1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
T Ư NG ĐẠ H C NGÂN HÀNG T . HỒ CHÍ MINH
BÙI QUANG TÍN
QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ K NH TẾ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2013
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
T Ư NG ĐẠ H C NGÂN HÀNG T . HỒ CHÍ MINH
BÙI QUANG TÍN
QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ K NH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 62.34.02.01
NGƯ HƯỚNG DẪN KHOA H C: PGS.;TS. NGÔ HƯỚNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2013
3
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả Luận án có lời cam đoan danh dự về công trình khoa học này của
mình, cụ thể:
- Tôi tên là: Bùi Quang Tín
- Sinh ngày: 20/10/1976
- Quê quán: Quãng Ngãi
- Hiện công tác tại: Khoa Quản trị Kinh doanh – Trường Đại học Ngân hàng
TP.HCM
- Là Nghiên cứu sinh khóa 15 của Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM
- Đề tài: Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng thương
mại cổ phần tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Người hướng dẫn: PGS.;TS. Ngô Hướng
Luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu
có tính độc lập, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa được công bố toàn bộ
nội dung này bất kỳ ở đâu; các số liệu, các nguồn trích dẫn trong Luận án được chú
thích nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tôi.
TP.Hồ Chí Minh, ngày 06 tháng 06 năm 2013
Tác giả
Bùi Quang Tín
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TIẾNG VIỆT
BTGĐ Ban Tổng Giám Đốc
Công ty SJC Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Vàng bạc đá
quý Sài Gòn
CSTT Chính sách tiền tệ
HĐQT Hội đồng Quản trị
HTXTD Hợp tác xã tín dụng
KDNH Kinh doanh ngoại hối
NĐTNN Nhà đầu tư nước ngoài
NH NNo&PTNT Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
NHNN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng trung ương
NK Nhập khẩu
RRHĐ Rủi ro hoạt động
TCTD Tổ chức tín dụng
Thông tư 07 Thông tư số 07/2012/TT- NHNN quy định về trạng thái
ngoại tệ
TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
TSC Tài sản Có
Tài sản Có về ngoại tệ TSCF
TSN Tài sản Nợ
Tài sản Nợ về ngoại tệ TSNF
TTLNH Thị trường liên ngân hàng
TTNH Thị trường ngoại hối
XK Xuất khẩu
XNK Xuất nhập khẩu
VND Việt Nam đồng
5
TIẾNG NƯỚC NGOÀI
Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu ACB
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV
Chỉ số giá tiêu dùng CPI
Nhân viên kinh doanh Phòng Kinh doanh ngoại hối Dealer
ĐongA Bank Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Á
EXIMBANK Ngân hàng Thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam
Quỹ dự trữ liên bang Mỹ FED
Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Ngân hàng Thương mại Hồng Kông và Thượng Hải HSBC
Quỹ tiền tệ quốc tế IMF
Cảnh sát Quốc tế Interpol
ISDA
Hợp đồng khung pháp lý do Hiệp hội Quốc tế về Hoán đổi
và Phái sinh thực hiện
Thị trường mua bán thứ cấp OTC
SACOMBANK Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín
Chỉ số tin cậy thương mại TCI
VCB.HCM Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh
VIETTINBANK Ngân hàng Công Thương Việt Nam
Ngân hàng Thế giới WB
Tổ chức thương mại thế giới WTO
Đồng đôla Úc AUD
Đồng tiền chung Châu Âu EUR
Đồng Bảng Anh GBP
Đồng Yên Nhật JPY
Đồng Singapore SGD
Đồng đôla Mỹ USD
6
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của ACB .................................................... 70
Bảng 2.2: Kết quả hoạt động kinh doanh của SACOMBANK ................................... 71
Bảng 2.3: Kết quả hoạt động kinh doanh của EXIMBANK ....................................... 71
Bảng 2.4: Kết quả hoạt động kinh doanh của VIETA BANK .................................... 72
Bảng 2.5: Số lượng khách hàng và TCTD khác giao dịch kỳ hạn của Eximbank ...... 87
Bảng 2.6: Giá trị giao dịch kỳ hạn với khách hàng và với TCTD khác của Eximbank87
Bảng 2.7: Số lượng khách hàng và TCTD khác giao dịch hoán đổi của Eximbank ... 87
Bảng 2.8: Giá trị giao dịch hoán đổi với khách hàng và với TCTD khác của
Eximbank .................................................................................................................... 88
Bảng 2.9: Giá trị giao dịch quyền chọn với TCTD khác của Eximbank .................... 88
Bảng 2.10: Lời / Lỗ từ giao dịch phái sinh ngoại tệ của Eximbank ........................... 89
Bảng 2.11: Giá trị giao dịch quyền chọn vàng tại ACB ............................................. 89
Bảng 3.1: Thống kê giá vàng SJC thực tế (từ 11/12/2009 – 16/06/2012) ................ 183
Bảng 3.2: Bảng chi tiết tính toán VaR cho vàng (trạng thái trường) ........................ 131
Bảng 3.3: Bảng kết quả VaR cho vàng (trạng thái trường) ...................................... 132
Bảng 3.4: Bảng chi tiết tính toán VaR cho vàng (trạng thái đoản) ........................... 133
Bảng 3.5: Bảng kết quả VaR cho vàng (trạng thái đoản) ......................................... 133
Bảng 3.6: Thống kê giá CHF và các kết quả tính toán của tác giả ........................... 134
Bảng 3.7: Bảng phân tích trạng thái và kết quả VaR của CHF ................................ 136
7
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tình hình lạm phát qua các năm ............................................................ 73
Biểu đồ 2.2: Thâm hụt/Thặng dư cán cân thương mại................................................ 74
Biểu đồ 2.3: Tỷ giá USD/VND bình quân năm từ năm 2007 đến năm 2012 ............. 77
Biểu đồ 2.4: Lãi/Lỗ thu nhập trong kinh doanh ngoại hối (ngoại tệ và vàng) tại
Ngân hàng ACB .......................................................................................................... 77
Biểu đồ 2.5: Lãi/Lỗ thu nhập trong kinh doanh ngoại hối (ngoại tệ và vàng) tại
Ngân hàng EXIMBANK ............................................................................................. 78
Biểu đồ 2.6: Lãi/Lỗ thu nhập trong kinh doanh ngoại hối (ngoại tệ và vàng) tại
Ngân hàng SACOMBANK ......................................................................................... 79
Biểu đồ 2.7: Lãi/Lỗ thu nhập trong kinh doanh ngoại hối (ngoại tệ và vàng) tại
Ngân hàng Ngân hàng VIỆT Á ................................................................................... 80
Biểu đồ 2.8: Tỷ lệ đôla hóa (tín dụng bằng ngoại tệ/M2) ........................................... 81
Biểu đồ 2.9: Giá vàng thế giới bình quân qua các năm .............................................. 83
Biểu đồ 2.10: Giá vàng SJC bình quân qua các năm .................................................. 84
Biểu đồ 3.1: Phân phối xác xuất chuẩn của daily return CHFUSD .......................... 135
8
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG
KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN ......................................................................................................... 1
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ KINH
DOANH NGOẠI HỐI ..................................................................................... 1
1.1.1. . Quan hệ ngoại hối trong nền kinh tế .................................................................. 1
1.1.2. . Thị trường ngoại hối .......................................................................................... 3
1.1.2.1. Khái niệm thị trường ngoại hối .................................................................... 3
1.1.2.2. Đặc điểm, chức năng của thị trường ngoại hối ............................................ 4
1.1.2.3. Các chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối ........................................... 6
1.1.2.4. Xu hướng phát triển của thị trường ngoại hối trên thế giới ......................... 8
1.1.3. Kinh doanh ngoại hối ....................................................................................... 10
1.1.3.1. Khái niệm ngoại hối ................................................................................... 10
1.1.3.2. Khái niệm kinh doanh ngoại hối và những vấn đề cơ bản trong kinh
doanh ngoại hối .......................................................................................... 11
1.1.3.3. Các loại giao dịch ngoại hối ...................................................................... 14
Giao dịch ngoại hối giao ngay (Spot) ................................................... 14
Giao dịch ngoại hối kỳ hạn (Forward) ................................................. 16
Giao dịch ngoại hối tương lai (Future) ................................................ 18
Giao dịch ngoại hối hoán đổi (Swap) ................................................... 19
Giao dịch ngoại hối quyền chọn (Option) ............................................ 20
9
1.2. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN RỦI RO TRONG KINH DOANH
NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI .......................... 22
1.2.1. Các nhân tố chung tác động đến rủi ro trong kinh doanh ngoại hối ................ 23
1.2.1.1. Các yếu tố bên ngoài ...................................................................................... 23
1.2.1.2. Các yếu tố bên trong ...................................................................................... 23
1.2.2. Các nhân tố riêng tác động đến rủi ro trong kinh doanh ngoại hối .................. 31
1.3. CÁC TIÊU CHÍ ĐO LƯỜNG RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI
HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI......................................... 33
1.3.1. Các tiêu chí định lượng .................................................................................... 33
1.3.1.1. Phương pháp đo lường VaR ........................................................................... 33
1.3.1.2. Phương pháp đo lường trạng thái ngoại tệ ................................................... 34
1.3.2. Các tiêu chí định tính ....................................................................................... 34
1.4. QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ..................................................................... 35
1.4.1. Rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương mại ................ 35
1.4.2. Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương mại .... 35
1.4.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối của Ngân hàng thương mại 35
1.4.2.2. Vai trò của quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối đối với Ngân hàng
thương mại ....................................................................................................... 36
1.4.2.3. Các phương pháp quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối tại Ngân hàng
thương mại ....................................................................................................... 37
Sử dụng các giới hạn trạng thái ngoại hối giao dịch qua đêm .................. 37
Cân bằng trạng thái ngoại hối ................................................................... 40
Sử dụng các kỹ thuật dự đoán tỷ giá .......................................................... 40
Sử dụng các công cụ phái sinh ................................................................... 43
Sử dụng công cụ VaR – Giá trị chịu rủi ro ................................................ 47
1.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các
Ngân hàng thương mại ...................................................................................... 52
1.4.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng từ phía các NHTM .................................................. 52
10
1.4.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng từ bên ngoài .............................................................. 54
1.5. NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA TỪ KINH NGHIỆM VỀ QUẢN LÝ RỦI
RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA NGÂN HÀNG Ở MỘT
SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI .......................................................................... 55
1.5.1. Bài học thứ nhất về quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ cho các NHTM. 55
1.5.2. Bài học thứ hai về quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ cho các NHTM ... 59
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .......................................................................................... 64
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH
NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI
TP.HCM .......................................................................................................... 66
2.1. KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG CÁC NHTM CỔ PHẦN TẠI TP.HCM .... 66
2.1.1. Tổng quan về hệ thống ngân hàng tại TP.HCM thời kỳ trước 1990 ............... 66
2.1.2. Nhu cầu hình thành các thể chế mới ................................................................ 68
2.1.3. Sự hình thành các Ngân hàng thương mại cổ phần.......................................... 68
2.1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh của các NHTM cổ phần tại TP.HCM ............. 70
2.2. THỰC TRẠNG VỀ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM ..... 72
2.2.1. Các nhân tố chung tác động đến rủi ro kinh doanh vàng và ngoại tệ ............. 72
2.2.1.1 . Các yếu tố bên ngoài ...................................................................................... 72
2.2.1.2 .Các yếu tố bên trong ...................................................................................... 75
- Lạm phát .................................................................................................. 75
- Thâm hụt cán cân thương mại ................................................................. 78
- Tình trạng đôla hóa nền kinh tế .............................................................. 80
- Trạng thái ngoại tệ .................................................................................. 81
- Cơ chế điều hành tỷ giá .......................................................................... 82
- Các hợp đồng giao dịch phái sinh ngoại hối .......................................... 87
2.2.2 Các nhân tố riêng tác động đến rủi ro kinh doanh vàng và ngoại tệ ................ 90
11
2.3. THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH
NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI
TP.HCM .......................................................................................................... 94
2.3.1. Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng ............................................. 95
2.3.1.1. Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng vật chất ........................ 95
2.3.1.2. Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ............ 101
2.3.1.3. Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu vàng ......... 104
2.3.2. Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ ...................................... 106
2.3.2.1. Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ phái sinh ngoại tệ .................................. 106
2.3.2.2. Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ mua bán ngoại tệ giao ngay .................. 109
2.4. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH
DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN TẠI TP.HCM .................................................................................... 111
2.4.1. Thành tựu ....................................................................................................... 111
2.4.2. Hạn chế .......................................................................................................... 111
2.4.3. Nguyên nhân .................................................................................................. 112
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 113
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG
KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN TẠI TP.HCM ............................................................................ 115
3.1. ĐỊNH HƯỚNG VỀ TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO
TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN.............................................................................. 115
3.2. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO KINH DOANH NGOẠI
HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM117
3.2.1. Tổ chức lại hoạt động kinh doanh ngoại hối ................................................. 117
3.2.2. Sử dụng công cụ hạn mức .............................................................................. 120
3.2.3. Sử dụng các phương pháp dự báo tỷ giá ........................................................ 122
12
3.2.4. Sử dụng công cụ lệnh ..................................................................................... 124
3.3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO KINH
DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN TẠI TP.HCM ........................................................................................ 125
3.3.1 Các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường trong hoạt động quản lý rủi ro kinh
doanh ngoại hối .............................................................................................. 125
3.3.1.1 . Thiết lập trạng thái ngoại hối hợp lý và phù hợp ........................................ 125
3.3.1.2 . Sử dụng mô hình định lượng rủi ro VAR ..................................................... 129
3.3.1.3 . Sử dụng các sản phẩm phái sinh ngoại tệ .................................................... 137
3.3.1.4 . Hạn chế các giao dịch trên thị trường không có nhu cầu thực ................... 140
3.3.2 Các giải pháp khác từ phía các ngân hàng thương mại để hổ trợ cho việc tăng
cường hoạt động quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối .................................. 148
3.3.2.1 . Tăng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại ................................. 148
3.3.2.2 . Đầu tư công nghệ ......................................................................................... 148
3.3.2.3 . Phát triển nguồn nhân lực ........................................................................... 149
3.4. CÁC KIẾN NGHỊ VỚI CƠ QUAN CHỨC NĂNG ................................... 150
3.4.1. Kiến nghị với Chính phủ, Bộ, Ngành liên quan ............................................. 150
3.4.1.1. Ổn định tình hình bên ngoài: kinh tế, chính trị và xã hội ............................ 150
3.4.1.2. Các chính sách vĩ mô cơ bản: lạm phát, thâm hụt cán cân thương mại, tình
trạng đôla hóa nền kinh tế ........................................................................................ 152
3.4.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước ............................................................. 158
3.4.2.1.Chính sách tỷ giá USD/VND ......................................................................... 158
3.4.2.2. Phát triển thị trường sản phẩm phái sinh .................................................... 161
3.4.2.3. Chính sách đối với huy động và tín dụng ngoại tệ ....................................... 163
3.4.2.4. Lập sàn giao dịch vàng, ngoại tệ và các sản phẩm phái sinh mang tính quốc
gia .............................................................................................................................. 164
13
3.4.2.5. Hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ngoại tệ và kinh doanh
vàng ........................................................................................................................... 169
3.4.2.6. Bình ổn thị trường ngoại tệ và thị trường vàng ........................................... 170
3.4.2.7. Thanh tra, kiểm tra, giám sát thị trường ngoại tệ và vàng .......................... 173
3.4.2.8. Chính sách về rủi ro và kiểm soát ................................................................ 175
3.4.2.9. Chính sách kiều hối ..................................................................................... 176
3.4.2.10.Dự trữ ngoại hối .......................................................................................... 176
3.4.2.11. Trạng thái ngoại tệ ..................................................................................... 176
3.4.2.12. Hệ thống pháp luật ..................................................................................... 177
3.4.3. Kiến nghị với Hiệp hội Ngân hàng ................................................................ 177
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................ 178
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 179
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
14
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Kể từ ngày 07/11/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ
chức thương mại thế giới WTO và đang trong tiến trình cải cách để hội nhập vào
nền kinh tế thế giới và song song là tiến trình tự do hóa nền kinh tế mà lĩnh vực
được ưu tiên hàng đầu chính là lĩnh vực tài chính ngân hàng. Khi tự do hóa kinh tế,
các ngân hàng có nhiều thuận lợi hơn trong hoạt động nhưng đồng thời cũng chịu
thêm nhiều áp lực cạnh tranh cũng như rủi ro từ môi trường bên ngoài, trong khi
không thể tiếp tục trông chờ vào chính sách bảo hộ của nhà nước. Tiến trình tự do
hóa kinh tế tất yếu dẫn đến tự do hóa các dòng vốn, tự do hóa lãi suất và tự do hóa
tỷ giá hối đoái. Từ trước tới nay, nhờ chính sách can thiệp của nhà nước đã giúp cho
lãi suất và tỷ giá hối đoái rất ổn định, ngoại trừ một số thời điểm đặc biệt như khủng
hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á năm 1997-1998.
Thêm vào đó, hoạt động của các ngân hàng trong những năm trước đây chủ
yếu tập trung vào khâu tín dụng, có những ngân hàng hoạt động kinh doanh tín
dụng chiếm đến hơn 90%. Vì thế, vấn đề KDNH cũng như quản lý rủi ro tỷ giá
ngoại tệ và giá vàng trong KDNH chưa được các ngân hàng quan tâm đúng mức.
Chỉ đến thời gian gần đây từ năm 2006-2010, khi thị trường chứng khoán sôi động,
tỷ giá USD/VND tăng giảm nhanh, giá vàng biến động mạnh, tỷ trọng kinh doanh
tín dụng giảm dần, nhiều loại hình kinh doanh mới xuất hiện như đầu tư tài chính,
kinh doanh vàng, v.vv… áp lực cạnh tranh trên thị trường tăng cao thì các ngân
hàng mới bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến việc sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi
ro tỷ giá cho KDNH và các giải pháp khác trong việc quản lý rủi ro trong hoạt động
KDNH. Về phía các Ngân hàng, hoạt động KDNH luôn được kỳ vọng đem lại
nhiều lợi nhuận và rủi ro là thấp nhất. Trong khi đó, sự biến động của tỷ giá ngoại tệ
và giá vàng là rất khó để dự đoán và có thể gây ra nhiều thiệt hại cho cả ngân hàng.
Cho nên, việc tìm ra các giải pháp để phòng ngừa và nâng cao hiệu quả quản lý rủi
ro ngoại hối cho hoạt động KDNH là thật sự cần thiết. Chính vì lẽ đó, tác giả chọn
15
“QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI TẠI CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TP.HCM” để làm đề tài nghiên cứu cho Luận
án Tiến sĩ.
2. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
Qua tìm hiểu trong thời gian vừa qua, tác giả nhận thấy các đề tài nghiên cứu
có liên quan đến đề tài này chỉ có các tác giả khác thực hiện ở cấp Thạc sỹ ở trong
nước từ năm 2008 trở về trước, còn ở nước ngoài thì không tìm thấy có tác giả nào
làm đề tài có liên quan mật thiết đến đề tài của tác giả đang nghiên cứu.
Các đề tài trên được thực hiện từ năm 2008 về trước nên phần thực trạng
không còn phù hợp với tình hình hiện nay. Ngoài ra, ở chương các giải pháp của các
đề tài cấp Thạc sỹ vẫn còn mang nặng tính lý thuyết hay khó áp dụng vào thực tiễn
hoạt động của các NHTM cổ phần ở TP.HCM. Do đó, việc tìm ra giải pháp căn bản
và khả thi nhất nhằm tăng cường quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại
hối tại các NHTM tại TPHCM là việc làm vô cùng cần thiết, trong đó cần có một
mô hình áp dụng được trong thực tiễn hoạt động của các Ngân hàng nhằm giúp cho
các đơn vị có liên quan trong ngân hàng sử dụng được bất cứ khi nào có nhu cầu
kiểm soát và phòng ngừa rủi ro ngoại hối.
3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Xác định những nguyên nhân của tồn tại trong quản lý rủi ro ngoại hối của
Đề tài nghiên cứu nhằm đạt được 4 mục tiêu sau đây:
Đề ra các giải pháp để hạn chế rủi ro trong kinh doanh ngoại hối tại các ngân
các ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM.
Đề ra các giải pháp để tăng cường quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối
hàng thương mại cổ phần trên địa bàn TP.HCM.
Kiến nghị những biện pháp nhằm hổ trợ cho hoạt động kinh doanh ngoại hối
của các Ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn TP.HCM.
và quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối.
16
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu thực trạng và các
giải pháp trong việc tăng cường quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các
ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM.
Ngoài ra, trong hoạt động kinh doanh ngoại hối, Luận án này chỉ giới hạn
phạm vi nghiên cứu là các loại ngoại tệ mạnh (gồm có: USD, EUR, GBP, AUD,
JPY, CAD, CHF, SGD) và vàng, tại vì đây là hai loại ngoại hối có doanh số giao
dịch chủ yếu và lớn nhất hiện nay tại các Ngân hàng thương mại cổ phần tại
TP.HCM, chiếm tỷ lệ trên 90% tổng doanh số giao dịch về kinh doanh ngoại hối.
Khoảng thời gian nghiên cứu cho Luận án này là từ năm 2007 đến năm 2012.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ THU THẬP PHÂN TÍCH DỮ LIỆU
4.1. Tổng quan phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Là công trình nghiên cứu khoa học nên trong quá trình thực hiện đề tài, tác
giả chủ yếu sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh, quy nạp, diễn dịch,
phương pháp VaR để thực hiện nghiên cứu và đối chiếu giữa chính sách quản lý của
nhà nước với thực tế hoạt động của ngành ngân hàng, tham khảo các lý thuyết tài
chính tiền tệ, ngân hàng. Trong quá trình nghiên cứu có sự kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn đồng thời tham khảo các tài liệu, các công trình nghiên cứu của các tác giả
trong ngoài nước liên quan đến nội dung nghiên cứu, cũng như sử dụng các số liệu
tham khảo từ các cơ quan hữu quan và các số liệu từ tài liệu nước ngoài.
4.2. Thu thập và phân tích dữ liệu
4.2.1. Thu thập dữ liệu:
Nghiên cứu tập trung vào hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần tại
TP.HCM nên dữ liệu lựa chọn được xác định trên các cơ sở sau:
Dữ liệu thu thập chủ yếu dựa trên các nguồn chính thức như báo cáo hoạt
động kinh doanh của NHNN, NHTM cổ phần tại TP.HCM, từ các cơ quan
thống kê, các tài liệu nước ngoài, và các báo cáo nội bộ của một số NHTM
cổ phần tại TP.HCM, v.v…Đây là các dữ liệu có thực, dễ kiểm tra.
17
Bên cạnh đó luận án có tham khảo các nguồn tư liệu từ nghị định của chính
phủ, các văn bản hướng dẫn của NHNN, các tạp chí khoa học, tạp chí chuyên
ngành, các tài liệu của các nhà khoa học, các ý kiến của đồng nghiệp và
những nhà quản lý ngân hàng.
4.2.2. Phân tích dữ liệu
Dữ liệu thu thập sẽ thống kê, phân tích, tổng hợp, hiệu chỉnh và đánh giá;
đồng thời sử dụng của bảng, biểu đồ và hình để minh họa làm tăng độ tin cậy trong
nghiên cứu.
5. KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được trình
bày ba chương:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG
KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH
NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN TẠI TP.HCM
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH
DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM
6. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
Làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngoại hối và gây
ra rủi ro trong kinh doanh ngoại hối trong điều kiện hiện nay.
Làm rõ những tồn tại trong quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các
Đề xuất các chính sách và giải pháp để tăng cường quản lý rủi ro trong kinh
ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM.
doanh ngoại hối của các ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM.
18
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO
TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ KINH DOANH
NGOẠI HỐI
1.1.1. Quan hệ ngoại hối trong nền kinh tế
Trong lịch sử phát triển của thị trường ngoại hối, có giai đoạn chỉ có các
ngân hàng lớn thực hiện các giao dịch ngoại hối. Sự hạn chế đó đã bị phá bỏ nhanh
chóng nhờ sự phát triển của công nghệ, mạng Internet và đặc biệt là các phần mềm.
Những yếu tố này làm cho tính thanh khoản của thị trường tăng lên còn chi phí thì
giảm xuống. Dần dần, việc giao dịch kiếm lời đã phát triển bùng nổ khi tất cả mọi
người đều có thể tham gia vào thị trường.
Có ba lý do chính khiến các chủ thể trong nền kinh tế tham gia vào quan hệ
ngoại hối: đầu tư, bảo vệ mình khỏi các rủi ro ngoại hối và đầu cơ. Nhưng lý do
cuối cùng là động cơ chính của những người tham gia thị trường, bởi có đến 80-
90% các nhà kinh doanh hướng tới mục đích tìm kiếm lợi nhuận nhờ vào chênh
lệch tỷ giá ngoại tệ và giá vàng. Các đồng tiền và cặp tiền tệ trên thị trường ngoại
hối cũng đồng thời được sử dụng trong các giao dịch tài chính với vai trò là phương
tiện thanh toán. Chính các giao dịch thanh toán quốc tế được thực hiện bởi các
doanh nghiệp và tổ chức là đảm bảo cho sự vận hành của nền kinh tế nói chung,
cũng như hoạt động và sự ổn định thị trường ngoại hối nói riêng.
TTNH là thị trường tài chính toàn cầu lớn nhất, không có một thị trường tài
chính nào có thể so sánh với TTNH về quy mô, nhưng những thị trường tài chính
khác có thể tác động đến TTNH. Ví dụ, thị trường trái phiếu Mỹ có thể tác động tới
giá trị của đồng đôla cũng giống như thị trường chứng khoán Nhật tác động tới giá
trị của đồng Yen Nhật. Từ đó các quan hệ ngoại hối bị tác động nhiều bởi các yếu tố
19
thay đổi của các thị trường khác trong nền kinh tế như thị trường hàng hóa, trái
phiếu, chứng khoán,….
TTNH gần nhau hơn. Mọi nền kinh tế trên thế giới đều phải nhập khẩu một số mặt
Việc nhu cầu hàng hóa toàn cầu gia tăng đã kéo thị trường hàng hóa và
hàng hóa để tiêu dùng, để mua những hàng hóa này, những nhà nhập khẩu phải đổi
đồng tiền của họ ra đồng tiền của nước mà họ muốn nhập khẩu hàng hóa. Giao dịch
này sẽ khiến nhu cầu về đồng tiền của nước xuất khẩu cao hơn và tăng giá trị cho
đồng tiền đó. Giao dịch này cũng sẽ khiến cung tiền của nước nhập khẩu cao hơn và
làm giảm giá trị của đồng tiền đó. Điển hình như trường hợp của ba nước xuất khẩu
lớn: Úc, Canađa và NewZealand, ba đồng tiền lớn là đô Úc, đô Canada và đô New
Zealand có mối quan hệ mật thiết với giá trị của hàng hóa. Khi giá của hàng hóa
tăng, giá trị của những đồng tiền này cũng gia tăng và ngược lại. Mỗi đồng tiền
trong nhóm trên bị tác động bởi rất nhiều loại hàng hóa khác nhau. Ví dụ, đồng đôla
Úc có mối liên hệ chặt chẽ với giá vàng, nếu giá vàng tăng thì giá trị của đồng đôla
Úc cũng tăng theo và ngược lại.
Bên cạnh việc bị tác động bởi thị trường hàng hoá, các quan hệ ngoại hối còn
chịu sự ảnh hưởng của thị trường trái phiếu. Sau thị trường ngoại hối, thị trường trái
phiếu là thị trường tài chính lớn thứ hai trên thế giới, các chính phủ, các tổ chức và
các nhà đầu tư cá nhân đều tham gia hoạt động trên thị trường trái phiếu. Mỗi thành
phần này đều có chung một mục đích đó là tìm kiếm lợi nhuận từ hoạt động đầu tư
của họ. Trái phiếu chính phủ chiếm tỷ lệ lớn nhất trong thị trường trái phiếu, các trái
phiếu này là những tài khoản đầu tư có độ rủi ro gần như bằng không bởi chúng
được đảm bảo bởi niềm tin của chính phủ các quốc gia, một số chính phủ trả lãi suất
trên trái phiếu của họ cao hơn các chính phủ khác. Các nhà đầu tư quốc tế thu được
lợi nhuận khi họ quyết định trái phiếu của chính phủ nào họ sẽ đầu tư. Các trái
phiếu với lãi suất cao hơn sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư hơn khi nền kinh tế của các trái
phiếu đó phát triển ổn định.
Những nhà đầu tư mong muốn mua trái phiếu chính phủ sẽ phải dùng tiền
của chính phủ đó để mua, nếu các nhà đầu tư muốn mua trái phiếu của chính phủ
20
Mỹ, họ phải chuyển đổi sang đồng tiền của chính phủ Mỹ (đồng USD), điều này sẽ
làm tăng nhu cầu của đồng đôla Mỹ và làm tăng giá trị của đồng đôla Mỹ. Cùng
thời điểm đó, nguồn cung của các đồng tiền khác sẽ tăng và làm giảm giá trị của các
đồng tiền đó. Hiểu biết chính phủ nào đưa lãi suất của trái phiếu cao hơn và trái
phiếu nào đang tăng phổ biến sẽ giúp chúng ta biết được cặp đồng tiền nào nên mua
và cặp nào nên bán.
Cho nên, các quan hệ ngoại hối trong nền kinh tế không phát sinh một cách
độc lập, mà luôn chịu ảnh hưởng qua lại bởi rất nhiều yếu tố thị trường khác. Trên
đây chỉ là hai yếu tố điển hình nêu lên sự tác động qua lại giữa các giao dịch ngoại
hối trong TTNH với các thị trường khác như thị trường hàng hóa và trái phiếu.
Ngoài ra, chúng ta có thể đề cập đến các thị trường khác và các chính sách khác
như: thị trường chứng khoán, các chính sách chính trị, xã hội, kinh tế, …cũng tác
động đến các quan hệ ngoại hối trong nền kinh tế.
1.1.2. Thị trường ngoại hối
1.1.2.1. Khái niệm thị trường ngoại hối
Một trong những điểm khác nhau cơ bản giữa thương mại quốc tế và thương
mại nội địa là thương mại quốc tế thường liên quan đến việc chuyển đổi các đồng
tiền khác nhau của các quốc gia khác nhau, trong khi đó thương mại nội địa thường
chỉ liên quan đến nội tệ. Một nhà nhập khẩu Mỹ thường được yêu cầu thanh toán
cho nhà xuất khẩu Nhật bằng Yên Nhật, cho nhà xuất khẩu Đức bằng Euro, cho nhà
xuất khẩu Anh bằng Bảng Anh, v.v.. Với lý do này, để thanh toán tiền hàng, nhà
nhập khẩu Mỹ phải mua các ngoại tệ thích hợp, tức bán nội tệ trên thị trường. Nghĩa
là, một trong hai bên mua hoặc bán phải liên quan đến mua bán đồng ngoại tệ.
Giống như thương mại quốc tế, du lịch quốc tế, đầu tư quốc tế, quan hệ tín
dụng quốc tế và các quan hệ tài chính quốc tế khác đều làm phát sinh nhu cầu mua
bán các đồng tiền khác nhau trên thị trường.
Theo Marc Levinson (2005), thị trường ngoại hối là thị trường giao dịch các
loại ngoại tệ phi tập trung và toàn cầu. [24]
21
Theo Investopedia, thị trường ngoại hối là thị trường toàn cầu giao dịch
ngoại tệ suốt cả ngày và đêm. [29]
Theo Nguyễn Văn Tiến (2006), hoạt động mua bán các đồng tiền khác nhau
được diễn ra trên thị trường, và thị trường này được gọi là thị trường ngoại hối (The
Foreign Exchange Market – FOREX hay viết tắt là TTNH). [9] Một cách tổng quát:
Thị trường ngoại hối là bất cứ đâu diễn ra việc mua, bán các đồng tiền khác nhau.
Theo tác giả, Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các hoạt động chuyển đổi,
mua bán tiền tệ của các nước khác nhau; là nơi thực hiện các giao dịch vàng liên tục
và toàn cầu; là nơi diễn ra các hoạt động đầu tư, lưu chuyển tài chính quốc tế nhằm
thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể kinh tế; đồng thời cũng xác định được các điều
kiện giao dịch.
1.1.2.2. Đặc điểm, chức năng của thị trường ngoại hối
Đặc điểm của thị trường ngoại hối
TTNH không nhất thiết phải tập trung tại vị trí địa lý hữu hình nhất định, mà
là bất cứ đâu diễn ra hoạt động mua bán các đồng tiền khác nhau, do đó nó còn
được gọi là thị trường không gian.
Đây là thị trường toàn cầu hay thị trường “không ngủ”. Do có sự chênh lệch
về múi giờ giữa các khu vực trên thế giới nên các giao dịch diễn ra suốt ngày đêm.
Thị trường bắt đầu hoạt động từ Úc, Nhật, Singapore, Hongkong, châu Âu,
NewYork, và cứ như vậy, khi thị trường khu vực châu Á đóng cửa thì thị trường
Châu Âu rồi đến châu Mỹ bắt đầu hoạt động theo một chu kỳ khép kín toàn cầu.
Trung tâm của TTNH là TTLNH với các thành viên chủ yếu là các Ngân
hàng thương mại (NHTM), các nhà môi giới ngoại hối và các Ngân hàng trung
ương (NHTW). Doanh số giao dịch trên TTLNH chiếm tới 85% tổng doanh số giao
dịch ngoại hối toàn cầu.
Các nhóm thành viên tham gia thị trường duy trì quan hệ với nhau liên tục
thông qua điện thoại, mạng vi tính, telex và fax. Do thông tin được truyền đi rất
nhanh và hiệu quả, cho nên tuy các thành viên tham gia thị trường ở rất xa nhau
nhưng họ vẫn có cảm giác là đang cùng hoạt động dưới một mái nhà chung.
22
Do thị trường có tính toàn cầu và hoạt động hiệu quả, cho nên các tỷ giá
được yết trên các thị trường khác nhau nhưng hầu như là thống nhất với nhau và có
độ chênh lệch không đáng kể.
Đây là thị trường rất nhạy cảm với các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội, tâm
lý và nhiều yếu tố khác.
Thị trường ngoại hối hoạt động tích cực nhất là London, sau đó là New York,
Tokyo, Singapore, Frankfurt... , đây là thị trường lớn nhất và có doanh số giao dịch
cao nhất.
TTNH toàn cầu có tốc độ phát triển rất nhanh trong mấy thập kỷ qua, đặc
biệt là từ cuối những năm 80 là do có những nguyên nhân chính sau:
Sau khi hệ thống tiền tệ Bretton Woods bị sụp đổ vào năm 1973, tỷ giá các
đồng tiền trên thế giới được thả nổi và dao động mạnh đã buộc những nhà kinh
doanh tiền tệ xuất nhập khẩu và đầu tư quốc tế phải tìm kiếm các biện pháp phòng
chống rủi ro thông qua TTNH; mặt khác, họ cũng tranh thủ thời cơ tỷ giá biến động
mạnh để hoạt động đầu cơ kiếm lời. Điều đó làm tăng nhu cầu giao dịch mua bán
ngoại tệ, góp phần thúc đẩy TTNH phát triển nhanh chóng.
Xu thế tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế diễn ra mạnh mẽ về chiều
rộng lẫn chiều sâu, bao gồm cả các nước đang phát triển cũng đã và đang tích cực
tham gia tiến trình hội nhập, là tiền đề để các nước tiến hành nới lỏng quy chế quản
lý ngoại hối nhằm tạo điều kiện cho chu chuyển hàng hóa, dịch vụ và vốn quốc tế
được hiệu quả. Điều này tạo nên một TTNH quốc tế ngày càng rộng lớn với doanh
số giao dịch ngày một cao.
Tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã
góp phần làm giảm chi phí giao dịch, tăng tốc độ thanh toán, góp phần tích cực thúc
đẩy TTNH phát triển như ngày nay.
Bên cạnh tăng nhanh doanh số giao dịch, TTNH quốc tế còn phát triển mạnh
về chiều sâu, đó là tạo ra nhiều loại hình nghiệp vụ kinh doanh mới, phức tạp hơn,
tinh vi hơn và cũng trở nên rủi ro hơn.
23
Chức năng của thị trường ngoại hối
Chức năng cơ bản của TTNH là kết quả phát triển tự nhiên của một trong các
chức năng cơ bản của NHTM, đó là: nhằm thực hiện dịch vụ thanh toán cho các
khách hàng trong các giao dịch thương mại quốc tế. Ví dụ: một khách hàng là công
ty muốn nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ từ nước ngoài sẽ có nhu cầu ngoại hối nếu
hóa đơn hàng hóa và dịch vụ được ghi bằng ngoại tệ; hoặc là nhà xuất khẩu có nhu
cầu chuyển đổi ngoại hối thành nội tệ, nếu hóa đơn xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
được ghi bằng ngoại tệ. Các giao dịch ngoại hối nhằm giúp khách hàng là nhà xuất
khẩu hay nhập khẩu như trên là một trong những dịch vụ mà các NHTM luôn sẵn
sàng cung cấp cho khách hàng, và đồng thời cũng là dịch vụ mà các khách hàng
luôn mong đợi từ phía Ngân hàng.
Ngoài dịch vụ cho khách hàng thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế,
Giúp luân chuyển các khoản đầu tư, tín dụng quốc tế, các giao dịch tài chính
TTNH còn có một số chức năng khác, như:
Thông qua hoạt động của TTNH, mà sức mua đối ngoại của tiền tệ được xác
quốc tế khác cũng như các giao lưu giữa các quốc gia.
TTNH là nơi kinh doanh và cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá
định một cách khách quan theo quy luật cung cầu của thị trường.
bằng các hợp đồng như kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn, tương lai và các loại
Thị trường ngoại hối là nơi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tiến hành can
hợp đồng phái sinh kết hợp khác.
thiệp để tỷ giá biến động theo chiều hướng có lợi cho nền kinh tế và phù hợp
với các mục tiêu chính trị đã được đề ra của Nhà nước.
1.1.2.3 . Các chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối
Ngân hàng trung ương: NHTW thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
hoạt động ngoại hối, xây dựng và ban hành chính sách quản lý ngoại hối,
hướng dẫn và thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chế độ chứng từ và thông tin
báo cáo có liên quan đến hoạt động ngoại hối. Do đó, NHTW là một chủ thể
24
tham gia trên TTNH với vai trò là nhà tổ chức, kiểm soát, điều hành và ổn
định TTNH.
Các ngân hàng thương mại: tham gia trên TTNH với tư cách vừa là nhà môi
giới hay kinh doanh cho khách hàng, vừa là nhà đầu tư cho chính Ngân hàng
của mình. Khi NHTM là nhà môi giới, các NHTM thực hiện chức năng
KDNH hưởng phí dịch vụ từ khách hàng. Còn khi NHTM là nhà kinh doanh
cho khách hàng, các ngân hàng thực hiện chức năng mua bán ngoại hối với
khách hàng, ngân hàng có duy trì trạng thái ngoại hối và chấp nhận rủi ro.
Khi ngân hàng kinh doanh cho chính danh mục ngoại hối của mình, các
NHTM có thể thực hiện mua bán với khách hàng hay với các ngân hàng đối
tác khác và có duy trì trạng thái ngoại hối cũng như chấp nhận rủi ro.
Các nhà môi giới: là chủ thể trung gian trong các giao dịch trên TTNH. Chức
năng của các nhà môi giới là cung cấp cho khách hàng của họ cơ hội giao
dịch trên TTNH, ví dụ như đảm bảo việc thực hiện lệnh nhanh chóng và
chính xác một cặp tiền tệ nào đó theo giá thị trường, hay giúp khách hàng
mua/bán một số lượng vàng trong thời gian nhất định. Một công ty môi giới
không thực hiện giao dịch trên TTNH để thu lợi nhuận trực tiếp cho mình
bởi nó chỉ là đơn vị trung gian, không chịu các rủi ro về thay đổi tỷ giá ngoại
tệ hay giá vàng. Các nhà môi giới tìm kiếm lợi nhuận ngoài việc hưởng phí
dịch vụ, họ còn có thể hưởng chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
Các doanh nghiệp: tham gia chủ yếu trên TTNH là các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu. Họ vừa là chủ thể cầu ngoại tệ, vừa là chủ thể cung ngoại tệ. Các
doanh nghiệp thực hiện mua hay bán ngoại tệ nhằm thanh toán cho các hợp
đồng xuất nhập khẩu và giao dịch của họ thường được mua bán thông qua
các NHTM.
Các cá nhân hay tổ chức trong và ngoài nước khác: theo quy định của pháp
luật, các chủ thể này không thể trực tiếp tham gia trên TTNH, các giao dịch
của họ thường thực hiện qua các NHTM, việc giao dịch mua bán ngoại hối
của họ phải theo đúng các điều kiện quy định của pháp luật.
25
Các định chế tài chính khác: gồm có các loại hình TCTD khác, Công ty bảo
hiểm, Công ty quản lý quỹ và Quỹ đầu tư: các chủ thể này có thể giao dịch
cho chính mình hoặc thực hiện cho khách hàng trên TTNH nếu họ và khách
hàng đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật.
1.1.2.4. Xu hướng phát triển của thị trường ngoại hối trên thế giới
Cho đến nay, quá trình toàn cầu hóa vẫn tiếp diễn trên nhiều lĩnh vực, đặc
biệt là trên lĩnh vực kinh tế, tài chính, tiền tệ ngày càng mạnh mẽ. Đồng thời, không
có một lực lượng nào hay một thế lực nào có thể ngăn cản được xu hướng tự do hóa
và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Thương mại và đầu tư quốc tế vẫn tiếp tục phát
triển mạnh mẽ không ngừng tại nhiều quốc gia. Tại Mỹ và cũng như ở các nước
khác, bên cạnh nguồn vốn đầu tư vào các dự án trong nước, các nhà đầu tư cũng có
nhiều cơ hội tốt để chuyển hướng ra đầu tư ở nước ngoài. Thực tế cho thấy, xu
hướng tìm kiếm cơ hội đầu tư ra nước ngoài vào những đồng tiền và những quốc
gia khác luôn gia tăng trong thời gian gần đây, điều này hàm ý rằng xu hướng tăng
trưởng của TTNH trong tương lai là rõ ràng.
Sự xuất hiện đồng Euro có ảnh hưởng làm thay đổi cơ cấu danh mục đầu tư
và cơ cấu dự trữ ngoại hối của các NHTW. Đồng thời, nó cũng có thể trở thành
đồng tiền được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế và là đồng tiền để một số
nước làm căn cứ neo tỷ giá của mình. Hiện nay, vai trò của USD trên TTNH và thị
trường tài chính toàn cầu là quá lớn so với tỷ trọng kinh tế và thương mại của Mỹ so
với toàn thế giới. Cụ thể là, nền kinh tế Mỹ chỉ chiếm khoảng 1/4 và ngoại thương
chiếm khoảng 1/5 toàn thế giới, trong khi đó, USD chiếm tỷ trọng trong dự trữ tới
3/5 và USD cũng là một trong hai đồng tiền được sử dụng tới trên 80% trong các
giao dịch ngoại hối toàn cầu. Vấn đề đặt ra là, liệu Euro có thể chia sẻ quyền lực với
USD về các lĩnh vực như dùng làm đồng tiền dự trữ, đồng tiền sử dụng chính trong
các giao dịch ngoại hối và là đồng tiền đầu tư quốc tế? Liệu các chính phủ có tăng
tỷ lệ sử dụng Euro trong giao dịch, trong cơ cấu dự trữ và chuyển hướng can thiệp
thông qua Euro? Cho đến nay, thì các câu trả lời vẫn chưa rõ ràng, một mặt, là do
còn một số nước trong khối Cộng đồng chung Châu Âu vẫn chưa quyết định sử
26
dụng đồng tiền chung Euro (nhất là nước Anh); mặt khác, sau khi đồng Euro xuất
hiện, giá trị không ổn định và luôn giảm giá so với USD.
Sự phát triển của công nghệ sẽ tiếp tục làm thay đổi quá trình KDNH, làm
phát sinh những khái niệm mới cũng như công nghệ mới. Sự chú ý sẽ tập trung vào
ưu điểm của hệ thống khớp lệnh tự động - hệ thống môi giới điện tử. Đây là hệ
thống máy tính điện tử có chức năng khớp lệnh giữa các nhà kinh doanh thành viên
trên toàn thế giới. Hệ thống này đã phát triển và có ảnh hưởng mạnh đến quy trình
giao dịch ngoại hối kể từ khi đưa vào hoạt động từ năm 1972. Doanh số giao dịch
qua hệ thống khớp lệnh tự động chiếm 13% ở Mỹ và 11% ở Anh, và tỷ trọng này
luôn có xu hướng tăng trưởng. Bộ phận có tốc độ tăng trưởng nhanh và có thị phần
lớn được giao dịch trên thị trường, mà tại đó hệ thống giao dịch tự động là phổ biến,
ví dụ, các giao dịch giao ngay có trị giá lớn đối với hai đồng tiền có độ thanh khoản
cao và thường xuyên được giao dịch như cặp đồng tiền USD và EUR. Đối với cặp
đồng tiền này, hệ thống khớp lệnh tự động có thể chào tỷ giá mua bán với chênh
lệch giá rất hẹp, chỉ vào độ từ 1 đến 2 điểm, tức chỉ bằng khoảng 1/3 so với chênh
lệch giá của phương pháp giao dịch truyền thống.
Hiện nay, các công cụ phái sinh đang tiếp tục phát triển. Những hợp đồng kỳ
hạn và quyền chọn được đầu tư để hưởng chênh lệch giá đã trở nên phổ biến và
được đưa vào giao dịch tại một số thị trường mới nổi. Xuất phát từ thực tế này,
trong tương lai hoạt động “mua bán, thanh toán chênh lệch” (Foreign Exchange,
Difference Settled - FXDS) sẽ ngày càng được mở rộng. Công cụ FXDS được sử
dụng trước hết đối với các đồng tiền chính trong nghiệp vụ giao ngay cũng như kỳ
hạn trong trường hợp những đối tác tham gia hợp đồng không muốn thanh toán toàn
bộ hợp đồng, mà chỉ tiến hành thanh toán phần chênh lệch giữa tỷ giá hợp đồng và
tỷ giá thị trường hiện hành. Tuy nhiên, để có thể đưa công cụ FXDS vào giao dịch
một cách phổ biến tại các quốc gia, thì còn nhiều vấn đề về hoạt động và về pháp lý
cần phải hoàn thiện. Một trong những hiệu ứng của FXDS là việc làm giảm doanh
số thanh toán và giảm rủi ro trong thanh toán. Điều này có thể tạo động lực cho các
Ngân hàng quốc tế trong việc hình thành một Ngân hàng Thanh toán bù trừ với
27
chức năng chuyên thực hiện việc thanh toán các giao dịch ngoại hối.
1.1.3. Kinh doanh ngoại hối
1.1.3.1. Khái niệm ngoại hối
Khái niệm ngoại hối thường được hiểu theo luật định và tương đối thống
nhất giữa các quốc gia. Theo Pháp lệnh số 28/2005/PL-UBTVQH11, ngày
13/12/2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, khái niệm ngoại hối được quy định tại Điều 4, khoản 1. Ngoại hối (foreign
exchange) bao gồm các phương tiện tiền tệ được sử dụng trong thanh toán quốc tế.
Ngoại tệ: Là đồng tiền nước ngoài được sử dụng trong thanh toán quốc tế và
[30] Đối với một quốc gia, ngoại hối bao gồm:
khu vực (bao gồm cả đồng tiền chung của các nước khác và Quyền rút vốn
đặc biệt SDR). Ngoại tệ có thể là tiền xu, tiền giấy, tiền trên tài khoản, séc du
Các giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ, như séc thương mại, chấp phiếu Ngân
lịch, tiền điện tử và các phương tiện khác được xem như tiền.
Vàng tiêu chuẩn quốc tế: Đây là vàng được sử dụng với vai trò là tiền trong
hàng, kỳ phiếu, hối phiếu, trái phiếu, cổ phiếu và các giấy tờ có giá khác.
Đồng tiền quốc gia do người không cư trú nắm giữ.
thanh toán quốc tế.
Các giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ không được giao dịch trực tiếp trên thị
trường ngoại hối. Muốn trở thành ngoại tệ để giao dịch trên thị trường này, thì trước
hết phải bán (chiết khấu) các giấy tờ có giá để nhận ngoại tệ, sau đó mới tiến hành
mua bán trên TTNH.
Mua bán các đồng tiền khác nhau (trong mỗi giao dịch mua bán bao giờ cũng
Như vậy, trên TTNH đối tượng mua bán bao gồm:
Mua bán vàng tiêu chuẩn quốc tế.
có ngoại tệ tham gia).
Ngày nay, do vai trò tiền tệ của vàng giảm đáng kể tại các quốc gia, chính vì
vậy khi nói đến TTNH người ta thường hiểu đó là thị trường mua bán các đồng tiền
28
khác nhau, hay mua bán ngoại tệ, nghĩa là TTNH thường được hiểu theo nghĩa hẹp
là thị trường mua bán ngoại tệ.
1.1.3.2. Khái niệm kinh doanh ngoại hối và những vấn đề cơ bản trong kinh
doanh ngoại hối
Kinh doanh trên TTNH là một nghề rất khắt khe, đòi hỏi các chuyên viên
phải có những nỗ lực thường xuyên để xác định những gì sẽ xảy ra trên thị trường
và tỷ giá sẽ biến động theo hướng nào. Những giờ kinh doanh hình như dài ra, tính
chất nghề nghiệp tạo ra công việc hầu như là 24/24 giờ mỗi ngày. Những cuộc giao
dịch gọi đi và gọi đến ngay trong lúc nửa đêm là chuyện bình thường. Một số
chuyên viên kinh doanh có sẵn các phương tiện như: màn hình Reuters, Telerate,
hoặc Knight - Ridder, … Do đó họ có thể nắm bắt được kịp thời những gì đang xảy
ra trên thị trường. Họ có thể chuyên kinh doanh một cặp đồng tiền nhất định, nhưng
nếu đồng tiền này luôn ổn định, ít biến động, dẫn đến các cơ hội kinh doanh có lãi
lớn ít phát sinh, do đó họ có thể tìm kiếm các cơ hội kinh doanh thông qua các đồng
tiền khác nhằm mang lại nhiều lợi nhuận hơn.
Hầu như đối với mỗi người đã từng kinh doanh trên TTNH, thì họ thường đã
thực hiện ít nhất một vài những giao dịch lớn và đã gặt hái được lợi nhuận cao,
được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, phần lớn các giao dịch còn lại thì không
được như vậy. Bên cạnh những giao dịch lớn thu lãi cao, thì cũng có những giao
dịch thua lỗ nặng nề, nhưng rất ít người có thể biết được. Việc kinh doanh luôn có
lãi mà không phát sinh lỗ trong một thời gian dài là rất khó đạt được. Đặc trưng của
những nhà kinh doanh là cần có trạng thái tâm lý, trí tuệ tốt và tự tin rằng họ có thể
kiếm được tiền thông qua các giao dịch. Trong mọi tình huống, diễn biến của thị
trường là luôn luôn đúng, do đó, những nhà kinh doanh phải là người thực tế và có
sự hiểu biết nhất định để thừa nhận những sai sót của mình. Họ phải sẵn sàng giảm
các trạng thái ngoại hối đang thua lỗ trước khi khoản lỗ trở nên trầm trọng.
