa giao dịch giao ngay và giao dịch

kỳ hạn. Bản thân giao dịch hoán đổi giải quyết được nhược điểm của hợp đồng giao

64

ngay là có thể thỏa mãn nhu cầu ngoại tệ của khách hàng ở thời điểm tương lai,

đồng thời khắc phục được nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn ở chỗ có thể thỏa mãn

nhu cầu ngoại tệ của khách hàng ở thời điểm hiện tại. Trong trường hợp này ngân

hàng cần mua đối ứng giao dịch hoán đổi tương ứng với đối tác trên thị trường

ngoại hối nhằm tránh rủi ro khi tỷ giá biến động bất lợi.

Vào ngày hiệu lực hợp đồng hoán đổi, ngân hàng có thể kiếm lợi nhuận từ

chênh lệch giá mua và giá bán ngoại tệ giao ngay và tránh được rủi ro tỷ giá đối với

nguồn ngoại tệ đáp ứng cho giao dịch giao ngay. Vào ngày đáo hạn hợp đồng hoán

đổi ngoại tệ trên, ngân hàng kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch giá mua và giá bán

kỳ hạn và cũng tránh được rủi ro khi tỷ giá biến động bất lợi đối với nguồn ngoại tệ

đáp ứng cho giao dịch kỳ hạn.

 Sử dụng công cụ VaR – Giá trị chịu rủi ro

 Khái niệm về VaR

Trong toán tài chính và quản trị rủi ro tài chính, VaR được sử dụng rộng rãi

trong đo lường rủi ro bị tổn thất của một danh mục cụ thể. Với một danh mục cho

trước xác suất và khoảng thời gian, VaR được xem như là một ngưỡng giá trị mà

khả năng bị tổn thất trên giá trị điều chỉnh theo thị trường của danh mục đó trong

khoảng thời gian định trước vượt quá giá trị này (với giả định diễn biến thị trường

như bình thường và không có giao dịch mua bán danh mục) chính là mức xác suất

đã được cho trước.

Sự cuốn hút lớn nhất của VaR là sự biểu diễn rủi ro dưới dạng một con số

duy nhất. VaR được định nghĩa là số tiền lớn nhất một danh mục có thể bị thua lỗ

với một độ tin cậy xác định, thông thường ở mức 95%. Ví dụ, một danh mục gồm

các sản phẩm phái sinh vàng ở trên với 95% VaR trong 1 ngày là 1 triệu USD, nói

lên rằng xác suất mà danh mục giảm giá trị trên 1 triệu USD trong khoảng thời gian

1 ngày, với giả định rằng diễn biến thị trường như bình thường và không có giao

dịch mua bán. Thực chất, khoản tổn thất 1 triệu USD hoặc cao trên giá trị danh mục

này được kỳ vọng chỉ xảy ra trên 1 ngày trong 20 ngày (5%). Khoản tổn thất vượt

quá ngưỡng VaR được gọi là “VaR break”.

65

VaR được xác định dựa trên quy luật phân bố xác suất cho giá trị thị trường

của danh mục. Thông thường, sự biến động giá trị của các tài sản được tuân theo

quy luật phân phối chuẩn, với 2 giá trị đặc trưng là mức kỳ vọng và phương sai.

 Phương pháp đo lường VaR

Hiện tại, các Ngân hàng trên thế giới đang sử dụng ba phương pháp chính để

đo lường VaR, đó là: Phương pháp Delta – Gamma, phương pháp phân tích và

phương pháp Monte Carlo. Trong Luận án này, tác giả đề xuất sử dụng phương

pháp phân tích để áp dụng cho các NHTM cổ phần TP.HCM.

 Các nguyên tắc xây dựng mô hình VaR

Sử dụng phương pháp phân tích (Analytical Method), áp dụng đối với các

ngoại tệ mạnh X không phải USD (gọi tắt G7) và vàng (riêng trường hợp

USD/VND có phương pháp tính riêng)

 Các thông số tính VaR:

Thời gian dự báo (Time Horizon)

01 ngày hoặc 10 ngày

Độ tin cậy (Confident Level)

99%, 95%

Đơn vị tiền tệ VaR

USD hoặc VND

Nguồn dữ liệu tỷ giá

Giá ngoại tệ/USD trên hệ thống Reuters; Giá USD/VND XAU/VND giá liên ngân hàng

2 đến 5 năm

Số ngày thu thập dữ liệu giá  Phương pháp tính toán VaR:

Các thông số Diễn giải

(1) Kết nối Reuters sử dụng dữ liệu thực (realtime) trong 5 năm gần nhất

Các bước thực hiện xác định tính toán VaR

cho nhóm G7, đối với USD/VND, XAU/VND cập nhật giá thật hàng

(2) Tính tỷ suất sinh lợi (return)

ngày vào 5 giờ chiều.

Áp dụng đối với các ngoại tệ đứng

trước USD, trong đó Si, Si-1 là giá của

ngoại tệ tại khảo sát thứ i, i-1

66

Áp dụng đối với các ngoại tệ đứng sau

(3) Khảo sát thực nghiệm (Empirical research)

USD

Chúng ta dựa trên lý thuyết thống kê khảo sát sự phân phối của tỷ suất

sinh lợi để chọn phương pháp đúng khi tính toán VaR. Tuy nhiên cần lưu ý

rằng, phương pháp phân tích là một phương pháp mô phỏng, tức là thay vì

tính toán trực tiếp trên dữ liệu, chúng được mô phỏng lại bằng hàm phân

phối chuẩn dựa trên giá trị trung bình (mean) và độ lệch chuẩn (standard

deviation) được tính toán trực tiếp từ tập dữ liệu thực.

Giá trị trung bình:

: giá trị trung bình

: tỷ suất sinh lợi ngày i

: số quan sát (obsarvation).

Trong đó:

Độ lệch chuẩn:

: giá trị trung bình

: tỷ suất sinh lợi ngày i

: số quan sát (obsarvation).

(4) Tính độ biến động giá (volatility) theo mô hình EWMA để phản ánh

Trong đó:

đúng theo diễn biến thị trường.

: phương sai của ngày thứ i

: tỷ suất sinh lợi của ngày thứ i-1

: tham số trơn

(5) Tính độ tương quan và hiệp phương sai giữa các loại ngoại tệ

Trong đó:

(correlation, covariance).

Sử dụng mô hình EWMA để tính toán hiệp phương sai và độ tương quan

thực tế, phản ảnh lại biến động thị trường.

67

Hiệp phương sai:

: hiệp phương sai cặp tiền tệ 1 và 2,

Trong đó:

: dự báo tại thời điiểm t dựa trên thông tin tại thời điểm t-1,

: tham số trơn.

: tỷ suất sinh lợi,

Độ tương quan:

: hiệp phương sai cặp tiền tệ 1 và 2,

Trong đó:

: độ lệch chuẩn của đồng tiền i,

: dự báo tại thời điiểm t dựa trên thông tin tại thời điểm t-1,

: tham số trơn.

(6) Tính VaR cho từng trạng thái ngoại tệ và/hoặc cho toàn bộ danh mục trạng

: tỷ suất sinh lợi,

thái ngoại tệ.

 Xác định VaR

Áp dụng cho 1 cặp ngoại tệ, trong đó: : độ tin cậy, : giá trị trung bình, : “left-tail” phần trăm của phân phối chuẩn, : độ lệch chuẩn, : giá trị trạng thái.

68

Áp dụng đối với danh mục trạng thái ngoại tệ, trong đó: : độ tin cậy, : giá trị trung bình cặp tiền i, : “left-tail” phần trăm của phân phối chuẩn, : độ lệch chuẩn của cặp tiền i, : độ tương quan của đồng tiền i,j : giá trị trạng thái của cặp tiền i,

 Minh họa cách tính

Giả sử, ngày 3/1/2012 tính VaR cho một danh mục gồm 2 trạng thái

Mua 100.000 GBP giá giao ngay 1.5527 và Mua 100.000 EUR giá giao ngay

1.2970, từ khảo sát thực nghiệm chúng ta biết được rằng các cặp GBP/USD

và EUR/USD tuân theo luật phân phối chuẩn và ta tính được:

Tỷ suất sinh lợi kỳ vọng

Độ biến động tính theo mô hình EWMA

Áp dụng công thức tính VaR cho 1 trạng thái, ta tính được:

Áp dụng công thức tính VaR cho danh mục, ta tính được:

trong đó

69

Thay các tham số vào công thức ta tính được:

Lưu ý: giá trị tất cả các tham số đều được tính bằng công cụ VaR G7 được

xây dựng dựa trên các bước trên. Vì mô hình tính VaR phức tạp và dữ liệu rất lớn,

nên không thể mô tả chi tiết trong minh họa.

1.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối

của các ngân hàng thương mại

1.4.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng từ phía các NHTM

 Tuân thủ không tốt các chính sách và quy trình QLRR của ngân hàng

Mặc dù ngân hàng đã ban hành hệ thống quản lý rủi ro cho hoạt động

KDNH, việc tuân thủ không đúng theo những gì trong hệ thống quy định tạo nên

nhiều rủi ro cho hoạt động chung của ngân hàng. Việc không tuân thủ theo các quy

định trong chính sách này thể hiện ở chỗ có thể xuất phát từ phía các cấp lãnh đạo

không quản trị rủi ro theo quy định đã ban hành hoặc có thể xuất phát từ phía những

người thực hiện thi hành các quy định không đúng hoặc cố ý làm trái quy định vì

một lý do nào đó.

Việc thực hiện không tốt các quy định trong hệ thống quản trị rủi ro trong

KDNH có thể đem lại nhiều tổn thất cho ngân hàng và gây nhiều khó khăn cho quá

trình thực thi chính sách vì mục tiêu chung của ngân hàng.

 Ưa thích các giao dịch có lợi nhuận cao và chấp nhận mức độ rủi ro cao

Hội đồng quản trị ngân hàng thuộc nhóm người thích kinh doanh với các

giao dịch tạo ra nhiều lợi nhuận và sẵn sàng chấp nhận mức độ rủi ro cao. Chính sự

ưa thích này có thể là nguồn cảm hứng cho quá trình quản trị hoạt động ngân hàng.

Tuy nhiên, ngân hàng là lĩnh vực được kiểm soát chặt chẽ bởi NHNN và các cơ

quan khác của Chính phủ, hoạt động ngân hàng luôn phải tuân thủ theo rất nhiều

quy định khắc khe từ phía Nhà nước, đặc biệt là từ NHNN. Do đó, loại “sở thích”

này trong hoạt động KDNH của ngân hàng bị kiểm soát và hạn chế nhiều.

70

Việc thực hiện kinh doanh với các giao dịch tạo ra nhiều lợi nhuận và mức

độ rủi ro cao có nhiều khả năng đem lại khó khăn cho quá trình quản lý rủi ro trong

KDNH của các NHTM.

 Hạn mức giao dịch và tổn thất cao

Thông thường Hội đồng quản trị giao các loại hạn mức kinh doanh cho Tổng

giám đốc ngân hàng, sau đó Tổng giám đốc giao hạn mức xuống các cấp bên dưới.

Việc giao hạn mức từ phía Hội đồng quản trị phụ thuộc rất lớn vào “khẩu vị rủi ro”

của từng ngân hàng. Còn việc giao hạn mức xuống các cấp bên dưới của Tổng giám

đốc có quy định rất chặt chẽ và đặc biệt mỗi cấp quản lý chỉ được một hạn mức nhất

định. Tuy nhiên, trên thực tế các ngân hàng thường giao mức tối đa hạn mức của

Tổng giám đốc cho trưởng phòng KDNH của ngân hàng nhằm hổ trợ cao nhất cho

hoạt động kinh doanh với bản chất là kinh doanh luôn mang tính nhanh chóng, cơ

hội và chấp nhận rủi ro.

Chính vì lẽ đó, đi kèm với mức độ rủi ro cao từ hạn mức được giao cao sẽ dễ

dàng dẫn đến nhiều tổn thất cho hoạt động của các NHTM và gây khó khăn cho quá

trình quản lý rủi ro của ngân hàng.

 Theo đuổi mục tiêu lợi nhuận quá cao

Hoạt động ngân hàng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro và được kiểm soát rất chặt

chẽ từ phía Chính phủ. Bên cạnh đó, để phục vụ cho quá trình phát triển của nền

kinh tế đất nước cùng với quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế

giới, nhiều ngân hàng được mở ra và tham gia vào hoạt động tại cùng một thị

trường trong nước. Chính lẽ đó, mức độ cạnh trạnh ngày càng cao và mục tiêu lợi

nhuận ngày càng khó đạt được so với điều kiện thị trường trong thời kỳ hội nhập.

Tuy nhiên, chỉ tiêu lợi nhuận năm sau phải cao hơn năm trước nhằm đáp ứng mong

muốn của cổ đông, do đó, mục tiêu lợi nhuận ngân hàng luôn ở mức cao hơn so với

khả năng thực hiện của ngân hàng, và lợi nhuận cao thường đi kèm với rủi ro cao.

Cho nên, với các mục tiêu như trên gây nhiều khó khăn cho quá trình quản

trị rủi ro hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

71

 Trình độ nhân sự không tốt

Việc thực thi các chính sách về quản trị rủi ro phần lớn là thuộc về Ban tổng

giám đốc cùng đội ngũ nhân viên ngân hàng. Quá trình tuân thủ này của đội ngũ

nhân sự ngân hàng không chỉ xuất phát từ các quy định chặt chẽ trong chính sách

mà phụ thuộc rất lớn vào tính ý thức, trình độ hiểu biết và quá trình thực hiện chính

sách trên thực tế. Do đó, trình độ của đội ngũ nhân sự không tốt dẫn đến nhiều khó

khăn cho quá trình đưa các quy định trong chính sách vào thực tiễn áp dụng của

ngân hàng.

1.4.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng từ bên ngoài ngân hàng

 Chính sách của nhà nước thay đổi

Hàng năm nhà nước ban hành nhiều chính sách mới nhằm bổ sung, thay đổi

các quy định pháp luật đã cũ và không phù hợp với điều kiện của thị trường trong

thời kỳ mới. Các giao dịch KDNH không chỉ được thực hiện trong vài ngày mà có

nhiều giao dịch được thực hiện trong vài năm, ví dụ như các giao dịch huy động và

cho vay vàng trong thời gian qua. Một khi chính sách nhà nước thay đổi và ngân

hàng không dự liệu được hết sẽ tạo ra nhiểu khó khăn cho quá trình quản lý rủi ro

trong KDNH của ngân hàng.

Việc thay đổi chính sách nhanh chóng của nhà nước đem lại rủi ro chính

sách cho các ngân hàng, ví dụ như chính sách tất toán các tài khoản huy động và

cho vay vàng của NHNN vừa qua đem lại nhiều khoản lỗ cho các NHTM.

 Môi trường kinh doanh trong và ngoài nước tiềm ẩn nhiều rủi ro

Hoạt động kinh doanh luôn được đặt trong môi trường nhiều biến động ở

trong và ngoài nước, ngân hàng mặc dù có nhiều sự chuẩn bị trong kế hoạch kinh

doanh cũng khó tiên liệu được hết những khó khăn của thị trường đem lại.

Chính vì lẽ đó, hoạt động kinh doanh của ngân hàng là luôn tiềm ẩn nhiều rủi

ro và những sự thay đổi của môi trường kinh doanh bên ngoài thường gây nhiều khó

khăn cho công việc quản trị rủi ro KDNH của ngân hàng.

72

1.5. NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA TỪ KINH NGHIỆM VỀ QUẢN LÝ RỦI

RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA NGÂN HÀNG Ở MỘT

SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

1.5.1. Bài học thứ nhất về quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ cho các

Ngân hàng thương mại

Ngân hàng Liên minh Ailen Allied Irish Bank (AIB) là ngân hàng lớn nhất

của Ailen. Vào tháng 2/2002, một chi nhánh của AIB tại Mỹ đã bị tên John Rusnak,

một nhân viên giao dịch người Mỹ, lừa đảo thiệt hại 750 triệu USD, sau đó Rusnak

bị tuyên án 7,5 năm tù, tên này đã giở nhiều thủ đoạn tinh vi để được hưởng

850.000 USD tiền lương và thưởng từ năm 1997 đến 2001.

Năm 2000, tổng tài sản có của AIB đạt 76,6 tỷ USD, hoạt động với hơn

1.000 văn phòng trên toàn thế giới. Năm 1989 AIB mua toàn bộ ngân hàng

Maryland Bancorp, là một ngân hàng hoạt động tại Baltimore, Mỹ. Năm 1999,

Maryland Bancorp đổi tên thành Allfirst và hoạt động như một công ty trực thuộc

AIB, việc mua Allfirst nằm trong chiến lược vươn ra toàn cầu của AIB.

AIB tin tưởng rằng việc trao nhiều quyền hạn và trách nhiệm cho các công ty

trực thuộc là chìa khóa thành công trong kinh doanh tại thị trường Mỹ. Vì vậy

Allfirst được rất nhiều quyền chủ động tự quyết trong các hoạt động của mình đặc

biệt là hoạt động ngoại hối và kinh doanh các công cụ phái sinh lãi suất.

AIB giao cho ông Cronin, một cán bộ nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh

ngoại hối và quản lý tiền tệ (Treasury) về phụ trách mọi hoạt động của Treasury tại

 Kinh doanh các hoạt động của Treasury (Front Office): Bộ phận này là bộ

Allfirst. Treasury của Allfirst được tổ chức bài bản, phân thành 3 bộ phận như sau:

phận kinh doanh, trực tiếp tiếp xúc với khách hàng và các đối tác. Các lĩnh

vực kinh doanh bao gồm: huy động vốn liên ngân hàng và trên thị trường

tiền tệ, kinh doanh các sản phẩm có lãi suất, kinh doanh đầu tư chứng khoán,

 Quản lý rủi ro, các tài sản nợ và tài sản có (Middle Office): Là bộ phận

kinh doanh ngoại hối toàn cầu.

quản lý các rủi ro và phân tích tài chính, viết báo cáo và theo dõi việc kinh

73

 Điều hành và xử lý các giao dịch (Back Office): Là bộ phận thực hiện các

doanh đúng quy trình đã được phê duyệt của bộ phận Front Office.

giao dịch mà bộ phận Front Office tiến hành. Các công việc hàng ngày gồm

có: xác nhận các giao dịch, thanh toán và vào sổ các giao dịch. Cuối ngày

bộ phận này còn phải tiến hành kiểm kê và rà soát sổ sách (reconcile).

Trưởng bộ phận Front Office là ông Ray, một người rất giàu kinh nghiệm về

kinh doanh các sản phẩm lãi suất nhưng lại không biết nhiều về kinh doanh ngoại

hối. Năm 1997, Rusnak thông qua sự quen biết với ông Ray đã được tuyển vào

Allfirst với mức lương khá cao là $100.000 một năm. Đặc biệt hơn, Rusnak được

hưởng 30% lợi nhuận mà ông ta có thể mang lại cho Allfirst.

Sự thật là Rusnak không giỏi về kinh doanh ngoại hối, các kiến thức nghiệp

vụ của ông mới dừng ở các sản phẩm ngoại hối spot (giao ngay) hoặc forward (kỳ

hạn) khá đơn giản.

Việc quản lý rủi ro tại Allfirst

Theo quy trình, Rusnak được cấp hạn mức kinh doanh trong ngày là: 100

triệu USD; hạn mức giá trị chịu rủi ro (VAR limit) là 1,55 triệu USD; hạn mức bán

chống lỗ là 200 ngàn USD/một tháng. Bộ phận kinh doanh (Front Office) và điều

hành, thực hiện giao dịch (Back Office) được bố trí tách rời, ngoài ra còn có bộ

phận quản lý rủi ro và kiểm soát (Middle Office). Đó là một cơ cấu tổ chức và

những mức độ hạn mức khá hợp lý với một ngân hàng cỡ như Allfirst.

Quá trình Rusnak đã làm thiệt hại cho AIB

Năm 1997 Rusnak bắt đầu tham gia mua các giao dịch kỳ hạn USD/JPY. Khi tỷ

giá JPY đi ngược lại với mong đợi, Rusnak phải tự tạo ra các giao dịch quyền lựa

chọn (option) để tạo ra ấn tượng rằng các giao dịch kỳ hạn của mình đã được xử lý

giảm thiểu rủi ro (hedge). Rusnak tạo ra hai giao dịch option trái chiều với cùng một

đối tác khiến cho việc thanh toán sẽ triệt tiêu nhau.

Tất cả các giao dịch option này đều là ảo, vì vậy không thể có xác nhận cho

các giao dịch này được. Rusnak đã thuyết phục bộ phận điều hành, thực hiện giao

dịch (Back Office) rằng không cần phải làm xác nhận vì các đối tác đều ở châu Á,

74

và sự chênh lệch múi giờ sẽ làm cho Back Office phải làm việc vào nửa đêm nếu

muốn xác nhận qua phone. Rusnak cũng thuyết phục thêm rằng làm xác nhận sẽ rất

mất thời giờ và vô nghĩa bởi hai giao dịch option trái chiều có tổng thanh toán bằng

không (net-off fully).

Allfirst dùng hệ thống VaR (giá trị chịu rủi ro) để tính toán các rủi ro và lỗ lã

của các giao dịch ngoại hối của họ. Rusnak hiểu rất rõ hệ thống này và biết cách

biến hóa nó bằng cách tạo ra thêm các giao dịch ảo để giảm trạng thái mở của các

giao dịch ngoại hối này. Rusnak tự cho các giao dịch ảo này vào file Excel, chuyển

cho cán bộ quản lý rủi ro và cán bộ này nạp các giao dịch đó vào hệ thống VaR, vì

vậy hệ thống VaR không bao giờ đưa ra các báo cáo mà Rusnak bị vượt hạn mức.

Theo quy trình, trạng thái ngoại hối của Allfirst sẽ được định giá lại bằng các

tỷ giá ngoại hối của các công ty khách quan ví dụ như Reuters, nếu dùng tỷ giá này

thì các giao dịch lỗ của Rusnak sẽ bị phát hiện. Rusnak đã truy cập tỷ giá Reuters

vào máy tính của mình, sau đó thay đổi tỷ giá ngoại hối cho có lợi cho mình đồng

thời thuyết phục Back Office dùng bảng tỷ giá của Front Office thay vì tự trang bị

cho mình một hệ thống thông tin riêng, Rusnak lý luận rằng việc sử dụng bảng tỷ

giá của ông sẽ tiết kiệm chi phí mua thông tin (độ khoảng 10.000 USD để mua

thông tin của Reuters) cũng như tiện lợi cho công việc của Back Office.

Trong suốt 4 năm 1997-2001, Rusnak rất nhiều lần phá vỡ các hạn mức kinh

doanh ngoại hối của mình, càng ngày các hoạt động kỳ hạn của ông càng lỗ, vì vậy

ông phải dấn sâu vào việc làm mạo các chứng từ của giao dịch quyền lựa chọn. Đến

thời hạn thanh toán, ông lại bán các giao dịch quyền lựa chọn này, đồng thời tạo ra

tiếp các giao dịch lựa chọn ảo khác gối đầu để tạo ra ấn tượng an toàn. Thông

thường một ngày ông mua bán doanh số khoảng 150 triệu USD, cá biệt có ngày đến

4 tỷ USD. Riêng tháng 12 năm 2001, Rusnak đã mua tới 25 tỷ USD.

Tháng 12 năm 1999, Rusnak kinh doanh lỗ 89 triệu, con số này là 300 triệu

vào cuối năm 2000 và tới cuối năm 2001 thì nó đã lên tới 670 triệu. Song không có

ai có thể biết sự thật này cả vì các báo cáo đã bị phù phép.

75

Rusnak bị phát hiện như thế nào?

Tháng 12/2001, một kiểm soát viên tình cờ nhìn thấy hai phiếu giao dịch

không kèm xác nhận, ông yêu cầu nhân viên Back Office làm xác nhận, song họ

giải thích là không cần làm vì hai giao dịch này trái chiều nhau và không tạo ra

luồng tiền chuyển động. Kiểm soát viên yêu cầu Back Office phải làm xác nhận cho

mọi giao dịch song cũng không kiểm tra xem Back Office có thực hiện yêu cầu của

mình không. Sau đó, ông Cronin vô tình nhận thấy các luồng tiền chuyển động rất

thất thường trên bảng tổng kết tài sản, kiểm tra lại ông thấy Rusnak đã đạt doanh số

tới 25 tỷ USD vào thời điểm này. Cronin yêu cầu đánh giá lại trạng thái các giao

dịch kỳ hạn của Rusnak và phát hiện đã lỗ trên sổ sách là 500.000 USD.

Tháng 01/2002, Cronin thông báo Rusnak phải dần thực hiện các giao dịch

kỳ hạn, không được phép quay vòng nữa. Ngày 30/01/ 2002, lại một lần nữa kiểm

soát viên phát hiện 12 phiếu giao dịch không có xác nhận kèm theo. Kiểm soát viên

yêu cầu Back Office phải xác nhận các giao dịch này. Back Office cầu cứu Rusnak.

Thứ sáu ngày 01/02/2002, Rusnak đưa 12 xác nhận cho Back Office. Kiểm

soát viên phát hiện các xác nhận này là giả. Rusnak hứa sẽ liên lạc với đối tác châu

Á để lấy xác nhận thật vào thứ hai ngày 03/02, song ông ta đã không bao giờ quay

trở lại Allfirst nữa. Allfirst kiểm tra toàn bộ 71 giao dịch còn hiệu lực, chỉ có 47 cái

là thật, còn lại là sản phẩm tự tạo của Rusnak.

Tổng số lỗ tại thời điểm 08/02/2002 là 691 triệu USD. Công bố tin này đã

làm chấn động giới kinh doanh tài chính.

Bài học kinh nghiệm: Vụ việc trên cho thấy ngay cả khi hoạt động kinh

doanh ngoại hối của một ngân hàng được tổ chức bài bản đi nữa thì rủi ro tỷ giá vẫn

có thể xảy ra như trường hợp của AIB. Có thể nêu ra một số điểm sai lầm trong vụ

 Vụ lừa đảo được lên kế hoạch rất cẩn thận và được tiến hành một cách tỉ mỉ

việc trên:

 Sự kém hiệu quả trong cơ chế kiểm tra chéo của Back Office và Middle

từ năm 1997 đến năm 2002.

Office.

76

 Một loạt các quy trình kinh doanh bị vi phạm và phá vỡ.

 Thất bại của cấp trên của Rusnak trong việc kiểm soát hoạt động của anh ta.

 Các báo cáo về hoạt động của Rusnak không đầy đủ.

 Sự ỷ lại quá lớn và nhầm lẫn của ban lãnh đạo đối với hoạt động người Phụ

 Sự nhận thức kém về các hoạt động buôn bán lừa đảo trong ngân hàng ngay

trách phòng kinh doanh ngoại hối và tiền tệ (Treasury) của AIB.

 Thất bại trong việc thực hiện đầy đủ khuyến nghị của kiểm toán và thanh tra.

tại phòng kiểm toán và quản lý rủi ro.

Từ đó cho thấy việc cần thiết phải thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro

tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của một ngân hàng và việc triển khai

đúng các công cụ này là rất quan trọng. Nó có thể ảnh hưởng rất lớn đến thành công

hay thất bại của ngân hàng.

1.5.2. Bài học thứ hai về quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ cho các ngân

hàng thương mại

Tại Baring, ngân hàng lâu đời nhất của Anh, Leeson chuyên đầu cơ vào tỷ

giá hối đoái và mọi chỉ số chứng khoán có liên quan đến tỷ giá hối đoái. Vì muốn

kiếm tiền nhanh và tạo hình ảnh “nhúng tay vào đâu sẽ ra tiền ở đấy” nên Leeson

chủ ý đầu cơ dàn trải và rất mạo hiểm. Một khi kinh doanh thắng thì Leeson báo cáo

lên cấp trên, còn thua thì hạch toán vào tài khoản đen mang ký hiệu 88888. Về

doanh số thì Leeson đạt được mức độ rất lớn, nhưng lãi ròng thì lại rất thấp và càng

về sau càng thua lỗ. Leeson đầu cơ không theo một chiến lược cụ thể nào mà hoàn

toàn theo cảm tính, không trù tính bất cứ biện pháp đảm bảo nào để rồi như một con

bạc khát nước dần sa vào tình thế không còn cách nào khác ngoài việc phải lấy đầu

cơ nuôi đầu cơ, từ chủ động đầu cơ lâm vào tình cảnh buộc phải đầu cơ. Thế nên

Leeson phải làm giả sổ sách, vượt quá quyền hạn cho phép về qui mô đầu cơ và lừa

dối cấp trên. Vào năm 1995, ngân hàng Baring lâu đời nhất nước Anh với lịch sử

trên 200 năm đã sụp đổ. Lý do chính là từ những công việc kinh doanh giả tạo của

Leeson. Lúc bấy giờ rất nhiều câu hỏi từ giới phân tích đã đặt ra như: Làm thế nào

77

mà chỉ một người kinh doanh sản phẩm phái sinh ngoại hối lại có khả năng làm sụp

đổ một đế chế tài chính ngân hàng hùng mạnh như Baring? Trách nhiệm của Ban

quản lý ngân hàng ra sao ? Hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ và hệ thống quản lý

rủi ro tại Baring trên toàn thế giới đã hoạt động ra sao?

Vào thời điểm Baring sụp đổ thì vốn của Ngân hàng chỉ khoảng 600 triệu

USD, trong khi các hợp đồng phái sinh mà Leeson đang mở lên đến 27 tỷ USD

ngày 27/02/1995, trong đó có 7 tỷ USD về hợp đồng phái sinh liên quan đến chỉ số

chứng khoán Nikkei 225, 20 tỷ USD về trái phiếu Chính phủ Nhật và Euroyen. Các

hợp đồng phái sinh chứng khoán của Leeson đều được thoả thuận với mức giá là

điểm của chỉ số Nikkei 225 nằm trong khoản 18.000 đến 20.000 điểm. Sau khi động

đất nổ ra ở thành phố Kobe Nhật Bản vào ngày 17/01/1995, thì chỉ số Nikkei 225

rớt điểm liên tục, có lúc xuống dưới 17.000 điểm và đã đặt trạng thái của Baring

vào phạm vi thua lỗ nặng. Với tình trạng như vậy, Sàn giao dịch tiền tệ quốc tế

Singapore (SIMEX) (là nơi mà Leeson đã mở các giao dịch phái sinh của mình) đã

yêu cầu Baring phải chuyển bổ sung số tiền đặt cọc lên đến 835 triệu USD. Việc

liên tục phải bổ sung số tiền đặt cọc làm cho Baring không thể đáp ứng được, nhưng

nếu không thực hiện theo yêu cầu của SIMEX thì các giao dịch đang thực hiện buộc

phải đóng lại và sẽ làm cho Baring càng lỗ nặng hơn nữa. Đây là nguyên nhân chính

khiến cho Baring nhanh chóng sụp đổ.

Trạng thái giao dịch trong biểu đồ trên thể hiện trạng thái hợp đồng tương lai

mua ròng về chỉ số Nikkei 225 của Baring trước và sau động đất ở Kobe Nhật bản

xảy ra. Biểu đồ trên thể hiện trạng thái của Leeson luôn đi ngược với xu hướng của

chỉ số Nikkei 225. Sau khi động đất xảy ra chỉ số Nikkei 225 rớt giá nhanh, nhưng

Leeson lại liên tục tăng cường mua vào vì anh ta nghĩ rằng những tác động tiêu cực

của động đất ở Nhật bản đã không còn tác động nặng nề đến nền kinh tế Nhật , cho

nên chỉ số Nikkei sẽ lên trở lại. Việc mua vào đỉnh điểm của anh là vào ngày

17/2/1995 với số lượng 19.094 hợp đồng tương lai của chỉ số chứng khoán Nikkei

225. Ban lãnh đạo ngân hàng chỉ cho phép Leeson thực hiện nghiệp vụ kinh doanh

hưởng chênh lệch giá giữa các thị trường (Arbitrage) chứ không được thực hiện

78

kinh doanh tự doanh. Theo sự cho phép này thì Leeson một khi thực hiện mua, ví

dụ 19.094 hợp đồng Nikkei 225 trên thị trường chứng khoán OSE (Thị trường

chứng khoáng Osaka) thì phải bán lại ngay 19.094 hợp đồng Nikkei 225 trên thị

trường SIMEX chỉ nhằm hưởng chênh lệch giá giữa hai thị trường này. Với hoạt

động này, thì trạng thái của Baring hầu như không có rủi ro biến động của chỉ số

Nikkei 225 vì trạng thái mua và bán của Baring đã được cân bằng. Trên thực tế

Leeson lại không bán số hợp đồng trên tại SIMEX mà anh ta lại đi mua tiếp số hợp

đồng đó trên SIMEX vì Leeson khẳng định rằng chỉ số Nikkei không thể xuống liên

tục mà không lên lại. Rủi ro xảy ra ngay sau đó khi mà chỉ số Nikkei rớt xuống

ngoài vùng kỳ vọng 18.500 – 20.000 điểm. Giao dịch mua trên thị trường SIMEX

này là loại giao dịch gian lận và không được phép của ngân hàng. Để che dấu hành

vi này, anh ta đã che dấu vào tài khoản lỗi 88888 ( Error Account). Leeson sử dụng

tài khoản này để che dấu các hành vi mua bán gian lận khác của mình liên quan đến

hợp đồng tương lai trái phiếu chính phủ Nhật, Euroyen và các hợp đồng quyền chọn

khác về Nikkei 225. Bên cạnh những việc mua bán trên, Leeson còn thực hiện bán

các hợp đồng phái sinh hai chiều (straddles). Với loại hợp đồng này, người kinh

doanh ngoại hối có thể vừa mua vừa bán hợp đồng quyền chọn với cùng giá và cùng

thời điểm đáo hạn hợp đồng. Vì là người bán hợp đồng quyền chọn nên Leeson

hưởng một số tiền khá lớn về phí quyền chọn mà người mua hợp đồng quyền chọn

phải trả cho người bán hợp đồng này, tuy nhiên giá thực hiện hợp đồng quyền chọn

phải thấp hơn hoặc cao hơn rất nhiều đối với loại hợp đồng quyền chọn call hay put

option. Trên thực tế Leeson đã bán 37.000 hợp đồng option hai chiều (option

straddles) và anh ta sẽ kiếm lời rất nhiều khi nền kinh tế Nhật ổn định và chỉ số

Nikkei 225 ở vùng kỳ vọng 18.500 – 20.000 điểm. Tuy nhiên, sau ngày động đất tại

thành phố Kobe diễn ra thì chỉ số Nikkei đã liên tục rớt giá không phanh. Hầu hết

các trạng thái mà Leeson đã mở gian lận đều rơi vào tình trạng thua lỗ, tại vì về

nguyên tắc của hợp đồng quyền chọn bán, thì người bán có nghĩa vụ phải thực hiện

hợp đồng quyền chọn còn người mua được quyền thực hiện hợp đồng này (tức là

người mua có thể thực hiện hợp đồng hay không thực hiện). Do đó một khi chỉ số

79

Nikkei liên tục rớt giá xuống thấp hơn vùng giá thực hiện của Leeson 18.500 –

20.000 điểm thì người mua hợp đồng call option có thể huỷ ngang hợp đồng không

thực hiện và chấp nhận mất phí (premium option). Nhưng đối với người mua hợp

đồng put option thì họ buộc Baring phải thực hiện hợp đồng với họ và đây chính là

khoản lỗ khổng lồ đối với Baring khi buộc thực hiện hợp đồng này.

Bài học kinh nghiệm:

Một trong những trục trặc lớn nhất trong hệ thống quản lý rủi ro hoạt động

của ngân hàng trên là việc thiếu sự phân chia rạch ròi trách nhiệm giữa hai bộ phận

trong việc thực hiện giao dịch và hỗ trợ giao dịch. Lesson cùng lúc quản lý cả hai

bộ phận kinh doanh và bộ phận hỗ trợ giao dịch. Chức năng của hai bộ phận này

khác nhau. Bộ phận hỗ trợ giao dịch thực hiện các bước kiểm tra cần thiết nhằm

tránh các giao dịch không được uỷ quyền và hạn chế thấp nhất những gian lận có

thể xảy ra, như thông qua việc xác nhận giao dịch của bộ phận kinh doanh, chấp

nhận thanh toán giao dịch, v.v.. Lợi dụng việc quản lý cả hai bộ phận, Leeson đã

che dấu không báo cáo đến hội sở Baring ở London về tài khoản đen 88888 (Error

Account). Mục đích của tài khoản đen 88888 là nhằm tạm thời ghi nhận những giao

dịch mà đối chiếu bị sai lệch và không khớp giữa các thông tin trong giao dịch.

Những thông tin này rất quan trong trong việc đánh giá rủi ro chung trong hoạt

động kinh doanh của ngân hàng và ảnh hường của rủi ro đó đến thu nhập của ngân

hàng. Do đó hầu hết các giao dịch đầy rủi ro của Leeson ở Singapore hoàn toàn bị

che dấu và Baring London không hề biết đến. Mặt dù, trong báo cáo kiểm toán nội

bộ tháng 8/1994 có cảnh báo về sự cho phép kiêm nhiệm vô trách nhiệm này, nhưng

Ban lãnh đạo ngân hàng vẫn không tích cực loại bỏ.

Ban lãnh đạo ngân hàng không có sự hiểu biết đầy đủ về các sản phẩm phái

sinh khiến cho các giao dịch phái sinh với bản chất đầy rủi ro thì lại càng rủi ro hơn.

Họ có vai trò rất quan trọng trong việc xác lập khẩu vị rủi ro, mức độ chấp nhận rủi

ro nếu thực tế có những biến động bất lợi cho trạng thái giao dịch của ngân hàng,

chiến lược kinh doanh và quá trình kiểm soát rủi ro nhằm đạt được kế hoạch tổng

thể của ngân hàng. Trong các ví dụ trên, chúng ta thấy rõ sự thiếu quan tâm của Ban

80

lãnh đạo ngân hàng Baring trong các giao dịch phái sinh của Leeson ở Singapore.

Họ quan tâm nhiều đến kết quả kinh doanh với các báo cáo lợi nhuận đầy hấp dẫn

hơn là cùng lúc hỗ trợ quản lý loại hình hoạt động kinh doanh đang mang lại nhiều

thành quả này. Ngay cả khi SIMEX yêu cầu Baring bổ sung số tiền ký quỹ cho các

giao dịch ngày càng lớn của Leeson ở Singapore , nhiều bộ phận có chức năng ở

Baring London cũng không phân tích và đánh giá trạng thái kinh doanh hiện tại của

Baring Singapore và họ tin rằng ngân hàng hiện tại đang kinh doanh rất an toàn và

các trạng thái kinh doanh ngoại hối đều đã được cân bằng (hedged) qua các báo cáo

gian lận và che dấu của Leeson. Thực chất họ không muốn can thiệp quá sâu và sợ

làm mất các khoản thu nhập hấp dẫn do giao dịch phái sinh mang lại.

Vốn tự có của ngân hàng là một vấn đề khác mà chúng ta cần phân tích đến.

Đối với trường hợp của ngân hàng Baring, những người quản trị cao cấp nhất của

ngân hàng vẫn luôn tin tưởng rằng các giao dịch của Leeson đang thực hiện một

cách cẩn thận và trạng thái ở mức cân bằng, nên họ không ngần ngại nộp ngay tiền

ký quỹ khi có yêu cầu của SIMEX. Tuy nhiên cho đến khi nộp tiền ký quỹ vượt quá

mức vốn tự có của ngân hàng và khả năng chấp nhận rủi ro cũng như phát hiện ra

các giao dịch ở Baring Singapore là không được cân bằng (naked positions) , các

nhà quản lý không còn cách nào để xoay sở và Baring bị bắt buộc phải đóng các

trạng thái đang mở và thanh lý hợp đồng với phía đối tác. Đây là loại rủi ro về vốn

có liên quan đến việc ký quỹ thực hiện giao dịch phái sinh hay còn gọi là Funding

risk. Nếu không có một quy trình quản trị rủi ro hiệu quả, thì loại rủi ro này rất dễ

xảy ra.

Trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng, ngoài việc đánh giá rủi

ro thị trường, rủi ro tín dụng và xác định hạn mức rủi ro cho từng giao dịch, khách

hàng là các vấn đề mà ngân hàng nên quan tâm . Chính vì việc hầu hết thông tin

chuyển từ Baring Singapore về London là gian lận nên bộ phận quản lý rủi ro thị

trường tại London đã không xác định được rủi ro chung trong các giao dịch của

Leeson. Do đó họ hoàn toàn thụ động khi ứng phó với sự biến động bất lợi và tỷ lệ

ký quỹ ngày càng gia tăng đến mức quá sức chịu đựng của ngân hàng. Bên cạnh đó,

81

ngân hàng Baring cũng thiếu sự quan tâm và đánh giá xem xét hoạt động của phía

đối tác mà ngân hàng ký quỹ. Điều này ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của ngân

hàng. Một khi phía khách hàng hay đối tác mà chúng ta đang giao dịch bị phá sản

thì xem nhưng ngân hàng cũng bị mất số tiền ký quỹ đó. Baring đã không xác lập

được hạn mức giao dịch với từng khách hàng, ngay cả họ cũng không biết hết danh

sách khách hàng mà ngân hàng đang giao dịch. Ngoài ra, Baring cũng đã không quy

định hạn mức giao dịch cho Leeson đối với các giao dịch tự doanh và giao dịch

hưởng chênh lệch giá. Hiện nay hầu hết các ngân hàng đã áp dụng rất hiệu qua việc

xác định hạn mức giao dịch cho khách hàng cũng như từng nhân viên kinh doanh

ngoại hối. Tuy nhiên vần đề đặt ra là quy trình đề đánh giá và xác lập hạn mức cần

được thực hiện một cách thận trọng , hiệu quả và theo đúng quy định của ngân

hàng.

Baring là ngân hàng đã được ra đời trên 200 năm tính đến ngày bị phá sản, cho

nên hệ thống quản lý đã được thiết lập rất chặt chẽ và đầy đủ. Tuy nhiên, trên thực

tế việc thực thi các quy định này thì hầu như rất lỏng lẻo và mang tính hình thức là

chủ yếu. Hệ thống quản lý rủi ro tại Baring mang tính ma trận (matrix system). Các

bộ phận trong ngân hàng quản lý và kiểm soát đan xem lẫn nhau, hệ thống báo cáo

về rủi ro đầy đủ, nhưng hầu như không ai kiểm soát các giao dịch của Leeson trong

suốt thời gian từ năm 1993 đến tháng 1/1995 và các báo cáo của Leeson đều không

trung thực .

82

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong Chương 1, tác giả đã trình bày các khái niệm cơ bản về thị trường

ngoại hối và hoạt động kinh doanh ngoại hối, bao gồm khái niệm, đặc điểm, chức

năng, hình thức hoạt động, xu hướng phát triển, lịch sử phát triển và các loại giao

dịch ngoại hối nói chung trên thị trường ngoại hối thế giới. Qua đó, chúng ta có

được một bức tranh tổng thể làm nền tảng cho các phần phân tích sau tại thị trường

ngoại hối Việt Nam.

Kinh doanh ngoại hối ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động

của nền kinh tế, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, NHTM và các

cá nhân có sở hữu ngoại hối. Vai trò này thể hiện qua việc kinh doanh ngoại hối

giúp cân đối cung cầu ngoại hối, phòng ngừa rủi ro tỷ giá và tìm kiếm lợi nhuận cho

người sở hữu ngoại hối và là một kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ của Ngân hàng

trung ương.

Bên cạnh đó, trong Chương 1 tác giả cũng đề cập đến tổng quan về quản lý

rủi ro trong hoạt động KDNH của các NHTM. Trong đó, bao gồm các phần khái

niệm về rủi ro KDNH, quản lý rủi ro trong KDNH cũng như các giải pháp trong

quan lý rủi ro KDNH tại các NHTM. Có nhiều giải pháp cũng như nhiều quan điểm

khác nhau trên thế giới trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong hoạt động KDNH

của các NHTM. Tuy nhiên, trong Luận án này tác giả chỉ đề cập đến các giải pháp

cơ bản nhằm giúp các NHTM phòng ngừa rủi ro trong KDNH và từ đó tối đa hóa

lợi nhuận trong hạn mức rủi ro mà Ngân hàng có thể chấp nhận được. Các giải pháp

đó bao gồm: sử dụng các giới hạn trạng thái ngoại hối giao dịch qua đêm, cân bằng

trạng thái ngoại hối, sử dụng các kỹ thuật dự đoán tỷ giá, sử dụng các công cụ phái

sinh, sử dụng công cụ VaR – giá trị chịu rủi ro.

Trong phần cuối Chương 1, tác giả đề cập đến một số kinh nghiệm về quản

lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối tại ngân hàng ở một số nước trên thế giới.

83

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI

CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM

2.3. KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ

PHẦN TẠI TP.HCM

2.1.1. Tổng quan về hệ thống Ngân hàng tại TP.HCM thời kỳ trước 1990

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng năm 1975, cả nước nói chung

cũng như TP.HCM nói riêng đều thực hiện mô hình ngân hàng một cấp và duy nhất

một hình thức ngân hàng quốc doanh thuộc sở hữu Nhà nước. Cấu trúc NHNN là

một khối thống nhất từ trung ương đến cấp tỉnh, thành phố, quận, huyện, thị xã và

hoạt động chủ yếu theo địa dư hành chính. Tại TP.HCM được hình thành và tồn tại

 Chi nhánh NHNN TP.HCM có các ngân hàng trực thuộc ở 18 Quận - Huyện

 Chi nhánh ngân hàng Đầu tư và Xây dựng TP.HCM

 Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương TP.HCM.

gồm các chi nhánh ngân hàng sau đây:

Các chi nhánh ngân hàng này hoạt động trên cùng một địa bàn chịu sự quản

lý của NHNN thực hiện theo những chỉ tiêu kế hoạch thống nhất được phân bổ từ

NHNN Việt Nam, đồng thời chịu sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng, chính

quyền thông qua đầu mối chi nhánh NHNN TP.HCM. Nền kinh tế Việt Nam thời

kỳ 1975 -1988, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, đứng

trước muôn vàn khó khăn. Đảng và Chính phủ có chủ trương đổi mới về phân phối

lưu thông, thực hiện cải cách giá - lương - tiền, khuyến khích tính tự chủ cho các

doanh nghiệp, xóa bỏ dần từng bước chế độ bao cấp. Nhưng các kết quả đạt được

còn hạn chế, nền kinh tế phát triển không cân đối, giá cả tăng cao, tốc độ lạm phát

phi mã, đời sống kinh tế - xã hội bị ảnh hưởng nghiêm trọng, lòng tin của nhân dân

bị giảm sút. Tình hình trên đòi hỏi phải nhanh chóng thúc đẩy đổi mới cơ chế quản

lý kinh tế, mạnh dạn chuyển từ cơ chế quản lý kế hoạch tập trung sang cơ chế kinh

tế thị trường. Đối với lĩnh vực ngân hàng, yêu cầu đầu tiên là phải đổi mới hệ thống

tổ chức và hoạt động như tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII đã đề ra.

84

Ngày 26/03/1988 Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 53/HĐBT, theo đó,

NHNN Việt Nam là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng được tổ chức theo hệ thống

 NHNN Việt Nam

 Các ngân hàng chuyên doanh

ngân hàng hai cấp:

NHNN có các chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và

ngân hàng trong nền kinh tế. NHNN có trụ sở chính tại Hà Nội và các chi nhánh ở

từng tỉnh, thành phố. Trong thời kỳ này, TP.HCM có chi nhánh NHNN khu vực I

 Ngân hàng Công thương Việt Nam;

 Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam;

 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam;

 Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam.

và các NHTM chuyên doanh trực thuộc:

Các chính sách mới đã tạo điều kiện cho các NHTM quốc doanh hoạt động

năng động hơn, quan tâm hơn đến các nghiệp vụ tăng cường nguồn vốn, tập trung

thu hút tiền mặt. Mô hình tổ chức hệ thống ngân hàng hai cấp theo Nghị định

53/HĐBT là hoàn toàn phù hợp với điều kiện chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập

trung sang cơ chế thị trường có sự giám sát của Nhà nước.

Các Pháp lệnh Ngân hàng ra đời đã tiếp tục sửa đổi bổ sung, tạo ra hành lang

pháp lý cho việc phát huy vai trò tự chủ của các NHTM trong việc khai thác mọi

nguồn vốn, đa dạng hóa các dịch vụ, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã

hội của đất nước. Tuy nhiên, các quy định của các Pháp lệnh ngân hàng vẫn chưa

tương xứng với các nhiệm vụ của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn

mới, các yêu cầu về nghiệp vụ ngày càng đa dạng, phức tạp về tính chất lẫn quy

mô, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Với yêu cầu cấp

bách đó, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức Tín dụng đã được Quốc hội

nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X thông qua ngày 12/12/1997 và

có hiệu lực kể từ ngày 01/10/1998.

85

Luật NHNN tạo cơ sở cho sự quản lý tập trung và thống nhất toàn bộ hoạt

động ngân hàng về một mối. Qua đó sẽ tạo thuận lợi cho NHNN thực hiện được vai

trò và chức năng của mình là góp phần ổn định giá trị đồng tiền, giám sát hoạt động

an toàn của hệ thống ngân hàng.

2.1.2. Nhu cầu hình thành các thể chế mới

Từ quý II/1990 cho đến hơn một năm sau đó, đã diễn ra quá trình tự điều

chỉnh nhưng vẫn chưa có HTXTD nào được chính thức cấp giấy phép hoạt động

HTXTD theo tinh thần của Pháp lệnh Ngân hàng. Trong tiến trình này, nhiều

HTXTD đã tích cực thu hồi nợ nhanh chóng. Việc huy động vốn cũng tiếp tục

nhưng lại rất ít chủ yếu là từ vận động các “mạnh thường quân”, các cổ đông cũ và

mới để tăng vốn điều lệ. Các HTXTD cũng tự đổi mới bộ máy quản lý, điều hành,

cán bộ nghiệp vụ, bảo đảm cơ cấu hoạt động hợp lý hơn. Song, vấn đề nổi cộm mà

Pháp lệnh Ngân hàng làm cho các HTXTD phải bận tâm và cảm thấy không thể

thực hiện được đó là việc Pháp lệnh quy định “HTXTD thuộc sở hữu tập thể, được

thành lập từ vốn góp của xã viên, huy động các nguồn vốn xã viên và cho xã viên

vay”. Có lẽ đây là câu trả lời cho việc chưa có HTXTD nào được cấp giấy phép,

bởi hoạt động của các HTXTD trong thời gian qua đã giống như của một ngân hàng

cổ phần loại nhỏ.

Vấn đề này đã làm cho phần lớn các HTXTD dần dần đi đến một định hướng

hợp nhất với nhau để chuyển thành ngân hàng cổ phần vì hướng này có nhiều thuận

lợi, như thực tế đã chứng minh, sẽ đưa hoạt động của các HTXTD về đúng với tên

gọi của nó, đồng thời phá vỡ một phần tâm lý hoang mang của những người gửi

tiền.

86

2.1.3. Sự hình thành các Ngân hàng thương mại cổ phần

 NHTM cổ phần được thành lập mới:

Quá trình hình thành hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần như sau:

 Trước khi có Pháp lệnh Ngân hàng

Bao gồm ba ngân hàng là Ngân hàng Sài Gòn Công Thương, Ngân hàng

Xuất nhập khẩu Việt Nam, Ngân hàng Cổ phần Phát triển Nhà. Ngân hàng Sài Gòn

Công Thương là NHTM Cổ phần đầu tiên của cả nước được thành lập vào năm

1987, với đầy đủ các chức năng về tiền tệ, tín dụng đối nội và đối ngoại trước khi có

Luật công ty và Pháp lệnh Ngân hàng. Việc cho ra đời các ngân hàng cổ phần trước

khi có Pháp lệnh Ngân hàng chính là sự thử nghiệm của chính sách đổi mới ngành

ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi

mới chuyển tiếp sang kinh tế thị trường, lạm phát còn ở mức cao, môi trường kinh

tế vĩ mô chưa ổn định, hệ thống các tổ chức tín dụng ở nước ta đứng trước các thử

thách nghiêm trọng, hệ thống Hợp tác xã tín dụng bị phá sản. Ba ngân hàng thử

nghiệm trên vẫn vượt qua cơn sóng gió đó và có những bước trưởng thành đáng kể

cho đến ngày nay.

+ Sau khi có Pháp lệnh Ngân hàng

Bao gồm các ngân hàng: Á Châu, Đông Á, Phương Đông, Ngân hàng Việt

Á. Các ngân hàng này đã “thừa hưởng” kinh nghiệm của các tổ chức tín dụng trước

đó, đặc biệt là Ngân hàng Á Châu và Ngân hàng Đông Á, được sinh ra trong một

môi trường vừa được “khử trùng” nên không chịu ảnh hưởng của các cơn bão táp

tín dụng. Thực tế đó đã chứng tỏ sức phát triển mạnh mẽ của hai ngân hàng này cho

đến nay, được xem như là các ngân hàng “tốp trên” của hệ thống các ngân hàng cổ

 Các NHTM cổ phần hình thành từ việc hợp nhất các hợp tác xã tín dụng:

phần trên địa bàn TP.HCM.

Thuộc dạng này có 12 ngân hàng cổ phần, chiếm đại đa số các NHTM cổ

phần tại TP.HCM. Đó là các ngân hàng: Nam Á, Đại Nam, Mê Kông, Nam Đô,

87

Việt Hoa, Quế Đô, Phương Nam, Đệ Nhất, Gia Định, Tân Việt, Sài Gòn Thương

Tín, Nông thôn An Bình.

Quá trình hình thành các ngân hàng cổ phần như trên, tuy có mặt tích cực

nhằm giải quyết các hậu quả cũ, nhưng do giải pháp tình thế, nên có những nhược

điểm nhất định. Vốn điều lệ của các ngân hàng khá thấp, trong đó có 7 ngân hàng

có vốn điều lệ không phù hợp, hiệu quả hoạt động trong thời kỳ đầu thành lập nhìn

chung là không cao. Những tồn tại, thiếu sót về nhiều mặt là tất yếu. Trong quá

trình phát triển, chúng ta đã chứng kiến sự phá sản của các ngân hàng như Ngân

hàng Việt Hoa, Ngân hàng Nam Đô, Mê Kông, Đại Nam. Nhưng nhìn chung, thì

các NHTM cổ phần đã có những đóng góp tích cực trong quá trình đổi mới hoạt

động của ngân hàng, là phương tiện để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư

phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng, góp phần thúc đẩy sự cạnh tranh kinh

doanh giữa các ngân hàng để nâng cao chất lượng dịch vụ và kỹ thuật nghiệp vụ.

Cùng với sự phát triển chung của hệ thống ngân hàng thành phố, các NHTM cổ

phần mà đi đầu phải nói là các Ngân hàng ACB, Sacombank, Eximbank, ... đã gây

những ấn tượng tốt cho khách hàng.

2.1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh của các NHTM cổ phần tại TP.HCM

Tại địa bàn TP.HCM, các NHTM cổ phần có thị phần về hoạt động KDNH

lớn như: ngân hàng ACB, Eximbank, Sacombank, Việt Á.