Theo tác giả, kinh doanh ngoại hối là việc mua và bán các đơn vị tiền tệ khác
nhau và vàng nhằm tìm kiếm chênh lệch giá hoặc hưởng phí.
29
Có ba phương pháp cơ bản để phát sinh lãi trong KDNH tại thị trường giao
ngay:
Lãi phát sinh từ việc tạo trạng thái ngoại hối: Nhà kinh doanh có thể tạo
trạng thái ngoại hối và chờ cho thị trường biến động, sau đó thanh lý trạng
thái ngoại hối với mục đích kiếm lời.
Ví dụ, một chuyên viên A của phòng KDNH mua 5 triệu USD tại tỷ giá
USD/SGD = 1,2540. Khi thị trường biến động đến mức USD/SGD = 1,2640, A bán
số USD đã mua trước đó để lấy lãi. Lãi phát sinh sẽ là 0,0100 SGD/1USD, hay tổng
số lãi thu được là 50.000 SGD.
Lãi thu được từ chênh lệch tỷ giá giữa các thị trường khác nhau hoặc cùng
trên một thị trường – Arbitrage: Ví dụ, tỷ giá mua của thị trường A là
SGD/USD = 1,2540, nhà kinh doanh có thể bán 5 triệu USD tại tỷ giá 1,2541
ở thị trường B. Lãi phát sinh không chịu rủi ro là 0,0001 SGD/USD, tức tổng
lãi là 500 SGD (0,0001 * 5.000.000 USD).
Lãi thu được từ chênh lệch tỷ giá mua vào và bán ra - Bid and Offer Spread:
Chuyên viên KDNH tạo thị trường bằng cách yết tỷ giá hai chiều. Các thành
viên tham gia thị trường khác giao dịch với họ thông qua tỷ giá hai chiều, và
chênh lệch tỷ giá là lợi nhuận mà chuyên viên này thu được.
Mô tả các phương pháp kiếm tiền như trên thật là đơn giản. Việc thực sự
kiếm được tiền trên TTNH lại không đơn giản chút nào.
Thông thường, kinh doanh giao ngay xảy ra trên thị trường có sự biến động
nhanh nhất. Các trạng thái ngoại hối được tạo ra thường có kỳ hạn rất ngắn, do đó,
nhà kinh doanh có thể ở trạng thái trường đối với một đồng tiền nào đó chỉ trong
vòng một phút và sau đó lại ở trạng thái đoản cũng đối với chính đồng tiền này một
phút sau đó. Nhà kinh doanh trên TTLNH luôn phải đối mặt với việc tạo giá suốt
ngày cho những nhà kinh doanh khác. Nhà kinh doanh A muốn có trạng thái trường
một đồng tiền nào đó, nhưng nếu những nhà kinh doanh khác lại gọi hỏi giá và chấp
nhận mua đồng tiền này ở giá Offer, thì nhà kinh doanh A có thể tạm thời bị dồn
vào trạng thái đoản đồng tiền này. Chỉ thông qua hoạt động mua vào thường xuyên,
30
thì nhà kinh doanh A mới có thể duy trì hoặc tạo ra được trạng thái trường như
mong muốn với đồng tiền này.
Nhiều phòng kinh doanh (dealing rooms) của các Ngân hàng hoạt động theo
tổ chức, trong đó, nhà kinh doanh với vai trò lãnh đạo là người ra các quyết định
chính. Bởi vì, nếu kinh doanh mà luôn phải có sự nhất trí tập thể, thì chỉ tốn thời
gian và không tận dụng được các cơ hội sinh lời cao, do đó, nhà lãnh đạo kinh
doanh chỉ ra quyết định trong những tình huống khi thị trường biến động rất nhanh.
Những chuyên viên kinh doanh thông thường phải tự chịu trách nhiệm vể các quyết
định giao dịch của mình; đồng thời họ cũng thường đảm nhận một hoặc một số
đồng tiền để kinh doanh.
Đối với hoạt động kinh doanh chênh lệch giá, nhà kinh doanh tận dụng thời
cơ chênh lệch giá giữa các thị trường hay giữa các nhà kinh doanh để thực hiện
đồng thời việc mua rẻ và bán đắt nhằm kiếm lợi mà không hề chịu rủi ro. Những
hoạt động kinh doanh như vậy có thể xuất hiện trên TTNH ở các hình thức khác
nhau. Trong những năm qua, một nhà kinh doanh có thể mua ở London và bán với
giá cao hơn ở Melbourne trong cùng một thời điểm. Kinh doanh chênh lệch giá
dạng này không tồn tại được lâu trên thị trường giao ngay đối với các đồng tiền
chính. Kinh doanh chênh lệch giá trên TTLNH hoặc thị trường tương lai có thể xuất
hiện, nhưng chênh lệch giá là rất nhỏ. Có hai nguyên nhân chính làm cho các cơ hội
kinh doanh chênh lệch giá giảm xuống đáng kể, đó là: thứ nhất, các hệ thống viễn
thông hoạt động cực kỳ hiệu quả, do đó, các cơ hội kinh doanh chênh lệch dễ dàng
được xác định; thứ hai, các cơ hội kinh doanh chênh lệch giá được nhiều nhà kinh
doanh ráo riết tìm kiếm, và họ sẵn sàng chấp nhận cơ hội ngay cả khi chênh lệch giá
là cực nhỏ. Những hệ thống vi tính tinh vi của các Ngân hàng luôn cảnh báo những
nhà kinh doanh và bảo đảm rằng những độ lệch trong giá cả giữa các thị trường
không thể tồn tại lâu.
Để phòng ngừa rủi ro của những giao dịch đã diễn ra trong ngày mà trạng
thái cuối ngày vẫn còn duy trì, vấn đề định giá cuối ngày cần thiết phải được tiến
hành với tỷ giá từ nguồn ổn định tin tưởng. Trong khi các chuyên viên kinh doanh
31
có thể tự nạp tỷ giá để định giá cuối ngày trạng thái còn lại, nhưng họ không được
đơn phương tự ý đặt ra mức tỷ giá theo ý của mình. Một rủi ro có thể phát sinh nếu
cho phép những nhà kinh doanh tự mình xác định tỷ giá để định giá cuối ngày, bởi
vì, như vậy họ có thể bằng cách nhân tạo che dấu được những khoản thua lỗ.
Bên cạnh các hoạt động kinh doanh diễn ra trên thị trường giao ngay, hoạt
động kinh doanh trên thị trường kỳ hạn cũng diễn ra không kém phần sôi nổi. Khả
năng dự đoán chính xác những thay đổi trên thị trường sẽ mang lại lợi nhuận lớn
cho nhà kinh doanh kỳ hạn. Các giao dịch tuần hoàn và mức chênh lệch tỷ giá mua
vào và bán ra có thể phần nào làm cho kết quả kinh doanh được cải thiện, nhưng
nếu lãi phát sinh chỉ dừng lại ở đó thì chưa đủ. Thông thường, kinh doanh kỳ hạn
không có sự biến động mạnh như kinh doanh giao ngay. Các mức lãi suất thường
không biến động cùng mức độ so với giá cả tiền tệ giao ngay. Trong những điều
kiện kinh tế ổn định, các mức lãi suất có thể là rất ổn định, dẫn đến là các điểm kỳ
hạn cũng biến động rất ít. Tuy nhiên, khi mức lãi suất biến động thì thường biến
động theo một chiều tăng hoặc giảm và sau đó là bình ổn trở lại. Chúng không tăng
lên nhanh chóng rồi sau đó lại giảm xuống cũng nhanh như là tỷ giá giao ngay. Kết
quả là, nếu nhà kinh doanh không nắm bắt được cơ hội biến động của lãi suất hoặc
có những dự tính sai lầm về hướng biến động của lãi suất, thì có ít cơ hội để khắc
phục thua lỗ nặng nề của mình.
1.1.3.3. Các loại giao dịch ngoại hối
Giao dịch ngoại hối giao ngay (Spot)
Giao dịch giao ngay được thống nhất trên thị trường quốc tế chỉ bao gồm
việc mua bán các đồng tiền khác nhau và các loại vàng có tiêu chuẩn quốc tế có trên
tài khoản Ngân hàng, và các bên mua bán tiến hành thanh toán ngay sau khi đã thỏa
thuận. Khái niệm giao ngay ở đây thường là vào ngày làm việc thứ hai kể từ ngày
ký kết hợp đồng. Đây chính là điểm đặc trưng để phân biệt giữa thị trường giao
ngay với các thị trường khác. Tỷ giá giao ngay được xác định theo quy luật cung
cầu trên TTNH liên Ngân hàng. Thị trường giao ngay được biết đến như là thị
trường rất sôi động, giao dịch với giá trị lớn và với tốc độ giao dịch nhanh nhằm tận
32
dụng những cơ hội chênh lệch tỷ giá dù là cực nhỏ. Trên TTNH có 5 nghiệp vụ kinh
doanh phổ biến là: giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, tương lai và quyền chọn, trong đó,
nghiệp vụ giao ngay là nghiệp vụ gốc, bởi vì tỷ giá áp dụng cho các hợp đồng giao
ngay được hình thành trực tiếp từ quan hệ cung cầu trên thị trường, trong khi đó, 4
nghiệp vụ còn lại gọi là phái sinh, bởi vì tỷ giá áp dụng cho các hợp đồng này
không được hình thành trực tiếp từ quan hệ cung cầu trên thị trường, mà được bắt
nguồn từ tỷ giá giao ngay và chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền.
Theo nghĩa rộng, thị trường giao ngay bao gồm thị trường bán buôn (còn gọi
là thị trường Interbank hay TTLNH) và thị trường bán lẻ. Nhưng do doanh số giao
dịch trên TTLNH là chủ yếu, do đó, theo nghĩa hẹp người ta coi thị trường giao
ngay chính là TTLNH. Thị trường liên Ngân hàng giao ngay là thị trường tài chính
lớn nhất toàn cầu. Kể từ năm 1970 cho đến nay thì cứ hai năm doanh số giao dịch
lại được nhân lên gần gấp đôi. TTNH lớn nhất là thị trường nước Anh, chiếm 27%
doanh số giao dịch toàn cầu, tiếp sau là TTNH Mỹ, Nhật, Singapore (theo: Central
Bank Survey of Foreign Exchange market Activity, BIS, Basle, Thụy sỹ).
TTNH giao ngay là thị trường phi tập trung, không giao dịch trên sở giao
dịch, bao gồm các NHTM, các công ty tài chính lớn, những nhà môi giới ngoại hối
và cả NHTW, trong đó, các NHTM đóng vai trò chủ chốt. Các thành viên tham gia
thị trường liên hệ với nhau bằng điện thoại, telex, mạng vi tính và hệ thống SWIFT.
Các Ngân hàng và các nhà môi giới có mối liên hệ khăng khít, hoạt động của họ ở
một số trung tâm tài chính lớn hầu như là 24 giờ/ngày nhằm nắm bắt kịp thời được
mọi diễn biến của TTNH toàn cầu. Do tốc độ thông tin ngày nay rất nhanh, cho nên
mọi sự kiện quan trọng diễn ra trên thế giới có ảnh hưởng trực tiếp và ngay lập tức
đến TTNH toàn cầu cho dù các nhà kinh doanh ở rất xa nhau. Điều này đã làm cho
hoạt động của TTNH trở nên hiệu quả, giống như toàn bộ các nhà kinh doanh đang
hoạt động dưới một mái nhà chung.
Những nhà kinh doanh không thể bỏ qua những thay đổi có tính đột biến trên
một thị trường rất sôi động và có tính toàn cầu như TTNH. Thật vậy, những nhà
kinh doanh tiền tệ là những người tạo thị trường luôn theo dõi màn hình vi tính để
33
nắm bắt những thông tin và giá cả mới nhất. Những thông tin này do các công ty
chuyên nghiệp cung cấp như Dow Jones Telerate, Reuters và được truyền đi với tốc
độ nhanh như cú gọi điện thoại hay sóng vô tuyến điện.
Trên thế giới, TTNH giao ngay có hai cấp, đó là: Thị trường liên Ngân hàng
trực tiếp giữa các Ngân hàng (thị trường liên Ngân hàng trực tiếp); và thị trường
liên Ngân hàng gián tiếp thông qua môi giới (thị trường liên Ngân hàng gián tiếp).
Trên TTLNH trực tiếp, các Ngân hàng giao dịch trực tiếp với nhau không thông qua
môi giới và tất cả các Ngân hàng tham gia thị trường đều là những nhà tạo thị
trường (market - makers). Điều này có nghĩa là, trên TTLNH, Ngân hàng này yết
giá mua vào và bán ra trực tiếp cho Ngân hàng kia và ngược lại. Vì giao dịch giữa
các Ngân hàng trên TTLNH không diễn ra trên sở giao dịch và các giao dịch được
thực hiện một cách liên tục, nên thị trường này được biết đến như là thị trường phi
tập trung, liên tục, đấu giá mở và giao dịch hai chiều. Trên TTLNH gián tiếp, các
Ngân hàng đặt các lệnh giới hạn (limit orders) một chiều cho các nhà môi giới, ví
dụ: một NHTM đặt một lệnh cho nhà môi giới để mua 10 triệu GBP tại tỷ giá 1
GBP = 1,5677 USD. Nhà môi giới ghi lệnh này vào sổ và cố gắng tìm cách đối
chiếu lệnh mua GBP với các lệnh bán GBP từ các Ngân hàng khác. Trong khi các
Ngân hàng tiến hành các giao dịch, một mặt là cho chính mình, mặt khác cho khách
hàng, thì những nhà môi giới chỉ giao dịch duy nhất là cho khách hàng. Trong giao
dịch nhà môi giới sẽ đưa ra tỷ giá tốt nhất cho khách hàng, tỷ giá này gọi là giá tay
trong (inside spread). Thông qua hoạt động môi giới, nhà môi giới sẽ thu hoa hồng
từ Ngân hàng mua và từ Ngân hàng bán. Do tính chất hoạt động, thị trường qua môi
giới được biết đến như là thị trường: bán tập trung, liên tục, đặt lệnh có giới hạn, và
thông qua phương thức đấu giá một chiều.
Giao dịch ngoại hối kỳ hạn (Forward)
Giao dịch ngoại hối kỳ hạn là giao dịch trong đó hai bên cam kết sẽ mua bán
với nhau một số lượng ngoại tệ theo một mức tỷ giá nhất định và việc thanh toán sẽ
được thực hiện vào thời điểm xác định trong tương lai. Tỷ giá được xác định tại thời
điểm ký hợp đồng nhưng áp dụng cho một thời điểm xác định trong tương lai.
34
Tỷ giá kỳ hạn (F) không phải là sự dự đoán mà nó là kết quả tính toán, là
tổng đại số của các yếu tố sau:
S: Tỷ giá giao ngay tại thời điểm ký hợp đồng.
Rt: Lãi suất của đồng tiền định giá (VNĐ) tính theo năm
Rc: Lãi suất của đồng tiền yết giá (USD) tính theo năm
t: Kỳ hạn của hợp đồng.
Công thức áp dụng tính tỷ giá:
(1 + Rt . t) F = S . (1 + Rc . t)
Trong hợp đồng kỳ hạn, ngày giá trị trong giao dịch kỳ hạn là ngày xa hơn
ngày giá trị giao ngay và được ấn định cụ thể trong tương lai. Tỷ giá kỳ hạn là tỷ giá
được thỏa thuận ngày hôm nay, nhưng có ngày giá trị xa hơn ngày giá trị giao ngay.
Về mặt nguyên tắc, thời hạn của hợp đồng kỳ hạn là tùy theo thỏa thuận giữa các
bên tham gia hợp đồng. Hợp đồng kỳ hạn dùng để bảo hiểm rủi ro trong hoạt động
thương mại quốc tế. Trong thực tế, các Ngân hàng còn sử dụng công cụ này để làm
cân bằng trạng thái ngoại hối hay bảo toàn giá trị tài sản ngoại tệ mà Ngân hàng
mình đang có trên thị trường quốc tế. Giao dịch kỳ hạn làm phát sinh rủi ro tín
dụng, do vậy với giao dịch kỳ hạn, các NHTM thường phải yêu cầu các doanh
nghiệp ký quỹ hoặc trừ vào hạn mức tín dụng.
Ở thị trường kỳ hạn, các NHTM là các nhà tạo thị trường. Khi cung cấp các
hợp đồng kỳ hạn cho doanh nghiệp, họ tạo ra các trạng thái ngoại hối, nghĩa là họ
tiếp nhận sự chuyển dịch rủi ro ngoại hối từ phía các doanh nghiệp. Theo lý thuyết,
các NHTM phải thực hiện các giao dịch đối ứng trên TTNH và thị trường tiền tệ để
cân bằng các trạng thái ngoại hối và trạng thái luồng tiền. Khả năng cung cấp các
hợp đồng kỳ hạn của các NHTM vì vậy phụ thuộc vào giới hạn trạng thái ngoại hối
mở của các NHTM và độ sâu của các thị trường. Điều này có nghĩa là không phải
lúc nào một NHTM cũng có thể đáp ứng các nhu cầu mua bán kỳ hạn cụ thể của
khách hàng.
35
Giao dịch kỳ hạn có tính thanh khoản thấp, nó không thể hủy bỏ đơn phương
mà không có sự thỏa thuận giữa hai đối tác, hơn nữa nghĩa vụ của các bên không
thể chuyển giao cho bên thứ ba. Một điều đáng lưu ý khác là không có gì đảm bảo
rằng sẽ không có một bên vỡ nợ hủy bỏ nghĩa vụ hợp đồng. Đặc biệt, điều này dễ
xảy ra khi tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá giao ngay có sự chênh lệch lớn vào thời điểm đến
hạn nghĩa là sẽ có một bên lợi và một bên bất lợi nhiều.
Giao dịch ngoại hối tương lai (Future)
Giao dịch tương lai là các giao dịch trong đó người bán có nghĩa vụ giao một
số tiền của một loại tiền tệ xác định hay một khối lượng vàng cho người mua vào
một thời điểm xác định trong tương lai với một mức tỷ giá/giá được xác định và
thỏa thuận ngay từ trước. Tuy nhiên, khác với hợp đồng kỳ hạn, các hợp đồng tương
lai được tiêu chuẩn hóa về qui mô hợp đồng và thời hạn giao hàng, được mua bán ở
sở giao dịch, tuân thủ quy trình thanh toán lãi/lỗ mỗi ngày. Hợp đồng tương lai là
công cụ bảo hiểm rủi ro và đầu cơ rất hữu hiệu. Người ta thực hiện nghiệp vụ bán
hợp đồng tương lai để bảo hiểm rủi ro khi đang hoặc sẽ sở hữu một lượng ngoại tệ
hay vàng nhất định và muốn bán số ngoại tệ hay vàng đó tại một thời điểm trong
tương lai. Ví dụ, một nhà xuất khẩu Mỹ biết rằng mình sẽ thu được tiền hàng bằng
đồng Euro sau ba tháng nữa, và có thể bảo hiểm cho mình khỏi sự biến động bất lợi
của tỷ giá bằng cách bán hợp đồng tương lai đối với đồng EUR. Nghiệp vụ mua hợp
đồng tương lai để bảo hiểm rủi ro lại thường được thực hiện khi người ta phải mua
một lượng ngoại tệ hay vàng nhất định ở một thời điểm trong tương lai và muốn ấn
định giá mua ngay từ ngày hôm nay. Nghiệp vụ này ngoài việc giúp bảo hiểm người
mua khỏi sự biến động tỷ giá/giá còn có tác dụng giúp tránh được việc phải trả tiền
ngay nếu mua ngoại tệ hay vàng trên thị trường giao ngay.
Hợp đồng tương lai cũng là công cụ được rất nhiều nhà đầu cơ sử dụng. Để
kiếm được lợi nhuận từ sự biến động tỷ giá/giá hoặc để tránh tiếp tục bị thua lỗ, các
nhà đầu tư có thể liên tục chuyển đổi vị thế của mình bằng cách thực hiện các giao
dịch đối ứng trước khi hợp đồng đáo hạn. Hợp đồng tương lai còn được coi là công
cụ giúp các nhà đầu tư nhận biết tín hiệu tỷ giá/giá trong tương lai. Giá hợp đồng
36
tương lai phản ánh dự đoán của thị trường về giá giao ngay trong tương lai. Trong
một thị trường hiệu quả thì giá hợp đồng tương lai sẽ tiến tới bằng hoặc xấp xỉ gần
bằng giá giao ngay khi hợp đồng đáo hạn. Vì thế, giá hợp đồng tương lai sẽ giúp các
nhà sản xuất có được quyết định đúng đắn trong việc phân bổ nguồn lực.
Hợp đồng tương lai có thể được chuyển nhượng và những khoản phụ trội
trên tài khoản ký quỹ có thể được rút ra; và chúng ta có thể thoát ra khỏi trạng thái
của hợp đồng bằng cách tiến hành một giao dịch đối ứng. Các khoản lãi phát sinh từ
hợp đồng tương lai được nhận bằng tiền mặt và ngay trong ngày và chi phí giao
dịch rất thấp. Tuy nhiên, cũng như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai khi đáo
hạn đều phải được các bên chấp nhận và thanh toán. Như vậy, về nguyên lý thì
những người nắm giữ các hợp đồng này khi đến hạn đều phải thanh lý với nhau.
Điều này hàm ý, các đối tác không có bất cứ sự lựa chọn nào khác ngoài việc chấp
nhận và tiến hành thanh lý hợp đồng khi đáo hạn, kể cả trong trường hợp bất lợi cho
họ.
Giao dịch ngoại hối hoán đổi (Swap)
Giao dịch hoán đổi là giao dịch hối đoái bao gồm đồng thời cả hai giao dịch:
giao dịch mua và giao dịch bán cùng một số lượng đồng tiền này với một đồng tiền
khác (chỉ có hai đồng tiền được sử dụng trong giao dịch) hay của cùng một lượng
vàng này với một đồng tiền khác (chỉ có vàng và đồng tiền đó được sử dụng trong
giao dịch), trong đó kỳ hạn thanh toán của hai giao dịch khác nhau và tỷ giá/giá của
hai giao dịch được xác định tại thời điểm ký kết hợp đồng.
Giao dịch hoán đổi là nghiệp vụ hối đoái kép bao gồm 2 nghiệp vụ: hối đoái
giao ngay và hối đoái có kỳ hạn, 2 nghiệp vụ này tiến hành cùng một lúc, cùng một
lượng ngoại tệ hay vàng nhưng theo hai hướng ngược chiều nhau. Thông qua hợp
đồng hoán đổi các bên tham gia có được ngoại tệ hay vàng mình mong muốn ở
cùng tỷ giá/giá mà không phải mua bán thông qua Ngân hàng nên tránh được rủi ro
do biến động tỷ giá/giá và chênh lệch giữa mua và bán. Giao dịch hoán đổi ngoại
hối không tạo ra trạng thái ngoại hối ròng, nhưng lại tạo ra độ lệch về mặt thời gian
37
(sự không cân xứng) về các luồng tiền xảy ra. Giao dịch hoán đổi ngoại hối bao
gồm hai loại:
Một giao dịch giao ngay và một giao dịch kỳ hạn (Spot – Forward Swap)
Cả hai giao dịch đều là giao dịch kỳ hạn được ký kết đồng thời tại ngày
hôm nay, nhưng có ngày giá trị khác nhau (Forward – Forward Swap)
Các giao dịch hoán đổi rất có giá trị đối với những nhà đầu tư và người đi
vay bằng ngoại tệ. Ví dụ, một nhà đầu tư vào trái phiếu kho bạc nước ngoài có thể
sử dụng giao dịch “hoán đổi giao ngay – kỳ hạn” để bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Giá trị
của giao dịch hoán đổi đối với các nhà đầu tư và đi vay quốc tế giúp giải thích tại
sao giao dịch hoán đổi lại được ưa chuộng đến như vậy.
Bên cạnh đó, các giao dịch hoán đổi cũng được các Ngân hàng sử dụng tích
cực vào việc phòng ngừa rủi ro ngoại hối. Bởi vì, với vai trò là nhà tạo thị trường,
Ngân hàng thường sở hữu rất nhiều hợp đồng có các ngày giá trị khác nhau với các
đồng tiền khác nhau. Tại một số ngày giá trị và với một số đồng tiền nhất định,
Ngân hàng có thể ở trạng thái trường, tức là Ngân hàng đã cam kết mua vào nhiều
hơn là bán ra. Tại những ngày giá trị khác và các đồng tiền khác, Ngân hàng lại ở
trạng thái đoản, tức là Ngân hàng đã cam kết bán ra nhiều hơn là mua vào. Các giao
dịch hoán đổi giúp các Ngân hàng giảm được rủi ro tỷ giá. Ngoài ra, các Ngân hàng
có thể sử dụng giao dịch hoán đổi tuần hoàn nhằm hoán đổi trạng thái dư thừa và
thiếu hụt đối với từng loại ngoại tệ.
Giao dịch ngoại hối quyền chọn (Option)
Giao dịch quyền lựa chọn ngoại hối là một giao dịch giữa bên mua quyền và
bên bán quyền, trong đó bên mua quyền có quyền nhưng không có nghĩa vụ mua
hoặc bán một lượng ngoại tệ hay vàng xác định ở một mức tỷ giá/giá xác định trong
một khoảng thời gian thỏa thuận trước. Nếu bên mua quyền lựa chọn thực hiện
quyền của mình, bên bán quyền có nghĩa vụ bán hoặc mua lượng ngoại tệ hay vàng
trong hợp đồng theo tỷ giá/giá đã thỏa thuận trước.
Không giống như các hợp đồng kỳ hạn và tương lai, hợp đồng quyền chọn
ngoại hối cho phép người mua hợp đồng có quyền (chứ không phải nghĩa vụ) mua
38
hoặc bán ngoại hối tại một mức tỷ giá/giá đã thỏa thuận trước (gọi là tỷ giá quyền
chọn) trong tương lai. Một hợp đồng quyền chọn cho phép người mua quyền chọn
có sự lựa chọn:
Tiến hành thực hiện quyền chọn theo tỷ giá/giá cố định đã thỏa thuận từ
trước, nếu người mua thấy rằng có lợi cho mình;
Hoặc là, mặc nhiên để cho hợp đồng tự động hết hạn mà không tiến hành
bất cứ một giao dịch nào, nếu người mua thấy rằng làm như vậy thì ít tốn
kém hơn.
Mặt khác, đối với người bán hợp đồng quyền chọn không có bất cứ sự lựa
chọn nào khác, ngoài việc luôn sẵn sàng tiến hành thanh toán khi người mua tiến
hành thực hiện quyền chọn.
Hợp đồng quyền chọn mua và chọn bán tiền tệ/vàng:
Hợp đồng quyền chọn mua tiền tệ/vàng là hợp đồng, trong đó người mua
hợp đồng có quyền mua một đồng tiền/vàng nhất định bằng một đồng
tiền/vàng khác tại tỷ giá cố định đã thỏa thuận từ trước, trong một khoảng
thời gian nhất định.
Hợp đồng quyền chọn bán tiền tệ/vàng là hợp đồng, trong đó người mua
hợp đồng có quyền bán một đồng tiền/vàng nhất định để lấy một đồng
tiền/vàng khác tại tỷ giá cố định đã thỏa thuận từ trước, trong một khoảng
thời gian nhất định.
Quyền chọn kiểu Mỹ và kiểu Châu Âu:
Quyền chọn kiểu Mỹ cho phép thực hiện quyền chọn vào những ngày
làm việc hợp pháp trong thời gian hiệu lực của hợp đồng và trước khi hợp
đồng đáo hạn. Việc thanh toán thực sự xảy ra sau khi tiến hành quyền
chọn từ 1 đến 2 ngày làm việc giống như trường hợp ngày giá trị trong
các giao dịch giao ngay.
Quyền chọn kiểu Châu Âu chỉ cho phép thực hiện quyền chọn tại thời
điểm hợp đồng đáo hạn. Việc thanh toán thực sự xảy ra sau khi hợp đồng
39
đến hạn từ một đến hai ngày làm việc giống như trường hợp ngày giá trị
trong các giao dịch giao ngay.
Những rủi ro đối với nghiệp vụ quyền chọn:
Những rủi ro đối với người mua quyền chọn: Người mua quyền chọn sẽ
phải đối mặt với rủi ro bị mất toàn bộ hay một phần khoản tiền phí đã chi
để mua quyền chọn. Nếu người nắm giữ hợp đồng quyền chọn không bán
lại quyền của mình trên thị trường thứ cấp và cũng không thực hiện nó
trước khi đến hạn, anh ta sẽ mất toàn bộ số tiền phí mua quyền chọn.
Những rủi ro đối với người bán quyền chọn: Người bán bắt buộc phải
thực hiện hợp đồng vào bất kì thời điểm nào trong thời hạn hợp đồng mà
người mua yêu cầu. Đồng thời họ luôn chịu rủi ro mất đi cơ hội kiếm lời
khi tỷ giá giao ngay vào thời điểm hợp đồng đáo hạn tăng cao hơn tỷ giá
thực hiện đối với bán quyền chọn.
1.2. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN RỦI RO TRONG KINH DOANH
NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Các nhân tố tác động đến rủi ro trong KDNH của các NHTM được chia ra
làm hai nhóm, bao gồm nhóm các nhân tố tác động chung và nhóm các nhân tố tác
động riêng:
Nhóm các nhân tố tác động chung gồm nhóm các yếu tố tác động từ môi
trường kinh tế - chính trị - xã hội của các nước trên thế giới gọi là nhóm các yếu tố
bên ngoài và nhóm các yếu tố chủ yếu từ môi trường kinh tế trong nước gọi là các
yếu tố bên trong.
Nhóm các nhân tố tác động riêng là các yếu tố gây ra rủi ro cho KDNH của
các NHTM xuất phát từ hoạt động của các ngân hàng, có hai nguyên nhân chính
làm phát sinh các rủi ro này là: các ngân hàng mua bán ngoại tệ phục vụ cho khách
hàng hay mua bán cho chính mình; các ngân hàng đầu tư vào tài sản có và huy động
vốn bằng ngoại tệ.
40
1.2.1. Các nhân tố chung tác động đến rủi ro trong kinh doanh ngoại hối
1.2.1.1 . Các yếu tố bên ngoài
Đây là các yếu tố chủ yếu thuộc các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội của
các nước trên thế giới có ảnh hưởng đến nền kinh tế của một Quốc gia nói chung và
hoạt động KDNH nói riêng. Mức độ tác động này có thể tùy theo độ mở cửa của
từng nền kinh tế khác nhau. Tuy nhiên qua các năm, mức độ ảnh hưởng của sự biến
động của các nền kinh tế trên thế giới sẽ tác động ngay đến các hoạt động của nền
kinh tế của một Quốc gia theo chính sách mở cửa của Quốc gia đó.
1.2.1.2 . Các yếu tố bên trong
Đây là các yếu tố tác động từ nội tại của nền kinh tế ở một Quốc gia, trong
đó chủ yếu bao gồm: lạm phát, thâm hụt cán cân thương mại, tình trạng đôla hóa
nền kinh tế, trạng thái ngoại tệ, cơ chế điều hành tỷ giá và các hợp đồng giao dịch
phái sinh ngoại hối.
Lạm phát
Quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái không phải là quan hệ một chiều
mà là quan hệ vòng, tác động qua lại lẫn nhau, không thể coi yếu tố này là nguyên
nhân và yếu tố kia là kết quả. Điều đó có thể tạo ra các thiệt hại tài chính lớn hơn
nhiều do “vòng xoáy” lạm phát - tỷ giá gây ra. Giá trị tiền đồng giảm sẽ làm tăng
giá hàng nhập khẩu và tạo thêm áp lực lên CPI, rồi từ CPI lên cao trở lại sẽ gây áp
lực mặt bằng lãi suất cao và làm tiền đồng thêm mất giá.
Bên cạnh đó, mức chênh lệch lạm phát của hai nước cũng ảnh hưởng đến sự
biến động của tỷ giá. Giả sử trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh, năng suất lao
động của hai nước tương đương như nhau, cơ chế quản lý ngoại hối tự do, khi đó tỷ
giá biến động phụ thuộc vào mức chênh lệch lạm phát của hai đồng tiền. Nước nào
có mức độ lạm phát lớn hơn thì đồng tiền của nước đó bị mất giá so với đồng tiền
nước còn lại.
Chênh lệch lạm phát dựa vào thuyết ngang giá sức mua của hai đồng tiền
PPP (Purchasing Power Parity Theory). Theo thuyết này, mức giá của một nước
tăng lên tương đối so với mức tăng giá của nước khác trong dài hạn sẽ làm cho
41
đồng tiền của nước đó giảm giá và ngược lại. Như vậy, yếu tố chênh lệch lạm phát
chỉ có ảnh hưởng đến biến động của tỷ giá trong dài hạn. Việc nghiên cứu yếu tố
này để làm cơ sở dự đoán biến động của tỷ giá trong ngắn hạn sẽ đem lại kết quả
không đáng tin cậy.
Một nền kinh tế sẽ vận hành tốt và hiệu quả hơn khi xét về tỷ lệ tăng trưởng
GDP thực tế, về việc làm, và về cải thiện đời sống nhân dân, nếu tỷ lệ lạm phát thấp
và được duy trì ổn định ở mức đó. Bởi vì, kỳ vọng lạm phát sẽ khiến hành vi của
các chủ thể trong nền kinh tế trở nên không ổn định. Có thể nói, mọi động thái bất
thường và bất hợp lý của chỉ số lạm phát đều để lại những hiệu quả tiêu cực cho nền
kinh tế, tạo ra nhiều rủi ro cho các hoạt động trên thị trường ngoại hối. Lạm phát
đồng nghĩa với đồng tiền giảm giá trị là những tin tức tiêu cực đối với hầu hết người
dân, các tổ chức kinh tế. Lạm phát bóp méo giá cả, giảm độ tin cậy vào đồng tiền
của Quốc gia đó, tăng cầu về ngoại tệ (đặc biệt là USD), không khuyến khích đầu
tư, đầu tư vào vàng, hạn chế tăng trưởng kinh tế và tới cực điểm nó có thể gây ra
những bất ổn về mặt xã hội và chính trị.
Cho nên, lạm phát tại một Quốc gia tạo ra tỷ giá của USD hay một ngoại tệ
khác với đồng tiền của Quốc gia đó thường có xu hướng tăng và nhu cầu đầu tư vào
vàng nhằm làm nơi trú ẩn an toàn ngày càng tăng cao và làm cho giá vàng trong
nước thường cao hơn giá vàng thế giới. Từ đó, những biến động trên dễ tạo ra nhiều
rủi ro cho hoạt động KDNH của các NHTM, đặc biệt đối với một nền kinh tế chưa
liên thông đầy đủ với các nền kinh tế trên thế giới như tại Việt nam.
Thâm hụt cán cân thương mại
Nhập siêu hay tình trạng thâm hụt cán cân thương mại là sự mất cân đối giữa
nhập khẩu và xuất khẩu trong điều kiện nhập khẩu vượt quá xuất khẩu. Nếu tình
trạng này duy trì trong dài hạn và vượt quá mức độ cho phép có thể ảnh hưởng tới
cán cân tài khoản vãng lai và gây nên những biến động bất lợi đối với nền kinh tế
như gia tăng tình trạng nợ quốc tế, hạn chế khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, tác
động tiêu cực đến thu nhập và việc làm và ở mức trầm trọng hơn có thể gây nên
khủng hoảng tài chính tiền tệ.
42
Đối với các nước đang phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa và mở cửa
hội nhập kinh tế, thâm hụt cán cân thương mại là một hiện tượng khá phổ biến với
yêu cầu nhập khẩu rất lớn trong khi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn
chế, do đó mức tăng trưởng xuất khẩu trong ngắn hạn không thể bù đắp thâm hụt
thương mại. Tuy nhiên, nếu tình trạng này diễn ra thường xuyên và dai dẳng cho
thấy sự yếu kém trong điều tiết kinh tế vĩ mô và hậu quả đối với nền kinh tế rất trầm
trọng.
Cán cân thương mại cung cấp những thông tin liên quan đến cung cầu tiền tệ
của một quốc gia, cụ thể là thể hiện sự thay đổi tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ so
với ngoại tệ. Khi một nước nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu, nghĩa là cung đồng tiền
quốc gia đó có khuynh hướng vượt cầu trên thị trường ngoại hối nếu các yếu tố
khác không thay đổi. Và như vậy có thể suy đoán rằng đồng tiền nội tệ của nước đó
sẽ bị sức ép giảm giá so với các đồng tiền khác. Khi đồng tiền của một quốc gia
giảm giá, sẽ làm tăng giá trị nhập khẩu tính bằng đồng tiền nước này. Với cùng một
số tiền không đổi chi cho nhập khẩu, khi giá tăng thì khối lượng nhập khẩu sẽ phải
giảm, tuy số lượng nhập khẩu giảm, nhưng giá trị nhập khẩu có thể tăng. Sau khi
đồng tiền giảm giá, chi tiêu bằng đồng nội tệ cho nhập khẩu có thể tăng, song do giá
xuất khẩu tính bằng ngoại tệ giảm đă kích thích tăng khối lượng xuất khẩu, do đó
không làm cho cán cân thương mại xấu đi.
Như vậy, nhập siêu có tác động nhất định tới tỷ giá hối đoái, làm đồng tiền
nội tệ của một nước có khuynh hướng giảm giá, tuy nhiên trong dài hạn sự giảm giá
của đồng nội tệ không có tác động xấu tới cán cân thương mại, do có tác dụng kích
thích sản xuất hàng thay thế nhập khẩu và hàng xuất khẩu.
Ngoài ra, nhập siêu ở mức cao, kéo dài gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế
và điều hành chính sách tiền tệ, thể hiện qua các đặc điểm cụ thể sau:
Thứ nhất, nhập khẩu lạm phát gây khó khăn cho việc điều hành các chính
sách kinh tế vĩ mô nhằm đạt được các mục tiêu tăng trưởng và kiểm soát lạm phát,
ổn định thị trường ngoại hối. Mặc dù vậy, cơ cấu đầu vào sản xuất theo nguồn của
nước ta cho thấy nhập khẩu có tác động không nhỏ tới giá cả trong nước. Với
43
những đặc điểm như vậy, giá cả nhập khẩu sẽ tác động mạnh tới chi phí sản xuất
của nhiều ngành sản xuất, gây áp lực tới giá bán và giá sản phẩm tiêu dùng cuối
cùng. Trong điều kiện nhập khẩu chủ yếu phục vụ sản xuất hay nói cách khác là hỗ
trợ tăng trưởng, việc điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát nhập khẩu trong
trường hợp có dấu hiệu của nhập khẩu lạm phát nhằm ổn định giá cả và duy trì tăng
trưởng là không dễ dàng.
Thứ hai, nhập siêu gây bất ổn cán cân thanh toán tổng thể, từ đó tạo áp lực
tới cung cầu ngoại tệ và tỷ giá.
Thứ ba, nhập siêu tạo áp lực suy giảm dự trữ ngoại hối.
Thứ tư, thâm hụt cán cân thương mại tạo ra sự giảm lòng tin của người dân
vào đồng tiền của một Quốc gia, tăng cầu về USD hay một ngoại tệ khác và tăng
đầu tư vào vàng nhằm bảo tồn giá trị.
Với các đặc điểm trên, thâm hụt cán cân thương mại càng làm cho tỷ giá của
USD hay một ngoại tệ khác với đồng tiền của Quốc gia đó và giá vàng trong nước
thường biến động theo chiều hướng tăng; cuối cùng tạo ra nhiều rủi ro cho KDNH
của các NHTM một khi cung cầu trên thị trường thay đổi.
Tình trạng đôla hóa nền kinh tế
Theo IMF, đôla hóa là tình trạng mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm
trên 30% tổng khối tiền tệ mở rộng (M2) bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ.
Đôla hóa được hiểu theo cách đơn giản nhất là ngoại tệ USD được sử dụng
rộng rãi bên cạnh đồng nội tệ làm đồng tiền thanh toán trong các giao dịch thương
mại. Điển hình như, IMF đã xếp Việt Nam thuộc nhóm quốc gia đôla hóa không
chính thức. Đôla hóa không chính thức là trường hợp đồng đôla được sử dụng rộng
rãi trong nền kinh tế nhưng không được quốc gia đó chính thức thừa nhận.
Đôla hóa tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đôla
hóa có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân và các tổ chức
kinh tế có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đôla Mỹ, làm cho cầu của đôla Mỹ
tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá.
44
Đối với quốc gia có tình trạng đôla hóa không chính thức, nhu cầu về nội tệ
không ổn định, trong trường hợp có biến động, người dân và các tổ chức kinh tế bất
ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ
lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay
đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng
tiền này sang đồng tiền khác hay còn gọi là hoạt động đầu cơ tỷ giá. Những thay đổi
này sẽ gây khó khăn cho NHTW trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có
thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng và hoạt động của thị trường
ngoại hối.
Ngoài ra, tình trạng đôla hóa còn gây áp lực tới việc NHTW can thiệp trên
thị trường ngoại hối ngay cả khi tổng thể nền kinh tế không bị mất cân đối cung cầu
ngoại tệ, tại vì các khu vực của nền kinh tế có xu hướng găm giữ ngoại tệ. Một nền
kinh tế không có sự găm giữ ngoại tệ, NHTW chỉ bán ngoại tệ khi các khu vực
trong nền kinh tế đã giao dịch với nhau nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu
ngoại tệ. Tuy nhiên, ở Việt Nam lại khác, ngay cả khi tổng thể nền kinh tế có dư
cung ngoại tệ, NHNN vẫn phải bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Cũng giống như các phân tích trên, một khi nền kinh tế bị đôla hóa nặng nề,
người dân ưa chuộng sử dụng USD hay một ngoại tệ mạnh khác trong các thanh
toán hàng ngày, càng làm cho cầu USD hay một ngoại tệ mạnh khác tăng cao và họ
mất niềm tin vào đồng tiền của Quốc gia mình. Cho nên, người dân có xu hướng
tìm đến vàng và giảm dần niềm tin vào đồng tiền của Quốc gia mình. Từ các diễn
biến như vậy trên thị trường ngoại hối, hoạt động KDNH rất dễ gặp rủi ro một khi
giá vàng trên thị trường thế giới biến động mạnh và giá trị USD không duy trì được
sức mạnh của mình.
Trạng thái ngoại tệ
Điển hình như tại Việt nam, theo Thông tư số 07/2012/TT-NHNN ngày
20/03/2012 do NHNN ban hành quy định về trạng thái ngoại tệ của các TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, trạng thái ngoại tệ là trạng thái nguyên tệ của ngoại tệ
đó được quy đổi sang đồng Việt Nam theo tỷ giá quy đổi trạng thái.
45
Thông tư cũng quy định một số nội dung mới so với các quy định trước đây
về giới hạn tổng trạng thái ngoại tệ như sau: Giới hạn tổng trạng thái ngoại tệ được
tính bằng tỷ lệ giữa tổng trạng thái ngoại tệ dương hoặc tổng trạng thái ngoại tệ âm
chia cho vốn tự có của TCTD. Vốn tự có để tính giới hạn tổng trạng thái ngoại tệ
của TCTD là vốn tự có của tháng liền kề trước kỳ báo cáo của TCTD. Tổng trạng
thái ngoại tệ dương cuối ngày của TCTD không được vượt quá 20% vốn tự có và
tổng trạng thái ngoại tệ âm cuối ngày của TCTD không được vượt quá 20% vốn tự
có của TCTD, riêng các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam có vốn tự có
từ 25 triệu đô la Mỹ trở xuống thì trạng thái ngoại tệ được quy định: tổng trạng thái
ngoại tệ dương cuối ngày quy ra đô la Mỹ không được vượt quá 5 triệu đô la Mỹ và
tổng trạng thái ngoaị tệ âm cuối ngày quy ra đô la Mỹ không được vượt quá 5 triệu
đô la Mỹ.
Đây cũng là một trong những công cụ để điều hành của NHNN. Càng co hẹp
trạng thái ngoại tệ, càng hạn chế được khả năng đầu cơ ngoại tệ, hạn chế việc
chuyển đổi các đồng tiền. Do vậy, với việc giảm trạng thái ngoại tệ trong quy định
mới có thể khiến thị trường ngoại tệ biến động nhiều hơn trong thời gian tới và tạo
ra nhiều biến động cho tỷ giá USD/VND. Mặt khác, việc các TCTD phải điều chỉnh
lại trạng thái ngoại tệ theo hạn mức mới đồng nghĩa với việc tổ chức phải mua lại
nếu đang ở trạng thái âm lớn hơn hạn mức. Nhu cầu mua lại có lẽ sẽ gây áp lực nhất
định cho thị trường ngoại hối vì tình trạng chênh lệch lãi suất vay USD và VND
thời gian qua đã khuyến khích hoạt động chuyển vốn, chẳng hạn bán USD ra để đổi
sang VND nhằm cho vay.
Ngoài ra, hoạt động kinh doanh vàng thông qua việc mua bán vàng trên tài
khoản vàng tại nước ngoài cũng có ảnh hưởng nhất định đến trạng thái ngoại tệ của
các NHTM. Từ đó, trạng thái ngoại tệ này ảnh hưởng đến rủi ro trong hoạt động
KDNH của các ngân hàng.
Cơ chế điều hành tỷ giá
Kể từ năm 1999, khi Việt Nam có sự thay đổi lớn trong cơ chế tỷ giá, bảng
phân loại cơ chế tỷ giá của IMF xếp Việt Nam vào nhóm cơ chế tỷ giá thả nổi với
46
mức phân định là cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý không định trước (Managed
floating with no predetermined for exchange rate) cùng với các nước trong khu vực
như Thái Lan, Singapore. Ở cùng thời gian này, Malaysia và Trung Quốc vẫn được
xếp vào nhóm cố định truyền thống (Conventional pegged arrangement) tức là có
cơ chế tỷ giá “cứng” hơn so với Việt Nam. Tuy nhiên, từ cuối năm 2004 trở lại đây,
IMF chuyển Việt Nam sang nhóm nước có cơ chế cố định truyền thống vì nhận
định rằng kể từ tháng 8/2004, NHNN công bố sẽ không để tỷ giá USD/VND tăng
quá 1%/năm. Có thể thấy, dưới góc nhìn của IMF, Việt Nam đã có sự chuyển đổi cơ
chế tỷ giá theo hướng lùi về nhóm “cứng”.
Với độ mở thương mại khá cao, sự thiếu ổn định của tỷ giá sẽ gây nên vấn đề
nghiêm trọng cho toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Trong ngắn hạn và kể cả trung hạn,
Việt Nam khó có thể chuyển sang trạng thái có độ mở thương mại thấp nên nếu dựa
trên yếu tố này, điều đương nhiên là Việt Nam sẽ chưa thể lựa chọn cơ chế thả nổi.
Tuy nhiên, nếu đeo đuổi cơ chế tỷ giá theo hướng cứng kém linh hoạt, Việt Nam sẽ
đối mặt với áp lực điều chỉnh tỷ giá lớn “bất thường” (dù có thể không liên tục) khi
nền kinh tế đối mặt với bất ổn trong cán cân thanh toán, vì duy trì tỷ giá cứng khá
lâu. Kết quả là chính những lần điều chỉnh lớn “bất thường” như vậy sẽ làm gia tăng
rủi ro tỷ giá, tăng chi phí giao dịch, tác động tiêu cực đến việc khuyến khích hoạt
động thương mại và đầu tư, gây rối loại trên thị trường ngoại hối.
Ngoài ra, với việc quy định tỷ giá USD/VND theo hướng thị trường và có
điều tiết của NHNN dễ dàng tạo ra rủi ro tỷ giá như phân tích ở trên, đồng thời kéo
theo rủi ro cho hoạt động kinh doanh vàng của các ngân hàng với lý do là giá vàng
trong nước được xác định dựa vào giá vàng thế giới, tỷ giá USD/VND và các chi
phí khác, cho nên rủi ro tỷ giá cũng tất yếu gây nên rủi ro trong hoạt động kinh
doanh vàng của ngân hàng.
Các hợp đồng giao dịch phái sinh ngoại hối
Công cụ tài chính phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành trên
cơ sở những công cụ tài chính đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán
rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt
47
nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỷ giá, lãi suất, v.v... Công cụ tài chính
phái sinh xuất hiện lần đầu tiên nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn rủi ro,
trong đó thường được sử dụng cao nhất là hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai,
hợp đồng hoán đổi hay những sản phẩm phái sinh kết hợp.
Mặc dù, xuất hiện lần đầu tiên với tư cách là một công cụ phòng chống rủi ro
nhưng cùng với sự lớn mạnh và phức tạp của thị trường tài chính, các công cụ tài
chính phái sinh cũng được sử dụng nhiều hơn để tìm kiến lợi nhuận và thực hiện các
hoạt động đầu cơ. Ngày nay, hoạt động kinh doanh của các NHTM trở nên phong
phú và đa dạng hơn bao giờ hết, bên cạnh các nghiệp vụ ngân hàng mang tính
truyền thống thì các ngân hàng đã không ngừng phát triển các nghiệp vụ tài chính
mới, hiện đại, trong đó, phải kể đến các giao dịch kinh doanh ngoại tệ với doanh số
giao dịch lớn hơn nhiều so với trước đây. Đây là hoạt động kinh doanh có thể đem
lại lợi nhuận rất cao cho NHTM, nhưng cũng chứa không ít rủi ro. Khi tham gia
hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng sẽ tạo ra trạng thái ngoại tệ mở và dẫn đến
rủi ro tỷ giá cho ngân hàng nếu tỷ giá trên thị trường biến động. Để có thể hạn chế
được rủi ro này, ngân hàng sẽ phải tiến hành các biện pháp phòng ngừa, một trong
những công cụ hữu hiệu phòng ngừa tỷ giá đó chính là các hợp đồng phái sinh tiền
tệ. Các hợp đồng phái sinh tiền tệ cơ bản bao gồm: hợp đồng ngoại hối kỳ hạn, hợp
đồng ngoại hối hoán đổi, hợp đồng ngoại hối quyền chọn và hợp đồng ngoại hối
tương lai. Công cụ phổ biến nhất để kiểm soát rủi ro giao dịch ngoại hối là những
hợp đồng tương lai, hoán đổi và quyền chọn tiền tệ. (Joel Bessis, 2011)
Như vậy, công cụ phái sinh ngoại hối ra đời là để bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Tỷ
giá biến động theo một biên độ lớn và ngẫu nhiên, phản ánh quan hệ cung cầu về
ngoại tệ trên thị trường là điều kiện tiên quyết cho việc sử dụng các công cụ phòng
chống rủi ro. Trên thị trường ngoại hối, bên cạnh việc phản ánh quan hệ cung cầu
về ngoại tệ thì thị trường còn ẩn chứa các yếu tố đầu cơ và chênh lệch giá về ngoại
tệ. Đây cũng là những yếu tố quan trọng trong việc làm cho tỷ giá hối đoái trên thị
trường ngoại hối biến động một cách khó dự đoán. Chính vì sự không dự đoán trước
được những thay đổi của tỷ giá trên thị trường các NHTM luôn có mong muốn bảo
48
hiểm rủi ro để chống lại những tổn thất có thể xảy ra đối với các dòng tiền ngoại tệ
của mình. Ngược lại, một khi các NHTM không sử dụng các sản phẩm phái sinh
cho các giao dịch ngoại hối thì đây là một trong các nguyên nhân gây ra rủi ro ngoại
hối cho các ngân hàng.
1.2.2. Các nhân tố riêng tác động đến rủi ro trong kinh doanh ngoại hối
Có hai nguyên nhân chính làm phát sinh rủi ro trong KDNH tại các Ngân
hàng, đó là:
Các Ngân hàng mua bán ngoại tệ hay vàng phục vụ cho khách hàng và mua
bán cho chính mình;
Các Ngân hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn bằng ngoại tệ hay
vàng.
Cả hai nguyên nhân này tạo ra một xu hướng trạng thái ngoại hối ròng
(trường hoặc đoản) đối với hầu hết các NHTM hiện nay. Chúng ta thấy rằng, nếu tỷ
giá ngoại tệ hay giá vàng biến động càng mạnh thì rủi ro ngoại hối sẽ càng lớn;
chính vì vậy, theo nghĩa hẹp người ta thường xem rủi ro ngoại hối là rủi ro tỷ giá
ngoại tệ hay rủi ro về giá vàng.
Trong môi trường toàn cầu hóa tài chính - ngân hàng như ngày nay, nhà quản
trị Ngân hàng ngày càng phải đối mặt nhiều hơn với rủi ro ngoại hối, điều này cũng
làm phát sinh nhiều nghiệp vụ mới (gọi là nghiệp vụ phái sinh) trong kinh doanh
ngoại hối và được sử dụng tích cực vào việc phòng ngừa rủi ro ngoại hối.
Để xác định rủi ro ngoại hối, thông thường người ta sử dụng trạng thái ngoại
tệ ròng áp dụng đối với ngoại tệ và mô hình VaR áp dụng đối với vàng. Như tại
Việt nam, theo hướng dẫn của Thông tư 07/2012/TT-NHNN ngày 20/03/2012,
trạng thái ngoại tệ ròng của một TCTD được xác định bằng trạng thái nội bảng cộng
với trạng thái ngoại bảng, hay là bằng chênh lệch giữa tài sản có và tài sản nợ bằng
ngoại tệ cộng với chênh lệch giữa mua vào và bán ra bằng ngoại tệ được ghi nhận ở
ngoại bảng. Tổng trạng thái ngoại tệ cuối ngày của các TCTD, chi nhánh Ngân hàng
nước ngoài không được vượt quá 20% vốn tự có của TCTD, chi nhánh Ngân hàng
49
nước ngoài. Các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam có vốn tự có từ hai
mươi lăm triệu đô la Mỹ trở xuống được phép áp dụng mức giới hạn tổng trạng thái
ngoại tệ là tổng trạng thái ngoại tệ cuối ngày quy ra đô la Mỹ không được vượt quá
năm triệu đô la Mỹ. Nếu trạng thái ròng của ngoại tệ lớn hơn 0, thì ta gọi là trạng
thái trường, hay trạng thái dương; còn nếu nhỏ hơn 0 thì gọi là trạng thái đoản hay
trạng thái âm. Rõ ràng là, để tránh được rủi ro ngoại hối đối với một ngoại tệ nhất
định, tức để cho ngoại tệ này có trạng thái ròng bằng 0, thì Ngân hàng có thể tiến
hành theo hai cách: Thứ nhất, đồng thời làm cân xứng giữa doanh số mua vào và
doanh số bán ra được ghi nhận ở ngoại bảng và cân xứng giữa số dư tài sản có và số
dư tài sản nợ đối với ngoại tệ này được ghi trong nội bảng; Thứ hai, làm cho trạng
thái nội bảng và ngoại bảng ngược dấu với nhau. Về mặt logic, chúng ta cũng thấy
rằng, để một Ngân hàng tránh được hoàn toàn rủi ro ngoại hối thì Ngân hàng này
phải có trạng thái bằng 0 đối với tất cả các ngoại tệ, nhưng lúc đó lợi nhuận cho các
giao dịch này cũng gần như không có.
Như trên đã trình bày, chúng ta có thể lượng hóa được quy mô tiềm ẩn rủi ro
ngoại hối bằng cách xác định trạng thái ròng nội bảng và ngoại bảng đối với từng
ngoại tệ. Tuy nhiên, mức rủi ro đối với trạng thái của một ngoại tệ còn phụ thuộc
vào mức độ biến động của tỷ giá. Chúng ta có thể viết:
Lãi/lỗ đối với ngoại tệ (i) = Trạng thái ngoại hối ròng ngoại tệ (i) x
Mức biến động tỷ giá của ngoại tệ (i)
(Trong đó: i là một loại ngoại tệ)
Ví dụ, một Ngân hàng có trạng thái ngoại hối trường ròng là 100 triệu USD
và giả sử rằng sau một tuần tỷ giá giao ngay VND/USD tăng từ 1 USD = 20.520
VND lên 1 USD = 20.535 VND.
Gọi St-1 là tỷ giá của USD trước khi thay đổi, tức là: St-1 = 20.520
Gọi St là tỷ giá của USD sau khi thay đổi, tức là: St = 20.535
Ta tính được tỷ lệ % thay đổi tỷ giá (% thay đổi giá trị của USD):
50
Do USD có trạng thái trường, mà USD lại tăng giá nên Ngân hàng thu được
lãi hối đoái quy VND là:
100 x (20.535 - 20.520) = 1.500 triệu VND
Rõ ràng là, nếu Ngân hàng duy trì một trạng thái ngoại hối ròng với bất cứ
ngoại tệ nào thì khi tỷ giá của đồng tiền này biến động càng lớn thì khả năng thu
được lợi nhuận (hay lỗ) cũng càng lớn.
1.3. CÁC TIÊU CHÍ ĐO LƯỜNG RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI
HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1. Các tiêu chí định lượng
1.3.1.1. Phương pháp đo lường VaR
Một trong những phương pháp đo lường rủi ro trong hoạt động KDNH tại
các NHTM phổ biến nhất hiện nay là sử dụng mô hình VaR. Mô hình sẽ được phân
tích chi tiết trong mục 1.4.2.3 của chương 1 Luận án này.
Mô hình này không những nêu ra các tiêu chí để đo lường về rủi ro trong
kinh doanh ngoại tệ gồm USD và bảy loại ngoại tệ mạnh khác đã được nêu trong
phạm vi nghiên cứu cũng như hoạt động kinh doanh vàng theo công thức chung bên
dưới: (các yếu tố trong công thức này sẽ được giải thích trong mục 1.4.2.3)
Với việc sử dụng mô hình VaR, các nhà kinh doanh và quản trị ngân hàng
xác định được một con số cụ thể về mức độ rủi ro của danh mục ngoại hối mà ngân
hàng đang nắm giữ. Từ đó, các nhà quản trị ngân hàng xác định được mức độ rủi ro
này có nằm trong phạm vi tổn thất cho phép của các lãnh đạo cao hơn trong ngân
hàng hay không. Phương pháp này có thể được thực hiện trước, trong hay sau khi
các dealer thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, việc thực hiện tính toán VaR trước khi
thực hiện giao dịch ngoại hối sẽ tốt hơn cho việc quản trị ngân hàng.
51
1.3.1.2. Phương pháp đo lường trạng thái ngoại tệ
Đây cũng là một trong những phương pháp đo lường định lượng phổ biến
hiện nay trên thế giới về mức độ rủi ro của các giao dịch ngoại hối mà ngân hàng
thực hiện. Các tiêu chí của công thức này được trình bày chi tiết trong Mục 1.2.2
của Luận án này.
Lãi/lỗ đối với ngoại hối (i) = Trạng thái ngoại hối ròng (i) x
Mức biến động tỷ giá của ngoại tệ (i) hay giá vàng
Mức độ chính xác của việc sử dụng phương pháp này phụ thuộc rất lớn vào
việc dự đoán mức độ biến động của tỷ giá ngoại tệ hay giá vàng. Kết quả của công
thức này là một con số cụ thể thể hiện mức độ rủi ro của hoạt động kinh doanh vàng
hay ngoại tệ của ngân hàng.
1.3.2. Các tiêu chí định tính
Các chỉ tiêu này bao gồm: mức độ sử dụng các công cụ phái sinh (mục
1.4.2.3), sử dụng các kỷ thuật dự đoán tỷ giá, hạn mức (mục 1.4.2.3), tình hình kinh
tế - chính trị - xã hội trong và ngoài nước (mục 1.2.1), các chính sách của Chính
phủ và các cơ quan có thẩm quyền (mục 1.2.1), v.v…
Mức độ thường xuyên sử dụng các công cụ trên trong việc phòng ngừa rủi ro
trong hoạt động KDNH hay diễn biến tình hình trong và ngoài nước quyết định
quan trọng đến mức độ rủi ro của KDNH tại các NHTM hiện nay. Do đó, việc ý
thức được các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động kinh doanh của các cấp lãnh đạo
ngân hàng có tầm ảnh hưởng lớn đến rủi ro xảy ra là cao hay thấp đến kết quả lợi
nhuận của ngân hàng; đồng thời việc phân tích và dự báo tình hình trong và ngoài
nước cũng chi phối đến mức độ rủi ro trong hoạt động KDNH của ngân hàng.
52
1.4. QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.4.1. Rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng thương mại
Về bản chất, KDNH tự nó chứa đựng rủi ro rất cao. Ngoài các rủi ro thông
thường mà các hoạt động khác cũng phải đối mặt như: rủi ro lãi suất, rủi ro tín
dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro kỹ thuật, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý và rủi ro
quốc gia, thì KDNH còn chịu thêm một rủi ro đặc biệt, đó là rủi ro về tỷ giá ngoại tệ
và giá vàng. Do tỷ giá ngoại tệ và giá vàng biến động thường xuyên và bất thường,
nên rủi ro tỷ giá ngoại tệ và giá vàng được xem là rủi ro thường trực, gắn liền và trở
thành rủi ro đặc trưng của hoạt động KDNH của các ngân hàng.
Theo tác giả, rủi ro ngoại hối là rủi ro phát sinh do sự biến động của tỷ giá
ngoại tệ và giá vàng làm ảnh hưởng xấu đến giá trị kỳ vọng trong tương lai. Có hai
nguyên nhân chính gây nên rủi ro tỷ giá ngoại tệ và giá vàng: (1) các ngân hàng
giao dịch các đồng tiền nước ngoài, vàng nhằm phục vụ cho khách hàng và cho
chính ngân hàng mình; (2) các ngân hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn
bằng các ngoại tệ. Cả hai nguyên nhân này tạo ra một xu hướng trạng thái ngoại hối
ròng (trường hoặc đoản) trong mua bán ngoại hối và trong cơ cấu tài sản bằng ngoại
tệ. Nếu tỷ giá ngoại tệ và giá vàng biến động càng mạnh thì rủi ro ngoại hối sẽ càng
lớn.
Các nguyên nhân làm cho tỷ giá ngoại tệ và giá vàng biến động gây nên rủi
ro trong KDNH tại các NHTM đã được trình bày và phân tích chi tiết ở mục 1.2 của
Luận án này.
1.4.2. Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương
mại
1.4.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối của NHTM
Để kinh doanh ngoại tệ có lãi thì các NHTM phải tạo trạng thái ngoại hối mở
và tỷ giá phải biến động. Muốn tránh hoàn toàn rủi ro tỷ giá thì nhà kinh doanh chỉ
việc không tiến hành bất kỳ giao dịch ngoại hối nào hoặc nếu đã tạo trạng thái ngoại
53
hối thì tiến hành đóng trạng thái ngoại hối bằng các giao dịch đối ứng để làm cân
bằng trạng thái. Tuy nhiên, là Dealer thì việc tạo trạng thái ngoại hối và hy vọng tỷ
giá biến động theo chiều hướng có lợi là công việc hằng ngày của anh ta. Do đó, tỷ
giá luôn biến động thất thường và không giới hạn làm cho cơ hội kiếm lãi trở nên
thường xuyên và vô cùng hấp dẫn. Tiềm năng thu lãi và tiềm ẩn rủi ro trong KDNH
là đồng hành với nhau. Lãi lỗ trong KDNH có thể phát sinh cùng với quy mô biến
động tỷ giá, trong khi tỷ giá biến động là không giới hạn nên có thể làm cho lãi lỗ
phát sinh là rất lớn. Điều này buộc ngân hàng phải có một cơ chế quản lý và giám
sát hoạt động kinh doanh ngoại tệ và vàng một cách chặt chẽ.
Rủi ro KDNH là một yếu tố khách quan, ngân hàng không thể loại trừ được
tất cả mọi rủi ro có thể xảy ra khi tham gia giao dịch KDNH, mà ngân hàng chỉ có
thể đưa ra các biện pháp và công cụ nhằm hạn chế sự xuất hiện của rủi ro.
Cho nên, theo tác giả, quản lý rủi ro KDNH tại ngân hàng là quá trình tiếp
cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát,
phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất do rủi ro gây ra. Quy trình quản lý rủi ro
thông thường gồm năm bước: nhận dạng rủi ro, phân tích rủi ro, đo lường rủi ro,
kiểm soát, phòng ngừa rủi ro và tài trợ rủi ro.
1.4.2.2. Vai trò của quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối đối với NHTM
Một hệ thống quản lý rủi ro được tổ chức tốt và vận hành hiệu quả sẽ giúp
các Ngân hàng đứng vững và vượt qua những biến động lớn trong các giai đoạn khó
khăn.
Theo như phân tích ở mục 1.2 của Luận án này, các nhân tố gây nên rủi ro
đối với hoạt động KDNH của các Ngân hàng là luôn hiện hữu, cho nên hoạt động
quản trị rủi ro KDNH của các NHTM là một nội dung quan trọng và luôn cần thiết
mà các cấp lãnh đạo và điều hành ngân hàng cần đặc biệt quan tâm.
Quản trị rủi ro KDNH tốt giúp góp phần làm giảm thiểu chi phí hoạt động và
hạn chế tổn thất cho các ngân hàng, từ đó sẽ giúp tối đa hóa lợi nhuận và giá trị cho
cổ đông của ngân hàng.
54
Quản lý rủi ro KDNH hiệu quả góp phần tạo điều kiện làm lành mạnh tình
hình tài chính, ngăn ngừa nguy cơ phá sản và gia tăng uy tín cho các NHTM. Qua
đó, các NHTM góp phần tăng lòng tin nơi khách hàng và các đối tác trong và ngoài
nước; đồng thời thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế ổn định và bền vững cho
đất nước.
Quản lý rủi ro KDNH tốt giúp phát hiện kịp thời những nguyên nhân có thể
gây nên rủi ro cho hoạt động KDNH, từ đó ngân hàng có những giải pháp phòng
ngừa và hạn chế rủi ro thích hợp.
Quá trình này giúp xây dựng hình ảnh tốt đẹp cho ngân hàng, đáp ứng yêu
cầu của các quy định trong nước và các chuẩn mực quốc tế.
Hệ thống quản lý rủi ro KDNH hiệu quả giúp các NHTM có được các nhân
tố tích cực sau trong quá trình hoạt động của ngân hàng như có sự giám sát và quản
lý tích cực của Hội đồng quản trị và Ban điều hành; ban hành và triển khai đầy đủ
các chính sách, quy trình quản lý rủi ro và các giới hạn rủi ro; thiết lập hệ thống
thông tin quản lý rủi ro phù hợp; và thiết lập được hệ thống kiểm soát nội bộ và
kiểm toán nội bộ hoạt động phù hợp.
Ngoài ra, việc thực hiện quản lý rủi ro KDNH một cách nghiêm túc giúp
ngân hàng đảm bảo rằng vốn pháp định của ngân hàng không bị suy giảm và khả
năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng đủ bù đắp tất cả các rủi ro mà có thể dẫn đến
tổn thất cho ngân hàng tại mọi thời điểm. Bộ phận kiểm soát rủi ro thực hiện việc
theo dõi, đo lường tất cả các rủi ro của ngân hàng và đánh giá mức độ đầy đủ của
khả năng chịu đựng rủi ro. Nếu khả năng chịu đựng rủi ro là không đảm bảo, ngân
hàng sẽ có các biện pháp xử lý kịp thời.
1.4.2.3. Các phương pháp quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối tại ngân hàng
thương mại
Trên thế giới, các Ngân hàng thường sử dụng các phương pháp sau đây để
quản lý rủi ro trong hoạt động KDNH của Ngân hàng:
55
Sử dụng các giới hạn trạng thái ngoại hối giao dịch qua đêm
Hạn mức (position limits) là giới hạn trạng thái ngoại hối tối đa mà mỗi
nhóm, cá nhân KDNH được phép thực hiện. Tùy theo kinh nghiệm, trình độ, mục
đích kinh doanh, năng lực tài chính và trang thiết bị mà hạn mức giữa các tổ chức,
giữa các nhân viên kinh doanh là không giống nhau. Việc quản lý hạn mức kinh
doanh tại một NHTM có thể căn cứ vào một số tiêu chí như sau:
Hạn mức chung cho cả phòng kinh doanh, trên cơ sở đó phân bổ hạn mức
cho từng nhà kinh doanh cụ thể. Nguyên tắc phân bổ hạn mức cho từng nhà
kinh doanh chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thâm niên và năng lực kinh doanh
trên thị trường ngoại hối. Những nhà kinh doanh chuyên nghiệp, có thâm
niên, đã gặt hái được nhiều thành công thường là những nhà kinh doanh
chính (chief dealer) được giao hạn mức cao hơn rất nhiều so với những nhân
viên kinh doanh vừa vào nghề.
Hạn mức theo các đồng tiền kinh doanh: Ngoài việc quy định tổng hạn mức
chung, đối với những nhóm và cá nhân kinh doanh liên quan đến nhiều đồng
tiền, thì việc quy định hạn mức kinh doanh đối với mỗi đồng tiền là cần thiết.
Những đồng tiền ít biến động thì hạn mức có thể cao, còn những đồng tiền
Hạn mức cho các loại nghiệp vụ cụ thể, ví dụ hạn mức cho từng nghiệp vụ
biến động mạnh thì hạn mức thấp hơn.
giao ngay, kỳ hạn, tương lai, hoán đổi và quyền chọn. Phương pháp quản lý
và đánh giá đối với một số trạng thái chính như sau:
Trạng thái giao ngay:
Do đặc thù của thị trường giao ngay là chịu sự tác động bởi các yếu tố ngắn
hạn lên tỷ giá. Những tin đồn, những cuộc giao dịch lớn, can thiệp của NHTW,
những biến cố bất ngờ xảy ra,... đều có thể ảnh hưởng nhanh chóng và mạnh mẽ lên
sự biến động tỷ giá. Những biến động đến ngạc nhiên của tỷ giá chỉ diễn ra trong
vài phút, do đó, nhà kinh doanh phải nhanh chóng và thường xuyên thay đổi trạng
thái kinh doanh để chớp cơ hội kiếm lãi hoặc thoát khỏi rủi ro.
56
Tại bất kỳ thời điểm nào, nếu nhà kinh doanh duy trì trạng thái giao ngay
(trạng thái mở) đều phải chịu rủi ro tỷ giá. Tỷ giá biến động càng mạnh thì rủi ro
càng lớn. Để quản lý tiềm năng thu lãi và tiềm ẩn lỗ vốn, người ta sử dụng kỹ thuật
định giá cuối mỗi ngày giao dịch. Căn cứ vào trạng thái cuối ngày, từng nhà kinh
doanh phải định giá kết quả kinh doanh của chính mình theo tỷ giá đóng cửa của
ngày giao dịch. Kết quả này phải được báo cáo cho nhà kinh doanh chính và lãnh
đạo phòng KDNH.
Trạng thái kỳ hạn
Trên thị trường liên Ngân hàng, các giao dịch kỳ hạn thường thuộc loại Spot
- Forward Swap, nghĩa là mỗi giao dịch gồm hai vế là: vế giao ngay áp dụng tỷ giá
giao ngay, còn vế kỳ hạn áp dụng tỷ giá kỳ hạn, và hai vế có ngày giá trị khác nhau.
Do đó, trạng thái ròng của giao dịch kỳ hạn phụ thuộc vào độ lệch giữa tỷ giá kỳ
hạn và tỷ giá giao ngay. Tỷ giá kỳ hạn được hình thành trên cơ sở chênh lệch lãi
suất giữa hai đồng tiền. Trong điều kiện bình thường, các mức lãi suất tiền tệ là ổn
định, làm cho các điểm kỳ hạn biến động cũng ít. Lãi suất không tăng lên nhanh
chóng rồi sau đó lại giảm xuống nhanh chóng giống như tỷ giá giao ngay. Do đó,
nếu nhà kinh doanh dự tính sai lầm về hướng biến động của lãi suất, thì ít có cơ hội
để khắc phục thua lỗ nặng nề trong tương lai. Kinh doanh kỳ hạn không thể có tốc
độ nhanh như kinh doanh giao ngay. Nhà kinh doanh kỳ hạn không thể thay đổi
thường xuyên trạng thái kỳ hạn, mà nó thường được duy trì trong một khoảng thời
gian nhất định.
Cũng giống như giao ngay, trạng thái kỳ hạn ròng cuối ngày cũng có thể
trường hoặc đoản, bao gồm các trạng thái của tất cả các hợp đồng còn hiệu lực và
có các ngày giá trị khác nhau. Việc định giá kết quả kinh doanh kỳ hạn hằng ngày
được tính theo phương pháp giả định rằng tất cả các hợp đồng kỳ hạn còn hiệu lực
đều được thanh lý ngay lập tức theo tỷ giá kỳ hạn cuối ngày hôm đó áp dụng tương
ứng cho từng kỳ hạn.
57
Ngoài việc định giá lại hằng ngày các trạng thái kỳ hạn, để quản lý rủi ro tỷ
giá tốt hơn, các nhà kinh doanh kỳ hạn còn phải duy trì hạn mức cho từng kỳ hạn cụ
thể theo quy tắc kỳ hạn càng dài hạn mức càng thấp.
Để quản lý rủi ro các trạng thái kỳ hạn một cách vĩ mô, các NHTM còn áp
dụng “Hạn mức rủi ro tỷ trọng của các trạng thái theo kỳ hạn”. Thông thường các
trạng thái kỳ hạn thường có các kỳ hạn khác nhau, từ một ngày đến vài năm. Một
trạng thái trường 12 triệu USD kỳ hạn 6 tháng sẽ có rủi ro nhiều hơn một trạng thái
đoản cũng 12 triệu USD có kỳ hạn 1 tháng. Trong khi đó, về mặt hình thức thì trạng
thái ngoại hối kỳ ngày hôm nay của nhà kinh doanh là bằng 0, nhưng rủi ro thực tế
đối với hai trạng thái này là rất khác nhau.
Cân bằng trạng thái ngoại hối
Có hai nguyên nhân chính làm phát sinh rủi ro ngoại hối, đó là:
Ngân hàng duy trì sự không cân bằng trạng thái ngoại hối: do Ngân hàng
mua bán ngoại tệ phục vụ khách hàng và mua bán cho chính mình, và Ngân
hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn bằng ngoại tệ. Cả hai nguyên
nhân này tạo ra một xu hướng trạng thái ngoại tệ ròng (trường hoặc đoản)
đối với hầu hết các NHTM.
Sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nếu Ngân hàng duy trì trạng thái trường
(hoặc đoản) về ngoại tệ mà không có thay đổi về tỷ giá, Ngân hàng sẽ không
gặp phải rủi ro hối đoái. Nếu tỷ giá biến động càng mạnh thì rủi ro ngoại hối
sẽ càng lớn và ngược lại.
Sử dụng các kỹ thuật dự đoán tỷ giá
Kinh doanh ngoại tệ đã từ lâu chắc chắn không chỉ là một nghiệp vụ chuyên
biệt của các NHTM tại Việt Nam, mà còn trở thành một kênh đầu tư, kinh doanh
kiếm lợi của một bộ phận không nhỏ tổ chức hay cá nhân trong nền kinh tế. Với tốc
độ hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, chắc chắn lĩnh vực này sẽ ngày càng phát
triển mạnh thành một kênh đầu tư chính thức và quan trọng trong nền kinh tế, như
đầu tư vào thị trường chứng khoán và bất động sản. Chúng ta có thể phần nào nhận
biết mức độ phổ biến của kênh đầu tư này qua việc hầu hết các Ngân hàng có uy tín
58
trên thế giới đều duy trì các trang web giao dịch kinh doanh ngoại tệ qua mạng với
mục đích phục vụ nhiều dạng nhà đầu tư, từ nhà đầu tư nhỏ với các tài khoản tối
thiểu từ 200-300 USD cho đến các nhà đầu tư “vừa và lớn” với các tài khoản có
mức ký quỹ trên 50.000 USD. Trước tình hình như vậy, việc sử dụng kỹ thuật dự
đoán tỷ giá là vô cùng quan trọng trong việc quản lý và phòng ngừa rủi ro trong
KDNH tại các NHTM.
Phương pháp được sử dụng phổ biến hiện nay là phân tích cơ bản. Những
người sử dụng phương pháp này dựa vào những phân tích về “những nhân tố cơ
bản” như GDP, đầu tư, tiết kiệm, sản lượng, lạm phát, cán cân thanh toán,….
Những phân tích này không được mô hình hóa bằng kinh tế lượng mà chỉ mang tính
định tính nhằm xác định tác động của nhân tố này đến xu hướng biến động dài hạn
của tỷ giá. Một phương pháp khác cũng được nhiều nhà quản trị Ngân hàng sử dụng
là phương pháp phân tích kỹ thuật. Phương pháp này dựa trên những nguyên tắc của
trường phái nghiên cứu “hành vi học trong tài chính” (behavioral finance). Theo
quan điểm này, các nhà phân tích kỹ thuật có thể dự báo được những “mẫu hình”
của thị trường bằng cách “đọc” các đồ thị tỷ giá. Phương pháp này ra đời vào
khoảng hơn một thế kỷ trước, đánh dấu bằng việc Charles Dow (1851-1902, cha đẻ
của các nguyên lý cơ bản trong phân tích kỹ thuật thuộc lĩnh vực chứng khoán) sử
dụng biến động giá chứng khoán trong quá khứ làm hướng dẫn cho những quyết
định đầu tư. Phương pháp này đã được sử dụng phổ biến trong thị trường chứng
khoán và thị trường tương lai hàng hóa. Kể từ thập niên 1970, phương pháp này
được ứng dụng rộng rãi trong thị trường ngoại hối, đặc biệt là sau khi chế độ
Bretton Wood sụp đổ khiến cho mức độ bất ổn của tỷ giá ngày một gia tăng. Những
nhà phân tích kỹ thuật thì tin rằng thị trường về mặt nào đó là không hiệu quả và do
đó “nhân loại có thể tìm thấy tương lai trong quá khứ”.
Phương pháp phân tích kỹ thuật dựa trên nền tảng những lý thuyết sau:
Lý thuyết về chu kỳ thị trường: Lý thuyết cho rằng thị trường có những xu
hướng, có xu hướng chính, xu hướng hiện tại và xu hướng phụ với mức độ
dài hạn và ngắn hạn khác nhau ứng với từng xu hướng. Và vì có những xu
59
hướng khác nhau như vậy nên thị trường sẽ thường xuất hiện trường hợp đảo
chiều xu hướng (trend reversal) và vì vậy hình thành nên đỉnh và đáy của các
đồ thị giá. Nhiệm vụ của nhà phân tích kỹ thuật là phải dự đoán được khi nào
xu hướng thị trường đảo chiều, đỉnh và đáy ở đâu.
Lý thuyết thị trường tài chính và chu kỳ kinh doanh: Các nhà đầu tư của thị
trường tài chính sẽ có những phản ứng tâm lý khác nhau ứng với các thông
tin cơ bản về nền kinh tế đồng thời bản thân họ cũng có những kỳ vọng về
triển vọng của nền kinh tế. Vì vậy, nhà đầu tư trên thị trường tài chính đặc
biệt quan tâm đến chu kỳ kinh doanh, nhất là giai đoạn mà nền kinh tế không
ở trong tình trạng ổn định hoặc cân bằng, vì ở những thời điểm đó họ mới có
thể tìm kiếm được lợi nhuận từ giao dịch một cách nhanh chóng. Khi họ
nhận thấy nền kinh tế bắt đầu chuyển hướng và từ bỏ một trạng thái này và
có xu hướng tiến trở về trạng thái cân bằng (theo lý thuyết này thì nền kinh tế
biến động quanh trạng thái cân bằng), họ sẽ có những quyết định mua bán
tương ứng ngay lập tức.
Lý thuyết Dow: đây là lý thuyết lâu đời nhất về xác định các xu hướng chính
trên thị trường. Lý thuyết này có sáu nguyên tắc cơ bản. Các nguyên tắc này
có thể tóm tắt như sau: thay đổi trong mức giá đóng cửa phản ánh tất cả tâm
lý và nhận định về thị trường của các thành viên tham gia; các thị trường
đang tăng giá và giảm giá có ba giai đoạn biến động: biến động chính, biến
động thứ cấp và biến động phụ; tất cả những dấu hiệu chỉ báo trong các giai
đoạn này như đường biểu diễn giá, mối quan hệ giá/khối lượng giao dịch
cung cấp các chỉ dẫn hữu ích về việc đảo ngược xu hướng thị trường; và
những chỉ dẫn đó sẽ được khẳng định là hữu ích hay không thông qua việc
phân tích đường trung bình. Các công cụ để phân tích kỹ thuật đã phát triển
trong hơn một thế kỷ qua, tuy nhiên, để thuận tiện cho việc sử dụng và
truyền đạt thông tin, người ta có thể chia ra hai nhóm công cụ sau: nhóm
công cụ về đồ thị và cách đọc đồ thị (charting), và nhóm công cụ về quy tắc
quyết định (mechanical rules). Các nhà phân tích kỹ thuật bằng đồ thị thường
60
xác định các đỉnh, đáy và xu hướng của thị trường và điểm đảo ngược xu
hướng. Các nhà phân tích này có thể sử dụng các phương pháp mẫu hình đồ
thị (chart pattern), các đường xu hướng, đường kháng cự và chống đỡ để dự
báo và ra quyết định mua bán. Ngoài ra, hiện nay phương pháp phân tích
bằng đồ thị hình nến (candle stick) của người Nhật cũng rất phổ biến. Gần
đây, một công cụ phân tích kỹ thuật khác đang bắt đầu được sử dụng rất phổ
biến là công cụ tính toán số Fibonacci kết hợp lý thuyết sóng Elliot.
Có người cho rằng phương pháp này vẫn còn quá phức tạp so với trình độ
chung của thị trường ngoại hối Việt Nam nên chưa thể áp dụng được và chỉ nên áp
dụng phương pháp phân tích cơ bản truyền thống và tiếp cận phương pháp kỹ thuật
sau một thời gian nữa khi thị trường đã được phát triển hơn. Tuy nhiên, nếu nhìn
vào tốc độ hội nhập kinh tế và tiến trình mở cửa thị trường tài chính thì chúng ta có
thể nhanh chóng nhận ra rằng thị trường sẽ không cho chúng ta thêm thời gian
chuẩn bị. Với việc mở cửa, nhà đầu tư Việt Nam chắc chắn sẽ được tiếp cận với các
phương thức giao dịch trực tuyến, dịch vụ KDNH bằng tài khoản ký quỹ (margin
trading) của các Ngân hàng và công ty tài chính nước ngoài. Các Ngân hàng trong
nước chắc chắn cũng không chịu thua kém và cũng sẽ xin triển khai các dịch vụ
tiềm năng này. Bên cạnh đó, có một thực tế là các NHTM - những chủ thể có thể
nói đã đầy kinh nghiệm với thị trường ngoại hối cũng chưa quen sử dụng phương
pháp này, và do đó chưa thể tư vấn và hướng dẫn cho các nhà đầu tư tiếp cận với
các công cụ phân tích kỹ thuật một cách tốt nhất.
Sử dụng các công cụ phái sinh
Công cụ tài chính phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành trên
cơ sở những công cụ tài chính đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán
rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt
nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỷ giá, lãi suất, giá vàng, …. Công cụ tài
chính phái sinh xuất hiện lần đầu tiên nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn rủi
ro, trong đó thường được sử dụng cao nhất là hợp đồng kỳ hạn (forward contracts),
61
hợp đồng tương lai (future contracts). Những công cụ trên còn có thể kết hợp với
nhau để tạo nên các công cụ lai tạo.
Mặc dù xuất hiện lần đầu tiên của công cụ tài chính phái sinh với tư cách là
một công cụ phòng chống rủi ro nhưng cùng với sự lớn mạnh và phức tạp của thị
trường tài chính, các công cụ tài chính phái sinh cũng được sử dụng nhiều hơn để
tìm kiến lợi nhuận và thực hiện các hoạt động đầu cơ. Chính vì những biến tướng
như vậy nên không phải lúc nào sử dụng công cụ tài chính phái sinh để phòng ngừa
rủi ro cũng có hiệu quả. Các công cụ phái sinh ngày càng tinh vi và mang theo một
số rủi ro gây gián đoạn lớn hơn độ rủi ro thông thường. Tuy vậy, các công cụ tài
chính phái sinh vẫn phát triển mạnh mẽ và được sử dụng rộng rãi tại các thị trường
tài chính lớn của thế giới với mục đích chính và phổ biến là để phòng chống rủi ro
trong hoạt động KDNH.
Thị trường phái sinh là thị trường dành cho các công cụ tài chính phái sinh,
những công cụ mang tính hợp đồng, mà thành quả của chúng được xác định trên
một hoặc một số công cụ tài sản khác. Các loại công cụ phái sinh khác nhau bao
gồm: Hợp đồng kỳ hạn, Hợp đồng tương lai, Hợp đồng quyền chọn, Hợp đồng hoán
đổi và các sản phẩm lai tạp.
Phòng ngừa rủi ro ngoại hối bằng hợp đồng kỳ hạn
Trên thị trường mua bán hàng hóa quốc tế, các doanh nghiệp xuất hay nhập
khẩu thường có nhu cầu bán ngoại tệ hay mua ngoại tệ để thanh toán cho các hợp
đồng xuất nhập khẩu với các nước khác. Với tình trạng tỷ giá ngoại tệ luôn biến
động bất thường, các nhà xuất nhập khẩu có xu hướng mua các hợp đồng kỳ hạn
với các ngân hàng để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Sau khi đã thực hiện hợp đồng bán
kỳ hạn với các doanh nghiệp, để phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho chính ngân hàng
mình, các ngân hàng này cần thực hiện mua đối ứng các giao dịch kỳ hạn này tại thị
trường ngoại hối nước ngoài hoặc tại thị trường ngoại hối trong nước. Với các giao
dịch kỳ hạn này, ngân hàng trong nước chỉ hưởng phí dich vụ, là khoản chênh lệch
giữa phí kỳ hạn tính cho khách hàng trong nước và phí kỳ hạn mà ngân hàng nước
ngoài tính cho ngân hàng trong nước khi thực hiện giao dịch kỳ hạn ngoại tệ.
62
Hàng hóa ở đây có thể là bất kỳ thứ hàng hóa nào: các loại ngoại tệ hay
vàng. Theo hợp đồng này thì chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai
bên tự thỏa thuận với nhau, dựa theo những ước tính mang tính cá nhân. Giá hàng
hóa đó trên thị trường giao ngay vào thời điểm giao nhận hàng hóa có thể thay đổi,
tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã ký kết trong hợp đồng. Khi đó, một
trong hai bên mua và bán sẽ bị thiệt hại do đã cam kết một mức giá thấp hơn (bên
bán) hoặc cao hơn (bên mua) theo giá thị trường. Như vậy bằng việc tham gia vào
một hợp đồng kỳ hạn, cả hai bên đều giới hạn được rủi ro tiềm năng cũng như hạn
chế lợi nhuận tiềm năng của mình. Vì chỉ có hai bên tham gia vào hợp đồng, cho
nên mỗi bên đều phụ thuộc duy nhất vào bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Khi
có thay đổi giá cả trên thị trường giao ngay, rủi ro thanh toán sẽ tăng lên khi một
trong hai bên không thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, vì mức giá đặt ra mang tính cá
nhân và chủ quan nên rất có thể không chính xác.
Phòng ngừa rủi ro ngoại hối bằng hợp đồng tương lai
Cách thức phòng ngừa rủi ro bằng hợp đồng tương lai cũng gần tương tự như
trường hợp phòng ngừa rủi ro bằng hợp đồng kỳ hạn, như: khách hàng có nhu cầu
bán hay mua một loại ngoại tệ nào đó trong tương lai cho nhu cầu xuất nhập khẩu
của doanh nghiệp và lo ngại tỷ giá biến động nhiều sẽ gây rủi ro cho số lượng ngoại
tệ mà họ cần bán hay mua trên, khách hàng sẽ mua một hợp đồng tương lai để
phòng ngừa rủi ro tỷ giá, ngân hàng sau khi bán hợp đồng tương lai, phải thực hiện
giao dịch đối ứng trên thị trường ngoại hối và hưởng chênh lệch phí đồng thời
phòng ngừa được rủi ro có thể xảy ra khi tỷ giá biến động bất lợi.
Tuy nhiên, một trong những điểm khác biệt cơ bản của giao dịch tương lai và
kỳ hạn trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá là: hợp đồng kỳ hạn được thương lượng
trực tiếp giữa hai chủ thể, không cần chuẩn hóa sản phẩm và không yêu cầu thủ tục
phức tạp, trong khi hợp đồng tương lai được giao dịch trên Sở giao dịch tương lai
nên việc chuẩn hóa hợp đồng là điểm quan trọng, vì vậy rủi ro tín dụng cũng được
hạn chế nhiều hơn so với các giao dịch kỳ hạn.
63
Phòng ngừa rủi ro ngoại hối bằng hợp đồng quyền chọn
Tương tự như hai loại sản phẩm phái sinh trên, khách hàng xuất nhập khẩu
có nhu cầu mua sản phẩm phái sinh để phòng ngừa rủi tỷ giá do tỷ giá có thể biến
động bất lợi và gây tổn thất đến số lượng ngoại tệ dự kiến trong tương lai. Trong
trường hợp này, khách hàng chọn mua hợp đồng quyền chọn (quyền chọn bán hoặc
hoặc chọn mua). Còn ngân hàng thì bán quyền chọn bán hoặc bán quyền chọn mua.
Đối với nước ta, trong thời gian trước đây khi cho thực hiện giao dịch quyền chọn,
thì khách hàng chỉ được mua quyền chọn, chứ không được bán quyền chọn để
phòng ngừa rủi ro hay đầu cơ. Ngân hàng chỉ được thực hiện bán quyền chọn cho
khách hàng có nhu cầu phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
Sau khi ngân hàng bán quyền chọn bán hoặc quyền chọn mua cho khách
hàng, để phòng ngừa rủi ro tỷ giá, ngân hàng cần thực hiện mua lại quyền chọn bán
hoặc quyền chọn mua trên thị trường ngoại hối. Lúc đó, ngân hàng chỉ hưởng phí
quyền chọn chênh lệch.
Do khách hàng là bên mua quyền chọn, cho nên khách hàng có quyền mà
không có nghĩa vụ phải thực hiện quyền chọn. Khi khách hàng thực hiện quyền
chọn bán hoặc quyền chọn mua, ngân hàng cũng phải nhận hàng hay giao hàng
tương ứng. Cùng lúc đó, do ngân hàng cũng là người mua trên thị trường ngoại hối,
nên ngân hàng cũng được quyền thực hiện hợp đồng và yêu cầu phía ngân hàng đối
tác nhận hàng và giao hàng với số lượng tương ứng với số lượng phải giao cho
khách hàng. Lúc đó, ngân hàng không gặp rủi ro khi khách hàng yêu cầu thực hiện
hợp đồng.
Ngược lại, khách hàng không thực hiện hợp đồng do tỷ giá biến động bất lợi
cho họ, ngân hàng cùng lúc cũng không thực hiện hợp đồng với phía ngân hàng đối
tác. Lúc này, ngân hàng cũng không phải chịu rủi ro phát sinh do khách hàng không
thực hiện hợp đồng.
Phòng ngừa rủi ro ngoại hối bằng hợp đồng hoán đổi
Giao dịch hoán đổi là một sự kết hợp giữa giao dịch giao ngay và giao dịch
kỳ hạn. Bản thân giao dịch hoán đổi giải quyết được nhược điểm của hợp đồng giao
64
ngay là có thể thỏa mãn nhu cầu ngoại tệ của khách hàng ở thời điểm tương lai,
đồng thời khắc phục được nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn ở chỗ có thể thỏa mãn
nhu cầu ngoại tệ của khách hàng ở thời điểm hiện tại. Trong trường hợp này ngân
hàng cần mua đối ứng giao dịch hoán đổi tương ứng với đối tác trên thị trường
ngoại hối nhằm tránh rủi ro khi tỷ giá biến động bất lợi.
Vào ngày hiệu lực hợp đồng hoán đổi, ngân hàng có thể kiếm lợi nhuận từ
chênh lệch giá mua và giá bán ngoại tệ giao ngay và tránh được rủi ro tỷ giá đối với
nguồn ngoại tệ đáp ứng cho giao dịch giao ngay. Vào ngày đáo hạn hợp đồng hoán
đổi ngoại tệ trên, ngân hàng kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch giá mua và giá bán
kỳ hạn và cũng tránh được rủi ro khi tỷ giá biến động bất lợi đối với nguồn ngoại tệ
đáp ứng cho giao dịch kỳ hạn.
Sử dụng công cụ VaR – Giá trị chịu rủi ro
Khái niệm về VaR
Trong toán tài chính và quản trị rủi ro tài chính, VaR được sử dụng rộng rãi
trong đo lường rủi ro bị tổn thất của một danh mục cụ thể. Với một danh mục cho
trước xác suất và khoảng thời gian, VaR được xem như là một ngưỡng giá trị mà
khả năng bị tổn thất trên giá trị điều chỉnh theo thị trường của danh mục đó trong
khoảng thời gian định trước vượt quá giá trị này (với giả định diễn biến thị trường
như bình thường và không có giao dịch mua bán danh mục) chính là mức xác suất
đã được cho trước.
Sự cuốn hút lớn nhất của VaR là sự biểu diễn rủi ro dưới dạng một con số
duy nhất. VaR được định nghĩa là số tiền lớn nhất một danh mục có thể bị thua lỗ
với một độ tin cậy xác định, thông thường ở mức 95%. Ví dụ, một danh mục gồm
các sản phẩm phái sinh vàng ở trên với 95% VaR trong 1 ngày là 1 triệu USD, nói
lên rằng xác suất mà danh mục giảm giá trị trên 1 triệu USD trong khoảng thời gian
1 ngày, với giả định rằng diễn biến thị trường như bình thường và không có giao
dịch mua bán. Thực chất, khoản tổn thất 1 triệu USD hoặc cao trên giá trị danh mục
này được kỳ vọng chỉ xảy ra trên 1 ngày trong 20 ngày (5%). Khoản tổn thất vượt
quá ngưỡng VaR được gọi là “VaR break”.
65
VaR được xác định dựa trên quy luật phân bố xác suất cho giá trị thị trường
của danh mục. Thông thường, sự biến động giá trị của các tài sản được tuân theo
quy luật phân phối chuẩn, với 2 giá trị đặc trưng là mức kỳ vọng và phương sai.
Phương pháp đo lường VaR
Hiện tại, các Ngân hàng trên thế giới đang sử dụng ba phương pháp chính để
đo lường VaR, đó là: Phương pháp Delta – Gamma, phương pháp phân tích và
phương pháp Monte Carlo. Trong Luận án này, tác giả đề xuất sử dụng phương
pháp phân tích để áp dụng cho các NHTM cổ phần TP.HCM.
Các nguyên tắc xây dựng mô hình VaR
Sử dụng phương pháp phân tích (Analytical Method), áp dụng đối với các
ngoại tệ mạnh X không phải USD (gọi tắt G7) và vàng (riêng trường hợp
USD/VND có phương pháp tính riêng)
Các thông số tính VaR:
Thời gian dự báo (Time Horizon)
01 ngày hoặc 10 ngày
Độ tin cậy (Confident Level)
99%, 95%
Đơn vị tiền tệ VaR
USD hoặc VND
Nguồn dữ liệu tỷ giá
Giá ngoại tệ/USD trên hệ thống
Reuters; Giá USD/VND XAU/VND
giá liên ngân hàng
2 đến 5 năm
Số ngày thu thập dữ liệu giá
Phương pháp tính toán VaR:
Các thông số Diễn giải
(1) Kết nối Reuters sử dụng dữ liệu thực (realtime) trong 5 năm gần nhất
Các bước thực hiện xác định tính toán VaR
cho nhóm G7, đối với USD/VND, XAU/VND cập nhật giá thật hàng
(2) Tính tỷ suất sinh lợi (return)
ngày vào 5 giờ chiều.
Áp dụng đối với các ngoại tệ đứng
trước USD, trong đó Si, Si-1 là giá của
ngoại tệ tại khảo sát thứ i, i-1
66
Áp dụng đối với các ngoại tệ đứng sau
(3) Khảo sát thực nghiệm (Empirical research)
USD
Chúng ta dựa trên lý thuyết thống kê khảo sát sự phân phối của tỷ suất
sinh lợi để chọn phương pháp đúng khi tính toán VaR. Tuy nhiên cần lưu ý
rằng, phương pháp phân tích là một phương pháp mô phỏng, tức là thay vì
tính toán trực tiếp trên dữ liệu, chúng được mô phỏng lại bằng hàm phân
phối chuẩn dựa trên giá trị trung bình (mean) và độ lệch chuẩn (standard
deviation) được tính toán trực tiếp từ tập dữ liệu thực.
Giá trị trung bình:
: giá trị trung bình
: tỷ suất sinh lợi ngày i
: số quan sát (obsarvation).
Trong đó:
Độ lệch chuẩn:
: giá trị trung bình
: tỷ suất sinh lợi ngày i
: số quan sát (obsarvation).
(4) Tính độ biến động giá (volatility) theo mô hình EWMA để phản ánh
Trong đó:
đúng theo diễn biến thị trường.
: phương sai của ngày thứ i
: tỷ suất sinh lợi của ngày thứ i-1
: tham số trơn
(5) Tính độ tương quan và hiệp phương sai giữa các loại ngoại tệ
Trong đó:
(correlation, covariance).
Sử dụng mô hình EWMA để tính toán hiệp phương sai và độ tương quan
thực tế, phản ảnh lại biến động thị trường.
67
Hiệp phương sai:
: hiệp phương sai cặp tiền tệ 1 và 2,
Trong đó:
: dự báo tại thời điiểm t dựa trên thông tin tại thời điểm t-1,
: tham số trơn.
: tỷ suất sinh lợi,
Độ tương quan:
: hiệp phương sai cặp tiền tệ 1 và 2,
Trong đó:
: độ lệch chuẩn của đồng tiền i,
: dự báo tại thời điiểm t dựa trên thông tin tại thời điểm t-1,
: tham số trơn.
(6) Tính VaR cho từng trạng thái ngoại tệ và/hoặc cho toàn bộ danh mục trạng
: tỷ suất sinh lợi,
thái ngoại tệ.
Xác định VaR
Áp dụng cho 1 cặp ngoại tệ,
trong đó:
: độ tin cậy,
: giá trị trung bình,
: “left-tail” phần trăm của
phân phối chuẩn,
: độ lệch chuẩn,
: giá trị trạng thái.
68
Áp dụng đối với danh mục
trạng thái ngoại tệ, trong đó:
: độ tin cậy,
: giá trị trung bình cặp tiền
i,
: “left-tail” phần trăm của
phân phối chuẩn,
: độ lệch chuẩn của cặp
tiền i,
: độ tương quan của đồng
tiền i,j
: giá trị trạng thái của cặp
tiền i,
Minh họa cách tính
Giả sử, ngày 3/1/2012 tính VaR cho một danh mục gồm 2 trạng thái
Mua 100.000 GBP giá giao ngay 1.5527 và Mua 100.000 EUR giá giao ngay
1.2970, từ khảo sát thực nghiệm chúng ta biết được rằng các cặp GBP/USD
và EUR/USD tuân theo luật phân phối chuẩn và ta tính được:
Tỷ suất sinh lợi kỳ vọng
Độ biến động tính theo mô hình EWMA
Áp dụng công thức tính VaR cho 1 trạng thái, ta tính được:
Áp dụng công thức tính VaR cho danh mục, ta tính được:
trong đó
69
Thay các tham số vào công thức ta tính được:
Lưu ý: giá trị tất cả các tham số đều được tính bằng công cụ VaR G7 được
xây dựng dựa trên các bước trên. Vì mô hình tính VaR phức tạp và dữ liệu rất lớn,
nên không thể mô tả chi tiết trong minh họa.
1.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối
của các ngân hàng thương mại
1.4.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng từ phía các NHTM
Tuân thủ không tốt các chính sách và quy trình QLRR của ngân hàng
Mặc dù ngân hàng đã ban hành hệ thống quản lý rủi ro cho hoạt động
KDNH, việc tuân thủ không đúng theo những gì trong hệ thống quy định tạo nên
nhiều rủi ro cho hoạt động chung của ngân hàng. Việc không tuân thủ theo các quy
định trong chính sách này thể hiện ở chỗ có thể xuất phát từ phía các cấp lãnh đạo
không quản trị rủi ro theo quy định đã ban hành hoặc có thể xuất phát từ phía những
người thực hiện thi hành các quy định không đúng hoặc cố ý làm trái quy định vì
một lý do nào đó.
Việc thực hiện không tốt các quy định trong hệ thống quản trị rủi ro trong
KDNH có thể đem lại nhiều tổn thất cho ngân hàng và gây nhiều khó khăn cho quá
trình thực thi chính sách vì mục tiêu chung của ngân hàng.
Ưa thích các giao dịch có lợi nhuận cao và chấp nhận mức độ rủi ro cao
Hội đồng quản trị ngân hàng thuộc nhóm người thích kinh doanh với các
giao dịch tạo ra nhiều lợi nhuận và sẵn sàng chấp nhận mức độ rủi ro cao. Chính sự
ưa thích này có thể là nguồn cảm hứng cho quá trình quản trị hoạt động ngân hàng.
Tuy nhiên, ngân hàng là lĩnh vực được kiểm soát chặt chẽ bởi NHNN và các cơ
quan khác của Chính phủ, hoạt động ngân hàng luôn phải tuân thủ theo rất nhiều
quy định khắc khe từ phía Nhà nước, đặc biệt là từ NHNN. Do đó, loại “sở thích”
này trong hoạt động KDNH của ngân hàng bị kiểm soát và hạn chế nhiều.
70
Việc thực hiện kinh doanh với các giao dịch tạo ra nhiều lợi nhuận và mức
độ rủi ro cao có nhiều khả năng đem lại khó khăn cho quá trình quản lý rủi ro trong
KDNH của các NHTM.
Hạn mức giao dịch và tổn thất cao
Thông thường Hội đồng quản trị giao các loại hạn mức kinh doanh cho Tổng
giám đốc ngân hàng, sau đó Tổng giám đốc giao hạn mức xuống các cấp bên dưới.