Sau đây là một số chỉ tiêu kinh doanh chính các bốn ngân hàng trên trong

thời gian từ 2007 đến năm 2011:

88

Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của ACB

ĐVT: triệu đồng

Năm Tổng Tài sản Tỷ lệ(*) Lợi nhuận sau thuế Lãi / Lỗ KDNH

2007 85.391.681 1.759.793 155.140 9%

2008 105.306.130 2.210.682 678.852 31%

2009 167.881.047 2.201.204 422.336 19%

2010 205.102.950 2.334.794 191.104 8%

2011 281.019.319 3.207.841 -161.467 -5%

Tổngcộng 844.701.127 11.714.314 1.285.965 11%

(*): tỷ lệ Lãi/lỗ KDNH trên lợi nhuận sau thuế

Nguồn: Báo cáo tài chính thường niên của ACB qua các năm [12]

Bảng 2.2: Kết quả hoạt động kinh doanh của SACOMBANK

ĐVT: triệu đồng

Năm Tổng Tài sản Tỷ lệ(*) Lợi nhuận sau thuế Lãi / Lỗ KDNH

2007 64.572.875 1.397.897 100.815 7%

2008 68.438.569 954.753 510.041 53%

2009 104.019.144 1.670.559 314.108 19%

2010 141.798.738 1.798.560 -169.750 -9%

2011 141.468.717 1.995.857 123.470 6%

Tổng cộng 11% 520.298.043 7.817.626 878.684

(*): tỷ lệ Lãi/lỗ KDNH trên lợi nhuận sau thuế

Nguồn: Báo cáo tài chính thường niên của SACOMBANK qua các năm [12]

89

Bảng 2.3: Kết quả hoạt động kinh doanh của EXIMBANK

ĐVT: triệu đồng

Năm Tổng Tài sản Tỷ lệ(*) Lợi nhuận sau thuế Lãi / Lỗ KDNH

2007 33.710.424 463.417 139.257 30%

2008 48.247.821 711.014 634.105 89%

2009 65.448.356 1.132.463 135.409 12%

2010 131.110.882 1.814.639 15.750 1%

2011 183.567.032 3.038.864 -88.156 -3%

Tổngcộng 462.084.515 7.160.397 836.365 12%

(*): tỷ lệ Lãi/lỗ KDNH trên lợi nhuận sau thuế

Nguồn: Báo cáo tài chính thường niên của EXIMBANK qua các năm [12]

Bảng 2.4: Kết quả hoạt động kinh doanh của VIETA BANK

ĐVT: triệu đồng

Năm Tổng Tài sản Tỷ lệ(*) Lợi nhuận sau thuế Lãi / Lỗ KDNH

2009 15.816.725 209.995 77.322 37%

2010 24.082.916 266.462 -16.683 -6%

2011 22.513.098 248.061 -137.983 -56%

Tổngcộng 62.412.738 724.518 -77.344) -11%

(*): tỷ lệ Lãi/lỗ KDNH trên lợi nhuận sau thuế

Nguồn: Báo cáo tài chính thường niên của VIETA BANK qua các năm [12]

90

2.4. THỰC TRẠNG VỀ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA

CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM

2.4.4. Các nhân tố chung tác động đến rủi ro kinh doanh vàng và ngoại tệ

2.2.1.1. Các yếu tố bên ngoài

Tình hình kinh tế thế giới trong những năm qua có những diễn biến hết sức

phức tạp, trong bối cảnh chung đó, kinh tế Việt Nam không tránh khỏi chịu ảnh

hưởng tiêu cực và gặp phải một số khó khăn, trong đó, nổi lên vấn đề lạm phát tăng

cao trở thành thách thức đối với công tác điều hành vĩ mô từ năm 2011, năm đầu

tiên thực hiện Nghị quyết Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ XI, lạm phát đang trở

thành mối lo hàng đầu của tất cả các quốc gia, khi mà chỉ số chung của các loại

hàng hóa nguyên liệu thô đã tăng 8% chỉ trong vài tháng do ảnh hưởng từ các

chương trình nới lỏng tiền tệ của nhiều nền kinh tế lớn trong năm 2010 và tình hình

bất ổn chính trị tại Bắc Phi, Trung Ðông. Nhiều nước ở châu Á có mức lạm phát cao

nhất trong nhiều năm qua, như Trung Quốc 5%, Ấn Ðộ 8,2%, Hàn Quốc 4,7%,…

Lạm phát tại Việt nam bị ảnh hưởng theo mức lạm phát của các nước trên

thế giới và trở thành nguy cơ lớn đối với nền kinh tế (Biểu đồ 2.1), cán cân thương

mại thâm hụt ở mức cao qua nhiều năm tuy có mức giảm qua các năm (Biểu đồ 2.2)

do giá các nguyên nhiên liệu nhập khẩu tăng mạnh, trong khi xuất khẩu gặp nhiều

khó khăn do nhu cầu tiêu dùng thế giới phục hồi chậm trong giai đoạn khó khăn

mới kể từ 2007-2008, giai đoạn khủng hoảng tài chính bùng phát tại Mỹ và lan rộng

toàn cầu, kéo theo sự sụp đổ đồng loạt của nhiều định chế tài chính khổng lồ, thị

trường chứng khoán khuynh đảo. Năm 2008 cũng chứng kiến nỗ lực chưa từng có

của các nền kinh tế để chống chọi với "bão".

Vấn đề nhập siêu cũng đang gây áp lực lên dự trữ ngoại hối quốc gia, tác

động tới tỷ giá USD/VND, đồng thời gián tiếp làm gia tăng nguy cơ lạm phát đối

với nền kinh tế Việt nam trong các năm qua.

91

25

19.9

20

16.82

15

12.6

11.19

10

6.81

6.34

5

0

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Biểu đồ 2.1: Tình hình lạm phát qua các năm (%)

Nguồn:Tổng cục Thống kê [14]

2.00

0.78

-

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

(2.00)

(4.00)

(6.00)

(8.00)

(8.85)

(10.00)

(12.44)

(12.12)

(12.00)

(12.38)

(14.00)

(16.00)

(17.05)

(18.00)

Biểu đồ 2.2: Thâm hụt/Thặng dư cán cân thương mại (tỷ USD)

Nguồn: Tính toán của tác giả và tổng hợp từ Tổng cục thống kê [15]

92

Thu hút đầu tư FDI, viện trợ nước ngoài ODA mặc dù chưa có tín hiệu chịu

tác động rõ nét, nhưng về lâu dài sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực do nhiều nước phải thực

hiện các biện pháp thắt chặt chi tiêu, hạn chế đầu tư, nhất là việc Nhật Bản phải tập

trung tài chính để tái thiết đất nước sau thảm họa thiên tai. Trong lĩnh vực tiền tệ, áp

lực tỷ giá gia tăng do tác động của lạm phát, nhập siêu và nhất là sự tồn tại của thị

trường tự do mua bán ngoại tệ và vàng đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động

quản lý Nhà nước về ngoại hối, gây ra tình trạng đầu cơ làm giá trục lợi, làm méo

mó thị trường.

Trong khi lạm phát có thể không còn là câu chuyện chính yếu của năm 2012,

thì tỷ giá lại có thể lại là nhân vật chính. Với việc tiếp tục thực hiện chính sách tiền

tệ chặt chẽ và cắt giảm đầu tư công như năm 2011, mức lạm phát đã quay về mức

6,81% năm 2012. Khó khăn của kinh tế thế giới sẽ khiến cho dòng vốn quốc tế đầu

tư vào Việt Nam có thể sụt giảm. Xuất khẩu khó có thể giữ được mức tăng trưởng

cao như năm nay. Hơn nữa, nguy cơ các quỹ đầu tư nước ngoài, với danh mục

chứng khoán lên tới 7 tỉ USD, rút vốn trong năm 2013 và các năm sau là rất lớn.

Đây sẽ là những áp lực chính đối với cán cân thanh toán của Việt Nam trong những

năm sau.

Hơn nữa, với việc lãi suất huy động VND có xu hướng giảm dần về mức

dưới 10% theo đà giảm của lạm phát, việc găm giữ ngoại tệ sẽ trở nên hấp dẫn hơn.

Với tất cả những khía cạnh trên, tỷ giá trở thành tâm điểm trong năm 2012 và các

năm sau bên cạnh các nội dung tái cấu trúc nền kinh tế. Sự biến động phức tạp của

kinh tế thế giới và nền kinh tế Việt Nam sẽ càng làm cho tỷ giá USD/VND dao

động thất thường và tạo ra nhiều rủi ro cho hoạt động ngoại hối của nền kinh tế.

Tại TP.HCM, trong các năm từ 2007 đến 2012, theo các biểu đồ như bên

dưới từ biểu đồ 2.4 đến 2.7 thể hiện lãi lỗ từ thu nhập trong KDNH của các NHTM

cổ phần đã giảm rõ rệt. Đây là nhóm các NHTM cổ phần có thị phần KDNH lớn

nhất tại TP.HCM (theo số liệu trên bảng báo cáo tài chính thường niên của các

NHTM cổ phần tại TP.HCM) [12]. Xuất phát từ khủng hoảng tài chính tại Mỹ giai

đoạn 2007-2008, các yếu tố của nền kinh tế vĩ mô và vi mô tại Việt nam dần dần bị

93

ảnh hưởng qua các năm như đã phân tích ở trên, từ đó đã và đang gây ra nhiều rủi

ro cho hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần tại TP.HCM và các tổn thất lớn

cho thu nhập của các NHTM này là rất rõ ràng, được thể hiện trên biểu đồ bên dưới.

2.2.1.2. Các yếu tố bên trong

 Lạm phát

Trong những năm vừa qua, theo Biểu đồ 2.1, tỷ lệ lạm phát đặc biệt cao

trong những năm từ 2007 đến 2011 trừ năm 2009. Như trong hai năm 2007 và 2008,

tỷ lệ lạm phát cao dẫn đến tình hình kinh tế vĩ mô trong nước bất ổn như mức sống

người dân ngày càng thấp, thất nghiệp cao, niềm tin vào đồng tiền Việt nam ngày

càng thấp, thâm hụt các cân thương mại nặng nề, v.v...Cùng với đó, đây là giai đoạn

nền kinh tế thế giới vừa bước vào cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính mới bắt

nguồn từ Mỹ. Với tình hình khó khăn chung của nhiều nước trên thế giới, các nhà

đầu tư vào thị trường Việt nam rất cần vốn USD rút về nước để bù đắp cho các

khoản lỗ của hoạt động đầu tư trong nước của chính các nhà đầu tư nước ngoài đó.

Các nhà đầu tư nước ngoại này rút vốn thông qua việc bán các khoản đầu tư trên thị

trường chứng khoán, hay bán trái phiếu chính phủ tại Việt nam và mua USD để

chuyển về nước họ. Từ đó, cầu USD tăng đột biến từ người dân trong nước và các

nhà đầu tư nước ngoài làm cho tỷ giá USD/VND tăng lên bất thường.

Đồng thời, tỷ lệ lạm phát cao khiến người dân trong nước “đổ xô” vào vàng

nhằm tìm kênh trú ẩn an toàn để bảo toàn giá trị tài sản của họ. Nguồn cung vàng tại

Việt nam chủ yếu từ nhập khẩu. Từ đó, giá vàng tăng cao cùng với tỷ giá

USD/VND càng tăng cao hơn và gây bất lợi cho các trạng thái đoản ngoại hối của

các NHTM cổ phần tại TP.HCM. Do dự báo được tình hình, trong năm 2007 và

2008 hoạt động KDNH tại các ngân hàng trên tạo được kết quả khả quan.

Trong năm 2010 và 2011 lạm phát tăng trở lại sau khi giảm xuống mức

6,34% năm 2009. Một đặc điểm đáng chú ý của hai năm này là các sàn vàng của

các ngân hàng trong nước đồng loạt đóng cửa theo chỉ đạo của Chính phủ, lãi suất

tiết kiệm vàng bằng 0 làm cho nhu cầu về USD giảm đáng kể. Tuy nhiên, NHNN

cho phép nhập khẩu vàng để kéo chênh lệch giá vàng trong và ngoài nước về một

94

mức hợp lý, việc làm này đã đẩy cầu USD tăng cao. Đồng thời trong thời kỳ lạm

phát cao này, lãi suất cho vay VND cao và lãi suất cho vay USD thấp càng khiến

cho các tổ chức vay USD và tạo ra cầu USD tăng ảo. Cũng như phân tích ở trên

NHNN cũng chưa bình ổn được tỷ giá USD/VND và giá vàng trong nước, tạo cho

chúng biến động phức tạp và gây ra nhiều rủi ro cho hoạt động KDNH của ngân

hàng và đã tạo ra các khoản lỗ cho các ngân hàng theo như Biểu đồ từ 2.4 đến 2.7

bên dưới.

Trong những năm vừa qua từ năm 2007 đến nay, chỉ có hai năm 2009 và

năm 2012 có tỷ lệ lạm phát thấp, giúp cho tỷ giá USD/VND tương đối ổn định như

trong năm 2012 (theo Biểu đồ 2.3) và giá vàng trong nước ít biến động bất thường,

bám theo giá vàng thế giới.

Biểu đồ 2.3: Tỷ giá USD/VND bình quân năm từ năm 2007 đến năm 2012

22,000

21,167

21,000

20,893

20,000

19,513

19,000

18,163

18,000

17,000

16,620

16,000

16,079

15,000

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Đơn vị tính: đồng/USD

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ website www.sbv.gov.vn

Tuy nhiên, tình hình kinh tế trong nước vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề như: giá

USD vẫn tăng trong khi giá USD thế giới giảm, cầu vàng vẫn cao, chênh lệch giữa

giá vàng trong nước và quốc tế chưa giảm về mức hợp lý, dự trữ ngoại hối còn

mỏng, các hoạt động kinh tế nói chung còn trì trệ kéo theo cầu trong nước yếu,…

Từ đó, với các bất ổn trên của nền kinh tế trong nước kéo theo nhiều rủi ro tiềm ẩn

trung và dài hạn cho các hoạt động KDNH của các ngân hàng.

95

678,852

600,000

422,336

400,000

191,104

200,000

155,140

0

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

-161,467

-200,000

Biểu đồ 2.4: Lãi/Lỗ thu nhập trong KDNH (ngoại tệ, vàng) tại Ngân hàng ACB Đơn vị tính: triệu đồng

Nguồn:Báo cáo tài chính thường niên của Ngân hàng ACB[12] Biểu đồ 2.5: Lãi/Lỗ thu nhập trong kinh doanh ngoại hối (ngoại tệ và vàng) tại

Ngân hàng EXIMBANK

634,105

600,000

400,000

200,000

135,409

15,750

0

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2012

Năm 2011 -88,156

-200,000

-297,374

-400,000

Đơn vị tính: triệu đồng

Nguồn:Báo cáo tài chính thường niên của Ngân hàng EXIMBANK [12]

96

- Thâm hụt cán cân thương mại

Nhập siêu là nguyên nhân chính dẫn tới thâm hụt cán cân vãng lai trong

nhiều năm gần đây (theo Biểu đồ 2.2). Tỷ lệ thâm hụt cán cân vãng lai/GDP năm

2007 là -9,87%, năm 2008 là -11,93% , năm 2009 là -6,67% và năm 2010 là –

0,73%; trong khi đó tỷ lệ nhập siêu/GDP luôn ở mức cao từ khoảng 14- 20% GDP

trong thời gian này. Cán cân vốn và tài chính liên tục thặng dư là nguồn tài trợ chủ

yếu thâm hụt cán cân vãng lai. Mặc dù vậy, dưới áp lực nhập siêu cao, cán cân

thanh toán tổng thể vẫn bị thâm hụt, cùng với yếu tố tâm lý găm giữ ngoại tệ đã dẫn

tới mất cân đối cung - cầu ngoại tệ theo hướng dư cầu ngoại tệ và gây áp lực tăng tỷ

giá.

Nhập siêu là nguyên nhân chính làm tăng nguy cơ thâm hụt cán cân thanh

toán và từ đó tạo áp lực giảm dự trữ ngoại hối nhà nước do NHNN phải bán ngoại

tệ để can thiệp trên thị trường ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá. Trong các năm 2009

và 2010, do cán cân thanh toán thâm hụt lớn, NHNN đã phải bán ngoại tệ cho các

TCTD, dẫn đến dự trữ ngoại hối nhà nước sụt giảm tương đối.

Trong cán cân thương mại của nước ta, nhập khẩu vàng là một trong những

nguyên nhân làm cho tình hình nhập siêu chưa được cải thiện đáng kể, mặc dù cán

cân thương mại năm 2012 có thặng dư nhỏ. Cầu vàng cao khiến cho cầu ngoại tệ

tăng và làm cho tỷ giá USD/VND luôn có xu hướng tăng; từ đó làm cho cung cầu

về ngoại tệ và vàng thường xuyên ở trạng thái mất cân đối. Cuối cùng, các vấn đề

này đã tạo nên nhiểu tổn thất cho hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần tại

TP.HCM như minh họa trong các biểu đồ từ 2.4 đến 2.7.

97

Biểu đồ 2.6: Lãi/Lỗ thu nhập trong kinh doanh ngoại hối (ngoại tệ và vàng) tại

Ngân hàng SACOMBANK

600,000

510,041

400,000

314,108

200,000

123,470

100,815

0

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

-169,750

-200,000

Đơn vị tính: triệu đồng

Nguồn:Báo cáo tài chính thường niên của Ngân hàng SACOMBANK [12]

98

Biểu đồ 2.7: Lãi/Lỗ thu nhập trong kinh doanh ngoại hối (ngoại tệ và vàng) tại

Ngân hàng VIỆT Á

150,000

100,000

84,273

77,322

50,000

0

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2011

Năm 2010 -16,683

-50,000

-100,000

-137,983

-150,000

Đơn vị tính: triệu đồng

Nguồn:Báo cáo tài chính thường niên của Ngân hàng VIỆT Á [12]

 Tình trạng đôla hóa nền kinh tế

Trong những năm qua, tình hình đôla hóa tại Việt nam có xu hướng giảm rõ

nét (theo biểu đồ 2.8). Cùng với niềm tin của người dân vào đồng tiền Việt nam

ngày càng tăng, các chính sách và biện pháp hành chính của Chính phủ đang tỏ ra

hiệu quả và góp phần làm hạn chế việc sử dụng USD trong thanh toán, niêm yết giá,

giảm đáng kể các đối tượng được phép vay bằng ngoại tệ (đặc biệt là USD). Các

hoạt động trên góp phần ổn định tỷ giá USD/VND và giảm các khoản đầu cơ vào tài

sản là vàng.

Tuy nhiên, nền kinh tế Việt nam vẫn còn tồn tại rất nhiều hạn chế như đã

phân tích trong phần lạm phát ở trên và các phần phân tích ở các mục sau. Cho nên

các rủi ro tiềm ẩn trong trung và dài hạn vẫn còn đó, việc “yêu thích” USD và vàng

của người dân vẫn còn đó, tình trạng đôla hóa chưa thể chấp dứt được. Từ đó, việc

điều hành các chính sách vĩ mô của NHNN gặp không ít khó khăn, việc quản lý thị

99

trường ngoại hối trong nước vẫn luôn là một ẩn số và rất khó tìm được sự đồng

thuận lớn từ phía người dân cũng như các ngân hàng. Cho nên, các rủi ro đối với

hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần tại TP.HCM vẫn còn tồn tại trong thời

gian vừa qua cũng như sắp tới.

19.5%

19.0%

19.0%

17.0%

16.0%

16.0%

15.0%

13.0%

12.4%

10.0%

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2013

Biểu đồ 2.8: Tỷ lệ đôla hóa (Tiền gửi bằng ngoại tệ/M2) (%)

Nguồn:Tác giả tổng hợp

 Trạng thái ngoại tệ

Trong các năm qua, theo Báo cáo của NHNN [10], các ngân hàng TMCP tại

TP.HCM vẫn duy trì trạng thái ngoại tệ trong quy định của NHNN. Tuy nhiên, việc

quy định trạng thái ngoại tệ cao trong thời gian trước thời điểm thông tư

07/2012/TT-NHNN ngày 20/03/2012 do NHNN ban hành có hiệu lực đem lại nhiều

rủi ro cho hoạt động KDNH của các ngân hàng. Nhằm tăng lợi nhuận, các ngân

hàng chấp nhận duy trì trạng thái đoản hay trường đến mức tối đa của trạng thái

ngoại tệ mà NHNN cho phép, thậm chí các ngân hàng còn duy trì trạng thái ngoại tệ

trong ngày cao hơn mức quy định 30%, mức quy định về trạng thái ngoại tệ cuối

ngày của NHNN. Việc đáp ứng quy định của NHNN theo cách thức đối phó càng

tạo ra nhiều rủi ro cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Ngoài ra, quy định

100

về trạng thái ngoại tệ của NHNN trước ngày thông tư 07 có hiệu lực tạo ra tình

trạng đôla hóa khó kiểm soát và tạo ra sự biến động của tỷ giá ngoại tệ càng phức

tạp khi cầu ngoại tệ có xu hướng cao hơn cung ngoại tệ đặc biệt vào cuối năm. Sau

ngày thông tư 07 có hiệu lực, tình trạng đôla hóa giảm đi rõ nét, tuy lợi nhuận về

kinh doanh ngoại hối các NHTM cổ phần lớn tại TP.HCM giảm đi rõ rệt (theo các

biểu đồ từ 2.4 đến 2.7 bên trên). Phần lỗ trong KDNH này chủ yếu xuất phát từ kinh

doanh vàng, nhằm đáp ứng thanh khoản vàng để tất toán các tài khoản huy động

vàng của khách hàng theo đúng quy định của NHNN. Về tổng thể, việc ban hành

thông tư 07 giúp các NHTM cổ phần tại TP.HCM dễ dàng hơn trong quá trình kiểm

soát hoạt động KDNH, giảm đáng kể rủi ro cho hoạt động này với trạng thái ngoại

tệ trong mức +/-20%.

Hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài tại các NHTM cổ

phần tại TP.HCM, đặc biệt là trong suốt thời gian từ 2007-2010 khi mà giá vàng

trong nước chênh lệch so với giá vàng trên thế giới và vàng miếng SJC chưa thuộc

sự quản lý của NHNN, ảnh hưởng rất lớn đến trạng thái ngoại tệ trong ngày và có

khi trạng thái ngoại tệ vượt quá ngưỡng quy định +/-30%/vốn tự có của ngân hàng

(theo Báo cáo của các NHTM [10]). Đây là một trong những nguyên nhân cho việc

suy giảm lợi nhuận trong KDNH tại các NHTM cổ phần có thị phần KDNH lớn tại

TP.HCM như ACB, Sacombank, Việt Á và Eximbank.

 Cơ chế điều hành tỷ giá

Trên thực tế, theo cơ chế điều hành tỷ giá trong những năm gần đây, NHNN

đang sử dụng công cụ “tỷ giá bình quân liên ngân hàng” và “biên độ” để kiểm soát

tỷ giá trên thị trường. Mặc dù gọi là tỷ giá bình quân liên ngân hàng nhưng NHNN

thường ấn định tỷ giá này theo mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, thường là mang tính

dài hạn. Vì thế đôi khi có một “độ lệch” nhất định so với thực tế biến động ngắn hạn

trên thị trường. Với cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay, thị trường ngoại hối đã xuất

hiện hai tỷ giá, đó là tỷ giá chính thức được các NHTM niêm yết, mua bán và tỷ giá

phi chính thức trên thị trường tự do; đồng thời sự mất cân đối cung cầu ngoại tệ

luôn có thể xảy ra trong năm.

101

Trong năm 2007, 2008 NHNN điều hành tỷ giá USD/VND tương đối ổn

định, kiểm soát chặt chẽ các giao dịch ngoại hối và giá vàng biến động không nhiều

(Biểu đồ 2.9 và biểu đồ 2.10 bên dưới). Điển hình như trong năm 2008, NHNN thay

đổi biên độ tỷ giá USD/VND ba lần vào các ngày 10/3/2008 (tăng từ +-0,75% lên

+-1%), ngày 27/06/2008 (tăng từ +-1% lên +-2%), ngày 7/11/2008 (tăng từ +-2%

lên +-3%) và tỷ giá tăng bình quân từ 16.079 lên 16.620 (Biểu đồ 2.3). Với việc

điều hành và kiểm soát các giao dịch ngoại hối trên thị trường, NHNN đã có cơ chế

tỷ giá USD/VND và điều tiết thị trường vàng hợp lý, đã không tạo ra những rủi ro

đáng kể cho các giao dịch KDNH của các NHTM cổ phần tại TP.HCM, tuy có

những thời điểm trong năm tỷ giá tăng đột biến và giá vàng biến động mạnh.

Biểu đồ 2.9: Giá vàng thế giới bình quân qua các năm

1,500

1,379

1,289

1,300

1,171

1,100

921

900

746

707

700

500

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Đơn vị tính: USD/Oz

Nguồn:GoldPrice.org

102

Biểu đồ 2.10: Giá vàng SJC bình quân qua các năm

40.0

35.3

35.0

33.5

30.0

28.1

25.0

20.8

20.0

15.6

14.3

15.0

10.0

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Đơn vị tính: triệu đồng

Nguồn: www.SJC.com.vn và số liệu tổng hợp của tác giả

Năm 2009 là năm có nhiều biến động cả về ngoại tệ và vàng. Tỷ giá tăng

nhiều, bình quân 1 USD/VND tăng từ 16.620 lên 18.160 (Biểu đồ 2.3), chênh lệch

của giá USD/VND giữa thị trường chính thức và thị trường từ do cao thậm chí có

lúc lên trên 10%, giá vàng biến động mạnh cả trong và ngoài nước, cầu ngoại tệ

luôn lớn hơn cung ngoại tệ (chủ yếu về ngoại tệ là USD), niềm tin đồng tiền VND

giảm mạnh, cán cân thanh toán còn thâm hụt nặng,… Đứng trước tình hình nền kinh

tế trong nước có nhiều chuyển biến xấu, NHNN đã triển khai đồng bộ nhiều biện

pháp như quyết định mở rộng biên độ tỷ giá USD/VND từ +/-3% lên +/-5% nhằm

giảm bớt sự chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và thị trường chính thức, kiểm

soát chặt chẽ hoạt động KDNH của các TCTD nhằm bảo đảm các TCTD thực hiện

nghiêm túc các quy định quản lý ngoại hối về thực hiện niêm yết và giao dịch, tăng

cường công tác tuyên truyền ổn định tâm lý người dân và triển khai các biện pháp

tạo sự đồng thuận giữa các NHTM, thống nhất tăng lãi suất huy động USD và hạ

103

mặt bằng lãi suất cho vay ngoại tệ nhằm khắc phục tình trạng mất cân đối cung -

cầu ngoại tệ.

Các chính sách điều hành trên của NHNN được cho là kịp thời và phù hợp

với diễn biến của thị trường. Tuy nhiên, sự chênh lệch quá lớn giữa tỷ giá chính

thức và thị trường tự do là cơ hội không thể bỏ qua cho giới đầu cơ tìm kiếm lợi

nhuận từ chênh lệch giá này. Một khi đầu cơ xuất hiện, tỷ giá USD/VND lại càng

diễn biến phức tạp hơn và càng tạo ra nhiều rủi ro cho hoạt động KDNH của các

NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM. Theo biểu đồ về lãi/lỗ trong KDNH của các

NHTM tại các biểu đồ từ 2.4 đến 2.7, lợi nhuận các ngân hàng đều giảm đáng kể,

thậm chí Eximbank giảm lợi nhuận trên 50% của KDNH trong năm 2009 so với

năm 2008.

Trước tình hình giá USD tự do tăng mạnh dưới ảnh hưởng của cơn sốt giá

vàng, NHNN đã lập tức công bố cho nhập khẩu vàng nhằm giảm sức ép lên cung

vàng; qua đó hạ bớt sức nóng của đồng USD trên thị trường tự do. Thêm vào đó,

NHNN quyết định can thiệp trực tiếp và mạnh tay vào tỷ giá khi điều chỉnh tỷ giá

USD/VND bình quân liên ngân hàng tăng 5,44% từ mức 17.034 ngày 25/11/2009

lên 17.961 áp dụng cho ngày 26/11/2009; thu hẹp biên độ tỷ giá giao dịch

USD/VND từ mức ±5% xuống mức ±3% và tăng lãi suất cơ bản tiền đồng lên 8%.

NHNN cũng cam kết hỗ trợ bán ngoại tệ cho các TCTD có trạng thái ngoại tệ từ âm

5% trở xuống. Tuy nhiên cùng với rủi ro tỷ giá và với cơn sốt vàng trên thị trường

trong thời gian này, các ngân hàng gặt hái được nhiều lợi nhuận và cũng bị nhiều

tổn thất cho lợi nhuận của ngân hàng, cuối cùng là lợi nhuận các NHTM cổ phần tại

TP.HCM đều bị giảm.

Trong năm 2010, nền kinh tế trong nước vẫn còn nhiều khó khăn như: lạm

phát cao ở mức 2 con số, nhập siêu chưa giảm đáng kể, cầu USD tăng mạnh, cung

USD còn yếu, chênh lệch tỷ giá USD/VND giữa thị trường chính thức và thị trường

tự do vẫn còn cao, nhu cầu mua vàng tăng mạnh, … Đứng trước tình hình như vậy,

để bình ổn TTNH, NHNN đã thực thi rất nhiều chính sách, biện pháp như điều

chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng, kiểm soát mạnh TTNH cuối năm 2009, tăng

104

nguồn cung USD trên thị trường qua các biện pháp hành chính như kết hối ngoại tệ,

giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ, mở rộng đối tượng được vay

ngoại tệ. Thêm vào đó, việc chấm dứt hoạt động của các sàn vàng, lãi suất tiết kiệm

bằng vàng tại các NHTM gần như 0% cộng với một lượng vàng khá lớn tại các

NHTM đã khiến cho giá vàng trong nước đã giảm (thậm chí thấp hơn giá vàng thế

giới) và khiến cho hoạt động đầu tư vào vàng suy giảm. Với các biện pháp kịp thời

này của NHNN đã góp phần giảm sức ép đối với cầu USD, tăng nguồn cung vàng

miếng, giảm chênh lệch tỷ giá USD/VND giữa hai thị trường, kéo giá vàng trong

nước và thế giới về sát nhau.

Sau khi đóng cửa sàn vàng năm 2010, nhà nước độc quyền sản xuất vàng

miếng SJC kể từ tháng 5/2012, ngừng cho vay vàng miếng từ tháng 4/2011 và

ngừng huy động vàng miếng kể từ tháng 11/2012, tỷ giá USD/VND tăng thêm 9,3%

từ mức 18.932 lên mức 20.693, đáp ứng đủ các nhu cầu mua USD của doanh nghiệp

có nhu cầu hợp pháp, tỷ giá USD/VND dần đi vào ổn định, đầu cơ vàng miếng

không còn xuất hiện như trước, niềm tin của người dân vào VND tăng lên, v.v..

trong năm 2011 và 2012.

Tuy các chính sách trên của NHNN là kịp thời và hợp lý trong giai đoạn

ngắn hạn, về lâu dài các biện pháp này tỏ ra không hiệu quả và mang nặng tính hành

chính đồng thời ngày càng xa các quy tắc của thị trường; từ đó, rủi ro về biến động

tỷ giá, giá vàng trong nước, cũng như chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế

cũng như chênh lệch tỷ giá USD/VND giữa thị trường chính thức và thị trường phi

chính thức không giải quyết được một cách triệt để.

Hơn nữa, ngoài các rủi ro tỷ giá ngoại tệ và giá vàng tiềm ẩn cho hoạt động

KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM như đã phân tích ở trên, cơ hội kinh doanh

đã và đang giảm đi đáng kể và rủi ro chính sách của NHNN là đang hiện hữu như

việc tất toán các tài khoản huy động vàng mà các NHTM đang thực hiện làm giảm

lợi nhuận cho hoạt động KDNH của các ngân hàng rất nhiều theo Biểu đồ từ 2.4

đến 2.7 ở trên.

105

- Các hợp đồng giao dịch phái sinh ngoại hối

Hầu hết các giao dịch phái sinh ngoại tệ và vàng mà các NHTM cổ phần

TP.HCM thực hiện đều đáp ứng cho nhu cầu mua bán sản phẩm phái sinh ngoại hối

từ phía khách hàng đa số là doanh nghiệp (theo các Bảng 2.5 đến 2.11).

Bảng 2.5: Số lượng khách hàng và TCTD khác giao dịch kỳ hạn của Eximbank

Đối tượng Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011

Khách hàng 23 151 1.128 334 72

TCTD khác 14 16 20 23 32

Tổng cộng 37 167 1.148 357 104

Nguồn: Báo cáo giao dịch tiền tệ tại EXIMBANK qua các năm [12]

Bảng 2.6: Giá trị giao dịch kỳ hạn với khách hàng và với TCTD khác của Eximbank ĐVT: triệu VNĐ

Năm Giao dịch với khách hàng Giao dịch với TCTD khác

2007 1.067.690,62 784.482,80

2008 5.484.465,67 732.100,26

2009 12.227.412,34 3.023.000,11

2010 3.471.789,64 1.868.448,50

2011 2.448.703,44 8.359.126,37

Tổng cộng 24.700.061,71 14.767.158,04

Nguồn: Báo cáo giao dịch tiền tệ tại EXIMBANK qua các năm [12]

Bảng 2.7: Số lượng khách hàng và TCTD khác giao dịch hoán đổi của Eximbank

Đối tượng Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011

Khách hàng 5 157 881 78 65

TCTD khác 12 16 13 21 23

Tổng cộng 17 173 894 99 88

Nguồn: Báo cáo giao dịch tiền tệ tại EXIMBANK qua các năm [12]

106

Bảng 2.8: Giá trị giao dịch hoán đổi với khách hàng và với TCTD khác của

Eximbank

ĐVT: triệu VNĐ

Năm Giao dịch với khách hàng Giao dịch với TCTD khác

2.059.108,00 2007 33.803.563,57

1.869.207,00 2008 17.569.924,55

6.009.091,00 2009 14.186.828,26

882.882,00 2010 12.122.545,41

4.001.260,00 2011 40.789.533,33

Tổng cộng 14.821.548,00 118.472.395,12

Nguồn: Báo cáo giao dịch tiền tệ tại EXIMBANK qua các năm [12]

Bảng 2.9: Giá trị giao dịch quyền chọn với TCTD khác của Eximbank

ĐVT: USD (quy đổi USD)

Quyền chọn ngoại tệ

Quyền chọn mua Quyền chọn bán Năm Quyền chọn nội tệ (Bán Quyền chọn mua ngoại tệ/VNĐ)

Mua Quyền chọn mua Bán Quyền chọn mua Mua Quyền chọn bán Bán Quyền chọn bán

0 1.098.950 2.197.900 0 2007 0

145.100 145.100 755.500 148.700 2008 0

0 0 0 0 2009 0

269.950 269.950 136.500 136.500 2010 0

341.600 341.600 266.700 0 2011 0

0 Tổngcộng 756.650 756.650 2.257.650 2.483.100

Nguồn: Báo cáo giao dịch tiền tệ tại EXIMBANK qua các năm [12]

107

Bảng 2.10: Lời / Lỗ từ giao dịch phái sinh ngoại tệ của Eximbank

ĐVT: triệu đồng

Năm 2007 2008 2009 2010 2011

115.618 503.357 467.857 106.886 158.033 Lời / lỗ

Nguồn: Báo cáo tài chính thường niên của EXIMBANK qua các năm [12]

Bảng 2.11: Giá trị giao dịch quyền chọn vàng tại ACB

ĐVT: triệu đồng

MUA BÁN

Năm

Quyền chọn mua Quyền chọn bán Quyền chọn mua Quyền chọn bán

2007 0 0 0 0

2008 0 0 0 0

2009 0 -1.524 -587.901 415.232

2010 16.019.178 -1.823.078 -2.540.355 17.244.525

2011 32.619.532 -5.859.683 -32.315.525 30.926.168

Tổng cộng 48.638.710 -7.684.285 -35.443.781 48.585.925

Nguồn: Báo cáo tài chính thường niên của ACB qua các năm [12]

Khách hàng của ngân hàng là các tổ chức/cá nhân mua hay bán các sản phẩm

phái sinh ngoại tệ hay vàng nhằm phòng ngừa rủi ro cho hoạt động kinh doanh

thường xuyên của họ có liên quan đến ngoại tệ hay nhằm đầu cơ trạng thái vàng hay

ngoại tệ. Sau khi tiếp nhận các giao dịch từ phía khách hàng, ngân hàng phần lớn là

thực hiện đối ứng ngay với các đối tác ngân hàng nước ngoài nhằm hưởng chênh

lệch giá, do thị trường mua bán sản phẩm phái sinh ngoại hối tại Việt nam chưa

phát triển đủ để các ngân hàng sau khi nhận lệnh mua bán của khách hàng có thể

bán hay mua lại với một khách hàng khác hay cân đối trạng thái giao dịch của

khách hàng với Trung tâm giao dịch Quốc gia về sản phẩm phái sinh ngoại hối như

các nước.

108

Ngoài việc thực hiện môi giới cho khách hàng về các giao dịch phái sinh

ngoại hối, các NHTM cổ phần tại TP.HCM hầu như rất hiếm khi thực hiện mua hay

bán các giao dịch phái sinh ngoại hối cho chính các trạng thái ngoại hối của ngân

hàng mình để phòng ngừa rủi ro của tỷ giá ngoại tệ hay giá vàng. Chính vì lẽ đó,

trong những năm vừa qua, khi mà tỷ giá USD/VND và giá vàng ngày càng biến

động phức tạp, đồng thời rủi ro chính sách từ phía NHNN ngày càng hiện hữu, lợi

nhuận từ mảng KDNH của các ngân hàng ngày càng giảm, đặc biệt là bị lỗ trong

năm 2011 và năm 2012 vừa qua tại nhiều NHTM cổ phần có thị phần giao dịch lớn

trong KDNH và có trụ sở chính tại TP.HCM như trong Biểu đồ từ 2.4 đến 2.7 ở

trên.

2.2.2. Các nhân tố riêng tác động đến rủi ro kinh doanh vàng và ngoại tệ

Khi ngân hàng thực hiện mua hộ và bán hộ cho khách hàng để thu phí thì rủi

ro hối đoái không phát sinh. Một khi ngân hàng tiến hành mua bán ngoại hối cho

khách hàng hay cho chính ngân hàng nhằm mục tiêu kiếm lợi nhuận do tỷ giá ngoại

tệ hay giá vàng biến động, ngân hàng đang mở trạng thái ngoại hối trường hay

đoản, khi đó rủi ro ngoại hối sẽ xảy ra khi tỷ giá ngoại tệ hay giá vàng biến động

ngược với trạng thái ngoại hối mà ngân hàng đang nắm giữ.

Khía cạnh thứ hai của rủi ro hối đoái mà các Ngân hàng phải đối mặt là sự

không cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ đối với từng loại ngoại tệ hay vàng.

Tài sản có bằng ngoại tệ hay vàng là các khoản mục trên bảng tổng kết tài sản như

các khoản cho vay bằng ngoại tệ hay vàng, các chứng khoán bằng ngoại tệ, tiền gửi

bằng ngoại tệ hay vàng ở Ngân hàng khác, tiền mặt bằng ngoại tệ, vàng, v.vv... Tài

sản nợ bằng ngoại tệ hay vàng là các khoản mục trên bảng tổng kết tài sản như phát

hành các chứng chỉ tiền gửi bằng ngoại tệ/vàng, phát hành trái phiếu châu Âu, và

các hình thức huy động vốn khác bằng ngoại tệ hay vàng.

Do tính chất toàn cầu hóa, thị trường tài chính đã tạo ra những khả năng to

lớn để tăng nguồn vốn của các Ngân hàng bằng các ngoại tệ khác nhau. Đây là lợi

thế to lớn không những đa dạng hóa nguồn vốn và sử dụng vốn bằng các ngoại tệ,

109

mà còn tạo ra những cơ hội để tăng được lợi tức đầu tư và giảm được chi phí huy

động vốn. Điển hình như tại NHTM Việt Á, vào ngày 5/10/2010, chúng ta có một

bảng cân đối tài sản rút gọn như sau:

Tài sản có Tài sản nợ

Tín dụng cho các công ty Việt Nam: Phát hành chứng chỉ tiền gửi: 2.000 tỷ

1.000 tỷ VND VND

(bằng VND, kỳ hạn 1 năm) (bằng VND, kỳ hạn 1 năm)

Tín dụng cho các công ty nước ngoài:

1.000 tỷ VND

(bằng USD, kỳ hạn 1 năm)

Cộng: 2.000 tỷ VND Cộng: 2.000 tỷ VND

Trong bảng cân đối này, toàn bộ tài sản nợ của Ngân hàng là bằng VND,

nhưng chỉ đầu tư 50% vào tài sản có bằng VND và 50% còn lại là đầu tư bằng

USD. Vì kỳ hạn của tài sản nợ và tài sản có đều là 1 năm, cho nên thời lượng trung

bình của tài sản có và tài sản nợ là cân xứng với nhau, nhưng trạng thái ngoại tệ của

các đồng tiền lại không cân xứng với nhau. Mức lãi suất trả cho chứng chỉ tiền gửi

bằng VND, kỳ hạn 1 năm là 8%; mức lãi suất tín dụng bằng VND, kỳ hạn 1 năm,

không có rủi ro (tín phiếu kho bạc) chỉ là 10%. Chúng ta thấy rằng, nếu Ngân hàng

đầu tư vào tài sản có chỉ bằng đồng bản tệ, thì chỉ được hưởng mức chênh lệch lãi

suất đầu vào đầu ra là +2% (10% - 8%). Nhằm đơn giản trong quá trình tính toán,

chúng ta giả sử rằng, khoản tín dụng cho các công ty nước ngoài bằng USD không

có rủi ro, mức lãi suất là 15%/năm. Muốn đầu tư cho các công ty nước ngoài bằng

USD, trước hết Ngân hàng phải chuyển hóa 50% của 2.000 tỷ VND thành USD

 Tại thời điểm đầu năm, bán 1.000 tỷ VND để lấy USD. Tỷ giá giao ngay lúc

theo tỷ giá giao ngay, và tiến hành cho vay theo các bước giao dịch như sau:

bấy giờ là: 1 USD = 20.385 VND, ta có: 1.000.000 : 20.385 ≈ 49,06 triệu

USD.

110

 Cho các công ty nước ngoài vay 49,06 triệu USD, kỳ hạn một năm, lãi suất

 Tại thời điểm cuối năm (tín dụng đến hạn) thu được cả gốc lẫn lãi là:

15%/năm.

 Chuyển hóa số lượng 56,42 triệu USD thu được thành VND theo tỷ giá giao

49,06 (1 + 0,15) = 56,42 triệu USD.

ngay tại thời điểm cuối năm. Tỷ giá giao ngay tại thời điểm cuối năm 2010

không thay đổi, tức là 1 USD = 20.385 VND, số lượng VND thu được là:

56,42 x 20.385 = 1.150 tỷ VND.

Tỷ lệ lợi tức đầu tư là:

(1.150 - 1.000)/l .000 = 0,15 hay 15%.

Tỷ lệ lợi tức đầu tư cho cả danh mục tài sản có được tính là:

(0,5 x 0,10) + (0,5 x 0,15) = 0,125 hay 12,5%.

Đến đây, chúng ta thấy rằng, mức lợi tức đầu tư của toàn bộ danh mục tài sản

có lớn hơn 4,5% (12,5% - 8%) so với chi phí huy động vốn, và lớn hơn 2,5% so với

đầu tư bằng nội tệ (VND).

Tuy nhiên, nếu giá trị của USD tăng so với VND vào thời điểm cuối năm, thì

tỷ lệ lợi tức từ khoản cho vay bằng USD sẽ còn cao hơn; và ngược lại, nếu giá trị

của USD giảm so với VND vào thời điểm cuối năm, thì tỷ lệ lợi tức từ khoản cho

vay bằng USD sẽ giảm, cho dù mức lãi suất cho vay vẫn không thay đổi là

15%/năm. Giả sử tỷ giá thay đổi từ 1 USD = 20.385VND tại thời điểm đầu năm

giảm còn 1 USD = 19.181VND tại thời điểm cuối năm, chúng ta tính số lượng

VND thu được cả gốc và lãi là:

56,42 x 19.181 = 1.082 tỷ VND

Tỷ lệ lợi tức của khoản cho vay bằng USD sẽ là:

(1.082 - 1.000)/1.000 = 0,082 hay 8,2%/năm.

Tỷ lệ lợi tức cho cả danh mục tài sản có là:

(0,5 x 0,10) + (0,5 x 0,082) = 0,091= 9,1%/năm.

Như vậy, Ngân hàng thực sự chỉ còn lời 1,1% (9,1% - 8%), hay mức chênh

lệch giữa lãi suất cho vay hỗn hợp và lãi suất huy động vốn là 1,1%; đồng thời, kết

111

quả đầu tư thông qua bằng ngoại tệ là thấp hơn nhiều so với mua trái phiếu kho bạc

bằng nội tệ.

Nguyên nhân làm cho Ngân hàng không có lãi nhiều là do USD giảm giá so

với VND, đã làm gần như triệt tiêu sự hấp dẫn bởi mức lãi suất cho vay bằng USD

cao hơn so với đồng nội tệ. Kết quả là, rủi ro do tỷ giá biến động có thể làm triệt

tiêu thu nhập, thậm chí là lỗ đối với một danh mục tài sản bằng ngoại tệ.

Ngược lại, nếu USD tăng giá so với VND, ví dụ từ 1 USD = 20.385 VND

tăng lên 1 USD = 20.955 VND, thì lượng VND gốc và lãi thu được trong trường

hợp này là: 56,42 x 20.955 = 1.182 tỷ VND.

Mức lợi tức tương ứng là 18,2%/năm.

Trong trường hợp này, Ngân hàng thu được lợi tức kép từ cho vay bằng

USD, bao gồm lãi suất cho vay và phần lên giá của USD so với VND sau một năm

đầu tư. Mức lợi tức chung cho cả danh mục đầu tư sẽ là:

(0,5 x 0,10) + (0,5 x 0,182) = 0,141 = 14,1%/năm

Trên thực tế, Ngân hàng không thể biết trước được tỷ giá giao ngay

USD/VND biến động như thế nào tại thời điểm tín dụng đến hạn, trong khi đó trạng

thái ngoại tệ của Ngân hàng là trường ròng 1.000 tỷ quy VND (hay 49,06 triệu

USD) chịu rủi ro ngoại tệ. Như chúng ta đã phân tích phần trên, 50% khoản tín

dụng bằng USD có thể có mức lợi tức 18,2% nếu USD lên giá từ 1 USD =

20.385VND lên 1 USD = 20.955VND; ngược lại, mức lợi tức tín dụng bằng USD

cũng chỉ có thể là 8,2% nếu USD giảm giá xuống 1 USD = 19.181VND.

Trong thời gian vừa qua từ năm 2007 đến 2012, hầu hết các hoạt động kinh

doanh vàng tại các NHTM cổ phần tại TP.HCM được thực hiện dưới hình thức:

 Mua bán cho khách hàng hưởng chênh lệch giữa giá bán và giá mua vào,

 Cân đối trạng thái các giao dịch phái sinh vàng từ khách hàng với các đối tác

ngân hàng nước ngoài,

 Mua vàng trên tài khoản quốc tế và bán vàng vật chất trong nước khi giá

vàng trong nước cao hơn giá vàng quốc tế,

 Ngân hàng mua vàng vật chất trong nước và bán vàng trên tài khoản quốc tế.

112

Các ngân hàng rất hiếm khi đầu tư trạng thái mở vàng để đầu cơ giá

lên/xuống hay giữ lại các giao dịch phái sinh vàng từ khách hàng. Do đó, hầu như

trong lĩnh vực kinh doanh vàng, các ngân hàng rất khó gặp rủi ro, ngoại trừ hai

trường hợp sau:

 Khi ngân hàng thực hiện mua vàng tài khoản quốc tế và bán vàng vật chất

trong nước theo chỉ đạo của NHNN nhằm tăng thanh khoản tiền VND như

thời gian qua. Sau đó, NHNN yêu cầu các ngân hàng đóng tài khoản vàng

quốc tế và mua lại vàng vật chất trong nước để tất toán các tài khoản huy

động vàng tại ngân hàng. Đây chính là yếu tố chính tạo ra các khoản lỗ cho

các NHTM cổ phần tại TP.HCM trong thời gian qua trong mảng kinh doanh

vàng (theo biểu đồ 2.2 đến 2.5 trên).

 Khi ngân hàng thực hiện mua vàng tài khoản quốc tế và bán vàng vật chất

trong nước nhằm hưởng chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế khi giá

vàng trong nước cao hơn giá vàng quốc tế hay trường hợp ngược lại. Rủi ro

xảy ra khi mà trong thời gian dài giá vàng trong và ngoài nước không thay

đổi. Rủi ro này được phân tích rất kỹ trong phần thực trạng quản lý rủi ro

kinh doanh vàng của các NHTM cổ phần tại TP.HCM bên dưới.

2.3. THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI

HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM

Hoạt động KDNH diễn ra hàng ngày tại các NHTM cổ phần trên địa bàn

TP.HCM mang lại lợi nhuận đáng kể, song song đó là rủi ro luôn tiềm ẩn, và rủi ro

chính yếu phát sinh trong hoạt động kinh doanh vàng và ngoại tệ. Các NHTM vẫn

có các giải pháp để quản lý rủi ro này, tuy nhiên tùy theo loại hình KDNH thì mức

độ và thực trạng quản lý rủi ro có khác nhau.

Hoạt động kinh doanh vàng tại các NHTM thông thường bao gồm: kinh

doanh vàng vật chất, kinh doanh vàng tài khoản và xuất nhập khẩu vàng. Hoạt động

kinh doanh ngoại tệ bao gồm các giao dịch ngoại tệ tiền mặt và các giao dịch phái

sinh ngoại tệ.

113

2.3.1 Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng

2.3.1.1 Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng vật chất

Trong hoạt động kinh doanh vàng, giao dịch vàng vật chất là truyền thống và

phổ biến nhất. Các giao dịch vàng của người Việt Nam đã tồn tại từ lâu đời và đã

trở thành một phương thức để dành tài sản từ xa xưa. Đối với người dân ở nhiều

nước, vàng là một dạng tiền tệ, lưu giữ giá trị, vàng giúp người dân tự bảo vệ mình

trước sự lạm dụng của NHTW các nước khi các đơn vị này có chính sách cung tiền

làm giá trị các đồng nội tệ giảm giá mà bản thân người dân không kiểm soát được.

Tại Việt Nam, hiện nay phần lớn người dân mua vàng là để đầu cơ giá vàng, tuy

nhiên, từ đầu năm 2010, do việc kinh doanh vàng tài khoản trong nước và quốc tế bị

cấm, nên hoạt động đầu cơ giá vàng của người dân buộc phải thực hiện thông qua

việc trao đổi lượng vàng vật chất tương ứng với các cửa hàng trung gian ngày càng

rầm rộ. Quá trình trao đổi vàng vật chất qua lại này không những làm tăng chi phí

giao dịch cho những người đầu cơ, mà còn khiến cho hoạt động đầu cơ vàng gắn

với dòng dịch chuyển ngoại tệ khi có dòng vàng vật chất chuyển dịch vào và ra khỏi

biên giới Việt Nam. Đặc biệt vào những tháng cuối năm 2011, thanh khoản trong hệ

thống Ngân hàng bị khan hiếm, NHNN đã khuyến khích các NHTM bán vàng từ

các nguồn huy động hay từ nguồn vốn riêng của các Ngân hàng ra để chuyển sang

tiền VNĐ để hỗ trợ thanh khoản vào cuối năm. Để tránh rủi ro biến động giá vàng

và làm phát sinh các khoản lỗ cho các NHTM, NHNN đã cho các NHTM mua lại

vàng tài khoản quốc tế sau khi đã bán số vàng vật chất trong nước. Đây không phải

là lần đầu tiên các NHTM thực hiện các giao dịch này, từ những năm 2006, một số

NHTM tại TP.HCM đã thực hiện các giao dịch đối ứng này để tạo kinh doanh

chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế như Ngân hàng Việt Á, Sacombank,

Eximbank, ACB.

Tuy nhiên hoạt động kinh doanh này cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Kể từ

trước ngày còn hiệu lực của Thông tư 01/2010/TT-NHNN ngày 06 tháng 01 năm

2010 bãi bỏ Quyết định số 03/2006/QĐ-NHNN ngày 18/01/2006 về việc kinh

doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài và Quyết định số 11/2007/QĐ-NHNN ngày

114

15/03/2007 về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 03/2006/QĐ-NHNN và sau ngày

hiệu lực của Thông tư 32/2011/TT-NHNN ngày 06 tháng 10 năm 2011 sửa đổi, bổ

sung một số điều của Thông tư số 11/2011/TT-NHNN ngày 29/4/2011 của NHNN

Việt Nam quy định về chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng của TCTD,

Ngân hàng đã tiến hành kinh doanh chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế

nhằm hưởng lợi nhuận tuy về hình thức là làm giảm chênh lệch giữa giá vàng trong

nước và quốc tế và tạm thời không phải tốn ngoại tệ (USD) để nhập vàng về theo

tinh thần Thông tư 32 của NHNN. Tuy nhiên, các hoạt động này của NHTM cũng

đang ngầm chứa nhiều rủi ro mà các phòng ban có trách nhiệm của Ngân hàng

(phòng KDNH, phòng Quản lý rủi ro, Kiểm tra kiểm soát nội bộ, Văn phòng Tổng

giám đốc, Văn phòng Hội đồng quản trị,....) chưa chắc đã nhận diện được hết. Mục

đích của NHNN trong Thông tư 32, ngoài việc hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống

Ngân hàng và thị trường vào những tháng cuối năm 2011, là việc kéo giảm độ

chênh lệch giữa giá vàng trong nước và quốc tế (giá vàng trong nước cao hơn giá

vàng thế giới). NHNN đã cho phép các NHTM được phép chuyển đổi vàng tồn quỹ

thành tiền và mở tài khoản vàng ở nước ngoài. Tuy nhiên, NHTM chỉ được chuyển

đổi tối đa 40% lượng vàng tồn quỹ thành tiền tại thời điểm nộp hồ sơ xin chuyển

đổi vàng tồn quỹ và mở tài khoản vàng ở nước ngoài. NHTM được thực hiện mua

vàng vật chất tại thị trường trong nước để bù đắp lượng vàng tồn quỹ đã chuyển đổi

thành tiền theo văn bản cho phép chuyển đổi của NHNN. Trường hợp NHTM gặp

khó khăn trong việc mua vàng vật chất bù đắp lượng vàng tồn quỹ đã chuyển đổi

thành tiền tại thị trường trong nước, NHNN sẽ xem xét cho phép nhập khẩu vàng để

bù đắp lượng vàng tồn quỹ đã chuyển đổi. Với việc làm này, NHTM đang phải

gánh chịu nhiều rủi ro.

Như trường hợp vào ngày 10/10/2011 tại Ngân hàng Sacombank, phòng

KDNH đã thực hiện hai giao dịch cùng lúc, đó là các dealer đã mua của đối tác

nước ngoài HSBC Hongkong thông qua mạng Reuters với số lượng 500 kg vàng

trên tài khoản với giá giá là 1.585 USD/oz (với giá USDVNĐ trên thị trường

interbank lúc bấy giờ 21.700), một giao dịch khác với một đối tác trong nước là

115

DNTN A cùng với số lượng 500kg vàng SJC (tương đương 500 * 26,666 = 13.333

lượng vàng SJC) với giá 43.900.000 đồng/lượng. Với giao dịch trên đây, giả định

các chi phí để Sacombank nhập lượng vàng trên từ Hongkong về Việt Nam là

400.000 đồng /lượng, thì Sacombank ước tính có lợi nhuận gần:

500 * 26,666 * (43.900.000 – (1.585/0,833 * 21.700 + 400.000)) = 29.467.049.972 đồng

Với giao dịch trên với phía quốc tế, Sacombank sẽ dự kiến chi ra nếu lấy hết

số vàng 500kg với đối tác HSBC Hongkong là: 500*32.1507*1585 = 25.479.429,75

USD, tức là Sacombank đang giữ trạng thái đoản USD là 25.479.429,75 và thời

gian thực hiện là T+2 (tức là tối đa 2 ngày phía HSBC và Sacombank phải thực hiện

giao dịch này, trừ khi hai bên mong muốn kéo dài chưa thực hiện hợp đồng này qua

giao dịch swap). Còn ở phía Việt Nam, Sacombank đã bán 500 * 26,666 = 13.333

lượng vàng SJC và thu về 13.333 * 43.900.000 = 585.318.700.000 đồng, và giao

dịch này thường được Sacombank và DNTN A thực hiện ngay trong ngày hoặc là

chỉ có thể kéo dài thêm tối đa 1-2 ngày.