Việc giao hạn mức từ phía Hội đồng quản trị phụ thuộc rất lớn vào “khẩu vị rủi ro”
của từng ngân hàng. Còn việc giao hạn mức xuống các cấp bên dưới của Tổng giám
đốc có quy định rất chặt chẽ và đặc biệt mỗi cấp quản lý chỉ được một hạn mức nhất
định. Tuy nhiên, trên thực tế các ngân hàng thường giao mức tối đa hạn mức của
Tổng giám đốc cho trưởng phòng KDNH của ngân hàng nhằm hổ trợ cao nhất cho
hoạt động kinh doanh với bản chất là kinh doanh luôn mang tính nhanh chóng, cơ
hội và chấp nhận rủi ro.
Chính vì lẽ đó, đi kèm với mức độ rủi ro cao từ hạn mức được giao cao sẽ dễ
dàng dẫn đến nhiều tổn thất cho hoạt động của các NHTM và gây khó khăn cho quá
trình quản lý rủi ro của ngân hàng.
Theo đuổi mục tiêu lợi nhuận quá cao
Hoạt động ngân hàng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro và được kiểm soát rất chặt
chẽ từ phía Chính phủ. Bên cạnh đó, để phục vụ cho quá trình phát triển của nền
kinh tế đất nước cùng với quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế
giới, nhiều ngân hàng được mở ra và tham gia vào hoạt động tại cùng một thị
trường trong nước. Chính lẽ đó, mức độ cạnh trạnh ngày càng cao và mục tiêu lợi
nhuận ngày càng khó đạt được so với điều kiện thị trường trong thời kỳ hội nhập.
Tuy nhiên, chỉ tiêu lợi nhuận năm sau phải cao hơn năm trước nhằm đáp ứng mong
muốn của cổ đông, do đó, mục tiêu lợi nhuận ngân hàng luôn ở mức cao hơn so với
khả năng thực hiện của ngân hàng, và lợi nhuận cao thường đi kèm với rủi ro cao.
Cho nên, với các mục tiêu như trên gây nhiều khó khăn cho quá trình quản
trị rủi ro hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
71
Trình độ nhân sự không tốt
Việc thực thi các chính sách về quản trị rủi ro phần lớn là thuộc về Ban tổng
giám đốc cùng đội ngũ nhân viên ngân hàng. Quá trình tuân thủ này của đội ngũ
nhân sự ngân hàng không chỉ xuất phát từ các quy định chặt chẽ trong chính sách
mà phụ thuộc rất lớn vào tính ý thức, trình độ hiểu biết và quá trình thực hiện chính
sách trên thực tế. Do đó, trình độ của đội ngũ nhân sự không tốt dẫn đến nhiều khó
khăn cho quá trình đưa các quy định trong chính sách vào thực tiễn áp dụng của
ngân hàng.
1.4.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng từ bên ngoài ngân hàng
Chính sách của nhà nước thay đổi
Hàng năm nhà nước ban hành nhiều chính sách mới nhằm bổ sung, thay đổi
các quy định pháp luật đã cũ và không phù hợp với điều kiện của thị trường trong
thời kỳ mới. Các giao dịch KDNH không chỉ được thực hiện trong vài ngày mà có
nhiều giao dịch được thực hiện trong vài năm, ví dụ như các giao dịch huy động và
cho vay vàng trong thời gian qua. Một khi chính sách nhà nước thay đổi và ngân
hàng không dự liệu được hết sẽ tạo ra nhiểu khó khăn cho quá trình quản lý rủi ro
trong KDNH của ngân hàng.
Việc thay đổi chính sách nhanh chóng của nhà nước đem lại rủi ro chính
sách cho các ngân hàng, ví dụ như chính sách tất toán các tài khoản huy động và
cho vay vàng của NHNN vừa qua đem lại nhiều khoản lỗ cho các NHTM.
Môi trường kinh doanh trong và ngoài nước tiềm ẩn nhiều rủi ro
Hoạt động kinh doanh luôn được đặt trong môi trường nhiều biến động ở
trong và ngoài nước, ngân hàng mặc dù có nhiều sự chuẩn bị trong kế hoạch kinh
doanh cũng khó tiên liệu được hết những khó khăn của thị trường đem lại.
Chính vì lẽ đó, hoạt động kinh doanh của ngân hàng là luôn tiềm ẩn nhiều rủi
ro và những sự thay đổi của môi trường kinh doanh bên ngoài thường gây nhiều khó
khăn cho công việc quản trị rủi ro KDNH của ngân hàng.
72
1.5. NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA TỪ KINH NGHIỆM VỀ QUẢN LÝ RỦI
RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA NGÂN HÀNG Ở MỘT
SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.5.1. Bài học thứ nhất về quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ cho các
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng Liên minh Ailen Allied Irish Bank (AIB) là ngân hàng lớn nhất
của Ailen. Vào tháng 2/2002, một chi nhánh của AIB tại Mỹ đã bị tên John Rusnak,
một nhân viên giao dịch người Mỹ, lừa đảo thiệt hại 750 triệu USD, sau đó Rusnak
bị tuyên án 7,5 năm tù, tên này đã giở nhiều thủ đoạn tinh vi để được hưởng
850.000 USD tiền lương và thưởng từ năm 1997 đến 2001.
Năm 2000, tổng tài sản có của AIB đạt 76,6 tỷ USD, hoạt động với hơn
1.000 văn phòng trên toàn thế giới. Năm 1989 AIB mua toàn bộ ngân hàng
Maryland Bancorp, là một ngân hàng hoạt động tại Baltimore, Mỹ. Năm 1999,
Maryland Bancorp đổi tên thành Allfirst và hoạt động như một công ty trực thuộc
AIB, việc mua Allfirst nằm trong chiến lược vươn ra toàn cầu của AIB.
AIB tin tưởng rằng việc trao nhiều quyền hạn và trách nhiệm cho các công ty
trực thuộc là chìa khóa thành công trong kinh doanh tại thị trường Mỹ. Vì vậy
Allfirst được rất nhiều quyền chủ động tự quyết trong các hoạt động của mình đặc
biệt là hoạt động ngoại hối và kinh doanh các công cụ phái sinh lãi suất.
AIB giao cho ông Cronin, một cán bộ nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh
ngoại hối và quản lý tiền tệ (Treasury) về phụ trách mọi hoạt động của Treasury tại
Kinh doanh các hoạt động của Treasury (Front Office): Bộ phận này là bộ
Allfirst. Treasury của Allfirst được tổ chức bài bản, phân thành 3 bộ phận như sau:
phận kinh doanh, trực tiếp tiếp xúc với khách hàng và các đối tác. Các lĩnh
vực kinh doanh bao gồm: huy động vốn liên ngân hàng và trên thị trường
tiền tệ, kinh doanh các sản phẩm có lãi suất, kinh doanh đầu tư chứng khoán,
Quản lý rủi ro, các tài sản nợ và tài sản có (Middle Office): Là bộ phận
kinh doanh ngoại hối toàn cầu.
quản lý các rủi ro và phân tích tài chính, viết báo cáo và theo dõi việc kinh
73
Điều hành và xử lý các giao dịch (Back Office): Là bộ phận thực hiện các
doanh đúng quy trình đã được phê duyệt của bộ phận Front Office.
giao dịch mà bộ phận Front Office tiến hành. Các công việc hàng ngày gồm
có: xác nhận các giao dịch, thanh toán và vào sổ các giao dịch. Cuối ngày
bộ phận này còn phải tiến hành kiểm kê và rà soát sổ sách (reconcile).
Trưởng bộ phận Front Office là ông Ray, một người rất giàu kinh nghiệm về
kinh doanh các sản phẩm lãi suất nhưng lại không biết nhiều về kinh doanh ngoại
hối. Năm 1997, Rusnak thông qua sự quen biết với ông Ray đã được tuyển vào
Allfirst với mức lương khá cao là $100.000 một năm. Đặc biệt hơn, Rusnak được
hưởng 30% lợi nhuận mà ông ta có thể mang lại cho Allfirst.
Sự thật là Rusnak không giỏi về kinh doanh ngoại hối, các kiến thức nghiệp
vụ của ông mới dừng ở các sản phẩm ngoại hối spot (giao ngay) hoặc forward (kỳ
hạn) khá đơn giản.
Việc quản lý rủi ro tại Allfirst
Theo quy trình, Rusnak được cấp hạn mức kinh doanh trong ngày là: 100
triệu USD; hạn mức giá trị chịu rủi ro (VAR limit) là 1,55 triệu USD; hạn mức bán
chống lỗ là 200 ngàn USD/một tháng. Bộ phận kinh doanh (Front Office) và điều
hành, thực hiện giao dịch (Back Office) được bố trí tách rời, ngoài ra còn có bộ
phận quản lý rủi ro và kiểm soát (Middle Office). Đó là một cơ cấu tổ chức và
những mức độ hạn mức khá hợp lý với một ngân hàng cỡ như Allfirst.
Quá trình Rusnak đã làm thiệt hại cho AIB
Năm 1997 Rusnak bắt đầu tham gia mua các giao dịch kỳ hạn USD/JPY. Khi tỷ
giá JPY đi ngược lại với mong đợi, Rusnak phải tự tạo ra các giao dịch quyền lựa
chọn (option) để tạo ra ấn tượng rằng các giao dịch kỳ hạn của mình đã được xử lý
giảm thiểu rủi ro (hedge). Rusnak tạo ra hai giao dịch option trái chiều với cùng một
đối tác khiến cho việc thanh toán sẽ triệt tiêu nhau.
Tất cả các giao dịch option này đều là ảo, vì vậy không thể có xác nhận cho
các giao dịch này được. Rusnak đã thuyết phục bộ phận điều hành, thực hiện giao
dịch (Back Office) rằng không cần phải làm xác nhận vì các đối tác đều ở châu Á,
74
và sự chênh lệch múi giờ sẽ làm cho Back Office phải làm việc vào nửa đêm nếu
muốn xác nhận qua phone. Rusnak cũng thuyết phục thêm rằng làm xác nhận sẽ rất
mất thời giờ và vô nghĩa bởi hai giao dịch option trái chiều có tổng thanh toán bằng
không (net-off fully).
Allfirst dùng hệ thống VaR (giá trị chịu rủi ro) để tính toán các rủi ro và lỗ lã
của các giao dịch ngoại hối của họ. Rusnak hiểu rất rõ hệ thống này và biết cách
biến hóa nó bằng cách tạo ra thêm các giao dịch ảo để giảm trạng thái mở của các
giao dịch ngoại hối này. Rusnak tự cho các giao dịch ảo này vào file Excel, chuyển
cho cán bộ quản lý rủi ro và cán bộ này nạp các giao dịch đó vào hệ thống VaR, vì
vậy hệ thống VaR không bao giờ đưa ra các báo cáo mà Rusnak bị vượt hạn mức.
Theo quy trình, trạng thái ngoại hối của Allfirst sẽ được định giá lại bằng các
tỷ giá ngoại hối của các công ty khách quan ví dụ như Reuters, nếu dùng tỷ giá này
thì các giao dịch lỗ của Rusnak sẽ bị phát hiện. Rusnak đã truy cập tỷ giá Reuters
vào máy tính của mình, sau đó thay đổi tỷ giá ngoại hối cho có lợi cho mình đồng
thời thuyết phục Back Office dùng bảng tỷ giá của Front Office thay vì tự trang bị
cho mình một hệ thống thông tin riêng, Rusnak lý luận rằng việc sử dụng bảng tỷ
giá của ông sẽ tiết kiệm chi phí mua thông tin (độ khoảng 10.000 USD để mua
thông tin của Reuters) cũng như tiện lợi cho công việc của Back Office.
Trong suốt 4 năm 1997-2001, Rusnak rất nhiều lần phá vỡ các hạn mức kinh
doanh ngoại hối của mình, càng ngày các hoạt động kỳ hạn của ông càng lỗ, vì vậy
ông phải dấn sâu vào việc làm mạo các chứng từ của giao dịch quyền lựa chọn. Đến
thời hạn thanh toán, ông lại bán các giao dịch quyền lựa chọn này, đồng thời tạo ra
tiếp các giao dịch lựa chọn ảo khác gối đầu để tạo ra ấn tượng an toàn. Thông
thường một ngày ông mua bán doanh số khoảng 150 triệu USD, cá biệt có ngày đến
4 tỷ USD. Riêng tháng 12 năm 2001, Rusnak đã mua tới 25 tỷ USD.
Tháng 12 năm 1999, Rusnak kinh doanh lỗ 89 triệu, con số này là 300 triệu
vào cuối năm 2000 và tới cuối năm 2001 thì nó đã lên tới 670 triệu. Song không có
ai có thể biết sự thật này cả vì các báo cáo đã bị phù phép.
75
Rusnak bị phát hiện như thế nào?
Tháng 12/2001, một kiểm soát viên tình cờ nhìn thấy hai phiếu giao dịch
không kèm xác nhận, ông yêu cầu nhân viên Back Office làm xác nhận, song họ
giải thích là không cần làm vì hai giao dịch này trái chiều nhau và không tạo ra
luồng tiền chuyển động. Kiểm soát viên yêu cầu Back Office phải làm xác nhận cho
mọi giao dịch song cũng không kiểm tra xem Back Office có thực hiện yêu cầu của
mình không. Sau đó, ông Cronin vô tình nhận thấy các luồng tiền chuyển động rất
thất thường trên bảng tổng kết tài sản, kiểm tra lại ông thấy Rusnak đã đạt doanh số
tới 25 tỷ USD vào thời điểm này. Cronin yêu cầu đánh giá lại trạng thái các giao
dịch kỳ hạn của Rusnak và phát hiện đã lỗ trên sổ sách là 500.000 USD.
Tháng 01/2002, Cronin thông báo Rusnak phải dần thực hiện các giao dịch
kỳ hạn, không được phép quay vòng nữa. Ngày 30/01/ 2002, lại một lần nữa kiểm
soát viên phát hiện 12 phiếu giao dịch không có xác nhận kèm theo. Kiểm soát viên
yêu cầu Back Office phải xác nhận các giao dịch này. Back Office cầu cứu Rusnak.
Thứ sáu ngày 01/02/2002, Rusnak đưa 12 xác nhận cho Back Office. Kiểm
soát viên phát hiện các xác nhận này là giả. Rusnak hứa sẽ liên lạc với đối tác châu
Á để lấy xác nhận thật vào thứ hai ngày 03/02, song ông ta đã không bao giờ quay
trở lại Allfirst nữa. Allfirst kiểm tra toàn bộ 71 giao dịch còn hiệu lực, chỉ có 47 cái
là thật, còn lại là sản phẩm tự tạo của Rusnak.
Tổng số lỗ tại thời điểm 08/02/2002 là 691 triệu USD. Công bố tin này đã
làm chấn động giới kinh doanh tài chính.
Bài học kinh nghiệm: Vụ việc trên cho thấy ngay cả khi hoạt động kinh
doanh ngoại hối của một ngân hàng được tổ chức bài bản đi nữa thì rủi ro tỷ giá vẫn
có thể xảy ra như trường hợp của AIB. Có thể nêu ra một số điểm sai lầm trong vụ
Vụ lừa đảo được lên kế hoạch rất cẩn thận và được tiến hành một cách tỉ mỉ
việc trên:
Sự kém hiệu quả trong cơ chế kiểm tra chéo của Back Office và Middle
từ năm 1997 đến năm 2002.
Office.
76
Một loạt các quy trình kinh doanh bị vi phạm và phá vỡ.
Thất bại của cấp trên của Rusnak trong việc kiểm soát hoạt động của anh ta.
Các báo cáo về hoạt động của Rusnak không đầy đủ.
Sự ỷ lại quá lớn và nhầm lẫn của ban lãnh đạo đối với hoạt động người Phụ
Sự nhận thức kém về các hoạt động buôn bán lừa đảo trong ngân hàng ngay
trách phòng kinh doanh ngoại hối và tiền tệ (Treasury) của AIB.
Thất bại trong việc thực hiện đầy đủ khuyến nghị của kiểm toán và thanh tra.
tại phòng kiểm toán và quản lý rủi ro.
Từ đó cho thấy việc cần thiết phải thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro
tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của một ngân hàng và việc triển khai
đúng các công cụ này là rất quan trọng. Nó có thể ảnh hưởng rất lớn đến thành công
hay thất bại của ngân hàng.
1.5.2. Bài học thứ hai về quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ cho các ngân
hàng thương mại
Tại Baring, ngân hàng lâu đời nhất của Anh, Leeson chuyên đầu cơ vào tỷ
giá hối đoái và mọi chỉ số chứng khoán có liên quan đến tỷ giá hối đoái. Vì muốn
kiếm tiền nhanh và tạo hình ảnh “nhúng tay vào đâu sẽ ra tiền ở đấy” nên Leeson
chủ ý đầu cơ dàn trải và rất mạo hiểm. Một khi kinh doanh thắng thì Leeson báo cáo
lên cấp trên, còn thua thì hạch toán vào tài khoản đen mang ký hiệu 88888. Về
doanh số thì Leeson đạt được mức độ rất lớn, nhưng lãi ròng thì lại rất thấp và càng
về sau càng thua lỗ. Leeson đầu cơ không theo một chiến lược cụ thể nào mà hoàn
toàn theo cảm tính, không trù tính bất cứ biện pháp đảm bảo nào để rồi như một con
bạc khát nước dần sa vào tình thế không còn cách nào khác ngoài việc phải lấy đầu
cơ nuôi đầu cơ, từ chủ động đầu cơ lâm vào tình cảnh buộc phải đầu cơ. Thế nên
Leeson phải làm giả sổ sách, vượt quá quyền hạn cho phép về qui mô đầu cơ và lừa
dối cấp trên. Vào năm 1995, ngân hàng Baring lâu đời nhất nước Anh với lịch sử
trên 200 năm đã sụp đổ. Lý do chính là từ những công việc kinh doanh giả tạo của
Leeson. Lúc bấy giờ rất nhiều câu hỏi từ giới phân tích đã đặt ra như: Làm thế nào
77
mà chỉ một người kinh doanh sản phẩm phái sinh ngoại hối lại có khả năng làm sụp
đổ một đế chế tài chính ngân hàng hùng mạnh như Baring? Trách nhiệm của Ban
quản lý ngân hàng ra sao ? Hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ và hệ thống quản lý
rủi ro tại Baring trên toàn thế giới đã hoạt động ra sao?
Vào thời điểm Baring sụp đổ thì vốn của Ngân hàng chỉ khoảng 600 triệu
USD, trong khi các hợp đồng phái sinh mà Leeson đang mở lên đến 27 tỷ USD
ngày 27/02/1995, trong đó có 7 tỷ USD về hợp đồng phái sinh liên quan đến chỉ số
chứng khoán Nikkei 225, 20 tỷ USD về trái phiếu Chính phủ Nhật và Euroyen. Các
hợp đồng phái sinh chứng khoán của Leeson đều được thoả thuận với mức giá là
điểm của chỉ số Nikkei 225 nằm trong khoản 18.000 đến 20.000 điểm. Sau khi động
đất nổ ra ở thành phố Kobe Nhật Bản vào ngày 17/01/1995, thì chỉ số Nikkei 225
rớt điểm liên tục, có lúc xuống dưới 17.000 điểm và đã đặt trạng thái của Baring
vào phạm vi thua lỗ nặng. Với tình trạng như vậy, Sàn giao dịch tiền tệ quốc tế
Singapore (SIMEX) (là nơi mà Leeson đã mở các giao dịch phái sinh của mình) đã
yêu cầu Baring phải chuyển bổ sung số tiền đặt cọc lên đến 835 triệu USD. Việc
liên tục phải bổ sung số tiền đặt cọc làm cho Baring không thể đáp ứng được, nhưng
nếu không thực hiện theo yêu cầu của SIMEX thì các giao dịch đang thực hiện buộc
phải đóng lại và sẽ làm cho Baring càng lỗ nặng hơn nữa. Đây là nguyên nhân chính
khiến cho Baring nhanh chóng sụp đổ.
Trạng thái giao dịch trong biểu đồ trên thể hiện trạng thái hợp đồng tương lai
mua ròng về chỉ số Nikkei 225 của Baring trước và sau động đất ở Kobe Nhật bản
xảy ra. Biểu đồ trên thể hiện trạng thái của Leeson luôn đi ngược với xu hướng của
chỉ số Nikkei 225. Sau khi động đất xảy ra chỉ số Nikkei 225 rớt giá nhanh, nhưng
Leeson lại liên tục tăng cường mua vào vì anh ta nghĩ rằng những tác động tiêu cực
của động đất ở Nhật bản đã không còn tác động nặng nề đến nền kinh tế Nhật , cho
nên chỉ số Nikkei sẽ lên trở lại. Việc mua vào đỉnh điểm của anh là vào ngày
17/2/1995 với số lượng 19.094 hợp đồng tương lai của chỉ số chứng khoán Nikkei
225. Ban lãnh đạo ngân hàng chỉ cho phép Leeson thực hiện nghiệp vụ kinh doanh
hưởng chênh lệch giá giữa các thị trường (Arbitrage) chứ không được thực hiện
78
kinh doanh tự doanh. Theo sự cho phép này thì Leeson một khi thực hiện mua, ví
dụ 19.094 hợp đồng Nikkei 225 trên thị trường chứng khoán OSE (Thị trường
chứng khoáng Osaka) thì phải bán lại ngay 19.094 hợp đồng Nikkei 225 trên thị
trường SIMEX chỉ nhằm hưởng chênh lệch giá giữa hai thị trường này. Với hoạt
động này, thì trạng thái của Baring hầu như không có rủi ro biến động của chỉ số
Nikkei 225 vì trạng thái mua và bán của Baring đã được cân bằng. Trên thực tế
Leeson lại không bán số hợp đồng trên tại SIMEX mà anh ta lại đi mua tiếp số hợp
đồng đó trên SIMEX vì Leeson khẳng định rằng chỉ số Nikkei không thể xuống liên
tục mà không lên lại. Rủi ro xảy ra ngay sau đó khi mà chỉ số Nikkei rớt xuống
ngoài vùng kỳ vọng 18.500 – 20.000 điểm. Giao dịch mua trên thị trường SIMEX
này là loại giao dịch gian lận và không được phép của ngân hàng. Để che dấu hành
vi này, anh ta đã che dấu vào tài khoản lỗi 88888 ( Error Account). Leeson sử dụng
tài khoản này để che dấu các hành vi mua bán gian lận khác của mình liên quan đến
hợp đồng tương lai trái phiếu chính phủ Nhật, Euroyen và các hợp đồng quyền chọn
khác về Nikkei 225. Bên cạnh những việc mua bán trên, Leeson còn thực hiện bán
các hợp đồng phái sinh hai chiều (straddles). Với loại hợp đồng này, người kinh
doanh ngoại hối có thể vừa mua vừa bán hợp đồng quyền chọn với cùng giá và cùng
thời điểm đáo hạn hợp đồng. Vì là người bán hợp đồng quyền chọn nên Leeson
hưởng một số tiền khá lớn về phí quyền chọn mà người mua hợp đồng quyền chọn
phải trả cho người bán hợp đồng này, tuy nhiên giá thực hiện hợp đồng quyền chọn
phải thấp hơn hoặc cao hơn rất nhiều đối với loại hợp đồng quyền chọn call hay put
option. Trên thực tế Leeson đã bán 37.000 hợp đồng option hai chiều (option
straddles) và anh ta sẽ kiếm lời rất nhiều khi nền kinh tế Nhật ổn định và chỉ số
Nikkei 225 ở vùng kỳ vọng 18.500 – 20.000 điểm. Tuy nhiên, sau ngày động đất tại
thành phố Kobe diễn ra thì chỉ số Nikkei đã liên tục rớt giá không phanh. Hầu hết
các trạng thái mà Leeson đã mở gian lận đều rơi vào tình trạng thua lỗ, tại vì về
nguyên tắc của hợp đồng quyền chọn bán, thì người bán có nghĩa vụ phải thực hiện
hợp đồng quyền chọn còn người mua được quyền thực hiện hợp đồng này (tức là
người mua có thể thực hiện hợp đồng hay không thực hiện). Do đó một khi chỉ số
79
Nikkei liên tục rớt giá xuống thấp hơn vùng giá thực hiện của Leeson 18.500 –
20.000 điểm thì người mua hợp đồng call option có thể huỷ ngang hợp đồng không
thực hiện và chấp nhận mất phí (premium option). Nhưng đối với người mua hợp
đồng put option thì họ buộc Baring phải thực hiện hợp đồng với họ và đây chính là
khoản lỗ khổng lồ đối với Baring khi buộc thực hiện hợp đồng này.
Bài học kinh nghiệm:
Một trong những trục trặc lớn nhất trong hệ thống quản lý rủi ro hoạt động
của ngân hàng trên là việc thiếu sự phân chia rạch ròi trách nhiệm giữa hai bộ phận
trong việc thực hiện giao dịch và hỗ trợ giao dịch. Lesson cùng lúc quản lý cả hai
bộ phận kinh doanh và bộ phận hỗ trợ giao dịch. Chức năng của hai bộ phận này
khác nhau. Bộ phận hỗ trợ giao dịch thực hiện các bước kiểm tra cần thiết nhằm
tránh các giao dịch không được uỷ quyền và hạn chế thấp nhất những gian lận có
thể xảy ra, như thông qua việc xác nhận giao dịch của bộ phận kinh doanh, chấp
nhận thanh toán giao dịch, v.v.. Lợi dụng việc quản lý cả hai bộ phận, Leeson đã
che dấu không báo cáo đến hội sở Baring ở London về tài khoản đen 88888 (Error
Account). Mục đích của tài khoản đen 88888 là nhằm tạm thời ghi nhận những giao
dịch mà đối chiếu bị sai lệch và không khớp giữa các thông tin trong giao dịch.
Những thông tin này rất quan trong trong việc đánh giá rủi ro chung trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng và ảnh hường của rủi ro đó đến thu nhập của ngân
hàng. Do đó hầu hết các giao dịch đầy rủi ro của Leeson ở Singapore hoàn toàn bị
che dấu và Baring London không hề biết đến. Mặt dù, trong báo cáo kiểm toán nội
bộ tháng 8/1994 có cảnh báo về sự cho phép kiêm nhiệm vô trách nhiệm này, nhưng
Ban lãnh đạo ngân hàng vẫn không tích cực loại bỏ.
Ban lãnh đạo ngân hàng không có sự hiểu biết đầy đủ về các sản phẩm phái
sinh khiến cho các giao dịch phái sinh với bản chất đầy rủi ro thì lại càng rủi ro hơn.
Họ có vai trò rất quan trọng trong việc xác lập khẩu vị rủi ro, mức độ chấp nhận rủi
ro nếu thực tế có những biến động bất lợi cho trạng thái giao dịch của ngân hàng,
chiến lược kinh doanh và quá trình kiểm soát rủi ro nhằm đạt được kế hoạch tổng
thể của ngân hàng. Trong các ví dụ trên, chúng ta thấy rõ sự thiếu quan tâm của Ban
80
lãnh đạo ngân hàng Baring trong các giao dịch phái sinh của Leeson ở Singapore.
Họ quan tâm nhiều đến kết quả kinh doanh với các báo cáo lợi nhuận đầy hấp dẫn
hơn là cùng lúc hỗ trợ quản lý loại hình hoạt động kinh doanh đang mang lại nhiều
thành quả này. Ngay cả khi SIMEX yêu cầu Baring bổ sung số tiền ký quỹ cho các
giao dịch ngày càng lớn của Leeson ở Singapore , nhiều bộ phận có chức năng ở
Baring London cũng không phân tích và đánh giá trạng thái kinh doanh hiện tại của
Baring Singapore và họ tin rằng ngân hàng hiện tại đang kinh doanh rất an toàn và
các trạng thái kinh doanh ngoại hối đều đã được cân bằng (hedged) qua các báo cáo
gian lận và che dấu của Leeson. Thực chất họ không muốn can thiệp quá sâu và sợ
làm mất các khoản thu nhập hấp dẫn do giao dịch phái sinh mang lại.
Vốn tự có của ngân hàng là một vấn đề khác mà chúng ta cần phân tích đến.
Đối với trường hợp của ngân hàng Baring, những người quản trị cao cấp nhất của
ngân hàng vẫn luôn tin tưởng rằng các giao dịch của Leeson đang thực hiện một
cách cẩn thận và trạng thái ở mức cân bằng, nên họ không ngần ngại nộp ngay tiền
ký quỹ khi có yêu cầu của SIMEX. Tuy nhiên cho đến khi nộp tiền ký quỹ vượt quá
mức vốn tự có của ngân hàng và khả năng chấp nhận rủi ro cũng như phát hiện ra
các giao dịch ở Baring Singapore là không được cân bằng (naked positions) , các
nhà quản lý không còn cách nào để xoay sở và Baring bị bắt buộc phải đóng các
trạng thái đang mở và thanh lý hợp đồng với phía đối tác. Đây là loại rủi ro về vốn
có liên quan đến việc ký quỹ thực hiện giao dịch phái sinh hay còn gọi là Funding
risk. Nếu không có một quy trình quản trị rủi ro hiệu quả, thì loại rủi ro này rất dễ
xảy ra.
Trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng, ngoài việc đánh giá rủi
ro thị trường, rủi ro tín dụng và xác định hạn mức rủi ro cho từng giao dịch, khách
hàng là các vấn đề mà ngân hàng nên quan tâm . Chính vì việc hầu hết thông tin
chuyển từ Baring Singapore về London là gian lận nên bộ phận quản lý rủi ro thị
trường tại London đã không xác định được rủi ro chung trong các giao dịch của
Leeson. Do đó họ hoàn toàn thụ động khi ứng phó với sự biến động bất lợi và tỷ lệ
ký quỹ ngày càng gia tăng đến mức quá sức chịu đựng của ngân hàng. Bên cạnh đó,
81
ngân hàng Baring cũng thiếu sự quan tâm và đánh giá xem xét hoạt động của phía
đối tác mà ngân hàng ký quỹ. Điều này ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của ngân
hàng. Một khi phía khách hàng hay đối tác mà chúng ta đang giao dịch bị phá sản
thì xem nhưng ngân hàng cũng bị mất số tiền ký quỹ đó. Baring đã không xác lập
được hạn mức giao dịch với từng khách hàng, ngay cả họ cũng không biết hết danh
sách khách hàng mà ngân hàng đang giao dịch. Ngoài ra, Baring cũng đã không quy
định hạn mức giao dịch cho Leeson đối với các giao dịch tự doanh và giao dịch
hưởng chênh lệch giá. Hiện nay hầu hết các ngân hàng đã áp dụng rất hiệu qua việc
xác định hạn mức giao dịch cho khách hàng cũng như từng nhân viên kinh doanh
ngoại hối. Tuy nhiên vần đề đặt ra là quy trình đề đánh giá và xác lập hạn mức cần
được thực hiện một cách thận trọng , hiệu quả và theo đúng quy định của ngân
hàng.
Baring là ngân hàng đã được ra đời trên 200 năm tính đến ngày bị phá sản, cho
nên hệ thống quản lý đã được thiết lập rất chặt chẽ và đầy đủ. Tuy nhiên, trên thực
tế việc thực thi các quy định này thì hầu như rất lỏng lẻo và mang tính hình thức là
chủ yếu. Hệ thống quản lý rủi ro tại Baring mang tính ma trận (matrix system). Các
bộ phận trong ngân hàng quản lý và kiểm soát đan xem lẫn nhau, hệ thống báo cáo
về rủi ro đầy đủ, nhưng hầu như không ai kiểm soát các giao dịch của Leeson trong
suốt thời gian từ năm 1993 đến tháng 1/1995 và các báo cáo của Leeson đều không
trung thực .
82
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong Chương 1, tác giả đã trình bày các khái niệm cơ bản về thị trường
ngoại hối và hoạt động kinh doanh ngoại hối, bao gồm khái niệm, đặc điểm, chức
năng, hình thức hoạt động, xu hướng phát triển, lịch sử phát triển và các loại giao
dịch ngoại hối nói chung trên thị trường ngoại hối thế giới. Qua đó, chúng ta có
được một bức tranh tổng thể làm nền tảng cho các phần phân tích sau tại thị trường
ngoại hối Việt Nam.
Kinh doanh ngoại hối ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động
của nền kinh tế, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, NHTM và các
cá nhân có sở hữu ngoại hối. Vai trò này thể hiện qua việc kinh doanh ngoại hối
giúp cân đối cung cầu ngoại hối, phòng ngừa rủi ro tỷ giá và tìm kiếm lợi nhuận cho
người sở hữu ngoại hối và là một kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ của Ngân hàng
trung ương.
Bên cạnh đó, trong Chương 1 tác giả cũng đề cập đến tổng quan về quản lý
rủi ro trong hoạt động KDNH của các NHTM. Trong đó, bao gồm các phần khái
niệm về rủi ro KDNH, quản lý rủi ro trong KDNH cũng như các giải pháp trong
quan lý rủi ro KDNH tại các NHTM. Có nhiều giải pháp cũng như nhiều quan điểm
khác nhau trên thế giới trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong hoạt động KDNH
của các NHTM. Tuy nhiên, trong Luận án này tác giả chỉ đề cập đến các giải pháp
cơ bản nhằm giúp các NHTM phòng ngừa rủi ro trong KDNH và từ đó tối đa hóa
lợi nhuận trong hạn mức rủi ro mà Ngân hàng có thể chấp nhận được. Các giải pháp
đó bao gồm: sử dụng các giới hạn trạng thái ngoại hối giao dịch qua đêm, cân bằng
trạng thái ngoại hối, sử dụng các kỹ thuật dự đoán tỷ giá, sử dụng các công cụ phái
sinh, sử dụng công cụ VaR – giá trị chịu rủi ro.
Trong phần cuối Chương 1, tác giả đề cập đến một số kinh nghiệm về quản
lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối tại ngân hàng ở một số nước trên thế giới.
83
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM
2.3. KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN TẠI TP.HCM
2.1.1. Tổng quan về hệ thống Ngân hàng tại TP.HCM thời kỳ trước 1990
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng năm 1975, cả nước nói chung
cũng như TP.HCM nói riêng đều thực hiện mô hình ngân hàng một cấp và duy nhất
một hình thức ngân hàng quốc doanh thuộc sở hữu Nhà nước. Cấu trúc NHNN là
một khối thống nhất từ trung ương đến cấp tỉnh, thành phố, quận, huyện, thị xã và
hoạt động chủ yếu theo địa dư hành chính. Tại TP.HCM được hình thành và tồn tại
Chi nhánh NHNN TP.HCM có các ngân hàng trực thuộc ở 18 Quận - Huyện
Chi nhánh ngân hàng Đầu tư và Xây dựng TP.HCM
Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương TP.HCM.
gồm các chi nhánh ngân hàng sau đây:
Các chi nhánh ngân hàng này hoạt động trên cùng một địa bàn chịu sự quản
lý của NHNN thực hiện theo những chỉ tiêu kế hoạch thống nhất được phân bổ từ
NHNN Việt Nam, đồng thời chịu sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng, chính
quyền thông qua đầu mối chi nhánh NHNN TP.HCM. Nền kinh tế Việt Nam thời
kỳ 1975 -1988, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, đứng
trước muôn vàn khó khăn. Đảng và Chính phủ có chủ trương đổi mới về phân phối
lưu thông, thực hiện cải cách giá - lương - tiền, khuyến khích tính tự chủ cho các
doanh nghiệp, xóa bỏ dần từng bước chế độ bao cấp. Nhưng các kết quả đạt được
còn hạn chế, nền kinh tế phát triển không cân đối, giá cả tăng cao, tốc độ lạm phát
phi mã, đời sống kinh tế - xã hội bị ảnh hưởng nghiêm trọng, lòng tin của nhân dân
bị giảm sút. Tình hình trên đòi hỏi phải nhanh chóng thúc đẩy đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế, mạnh dạn chuyển từ cơ chế quản lý kế hoạch tập trung sang cơ chế kinh
tế thị trường. Đối với lĩnh vực ngân hàng, yêu cầu đầu tiên là phải đổi mới hệ thống
tổ chức và hoạt động như tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII đã đề ra.
84
Ngày 26/03/1988 Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 53/HĐBT, theo đó,
NHNN Việt Nam là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng được tổ chức theo hệ thống
NHNN Việt Nam
Các ngân hàng chuyên doanh
ngân hàng hai cấp:
NHNN có các chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và
ngân hàng trong nền kinh tế. NHNN có trụ sở chính tại Hà Nội và các chi nhánh ở
từng tỉnh, thành phố. Trong thời kỳ này, TP.HCM có chi nhánh NHNN khu vực I
Ngân hàng Công thương Việt Nam;
Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam;
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam;
Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam.
và các NHTM chuyên doanh trực thuộc:
Các chính sách mới đã tạo điều kiện cho các NHTM quốc doanh hoạt động
năng động hơn, quan tâm hơn đến các nghiệp vụ tăng cường nguồn vốn, tập trung
thu hút tiền mặt. Mô hình tổ chức hệ thống ngân hàng hai cấp theo Nghị định
53/HĐBT là hoàn toàn phù hợp với điều kiện chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang cơ chế thị trường có sự giám sát của Nhà nước.
Các Pháp lệnh Ngân hàng ra đời đã tiếp tục sửa đổi bổ sung, tạo ra hành lang
pháp lý cho việc phát huy vai trò tự chủ của các NHTM trong việc khai thác mọi
nguồn vốn, đa dạng hóa các dịch vụ, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã
hội của đất nước. Tuy nhiên, các quy định của các Pháp lệnh ngân hàng vẫn chưa
tương xứng với các nhiệm vụ của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn
mới, các yêu cầu về nghiệp vụ ngày càng đa dạng, phức tạp về tính chất lẫn quy
mô, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Với yêu cầu cấp
bách đó, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức Tín dụng đã được Quốc hội
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X thông qua ngày 12/12/1997 và
có hiệu lực kể từ ngày 01/10/1998.
85
Luật NHNN tạo cơ sở cho sự quản lý tập trung và thống nhất toàn bộ hoạt
động ngân hàng về một mối. Qua đó sẽ tạo thuận lợi cho NHNN thực hiện được vai
trò và chức năng của mình là góp phần ổn định giá trị đồng tiền, giám sát hoạt động
an toàn của hệ thống ngân hàng.
2.1.2. Nhu cầu hình thành các thể chế mới
Từ quý II/1990 cho đến hơn một năm sau đó, đã diễn ra quá trình tự điều
chỉnh nhưng vẫn chưa có HTXTD nào được chính thức cấp giấy phép hoạt động
HTXTD theo tinh thần của Pháp lệnh Ngân hàng. Trong tiến trình này, nhiều
HTXTD đã tích cực thu hồi nợ nhanh chóng. Việc huy động vốn cũng tiếp tục
nhưng lại rất ít chủ yếu là từ vận động các “mạnh thường quân”, các cổ đông cũ và
mới để tăng vốn điều lệ. Các HTXTD cũng tự đổi mới bộ máy quản lý, điều hành,
cán bộ nghiệp vụ, bảo đảm cơ cấu hoạt động hợp lý hơn. Song, vấn đề nổi cộm mà
Pháp lệnh Ngân hàng làm cho các HTXTD phải bận tâm và cảm thấy không thể
thực hiện được đó là việc Pháp lệnh quy định “HTXTD thuộc sở hữu tập thể, được
thành lập từ vốn góp của xã viên, huy động các nguồn vốn xã viên và cho xã viên
vay”. Có lẽ đây là câu trả lời cho việc chưa có HTXTD nào được cấp giấy phép,
bởi hoạt động của các HTXTD trong thời gian qua đã giống như của một ngân hàng
cổ phần loại nhỏ.
Vấn đề này đã làm cho phần lớn các HTXTD dần dần đi đến một định hướng
hợp nhất với nhau để chuyển thành ngân hàng cổ phần vì hướng này có nhiều thuận
lợi, như thực tế đã chứng minh, sẽ đưa hoạt động của các HTXTD về đúng với tên
gọi của nó, đồng thời phá vỡ một phần tâm lý hoang mang của những người gửi
tiền.
86
2.1.3. Sự hình thành các Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTM cổ phần được thành lập mới:
Quá trình hình thành hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần như sau:
Trước khi có Pháp lệnh Ngân hàng
Bao gồm ba ngân hàng là Ngân hàng Sài Gòn Công Thương, Ngân hàng
Xuất nhập khẩu Việt Nam, Ngân hàng Cổ phần Phát triển Nhà. Ngân hàng Sài Gòn
Công Thương là NHTM Cổ phần đầu tiên của cả nước được thành lập vào năm
1987, với đầy đủ các chức năng về tiền tệ, tín dụng đối nội và đối ngoại trước khi có
Luật công ty và Pháp lệnh Ngân hàng. Việc cho ra đời các ngân hàng cổ phần trước
khi có Pháp lệnh Ngân hàng chính là sự thử nghiệm của chính sách đổi mới ngành
ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi
mới chuyển tiếp sang kinh tế thị trường, lạm phát còn ở mức cao, môi trường kinh
tế vĩ mô chưa ổn định, hệ thống các tổ chức tín dụng ở nước ta đứng trước các thử
thách nghiêm trọng, hệ thống Hợp tác xã tín dụng bị phá sản. Ba ngân hàng thử
nghiệm trên vẫn vượt qua cơn sóng gió đó và có những bước trưởng thành đáng kể
cho đến ngày nay.
+ Sau khi có Pháp lệnh Ngân hàng
Bao gồm các ngân hàng: Á Châu, Đông Á, Phương Đông, Ngân hàng Việt
Á. Các ngân hàng này đã “thừa hưởng” kinh nghiệm của các tổ chức tín dụng trước
đó, đặc biệt là Ngân hàng Á Châu và Ngân hàng Đông Á, được sinh ra trong một
môi trường vừa được “khử trùng” nên không chịu ảnh hưởng của các cơn bão táp
tín dụng. Thực tế đó đã chứng tỏ sức phát triển mạnh mẽ của hai ngân hàng này cho
đến nay, được xem như là các ngân hàng “tốp trên” của hệ thống các ngân hàng cổ
Các NHTM cổ phần hình thành từ việc hợp nhất các hợp tác xã tín dụng:
phần trên địa bàn TP.HCM.
Thuộc dạng này có 12 ngân hàng cổ phần, chiếm đại đa số các NHTM cổ
phần tại TP.HCM. Đó là các ngân hàng: Nam Á, Đại Nam, Mê Kông, Nam Đô,
87
Việt Hoa, Quế Đô, Phương Nam, Đệ Nhất, Gia Định, Tân Việt, Sài Gòn Thương
Tín, Nông thôn An Bình.
Quá trình hình thành các ngân hàng cổ phần như trên, tuy có mặt tích cực
nhằm giải quyết các hậu quả cũ, nhưng do giải pháp tình thế, nên có những nhược
điểm nhất định. Vốn điều lệ của các ngân hàng khá thấp, trong đó có 7 ngân hàng
có vốn điều lệ không phù hợp, hiệu quả hoạt động trong thời kỳ đầu thành lập nhìn
chung là không cao. Những tồn tại, thiếu sót về nhiều mặt là tất yếu. Trong quá
trình phát triển, chúng ta đã chứng kiến sự phá sản của các ngân hàng như Ngân
hàng Việt Hoa, Ngân hàng Nam Đô, Mê Kông, Đại Nam. Nhưng nhìn chung, thì
các NHTM cổ phần đã có những đóng góp tích cực trong quá trình đổi mới hoạt
động của ngân hàng, là phương tiện để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư
phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng, góp phần thúc đẩy sự cạnh tranh kinh
doanh giữa các ngân hàng để nâng cao chất lượng dịch vụ và kỹ thuật nghiệp vụ.
Cùng với sự phát triển chung của hệ thống ngân hàng thành phố, các NHTM cổ
phần mà đi đầu phải nói là các Ngân hàng ACB, Sacombank, Eximbank, ... đã gây
những ấn tượng tốt cho khách hàng.
2.1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh của các NHTM cổ phần tại TP.HCM
Tại địa bàn TP.HCM, các NHTM cổ phần có thị phần về hoạt động KDNH
lớn như: ngân hàng ACB, Eximbank, Sacombank, Việt Á.
Sau đây là một số chỉ tiêu kinh doanh chính các bốn ngân hàng trên trong
thời gian từ 2007 đến năm 2011:
88
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của ACB
ĐVT: triệu đồng
Năm Tổng Tài sản Tỷ lệ(*) Lợi nhuận
sau thuế Lãi / Lỗ
KDNH
2007 85.391.681 1.759.793 155.140 9%
2008 105.306.130 2.210.682 678.852 31%
2009 167.881.047 2.201.204 422.336 19%
2010 205.102.950 2.334.794 191.104 8%
2011 281.019.319 3.207.841 -161.467 -5%
Tổngcộng 844.701.127 11.714.314 1.285.965 11%
(*): tỷ lệ Lãi/lỗ KDNH trên lợi nhuận sau thuế
Nguồn: Báo cáo tài chính thường niên của ACB qua các năm [12]
Bảng 2.2: Kết quả hoạt động kinh doanh của SACOMBANK
ĐVT: triệu đồng
Năm Tổng Tài sản Tỷ lệ(*) Lợi nhuận
sau thuế Lãi / Lỗ
KDNH
2007 64.572.875 1.397.897 100.815 7%
2008 68.438.569 954.753 510.041 53%
2009 104.019.144 1.670.559 314.108 19%
2010 141.798.738 1.798.560 -169.750 -9%
2011 141.468.717 1.995.857 123.470 6%
Tổng cộng 11% 520.298.043 7.817.626 878.684
(*): tỷ lệ Lãi/lỗ KDNH trên lợi nhuận sau thuế
Nguồn: Báo cáo tài chính thường niên của SACOMBANK qua các năm [12]
89
Bảng 2.3: Kết quả hoạt động kinh doanh của EXIMBANK
ĐVT: triệu đồng
Năm Tổng Tài sản Tỷ lệ(*) Lợi nhuận
sau thuế Lãi / Lỗ
KDNH
2007 33.710.424 463.417 139.257 30%
2008 48.247.821 711.014 634.105 89%
2009 65.448.356 1.132.463 135.409 12%
2010 131.110.882 1.814.639 15.750 1%
2011 183.567.032 3.038.864 -88.156 -3%
Tổngcộng 462.084.515 7.160.397 836.365 12%
(*): tỷ lệ Lãi/lỗ KDNH trên lợi nhuận sau thuế
Nguồn: Báo cáo tài chính thường niên của EXIMBANK qua các năm [12]
Bảng 2.4: Kết quả hoạt động kinh doanh của VIETA BANK
ĐVT: triệu đồng
Năm Tổng Tài sản Tỷ lệ(*) Lợi nhuận
sau thuế Lãi / Lỗ
KDNH
2009 15.816.725 209.995 77.322 37%
2010 24.082.916 266.462 -16.683 -6%
2011 22.513.098 248.061 -137.983 -56%
Tổngcộng 62.412.738 724.518 -77.344) -11%
(*): tỷ lệ Lãi/lỗ KDNH trên lợi nhuận sau thuế
Nguồn: Báo cáo tài chính thường niên của VIETA BANK qua các năm [12]
90
2.4. THỰC TRẠNG VỀ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM
2.4.4. Các nhân tố chung tác động đến rủi ro kinh doanh vàng và ngoại tệ
2.2.1.1. Các yếu tố bên ngoài
Tình hình kinh tế thế giới trong những năm qua có những diễn biến hết sức
phức tạp, trong bối cảnh chung đó, kinh tế Việt Nam không tránh khỏi chịu ảnh
hưởng tiêu cực và gặp phải một số khó khăn, trong đó, nổi lên vấn đề lạm phát tăng
cao trở thành thách thức đối với công tác điều hành vĩ mô từ năm 2011, năm đầu
tiên thực hiện Nghị quyết Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ XI, lạm phát đang trở
thành mối lo hàng đầu của tất cả các quốc gia, khi mà chỉ số chung của các loại
hàng hóa nguyên liệu thô đã tăng 8% chỉ trong vài tháng do ảnh hưởng từ các
chương trình nới lỏng tiền tệ của nhiều nền kinh tế lớn trong năm 2010 và tình hình
bất ổn chính trị tại Bắc Phi, Trung Ðông. Nhiều nước ở châu Á có mức lạm phát cao
nhất trong nhiều năm qua, như Trung Quốc 5%, Ấn Ðộ 8,2%, Hàn Quốc 4,7%,…
Lạm phát tại Việt nam bị ảnh hưởng theo mức lạm phát của các nước trên
thế giới và trở thành nguy cơ lớn đối với nền kinh tế (Biểu đồ 2.1), cán cân thương
mại thâm hụt ở mức cao qua nhiều năm tuy có mức giảm qua các năm (Biểu đồ 2.2)
do giá các nguyên nhiên liệu nhập khẩu tăng mạnh, trong khi xuất khẩu gặp nhiều
khó khăn do nhu cầu tiêu dùng thế giới phục hồi chậm trong giai đoạn khó khăn
mới kể từ 2007-2008, giai đoạn khủng hoảng tài chính bùng phát tại Mỹ và lan rộng
toàn cầu, kéo theo sự sụp đổ đồng loạt của nhiều định chế tài chính khổng lồ, thị
trường chứng khoán khuynh đảo. Năm 2008 cũng chứng kiến nỗ lực chưa từng có
của các nền kinh tế để chống chọi với "bão".
Vấn đề nhập siêu cũng đang gây áp lực lên dự trữ ngoại hối quốc gia, tác
động tới tỷ giá USD/VND, đồng thời gián tiếp làm gia tăng nguy cơ lạm phát đối
với nền kinh tế Việt nam trong các năm qua.
91
25
19.9
20
16.82
15
12.6
11.19
10
6.81
6.34
5
0
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
Biểu đồ 2.1: Tình hình lạm phát qua các năm (%)
Nguồn:Tổng cục Thống kê [14]
2.00
0.78
-
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
(2.00)
(4.00)
(6.00)
(8.00)
(8.85)
(10.00)
(12.44)
(12.12)
(12.00)
(12.38)
(14.00)
(16.00)
(17.05)
(18.00)
Biểu đồ 2.2: Thâm hụt/Thặng dư cán cân thương mại (tỷ USD)
Nguồn: Tính toán của tác giả và tổng hợp từ Tổng cục thống kê [15]
92
Thu hút đầu tư FDI, viện trợ nước ngoài ODA mặc dù chưa có tín hiệu chịu
tác động rõ nét, nhưng về lâu dài sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực do nhiều nước phải thực
hiện các biện pháp thắt chặt chi tiêu, hạn chế đầu tư, nhất là việc Nhật Bản phải tập
trung tài chính để tái thiết đất nước sau thảm họa thiên tai. Trong lĩnh vực tiền tệ, áp
lực tỷ giá gia tăng do tác động của lạm phát, nhập siêu và nhất là sự tồn tại của thị
trường tự do mua bán ngoại tệ và vàng đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động
quản lý Nhà nước về ngoại hối, gây ra tình trạng đầu cơ làm giá trục lợi, làm méo
mó thị trường.