Khi thực hiện các giao dịch trên, phía Sacombank đã phải chịu sáu loại rủi ro

sau mà hầu như chưa có giải pháp phòng ngừa hữu hiệu:

Thứ nhất: Khi thực hiện giao dịch quốc tế với HSBC, trạng thái ngoại tệ cuối

ngày của Sacombank đã phát sinh trạng thái ngoại tệ đoản tương đương với

25.479.429,75 USD (giả định số dư các ngoại tệ khác cuối ngày bằng không). Rủi

ro sẽ phát sinh nếu tỷ giá USDVNĐ tăng lên trên 21.700. Tỷ giá USDVNĐ tại Việt

Nam trong những năm qua thường có xu hướng tăng và do đó rủi ro về tỷ giá luôn

rình rập hoạt động của Ngân hàng. Nếu tỷ giá tăng ít thì phần lỗ đó chỉ là chi phí

của Ngân hàng, nhưng nếu tỷ giá tăng đột biến thì thất thoát của Ngân hàng sẽ rất

lớn. Thông thường sau khi thực hiện xong giao dịch trên hoặc vào cuối ngày thì các

Ngân hàng xem xét trạng thái ngoại tệ của mình có vượt quá +/-30% vốn tự có theo

quy định của NHNN hay không (tỷ lệ này còn là +-20% kể từ ngày 2/5/2012 theo

thông tư số 07/2012/TT-NHNN ngày 20/03/2012 quy định về trạng thái ngoại tệ

của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài). Nếu vượt quá tỷ lệ trên các Ngân

hàng vào cuối ngày phải mua lại trên thị trường interbank hay nâng giá mua USD

116

để mua USD vào từ các doanh nghiệp hay cá nhân trong nước (tất nhiên là chỉ vào

cuối ngày, còn trong ngày có vượt quá tỷ lệ trên thì cũng chưa vi phạm quy định của

NHNN. Đây cũng là nhược điểm của quy định về trạng thái ngoại tệ hiện nay của

NHNN). Do đó, các Ngân hàng phải luôn cảnh giác với loại rủi ro này và cần có

một hệ thống quản lý rủi ro tốt trong nội bộ Ngân hàng.

Thứ hai: Sacombank có một số lựa chọn nguồn khi bán vàng, chủ yếu tập

trung vào ba nguồn chính là từ huy động vàng của tổ chức/cá nhân, vốn tự có, hay

là từ nguồn mà Ngân hàng tự đầu tư. Trong ba nguồn này, thường Ngân hàng lấy

nguồn vốn vàng từ huy động của doanh nghiệp hay cá nhân để bán. Ngân hàng gặp

rủi ro ngay nếu đến hạn rút vàng của khách hàng mà Ngân hàng không đủ thanh

khoản vàng. Trước đây loại rủi ro này ít gặp là do Ngân hàng thiếu thanh khoản

vàng, thì có thể tăng lãi suất huy động vàng lên hoặc cấp tốc cầu cứu NHNN xin

quota nhập khẩu vàng. Nhưng hiện nay tình hình đã thay đổi khi mà NHNN đã

không còn cho huy động vàng (Thông tư 11/2011/TT-NHNN ngày 29/04/2011 và

sau đó là thông tư 12/2012/TT-NHNN gia hạn đến ngày 25/11/2012) và rất hạn chế

cấp quota nhập khẩu vàng. Cũng vì chạy theo thời hạn quy định trong thông tư

12/2012/TT-NHNN, Ngân hàng ACB vừa qua đã lỗ 1.144 tỷ đồng cho nghiệp vụ

kinh doanh vàng (Cao Sơn (2012)).

Thứ ba: Rủi ro khác mà Ngân hàng gặp phải là cạn kiệt thanh khoản vàng

riêng lẽ từ phía một Ngân hàng. Theo thông tư 11 và thông tư 12 về việc chấm dứt

huy động vàng của TCTD, khi Ngân hàng thiếu thanh khoản vàng thì Ngân hàng

không thể tăng lãi suất để huy động vàng như trước nữa mà chỉ còn trông chờ vào

sự trợ giúp của NHNN khi NHTM gặp khó khăn mua vàng vật chất để bù đắp lượng

vàng tồn quỹ đã chuyển đổi thành tiền (theo Thông tư 32). Nhưng việc cạn kiệt

thanh khoản vàng này là của riêng Sacombank, do đó phải chờ sự xét duyệt của

NHNN về trường hợp riêng lẽ này, và thời gian chờ đợi này là không xác định được

dễ dàng. Thực tế đã chứng minh rất rõ trường hợp này trong những tháng của quý

3/2012, NHNN không cho phép nhập khẩu vàng để giải cứu cho các khoản lỗ của

NHTM.

117

Thứ tư: Đối với giao dịch bán vàng trong nước, khi tiền VNĐ về thì Ngân

hàng cho vay hoặc đi gởi liên Ngân hàng. Trước đây, với hai loại giao dịch này thì

Ngân hàng rất ít khi gặp rủi ro (nợ quá hạn hay Ngân hàng đối tác chậm trả trên

interbank). Hiện nay trong điều kiện nền kinh tế trong và ngoài nước đang gặp khó

khăn chung, khi cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp hay cá nhân, tỷ lệ nợ quá

hạn đã tăng lên đáng kể, có một số trường hợp khách hàng không trả được nợ (theo

Báo cáo của NHNN đến tháng 10/2012, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng

Việt Nam đã xấp xỉ 8,3%). Khi Ngân hàng giao dịch trên thị trường liên Ngân hàng,

trong điều kiện thanh khoản căng thẳng đặc biệt là vào các dịp cuối năm thì Ngân

hàng đối tác thường kéo dài thời hạn trả nợ tuy hợp đồng thanh toán đã đến hạn.

Ngân hàng không thể xem thường các khả năng này trong hệ thống quản trị rủi ro

của mình.

Thứ năm: Sacombank đã duy trì trạng thái trên kể từ ngày 10/10/2011 đến

nay do chưa có sự đảo chiều giữa giá vàng trong nước và quốc tế. Giá vàng trong

nước vẫn còn cao hơn giá vàng quốc tế. Nếu đóng trạng thái vàng đã mở này, thì

Sacombank sẽ bị lỗ ngay trong khi lợi nhuận của các giao dịch trên thì đã được hạch

toán vào năm 2011. Do đó loại rủi ro thứ năm gặp phải là thời gian để chênh lệch

giá vàng trong nước và quốc tế đảo chiều ngược lại so với lúc mở trạng thái tháng

10/2011, chắc chắn Ngân hàng không thể tính được việc này. Bên cạnh đó, trong

trường hợp chưa thể đóng được hai giao dịch đã mở từ năm 2011, Ngân hàng sẽ

phải thanh toán chi phí gì và khi nào thì đạt được điểm hòa vốn ??? Hiện nay các

Ngân hàng khi mở trạng thái trên đều có một phần nhận biết được các loại rủi ro

này, nhưng vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu để phòng và chống rủi ro đó. Các chi

phí cho hai giao dịch trên bao gồm:

 Chi phí Ngân hàng phải trả cho điểm Swap để kéo dài việc thực hiện giao

dịch trên với HSBC Hongkong. Về phương diện hạch toán kế toán, để gia

hạn hợp đồng trên với đối tác nước ngoài thì phía Sacombank phải thực hiện

cùng lúc hai giao dịch là một giao dịch Spot bán vàng tài khoản quốc tế và

mua USD trên tài khoản quốc tế và một giao dịch Forward mua vàng tài

118

khoản quốc tế và bán USD trên tài khoản quốc tế trong kỳ hạn 1 ngày. Với

giao dịch này, phía Sacombank sẽ nhận lãi vàng và trả lãi USD trên tài khoản

quốc tế. Thông thường lãi suất USD trên thị trường thế giới cao hơn lãi suất

vàng. Cho nên, mỗi ngày thực hiện giao dịch Swap, phía Sacombank phải trả

chi phí điểm Swap này.

 Chi phí cho việc huy động để có nguồn vàng để bán trong nước hay chi phí

cơ hội mà Ngân hàng phải bỏ ra nếu đó là từ nguồn vốn tự có hay mua để

đầu cơ.

 Chi phí cơ hội cho việc sử dụng VNĐ để mua USD trong việc giảm trạng

thái đoản USD do mua vàng quốc tế.

 Chi phí ký quỹ USD ở tài khoản nước ngoài trong việc đảm bảo cho giao

dịch mua vàng tài khoản với HSBC Hongkong.

 Chi phí phát sinh nếu đóng hai giao dịch đã mở tháng 10/2011 mà bị lỗ (do

giá vàng trong nước vẫn duy trì cao hơn giá thế giới và bị bắt buộc phải đóng

giao dịch).

Từ việc dự liệu được các loại chi phí trên, Ngân hàng cần xác định điểm hòa

vốn cho hai giao dịch đã mở tháng 10/2011. Điểm hòa vốn được xác định trên cơ sở

lợi nhuận có được lúc bắt đầu giao dịch trong nước và quốc tế, các chi phí đã phát

sinh trong quá trình còn duy trì các giao dịch đã xác lập và chi phí (nếu có) lúc đóng

các giao dịch đã mở. Các phòng ban có trách nhiệm cùng nhau theo dõi, lập kế

hoạch, báo cáo thường xuyên và định kỳ cũng như cảnh báo ngay cho các phòng

ban có liên quan và lãnh đạo Ngân hàng nếu có những trường hợp phát sinh trong

dự liệu và đột biến.

Thứ sáu: Rủi ro cuối cùng phát sinh là do sự thay đổi nhanh của các chính

sách từ NHNN và Chính phủ nằm ngoài sự dự liệu của Ngân hàng. Điển hình như

bãi bỏ việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài trong Thông tư

01/2010/TT-NHNN hoặc không cho nhập vàng trên tài khoản nước ngoài về khi

thanh khoản vàng của Ngân hàng bị cạn kiệt, vì việc nhập khẩu vàng làm hao tốn

119

nhiều ngoại tệ của quốc gia và làm cho tỷ giá ngoại tệ trong nước biến động thất

thường gây rủi ro cho các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.

Trong trường hợp ngược lại tức là khi giá vàng trong nước thấp hơn giá vàng

thế giới, chúng ta cũng làm các phân tích tương tự như trên để nhận diện đầy đủ các

rủi ro và chi phí phát sinh. Từ đó đưa chúng vào trong quá trình hoạch định, tổ

chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc cùng với sự phối hợp nỗ lực của cả tập thể

cùng tham gia vào hoạt động chung để đạt mục tiêu với hiệu quả cao nhất. Hàng

ngày, phòng Quản lý rủi ro tại Hội sở Sacombank, vẫn luôn có cảnh báo, nhắc nhở

đến phòng KDNH và báo cáo nhanh lên Ban Tổng giám đốc về các diễn biến bất lợi

cho các giao dịch mà phòng Kinh doanh đã thực hiện. Tuy nhiên, việc làm này vẫn

còn mang tính đối phó và chưa thực sự hiệu quả trong công tác quản lý và phòng

ngừa rủi ro ngoại hối của NHTM.

Khi nhìn sang các NHTM cổ phần khác tại TP.HCM như ngân hàng ACB

hay Việt Á hay Eximbank thì các ngân hàng này vẫn thực hiện các giao dịch mua

bán vàng vật chất trong nước, cùng lúc đó là họ thực hiện bán mua đối ứng với tài

khoản vàng tại nước ngoài tương tự như các giao dịch trên của Sacombank. Cũng

với các giao dịch giống nhau về bản chất đó, các ngân hàng này vẫn không có các

giải pháp quản lý rủi ro một cách chặt chẽ, các báo cáo quản lý rủi ro KDNH vẫn

mang tính đối phó, các phòng ban vẫn thờ ơ về mức độ rủi ro của các giao dịch mà

mình đang thực hiện và quản lý, các cảnh báo cũng như các giải pháp quản lý rủi ro

định lượng như mô hình VaR chỉ mang tính tham khảo.

Do đó, các giải pháp quản lý rủi ro trong kinh doanh vàng vật chất tại các

NHTM cổ phần TP.HCM còn rất sơ sài, đối phó, còn mang nặng định tính hơn là

định lương. Đa phần các báo cáo rủi ro cho các giao dịch kinh doanh vàng vật chất

chỉ mang tính tham khảo và rất ít thông tin.

2.3.1.2 . Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản

Bên cạnh hoạt động kinh doanh vàng vật chất phổ biến và mang tính truyền

thống như đã trình bày ở trên, kinh doanh vàng tài khoản vẫn là lĩnh vực cũng chứa

120

đựng nhiều rủi ro cho hoạt động của các NHTM và gây nhiều bất ổn đến chính sách

quản lý kinh tế của Chính phủ. Giao dịch vàng tại sàn vàng của các NHTM là sản

phẩm kinh doanh mạo hiểm. Nhà đầu tư phải ký quỹ một lượng tiền rất nhỏ (thông

thường là 7%) giá trị giao dịch, số còn lại được Ngân hàng cho vay, như vậy nhà

đầu tư có thể thực hiện lệnh mua/bán gấp hơn 14 lần vốn tự có. Hàng ngày, nhà đầu

tư đặt mua/hoặc bán, tức mở trạng thái giao dịch và đóng trạng thái đặt lệnh

bán/hoặc mua theo giá vàng từng thời điểm.Vào cuối ngày giao dịch, trường hợp

nhà đầu tư không đủ tiền/vàng để thanh toán cho các lệnh đã khớp, Ngân hàng sẽ tự

động cho nhà đầu tư vay, sau khi đã trừ đi tổng giá trị tiền/vàng mà khách hàng

đang có. Trên thực tế, việc kinh doanh sàn vàng hay kinh doanh vàng qua tài khoản

với nước ngoài, các NHTM đã đối mặt với những rủi ro sau:

 Rủi ro pháp lý: trong suốt gần 3 năm sàn vàng hoạt động, về phía Nhà nước

hầu như đã không có một văn bản pháp lý nào để kiểm soát hoạt động kinh

doanh trên sàn vàng, điều chỉnh mô hình hoạt động của các sàn vàng, cơ chế

giải quyết tranh chấp khi có phát sinh. Mọi quy chế, quy trình đều do Ngân

hàng tự ban hành. Hầu hết các văn bản và các hợp đồng giao dịch được soạn

theo hướng có lợi cho các Ngân hàng, nên quyền lợi của nhà đầu tư chưa

được bảo đảm thỏa đáng. Chính vì quyền lợi và nghĩa vụ không được đảm

bảo giữa hai bên, nên rủi ro tranh chấp pháp lý luôn rình rập hoạt động kinh

doanh sàn vàng của Ngân hàng.

 Rủi ro thị trường: có thể nói kinh doanh vàng là phải chấp nhận sự biến

động thất thường của vàng dưới tác động đa dạng của nhiều nhân tố có liên

quan như: tình hình kinh tế, chính trị, chiến tranh thế giới, giá dầu, giá ngoại

tệ,…. Trong nhiều trường hợp khi không cân đối được các trạng thái mua

bán giữa các khách hàng trong nước hoặc không cân đối kịp các giao dịch

của sàn trong nước và sàn nước ngoài, Ngân hàng sẽ gặp ngay các rủi ro về

biến động giá vàng.

 Rủi ro về kỹ thuật công nghệ: hệ thống công nghệ của các sàn vàng là do

các Ngân hàng tự thiết kế, tự trang bị và không có một sự ràng buộc pháp lý

121

nào về tiêu chuẩn của hệ thống công nghệ. Do đó vào các thời điểm số lượng

giao dịch lớn hay giá vàng biến động nhiều, hệ thống rất dễ bị sự cố sập

mạng và gây ra nhiều thiệt hại cho cả phía Ngân hàng và các nhà đầu tư.

 Rủi ro về trình độ: một số chuyên viên quản lý sản vàng chưa có đủ trình độ

để hỗ trợ hay quản lý tốt sản vàng, do đó dễ dẫn đến sự thua lỗ cho Ngân

hàng, trong khi điều kiện hoạt động cũng như trình độ tham gia của nhà đầu

tư kinh doanh vàng trên sàn ngày một nâng cao.

Qua những rủi ro trên, trong thời gian vừa qua, các NHTM tại TP.HCM đã

tiến hành xây dựng quy chế, quy trình kinh doanh vàng nhằm đảm bảo quyển lợi

của Ngân hàng và khách hàng; xây dựng giới hạn lỗ, dừng lỗ trong kinh doanh

vàng, hạn mức giao dịch được cấp cho từng dealer và cấp quản lý. Bên cạnh đó,

Ngân hàng đã tăng cường kiểm soát, gia tăng khả năng quản lý rủi ro của kiểm soát

nội bộ, kiểm toán nội bộ nhằm kịp thời ngăn chặn những rủi ro và hiện tượng tiêu

cực phát sinh đảm bảo an toàn cho NHTM trong kinh doanh vàng. Tận dụng tối đa

các nguồn thông tin, đối chiếu và chọn lọc các nguồn thông tin cung cấp cho các

nhà đầu tư. Tư vấn và hỗ trợ cho các nhà đầu tư kiến thức pháp lý, kỹ thuật kinh

doanh, khả năng dự đoán biến động giá vàng, sử dụng các công cụ phái sinh phòng

chống rủi ro khi giá vàng biến động. Kéo dài thời gian giao dịch của buổi tối đến 23

giờ nhằm phù hợp với diễn biến thời gian giá vàng thế giới. Đa dạng hóa các lệnh

cho các nhà đầu tư như: lệnh chốt lời và lệnh cắt lỗ như đã được nhiều sàn vàng

trước đây áp dụng. Từ những rủi ro xảy ra trong việc kinh doanh vàng vật chất cũng

như tại các sàn vàng của NHTM, và tại các nước trên thế giới, NHNN cần tham

mưu cho Chính phủ trong việc mở sàn vàng Quốc gia tập trung. Việc làm này sẽ có

những ích lợi như kiểm soát được lượng vàng trong dân, thu hút được tiền nằm dưới

dạng vàng trong dân và hướng nó vào phục vụ lợi ích kinh tế; đưa giá vàng Việt

Nam và thế giới cân bằng; kiểm soát được tỷ giá, giúp tỷ giá đi vào ổn định, hỗ trợ

nền kinh tế tăng trưởng, bởi vì việc chênh lệch giá vàng không còn thì nhu cầu buôn

lậu, gom USD sẽ bị triệt tiêu. Hơn nữa việc kinh doanh vàng tài khoản tại sàn vàng

Quốc gia tập trung, việc nhập vàng chính ngạch chỉ cần một số lượng vừa đủ để

122

dành cho trang sức là chính và hoạt động kinh doanh vàng sẽ trở nên ổn định. Kể từ

khi sàn vàng ngưng hoạt động, nhu cầu thực tế của nhà đầu tư vẫn rất lớn và bất

chấp rủi ro, họ đã và đang tham gia vào các sàn vàng phi chính thức, Nhà nước bị

thất thu thuế và hoạt động kinh doanh vàng tại các sàn phi chính thức không được

Nhà nước quản lý nên quyền lợi của nhà đầu tư không được bảo vệ.

Theo dự thảo sửa đổi Pháp lệnh Ngoại hối cũng như quy định chi tiết tại

Nghị định 24, hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài của người cư

trú được thực hiện nếu được Thủ tướng chính phủ cho phép và NHNN cấp giấy

phép. Thị trường vàng vẫn đang trong thời gian chờ đợi các bản dự thảo lấy ý kiến

của chuyên gia và của người dân về hoạt động và quản lý KDNH theo quy chuẩn,

nằm trong sự điều hành của Nhà nước và góp phần phát triển kinh tế nước nhà. Bản

dự thảo đã thể hiện rõ sự cân nhắc về mức độ an toàn trong hoạt động KDNH cho

các NHTM và cho toàn hệ thống ngân hàng được ưu tiên lên hàng đầu của các cơ

quan chức năng có thẩm quyền trong giai đoạn hệ thống quản lý rủi ro trong KDNH

của các NHTM vẫn còn rất yếu.

2.3.1.3 . Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu vàng

Trong thời gian vừa qua, một số NHTM cổ phần tại TP.HCM đã tham gia

việc xuất khẩu vàng ra nước ngoài khi giá vàng trong nước thấp hơn giá vàng thế

giới, đặc biệt là khi NHNN ngưng không cho các TCTD giao dịch vàng tài khoản

quốc tế. Hoạt động xuất khẩu vàng đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể, góp phần

giảm nhập siêu và giải phóng tình trạng “vàng hóa” nền kinh tế. Nhà nước hiện

đang có hai mục tiêu mâu thuẩn nhau: một mặt NHNN lo ngại xuất khẩu vàng sẽ

làm giảm nguồn vàng nên muốn giữ lại vàng trong dân, mặt khác NHNN lại có chủ

trương luôn muốn chống tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế, tức không khuyến

khích giữ vàng trong dân.

Trong một trường hợp khác, các NHTM khi bị cấm giao dịch vàng tài khoản

quốc tế và trạng thái vàng vật chất bị quá dư thừa trong nước, các NHTM có nhu

cầu tìm đường xuất khẩu vàng và cho thấy hầu như không NHTM nào muốn giữ lại

123

trạng thái dương của vàng, tức muốn chuyển giao rủi ro trạng thái này sang một

Ngân hàng khác ở nước ngoài.

Để hạn chế xuất khẩu vàng, ngày 15/11/2010 Bộ Tài chính đã ban hành

Thông tư 184/2010/TT-BTC (gọi tắt là Thông tư 184) liên quan đến biểu thuế xuất

nhập khẩu có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2011, để hưởng thuế suất 0%, sản phẩm vàng

xuất khẩu phải có hàm lượng vàng nhỏ hơn hoặc bằng 99% và trọng lượng nhỏ hơn

hoặc bằng 1 ounce, nếu không thuế suất sẽ là 10%, một kiểu hàng rào kỹ thuật chưa

có tiền lệ về chỉ số hàm lượng và chỉ số trọng lượng. Đây là một loại rủi ro chính

sách trong hoạt động xuất nhập khẩu vàng của NHTM. Có lẽ, Thông tư 184 nhắm

đến mục tiêu hạn chế xuất khẩu vàng hơn là thu thuế cho ngân sách. Nếu thế, nên

xem xét điều chỉnh giảm thuế suất 10% xuống còn 1% chẳng hạn, để mức thuế suất

danh nghĩa có sự hợp lý tương đối về mặt hình thức, tránh sự chênh lệch hai chiều

quá lớn giữa thuế nhập khẩu vàng 0% và thuế xuất khẩu vàng 10%. Khi Thông tư

184 có hiệu lực, trong 7 tháng đầu năm 2011 các Ngân hàng và doanh nghiệp xuất

khoảng 30 tấn vàng mang về khoảng 1,5 tỷ USD với tất cả các lô hàng xuất đều

thuộc diện áp thuế 0%. Thực tế đó cũng đủ để chứng minh rằng, không có doanh

nghiệp nào chịu nổi thuế suất 10%. Doanh nghiệp chỉ chờ cơ hội xuất khẩu theo

diện áp thuế 0% khi mức chênh lệch giá giữa giá trong nước và giá thế giới đủ lớn

để bù đắp một số chi phí liên quan đến lô hàng xuất như: chi phí chế biến hàm

lượng vàng, chi phí kiểm định vàng, chi phí chế tác, chi phí vận chuyển và bảo

hiểm, lãi vay Ngân hàng và các chi phí khác,...

Một rủi ro khác mà NHTM gặp phải khi xuất khẩu vàng là sự biến động giá

vàng quá nhanh và có thể làm cho Ngân hàng bị lỗ, tức là giá xuất khẩu vàng thấp

hơn giá thu mua vàng vật chất trong nước. Trên thực tế để quản trị các rủi ro của

quá trình xuất khẩu vàng, các NHTM thực hiện bán vàng tài khoản ở nước ngoài để

bảo hiểm số vàng vật chất đã mua. Về mặt kỹ thuật, bán vàng tài khoản cũng xem

như là “xuất khẩu tại chỗ” hay “xuất khẩu không giao hàng”. Lúc này, NHTM đang

nợ nước ngoài về vàng tài khoản và phải trả lãi vay vàng tài khoản cho đến khi xuất

khẩu vàng vật chất trả nợ hoặc mua vàng tài khoản tất toán trạng thái với nước

124

ngoài. Một cách khác là NHTM mua vàng vật chất vào làm tài sản và từ đó có thể

dùng số vàng này ký gửi làm tài sản đảm bảo để tiếp cận các nguồn vốn đa phương

cấp quốc gia hoặc cho các mục đích khác. Gửi vàng ra nước ngoài bao hàm một

hoạt động xuất khẩu đã diễn ra dù chưa bán đứt.

Nhìn trên góc cạnh vĩ mô của nền kinh tế, xuất khẩu vàng giúp thu hồi USD

và cuối cùng là VNĐ, giảm nhập siêu, xóa bớt tình trạng “vàng hóa” trong dân,

nhưng dự trữ chung của quốc gia sẽ giảm xuống trong khi Nhà nước chưa có cơ chế

mua vàng của dân hoặc sử dụng vốn vàng trong dân. Còn đối với nhập khẩu vàng,

hoạt động này sẽ tiêu tốn USD, gây áp lực lên tỷ giá USD/VNĐ, ảnh hưởng đến

chính sách tiền tệ và kinh tế vĩ mô, nhưng ta chưa có dự trữ vàng đủ lớn để can

thiệp thị trường khi có dấu hiệu tâm lý bất ổn. Trong quản lý, giá vàng thế giới biến

động ra sao không quan trọng, Nhà nước luôn mong muốn rằng giá trong nước liên

thông kịp thời, bám sát giá vàng thế giới. Rõ ràng, sự liên thông này rất quan trọng

vì giúp triệt tiêu động cơ xuất nhập khẩu vàng, mà không có xuất nhập khẩu vàng sẽ

không gây ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái, cụ thể không tăng cung USD do xuất

khẩu vàng và không tăng cầu USD do nhập khẩu vàng. Đó là rủi ro của hoạt động

xuất nhập khẩu vàng dưới khía cạnh quản lý Nhà nước.

Tại các NHTM hiện nay, việc quản lý rủi ro trên tỏ ra rất lỏng lẻo và hầu như

chưa có một quy định nào để quản lý hiệu quả rủi ro hoạt động xuất nhập khẩu vàng

này. Thực tế hoạt động xuất nhập khẩu vàng tại các NHTM với những rủi ro như

phân tích trên lại chưa có cách quản lý hiệu quả, tuy nhiên không thể vì những rủi

ro như vậy mà Nhà nước lại cấm loại hình giao dịch này.

2.3.2 Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ

2.3.2.1 . Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ phái sinh ngoại tệ

Còn đối với nghiệp vụ phái sinh ngoại tệ, nghiệp vụ tài chính phái sinh đã

xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 1990, chủ yếu là tại các Ngân hàng có giao

dịch với các Ngân hàng nước ngoài. Một số Ngân hàng lớn như: Vietcombank,

BIDV, Vietinbank,.... cũng đã triển khai chủ yếu các nghiệp vụ như: mua bán ngoại

125

tệ kỳ hạn, hoán đổi, hợp đồng tương lai, quyền chọn cho các doanh nghiệp có nhu

cầu sử dụng ngoại tệ và trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong thanh toán quốc tế. Tuy

nhiên, các sản phẩm công cụ phái sinh hiện nay tại các Ngân hàng còn ít, chưa thu

hút được các doanh nghiệp sử dụng, vì thế, thu nhập từ các công cụ phái sinh còn

chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu nhập của Ngân hàng.

Hiện nay dù có tham gia vào một số nghiệp vụ phái sinh nhưng hầu như các

NHTM tại TP.HCM chỉ chú ý đến việc mua bán ngoại tệ nhằm mục đích đáp ứng

cho thanh toán quốc tế, vay và cho vay ngoại tệ mà hầu như không thực hiện bảo

hiểm tỷ giá nên trong KDNH thì các NHTM đóng vai trò chủ yếu là trung gian giao

dịch để hưởng chênh lệch giá hơn là những nhà tạo lập thị trường. Chính vì lẽ đó,

các NHTM rất yếu về phân tích tỷ giá mà đặc biệt là rất yếu về phân tích kỹ thuật,

hầu như rất ít Ngân hàng sử dụng phân tích kỹ thuật như một công cụ hỗ trợ thêm

cho phân tích cơ bản trong phân tích tỷ giá. Đó cũng là lý do vì sao mà ít NHTM

mạnh về kinh doanh đầu cơ mà chủ yếu chỉ kinh doanh cho khách hàng nhằm

hưởng chênh lệch giá, cho nên, hầu như các NHTM giữ trạng thái tự doanh ngoại tệ

rất ít, và đa phần cũng mua bán các giao dịch phái sinh ngoại tệ trong nước với các

đối tác nước ngoài nhằm hưởng chênh lệch giá, tùy thuộc vào từng thời kỳ theo

quyết định của Hội đồng Quản trị và Ban Tổng giám đốc Ngân hàng. Từ đó rủi ro

xảy ra cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ mặt hay ngoại tệ phái sinh rất ít khi xảy ra

hoặc nếu có xảy ra thì cũng trong chừng mực kiểm soát được. Hoạt động tự doanh

của Ngân hàng cũng như việc thực hiện các giao dịch phái sinh của Ngân hàng hay

doanh nghiệp với doanh số rất ít trong thời gian vừa qua cũng xuất phát từ nhiều

nguyên nhân.

Trước hết, chúng ta nhận thấy rằng các nghiệp vụ phái sinh trên là các

nghiệp vụ hiện đại, phức tạp nên đòi hỏi đội ngũ nhân viên Ngân hàng phải có trình

độ chuyên môn cao mới có thể tư vấn cho các doanh nghiệp; đồng thời việc quảng

bá, giới thiệu của Ngân hàng đến doanh nghiệp chưa rộng rãi, nên doanh nghiệp

chưa biết hoặc không mặn mà với các dịch vụ mới về công cụ phái sinh của Ngân

hàng. Hơn nữa, tỷ giá USD/VNĐ đang có xu hướng ổn định trong những năm vừa

126

qua, đặc biệt là nữa năm đầu của năm 2010 và những tháng đầu năm 2012 cũng là

một lý do. Mặc dù tỷ giá USD/VNĐ biến động thường xuyên qua các năm theo

chiều hướng đồng Việt Nam có giá trị sụt giảm so với các đồng tiền nước ngoài,

nhưng trong suốt một quãng thời gian khá dài vừa qua, sự biến động này chỉ tăng

một chiều với biên độ hẹp nên nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá không được quan tâm

đến. Trên thực tế, áp lực tăng tỷ giá vẫn luôn hiện hữu và rủi ro tỷ giá trong tương

lai khó loại trừ, nhưng phần lớn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các Ngân hàng

vẫn chưa nhận diện được và chưa mặn mà với các công cụ phòng ngừa rủi ro. Cụ

thể trong thời gian qua, thị trường ngoại hối Việt Nam luôn rơi vào tình trạng khan

hiếm USD và tỷ giá USD/VNĐ không phải lúc nào cũng bình ổn, nửa cuối năm

2010 cho đến đầu 2011, tỷ giá USD/VNĐ đột ngột liên tiếp leo thang làm cho thị

trường ngoại hối ngày càng căng thẳng và rủi ro tỷ giá bắt đầu xuất hiện trở lại.

Tuy nhiên đến đầu năm 2009, do sự lợi dụng các sản phẩm phái sinh ngoại tệ

như kỳ hạn USD/VNĐ hay quyền chọn USD/VNĐ để giao dịch USD/VNĐ vượt tỷ

giá trần do NHNN quy định, nên NHNN đã cấm các giao dịch phái sinh này. Sau

nhiều năm liền chỉ lình xình trong khoảng 1%, tỷ giá USD/VNĐ đã thể hiện những

biến động lớn và căng thẳng, gây xáo trộn trên thị trường và trong hoạt động của

doanh nghiệp. Theo quy định, các NHTM chỉ được phép bán USD đúng với giá

niêm yết và theo biên độ cụ thể ở từng thời kỳ so với tỷ giá bình quân liên Ngân

hàng. Những thời điểm ngột ngạt, tỷ giá phi chính thức đã xuất hiện ngay trong lòng

hệ thống Ngân hàng, mà nghiệp vụ quyền chọn và kỳ hạn USD/VNĐ là một kẽ hở.

Tại những thời điểm thị trường ngoại hối căng thẳng, Ngân hàng và doanh nghiệp

chủ động chọn giao dịch quyền chọn kiểu Mỹ, tức thực hiện theo một tỷ giá thỏa

thuận và có thể đáo hạn ngay. Cơ chế này “nhẹ nhàng” lách qua quy định giao dịch

giao ngay phải đúng giá niêm yết. Để trám lại lỗ hổng đó, Ngân hàng Nhà nước đã

ban hành Công văn 4941/NHNN-QLNH ngày 1/7/2009 ghi rõ các TCTD không

được phép thu phí thông qua các hợp đồng dịch vụ và các hình thức khác như chi

trả hoa hồng, phí quản lý tiền mặt,… để bán vượt trần.

127

Theo dự thảo Thông tư hướng dẫn giao dịch hối đoái và Thông tư hướng dẫn

phạm vi hoạt động ngoại hối đang được lấy ý kiến từ tháng 3/2012, các sản phẩm

phái sinh nhiều khả năng sẽ được cho phép giao dịch trở lại với các điều kiện chặt

chẽ hơn các quy định trước của NHNN. Trong đó, bản dự thảo cũng đề cập đến các

nguyên tắc quản lý rủi ro cơ bản trong quản lý rủi ro KDNH mà các quy định trước

đây của NHNN không có. Ví dụ: Giao dịch quyền chọn chỉ được lựa chọn theo kiểu

châu Âu tức là chỉ được thực hiện giao dịch quyền chọn USD/VNĐ tại thời điểm

đáo hạn; kỳ hạn của các giao dịch dự kiến được xác định tối thiểu là 30 ngày đến

365 ngày. Còn đối với giao dịch kỳ hạn USD/VNĐ thì thời hạn thanh toán tối thiểu

đối với giao dịch kỳ hạn là 3 ngày làm việc sau ngày giao dịch.

2.3.2.2 . Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ mua bán ngoại tệ giao ngay

Trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng, giao dịch giao ngay

luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh số giao dịch ngoại tệ, trong khi giao dịch

phái sinh chưa phát triển nhiều. Trong tổng số giao dịch ngoại tệ giao ngay, mua

bán chuyển khoản chiếm tỷ trọng trên 90% doanh số, và các giao dịch bán ngoại tệ

của Ngân hàng chủ yếu là bán USD và đáp ứng phần lớn cho nhu cầu thanh toán

quốc tế và du học. Tuy nhiên trong thời gian qua, việc bán USD của Ngân hàng

luôn kèm theo phí dưới các hình thức khác nhau để bù khoản chênh lệch giá giữa tỷ

giá Ngân hàng và tỷ giá của thị trường phi chính thức (gọi là “phí bù lỗ tỷ giá”), do

vậy trong các trường hợp Ngân hàng bán USD cho doanh nghiệp hay cá nhân có

nhu cầu theo tỷ giá niêm yết (không thu thêm khoản phí nào) sẽ bị lỗ, đây cũng

chính là rủi ro của Ngân hàng trong giao dịch mua bán USD chuyển khoản. Do vậy

các Ngân hàng thường có sự lựa chọn mục đích sử dụng ngoại tệ của khách hàng để

bán, cụ thể đối với nhu cầu bán và chuyển tiền thanh toán du học, Ngân hàng sẽ bán

USD theo giá niêm yết, đồng thời thu thêm phí bù lỗ tỷ giá và khoản phí này được

cộng dồn vào phí chuyển tiền ra nước ngoài; đối với nhu cầu du lịch, công tác thì

hầu hết các Ngân hàng đều tìm cách từ chối giao dịch vì đây là giao dịch mua bán

ngoại tệ tiền mặt, Ngân hàng không thu thêm bất kỳ khoản phí nào nên không có lý

do để tăng thêm phí bù lỗ tỷ giá được. Nếu phân tích chi tiết giao dịch bán USD tiền

128

mặt thì Ngân hàng phải tốn rất nhiều chi phí: để có USD tiền mặt, đa số trường hợp

phải nhập khẩu từ nước ngoài với mức phí khoảng 0,05% số tiền nhập, để có mức

phí rẻ nhất thì phải nhập số lượng lớn, sử dụng dần trong nhiều tháng khiến một

lượng vốn bị tồn đọng không sinh lãi. Do vậy khi Ngân hàng bán USD tiền mặt theo

giá niêm yết sẽ không bù đắp được chi phí, đây là lý do khiến nhiều Ngân hàng từ

chối bán USD tiền mặt cho khách hàng.

Bên cạnh đó, nhu cầu mua ngoại tệ hiện nay chủ yếu của khách hàng là

USD, kể cả các doanh nghiệp xuất nhập khẩu các nước không phải là Mỹ hay khách

hàng đi du lịch đến nhiều nơi không sử dụng tiền USD. Lý do khách hàng chuộng

mua USD hơn các ngoại tệ khác vì tỷ giá này không biến động nhiều. Trong khi đó,

giá các loại ngoại tệ khác phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường thế giới, rủi ro cao

hơn. Ngoài ra, phần lớn người dân cũng không thích giữ ngoại tệ khác do có lãi suất

gửi tại các Ngân hàng cho các ngoại tệ này thấp hơn so với USD. Các Ngân hàng lại

hạn chế loại ngoại tệ gửi tiết kiệm cũng khiến người dân ngần ngại. Hiện nay, các

Ngân hàng hầu như chỉ nhận gửi tiết kiệm bằng USD và EUR. Do đó, các Ngân

hàng khi giao dịch ngoại tệ không phải USD cũng phải chịu rủi ro do các lý do trên.

Chính vì lẽ đó, để không phải bán USD bị lỗ, các Ngân hàng phải thu phí hay

mua bán USD thông qua một ngoại tệ thứ ba, hay phải mua bán USD thông qua một

hợp đồng kỳ hạn hay quyền chọn USD như đã đề cập ở các phần trên. Tuy nhiên,

hiện nay cả ba cách trên đều bị NHNN cấm thực hiện. Đến thời điểm tháng 8/2012,

NHNN đang lấy ý kiến cho bản dự thảo thông tư về các giao dịch hối đoái được

phép thực hiện, quy trình và phương thức quản lý rủi ro trên thị trường ngoại tệ. Rủi

ro kinh doanh ngoại tệ giao ngay của Ngân hàng vẫn còn cho đến khi tình trạng hai

tỷ giá ngoại tệ trên thị trường chấm dứt và việc “ưa chuộng” USD của khách hàng

cho các giao dịch ngoại tệ không còn tiếp diễn. Cho đến thời điểm tháng 8/2012,

chênh lệch giữa tỷ giá chính thức của Ngân hàng và thị trường phi chính thức hầu

như không còn, diễn biến thị trường ngoại tệ trầm lắng, nhu cầu của khách hàng có

thể được đáp ứng theo tỷ giá liên Ngân hàng (gần sát tỷ giá niêm yết của NHTM).

Tuy nhiên khi thị trường ngoại tệ sôi động, cung vượt quá cầu, chênh lệch hai tỷ giá

129

lại được mở ra, Ngân hàng gặp ngay khó khăn trong việc xác định tỷ giá mua bán

và rủi ro cho Ngân hàng lại tiếp tục xảy ra. Các NHTM và NHNN vẫn đang tìm

kiếm giải pháp để các giao dịch ngoại tệ trên thị trường diễn ra lành mạnh và

NHNN quản lý một cách hiệu quả thị trường.

2.4. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH

NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI

TP.HCM

2.4.1. Thành tựu

 Có ban hành các quy định về quản lý rủi ro trong KDNH trong nội bộ ngân

hàng.

 Tích cực thay đổi hệ thống cơ sở hạ tầng và mua thêm thiết bị nhằm tăng tính

hiệu quả của hoạt động KDNH.

 Tuân thủ các quy định quản lý rủi ro của NHNN và của chính ngân hàng.

 Thường xuyên nâng cao năng lực quản trị rủi ro của đội ngũ quản lý và thực

hiện các quy định quản lý rủi ro.

 Lập các bản tin về thị trường liên quan hoạt động KDNH để hỗ trợ cho

khách hàng và các bộ phận có liên quan trong ngân hàng.

 Tích cực tiếp thị và quản lý danh mục khách hàng.

2.4.2. Hạn chế

 Thiếu các quy định pháp luật cho hoạt động KDNH của ngân hàng.

 Tuân thủ các quy định của NHNN mang tính đối phó như về trạng thái ngoại

tệ, giao dịch option USD/VND, mua bán ngoại tệ với giá vượt trần quy định.

 Chạy theo lợi nhuận nên ít quan tâm đến các quy định về quản lý rủi ro đã

ban hành.

 Các biện pháp đo lường rủi ro về định lượng và định tính chỉ mang tính tham

khảo, thiếu sự cảnh báo và ngăn chặn kịp thời.

130

 Do hạn chế và chậm đầu tư về công nghệ thông tin, việc quản lý rủi ro trong

KDNH ít có tính liên thông trong hệ thống các phòng ban chức năng.

 Kiến thức của đội ngũ có chức năng thi hành các quy định về quản lý rủi ro

trong KDNH còn rất yếu, đặc biệt là đội ngũ nhân viên của phòng QLRR

trên Hội sở ngân hàng. Tuy có nhận diện được một phần các rủi ro có thể xảy

ra, nhưng chưa đủ khả năng thuyết phục Ban lãnh đạo ngân hàng về tính rủi

ro của các giao dịch đã đang thực hiện tại phòng KDNH.

 Công việc kinh doanh tại phòng KDNH được thực hiện rất thụ động ở cả các

bộ phận như kinh doanh, bán hàng, nghiên cứu sản phẩm mới.

 Đội ngũ phân tích và dự báo còn rất mỏng và yếu làm cho các giao dịch thiếu

cơ sở định lượng thuyết phục, chủ yếu các quyết định giao dịch mang tính

cảm tính nhiều.

 Hầu như không sử dụng các sản phẩm phái sinh cho các trạng thái ngoại hối

mở của ngân hàng để phòng ngừa rủi ro.

2.4.3. Nguyên nhân

 Các chính sách của Chính phủ và NHNN chậm được ban hành để theo kịp

các thay đổi của thị trường.

 Trong quá trình hội nhập và phát triển, mức độ cạnh tranh ngày càng cao làm

cho lợi nhuận các ngân hàng giảm đi nhiều. Do đó, để thực hiện chỉ tiêu lợi

nhuận theo kế hoạch, ngân hàng phải chấp nhận các hoạt động kinh doanh có

mức độ rủi ro cao hơn và làm cho quy trình quản lý rủi ro gặp nhiều khó

khăn.

 Lợi ích bị xung đột giữa hai phòng ban trong ngân hàng: phòng KDNH và

phòng QLRR. Phòng KDNH luôn muốn kinh doanh có được lợi nhuận cao

nhất, phòng QLRR là muốn hoạt động kinh doanh với mức độ an toàn cao

nhất cho ngân hàng. Do đó, các cảnh báo và phân tích về rủi ro của phòng

QLRR ít được đội ngũ kinh doanh phòng KDNH quan tâm. Từ đó, việc quản

lý rủi ro khó được thực hiện.

131

 Việc đầu tư hệ thống công nghệ thông tin tốn kém nhiều, nên các ngân hàng

rất ngại thay đổi và nâng cấp hệ thống hạ tầng tuy đã cũ kỹ.

 Đội ngũ nhân viên của phòng KDNH phải thực hiện quản lý cả hệ thống

KDNH của một ngân hàng, cho nên việc sắp xếp nhân sự để đi học và nâng

cao trình độ về KDNH và quản lý rủi ro rất khó thực hiện.

 Các sản phẩm phái sinh có liên quan đến USD/VND trên thị trường quốc tế

được giao dịch với thời gian ngắn, số tiền ít hơn so với nhu cầu của ngân

hàng cần phòng ngừa rủi ro và chi phí rất cao; từ đó làm cho ngân hàng phải

phải chấp nhận rủi ro với các giao dịch ngoại tệ trong nước. Với các sản

phẩm phái sinh khác, ngân hàng thường ngại chi phí cao; cho nên cũng ít

tham gia.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong những năm qua kể từ 2007 đến nay, nền kinh tế thế giới vẫn còn nhiều

diễn biến phức tạp như khủng hoảng nợ công Châu Âu còn nhiều di chứng nặng nề,

nhiều nước trong khu vực có mức nợ công/GDP chiếm trên 150%, nền kinh tế phát

triển chậm chạp; nền kinh tế Mỹ vẫn chưa thoát khỏi tình trạng khó khăn, thất

nghiệp liên tục qua nhiều năm trên 8%, thâm hụt ngân sách ngày càng trầm trọng;

các nền kinh tế ở Châu Á cũng chưa thoát khỏi tình trạng suy thoái chung của nền

kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam cũng còn rất nhiều khó khăn

và có ảnh hưởng một phần từ các nền kinh tế trên thế giới như lạm phát trong

những năm qua ở mức cao, có năm trên 15%, thâm hụt cán cân thương mại kéo dài

qua nhiều năm, tình trạng đôla hóa vẫn còn tiếp diễn chưa có dấu hiệu suy giảm, tín

dụng ngoại tệ tuy có giảm nhưng vẫn chưa thể chuyển qua quan hệ mua bán ngoại

tệ, v.v… Dưới những tác động tiêu cực trong, ngoài nước cũng như thực trạng về

hoạt động KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM như đã phân tích ở trên, hoạt

động KDNH tại các NHTM gặp nhiều rủi ro.

Từ những thực trạng về rủi ro KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM được

nêu trong phần 2.1, phần tiếp theo ở 2.2 là các giải pháp cơ bản nhằm hạn chế rủi ro

132

KDNH, trong đó bao gồm: ổn định tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước,

giảm thiểu thấp nhất các tác động tiêu cực của sự suy giảm nền kinh tế thế giới. Bên

cạnh đó, để ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển thị trường ngoại hối và giảm rủi ro

trong KDNH tại các NHTM, Chính phủ cần giảm tỷ lệ lạm phát xuống dưới 10%,

giảm nhập siêu xuống dưới 10 tỷ USD/năm, hạn chế và tiến đến xóa bỏ tình trạng

đôla hóa nền kinh tế. Ngoài ra, NHNN cần có cơ chế điều hành tỷ giá USD/VND

linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước, phát triển thị trường sản phẩm phái sinh

ngoại tệ, hạn chế và tiến tới xóa bỏ tín dụng ngoại tệ trong năm 2015, đồng thời

chuyển qua giao dịch mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Cùng với các giải

pháp đó, NHTM thực hiện tổ chức hoạt động KDNH và hạn chế rủi ro hoạt động;

sử dụng công cụ hạn mức; các phương pháp dự báo tỷ giá và công cụ lệnh nhằm

hạn chế rủi ro phát sinh trong KDNH.

133

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO

TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI

CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM

3.1. ĐỊNH HƯỚNG VỀ TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO

TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN

Các NHTM cổ phần cần chú ý đến khâu hoạch định chính sách về quản trị

rủi ro ngoại hối, công việc này có ý nghĩa quyết định đến sự thành công trong hoạt

động của NHTM nói chung và trong KDNH của các NHTM nói riêng. Chính sách

quản trị rủi ro ngoại hối nhằm giúp cho ngân hàng thấy rõ mục đích và định hướng

kinh doanh của mình. Ngoài ra, chính sách này còn giúp làm tăng tính chủ động của

ngân hàng, tăng khả năng thích nghi của ngân hàng với những khuynh hướng mới

và môi trường kinh doanh mới.

Để hạn chế rủi ro trong các giao dịch ngoại hối, Ban lãnh đạo ngân hàng cần

xác định các mục tiêu và các nguyên tắc quản trị rủi ro ngoại hối. Trong đó, các

ngân hàng đặc biệt chú trọng xây dựng các giới hạn thích hợp trong KDNH, các

biện pháp nhằm đảm bảo quy trình kiểm tra nội bộ chính xác trong lĩnh vực kinh

doanh ngân hàng, theo Hồ Diệu (2002). [1]

Chính sách quản trị rủi ro ngoại hối bao gồm việc đánh giá thực trạng rủi ro,

chất lượng của hệ thống quản trị rủi ro ngoại hối, kỹ năng của đội ngũ nhân sự, xác

định các giới hạn nguy cơ rủi ro (thông qua mức duy trì trạng thái ngoại hối) và đa

dạng hóa các loại ngoại tệ trong kinh doanh và dự trữ.

Cùng với việc thiết lập hay đổi mới chính sách quản trị rủi ro ngoại hối, các

NHTM cổ phần cần thay đổi cơ cấu tổ chức theo một mô hình ngân hàng hiện đại,

trong đó cần đặc biệt đảm bảo tuân theo các chuẩn mực quốc tế trong hoạt động

quản lý rủi ro KDNH. Bên cạnh đó, các NHTM cũng cần quan tâm đặc biệt đến

việc quản trị rủi ro hệ thống, quản trị nguồn nhân lực nhằm đáp ứng ngày càng

134

cao các yêu cầu về tính hiệu quả của hệ thống quản trị rủi ro và nâng cao lợi nhuận

cho hoạt động của các ngân hàng.

Ngoài ra, trong hoạt động quản lý rủi ro cho KDNH tại các NHTM cổ

phần, mô hình giá chị chịu rủi ro (VaR) được áp dụng như là một công cụ đo

lường định lượng hữu hiệu nhất hiện nay. Hầu hết các NHTM trên thế giới đều

đang áp dụng mô hình tính VaR để xác định mức độ chịu rủi ro tối đa đối với các

hoạt động KDNH trên thị trường của ngân hàng. Trên cơ sở đó các ngân hàng có

thể đưa ra các yêu cầu vốn tối thiểu liên quan đến các mức rủi ro này.

Hơn nữa, các NHTM cổ phần cần xây dựng cho mình một hệ thống quản trị

rủi ro hoàn chỉnh. Hệ thống quản lý rủi ro hiệu quả của NHTM cổ phần tối thiểu

phải bảo đảm các yếu tố sau như giám sát và quản lý tích cực của Hội đồng quản trị,

Hội đồng thành viên và Ban điều hành; ban hành và triển khai đầy đủ các chính

sách, quy trình quản lý rủi ro và các giới hạn rủi ro; thiết lập hệ thống thông tin

quản lý phù hợp; thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ hoạt động

phù hợp. Trách nhiệm quản lý rủi ro của những bộ phận có liên quan và ban lãnh

đạo ngân hàng cần được xác lập cụ thể như: từ Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát,

Ban Tổng giám đốc, đến các phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ, phòng quản lý rủi ro,

phòng kinh doanh ngoại hối.

Một hệ thống quản lý rủi đầy đủ thì không thể thiếu các chiến lược, chính

sách, quy trình và hạn mức quản lý rủi ro cho các rủi ro trọng yếu phát sinh. Chính

sách và quy trình quản lý rủi ro phải đảm bảo rằng các rủi ro trọng yếu được sớm

nhận dạng, được kiểm soát đầy đủ và được báo cáo kịp thời cho Hội đồng quản trị,

Hội đồng thành viên, Ban Kiểm soát và Ban điều hành. Ngân hàng phải đảm bảo

luôn tuân thủ các quy định an toàn về vốn theo quy định của NHNN và đảm bảo

rằng vốn pháp định của NHTM không bị suy giảm và khả năng chịu đựng rủi ro của

NHTM đủ bù đắp tất cả các rủi ro mà có thể dẫn đến tổn thất cho các NHTM tại

mọi thời điểm. Bộ phận kiểm soát rủi ro thực hiện việc theo dõi, đo lường tất cả các

rủi ro của NHTM và đánh giá mức độ đầy đủ của khả năng chịu đựng rủi ro. Nếu

135

khả năng chịu đựng rủi ro là không đảm bảo, các NHTM cần có các biện pháp xử lý

kịp thời.

3.2 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO KINH DOANH NGOẠI

HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM

Để kinh doanh ngoại hối có lãi thì ngân hàng phải tạo trạng thái ngoại hối mở

và tỷ giá hay giá phải biến động. Muốn tránh hoàn toàn rủi ro tỷ giá hay giá thì ngân

hàng chỉ việc không tiến hành bất kỳ giao dịch ngoại hối nào; hoặc nếu đã tạo trạng

thái ngoại hối thì tiến hành đóng trạng thái ngoại hối bằng các giao dịch đối ứng

(offsetting transactions) để làm cân bằng trạng thái. Tuy nhiên, đối với phòng

KDNH, việc tạo trạng thái ngoại hối và hy vọng tỷ giá biến động theo chiều hướng

có lợi là công việc hàng ngày của phòng. Vấn đề đặt ra là: tỷ giá luôn biến động thất

thường và không giới hạn làm cho cơ hội kiếm lãi trở nên thường xuyên và vô cùng

hấp dẫn. Điều này cũng nói lên một điều rằng, trong KDNH, nếu ngân hàng này thu

được lãi thì phải có một ngân hàng nào đó chịu thua lỗ, bởi vì không thể tất cả đều

được hoặc đều mất cùng một lúc. Nói cách khác, tiềm năng thu lãi và tiềm ẩn rủi ro

trong KDNH là đồng hành với nhau. Lãi lỗ trong KDNH có thể phát sinh cùng với

quy mô biến động tỷ giá hay giá, trong khi tỷ giá hay giá biến động là không giới

hạn nên có thể làm cho lãi lỗ phát sinh là rất lớn. Do đó, việc tìm giải pháp nhằm

hạn chế rủi ro trong KDNH là vô cùng cần thiết. Sau đây là các giải pháp cơ bản

nhằm giúp hạn chế rủi ro trong KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM.

3.2.1 Tổ chức lại hoạt động kinh doanh ngoại hối

Một NHTM trong KDNH cần có ba phòng có liên quan mật thiết với nhau

nhằm hạn chế rủi ro hoạt động trong quá trình KDNH tại các NHTM và tăng cường

khả năng quản lý rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Trong thời gian qua, các

NHTM tại TP.HCM phần lớn tập trung phát triển hoạt động của phòng kinh doanh

nhằm tạo ra nhiều lợi nhuận cho ngân hàng và ít chú trọng kiểm soát một cách kỷ

lưỡng hoạt động của hai phòng còn lại là phòng thanh toán và phòng quản lý rủi ro.

136

Do đó, các NHTM cổ phần tại TP.HCM cần xác định rõ, phân chia rõ ràng chức

năng và nhiệm vụ cũng như có cơ chế để kiểm soát quá trình hoạt động của từng

phòng. Các phòng này bao gồm:

- Phòng kinh doanh (Dealing Room): Tại đây, các Dealer trực tiếp tham gia mua

bán trên thị trường liên ngân hàng và các khách hàng khác, nghĩa là họ phải đối mặt

với thị trường, đối thủ cạnh tranh. Phòng kinh doanh cần kiểm soát được một cách

chắc chắn trạng thái trường hay đoản của từng đồng tiền và vàng tại bất cứ thời

điểm nào, cũng như phương án thoát ra khỏi từng trạng thái là như thế nào. Cán bộ

kinh doanh phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về lãi lỗ trong hoạt động của

mình và bảo đảm rằng hoạt động của mình luôn nằm trong giới hạn quản lý rủi ro

cho phép hay có thể kiểm soát được của lãnh đạo ngân hàng.

- Phòng thanh toán (Back Office): Đây là phòng có chức năng độc lập, không nhất

thiết phải được đặt ngay cạnh phòng kinh doanh; có nhiệm vụ xác nhận giao dịch,

thực hiện thanh toán, đối chiếu số dư, sao kê tài khoản, v.v…

- Phòng quản lý rủi ro (Mid Office): Có nhiệm vụ kiểm tra theo dõi, giám sát các

hạn mức mà mỗi Dealer được phép sử dụng, tránh không để cán bộ kinh doanh vượt

ra ngoài khuôn khổ thẩm quyền và quá mạo hiểm trong kinh doanh, nhất là nghiệp

vụ đầu cơ.

Rủi ro hoạt động (RRHĐ), theo Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng, là rủi

ro gây ra tổn thất do các nguyên nhân như con người, sự không đầy đủ hoặc vận

hành không tốt các quy trình, hệ thống; các sự kiện khách quan bên ngoài. RRHĐ

bao gồm cả rủi ro pháp lý nhưng loại trừ về rủi ro chiến lược và rủi ro uy tín, Basel

Committee (2001). Thông qua các nguyên tắc của Ủy ban Basel II, và thực tiễn

thành công cũng như thất bại của nhiều ngân hàng trên thế giới về quản trị RRHĐ,

các nhà lãnh đạo NHTM cần thực hiện những yêu cầu sau nhằm hạn chế RRHĐ

trong hoạt động KDNH:

Thứ nhất: Đối với các NHTM tại TP.HCM, tất cả các cấp từ HĐQT, BTGĐ,

và tất cả các nhân viên đều phải nhận thức được tầm quan trọng của RRHĐ. HĐQT

cần thuê tư vấn xây dựng khung quản trị RRHĐ phù hợp cho ngân hàng mình và

137

môi trường kinh doanh. Trong đó, hai vấn đề chủ chốt cần được đầu tư là: Xây

dựng và hoàn thiện chiến lược cho quản trị RRHĐ, và hoàn thiện cấu trúc quản trị

RRHĐ, đặc biệt là cấu trúc tổ chức. Chiến lược quản trị RRHĐ thường bao gồm các

vấn đề sau đây: (i) xác định RRHĐ và nhận biết các nguyên nhân gây RRHĐ, (ii)

mô tả hồ sơ rủi ro (ví dụ: các rủi ro chính của các quy trình quản lý phụ thuộc vào

quy mô, sự phức tạp của hoạt động KDNH); (iii) Mô tả về các trách nhiệm quản lý

rủi ro hoạt động vào tổng thể quản lý rủi ro nói chung của ngân hàng.