Trong khi lạm phát có thể không còn là câu chuyện chính yếu của năm 2012,
thì tỷ giá lại có thể lại là nhân vật chính. Với việc tiếp tục thực hiện chính sách tiền
tệ chặt chẽ và cắt giảm đầu tư công như năm 2011, mức lạm phát đã quay về mức
6,81% năm 2012. Khó khăn của kinh tế thế giới sẽ khiến cho dòng vốn quốc tế đầu
tư vào Việt Nam có thể sụt giảm. Xuất khẩu khó có thể giữ được mức tăng trưởng
cao như năm nay. Hơn nữa, nguy cơ các quỹ đầu tư nước ngoài, với danh mục
chứng khoán lên tới 7 tỉ USD, rút vốn trong năm 2013 và các năm sau là rất lớn.
Đây sẽ là những áp lực chính đối với cán cân thanh toán của Việt Nam trong những
năm sau.
Hơn nữa, với việc lãi suất huy động VND có xu hướng giảm dần về mức
dưới 10% theo đà giảm của lạm phát, việc găm giữ ngoại tệ sẽ trở nên hấp dẫn hơn.
Với tất cả những khía cạnh trên, tỷ giá trở thành tâm điểm trong năm 2012 và các
năm sau bên cạnh các nội dung tái cấu trúc nền kinh tế. Sự biến động phức tạp của
kinh tế thế giới và nền kinh tế Việt Nam sẽ càng làm cho tỷ giá USD/VND dao
động thất thường và tạo ra nhiều rủi ro cho hoạt động ngoại hối của nền kinh tế.
Tại TP.HCM, trong các năm từ 2007 đến 2012, theo các biểu đồ như bên
dưới từ biểu đồ 2.4 đến 2.7 thể hiện lãi lỗ từ thu nhập trong KDNH của các NHTM
cổ phần đã giảm rõ rệt. Đây là nhóm các NHTM cổ phần có thị phần KDNH lớn
nhất tại TP.HCM (theo số liệu trên bảng báo cáo tài chính thường niên của các
NHTM cổ phần tại TP.HCM) [12]. Xuất phát từ khủng hoảng tài chính tại Mỹ giai
đoạn 2007-2008, các yếu tố của nền kinh tế vĩ mô và vi mô tại Việt nam dần dần bị
93
ảnh hưởng qua các năm như đã phân tích ở trên, từ đó đã và đang gây ra nhiều rủi
ro cho hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần tại TP.HCM và các tổn thất lớn
cho thu nhập của các NHTM này là rất rõ ràng, được thể hiện trên biểu đồ bên dưới.
2.2.1.2. Các yếu tố bên trong
Lạm phát
Trong những năm vừa qua, theo Biểu đồ 2.1, tỷ lệ lạm phát đặc biệt cao
trong những năm từ 2007 đến 2011 trừ năm 2009. Như trong hai năm 2007 và 2008,
tỷ lệ lạm phát cao dẫn đến tình hình kinh tế vĩ mô trong nước bất ổn như mức sống
người dân ngày càng thấp, thất nghiệp cao, niềm tin vào đồng tiền Việt nam ngày
càng thấp, thâm hụt các cân thương mại nặng nề, v.v...Cùng với đó, đây là giai đoạn
nền kinh tế thế giới vừa bước vào cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính mới bắt
nguồn từ Mỹ. Với tình hình khó khăn chung của nhiều nước trên thế giới, các nhà
đầu tư vào thị trường Việt nam rất cần vốn USD rút về nước để bù đắp cho các
khoản lỗ của hoạt động đầu tư trong nước của chính các nhà đầu tư nước ngoài đó.
Các nhà đầu tư nước ngoại này rút vốn thông qua việc bán các khoản đầu tư trên thị
trường chứng khoán, hay bán trái phiếu chính phủ tại Việt nam và mua USD để
chuyển về nước họ. Từ đó, cầu USD tăng đột biến từ người dân trong nước và các
nhà đầu tư nước ngoài làm cho tỷ giá USD/VND tăng lên bất thường.
Đồng thời, tỷ lệ lạm phát cao khiến người dân trong nước “đổ xô” vào vàng
nhằm tìm kênh trú ẩn an toàn để bảo toàn giá trị tài sản của họ. Nguồn cung vàng tại
Việt nam chủ yếu từ nhập khẩu. Từ đó, giá vàng tăng cao cùng với tỷ giá
USD/VND càng tăng cao hơn và gây bất lợi cho các trạng thái đoản ngoại hối của
các NHTM cổ phần tại TP.HCM. Do dự báo được tình hình, trong năm 2007 và
2008 hoạt động KDNH tại các ngân hàng trên tạo được kết quả khả quan.
Trong năm 2010 và 2011 lạm phát tăng trở lại sau khi giảm xuống mức
6,34% năm 2009. Một đặc điểm đáng chú ý của hai năm này là các sàn vàng của
các ngân hàng trong nước đồng loạt đóng cửa theo chỉ đạo của Chính phủ, lãi suất
tiết kiệm vàng bằng 0 làm cho nhu cầu về USD giảm đáng kể. Tuy nhiên, NHNN
cho phép nhập khẩu vàng để kéo chênh lệch giá vàng trong và ngoài nước về một
94
mức hợp lý, việc làm này đã đẩy cầu USD tăng cao. Đồng thời trong thời kỳ lạm
phát cao này, lãi suất cho vay VND cao và lãi suất cho vay USD thấp càng khiến
cho các tổ chức vay USD và tạo ra cầu USD tăng ảo. Cũng như phân tích ở trên
NHNN cũng chưa bình ổn được tỷ giá USD/VND và giá vàng trong nước, tạo cho
chúng biến động phức tạp và gây ra nhiều rủi ro cho hoạt động KDNH của ngân
hàng và đã tạo ra các khoản lỗ cho các ngân hàng theo như Biểu đồ từ 2.4 đến 2.7
bên dưới.
Trong những năm vừa qua từ năm 2007 đến nay, chỉ có hai năm 2009 và
năm 2012 có tỷ lệ lạm phát thấp, giúp cho tỷ giá USD/VND tương đối ổn định như
trong năm 2012 (theo Biểu đồ 2.3) và giá vàng trong nước ít biến động bất thường,
bám theo giá vàng thế giới.
Biểu đồ 2.3: Tỷ giá USD/VND bình quân năm từ năm 2007 đến năm 2012
22,000
21,167
21,000
20,893
20,000
19,513
19,000
18,163
18,000
17,000
16,620
16,000
16,079
15,000
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
Đơn vị tính: đồng/USD
Nguồn: Số liệu tổng hợp từ website www.sbv.gov.vn
Tuy nhiên, tình hình kinh tế trong nước vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề như: giá
USD vẫn tăng trong khi giá USD thế giới giảm, cầu vàng vẫn cao, chênh lệch giữa
giá vàng trong nước và quốc tế chưa giảm về mức hợp lý, dự trữ ngoại hối còn
mỏng, các hoạt động kinh tế nói chung còn trì trệ kéo theo cầu trong nước yếu,…
Từ đó, với các bất ổn trên của nền kinh tế trong nước kéo theo nhiều rủi ro tiềm ẩn
trung và dài hạn cho các hoạt động KDNH của các ngân hàng.
95
678,852
600,000
422,336
400,000
191,104
200,000
155,140
0
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
-161,467
-200,000
Biểu đồ 2.4: Lãi/Lỗ thu nhập trong KDNH (ngoại tệ, vàng) tại Ngân hàng ACB
Đơn vị tính: triệu đồng
Nguồn:Báo cáo tài chính thường niên của Ngân hàng ACB[12]
Biểu đồ 2.5: Lãi/Lỗ thu nhập trong kinh doanh ngoại hối (ngoại tệ và vàng) tại
Ngân hàng EXIMBANK
634,105
600,000
400,000
200,000
135,409
15,750
0
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2012
Năm 2011
-88,156
-200,000
-297,374
-400,000
Đơn vị tính: triệu đồng
Nguồn:Báo cáo tài chính thường niên của Ngân hàng EXIMBANK [12]
96
- Thâm hụt cán cân thương mại
Nhập siêu là nguyên nhân chính dẫn tới thâm hụt cán cân vãng lai trong
nhiều năm gần đây (theo Biểu đồ 2.2). Tỷ lệ thâm hụt cán cân vãng lai/GDP năm
2007 là -9,87%, năm 2008 là -11,93% , năm 2009 là -6,67% và năm 2010 là –
0,73%; trong khi đó tỷ lệ nhập siêu/GDP luôn ở mức cao từ khoảng 14- 20% GDP
trong thời gian này. Cán cân vốn và tài chính liên tục thặng dư là nguồn tài trợ chủ
yếu thâm hụt cán cân vãng lai. Mặc dù vậy, dưới áp lực nhập siêu cao, cán cân
thanh toán tổng thể vẫn bị thâm hụt, cùng với yếu tố tâm lý găm giữ ngoại tệ đã dẫn
tới mất cân đối cung - cầu ngoại tệ theo hướng dư cầu ngoại tệ và gây áp lực tăng tỷ
giá.
Nhập siêu là nguyên nhân chính làm tăng nguy cơ thâm hụt cán cân thanh
toán và từ đó tạo áp lực giảm dự trữ ngoại hối nhà nước do NHNN phải bán ngoại
tệ để can thiệp trên thị trường ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá. Trong các năm 2009
và 2010, do cán cân thanh toán thâm hụt lớn, NHNN đã phải bán ngoại tệ cho các
TCTD, dẫn đến dự trữ ngoại hối nhà nước sụt giảm tương đối.
Trong cán cân thương mại của nước ta, nhập khẩu vàng là một trong những
nguyên nhân làm cho tình hình nhập siêu chưa được cải thiện đáng kể, mặc dù cán
cân thương mại năm 2012 có thặng dư nhỏ. Cầu vàng cao khiến cho cầu ngoại tệ
tăng và làm cho tỷ giá USD/VND luôn có xu hướng tăng; từ đó làm cho cung cầu
về ngoại tệ và vàng thường xuyên ở trạng thái mất cân đối. Cuối cùng, các vấn đề
này đã tạo nên nhiểu tổn thất cho hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần tại
TP.HCM như minh họa trong các biểu đồ từ 2.4 đến 2.7.
97
Biểu đồ 2.6: Lãi/Lỗ thu nhập trong kinh doanh ngoại hối (ngoại tệ và vàng) tại
Ngân hàng SACOMBANK
600,000
510,041
400,000
314,108
200,000
123,470
100,815
0
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
-169,750
-200,000
Đơn vị tính: triệu đồng
Nguồn:Báo cáo tài chính thường niên của Ngân hàng SACOMBANK [12]
98
Biểu đồ 2.7: Lãi/Lỗ thu nhập trong kinh doanh ngoại hối (ngoại tệ và vàng) tại
Ngân hàng VIỆT Á
150,000
100,000
84,273
77,322
50,000
0
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2011
Năm 2010
-16,683
-50,000
-100,000
-137,983
-150,000
Đơn vị tính: triệu đồng
Nguồn:Báo cáo tài chính thường niên của Ngân hàng VIỆT Á [12]
Tình trạng đôla hóa nền kinh tế
Trong những năm qua, tình hình đôla hóa tại Việt nam có xu hướng giảm rõ
nét (theo biểu đồ 2.8). Cùng với niềm tin của người dân vào đồng tiền Việt nam
ngày càng tăng, các chính sách và biện pháp hành chính của Chính phủ đang tỏ ra
hiệu quả và góp phần làm hạn chế việc sử dụng USD trong thanh toán, niêm yết giá,
giảm đáng kể các đối tượng được phép vay bằng ngoại tệ (đặc biệt là USD). Các
hoạt động trên góp phần ổn định tỷ giá USD/VND và giảm các khoản đầu cơ vào tài
sản là vàng.
Tuy nhiên, nền kinh tế Việt nam vẫn còn tồn tại rất nhiều hạn chế như đã
phân tích trong phần lạm phát ở trên và các phần phân tích ở các mục sau. Cho nên
các rủi ro tiềm ẩn trong trung và dài hạn vẫn còn đó, việc “yêu thích” USD và vàng
của người dân vẫn còn đó, tình trạng đôla hóa chưa thể chấp dứt được. Từ đó, việc
điều hành các chính sách vĩ mô của NHNN gặp không ít khó khăn, việc quản lý thị
99
trường ngoại hối trong nước vẫn luôn là một ẩn số và rất khó tìm được sự đồng
thuận lớn từ phía người dân cũng như các ngân hàng. Cho nên, các rủi ro đối với
hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần tại TP.HCM vẫn còn tồn tại trong thời
gian vừa qua cũng như sắp tới.
19.5%
19.0%
19.0%
17.0%
16.0%
16.0%
15.0%
13.0%
12.4%
10.0%
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2013
Biểu đồ 2.8: Tỷ lệ đôla hóa (Tiền gửi bằng ngoại tệ/M2) (%)
Nguồn:Tác giả tổng hợp
Trạng thái ngoại tệ
Trong các năm qua, theo Báo cáo của NHNN [10], các ngân hàng TMCP tại
TP.HCM vẫn duy trì trạng thái ngoại tệ trong quy định của NHNN. Tuy nhiên, việc
quy định trạng thái ngoại tệ cao trong thời gian trước thời điểm thông tư
07/2012/TT-NHNN ngày 20/03/2012 do NHNN ban hành có hiệu lực đem lại nhiều
rủi ro cho hoạt động KDNH của các ngân hàng. Nhằm tăng lợi nhuận, các ngân
hàng chấp nhận duy trì trạng thái đoản hay trường đến mức tối đa của trạng thái
ngoại tệ mà NHNN cho phép, thậm chí các ngân hàng còn duy trì trạng thái ngoại tệ
trong ngày cao hơn mức quy định 30%, mức quy định về trạng thái ngoại tệ cuối
ngày của NHNN. Việc đáp ứng quy định của NHNN theo cách thức đối phó càng
tạo ra nhiều rủi ro cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Ngoài ra, quy định
100
về trạng thái ngoại tệ của NHNN trước ngày thông tư 07 có hiệu lực tạo ra tình
trạng đôla hóa khó kiểm soát và tạo ra sự biến động của tỷ giá ngoại tệ càng phức
tạp khi cầu ngoại tệ có xu hướng cao hơn cung ngoại tệ đặc biệt vào cuối năm. Sau
ngày thông tư 07 có hiệu lực, tình trạng đôla hóa giảm đi rõ nét, tuy lợi nhuận về
kinh doanh ngoại hối các NHTM cổ phần lớn tại TP.HCM giảm đi rõ rệt (theo các
biểu đồ từ 2.4 đến 2.7 bên trên). Phần lỗ trong KDNH này chủ yếu xuất phát từ kinh
doanh vàng, nhằm đáp ứng thanh khoản vàng để tất toán các tài khoản huy động
vàng của khách hàng theo đúng quy định của NHNN. Về tổng thể, việc ban hành
thông tư 07 giúp các NHTM cổ phần tại TP.HCM dễ dàng hơn trong quá trình kiểm
soát hoạt động KDNH, giảm đáng kể rủi ro cho hoạt động này với trạng thái ngoại
tệ trong mức +/-20%.
Hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài tại các NHTM cổ
phần tại TP.HCM, đặc biệt là trong suốt thời gian từ 2007-2010 khi mà giá vàng
trong nước chênh lệch so với giá vàng trên thế giới và vàng miếng SJC chưa thuộc
sự quản lý của NHNN, ảnh hưởng rất lớn đến trạng thái ngoại tệ trong ngày và có
khi trạng thái ngoại tệ vượt quá ngưỡng quy định +/-30%/vốn tự có của ngân hàng
(theo Báo cáo của các NHTM [10]). Đây là một trong những nguyên nhân cho việc
suy giảm lợi nhuận trong KDNH tại các NHTM cổ phần có thị phần KDNH lớn tại
TP.HCM như ACB, Sacombank, Việt Á và Eximbank.
Cơ chế điều hành tỷ giá
Trên thực tế, theo cơ chế điều hành tỷ giá trong những năm gần đây, NHNN
đang sử dụng công cụ “tỷ giá bình quân liên ngân hàng” và “biên độ” để kiểm soát
tỷ giá trên thị trường. Mặc dù gọi là tỷ giá bình quân liên ngân hàng nhưng NHNN
thường ấn định tỷ giá này theo mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, thường là mang tính
dài hạn. Vì thế đôi khi có một “độ lệch” nhất định so với thực tế biến động ngắn hạn
trên thị trường. Với cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay, thị trường ngoại hối đã xuất
hiện hai tỷ giá, đó là tỷ giá chính thức được các NHTM niêm yết, mua bán và tỷ giá
phi chính thức trên thị trường tự do; đồng thời sự mất cân đối cung cầu ngoại tệ
luôn có thể xảy ra trong năm.
101
Trong năm 2007, 2008 NHNN điều hành tỷ giá USD/VND tương đối ổn
định, kiểm soát chặt chẽ các giao dịch ngoại hối và giá vàng biến động không nhiều
(Biểu đồ 2.9 và biểu đồ 2.10 bên dưới). Điển hình như trong năm 2008, NHNN thay
đổi biên độ tỷ giá USD/VND ba lần vào các ngày 10/3/2008 (tăng từ +-0,75% lên
+-1%), ngày 27/06/2008 (tăng từ +-1% lên +-2%), ngày 7/11/2008 (tăng từ +-2%
lên +-3%) và tỷ giá tăng bình quân từ 16.079 lên 16.620 (Biểu đồ 2.3). Với việc
điều hành và kiểm soát các giao dịch ngoại hối trên thị trường, NHNN đã có cơ chế
tỷ giá USD/VND và điều tiết thị trường vàng hợp lý, đã không tạo ra những rủi ro
đáng kể cho các giao dịch KDNH của các NHTM cổ phần tại TP.HCM, tuy có
những thời điểm trong năm tỷ giá tăng đột biến và giá vàng biến động mạnh.
Biểu đồ 2.9: Giá vàng thế giới bình quân qua các năm
1,500
1,379
1,289
1,300
1,171
1,100
921
900
746
707
700
500
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
Đơn vị tính: USD/Oz
Nguồn:GoldPrice.org
102
Biểu đồ 2.10: Giá vàng SJC bình quân qua các năm
40.0
35.3
35.0
33.5
30.0
28.1
25.0
20.8
20.0
15.6
14.3
15.0
10.0
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
Đơn vị tính: triệu đồng
Nguồn: www.SJC.com.vn và số liệu tổng hợp của tác giả
Năm 2009 là năm có nhiều biến động cả về ngoại tệ và vàng. Tỷ giá tăng
nhiều, bình quân 1 USD/VND tăng từ 16.620 lên 18.160 (Biểu đồ 2.3), chênh lệch
của giá USD/VND giữa thị trường chính thức và thị trường từ do cao thậm chí có
lúc lên trên 10%, giá vàng biến động mạnh cả trong và ngoài nước, cầu ngoại tệ
luôn lớn hơn cung ngoại tệ (chủ yếu về ngoại tệ là USD), niềm tin đồng tiền VND
giảm mạnh, cán cân thanh toán còn thâm hụt nặng,… Đứng trước tình hình nền kinh
tế trong nước có nhiều chuyển biến xấu, NHNN đã triển khai đồng bộ nhiều biện
pháp như quyết định mở rộng biên độ tỷ giá USD/VND từ +/-3% lên +/-5% nhằm
giảm bớt sự chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và thị trường chính thức, kiểm
soát chặt chẽ hoạt động KDNH của các TCTD nhằm bảo đảm các TCTD thực hiện
nghiêm túc các quy định quản lý ngoại hối về thực hiện niêm yết và giao dịch, tăng
cường công tác tuyên truyền ổn định tâm lý người dân và triển khai các biện pháp
tạo sự đồng thuận giữa các NHTM, thống nhất tăng lãi suất huy động USD và hạ
103
mặt bằng lãi suất cho vay ngoại tệ nhằm khắc phục tình trạng mất cân đối cung -
cầu ngoại tệ.
Các chính sách điều hành trên của NHNN được cho là kịp thời và phù hợp
với diễn biến của thị trường. Tuy nhiên, sự chênh lệch quá lớn giữa tỷ giá chính
thức và thị trường tự do là cơ hội không thể bỏ qua cho giới đầu cơ tìm kiếm lợi
nhuận từ chênh lệch giá này. Một khi đầu cơ xuất hiện, tỷ giá USD/VND lại càng
diễn biến phức tạp hơn và càng tạo ra nhiều rủi ro cho hoạt động KDNH của các
NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM. Theo biểu đồ về lãi/lỗ trong KDNH của các
NHTM tại các biểu đồ từ 2.4 đến 2.7, lợi nhuận các ngân hàng đều giảm đáng kể,
thậm chí Eximbank giảm lợi nhuận trên 50% của KDNH trong năm 2009 so với
năm 2008.
Trước tình hình giá USD tự do tăng mạnh dưới ảnh hưởng của cơn sốt giá
vàng, NHNN đã lập tức công bố cho nhập khẩu vàng nhằm giảm sức ép lên cung
vàng; qua đó hạ bớt sức nóng của đồng USD trên thị trường tự do. Thêm vào đó,
NHNN quyết định can thiệp trực tiếp và mạnh tay vào tỷ giá khi điều chỉnh tỷ giá
USD/VND bình quân liên ngân hàng tăng 5,44% từ mức 17.034 ngày 25/11/2009
lên 17.961 áp dụng cho ngày 26/11/2009; thu hẹp biên độ tỷ giá giao dịch
USD/VND từ mức ±5% xuống mức ±3% và tăng lãi suất cơ bản tiền đồng lên 8%.
NHNN cũng cam kết hỗ trợ bán ngoại tệ cho các TCTD có trạng thái ngoại tệ từ âm
5% trở xuống. Tuy nhiên cùng với rủi ro tỷ giá và với cơn sốt vàng trên thị trường
trong thời gian này, các ngân hàng gặt hái được nhiều lợi nhuận và cũng bị nhiều
tổn thất cho lợi nhuận của ngân hàng, cuối cùng là lợi nhuận các NHTM cổ phần tại
TP.HCM đều bị giảm.
Trong năm 2010, nền kinh tế trong nước vẫn còn nhiều khó khăn như: lạm
phát cao ở mức 2 con số, nhập siêu chưa giảm đáng kể, cầu USD tăng mạnh, cung
USD còn yếu, chênh lệch tỷ giá USD/VND giữa thị trường chính thức và thị trường
tự do vẫn còn cao, nhu cầu mua vàng tăng mạnh, … Đứng trước tình hình như vậy,
để bình ổn TTNH, NHNN đã thực thi rất nhiều chính sách, biện pháp như điều
chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng, kiểm soát mạnh TTNH cuối năm 2009, tăng
104
nguồn cung USD trên thị trường qua các biện pháp hành chính như kết hối ngoại tệ,
giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ, mở rộng đối tượng được vay
ngoại tệ. Thêm vào đó, việc chấm dứt hoạt động của các sàn vàng, lãi suất tiết kiệm
bằng vàng tại các NHTM gần như 0% cộng với một lượng vàng khá lớn tại các
NHTM đã khiến cho giá vàng trong nước đã giảm (thậm chí thấp hơn giá vàng thế
giới) và khiến cho hoạt động đầu tư vào vàng suy giảm. Với các biện pháp kịp thời
này của NHNN đã góp phần giảm sức ép đối với cầu USD, tăng nguồn cung vàng
miếng, giảm chênh lệch tỷ giá USD/VND giữa hai thị trường, kéo giá vàng trong
nước và thế giới về sát nhau.
Sau khi đóng cửa sàn vàng năm 2010, nhà nước độc quyền sản xuất vàng
miếng SJC kể từ tháng 5/2012, ngừng cho vay vàng miếng từ tháng 4/2011 và
ngừng huy động vàng miếng kể từ tháng 11/2012, tỷ giá USD/VND tăng thêm 9,3%
từ mức 18.932 lên mức 20.693, đáp ứng đủ các nhu cầu mua USD của doanh nghiệp
có nhu cầu hợp pháp, tỷ giá USD/VND dần đi vào ổn định, đầu cơ vàng miếng
không còn xuất hiện như trước, niềm tin của người dân vào VND tăng lên, v.v..
trong năm 2011 và 2012.
Tuy các chính sách trên của NHNN là kịp thời và hợp lý trong giai đoạn
ngắn hạn, về lâu dài các biện pháp này tỏ ra không hiệu quả và mang nặng tính hành
chính đồng thời ngày càng xa các quy tắc của thị trường; từ đó, rủi ro về biến động
tỷ giá, giá vàng trong nước, cũng như chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế
cũng như chênh lệch tỷ giá USD/VND giữa thị trường chính thức và thị trường phi
chính thức không giải quyết được một cách triệt để.
Hơn nữa, ngoài các rủi ro tỷ giá ngoại tệ và giá vàng tiềm ẩn cho hoạt động
KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM như đã phân tích ở trên, cơ hội kinh doanh
đã và đang giảm đi đáng kể và rủi ro chính sách của NHNN là đang hiện hữu như
việc tất toán các tài khoản huy động vàng mà các NHTM đang thực hiện làm giảm
lợi nhuận cho hoạt động KDNH của các ngân hàng rất nhiều theo Biểu đồ từ 2.4
đến 2.7 ở trên.
105
- Các hợp đồng giao dịch phái sinh ngoại hối
Hầu hết các giao dịch phái sinh ngoại tệ và vàng mà các NHTM cổ phần
TP.HCM thực hiện đều đáp ứng cho nhu cầu mua bán sản phẩm phái sinh ngoại hối
từ phía khách hàng đa số là doanh nghiệp (theo các Bảng 2.5 đến 2.11).
Bảng 2.5: Số lượng khách hàng và TCTD khác giao dịch kỳ hạn của Eximbank
Đối tượng Năm
2007 Năm
2008 Năm
2009 Năm
2010 Năm
2011
Khách hàng 23 151 1.128 334 72
TCTD khác 14 16 20 23 32
Tổng cộng 37 167 1.148 357 104
Nguồn: Báo cáo giao dịch tiền tệ tại EXIMBANK qua các năm [12]
Bảng 2.6: Giá trị giao dịch kỳ hạn với khách hàng và với TCTD khác của
Eximbank ĐVT: triệu VNĐ
Năm Giao dịch
với khách hàng Giao dịch
với TCTD khác
2007 1.067.690,62 784.482,80
2008 5.484.465,67 732.100,26
2009 12.227.412,34 3.023.000,11
2010 3.471.789,64 1.868.448,50
2011 2.448.703,44 8.359.126,37
Tổng cộng 24.700.061,71 14.767.158,04
Nguồn: Báo cáo giao dịch tiền tệ tại EXIMBANK qua các năm [12]
Bảng 2.7: Số lượng khách hàng và TCTD khác giao dịch hoán đổi của
Eximbank
Đối tượng Năm
2007 Năm
2008 Năm
2009 Năm
2010 Năm
2011
Khách hàng 5 157 881 78 65
TCTD khác 12 16 13 21 23
Tổng cộng 17 173 894 99 88
Nguồn: Báo cáo giao dịch tiền tệ tại EXIMBANK qua các năm [12]
106
Bảng 2.8: Giá trị giao dịch hoán đổi với khách hàng và với TCTD khác của
Eximbank
ĐVT: triệu VNĐ
Năm Giao dịch
với khách hàng Giao dịch
với TCTD khác
2.059.108,00 2007 33.803.563,57
1.869.207,00 2008 17.569.924,55
6.009.091,00 2009 14.186.828,26
882.882,00 2010 12.122.545,41
4.001.260,00 2011 40.789.533,33
Tổng cộng 14.821.548,00 118.472.395,12
Nguồn: Báo cáo giao dịch tiền tệ tại EXIMBANK qua các năm [12]
Bảng 2.9: Giá trị giao dịch quyền chọn với TCTD khác của Eximbank
ĐVT: USD (quy đổi USD)
Quyền chọn ngoại tệ
Quyền chọn mua Quyền chọn bán Năm Quyền chọn nội tệ
(Bán Quyền chọn
mua ngoại tệ/VNĐ)
Mua
Quyền
chọn mua Bán
Quyền
chọn mua Mua
Quyền
chọn bán Bán
Quyền
chọn bán
0 1.098.950 2.197.900 0 2007 0
145.100 145.100 755.500 148.700 2008 0
0 0 0 0 2009 0
269.950 269.950 136.500 136.500 2010 0
341.600 341.600 266.700 0 2011 0
0 Tổngcộng 756.650 756.650 2.257.650 2.483.100
Nguồn: Báo cáo giao dịch tiền tệ tại EXIMBANK qua các năm [12]
107
Bảng 2.10: Lời / Lỗ từ giao dịch phái sinh ngoại tệ của Eximbank
ĐVT: triệu đồng
Năm 2007 2008 2009 2010 2011
115.618 503.357 467.857 106.886 158.033 Lời / lỗ
Nguồn: Báo cáo tài chính thường niên của EXIMBANK qua các năm [12]
Bảng 2.11: Giá trị giao dịch quyền chọn vàng tại ACB
ĐVT: triệu đồng
MUA BÁN
Năm
Quyền chọn
mua Quyền chọn
bán Quyền chọn
mua Quyền chọn
bán
2007 0 0 0 0
2008 0 0 0 0
2009 0 -1.524 -587.901 415.232
2010 16.019.178 -1.823.078 -2.540.355 17.244.525
2011 32.619.532 -5.859.683 -32.315.525 30.926.168
Tổng cộng 48.638.710 -7.684.285 -35.443.781 48.585.925
Nguồn: Báo cáo tài chính thường niên của ACB qua các năm [12]
Khách hàng của ngân hàng là các tổ chức/cá nhân mua hay bán các sản phẩm
phái sinh ngoại tệ hay vàng nhằm phòng ngừa rủi ro cho hoạt động kinh doanh
thường xuyên của họ có liên quan đến ngoại tệ hay nhằm đầu cơ trạng thái vàng hay
ngoại tệ. Sau khi tiếp nhận các giao dịch từ phía khách hàng, ngân hàng phần lớn là
thực hiện đối ứng ngay với các đối tác ngân hàng nước ngoài nhằm hưởng chênh
lệch giá, do thị trường mua bán sản phẩm phái sinh ngoại hối tại Việt nam chưa
phát triển đủ để các ngân hàng sau khi nhận lệnh mua bán của khách hàng có thể
bán hay mua lại với một khách hàng khác hay cân đối trạng thái giao dịch của
khách hàng với Trung tâm giao dịch Quốc gia về sản phẩm phái sinh ngoại hối như
các nước.
108
Ngoài việc thực hiện môi giới cho khách hàng về các giao dịch phái sinh
ngoại hối, các NHTM cổ phần tại TP.HCM hầu như rất hiếm khi thực hiện mua hay
bán các giao dịch phái sinh ngoại hối cho chính các trạng thái ngoại hối của ngân
hàng mình để phòng ngừa rủi ro của tỷ giá ngoại tệ hay giá vàng. Chính vì lẽ đó,
trong những năm vừa qua, khi mà tỷ giá USD/VND và giá vàng ngày càng biến
động phức tạp, đồng thời rủi ro chính sách từ phía NHNN ngày càng hiện hữu, lợi
nhuận từ mảng KDNH của các ngân hàng ngày càng giảm, đặc biệt là bị lỗ trong
năm 2011 và năm 2012 vừa qua tại nhiều NHTM cổ phần có thị phần giao dịch lớn
trong KDNH và có trụ sở chính tại TP.HCM như trong Biểu đồ từ 2.4 đến 2.7 ở
trên.
2.2.2. Các nhân tố riêng tác động đến rủi ro kinh doanh vàng và ngoại tệ
Khi ngân hàng thực hiện mua hộ và bán hộ cho khách hàng để thu phí thì rủi
ro hối đoái không phát sinh. Một khi ngân hàng tiến hành mua bán ngoại hối cho
khách hàng hay cho chính ngân hàng nhằm mục tiêu kiếm lợi nhuận do tỷ giá ngoại
tệ hay giá vàng biến động, ngân hàng đang mở trạng thái ngoại hối trường hay
đoản, khi đó rủi ro ngoại hối sẽ xảy ra khi tỷ giá ngoại tệ hay giá vàng biến động
ngược với trạng thái ngoại hối mà ngân hàng đang nắm giữ.
Khía cạnh thứ hai của rủi ro hối đoái mà các Ngân hàng phải đối mặt là sự
không cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ đối với từng loại ngoại tệ hay vàng.
Tài sản có bằng ngoại tệ hay vàng là các khoản mục trên bảng tổng kết tài sản như
các khoản cho vay bằng ngoại tệ hay vàng, các chứng khoán bằng ngoại tệ, tiền gửi
bằng ngoại tệ hay vàng ở Ngân hàng khác, tiền mặt bằng ngoại tệ, vàng, v.vv... Tài
sản nợ bằng ngoại tệ hay vàng là các khoản mục trên bảng tổng kết tài sản như phát
hành các chứng chỉ tiền gửi bằng ngoại tệ/vàng, phát hành trái phiếu châu Âu, và
các hình thức huy động vốn khác bằng ngoại tệ hay vàng.
Do tính chất toàn cầu hóa, thị trường tài chính đã tạo ra những khả năng to
lớn để tăng nguồn vốn của các Ngân hàng bằng các ngoại tệ khác nhau. Đây là lợi
thế to lớn không những đa dạng hóa nguồn vốn và sử dụng vốn bằng các ngoại tệ,
109
mà còn tạo ra những cơ hội để tăng được lợi tức đầu tư và giảm được chi phí huy
động vốn. Điển hình như tại NHTM Việt Á, vào ngày 5/10/2010, chúng ta có một
bảng cân đối tài sản rút gọn như sau:
Tài sản có Tài sản nợ
Tín dụng cho các công ty Việt Nam: Phát hành chứng chỉ tiền gửi: 2.000 tỷ
1.000 tỷ VND VND
(bằng VND, kỳ hạn 1 năm) (bằng VND, kỳ hạn 1 năm)
Tín dụng cho các công ty nước ngoài:
1.000 tỷ VND
(bằng USD, kỳ hạn 1 năm)
Cộng: 2.000 tỷ VND Cộng: 2.000 tỷ VND
Trong bảng cân đối này, toàn bộ tài sản nợ của Ngân hàng là bằng VND,
nhưng chỉ đầu tư 50% vào tài sản có bằng VND và 50% còn lại là đầu tư bằng
USD. Vì kỳ hạn của tài sản nợ và tài sản có đều là 1 năm, cho nên thời lượng trung
bình của tài sản có và tài sản nợ là cân xứng với nhau, nhưng trạng thái ngoại tệ của
các đồng tiền lại không cân xứng với nhau. Mức lãi suất trả cho chứng chỉ tiền gửi
bằng VND, kỳ hạn 1 năm là 8%; mức lãi suất tín dụng bằng VND, kỳ hạn 1 năm,
không có rủi ro (tín phiếu kho bạc) chỉ là 10%. Chúng ta thấy rằng, nếu Ngân hàng
đầu tư vào tài sản có chỉ bằng đồng bản tệ, thì chỉ được hưởng mức chênh lệch lãi
suất đầu vào đầu ra là +2% (10% - 8%). Nhằm đơn giản trong quá trình tính toán,
chúng ta giả sử rằng, khoản tín dụng cho các công ty nước ngoài bằng USD không
có rủi ro, mức lãi suất là 15%/năm. Muốn đầu tư cho các công ty nước ngoài bằng
USD, trước hết Ngân hàng phải chuyển hóa 50% của 2.000 tỷ VND thành USD
Tại thời điểm đầu năm, bán 1.000 tỷ VND để lấy USD. Tỷ giá giao ngay lúc
theo tỷ giá giao ngay, và tiến hành cho vay theo các bước giao dịch như sau:
bấy giờ là: 1 USD = 20.385 VND, ta có: 1.000.000 : 20.385 ≈ 49,06 triệu
USD.
110
Cho các công ty nước ngoài vay 49,06 triệu USD, kỳ hạn một năm, lãi suất
Tại thời điểm cuối năm (tín dụng đến hạn) thu được cả gốc lẫn lãi là:
15%/năm.
Chuyển hóa số lượng 56,42 triệu USD thu được thành VND theo tỷ giá giao
49,06 (1 + 0,15) = 56,42 triệu USD.
ngay tại thời điểm cuối năm. Tỷ giá giao ngay tại thời điểm cuối năm 2010
không thay đổi, tức là 1 USD = 20.385 VND, số lượng VND thu được là:
56,42 x 20.385 = 1.150 tỷ VND.
Tỷ lệ lợi tức đầu tư là:
(1.150 - 1.000)/l .000 = 0,15 hay 15%.
Tỷ lệ lợi tức đầu tư cho cả danh mục tài sản có được tính là:
(0,5 x 0,10) + (0,5 x 0,15) = 0,125 hay 12,5%.
Đến đây, chúng ta thấy rằng, mức lợi tức đầu tư của toàn bộ danh mục tài sản
có lớn hơn 4,5% (12,5% - 8%) so với chi phí huy động vốn, và lớn hơn 2,5% so với
đầu tư bằng nội tệ (VND).
Tuy nhiên, nếu giá trị của USD tăng so với VND vào thời điểm cuối năm, thì
tỷ lệ lợi tức từ khoản cho vay bằng USD sẽ còn cao hơn; và ngược lại, nếu giá trị
của USD giảm so với VND vào thời điểm cuối năm, thì tỷ lệ lợi tức từ khoản cho
vay bằng USD sẽ giảm, cho dù mức lãi suất cho vay vẫn không thay đổi là
15%/năm. Giả sử tỷ giá thay đổi từ 1 USD = 20.385VND tại thời điểm đầu năm
giảm còn 1 USD = 19.181VND tại thời điểm cuối năm, chúng ta tính số lượng
VND thu được cả gốc và lãi là:
56,42 x 19.181 = 1.082 tỷ VND
Tỷ lệ lợi tức của khoản cho vay bằng USD sẽ là:
(1.082 - 1.000)/1.000 = 0,082 hay 8,2%/năm.
Tỷ lệ lợi tức cho cả danh mục tài sản có là:
(0,5 x 0,10) + (0,5 x 0,082) = 0,091= 9,1%/năm.
Như vậy, Ngân hàng thực sự chỉ còn lời 1,1% (9,1% - 8%), hay mức chênh
lệch giữa lãi suất cho vay hỗn hợp và lãi suất huy động vốn là 1,1%; đồng thời, kết
111
quả đầu tư thông qua bằng ngoại tệ là thấp hơn nhiều so với mua trái phiếu kho bạc
bằng nội tệ.
Nguyên nhân làm cho Ngân hàng không có lãi nhiều là do USD giảm giá so
với VND, đã làm gần như triệt tiêu sự hấp dẫn bởi mức lãi suất cho vay bằng USD
cao hơn so với đồng nội tệ. Kết quả là, rủi ro do tỷ giá biến động có thể làm triệt
tiêu thu nhập, thậm chí là lỗ đối với một danh mục tài sản bằng ngoại tệ.
Ngược lại, nếu USD tăng giá so với VND, ví dụ từ 1 USD = 20.385 VND
tăng lên 1 USD = 20.955 VND, thì lượng VND gốc và lãi thu được trong trường
hợp này là: 56,42 x 20.955 = 1.182 tỷ VND.
Mức lợi tức tương ứng là 18,2%/năm.
Trong trường hợp này, Ngân hàng thu được lợi tức kép từ cho vay bằng
USD, bao gồm lãi suất cho vay và phần lên giá của USD so với VND sau một năm
đầu tư. Mức lợi tức chung cho cả danh mục đầu tư sẽ là:
(0,5 x 0,10) + (0,5 x 0,182) = 0,141 = 14,1%/năm
Trên thực tế, Ngân hàng không thể biết trước được tỷ giá giao ngay
USD/VND biến động như thế nào tại thời điểm tín dụng đến hạn, trong khi đó trạng
thái ngoại tệ của Ngân hàng là trường ròng 1.000 tỷ quy VND (hay 49,06 triệu
USD) chịu rủi ro ngoại tệ. Như chúng ta đã phân tích phần trên, 50% khoản tín
dụng bằng USD có thể có mức lợi tức 18,2% nếu USD lên giá từ 1 USD =
20.385VND lên 1 USD = 20.955VND; ngược lại, mức lợi tức tín dụng bằng USD
cũng chỉ có thể là 8,2% nếu USD giảm giá xuống 1 USD = 19.181VND.
Trong thời gian vừa qua từ năm 2007 đến 2012, hầu hết các hoạt động kinh
doanh vàng tại các NHTM cổ phần tại TP.HCM được thực hiện dưới hình thức:
Mua bán cho khách hàng hưởng chênh lệch giữa giá bán và giá mua vào,
Cân đối trạng thái các giao dịch phái sinh vàng từ khách hàng với các đối tác
ngân hàng nước ngoài,
Mua vàng trên tài khoản quốc tế và bán vàng vật chất trong nước khi giá
vàng trong nước cao hơn giá vàng quốc tế,
Ngân hàng mua vàng vật chất trong nước và bán vàng trên tài khoản quốc tế.
112
Các ngân hàng rất hiếm khi đầu tư trạng thái mở vàng để đầu cơ giá
lên/xuống hay giữ lại các giao dịch phái sinh vàng từ khách hàng. Do đó, hầu như
trong lĩnh vực kinh doanh vàng, các ngân hàng rất khó gặp rủi ro, ngoại trừ hai
trường hợp sau:
Khi ngân hàng thực hiện mua vàng tài khoản quốc tế và bán vàng vật chất
trong nước theo chỉ đạo của NHNN nhằm tăng thanh khoản tiền VND như
thời gian qua. Sau đó, NHNN yêu cầu các ngân hàng đóng tài khoản vàng
quốc tế và mua lại vàng vật chất trong nước để tất toán các tài khoản huy
động vàng tại ngân hàng. Đây chính là yếu tố chính tạo ra các khoản lỗ cho
các NHTM cổ phần tại TP.HCM trong thời gian qua trong mảng kinh doanh
vàng (theo biểu đồ 2.2 đến 2.5 trên).
Khi ngân hàng thực hiện mua vàng tài khoản quốc tế và bán vàng vật chất
trong nước nhằm hưởng chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế khi giá
vàng trong nước cao hơn giá vàng quốc tế hay trường hợp ngược lại. Rủi ro
xảy ra khi mà trong thời gian dài giá vàng trong và ngoài nước không thay
đổi. Rủi ro này được phân tích rất kỹ trong phần thực trạng quản lý rủi ro
kinh doanh vàng của các NHTM cổ phần tại TP.HCM bên dưới.
2.3. THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI
HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM
Hoạt động KDNH diễn ra hàng ngày tại các NHTM cổ phần trên địa bàn
TP.HCM mang lại lợi nhuận đáng kể, song song đó là rủi ro luôn tiềm ẩn, và rủi ro
chính yếu phát sinh trong hoạt động kinh doanh vàng và ngoại tệ. Các NHTM vẫn
có các giải pháp để quản lý rủi ro này, tuy nhiên tùy theo loại hình KDNH thì mức
độ và thực trạng quản lý rủi ro có khác nhau.
Hoạt động kinh doanh vàng tại các NHTM thông thường bao gồm: kinh
doanh vàng vật chất, kinh doanh vàng tài khoản và xuất nhập khẩu vàng. Hoạt động
kinh doanh ngoại tệ bao gồm các giao dịch ngoại tệ tiền mặt và các giao dịch phái
sinh ngoại tệ.
113
2.3.1 Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng
2.3.1.1 Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng vật chất
Trong hoạt động kinh doanh vàng, giao dịch vàng vật chất là truyền thống và
phổ biến nhất. Các giao dịch vàng của người Việt Nam đã tồn tại từ lâu đời và đã
trở thành một phương thức để dành tài sản từ xa xưa. Đối với người dân ở nhiều
nước, vàng là một dạng tiền tệ, lưu giữ giá trị, vàng giúp người dân tự bảo vệ mình
trước sự lạm dụng của NHTW các nước khi các đơn vị này có chính sách cung tiền
làm giá trị các đồng nội tệ giảm giá mà bản thân người dân không kiểm soát được.
Tại Việt Nam, hiện nay phần lớn người dân mua vàng là để đầu cơ giá vàng, tuy
nhiên, từ đầu năm 2010, do việc kinh doanh vàng tài khoản trong nước và quốc tế bị
cấm, nên hoạt động đầu cơ giá vàng của người dân buộc phải thực hiện thông qua
việc trao đổi lượng vàng vật chất tương ứng với các cửa hàng trung gian ngày càng
rầm rộ. Quá trình trao đổi vàng vật chất qua lại này không những làm tăng chi phí
giao dịch cho những người đầu cơ, mà còn khiến cho hoạt động đầu cơ vàng gắn
với dòng dịch chuyển ngoại tệ khi có dòng vàng vật chất chuyển dịch vào và ra khỏi
biên giới Việt Nam. Đặc biệt vào những tháng cuối năm 2011, thanh khoản trong hệ
thống Ngân hàng bị khan hiếm, NHNN đã khuyến khích các NHTM bán vàng từ
các nguồn huy động hay từ nguồn vốn riêng của các Ngân hàng ra để chuyển sang
tiền VNĐ để hỗ trợ thanh khoản vào cuối năm. Để tránh rủi ro biến động giá vàng
và làm phát sinh các khoản lỗ cho các NHTM, NHNN đã cho các NHTM mua lại
vàng tài khoản quốc tế sau khi đã bán số vàng vật chất trong nước. Đây không phải
là lần đầu tiên các NHTM thực hiện các giao dịch này, từ những năm 2006, một số
NHTM tại TP.HCM đã thực hiện các giao dịch đối ứng này để tạo kinh doanh
chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế như Ngân hàng Việt Á, Sacombank,
Eximbank, ACB.
Tuy nhiên hoạt động kinh doanh này cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Kể từ
trước ngày còn hiệu lực của Thông tư 01/2010/TT-NHNN ngày 06 tháng 01 năm
2010 bãi bỏ Quyết định số 03/2006/QĐ-NHNN ngày 18/01/2006 về việc kinh
doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài và Quyết định số 11/2007/QĐ-NHNN ngày
114
15/03/2007 về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 03/2006/QĐ-NHNN và sau ngày
hiệu lực của Thông tư 32/2011/TT-NHNN ngày 06 tháng 10 năm 2011 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Thông tư số 11/2011/TT-NHNN ngày 29/4/2011 của NHNN
Việt Nam quy định về chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng của TCTD,
Ngân hàng đã tiến hành kinh doanh chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế
nhằm hưởng lợi nhuận tuy về hình thức là làm giảm chênh lệch giữa giá vàng trong
nước và quốc tế và tạm thời không phải tốn ngoại tệ (USD) để nhập vàng về theo
tinh thần Thông tư 32 của NHNN. Tuy nhiên, các hoạt động này của NHTM cũng
đang ngầm chứa nhiều rủi ro mà các phòng ban có trách nhiệm của Ngân hàng
(phòng KDNH, phòng Quản lý rủi ro, Kiểm tra kiểm soát nội bộ, Văn phòng Tổng
giám đốc, Văn phòng Hội đồng quản trị,....) chưa chắc đã nhận diện được hết. Mục
đích của NHNN trong Thông tư 32, ngoài việc hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống
Ngân hàng và thị trường vào những tháng cuối năm 2011, là việc kéo giảm độ
chênh lệch giữa giá vàng trong nước và quốc tế (giá vàng trong nước cao hơn giá
vàng thế giới). NHNN đã cho phép các NHTM được phép chuyển đổi vàng tồn quỹ
thành tiền và mở tài khoản vàng ở nước ngoài. Tuy nhiên, NHTM chỉ được chuyển
đổi tối đa 40% lượng vàng tồn quỹ thành tiền tại thời điểm nộp hồ sơ xin chuyển
đổi vàng tồn quỹ và mở tài khoản vàng ở nước ngoài. NHTM được thực hiện mua
vàng vật chất tại thị trường trong nước để bù đắp lượng vàng tồn quỹ đã chuyển đổi
thành tiền theo văn bản cho phép chuyển đổi của NHNN. Trường hợp NHTM gặp
khó khăn trong việc mua vàng vật chất bù đắp lượng vàng tồn quỹ đã chuyển đổi
thành tiền tại thị trường trong nước, NHNN sẽ xem xét cho phép nhập khẩu vàng để
bù đắp lượng vàng tồn quỹ đã chuyển đổi. Với việc làm này, NHTM đang phải
gánh chịu nhiều rủi ro.
Như trường hợp vào ngày 10/10/2011 tại Ngân hàng Sacombank, phòng
KDNH đã thực hiện hai giao dịch cùng lúc, đó là các dealer đã mua của đối tác
nước ngoài HSBC Hongkong thông qua mạng Reuters với số lượng 500 kg vàng
trên tài khoản với giá giá là 1.585 USD/oz (với giá USDVNĐ trên thị trường
interbank lúc bấy giờ 21.700), một giao dịch khác với một đối tác trong nước là
115
DNTN A cùng với số lượng 500kg vàng SJC (tương đương 500 * 26,666 = 13.333
lượng vàng SJC) với giá 43.900.000 đồng/lượng. Với giao dịch trên đây, giả định
các chi phí để Sacombank nhập lượng vàng trên từ Hongkong về Việt Nam là
400.000 đồng /lượng, thì Sacombank ước tính có lợi nhuận gần:
500 * 26,666 * (43.900.000 – (1.585/0,833 * 21.700 + 400.000)) = 29.467.049.972 đồng
Với giao dịch trên với phía quốc tế, Sacombank sẽ dự kiến chi ra nếu lấy hết
số vàng 500kg với đối tác HSBC Hongkong là: 500*32.1507*1585 = 25.479.429,75
USD, tức là Sacombank đang giữ trạng thái đoản USD là 25.479.429,75 và thời
gian thực hiện là T+2 (tức là tối đa 2 ngày phía HSBC và Sacombank phải thực hiện
giao dịch này, trừ khi hai bên mong muốn kéo dài chưa thực hiện hợp đồng này qua
giao dịch swap). Còn ở phía Việt Nam, Sacombank đã bán 500 * 26,666 = 13.333
lượng vàng SJC và thu về 13.333 * 43.900.000 = 585.318.700.000 đồng, và giao
dịch này thường được Sacombank và DNTN A thực hiện ngay trong ngày hoặc là
chỉ có thể kéo dài thêm tối đa 1-2 ngày.
Khi thực hiện các giao dịch trên, phía Sacombank đã phải chịu sáu loại rủi ro
sau mà hầu như chưa có giải pháp phòng ngừa hữu hiệu:
Thứ nhất: Khi thực hiện giao dịch quốc tế với HSBC, trạng thái ngoại tệ cuối
ngày của Sacombank đã phát sinh trạng thái ngoại tệ đoản tương đương với
25.479.429,75 USD (giả định số dư các ngoại tệ khác cuối ngày bằng không). Rủi
ro sẽ phát sinh nếu tỷ giá USDVNĐ tăng lên trên 21.700. Tỷ giá USDVNĐ tại Việt
Nam trong những năm qua thường có xu hướng tăng và do đó rủi ro về tỷ giá luôn
rình rập hoạt động của Ngân hàng. Nếu tỷ giá tăng ít thì phần lỗ đó chỉ là chi phí
của Ngân hàng, nhưng nếu tỷ giá tăng đột biến thì thất thoát của Ngân hàng sẽ rất
lớn. Thông thường sau khi thực hiện xong giao dịch trên hoặc vào cuối ngày thì các
Ngân hàng xem xét trạng thái ngoại tệ của mình có vượt quá +/-30% vốn tự có theo
quy định của NHNN hay không (tỷ lệ này còn là +-20% kể từ ngày 2/5/2012 theo
thông tư số 07/2012/TT-NHNN ngày 20/03/2012 quy định về trạng thái ngoại tệ
của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài). Nếu vượt quá tỷ lệ trên các Ngân
hàng vào cuối ngày phải mua lại trên thị trường interbank hay nâng giá mua USD
116
để mua USD vào từ các doanh nghiệp hay cá nhân trong nước (tất nhiên là chỉ vào
cuối ngày, còn trong ngày có vượt quá tỷ lệ trên thì cũng chưa vi phạm quy định của
NHNN. Đây cũng là nhược điểm của quy định về trạng thái ngoại tệ hiện nay của
NHNN). Do đó, các Ngân hàng phải luôn cảnh giác với loại rủi ro này và cần có
một hệ thống quản lý rủi ro tốt trong nội bộ Ngân hàng.
Thứ hai: Sacombank có một số lựa chọn nguồn khi bán vàng, chủ yếu tập
trung vào ba nguồn chính là từ huy động vàng của tổ chức/cá nhân, vốn tự có, hay
là từ nguồn mà Ngân hàng tự đầu tư. Trong ba nguồn này, thường Ngân hàng lấy
nguồn vốn vàng từ huy động của doanh nghiệp hay cá nhân để bán. Ngân hàng gặp
rủi ro ngay nếu đến hạn rút vàng của khách hàng mà Ngân hàng không đủ thanh
khoản vàng. Trước đây loại rủi ro này ít gặp là do Ngân hàng thiếu thanh khoản
vàng, thì có thể tăng lãi suất huy động vàng lên hoặc cấp tốc cầu cứu NHNN xin
quota nhập khẩu vàng. Nhưng hiện nay tình hình đã thay đổi khi mà NHNN đã
không còn cho huy động vàng (Thông tư 11/2011/TT-NHNN ngày 29/04/2011 và
sau đó là thông tư 12/2012/TT-NHNN gia hạn đến ngày 25/11/2012) và rất hạn chế
cấp quota nhập khẩu vàng. Cũng vì chạy theo thời hạn quy định trong thông tư
12/2012/TT-NHNN, Ngân hàng ACB vừa qua đã lỗ 1.144 tỷ đồng cho nghiệp vụ
kinh doanh vàng (Cao Sơn (2012)).
Thứ ba: Rủi ro khác mà Ngân hàng gặp phải là cạn kiệt thanh khoản vàng
riêng lẽ từ phía một Ngân hàng. Theo thông tư 11 và thông tư 12 về việc chấm dứt
huy động vàng của TCTD, khi Ngân hàng thiếu thanh khoản vàng thì Ngân hàng
không thể tăng lãi suất để huy động vàng như trước nữa mà chỉ còn trông chờ vào
sự trợ giúp của NHNN khi NHTM gặp khó khăn mua vàng vật chất để bù đắp lượng
vàng tồn quỹ đã chuyển đổi thành tiền (theo Thông tư 32). Nhưng việc cạn kiệt
thanh khoản vàng này là của riêng Sacombank, do đó phải chờ sự xét duyệt của
NHNN về trường hợp riêng lẽ này, và thời gian chờ đợi này là không xác định được
dễ dàng. Thực tế đã chứng minh rất rõ trường hợp này trong những tháng của quý
3/2012, NHNN không cho phép nhập khẩu vàng để giải cứu cho các khoản lỗ của
NHTM.
117
Thứ tư: Đối với giao dịch bán vàng trong nước, khi tiền VNĐ về thì Ngân
hàng cho vay hoặc đi gởi liên Ngân hàng. Trước đây, với hai loại giao dịch này thì
Ngân hàng rất ít khi gặp rủi ro (nợ quá hạn hay Ngân hàng đối tác chậm trả trên
interbank). Hiện nay trong điều kiện nền kinh tế trong và ngoài nước đang gặp khó
khăn chung, khi cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp hay cá nhân, tỷ lệ nợ quá
hạn đã tăng lên đáng kể, có một số trường hợp khách hàng không trả được nợ (theo
Báo cáo của NHNN đến tháng 10/2012, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng
Việt Nam đã xấp xỉ 8,3%). Khi Ngân hàng giao dịch trên thị trường liên Ngân hàng,
trong điều kiện thanh khoản căng thẳng đặc biệt là vào các dịp cuối năm thì Ngân
hàng đối tác thường kéo dài thời hạn trả nợ tuy hợp đồng thanh toán đã đến hạn.
Ngân hàng không thể xem thường các khả năng này trong hệ thống quản trị rủi ro
của mình.
Thứ năm: Sacombank đã duy trì trạng thái trên kể từ ngày 10/10/2011 đến
nay do chưa có sự đảo chiều giữa giá vàng trong nước và quốc tế. Giá vàng trong
nước vẫn còn cao hơn giá vàng quốc tế. Nếu đóng trạng thái vàng đã mở này, thì
Sacombank sẽ bị lỗ ngay trong khi lợi nhuận của các giao dịch trên thì đã được hạch
toán vào năm 2011. Do đó loại rủi ro thứ năm gặp phải là thời gian để chênh lệch
giá vàng trong nước và quốc tế đảo chiều ngược lại so với lúc mở trạng thái tháng
10/2011, chắc chắn Ngân hàng không thể tính được việc này. Bên cạnh đó, trong
trường hợp chưa thể đóng được hai giao dịch đã mở từ năm 2011, Ngân hàng sẽ
phải thanh toán chi phí gì và khi nào thì đạt được điểm hòa vốn ??? Hiện nay các
Ngân hàng khi mở trạng thái trên đều có một phần nhận biết được các loại rủi ro
này, nhưng vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu để phòng và chống rủi ro đó. Các chi
phí cho hai giao dịch trên bao gồm:
Chi phí Ngân hàng phải trả cho điểm Swap để kéo dài việc thực hiện giao
dịch trên với HSBC Hongkong. Về phương diện hạch toán kế toán, để gia
hạn hợp đồng trên với đối tác nước ngoài thì phía Sacombank phải thực hiện
cùng lúc hai giao dịch là một giao dịch Spot bán vàng tài khoản quốc tế và
mua USD trên tài khoản quốc tế và một giao dịch Forward mua vàng tài
118
khoản quốc tế và bán USD trên tài khoản quốc tế trong kỳ hạn 1 ngày. Với
giao dịch này, phía Sacombank sẽ nhận lãi vàng và trả lãi USD trên tài khoản
quốc tế. Thông thường lãi suất USD trên thị trường thế giới cao hơn lãi suất
vàng. Cho nên, mỗi ngày thực hiện giao dịch Swap, phía Sacombank phải trả
chi phí điểm Swap này.
Chi phí cho việc huy động để có nguồn vàng để bán trong nước hay chi phí
cơ hội mà Ngân hàng phải bỏ ra nếu đó là từ nguồn vốn tự có hay mua để
đầu cơ.
Chi phí cơ hội cho việc sử dụng VNĐ để mua USD trong việc giảm trạng
thái đoản USD do mua vàng quốc tế.
Chi phí ký quỹ USD ở tài khoản nước ngoài trong việc đảm bảo cho giao
dịch mua vàng tài khoản với HSBC Hongkong.
Chi phí phát sinh nếu đóng hai giao dịch đã mở tháng 10/2011 mà bị lỗ (do
giá vàng trong nước vẫn duy trì cao hơn giá thế giới và bị bắt buộc phải đóng
giao dịch).
Từ việc dự liệu được các loại chi phí trên, Ngân hàng cần xác định điểm hòa
vốn cho hai giao dịch đã mở tháng 10/2011. Điểm hòa vốn được xác định trên cơ sở
lợi nhuận có được lúc bắt đầu giao dịch trong nước và quốc tế, các chi phí đã phát
sinh trong quá trình còn duy trì các giao dịch đã xác lập và chi phí (nếu có) lúc đóng
các giao dịch đã mở. Các phòng ban có trách nhiệm cùng nhau theo dõi, lập kế
hoạch, báo cáo thường xuyên và định kỳ cũng như cảnh báo ngay cho các phòng
ban có liên quan và lãnh đạo Ngân hàng nếu có những trường hợp phát sinh trong
dự liệu và đột biến.
Thứ sáu: Rủi ro cuối cùng phát sinh là do sự thay đổi nhanh của các chính
sách từ NHNN và Chính phủ nằm ngoài sự dự liệu của Ngân hàng. Điển hình như
bãi bỏ việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài trong Thông tư
01/2010/TT-NHNN hoặc không cho nhập vàng trên tài khoản nước ngoài về khi
thanh khoản vàng của Ngân hàng bị cạn kiệt, vì việc nhập khẩu vàng làm hao tốn
119
nhiều ngoại tệ của quốc gia và làm cho tỷ giá ngoại tệ trong nước biến động thất
thường gây rủi ro cho các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Trong trường hợp ngược lại tức là khi giá vàng trong nước thấp hơn giá vàng
thế giới, chúng ta cũng làm các phân tích tương tự như trên để nhận diện đầy đủ các
rủi ro và chi phí phát sinh. Từ đó đưa chúng vào trong quá trình hoạch định, tổ
chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc cùng với sự phối hợp nỗ lực của cả tập thể
cùng tham gia vào hoạt động chung để đạt mục tiêu với hiệu quả cao nhất. Hàng
ngày, phòng Quản lý rủi ro tại Hội sở Sacombank, vẫn luôn có cảnh báo, nhắc nhở
đến phòng KDNH và báo cáo nhanh lên Ban Tổng giám đốc về các diễn biến bất lợi
cho các giao dịch mà phòng Kinh doanh đã thực hiện. Tuy nhiên, việc làm này vẫn
còn mang tính đối phó và chưa thực sự hiệu quả trong công tác quản lý và phòng
ngừa rủi ro ngoại hối của NHTM.
Khi nhìn sang các NHTM cổ phần khác tại TP.HCM như ngân hàng ACB
hay Việt Á hay Eximbank thì các ngân hàng này vẫn thực hiện các giao dịch mua
bán vàng vật chất trong nước, cùng lúc đó là họ thực hiện bán mua đối ứng với tài
khoản vàng tại nước ngoài tương tự như các giao dịch trên của Sacombank. Cũng
với các giao dịch giống nhau về bản chất đó, các ngân hàng này vẫn không có các
giải pháp quản lý rủi ro một cách chặt chẽ, các báo cáo quản lý rủi ro KDNH vẫn
mang tính đối phó, các phòng ban vẫn thờ ơ về mức độ rủi ro của các giao dịch mà
mình đang thực hiện và quản lý, các cảnh báo cũng như các giải pháp quản lý rủi ro
định lượng như mô hình VaR chỉ mang tính tham khảo.
Do đó, các giải pháp quản lý rủi ro trong kinh doanh vàng vật chất tại các
NHTM cổ phần TP.HCM còn rất sơ sài, đối phó, còn mang nặng định tính hơn là
định lương. Đa phần các báo cáo rủi ro cho các giao dịch kinh doanh vàng vật chất
chỉ mang tính tham khảo và rất ít thông tin.
2.3.1.2 . Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản
Bên cạnh hoạt động kinh doanh vàng vật chất phổ biến và mang tính truyền
thống như đã trình bày ở trên, kinh doanh vàng tài khoản vẫn là lĩnh vực cũng chứa
120
đựng nhiều rủi ro cho hoạt động của các NHTM và gây nhiều bất ổn đến chính sách
quản lý kinh tế của Chính phủ. Giao dịch vàng tại sàn vàng của các NHTM là sản
phẩm kinh doanh mạo hiểm. Nhà đầu tư phải ký quỹ một lượng tiền rất nhỏ (thông
thường là 7%) giá trị giao dịch, số còn lại được Ngân hàng cho vay, như vậy nhà
đầu tư có thể thực hiện lệnh mua/bán gấp hơn 14 lần vốn tự có. Hàng ngày, nhà đầu
tư đặt mua/hoặc bán, tức mở trạng thái giao dịch và đóng trạng thái đặt lệnh
bán/hoặc mua theo giá vàng từng thời điểm.Vào cuối ngày giao dịch, trường hợp
nhà đầu tư không đủ tiền/vàng để thanh toán cho các lệnh đã khớp, Ngân hàng sẽ tự
động cho nhà đầu tư vay, sau khi đã trừ đi tổng giá trị tiền/vàng mà khách hàng
đang có. Trên thực tế, việc kinh doanh sàn vàng hay kinh doanh vàng qua tài khoản
với nước ngoài, các NHTM đã đối mặt với những rủi ro sau:
Rủi ro pháp lý: trong suốt gần 3 năm sàn vàng hoạt động, về phía Nhà nước
hầu như đã không có một văn bản pháp lý nào để kiểm soát hoạt động kinh
doanh trên sàn vàng, điều chỉnh mô hình hoạt động của các sàn vàng, cơ chế
giải quyết tranh chấp khi có phát sinh. Mọi quy chế, quy trình đều do Ngân
hàng tự ban hành. Hầu hết các văn bản và các hợp đồng giao dịch được soạn
theo hướng có lợi cho các Ngân hàng, nên quyền lợi của nhà đầu tư chưa
được bảo đảm thỏa đáng. Chính vì quyền lợi và nghĩa vụ không được đảm
bảo giữa hai bên, nên rủi ro tranh chấp pháp lý luôn rình rập hoạt động kinh
doanh sàn vàng của Ngân hàng.
Rủi ro thị trường: có thể nói kinh doanh vàng là phải chấp nhận sự biến
động thất thường của vàng dưới tác động đa dạng của nhiều nhân tố có liên
quan như: tình hình kinh tế, chính trị, chiến tranh thế giới, giá dầu, giá ngoại
tệ,…. Trong nhiều trường hợp khi không cân đối được các trạng thái mua
bán giữa các khách hàng trong nước hoặc không cân đối kịp các giao dịch
của sàn trong nước và sàn nước ngoài, Ngân hàng sẽ gặp ngay các rủi ro về
biến động giá vàng.
Rủi ro về kỹ thuật công nghệ: hệ thống công nghệ của các sàn vàng là do
các Ngân hàng tự thiết kế, tự trang bị và không có một sự ràng buộc pháp lý
121
nào về tiêu chuẩn của hệ thống công nghệ. Do đó vào các thời điểm số lượng
giao dịch lớn hay giá vàng biến động nhiều, hệ thống rất dễ bị sự cố sập
mạng và gây ra nhiều thiệt hại cho cả phía Ngân hàng và các nhà đầu tư.
Rủi ro về trình độ: một số chuyên viên quản lý sản vàng chưa có đủ trình độ
để hỗ trợ hay quản lý tốt sản vàng, do đó dễ dẫn đến sự thua lỗ cho Ngân
hàng, trong khi điều kiện hoạt động cũng như trình độ tham gia của nhà đầu
tư kinh doanh vàng trên sàn ngày một nâng cao.
Qua những rủi ro trên, trong thời gian vừa qua, các NHTM tại TP.HCM đã
tiến hành xây dựng quy chế, quy trình kinh doanh vàng nhằm đảm bảo quyển lợi
của Ngân hàng và khách hàng; xây dựng giới hạn lỗ, dừng lỗ trong kinh doanh
vàng, hạn mức giao dịch được cấp cho từng dealer và cấp quản lý. Bên cạnh đó,
Ngân hàng đã tăng cường kiểm soát, gia tăng khả năng quản lý rủi ro của kiểm soát
nội bộ, kiểm toán nội bộ nhằm kịp thời ngăn chặn những rủi ro và hiện tượng tiêu
cực phát sinh đảm bảo an toàn cho NHTM trong kinh doanh vàng. Tận dụng tối đa
các nguồn thông tin, đối chiếu và chọn lọc các nguồn thông tin cung cấp cho các
nhà đầu tư. Tư vấn và hỗ trợ cho các nhà đầu tư kiến thức pháp lý, kỹ thuật kinh
doanh, khả năng dự đoán biến động giá vàng, sử dụng các công cụ phái sinh phòng
chống rủi ro khi giá vàng biến động. Kéo dài thời gian giao dịch của buổi tối đến 23
giờ nhằm phù hợp với diễn biến thời gian giá vàng thế giới. Đa dạng hóa các lệnh
cho các nhà đầu tư như: lệnh chốt lời và lệnh cắt lỗ như đã được nhiều sàn vàng
trước đây áp dụng. Từ những rủi ro xảy ra trong việc kinh doanh vàng vật chất cũng
như tại các sàn vàng của NHTM, và tại các nước trên thế giới, NHNN cần tham
mưu cho Chính phủ trong việc mở sàn vàng Quốc gia tập trung. Việc làm này sẽ có
những ích lợi như kiểm soát được lượng vàng trong dân, thu hút được tiền nằm dưới
dạng vàng trong dân và hướng nó vào phục vụ lợi ích kinh tế; đưa giá vàng Việt
Nam và thế giới cân bằng; kiểm soát được tỷ giá, giúp tỷ giá đi vào ổn định, hỗ trợ
nền kinh tế tăng trưởng, bởi vì việc chênh lệch giá vàng không còn thì nhu cầu buôn
lậu, gom USD sẽ bị triệt tiêu. Hơn nữa việc kinh doanh vàng tài khoản tại sàn vàng
Quốc gia tập trung, việc nhập vàng chính ngạch chỉ cần một số lượng vừa đủ để
122
dành cho trang sức là chính và hoạt động kinh doanh vàng sẽ trở nên ổn định. Kể từ
khi sàn vàng ngưng hoạt động, nhu cầu thực tế của nhà đầu tư vẫn rất lớn và bất
chấp rủi ro, họ đã và đang tham gia vào các sàn vàng phi chính thức, Nhà nước bị
thất thu thuế và hoạt động kinh doanh vàng tại các sàn phi chính thức không được
Nhà nước quản lý nên quyền lợi của nhà đầu tư không được bảo vệ.
Theo dự thảo sửa đổi Pháp lệnh Ngoại hối cũng như quy định chi tiết tại
Nghị định 24, hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài của người cư
trú được thực hiện nếu được Thủ tướng chính phủ cho phép và NHNN cấp giấy
phép. Thị trường vàng vẫn đang trong thời gian chờ đợi các bản dự thảo lấy ý kiến
của chuyên gia và của người dân về hoạt động và quản lý KDNH theo quy chuẩn,
nằm trong sự điều hành của Nhà nước và góp phần phát triển kinh tế nước nhà. Bản
dự thảo đã thể hiện rõ sự cân nhắc về mức độ an toàn trong hoạt động KDNH cho
các NHTM và cho toàn hệ thống ngân hàng được ưu tiên lên hàng đầu của các cơ
quan chức năng có thẩm quyền trong giai đoạn hệ thống quản lý rủi ro trong KDNH
của các NHTM vẫn còn rất yếu.
2.3.1.3 . Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu vàng
Trong thời gian vừa qua, một số NHTM cổ phần tại TP.HCM đã tham gia
việc xuất khẩu vàng ra nước ngoài khi giá vàng trong nước thấp hơn giá vàng thế
giới, đặc biệt là khi NHNN ngưng không cho các TCTD giao dịch vàng tài khoản
quốc tế. Hoạt động xuất khẩu vàng đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể, góp phần
giảm nhập siêu và giải phóng tình trạng “vàng hóa” nền kinh tế. Nhà nước hiện
đang có hai mục tiêu mâu thuẩn nhau: một mặt NHNN lo ngại xuất khẩu vàng sẽ
làm giảm nguồn vàng nên muốn giữ lại vàng trong dân, mặt khác NHNN lại có chủ
trương luôn muốn chống tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế, tức không khuyến
khích giữ vàng trong dân.
Trong một trường hợp khác, các NHTM khi bị cấm giao dịch vàng tài khoản
quốc tế và trạng thái vàng vật chất bị quá dư thừa trong nước, các NHTM có nhu
cầu tìm đường xuất khẩu vàng và cho thấy hầu như không NHTM nào muốn giữ lại
123
trạng thái dương của vàng, tức muốn chuyển giao rủi ro trạng thái này sang một
Ngân hàng khác ở nước ngoài.
Để hạn chế xuất khẩu vàng, ngày 15/11/2010 Bộ Tài chính đã ban hành
Thông tư 184/2010/TT-BTC (gọi tắt là Thông tư 184) liên quan đến biểu thuế xuất
nhập khẩu có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2011, để hưởng thuế suất 0%, sản phẩm vàng
xuất khẩu phải có hàm lượng vàng nhỏ hơn hoặc bằng 99% và trọng lượng nhỏ hơn
hoặc bằng 1 ounce, nếu không thuế suất sẽ là 10%, một kiểu hàng rào kỹ thuật chưa
có tiền lệ về chỉ số hàm lượng và chỉ số trọng lượng. Đây là một loại rủi ro chính
sách trong hoạt động xuất nhập khẩu vàng của NHTM. Có lẽ, Thông tư 184 nhắm
đến mục tiêu hạn chế xuất khẩu vàng hơn là thu thuế cho ngân sách. Nếu thế, nên
xem xét điều chỉnh giảm thuế suất 10% xuống còn 1% chẳng hạn, để mức thuế suất
danh nghĩa có sự hợp lý tương đối về mặt hình thức, tránh sự chênh lệch hai chiều
quá lớn giữa thuế nhập khẩu vàng 0% và thuế xuất khẩu vàng 10%. Khi Thông tư
184 có hiệu lực, trong 7 tháng đầu năm 2011 các Ngân hàng và doanh nghiệp xuất
khoảng 30 tấn vàng mang về khoảng 1,5 tỷ USD với tất cả các lô hàng xuất đều
thuộc diện áp thuế 0%. Thực tế đó cũng đủ để chứng minh rằng, không có doanh
nghiệp nào chịu nổi thuế suất 10%. Doanh nghiệp chỉ chờ cơ hội xuất khẩu theo
diện áp thuế 0% khi mức chênh lệch giá giữa giá trong nước và giá thế giới đủ lớn
để bù đắp một số chi phí liên quan đến lô hàng xuất như: chi phí chế biến hàm
lượng vàng, chi phí kiểm định vàng, chi phí chế tác, chi phí vận chuyển và bảo
hiểm, lãi vay Ngân hàng và các chi phí khác,...
Một rủi ro khác mà NHTM gặp phải khi xuất khẩu vàng là sự biến động giá
vàng quá nhanh và có thể làm cho Ngân hàng bị lỗ, tức là giá xuất khẩu vàng thấp
hơn giá thu mua vàng vật chất trong nước. Trên thực tế để quản trị các rủi ro của
quá trình xuất khẩu vàng, các NHTM thực hiện bán vàng tài khoản ở nước ngoài để
bảo hiểm số vàng vật chất đã mua. Về mặt kỹ thuật, bán vàng tài khoản cũng xem
như là “xuất khẩu tại chỗ” hay “xuất khẩu không giao hàng”. Lúc này, NHTM đang
nợ nước ngoài về vàng tài khoản và phải trả lãi vay vàng tài khoản cho đến khi xuất
khẩu vàng vật chất trả nợ hoặc mua vàng tài khoản tất toán trạng thái với nước
124
ngoài. Một cách khác là NHTM mua vàng vật chất vào làm tài sản và từ đó có thể
dùng số vàng này ký gửi làm tài sản đảm bảo để tiếp cận các nguồn vốn đa phương
cấp quốc gia hoặc cho các mục đích khác. Gửi vàng ra nước ngoài bao hàm một
hoạt động xuất khẩu đã diễn ra dù chưa bán đứt.
Nhìn trên góc cạnh vĩ mô của nền kinh tế, xuất khẩu vàng giúp thu hồi USD
và cuối cùng là VNĐ, giảm nhập siêu, xóa bớt tình trạng “vàng hóa” trong dân,
nhưng dự trữ chung của quốc gia sẽ giảm xuống trong khi Nhà nước chưa có cơ chế
mua vàng của dân hoặc sử dụng vốn vàng trong dân. Còn đối với nhập khẩu vàng,
hoạt động này sẽ tiêu tốn USD, gây áp lực lên tỷ giá USD/VNĐ, ảnh hưởng đến
chính sách tiền tệ và kinh tế vĩ mô, nhưng ta chưa có dự trữ vàng đủ lớn để can
thiệp thị trường khi có dấu hiệu tâm lý bất ổn. Trong quản lý, giá vàng thế giới biến
động ra sao không quan trọng, Nhà nước luôn mong muốn rằng giá trong nước liên
thông kịp thời, bám sát giá vàng thế giới. Rõ ràng, sự liên thông này rất quan trọng
vì giúp triệt tiêu động cơ xuất nhập khẩu vàng, mà không có xuất nhập khẩu vàng sẽ
không gây ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái, cụ thể không tăng cung USD do xuất
khẩu vàng và không tăng cầu USD do nhập khẩu vàng. Đó là rủi ro của hoạt động
xuất nhập khẩu vàng dưới khía cạnh quản lý Nhà nước.
Tại các NHTM hiện nay, việc quản lý rủi ro trên tỏ ra rất lỏng lẻo và hầu như
chưa có một quy định nào để quản lý hiệu quả rủi ro hoạt động xuất nhập khẩu vàng
này. Thực tế hoạt động xuất nhập khẩu vàng tại các NHTM với những rủi ro như
phân tích trên lại chưa có cách quản lý hiệu quả, tuy nhiên không thể vì những rủi
ro như vậy mà Nhà nước lại cấm loại hình giao dịch này.
2.3.2 Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ
2.3.2.1 . Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ phái sinh ngoại tệ
Còn đối với nghiệp vụ phái sinh ngoại tệ, nghiệp vụ tài chính phái sinh đã
xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 1990, chủ yếu là tại các Ngân hàng có giao
dịch với các Ngân hàng nước ngoài. Một số Ngân hàng lớn như: Vietcombank,
BIDV, Vietinbank,.... cũng đã triển khai chủ yếu các nghiệp vụ như: mua bán ngoại
125
tệ kỳ hạn, hoán đổi, hợp đồng tương lai, quyền chọn cho các doanh nghiệp có nhu
cầu sử dụng ngoại tệ và trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong thanh toán quốc tế. Tuy
nhiên, các sản phẩm công cụ phái sinh hiện nay tại các Ngân hàng còn ít, chưa thu
hút được các doanh nghiệp sử dụng, vì thế, thu nhập từ các công cụ phái sinh còn
chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu nhập của Ngân hàng.
Hiện nay dù có tham gia vào một số nghiệp vụ phái sinh nhưng hầu như các
NHTM tại TP.HCM chỉ chú ý đến việc mua bán ngoại tệ nhằm mục đích đáp ứng
cho thanh toán quốc tế, vay và cho vay ngoại tệ mà hầu như không thực hiện bảo
hiểm tỷ giá nên trong KDNH thì các NHTM đóng vai trò chủ yếu là trung gian giao
dịch để hưởng chênh lệch giá hơn là những nhà tạo lập thị trường. Chính vì lẽ đó,
các NHTM rất yếu về phân tích tỷ giá mà đặc biệt là rất yếu về phân tích kỹ thuật,
hầu như rất ít Ngân hàng sử dụng phân tích kỹ thuật như một công cụ hỗ trợ thêm
cho phân tích cơ bản trong phân tích tỷ giá. Đó cũng là lý do vì sao mà ít NHTM
mạnh về kinh doanh đầu cơ mà chủ yếu chỉ kinh doanh cho khách hàng nhằm
hưởng chênh lệch giá, cho nên, hầu như các NHTM giữ trạng thái tự doanh ngoại tệ
rất ít, và đa phần cũng mua bán các giao dịch phái sinh ngoại tệ trong nước với các
đối tác nước ngoài nhằm hưởng chênh lệch giá, tùy thuộc vào từng thời kỳ theo
quyết định của Hội đồng Quản trị và Ban Tổng giám đốc Ngân hàng. Từ đó rủi ro
xảy ra cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ mặt hay ngoại tệ phái sinh rất ít khi xảy ra
hoặc nếu có xảy ra thì cũng trong chừng mực kiểm soát được. Hoạt động tự doanh
của Ngân hàng cũng như việc thực hiện các giao dịch phái sinh của Ngân hàng hay
doanh nghiệp với doanh số rất ít trong thời gian vừa qua cũng xuất phát từ nhiều
nguyên nhân.
Trước hết, chúng ta nhận thấy rằng các nghiệp vụ phái sinh trên là các
nghiệp vụ hiện đại, phức tạp nên đòi hỏi đội ngũ nhân viên Ngân hàng phải có trình
độ chuyên môn cao mới có thể tư vấn cho các doanh nghiệp; đồng thời việc quảng
bá, giới thiệu của Ngân hàng đến doanh nghiệp chưa rộng rãi, nên doanh nghiệp
chưa biết hoặc không mặn mà với các dịch vụ mới về công cụ phái sinh của Ngân
hàng. Hơn nữa, tỷ giá USD/VNĐ đang có xu hướng ổn định trong những năm vừa
126
qua, đặc biệt là nữa năm đầu của năm 2010 và những tháng đầu năm 2012 cũng là
một lý do. Mặc dù tỷ giá USD/VNĐ biến động thường xuyên qua các năm theo
chiều hướng đồng Việt Nam có giá trị sụt giảm so với các đồng tiền nước ngoài,
nhưng trong suốt một quãng thời gian khá dài vừa qua, sự biến động này chỉ tăng
một chiều với biên độ hẹp nên nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá không được quan tâm
đến. Trên thực tế, áp lực tăng tỷ giá vẫn luôn hiện hữu và rủi ro tỷ giá trong tương
lai khó loại trừ, nhưng phần lớn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các Ngân hàng
vẫn chưa nhận diện được và chưa mặn mà với các công cụ phòng ngừa rủi ro. Cụ
thể trong thời gian qua, thị trường ngoại hối Việt Nam luôn rơi vào tình trạng khan
hiếm USD và tỷ giá USD/VNĐ không phải lúc nào cũng bình ổn, nửa cuối năm
2010 cho đến đầu 2011, tỷ giá USD/VNĐ đột ngột liên tiếp leo thang làm cho thị
trường ngoại hối ngày càng căng thẳng và rủi ro tỷ giá bắt đầu xuất hiện trở lại.
Tuy nhiên đến đầu năm 2009, do sự lợi dụng các sản phẩm phái sinh ngoại tệ
như kỳ hạn USD/VNĐ hay quyền chọn USD/VNĐ để giao dịch USD/VNĐ vượt tỷ
giá trần do NHNN quy định, nên NHNN đã cấm các giao dịch phái sinh này. Sau
nhiều năm liền chỉ lình xình trong khoảng 1%, tỷ giá USD/VNĐ đã thể hiện những
biến động lớn và căng thẳng, gây xáo trộn trên thị trường và trong hoạt động của
doanh nghiệp. Theo quy định, các NHTM chỉ được phép bán USD đúng với giá
niêm yết và theo biên độ cụ thể ở từng thời kỳ so với tỷ giá bình quân liên Ngân
hàng. Những thời điểm ngột ngạt, tỷ giá phi chính thức đã xuất hiện ngay trong lòng
hệ thống Ngân hàng, mà nghiệp vụ quyền chọn và kỳ hạn USD/VNĐ là một kẽ hở.
Tại những thời điểm thị trường ngoại hối căng thẳng, Ngân hàng và doanh nghiệp
chủ động chọn giao dịch quyền chọn kiểu Mỹ, tức thực hiện theo một tỷ giá thỏa
thuận và có thể đáo hạn ngay. Cơ chế này “nhẹ nhàng” lách qua quy định giao dịch
giao ngay phải đúng giá niêm yết. Để trám lại lỗ hổng đó, Ngân hàng Nhà nước đã
ban hành Công văn 4941/NHNN-QLNH ngày 1/7/2009 ghi rõ các TCTD không
được phép thu phí thông qua các hợp đồng dịch vụ và các hình thức khác như chi
trả hoa hồng, phí quản lý tiền mặt,… để bán vượt trần.
127
Theo dự thảo Thông tư hướng dẫn giao dịch hối đoái và Thông tư hướng dẫn
phạm vi hoạt động ngoại hối đang được lấy ý kiến từ tháng 3/2012, các sản phẩm
phái sinh nhiều khả năng sẽ được cho phép giao dịch trở lại với các điều kiện chặt
chẽ hơn các quy định trước của NHNN. Trong đó, bản dự thảo cũng đề cập đến các
nguyên tắc quản lý rủi ro cơ bản trong quản lý rủi ro KDNH mà các quy định trước
đây của NHNN không có. Ví dụ: Giao dịch quyền chọn chỉ được lựa chọn theo kiểu
châu Âu tức là chỉ được thực hiện giao dịch quyền chọn USD/VNĐ tại thời điểm
đáo hạn; kỳ hạn của các giao dịch dự kiến được xác định tối thiểu là 30 ngày đến
365 ngày. Còn đối với giao dịch kỳ hạn USD/VNĐ thì thời hạn thanh toán tối thiểu
đối với giao dịch kỳ hạn là 3 ngày làm việc sau ngày giao dịch.
2.3.2.2 . Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ mua bán ngoại tệ giao ngay
Trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng, giao dịch giao ngay
luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh số giao dịch ngoại tệ, trong khi giao dịch
phái sinh chưa phát triển nhiều. Trong tổng số giao dịch ngoại tệ giao ngay, mua
bán chuyển khoản chiếm tỷ trọng trên 90% doanh số, và các giao dịch bán ngoại tệ
của Ngân hàng chủ yếu là bán USD và đáp ứng phần lớn cho nhu cầu thanh toán
quốc tế và du học. Tuy nhiên trong thời gian qua, việc bán USD của Ngân hàng
luôn kèm theo phí dưới các hình thức khác nhau để bù khoản chênh lệch giá giữa tỷ
giá Ngân hàng và tỷ giá của thị trường phi chính thức (gọi là “phí bù lỗ tỷ giá”), do
vậy trong các trường hợp Ngân hàng bán USD cho doanh nghiệp hay cá nhân có
nhu cầu theo tỷ giá niêm yết (không thu thêm khoản phí nào) sẽ bị lỗ, đây cũng
chính là rủi ro của Ngân hàng trong giao dịch mua bán USD chuyển khoản. Do vậy
các Ngân hàng thường có sự lựa chọn mục đích sử dụng ngoại tệ của khách hàng để
bán, cụ thể đối với nhu cầu bán và chuyển tiền thanh toán du học, Ngân hàng sẽ bán
USD theo giá niêm yết, đồng thời thu thêm phí bù lỗ tỷ giá và khoản phí này được
cộng dồn vào phí chuyển tiền ra nước ngoài; đối với nhu cầu du lịch, công tác thì
hầu hết các Ngân hàng đều tìm cách từ chối giao dịch vì đây là giao dịch mua bán
ngoại tệ tiền mặt, Ngân hàng không thu thêm bất kỳ khoản phí nào nên không có lý
do để tăng thêm phí bù lỗ tỷ giá được. Nếu phân tích chi tiết giao dịch bán USD tiền
128
mặt thì Ngân hàng phải tốn rất nhiều chi phí: để có USD tiền mặt, đa số trường hợp
phải nhập khẩu từ nước ngoài với mức phí khoảng 0,05% số tiền nhập, để có mức
phí rẻ nhất thì phải nhập số lượng lớn, sử dụng dần trong nhiều tháng khiến một
lượng vốn bị tồn đọng không sinh lãi. Do vậy khi Ngân hàng bán USD tiền mặt theo
giá niêm yết sẽ không bù đắp được chi phí, đây là lý do khiến nhiều Ngân hàng từ
chối bán USD tiền mặt cho khách hàng.
Bên cạnh đó, nhu cầu mua ngoại tệ hiện nay chủ yếu của khách hàng là
USD, kể cả các doanh nghiệp xuất nhập khẩu các nước không phải là Mỹ hay khách
hàng đi du lịch đến nhiều nơi không sử dụng tiền USD. Lý do khách hàng chuộng
mua USD hơn các ngoại tệ khác vì tỷ giá này không biến động nhiều. Trong khi đó,
giá các loại ngoại tệ khác phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường thế giới, rủi ro cao
hơn. Ngoài ra, phần lớn người dân cũng không thích giữ ngoại tệ khác do có lãi suất
gửi tại các Ngân hàng cho các ngoại tệ này thấp hơn so với USD. Các Ngân hàng lại
hạn chế loại ngoại tệ gửi tiết kiệm cũng khiến người dân ngần ngại. Hiện nay, các
Ngân hàng hầu như chỉ nhận gửi tiết kiệm bằng USD và EUR. Do đó, các Ngân
hàng khi giao dịch ngoại tệ không phải USD cũng phải chịu rủi ro do các lý do trên.
Chính vì lẽ đó, để không phải bán USD bị lỗ, các Ngân hàng phải thu phí hay
mua bán USD thông qua một ngoại tệ thứ ba, hay phải mua bán USD thông qua một
hợp đồng kỳ hạn hay quyền chọn USD như đã đề cập ở các phần trên. Tuy nhiên,
hiện nay cả ba cách trên đều bị NHNN cấm thực hiện. Đến thời điểm tháng 8/2012,
NHNN đang lấy ý kiến cho bản dự thảo thông tư về các giao dịch hối đoái được
phép thực hiện, quy trình và phương thức quản lý rủi ro trên thị trường ngoại tệ. Rủi
ro kinh doanh ngoại tệ giao ngay của Ngân hàng vẫn còn cho đến khi tình trạng hai
tỷ giá ngoại tệ trên thị trường chấm dứt và việc “ưa chuộng” USD của khách hàng
cho các giao dịch ngoại tệ không còn tiếp diễn. Cho đến thời điểm tháng 8/2012,
chênh lệch giữa tỷ giá chính thức của Ngân hàng và thị trường phi chính thức hầu
như không còn, diễn biến thị trường ngoại tệ trầm lắng, nhu cầu của khách hàng có
thể được đáp ứng theo tỷ giá liên Ngân hàng (gần sát tỷ giá niêm yết của NHTM).
Tuy nhiên khi thị trường ngoại tệ sôi động, cung vượt quá cầu, chênh lệch hai tỷ giá
129
lại được mở ra, Ngân hàng gặp ngay khó khăn trong việc xác định tỷ giá mua bán
và rủi ro cho Ngân hàng lại tiếp tục xảy ra. Các NHTM và NHNN vẫn đang tìm
kiếm giải pháp để các giao dịch ngoại tệ trên thị trường diễn ra lành mạnh và
NHNN quản lý một cách hiệu quả thị trường.
2.4. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH
NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI
TP.HCM
2.4.1. Thành tựu
Có ban hành các quy định về quản lý rủi ro trong KDNH trong nội bộ ngân
hàng.
Tích cực thay đổi hệ thống cơ sở hạ tầng và mua thêm thiết bị nhằm tăng tính
hiệu quả của hoạt động KDNH.
Tuân thủ các quy định quản lý rủi ro của NHNN và của chính ngân hàng.
Thường xuyên nâng cao năng lực quản trị rủi ro của đội ngũ quản lý và thực
hiện các quy định quản lý rủi ro.
Lập các bản tin về thị trường liên quan hoạt động KDNH để hỗ trợ cho
khách hàng và các bộ phận có liên quan trong ngân hàng.
Tích cực tiếp thị và quản lý danh mục khách hàng.
2.4.2. Hạn chế
Thiếu các quy định pháp luật cho hoạt động KDNH của ngân hàng.
Tuân thủ các quy định của NHNN mang tính đối phó như về trạng thái ngoại
tệ, giao dịch option USD/VND, mua bán ngoại tệ với giá vượt trần quy định.
Chạy theo lợi nhuận nên ít quan tâm đến các quy định về quản lý rủi ro đã
ban hành.
Các biện pháp đo lường rủi ro về định lượng và định tính chỉ mang tính tham
khảo, thiếu sự cảnh báo và ngăn chặn kịp thời.
130
Do hạn chế và chậm đầu tư về công nghệ thông tin, việc quản lý rủi ro trong
KDNH ít có tính liên thông trong hệ thống các phòng ban chức năng.
Kiến thức của đội ngũ có chức năng thi hành các quy định về quản lý rủi ro
trong KDNH còn rất yếu, đặc biệt là đội ngũ nhân viên của phòng QLRR
trên Hội sở ngân hàng. Tuy có nhận diện được một phần các rủi ro có thể xảy
ra, nhưng chưa đủ khả năng thuyết phục Ban lãnh đạo ngân hàng về tính rủi
ro của các giao dịch đã đang thực hiện tại phòng KDNH.
Công việc kinh doanh tại phòng KDNH được thực hiện rất thụ động ở cả các
bộ phận như kinh doanh, bán hàng, nghiên cứu sản phẩm mới.
Đội ngũ phân tích và dự báo còn rất mỏng và yếu làm cho các giao dịch thiếu
cơ sở định lượng thuyết phục, chủ yếu các quyết định giao dịch mang tính
cảm tính nhiều.
Hầu như không sử dụng các sản phẩm phái sinh cho các trạng thái ngoại hối
mở của ngân hàng để phòng ngừa rủi ro.
2.4.3. Nguyên nhân
Các chính sách của Chính phủ và NHNN chậm được ban hành để theo kịp
các thay đổi của thị trường.
Trong quá trình hội nhập và phát triển, mức độ cạnh tranh ngày càng cao làm
cho lợi nhuận các ngân hàng giảm đi nhiều. Do đó, để thực hiện chỉ tiêu lợi
nhuận theo kế hoạch, ngân hàng phải chấp nhận các hoạt động kinh doanh có
mức độ rủi ro cao hơn và làm cho quy trình quản lý rủi ro gặp nhiều khó
khăn.
Lợi ích bị xung đột giữa hai phòng ban trong ngân hàng: phòng KDNH và
phòng QLRR. Phòng KDNH luôn muốn kinh doanh có được lợi nhuận cao
nhất, phòng QLRR là muốn hoạt động kinh doanh với mức độ an toàn cao
nhất cho ngân hàng. Do đó, các cảnh báo và phân tích về rủi ro của phòng
QLRR ít được đội ngũ kinh doanh phòng KDNH quan tâm. Từ đó, việc quản
lý rủi ro khó được thực hiện.
131
Việc đầu tư hệ thống công nghệ thông tin tốn kém nhiều, nên các ngân hàng
rất ngại thay đổi và nâng cấp hệ thống hạ tầng tuy đã cũ kỹ.
Đội ngũ nhân viên của phòng KDNH phải thực hiện quản lý cả hệ thống
KDNH của một ngân hàng, cho nên việc sắp xếp nhân sự để đi học và nâng
cao trình độ về KDNH và quản lý rủi ro rất khó thực hiện.
Các sản phẩm phái sinh có liên quan đến USD/VND trên thị trường quốc tế
được giao dịch với thời gian ngắn, số tiền ít hơn so với nhu cầu của ngân
hàng cần phòng ngừa rủi ro và chi phí rất cao; từ đó làm cho ngân hàng phải
phải chấp nhận rủi ro với các giao dịch ngoại tệ trong nước. Với các sản
phẩm phái sinh khác, ngân hàng thường ngại chi phí cao; cho nên cũng ít
tham gia.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong những năm qua kể từ 2007 đến nay, nền kinh tế thế giới vẫn còn nhiều
diễn biến phức tạp như khủng hoảng nợ công Châu Âu còn nhiều di chứng nặng nề,
nhiều nước trong khu vực có mức nợ công/GDP chiếm trên 150%, nền kinh tế phát
triển chậm chạp; nền kinh tế Mỹ vẫn chưa thoát khỏi tình trạng khó khăn, thất
nghiệp liên tục qua nhiều năm trên 8%, thâm hụt ngân sách ngày càng trầm trọng;
các nền kinh tế ở Châu Á cũng chưa thoát khỏi tình trạng suy thoái chung của nền
kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam cũng còn rất nhiều khó khăn
và có ảnh hưởng một phần từ các nền kinh tế trên thế giới như lạm phát trong
những năm qua ở mức cao, có năm trên 15%, thâm hụt cán cân thương mại kéo dài
qua nhiều năm, tình trạng đôla hóa vẫn còn tiếp diễn chưa có dấu hiệu suy giảm, tín
dụng ngoại tệ tuy có giảm nhưng vẫn chưa thể chuyển qua quan hệ mua bán ngoại
tệ, v.v… Dưới những tác động tiêu cực trong, ngoài nước cũng như thực trạng về
hoạt động KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM như đã phân tích ở trên, hoạt
động KDNH tại các NHTM gặp nhiều rủi ro.
Từ những thực trạng về rủi ro KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM được
nêu trong phần 2.1, phần tiếp theo ở 2.2 là các giải pháp cơ bản nhằm hạn chế rủi ro
132
KDNH, trong đó bao gồm: ổn định tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước,
giảm thiểu thấp nhất các tác động tiêu cực của sự suy giảm nền kinh tế thế giới. Bên
cạnh đó, để ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển thị trường ngoại hối và giảm rủi ro
trong KDNH tại các NHTM, Chính phủ cần giảm tỷ lệ lạm phát xuống dưới 10%,
giảm nhập siêu xuống dưới 10 tỷ USD/năm, hạn chế và tiến đến xóa bỏ tình trạng
đôla hóa nền kinh tế. Ngoài ra, NHNN cần có cơ chế điều hành tỷ giá USD/VND
linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước, phát triển thị trường sản phẩm phái sinh
ngoại tệ, hạn chế và tiến tới xóa bỏ tín dụng ngoại tệ trong năm 2015, đồng thời
chuyển qua giao dịch mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Cùng với các giải
pháp đó, NHTM thực hiện tổ chức hoạt động KDNH và hạn chế rủi ro hoạt động;
sử dụng công cụ hạn mức; các phương pháp dự báo tỷ giá và công cụ lệnh nhằm
hạn chế rủi ro phát sinh trong KDNH.
133
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO
TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM
3.1. ĐỊNH HƯỚNG VỀ TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO
TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
Các NHTM cổ phần cần chú ý đến khâu hoạch định chính sách về quản trị
rủi ro ngoại hối, công việc này có ý nghĩa quyết định đến sự thành công trong hoạt
động của NHTM nói chung và trong KDNH của các NHTM nói riêng. Chính sách
quản trị rủi ro ngoại hối nhằm giúp cho ngân hàng thấy rõ mục đích và định hướng
kinh doanh của mình. Ngoài ra, chính sách này còn giúp làm tăng tính chủ động của
ngân hàng, tăng khả năng thích nghi của ngân hàng với những khuynh hướng mới
và môi trường kinh doanh mới.
Để hạn chế rủi ro trong các giao dịch ngoại hối, Ban lãnh đạo ngân hàng cần
xác định các mục tiêu và các nguyên tắc quản trị rủi ro ngoại hối. Trong đó, các
ngân hàng đặc biệt chú trọng xây dựng các giới hạn thích hợp trong KDNH, các
biện pháp nhằm đảm bảo quy trình kiểm tra nội bộ chính xác trong lĩnh vực kinh
doanh ngân hàng, theo Hồ Diệu (2002). [1]
Chính sách quản trị rủi ro ngoại hối bao gồm việc đánh giá thực trạng rủi ro,
chất lượng của hệ thống quản trị rủi ro ngoại hối, kỹ năng của đội ngũ nhân sự, xác
định các giới hạn nguy cơ rủi ro (thông qua mức duy trì trạng thái ngoại hối) và đa
dạng hóa các loại ngoại tệ trong kinh doanh và dự trữ.
Cùng với việc thiết lập hay đổi mới chính sách quản trị rủi ro ngoại hối, các
NHTM cổ phần cần thay đổi cơ cấu tổ chức theo một mô hình ngân hàng hiện đại,
trong đó cần đặc biệt đảm bảo tuân theo các chuẩn mực quốc tế trong hoạt động
quản lý rủi ro KDNH. Bên cạnh đó, các NHTM cũng cần quan tâm đặc biệt đến
việc quản trị rủi ro hệ thống, quản trị nguồn nhân lực nhằm đáp ứng ngày càng
134
cao các yêu cầu về tính hiệu quả của hệ thống quản trị rủi ro và nâng cao lợi nhuận
cho hoạt động của các ngân hàng.
Ngoài ra, trong hoạt động quản lý rủi ro cho KDNH tại các NHTM cổ
phần, mô hình giá chị chịu rủi ro (VaR) được áp dụng như là một công cụ đo
lường định lượng hữu hiệu nhất hiện nay. Hầu hết các NHTM trên thế giới đều
đang áp dụng mô hình tính VaR để xác định mức độ chịu rủi ro tối đa đối với các
hoạt động KDNH trên thị trường của ngân hàng. Trên cơ sở đó các ngân hàng có
thể đưa ra các yêu cầu vốn tối thiểu liên quan đến các mức rủi ro này.
Hơn nữa, các NHTM cổ phần cần xây dựng cho mình một hệ thống quản trị
rủi ro hoàn chỉnh. Hệ thống quản lý rủi ro hiệu quả của NHTM cổ phần tối thiểu
phải bảo đảm các yếu tố sau như giám sát và quản lý tích cực của Hội đồng quản trị,
Hội đồng thành viên và Ban điều hành; ban hành và triển khai đầy đủ các chính
sách, quy trình quản lý rủi ro và các giới hạn rủi ro; thiết lập hệ thống thông tin
quản lý phù hợp; thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ hoạt động
phù hợp. Trách nhiệm quản lý rủi ro của những bộ phận có liên quan và ban lãnh
đạo ngân hàng cần được xác lập cụ thể như: từ Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát,
Ban Tổng giám đốc, đến các phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ, phòng quản lý rủi ro,
phòng kinh doanh ngoại hối.
Một hệ thống quản lý rủi đầy đủ thì không thể thiếu các chiến lược, chính
sách, quy trình và hạn mức quản lý rủi ro cho các rủi ro trọng yếu phát sinh. Chính
sách và quy trình quản lý rủi ro phải đảm bảo rằng các rủi ro trọng yếu được sớm
nhận dạng, được kiểm soát đầy đủ và được báo cáo kịp thời cho Hội đồng quản trị,
Hội đồng thành viên, Ban Kiểm soát và Ban điều hành. Ngân hàng phải đảm bảo
luôn tuân thủ các quy định an toàn về vốn theo quy định của NHNN và đảm bảo
rằng vốn pháp định của NHTM không bị suy giảm và khả năng chịu đựng rủi ro của
NHTM đủ bù đắp tất cả các rủi ro mà có thể dẫn đến tổn thất cho các NHTM tại
mọi thời điểm. Bộ phận kiểm soát rủi ro thực hiện việc theo dõi, đo lường tất cả các
rủi ro của NHTM và đánh giá mức độ đầy đủ của khả năng chịu đựng rủi ro. Nếu
135
khả năng chịu đựng rủi ro là không đảm bảo, các NHTM cần có các biện pháp xử lý
kịp thời.