Thứ hai, xây dựng ý thức về quản trị RRHĐ trong toàn hệ thống, lựa chọn

các lĩnh vực ưu tiên để thiết lập các chốt kiểm soát về RRHĐ. Tất cả các nhân viên

trong phòng KDNH cần được đào tạo để hiểu biết và tham gia tự xác định RRHĐ –

xác định nguyên nhân, đánh giá trong tất cả các rủi ro hiện có trong tất cả sản phẩm,

hoạt động, quy trình và hệ thống phòng KDNH. Các chốt kiểm soát về RRHĐ được

lựa chọn dựa trên các tiêu chí: lĩnh vực có lợi nhuận cao, là nghiệp vụ cơ bản của

phòng KDNH, có thể gây tổn thất nặng nề nếu xảy ra rủi ro.

Thứ ba, xây dựng ngân hàng dữ liệu về RRHĐ và sử dụng công nghệ hiện

đại trong phân tích, xử lý RRHĐ. Các NHTM cần nhanh chóng xây dựng các quy

trình hướng dẫn để thu thập thêm các thông tin tổn thất. Nếu có điều kiện, tối ưu

hóa công nghệ hiện đại để phân tích, đánh giá và xử lý RRHĐ. Các NHTM nên

tham gia các tổ chức bên ngoài, tăng cường đối thoại với các ngân hàng khác,

NHNN để chia sẻ thông tin tổn thất. NHNN, Hiệp hội Ngân hàng và các NHTM

nhanh chóng hiện thực hóa các khuyến nghị đã đưa ra trong hội thảo của Ngân hàng

Nhà nước tháng 1/2009 về RRHĐ về việc thành lập ngân hàng dữ liệu chung của

RRHĐ.

Thứ tư, hạn chế tối đa nguyên nhân gây ra RRHĐ từ các yếu tố bên trong

NHTM như con người, quy trình, hệ thống. Các chính sách quản trị nhân lực cần

hướng tới mục tiêu xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao, đạo đức nghề

nghiệp tốt; các quy trình nghiệp vụ cần được rà soát thường xuyên, hoàn thiện hóa,

tránh quá cứng nhắc và có lỗ hổng. Hệ thống công nghệ thông tin và vận hành cần

được bảo dưỡng và cập nhật thường xuyên. Những chức năng cơ bản của những

138

phần mềm ứng dụng cho RRHĐ ít nhất cần bao gồm (i) Nhập dữ liệu được phân

cấp (dữ liệu tổn thất, các chỉ số rủi ro, các phản hồi để đánh giá rủi ro), (ii) Tập

trung đánh giá trên mọi phạm vi kinh doanh (xác định của quy định điều chỉnh và

vốn đầu tư, sự tập hợp và sự so sánh các kết quả mọi thành phần rủi ro hoạt động

báo cáo cho HĐQT (iii) Tập trung và/hoặc phân cấp quản lý.

Cuối cùng là hạn chế tối đa các nguyên nhân RRHĐ bên ngoài, xây dựng

các phương án, đưa ra tình huống để sẵn sàng đối phó cũng như khắc phục kịp thời

hậu quả do các lỗi truyền thông, thiên tai, hoả hoạn gây ra RRHĐ. Giải pháp cơ bản

cho việc đưa ra quyết định lựa chọn thay thế là: công nhận rủi ro hiện hữu, chuyển

đổi rủi ro cho bên thứ ba. (ví dụ thông qua các hợp đồng phái sinh); tránh rủi ro

bằng cách ngừng các hoạt động kinh doanh; giảm thiểu rủi ro hoạt động bằng đo

lường các rủi ro khác (chẳng hạn như mở rộng của hệ thống kiểm soát, giới thiệu về

công nghệ thông tin cho hệ thống tự động nhận dạng sai sót). Những biện pháp này

được bổ sung liên tục nhằm hạn chế tổn thất và tạo điều kiện thuận lợi cho sự tiếp

tục kinh doanh trong trường hợp không ngăn chặn được rủi ro.

3.2.2. Sử dụng công cụ hạn mức

Hạn mức (position limits) là giới hạn trạng thái ngoại hối tối đa mà mỗi tổ

chức, cá nhân kinh doanh ngoại hối được phép thực hiện. Tùy theo kinh nghiệm,

trình độ, mục đích kinh doanh, năng lực tài chính và trang thiết bị mà hạn mức giữa

các tổ chức, giữa các Dealer là không giống nhau. Việc quản lý hạn mức kinh doanh

của các NHTM tại TP.HCM có thể căn cứ vào một số tiêu chí như sau:

 Hạn mức chung cho cả phòng KDNH, trên cơ sở đó phân bổ hạn mức cho từng

Dealer cụ thể. Nguyên tắc phân bổ hạn mức cho từng Dealer chủ yếu dựa vào

kinh nghiệm thâm niên và năng lực kinh doanh trên Forex. Những Dealer

chuyên nghiệp, có thâm niên, đã gặt hái được nhiều thành công thường là

những Dealer chính (chief dealer) được giao hạn mức cao hơn rất nhiều so với

những Dealer mới.

139

 Hạn mức theo các đồng tiền kinh doanh: Ngoài việc quy định tổng hạn mức

chung, khi một danh mục ngoại hối có liên quan đến nhiều loại, thì việc quy

định hạn mức kinh doanh đối với mỗi loại là cần thiết. Những loại ngoại hối ít

biến động thì hạn mức có thể cao, còn biến động mạnh thì hạn mức thấp.

 Hạn mức cho các loại nghiệp vụ cụ thể, ví dụ hạn mức giao ngay, kỳ hạn, tương

lai hoán đổi và quyền chọn.

Sau đây là phương pháp quản lý và đánh giá đối với một số trạng thái chính,

thông dụng trong hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần TP.HCM:

 Trạng thái giao ngay:

Do đặc thù của thị trường giao ngay là chịu sự tác động bởi các yếu tố ngắn

hạn lên tỷ giá và giá. Những tin đồn, những cuộc giao dịch lớn, can thiệp của

NHTW, những biến cố bất ngờ xảy ra, v.vv… đều có thể ảnh hưởng nhanh chóng

và mạnh mẽ lên sự biến động tỷ giá và giá. Những biến động đến ngạc nhiên của tỷ

giá và giá chỉ diễn ra trong vài phút, do đó, các Dealer phải nhanh chóng và thường

xuyên thay đổi trạng thái kinh doanh để chớp cơ hội kiếm lãi hoặc thoát khỏi rủi ro.

Tại bất kỳ thời điểm nào, nếu Dealer duy trì trạng thái giao ngay (trạng thái mở) đều

phải chịu rủi ro tỷ giá và giá. Tỷ giá biến động càng mạnh thì rủi ro càng lớn. Để

quản lý tiềm năng thu lãi và tiềm ẩn lỗ vốn, người ta sử dụng kỹ thuật định giá cuối

mỗi ngày giao dịch. Căn cứ vào trạng thái cuối ngày, từng Dealer phải định giá kết

quả kinh doanh của chính mình theo tỷ giá đóng cửa của ngày giao dịch. Kết quả

này phải được báo cáo cho Dealer chính và lãnh đạo phòng KDNH.

 Trạng thái kỳ hạn:

Trên TTLNH, các giao dịch kỳ hạn thường thuộc loại Spot - Forward Swap,

nghĩa là mỗi giao dịch gồm hai vế là: vế giao ngay áp dụng tỷ giá giao ngay, còn vế

kỳ hạn áp dụng tỷ giá kỳ hạn, và hai vế có ngày giá trị khác nhau. Do đó, trạng thái

ròng của giao dịch kỳ hạn phụ thuộc vào độ lệch giữa tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá giao

ngay. Tỷ giá kỳ hạn được hình thành trên cơ sở chênh lệch lãi suất giữa hai đồng

tiền. Trong điều kiện bình thường, các mức lãi suất tiền tệ là ổn định, làm cho các

điểm kỳ hạn biến động cũng ít. Lãi suất không tăng lên nhanh chóng rồi sau đó lại

140

giảm xuống nhanh chóng giống như tỷ giá giao ngay. Do đó, nếu Dealer dự tính sai

lầm về hướng biến động của lãi suất, thì ít có cơ hội để khắc phục thua lỗ nặng nề

trong tương lai. Kinh doanh kỳ hạn không thể có tốc độ nhanh như kinh doanh giao

ngay. Dealer kỳ hạn không thể thay đổi thường xuyên trạng thái kỳ hạn, mà nó

thường được duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.

Cũng giống như giao ngay, trạng thái kỳ hạn ròng cuối ngày cũng có thể

trường hoặc đoản, bao gồm các trạng thái của tất cả các hợp đồng còn hiệu lực và

có các ngày giá trị khác nhau. Việc định giá kết quả kinh doanh kỳ hạn hằng ngày

được tính theo phương pháp giả định rằng tất cả các hợp đồng kỳ hạn còn hiệu lực

đều được thanh lý ngay lập tức theo tỷ giá kỳ hạn cuối ngày hôm đó áp dụng tương

ứng cho từng kỳ hạn. Ngoài việc định giá lại hằng ngày các trạng thái kỳ hạn, để

quản lý rủi ro tỷ giá tốt hơn, các Dealer kỳ hạn còn phải duy trì hạn mức cho từng

kỳ hạn cụ thể theo quy tắc kỳ hạn càng dài hạn mức càng thấp.

3.2.3. Sử dụng các phương pháp dự báo tỷ giá

Các NHTM cổ phần tại TP.HCM cần sử dụng thường xuyên các phương

pháp phân tích sau trong quá trình duy trì trạng thái ngoại hối của ngân hàng cũng

như tư vấn hổ trợ cho các giao dịch ngoại hối của khách hàng. Các phương pháp

này bao gồm:

 Phân tích cơ bản (Fundamental analysis)

Là phương pháp phân tích tập trung vào việc nghiên cứu các lý do hoặc

nguyên nhân làm cho giá tăng lên hoặc giảm xuống. Phương pháp này chú ý đến

các lực lượng tác động đến cung cầu tiền tệ trên thị trường: lãi suất, lạm phát, tăng

trưởng kinh tế, xuất nhập khẩu, đầu tư, ... Ý tưởng của phương pháp này là tiến đến

một giá trị dự đoán về giá trị sinh lời tiềm ẩn của một thị trường để xác định xem thị

trường được đánh giá cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thực. Các lý thuyết chính của

phân tích cơ bản là : Lý thuyết đồng giá sức mua (PPP), lý thuyết ngang giá lãi suất

(IRP), mô hình cán cân thanh toán quốc tế, mô hình thị trường vốn,…

141

 Phân tích kỹ thuật (Technical analysis)

Đơn giản là một phương pháp dự báo dựa vào nghiên cứu về quá khứ, tâm lý

và quy luật xác suất. Phân tích kỹ thuật chủ yếu là dựa vào đồ thị tỷ giá/giá và số

lượng mua bán của quá khứ đã được tập hợp lại để dự đoán khuynh hướng của tỷ

giá/giá trong tương lai, từ đó giúp các Dealer có một danh mục ngoại hối đạt tỷ suất

lợi nhuận cao và hạn chế được rủi ro thua lỗ. Phân tích kỹ thuật có tính linh hoạt,

dễ sử dụng và nhanh chóng, những Dealer ngắn hạn, trung hạn, dài hạn được tự do

chọn lựa. Điều lưu ý là phân tích kỹ thuật có thể là công cụ giúp ta dự báo xu hướng

đúng, nhưng nó phải được sử dụng theo nguyên tắc đã được tính toán chứ không

phải theo cảm tính. Thời gian lập biểu đồ phân tích là do mỗi Dealer lựa chọn có thể

sử dụng phân tích kỹ thuật trong ngày (các dạng 5 phút, 30 phút hay mỗi giờ), trong

tuần hoặc trong tháng. Các lý thuyết chính của phân tích kỹ thuật là: lý thuyết Dow,

lý thuyết Fibonacci, lý thuyết Elliott Wave. Trong phân tích kỹ thuật có các giả

định: thị trường phản ứng trước mọi sự kiện xảy ra, giá cả biến động theo một

khuynh hướng nhất định, sự biến động giá cả thường lập lại theo chu kỳ và có sự

lập lại của giá cả trong quá khứ vào tương lai.

Phân tích kỹ thuật sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau để làm rõ

tình hình hiện tại và dự đoán các diễn biến tiếp theo của thị trường. Các giao dịch

kỹ thuật được tự động hóa là một ưu điểm lớn của phân tích kỹ thuật. Còn nhược

điểm lớn nhất của phân tích kỹ thuật là, trên thực tế, nó hoàn toàn dựa vào dữ liệu

lịch sử mà lịch sử thì không phải bao giờ cũng lặp lại. Vì thế, tín hiệu từ các chỉ số

có thể không phản ánh kịp thời tình hình đang diễn ra trên thị trường. Phân tích kỹ

thuật nghiên cứu kết quả của một mô hình chứ không nghiên cứu các nguyên nhân

tạo ra mô hình đó. Mặc dù một sự kiện có thể gây ra những tác động rất lớn tới thị

trường những cũng không có gì bảo đảm chắc chắn là giá cả sẽ có những thay đổi

ngay sau sự kiện này. Một nhược điểm khác của phân tích kỹ thuật là các chỉ số có

thể dẫn tới sự hiểu nhầm hoặc hiểu không chính xác trong các tình huống khác nhau

trên thị trường. Tình trạng các Dealer áp dụng chiến lược giao dịch tương tự nhau

nhưng lại thu được kết quả khác xa nhau rất thường xuyên xảy ra. Lý do là các chỉ

142

số được áp dụng trong các khoảng biên độ thời gian khác nhau, các tín hiệu được

hiểu khác nhau, và chiến lược kiểm soát rủi ro được áp dụng cũng khác nhau. Nói

cách khác, phân tích kỹ thuật rất đa dạng. Quan điểm cá nhân của Dealer cũng có

ảnh hưởng đến việc anh ta diễn giải các dữ liệu lịch sử và dữ liệu mới cập nhật như

thế nào. Bên cạnh đó, còn có tình trạng, dù hiếm khi xảy ra, các biểu đồ giá và các

chỉ số sử dụng với cùng biên độ thời gian lại có sự khác biệt trên các phần mềm

giao dịch, tùy thuộc vào nguồn trích dẫn tỷ giá/giá hoặc việc cài đặt phần mềm này.

Thoạt nghe qua thì phân tích kỹ thuật có vẻ hoàn toàn không đáng tin nhưng sự thực

không phải như vậy. Dù Dealer sử dụng các phần mềm và nguồn trích dẫn tỷ giá/giá

khác nhau thì kết quả của phân tích kỹ thuật cũng không bị ảnh hưởng, đặc biệt là

trong dài hạn. Phân tích giúp chúng ta có thể hiểu được tình hình hiện tại của thị

trường và dự báo những diễn biến tiếp theo của nó.

Một điểm quan trọng cần ghi nhớ là việc diễn giải các biểu đồ giá cũng có

thể khác nhau tùy thuộc vào thiết kế hình ảnh của bản thân các biểu đồ đó. Biểu đồ

đường thẳng, biểu đồ thanh, biểu đồ hình nến, … mỗi loại đều có đặc trưng riêng.

Ví dụ, biểu đổ hình nến thể hiện được những yếu tố mà biểu đồ đường thẳng không

thể hiện được. Các Dealer không nên tự ép mình chỉ sử dụng một loại biểu đồ hay

một vài chỉ số. Với phân tích kỹ thuật nói chung, càng có nhiều quan điểm khi phân

tích và càng có nhiều diễn giải được minh họa bằng hình ảnh của dữ liệu thì Dealer

càng có cơ hội xem xét thông tin dưới nhiều góc độ khác nhau, và điều này giúp cải

thiện sự sâu sắc và chất lượng của phân tích được thực hiện dựa trên các dữ liệu đó.

Như vậy mỗi loại hình phân tích có những điểm mạnh và điểm yếu riêng. Vì

vậy Dealer phải linh hoạt sử dụng các công cụ này cộng với quyết định trực quan

của mình để ra quyết định nhanh chóng và chính xác.

3.2.4. Sử dụng công cụ lệnh

Một phương pháp khác để hạn chể rủi ro trong KDNH là các Dealer có thể

đưa ra các lệnh rằng, nếu có những thay đổi nhất định trên thị trường phù hợp với

các lệnh đã được đưa ra trước đó, thì giao dịch được tự động thực hiện. Chính việc

143

làm này chắc chắn sẽ làm giảm đi những khoản lỗ ngoài dự kiến và giúp các Dealer

kiểm soát tốt hoạt động KDNH của ngân hàng mình. Trong mỗi lệnh, phải nói rõ

giá cả, các thông số để trên cơ sở đó một giao dịch có thể thực hiện. Các lệnh phổ

biến hiện nay đó là:

 Limit order: Tại tỷ giá/giá đã được xác định, lệnh được tiến hành thực hiện. Đôi

khi, chỉ một phần của lệnh có thể được thực hiện tại mức tỷ giá/giá đã xác định.

Như vậy, lệnh này phải phân biệt ở chỗ rằng, giao dịch có thể được thực hiện từng

phần hay phải thực hiện toàn bộ lệnh tại cùng một thời điểm.

 Stop - loss order: Dealer có thể đang ở trạng thái trường hay đoản đối với một

loại ngoại hối nào đó, muốn giới hạn các khoản lỗ tiềm tàng. Bản chất của lệnh này

là nhằm phòng ngừa rủi ro lớn có thể xảy ra. Lệnh Stop - loss order chưa được thực

hiện chừng nào tỷ giá/giá trên thị trường biến động chưa đến tỷ giá/giá giới hạn cho

phép.

 Take - profit order: Dealer có thể đang ở trạng thái trường hay đoản đối với một

loại ngoại hối nào đó, muốn thoát khỏi trạng thái ngoại hối này khi đạt được một

mức lãi nhất định. Tương tự như lệnh Stop - loss order, Take - profit order được

thiết kế, khi thị trường biến động đến một mức độ nhất định nào đó, thì lệnh được

thực hiện.

3.3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO KINH

DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ

PHẦN TẠI TP.HCM

3.3.3 Các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường trong hoạt động quản lý rủi ro

kinh doanh ngoại hối

3.3.3.1 . Thiết lập trạng thái ngoại hối hợp lý và phù hợp

Thời điểm phát sinh trạng thái ngoại tệ là ngay tại thời điểm chuyển giao

quyền sở hữu về ngoại tệ, tức tại thời điểm ký kết hợp đồng chứ không phải tại thời

điểm thanh toán, cho dù việc thanh toán thực sự xảy ra sau 3 tháng kể từ ngày ký

144

kết hợp đồng. Nếu tài sản có lớn hơn tài sản nợ thì ngoại tệ ở trạng thái trường;

ngược lại, nếu tài sản có nhỏ hơn tài sản nợ thì ngoại tệ ở trạng thái đoản.

Một NHTM huy động vốn bằng ngoại tệ và sau đó dùng toàn bộ vốn huy

động được để cho vay cũng bằng ngoại tệ, tức không có sự chuyển đổi mua bán

nào, thì cho dù tỷ giá biến động thế nào, NHTM cũng không chịu rủi ro tỷ giá bởi vì

trạng thái ngoại tệ không được tạo ra. Cho nên, chỉ khi NHTM duy trì trạng thái

ngoại tệ mở khác 0, tức duy trì trạng thái tài sản có và tài sản nợ nội và ngoại bảng

không cân xứng với nhau, khi đó, rủi ro phát sinh theo hướng biến động của tỷ giá

như sau:

 Nếu NHTM duy trì trạng thái ngoại tệ trường, tức TSCF > TSNF (trong đó,

TSC và TSN là các tài sản có và tài sản nợ gồm cả nội và ngoại bảng, F là

một loại ngoại tệ): thì khi tỷ giá tăng (tức ngoại tệ F lên giá, còn nội tệ giảm

giá) làm phát sinh lãi ngoại hối; ngược lại, khi tỷ giá giảm (tức ngoại tệ F

giảm giá, còn nội tệ lên giá) làm phát sinh lỗ ngoại hối. Trong trường hợp

này để phòng ngừa tỷ giá giảm thì ngân hàng có thể bán kỳ hạn hoặc mua

quyền chọn bán số ngoại tệ có đó trên thị trường ngoại hối

 Nếu NHTM duy trì trạng thái ngoại tệ âm, tức TSCF < TSNF: thì khi tỷ giá

tăng (tức ngoại tệ F lên giá, còn nội tệ giảm giá) làm phát sinh lỗ ngoại hối;

ngược lại, khi tỷ giá giảm (tức ngoại tệ F giảm giá, còn nội tệ lên giá) làm

phát sinh lãi ngoại hối. Trong trường hợp này để phòng ngừa tỷ giá tăng thì

ngân hàng có thể mua kỳ hạn hoặc mua quyền chọn mua số ngoại tệ có đó

trên thị trường ngoại hối

 Nếu NHTM duy trì trạng thái ngoại tệ cân bằng (square position), tức TSCF

= TSNF: thì khi tỷ giá tăng hay giảm cũng không làm phát sinh lãi hay lỗ

ngoại hối đối với NHTM.

145

Các trường hợp Tỷ giá không đổi Tỷ giá tăng Tỷ giá giảm

TSCF = TSNF Lợi nhuận không thay đổi Lợi nhuận không thay đổi

Lãi ngoại tệ Lỗ ngoại tệ TSCF > TSNF

Lỗ ngoại tệ Lãi ngoại tệ TSCF < TSNF Lợi nhuận không thay đổi Lợi nhuận không thay đổi Lợi nhuận không thay đổi

NHTM thiết lập trạng thái ngoại hối hợp lý theo từng thời kỳ của nền kinh tế

và có tính chiến lược, thể hiện ở chổ các ngân hàng không chỉ nên chạy theo và đối

phó với thực trạng cung cầu ngoại tệ trên thị trường ở từng thời điểm kinh doanh,

mà còn cần phù hợp với mức rủi ro mà ngân hàng chấp nhận được.

Việc duy trì trạng thái ngoại tệ hợp lý còn thể hiện ở chổ các ngân hàng cần

dựa vào điều kiện của nền kinh tế từng thời kỳ cũng như dự báo được các thay đổi

chính sách của thời kỳ đó. Điển hình như trong thời kỳ 2005- 2006, các NHTM

thường duy trì trạng thái ngoại hối đoản là do những nguyên nhân như: đặc điểm

của thị trường ngoại hối Việt Nam thời gian này theo hướng một chiều, cầu về

ngoại tệ luôn lớn hơn cung ngoại tệ, do vậy mà doanh số mua vào nhỏ hơn doanh số

bán ra và điều này dẫn tới trạng thái ngoại tệ của các Ngân hàng thường ở trạng thái

đoản; ngoài ra mức tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng mà NHNN công bố

thường ổn định trong thời gian dài, hầu như không có biến động lớn; và lãi suất cho

vay VNĐ thường cao hơn nhiều so với lãi suất cho vay của các loại ngoại tệ như

USD, EUR và JPY, vì thế các Ngân hàng sẵn sàng bán ngoại tệ đổi lấy nội tệ và cho

vay nội tệ để hưởng lãi suất cao, đến hạn hoàn trả ngoại tệ họ mua lại ngoại tệ vào

và khoản lãi thu được từ cho vay VNĐ luôn lớn hơn khoản thua lỗ do tỷ giá tăng,

trong khi đó chính sách tỷ giá mà NHNN theo đuổi lại ổn định trong thời gian dài.

Trong khi đó, từ cuối năm 2006 đến những tháng đầu quý I/2008, trạng thái ngoại tệ

của các NHTM lại ở tình huống ngược lại, đó là luôn ở mức dư thừa. Nguyên nhân

của tình trạng này là do: nguồn cung ngoại tệ cho các NHTM tăng nhanh vào lúc thị

trường chứng khoán Việt Nam thời gian này phát triển với tốc độ khá nóng, khiến

146

cho các nhà đầu tư nước ngoài đổ xô chuyển vốn đầu tư vào thị trường Việt Nam,

vốn được chuyển bằng USD và sau đó chuyển sang VNĐ để kinh doanh chứng

khoán dẫn đến cung ngoại tệ tăng mạnh; ngoài nguồn vốn đầu tư gián tiếp thì nguồn

vốn đầu tư trực tiếp FDI thực hiện trong năm 2007 cũng như trong quý I/2008 tăng

cao, cụ thể trong quý I/2008, tính chung cả vốn cấp mới và tăng thêm thì cả nước đã

thu hút thêm 5,436 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký, tăng 31% so với cùng kỳ năm 2007

đã làm tăng nguồn cung USD của các NHTM; đồng thời vào thời điểm này, FED

liên tục cắt giảm lãi suất đã làm cho đồng USD giảm giá mạnh so với các tiền tệ

khác như EUR, JPY,… cũng làm cho dòng vốn đầu tư chuyển vào các nước có lãi

suất đồng nội tệ cao và tỷ giá ổn định.

Việc tạo ra trạng thái ngoại hối hợp lý còn dựa trên việc duy trì trạng thái

theo đúng quy định của NHNN, không chỉ đến cuối ngày mà duy trì trạng thái ngoại

hối cả ngay trong ngày làm việc. Do đó, nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh

ngoại tệ, NHNN cần cân nhắc phương pháp quản lý trạng thái ngoại tệ thường

xuyên tại bất kỳ thời điểm nào.

Trên lý thuyết, việc thu hẹp trạng thái ngoại tệ của các TCTD đồng nghĩa với

việc giảm mức độ linh hoạt trong giao dịch ngoại tệ của các tổ chức, cũng giống

như việc quy định biên độ dao động tối đa đối với tỷ giá hàng ngày. Tuy nhiên, việc

giới hạn các mức dư thừa hay dư thiếu quá lớn so với trạng thái ngoại hối hợp lý

của NHTM cho phép các Ngân hàng hoạt động giao dịch ngoại tệ mạnh hơn, hiệu

quả hơn và giảm đi rủi ro. Hơn nữa, đây cũng là một trong những công cụ để điều

hành chính sách tiền tệ của NHNN mà NHNN đã lãng quên trong suốt hơn 10 năm

qua. Trên bình diện vĩ mô của nền kinh tế, trạng thái ngoại tệ của các NHTM càng

co hẹp thì càng hạn chế được khả năng đầu cơ ngoại tệ và đây chính là cách để làm

giảm đi rủi ro trong hoạt động KDNH của các NHTM.

Duy trì trạng thái ngoại tệ hợp lý còn là việc các NHTM không quá ỷ lại vào

biên độ tỷ giá mà NHNN điều hành hàng năm, tại vì với các lý do sau:

 Biên độ tỷ giá mà NHNN điều chỉnh trong năm thường được NHNN dự báo

sớm từ đầu năm và việc dự báo đó chỉ mang tính định hướng, các NHTM

147

không nên thiết lập trạng thái ngoại tệ của ngân hàng hàng ngày theo dự báo

đó. Biên độ tỷ giá đó có thể biến động ngoài dự báo.

 Sự biến động của tỷ giá ngoại tệ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trên thị

trường trong nước và thế giới.

 Việc mua hay bán ngoại tệ của NHTM không chỉ dựa vào nguồn ngoại tệ có

từ việc bán hay mua ngoại tệ của các NHTM, mà rất có thể sử dụng từ các

nguồn huy động ngoại tệ khác nhau. Tỷ giá biến động bất lợi và các nguồn

huy động đến thời điểm phải trả gây ra cho các ngân hàng nhiều rủi ro.

Việc duy trì trạng thái ngoại tệ hợp lý còn giúp giải phóng bớt lượng ngoại tệ

bị “đọng” ở Ngân hàng do tích trữ quá lớn, đưa vào lưu thông góp phần ổn định tỷ

giá. Đứng trên góc độ quản lý vĩ mô, việc giảm tỷ lệ của trạng thái ngoại hối theo

Thông tư 07, NHNN muốn đưa ra một định hướng chính sách quản lý ngoại hối

mới theo hướng chủ động hơn và giúp giảm dần tình trạng đôla hóa trong nền kinh

tế. Theo đó, từng bước giảm bớt huy động và cho vay bằng ngoại tệ trong hệ thống

Ngân hàng, đồng thời dần chuyển sang quan hệ mua và bán. Khi hoạt động vay

mượn giảm bớt cộng với việc trạng thái ngoại tệ bị thu hẹp còn 20% (theo thông tư

số 07/2012/TT-NHNN) mở ra một cơ chế mua bán ngoại tệ rộng hơn trong các

Ngân hàng.

Bên cạnh việc duy trì trạng thái ngoại tệ hợp lý dựa vào các nội dung trên,

các ngân hàng cũng cần duy trì trạng thái vàng hợp lý trong từng thời kỳ dựa vào

các yếu tố như: dự báo được tình hình biến động giá vàng trong và ngoài nước, mức

độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng, sự thay đổi chính sách quản lý vàng của

NHNN Việt nam, v.v...

Vì các lý do trên, việc duy trì một trạng thái ngoại hối hợp lý và phù hợp với

mức độ rủi ro của từng ngân hàng, các NHTM đã và đang cùng với NHNN quản lý

hiệu quả được hoạt động KDNH trong nội bộ NHTM và giúp hoạt động của thị

trường ngoại hối ngày càng hiệu quả và ổn định hơn.

148

3.3.3.2 . Sử dụng mô hình định lượng rủi ro VAR

Trên thực tế áp dụng, VaR không đưa ra một phương pháp phù hợp chung

nào để đo lường rủi ro cho tất cả các tình huống xảy ra trong các giao dịch ngoại

hối. Các mô hình VaR khác nhau sẽ đưa ra các kết quả VaR khác nhau. Bằng cách

thông qua kỹ thuật lượng hóa, VaR chỉ có thể đo lường được mức độ rủi ro mà nó

thu thập được; VaR không đo lường rủi ro chính sách, rủi ro thanh khoản, rủi ro con

người, hoặc rủi ro quy trình, qui định; VaR không đo lường rủi ro tác nghiệp.

Sự cuốn hút lớn nhất của VaR là nó biểu diễn rủi ro dưới dạng một con số

bằng một loại đồng tiền duy nhất. VaR được định nghĩa là số tiền lớn nhất mà một

danh mục ngoại tệ hay vàng có thể bị thua lỗ với một độ tin cậy xác định, thông

thường ở mức 99%. Giả sử như VaR theo ngày của một danh mục các loại ngoại tệ

của NHTM được tính là 50 triệu USD thì có nghĩa là đến ngày hôm sau, mức thua

lỗ của danh mục đó có 99% xác suất sẽ nhỏ hơn 50 triệu USD. Nói cách khác chỉ có

1% xác suất là mức thua lỗ sẽ vượt 50 triệu USD. Danh mục để tính VaR trong

KDNH có thể là vàng, ngoại tệ, công cụ phái sinh hay tổng hợp của các loại này.

Hơn thế, nó không chỉ đo được rủi ro của một danh mục ngoại hối đơn lẻ của một

nhân viên kinh doanh, mà có thể cộng dồn các cấp độ cao hơn như phòng, ban cho

đến rủi ro của cả NHTM. Vào cuối ngày giao dịch là các nhà quản lý Ngân hàng có

được VaR của mình dưới dạng một con số duy nhất và có thể so sánh với VaR của

bất kỳ một Ngân hàng nào khác dù nghiệp vụ kinh doanh rất khác nhau.

Các nhà quản lý ưa chuộng VaR không phải vì VaR đo lường được hết mọi

rủi ro mà vì VaR khiến cho việc quản lý rủi ro trực quan, cụ thể và dễ dàng hơn rất

nhiều. VaR còn được chuẩn hóa quốc tế trong tiêu chuẩn Basel II cho các Ngân

hàng. Tuy nhiên, vấn đề trong sử dụng VaR là ở xác xuất 1% kia - xác suất của các

biến cố hiếm hoi. Việc chúng ta xác định được số tiền tối đa mà chúng ta có thể

thua lỗ trong 99% thời gian không nói lên điều gì sẽ xảy ra ở xác xuất của 1% còn

lại. Nếu trong một năm NHTM có khoảng 2 hay 3 lần lỗ (khoảng 1% trên tổng số

hơn 250 ngày giao dịch) đến 51 hay 58 triệu đô la, mức VaR 50 triệu đô la thật hữu

149

hiệu. Nhưng nếu chỉ cần một lần Ngân hàng lỗ 1 tỉ USD trong cả năm, lúc đó công

thức tính VaR vẫn đúng, nhưng Ngân hàng của chúng ta lại phá sản.

Đó chính là những biến cố hiếm hoi mà chúng ta thường lờ đi, coi rằng việc

được đảm bảo đến 99% thời gian là đủ. VaR chỉ tiếp cận các biến cố lớn trên

phương diện tần số xuất hiện (nhỏ hơn 1%) chứ không phải trên phương diện độ lớn

của nó. Hơn nữa, VaR thông thường được tính toán trên các dữ liệu lịch sử hạn chế,

thường là 2-3 năm, khi mà các biến cố lớn không xảy ra và VaR được dùng để dự

đoán rủi ro cho khoảng thời gian ngắn có thể là 1 ngày hoặc nhiều hơn là 10 ngày.

Một khi có rủi ro xảy ra ở phần xác suất 1%, thì việc vận dụng VaR trong việc xác

định mức lỗ tối đa trong độ tin cậy 99% vẫn tiếp tục đúng. Tuy vậy, không phải

VaR không có tác dụng mà thậm chí là một công cụ hữu hiệu trong việc xác định

mức rủi ro tối đa mà NHTM có thể gặp phải trong một xác xuất cho trước, nhưng

phương pháp này không hoàn hảo. Phương pháp này phát huy tác dụng trong phần

lớn các hoạt động giao dịch ngoại hối của NHTM, nhưng khi sự không hoàn hảo

của phương pháp diễn ra, kết quả kinh doanh của Ngân hàng bị biến động theo

chiều hướng tiêu cực. Bài học lớn mà các NHTM cần ý thức được là sự tồn tại của

những rủi ro trong tương lai có thể lớn chưa từng có trong quá khứ. Việc tiếp cận,

đo lường và định lượng hóa nó là một điều rất khó khăn và cần thận trọng.

Mô hình đo lường rủi ro Var được áp dụng tại Eximbank theo tình huống:

Ngân hàng Eximbank mua vào 2000 chỉ vàng ngày 15/07/2012 với giá vàng

là 4.200.000 đồng/chỉ. Ngày 16/7/2012 Ngân hàng xác định tổng lỗ dự kiến bao

gồm lỗ do giá vàng giảm giá từ 4.200.000 đồng/chỉ xuống 4.100.000 đồng/chỉ và

các mức lỗ dự kiến với khả năng 99% và 95% tương ứng với kết quả trong bảng

tính 3.2 bên dưới theo các công thức đã nêu trong phần 1.2.2.5 của chương 1 Luận

án này về sử dụng mô hình VaR để xác định mức lỗ tối đa có thể xảy ra. Các bảng

số liệu này được tính toán dựa trên số liệu thống kê giá vàng thực tế tại TP.HCM từ

ngày 11/12/2009 đến ngày 16/06/2012 (750 ngày) (Bảng 1 ở phụ lục cuối Luận án).

150

Bảng 3.2 – Bảng chi tiết tính toán VaR cho vàng (trạng thái trường)

Mô tả thống kê

VaR

Trạng thái vàng

Mean (%)

0,0550

Ngày

16/07/2012

Sốlượng(chỉ)

2.000

Std deviation (%)

0,8615

Giá mua (đ/chỉ)

Giá (đ/chỉ)

4.200.000

Median (%)

0,0381

Giá bán (đ/chỉ)

Mark to market

- 200

4.100.000 4.120.000

Số thống kê

750

Giá trị (tr.đồng)

8.200

Tổng lỗ (tr.đồng)

Min (%)

-6,2859

99%

110,43

- 310,43

VaR (tr.đồng)

5,4841

76,76

95%

- 276,76

Max (%) Bảng 3.3 – Bảng kết quả VaR cho vàng (trạng thái trường)

Mức độ tin cậy:99%; Số lượng dữ liệu khảo sát là 750 (từ 11/12/09 – 16/07/12)

Trạng thái

Tham số tính VaR

VaR (tr.đồng)

Lãi lỗ đánh giá (tr.đồng)

Giá thị trường (1.000đ /chỉ)

Dự kiến lãi (+); lỗ (-) (tr.đồng)

Số lượng (chỉ)

Giá (1.000đ /chỉ)

Tỷ suất sinh lợi (%)

Độ biến động giá (%)

Giá trị tài sản (tr.đồng )

2.000

4.200

4.100

0,0550

0,6025

8.200

- 200.00

- 310.43

110.43

2.000

4.200

4.150

0,0566

0,4510

8.300

- 100.00

- 182.38

82.38

2.000

4.200

4.200

0,0582

0,4542

8.400

-

- 83.88

83.88

2.000

4.200

4.250

0,0598

0,6051

8.500

+100.00

- 14.58

114.58

2.000

4.200

4.300

0,0613

0,8231

8.600

+200.00

+40.61

159.39

Do giá mua ngày 15/7/2012 là 4.200.000 đồng/chỉ, đến ngày 16/7/2012 giá

chỉ còn 4.100.000 đồng/chỉ, ngân hàng bị lỗ là 2.000 * 100.000 = 200 triệu đồng.

Cùng với khoản lỗ đó, giá trị lỗ tối đa dự kiến VaR với xác xuất 99% là 110,43 triệu

đồng, với xác xuất 95% khoản lỗ dự kiến VaR là 76,76 triệu đồng. Do đó, tổng

khoản lỗ thực tế và lỗ dự kiến tối đa là: xác xuất 99% là 310,43 triệu đồng, xác xuất

95% là 276,76 triệu đồng.

Trong bảng 3.3, với các giả định giá vàng thị trường biến động từ 4.100.000

đến 4.300.000 đồng/chỉ. Tương ứng với sự biến động giá đó là các khoản lãi/lỗ dự

kiến được liệt kê trong cột cuối cùng của bảng 3.3.

151

Với các kết quả được tính toán trong bảng 3.2 và 3.3 cũng như thu thập số

liệu giá vàng trong bảng 3.1, các chuyên viên kinh doanh của phòng KDNH tính

toán được mức lỗ tối đa một khi thực hiện mua 2.000 chỉ vàng với giá vàng lúc mua

là 4.200.000 đồng/chỉ. Sau khi tính toán, phòng KDNH quyết định là có thực hiện

giao dịch đó hay không. Ngoài ra, phòng QLRR cũng sẽ có các bảng tính tương tự

như vậy, để thực hiện chức năng của phòng là cảnh báo cho phòng KDNH nếu số lỗ

đó vượt quá hạn mức lỗ cho phép, và báo cáo kịp thời trạng thái các giao dịch lên

Ban lãnh đạo ngân hàng. Cùng với đó, NHNN cũng nhận được các báo cáo rủi ro

của các trạng thái kinh doanh ngoại hối hàng ngày của từng ngân hàng, từ đó có các

quản lý và điều chỉnh kịp thời và cuối cùng là bảo đảm an toàn cho hoạt động của

hệ thống ngân hàng nói chung.

Tương tự cách tính toán như trên, ngân hàng Eximbank thực hiện bán 2.000

chỉ vàng với giá 4.200.000 đồng/chỉ vào ngày 15/07/2012, do đến ngày 16/07/2012

giá vàng hạ xuống còn 4.100.000 đồng/chỉ, ngân hàng bị lãi là 2.000 * 100.000 =

200 triệu đồng. Cùng với khoản lãi đó, giá trị lỗ tối đa dự kiến VaR với xác xuất

99% là 113,16 triệu đồng, với xác xuất 95% khoản lỗ dự kiến VaR là 78,71 triệu

đồng. Do đó, tổng khoản lãi thực tế dự kiến tối đa là: xác xuất 99% là 86,84 triệu

đồng, xác xuất 95% là 121,29 triệu đồng.

Bảng 3.4 – Bảng chi tiết tính toán VaR cho vàng (trạng thái đoản)

Mô tả thống kê

Value at Risk

Trạng thái vàng

Mean (%)

0,0542

Ngày

16/07/2012

Sốlượng(chỉ)

-2.000

Std deviation (%)

0,8336

Giá mua (đ/chỉ)

Giá (đ/chỉ)

4.200.000

Median (%)

0,0000

Giá bán (đ/chỉ)

Mark to market

+200

4.080.000 4.100.000

Số thống kê

750

Giá trị (tr.đồng)

8.200

Tổng lỗ/lời (tr.đồng)

-5,7097

99%

113,16

+86,84

Min (%)

VaR (tr.đồng)

5,5764

95%

78,71

+121,29

Max (%)

152

Bảng 3.5 – Bảng kết quả VaR cho vàng (trạng thái đoản)

Trạng thái

Tham số tính VaR

VaR (tr.đồng)

Lãi lỗ đánh giá (tr.đồng)

Giá thị trường (1.000đ /chỉ)

Dự kiến lãi (+); lỗ (-) (tr.đồng)

Số lượng (chỉ)

Tỷ giá (1.000đ /chỉ)

Tỷ suất sinh lợi (%)

Giá trị tài sản (tr.đồng)

Độ biến động giá (%)

-2.000

4.200

4.100

0,0542

0,6165

-8.200

+200,00

113,16

+86,84

-2.000

4.200

4.150

0,0558

0,4555

-8.300

+100,00

83,31

+16,69

-2.000

4.200

4.200

0,0574

0,4446

-8.400

-

82,05

-82,05

-2.000

4.200

4.250

0,0590

0,5873

-8.500

-100,00

111,11

-211,11

-2.000

-200,00

0,0606

-8.600

4.200

4.300

155,30

-355,30

0,8023 (Khi giá vàng thay đổi từ 4.100.000 đến 4.300.000 đồng/chỉ, và mức độ tin

cậy:99%; Số lượng dữ liệu khảo sát là 750 (từ 11/12/09 – 16/07/12).

Trong bảng 3.5, với các giả định giá vàng thị trường biến động từ 4.100.000

đến 4.300.000 đồng/chỉ. Tương ứng với sự biến động giá đó là các khoản lãi/lỗ dự

kiến được liệt kê trong cột cuối cùng của bảng 3.5. Việc sử dụng kết quả tính toán

trong trường hợp giao dịch bán 2.000 chỉ này giống như trong giao dịch mua 2.000

chỉ.

Tại NHTM cổ phần Eximbank tại TP.HCM ngày 15/07/2012 thực hiện một

giao dịch bán 1.000.000 CHF giá giao ngay 1.02386, từ khảo sát thực nghiệm

chúng ta biết được rằng cặp CHF/USD tuân theo luật phân phối chuẩn. Các bảng

tính được thực hiện theo sau đây.

Theo giao dịch trên, tác giả lấy số liệu từ tháng 7/2007 đến tháng 7/2012:

153

Bảng 3.6: Thống kê giá CHF và các kết quả tính toán của tác giả

Rec Var

Rec Var

CHF

CHF

CHF

CHF

Giá

Ngày

Ngày

Giá

CHF Returns (ri)

17/7/2012 16/7/2012 13/7/2012 12/7/2012 11/7/2012 10/7/2012 9/7/2012 6/7/2012 5/7/2012 4/7/2012 3/7/2012 2/7/2012 29/6/2012 28/6/2012 27/6/2012 26/6/2012 25/6/2012

CHF Returns 0.0005% (ri) 0.97670 0.2148% 0.0005% 0.97880 0.2245% 0.0016% 0.98100 0.4069% 0.0012% 0.98500 0.3458% 0.0001% 0.98160 0.0917% 0.0034% 0.98070 0.5829% 0.0009% 0.97500 0.2765% 0.0070% 0.97770 0.8319% 0.0111% 0.96960 1.0576% 0.0045% 0.95940 0.6798% 0.0004% 0.95290 0.1782% 0.0042% 0.95460 0.6094% 0.0306% 0.94880 1.7655% 0.0006% 0.96570 0.2488% 0.0003% 0.96330 0.1662% 0.0002% 0.96170 0.1040% 0.0029% 0.96070 0.5427% 0.0010% …….... …….... …….... …….... …….... …….... …….... ……....

…….... …….... …….... …….... …….... …….... …….... …….... 1.21980 0.7240% 0.0020% 1.21100 0.4469% 0.0031% 1.20560 0.5573% 0.0005% 1.19890 0.2171% 0.0000% 1.19630 0.0669% 0.0000% 1.19710 0.0167% 0.0017% 1.19730 0.4185% 0.0004% 1.19230 0.1175% 0.0130% 1.19090 1.1521% 0.0000% 1.20470 0.0166% 0.0007% 1.20450 0.2660% 0.0003% 1.20130 0.1497% 0.0022% 1.20310 0.4727% 0.0019% 1.20880 0.4228% 0.0065% 1.20370 0.8109% 0.0000% 1.21350 0.8940% 1.20270

15/8/2007 14/8/2007 13/8/2007 10/8/2007 9/8/2007 8/8/2007 7/8/2007 6/8/2007 3/8/2007 2/8/2007 1/8/2007 31/7/2007 30/7/2007 27/7/2007 26/7/2007 25/7/2007 24/7/2007

Biểu đồ 3.1: Phân phối xác xuất chuẩn của daily return CHFUSD

60

0

240 180 120

Bảng 3.7: Bảng tính toán các số liệu của tác giả

154

Descriptive statistics (Bảng tính toán)

Mean (µ)

0.0160%

Std deviation (Ϭ)

0.82% 0.00022 -0.90494 13.99189

1300 -0.09088 0.04330 0.00262 51.2

Median Skewness Kurtosis Number of Obsevation (số lần quan sát) Min Max Scott’s choice Number of Bin Lambda (λ)

0.944309

Covariance matrix (EWMA) CHF

AUD

JPY

EUR

GBP

CAD

SGD

EUR 0.00338% 0.00206% 0.00281% 0.00029% 0.00341% 0.00204% 0.00161% GBP 0.00206% 0.00227% 0.00251% 0.00000% 0.00210% 0.00161% 0.00137% AUD 0.00281% 0.00251% 0.00491% 0.00067% 0.00281% 0.00275% 0.00246% JPY 0.00029% 0.00000% 0.00067% 0.00177% 0.00027% 0.00048% 0.00036% CHF 0.00341% 0.00210% 0.00281% 0.00027% 0.00346% 0.00205% 0.00163% CAD 0.00204% 0.00161% 0.00275% 0.00048% 0.00205% 0.00235% 0.00152% SGD 0.00161% 0.00137% 0.00246% 0.00036% 0.00163% 0.00152% 0.00148%

Correlations matrix (EWMA) CHF 0.9981 0.7482 0.6828 -0.1084 1.0000 0.7194 0.7211

AUD 0.6897 0.7511 1.0000 -0.2271 0.6828 0.8084 0.9106

GBP 0.7449 1.0000 0.7511 -0.0006 0.7482 0.6953 0.7484

JPY -0.1178 -0.0006 -0.2271 1.0000 -0.1084 -0.2362 -0.2252

EUR 1.0000 0.7449 0.6897 -0.1178 0.9981 0.7243 0.7209

CAD 0.7243 0.6953 0.8084 -0.2362 0.7194 1.0000 0.8176

SGD 0.7209 0.7484 0.9106 -0.2252 0.7211 0.8176 1.0000

EUR GBP AUD JPY CHF CAD SGD Bảng 3.7: Bảng phân tích trạng thái và kết quả VaR của CHF

Số liệu giao dịch

Asset

Quantity

Last Price date

Last Price

CHF

-1,000,000

17/7/2012

1.02386

155

Bảng tính VaR

Asset

Last Value

VaR (99%)

VaR (95%)

CHF

-1,023,856

14,518

10,313

Qua kết quả tính toán ở trên, với giao dịch bán 1.000.000 CHF giá giao ngay

CHF/USD = 1.02386 tại NHTM Eximbank TP.HCM ngày 15/07/2012, tác giả tính

được các kết quả VaR 99% cho trạng thái bán 1.000.000 CHF là 14.518 USD và

VaR 95% cho trạng thái bán 1.000.000 CHF là 10.313 USD. Điều đó có nghĩa là

trong điều kiện thị trường bình thường, với mức xác xuất 99% thì mức lổ tối đa mà

Eximbank phải chịu với giao dịch trên là 14.518 USD, còn với mức xác xuất 95%

thì mức lổ tối đa mà Eximbank phải chịu với giao dịch trên là 10.313 USD. Với các

kết quả tính toán VaR trên, Eximbank biết trước được rằng với một giao dịch ngoại

tệ của ngân hàng thì ngân hàng sẽ xác định được mức lổ tối đa có thể xảy ra là bao

nhiêu, và mức lổ đó có nằm trong hạn mức rủi ro mà Ban lãnh đạo ngân hàng giao

cho phòng KDNH trong việc thực hiện các giao dịch ngoại tệ tự doanh hay không.

Từ đó, các chuyên viên phòng KDNH sẽ tổng hợp các yếu tố như về giá cả thị

trường, các phân tích kỷ thuật, phân tích cơ bản về sự biến động của giá ngoại tệ, …

cùng với các tính toán về giá trị chịu rủi ro tối đa VaR, các chuyên viên sẽ quyết

định là có nên thực hiện các giao dịch ngoại tệ đó hay không. Một khía cạnh khác,

phòng quản lý rủi ro (QLRR) sau khi nhận được các thông tin về giao dịch từ phía

phòng KDNH, phòng QLRR xác định giá trị VaR cho giao dịch đó, tạo ra báo cáo

cho lãnh đạo ngân hàng, đồng thời cảnh báo đến các phòng ban liên quan nếu các

giao dịch ngoại tệ đó có mức rủi ro cao hơn hạn mức cho phép của ngân hàng hay

có vi phạm các quy định của ngân hàng.

3.3.3.3 . Sử dụng các sản phẩm phái sinh ngoại tệ

Ngày nay, hoạt động kinh doanh của các NHTM trở nên phong phú và đa

dạng hơn bao giờ hết, bên cạnh các nghiệp vụ mang tính truyền thống thì các Ngân

hàng đã không ngừng phát triển các nghiệp vụ tài chính mới, hiện đại, trong đó,

phải kể đến các giao dịch kinh doanh ngoại tệ, vàng. Đây là hoạt động kinh doanh

156

có thể đem lại lợi nhuận rất cao cho NHTM, nhưng nó cũng chứa đầy những rủi ro.

Khi tham gia hoạt động KDNH, Ngân hàng sẽ tạo ra trạng thái ngoại hối mở và dẫn

đến rủi ro tỷ giá cho Ngân hàng nếu tỷ giá trên thị trường biến động. Để có thể hạn

chế được rủi ro này, Ngân hàng phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa, một trong

những công cụ phòng ngừa hữu hiệu chính là các hợp đồng phái sinh về ngoại hối.

Các hợp đồng phái sinh ngoại hối bao gồm: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi,

hợp đồng quyền chọn và hợp đồng tương lai.

Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép Ngân hàng muốn làm giảm rủi ro

của mình, chuyển giao rủi ro cho những tổ chức sẵn sàng chấp nhận nó, đó là những

nhà đầu cơ. Vì vậy, thị trường này rất có hiệu quả trong việc phân phối lại rủi ro

giữa các nhà đầu tư, không ai mong muốn chấp nhận một mức rủi ro không phù hợp

với bản thân mình. Và cũng vì thế mà họ sẵn sàng cung cấp nhiều vốn hơn cho thị

trường tài chính, điều này tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, phát huy khả

năng huy động vốn và giảm chi phí sử dụng vốn. Bên cạnh đó, thị trường các sản

phẩm phái sinh cũng là một công cụ hiệu quả cho hoạt động đầu cơ, tại vì Ngân

hàng muốn phòng ngừa rủi ro phải tìm được một Ngân hàng khác hoặc nhà đầu tư

khác có nhu cầu đối lập hoàn toàn với mình, tức là rủi ro của Ngân hàng muốn

phòng ngừa rủi ro phải được hấp thụ bởi các nhà đầu cơ. Mỗi nhà đầu tư có một khả

năng chấp nhận rủi ro cũng khác nhau và ai cũng có mong muốn là giữ cho các

khoản đầu tư của mình ở một mức rủi ro có thể chấp nhận được. Cho nên, họ gặp

nhau và tiến hành việc chuyển giao một phần rủi ro của mình cho đối tác.

Thị trường phái sinh giúp các tín hiệu thị trường khó bị bóp méo. Vì thế, các

nhà đầu cơ với ý định thao túng thị trường cũng có những khó khăn nhất định.

Chính vì thế, đặt bên cạnh thị trường giao ngay, sự hiệu quả của thị trường phái sinh

giúp nâng cao tính lành mạnh cho thị trường đó. Như vậy công cụ tài chính phái

sinh là sản phẩm của nền kinh tế hiện đại, kỹ thuật tài chính này đòi hỏi một trình

độ hiểu hiết và phát triển nhất định của bất kỳ nền kinh tế nào, tuy nhiên, mức độ và

điều kiện áp dụng ở Việt Nam còn có những hạn chế nhất định. Điều đó đòi hỏi

chúng ta cần có một hệ thống giải pháp tích cực để triển khai thành công các kỹ

157

thuật KDNH này trên thị trường tài chính, nhằm giúp giảm được rủi ro trong hoạt

động này cũng như tạo ra tính hiệu quả cho thị trường ngoại hối Việt Nam. Nếu sử

dụng sai mục đích và không được giám sát chặt chẽ, các công cụ phái sinh, từ chỗ là

công cụ phòng chống rủi ro sẽ mang đến những mầm họa rất lớn cho nền kinh tế.

Để tránh điều đó, NHTM cần xây dựng những trụ cột cơ bản đảm bảo việc triển

khai các công cụ tài chính phái sinh được bền vững.

 Đối với NHNN:

NHNN cần có cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt, kết hợp với các giải pháp

nới rộng biên độ dao động so với tỷ giá bình quân, nhằm hình thành một thị trường

ngoại hối phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ phù hợp với thị trường giao

dịch. NHNN cũng cần tăng cường vai trò trên TTLNH. Thị trường ngoại tệ liên

Ngân hàng do NHNN tổ chức, giám sát và điều hành nhằm hình thành một thị

trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các TCTD là thành viên thị trường. Quan

trọng hơn, NHNN cần nghiên cứu ban hành những quy tắc cơ bản nhất trong giao

dịch phái sinh, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ phù hợp với điều kiện thị trường

của Việt Nam hiện nay, để có hành lang pháp lý chung cho hoạt động của các

NHTM, tránh để các NHTM thực hiện nghiệp vụ mới một cách riêng lẻ, dẫn đến

tình trạng không thống nhất, dễ gây ra tranh chấp khi có sự cố xảy ra, cũng như hạn

chế những rủi ro có thể cho các NHTM.

NHNN cần tăng cường hơn nữa vai trò trên thị trường ngoại tệ liên ngân

hàng. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN tổ chức, giám sát và điều hành

nhằm hình thành một thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các TCTD là

thành viên thị trường. NHNN tham gia thị trường với tư cách là người mua, người

bán cuối cùng, thực hiện can thiệp khi cần thiết vì mục tiêu chính sách tiền tệ quốc

gia. Đây là thị trường cơ sở làm nền tảng để phát triển thị trường ngoại hối.

Ngoài ra, NHNN cần hoàn thiện chế độ kế toán, quy định cụ thể về các giao

dịch phái sinh, có các hướng dẫn cụ thể quy định cách tính toán thu nhập, chi phí,

cách tính giá hạch toán, cách định giá, … phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm giúp

158

các NHTM thực hiện tốt việc theo dõi quản lý nghiệp vụ phái sinh trong quá trình

 Đối với NHTM:

áp dụng.

Các NHTM cũng cần có chính sách đào tạo và bồi dưỡng cho các cán bộ trực

tiếp kinh doanh trên thị trường phái sinh ngoại hối quốc tế về các công cụ phái sinh

ngoại hối, vì đây là những sản phẩm mới, phức tạp cả về lý thuyết lẫn thực tiễn áp

dụng. Ngoài ra cần trang bị thêm những kiến thức và kinh nghiệm về thị trường

ngoại hối và thị trường tiền tệ quốc tế, kỹ năng phân tích kỹ thuật nghiệp vụ phái

sinh ngoại hối, phân tích cơ bản trên cơ sở chọn lọc, tổng hợp và phân tích thông tin

để dự đoán xu hướng diễn biến của thị trường nhằm sử dụng các công cụ phái sinh

một cách hiệu quả nhất. Ngoài điều kiện về trình độ cán bộ thì vấn đề công nghệ

Ngân hàng cũng là điều kiện cần thiết để tạo thuận lợi cho việc ứng dụng nghiệp vụ

phái sinh ngoại hối. Vì các công cụ phái sinh ngoại hối được xây dựng trên cơ sở sử

dụng các thuật toán phức tạp để dự đoán về các khả năng biến động của tỷ giá hối

đoái trong tương lai. Ngoài ra, các NHTM cần nghiên cứu và phát triển dịch vụ

Ngân hàng để nhanh chóng tiếp cận công nghệ mới, phù hợp với thông lệ và chuẩn

mực quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác với các Ngân hàng nước ngoài trên thị

trường ngoại hối quốc tế để tranh thủ sự hỗ trợ về kiến thức, về tài chính và kỹ thuật

để hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng và hệ thống phân tích quản lý rủi ro đối với

các công cụ phái sinh.

Ngoài các giao dịch phái sinh mà NHTM tự thực hiện để phòng ngừa rủi ro

tỷ giá ngoại tệ và giá vàng cho chính Ngân hàng của mình, các NHTM hiện nay còn

cung cấp các sản phẩm phái sinh cho khách hàng. Tuy nhiên, các sản phẩm phái

sinh hiện nay do các Ngân hàng cung cấp một cách rời rạc, nghiệp vụ này cũng còn

khá mới mẻ và khách hàng chưa nhận được mức phí cạnh tranh nhất. Trong thực tế

áp dụng các sản phẩm như hợp đồng quyền chọn, rất dễ xảy ra tình trạng lạm dụng

sản phẩm này để lách biên độ tỷ giá, mua bán ngoại tệ với mức giá cao hơn mức giá

quy định của NHNN. Những tình huống thực tế này đã phần nào hạn chế sự phát

triển của các sản phẩm phái sinh ngoại hối, cả cơ quan quản lý và khách hàng đều tỏ

159

ra khá e dè và thận trọng trong việc triển khai áp dụng các sản phẩm. Để vượt qua

tình trạng này, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước được tiếp cận các sản

phẩm phái sinh để phòng ngừa rủi ro về biến động tỷ giá, thị trường phái sinh cần

được tổ chức tập trung như một Sàn giao dịch hay Sở giao dịch, NHNN có thể giữ

vai trò quản lý chính của thị trường này. Làm được như vậy có thể sẽ đồng thời xử

lý hài hòa được các nhu cầu: nhu cầu chính đáng về bảo hiểm tỷ giá của các doanh

nghiệp và nhà đầu tư; nhu cầu cân đối trạng thái mua bán sản phẩm ngoại hối của

các ngân hàng, thống nhất biểu phí cho các sản phẩm một cách hợp lý; quản lý thị

trường phái sinh một cách chặt chẽ, tránh các trường hợp lạm dụng sản phẩm này để

đầu cơ; tạo điều kiện để thị trường phái sinh phát triển một cách minh bạch, dễ tiếp

cận đối với tất cả các nhà đầu tư và doanh nghiệp trong nước có nhu cầu. Khi đó,

các doanh nghiệp và nhà đầu tư trong nước sẽ có thêm các công cụ tài chính hiệu

quả để tự tin tham gia vào hoạt động giao thương và hội nhập kinh tế quốc tế, cũng

như giúp các NHTM quản lý tốt rủi ro trong các giao dịch ngoại hối của mình.

Ngoài những phương tiện, thiết bị hiện có của Reuters, Thomson, hay

Metastock, các NHTM cần trang bị thêm phần mềm xử lý, QLRR và tính phí đối

với các nghiệp vụ phái sinh. Mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác với các ngân

hàng nước ngoài trên thị trường ngoại hối quốc tế, để tranh thủ sự hỗ trợ về kiến

thức, về hệ thống phân tích QLRR đối với các giao dịch ngoại hối của ngân hàng.

3.3.3.4 . Hạn chế các giao dịch trên thị trường không có nhu cầu thực

Để thực hiện được giải pháp này, trước tiên rất cần có các quy định từ phía

Nhà nước và cần sự kiên trì thực hiện, kiểm tra giám sát, xử phạt nghiêm minh việc

thực thi các quy định của pháp luật đã được đưa ra. Trong các quy định pháp lý của

Nhà nước trong thời gian qua nổi bật nhất phải kể đến việc ban hành Thông tư 03 và

Thông tư 07 trong việc áp dụng cho các đối tượng được phép vay ngoại tệ và tỷ lệ

trạng thái ngoại tê được phép duy trì. Có thể thấy quy định mới này nhằm hạn chế

khả năng các Ngân hàng đầu cơ ngoại tệ, thao túng, chuyển đổi vốn trong hệ thống

gây bất lợi cho tỷ giá, giúp NHNN tăng cường sức mạnh quản lý ngoại hối. Trước

đây có thời điểm nhiều NHTM nhỏ bán âm quá mức trạng thái được phép để giải

160

quyết thanh khoản tiền đồng hoặc găm giữ ngoại tệ với trạng thái trường rất lớn để

đầu cơ làm giá nhằm trục lợi. Nhiều NHTM không kinh doanh vàng nhưng có

nguồn ngoại tệ lớn đã “làm giá” đẩy tỷ giá giao dịch thực trên TTLNH vượt trần tỷ

giá chính thức của NHNN. Hơn nữa, hiện nay vốn điều lệ của nhiều NHTM rất lớn,

tỷ lệ 20% sẽ có nhiều NHTM không sử dụng hết, nên việc giảm trạng thái ngoại tệ

sẽ góp phần ổn định tỷ giá hơn, khi các NHTM mua được ngoại tệ nhưng chưa có

nhu cầu sử dụng sẽ bán lại cho NHNN hoặc trên TTLNH, góp phần ổn định thị

trường ngoại hối, tránh đầu cơ sẽ giúp thị trường ổn định và NHNN dễ hơn trong

việc điều hành CSTT.

Ngoài ra, nhằm giảm các giao dịch trên thị trường ngoại hối có nhu cầu giả

tạo và đầu cơ ngoại hối thì NHNN cần tạo ra một thị trường ngoại hối hoạt động ổn

định lâu dài. Trong thời qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định 95/2011/NĐ-CP

ngày 20/10/2011 về việc Sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 202 về xử phạt

vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, cùng với Thông

tư số 07/2012/TT-NHNN ngày 20/3/2012 của NHNN về Quy định trạng thái ngoại

tệ của TCTD, có hiệu lực kể từ ngày 2/5/2012, thị trường ngoại tệ đã có những

chuyển biến tích cực chưa từng thấy trong nhiều năm gần đây, 6 tháng đầu năm

2012, tỷ giá chính thức do NHNN điều hành rất ổn định, tình trạng tỷ giá “kịch

trần” không còn xảy ra như những năm trước, và có lúc tỷ giá phi chính thức còn

thấp hơn tỷ giá Ngân hàng. Tín hiệu này cho thấy, NHNN đang hoàn toàn giữ thế

chủ động trong việc điều hành tỷ giá, phù hợp với cung cầu ngoại tệ và tình hình

kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, đây chỉ là những kết quả thấy được trước mắt, NHNN cần

theo đuổi một chính sách dài hạn với mục tiêu tạo ra một môi trường KDNH lành

mạnh, giảm thiểu các hoạt động đầu cơ gây xáo trộn mạnh trên thị trường trong điều

kiện nền kinh tế Việt Nam còn chưa phát triển ổn định.

Ngoài ra, khuyến khích các doanh nghiệp giảm phụ thuộc vào USD, sử dụng

đúng ngoại tệ trong hợp đồng với nước xuất khẩu là nên thực hiện nhằm giúp thị

trường USD/VNĐ ít bị biến động, đặc biệt là vào các tháng cuối năm, và giúp thị

trường ngoại hối hoạt động lành mạnh, đáp ứng đúng bản chất kinh tế của hợp đồng

161

giao kết trên thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế thì các NHTM rất khó đáp ứng được

việc này. Ví dụ khách hàng cần đồng Won để thanh toán cho hợp đồng nhập khẩu

nguyên liệu từ Hàn Quốc, nhưng hầu như các NHTM không đáp ứng được vì các

NHTM không có dịch vụ trao đổi ngoại tệ bằng Won, do vậy Ngân hàng không thể

mua và sau đó bán lại chính lượng Won này cho khách hàng, hoặc cũng có thể

Ngân hàng đối tác phía nước ngoài không có thỏa thuận thanh toán bằng Won với

Ngân hàng này. Còn đối với các giao dịch của hợp đồng bằng USD, không phải lúc

nào các NHTM cũng đáp ứng đủ lượng USD theo nhu cầu của thị trường. Do vậy,

nhiều khi doanh nghiệp phải tìm tới ngoại tệ từ thị trường tự do, tuy nhiên, việc mua

ngoại tệ từ thị trường tự do để nộp vào tài khoản và thanh toán cho giao dịch qua

Ngân hàng đều bị cấm. Để khắc phục, các Ngân hàng “lách” bằng cách mua lại

ngoại tệ của các doanh nghiệp sau đó bán lại cho chính doanh nghiệp đó. Do vậy,

các Ngân hàng cần có dự trữ ngoại tệ, hoặc có nguồn cung giữa các Ngân hàng với

nhau để luôn sẵn sàng đáp ứng ngoại tệ cho giao dịch của khách hàng.

Bên cạnh đó, việc cùng một lúc sử dụng 2 loại tiền tệ làm phương tiện thanh

toán chính thức tại một đất nước là USD và VNĐ làm giảm đi giá trị của đồng

VNĐ, tạo ra tình trạng đầu cơ tràn lan khi tỷ giá USDVNĐ biến động nhiều cũng

như làm sai lệch chính sách điều hành CSTT của NHNN. Giải pháp cơ bản của vấn

đề này là hạn chế tình trạng đôla hóa nền kinh tế, tức là NHNN phối hợp các

NHTM đáp ứng được nhu cầu chính đáng của doanh nghiệp và của người dân trong

sử dụng ngoại hối; cũng như Nhà nước quản lý được dòng ngoại hối ra vào qua biên

giới và qua hệ thống tài khoản thanh toán giao dịch vốn hoặc giao dịch vãng lai của

hệ thống NHTM. Trên thực tế, hiện nay Pháp lệnh 28 về Quản lý ngoại hối được

ban hành ngày 13/12/2005 có hiệu lực thi hành từ 1/6/2006 đã bộc lộ những bất cập

cần được chỉnh sửa. Một trong những bất cập rõ nhất của Pháp lệnh này là cho phép

người dân được trực tiếp nhận ngoại hối từ nước ngoài chuyển về dưới hình thức

kiều hối, và cho phép tổ chức, cá nhân gửi và rút ngoại tệ tại Ngân hàng dưới hình

thức gửi tiết kiệm. Đây chính là hai chỗ “trú ẩn” hiệu quả và an toàn nhất của giới

đầu cơ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường tự do. Mỗi khi thị trường ngoại tệ xuất

162

hiện cung lớn, cầu nhỏ thì họ gửi ngoại tệ vào Ngân hàng để bảo toàn giá trị và vẫn

được hưởng lãi. Khí có sốt nóng, cầu lớn hơn cung mà các NHTM không đáp ứng

kịp, lập tức lượng ngoại tệ đang “nằm nghỉ” trong các Ngân hàng sẽ được huy động

để tham gia thị trường tự do với hành vi thao túng giá sẽ tạo khó khăn đáp ứng USD

cho người có nhu cầu sử dụng ngoại tệ thực sự như chữa bệnh ở nước ngoài, du

lịch, du học, thanh toán xuất nhập khẩu,….

Không chỉ bất cập trong quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối, mà hệ

thống những biện pháp đồng bộ khác liên quan hoặc có tác động dây chuyền đến

quản lý ngoại hối cũng cần phải được rà soát. Ví dụ chủ trương tạo điều kiện thuận

lợi cho dòng kiều hối của thân nhân người Việt ở nước ngoài gửi về trong nước là

cần thiết trong bối cảnh dự trữ ngoại hối của Nhà nước còn hạn chế; chưa thu hút

được dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mạnh mẽ. Còn một khi dự trữ ngoại hối

của Nhà nước đã dồi dào, dòng ngoại tệ từ đầu tư nước ngoài đổ vào các dự án

trong nước mỗi năm đã đạt con số trên 20 tỷ USD, NHNN cần xem xét bỏ quy định

cho phép nhận bằng ngoại tệ trong các giao dịch kiều hối.

Bên cạnh đó, một thực tế không thể không nhìn nhận là, một khi tâm lý của

người dân còn bị ám ảnh nặng nề bởi tình trạng lạm phát cao vượt khỏi tầm kiểm

soát của Nhà nước, thì hành vi găm giữ ngoại tệ đặc biệt là USD như một phương

tiện tích trữ vẫn được coi là cần thiết để bảo toàn tài sản của mình. Không chỉ người

dân mà cả doanh nghiệp và Ngân hàng cũng găm giữ ngoại tệ, gây ra sự khan hiếm

giả tạo là cơ hội cho thị trường tự do bị thao túng bất hợp pháp.

Như vậy, cần được tiến hành đồng bộ lộ trình chống đôla hóa gồm hàng loạt

các biện pháp từ vĩ mô đến vi mô. Cần chỉnh sửa tổng thể những cơ chế chính sách

trực tiếp hoặc liên quan đến quản lý ngoại hối không còn phù hợp với tình hình phát

triển hiện nay của nền kinh tế đất nước. Mặt khác phải đảm bảo nền kinh tế phát

triển bền vững, kiềm chế lạm phát hiệu quả, củng cố niềm tin của người dân vào

đồng nội tệ một cách thực tế.

Trên thị trường vàng, nhằm giảm mua bán tràn lan và đầu cơ cũng như tác

động xấu đến CSTT bằng cách thông qua sự hỗ trợ của NHNN bằng chính sách

163

pháp luật, Nghị định 24 nêu rõ hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng, sản

xuất vàng trang sức, mỹ nghệ là hoạt động kinh doanh có điều kiện và phải được

NHNN cấp phép. Cụ thể, tại Điều 11 của Nghị định 24, để được cấp Giấy phép

mua, bán vàng miếng, doanh nghiệp phải đáp ứng ít nhất ba điều kiện nghiêm ngặt

như sau: có vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng trở lên; có số thuế đã nộp của hoạt động kinh

doanh vàng từ 500 triệu đồng/năm trở lên trong 2 năm liên tiếp gần nhất; có mạng

lưới chi nhánh, địa điểm bán hàng tại Việt Nam từ 3 tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương trở lên. Theo Nghị định này, Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng.

Theo ước tính hơn 10.000 doanh nghiệp kinh doanh vàng khắp cả nước, ít có đơn vị

đáp ứng đầy đủ Điều 11 của Nghị định 24, như vậy mạng lưới kinh doanh vàng

miếng trên thị trường tự do sẽ bị thu hẹp đáng kể, gần như thị trường tự do bị cấm

giao dịch vàng miếng giống như bị cấm giao dịch USD, nhằm giảm đầu cơ làm náo

loạn thị trường.

NHNN đã có chính sách để loại bỏ yếu tố tiền tệ của vàng nhằm đảm bảo

chính sách tiền tệ một quốc gia không thể có hai phương tiện thanh toán, tránh thao

túng, đầu cơ làm sai lệch chính sách điều hành của Nhà nước. Tuy nhiên đã có

chính sách tốt, NHNN cần tiếp tục thực hiện trên thực tế và giám sát, kiểm tra, xử

phạt nghiêm minh, tạo tính nghiêm túc chấp hành các quy định của pháp luật và tạo

ra một thị trường ngoại hối có tính ổn định lầu dài. Một trong những nguyên nhân

chính làm cho vàng có chức năng như tiền tệ là do vàng có mang lãi suất, chức năng

tiền tệ của vàng là điều rất bình thường trên thị trường tài chính quốc tế, khi vàng

được tính lãi suất trong mối quan hệ vay mượn. Tuy nhiên, ở Việt Nam, chức năng

tiền tệ của vàng bị khuếch đại trên diện rộng do vàng còn là phương tiện thanh toán

trong mua bán bất động sản. Trong suốt một thời gian dài, chính sách tiền tệ chịu sự

tác động kép bởi tình trạng “đôla hóa” và “vàng hóa”, dù Pháp lệnh ngoại hối 2005

là cơ sở pháp lý quan trọng để điều chỉnh thực trạng này. Để loại bỏ tình trạng

“vàng hóa” nền kinh tế, Điều 19 của Nghị định 24 khẳng định, việc sử dụng vàng

làm phương tiện thanh toán là một hành vi vi phạm pháp luật. Thống đốc NHNN

ban hành Thông tư số 12/2012/TT-NHNN có hiệu lực kể từ ngày 30/4/2012 sửa

164

đổi, bổ sung Thông tư số 11/2011/TT-NHNN quy định chấm dứt huy động và cho

vay vốn bằng vàng của TCTD. Tại Thông tư 12, NHNN quy định rõ, TCTD không

được huy động vốn bằng vàng, trừ trường hợp phát hành chứng chỉ ngắn hạn để chi

trả vàng cho khách hàng; không được chuyển đổi vốn huy động từ vàng sang VNĐ;

không được sử dụng vàng để cầm cố, thế chấp, ký quỹ tại TCTD khác; phải chấm

dứt huy động vàng kể từ ngày 25/11/2012.

Ngoài ra NHNN cần tiếp tục xem xét một số giải pháp nhằm tăng cường sự

ổn định của thị trường vàng lâu dài và hỗ trợ cho hoạt động KDNH của NHTM hiệu

 Quy định niêm yết giá vàng trong nước bằng cách lấy giá vàng thế giới cộng

quả và tránh rủi ro cho các NHTM:

với các chi phí hợp lý (như phí vận chuyển, lưu kho, dập vàng miếng, …),

thuế và biên độ lợi nhuận nhân với tỷ giá chính thức để đảm bảo biên độ

 NHNN sẽ điều chỉnh biên độ chênh lệch giá vàng trong từng thời kỳ theo

chênh lệch giá giữa hai thị trường luôn thấp hơn 400.000 đồng/lượng;

 NHNN tăng dự trữ vàng để chủ động bán vàng can thiệp;

 Vàng bán ra phải có Giấy chứng nhận chất lượng của đơn vị giám định độc

hướng thu hẹp dần;

lập.

Trong bối cảnh giá vàng thế giới vẫn tiềm ẩn các biến động lên xuống khó

lường, yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là phải cải tổ việc quản lý vàng và phát triển

thị trường vàng. Vàng với hàm lượng vàng cao nên được quản lý với tính chất của

một công cụ tiền tệ, Nhà nước cần phải nắm quyền và có các công cụ hữu hiệu để

điều chỉnh cung - cầu vàng, chủ động quản lý có hiệu quả, hiệu lực tổng phương

tiện thanh toán trong nền kinh tế. Bên cạnh việc quản lý vàng với tính chất của một

công cụ tiền tệ, cần có lộ trình cụ thể cho việc phát triển thị trường vàng theo thông

lệ quốc tế, đa dạng hóa các kênh đầu tư, liên thông thị trường trong nước và quốc tế.

Cụ thể:

Thứ nhất, vấn đề lưu thông vàng miếng: do tính chất tiền tệ của vàng vật chất

với hàm lượng cao ở nước ta còn khá mạnh, đặc biệt trong điều kiện tiền đồng chưa

165

ổn định, song cũng không thể để tình trạng lưu thông vàng miếng có hàm lượng cao

thay thế tiền đồng trong thanh toán. NHNN cần quản lý chặt chẽ giao dịch này, từng

bước hạn chế nó khi điều kiện kinh tế - xã hội cho phép. Chỉ trên cơ sở quản lý

vàng với tính chất là công cụ tiền tệ, NHNN mới có thể quản lý được tổng phương

tiện thanh toán trong nền kinh tế, quản lý được giá cả, góp phần ổn định vĩ mô nền

kinh tế, hạn chế các giao dịch không có nhu cầu thực. Quản lý nhà nước về vàng với

tính chất là công cụ tiền tệ cần xác định cụ thể tiêu chuẩn vàng với tính chất tiền tệ,

điều kiện lưu thông vàng tiền tệ và quản lý quan hệ cung - cầu vàng tiền tệ trong

nền kinh tế, gắn với sự phát triển lành mạnh của thị trường vàng và vấn đề liên

thông thị trường vàng trong nước và quốc tế.

Thứ hai, đảm bảo sự phát triển lành mạnh thị trường vàng trong nền kinh tế:

là một loại hàng hóa và là một công cụ tiền tệ trong nền kinh tế, nên việc tồn tại thị

trường vàng là vấn đề khách quan, đây cũng là thực tế trên thế giới, các thị trường

vàng trên thế giới không chỉ tồn tại mà đã có những bước phát triển mạnh trong thời

gian gần đây. Đối với nước ta, hoạt động mua – bán vàng còn là tập quán, có tính

lịch sử, văn hóa lâu đời. Vấn đề là làm thế nào để phát triển lành mạnh thị trường

vàng, đảm bảo sự thông suốt trong phạm vi nền kinh tế và liên thông với thị trường

quốc tế, hạn chế các tác động tiêu cực và tăng cường đóng góp của thị trường vàng

vào sự phát triển của đất nước. Thực vậy, để một thị trường phát triển lành mạnh

không có nghĩa để thị trường phát triển tự do, nhưng cũng không thể chỉ bằng các

giải pháp hành chính, nhất là trong bối cảnh hội nhập. Những biến động mạnh của

giá vàng và sự đi trước của giá vàng trong nước so với giá vàng thế giới vừa qua

một phần là hệ quả của việc bỏ ngỏ thị trường, không có công cụ pháp lý điều tiết

và việc áp dụng một vài giải pháp điều hành mang tính chất hành chính. Do vậy,

Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường vàng, điều

tiết các chủ thể bằng các công cụ và hàng rào kỹ thuật trên thị trường. Liên quan tới

các công cụ, các loại hình hoạt động trên thị trường, cần có lộ trình phát triển từng

bước, phù hợp với điều kiện và trình độ quản lý cụ thể của đất nước. Khung pháp lý

nên định hướng nguyên tắc thị trường có quản lý của Nhà nước vì các biện pháp

166

hành chính chỉ có tác động tức thì, nhưng tiềm ẩn các hành vi lách luật, hoạt động

‘chui”, trong khi chi phí theo dõi, giám sát là rất lớn. Và để quản lý được cung - cầu

trên thị trường vàng, thì khung pháp lý phải đảm bảo rằng NHNN thực hiện được

vai trò quản lý cuối cùng trên thị trường vàng, tức là phải thực hiện quản lý tập

trung các đầu mối hoạt động kinh doanh vàng. Đồng thời, NHNN cần có các công

cụ đủ quyền lực để có thể can thịêp khi có các biến động quá mức trên thị trường.

Thứ ba, liên thông thị trường vàng trong nước và thế giới trên cơ sở nới lỏng

có kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu vàng: Xuất nhập khẩu vàng nên được quản

lý theo nguyên tắc thị trường, thay vì hạn ngạch (quota) như hiện nay. Việc áp dụng

quota luôn tiềm ẩn các hoạt động XNK vàng lậu, không thể kiểm soát được và thất

thoát nguồn thu cho Nhà nước. Do không kiểm soát được lượng vàng XNK nên sẽ

không có thông tin chính xác về cung - cầu vàng trong nền kinh tế. Xóa bỏ cơ chế

quota XNK vàng, thì chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế sau khi đã cộng các

chi phí nhập khẩu cũng sẽ bị loại bỏ. Liên quan tới thuế XNK vàng cũng không nhất

thiết phải áp thuế nhập khẩu với mục đích hạn chế nhập vàng, giảm áp lực lên cầu

ngoại tệ, vì khả năng tái tạo ngoại tệ của vàng rất cao. Thực tế, quý I/2009, Việt

Nam đã có xuất siêu nhờ xuất siêu vàng, thuế xuất khẩu vàng cũng nên được cân

nhắc ở mức phù hợp, khuyến khích việc khơi thông đầu ra, qua đó phát triển công

nghiệp khai thác vàng và công nghiệp chế tác vàng trong nước, tạo công ăn việc

làm cho xã hội.

3.3.4 Các giải pháp khác từ phía các ngân hàng thương mại để hổ trợ cho việc

tăng cường hoạt động quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối

3.3.4.1 . Tăng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại

Quy mô về vốn tự có của một NHTM là một trong những tiêu chí đánh giá

về năng lực tài chính và khả năng đảm bảo tỷ lệ an toàn của Ngân hàng. Quy mô

quá nhỏ bé về vốn là một trong những điểm yếu lớn, đang cản trở sự phát triển và

nâng cao khả năng cạnh tranh của các NHTM. Vì vậy, yêu cầu tất yếu đặt ra đối với

các NHTM là phải tăng vốn điều lệ với tốc độ nhanh hơn tốc độ của tổng nguồn

vốn. Trong hệ thống các giải pháp, giải pháp tăng vốn điều lệ của các NHTM là giải

167

pháp quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh, tạo cơ sở cho việc điều chỉnh cơ cấu

huy động và sử dụng vốn. Do vậy điều cần làm đầu tiên là đánh giá lại tài sản của

toàn hệ thống NHTM vì từ lâu số tài sản này bị đánh giá thấp hơn nhiều so với giá

trị thực tế. Đồng thời, tiếp tục cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của

các NHTM cổ phần với tỷ lệ cho phép theo quy định của NHNN; tăng tỷ lệ trích lập

quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ hàng năm từ lợi nhuận sau khi nộp thuế thu nhập;

cho phép các NHTM cổ phần niêm yết, phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng

khoán; tiếp tục mua lại, sát nhập và hợp nhất các NHTM cổ phần quy mô nhỏ vào

các NHTM cổ phần mạnh hơn, quy mô lớn hơn để tăng cường khả năng cạnh tranh

trên thị trường.

3.3.4.2 . Đầu tư công nghệ

Ngày nay, để đánh giá khả năng cạnh tranh của một Ngân hàng và khả năng

phòng ngừa rủi ro trong hoạt động KDNH, người ta không chỉ dựa vào quy mô vốn,

số lượng các dịch vụ cung cấp mà còn ở trình độ công nghệ và nguồn nhân lực của

chính Ngân hàng đó. Một thực tế cho thấy, một Ngân hàng lớn có nhiều vốn nhưng

cơ sở hạ tầng lạc hậu, nhân viên không linh hoạt trong cập nhật và ứng dụng các

kiến thức mới về kinh doanh Ngân hàng thì Ngân hàng đó sẽ rơi vào tình trạng trì

trệ, khó có khả năng phòng chống rủi ro ngoại hối và chính quy mô lớn nhiều khi lại

gây khó khăn cho việc quản trị và là lực cản của sự phát triển. Hơn nữa chính công

nghệ và nguồn nhân lực lại là hai nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của

sản phẩm dịch vụ Ngân hàng. Vì vậy, yêu cầu đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ

của cán bộ nhân viên Ngân hàng đang là nhu cầu cấp bách hiện nay.

3.3.4.3 . Phát triển nguồn nhân lực

Theo đánh giá chung, nguồn nhân lực của các NHTM còn nhiều hạn chế và

bất cập. Một mặt hiểu biết và kỹ năng thực hiện các công việc chuyên môn của

nhiều cán bộ chưa theo kịp và chưa đáp ứng đòi hỏi của hoạt động Ngân hàng trong

điều kiện cạnh tranh và hội nhập, nhất là trong việc triển khai các dịch vụ mới và

theo cách thức hoạt động của Ngân hàng hiện đại. Mặt khác, có một số cán bộ tuy

được đào tạo cơ bản, có năng lực chuyên môn cao nhưng lại chưa được bố trí, sử

168

dụng hợp lý, gây lãng phí và hạn chế hiệu quả sử dụng cán bộ. Tình hình này đòi

hỏi phải tăng cường về đào tạo và sử dụng hợp lý hơn nguồn nhân lực theo các giải

pháp sau:

Thứ nhất, tập trung giải quyết tốt mâu thuẫn giữa việc phải dành nguồn cán

bộ để đáp ứng các yêu cầu trước mắt, nhưng đồng thời phải dành sự đầu tư thỏa

đáng cho việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhằm đảm bảo tốt cho các bước phát

triển tiếp theo. Bên cạnh việc dứt khoát chọn một số cán bộ trẻ được đánh giá là có

năng lực và đạo đức tốt cử đi đào tạo dài hạn và chuyên sâu ở trong và ngoài nước

để có khả năng triển khai áp dụng các kiến thức, kinh nghiệm học được; đồng thời

coi trọng việc đào tạo thông qua công việc hàng ngày như cán bộ lãnh đạo tạo điều

kiện, dành thời gian chỉ dẫn và giao việc cụ thể, có đánh giá để cán bộ tăng cường

tự học, vươn lên.

Thứ hai, ưu tiên đề bạt sử dụng số cán bộ trẻ có năng lực và đạo đức tốt thay

thế một bộ phận cán bộ lãnh đạo không theo kịp yêu cầu do sự đổi mới nhanh chóng

trong công nghệ, khoa học tổ chức và quản lý hiện đại.

Thứ ba, cần nâng cao năng lực quản trị điều hành của ban lãnh đạo NHTM.

Đây là một trong những yếu tố quyết định năng lực và hiệu quả hoạt động của mỗi

Ngân hàng. Năng lực này phụ thuộc vào khả năng dự báo và chủ động xử lý kịp

thời các tình huống phát sinh sử dụng có hiệu quả các cơ hội và vượt qua các thách

thức.

3.4. CÁC KIẾN NGHỊ VỚI CƠ QUAN CHỨC NĂNG

Bên cạnh những định hướng và các giải pháp được đưa ra đối với các NHTM

ở phần trên, các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động quản lý rủi ro

kinh doanh ngoại hối tại các NHTM cổ phần tại TP.HCM có được sớm triển khai

thành công hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào sự chỉ đạo, hướng dẫn cũng như

tạo điều kiện hổ trợ từ phía các cơ quan chức năng, các Bộ, ngành liên quan, mà đặc

biệt và trước nhất là NHNN Việt Nam và Hiệp hội Ngân hàng.

169

3.4.1. Kiến nghị với Chính phủ, Bộ, Ngành liên quan

3.4.1.1. Ổn định tình hình bên ngoài: kinh tế, chính trị và xã hội

Chính phủ cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để tăng cường ổn định kinh

tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát ở mức thấp. Nâng cao năng lực dự báo, chủ động

điều hành và có phản ứng chính sách phù hợp kịp thời để ứng phó có hiệu quả với

những tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Điều hành chính sách tiền tệ, tài khóa chặt

chẽ, linh hoạt; gắn kết chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ theo mục tiêu tăng

cường ổn định vĩ mô và bảo đảm tăng trưởng hợp lý. Tiếp tục hạ lãi suất tín dụng

phù hợp với mức giảm lạm phát; điều hành tỷ giá theo tín hiệu thị trường, bảo đảm

giá trị đồng tiền Việt Nam; hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường vàng; cải thiện cán

cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại hối. Thực hiện tốt nhiệm vụ thu, chi

theo kế hoạch, chống thất thu, triệt để tiết kiệm chi, nâng cao hiệu quả đầu tư công,

giữ mức bội chi ngân sách không quá 4,8% GDP. Quản lý chặt chẽ nợ công và nợ

quốc gia trong giới hạn an toàn, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia.

Cơ bản hoàn thành việc cơ cấu lại các tổ chức tài chính, tín dụng yếu kém;

Kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tài chính, ngân

hàng; Hỗ trợ phát triển lành mạnh thị trường chứng khoán; Đẩy mạnh xuất khẩu,

kiểm soát chặt chẽ các mặt hàng nhập khẩu không khuyến khích; Tăng cường các

biện pháp thu hút và thúc đẩy giải ngân các nguồn vốn nước ngoài ODA, FDI;

Kiểm soát có hiệu quả đầu tư gián tiếp của nước ngoài (FII); tạo thuận lợi thu hút

khách du lịch quốc tế và kiều hối. Tăng cường quản lý thị trường, giá cả, chống đầu

cơ buôn lậu. Chủ động cung cấp thông tin chính xác, kịp thời về tình hình kinh tế vĩ

mô để hạn chế việc tăng giá do tâm lý.

Không có cơ chế tỷ giá hối đoái nào là tối ưu trong mọi trường hợp. Nhưng

thực tế cho thấy, giữ được tỷ giá ổn định dựa trên việc tìm kiếm thường xuyên sự

cân đối tối ưu giữa tính chất tự thân thị trường với sự can thiệp nhà nước là điều

kiện tốt cho tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Chống suy giảm kinh

tế và đảm bảo an sinh xã hội là mục tiêu trọng tâm mà Chính phủ đã xác định rõ

170

trong những năm qua. Trong số các công cụ thực hiện mục tiêu này, việc quản lý tỷ

giá USD/VND có ý nghĩa quan trọng.

Hơn nữa, khi các đồng ngoại tệ giảm giá do chính sách hạ lãi suất và nới

lỏng tín dụng nhằm kích cầu đầu tư và tiêu dùng trong liệu pháp cả gói chống suy

giảm kinh tế ở các nước phát triển như Mỹ và các nước EU mà tỷ giá VND gắn kết

chặt và dường như không đổi trong suốt thời gian dài, thì điều này cũng đồng nghĩa

với xu hướng định giá đồng bản tệ quá cao, làm mất đi đáng kể lợi thế và sức cạnh

tranh của hàng hóa xuất khẩu của hàng Việt Nam, với những hệ lụy kinh tế – xã hội

khó lường kèm theo, nhất là tình trạng giảm sút quy mô và thu nhập ngoại tệ từ

hàng xuất khẩu, thu hẹp sản xuất, gia tăng thất nghiệp và các áp lực an sinh xã hội

khác, v.v…

Mặt khác, việc điều chỉnh tăng mạnh tỷ giá VND, chẳng hạn so với USD, tức

phá giá mạnh đồng bản tệ, lại có thể tạo nguy cơ bùng nổ tái lạm phát và thậm chí

có thể xuất hiện tình trạng suy thoái - lạm phát, gây mối nguy hiểm kép, tức vừa có

lạm phát cao với các hệ quả đắt đỏ mà chúng ta vừa trải qua, vừa có sự đình trệ,

thậm chí suy giảm mạnh quy mô và tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, hết sức tiêu cực

cho sự ổn định hệ thống tài chính - tiền tệ và cả thể chế quốc gia mà chúng ta đã

chứng kiến những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20.

Phạm vi tác động của chính sách tỷ giá gia tăng cùng chiều với mức độ tự do

chuyển đổi đồng tiền và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới của mỗi nước. Khả

năng cạnh tranh của xuất khẩu, trạng thái cán cân thương mại và thanh toán, dự trữ

quốc gia, biến động cơ cấu sản xuất, niềm tin vào bản tệ, vào chính phủ, vào tương

lai – nghĩa là các nhân tố chủ yếu đo lường sức khỏe và chi phối mạnh động lực

phát triển nền kinh tế đất nước – đều phụ thuộc sâu sắc vào tỷ giá hối đoái chính

thức.

Ngoài ra, khi định giá quá thấp đồng bản tệ, dù do sự chủ động của chính

phủ với hy vọng kích thích xuất khẩu, hoặc do sự bị động gắn với việc buộc phải

gia tăng phát hành bản tệ bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước hay để mua vét ngoại

tệ trên thị trường nội địa cho nhu cầu trả nợ của chính phủ, thì tác hại cũng không

171

kém: sức ép lạm phát gia tăng, chi phí dịch vụ nợ bằng ngoại tệ tăng nhanh, đồng

thời giá hàng nhập khẩu cũng bị đẩy lên cùng chiều với tốc độ mất giá bản tệ, cũng

như làm thu hẹp nguồn vốn chảy vào và từ đó làm tăng nguy cơ phá sản các doanh

nghiệp, làm tăng nạn thất nghiệp và sự bất ổn định lan truyền trong toàn bộ đời sống

kinh tế - xã hội. Thậm chí có thể đưa tới sự đổ vỡ nền kinh tế và những chấn động

mạnh về thể chế chính trị của đất nước...

3.4.1.2. Các chính sách vĩ mô cơ bản: lạm phát, thâm hụt cán cân thương mại,

tình trạng đôla hóa nền kinh tế

 Lạm phát

Một trong những giải pháp để giảm rủi ro ngoại hối là kiềm chế lạm phát.

Với Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung

kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, Chính phủ đã hạ

quyết tâm chủ động mở một chiến dịch mới kiềm chế lạm phát trên cơ sở vận dụng

những quy luật thị trường và sử dụng quyền lực nhà nước, trong đó hai giải pháp

chính yếu nhất là i) thực hiện CSTT chặt chẽ và ii) thực hiện chính sách tài khóa

thắt chặt, mục tiêu là điều tiết tổng cầu, thu hồi tiền thừa trong lưu thông, thiết lập

cân đối tiền - hàng mới. Kiềm chế lạm phát không phải là quay trở lại mặt bằng giá

cũ, mà là hình thành một mặt bằng giá mới.

Do đó, trong Nghị quyết đã đề ra nhiệm vụ điều chỉnh giá điện, giá xăng dầu,

v.v... một mặt nhằm khắc phục những bất hợp lý trong mặt bằng giá tồn tại nhiều

năm nay, mặt khác cũng góp phần điều tiết tổng cầu, hình thành mặt bằng giá mới.

Các loại giải pháp khác như thúc đẩy sản xuất, bảo đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh

thông tin, tuyên truyền cần coi là những giải pháp hỗ trợ nhằm che chắn tác dụng

phụ có thể phát sinh trong quá trình triển khai Nghị Quyết.

Trong các nguyên nhân lạm phát, rất cần làm rõ và nhấn mạnh những nguyên

nhân chủ quan. Như đã phân tích ở trên, một khi xảy ra mất cân đối cung cầu giữa

tiền và hàng, tiền nhiều hơn hàng nên tiền mất giá. Nhận thức rõ nguyên nhân chủ

quan như vậy có ý nghĩa đề cao trách nhiệm của Chính phủ trong kiềm chế lạm

phát.

172

Mặc dù kiềm chế lạm phát đã là một Nghị quyết của Chính phủ, lạm phát là

một thực trạng kinh tế không đơn giản và không thể giải quyết trong một thời gian

ngắn. Nghị quyết 11 đã đề ra sáu loại giải pháp, trong đó các giải pháp kinh tế và

hành chính kết hợp và hỗ trợ nhau. Nhìn tổng thể, giải pháp kinh tế giữ vai trò chủ

yếu, tuy nhiên trong khu vực nhà nước, đặc biệt trong thực hiện chủ trương giảm

đầu tư công, giải pháp hành chính phải giữ vai trò quyết định. Kiềm chế lạm phát

tuy cấp bách, nhưng nó dường như đã trở thành bệnh mãn tính, rất nặng lại nhạy

cảm, cho nên cần tránh nôn nóng, vội vàng áp dụng những giải pháp có thể gây sốc.

Nghị quyết 11 cần được triển khai trong tinh thần khẩn trương, nhưng thận trọng

theo một lộ trình được nghiên cứu chu đáo với liều lượng giải pháp được điều chỉnh

dần trong quá trình thực hiện Nghị quyết.

 Thâm hụt cán cân thương mại

Tại Nghị Quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 về những giải pháp chủ yếu tập

trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, Thủ tướng

Chính phủ giao Bộ công thương xây dựng kế hoạch điều hành xuất, nhập khẩu,

phấn đấu bảo đảm nhập siêu không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu, chủ động

áp dụng các biện pháp phù hợp kiểm soát nhập khẩu hàng tiêu dùng.

Nhập siêu không phải mới phát sinh, mà đã tồn tại cùng với nền kinh tế

chúng ta nhiều năm nay. Nhập siêu cũng không hẳn là không có lợi cho nền kinh tế,

vấn đề là nhập những gì và sử dụng như thế nào. Nếu nhập máy móc, thiết bị, trong

đó có cả phần dành để hiện đại hóa công nghệ là điều cần thiết trong quá trình cải

tiến sản xuất, càng quan trọng hơn nếu làm tăng giá trị gia tăng của sản phẩm. Nhập

khẩu nguyên liệu, vật tư cho các ngành công nghiệp càng không thể thiếu để phục

vụ trong sản xuất và chế tạo.

Vấn đề đang đặt ra là trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay lại có hiện tượng

chi tiêu quá mức với nhiều loại sản phẩm xa xỉ không cần thiết cho đại đa số người

dân. Tuy nhiên là thành viên của WTO, Việt Nam phải tuân thủ các quy định liên

quan đến mậu dịch quốc tế của tổ chức này, tất nhiên là các nước thành viên phải

mở cửa cho hầu hết sản phẩm nhập khẩu theo một lộ trình nhất định do các thành

173

viên đã thỏa thuận. Thế nhưng hạn chế nhập khẩu một số sản phẩm nhập khẩu nào

đó, thành viên có thể áp dụng quy chuẩn kỹ thuật để các nhà chế tạo và nhập khẩu

biết để tuân theo. Đây là hình thức được WTO chấp nhận để một thành viên có thể

sử dụng nhằm hạn chế nhập khẩu sản phẩm nào đó mà không bị cho là vi phạm chế

độ bảo hộ mậu dịch, hình thức này được sử dụng khá phổ biến khi hàng rào thuế

quan đã bị dẹp bỏ.

Do đó, để hạn chế tình trạng nhập siêu, chúng ta cần xây dựng hàng rào kỹ

thuật. Đặc biệt, cần phân tích rõ cơ cấu nhập khẩu số lượng lớn hàng tiêu dùng

không thiết yếu, để giúp chúng ta biết được những mặt hàng nào trực tiếp phục vụ

sản xuất và những mặt hàng nào chỉ phục vụ cho cuộc sống hằng ngày của người

dân. Trên cơ sở đó, cơ quan quản lý Nhà nước định hướng chính sách rà soát để có

cơ sở cấp vốn vay nhập hàng, cũng như sử dụng các biện pháp khác, trong đó có

việc cấp giấy phép tự động, nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng

không thiết yếu. Việc tăng các rào cản thuế và phi thuế đối với hàng nhập khẩu

không thiết yếu phục vụ sản xuất tiêu dùng phải tuân thủ lộ trình giảm thuế đã cam

kết. Cụ thể, rà soát lại các khoản thuế, dòng thuế với các hàng hóa nhập khẩu, nhất

là nhóm hàng hạn chế nhập khẩu và áp dụng đến mức cao nhất mà lộ trình của

WTO đã cam kết cho phép; nghiên cứu, áp dụng các rào cản phi thuế như các rào

cản kỹ thuật, biện pháp vệ sinh và an toàn thực phẩm, biện pháp tự vệ, trợ cấp hoặc

biện pháp đối kháng theo đúng những điều kiện mà WTO đã quy định.

Ngoài ra, cần tăng cường kiểm tra giá tính thuế hàng nhập khẩu trong khâu

thông quan, thông qua việc đưa vào danh mục quản lý rủi ro từ 13 nhóm mặt hàng,

lên 20 nhóm mặt hàng vào cuối năm 2011. Ban hành quy chế xây dựng, thu thập,

cập nhật và cơ sở dữ liệu về danh mục hàng hóa, biểu thuế và phân loại, áp dụng

mức thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Đặc biệt, ngành chức năng cần tăng

cường kiểm tra sau thông quan, thanh tra việc phân loại hàng hóa, áp dụng mức

thuế với hàng hóa đã thông quan và thông báo sớm kết quả đã kiểm tra, thanh tra về

phân loại hàng hóa cho khâu thông quan để các Doanh nghiệp có biện pháp điều

chỉnh kịp thời. Như vậy, đã đến lúc Nhà nước phải đánh thuế cao với nhóm mặt

174

hàng xa xỉ. Hiện tại, quy định của WTO không cấm chúng ta đánh thuế cao, mà

quan trọng là chúng ta có thực thi biện pháp này hay không, hoặc chí ít có thể sử

dụng các biện pháp khác mà không vi phạm quy định của WTO như tạo thủ tục

hành chính thuế, hải quan khắt khe hơn đối với các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ như đã

nói ở trên. Đặc biệt, các ngành chức năng có thể đặt ra các tiêu chuẩn kỹ thuật, an

toàn môi trường, hay các biện pháp khác như hạn chế ngoại tệ, hạn chế cho vay để

nhập khẩu hàng xa xỉ không cần thiết.

Sớm thực hiện tốt những vấn đề nêu trên, hy vọng sẽ hạn chế được tình trạng

nhập siêu, cân bằng cán cân thương mại và cân đối cung cầu ngoại tệ; từ đó tạo ra

hoạt động ổn định trên thị trường ngoại hối và giảm thiểu rủi ro ngoại hối cho các

chủ thể tham gia vào nền kinh tế.

 Tình trạng đôla hóa nền kinh tế

Đôla hóa là tình trạng khó tránh khỏi đối với các nước có xuất phát điểm

thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và đẩy mạnh hội nhập quốc tế như

Việt Nam. Tâm lý lo ngại về lạm phát, về sự mất giá của đồng nội tệ, thói quen sử

dụng tiền mặt trong giao dịch, v.v... không thể trong một thời gian ngắn xóa bỏ hay

giảm triệt để được.

Do đó, việc xóa bỏ đôla hóa trong nền kinh tế - xã hội nước ta phải được

thực hiện từng bước, từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát triển của

đất nước; phải bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế, vừa hành chính kết hợp với giáo

dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hội trong lộ trình thực thi nhiều cơ chế kinh tế

nghiệp vụ ngân hàng cụ thể nối tiếp nhau, để nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam

trong các chức năng thuộc tính của tiền tệ. Việc xóa bỏ đôla hóa không thể xử lý

theo quan điểm xóa bỏ sạch trơn, phủ định tất cả. Trong giai đoạn hiện nay cần cố

gắng khai thác mặt lợi, thu hút vốn đôla trong dân vào hệ thống ngân hàng, đầu tư

cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Khi đề cập đến kiềm chế, đẩy lùi và hạn

chế các mặt tiêu cực của tình trạng đôla hóa nền kinh tế, có nghĩa là chúng ta chấp

nhận sự tồn tại của đôla hóa ở những mặt tích cực khách quan. Điều quan trọng nhất

là Nhà nước phải giữ vai trò chủ động để điều chỉnh hiện tượng đôla hóa; nhất

175

quyết phải có các giải pháp hành chính - kinh tế - giáo dục đồng bộ để triệt tiêu các

mặt tiêu cực của đôla hóa. Chúng ta không thể sử dụng lại các biện pháp hành chính

đã từng áp dụng trong những thời gian trước đây như là: tăng tỷ lệ kết hối lên

100%, không cho nhận kiều hối bằng ngoại tệ, không nhận tiền gửi ngoại tệ hoặc hạ

thấp lãi suất tiền gửi ngoại tệ, chỉ cho phép doanh nghiệp được mở tài khoản ngoại

tệ tại một ngân hàng.

Những biện pháp hành chính này qua thực tiễn thực hiện đã chứng tỏ là

chúng gây khó khăn cho các doanh nghiệp, không khuyến khích nguồn kiều hối

chuyển về nước, và không phù hợp với xu hướng hội nhập với khu vực và thế giới.

Do đó, để giữ được những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đôla hóa,

chúng ta có thể thực hiện một số giải pháp được trình bày ngắn gọn sau đây:

 Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn

ngoại tệ hiện có trong dân.

 Những giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ

 Cần tiếp tục phát triển dịch vụ ngân hàng và mở rộng thanh toán không

dùng tiền mặt trong nền kinh tế; Đẩy mạnh tuyên truyền về sử dụng thẻ,

kể cả thẻ tín dụng quốc tế.

 Thay cho việc chỉ gắn với đồng đôla Mỹ như trước đây, tỷ giá ngang giá

nên gắn với một "rổ" tiền tệ (bao gồm một số ngoại tệ mạnh như USD,

EURO, JPY và một số đồng tiền của các nước trong khu vực như Trung

Quốc, Hàn Quốc, ...), các đồng tiền này tham gia vào "rổ" tiền tệ theo tỷ

trọng quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam. Việc xác định tỷ giá

như trên nhằm giảm bớt sự lệ thuộc của đồng Việt Nam vào đôla Mỹ, và

phản ánh xác thực hơn quan hệ cung cầu trên thị trường trên cơ sở có tính

đến xu hướng biến động các đồng tiền của các nước bạn hàng lớn.

 Các Ngân hàng chỉ được phép cho vay đồng USD đối với những đối

tượng có doanh thu trực tiếp và có khả năng chi trả bằng đồng USD. Còn

tất cả các doanh nghiệp trong nước khác vay các NHTM trong nước đều

176

thực hiện bằng đồng bản tệ, khi cần ngoại tệ để thanh toán với quốc tế thì

mua ngoại tệ tại các NHTM để mở tín dụng thư (L/C) thanh toán.

 Không được duy trì quyền sở hữu ngoại tệ không có nguồn gốc hợp pháp.

Cần có quy chế rõ ràng rằng sở hữu ngoại tệ của dân cư là sở hữu ngoại

tệ hợp pháp chuyển từ nước ngoài vào; không cho phép sở hữu số ngoại

tệ có được do sự trao đổi lòng vòng ở thị trường phi chính thức, rồi

chuyển số đó thành sở hữu riêng.

 Sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt

buộc, ... để tác động đến điều kiện thị trường nhằm làm cho đồng Việt

Nam hấp dẫn hơn đôla Mỹ. Qua đó hạn chế xu hướng chuyển đổi từ đồng

Việt Nam sang đôla Mỹ.

 Cần nhất quán chủ trương quản lý lưu hành ngoại tệ theo hướng "Tại

Việt Nam chỉ chi trả bằng đồng Việt Nam". Muốn vậy, cần có các quy

định cụ thể về việc sử dụng ngoại tệ của cá nhân.

Quá trình kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đôla hóa thành công là một tiền để

cần thiết để Việt Nam có được một cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn. Với sự mở

cửa của khu vực tài chính trong những năm tới và sự tự do hóa giao dịch tài khoản

vốn, việc đạt được mục tiêu kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đôla hóa là việc làm rất

khó khăn, muốn làm được cần phải có thời gian và có quyết tâm cao. Điều quan

trọng là những mặt tích cực mang lại lợi ích của hiện tượng đôla hóa trên thị trường

Việt Nam không nên bị xóa bỏ, nó tồn tại đan xen trong cơ chế thị trường mở cửa

và hội nhập, được sử dụng như một giải pháp bổ sung trong chính sách tiền tệ tích

cực của đất nước trong giai đoạn mới, còn những mặt tiêu cực của đôla hóa thì cần

phải được kiềm chế, đẩy lùi và xóa bỏ; để từ đó tạo ra sự hoạt động ổn định cho thị

trường ngoại hối.

3.4.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước

Quản trị rủi ro trong KDNH của các NHTM là mảng hoạt động khá phức tạp

và khó khăn, bởi phạm vi của nó rất rộng, đồng thời các yếu tố nội hàm trong quản

lý rủi ro lại có mối tương quan phức tạp, có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau dưới nhiều

177

góc độ. Chính vì vậy, để quản trị rủi ro KDNH một cách hiệu quả, cần thực hiện

đồng bộ, thống nhất phối hợp ở tất cả các cấp độ, mà cấp độ cao nhất và trực tiếp

trong hệ thống ngân hàng Việt nam chính là NHNN. Tác giả kiến nghị các chính

sách sau với NHNN:

3.4.2.1. Chính sách tỷ giá USD/VND

Chính sách tỷ giá luôn là một chính sách vĩ mô rất quan trọng bởi phạm vi

tác động lớn, khó lường trước và thường phải đánh đổi giữa nhiều mục tiêu vĩ mô.

Trên thực tế thường có quá nhiều mục tiêu được đặt ra cho chính sách tỷ giá, trong

khi đó các công cụ thực thi chính sách và dư địa thực hiện chính sách lại khá hạn

hẹp. Việc giảm giá đồng nội tệ có thể thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh

toán, nhưng điều đó chỉ có thể xảy ra trong những điều kiện nhất định. Lựa chọn

một chế độ tỷ giá hối đoái phù hợp để ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng dài

hạn cũng như ổn định cho hoạt động trên thị trường ngoại hối được coi là một ưu

tiên trong quản lý kinh tế hiện nay. Việc đánh giá diễn biến và nguyên nhân biến

động của tỷ giá, đồng thời phân tích mối liên hệ giữa chính sách tỷ giá và các biến

số kinh tế vĩ mô là một chủ đề mà các nhà hoạch định chính sách hiện rất quan tâm,

theo Ủy ban kinh tế quốc hội (2011).

Chính sách neo tỷ giá có mục tiêu là giúp ổn định kinh tế vĩ mô nhưng cũng

làm tăng sức ép cho nhà quản lý, dẫn đến có giai đoạn điều hành bị giật cục, làm

tăng lạm phát như xảy ra gần đây. Tuy nhiên, trong giai đoạn vài năm trở lại đây khi

điều kiện thâm hụt thương mại lớn, cán cân tài khoản vãng lai thường xuyên thâm

hụt, lạm phát gần đây thuộc loại cao nhất khu vực, thì nền kinh tế tiếp tục bị đôla

hóa với tỷ lệ đáng kể. Lạm phát cao cũng làm tăng nhu cầu tích trữ của cải, hệ quả

là giá vàng trong nước thường xuyên cao hơn giá vàng quốc tế dẫn đến nhập lậu

vàng đáng kể. Trong bối cảnh như vậy, chính sách tỷ giá chịu nhiều sức ép và khó

có thể làm hài lòng tất cả mọi người.

Mối quan ngại hiện nay là các nước đều kiềm chế tốc độ tăng giá bản tệ và

dùng công cụ tỷ giá để thúc đẩy xuất khẩu mà không tuân theo quy luật cung cầu.

Trong khi đó, mức độ phát triển không đồng đều của thế giới đã làm gia tăng nỗi lo

178

về những phản ứng bất lợi khi các nước tìm cách bảo vệ sự cạnh tranh thương mại

của họ trước những kỳ vọng về sự mất giá tiếp theo của USD.

Giá bản tệ tăng có thể giúp đối phó với lạm phát nhờ dòng vốn vào tăng và

nhập khẩu rẻ hơn, góp phần thúc đẩy tiêu dùng trong nước, từng bước nâng cao chất

lượng cuộc sống và tăng năng suất lao động, đồng thời giúp các nhà hoạch định

chính sách đạt được mục tiêu biến nhu cầu nội địa thành động lực tăng trưởng kinh

tế lớn hơn, năng lực đầu tư được tăng cường và đóng góp nhiều hơn cho GDP. Giá

bản tệ tăng có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn, nhưng đảm

bảo tăng trưởng bền vững trong dài hạn và giúp khắc phục triệt để các vấn đề xã

hội.

Phá giá đồng nội tệ có thể hỗ trợ xuất khẩu, nhưng mức độ đóng góp của

xuất khẩu vào tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc vào tỷ trọng hàng nhập khẩu trong

hàng hóa xuất khẩu, một đồng bản tệ quá yếu sẽ gây nên lạm phát và bong bóng tài

sản, làm suy giảm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Vấn đề

quan trọng là phải tăng lợi nhuận xuất khẩu và tạo việc làm một cách liên tục,

nhưng không nên lệ thuộc vào điều chỉnh tỷ giá, những yếu tố khác của tăng trưởng

kinh tế có thể bù cho bất cứ sự sụt giảm nào của xuất khẩu. Việc các nước đồng loạt

phá giá đã làm cho việc phá giá trở nên vô nghĩa, thậm chí không còn khả năng

kiểm soát lạm phát do cung tiền quá mức, nhưng dường như các chính phủ và

NHTW còn bị chi phối bởi lợi ích quốc gia mặc dù biết rằng, một chính sách tỷ giá

phù hợp sẽ đảm bảo và cải thiện thu nhập thực tế của người lao động, làm nền tảng

để nâng cao hiệu quả tăng trưởng.