3.2 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO KINH DOANH NGOẠI
HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM
Để kinh doanh ngoại hối có lãi thì ngân hàng phải tạo trạng thái ngoại hối mở
và tỷ giá hay giá phải biến động. Muốn tránh hoàn toàn rủi ro tỷ giá hay giá thì ngân
hàng chỉ việc không tiến hành bất kỳ giao dịch ngoại hối nào; hoặc nếu đã tạo trạng
thái ngoại hối thì tiến hành đóng trạng thái ngoại hối bằng các giao dịch đối ứng
(offsetting transactions) để làm cân bằng trạng thái. Tuy nhiên, đối với phòng
KDNH, việc tạo trạng thái ngoại hối và hy vọng tỷ giá biến động theo chiều hướng
có lợi là công việc hàng ngày của phòng. Vấn đề đặt ra là: tỷ giá luôn biến động thất
thường và không giới hạn làm cho cơ hội kiếm lãi trở nên thường xuyên và vô cùng
hấp dẫn. Điều này cũng nói lên một điều rằng, trong KDNH, nếu ngân hàng này thu
được lãi thì phải có một ngân hàng nào đó chịu thua lỗ, bởi vì không thể tất cả đều
được hoặc đều mất cùng một lúc. Nói cách khác, tiềm năng thu lãi và tiềm ẩn rủi ro
trong KDNH là đồng hành với nhau. Lãi lỗ trong KDNH có thể phát sinh cùng với
quy mô biến động tỷ giá hay giá, trong khi tỷ giá hay giá biến động là không giới
hạn nên có thể làm cho lãi lỗ phát sinh là rất lớn. Do đó, việc tìm giải pháp nhằm
hạn chế rủi ro trong KDNH là vô cùng cần thiết. Sau đây là các giải pháp cơ bản
nhằm giúp hạn chế rủi ro trong KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM.
3.2.1 Tổ chức lại hoạt động kinh doanh ngoại hối
Một NHTM trong KDNH cần có ba phòng có liên quan mật thiết với nhau
nhằm hạn chế rủi ro hoạt động trong quá trình KDNH tại các NHTM và tăng cường
khả năng quản lý rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Trong thời gian qua, các
NHTM tại TP.HCM phần lớn tập trung phát triển hoạt động của phòng kinh doanh
nhằm tạo ra nhiều lợi nhuận cho ngân hàng và ít chú trọng kiểm soát một cách kỷ
lưỡng hoạt động của hai phòng còn lại là phòng thanh toán và phòng quản lý rủi ro.
136
Do đó, các NHTM cổ phần tại TP.HCM cần xác định rõ, phân chia rõ ràng chức
năng và nhiệm vụ cũng như có cơ chế để kiểm soát quá trình hoạt động của từng
phòng. Các phòng này bao gồm:
- Phòng kinh doanh (Dealing Room): Tại đây, các Dealer trực tiếp tham gia mua
bán trên thị trường liên ngân hàng và các khách hàng khác, nghĩa là họ phải đối mặt
với thị trường, đối thủ cạnh tranh. Phòng kinh doanh cần kiểm soát được một cách
chắc chắn trạng thái trường hay đoản của từng đồng tiền và vàng tại bất cứ thời
điểm nào, cũng như phương án thoát ra khỏi từng trạng thái là như thế nào. Cán bộ
kinh doanh phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về lãi lỗ trong hoạt động của
mình và bảo đảm rằng hoạt động của mình luôn nằm trong giới hạn quản lý rủi ro
cho phép hay có thể kiểm soát được của lãnh đạo ngân hàng.
- Phòng thanh toán (Back Office): Đây là phòng có chức năng độc lập, không nhất
thiết phải được đặt ngay cạnh phòng kinh doanh; có nhiệm vụ xác nhận giao dịch,
thực hiện thanh toán, đối chiếu số dư, sao kê tài khoản, v.v…
- Phòng quản lý rủi ro (Mid Office): Có nhiệm vụ kiểm tra theo dõi, giám sát các
hạn mức mà mỗi Dealer được phép sử dụng, tránh không để cán bộ kinh doanh vượt
ra ngoài khuôn khổ thẩm quyền và quá mạo hiểm trong kinh doanh, nhất là nghiệp
vụ đầu cơ.
Rủi ro hoạt động (RRHĐ), theo Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng, là rủi
ro gây ra tổn thất do các nguyên nhân như con người, sự không đầy đủ hoặc vận
hành không tốt các quy trình, hệ thống; các sự kiện khách quan bên ngoài. RRHĐ
bao gồm cả rủi ro pháp lý nhưng loại trừ về rủi ro chiến lược và rủi ro uy tín, Basel
Committee (2001). Thông qua các nguyên tắc của Ủy ban Basel II, và thực tiễn
thành công cũng như thất bại của nhiều ngân hàng trên thế giới về quản trị RRHĐ,
các nhà lãnh đạo NHTM cần thực hiện những yêu cầu sau nhằm hạn chế RRHĐ
trong hoạt động KDNH:
Thứ nhất: Đối với các NHTM tại TP.HCM, tất cả các cấp từ HĐQT, BTGĐ,
và tất cả các nhân viên đều phải nhận thức được tầm quan trọng của RRHĐ. HĐQT
cần thuê tư vấn xây dựng khung quản trị RRHĐ phù hợp cho ngân hàng mình và
137
môi trường kinh doanh. Trong đó, hai vấn đề chủ chốt cần được đầu tư là: Xây
dựng và hoàn thiện chiến lược cho quản trị RRHĐ, và hoàn thiện cấu trúc quản trị
RRHĐ, đặc biệt là cấu trúc tổ chức. Chiến lược quản trị RRHĐ thường bao gồm các
vấn đề sau đây: (i) xác định RRHĐ và nhận biết các nguyên nhân gây RRHĐ, (ii)
mô tả hồ sơ rủi ro (ví dụ: các rủi ro chính của các quy trình quản lý phụ thuộc vào
quy mô, sự phức tạp của hoạt động KDNH); (iii) Mô tả về các trách nhiệm quản lý
rủi ro hoạt động vào tổng thể quản lý rủi ro nói chung của ngân hàng.
Thứ hai, xây dựng ý thức về quản trị RRHĐ trong toàn hệ thống, lựa chọn
các lĩnh vực ưu tiên để thiết lập các chốt kiểm soát về RRHĐ. Tất cả các nhân viên
trong phòng KDNH cần được đào tạo để hiểu biết và tham gia tự xác định RRHĐ –
xác định nguyên nhân, đánh giá trong tất cả các rủi ro hiện có trong tất cả sản phẩm,
hoạt động, quy trình và hệ thống phòng KDNH. Các chốt kiểm soát về RRHĐ được
lựa chọn dựa trên các tiêu chí: lĩnh vực có lợi nhuận cao, là nghiệp vụ cơ bản của
phòng KDNH, có thể gây tổn thất nặng nề nếu xảy ra rủi ro.
Thứ ba, xây dựng ngân hàng dữ liệu về RRHĐ và sử dụng công nghệ hiện
đại trong phân tích, xử lý RRHĐ. Các NHTM cần nhanh chóng xây dựng các quy
trình hướng dẫn để thu thập thêm các thông tin tổn thất. Nếu có điều kiện, tối ưu
hóa công nghệ hiện đại để phân tích, đánh giá và xử lý RRHĐ. Các NHTM nên
tham gia các tổ chức bên ngoài, tăng cường đối thoại với các ngân hàng khác,
NHNN để chia sẻ thông tin tổn thất. NHNN, Hiệp hội Ngân hàng và các NHTM
nhanh chóng hiện thực hóa các khuyến nghị đã đưa ra trong hội thảo của Ngân hàng
Nhà nước tháng 1/2009 về RRHĐ về việc thành lập ngân hàng dữ liệu chung của
RRHĐ.
Thứ tư, hạn chế tối đa nguyên nhân gây ra RRHĐ từ các yếu tố bên trong
NHTM như con người, quy trình, hệ thống. Các chính sách quản trị nhân lực cần
hướng tới mục tiêu xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao, đạo đức nghề
nghiệp tốt; các quy trình nghiệp vụ cần được rà soát thường xuyên, hoàn thiện hóa,
tránh quá cứng nhắc và có lỗ hổng. Hệ thống công nghệ thông tin và vận hành cần
được bảo dưỡng và cập nhật thường xuyên. Những chức năng cơ bản của những
138
phần mềm ứng dụng cho RRHĐ ít nhất cần bao gồm (i) Nhập dữ liệu được phân
cấp (dữ liệu tổn thất, các chỉ số rủi ro, các phản hồi để đánh giá rủi ro), (ii) Tập
trung đánh giá trên mọi phạm vi kinh doanh (xác định của quy định điều chỉnh và
vốn đầu tư, sự tập hợp và sự so sánh các kết quả mọi thành phần rủi ro hoạt động
báo cáo cho HĐQT (iii) Tập trung và/hoặc phân cấp quản lý.
Cuối cùng là hạn chế tối đa các nguyên nhân RRHĐ bên ngoài, xây dựng
các phương án, đưa ra tình huống để sẵn sàng đối phó cũng như khắc phục kịp thời
hậu quả do các lỗi truyền thông, thiên tai, hoả hoạn gây ra RRHĐ. Giải pháp cơ bản
cho việc đưa ra quyết định lựa chọn thay thế là: công nhận rủi ro hiện hữu, chuyển
đổi rủi ro cho bên thứ ba. (ví dụ thông qua các hợp đồng phái sinh); tránh rủi ro
bằng cách ngừng các hoạt động kinh doanh; giảm thiểu rủi ro hoạt động bằng đo
lường các rủi ro khác (chẳng hạn như mở rộng của hệ thống kiểm soát, giới thiệu về
công nghệ thông tin cho hệ thống tự động nhận dạng sai sót). Những biện pháp này
được bổ sung liên tục nhằm hạn chế tổn thất và tạo điều kiện thuận lợi cho sự tiếp
tục kinh doanh trong trường hợp không ngăn chặn được rủi ro.
3.2.2. Sử dụng công cụ hạn mức
Hạn mức (position limits) là giới hạn trạng thái ngoại hối tối đa mà mỗi tổ
chức, cá nhân kinh doanh ngoại hối được phép thực hiện. Tùy theo kinh nghiệm,
trình độ, mục đích kinh doanh, năng lực tài chính và trang thiết bị mà hạn mức giữa
các tổ chức, giữa các Dealer là không giống nhau. Việc quản lý hạn mức kinh doanh
của các NHTM tại TP.HCM có thể căn cứ vào một số tiêu chí như sau:
Hạn mức chung cho cả phòng KDNH, trên cơ sở đó phân bổ hạn mức cho từng
Dealer cụ thể. Nguyên tắc phân bổ hạn mức cho từng Dealer chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm thâm niên và năng lực kinh doanh trên Forex. Những Dealer
chuyên nghiệp, có thâm niên, đã gặt hái được nhiều thành công thường là
những Dealer chính (chief dealer) được giao hạn mức cao hơn rất nhiều so với
những Dealer mới.
139
Hạn mức theo các đồng tiền kinh doanh: Ngoài việc quy định tổng hạn mức
chung, khi một danh mục ngoại hối có liên quan đến nhiều loại, thì việc quy
định hạn mức kinh doanh đối với mỗi loại là cần thiết. Những loại ngoại hối ít
biến động thì hạn mức có thể cao, còn biến động mạnh thì hạn mức thấp.
Hạn mức cho các loại nghiệp vụ cụ thể, ví dụ hạn mức giao ngay, kỳ hạn, tương
lai hoán đổi và quyền chọn.
Sau đây là phương pháp quản lý và đánh giá đối với một số trạng thái chính,
thông dụng trong hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần TP.HCM:
Trạng thái giao ngay:
Do đặc thù của thị trường giao ngay là chịu sự tác động bởi các yếu tố ngắn
hạn lên tỷ giá và giá. Những tin đồn, những cuộc giao dịch lớn, can thiệp của
NHTW, những biến cố bất ngờ xảy ra, v.vv… đều có thể ảnh hưởng nhanh chóng
và mạnh mẽ lên sự biến động tỷ giá và giá. Những biến động đến ngạc nhiên của tỷ
giá và giá chỉ diễn ra trong vài phút, do đó, các Dealer phải nhanh chóng và thường
xuyên thay đổi trạng thái kinh doanh để chớp cơ hội kiếm lãi hoặc thoát khỏi rủi ro.
Tại bất kỳ thời điểm nào, nếu Dealer duy trì trạng thái giao ngay (trạng thái mở) đều
phải chịu rủi ro tỷ giá và giá. Tỷ giá biến động càng mạnh thì rủi ro càng lớn. Để
quản lý tiềm năng thu lãi và tiềm ẩn lỗ vốn, người ta sử dụng kỹ thuật định giá cuối
mỗi ngày giao dịch. Căn cứ vào trạng thái cuối ngày, từng Dealer phải định giá kết
quả kinh doanh của chính mình theo tỷ giá đóng cửa của ngày giao dịch. Kết quả
này phải được báo cáo cho Dealer chính và lãnh đạo phòng KDNH.
Trạng thái kỳ hạn:
Trên TTLNH, các giao dịch kỳ hạn thường thuộc loại Spot - Forward Swap,
nghĩa là mỗi giao dịch gồm hai vế là: vế giao ngay áp dụng tỷ giá giao ngay, còn vế
kỳ hạn áp dụng tỷ giá kỳ hạn, và hai vế có ngày giá trị khác nhau. Do đó, trạng thái
ròng của giao dịch kỳ hạn phụ thuộc vào độ lệch giữa tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá giao
ngay. Tỷ giá kỳ hạn được hình thành trên cơ sở chênh lệch lãi suất giữa hai đồng
tiền. Trong điều kiện bình thường, các mức lãi suất tiền tệ là ổn định, làm cho các
điểm kỳ hạn biến động cũng ít. Lãi suất không tăng lên nhanh chóng rồi sau đó lại
140
giảm xuống nhanh chóng giống như tỷ giá giao ngay. Do đó, nếu Dealer dự tính sai
lầm về hướng biến động của lãi suất, thì ít có cơ hội để khắc phục thua lỗ nặng nề
trong tương lai. Kinh doanh kỳ hạn không thể có tốc độ nhanh như kinh doanh giao
ngay. Dealer kỳ hạn không thể thay đổi thường xuyên trạng thái kỳ hạn, mà nó
thường được duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
Cũng giống như giao ngay, trạng thái kỳ hạn ròng cuối ngày cũng có thể
trường hoặc đoản, bao gồm các trạng thái của tất cả các hợp đồng còn hiệu lực và
có các ngày giá trị khác nhau. Việc định giá kết quả kinh doanh kỳ hạn hằng ngày
được tính theo phương pháp giả định rằng tất cả các hợp đồng kỳ hạn còn hiệu lực
đều được thanh lý ngay lập tức theo tỷ giá kỳ hạn cuối ngày hôm đó áp dụng tương
ứng cho từng kỳ hạn. Ngoài việc định giá lại hằng ngày các trạng thái kỳ hạn, để
quản lý rủi ro tỷ giá tốt hơn, các Dealer kỳ hạn còn phải duy trì hạn mức cho từng
kỳ hạn cụ thể theo quy tắc kỳ hạn càng dài hạn mức càng thấp.
3.2.3. Sử dụng các phương pháp dự báo tỷ giá
Các NHTM cổ phần tại TP.HCM cần sử dụng thường xuyên các phương
pháp phân tích sau trong quá trình duy trì trạng thái ngoại hối của ngân hàng cũng
như tư vấn hổ trợ cho các giao dịch ngoại hối của khách hàng. Các phương pháp
này bao gồm:
Phân tích cơ bản (Fundamental analysis)
Là phương pháp phân tích tập trung vào việc nghiên cứu các lý do hoặc
nguyên nhân làm cho giá tăng lên hoặc giảm xuống. Phương pháp này chú ý đến
các lực lượng tác động đến cung cầu tiền tệ trên thị trường: lãi suất, lạm phát, tăng
trưởng kinh tế, xuất nhập khẩu, đầu tư, ... Ý tưởng của phương pháp này là tiến đến
một giá trị dự đoán về giá trị sinh lời tiềm ẩn của một thị trường để xác định xem thị
trường được đánh giá cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thực. Các lý thuyết chính của
phân tích cơ bản là : Lý thuyết đồng giá sức mua (PPP), lý thuyết ngang giá lãi suất
(IRP), mô hình cán cân thanh toán quốc tế, mô hình thị trường vốn,…
141
Phân tích kỹ thuật (Technical analysis)
Đơn giản là một phương pháp dự báo dựa vào nghiên cứu về quá khứ, tâm lý
và quy luật xác suất. Phân tích kỹ thuật chủ yếu là dựa vào đồ thị tỷ giá/giá và số
lượng mua bán của quá khứ đã được tập hợp lại để dự đoán khuynh hướng của tỷ
giá/giá trong tương lai, từ đó giúp các Dealer có một danh mục ngoại hối đạt tỷ suất
lợi nhuận cao và hạn chế được rủi ro thua lỗ. Phân tích kỹ thuật có tính linh hoạt,
dễ sử dụng và nhanh chóng, những Dealer ngắn hạn, trung hạn, dài hạn được tự do
chọn lựa. Điều lưu ý là phân tích kỹ thuật có thể là công cụ giúp ta dự báo xu hướng
đúng, nhưng nó phải được sử dụng theo nguyên tắc đã được tính toán chứ không
phải theo cảm tính. Thời gian lập biểu đồ phân tích là do mỗi Dealer lựa chọn có thể
sử dụng phân tích kỹ thuật trong ngày (các dạng 5 phút, 30 phút hay mỗi giờ), trong
tuần hoặc trong tháng. Các lý thuyết chính của phân tích kỹ thuật là: lý thuyết Dow,
lý thuyết Fibonacci, lý thuyết Elliott Wave. Trong phân tích kỹ thuật có các giả
định: thị trường phản ứng trước mọi sự kiện xảy ra, giá cả biến động theo một
khuynh hướng nhất định, sự biến động giá cả thường lập lại theo chu kỳ và có sự
lập lại của giá cả trong quá khứ vào tương lai.
Phân tích kỹ thuật sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau để làm rõ
tình hình hiện tại và dự đoán các diễn biến tiếp theo của thị trường. Các giao dịch
kỹ thuật được tự động hóa là một ưu điểm lớn của phân tích kỹ thuật. Còn nhược
điểm lớn nhất của phân tích kỹ thuật là, trên thực tế, nó hoàn toàn dựa vào dữ liệu
lịch sử mà lịch sử thì không phải bao giờ cũng lặp lại. Vì thế, tín hiệu từ các chỉ số
có thể không phản ánh kịp thời tình hình đang diễn ra trên thị trường. Phân tích kỹ
thuật nghiên cứu kết quả của một mô hình chứ không nghiên cứu các nguyên nhân
tạo ra mô hình đó. Mặc dù một sự kiện có thể gây ra những tác động rất lớn tới thị
trường những cũng không có gì bảo đảm chắc chắn là giá cả sẽ có những thay đổi
ngay sau sự kiện này. Một nhược điểm khác của phân tích kỹ thuật là các chỉ số có
thể dẫn tới sự hiểu nhầm hoặc hiểu không chính xác trong các tình huống khác nhau
trên thị trường. Tình trạng các Dealer áp dụng chiến lược giao dịch tương tự nhau
nhưng lại thu được kết quả khác xa nhau rất thường xuyên xảy ra. Lý do là các chỉ
142
số được áp dụng trong các khoảng biên độ thời gian khác nhau, các tín hiệu được
hiểu khác nhau, và chiến lược kiểm soát rủi ro được áp dụng cũng khác nhau. Nói
cách khác, phân tích kỹ thuật rất đa dạng. Quan điểm cá nhân của Dealer cũng có
ảnh hưởng đến việc anh ta diễn giải các dữ liệu lịch sử và dữ liệu mới cập nhật như
thế nào. Bên cạnh đó, còn có tình trạng, dù hiếm khi xảy ra, các biểu đồ giá và các
chỉ số sử dụng với cùng biên độ thời gian lại có sự khác biệt trên các phần mềm
giao dịch, tùy thuộc vào nguồn trích dẫn tỷ giá/giá hoặc việc cài đặt phần mềm này.
Thoạt nghe qua thì phân tích kỹ thuật có vẻ hoàn toàn không đáng tin nhưng sự thực
không phải như vậy. Dù Dealer sử dụng các phần mềm và nguồn trích dẫn tỷ giá/giá
khác nhau thì kết quả của phân tích kỹ thuật cũng không bị ảnh hưởng, đặc biệt là
trong dài hạn. Phân tích giúp chúng ta có thể hiểu được tình hình hiện tại của thị
trường và dự báo những diễn biến tiếp theo của nó.
Một điểm quan trọng cần ghi nhớ là việc diễn giải các biểu đồ giá cũng có
thể khác nhau tùy thuộc vào thiết kế hình ảnh của bản thân các biểu đồ đó. Biểu đồ
đường thẳng, biểu đồ thanh, biểu đồ hình nến, … mỗi loại đều có đặc trưng riêng.
Ví dụ, biểu đổ hình nến thể hiện được những yếu tố mà biểu đồ đường thẳng không
thể hiện được. Các Dealer không nên tự ép mình chỉ sử dụng một loại biểu đồ hay
một vài chỉ số. Với phân tích kỹ thuật nói chung, càng có nhiều quan điểm khi phân
tích và càng có nhiều diễn giải được minh họa bằng hình ảnh của dữ liệu thì Dealer
càng có cơ hội xem xét thông tin dưới nhiều góc độ khác nhau, và điều này giúp cải
thiện sự sâu sắc và chất lượng của phân tích được thực hiện dựa trên các dữ liệu đó.
Như vậy mỗi loại hình phân tích có những điểm mạnh và điểm yếu riêng. Vì
vậy Dealer phải linh hoạt sử dụng các công cụ này cộng với quyết định trực quan
của mình để ra quyết định nhanh chóng và chính xác.
3.2.4. Sử dụng công cụ lệnh
Một phương pháp khác để hạn chể rủi ro trong KDNH là các Dealer có thể
đưa ra các lệnh rằng, nếu có những thay đổi nhất định trên thị trường phù hợp với
các lệnh đã được đưa ra trước đó, thì giao dịch được tự động thực hiện. Chính việc
143
làm này chắc chắn sẽ làm giảm đi những khoản lỗ ngoài dự kiến và giúp các Dealer
kiểm soát tốt hoạt động KDNH của ngân hàng mình. Trong mỗi lệnh, phải nói rõ
giá cả, các thông số để trên cơ sở đó một giao dịch có thể thực hiện. Các lệnh phổ
biến hiện nay đó là:
Limit order: Tại tỷ giá/giá đã được xác định, lệnh được tiến hành thực hiện. Đôi
khi, chỉ một phần của lệnh có thể được thực hiện tại mức tỷ giá/giá đã xác định.
Như vậy, lệnh này phải phân biệt ở chỗ rằng, giao dịch có thể được thực hiện từng
phần hay phải thực hiện toàn bộ lệnh tại cùng một thời điểm.
Stop - loss order: Dealer có thể đang ở trạng thái trường hay đoản đối với một
loại ngoại hối nào đó, muốn giới hạn các khoản lỗ tiềm tàng. Bản chất của lệnh này
là nhằm phòng ngừa rủi ro lớn có thể xảy ra. Lệnh Stop - loss order chưa được thực
hiện chừng nào tỷ giá/giá trên thị trường biến động chưa đến tỷ giá/giá giới hạn cho
phép.
Take - profit order: Dealer có thể đang ở trạng thái trường hay đoản đối với một
loại ngoại hối nào đó, muốn thoát khỏi trạng thái ngoại hối này khi đạt được một
mức lãi nhất định. Tương tự như lệnh Stop - loss order, Take - profit order được
thiết kế, khi thị trường biến động đến một mức độ nhất định nào đó, thì lệnh được
thực hiện.
3.3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO KINH
DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN TẠI TP.HCM
3.3.3 Các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường trong hoạt động quản lý rủi ro
kinh doanh ngoại hối
3.3.3.1 . Thiết lập trạng thái ngoại hối hợp lý và phù hợp
Thời điểm phát sinh trạng thái ngoại tệ là ngay tại thời điểm chuyển giao
quyền sở hữu về ngoại tệ, tức tại thời điểm ký kết hợp đồng chứ không phải tại thời
điểm thanh toán, cho dù việc thanh toán thực sự xảy ra sau 3 tháng kể từ ngày ký
144
kết hợp đồng. Nếu tài sản có lớn hơn tài sản nợ thì ngoại tệ ở trạng thái trường;
ngược lại, nếu tài sản có nhỏ hơn tài sản nợ thì ngoại tệ ở trạng thái đoản.
Một NHTM huy động vốn bằng ngoại tệ và sau đó dùng toàn bộ vốn huy
động được để cho vay cũng bằng ngoại tệ, tức không có sự chuyển đổi mua bán
nào, thì cho dù tỷ giá biến động thế nào, NHTM cũng không chịu rủi ro tỷ giá bởi vì
trạng thái ngoại tệ không được tạo ra. Cho nên, chỉ khi NHTM duy trì trạng thái
ngoại tệ mở khác 0, tức duy trì trạng thái tài sản có và tài sản nợ nội và ngoại bảng
không cân xứng với nhau, khi đó, rủi ro phát sinh theo hướng biến động của tỷ giá
như sau:
Nếu NHTM duy trì trạng thái ngoại tệ trường, tức TSCF > TSNF (trong đó,
TSC và TSN là các tài sản có và tài sản nợ gồm cả nội và ngoại bảng, F là
một loại ngoại tệ): thì khi tỷ giá tăng (tức ngoại tệ F lên giá, còn nội tệ giảm
giá) làm phát sinh lãi ngoại hối; ngược lại, khi tỷ giá giảm (tức ngoại tệ F
giảm giá, còn nội tệ lên giá) làm phát sinh lỗ ngoại hối. Trong trường hợp
này để phòng ngừa tỷ giá giảm thì ngân hàng có thể bán kỳ hạn hoặc mua
quyền chọn bán số ngoại tệ có đó trên thị trường ngoại hối
Nếu NHTM duy trì trạng thái ngoại tệ âm, tức TSCF < TSNF: thì khi tỷ giá
tăng (tức ngoại tệ F lên giá, còn nội tệ giảm giá) làm phát sinh lỗ ngoại hối;
ngược lại, khi tỷ giá giảm (tức ngoại tệ F giảm giá, còn nội tệ lên giá) làm
phát sinh lãi ngoại hối. Trong trường hợp này để phòng ngừa tỷ giá tăng thì
ngân hàng có thể mua kỳ hạn hoặc mua quyền chọn mua số ngoại tệ có đó
trên thị trường ngoại hối
Nếu NHTM duy trì trạng thái ngoại tệ cân bằng (square position), tức TSCF
= TSNF: thì khi tỷ giá tăng hay giảm cũng không làm phát sinh lãi hay lỗ
ngoại hối đối với NHTM.
145
Các trường hợp Tỷ giá không đổi Tỷ giá tăng Tỷ giá giảm
TSCF = TSNF Lợi nhuận
không thay đổi Lợi nhuận
không thay đổi
Lãi ngoại tệ Lỗ ngoại tệ TSCF > TSNF
Lỗ ngoại tệ Lãi ngoại tệ TSCF < TSNF Lợi nhuận
không thay đổi
Lợi nhuận
không thay đổi
Lợi nhuận
không thay đổi
NHTM thiết lập trạng thái ngoại hối hợp lý theo từng thời kỳ của nền kinh tế
và có tính chiến lược, thể hiện ở chổ các ngân hàng không chỉ nên chạy theo và đối
phó với thực trạng cung cầu ngoại tệ trên thị trường ở từng thời điểm kinh doanh,
mà còn cần phù hợp với mức rủi ro mà ngân hàng chấp nhận được.
Việc duy trì trạng thái ngoại tệ hợp lý còn thể hiện ở chổ các ngân hàng cần
dựa vào điều kiện của nền kinh tế từng thời kỳ cũng như dự báo được các thay đổi
chính sách của thời kỳ đó. Điển hình như trong thời kỳ 2005- 2006, các NHTM
thường duy trì trạng thái ngoại hối đoản là do những nguyên nhân như: đặc điểm
của thị trường ngoại hối Việt Nam thời gian này theo hướng một chiều, cầu về
ngoại tệ luôn lớn hơn cung ngoại tệ, do vậy mà doanh số mua vào nhỏ hơn doanh số
bán ra và điều này dẫn tới trạng thái ngoại tệ của các Ngân hàng thường ở trạng thái
đoản; ngoài ra mức tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng mà NHNN công bố
thường ổn định trong thời gian dài, hầu như không có biến động lớn; và lãi suất cho
vay VNĐ thường cao hơn nhiều so với lãi suất cho vay của các loại ngoại tệ như
USD, EUR và JPY, vì thế các Ngân hàng sẵn sàng bán ngoại tệ đổi lấy nội tệ và cho
vay nội tệ để hưởng lãi suất cao, đến hạn hoàn trả ngoại tệ họ mua lại ngoại tệ vào
và khoản lãi thu được từ cho vay VNĐ luôn lớn hơn khoản thua lỗ do tỷ giá tăng,
trong khi đó chính sách tỷ giá mà NHNN theo đuổi lại ổn định trong thời gian dài.
Trong khi đó, từ cuối năm 2006 đến những tháng đầu quý I/2008, trạng thái ngoại tệ
của các NHTM lại ở tình huống ngược lại, đó là luôn ở mức dư thừa. Nguyên nhân
của tình trạng này là do: nguồn cung ngoại tệ cho các NHTM tăng nhanh vào lúc thị
trường chứng khoán Việt Nam thời gian này phát triển với tốc độ khá nóng, khiến
146
cho các nhà đầu tư nước ngoài đổ xô chuyển vốn đầu tư vào thị trường Việt Nam,
vốn được chuyển bằng USD và sau đó chuyển sang VNĐ để kinh doanh chứng
khoán dẫn đến cung ngoại tệ tăng mạnh; ngoài nguồn vốn đầu tư gián tiếp thì nguồn
vốn đầu tư trực tiếp FDI thực hiện trong năm 2007 cũng như trong quý I/2008 tăng
cao, cụ thể trong quý I/2008, tính chung cả vốn cấp mới và tăng thêm thì cả nước đã
thu hút thêm 5,436 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký, tăng 31% so với cùng kỳ năm 2007
đã làm tăng nguồn cung USD của các NHTM; đồng thời vào thời điểm này, FED
liên tục cắt giảm lãi suất đã làm cho đồng USD giảm giá mạnh so với các tiền tệ
khác như EUR, JPY,… cũng làm cho dòng vốn đầu tư chuyển vào các nước có lãi
suất đồng nội tệ cao và tỷ giá ổn định.
Việc tạo ra trạng thái ngoại hối hợp lý còn dựa trên việc duy trì trạng thái
theo đúng quy định của NHNN, không chỉ đến cuối ngày mà duy trì trạng thái ngoại
hối cả ngay trong ngày làm việc. Do đó, nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh
ngoại tệ, NHNN cần cân nhắc phương pháp quản lý trạng thái ngoại tệ thường
xuyên tại bất kỳ thời điểm nào.
Trên lý thuyết, việc thu hẹp trạng thái ngoại tệ của các TCTD đồng nghĩa với
việc giảm mức độ linh hoạt trong giao dịch ngoại tệ của các tổ chức, cũng giống
như việc quy định biên độ dao động tối đa đối với tỷ giá hàng ngày. Tuy nhiên, việc
giới hạn các mức dư thừa hay dư thiếu quá lớn so với trạng thái ngoại hối hợp lý
của NHTM cho phép các Ngân hàng hoạt động giao dịch ngoại tệ mạnh hơn, hiệu
quả hơn và giảm đi rủi ro. Hơn nữa, đây cũng là một trong những công cụ để điều
hành chính sách tiền tệ của NHNN mà NHNN đã lãng quên trong suốt hơn 10 năm
qua. Trên bình diện vĩ mô của nền kinh tế, trạng thái ngoại tệ của các NHTM càng
co hẹp thì càng hạn chế được khả năng đầu cơ ngoại tệ và đây chính là cách để làm
giảm đi rủi ro trong hoạt động KDNH của các NHTM.
Duy trì trạng thái ngoại tệ hợp lý còn là việc các NHTM không quá ỷ lại vào
biên độ tỷ giá mà NHNN điều hành hàng năm, tại vì với các lý do sau:
Biên độ tỷ giá mà NHNN điều chỉnh trong năm thường được NHNN dự báo
sớm từ đầu năm và việc dự báo đó chỉ mang tính định hướng, các NHTM
147
không nên thiết lập trạng thái ngoại tệ của ngân hàng hàng ngày theo dự báo
đó. Biên độ tỷ giá đó có thể biến động ngoài dự báo.
Sự biến động của tỷ giá ngoại tệ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trên thị
trường trong nước và thế giới.
Việc mua hay bán ngoại tệ của NHTM không chỉ dựa vào nguồn ngoại tệ có
từ việc bán hay mua ngoại tệ của các NHTM, mà rất có thể sử dụng từ các
nguồn huy động ngoại tệ khác nhau. Tỷ giá biến động bất lợi và các nguồn
huy động đến thời điểm phải trả gây ra cho các ngân hàng nhiều rủi ro.
Việc duy trì trạng thái ngoại tệ hợp lý còn giúp giải phóng bớt lượng ngoại tệ
bị “đọng” ở Ngân hàng do tích trữ quá lớn, đưa vào lưu thông góp phần ổn định tỷ
giá. Đứng trên góc độ quản lý vĩ mô, việc giảm tỷ lệ của trạng thái ngoại hối theo
Thông tư 07, NHNN muốn đưa ra một định hướng chính sách quản lý ngoại hối
mới theo hướng chủ động hơn và giúp giảm dần tình trạng đôla hóa trong nền kinh
tế. Theo đó, từng bước giảm bớt huy động và cho vay bằng ngoại tệ trong hệ thống
Ngân hàng, đồng thời dần chuyển sang quan hệ mua và bán. Khi hoạt động vay
mượn giảm bớt cộng với việc trạng thái ngoại tệ bị thu hẹp còn 20% (theo thông tư
số 07/2012/TT-NHNN) mở ra một cơ chế mua bán ngoại tệ rộng hơn trong các
Ngân hàng.
Bên cạnh việc duy trì trạng thái ngoại tệ hợp lý dựa vào các nội dung trên,
các ngân hàng cũng cần duy trì trạng thái vàng hợp lý trong từng thời kỳ dựa vào
các yếu tố như: dự báo được tình hình biến động giá vàng trong và ngoài nước, mức
độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng, sự thay đổi chính sách quản lý vàng của
NHNN Việt nam, v.v...
Vì các lý do trên, việc duy trì một trạng thái ngoại hối hợp lý và phù hợp với
mức độ rủi ro của từng ngân hàng, các NHTM đã và đang cùng với NHNN quản lý
hiệu quả được hoạt động KDNH trong nội bộ NHTM và giúp hoạt động của thị
trường ngoại hối ngày càng hiệu quả và ổn định hơn.
148
3.3.3.2 . Sử dụng mô hình định lượng rủi ro VAR
Trên thực tế áp dụng, VaR không đưa ra một phương pháp phù hợp chung
nào để đo lường rủi ro cho tất cả các tình huống xảy ra trong các giao dịch ngoại
hối. Các mô hình VaR khác nhau sẽ đưa ra các kết quả VaR khác nhau. Bằng cách
thông qua kỹ thuật lượng hóa, VaR chỉ có thể đo lường được mức độ rủi ro mà nó
thu thập được; VaR không đo lường rủi ro chính sách, rủi ro thanh khoản, rủi ro con
người, hoặc rủi ro quy trình, qui định; VaR không đo lường rủi ro tác nghiệp.
Sự cuốn hút lớn nhất của VaR là nó biểu diễn rủi ro dưới dạng một con số
bằng một loại đồng tiền duy nhất. VaR được định nghĩa là số tiền lớn nhất mà một
danh mục ngoại tệ hay vàng có thể bị thua lỗ với một độ tin cậy xác định, thông
thường ở mức 99%. Giả sử như VaR theo ngày của một danh mục các loại ngoại tệ
của NHTM được tính là 50 triệu USD thì có nghĩa là đến ngày hôm sau, mức thua
lỗ của danh mục đó có 99% xác suất sẽ nhỏ hơn 50 triệu USD. Nói cách khác chỉ có
1% xác suất là mức thua lỗ sẽ vượt 50 triệu USD. Danh mục để tính VaR trong
KDNH có thể là vàng, ngoại tệ, công cụ phái sinh hay tổng hợp của các loại này.
Hơn thế, nó không chỉ đo được rủi ro của một danh mục ngoại hối đơn lẻ của một
nhân viên kinh doanh, mà có thể cộng dồn các cấp độ cao hơn như phòng, ban cho
đến rủi ro của cả NHTM. Vào cuối ngày giao dịch là các nhà quản lý Ngân hàng có
được VaR của mình dưới dạng một con số duy nhất và có thể so sánh với VaR của
bất kỳ một Ngân hàng nào khác dù nghiệp vụ kinh doanh rất khác nhau.
Các nhà quản lý ưa chuộng VaR không phải vì VaR đo lường được hết mọi
rủi ro mà vì VaR khiến cho việc quản lý rủi ro trực quan, cụ thể và dễ dàng hơn rất
nhiều. VaR còn được chuẩn hóa quốc tế trong tiêu chuẩn Basel II cho các Ngân
hàng. Tuy nhiên, vấn đề trong sử dụng VaR là ở xác xuất 1% kia - xác suất của các
biến cố hiếm hoi. Việc chúng ta xác định được số tiền tối đa mà chúng ta có thể
thua lỗ trong 99% thời gian không nói lên điều gì sẽ xảy ra ở xác xuất của 1% còn
lại. Nếu trong một năm NHTM có khoảng 2 hay 3 lần lỗ (khoảng 1% trên tổng số
hơn 250 ngày giao dịch) đến 51 hay 58 triệu đô la, mức VaR 50 triệu đô la thật hữu
149
hiệu. Nhưng nếu chỉ cần một lần Ngân hàng lỗ 1 tỉ USD trong cả năm, lúc đó công
thức tính VaR vẫn đúng, nhưng Ngân hàng của chúng ta lại phá sản.
Đó chính là những biến cố hiếm hoi mà chúng ta thường lờ đi, coi rằng việc
được đảm bảo đến 99% thời gian là đủ. VaR chỉ tiếp cận các biến cố lớn trên
phương diện tần số xuất hiện (nhỏ hơn 1%) chứ không phải trên phương diện độ lớn
của nó. Hơn nữa, VaR thông thường được tính toán trên các dữ liệu lịch sử hạn chế,
thường là 2-3 năm, khi mà các biến cố lớn không xảy ra và VaR được dùng để dự
đoán rủi ro cho khoảng thời gian ngắn có thể là 1 ngày hoặc nhiều hơn là 10 ngày.
Một khi có rủi ro xảy ra ở phần xác suất 1%, thì việc vận dụng VaR trong việc xác
định mức lỗ tối đa trong độ tin cậy 99% vẫn tiếp tục đúng. Tuy vậy, không phải
VaR không có tác dụng mà thậm chí là một công cụ hữu hiệu trong việc xác định
mức rủi ro tối đa mà NHTM có thể gặp phải trong một xác xuất cho trước, nhưng
phương pháp này không hoàn hảo. Phương pháp này phát huy tác dụng trong phần
lớn các hoạt động giao dịch ngoại hối của NHTM, nhưng khi sự không hoàn hảo
của phương pháp diễn ra, kết quả kinh doanh của Ngân hàng bị biến động theo
chiều hướng tiêu cực. Bài học lớn mà các NHTM cần ý thức được là sự tồn tại của
những rủi ro trong tương lai có thể lớn chưa từng có trong quá khứ. Việc tiếp cận,
đo lường và định lượng hóa nó là một điều rất khó khăn và cần thận trọng.
Mô hình đo lường rủi ro Var được áp dụng tại Eximbank theo tình huống:
Ngân hàng Eximbank mua vào 2000 chỉ vàng ngày 15/07/2012 với giá vàng
là 4.200.000 đồng/chỉ. Ngày 16/7/2012 Ngân hàng xác định tổng lỗ dự kiến bao
gồm lỗ do giá vàng giảm giá từ 4.200.000 đồng/chỉ xuống 4.100.000 đồng/chỉ và
các mức lỗ dự kiến với khả năng 99% và 95% tương ứng với kết quả trong bảng
tính 3.2 bên dưới theo các công thức đã nêu trong phần 1.2.2.5 của chương 1 Luận
án này về sử dụng mô hình VaR để xác định mức lỗ tối đa có thể xảy ra. Các bảng
số liệu này được tính toán dựa trên số liệu thống kê giá vàng thực tế tại TP.HCM từ
ngày 11/12/2009 đến ngày 16/06/2012 (750 ngày) (Bảng 1 ở phụ lục cuối Luận án).
150
Bảng 3.2 – Bảng chi tiết tính toán VaR cho vàng (trạng thái trường)
Mô tả thống kê
VaR
Trạng thái vàng
Mean (%)
0,0550
Ngày
16/07/2012
Sốlượng(chỉ)
2.000
Std deviation (%)
0,8615
Giá mua (đ/chỉ)
Giá (đ/chỉ)
4.200.000
Median (%)
0,0381
Giá bán (đ/chỉ)
Mark to market
- 200
4.100.000
4.120.000
Số thống kê
750
Giá trị (tr.đồng)
8.200
Tổng lỗ (tr.đồng)
Min (%)
-6,2859
99%
110,43
- 310,43
VaR
(tr.đồng)
5,4841
76,76
95%
- 276,76
Max (%)
Bảng 3.3 – Bảng kết quả VaR cho vàng (trạng thái trường)
Mức độ tin cậy:99%; Số lượng dữ liệu khảo sát là 750 (từ 11/12/09 – 16/07/12)
Trạng thái
Tham số tính VaR
VaR
(tr.đồng)
Lãi lỗ
đánh giá
(tr.đồng)
Giá thị
trường
(1.000đ
/chỉ)
Dự kiến
lãi (+);
lỗ (-)
(tr.đồng)
Số
lượng
(chỉ)
Giá
(1.000đ
/chỉ)
Tỷ suất
sinh lợi
(%)
Độ
biến
động
giá (%)
Giá trị
tài sản
(tr.đồng
)
2.000
4.200
4.100
0,0550
0,6025
8.200
- 200.00
- 310.43
110.43
2.000
4.200
4.150
0,0566
0,4510
8.300
- 100.00
- 182.38
82.38
2.000
4.200
4.200
0,0582
0,4542
8.400
-
- 83.88
83.88
2.000
4.200
4.250
0,0598
0,6051
8.500
+100.00
- 14.58
114.58
2.000
4.200
4.300
0,0613
0,8231
8.600
+200.00
+40.61
159.39
Do giá mua ngày 15/7/2012 là 4.200.000 đồng/chỉ, đến ngày 16/7/2012 giá
chỉ còn 4.100.000 đồng/chỉ, ngân hàng bị lỗ là 2.000 * 100.000 = 200 triệu đồng.
Cùng với khoản lỗ đó, giá trị lỗ tối đa dự kiến VaR với xác xuất 99% là 110,43 triệu
đồng, với xác xuất 95% khoản lỗ dự kiến VaR là 76,76 triệu đồng. Do đó, tổng
khoản lỗ thực tế và lỗ dự kiến tối đa là: xác xuất 99% là 310,43 triệu đồng, xác xuất
95% là 276,76 triệu đồng.
Trong bảng 3.3, với các giả định giá vàng thị trường biến động từ 4.100.000
đến 4.300.000 đồng/chỉ. Tương ứng với sự biến động giá đó là các khoản lãi/lỗ dự
kiến được liệt kê trong cột cuối cùng của bảng 3.3.
151
Với các kết quả được tính toán trong bảng 3.2 và 3.3 cũng như thu thập số
liệu giá vàng trong bảng 3.1, các chuyên viên kinh doanh của phòng KDNH tính
toán được mức lỗ tối đa một khi thực hiện mua 2.000 chỉ vàng với giá vàng lúc mua
là 4.200.000 đồng/chỉ. Sau khi tính toán, phòng KDNH quyết định là có thực hiện
giao dịch đó hay không. Ngoài ra, phòng QLRR cũng sẽ có các bảng tính tương tự
như vậy, để thực hiện chức năng của phòng là cảnh báo cho phòng KDNH nếu số lỗ
đó vượt quá hạn mức lỗ cho phép, và báo cáo kịp thời trạng thái các giao dịch lên
Ban lãnh đạo ngân hàng. Cùng với đó, NHNN cũng nhận được các báo cáo rủi ro
của các trạng thái kinh doanh ngoại hối hàng ngày của từng ngân hàng, từ đó có các
quản lý và điều chỉnh kịp thời và cuối cùng là bảo đảm an toàn cho hoạt động của
hệ thống ngân hàng nói chung.
Tương tự cách tính toán như trên, ngân hàng Eximbank thực hiện bán 2.000
chỉ vàng với giá 4.200.000 đồng/chỉ vào ngày 15/07/2012, do đến ngày 16/07/2012
giá vàng hạ xuống còn 4.100.000 đồng/chỉ, ngân hàng bị lãi là 2.000 * 100.000 =
200 triệu đồng. Cùng với khoản lãi đó, giá trị lỗ tối đa dự kiến VaR với xác xuất
99% là 113,16 triệu đồng, với xác xuất 95% khoản lỗ dự kiến VaR là 78,71 triệu
đồng. Do đó, tổng khoản lãi thực tế dự kiến tối đa là: xác xuất 99% là 86,84 triệu
đồng, xác xuất 95% là 121,29 triệu đồng.
Bảng 3.4 – Bảng chi tiết tính toán VaR cho vàng (trạng thái đoản)
Mô tả thống kê
Value at Risk
Trạng thái vàng
Mean (%)
0,0542
Ngày
16/07/2012
Sốlượng(chỉ)
-2.000
Std deviation (%)
0,8336
Giá mua (đ/chỉ)
Giá (đ/chỉ)
4.200.000
Median (%)
0,0000
Giá bán (đ/chỉ)
Mark to market
+200
4.080.000
4.100.000
Số thống kê
750
Giá trị (tr.đồng)
8.200
Tổng lỗ/lời (tr.đồng)
-5,7097
99%
113,16
+86,84
Min (%)
VaR
(tr.đồng)
5,5764
95%
78,71
+121,29
Max (%)
152
Bảng 3.5 – Bảng kết quả VaR cho vàng (trạng thái đoản)
Trạng thái
Tham số tính VaR
VaR
(tr.đồng)
Lãi lỗ
đánh giá
(tr.đồng)
Giá thị
trường
(1.000đ
/chỉ)
Dự kiến
lãi (+);
lỗ (-)
(tr.đồng)
Số
lượng
(chỉ)
Tỷ giá
(1.000đ
/chỉ)
Tỷ suất
sinh lợi
(%)
Giá trị
tài sản
(tr.đồng)
Độ
biến
động
giá (%)
-2.000
4.200
4.100
0,0542
0,6165
-8.200
+200,00
113,16
+86,84
-2.000
4.200
4.150
0,0558
0,4555
-8.300
+100,00
83,31
+16,69
-2.000
4.200
4.200
0,0574
0,4446
-8.400
-
82,05
-82,05
-2.000
4.200
4.250
0,0590
0,5873
-8.500
-100,00
111,11
-211,11
-2.000
-200,00
0,0606
-8.600
4.200
4.300
155,30
-355,30
0,8023
(Khi giá vàng thay đổi từ 4.100.000 đến 4.300.000 đồng/chỉ, và mức độ tin
cậy:99%; Số lượng dữ liệu khảo sát là 750 (từ 11/12/09 – 16/07/12).
Trong bảng 3.5, với các giả định giá vàng thị trường biến động từ 4.100.000
đến 4.300.000 đồng/chỉ. Tương ứng với sự biến động giá đó là các khoản lãi/lỗ dự
kiến được liệt kê trong cột cuối cùng của bảng 3.5. Việc sử dụng kết quả tính toán
trong trường hợp giao dịch bán 2.000 chỉ này giống như trong giao dịch mua 2.000
chỉ.
Tại NHTM cổ phần Eximbank tại TP.HCM ngày 15/07/2012 thực hiện một
giao dịch bán 1.000.000 CHF giá giao ngay 1.02386, từ khảo sát thực nghiệm
chúng ta biết được rằng cặp CHF/USD tuân theo luật phân phối chuẩn. Các bảng
tính được thực hiện theo sau đây.
Theo giao dịch trên, tác giả lấy số liệu từ tháng 7/2007 đến tháng 7/2012:
153
Bảng 3.6: Thống kê giá CHF và các kết quả tính toán của tác giả
Rec Var
Rec Var
CHF
CHF
CHF
CHF
Giá
Ngày
Ngày
Giá
CHF
Returns
(ri)
17/7/2012
16/7/2012
13/7/2012
12/7/2012
11/7/2012
10/7/2012
9/7/2012
6/7/2012
5/7/2012
4/7/2012
3/7/2012
2/7/2012
29/6/2012
28/6/2012
27/6/2012
26/6/2012
25/6/2012
CHF
Returns
0.0005%
(ri)
0.97670 0.2148% 0.0005%
0.97880 0.2245% 0.0016%
0.98100 0.4069% 0.0012%
0.98500 0.3458% 0.0001%
0.98160 0.0917% 0.0034%
0.98070 0.5829% 0.0009%
0.97500 0.2765% 0.0070%
0.97770 0.8319% 0.0111%
0.96960 1.0576% 0.0045%
0.95940 0.6798% 0.0004%
0.95290 0.1782% 0.0042%
0.95460 0.6094% 0.0306%
0.94880 1.7655% 0.0006%
0.96570 0.2488% 0.0003%
0.96330 0.1662% 0.0002%
0.96170 0.1040% 0.0029%
0.96070 0.5427% 0.0010%
…….... …….... …….... ……....
…….... …….... …….... ……....
…….... …….... …….... ……....
…….... …….... …….... ……....