Trong khi đó, một chính sách tỷ giá thả nổi - công cụ của nền kinh tế thị

trường phát triển - là một nhân tố gây mất ổn định mạnh trong bối cảnh nền kinh tế

chuyển đổi chưa phát triển đầy đủ các quan hệ thị trường. Việc nhấn mạnh một

chiều các lợi ích của việc ấn định giá trị đồng bản tệ quá cao hoặc quá thấp, cũng

giống việc thả nổi hoàn toàn tỷ giá, là chỉ tính đến những lợi ích ngắn hạn và chứa

đựng trong đó tất cả những hiểm họa mà sớm hay muộn sẽ bùng nổ trong tương lai,

khiến toàn bộ nền kinh tế phải trả giá đắt hơn so với những lợi ích cục bộ thu được.

179

Cái giá phải trả càng cao nếu mức độ chênh lệch giữa tỷ giá trên thị trường chính

thức và tỷ giá trên thị trường phi chính thức càng lớn và được duy trì càng lâu, cũng

như nếu cơ chế và các thể chế thị trường trong nước càng sơ khai và thiếu đồng bộ.

Hơn nữa, sự đầu cơ quốc tế sẽ làm cho cái giá phải trả này càng trở nên khổng lồ và

khó lường trước được.

Do đó, không có một cơ chế tỷ giá hối đoái nào là tối ưu trong mọi trường

hợp. Nhưng thực tế cho thấy, giữ được tỷ giá ổn định dựa trên việc tìm kiếm thường

xuyên sự cân đối tối ưu giữa tính chất tự thân thị trường với sự can thiệp nhà nước

là điều kiện tốt cho tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Vì vậy, chính

sách tỷ giá ngày càng được nhiều nước lựa chọn là sự điều chỉnh tỷ giá có tính mềm

dẻo, linh hoạt một cách thận trọng thích ứng với những biến động dựa trên quan hệ

cung cầu thị trường có sự điều tiết tích cực của nhà nước.

Có hai phương thức xác định xu hướng và mức vận động của tỷ giá danh

nghĩa ổn định thường được dùng là:

 Xác định một hoặc một số ngoại tệ mạnh mà tỷ giá bản tệ biến động gắn với

chúng: Đó có thể là ngoại tệ thường dùng trong thanh toán quốc tế, hoặc

đồng tiền của nước bạn hàng chính. Phương thức này đặt sự biến động của

đồng bản tệ vào các nhân tố bên ngoài, và do đó dễ gây ra tình trạng “nhập

khẩu” lạm phát hoặc thiểu phát, đột biến giá cả ngoài tầm quản lý của chính

phủ, tăng tính bị động của chính sách vĩ mô, thường gây bất ổn cho thị

trường ngoại hối.

 Định kỳ điều chỉnh tỷ giá bản tệ: NHTW dự kiến trước mức điều chỉnh giá

bản tệ trong khoảng thời gian xác định trên cơ sở cân nhắc và dự báo cung -

cầu về ngoại tệ, tình hình kinh tế - xã hội cụ thể trong, ngoài nước và xu thế

vận động của chúng. Tuy vậy, nếu khoảng cách của các chu kỳ điều chỉnh tỷ

giá không được cân nhắc đầy đủ sẽ gây ra tình trạng hỗn loạn, bất an trong

tâm lý và hoạt động kinh tế; sẽ làm gia tăng nạn đầu cơ hoặc thái độ chờ thời

của các chủ đầu tư, đặc biệt là khi chính phủ tạo ra sự điều chỉnh tỷ giá một

chiều – tức chỉ tăng hay giảm tỷ giá.

180

Hơn nữa, nếu ghìm tỷ giá quá lâu hoặc mức điều chỉnh tỷ giá bản tệ quá mức

sẽ gây ra tình trạng tăng hoặc giảm quá giá trị bản tệ, từ đó kéo theo các hệ quả của

việc định giá quá cao hoặc quá thấp đồng bản tệ như đã phân tích ở trên.

Do vậy, sự điều chỉnh tỷ giá bản tệ sẽ là nhân tố ổn định chỉ khi những biện

pháp phối hợp của chính sách tiền tệ không làm tăng cung tiền vượt quá mức tăng

sản lượng hàng hóa vật chất và tiền tệ hóa sự thiếu hụt ngân sách - một việc làm sẽ

khiến gia tăng lạm phát, đôla hóa và dễ tạo ra vòng xoáy chóng mặt của lạm phát -

phá giá bản tệ - lạm phát, để rồi đi tới sự sụp đổ bản tệ, gây bất ổn trầm trọng cho

thị trường ngoại hối.

Bên cạnh đó, dù linh hoạt chính sách tỷ giá, Nhà nước vẫn giữ vai trò điều

tiết nền kinh tế và cần thúc đẩy các kênh đầu tư để thu hút lượng USD nhằm giảm

bớt tác dụng phụ của chính sách tỷ giá hối đoái, có biện pháp kiểm soát chặt hơn và

hạn chế nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, đặc biệt là của các quỹ đầu tư rủi

ro. Trong điều kiện nền kinh tế chưa hấp thu hiệu quả đồng vốn đầu tư gián tiếp

nước ngoài thì nên đặt ưu tiên số một là khôi phục ổn định vĩ mô của nền kinh tế,

đảm bảo cho sự tăng trưởng dài hạn.

3.4.2.2. Phát triển thị trường sản phẩm phái sinh

Công cụ phái sinh là một công cụ bắt nguồn từ một sản phẩm gốc đã có từ

trước như ngoại tệ, vàng, chứng chỉ tiền gửi bằng ngoại tệ, v.v… Các công cụ phái

sinh ngoại hối thông dụng bao gồm: kỳ hạn, hoán đổi, hợp đồng tương lai và hợp

đồng quyền chọn ngoại hối.

Công cụ phái sinh ngoại hối ra đời là để bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Tỷ giá biến

động theo một biên độ lớn và ngẫu nhiên, phản ánh quan hệ cung cầu về ngoại tệ

trên thị trường là điều kiện tiên quyết cho việc sử dụng các công cụ phòng chống rủi

ro. Trên thị trường ngoại hối, bên cạnh việc phản ánh quan hệ cung cầu về ngoại tệ

thì thị trường còn ẩn chứa các yếu tố đầu cơ và chênh lệch giá về ngoại tệ. Đây cũng

là những yếu tố quan trọng trong việc làm cho tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại

hối biến động một cách khó dự đoán. Chính vì sự không dự đoán trước được những

thay đổi của tỷ giá trên thị trường mà các doanh nghiệp cũng như các NHTM và các

181

chủ thể khác trong nền kinh tế có hoạt động giao dịch ngoại hối luôn có mong muốn

bảo hiểm rủi ro để chống lại những tổn thất có thể xảy ra đối với các dòng tiền

ngoại tệ của mình.

Theo thông lệ quốc tế, trước khi giao dịch các sản phẩm phái sinh như hoán

đổi, quyền chọn hay tương lai, các bên tham gia phải ký kết với nhau bản thỏa thuận

chung của Hiệp hội các nhà kinh doanh phái sinh và hoán đổi quốc tế ISDA. Thỏa

thuận này bao gồm các điều khoản và điều kiện nhằm quy định phạm vi giao dịch,

loại công cụ giao dịch, nghĩa vụ của các bên tham gia; quy định các vấn đề về giải

quyết tranh chấp, tòa án hay các vấn đề xử lý khi có bên tham gia bị mất khả năng

thanh toán, v.v…

Thị trường phái sinh và công cụ phái sinh ngoại hối rất đa dạng, phức tạp đòi

hỏi các giao dịch viên phải có trình độ chuyên môn cao về lĩnh vực ngoại hối, am

hiểu các kỹ thuật nghiệp vụ phái sinh ngoại hối. Đặc biệt là cán bộ giao dịch phải có

khả năng vận dụng linh hoạt các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá đối với danh

mục đầu tư bằng ngoại tệ, vàng của bản thân đơn vị. Bên cạnh điều kiện về trình độ

cán bộ thì vấn đề công nghệ áp dụng tại các đơn vị cũng là điều kiện cần thiết để

ứng dụng nghiệp vụ phái sinh ngoại hối. Vì các công cụ phái sinh nói chung và

công cụ phái sinh ngoại hối nói riêng được xây dựng trên cơ sở sử dụng các thuật

toán phức tạp để dự đoán về các khả năng biến động của tỷ giá hối đoái trong tương

lai. Do đó đòi hỏi các NHTM, doanh nghiệp và các chủ thể có liên quan cần phải có

các phần mềm hiện đại để xử lý giao dịch cũng như quản lý và tính phí đối với các

công cụ phái sinh. Từ đó, các chủ thể có hoạt động giao dịch ngoại hối có điều kiện

phòng ngừa và giảm rủi ro ngoại hối hiệu quả và kinh tế nhất theo điều kiện của đơn

vị mình.

3.4.2.3. Chính sách đối với huy động và tín dụng ngoại tệ

Nhận thức được những tác động tiêu cực của tín dụng ngoại tệ, NHNN đã có

chủ trương hạn chế, thu hẹp đối tượng cho vay và thắt chặt khả năng cho vay của

các NHTM và hạ thấp lãi suất huy động ngoại tệ. Trong giai đoạn 2008 - 2011,

NHNN đã liên tục đưa ra những thay đổi về đối tượng được vay và quy định đối với

182

TCTD cho vay bằng ngoại tệ, điển hình là các Quyết định 09/2008/QĐ-NHNN,

Thông tư 25/2009/TT-NHNN, Quyết định số 750/QĐ-NHNN, Quyết định số

74/QĐ-NHNN, v.v... Những động thái này cho thấy chủ trương của NHNN tăng

cường kiểm soát và hạn chế tín dụng ngoại tệ, nhằm tạo ra sự ổn định trên thị

trường ngoại hối. Tuy nhiên để biến chủ trương thành hiện thực cần phải xây dựng

một lộ trình với các giải pháp cụ thể.

Việc hạn chế và tiến tới xóa bỏ tín dụng ngoại tệ có thể được thực hiện theo

một lộ trình được xác định gồm hai giai đoạn, trước mắt đến hết năm 2013 là xóa bỏ

huy động tiền gửi ngoại tệ và hạn chế cho vay ngoại tệ, sau đó xóa bỏ hoàn toàn tín

dụng ngoại tệ chuyển sang quan hệ mua bán từ hết năm 2015. Các giải pháp cụ thể

 Chấm dứt việc nhận tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ song song với việc giải

bao gồm như sau:

phóng lãi suất nội tệ và giải phóng tỷ giá, tạo điều kiện cho các chủ thể nắm

 Hạn chế tình trạng nắm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp thông qua việc tái

giữ ngoại tệ bán cho các NHTM

 Sàng lọc và lựa chọn khách hàng vay vốn bằng ngoại tệ kết hợp với việc xác

áp dụng chế độ kết hối ngoại tệ và khuyến khích bán ngoại tệ cho các NHTM

 Hạn chế khách hàng vay vốn bằng ngoại tệ trung và dài hạn bằng cách

định hạn mức cho từng đối tượng khách hàng

 Phát triển thị trường ngoại hối nhằm đáp ứng sử dụng ngoại tệ thông qua

khuyến khích vay bằng Đồng Việt Nam

quan hệ mua - bán tiến tới xóa bỏ hoàn toàn tín dụng ngoại tệ từ sau năm

2015.

Cho nên, hạn chế và tiến tới chấm dứt tín dụng ngoại tệ là một định hướng tư

duy hoàn toàn đúng đắn để giải quyết những bất cập, mất ổn định kinh tế vĩ mô ở

Việt Nam hiện nay và bằng chứng là Chính phủ và NHNN đã có những định hướng

rõ ràng về việc thu hẹp tín dụng ngoại tệ. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng hạn

chế và xóa bỏ tín dụng ngoại tệ ở Việt Nam là một sự đánh đổi, chấp nhận những

khó khăn thách thức trước mắt để củng cố lòng tin, sức mua và chủ quyền của đồng

183

tiền Việt Nam, một trong những điều kiện cơ bản để ổn định vững chắc kinh tế vĩ

mô.

3.4.2.4. Lập sàn giao dịch vàng, ngoại tệ và các sản phẩm phái sinh mang tính

quốc gia

Sở giao dịch vàng, ngoại tệ và các sản phẩm phái sinh mang tính Quốc gia

của Việt Nam sẽ là nơi giao dịch vàng, ngoại tệ và các sản phẩm phái sinh tập trung

và chính thức của cả nước. Việc hình thành một thị trường chung được kỳ vọng sẽ

tạo lập sân chơi có tổ chức, minh bạch, chấm dứt tình trạng lộn xộn hiện nay trên thị

trường. Cơ quan này sẽ thuộc sở hữu Nhà nước, được thành lập dưới dạng một công

ty TNHH một thành viên nhà nước, với mặt hàng đặc biệt là vàng, ngoại tệ và các

sản phẩm phái sinh. Những cá nhân, doanh nghiệp và các ngân hàng có vàng, ngoại

tệ có nhu cầu mua bán sẽ đăng ký lưu ký trên tài khoản của Sở giao dịch và đặt các

lệnh mua bán thông qua hệ thống giao dịch tại Sở. Sở giao dịch chỉ là nơi cung cấp

địa điểm, dịch vụ cho hoạt động thanh toán và giao nhận vàng và ngoại tệ, không

tham gia giao dịch trên sàn. Các thành viên tham gia thị trường gồm hai loại tự

doanh và môi giới, đây là các Ngân hàng hoặc doanh nghiệp kinh doanh ngoại hối

có uy tín và danh tiếng tốt, minh bạch trong kinh doanh. Sàn được xây dựng hệ

thống và quy định về giao dịch, hệ thống thanh toán cũng như các vấn đề về lưu trữ,

vận chuyển và đảm bảo chất lượng vàng. Các vấn đề về quản lý rủi ro đảm bảo

minh bạch trên thị trường cũng sẽ được tuân thủ các quy định rõ ràng. Tại Sở giao

dịch cũng có dịch vụ mua bán có kỳ hạn và thực hiện các công cụ phái sinh để

phòng ngừa rủi ro khi thị trường ngoại hối thế giới biến động bất thường. Nhà đầu

tư sẽ được tính giá mua, giá bán trên cơ sở khớp giá hàng ngày của nhiều người

mua, nhiều người bán, nếu lượng khách giao dịch càng lớn sẽ phản ánh giá mua và

giá bán càng khách quan hơn.

Đối với thị trường vàng hiện nay, Việt Nam đã trở thành quốc gia có số

người tham gia đầu tư vàng đứng trong nhóm các quốc gia có đầu tư vàng lớn nhất

trên thế giới, nếu tiếp tục để thị trường giao dịch tự do thì chắc chắn nhà đầu tư, các

NHTM cũng như thị trường vàng trong nước sẽ gặp nhiều rủi ro như thời gian qua.

184

Với việc thành lập sàn vàng quốc gia, cơ quan quản lý cũng nắm được lượng cung,

cầu của thị trường vàng, cung cầu ngoại tệ liên quan đến vàng cũng như lượng tiền

giao dịch trên thị trường vàng một cách chính xác, chủ động hơn, để có những điều

tiết kịp thời khi biến động xảy ra. Giá vàng do cung cầu xã hội quyết định, nhờ đó

làm giảm được lũng đoạn thị trường và thao túng giá, góp phần tạo trật tự khách

quan cho công bằng trên thị trường, giảm nhu cầu nhập khẩu và hạn chế xuất nhập

khẩu lậu vàng. Nhìn ở góc độ con số thống kê và dự báo, Chính phủ không những

biết được giá trị vàng trong nền kinh tế là bao nhiêu để có những biện pháp điều

chỉnh thị trường phù hợp, tránh tình trạng vàng gây nhiễu sang thị trường ngoại hối

như vừa qua.

Ngoài ra, khi vàng về kho Nhà nước, có thể tạm hiểu là Chính phủ vay vàng

của dân và tổ chức để làm dự trữ quốc gia. Trong trường hợp nhất định, có thể

chuyển đổi chúng thành tiền hoặc tài sản thanh khoản cao để tái đầu tư vào nền kinh

tế. Tất nhiên, hình thức huy động vàng này cũng phải cấp cho người dân và tổ chức

chứng chỉ giống như chứng chỉ tiền gửi và Chính phủ phải trả lãi cho người dân,

đồng thời cho người dân rút ra khi họ cần thì mới đảm bảo uy tín của Chính phủ.

Khi cầm “chứng chỉ vàng” trong tay, người dân và tổ chức được hưởng lãi suất như

tiền gửi. Trong trường hợp muốn mua bán thì chỉ cần giao dịch qua tài khoản, an

toàn hơn là giao dịch trực tiếp tại các cửa hàng vàng.

Bên cạnh đó, cho mở lại vàng tài khoản trên sàn vàng quốc gia cũng có nhiều

lợi ích khác như không tốn thêm ngoại tệ cho việc nhập vàng nhưng vẫn có thể đáp

ứng nhu cầu của dân; tiết kiệm được chi phí xã hội khi tận dụng nguồn lực vàng

trong dân; triệt tiêu cơ hội làm giá, đầu cơ của giới kinh doanh vàng; hạn chế tình

trạng nhập lậu vàng; kiểm soát được số lượng vàng xuất, nhập thông qua hạn mức

giao dịch trên tài khoản, giảm rủi ro cho các giao dịch kinh doanh vàng cho các

NHTM.

Trên thế giới, không nước nào cho giao dịch vàng miếng tự do như Việt

Nam, tuy nhiên, sau khi kênh kinh doanh vàng vật chất bị hạn chế, việc mở kênh

giao dịch phi vật chất là cần thiết để đáp ứng nhu cầu của người dân. Nhiều người

185

tham gia sàn vàng trước đây gặp rủi ro lớn do tỷ lệ ký quỹ thấp, khoảng 7%, trong

khi tại Mỹ, các sàn giao dịch vàng có lúc điều chỉnh tỷ lệ này lên tới 20-30% mỗi

khi thị trường biến động mạnh. NHNN cần xem tỷ lệ đặt cọc trên sàn vàng là công

cụ điều tiết thị trường khi giá vàng biến động mạnh, không nên cố định tỷ lệ đặt cọc

như trước đây. Do đó, nếu cho lập sàn vàng mới cần có những thay đổi để tránh lặp

lại sai lầm như trước. Cụ thể, tỷ lệ ký quỹ cần điều chỉnh cao hơn; Hành lang pháp

lý và quy chế cần được quy định rõ ràng hơn; Trách nhiệm của người tham gia sàn

vàng cũng như nhà quản lý phải được nâng cao hơn.

Bên cạnh đó, sàn vàng quốc gia sẽ giúp Chính phủ và NHNN quản lý thị

trường vàng tốt hơn. Nếu cần, NHNN sẽ tác động vào sàn giao dịch để bình ổn thị

trường và thông qua đó để tiến hành các biện pháp quản lý khác như thu thuế và từ

đó tăng nguồn thu hàng năm cho ngân sách nhà nước. NHNN còn có thể giám sát

được các giao dịch vàng với khối lượng lớn, biết được luồng vốn trung chuyển vào

ra thông qua con đường buôn bán vàng.

Về cấu trúc giao dịch, Sở giao dịch vàng, ngoại tệ và các sản phẩm phái sinh

mang tính quốc gia cũng có nhiều nét tương đồng với Sở giao dịch chứng khoán,

những nhà đầu tư cá nhân hoặc tổ chức sẽ thực hiện lệnh đặt mua, bán ngoại hối và

các sản phẩm phái sinh thông qua các thành viên của Sở giao dịch là các Ngân

hàng, công ty chuyên nghiệp. Các thành viên của Sở giao dịch sẽ gồm đơn vị có

chức năng tự doanh và đơn vị có thêm chức năng môi giới. Với thành viên có chức

năng môi giới, điều kiện sẽ chặt chẽ hơn bởi tổ chức này còn làm dịch vụ quản lý tài

khoản cho nhà đầu tư. Đối với vàng, điểm khác biệt so với Sở giao dịch chứng

khoán là giao dịch vàng có thêm phần kiểm soát chất lượng và cho rút ra đối với

vàng vật chất, còn chứng khoán chỉ có các nghiệp vụ ghi sổ.

Trong những năm trước đây, vàng miếng SJC của Công ty cổ phần Vàng bạc

Đá quý Sài Gòn (SJC) – chiếm trên 80% thị phần vàng miếng cả nước – hầu như có

đầy đủ các chức năng của một đồng tiền thứ hai trên lãnh thổ Việt Nam. Vàng đã là

thước đo giá trị, phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán, tự do lưu thông,

chuyển đổi, mua bán. Sau khi Nghị Định 24 ra đời, NHNN quy định vàng miếng là

186

hàng hóa đặc biệt do NHNN quản lý từ khâu phát hành đến lưu thông, hoạt động

xuất nhập khẩu, kinh doanh vàng sẽ phải tập trung đầu mối. Việc tự do giao dịch

vàng miếng như tại Việt Nam dẫn đến tình trạng người dân, doanh nghiệp nào cũng

có thể trở thành nhà phát hành tiền, vì trên thực tế vàng có thể biến thành USD, tiền

bất cứ lúc nào, gây nhiễu chính sách tiền tệ và tạo ra nhiều rủi ro cho hoạt động

KDNH của các NHTM.

Hiện nay, nhu cầu mua bán vàng, đầu cơ giá vàng vẫn còn rất lớn trong dân,

nếu NHNN không lập ra Sàn giao dịch vàng quốc gia thì các NHTM và các nhà đầu

tư gặp rất nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng. Dù sàn vàng bị cấm hoạt

động hơn 2 năm nay, song sàn vàng bất hợp pháp vẫn công khai chèo kéo người

chơi. Vì vậy, thay vì để xảy ra những vụ lừa đảo vì sàn vàng phi chính thức tương

tự vụ lừa đảo 60 tỷ USD vừa phát hiện ở Trung Quốc, NHNN cần nhanh chóng cho

phép kinh doanh vàng tài khoản, lập sàn vàng quốc gia. Trên thực tế, việc đầu tư

vào các sàn vàng bất hợp pháp này là khá rủi ro và các nhà đầu tư luôn chịu thiệt,

điển hình như hợp đồng mở tài khoản không theo quy định của pháp luật Việt Nam,

các chủ sàn vàng từ nước ngoài yêu cầu người tham gia sàn phải chấp nhận những

rủi ro như: hệ thống mạng vi tính bị ngắt đột ngột, tài khoản của chủ sàn vàng ở

nước ngoài bị phong toả do kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng, lệnh

bán nhiều khi không được khớp với lý do sự cố điện hay lỗi hệ thống, hoặc nếu có

bán thì giá giảm rất sâu so với mức kỳ vọng.

Các sàn giao dịch vàng trước đây phát triển quá nhanh, hoạt động chưa thật

chuyên nghiệp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro đối với nhà đầu tư. Một khi Sàn giao

dịch vàng quốc gia được thành lập sẽ khắc phục được các hạn chế trên, đây là đầu

mối giao dịch vàng tập trung và chính thức của cả nước. Việc hình thành một thị

trường chung được kỳ vọng sẽ tạo ra một kênh đầu tư tốt đối với các nhà đầu tư

đồng thời thu hút được sự tham gia của các Ngân hàng, doanh nghiệp kinh doanh

vàng có uy tín. Theo mô hình đề xuất sẽ xây dựng hệ thống và quy định về giao

dịch, hệ thống thanh toán cũng như các vấn đề về lưu trữ, vận chuyển và đảm bảo

chất lượng vàng. Các vấn đề về quản lý rủi ro, đảm bảo minh bạch trên thị trường

187

cũng được tuân thủ các quy định rõ ràng và chuyên nghiệp hơn. Sở giao dịch vàng

quốc gia sẽ vận hành trong mối quan hệ tổng hợp với các chủ thể là cơ quan quản lý

Nhà nước, Ngân hàng, doanh nghiệp, nhà đầu tư cá nhân, do đó sẽ gắn kết chặt chẽ

hơn thị trường vàng với hệ thống tài chính. Thông qua Sở giao dịch vàng cũng sẽ

huy động được một lượng vàng vật chất rất lớn trong dân (có thể thông qua hình

thức ký quỹ bằng vàng), thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước và hạn chế được tâm lý

tích trữ vàng vật chất.

Thêm vào đó, Sở giao dịch vàng sẽ giải quyết tình trạng nhiều cá nhân và

doanh nghiệp mở tài khoản kinh doanh vàng ở nước ngoài, khiến chảy máu ngoại

tệ; đồng thời sẽ giúp cho giá vàng trong nước và quốc tế không còn chênh lệch

nhiều như hiện nay do vàng được kiểm soát cung cầu một cách khoa học, từ đó

giảm các rủi ro phát sinh cho hoạt động kinh doanh vàng của NHTM. Khi cần bình

ổn giá, NHNN sẽ tác động vào Sàn giao dịch để tiến hành các biện pháp quản lý

khác như thu thuế, tăng hay giảm phí giao dịch. Tuy nhiên, điều khiến cơ quan chức

năng còn cân nhắc hiện nay là hoạt động kinh doanh vàng tài khoản còn tiềm ẩn

nhiều rủi ro, đặc biệt tạo điều kiện cho hoạt động đầu cơ, gây bất ổn thị trường

ngoại hối và ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ của NHNN và các chính sách điều

hành vĩ mô khác của Chính phủ.

Đối với các giao dịch về ngoại tệ cũng như các hợp đồng phái sinh, số lượng

giao dịch hiện nay của các cá nhân, tổ chức cũng như tại các NHTMCP tại TP.HCM

chưa nhiều. Tuy nhiên, việc thiết lập các giao dịch này trên Sàn giao dịch vàng,

ngoại tệ và các sản phẩm phái sinh mang tính quốc gia theo mô hình trên thật sự vô

cùng cần thiết và tiến gần đến các chuẩn mực của TTNH trên thế giới.

3.4.2.5. Hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ngoại tệ và kinh

doanh vàng

NHNN tiếp tục hoàn thiện thể chế thông qua việc xây dựng và ban hành các

văn bản về quản lý ngoại hối và quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Ngày

24/2/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP, trong đó chỉ đạo các Bộ,

ngành và địa phương quyết liệt thực hiện các giải pháp nhằm tập trung kiềm chế

188

lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Việc ban hành Nghị quyết

này là một bước đi rất quan trọng nhằm củng cố tâm lý và lòng tin của người dân và

doanh nghiệp.

Thực hiện các giải pháp trong Nghị quyết 11, NHNN đã ban hành hàng loạt

các văn bản quy phạm pháp luật nhằm quản lý chặt chẽ thị trường ngoại tệ, góp

phần chuyển hóa quan hệ huy động - cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua - bán

ngoại tệ, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng đôla hóa trong nền kinh tế. Cụ thể,

NHNN đã ban hành Thông tư quy định về cho vay ngoại tệ của TCTD đối với

khách hàng là người cư trú nhằm thu hẹp đối tượng được vay ngoại tệ trong nước,

đồng thời tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các TCTD và quy định

trần lãi suất huy động vốn tối đa bằng đôla Mỹ của tổ chức kinh tế và cá nhân.

NHNN cũng đã ban hành Thông tư quy định về việc mua, bán ngoại tệ của

một số Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước, Thông tư quy định về mức ngoại tệ tiền

mặt phải khai báo khi xuất nhập cảnh và Thông tư quy định việc mua, bán ngoại tệ

tiền mặt của cá nhân với TCTD được phép. Việc ban hành các quy định này đã tạo

điều kiện để nguồn ngoại tệ tập trung vào hệ thống Ngân hàng, tạo điều kiện đáp

ứng các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp, hợp lý của người dân và doanh nghiệp theo chỉ

đạo của Chính phủ.

Đối với thị trường vàng, để góp phần giảm tình trạng đôla hóa trong nền

kinh tế, hạn chế tình trạng đầu cơ để góp phần ổn định thị trường ngoại hối và giảm

phương tiện thanh toán bằng vàng trong lưu thông, NHNN đã ban hành Thông tư

quy định về chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng của TCTD. Theo Thông

tư này, TCTD không được thực hiện cho vay vốn bằng vàng đối với khách hàng và

các TCTD khác hay gửi vàng tại TCTD khác. TCTD cũng không được thực hiện

các nghiệp vụ ủy thác, đầu tư và các hình thức cấp tín dụng khác bằng vàng. Ngoài

ra, TCTD không được huy động vốn bằng vàng hoặc chuyển đổi vốn huy động

bằng vàng trước đây thành VNĐ trừ một số trường hợp cụ thể trong giai đoạn

chuyển tiếp.

189

Khi thị trường vàng có dấu hiệu căng thẳng, thực hiện chỉ đạo của Thủ

tướng về việc áp dụng các biện pháp cần thiết để bình ổn thị trường, NHNN đã ban

hành Thông tư cho phép một số NHTM được bán một lượng vàng huy động và giữ

hộ tồn quỹ hay gọi là vàng tồn quỹ ra thị trường, đồng thời được mở tài khoản vàng

ở nước ngoài để bảo hiểm rủi ro biến động giá vàng. Biện pháp này có tác động

nhanh, mạnh với tính chủ động cao tới thị trường vàng do đã có sẵn lượng vàng tồn

quỹ trong kho mà lại tiết kiệm ngoại tệ, do lượng vàng cần cho phép nhập khẩu sau

này nhỏ hơn lượng vàng thực tế đã bán, vì các NHTM mua được vàng vật chất

trong nước để bù đắp lượng vàng tồn quỹ đã chuyển đổi khi thị trường ổn định.

3.4.2.6. Bình ổn thị trường ngoại tệ và thị trường vàng

Kịp thời thực hiện các giải pháp điều hành nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ

và thị trường vàng. Ngay từ đầu năm 2011, trước tình hình thị trường ngoại hối đặc

biệt căng thẳng, ngày 10/2/2011, NHNN đã thực hiện điều chỉnh tăng tỷ giá bình

quân liên Ngân hàng thêm 9,3% và giảm biên độ giao dịch từ +-3% xuống +-1%.

Bên cạnh đó, NHNN cũng điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt, kiểm

soát tăng trưởng và phân bổ tín dụng một cách hợp lý, kiểm soát chặt thanh khoản

VNĐ ngắn hạn của hệ thống TCTD, điều chỉnh các mức lãi suất điều hành của

NHNN phù hợp với diễn biến thị trường. Việc điều hành chính sách tiền tệ chặt

chẽ, đồng thời đẩy mạnh tín dụng phục vụ xuất khẩu trong cả năm 2011 đã góp

phần tích cực khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu và giảm áp lực về cung

cầu ngoại tệ trên thị trường.

Đầu tháng 9/2011, dựa trên những phân tích chi tiết các yếu tố ảnh hưởng

đến tỷ giá VNĐ/USD, NHNN đã công bố chủ trương điều hành tỷ giá ổn định và

đến cuối năm 2011 không vượt quá 1%. Cam kết giữ tỷ giá ổn định đến hết năm thể

hiện mục tiêu điều hành rõ ràng của NHNN, góp phần ổn định tâm lý thị trường,

kiểm soát tỷ lệ lạm phát dự tính và mất giá dự tính của đồng Việt Nam, hạn chế tình

trạng găm giữ ngoại tệ, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp chủ động hoạch

định kế hoạch sản xuất kinh doanh.

190

Trong những tháng cuối năm 2011, NHNN đã chủ động điều chỉnh tỷ giá

bình quân liên Ngân hàng linh hoạt, theo đúng định hướng đã đề ra là, điều hành tỷ

giá tương đối ổn định nhưng không cố định, tạo điều kiện bình ổn thị trường ngoại

hối, tích cực góp phần hỗ trợ sản xuất và kiềm chế lạm phát. Nhờ đó, tỷ giá ngoại tệ

những ngày cuối năm 2011 tương đối ổn định và là một điểm sáng trong chính sách

điều hành tỷ giá mấy năm qua.

NHNN cũng đã triển khai can thiệp thị trường ngoại tệ trong những thời

điểm có dấu hiệu căng thẳng, dưới các hình thức can thiệp trên thị trường ngoại tệ

liên Ngân hàng thông qua một số NHTM lớn và yêu cầu các Ngân hàng này chủ

động bán trước ngoại tệ trên thị trường, đồng thời bán ngoại tệ hỗ trợ cho một số

nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế. Việc can thiệp thị trường ngoại tệ đã được thực

hiện kịp thời với liều lượng hợp lý, góp phần bình ổn thị trường ngoại hối và tỷ giá.

Đối với thị trường vàng, trước tình hình cung cầu trên thị trường vàng mất

cân bằng, giá vàng trong nước tăng cao hơn giá vàng quốc tế khiến nhu cầu nhập

khẩu vàng (cả nhập khẩu chính thức và nhập lậu vàng) tăng đã góp phần gây sức ép

lên tỷ giá chính thức, ảnh hưởng bất lợi tới thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai

đồng bộ nhiều biện pháp để bình ổn thị trường vàng, từ đó góp phần hỗ trợ bình ổn

thị trường ngoại tệ. Vào các thời điểm bắt đầu xuất hiện dấu hiệu “sốt vàng”,

NHNN đã kịp thời đăng tải các thông điệp trên trang thông tin điện tử của NHNN

để ổn định tâm lý người dân, trong đó thông báo việc cho phép nhập khẩu vàng khi

cần thiết để bình ổn thị trường, đồng thời khuyến cáo người dân thận trọng khi

quyết định mua vàng trong bối cảnh thị trường đang diễn biến phức tạp để tránh các

thiệt hại không đáng có.

NHNN cũng đã nhanh chóng cấp phép nhập khẩu vàng cho các TCTD và

doanh nghiệp, ngoài ra còn yêu cầu Công ty SJC, doanh nghiệp 100% vốn nhà

nước nắm giữ trên 90% thị phần vàng miếng, tăng năng lực sản xuất, gia công vàng

miếng và khẩn trương trả vàng miếng gia công cho các tổ chức nhập khẩu vàng để

nhanh chóng bổ sung nguồn cung vàng trong nước. Tuy nhiên, việc cấp hạn ngạch

191

nhập khẩu vàng dần dần không còn hiệu quả trong việc giảm nhanh mức chênh lệch

giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới như giai đoạn trước đó.

Mặt khác, để hạn chế khả năng dùng đòn bẩy tài chính để đầu cơ vàng gây

rối loạn thị trường như hiện tượng tổ chức, cá nhân vay vốn mua vàng hoặc thế

chấp, cầm cố vàng để vay vốn tại TCTD, NHNN yêu cầu các TCTD thực hiện các

biện pháp để kiểm tra chặt chẽ việc vay vốn của khách hàng có cầm cố, thế chấp

bằng vàng và ban hành quy định hệ số rủi ro là 250% đối với các khoản cho vay

được bảo đảm bằng vàng. Các TCTD không được đáp ứng nhu cầu vay vốn để mua

vàng trừ trường hợp được Thống đốc NHNN chấp thuận cho phép vay vốn mua

vàng để sản xuất vàng miếng, sản xuất, gia công vàng trang sức mỹ nghệ và cho

vay để nhập khẩu vàng nguyên liệu theo giấy phép của NHNN.

Căn cứ vào quy mô vàng tồn quỹ, khả năng quản trị rủi ro cũng như khả

năng tác động đến thị trường vàng của các NHTM, NHNN đã cho phép 5 NHTM

(tổng số vàng tồn quỹ chiếm trên 70% vàng tồn quỹ của cả hệ thống Ngân hàng)

được bán một phần lượng vàng tồn quỹ ra thị trường và mở tài khoản vàng ở nước

ngoài. NHNN cũng yêu cầu Công ty SJC tham gia bán vàng và đồng thời giữ vai

trò điều phối giữa các NHTM này dưới sự chỉ đạo của NHNN, nhằm tăng cường

hiệu quả của biện pháp can thiệp mới, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách giữa giá

vàng trong nước và giá vàng thế giới.

Sau khi thực hiện việc bán vàng can thiệp, với lượng cung vàng lớn từ Công

ty SJC và 05 NHTM, cơ chế bán vàng tồn quỹ can thiệp đã thu được những kết quả

khả quan. Mức chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới đã được

thu hẹp đáng kể. Tỷ giá đô la Mỹ trên thị trường tự do đã giảm do mức chênh lệch

thấp giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới, khiến cho nhu cầu thu gom đô

la Mỹ để nhập khẩu vàng lậu giảm mạnh. Giới đầu cơ vàng đã co lại và không thể

thao túng giá vàng trên thị trường trong nước, hiện tượng nhập khẩu lậu vàng gần

như chấm dứt, nhu cầu mua vàng của người dân đã được đáp ứng với mức giá hợp

lý so với giá vàng thế giới.

192

3.4.2.7. Thanh tra, kiểm tra, giám sát thị trường ngoại tệ và vàng

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thị trường ngoại hối và thị

trường vàng nửa đầu năm 2011, NHNN đã thực hiện các biện pháp giám sát, quản

lý chặt chẽ thị trường ngoại tệ, NHNN đã phối hợp với Bộ Công an tăng cường

kiểm tra hoạt động mua bán ngoại tệ tại các đại lý thu đổi ngoại tệ, nhằm xóa bỏ

giao dịch mua bán ngoại tệ bất hợp pháp trên thị trường tự do. Nhờ đó, thị trường

ngoại tệ và vàng đã diễn biến tương đối ổn định trong khoảng thời gian này, thị

trường ngoại tệ tự do được kiểm soát chặt chẽ hơn và hầu như không có giao dịch.

Đặc biệt, để tăng cường hơn nữa hiệu lực quản lý nhà nước về thị trường

ngoại hối và kinh doanh vàng, hạn chế tình trạng đôla hóa, tiến tới xóa bỏ thị

trường tự do, NHNN đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 95/2011/NĐ-CP

ngày 20/10/2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 202/2004/NĐ-CP

ngày 10/12/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động

Ngân hàng. NHNN đã có văn bản chỉ đạo các TCTD, chi nhánh Ngân hàng nước

ngoài tổ chức phổ biến rộng rãi trong toàn hệ thống các quy định tại Nghị định mới

và nghiêm chỉnh chấp hành các quy định về quản lý ngoại hối và quản lý hoạt động

kinh doanh vàng. Đồng thời, NHNN cũng đã có văn bản đề nghị các Bộ, ngành liên

quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố phối hợp thực hiện kiểm tra, rà soát

việc thực hiện Nghị định 95, tăng cường công tác thông tin truyền thông nhằm thực

hiện hiệu quả Nghị định 95.

NHNN đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổ chức các đợt kiểm tra,

phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm với mức phạt nghiêm khắc theo quy

định tại Nghị định 95. Các quy định của Nghị định 95 đã tạo ra cơ chế xử lý hiệu

quả hơn đối với hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối và

quản lý kinh doanh vàng, đòi hỏi tổ chức, cá nhân có liên quan cần nâng cao ý thức

tuân thủ pháp luật, góp phần thiết lập lại kỷ cương trên thị trường ngoại tệ và vàng,

tiến tới xóa bỏ thị trường ngoại tệ tự do.

Nhìn chung trong thời gian qua, NHNN đã triển khai các giải pháp đồng bộ

hướng tới mục tiêu chuyển hóa dần quan hệ huy động - cho vay ngoại tệ sang quan

193

hệ mua - bán ngoại tệ, nhằm khắc phục tình trạng đôla hóa và ổn định giá trị của

đồng Việt Nam. Nhờ thực hiện các giải pháp trên, thị trường ngoại tệ và vàng đã

diễn biến tương đối ổn định, thị trường ngoại tệ tự do tiếp tục được kiểm soát chặt

chẽ. Các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp, hợp lý của doanh nghiệp và người dân được

đáp ứng đầy đủ. NHNN đã mua được một lượng ngoại tệ đáng kể để bổ sung cho

dự trữ ngoại hối Nhà nước. Tình trạng đôla hóa trong nền kinh tế đã được khắc

phục một bước.

Bên cạnh đó, NHNN cần tiếp tục quyết liệt triển khai các biện pháp nhằm

khắc phục tình trạng đôla hóa. Hiện tượng đôla hóa trong nền kinh tế có ảnh hưởng

tiêu cực đến việc điều hành chính sách tiền tệ và quản lý kinh tế vĩ mô. Việc chống

hiện tượng đôla hóa cần phải triển khai đồng bộ nhiều giải pháp trong thời gian dài,

trong đó giải pháp căn cơ nhất là khôi phục và nâng cao lòng tin vào giá trị đồng

Việt Nam. Tuy nhiên, để đạt kết quả cuối cùng, trong mỗi giải pháp, chính sách

điều hành cần phải có phân tích tác động đến hiện tượng đôla hóa và sự góp phần

của giải pháp, chính sách đó trong việc chống hiện tượng đôla hóa. Ngoài ra, sự

kiên quyết và nhất quán trong việc chống hiện tượng đôla hóa thông qua việc kiểm

tra, giám sát thị trường cũng có vai trò quan trọng để đạt mục tiêu chống đôla hóa.

Hơn nữa, trong điều hành thị trường ngoại hối, NHNN cần có những cam

kết rõ ràng vào những thời điểm thích hợp và có các biện pháp cụ thể để đảm bảo

thực hiện các cam kết này. Điển hình như, việc NHNN đưa ra cam kết điều hành tỷ

giá ổn định và đến cuối năm không vượt quá 1% đã tạo sự ổn định tâm lý, kiểm soát

kỳ vọng của thị trường, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển sản xuất kinh

doanh. Vai trò và uy tín của NHNN cũng được nâng cao thêm qua việc NHNN giữ

vững cam kết của mình. Đây sẽ là điều kiện thuận lợi để NHNN tiếp tục nâng cao

hiệu quả thực hiện của các chính sách trong tương lai.

Đối với tỷ giá và thị trường ngoại hối, NHNN cần có các biện pháp điều

hành linh hoạt, phù hợp với các cân đối vĩ mô, hướng tới mục tiêu ổn định giá trị

của đồng Việt Nam, góp phần khắc phục căn bản tình trạng đôla hóa trong nền kinh

tế, tập trung nguồn ngoại tệ vào hệ thống các TCTD để tạo điều kiện đáp ứng tốt

194

các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp, hợp lý của nền kinh tế. Thực hiện các giải pháp phát

triển thị trường ngoại hối Việt Nam theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu

quả và phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã

hội chung của đất nước.

Đối với việc hoàn thiện thể chế, NHNN cần tiếp tục tập trung hoàn thiện

khuôn khổ pháp lý về quản lý ngoại hối với trọng tâm là sửa đổi Pháp lệnh Ngoại

hối, trình Chính phủ ban hành và tổ chức triển khai các Nghị định về quản lý dự trữ

ngoại hối Nhà nước, Nghị định về vay trả nợ nước ngoài không có bảo lãnh của

Chính phủ. NHNN cần hoàn thiện và triển khai Đề án huy động vàng trong dân

nhằm tăng cường nguồn lực, nâng cao vai trò điều tiết đối với thị trường vàng.

Đối với công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, NHNN tiếp tục phối hợp chặt

chẽ với các Bộ, ngành tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thị trường

ngoại tệ, thị trường vàng, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm nhằm hạn chế tình

trạng đôla hóa, xóa bỏ hoạt động của thị trường ngoại tệ tự do.

3.4.2.8. Chính sách về rủi ro và kiểm soát

Tăng cường quản lý các NHTM thông qua các quy định về kiểm toán bắt

buộc, kiểm tra trình độ định kỳ các Dealer của phòng KDNH cũng như tăng cường

thanh tra và hỗ trợ các NHTM nhận biết các rủi ro tiềm ẩn thông qua công tác đã

thanh tra của các NHTM, từ đó đưa ra giải pháp và đề xuất hữu hiệu giúp các

NHTM giảm thiểu rủi ro.

3.4.2.9. Chính sách kiều hối

Về chính sách chi trả kiều hối, NHNN nên ban hành văn bản hướng dẫn cụ

thể hơn và nên kết hợp với các ban ngành khác trong các qui định về chi trả kiều hối

tận nhà của các cộng tác viên công ty kiều hối. Về các đại lý ủy nhiệm thu đổi ngoại

tệ của các ngân hàng được phép KDNH, NHNN nên cho phép các công ty kiều hối

được phép làm đại lý ủy nhiệm thu đổi ngoại tệ cho các NHTM. Ngân hàng sẽ thu

hút được nguồn ngoại tệ từ các công ty kiều hối quay trở lại ngân hàng nhanh hơn.

Khách hàng nhận kiều hối thuận tiện hơn trong giao dịch mua bán thay vì khách

hàng phải đến ngân hàng bán hay bán ở thị trường phi chính thức nhằm từ đó tránh

195

sự cạnh tranh không lành mạnh giữa thị trường chính thức và phi chính thức và hạn

chế nhiều rủi ro xảy ra do chênh lệch giữa hai loại giá này.

3.4.2.10. Dự trữ ngoại hối

Đa dạng hóa các loại ngoại hối trong dự trữ. NHNN đóng vai trò là người

cuối cùng trong hoạt động kinh doanh trong hệ thống ngân hàng Việt nam, can thiệp

thị trường ngoại hối khi cần thiết. Tập trung dự trữ ngoại hối và có kế hoạch sử

dụng hợp lý. Quỹ dự trữ ngoại hối có tác dụng khi TTLNH đóng băng, ngoại tệ

khan hiếm, thị trường vàng biến động thất thường gây bất lợi cho người dân và ảnh

hưởng lớn đến ổn định kinh tế vĩ mô, NHNN dùng quỹ này để can thiệp. Khi thị

trường ngoại hối ổn định, NHNN mua vào các loại ngoại tệ và vàng theo tỷ trọng

cần thiết để tăng nguồn dự trữ.

3.4.2.11. Trạng thái ngoại tệ

Nên chuyển từ quy định quản lý trạng thái ngoại tệ tại thời điểm cuối ngày

như hiện nay sang quản lý trạng thái ngoại tệ thường xuyên tại bất kỳ thời điểm nào

trong ngày giao dịch. Trên thực tế, NHNN với vai trò là người quản lý hệ thống

Ngân hàng Việt nam, quy định trạng thái ngoại tệ nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro

tỷ giá quá mức có thể xảy ra đối với cá NHTM và tránh nạn đầu cơ tạo ra sự bất ổn

cho cả hệ thống ngân hàng trong nước. Xét dưới khía cạnh của NHTM, việc quản lý

chặt chẽ và thường xuyên trạng thái ngoại tệ là nhằm giảm rủi ro và tạo ra lợi nhuận

cao nhất cho NHTM trong hạn mức rủi ro mà ngân hàng mình chấp nhận được.

Trên khía cạnh này thì các NHTM sẽ tự thực hiện nhằm bảo vệ cho chính ngân

hàng của mình tránh các rủi ro gây tổn thất lớn cho ngân hàng. Tuy nhiên, một khi

ngân hàng quản lý rủi ro chặt chẽ thì khả năng tạo ra lợi nhuận trong KDNH lại

không cao. Do đó, NHNN cần giám sát thường xuyên và chặt chẽ hoạt động KDNH

của các NHTM bằng các quy định pháp lý để tránh rủi ro có thể xảy ra và tạo ra sự

bất ổn định cho hệ thống ngân hàng.

3.4.2.12. Hệ thống pháp luật

Hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định về việc thành lập, triển khai và chế

tài đối với hệ thống quản lý rủi ro KDNH tại các NHTM cổ phần. Từ đó, NHNN

196

từng bước hỗ trợ các NHTM áp dụng vào thực tiễn của từng ngân hàng cụ thể về

các quy định pháp luật quản lý rủi ro. NHNN giám sát quá trình thiết lập và thực

hiện hệ thống quản lý rủi ro trong KDNH tại các NHTM.

Bên cạnh đó, NHNN cần sớm đưa ra các quy định pháp lý về việc thành lập

sàn giao dịch Quốc gia về vàng, các loại ngoại tệ và sản phẩm phái sinh hợp nhất do

Nhà nước quản lý và các NHTM cũng như các tổ chức có đủ điều kiện theo quy

định của pháp luật thực hiện.

3.4.3. Kiến nghị với Hiệp hội Ngân hàng

Hiệp hội Ngân hàng là tổ chức nghề nghiệp trong lĩnh vực hoạt động kinh

doanh Ngân hàng, tư vấn cho các NHTM giải quyết các vấn đề về nghiệp vụ phát

sinh trong thực tế. Với tư cách đó, nhằm phát triển hoạt động quản lý rủi ro trong

KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cần:

Thứ nhất, đứng ra tổ chức các buổi hội thảo hay tọa đàm nhằm nghiên cứu

về hoạt động quản lý rủi KDNH, trong đó cần tập trung vào một số chuyên đề

quan trọng như: sự phối hợp giữa các TCTD trong hệ thống ngân hàng có tham

gia quản lý rủi ro ngoại hối, hạn chế rủi ro KDNH trong hoạt động của NHTM,

v.vv...

Thứ hai, làm đầu mối cho các NHTM cổ phần TP.HCM cùng chia sẻ kiến

thức, kinh nghiệm trong quá trình tìm kiếm đối tác, nghiên cứu triển khai hệ thống

quản trị rủi ro. .

Thứ ba, tìm hiểu và nghiên cứu việc triển khai hoạt động quản lý rủi ro

KDNH tại các nước trên thế giới, qua đó có sự tư vấn kịp thời cho các Ngân hàng

về vấn đề xây dựng và hoàn thiện quá trình xây dựng hệ thống quản lý rủi ro đảm

bảo tính khoa học, thống nhất và phù hợp với thông lệ quốc tế.

197

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Trong những năm gần đây, thị trường ngoại hối Việt Nam đã hình thành và

từng bước phát triển. Chính sách quản lý ngoại hối đang dần được hoàn thiện phù

hợp với hướng phát triển kinh tế thị trường mở; những nhân tố thị trường ngày càng

trở nên quyết định hơn trong việc xác định tỷ giá hối đoái; bước đầu đã đưa một số

các giao dịch KDNH vào cuộc sống như giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn,

giao dịch hoán đổi và giao dịch quyền chọn. Mặc dù với những bước đi đầu tiên, thị

trường ngoại hối Việt Nam đã tạo ra môi trường KDNH cho các NHTM, đồng thời

cung cấp các công cụ hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho các doanh nghiệp

xuất nhập khẩu và những nhà đầu tư quốc tế cũng như các chủ thể khác trong nền

kinh tế có giao dịch ngoại hối.

Hoạt động KDNH chứa đựng nhiều loại rủi ro, nhất là rủi ro tỷ giá/giá, nhưng

nếu được quản lý một cách khoa học sẽ mang lại lợi nhuận lớn, đóng góp vào tổng

lợi nhuận chung cho các NHTM. Chính vì vậy, trong xu hướng hội nhập hiện nay,

việc hoàn thiện các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong hoạt động KDNH của

các NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM là rất cần thiết.

Trong chương này, tác giả đã giải quyết một số vấn đề nghiên cứu được đưa

ra như thực trạng và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro KDNH tại

các NHTM cổ phần TP.HCM cũng như các kiến nghị và đề xuất đến với các cơ

quan chức năng có thẩm quyền. Với các giải pháp và kiến nghị mà đề tài đưa ra để

hoàn thiện và nâng cao hiệu quả các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong hoạt

động KDNH của các NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM; và cũng với hy vọng

rằng trong những năm tới, các NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM sẽ có một

bước tiến mới trong quản lý rủi ro hoạt động KDNH, góp phần đưa hoạt động này

thành một trong những hoạt động quan trọng mang lại lợi nhuận chung cho ngành

ngân hàng, đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GDP của TP.HCM nói riêng và đất

nước nói chung.

198

KẾT LUẬN

Trong những năm gần đây, thị trường ngoại hối Việt Nam đã hình thành và

từng bước phát triển. Chính sách quản lý ngoại hối đang dần được hoàn thiện phù

hợp với hướng phát triển kinh tế thị trường mở; những nhân tố thị trường ngày càng

trở nên quyết định hơn trong việc xác định tỷ giá hối đoái; bước đầu đã đưa một số

các giao dịch KDNH vào cuộc sống như giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn,

giao dịch hoán đổi và giao dịch quyền chọn. Mặc dù với những bước đi đầu tiên, thị

trường ngoại hối Việt Nam đã tạo ra được một môi trường KDNH cho các NHTM,

đồng thời cung cấp các công cụ hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro ngoại hối cho các

doanh nghiệp xuất nhập khẩu và những nhà đầu tư quốc tế cũng như các chủ thể

khác trong nền kinh tế có giao dịch ngoại hối.

Hoạt động KDNH chứa đựng nhiều loại rủi ro, nhất là rủi ro tỷ giá ngoại tệ và

giá vàng, nhưng nếu được quản lý một cách khoa học, có hệ thống sẽ mang lại lợi

nhuận lớn, đóng góp vào tổng lợi nhuận chung cho các NHTM. Chính vì vậy, trong

xu hướng hội nhập hiện nay, việc hoàn thiện các công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại

hối trong hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM là rất cần

thiết và nhằm giúp nâng cao hiệu quả trong việc quản lý rủi KDNH tại các NHTM.

Luận án này đã giải quyết được các vấn đề trong mục tiêu nghiên cứu, bao

gồm: làm rõ cơ sở lý luận về quản lý rủi ro trong KDNH tại các NHTM, thực trạng

về quản lý rủi ro trong KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM và giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro trong KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM.

Với các giải pháp mà Luận án đưa ra để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản lý rủi

ro KDNH tại các NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM; và cũng với hy vọng rằng

trong những năm tới, các NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM sẽ có một bước tiến

mới đáng kể trong quản lý rủi ro hoạt động KDNH, góp phần đưa hoạt động này

thành một trong những hoạt động quan trọng mang lại lợi ích và an toàn chung cho

ngành ngân hàng, đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GDP của Thành phố Hồ Chí

TP.HCM nói riêng và đất nước nói chung.

199

Tuy nhiên, dù nỗ lực và cố gắng rất nhiều để hoàn thành Luận án này, nhưng

Nghiên cứu sinh nghĩ rằng Luận án vẫn không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Nghiên

cứu sinh rất mong nhận được góp ý của Quý Thầy Cô trong Hội đồng khoa học nhà

trường để giúp cho Luận án hoàn thiện hơn.

200

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN

ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1) Quản lý rủi ro trong kinh doanh vàng tại các ngân hàng thương mại bằng mô

hình VaR * Tạp chí ngân hàng, số 5 (tháng 3/2013)

2) Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng của Ngân hàng thương mại *

Tạp chí công nghệ ngân hàng, số 73 (tháng 4/2012)

3) Lạm phát và tăng trường kinh tế năm 2011 tại Việt nam * Tạp chí công nghệ

ngân hàng, số tháng 1+2/2011

4) Nợ công thế giới và kinh nghiệm cho Việt nam * Hội thảo khoa học “Nợ công:

Kinh nghiệm thế giới và bài học cho Việt nam” tại trường Đại học ngân hàng

TP.HCM, tháng 6/2012

5) Rủi ro tỷ giá: phòng ngừa và tăng sức cạnh tranh đối với doanh nghiệp vừa và

nhỏ * Hội thảo khoa học “Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh giúp hệ thống

doanh nghiệp nhỏ và vừa Thành phố Cần Thơ vượt qua khủng hoảng” tại Sở Khoa

học công nghệ Thành phố Cần Thơ, tháng 9/2012.

6) Vai trò sản phẩm tài chính phái sinh và khả năng áp dụng ở Việt nam * Hội thảo

khoa học của Khoa Thị trường chứng khoán ngày 15.12.2012

201

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. TS. Hồ Diệu (2002), Quản trị ngân hàng, Nhà xuất bản TP.HCM.

2. PGS.,TS. Phan Thị Thu Hà (2002), Quản trị Ngân hàng thương mại, Nhà xuất

bản Giao thông vận tải.

3. Heinz Richl – M.Rodeiguez (1996), Thị trường hối đoái và thị trường tiền tệ,

Nhà xuất bản chính trị quốc gia.

4. Nguyễn Phi Lân (2010), Cơ chế truyền dẫn tiền tệ dưới góc độ phân tích định

lượng, Ngân hàng nhà nước.

5. TS. Lê Quốc Lý (2004), Quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt

Nam, Nhà xuất bản thống kê.

6. TS.Nguyễn Ninh Kiều (2008), Thị trường ngoại hối và các giải pháp phòng

ngừa rủi ro, Nhà xuất bản thống kê.

7. TS.Nguyễn Ninh Kiều (1998), Thị trường ngoại hối, Nhà xuất bản tài chính

8. Đặng Hào Quang (2010), Kinh doanh ngoại hối, Nhà xuất bản thống kê.

9. PGS.,TS.Nguyễn Văn Tiến (2006), Cẩm nang thị trường ngoại hối và các giao

dịch kinh doanh ngoại hối, Nhà xuất bản Thống kê.

10. Ngân hàng Nhà nước Việt nam, Báo cáo NHNN qua các năm 2002-2011.

11. Bộ tài chính, Báo cáo nợ công và nợ nước ngoài/GDP của Việt nam (2006-

2011).

12. Website các ngân hàng, Báo cáo tài chính hàng năm các NHTM Sacombank,

Eximbank, ACB, Vietcombank (2007-2011).

13. IMF, Báo cáo thường niên của IMF (2007-2012).

14. Tổng cục thống kê, Chỉ số giá tiêu dùng các tháng trong năm (2007-2012).

15. Tổng cục thống kê, Giá trị Xuất nhập khẩu (2007-2012).

16. Trường Đại học kinh tế TP.HCM, Kiểm định các nhân tố tác động đến tỷ giá

hối đoái, ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đến lạm phát và cán cân thương mại

(2011).

202

17. Nhà xuất bản thống kê, Kỷ yếu hội thảo khoa học của Viện nghiên cứu Khoa

học ngân hàng (2003), Xây dựng cơ chế quản lý ngoại hối phù hợp tiến trình

hội nhập kinh tế thế giới.

18. Ngân hàng nhà nước Việt nam, Tỷ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng áp

dụng hàng ngày (2006-2011).

19. Ngân hàng nhà nước Việt nam, Thống kê tiền tệ Ngân hàng nhà nước 2011.

20. Uỷ ban kinh tế quốc hội, Tỷ giá hối đoái giai đoạn 2000-2011: Các nhân tố

quyết định, mức độ sai lệch và tác động đối với xuất khẩu (2011).

TIẾNG NƯỚC NGOÀI

21. Basel Committee on Banking Supervision, 2001, “Consultative Document:

Operational Risk” – Supporting Document to the New Basel Accord,

www.bis.org; www.en.wikipedia.org.

22. Clinton và Engert (2000), Money, monetary policy, and transmission

mechanisms: proceedings of a conference, Bank of Canada.

23. Kuttner và Mosser (2002), The Monetary Transmission Mechanism: Some

Answers and Further Questions, FRBNY Economic Policy Review.

24. Marc Levinson (2005), Guide to the Financial Markets, The Economist

25. Tim Weithers (2006), Foreign Exchange: A practical guide to the FX Markets,

John Wiley & Sons, Inc.

WEBSITE

26. Cao Sơn (2012), Kinh doanh vàng và ngoại hối ACB lỗ hơn 1000 tỷ đồng,

ngày 14/11/2012, Báo Lao động online

27. Đức Duy (2012), Giá vàng trong nước vẫn vượt thế giới 3,1 triệu đồng

Vietnam, www.vietnamplus.vn

28. Giá vàng Thế giới qua các năm (2000-2011), www.kitco.com

29. Thị trường ngoại hối là gì, www.investopedia.com

30. Các quy định pháp luật về ngoại hối, www.sbv.gov.vn

203

PHỤ LỤC

Bảng 3.1 - Thống kê giá vàng thực tế 750 điểm

(Từ 11/12/2009 đến 16/6/2012)

Tỷ giá

Tỷ giá

Tỷ giá

Tỷ giá

Tỷ giá

Ngày

Ngày

Ngày

Ngày

Ngày

(đ/chỉ)

(đ/chỉ)

(đ/chỉ)

(đ/chỉ)

(đ/chỉ)

16-Jul-12 4,173,000

26-Apr-12 4,290,000

8-Feb-12 4,488,000

24-Nov-11 4,435,000

21-Sep-11 4,706,000

13-Jul-12 4,174,000

25-Apr-12 4,285,000

7-Feb-12 4,469,000

23-Nov-11 4,455,000

20-Sep-11 4,675,000

12-Jul-12 4,160,000

24-Apr-12 4,275,000

6-Feb-12 4,474,000

22-Nov-11 4,415,000

19-Sep-11 4,685,000

11-Jul-12 4,171,000

23-Apr-12 4,266,000

3-Feb-12 4,520,000

21-Nov-11 4,565,000

17-Sep-11 4,708,000

10-Jul-12 4,180,000

20-Apr-12 4,256,000

2-Feb-12 4,528,000

19-Nov-11 4,560,000

16-Sep-11 4,660,000

9-Jul-12 4,175,000

19-Apr-12 4,255,000

1-Feb-12 4,530,000

18-Nov-11 4,575,000

15-Sep-11 4,700,000

6-Jul-12 4,183,000

18-Apr-12 4,277,000

31-Jan-12 4,520,000

17-Nov-11 4,610,000

14-Sep-11 4,695,000

5-Jul-12 4,202,000

17-Apr-12 4,284,000

30-Jan-12 4,490,000

16-Nov-11 4,610,000

13-Sep-11 4,680,000

4-Jul-12 4,203,000

16-Apr-12 4,295,000

20-Jan-12 4,400,000

15-Nov-11 4,610,000

12-Sep-11 4,725,000

3-Jul-12 4,197,000

13-Apr-12 4,335,000

19-Jan-12 4,403,000

14-Nov-11 4,635,000

10-Sep-11 4,730,000

2-Jul-12 4,189,000

12-Apr-12 4,333,000

18-Jan-12 4,370,000

12-Nov-11 4,620,000

9-Sep-11 4,750,000

29-Jun-12 4,168,000

11-Apr-12 4,333,500

17-Jan-12 4,375,000

11-Nov-11 4,595,000

8-Sep-11 4,680,000

28-Jun-12 4,166,000

10-Apr-12 4,336,000

16-Jan-12 4,320,000

10-Nov-11 4,610,000

7-Sep-11 4,710,000

27-Jun-12 4,167,000

9-Apr-12 4,345,000

13-Jan-12 4,350,000

9-Nov-11 4,640,000

6-Sep-11 4,760,000

26-Jun-12 4,178,000

6-Apr-12 4,347,000

12-Jan-12 4,377,000

8-Nov-11 4,625,000

5-Sep-11 4,780,000

25-Jun-12 4,170,000

5-Apr-12 4,355,000

11-Jan-12 4,355,000

7-Nov-11 4,560,000

1-Sep-11 4,665,000

22-Jun-12 4,180,000

4-Apr-12 4,358,000

10-Jan-12 4,324,300

5-Nov-11 4,530,000

31-Aug-11 4,665,000

21-Jun-12 4,190,000

3-Apr-12 4,390,000

9-Jan-12 4,320,000

4-Nov-11 4,550,000

30-Aug-11 4,620,000

20-Jun-12 4,216,000

30-Mar-12 4,394,000

7-Jan-12 4,315,000

3-Nov-11 4,490,000

29-Aug-11 4,670,000

19-Jun-12 4,225,000

29-Mar-12 4,388,000

6-Jan-12 4,325,000

2-Nov-11 4,500,000

27-Aug-11 4,710,000

18-Jun-12 4,218,000

28-Mar-12 4,412,000

5-Jan-12 4,315,000

1-Nov-11 4,460,000

26-Aug-11 4,640,000

15-Jun-12 4,218,000

27-Mar-12 4,430,000

4-Jan-12 4,330,000

31-Oct-11 4,455,000

25-Aug-11 4,470,000

14-Jun-12 4,212,000

26-Mar-12 4,400,000

3-Jan-12 4,310,000

29-Oct-11 4,500,000

24-Aug-11 4,760,000

13-Jun-12 4,206,000

23-Mar-12 4,380,000

31-Dec-11 4,080,000

28-Oct-11 4,495,000

23-Aug-11 4,855,000

12-Jun-12 4,187,000

22-Mar-12 4,370,000

30-Dec-11 4,110,000

27-Oct-11 4,465,000

22-Aug-11 4,845,000

11-Jun-12 4,186,000

21-Mar-12 4,375,000

29-Dec-11 4,173,000

26-Oct-11 4,460,000

20-Aug-11 4,690,000

8-Jun-12 4,180,000

20-Mar-12 4,370,000

28-Dec-11 4,240,000

25-Oct-11 4,380,000

19-Aug-11 4,715,000

7-Jun-12 4,230,000

19-Mar-12 4,410,000

27-Dec-11 4,295,000

24-Oct-11 4,375,000

18-Aug-11 4,542,000

204

6-Jun-12 4,255,000

16-Mar-12 4,420,000

26-Dec-11 4,310,000

22-Oct-11 4,380,000

17-Aug-11 4,540,000

5-Jun-12 4,212,000

15-Mar-12 4,420,000

24-Dec-11 4,335,000

21-Oct-11 4,320,000

16-Aug-11 4,490,000

4-Jun-12 4,204,000

14-Mar-12 4,440,000

23-Dec-11 4,320,000

20-Oct-11 4,280,000

15-Aug-11 4,405,000

1-Jun-12 4,128,000

13-Mar-12 4,462,000

22-Dec-11 4,305,000

19-Oct-11 4,335,000

13-Aug-11 4,435,000

31-May-12 4,140,000

12-Mar-12 4,457,000

21-Dec-11 4,315,000

18-Oct-11 4,370,000

12-Aug-11 4,460,000

30-May-12 4,125,000

9-Mar-12 4,464,000

20-Dec-11 4,310,000

17-Oct-11 4,420,000

11-Aug-11 4,500,000

29-May-12 4,148,000

8-Mar-12 4,444,000

19-Dec-11 4,335,000

15-Oct-11 4,405,000

10-Aug-11 4,400,000

28-May-12 4,158,000

7-Mar-12 4,435,000

17-Dec-11 4,360,000

14-Oct-11 4,390,000

9-Aug-11 4,500,000

25-May-12 4,140,000

6-Mar-12 4,445,000

16-Dec-11 4,335,000

13-Oct-11 4,385,000

8-Aug-11 4,375,000

24-May-12 4,135,000

5-Mar-12 4,460,000

15-Dec-11 4,300,000

12-Oct-11 4,380,000

6-Aug-11 4,165,000

23-May-12 4,135,000

2-Mar-12 4,471,000

14-Dec-11 4,379,000

11-Oct-11 4,340,000

5-Aug-11 4,145,000

22-May-12 4,160,000

1-Mar-12 4,470,000

13-Dec-11 4,392,000

10-Oct-11 4,260,000

4-Aug-11 4,130,000

21-May-12 4,210,000

29-Feb-12 4,512,000

12-Dec-11 4,435,000

8-Oct-11 4,300,000

3-Aug-11 4,110,000

18-May-12 4,188,000

28-Feb-12 4,492,000

10-Dec-11 4,470,000

7-Oct-11 4,305,000

2-Aug-11 4,006,000

17-May-12 4,110,000

27-Feb-12 4,510,000

9-Dec-11 4,462,000

6-Oct-11 4,365,000

1-Aug-11 3,985,000

16-May-12 4,090,000

24-Feb-12 4,522,000

8-Dec-11 4,489,000

5-Oct-11 4,420,000

30-Jul-11 4,007,000

15-May-12 4,127,000

23-Feb-12 4,515,000

7-Dec-11 4,484,000

4-Oct-11 4,500,000

29-Jul-11 3,993,000

14-May-12 4,140,000

22-Feb-12 4,480,000

6-Dec-11 4,455,000

3-Oct-11 4,420,000

28-Jul-11 3,993,000

11-May-12 4,166,000

21-Feb-12 4,469,000

5-Dec-11 4,503,000

1-Oct-11 4,380,000

27-Jul-11 3,998,000

10-May-12 4,171,000

20-Feb-12 4,466,000

3-Dec-11 4,500,000

30-Sep-11 4,365,000

26-Jul-11 3,972,000

9-May-12 4,135,000

17-Feb-12 4,463,000

2-Dec-11 4,515,000

29-Sep-11 4,360,000

25-Jul-11 3,980,000

8-May-12 4,187,000

16-Feb-12 4,460,000

1-Dec-11 4,520,000

28-Sep-11 4,440,000

23-Jul-11 3,940,000

7-May-12 4,240,000

15-Feb-12 4,470,000

30-Nov-11 4,465,000

27-Sep-11 4,530,000

22-Jul-11 3,926,000

4-May-12 4,240,000

14-Feb-12 4,459,000

29-Nov-11 4,470,000

26-Sep-11 4,450,000

21-Jul-11 3,942,000

3-May-12 4,262,000

13-Feb-12 4,470,000

28-Nov-11 4,485,000

24-Sep-11 4,550,000

20-Jul-11 3,917,000

2-May-12 4,283,000

10-Feb-12 4,465,000

26-Nov-11 4,450,000

23-Sep-11 4,650,000

19-Jul-11 3,955,000

27-Apr-12 4,290,000

9-Feb-12 4,477,000

25-Nov-11 4,420,000

22-Sep-11 4,650,000

18-Jul-11 3,934,000

16-Jul-11 3,904,000

13-May-11 3,742,000

5-Mar-11 3,757,000

22-Dec-10 3,580,000

19-Oct-10 3,332,000

15-Jul-11 3,882,000

12-May-11 3,732,000

4-Mar-11 3,756,000

21-Dec-10 3,578,000

18-Oct-10 3,307,000

14-Jul-11 3,890,000

11-May-11 3,759,000

3-Mar-11 3,768,000

20-Dec-10 3,580,000

16-Oct-10 3,314,000

13-Jul-11 3,853,000

10-May-11 3,754,000

2-Mar-11 3,760,000

18-Dec-10 3,581,000

15-Oct-10 3,314,000

12-Jul-11 3,802,000

9-May-11 3,750,000

1-Mar-11 3,727,000

17-Dec-10 3,574,000

14-Oct-10 3,307,000

11-Jul-11 3,800,000

7-May-11 3,742,000

28-Feb-11 3,756,000

16-Dec-10 3,582,000

13-Oct-10 3,264,000

9-Jul-11 3,793,000

6-May-11 3,732,000

26-Feb-11 3,758,000

15-Dec-10 3,586,000

12-Oct-10 3,243,000

8-Jul-11 3,776,000

5-May-11 3,760,000

25-Feb-11 3,762,000

14-Dec-10 3,613,000

11-Oct-10 3,250,000

7-Jul-11 3,778,000

4-May-11 3,785,000

24-Feb-11 3,775,000

13-Dec-10 3,602,000

9-Oct-10 3,230,000

205

6-Jul-11 3,768,000

29-Apr-11 3,753,000

23-Feb-11 3,755,000

11-Dec-10 3,577,000

8-Oct-10 3,180,000

5-Jul-11 3,752,000

28-Apr-11 3,752,000

22-Feb-11 3,775,000

10-Dec-10 3,581,000

7-Oct-10 3,270,000

4-Jul-11 3,757,000

27-Apr-11 3,738,000

21-Feb-11 3,770,000

9-Dec-10 3,570,000

6-Oct-10 3,273,000

2-Jul-11 3,759,000

26-Apr-11 3,738,000

19-Feb-11 3,750,000

8-Dec-10 3,583,000

5-Oct-10 3,168,000

1-Jul-11 3,760,000

25-Apr-11 3,754,000

18-Feb-11 3,748,000

7-Dec-10 3,650,000

4-Oct-10 3,156,000

30-Jun-11 3,773,000

23-Apr-11 3,745,000

17-Feb-11 3,690,000

6-Dec-10 3,650,000

2-Oct-10 3,146,000

29-Jun-11 3,771,000

22-Apr-11 3,748,000

16-Feb-11 3,667,000

4-Dec-10 3,645,000

1-Oct-10 3,124,000

28-Jun-11 3,765,000

21-Apr-11 3,760,000

15-Feb-11 3,634,000

3-Dec-10 3,610,000

30-Sep-10 3,122,000

27-Jun-11 3,767,000

20-Apr-11 3,750,000

14-Feb-11 3,604,000

2-Dec-10 3,622,000

29-Sep-10 3,113,000

25-Jun-11 3,762,000

19-Apr-11 3,728,000

12-Feb-11 3,592,000

1-Dec-10 3,623,000

28-Sep-10 3,055,000

24-Jun-11 3,782,000

18-Apr-11 3,713,000

11-Feb-11 3,587,000

30-Nov-10 3,589,000

27-Sep-10 3,064,000

23-Jun-11 3,803,000

16-Apr-11 3,715,000

10-Feb-11 3,568,000

29-Nov-10 3,576,000

25-Sep-10 3,041,000

22-Jun-11 3,810,000

15-Apr-11 3,708,000

9-Feb-11 3,587,000

27-Nov-10 3,562,000

24-Sep-10 3,041,000

21-Jun-11 3,805,000

14-Apr-11 3,691,000

8-Feb-11 3,584,000

26-Nov-10 3,570,000

23-Sep-10 3,028,000

20-Jun-11 3,800,000

13-Apr-11 3,695,000

30-Jan-11 3,540,000

25-Nov-10 3,571,000

22-Sep-10 3,022,000

18-Jun-11 3,802,000

11-Apr-11 3,720,000

29-Jan-11 3,535,000

24-Nov-10 3,590,000

21-Sep-10 3,002,000

17-Jun-11 3,780,000

9-Apr-11 3,725,000

28-Jan-11 3,509,000

23-Nov-10 3,562,000

20-Sep-10 3,000,000

16-Jun-11 3,774,000

8-Apr-11 3,714,000

27-Jan-11 3,527,000

22-Nov-10 3,563,000

18-Sep-10 2,985,000

15-Jun-11 3,770,000

7-Apr-11 3,685,000

26-Jan-11 3,512,000

20-Nov-10 3,545,000

17-Sep-10 2,994,000

14-Jun-11 3,768,000

6-Apr-11 3,686,000

25-Jan-11 3,502,000

19-Nov-10 3,560,000

16-Sep-10 2,972,000

13-Jun-11 3,768,000

5-Apr-11 3,662,000

24-Jan-11 3,528,000

18-Nov-10 3,540,000

15-Sep-10 2,972,000

11-Jun-11 3,775,000

4-Apr-11 3,667,000

22-Jan-11 3,522,000

17-Nov-10 3,432,000

14-Sep-10 2,932,000

10-Jun-11 3,788,000

2-Apr-11 3,681,000

21-Jan-11 3,520,000

16-Nov-10 3,487,000

13-Sep-10 2,922,000

9-Jun-11 3,778,000

1-Apr-11 3,690,000

20-Jan-11 3,548,000

15-Nov-10 3,488,000

11-Sep-10 2,923,000

8-Jun-11 3,780,000

31-Mar-11 3,685,000

19-Jan-11 3,558,000

13-Nov-10 3,475,000

10-Sep-10 2,924,000

7-Jun-11 3,797,000

30-Mar-11 3,655,000

18-Jan-11 3,557,000

12-Nov-10 3,570,000

9-Sep-10 2,935,000

6-Jun-11 3,790,000

29-Mar-11 3,644,000

17-Jan-11 3,552,000

11-Nov-10 3,615,000

8-Sep-10 2,942,000

4-Jun-11 3,773,000

28-Mar-11 3,666,000

15-Jan-11 3,550,000

10-Nov-10 3,625,000

7-Sep-10 2,920,000

3-Jun-11 3,767,000

26-Mar-11 3,690,000

14-Jan-11 3,557,000

9-Nov-10 3,680,000

6-Sep-10 2,918,000

2-Jun-11 3,778,000

25-Mar-11 3,692,000

13-Jan-11 3,568,000

8-Nov-10 3,555,000

4-Sep-10 2,919,000

1-Jun-11 3,763,000

24-Mar-11 3,695,000

12-Jan-11 3,575,000

6-Nov-10 3,500,000

3-Sep-10 2,922,000

31-May-11 3,766,000

23-Mar-11 3,696,000

11-Jan-11 3,570,000

5-Nov-10 3,468,000

1-Sep-10 2,917,000

30-May-11 3,766,000

22-Mar-11 3,702,000

10-Jan-11 3,520,000

4-Nov-10 3,410,000

31-Aug-10 2,890,000

28-May-11 3,760,000

21-Mar-11 3,710,000

8-Jan-11 3,559,000

3-Nov-10 3,368,000

30-Aug-10 2,891,000

27-May-11 3,748,000

19-Mar-11 3,704,000

7-Jan-11 3,543,000

2-Nov-10 3,364,000

28-Aug-10 2,890,000

26-May-11 3,746,000

18-Mar-11 3,704,000

6-Jan-11 3,580,000

1-Nov-10 3,350,000

27-Aug-10 2,889,000

206

25-May-11 3,757,000

17-Mar-11 3,684,000

5-Jan-11 3,582,000

30-Oct-10 3,333,000

26-Aug-10 2,898,000

24-May-11 3,744,000

16-Mar-11 3,688,000

4-Jan-11 3,605,000

29-Oct-10 3,294,000

25-Aug-10 2,883,000

23-May-11 3,740,000

15-Mar-11 3,705,000

31-Dec-10 3,560,000

28-Oct-10 3,280,000

24-Aug-10 2,854,000

21-May-11 3,742,000

14-Mar-11 3,720,000

30-Dec-10 3,572,000

27-Oct-10 3,280,000

23-Aug-10 2,869,000

20-May-11 3,731,000

12-Mar-11 3,694,000

29-Dec-10 3,505,000

26-Oct-10 3,282,000

21-Aug-10 2,862,000

19-May-11 3,728,000

11-Mar-11 3,690,000

28-Dec-10 3,560,000

25-Oct-10 3,290,000

20-Aug-10 2,875,000

18-May-11 3,726,000

10-Mar-11 3,732,000

27-Dec-10 3,575,000

23-Oct-10 3,276,000

19-Aug-10 2,870,000

17-May-11 3,730,000

9-Mar-11 3,744,000

25-Dec-10 3,580,000

22-Oct-10 3,266,000

18-Aug-10 2,848,000

16-May-11 3,726,000

8-Mar-11 3,756,000

24-Dec-10 3,580,000

21-Oct-10 3,304,000

17-Aug-10 2,838,000

14-May-11 3,734,000

7-Mar-11 3,763,000

23-Dec-10 3,572,000

20-Oct-10 3,293,000

16-Aug-10 2,824,000

14-Aug-10 2,810,000

11-Jun-10 2,788,000

3-Apr-10 2,610,000

23-Jan-10 2,640,000

13-Aug-10 2,814,000

10-Jun-10 2,788,000

2-Apr-10 2,609,000

22-Jan-10 2,634,000

12-Aug-10 2,799,000

9-Jun-10 2,809,000

1-Apr-10 2,608,000

21-Jan-10 2,650,000

11-Aug-10 2,800,000

8-Jun-10 2,824,000

31-Mar-10 2,604,000

20-Jan-10 2,673,000

10-Aug-10 2,803,000

7-Jun-10 2,770,000

30-Mar-10 2,617,000

19-Jan-10 2,679,000

9-Aug-10 2,812,000

5-Jun-10 2,775,000

29-Mar-10 2,619,000

18-Jan-10 2,678,000

7-Aug-10 2,810,000

4-Jun-10 2,760,000

27-Mar-10 2,617,000

16-Jan-10 2,673,000

6-Aug-10 2,798,000

3-Jun-10 2,776,000

26-Mar-10 2,604,000

15-Jan-10 2,680,000

5-Aug-10 2,799,000

2-Jun-10 2,781,000

25-Mar-10 2,588,000

14-Jan-10 2,683,000

4-Aug-10 2,790,000

1-Jun-10 2,780,000

24-Mar-10 2,600,000

13-Jan-10 2,683,000

3-Aug-10 2,775,000

31-May-10 2,720,000

23-Mar-10 2,621,000

12-Jan-10 2,715,000

2-Aug-10 2,773,000

29-May-10 2,735,000

22-Mar-10 2,630,000

11-Jan-10 2,707,000

31-Jul-10 2,771,000

28-May-10 2,766,000

20-Mar-10 2,631,000

9-Jan-10 2,684,000

30-Jul-10 2,763,000

27-May-10 2,776,000

19-Mar-10 2,646,000

8-Jan-10 2,672,000

29-Jul-10 2,762,000

26-May-10 2,786,000

18-Mar-10 2,643,000

7-Jan-10 2,687,000

28-Jul-10 2,766,000

25-May-10 2,752,000

17-Mar-10 2,656,000

6-Jan-10 2,680,000

27-Jul-10 2,794,000

24-May-10 2,744,000

16-Mar-10 2,642,000

5-Jan-10 2,686,000

26-Jul-10 2,799,000

22-May-10 2,734,000

15-Mar-10 2,639,000

4-Jan-10 2,665,000

24-Jul-10 2,796,000

21-May-10 2,730,000

13-Mar-10 2,636,000

31-Dec-09 2,660,000

23-Jul-10 2,806,000

20-May-10 2,742,000

12-Mar-10 2,650,000

30-Dec-09 2,637,000

22-Jul-10 2,795,000

19-May-10 2,768,000

11-Mar-10 2,636,000

29-Dec-09 2,658,000

21-Jul-10 2,798,000

18-May-10 2,784,000

10-Mar-10 2,662,000

28-Dec-09 2,675,000

20-Jul-10 2,794,000

17-May-10 2,808,000

9-Mar-10 2,661,000

26-Dec-09 2,663,000

19-Jul-10 2,807,000

15-May-10 2,805,000

8-Mar-10 2,678,000

25-Dec-09 2,647,000

17-Jul-10 2,806,000

14-May-10 2,812,000

6-Mar-10 2,672,000

24-Dec-09 2,638,000

16-Jul-10 2,816,000

13-May-10 2,804,000

5-Mar-10 2,674,000

23-Dec-09 2,610,000

207

15-Jul-10 2,823,000

12-May-10 2,797,000

4-Mar-10 2,669,000

22-Dec-09 2,650,000

14-Jul-10 2,820,000

11-May-10 2,742,000

3-Mar-10 2,663,000

21-Dec-09 2,690,000

13-Jul-10 2,815,000

10-May-10 2,712,000

2-Mar-10 2,652,000

19-Dec-09 2,695,000

12-Jul-10 2,820,000

8-May-10 2,728,000

1-Mar-10 2,659,000

18-Dec-09 2,670,000

10-Jul-10 2,823,000

7-May-10 2,718,000

27-Feb-10 2,648,000

17-Dec-09 2,715,000

9-Jul-10 2,810,000

6-May-10 2,670,000

26-Feb-10 2,642,000

16-Dec-09 2,706,000

8-Jul-10 2,822,000

5-May-10 2,660,000

25-Feb-10 2,623,000

15-Dec-09 2,692,000

7-Jul-10 2,805,000

4-May-10 2,675,000

24-Feb-10 2,636,000

14-Dec-09 2,682,000

6-Jul-10 2,827,000

3-May-10 2,667,000

23-Feb-10 2,654,000

12-Dec-09 2,665,000

5-Jul-10 2,827,000

29-Apr-10 2,644,000

22-Feb-10 2,661,000

11-Dec-09 2,715,000

3-Jul-10 2,830,000

28-Apr-10 2,645,000

20-Feb-10 2,668,000

2-Jul-10 2,825,000

27-Apr-10 2,634,000

19-Feb-10 2,650,000

1-Jul-10 2,855,000

26-Apr-10 2,639,000

12-Feb-10 2,625,000

30-Jun-10 2,852,000

22-Apr-10 2,626,000

11-Feb-10 2,610,000

29-Jun-10 2,840,000

21-Apr-10 2,630,000

10-Feb-10 2,575,000

28-Jun-10 2,860,000

20-Apr-10 2,628,000

9-Feb-10 2,535,000

26-Jun-10 2,857,000

19-Apr-10 2,614,000

8-Feb-10 2,528,000

25-Jun-10 2,846,000

17-Apr-10 2,624,000

6-Feb-10 2,530,000

24-Jun-10 2,834,000

16-Apr-10 2,641,000

5-Feb-10 2,500,000

23-Jun-10 2,839,000

15-Apr-10 2,640,000

4-Feb-10 2,633,000

22-Jun-10 2,829,000

14-Apr-10 2,645,000

3-Feb-10 2,642,000

21-Jun-10 2,860,000

13-Apr-10 2,634,000

2-Feb-10 2,630,000

19-Jun-10 2,846,000

12-Apr-10 2,662,000

1-Feb-10 2,620,000

18-Jun-10 2,825,000

10-Apr-10 2,650,000

30-Jan-10 2,633,000

17-Jun-10 2,806,000

9-Apr-10 2,648,000

29-Jan-10 2,635,000

16-Jun-10 2,810,000

8-Apr-10 2,632,000

28-Jan-10 2,642,000

15-Jun-10 2,793,000

7-Apr-10 2,607,000

27-Jan-10 2,637,000

14-Jun-10 2,803,000

6-Apr-10 2,604,000

26-Jan-10 2,636,000

12-Jun-10 2,794,000

5-Apr-10 2,610,000

25-Jan-10 2,644,000

208

Bảng 3.6 - Thống kê tỷ giá USD/VND liên ngân hàng

(Từ 01/06/2009 đến 06/09/2012)

Tỷ giá

Ngày

Ngày

Ngày

Ngày

Ngày

Tỷ giá (đ/USD)

Tỷ giá (đ/USD)

Tỷ giá (đ/USD)

Tỷ giá (đ/USD)

(đ/USD)

6-Sep-12

20,850

19-Jun-12

20,955

14-Mar-12

20,833

12-Dec-11

21,180

26-Sep-11

21,860

5-Sep-12

20,855

18-Jun-12

20,962

13-Mar-12

20,832

9-Dec-11

21,180

23-Sep-11

21,860

20,825

4-Sep-12

20,858

14-Jun-12

20,960

7-Mar-12

8-Dec-11

21,190

22-Sep-11

21,860

20,830

31-Aug-12

20,859

13-Jun-12

20,960

5-Mar-12

7-Dec-11

21,200

21-Sep-11

21,860

20,835

30-Aug-12

20,858

12-Jun-12

20,965

2-Mar-12

6-Dec-11

21,220

20-Sep-11

21,860

20,833

29-Aug-12

20,858

11-Jun-12

20,975

1-Mar-12

5-Dec-11

21,230

19-Sep-11

21,860

27-Aug-12

20,855

8-Jun-12

20,985

28-Feb-12

20,835

2-Dec-11

21,280

16-Sep-11

21,860

24-Aug-12

20,900

7-Jun-12

21,005

27-Feb-12

20,835

1-Dec-11

21,290

15-Sep-11

21,860

23-Aug-12

20,915

6-Jun-12

21,010

24-Feb-12

20,835

30-Nov-11

21,290

14-Sep-11

21,860

22-Aug-12

20,847

4-Jun-12

20,915

23-Feb-12

20,840

29-Nov-11

21,290

13-Sep-11

21,860

21-Aug-12

20,840

1-Jun-12

20,880

22-Feb-12

20,835

28-Nov-11

21,295

12-Sep-11

21,860

20-Aug-12

20,842

31-May-12

20,871

21-Feb-12

20,835

25-Nov-11

21,310

9-Sep-11

21,860

17-Aug-12

20,843

30-May-12

20,868

20-Feb-12

20,835

24-Nov-11

21,315

8-Sep-11

21,860

16-Aug-12

20,845

29-May-12

20,865

17-Feb-12

20,825

23-Nov-11

21,320

7-Sep-11

21,860

15-Aug-12

20,849

28-May-12

20,862

16-Feb-12

20,825

22-Nov-11

21,330

6-Sep-11

21,860

14-Aug-12

20,850

25-May-12

20,860

15-Feb-12

20,830

21-Nov-11

21,370

5-Sep-11

21,860

13-Aug-12

20,850

24-May-12

20,863

14-Feb-12

20,845

18-Nov-11

21,370

2-Sep-11

21,860

10-Aug-12

20,850

23-May-12

20,860

13-Feb-12

20,845

17-Nov-11

21,400

1-Sep-11

21,860

9-Aug-12

20,852

22-May-12

20,850

10-Feb-12

20,850

16-Nov-11

21,400

31-Aug-11

21,860

8-Aug-12

20,855

21-May-12

20,851

9-Feb-12

20,890

15-Nov-11

21,430

30-Aug-11

21,860

7-Aug-12

20,855

18-May-12

20,848

8-Feb-12

20,890

14-Nov-11

21,430

29-Aug-11

21,860

6-Aug-12

20,855

17-May-12

20,847

7-Feb-12

20,930

11-Nov-11

21,430

26-Aug-11

21,860

3-Aug-12

20,855

16-May-12

20,847

6-Feb-12

20,970

10-Nov-11

21,430

25-Aug-11

21,870

2-Aug-12

20,857

15-May-12

20,848

3-Feb-12

20,980

9-Nov-11

21,450

24-Aug-11

21,870

1-Aug-12

20,860

14-May-12

20,850

2-Feb-12

20,975

8-Nov-11

21,500

23-Aug-11

21,870

31-Jul-12

20,866

11-May-12

20,845

1-Feb-12

21,000

7-Nov-11

21,600

22-Aug-11

21,870

30-Jul-12

20,865

10-May-12

20,845

31-Jan-12

21,035

4-Nov-11

21,700

19-Aug-11

21,870

27-Jul-12

20,865

9-May-12

20,845

30-Jan-12

21,030

3-Nov-11

21,700

18-Aug-11

21,870

26-Jul-12

20,877

8-May-12

20,855

20-Jan-12

20,840

2-Nov-11

21,700

17-Aug-11

21,870

25-Jul-12

20,882

7-May-12

20,853

19-Jan-12

20,860

1-Nov-11

21,700

16-Aug-11

21,870

209

24-Jul-12

20,875

4-May-12

20,845

18-Jan-12

20,870

31-Oct-11

21,700

15-Aug-11

21,870

23-Jul-12

20,860

3-May-12

20,845

17-Jan-12

20,980

28-Oct-11

21,750

12-Aug-11

21,870

20-Jul-12

20,850

2-May-12

20,865

16-Jan-12

21,030

27-Oct-11

21,750

11-Aug-11

21,870

19-Jul-12

20,847

26-Apr-12

20,880

13-Jan-12

21,040

26-Oct-11

21,800

10-Aug-11

21,870

18-Jul-12

20,850

25-Apr-12

20,865

11-Jan-12

21,110

25-Oct-11

21,900

9-Aug-11

20,900

17-Jul-12

20,855

24-Apr-12

20,863

10-Jan-12

21,150

24-Oct-11

21,850

8-Aug-11

20,900

16-Jul-12

20,860

23-Apr-12

20,851

9-Jan-12

21,210

21-Oct-11

21,850

5-Aug-11

20,900

13-Jul-12

20,865

20-Apr-12

20,839

6-Jan-12

21,220

20-Oct-11

21,850

4-Aug-11

20,900

12-Jul-12

20,865

19-Apr-12

20,840

5-Jan-12

21,230

19-Oct-11

21,850

3-Aug-11

20,900

11-Jul-12

20,870

18-Apr-12

20,839

4-Jan-12

21,250

18-Oct-11

21,850

2-Aug-11

20,900

10-Jul-12

20,880

16-Apr-12

20,840

3-Jan-12

21,240

17-Oct-11

21,850

1-Aug-11

20,900

9-Jul-12

20,880

12-Apr-12

20,840

30-Dec-11

21,235

14-Oct-11

21,860

29-Jul-11

20,900

6-Jul-12

20,875

11-Apr-12

20,840

29-Dec-11

21,240

13-Oct-11

21,860

28-Jul-11

20,900

5-Jul-12

20,885

10-Apr-12

20,835

28-Dec-11

21,240

12-Oct-11

21,860

27-Jul-11

20,900

4-Jul-12

20,885

9-Apr-12

20,835

27-Dec-11

21,260

11-Oct-11

21,860

26-Jul-11

20,900

3-Jul-12

20,895

6-Apr-12

20,835

26-Dec-11

21,280

10-Oct-11

21,860

25-Jul-11

20,900

2-Jul-12

20,893

5-Apr-12

20,835

23-Dec-11

21,240

7-Oct-11

21,860

22-Jul-11

20,900

29-Jun-12

20,890

4-Apr-12

20,835

22-Dec-11

21,290

6-Oct-11

21,860

21-Jul-11

20,900

28-Jun-12

20,900

3-Apr-12

20,835

21-Dec-11

21,300

5-Oct-11

21,860

20-Jul-11

20,900

27-Jun-12

20,890

28-Mar-12

20,840

20-Dec-11

21,310

4-Oct-11

21,860

19-Jul-11

20,585

26-Jun-12

20,885

27-Mar-12

20,860

19-Dec-11

21,300

3-Oct-11

21,860

18-Jul-11

20,580

25-Jun-12

20,900

26-Mar-12

20,890

16-Dec-11

21,240

30-Sep-11

21,860

15-Jul-11

20,585

22-Jun-12

20,917

21-Mar-12

20,870

15-Dec-11

21,250

29-Sep-11

21,860

14-Jul-11

20,585

21-Jun-12

20,915

20-Mar-12

20,833

14-Dec-11

21,230

28-Sep-11

21,860

13-Jul-11

20,590

20-Jun-12

20,935

19-Mar-12

20,832

13-Dec-11

21,200

27-Sep-11

21,860

12-Jul-11

20,595

11-Jul-11

20,595

25-Apr-11

20,995

7-Feb-11

20,850

22-Nov-10

20,900

6-Sep-10

19,510

8-Jul-11

20,595

22-Apr-11

20,995

4-Feb-11

20,850

19-Nov-10

20,790

3-Sep-10

19,495

7-Jul-11

20,600

21-Apr-11

20,995

3-Feb-11

20,850

18-Nov-10

20,760

2-Sep-10

19,490

6-Jul-11

20,600

20-Apr-11

20,995

2-Feb-11

20,850

17-Nov-10

20,770

1-Sep-10

19,490

5-Jul-11

20,600

19-Apr-11

20,995

1-Feb-11

20,850

16-Nov-10

20,760

31-Aug-10

19,490

4-Jul-11

20,600

18-Apr-11

20,995

31-Jan-11

20,850

15-Nov-10

20,780

30-Aug-10

19,490

1-Jul-11

20,620

15-Apr-11

20,995

28-Jan-11

20,540

12-Nov-10

20,650

27-Aug-10

19,500

30-Jun-11

20,620

14-Apr-11

20,995

27-Jan-11

20,550

11-Nov-10

20,800

26-Aug-10

19,500

29-Jun-11

20,620

13-Apr-11

20,995

26-Jan-11

20,510

10-Nov-10

20,750

25-Aug-10

19,500

28-Jun-11

20,620

12-Apr-11

20,995

25-Jan-11

20,650

9-Nov-10

20,750

24-Aug-10

19,510

27-Jun-11

20,650

11-Apr-11

20,995

24-Jan-11

20,650

8-Nov-10

20,500

23-Aug-10

19,510

210

24-Jun-11

20,590

8-Apr-11

20,995

21-Jan-11

20,750

5-Nov-10

20,280

20-Aug-10

19,520

23-Jun-11

20,590

7-Apr-11

20,995

20-Jan-11

20,780

4-Nov-10

20,700

19-Aug-10

19,510

22-Jun-11

20,590

6-Apr-11

20,995

19-Jan-11

20,780

3-Nov-10

20,650

18-Aug-10

19,460

21-Jun-11

20,590

5-Apr-11

20,995

18-Jan-11

20,820

2-Nov-10

20,650

17-Aug-10

19,340

20-Jun-11

20,600

4-Apr-11

20,995

17-Jan-11

20,900

1-Nov-10

20,600

16-Aug-10

19,250

17-Jun-11

20,740

1-Apr-11

20,960

14-Jan-11

20,880

29-Oct-10

20,300

13-Aug-10

19,280

16-Jun-11

20,660

31-Mar-11

20,960

13-Jan-11

20,870

28-Oct-10

20,295

12-Aug-10

19,270

15-Jun-11

20,590

30-Mar-11

21,015

12-Jan-11

20,865

27-Oct-10

20,120

11-Aug-10

19,260

14-Jun-11

20,590

29-Mar-11

21,025

11-Jan-11

20,860

26-Oct-10

20,025

10-Aug-10

19,250

13-Jun-11

20,590

28-Mar-11

21,040

10-Jan-11

20,850

25-Oct-10

20,000

9-Aug-10

19,240

10-Jun-11

20,565

25-Mar-11

21,050

7-Jan-11

20,750

22-Oct-10

19,985

6-Aug-10

19,230

9-Jun-11

20,565

24-Mar-11

21,040

6-Jan-11

20,720

21-Oct-10

19,980

5-Aug-10

19,205

8-Jun-11

20,565

23-Mar-11

21,040

5-Jan-11

20,720

20-Oct-10

19,980

4-Aug-10

19,205

7-Jun-11

20,565

22-Mar-11

21,170

4-Jan-11

20,710

19-Oct-10

19,998

3-Aug-10

19,210

6-Jun-11

20,600

21-Mar-11

21,140

3-Jan-11

20,750

18-Oct-10

19,840

2-Aug-10

19,220

3-Jun-11

20,600

18-Mar-11

21,000

31-Dec-10

20,750

15-Oct-10

19,840

30-Jul-10

19,220

2-Jun-11

20,630

17-Mar-11

20,875

30-Dec-10

20,760

14-Oct-10

19,828

29-Jul-10

19,230

1-Jun-11

20,620

16-Mar-11

20,875

29-Dec-10

20,770

13-Oct-10

19,815

28-Jul-10

19,180

31-May-11

20,750

15-Mar-11

20,975

28-Dec-10

20,780

12-Oct-10

19,815

27-Jul-10

19,165

30-May-11

20,750

14-Mar-11

20,905

27-Dec-10

20,760

11-Oct-10

19,820

26-Jul-10

19,150

27-May-11

20,750

11-Mar-11

21,000

24-Dec-10

20,750

8-Oct-10

19,815

23-Jul-10

19,150

26-May-11

20,750

10-Mar-11

21,040

23-Dec-10

20,740

7-Oct-10

19,815

22-Jul-10

19,150

25-May-11

20,750

9-Mar-11

21,050

22-Dec-10

20,740

6-Oct-10

19,760

21-Jul-10

19,140

24-May-11

20,800

8-Mar-11

21,060

21-Dec-10

20,720

5-Oct-10

19,610

20-Jul-10

19,140

23-May-11

20,800

7-Mar-11

21,060

20-Dec-10

20,690

4-Oct-10

19,600

19-Jul-10

19,150

20-May-11

20,800

4-Mar-11

21,050

17-Dec-10

20,830

1-Oct-10

19,510

16-Jul-10

19,140

19-May-11

20,800

3-Mar-11

21,060

16-Dec-10

20,910

30-Sep-10

19,575

15-Jul-10

19,130

18-May-11

20,800

2-Mar-11

21,080

15-Dec-10

20,930

29-Sep-10

19,570

14-Jul-10

19,130

17-May-11

20,800

1-Mar-11

21,100

14-Dec-10

20,920

28-Sep-10

19,545

13-Jul-10

19,130

16-May-11

20,800

28-Feb-11

21,120

13-Dec-10

20,940

27-Sep-10

19,515

12-Jul-10

19,130

13-May-11

20,800

25-Feb-11

21,200

10-Dec-10

20,890

24-Sep-10

19,500

9-Jul-10

19,150

12-May-11

20,995

24-Feb-11

21,420

9-Dec-10

20,650

23-Sep-10

19,500

8-Jul-10

19,150

11-May-11

20,995

23-Feb-11

21,380

8-Dec-10

21,850

22-Sep-10

19,505

7-Jul-10

19,150

10-May-11

20,995

22-Feb-11

21,390

7-Dec-10

21,060

21-Sep-10

19,500

6-Jul-10

19,150

9-May-11

20,995

21-Feb-11

21,350

6-Dec-10

21,260

20-Sep-10

19,505

5-Jul-10

19,150

6-May-11

20,995

18-Feb-11

21,280

3-Dec-10

21,350

17-Sep-10

19,505

2-Jul-10

19,150

211

5-May-11

20,995

17-Feb-11

21,250

2-Dec-10

21,400

16-Sep-10

19,504

1-Jul-10

19,150

4-May-11

20,995

16-Feb-11

21,200

1-Dec-10

21,400

15-Sep-10

19,500

30-Jun-10

19,150

3-May-11

20,995

15-Feb-11

21,130

30-Nov-10

21,410

14-Sep-10

19,500

29-Jun-10

19,150

2-May-11

20,995

14-Feb-11

21,130

29-Nov-10

21,490

13-Sep-10

19,500

28-Jun-10

18,975

29-Apr-11

20,995

11-Feb-11

20,995

26-Nov-10

21,260

10-Sep-10

19,500

25-Jun-10

18,975

28-Apr-11

20,995

10-Feb-11

20,885

25-Nov-10

21,400

9-Sep-10

19,500

24-Jun-10

18,975

27-Apr-11

20,995

9-Feb-11

20,830

24-Nov-10

21,100

8-Sep-10

19,500

23-Jun-10

18,975

26-Apr-11

20,995

8-Feb-11

20,730

23-Nov-10

20,970

7-Sep-10

19,510

22-Jun-10

18,975

21-Jun-10

18,975

5-Apr-10

18,975

18-Jan-10

18,630

30-Oct-09

18,280

14-Aug-09

18,260

18-Jun-10

18,975

2-Apr-10

18,975

15-Jan-10

18,620

29-Oct-09

18,280

13-Aug-09

18,250

17-Jun-10

18,975

1-Apr-10

18,975

14-Jan-10

18,630

28-Oct-09

18,280

12-Aug-09

18,270

16-Jun-10

18,975

31-Mar-10

18,980

13-Jan-10

18,600

27-Oct-09

18,280

11-Aug-09

18,260

15-Jun-10

18,975

30-Mar-10

18,980

12-Jan-10

18,600

26-Oct-09

18,280

10-Aug-09

18,230

14-Jun-10

18,975

29-Mar-10

18,980

11-Jan-10

18,610

23-Oct-09

18,280

7-Aug-09

18,240

11-Jun-10

18,975

26-Mar-10

18,980

8-Jan-10

18,620

22-Oct-09

18,280

6-Aug-09

18,250

10-Jun-10

18,975

25-Mar-10

18,980

7-Jan-10

18,620

21-Oct-09

18,280

5-Aug-09

18,300

9-Jun-10

18,975

24-Mar-10

18,980

6-Jan-10

18,630

20-Oct-09

18,280

4-Aug-09

18,310

8-Jun-10

18,975

23-Mar-10

18,980

5-Jan-10

18,590

19-Oct-09

18,280

3-Aug-09

18,350

7-Jun-10

18,975

22-Mar-10

18,990

4-Jan-10

18,580

16-Oct-09

18,280

31-Jul-09

18,370

4-Jun-10

18,975

19-Mar-10

18,990

31-Dec-09

18,800

15-Oct-09

18,280

30-Jul-09

18,350

3-Jun-10

18,975

18-Mar-10

18,990

30-Dec-09

18,800

14-Oct-09

18,280

29-Jul-09

18,320

2-Jun-10

18,975

17-Mar-10

18,990

29-Dec-09

18,800

13-Oct-09

18,280

28-Jul-09

18,330

1-Jun-10

18,975

16-Mar-10

18,990

28-Dec-09

18,800

12-Oct-09

18,280

27-Jul-09

18,350

31-May-10

18,975

15-Mar-10

18,990

25-Dec-09

18,800

9-Oct-09

18,280

24-Jul-09

18,360

28-May-10

18,975

12-Mar-10

19,100

24-Dec-09

18,800

8-Oct-09

18,280

23-Jul-09

18,340

27-May-10

18,975

11-Mar-10

19,100

23-Dec-09

18,800

7-Oct-09

18,280

22-Jul-09

18,350

26-May-10

18,975

10-Mar-10

19,100

22-Dec-09

18,800

6-Oct-09

18,280

21-Jul-09

18,300

25-May-10

18,975

9-Mar-10

19,100

21-Dec-09

18,800

5-Oct-09

18,280

20-Jul-09

18,320

24-May-10

18,975

8-Mar-10

19,100

18-Dec-09

18,800

2-Oct-09

18,280

17-Jul-09

18,340

21-May-10

18,975

5-Mar-10

19,100

17-Dec-09

18,800

1-Oct-09

18,280

16-Jul-09

18,350

20-May-10

18,975

4-Mar-10

19,100

16-Dec-09

18,800

30-Sep-09

18,280

15-Jul-09

18,370

19-May-10

18,975

3-Mar-10

19,100

15-Dec-09

18,800

29-Sep-09

18,280

14-Jul-09

18,380

18-May-10

18,975

2-Mar-10

19,100

14-Dec-09

18,800

28-Sep-09

18,280

13-Jul-09

18,360

17-May-10

18,975

1-Mar-10

19,210

11-Dec-09

18,800

25-Sep-09

18,280

10-Jul-09

18,350

14-May-10

18,975

26-Feb-10

19,220

10-Dec-09

18,800

24-Sep-09

18,280

9-Jul-09

18,350

13-May-10

18,975

25-Feb-10

19,220

9-Dec-09

18,800

23-Sep-09

18,280

8-Jul-09

18,300

212

12-May-10

18,975

24-Feb-10

19,220

8-Dec-09

18,800

22-Sep-09

18,280

7-Jul-09

18,250

11-May-10

18,975

23-Feb-10

19,220

7-Dec-09

18,800

21-Sep-09

18,280

6-Jul-09

18,280

10-May-10

18,975

22-Feb-10

19,220

4-Dec-09

18,800

18-Sep-09

18,280

3-Jul-09

18,280

7-May-10

18,975

19-Feb-10

18,570

3-Dec-09

18,800

17-Sep-09

18,280

2-Jul-09

18,300

6-May-10

18,975

18-Feb-10

18,570

2-Dec-09

18,800

16-Sep-09

18,280

1-Jul-09

18,300

5-May-10

18,975

17-Feb-10

18,570

1-Dec-09

18,800

15-Sep-09

18,280

30-Jun-09

18,280

4-May-10

18,975

16-Feb-10

18,570

30-Nov-09

18,800

14-Sep-09

18,280

29-Jun-09

18,330

3-May-10

18,975

15-Feb-10

18,570

27-Nov-09

18,800

11-Sep-09

18,280

26-Jun-09

18,280

30-Apr-10

18,975

12-Feb-10

18,560

26-Nov-09

18,800

10-Sep-09

18,280

25-Jun-09

18,320

29-Apr-10

18,975

11-Feb-10

18,560

25-Nov-09

18,280

9-Sep-09

18,280

24-Jun-09

18,350

28-Apr-10

18,975

10-Feb-10

18,560

24-Nov-09

18,280

8-Sep-09

18,280

23-Jun-09

18,360

27-Apr-10

18,975

9-Feb-10

18,560

23-Nov-09

18,280

7-Sep-09

18,280

22-Jun-09

18,340

26-Apr-10

18,975

8-Feb-10

18,560

20-Nov-09

18,280

4-Sep-09

18,280

19-Jun-09

18,310

23-Apr-10

18,975

5-Feb-10

18,540

19-Nov-09

18,280

3-Sep-09

18,280

18-Jun-09

18,330

22-Apr-10

18,975

4-Feb-10

18,540

18-Nov-09

18,280

2-Sep-09

18,280

17-Jun-09

18,360

21-Apr-10

18,975

3-Feb-10

18,540

17-Nov-09

18,280

1-Sep-09

18,280

16-Jun-09

18,350

20-Apr-10

18,975

2-Feb-10

18,540

16-Nov-09

18,280

31-Aug-09

18,270

15-Jun-09

18,270

19-Apr-10

18,975

1-Feb-10

18,540

13-Nov-09

18,280

28-Aug-09

18,320

12-Jun-09

18,200

16-Apr-10

18,975

29-Jan-10

18,550

12-Nov-09

18,280

27-Aug-09

18,290

11-Jun-09

18,200

15-Apr-10

18,975

28-Jan-10

18,550

11-Nov-09

18,280

26-Aug-09

18,290

10-Jun-09

18,190

14-Apr-10

18,975

27-Jan-10

18,560

10-Nov-09

18,280

25-Aug-09

18,310

9-Jun-09

18,180

13-Apr-10

18,975

26-Jan-10

18,560

9-Nov-09

18,280

24-Aug-09

18,320

8-Jun-09

18,160

12-Apr-10

18,975

25-Jan-10

18,590

6-Nov-09

18,280

21-Aug-09

18,330

5-Jun-09

18,140

9-Apr-10

18,975

22-Jan-10

18,610

5-Nov-09

18,280

20-Aug-09

18,340

4-Jun-09

18,130

8-Apr-10

18,975

21-Jan-10

18,600

4-Nov-09

18,280

19-Aug-09

18,370

3-Jun-09

18,130

7-Apr-10

18,975

20-Jan-10

18,600

3-Nov-09

18,280

18-Aug-09

18,320

2-Jun-09

18,140

6-Apr-10

18,975

19-Jan-10

18,610

2-Nov-09

18,280

17-Aug-09

18,270

1-Jun-09

18,100

213 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM T Ư NG ĐẠ H C NGÂN HÀNG T . HỒ CHÍ MINH

BÙI QUANG TÍN

QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ K NH TẾ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2013

214 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM T Ư NG ĐẠ H C NGÂN HÀNG T . HỒ CHÍ MINH

BÙI QUANG TÍN

QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ K NH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG MÃ SỐ: 62.34.02.01 NGƯ HƯỚNG DẪN KHOA H C: PGS.;TS. NGÔ HƯỚNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2013

215

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả Luận án có lời cam đoan danh dự về công trình khoa học này của

mình, cụ thể:

- Tôi tên là: Bùi Quang Tín

- Sinh ngày: 20/10/1976

- Quê quán: Quãng Ngãi

- Hiện công tác tại: Khoa Quản trị Kinh doanh – Trường Đại học Ngân hàng

TP.HCM

- Là Nghiên cứu sinh khóa 15 của Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM

- Đề tài: Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng thương

mại cổ phần tại Thành phố Hồ Chí Minh

- Người hướng dẫn: PGS.;TS. Ngô Hướng

Luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu

có tính độc lập, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa được công bố toàn bộ

nội dung này bất kỳ ở đâu; các số liệu, các nguồn trích dẫn trong Luận án được chú

thích nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tôi.

TP.Hồ Chí Minh, ngày 06 tháng 06 năm 2013

Tác giả

Bùi Quang Tín

216

MỞ ĐẦU

4. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Kể từ ngày 07/11/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ

chức thương mại thế giới WTO và đang trong tiến trình cải cách để hội nhập vào

nền kinh tế thế giới và song song là tiến trình tự do hóa nền kinh tế mà lĩnh vực

được ưu tiên hàng đầu chính là lĩnh vực tài chính ngân hàng. Khi tự do hóa kinh tế,

các ngân hàng có nhiều thuận lợi hơn trong hoạt động nhưng đồng thời cũng chịu

thêm nhiều áp lực cạnh tranh cũng như rủi ro từ môi trường bên ngoài, trong khi

không thể tiếp tục trông chờ vào chính sách bảo hộ của nhà nước. Tiến trình tự do

hóa kinh tế tất yếu dẫn đến tự do hóa các dòng vốn, tự do hóa lãi suất và tự do hóa

tỷ giá hối đoái. Từ trước tới nay, nhờ chính sách can thiệp của nhà nước đã giúp cho

lãi suất và tỷ giá hối đoái rất ổn định, ngoại trừ một số thời điểm đặc biệt như khủng

hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á năm 1997-1998.

Thêm vào đó, hoạt động của các ngân hàng trong những năm trước đây chủ

yếu tập trung vào khâu tín dụng, có những ngân hàng hoạt động kinh doanh tín

dụng chiếm đến hơn 90%. Vì thế, vấn đề KDNH cũng như quản lý rủi ro tỷ giá

ngoại tệ và giá vàng trong KDNH chưa được các ngân hàng quan tâm đúng mức.

Chỉ đến thời gian gần đây từ năm 2006-2010, khi thị trường chứng khoán sôi động,

tỷ giá USD/VND tăng giảm nhanh, giá vàng biến động mạnh, tỷ trọng kinh doanh

tín dụng giảm dần, nhiều loại hình kinh doanh mới xuất hiện như đầu tư tài chính,

kinh doanh vàng, v.vv… áp lực cạnh tranh trên thị trường tăng cao thì các ngân

hàng mới bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến việc sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi

ro tỷ giá cho KDNH và các giải pháp khác trong việc quản lý rủi ro trong hoạt động

KDNH. Về phía các Ngân hàng, hoạt động KDNH luôn được kỳ vọng đem lại

nhiều lợi nhuận và rủi ro là thấp nhất. Trong khi đó, sự biến động của tỷ giá ngoại tệ

và giá vàng là rất khó để dự đoán và có thể gây ra nhiều thiệt hại cho cả ngân hàng.

Cho nên, việc tìm ra các giải pháp để phòng ngừa và nâng cao hiệu quả quản lý rủi

ro ngoại hối cho hoạt động KDNH là thật sự cần thiết. Chính vì lẽ đó, tác giả chọn

217

“QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI TẠI CÁC NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TP.HCM” để làm đề tài nghiên cứu cho Luận

án Tiến sĩ.

5. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

Qua tìm hiểu trong thời gian vừa qua, tác giả nhận thấy các đề tài nghiên cứu

có liên quan đến đề tài này chỉ có các tác giả khác thực hiện ở cấp Thạc sỹ ở trong

nước từ năm 2008 trở về trước, còn ở nước ngoài thì không tìm thấy có tác giả nào

làm đề tài có liên quan mật thiết đến đề tài của tác giả đang nghiên cứu.

Các đề tài trên được thực hiện từ năm 2008 về trước nên phần thực trạng

không còn phù hợp với tình hình hiện nay. Ngoài ra, ở chương các giải pháp của các

đề tài cấp Thạc sỹ vẫn còn mang nặng tính lý thuyết hay khó áp dụng vào thực tiễn

hoạt động của các NHTM cổ phần ở TP.HCM. Do đó, việc tìm ra giải pháp căn bản

và khả thi nhất nhằm tăng cường quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại

hối tại các NHTM tại TPHCM là việc làm vô cùng cần thiết, trong đó cần có một

mô hình áp dụng được trong thực tiễn hoạt động của các Ngân hàng nhằm giúp cho

các đơn vị có liên quan trong ngân hàng sử dụng được bất cứ khi nào có nhu cầu

kiểm soát và phòng ngừa rủi ro ngoại hối.

6. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

 Xác định những nguyên nhân của tồn tại trong quản lý rủi ro ngoại hối của

Đề tài nghiên cứu nhằm đạt được 4 mục tiêu sau đây:

 Đề ra các giải pháp để hạn chế rủi ro trong kinh doanh ngoại hối tại các ngân

các ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM.

 Đề ra các giải pháp để tăng cường quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối

hàng thương mại cổ phần trên địa bàn TP.HCM.

 Kiến nghị những biện pháp nhằm hổ trợ cho hoạt động kinh doanh ngoại hối

của các Ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn TP.HCM.

và quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối.

218

4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu thực trạng và các

giải pháp trong việc tăng cường quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các

ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM.

Ngoài ra, trong hoạt động kinh doanh ngoại hối, Luận án này chỉ giới hạn

phạm vi nghiên cứu là các loại ngoại tệ mạnh (gồm có: USD, EUR, GBP, AUD,

JPY, CAD, CHF, SGD) và vàng, tại vì đây là hai loại ngoại hối có doanh số giao

dịch chủ yếu và lớn nhất hiện nay tại các Ngân hàng thương mại cổ phần tại

TP.HCM, chiếm tỷ lệ trên 90% tổng doanh số giao dịch về kinh doanh ngoại hối.

Khoảng thời gian nghiên cứu cho Luận án này là từ năm 2007 đến năm 2012.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Là công trình nghiên cứu khoa học nên trong quá trình thực hiện đề tài, tác

giả chủ yếu sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh, quy nạp, diễn dịch,

phương pháp VaR để thực hiện nghiên cứu.

5. KẾT CẤU ĐỀ TÀI

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được trình

bày ba chương:

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG

KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG

MẠI CỔ PHẦN

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH

NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN

TẠI TP.HCM

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH

DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

CỔ PHẦN TẠI TP.HCM

7. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

 Làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngoại hối và gây

ra rủi ro trong kinh doanh ngoại hối trong điều kiện hiện nay.

219

 Làm rõ những tồn tại trong quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các

 Đề xuất các chính sách và giải pháp để tăng cường quản lý rủi ro trong kinh

ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM.

doanh ngoại hối của các ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO

TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI

CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN

1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ KINH DOANH

NGOẠI HỐI

1.1.1. Quan hệ ngoại hối trong nền kinh tế

Các quan hệ ngoại hối trong nền kinh tế không phát sinh một cách độc lập,

mà luôn chịu ảnh hưởng qua lại bởi rất nhiều yếu tố thị trường khác. Có nhiều yếu

tố nêu lên sự tác động qua lại giữa các giao dịch ngoại hối trong TTNH với các thị

trường khác như thị trường hàng hóa và trái phiếu. Ngoài ra, chúng ta có thể đề cập

đến các thị trường khác và các chính sách khác như: thị trường chứng khoán, các

chính sách chính trị, xã hội, kinh tế, …cũng tác động đến các quan hệ ngoại hối

trong nền kinh tế.

1.1.2. Thị trường ngoại hối

1.1.2.1. Khái niệm thị trường ngoại hối

Theo tác giả, Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các hoạt động chuyển đổi,

mua bán tiền tệ của các nước khác nhau; là nơi thực hiện các giao dịch vàng liên tục

và toàn cầu; là nơi diễn ra các hoạt động đầu tư, lưu chuyển tài chính quốc tế nhằm

thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể kinh tế; đồng thời cũng xác định được các điều

kiện giao dịch.

220

1.1.2.2. Đặc điểm, chức năng của thị trường ngoại hối

1.1.2.4 . Các chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối

 Ngân hàng trung ương

 Các ngân hàng thương mại

 Các nhà môi giới

 Các doanh nghiệp

 Các cá nhân hay tổ chức trong và ngoài nước khác

 Các định chế tài chính khác.

1.1.2.4. Xu hướng phát triển của thị trường ngoại hối trên thế giới

1.1.3. Kinh doanh ngoại hối

1.1.3.1. Khái niệm ngoại hối

Ngoại hối (foreign exchange) bao gồm các phương tiện tiền tệ được sử dụng

 Ngoại tệ

 Các giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ.

 Vàng tiêu chuẩn quốc tế:

 Đồng tiền quốc gia do người không cư trú nắm giữ.

trong thanh toán quốc tế. Đối với một quốc gia, ngoại hối bao gồm:

1.1.3.2. Khái niệm kinh doanh ngoại hối và những vấn đề cơ bản trong kinh doanh

ngoại hối

Theo tác giả, kinh doanh ngoại hối là việc mua và bán các đơn vị tiền tệ khác

nhau và vàng nhằm tìm kiếm chênh lệch giá hoặc hưởng phí.

Có ba phương pháp cơ bản để phát sinh lãi trong KDNH tại thị trường giao

ngay:

 Lãi phát sinh từ việc tạo trạng thái ngoại hối.

 Lãi thu được từ chênh lệch tỷ giá giữa các thị trường khác nhau hoặc cùng

trên một thị trường.

 Lãi thu được từ chênh lệch tỷ giá mua vào và bán ra.

221

1.1.3.3. Các loại giao dịch ngoại hối

 Giao dịch ngoại hối giao ngay (Spot)

 Giao dịch ngoại hối kỳ hạn (Forward)

 Giao dịch ngoại hối tương lai (Future)

 Giao dịch ngoại hối hoán đổi (Swap)

 Giao dịch ngoại hối quyền chọn (Option)

1.2. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN RỦI RO TRONG KINH DOANH

NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.2.1. Các nhân tố chung tác động đến rủi ro trong kinh doanh ngoại hối

1.2.1.3 . Các yếu tố bên ngoài

Đây là các yếu tố chủ yếu thuộc các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội của

các nước trên thế giới có ảnh hưởng đến nền kinh tế của một Quốc gia nói chung và

hoạt động KDNH nói riêng.

1.2.1.4 . Các yếu tố bên trong

Đây là các yếu tố tác động từ nội tại của nền kinh tế của một quốc gia, trong

đó chủ yếu bao gồm: lạm phát, thâm hụt cán cân thương mại, tình trạng đôla hóa

nền kinh tế, trạng thái ngoại tệ, cơ chế điều hành tỷ giá và các hợp đồng giao dịch

phái sinh ngoại hối.

1.2.2. Các nhân tố riêng tác động đến rủi ro trong kinh doanh ngoại hối

Có hai nguyên nhân chính làm phát sinh rủi ro trong KDNH tại các Ngân

hàng, đó là:

 Các Ngân hàng mua bán ngoại tệ hay vàng phục vụ cho khách hàng và mua

bán cho chính mình;

 Các Ngân hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn bằng ngoại tệ hay

vàng.

1.2. CÁC TIÊU CHÍ ĐO LƯỜNG RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI

CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

222

1.3.1. Các tiêu chí định lượng

1.3.1.1. Phương pháp đo lường VaR

Một trong những phương pháp đo lường rủi ro trong hoạt động KDNH tại

các NHTM phổ biến nhất hiện nay là sử dụng mô hình VaR. Mô hình sẽ được phân

tích chi tiết trong mục 1.4.2.3 của chương 1 Luận án này.

1.3.1.2. Phương pháp đo lường trạng thái ngoại tệ

Đây cũng là một trong những phương pháp đo lường định lượng phổ biến

hiện nay trên thế giới về mức độ rủi ro của các giao dịch ngoại hối mà ngân hàng

thực hiện. Các tiêu chí của công thức này được trình bày chi tiết trong Mục 1.2.2

của Luận án này.

Lãi/lỗ đối với ngoại hối (i) = Trạng thái ngoại hối ròng (i) x

Mức biến động tỷ giá của ngoại tệ (i) hay giá vàng

1.3.2. Các tiêu chí định tính

Các chỉ tiêu này bao gồm: mức độ sử dụng các công cụ phái sinh (mục

1.4.2.3), sử dụng các kỷ thuật dự đoán tỷ giá, hạn mức (mục 1.4.2.3), tình hình kinh

tế - chính trị - xã hội trong và ngoài nước (mục 1.2.1), các chính sách của Chính

phủ và các cơ quan có thẩm quyền (mục 1.2.1), v.v…

1.4. QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.4.1. Rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng thương mại

Theo tác giả, rủi ro ngoại hối là rủi ro phát sinh do sự biến động của tỷ giá

ngoại tệ và giá vàng làm ảnh hưởng xấu đến giá trị kỳ vọng trong tương lai. Có hai

nguyên nhân chính gây nên rủi ro tỷ giá ngoại tệ và giá vàng: (1) các ngân hàng

giao dịch các đồng tiền nước ngoài, vàng nhằm phục vụ cho khách hàng và cho

chính ngân hàng mình; (2) các ngân hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn

bằng các ngoại tệ. Cả hai nguyên nhân này tạo ra một xu hướng trạng thái ngoại hối

ròng (trường hoặc đoản) trong mua bán ngoại hối và trong cơ cấu tài sản bằng ngoại

tệ. Nếu tỷ giá ngoại tệ và giá vàng biến động càng mạnh thì rủi ro ngoại hối sẽ càng

lớn.

223

1.4.2. Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương

mại

1.4.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối của NHTM

Theo tác giả, quản lý rủi ro KDNH tại ngân hàng là quá trình tiếp cận rủi ro

một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng

ngừa và giảm thiểu những tổn thất do rủi ro gây ra. Quy trình quản lý rủi ro thông

thường gồm năm bước: nhận dạng rủi ro, phân tích rủi ro, đo lường rủi ro, kiểm

soát, phòng ngừa rủi ro và tài trợ rủi ro.

1.4.2.3. Vai trò của quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối đối với NHTM

Quản trị rủi ro KDNH tốt giúp góp phần làm giảm thiểu chi phí hoạt động và

hạn chế tổn thất cho các ngân hàng.

Quản lý rủi ro KDNH hiệu quả góp phần tạo điều kiện làm lành mạnh tình

hình tài chính, ngăn ngừa nguy cơ phá sản và gia tăng uy tín cho các NHTM.

Quản lý rủi ro KDNH tốt giúp phát hiện kịp thời những nguyên nhân có thể

gây nên rủi ro cho hoạt động KDNH.

Quá trình này giúp xây dựng hình ảnh tốt đẹp cho ngân hàng, đáp ứng yêu

cầu của các quy định trong nước và các chuẩn mực quốc tế.

Hệ thống quản lý rủi ro KDNH hiệu quả giúp các NHTM có được các nhân

tố tích cực sau trong quá trình hoạt động của ngân.

1.4.2.3. Các phương pháp quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối tại ngân hàng

thương mại

 Sử dụng các giới hạn trạng thái ngoại hối giao dịch qua đêm

Hạn mức (position limits) là giới hạn trạng thái ngoại hối tối đa mà mỗi

nhóm, cá nhân KDNH được phép thực hiện.

 Cân bằng trạng thái ngoại hối

 Sử dụng các kỹ thuật dự đoán tỷ giá

Bao gồm phương pháp phân tích cơ bản và phương pháp phân tích kỹ thuật.

 Sử dụng các công cụ phái sinh

224

Các loại công cụ phái sinh khác nhau bao gồm: Hợp đồng kỳ hạn, Hợp đồng

tương lai, Hợp đồng quyền chọn, Hợp đồng hoán đổi và các sản phẩm lai tạp.

 Sử dụng công cụ VaR – Giá trị chịu rủi ro

 Khái niệm về VaR

VaR được xác định dựa trên quy luật phân bố xác suất cho giá trị thị trường

của danh mục. Thông thường, sự biến động giá trị của các tài sản được tuân theo

quy luật phân phối chuẩn, với 2 giá trị đặc trưng là mức kỳ vọng và phương sai.

 Phương pháp đo lường VaR

Hiện tại, các Ngân hàng trên thế giới đang sử dụng ba phương pháp chính để

đo lường VaR, đó là: Phương pháp Delta – Gamma, phương pháp phân tích và

phương pháp Monte Carlo. Trong Luận án này, tác giả đề xuất sử dụng phương

pháp phân tích để áp dụng cho các NHTM cổ phần TP.HCM.

1.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối

của các ngân hàng thương mại

1.4.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng từ phía các NHTM

 Tuân thủ không tốt các chính sách và quy trình QLRR của ngân hàng.

 Thích các giao dịch có mức độ rủi ro cao.

 Hạn mức giao dịch và tổn thất cao.

 Theo đuổi mục tiêu lợi nhuận quá cao.

 Trình độ nhân sự không tốt.

1.4.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng từ bên ngoài ngân hàng

 Chính sách của nhà nước thay đổi.

 Môi trường kinh doanh trong và ngoài nước tiềm ẩn nhiều rủi ro.

225

1.5. NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA TỪ KINH NGHIỆM VỀ QUẢN LÝ RỦI

RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA NGÂN HÀNG Ở MỘT

SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

1.5.1. Bài học thứ nhất về quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ cho các

Ngân hàng thương mại

1.5.2. Bài học thứ hai về quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ cho các ngân

hàng thương mại

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong Chương 1, tác giả đã trình bày các khái niệm cơ bản về thị trường

ngoại hối và hoạt động kinh doanh ngoại hối, bao gồm khái niệm, đặc điểm, chức

năng, hình thức hoạt động, xu hướng phát triển, lịch sử phát triển và các loại giao

dịch ngoại hối nói chung trên thị trường ngoại hối thế giới. Qua đó, chúng ta có

được một bức tranh tổng thể làm nền tảng cho các phần phân tích sau tại thị trường

ngoại hối Việt Nam.

Kinh doanh ngoại hối ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động

của nền kinh tế, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, NHTM và các

cá nhân có sở hữu ngoại hối. Vai trò này thể hiện qua việc kinh doanh ngoại hối

giúp cân đối cung cầu ngoại hối, phòng ngừa rủi ro tỷ giá và tìm kiếm lợi nhuận cho

người sở hữu ngoại hối và là một kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ của Ngân hàng

trung ương.

Bên cạnh đó, trong Chương 1 tác giả cũng đề cập đến tổng quan về quản lý

rủi ro trong hoạt động KDNH của các NHTM. Trong đó, bao gồm các phần khái

niệm về rủi ro KDNH, quản lý rủi ro trong KDNH cũng như các giải pháp trong

quan lý rủi ro KDNH tại các NHTM. Có nhiều giải pháp cũng như nhiều quan điểm

khác nhau trên thế giới trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong hoạt động KDNH

của các NHTM. Tuy nhiên, trong Luận án này tác giả chỉ đề cập đến các giải pháp

cơ bản nhằm giúp các NHTM phòng ngừa rủi ro trong KDNH và từ đó tối đa hóa

lợi nhuận trong hạn mức rủi ro mà Ngân hàng có thể chấp nhận được. Các giải pháp

226

đó bao gồm: sử dụng các giới hạn trạng thái ngoại hối giao dịch qua đêm, cân bằng

trạng thái ngoại hối, sử dụng các kỹ thuật dự đoán tỷ giá, sử dụng các công cụ phái

sinh, sử dụng công cụ VaR – giá trị chịu rủi ro.

Trong phần cuối Chương 1, tác giả đề cập đến một số kinh nghiệm về quản

lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối tại ngân hàng ở một số nước trên thế giới.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI

CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM

2.1 KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ

PHẦN TẠI TP.HCM

2.2 THỰC TRẠNG VỀ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA

CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM

2.2.1 Các nhân tố chung tác động đến rủi ro kinh doanh vàng và ngoại tệ

2.2.1.2. Các yếu tố bên trong

2.2.1.1. Các yếu tố bên ngoài

 Lạm phát

Trong những năm vừa qua, theo Biểu đồ 2.1, tỷ lệ lạm phát đặc biệt cao

trong những năm từ 2007 đến 2011 trừ năm 2009. Như trong hai năm 2007 và 2008,

tỷ lệ lạm phát cao dẫn đến tình hình kinh tế vĩ mô trong nước bất ổn như mức sống

người dân ngày càng thấp, thất nghiệp cao, niềm tin vào đồng tiền Việt nam ngày

càng thấp, thâm hụt các cân thương mại nặng nề, v.v...

Đồng thời, tỷ lệ lạm phát cao khiến người dân trong nước “đổ xô” vào vàng

nhằm tìm kênh trú ẩn an toàn để bảo toàn giá trị tài sản của họ.

Tuy nhiên, tình hình kinh tế trong nước vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề như: giá

USD vẫn tăng trong khi giá USD thế giới giảm, cầu vàng vẫn cao, chênh lệch giữa

giá vàng trong nước và quốc tế chưa giảm về mức hợp lý, dự trữ ngoại hối còn

mỏng, các hoạt động kinh tế nói chung còn trì trệ kéo theo cầu trong nước yếu,…

Từ đó, với các bất ổn trên của nền kinh tế trong nước kéo theo nhiều rủi ro tiềm ẩn

trung và dài hạn cho các hoạt động KDNH của các ngân hàng.

227

- Thâm hụt cán cân thương mại

Nhập siêu là nguyên nhân chính làm tăng nguy cơ thâm hụt cán cân thanh

toán và từ đó tạo áp lực giảm dự trữ ngoại hối nhà nước do NHNN phải bán ngoại

tệ để can thiệp trên thị trường ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá.

Trong cán cân thương mại của nước ta, nhập khẩu vàng là một trong những

nguyên nhân làm cho tình hình nhập siêu chưa được cải thiện đáng kể, mặc dù cán

cân thương mại năm 2012 có thặng dư nhỏ. Cầu vàng cao khiến cho cầu ngoại tệ

tăng và làm cho tỷ giá USD/VND luôn có xu hướng tăng; từ đó làm cho cung cầu

về ngoại tệ và vàng thường xuyên ở trạng thái mất cân đối. Cuối cùng, các vấn đề

này đã tạo nên nhiểu tổn thất cho hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần tại

TP.HCM như minh họa trong các biểu đồ từ 2.4 đến 2.7.

 Tình trạng đôla hóa nền kinh tế

Các rủi ro tiềm ẩn trong trung và dài hạn vẫn còn đó, việc “yêu thích” USD

và vàng của người dân vẫn còn đó, tình trạng đôla hóa chưa thể chấp dứt được. Từ

đó, việc điều hành các chính sách vĩ mô của NHNN gặp không ít khó khăn, việc

quản lý thị trường ngoại hối trong nước vẫn luôn là một ẩn số và rất khó tìm được

sự đồng thuận lớn từ phía người dân cũng như các ngân hàng. Cho nên, các rủi ro

đối với hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần tại TP.HCM vẫn còn tồn tại trong

thời gian vừa qua cũng như sắp tới.

 Trạng thái ngoại tệ

 Cơ chế điều hành tỷ giá

- Các hợp đồng giao dịch phái sinh ngoại hối

Hầu hết các giao dịch phái sinh ngoại tệ và vàng mà các NHTM cổ phần

TP.HCM thực hiện đều đáp ứng cho nhu cầu mua bán sản phẩm phái sinh ngoại hối

từ phía khách hàng đa số là doanh nghiệp (theo các Bảng 2.5 đến 2.11).

Ngoài việc thực hiện môi giới cho khách hàng về các giao dịch phái sinh

ngoại hối, các NHTM cổ phần tại TP.HCM hầu như rất hiếm khi thực hiện mua hay

bán các giao dịch phái sinh ngoại hối cho chính các trạng thái ngoại hối của ngân

hàng mình để phòng ngừa rủi ro của tỷ giá ngoại tệ hay giá vàng. Chính vì lẽ đó,

228

trong những năm vừa qua, khi mà tỷ giá USD/VND và giá vàng ngày càng biến

động phức tạp, đồng thời rủi ro chính sách từ phía NHNN ngày càng hiện hữu, lợi

nhuận từ mảng KDNH của các ngân hàng ngày càng giảm, đặc biệt là bị lỗ trong

năm 2011 và năm 2012 vừa qua tại nhiều NHTM cổ phần có thị phần giao dịch lớn

trong KDNH và có trụ sở chính tại TP.HCM như trong Biểu đồ từ 2.4 đến 2.7 ở

trên.

2.2.2. Các nhân tố riêng tác động đến rủi ro kinh doanh vàng và ngoại tệ

Khi ngân hàng thực hiện mua hộ và bán hộ cho khách hàng để thu phí thì rủi

ro hối đoái không phát sinh. Một khi ngân hàng tiến hành mua bán ngoại hối cho

khách hàng hay cho chính ngân hàng nhằm mục tiêu kiếm lợi nhuận do tỷ giá ngoại

tệ hay giá vàng biến động, ngân hàng đang mở trạng thái ngoại hối trường hay

đoản, khi đó rủi ro ngoại hối sẽ xảy ra khi tỷ giá ngoại tệ hay giá vàng biến động

ngược với trạng thái ngoại hối mà ngân hàng đang nắm giữ.

Khía cạnh thứ hai của rủi ro hối đoái mà các Ngân hàng phải đối mặt là sự

không cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ đối với từng loại ngoại tệ hay vàng.

2.3. THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI

HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM

2.3.3 Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng

2.3.3.1 Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng vật chất

Tại Việt Nam, hiện nay phần lớn người dân mua vàng là để đầu cơ giá vàng,

tuy nhiên, từ đầu năm 2010, do việc kinh doanh vàng tài khoản trong nước và quốc

tế bị cấm, nên hoạt động đầu cơ giá vàng của người dân buộc phải thực hiện thông

qua việc trao đổi lượng vàng vật chất tương ứng với các cửa hàng trung gian ngày

càng rầm rộ.

Tuy nhiên hoạt động kinh doanh này cũng chứa đựng nhiều rủi ro.

Như trường hợp vào ngày 10/10/2011 tại Ngân hàng Sacombank, phòng

KDNH đã thực hiện hai giao dịch cùng lúc, đó là các dealer đã mua của đối tác

nước ngoài HSBC Hongkong thông qua mạng Reuters với số lượng 500 kg vàng

trên tài khoản với giá giá là 1.585 USD/oz (với giá USDVNĐ trên thị trường

229

interbank lúc bấy giờ 21.700), một giao dịch khác với một đối tác trong nước là

DNTN A cùng với số lượng 500kg vàng SJC (tương đương 500 * 26,666 = 13.333

lượng vàng SJC) với giá 43.900.000 đồng/lượng.

Khi thực hiện các giao dịch trên, phía Sacombank đã phải chịu sáu loại rủi ro

sau mà hầu như chưa có giải pháp phòng ngừa hữu hiệu.

Hàng ngày, phòng Quản lý rủi ro tại Hội sở Sacombank, vẫn luôn có cảnh

báo, nhắc nhở đến phòng KDNH và báo cáo nhanh lên Ban Tổng giám đốc về các

diễn biến bất lợi cho các giao dịch mà phòng Kinh doanh đã thực hiện. Tuy nhiên,

việc làm này vẫn còn mang tính đối phó và chưa thực sự hiệu quả trong công tác

quản lý và phòng ngừa rủi ro ngoại hối của NHTM.

Khi nhìn sang các NHTM cổ phần khác tại TP.HCM như ngân hàng ACB

hay Việt Á hay Eximbank thì các ngân hàng này vẫn thực hiện các giao dịch mua

bán vàng vật chất trong nước, cùng lúc đó là họ thực hiện bán mua đối ứng với tài

khoản vàng tại nước ngoài tương tự như các giao dịch trên của Sacombank. Cũng

với các giao dịch giống nhau về bản chất đó, các ngân hàng này vẫn không có các

giải pháp quản lý rủi ro một cách chặt chẽ, các báo cáo quản lý rủi ro KDNH vẫn

mang tính đối phó, các phòng ban vẫn thờ ơ về mức độ rủi ro của các giao dịch mà

mình đang thực hiện và quản lý, các cảnh báo cũng như các giải pháp quản lý rủi ro

định lượng như mô hình VaR chỉ mang tính tham khảo.

Do đó, các giải pháp quản lý rủi ro trong kinh doanh vàng vật chất tại các

NHTM cổ phần TP.HCM còn rất sơ sài, đối phó, còn mang nặng định tính hơn là

định lương. Đa phần các báo cáo rủi ro cho các giao dịch kinh doanh vàng vật chất

chỉ mang tính tham khảo và rất ít thông tin.

2.3.3.2 . Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản

Bên cạnh hoạt động kinh doanh vàng vật chất phổ biến và mang tính truyền

thống như đã trình bày ở trên, kinh doanh vàng tài khoản vẫn là lĩnh vực cũng chứa

đựng nhiều rủi ro cho hoạt động của các NHTM và gây nhiều bất ổn đến chính sách

quản lý kinh tế của Chính phủ. Trên thực tế, việc kinh doanh sàn vàng hay kinh

230

doanh vàng qua tài khoản với nước ngoài, các NHTM đã đối mặt với những rủi ro

sau:

 Rủi ro pháp lý.

 Rủi ro thị trường.

 Rủi ro về trình độ.

 Rủi ro về kỹ thuật công nghệ.

2.3.3.3 . Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu vàng

Tại các NHTM hiện nay, việc quản lý rủi ro này tỏ ra rất lỏng lẻo và hầu như

chưa có một quy định nào để quản lý hiệu quả rủi ro hoạt động xuất nhập khẩu vàng

này. Thực tế hoạt động xuất nhập khẩu vàng tại các NHTM với những rủi ro như

phân tích trên lại chưa có cách quản lý hiệu quả, tuy nhiên không thể vì những rủi

ro như vậy mà Nhà nước lại cấm loại hình giao dịch này.

2.3.4 Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ

2.3.4.1 . Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ phái sinh ngoại tệ

Hiện nay dù có tham gia vào một số nghiệp vụ phái sinh nhưng hầu như các

NHTM tại TP.HCM chỉ chú ý đến việc mua bán ngoại tệ nhằm mục đích đáp ứng

cho thanh toán quốc tế, vay và cho vay ngoại tệ mà hầu như không thực hiện bảo

hiểm tỷ giá nên trong KDNH thì các NHTM đóng vai trò chủ yếu là trung gian giao

dịch để hưởng chênh lệch giá hơn là những nhà tạo lập thị trường. Chính vì lẽ đó,

các NHTM rất yếu về phân tích tỷ giá mà đặc biệt là rất yếu về phân tích kỹ thuật,

hầu như rất ít Ngân hàng sử dụng phân tích kỹ thuật như một công cụ hỗ trợ thêm

cho phân tích cơ bản trong phân tích tỷ giá. Đó cũng là lý do vì sao mà ít NHTM

mạnh về kinh doanh đầu cơ mà chủ yếu chỉ kinh doanh cho khách hàng nhằm

hưởng chênh lệch giá, cho nên, hầu như các NHTM giữ trạng thái tự doanh ngoại tệ

rất ít, và đa phần cũng mua bán các giao dịch phái sinh ngoại tệ trong nước với các

đối tác nước ngoài nhằm hưởng chênh lệch giá, tùy thuộc vào từng thời kỳ theo

quyết định của Hội đồng Quản trị và Ban Tổng giám đốc Ngân hàng. Từ đó rủi ro

xảy ra cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ mặt hay ngoại tệ phái sinh rất ít khi xảy ra

hoặc nếu có xảy ra thì cũng trong chừng mực kiểm soát được. Hoạt động tự doanh

231

của Ngân hàng cũng như việc thực hiện các giao dịch phái sinh của Ngân hàng hay

doanh nghiệp với doanh số rất ít trong thời gian vừa qua cũng xuất phát từ nhiều

nguyên nhân.

2.3.4.2 . Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ mua bán ngoại tệ giao ngay

Khi thị trường ngoại tệ sôi động, cung cầu ngoại tệ mất cân đối, chênh lệch

hai tỷ giá lại được mở ra, Ngân hàng gặp ngay khó khăn trong việc xác định tỷ giá

mua bán và rủi ro cho Ngân hàng lại tiếp tục xảy ra. Các NHTM và NHNN vẫn

đang tìm kiếm giải pháp để các giao dịch ngoại tệ trên thị trường diễn ra lành mạnh,

NHTM có thể quản lý được rủi ro trong hoạt động mua bán ngoại tệ mặt.

2.4. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH

NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI

TP.HCM

2.4.1. Thành tựu

 Có ban hành các quy định về quản lý rủi ro trong KDNH trong nội bộ ngân

hàng.

 Tuân thủ các quy định quản lý rủi ro của NHNN và của chính ngân hàng.

 Thường xuyên nâng cao năng lực quản trị rủi ro của đội ngũ quản lý và thực

hiện các quy định quản lý rủi ro.

2.4.2. Hạn chế

 Thiếu các quy định pháp luật cho hoạt động KDNH của ngân hàng.

 Tuân thủ các quy định của NHNN mang tính đối phó như về trạng thái ngoại

tệ, giao dịch option USD/VND, mua bán ngoại tệ với giá vượt trần quy định.

 Chạy theo lợi nhuận nên ít quan tâm đến các quy định về quản lý rủi ro đã

ban hành.

 Các biện pháp đo lường rủi ro về định lượng và định tính chỉ mang tính tham

khảo, thiếu sự cảnh báo và ngăn chặn kịp thời.

2.4.3. Nguyên nhân

 Các chính sách của Chính phủ và NHNN chậm được ban hành để theo kịp

các thay đổi của thị trường.

232

 Trong quá trình hội nhập và phát triển, mức độ cạnh tranh ngày càng cao làm

cho lợi nhuận các ngân hàng giảm đi nhiều. Do đó, để thực hiện chỉ tiêu lợi

nhuận theo kế hoạch, ngân hàng phải chấp nhận các hoạt động kinh doanh có

mức độ rủi ro cao hơn và làm cho quy trình quản lý rủi ro gặp nhiều khó

khăn.

 Lợi ích bị xung đột giữa hai phòng ban trong ngân hàng: phòng KDNH và

phòng QLRR. Phòng KDNH luôn muốn kinh doanh có được lợi nhuận cao

nhất, phòng QLRR là muốn hoạt động kinh doanh với mức độ an toàn cao

nhất cho ngân hàng. Do đó, các cảnh báo và phân tích về rủi ro của phòng

QLRR ít được đội ngũ kinh doanh phòng KDNH quan tâm. Từ đó, việc quản

lý rủi ro khó được thực hiện.

 Việc đầu tư hệ thống công nghệ thông tin tốn kém nhiều, nên các ngân hàng

rất ngại thay đổi và nâng cấp hệ thống hạ tầng tuy đã cũ kỹ.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong những năm qua kể từ 2007 đến nay, nền kinh tế thế giới vẫn còn nhiều

diễn biến phức tạp như khủng hoảng nợ công Châu Âu còn nhiều di chứng nặng nề,

nhiều nước trong khu vực có mức nợ công/GDP chiếm trên 150%, nền kinh tế phát

triển chậm chạp; nền kinh tế Mỹ vẫn chưa thoát khỏi tình trạng khó khăn, thất

nghiệp liên tục qua nhiều năm trên 8%, thâm hụt ngân sách ngày càng trầm trọng;

các nền kinh tế ở Châu Á cũng chưa thoát khỏi tình trạng suy thoái chung của nền

kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam cũng còn rất nhiều khó khăn

và có ảnh hưởng một phần từ các nền kinh tế trên thế giới như lạm phát trong

những năm qua ở mức cao, có năm trên 15%, thâm hụt cán cân thương mại kéo dài

qua nhiều năm, tình trạng đôla hóa vẫn còn tiếp diễn chưa có dấu hiệu suy giảm, tín

dụng ngoại tệ tuy có giảm nhưng vẫn chưa thể chuyển qua quan hệ mua bán ngoại

tệ, v.v… Dưới những tác động tiêu cực trong, ngoài nước cũng như thực trạng về

hoạt động KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM như đã phân tích ở trên, hoạt

động KDNH tại các NHTM gặp nhiều rủi ro.

Từ những thực trạng về rủi ro KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM được

233

nêu trong phần 2.1, phần tiếp theo ở 2.2 là các giải pháp cơ bản nhằm hạn chế rủi ro

KDNH, trong đó bao gồm: ổn định tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước,

giảm thiểu thấp nhất các tác động tiêu cực của sự suy giảm nền kinh tế thế giới. Bên

cạnh đó, để ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển thị trường ngoại hối và giảm rủi ro

trong KDNH tại các NHTM, Chính phủ cần giảm tỷ lệ lạm phát xuống dưới 10%,

giảm nhập siêu xuống dưới 10 tỷ USD/năm, hạn chế và tiến đến xóa bỏ tình trạng

đôla hóa nền kinh tế. Ngoài ra, NHNN cần có cơ chế điều hành tỷ giá USD/VND

linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước, phát triển thị trường sản phẩm phái sinh

ngoại tệ, hạn chế và tiến tới xóa bỏ tín dụng ngoại tệ trong năm 2015, đồng thời

chuyển qua giao dịch mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Cùng với các giải

pháp đó, NHTM thực hiện tổ chức hoạt động KDNH và hạn chế rủi ro hoạt động;

sử dụng công cụ hạn mức; các phương pháp dự báo tỷ giá và công cụ lệnh nhằm

hạn chế rủi ro phát sinh trong KDNH.

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI

HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM

3.1. ĐỊNH HƯỚNG VỀ TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO

TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN

3.2 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO KINH DOANH NGOẠI

HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM

3.2.1 Tổ chức lại hoạt động kinh doanh ngoại hối

Một NHTM trong KDNH cần có ba phòng có liên quan mật thiết với nhau

nhằm hạn chế rủi ro hoạt động trong quá trình KDNH tại các NHTM và tăng cường

khả năng quản lý rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Các phòng này bao gồm:

- Phòng kinh doanh

- Phòng thanh toán

- Phòng quản lý rủi ro

234

3.2.2. Sử dụng công cụ hạn mức

Hạn mức (position limits) là giới hạn trạng thái ngoại hối tối đa mà mỗi tổ

chức, cá nhân kinh doanh ngoại hối được phép thực hiện. Tùy theo kinh nghiệm,

trình độ, mục đích kinh doanh, năng lực tài chính và trang thiết bị mà hạn mức giữa

các tổ chức, giữa các Dealer là không giống nhau. Việc quản lý hạn mức kinh doanh

tại một NHTM có thể căn cứ vào một số tiêu chí như sau:

- Hạn mức chung cho cả phòng KDNH.

- Hạn mức theo các đồng tiền kinh doanh.

- Hạn mức cho các loại nghiệp vụ cụ thể, ví dụ hạn mức giao ngay, kỳ hạn, tương

lai hoán đổi và quyền chọn.

3.2.3 Sử dụng các phương pháp dự báo tỷ giá

Trên thị trường tài chính nói chung và thị trường hối đoái nói riêng các

chuyên gia thường dùng 2 cách phân tích sau đây để dự báo giá: phân tích cơ bản

(Fundamental analysis) và phân tích kỹ thuật (Technical analysis).

3.2.4. Sử dụng công cụ lệnh

Một phương pháp khác để hạn chể rủi ro trong KDNH là các Dealer có thể

đưa ra các lệnh rằng, nếu có những thay đổi nhất định trên thị trường phù hợp với

các lệnh đã được đưa ra trước đó, thì giao dịch được tự động thực hiện. Chính việc

làm này chắc chắn sẽ làm giảm đi những khoản lỗ ngoài dự kiến và giúp các Dealer

kiểm soát tốt hoạt động KDNH của ngân hàng mình. Trong mỗi lệnh, phải nói rõ

giá cả, các thông số để trên cơ sở đó một giao dịch có thể thực hiện.

3.3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO KINH

DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN

TẠI TP.HCM

3.3.5 Các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường trong hoạt động quản lý rủi ro

kinh doanh ngoại hối

3.3.5.1 Thiết lập trạng thái ngoại hối hợp lý và phù hợp

Một NHTM huy động vốn bằng ngoại tệ và sau đó dùng toàn bộ vốn huy

động được để cho vay cũng bằng ngoại tệ, tức không có sự chuyển đổi mua bán

235

nào, thì cho dù tỷ giá biến động thế nào, NHTM cũng không chịu rủi ro tỷ giá bởi vì

trạng thái ngoại tệ không được tạo ra. Cho nên, chỉ khi NHTM duy trì trạng thái

ngoại tệ mở khác 0, tức duy trì trạng thái tài sản có và tài sản nợ nội và ngoại bảng

không cân xứng với nhau, khi đó, rủi ro phát sinh theo hướng biến động của tỷ giá

như sau:

Các trường hợp Tỷ giá không đổi Tỷ giá tăng Tỷ giá giảm

TSCF = TSNF Lợi nhuận không thay đổi Lợi nhuận không thay đổi

Lãi ngoại tệ Lỗ ngoại tệ TSCF > TSNF

Lỗ ngoại tệ Lãi ngoại tệ TSCF < TSNF Lợi nhuận không thay đổi Lợi nhuận không thay đổi Lợi nhuận không thay đổi

Việc duy trì một trạng thái ngoại hối hợp lý và phù hợp với mức độ rủi ro

của từng ngân hàng, các NHTM đã và đang cùng với NHNN quản lý hiệu quả được

hoạt động KDNH trong nội bộ NHTM và giúp hoạt động của thị trường ngoại hối

ngày càng hiệu quả và ổn định hơn.

3.3.5.2 . Sử dụng mô hình định lượng rủi ro VAR

Mô hình đo lường rủi ro Var được áp dụng tại Eximbank theo tình huống

điển hình như sau:

Ngân hàng Eximbank mua vào 2000 chỉ vàng ngày 15/07/2012 với giá vàng

là 4.200.000 đồng/chỉ. Ngày 16/7/2012 Ngân hàng xác định tổng lỗ dự kiến bao

gồm lỗ do giá vàng giảm giá từ 4.200.000 đồng/chỉ xuống 4.100.000 đồng/chỉ và

các mức lỗ dự kiến với khả năng 99% và 95% tương ứng với kết quả trong bảng

tính 3.2 bên dưới theo các công thức đã nêu trong phần 1.2.2.5 của chương 1 Luận

án này về sử dụng mô hình VaR để xác định mức lỗ tối đa có thể xảy ra. Các bảng

số liệu này được tính toán dựa trên số liệu thống kê giá vàng thực tế tại TP.HCM từ

ngày 11/12/2009 đến ngày 16/06/2012 (750 ngày) (Bảng 1 ở phụ lục cuối Luận án).

Do giá mua ngày 15/7/2012 là 4.200.000 đồng/chỉ, đến ngày 16/7/2012 giá

chỉ còn 4.100.000 đồng/chỉ, ngân hàng bị lỗ là 2.000 * 100.000 = 200 triệu đồng.

236

Cùng với khoản lỗ đó, giá trị lỗ tối đa dự kiến VaR với xác xuất 99% là 110,43 triệu

đồng, với xác xuất 95% khoản lỗ dự kiến VaR là 76,76 triệu đồng. Do đó, tổng

khoản lỗ thực tế và lỗ dự kiến tối đa là: xác xuất 99% là 310,43 triệu đồng, xác xuất

95% là 276,76 triệu đồng.

Trong bảng 3.3, với các giả định giá vàng thị trường biến động từ 4.100.000

đến 4.300.000 đồng/chỉ. Tương ứng với sự biến động giá đó là các khoản lãi/lỗ dự

kiến được liệt kê trong cột cuối cùng của bảng 3.3.

Với các kết quả được tính toán trong bảng 3.2 và 3.3 cũng như thu thập số

liệu giá vàng trong bảng 3.1, các chuyên viên kinh doanh của phòng KDNH tính

toán được mức lỗ tối đa một khi thực hiện mua 2.000 chỉ vàng với giá vàng lúc mua

là 4.200.000 đồng/chỉ. Sau khi tính toán, phòng KDNH quyết định là có thực hiện

giao dịch đó hay không. Ngoài ra, phòng QLRR cũng sẽ có các bảng tính tương tự

như vậy, để thực hiện chức năng của phòng là cảnh báo cho phòng KDNH nếu số lỗ

đó vượt quá hạn mức lỗ cho phép, và báo cáo kịp thời trạng thái các giao dịch lên

Ban lãnh đạo ngân hàng. Cùng với đó, NHNN cũng nhận được các báo cáo rủi ro

của các trạng thái kinh doanh ngoại hối hàng ngày của từng ngân hàng, từ đó có các

quản lý và điều chỉnh kịp thời và cuối cùng là bảo đảm an toàn cho hoạt động của

hệ thống ngân hàng nói chung.

Với các kết quả tính toán VaR trên, Eximbank biết trước được rằng với một

giao dịch ngoại tệ của ngân hàng thì ngân hàng sẽ xác định được mức lổ tối đa có

thể xảy ra là bao nhiêu, và mức lổ đó có nằm trong hạn mức rủi ro mà Ban lãnh đạo

ngân hàng giao cho phòng KDNH trong việc thực hiện các giao dịch ngoại tệ tự

doanh hay không. Từ đó, các chuyên viên phòng KDNH sẽ tổng hợp các yếu tố như

về giá cả thị trường, các phân tích kỷ thuật, phân tích cơ bản về sự biến động của

giá ngoại tệ, … cùng với các tính toán về giá trị chịu rủi ro tối đa VaR, các chuyên

viên sẽ quyết định là có nên thực hiện các giao dịch ngoại tệ đó hay không. Một

khía cạnh khác, phòng quản lý rủi ro (QLRR) sau khi nhận được các thông tin về

giao dịch từ phía phòng KDNH, phòng QLRR xác định giá trị VaR cho giao dịch

đó, tạo ra báo cáo cho lãnh đạo ngân hàng, đồng thời cảnh báo đến các phòng ban

237

liên quan nếu các giao dịch ngoại tệ đó có mức rủi ro cao hơn hạn mức cho phép

của ngân hàng hay có vi phạm các quy định của ngân hàng.

3.3.5.3 . Sử dụng các sản phẩm phái sinh ngoại tệ

Để có thể hạn chế được rủi ro tỷ giá, Ngân hàng phải thực hiện các biện pháp

phòng ngừa, một trong những công cụ phòng ngừa hữu hiệu chính là các hợp đồng

phái sinh về ngoại hối. Các hợp đồng phái sinh ngoại hối bao gồm: hợp đồng kỳ

hạn, hợp đồng hoán đổi, hợp đồng quyền chọn và hợp đồng tương lai.

3.3.5.4 . Hạn chế các giao dịch trên thị trường không có nhu cầu thực

Để thực hiện được giải pháp này, trước tiên rất cần có các quy định từ phía

Nhà nước và cần sự kiên trì thực hiện, kiểm tra giám sát, xử phạt nghiêm minh việc

thực thi các quy định của pháp luật đã được đưa ra.

Ngoài ra, nhằm giảm các giao dịch trên thị trường ngoại hối có nhu cầu giả

tạo và đầu cơ ngoại hối thì NHNN cần tạo ra một thị trường ngoại hối hoạt động ổn

định lâu dài.

Trên thị trường vàng, nhằm giảm mua bán tràn lan và đầu cơ cũng như tác

động xấu đến CSTT bằng cách thông qua sự hỗ trợ của NHNN bằng chính sách

pháp luật.

Ngoài ra NHNN cần tiếp tục xem xét một số giải pháp nhằm tăng cường sự

ổn định của thị trường vàng lâu dài và hỗ trợ cho hoạt động KDNH của NHTM hiệu

quả và tránh rủi ro cho các NHTM.

3.3.6 Các giải pháp khác từ phía các ngân hàng thương mại để hổ trợ cho việc

tăng cường hoạt động quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối

3.3.6.1 Tăng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại

3.3.6.2 . Đầu tư công nghệ

3.3.6.3 . Phát triển nguồn nhân lực

3.4. CÁC KIẾN NGHỊ VỚI CƠ QUAN CHỨC NĂNG

3.4.1. Kiến nghị với Chính phủ, Bộ, Ngành liên quan

3.4.1.1. Ổn định tình hình bên ngoài: kinh tế, chính trị và xã hội

238

3.4.1.2. Các chính sách vĩ mô cơ bản: lạm phát, thâm hụt cán cân thương mại, tình

trạng đôla hóa nền kinh tế

3.4.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước

3.4.2.1. Chính sách tỷ giá USD/VND

3.4.2.2. Phát triển thị trường sản phẩm phái sinh

3.4.2.3. Chính sách đối với huy động và tín dụng ngoại tệ

3.4.2.4. Lập sàn giao dịch vàng, ngoại tệ và các sản phẩm phái sinh mang tính

quốc gia

3.4.2.5. Hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ngoại tệ và kinh doanh

vàng

3.4.2.6. Bình ổn thị trường ngoại tệ và thị trường vàng

3.4.2.7. Thanh tra, kiểm tra, giám sát thị trường ngoại tệ và vàng

3.4.2.8. Chính sách về rủi ro và kiểm soát

3.4.2.9. Chính sách kiều hối

3.4.2.10. Dự trữ ngoại hối

3.4.2.11. Trạng thái ngoại tệ

3.4.2.12. Hệ thống pháp luật

3.4.3. Kiến nghị với Hiệp hội Ngân hàng

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

KẾT LUẬN

Trong những năm gần đây, thị trường ngoại hối Việt Nam đã hình thành và

từng bước phát triển. Chính sách quản lý ngoại hối đang dần được hoàn thiện phù

hợp với hướng phát triển kinh tế thị trường mở; những nhân tố thị trường ngày càng

trở nên quyết định hơn trong việc xác định tỷ giá hối đoái; bước đầu đã đưa một số

các giao dịch KDNH vào cuộc sống như giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn,

giao dịch hoán đổi và giao dịch quyền chọn. Mặc dù với những bước đi đầu tiên, thị

trường ngoại hối Việt Nam đã tạo ra được một môi trường KDNH cho các NHTM,

đồng thời cung cấp các công cụ hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro ngoại hối cho các

239

doanh nghiệp xuất nhập khẩu và những nhà đầu tư quốc tế cũng như các chủ thể

khác trong nền kinh tế có giao dịch ngoại hối.

Hoạt động KDNH chứa đựng nhiều loại rủi ro, nhất là rủi ro tỷ giá ngoại tệ và

giá vàng, nhưng nếu được quản lý một cách khoa học, có hệ thống sẽ mang lại lợi

nhuận lớn, đóng góp vào tổng lợi nhuận chung cho các NHTM. Chính vì vậy, trong

xu hướng hội nhập hiện nay, việc hoàn thiện các công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại

hối trong hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM là rất cần

thiết và nhằm giúp nâng cao hiệu quả trong việc quản lý rủi KDNH tại các NHTM.

Luận án này đã giải quyết được các vấn đề trong mục tiêu nghiên cứu, bao

gồm: làm rõ cơ sở lý luận về quản lý rủi ro trong KDNH tại các NHTM, thực trạng

về quản lý rủi ro trong KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM và giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro trong KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM.

Với các giải pháp mà Luận án đưa ra để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản lý rủi

ro KDNH tại các NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM; và cũng với hy vọng rằng

trong những năm tới, các NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM sẽ có một bước tiến

mới đáng kể trong quản lý rủi ro hoạt động KDNH, góp phần đưa hoạt động này

thành một trong những hoạt động quan trọng mang lại lợi ích và an toàn chung cho

ngành ngân hàng, đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GDP của Thành phố Hồ Chí

TP.HCM nói riêng và đất nước nói chung.

240

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN

ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1) Quản lý rủi ro trong kinh doanh vàng tại các ngân hàng thương mại bằng mô

hình VaR * Tạp chí ngân hàng, số 5 (tháng 3/2013)

2) Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng của Ngân hàng thương mại *

Tạp chí công nghệ ngân hàng, số 73 (tháng 4/2012)

3) Lạm phát và tăng trường kinh tế năm 2011 tại Việt nam * Tạp chí công nghệ

ngân hàng, số tháng 1+2/2011

4) Nợ công thế giới và kinh nghiệm cho Việt nam * Hội thảo khoa học “Nợ công:

Kinh nghiệm thế giới và bài học cho Việt nam” tại trường Đại học ngân hàng

TP.HCM, tháng 6/2012

5) Rủi ro tỷ giá: phòng ngừa và tăng sức cạnh tranh đối với doanh nghiệp vừa và

nhỏ * Hội thảo khoa học “Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh giúp hệ thống

doanh nghiệp nhỏ và vừa Thành phố Cần Thơ vượt qua khủng hoảng” tại Sở Khoa

học công nghệ Thành phố Cần Thơ, tháng 9/2012.

6) Vai trò sản phẩm tài chính phái sinh và khả năng áp dụng ở Việt nam * Hội thảo

khoa học của Khoa Thị trường chứng khoán ngày 15.12.2012

241

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH

BẢNG THÔNG TIN TÓM TẮT

VỀ NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN

- Đề tài luận án: “Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân

hàng thương mại cổ phần tại Thành phố Hồ Chí Minh”

- Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số: 62.34.02.01

- Nghiên cứu sinh: Bùi Quang Tín Khóa: 15

- Người hướng dẫn khoa học: PGS.;TS. Ngô Hướng

Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận cũng như

thực tiễn như sau:

- Ý nghĩa khoa học: Hệ thống hóa những vấn đề mang tính lý luận về thị

trường ngoại hối, kinh doanh ngoại hối, rủi ro và quản lý rủi ro trong kinh doanh

- Ý nghĩa thực tiễn: hoạt động của các ngân hàng trong những năm trước đây

ngoại hối tại các Ngân hàng thương mại cổ phần.

chủ yếu tập trung vào khâu tín dụng, có những ngân hàng hoạt động kinh doanh tín

dụng chiếm đến hơn 90%. Vì thế, vấn đề KDNH cũng như quản lý rủi ro tỷ giá

ngoại tệ và giá vàng trong KDNH chưa được các ngân hàng quan tâm đúng mức.

Chỉ đến thời gian gần đây từ năm 2006-2010, khi thị trường chứng khoán sôi động,

tỷ giá USD/VND tăng giảm nhanh, giá vàng biến động mạnh, tỷ trọng kinh doanh

tín dụng giảm dần, nhiều loại hình kinh doanh mới xuất hiện như đầu tư tài chính,

kinh doanh vàng, v.vv… áp lực cạnh tranh trên thị trường tăng cao thì các ngân

hàng mới bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến việc sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi

ro tỷ giá ngoại tệ, giá vàng cho KDNH và các giải pháp khác trong việc quản lý rủi

ro trong hoạt động KDNH. Về phía các Ngân hàng, hoạt động KDNH luôn được kỳ

vọng đem lại nhiều lợi nhuận và rủi ro là thấp nhất. Trong khi đó, sự biến động của

242

tỷ giá ngoại tệ và giá vàng là rất khó để dự đoán và có thể gây ra nhiều thiệt hại cho

cả ngân hàng. Cho nên, việc tìm ra các giải pháp để phòng ngừa và tăng cường hoạt

động quản lý rủi ro ngoại hối cho hoạt động KDNH là thật sự cần thiết và có ý

- Đóng góp mới của Luận án:

nghĩa về mặt thực tiễn.

 Thứ nhất, tác giả đã làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh

doanh ngoại hối và gây ra rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng

thương mại trong điều kiện hiện nay.

Bên cạnh đó, Luận án cũng đề cập đến tiêu chí định lượng và định tính trong đo

lường rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương mại;

các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân

hàng thương mại.

 Làm rõ những thành tựu, tồn tại cũng như các nguyên nhân của các tồn tại đó

của quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại hối tại các ngân hàng thương mại cổ phần

 Đề xuất các chính sách và giải pháp để tăng cường quản lý rủi ro trong kinh

trên địa bàn TP.HCM.

doanh ngoại hối của các ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM, trong đó bao

gồm các giải pháp chủ yếu như thiết lập trạng thái ngoại hối hợp lý và phù hợp, sử

dụng mô hình định lượng VaR, sử dụng các sản phẩm phái sinh ngoại tệ và hạn chế

các giao dịch trên thị trường không có nhu cầu thực; cũng như các giải pháp hổ trợ

khác nhằm tăng cường hoạt động quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối như tăng vốn

 Các kiến nghị quan trọng và cần thiết với các cơ quan chức năng như: Chính

chủ sở hữu, đầu tư công nghệ, phát triển nguồn nhân lực.

phủ, các Bộ, ngành có liên quan, Ngân hàng nhà nước và Hiệp hội ngân hàng.

243

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TP.HCM, Ngày 6 tháng 6 năm 2013

NGHIÊN CỨU SINH

PGS.; TS. NGÔ HƯỚNG BÙI QUANG TÍN

244

THE MINISTRY OF EDUCATION TRAINING THE STATE BANK OF VIETNAM

BANKING UNIVERSITY OF HO CHI MINH CITY

ABSTRACTS

 Thesis: “Risk management in foreign exchange trading of joint – stock

commercial banks in Ho Chi Minh City”

 Research field: Banking and Finance Code: 62.34.02.01

 Postgraduate Student’s name: Bui Quang Tin Course: 15th

 Science Instructor: Associate Prof.; Dr. Ngo Huong

Researching this thesis presents important meanings both in theory and practice:

 Scientific contribution: the thesis systematically presents the basic theory of

foreign exchange market, foreign exchange trading, risk and risk management in

foreign exchange trading in the joint – stock commercial banks.

 Practical contribution: operation of banks mainly focus on credit previously,

with which some banks with 90% operation in credit. So that, foreign exchange

trading and foreign exchange management are not considered enough. Only from

the period 2006-2010, Because of fluctuated stock market, changed USD/VND rate,

quickly varied gold prices, decreased credit trading, raised forms of business such

as financial investment, gold trading, etc., risen market competition, the banks care

more about using preventive instrument for foreign rate and gold price risk in

foreign exchange trading and solution for risk management in foreign exchange

trading. Banks always hope much profit in foreign exchange trading and the least

risk. The fluctuation of foreign rate and gold price are very difficultly predictive and

easily make damage to bank operation. So, having the method to stave off and

increase risk management in foreign exchange trading are really necessary and

reality meaning.

245

- New findings:

 The author makes clear about the factors influencing foreign exchange trading

and making risk to foreign exchange trading in banks.

Besides, the thesis also mentions quantitative and qualitative criteria in

measuring risk of foreign exchange trading in banks.

 The thesis makes clear about the achievement and constraint and also reasons for

such constraint of risk management for foreign exchange trading in banks in Ho Chi

Minh City.

 Propose policies and solution in order to increase risk management for foreign

exchange trading in banks in Ho Chi Minh City, such as establishing the logical

foreign exchange position, using VaR, derivatives, restricting transactions without

real demand; and also other supportive methods to increase risk management for

foreign exchange trading such as increasing equity, investing in technology,

developing human resource.

 Necessary and important numbers of proposal to Government, Ministries, the

State bank of Vietnam, and Bank Association.

HCM City, 6/6/2013

Science Instructor Postgraduate Student

Associate Prof.; Dr. Ngo Huong Bui Quang Tin