1.21980 0.7240% 0.0020%
1.21100 0.4469% 0.0031%
1.20560 0.5573% 0.0005%
1.19890 0.2171% 0.0000%
1.19630 0.0669% 0.0000%
1.19710 0.0167% 0.0017%
1.19730 0.4185% 0.0004%
1.19230 0.1175% 0.0130%
1.19090 1.1521% 0.0000%
1.20470 0.0166% 0.0007%
1.20450 0.2660% 0.0003%
1.20130 0.1497% 0.0022%
1.20310 0.4727% 0.0019%
1.20880 0.4228% 0.0065%
1.20370 0.8109% 0.0000%
1.21350 0.8940%
1.20270
15/8/2007
14/8/2007
13/8/2007
10/8/2007
9/8/2007
8/8/2007
7/8/2007
6/8/2007
3/8/2007
2/8/2007
1/8/2007
31/7/2007
30/7/2007
27/7/2007
26/7/2007
25/7/2007
24/7/2007
Biểu đồ 3.1: Phân phối xác xuất chuẩn của daily return CHFUSD
60
0
240
180
120
Bảng 3.7: Bảng tính toán các số liệu của tác giả
154
Descriptive statistics (Bảng tính toán)
Mean (µ)
0.0160%
Std deviation (Ϭ)
0.82%
0.00022
-0.90494
13.99189
1300
-0.09088
0.04330
0.00262
51.2
Median
Skewness
Kurtosis
Number of Obsevation
(số lần quan sát)
Min
Max
Scott’s choice
Number of Bin
Lambda (λ)
0.944309
Covariance matrix (EWMA)
CHF
AUD
JPY
EUR
GBP
CAD
SGD
EUR 0.00338% 0.00206% 0.00281% 0.00029% 0.00341% 0.00204% 0.00161%
GBP 0.00206% 0.00227% 0.00251% 0.00000% 0.00210% 0.00161% 0.00137%
AUD 0.00281% 0.00251% 0.00491% 0.00067% 0.00281% 0.00275% 0.00246%
JPY 0.00029% 0.00000% 0.00067% 0.00177% 0.00027% 0.00048% 0.00036%
CHF 0.00341% 0.00210% 0.00281% 0.00027% 0.00346% 0.00205% 0.00163%
CAD 0.00204% 0.00161% 0.00275% 0.00048% 0.00205% 0.00235% 0.00152%
SGD 0.00161% 0.00137% 0.00246% 0.00036% 0.00163% 0.00152% 0.00148%
Correlations matrix (EWMA)
CHF
0.9981
0.7482
0.6828
-0.1084
1.0000
0.7194
0.7211
AUD
0.6897
0.7511
1.0000
-0.2271
0.6828
0.8084
0.9106
GBP
0.7449
1.0000
0.7511
-0.0006
0.7482
0.6953
0.7484
JPY
-0.1178
-0.0006
-0.2271
1.0000
-0.1084
-0.2362
-0.2252
EUR
1.0000
0.7449
0.6897
-0.1178
0.9981
0.7243
0.7209
CAD
0.7243
0.6953
0.8084
-0.2362
0.7194
1.0000
0.8176
SGD
0.7209
0.7484
0.9106
-0.2252
0.7211
0.8176
1.0000
EUR
GBP
AUD
JPY
CHF
CAD
SGD
Bảng 3.7: Bảng phân tích trạng thái và kết quả VaR của CHF
Số liệu giao dịch
Asset
Quantity
Last Price date
Last Price
CHF
-1,000,000
17/7/2012
1.02386
155
Bảng tính VaR
Asset
Last Value
VaR (99%)
VaR (95%)
CHF
-1,023,856
14,518
10,313
Qua kết quả tính toán ở trên, với giao dịch bán 1.000.000 CHF giá giao ngay
CHF/USD = 1.02386 tại NHTM Eximbank TP.HCM ngày 15/07/2012, tác giả tính
được các kết quả VaR 99% cho trạng thái bán 1.000.000 CHF là 14.518 USD và
VaR 95% cho trạng thái bán 1.000.000 CHF là 10.313 USD. Điều đó có nghĩa là
trong điều kiện thị trường bình thường, với mức xác xuất 99% thì mức lổ tối đa mà
Eximbank phải chịu với giao dịch trên là 14.518 USD, còn với mức xác xuất 95%
thì mức lổ tối đa mà Eximbank phải chịu với giao dịch trên là 10.313 USD. Với các
kết quả tính toán VaR trên, Eximbank biết trước được rằng với một giao dịch ngoại
tệ của ngân hàng thì ngân hàng sẽ xác định được mức lổ tối đa có thể xảy ra là bao
nhiêu, và mức lổ đó có nằm trong hạn mức rủi ro mà Ban lãnh đạo ngân hàng giao
cho phòng KDNH trong việc thực hiện các giao dịch ngoại tệ tự doanh hay không.
Từ đó, các chuyên viên phòng KDNH sẽ tổng hợp các yếu tố như về giá cả thị
trường, các phân tích kỷ thuật, phân tích cơ bản về sự biến động của giá ngoại tệ, …
cùng với các tính toán về giá trị chịu rủi ro tối đa VaR, các chuyên viên sẽ quyết
định là có nên thực hiện các giao dịch ngoại tệ đó hay không. Một khía cạnh khác,
phòng quản lý rủi ro (QLRR) sau khi nhận được các thông tin về giao dịch từ phía
phòng KDNH, phòng QLRR xác định giá trị VaR cho giao dịch đó, tạo ra báo cáo
cho lãnh đạo ngân hàng, đồng thời cảnh báo đến các phòng ban liên quan nếu các
giao dịch ngoại tệ đó có mức rủi ro cao hơn hạn mức cho phép của ngân hàng hay
có vi phạm các quy định của ngân hàng.
3.3.3.3 . Sử dụng các sản phẩm phái sinh ngoại tệ
Ngày nay, hoạt động kinh doanh của các NHTM trở nên phong phú và đa
dạng hơn bao giờ hết, bên cạnh các nghiệp vụ mang tính truyền thống thì các Ngân
hàng đã không ngừng phát triển các nghiệp vụ tài chính mới, hiện đại, trong đó,
phải kể đến các giao dịch kinh doanh ngoại tệ, vàng. Đây là hoạt động kinh doanh
156
có thể đem lại lợi nhuận rất cao cho NHTM, nhưng nó cũng chứa đầy những rủi ro.
Khi tham gia hoạt động KDNH, Ngân hàng sẽ tạo ra trạng thái ngoại hối mở và dẫn
đến rủi ro tỷ giá cho Ngân hàng nếu tỷ giá trên thị trường biến động. Để có thể hạn
chế được rủi ro này, Ngân hàng phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa, một trong
những công cụ phòng ngừa hữu hiệu chính là các hợp đồng phái sinh về ngoại hối.
Các hợp đồng phái sinh ngoại hối bao gồm: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi,
hợp đồng quyền chọn và hợp đồng tương lai.
Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép Ngân hàng muốn làm giảm rủi ro
của mình, chuyển giao rủi ro cho những tổ chức sẵn sàng chấp nhận nó, đó là những
nhà đầu cơ. Vì vậy, thị trường này rất có hiệu quả trong việc phân phối lại rủi ro
giữa các nhà đầu tư, không ai mong muốn chấp nhận một mức rủi ro không phù hợp
với bản thân mình. Và cũng vì thế mà họ sẵn sàng cung cấp nhiều vốn hơn cho thị
trường tài chính, điều này tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, phát huy khả
năng huy động vốn và giảm chi phí sử dụng vốn. Bên cạnh đó, thị trường các sản
phẩm phái sinh cũng là một công cụ hiệu quả cho hoạt động đầu cơ, tại vì Ngân
hàng muốn phòng ngừa rủi ro phải tìm được một Ngân hàng khác hoặc nhà đầu tư
khác có nhu cầu đối lập hoàn toàn với mình, tức là rủi ro của Ngân hàng muốn
phòng ngừa rủi ro phải được hấp thụ bởi các nhà đầu cơ. Mỗi nhà đầu tư có một khả
năng chấp nhận rủi ro cũng khác nhau và ai cũng có mong muốn là giữ cho các
khoản đầu tư của mình ở một mức rủi ro có thể chấp nhận được. Cho nên, họ gặp
nhau và tiến hành việc chuyển giao một phần rủi ro của mình cho đối tác.
Thị trường phái sinh giúp các tín hiệu thị trường khó bị bóp méo. Vì thế, các
nhà đầu cơ với ý định thao túng thị trường cũng có những khó khăn nhất định.
Chính vì thế, đặt bên cạnh thị trường giao ngay, sự hiệu quả của thị trường phái sinh
giúp nâng cao tính lành mạnh cho thị trường đó. Như vậy công cụ tài chính phái
sinh là sản phẩm của nền kinh tế hiện đại, kỹ thuật tài chính này đòi hỏi một trình
độ hiểu hiết và phát triển nhất định của bất kỳ nền kinh tế nào, tuy nhiên, mức độ và
điều kiện áp dụng ở Việt Nam còn có những hạn chế nhất định. Điều đó đòi hỏi
chúng ta cần có một hệ thống giải pháp tích cực để triển khai thành công các kỹ
157
thuật KDNH này trên thị trường tài chính, nhằm giúp giảm được rủi ro trong hoạt
động này cũng như tạo ra tính hiệu quả cho thị trường ngoại hối Việt Nam. Nếu sử
dụng sai mục đích và không được giám sát chặt chẽ, các công cụ phái sinh, từ chỗ là
công cụ phòng chống rủi ro sẽ mang đến những mầm họa rất lớn cho nền kinh tế.
Để tránh điều đó, NHTM cần xây dựng những trụ cột cơ bản đảm bảo việc triển
khai các công cụ tài chính phái sinh được bền vững.
Đối với NHNN:
NHNN cần có cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt, kết hợp với các giải pháp
nới rộng biên độ dao động so với tỷ giá bình quân, nhằm hình thành một thị trường
ngoại hối phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ phù hợp với thị trường giao
dịch. NHNN cũng cần tăng cường vai trò trên TTLNH. Thị trường ngoại tệ liên
Ngân hàng do NHNN tổ chức, giám sát và điều hành nhằm hình thành một thị
trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các TCTD là thành viên thị trường. Quan
trọng hơn, NHNN cần nghiên cứu ban hành những quy tắc cơ bản nhất trong giao
dịch phái sinh, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ phù hợp với điều kiện thị trường
của Việt Nam hiện nay, để có hành lang pháp lý chung cho hoạt động của các
NHTM, tránh để các NHTM thực hiện nghiệp vụ mới một cách riêng lẻ, dẫn đến
tình trạng không thống nhất, dễ gây ra tranh chấp khi có sự cố xảy ra, cũng như hạn
chế những rủi ro có thể cho các NHTM.
NHNN cần tăng cường hơn nữa vai trò trên thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN tổ chức, giám sát và điều hành
nhằm hình thành một thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các TCTD là
thành viên thị trường. NHNN tham gia thị trường với tư cách là người mua, người
bán cuối cùng, thực hiện can thiệp khi cần thiết vì mục tiêu chính sách tiền tệ quốc
gia. Đây là thị trường cơ sở làm nền tảng để phát triển thị trường ngoại hối.
Ngoài ra, NHNN cần hoàn thiện chế độ kế toán, quy định cụ thể về các giao
dịch phái sinh, có các hướng dẫn cụ thể quy định cách tính toán thu nhập, chi phí,
cách tính giá hạch toán, cách định giá, … phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm giúp
158
các NHTM thực hiện tốt việc theo dõi quản lý nghiệp vụ phái sinh trong quá trình
Đối với NHTM:
áp dụng.
Các NHTM cũng cần có chính sách đào tạo và bồi dưỡng cho các cán bộ trực
tiếp kinh doanh trên thị trường phái sinh ngoại hối quốc tế về các công cụ phái sinh
ngoại hối, vì đây là những sản phẩm mới, phức tạp cả về lý thuyết lẫn thực tiễn áp
dụng. Ngoài ra cần trang bị thêm những kiến thức và kinh nghiệm về thị trường
ngoại hối và thị trường tiền tệ quốc tế, kỹ năng phân tích kỹ thuật nghiệp vụ phái
sinh ngoại hối, phân tích cơ bản trên cơ sở chọn lọc, tổng hợp và phân tích thông tin
để dự đoán xu hướng diễn biến của thị trường nhằm sử dụng các công cụ phái sinh
một cách hiệu quả nhất. Ngoài điều kiện về trình độ cán bộ thì vấn đề công nghệ
Ngân hàng cũng là điều kiện cần thiết để tạo thuận lợi cho việc ứng dụng nghiệp vụ
phái sinh ngoại hối. Vì các công cụ phái sinh ngoại hối được xây dựng trên cơ sở sử
dụng các thuật toán phức tạp để dự đoán về các khả năng biến động của tỷ giá hối
đoái trong tương lai. Ngoài ra, các NHTM cần nghiên cứu và phát triển dịch vụ
Ngân hàng để nhanh chóng tiếp cận công nghệ mới, phù hợp với thông lệ và chuẩn
mực quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác với các Ngân hàng nước ngoài trên thị
trường ngoại hối quốc tế để tranh thủ sự hỗ trợ về kiến thức, về tài chính và kỹ thuật
để hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng và hệ thống phân tích quản lý rủi ro đối với
các công cụ phái sinh.
Ngoài các giao dịch phái sinh mà NHTM tự thực hiện để phòng ngừa rủi ro
tỷ giá ngoại tệ và giá vàng cho chính Ngân hàng của mình, các NHTM hiện nay còn
cung cấp các sản phẩm phái sinh cho khách hàng. Tuy nhiên, các sản phẩm phái
sinh hiện nay do các Ngân hàng cung cấp một cách rời rạc, nghiệp vụ này cũng còn
khá mới mẻ và khách hàng chưa nhận được mức phí cạnh tranh nhất. Trong thực tế
áp dụng các sản phẩm như hợp đồng quyền chọn, rất dễ xảy ra tình trạng lạm dụng
sản phẩm này để lách biên độ tỷ giá, mua bán ngoại tệ với mức giá cao hơn mức giá
quy định của NHNN. Những tình huống thực tế này đã phần nào hạn chế sự phát
triển của các sản phẩm phái sinh ngoại hối, cả cơ quan quản lý và khách hàng đều tỏ
159
ra khá e dè và thận trọng trong việc triển khai áp dụng các sản phẩm. Để vượt qua
tình trạng này, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước được tiếp cận các sản
phẩm phái sinh để phòng ngừa rủi ro về biến động tỷ giá, thị trường phái sinh cần
được tổ chức tập trung như một Sàn giao dịch hay Sở giao dịch, NHNN có thể giữ
vai trò quản lý chính của thị trường này. Làm được như vậy có thể sẽ đồng thời xử
lý hài hòa được các nhu cầu: nhu cầu chính đáng về bảo hiểm tỷ giá của các doanh
nghiệp và nhà đầu tư; nhu cầu cân đối trạng thái mua bán sản phẩm ngoại hối của
các ngân hàng, thống nhất biểu phí cho các sản phẩm một cách hợp lý; quản lý thị
trường phái sinh một cách chặt chẽ, tránh các trường hợp lạm dụng sản phẩm này để
đầu cơ; tạo điều kiện để thị trường phái sinh phát triển một cách minh bạch, dễ tiếp
cận đối với tất cả các nhà đầu tư và doanh nghiệp trong nước có nhu cầu. Khi đó,
các doanh nghiệp và nhà đầu tư trong nước sẽ có thêm các công cụ tài chính hiệu
quả để tự tin tham gia vào hoạt động giao thương và hội nhập kinh tế quốc tế, cũng
như giúp các NHTM quản lý tốt rủi ro trong các giao dịch ngoại hối của mình.
Ngoài những phương tiện, thiết bị hiện có của Reuters, Thomson, hay
Metastock, các NHTM cần trang bị thêm phần mềm xử lý, QLRR và tính phí đối
với các nghiệp vụ phái sinh. Mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác với các ngân
hàng nước ngoài trên thị trường ngoại hối quốc tế, để tranh thủ sự hỗ trợ về kiến
thức, về hệ thống phân tích QLRR đối với các giao dịch ngoại hối của ngân hàng.
3.3.3.4 . Hạn chế các giao dịch trên thị trường không có nhu cầu thực
Để thực hiện được giải pháp này, trước tiên rất cần có các quy định từ phía
Nhà nước và cần sự kiên trì thực hiện, kiểm tra giám sát, xử phạt nghiêm minh việc
thực thi các quy định của pháp luật đã được đưa ra. Trong các quy định pháp lý của
Nhà nước trong thời gian qua nổi bật nhất phải kể đến việc ban hành Thông tư 03 và
Thông tư 07 trong việc áp dụng cho các đối tượng được phép vay ngoại tệ và tỷ lệ
trạng thái ngoại tê được phép duy trì. Có thể thấy quy định mới này nhằm hạn chế
khả năng các Ngân hàng đầu cơ ngoại tệ, thao túng, chuyển đổi vốn trong hệ thống
gây bất lợi cho tỷ giá, giúp NHNN tăng cường sức mạnh quản lý ngoại hối. Trước
đây có thời điểm nhiều NHTM nhỏ bán âm quá mức trạng thái được phép để giải
160
quyết thanh khoản tiền đồng hoặc găm giữ ngoại tệ với trạng thái trường rất lớn để
đầu cơ làm giá nhằm trục lợi. Nhiều NHTM không kinh doanh vàng nhưng có
nguồn ngoại tệ lớn đã “làm giá” đẩy tỷ giá giao dịch thực trên TTLNH vượt trần tỷ
giá chính thức của NHNN. Hơn nữa, hiện nay vốn điều lệ của nhiều NHTM rất lớn,
tỷ lệ 20% sẽ có nhiều NHTM không sử dụng hết, nên việc giảm trạng thái ngoại tệ
sẽ góp phần ổn định tỷ giá hơn, khi các NHTM mua được ngoại tệ nhưng chưa có
nhu cầu sử dụng sẽ bán lại cho NHNN hoặc trên TTLNH, góp phần ổn định thị
trường ngoại hối, tránh đầu cơ sẽ giúp thị trường ổn định và NHNN dễ hơn trong
việc điều hành CSTT.
Ngoài ra, nhằm giảm các giao dịch trên thị trường ngoại hối có nhu cầu giả
tạo và đầu cơ ngoại hối thì NHNN cần tạo ra một thị trường ngoại hối hoạt động ổn
định lâu dài. Trong thời qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định 95/2011/NĐ-CP
ngày 20/10/2011 về việc Sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 202 về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, cùng với Thông
tư số 07/2012/TT-NHNN ngày 20/3/2012 của NHNN về Quy định trạng thái ngoại
tệ của TCTD, có hiệu lực kể từ ngày 2/5/2012, thị trường ngoại tệ đã có những
chuyển biến tích cực chưa từng thấy trong nhiều năm gần đây, 6 tháng đầu năm
2012, tỷ giá chính thức do NHNN điều hành rất ổn định, tình trạng tỷ giá “kịch
trần” không còn xảy ra như những năm trước, và có lúc tỷ giá phi chính thức còn
thấp hơn tỷ giá Ngân hàng. Tín hiệu này cho thấy, NHNN đang hoàn toàn giữ thế
chủ động trong việc điều hành tỷ giá, phù hợp với cung cầu ngoại tệ và tình hình
kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, đây chỉ là những kết quả thấy được trước mắt, NHNN cần
theo đuổi một chính sách dài hạn với mục tiêu tạo ra một môi trường KDNH lành
mạnh, giảm thiểu các hoạt động đầu cơ gây xáo trộn mạnh trên thị trường trong điều
kiện nền kinh tế Việt Nam còn chưa phát triển ổn định.
Ngoài ra, khuyến khích các doanh nghiệp giảm phụ thuộc vào USD, sử dụng
đúng ngoại tệ trong hợp đồng với nước xuất khẩu là nên thực hiện nhằm giúp thị
trường USD/VNĐ ít bị biến động, đặc biệt là vào các tháng cuối năm, và giúp thị
trường ngoại hối hoạt động lành mạnh, đáp ứng đúng bản chất kinh tế của hợp đồng
161
giao kết trên thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế thì các NHTM rất khó đáp ứng được
việc này. Ví dụ khách hàng cần đồng Won để thanh toán cho hợp đồng nhập khẩu
nguyên liệu từ Hàn Quốc, nhưng hầu như các NHTM không đáp ứng được vì các
NHTM không có dịch vụ trao đổi ngoại tệ bằng Won, do vậy Ngân hàng không thể
mua và sau đó bán lại chính lượng Won này cho khách hàng, hoặc cũng có thể
Ngân hàng đối tác phía nước ngoài không có thỏa thuận thanh toán bằng Won với
Ngân hàng này. Còn đối với các giao dịch của hợp đồng bằng USD, không phải lúc
nào các NHTM cũng đáp ứng đủ lượng USD theo nhu cầu của thị trường. Do vậy,
nhiều khi doanh nghiệp phải tìm tới ngoại tệ từ thị trường tự do, tuy nhiên, việc mua
ngoại tệ từ thị trường tự do để nộp vào tài khoản và thanh toán cho giao dịch qua
Ngân hàng đều bị cấm. Để khắc phục, các Ngân hàng “lách” bằng cách mua lại
ngoại tệ của các doanh nghiệp sau đó bán lại cho chính doanh nghiệp đó. Do vậy,
các Ngân hàng cần có dự trữ ngoại tệ, hoặc có nguồn cung giữa các Ngân hàng với
nhau để luôn sẵn sàng đáp ứng ngoại tệ cho giao dịch của khách hàng.
Bên cạnh đó, việc cùng một lúc sử dụng 2 loại tiền tệ làm phương tiện thanh
toán chính thức tại một đất nước là USD và VNĐ làm giảm đi giá trị của đồng
VNĐ, tạo ra tình trạng đầu cơ tràn lan khi tỷ giá USDVNĐ biến động nhiều cũng
như làm sai lệch chính sách điều hành CSTT của NHNN. Giải pháp cơ bản của vấn
đề này là hạn chế tình trạng đôla hóa nền kinh tế, tức là NHNN phối hợp các
NHTM đáp ứng được nhu cầu chính đáng của doanh nghiệp và của người dân trong
sử dụng ngoại hối; cũng như Nhà nước quản lý được dòng ngoại hối ra vào qua biên
giới và qua hệ thống tài khoản thanh toán giao dịch vốn hoặc giao dịch vãng lai của
hệ thống NHTM. Trên thực tế, hiện nay Pháp lệnh 28 về Quản lý ngoại hối được
ban hành ngày 13/12/2005 có hiệu lực thi hành từ 1/6/2006 đã bộc lộ những bất cập
cần được chỉnh sửa. Một trong những bất cập rõ nhất của Pháp lệnh này là cho phép
người dân được trực tiếp nhận ngoại hối từ nước ngoài chuyển về dưới hình thức
kiều hối, và cho phép tổ chức, cá nhân gửi và rút ngoại tệ tại Ngân hàng dưới hình
thức gửi tiết kiệm. Đây chính là hai chỗ “trú ẩn” hiệu quả và an toàn nhất của giới
đầu cơ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường tự do. Mỗi khi thị trường ngoại tệ xuất
162
hiện cung lớn, cầu nhỏ thì họ gửi ngoại tệ vào Ngân hàng để bảo toàn giá trị và vẫn
được hưởng lãi. Khí có sốt nóng, cầu lớn hơn cung mà các NHTM không đáp ứng
kịp, lập tức lượng ngoại tệ đang “nằm nghỉ” trong các Ngân hàng sẽ được huy động
để tham gia thị trường tự do với hành vi thao túng giá sẽ tạo khó khăn đáp ứng USD
cho người có nhu cầu sử dụng ngoại tệ thực sự như chữa bệnh ở nước ngoài, du
lịch, du học, thanh toán xuất nhập khẩu,….
Không chỉ bất cập trong quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối, mà hệ
thống những biện pháp đồng bộ khác liên quan hoặc có tác động dây chuyền đến
quản lý ngoại hối cũng cần phải được rà soát. Ví dụ chủ trương tạo điều kiện thuận
lợi cho dòng kiều hối của thân nhân người Việt ở nước ngoài gửi về trong nước là
cần thiết trong bối cảnh dự trữ ngoại hối của Nhà nước còn hạn chế; chưa thu hút
được dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mạnh mẽ. Còn một khi dự trữ ngoại hối
của Nhà nước đã dồi dào, dòng ngoại tệ từ đầu tư nước ngoài đổ vào các dự án
trong nước mỗi năm đã đạt con số trên 20 tỷ USD, NHNN cần xem xét bỏ quy định
cho phép nhận bằng ngoại tệ trong các giao dịch kiều hối.
Bên cạnh đó, một thực tế không thể không nhìn nhận là, một khi tâm lý của
người dân còn bị ám ảnh nặng nề bởi tình trạng lạm phát cao vượt khỏi tầm kiểm
soát của Nhà nước, thì hành vi găm giữ ngoại tệ đặc biệt là USD như một phương
tiện tích trữ vẫn được coi là cần thiết để bảo toàn tài sản của mình. Không chỉ người
dân mà cả doanh nghiệp và Ngân hàng cũng găm giữ ngoại tệ, gây ra sự khan hiếm
giả tạo là cơ hội cho thị trường tự do bị thao túng bất hợp pháp.
Như vậy, cần được tiến hành đồng bộ lộ trình chống đôla hóa gồm hàng loạt
các biện pháp từ vĩ mô đến vi mô. Cần chỉnh sửa tổng thể những cơ chế chính sách
trực tiếp hoặc liên quan đến quản lý ngoại hối không còn phù hợp với tình hình phát
triển hiện nay của nền kinh tế đất nước. Mặt khác phải đảm bảo nền kinh tế phát
triển bền vững, kiềm chế lạm phát hiệu quả, củng cố niềm tin của người dân vào
đồng nội tệ một cách thực tế.
Trên thị trường vàng, nhằm giảm mua bán tràn lan và đầu cơ cũng như tác
động xấu đến CSTT bằng cách thông qua sự hỗ trợ của NHNN bằng chính sách
163
pháp luật, Nghị định 24 nêu rõ hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng, sản
xuất vàng trang sức, mỹ nghệ là hoạt động kinh doanh có điều kiện và phải được
NHNN cấp phép. Cụ thể, tại Điều 11 của Nghị định 24, để được cấp Giấy phép
mua, bán vàng miếng, doanh nghiệp phải đáp ứng ít nhất ba điều kiện nghiêm ngặt
như sau: có vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng trở lên; có số thuế đã nộp của hoạt động kinh
doanh vàng từ 500 triệu đồng/năm trở lên trong 2 năm liên tiếp gần nhất; có mạng
lưới chi nhánh, địa điểm bán hàng tại Việt Nam từ 3 tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương trở lên. Theo Nghị định này, Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng.
Theo ước tính hơn 10.000 doanh nghiệp kinh doanh vàng khắp cả nước, ít có đơn vị
đáp ứng đầy đủ Điều 11 của Nghị định 24, như vậy mạng lưới kinh doanh vàng
miếng trên thị trường tự do sẽ bị thu hẹp đáng kể, gần như thị trường tự do bị cấm
giao dịch vàng miếng giống như bị cấm giao dịch USD, nhằm giảm đầu cơ làm náo
loạn thị trường.
NHNN đã có chính sách để loại bỏ yếu tố tiền tệ của vàng nhằm đảm bảo
chính sách tiền tệ một quốc gia không thể có hai phương tiện thanh toán, tránh thao
túng, đầu cơ làm sai lệch chính sách điều hành của Nhà nước. Tuy nhiên đã có
chính sách tốt, NHNN cần tiếp tục thực hiện trên thực tế và giám sát, kiểm tra, xử
phạt nghiêm minh, tạo tính nghiêm túc chấp hành các quy định của pháp luật và tạo
ra một thị trường ngoại hối có tính ổn định lầu dài. Một trong những nguyên nhân
chính làm cho vàng có chức năng như tiền tệ là do vàng có mang lãi suất, chức năng
tiền tệ của vàng là điều rất bình thường trên thị trường tài chính quốc tế, khi vàng
được tính lãi suất trong mối quan hệ vay mượn. Tuy nhiên, ở Việt Nam, chức năng
tiền tệ của vàng bị khuếch đại trên diện rộng do vàng còn là phương tiện thanh toán
trong mua bán bất động sản. Trong suốt một thời gian dài, chính sách tiền tệ chịu sự
tác động kép bởi tình trạng “đôla hóa” và “vàng hóa”, dù Pháp lệnh ngoại hối 2005
là cơ sở pháp lý quan trọng để điều chỉnh thực trạng này. Để loại bỏ tình trạng
“vàng hóa” nền kinh tế, Điều 19 của Nghị định 24 khẳng định, việc sử dụng vàng
làm phương tiện thanh toán là một hành vi vi phạm pháp luật. Thống đốc NHNN
ban hành Thông tư số 12/2012/TT-NHNN có hiệu lực kể từ ngày 30/4/2012 sửa
164
đổi, bổ sung Thông tư số 11/2011/TT-NHNN quy định chấm dứt huy động và cho
vay vốn bằng vàng của TCTD. Tại Thông tư 12, NHNN quy định rõ, TCTD không
được huy động vốn bằng vàng, trừ trường hợp phát hành chứng chỉ ngắn hạn để chi
trả vàng cho khách hàng; không được chuyển đổi vốn huy động từ vàng sang VNĐ;
không được sử dụng vàng để cầm cố, thế chấp, ký quỹ tại TCTD khác; phải chấm
dứt huy động vàng kể từ ngày 25/11/2012.
Ngoài ra NHNN cần tiếp tục xem xét một số giải pháp nhằm tăng cường sự
ổn định của thị trường vàng lâu dài và hỗ trợ cho hoạt động KDNH của NHTM hiệu
Quy định niêm yết giá vàng trong nước bằng cách lấy giá vàng thế giới cộng
quả và tránh rủi ro cho các NHTM:
với các chi phí hợp lý (như phí vận chuyển, lưu kho, dập vàng miếng, …),
thuế và biên độ lợi nhuận nhân với tỷ giá chính thức để đảm bảo biên độ
NHNN sẽ điều chỉnh biên độ chênh lệch giá vàng trong từng thời kỳ theo
chênh lệch giá giữa hai thị trường luôn thấp hơn 400.000 đồng/lượng;
NHNN tăng dự trữ vàng để chủ động bán vàng can thiệp;
Vàng bán ra phải có Giấy chứng nhận chất lượng của đơn vị giám định độc
hướng thu hẹp dần;
lập.
Trong bối cảnh giá vàng thế giới vẫn tiềm ẩn các biến động lên xuống khó
lường, yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là phải cải tổ việc quản lý vàng và phát triển
thị trường vàng. Vàng với hàm lượng vàng cao nên được quản lý với tính chất của
một công cụ tiền tệ, Nhà nước cần phải nắm quyền và có các công cụ hữu hiệu để
điều chỉnh cung - cầu vàng, chủ động quản lý có hiệu quả, hiệu lực tổng phương
tiện thanh toán trong nền kinh tế. Bên cạnh việc quản lý vàng với tính chất của một
công cụ tiền tệ, cần có lộ trình cụ thể cho việc phát triển thị trường vàng theo thông
lệ quốc tế, đa dạng hóa các kênh đầu tư, liên thông thị trường trong nước và quốc tế.
Cụ thể:
Thứ nhất, vấn đề lưu thông vàng miếng: do tính chất tiền tệ của vàng vật chất
với hàm lượng cao ở nước ta còn khá mạnh, đặc biệt trong điều kiện tiền đồng chưa
165
ổn định, song cũng không thể để tình trạng lưu thông vàng miếng có hàm lượng cao
thay thế tiền đồng trong thanh toán. NHNN cần quản lý chặt chẽ giao dịch này, từng
bước hạn chế nó khi điều kiện kinh tế - xã hội cho phép. Chỉ trên cơ sở quản lý
vàng với tính chất là công cụ tiền tệ, NHNN mới có thể quản lý được tổng phương
tiện thanh toán trong nền kinh tế, quản lý được giá cả, góp phần ổn định vĩ mô nền
kinh tế, hạn chế các giao dịch không có nhu cầu thực. Quản lý nhà nước về vàng với
tính chất là công cụ tiền tệ cần xác định cụ thể tiêu chuẩn vàng với tính chất tiền tệ,
điều kiện lưu thông vàng tiền tệ và quản lý quan hệ cung - cầu vàng tiền tệ trong
nền kinh tế, gắn với sự phát triển lành mạnh của thị trường vàng và vấn đề liên
thông thị trường vàng trong nước và quốc tế.
Thứ hai, đảm bảo sự phát triển lành mạnh thị trường vàng trong nền kinh tế:
là một loại hàng hóa và là một công cụ tiền tệ trong nền kinh tế, nên việc tồn tại thị
trường vàng là vấn đề khách quan, đây cũng là thực tế trên thế giới, các thị trường
vàng trên thế giới không chỉ tồn tại mà đã có những bước phát triển mạnh trong thời
gian gần đây. Đối với nước ta, hoạt động mua – bán vàng còn là tập quán, có tính
lịch sử, văn hóa lâu đời. Vấn đề là làm thế nào để phát triển lành mạnh thị trường
vàng, đảm bảo sự thông suốt trong phạm vi nền kinh tế và liên thông với thị trường
quốc tế, hạn chế các tác động tiêu cực và tăng cường đóng góp của thị trường vàng
vào sự phát triển của đất nước. Thực vậy, để một thị trường phát triển lành mạnh
không có nghĩa để thị trường phát triển tự do, nhưng cũng không thể chỉ bằng các
giải pháp hành chính, nhất là trong bối cảnh hội nhập. Những biến động mạnh của
giá vàng và sự đi trước của giá vàng trong nước so với giá vàng thế giới vừa qua
một phần là hệ quả của việc bỏ ngỏ thị trường, không có công cụ pháp lý điều tiết
và việc áp dụng một vài giải pháp điều hành mang tính chất hành chính. Do vậy,
Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường vàng, điều
tiết các chủ thể bằng các công cụ và hàng rào kỹ thuật trên thị trường. Liên quan tới
các công cụ, các loại hình hoạt động trên thị trường, cần có lộ trình phát triển từng
bước, phù hợp với điều kiện và trình độ quản lý cụ thể của đất nước. Khung pháp lý
nên định hướng nguyên tắc thị trường có quản lý của Nhà nước vì các biện pháp
166
hành chính chỉ có tác động tức thì, nhưng tiềm ẩn các hành vi lách luật, hoạt động
‘chui”, trong khi chi phí theo dõi, giám sát là rất lớn. Và để quản lý được cung - cầu
trên thị trường vàng, thì khung pháp lý phải đảm bảo rằng NHNN thực hiện được
vai trò quản lý cuối cùng trên thị trường vàng, tức là phải thực hiện quản lý tập
trung các đầu mối hoạt động kinh doanh vàng. Đồng thời, NHNN cần có các công
cụ đủ quyền lực để có thể can thịêp khi có các biến động quá mức trên thị trường.
Thứ ba, liên thông thị trường vàng trong nước và thế giới trên cơ sở nới lỏng
có kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu vàng: Xuất nhập khẩu vàng nên được quản
lý theo nguyên tắc thị trường, thay vì hạn ngạch (quota) như hiện nay. Việc áp dụng
quota luôn tiềm ẩn các hoạt động XNK vàng lậu, không thể kiểm soát được và thất
thoát nguồn thu cho Nhà nước. Do không kiểm soát được lượng vàng XNK nên sẽ
không có thông tin chính xác về cung - cầu vàng trong nền kinh tế. Xóa bỏ cơ chế
quota XNK vàng, thì chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế sau khi đã cộng các
chi phí nhập khẩu cũng sẽ bị loại bỏ. Liên quan tới thuế XNK vàng cũng không nhất
thiết phải áp thuế nhập khẩu với mục đích hạn chế nhập vàng, giảm áp lực lên cầu
ngoại tệ, vì khả năng tái tạo ngoại tệ của vàng rất cao. Thực tế, quý I/2009, Việt
Nam đã có xuất siêu nhờ xuất siêu vàng, thuế xuất khẩu vàng cũng nên được cân
nhắc ở mức phù hợp, khuyến khích việc khơi thông đầu ra, qua đó phát triển công
nghiệp khai thác vàng và công nghiệp chế tác vàng trong nước, tạo công ăn việc
làm cho xã hội.
3.3.4 Các giải pháp khác từ phía các ngân hàng thương mại để hổ trợ cho việc
tăng cường hoạt động quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối
3.3.4.1 . Tăng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại
Quy mô về vốn tự có của một NHTM là một trong những tiêu chí đánh giá
về năng lực tài chính và khả năng đảm bảo tỷ lệ an toàn của Ngân hàng. Quy mô
quá nhỏ bé về vốn là một trong những điểm yếu lớn, đang cản trở sự phát triển và
nâng cao khả năng cạnh tranh của các NHTM. Vì vậy, yêu cầu tất yếu đặt ra đối với
các NHTM là phải tăng vốn điều lệ với tốc độ nhanh hơn tốc độ của tổng nguồn
vốn. Trong hệ thống các giải pháp, giải pháp tăng vốn điều lệ của các NHTM là giải
167
pháp quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh, tạo cơ sở cho việc điều chỉnh cơ cấu
huy động và sử dụng vốn. Do vậy điều cần làm đầu tiên là đánh giá lại tài sản của
toàn hệ thống NHTM vì từ lâu số tài sản này bị đánh giá thấp hơn nhiều so với giá
trị thực tế. Đồng thời, tiếp tục cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của
các NHTM cổ phần với tỷ lệ cho phép theo quy định của NHNN; tăng tỷ lệ trích lập
quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ hàng năm từ lợi nhuận sau khi nộp thuế thu nhập;
cho phép các NHTM cổ phần niêm yết, phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng
khoán; tiếp tục mua lại, sát nhập và hợp nhất các NHTM cổ phần quy mô nhỏ vào
các NHTM cổ phần mạnh hơn, quy mô lớn hơn để tăng cường khả năng cạnh tranh
trên thị trường.
3.3.4.2 . Đầu tư công nghệ
Ngày nay, để đánh giá khả năng cạnh tranh của một Ngân hàng và khả năng
phòng ngừa rủi ro trong hoạt động KDNH, người ta không chỉ dựa vào quy mô vốn,
số lượng các dịch vụ cung cấp mà còn ở trình độ công nghệ và nguồn nhân lực của
chính Ngân hàng đó. Một thực tế cho thấy, một Ngân hàng lớn có nhiều vốn nhưng
cơ sở hạ tầng lạc hậu, nhân viên không linh hoạt trong cập nhật và ứng dụng các
kiến thức mới về kinh doanh Ngân hàng thì Ngân hàng đó sẽ rơi vào tình trạng trì
trệ, khó có khả năng phòng chống rủi ro ngoại hối và chính quy mô lớn nhiều khi lại
gây khó khăn cho việc quản trị và là lực cản của sự phát triển. Hơn nữa chính công
nghệ và nguồn nhân lực lại là hai nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của
sản phẩm dịch vụ Ngân hàng. Vì vậy, yêu cầu đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ
của cán bộ nhân viên Ngân hàng đang là nhu cầu cấp bách hiện nay.
3.3.4.3 . Phát triển nguồn nhân lực
Theo đánh giá chung, nguồn nhân lực của các NHTM còn nhiều hạn chế và
bất cập. Một mặt hiểu biết và kỹ năng thực hiện các công việc chuyên môn của
nhiều cán bộ chưa theo kịp và chưa đáp ứng đòi hỏi của hoạt động Ngân hàng trong
điều kiện cạnh tranh và hội nhập, nhất là trong việc triển khai các dịch vụ mới và
theo cách thức hoạt động của Ngân hàng hiện đại. Mặt khác, có một số cán bộ tuy
được đào tạo cơ bản, có năng lực chuyên môn cao nhưng lại chưa được bố trí, sử
168
dụng hợp lý, gây lãng phí và hạn chế hiệu quả sử dụng cán bộ. Tình hình này đòi
hỏi phải tăng cường về đào tạo và sử dụng hợp lý hơn nguồn nhân lực theo các giải
pháp sau:
Thứ nhất, tập trung giải quyết tốt mâu thuẫn giữa việc phải dành nguồn cán
bộ để đáp ứng các yêu cầu trước mắt, nhưng đồng thời phải dành sự đầu tư thỏa
đáng cho việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhằm đảm bảo tốt cho các bước phát
triển tiếp theo. Bên cạnh việc dứt khoát chọn một số cán bộ trẻ được đánh giá là có
năng lực và đạo đức tốt cử đi đào tạo dài hạn và chuyên sâu ở trong và ngoài nước
để có khả năng triển khai áp dụng các kiến thức, kinh nghiệm học được; đồng thời
coi trọng việc đào tạo thông qua công việc hàng ngày như cán bộ lãnh đạo tạo điều
kiện, dành thời gian chỉ dẫn và giao việc cụ thể, có đánh giá để cán bộ tăng cường
tự học, vươn lên.
Thứ hai, ưu tiên đề bạt sử dụng số cán bộ trẻ có năng lực và đạo đức tốt thay
thế một bộ phận cán bộ lãnh đạo không theo kịp yêu cầu do sự đổi mới nhanh chóng
trong công nghệ, khoa học tổ chức và quản lý hiện đại.
Thứ ba, cần nâng cao năng lực quản trị điều hành của ban lãnh đạo NHTM.
Đây là một trong những yếu tố quyết định năng lực và hiệu quả hoạt động của mỗi
Ngân hàng. Năng lực này phụ thuộc vào khả năng dự báo và chủ động xử lý kịp
thời các tình huống phát sinh sử dụng có hiệu quả các cơ hội và vượt qua các thách
thức.
3.4. CÁC KIẾN NGHỊ VỚI CƠ QUAN CHỨC NĂNG
Bên cạnh những định hướng và các giải pháp được đưa ra đối với các NHTM
ở phần trên, các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động quản lý rủi ro
kinh doanh ngoại hối tại các NHTM cổ phần tại TP.HCM có được sớm triển khai
thành công hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào sự chỉ đạo, hướng dẫn cũng như
tạo điều kiện hổ trợ từ phía các cơ quan chức năng, các Bộ, ngành liên quan, mà đặc
biệt và trước nhất là NHNN Việt Nam và Hiệp hội Ngân hàng.
169
3.4.1. Kiến nghị với Chính phủ, Bộ, Ngành liên quan
3.4.1.1. Ổn định tình hình bên ngoài: kinh tế, chính trị và xã hội
Chính phủ cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để tăng cường ổn định kinh
tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát ở mức thấp. Nâng cao năng lực dự báo, chủ động
điều hành và có phản ứng chính sách phù hợp kịp thời để ứng phó có hiệu quả với
những tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Điều hành chính sách tiền tệ, tài khóa chặt
chẽ, linh hoạt; gắn kết chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ theo mục tiêu tăng
cường ổn định vĩ mô và bảo đảm tăng trưởng hợp lý. Tiếp tục hạ lãi suất tín dụng
phù hợp với mức giảm lạm phát; điều hành tỷ giá theo tín hiệu thị trường, bảo đảm
giá trị đồng tiền Việt Nam; hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường vàng; cải thiện cán
cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại hối. Thực hiện tốt nhiệm vụ thu, chi
theo kế hoạch, chống thất thu, triệt để tiết kiệm chi, nâng cao hiệu quả đầu tư công,
giữ mức bội chi ngân sách không quá 4,8% GDP. Quản lý chặt chẽ nợ công và nợ
quốc gia trong giới hạn an toàn, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia.
Cơ bản hoàn thành việc cơ cấu lại các tổ chức tài chính, tín dụng yếu kém;
Kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tài chính, ngân
hàng; Hỗ trợ phát triển lành mạnh thị trường chứng khoán; Đẩy mạnh xuất khẩu,
kiểm soát chặt chẽ các mặt hàng nhập khẩu không khuyến khích; Tăng cường các
biện pháp thu hút và thúc đẩy giải ngân các nguồn vốn nước ngoài ODA, FDI;
Kiểm soát có hiệu quả đầu tư gián tiếp của nước ngoài (FII); tạo thuận lợi thu hút
khách du lịch quốc tế và kiều hối. Tăng cường quản lý thị trường, giá cả, chống đầu
cơ buôn lậu. Chủ động cung cấp thông tin chính xác, kịp thời về tình hình kinh tế vĩ
mô để hạn chế việc tăng giá do tâm lý.
Không có cơ chế tỷ giá hối đoái nào là tối ưu trong mọi trường hợp. Nhưng
thực tế cho thấy, giữ được tỷ giá ổn định dựa trên việc tìm kiếm thường xuyên sự
cân đối tối ưu giữa tính chất tự thân thị trường với sự can thiệp nhà nước là điều
kiện tốt cho tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Chống suy giảm kinh
tế và đảm bảo an sinh xã hội là mục tiêu trọng tâm mà Chính phủ đã xác định rõ
170
trong những năm qua. Trong số các công cụ thực hiện mục tiêu này, việc quản lý tỷ
giá USD/VND có ý nghĩa quan trọng.
Hơn nữa, khi các đồng ngoại tệ giảm giá do chính sách hạ lãi suất và nới
lỏng tín dụng nhằm kích cầu đầu tư và tiêu dùng trong liệu pháp cả gói chống suy
giảm kinh tế ở các nước phát triển như Mỹ và các nước EU mà tỷ giá VND gắn kết
chặt và dường như không đổi trong suốt thời gian dài, thì điều này cũng đồng nghĩa
với xu hướng định giá đồng bản tệ quá cao, làm mất đi đáng kể lợi thế và sức cạnh
tranh của hàng hóa xuất khẩu của hàng Việt Nam, với những hệ lụy kinh tế – xã hội
khó lường kèm theo, nhất là tình trạng giảm sút quy mô và thu nhập ngoại tệ từ
hàng xuất khẩu, thu hẹp sản xuất, gia tăng thất nghiệp và các áp lực an sinh xã hội
khác, v.v…
Mặt khác, việc điều chỉnh tăng mạnh tỷ giá VND, chẳng hạn so với USD, tức
phá giá mạnh đồng bản tệ, lại có thể tạo nguy cơ bùng nổ tái lạm phát và thậm chí
có thể xuất hiện tình trạng suy thoái - lạm phát, gây mối nguy hiểm kép, tức vừa có
lạm phát cao với các hệ quả đắt đỏ mà chúng ta vừa trải qua, vừa có sự đình trệ,
thậm chí suy giảm mạnh quy mô và tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, hết sức tiêu cực
cho sự ổn định hệ thống tài chính - tiền tệ và cả thể chế quốc gia mà chúng ta đã
chứng kiến những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20.
Phạm vi tác động của chính sách tỷ giá gia tăng cùng chiều với mức độ tự do
chuyển đổi đồng tiền và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới của mỗi nước. Khả
năng cạnh tranh của xuất khẩu, trạng thái cán cân thương mại và thanh toán, dự trữ
quốc gia, biến động cơ cấu sản xuất, niềm tin vào bản tệ, vào chính phủ, vào tương
lai – nghĩa là các nhân tố chủ yếu đo lường sức khỏe và chi phối mạnh động lực
phát triển nền kinh tế đất nước – đều phụ thuộc sâu sắc vào tỷ giá hối đoái chính
thức.
Ngoài ra, khi định giá quá thấp đồng bản tệ, dù do sự chủ động của chính
phủ với hy vọng kích thích xuất khẩu, hoặc do sự bị động gắn với việc buộc phải
gia tăng phát hành bản tệ bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước hay để mua vét ngoại
tệ trên thị trường nội địa cho nhu cầu trả nợ của chính phủ, thì tác hại cũng không
171
kém: sức ép lạm phát gia tăng, chi phí dịch vụ nợ bằng ngoại tệ tăng nhanh, đồng
thời giá hàng nhập khẩu cũng bị đẩy lên cùng chiều với tốc độ mất giá bản tệ, cũng
như làm thu hẹp nguồn vốn chảy vào và từ đó làm tăng nguy cơ phá sản các doanh
nghiệp, làm tăng nạn thất nghiệp và sự bất ổn định lan truyền trong toàn bộ đời sống
kinh tế - xã hội. Thậm chí có thể đưa tới sự đổ vỡ nền kinh tế và những chấn động
mạnh về thể chế chính trị của đất nước...
3.4.1.2. Các chính sách vĩ mô cơ bản: lạm phát, thâm hụt cán cân thương mại,
tình trạng đôla hóa nền kinh tế
Lạm phát
Một trong những giải pháp để giảm rủi ro ngoại hối là kiềm chế lạm phát.
Với Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, Chính phủ đã hạ
quyết tâm chủ động mở một chiến dịch mới kiềm chế lạm phát trên cơ sở vận dụng
những quy luật thị trường và sử dụng quyền lực nhà nước, trong đó hai giải pháp
chính yếu nhất là i) thực hiện CSTT chặt chẽ và ii) thực hiện chính sách tài khóa
thắt chặt, mục tiêu là điều tiết tổng cầu, thu hồi tiền thừa trong lưu thông, thiết lập
cân đối tiền - hàng mới. Kiềm chế lạm phát không phải là quay trở lại mặt bằng giá
cũ, mà là hình thành một mặt bằng giá mới.
Do đó, trong Nghị quyết đã đề ra nhiệm vụ điều chỉnh giá điện, giá xăng dầu,
v.v... một mặt nhằm khắc phục những bất hợp lý trong mặt bằng giá tồn tại nhiều
năm nay, mặt khác cũng góp phần điều tiết tổng cầu, hình thành mặt bằng giá mới.
Các loại giải pháp khác như thúc đẩy sản xuất, bảo đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh
thông tin, tuyên truyền cần coi là những giải pháp hỗ trợ nhằm che chắn tác dụng
phụ có thể phát sinh trong quá trình triển khai Nghị Quyết.
Trong các nguyên nhân lạm phát, rất cần làm rõ và nhấn mạnh những nguyên
nhân chủ quan. Như đã phân tích ở trên, một khi xảy ra mất cân đối cung cầu giữa
tiền và hàng, tiền nhiều hơn hàng nên tiền mất giá. Nhận thức rõ nguyên nhân chủ
quan như vậy có ý nghĩa đề cao trách nhiệm của Chính phủ trong kiềm chế lạm
phát.
172
Mặc dù kiềm chế lạm phát đã là một Nghị quyết của Chính phủ, lạm phát là
một thực trạng kinh tế không đơn giản và không thể giải quyết trong một thời gian
ngắn. Nghị quyết 11 đã đề ra sáu loại giải pháp, trong đó các giải pháp kinh tế và
hành chính kết hợp và hỗ trợ nhau. Nhìn tổng thể, giải pháp kinh tế giữ vai trò chủ
yếu, tuy nhiên trong khu vực nhà nước, đặc biệt trong thực hiện chủ trương giảm
đầu tư công, giải pháp hành chính phải giữ vai trò quyết định. Kiềm chế lạm phát
tuy cấp bách, nhưng nó dường như đã trở thành bệnh mãn tính, rất nặng lại nhạy
cảm, cho nên cần tránh nôn nóng, vội vàng áp dụng những giải pháp có thể gây sốc.
Nghị quyết 11 cần được triển khai trong tinh thần khẩn trương, nhưng thận trọng
theo một lộ trình được nghiên cứu chu đáo với liều lượng giải pháp được điều chỉnh
dần trong quá trình thực hiện Nghị quyết.
Thâm hụt cán cân thương mại
Tại Nghị Quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 về những giải pháp chủ yếu tập
trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, Thủ tướng
Chính phủ giao Bộ công thương xây dựng kế hoạch điều hành xuất, nhập khẩu,
phấn đấu bảo đảm nhập siêu không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu, chủ động
áp dụng các biện pháp phù hợp kiểm soát nhập khẩu hàng tiêu dùng.
Nhập siêu không phải mới phát sinh, mà đã tồn tại cùng với nền kinh tế
chúng ta nhiều năm nay. Nhập siêu cũng không hẳn là không có lợi cho nền kinh tế,
vấn đề là nhập những gì và sử dụng như thế nào. Nếu nhập máy móc, thiết bị, trong
đó có cả phần dành để hiện đại hóa công nghệ là điều cần thiết trong quá trình cải
tiến sản xuất, càng quan trọng hơn nếu làm tăng giá trị gia tăng của sản phẩm. Nhập
khẩu nguyên liệu, vật tư cho các ngành công nghiệp càng không thể thiếu để phục
vụ trong sản xuất và chế tạo.
Vấn đề đang đặt ra là trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay lại có hiện tượng
chi tiêu quá mức với nhiều loại sản phẩm xa xỉ không cần thiết cho đại đa số người
dân. Tuy nhiên là thành viên của WTO, Việt Nam phải tuân thủ các quy định liên
quan đến mậu dịch quốc tế của tổ chức này, tất nhiên là các nước thành viên phải
mở cửa cho hầu hết sản phẩm nhập khẩu theo một lộ trình nhất định do các thành
173
viên đã thỏa thuận. Thế nhưng hạn chế nhập khẩu một số sản phẩm nhập khẩu nào
đó, thành viên có thể áp dụng quy chuẩn kỹ thuật để các nhà chế tạo và nhập khẩu
biết để tuân theo. Đây là hình thức được WTO chấp nhận để một thành viên có thể
sử dụng nhằm hạn chế nhập khẩu sản phẩm nào đó mà không bị cho là vi phạm chế
độ bảo hộ mậu dịch, hình thức này được sử dụng khá phổ biến khi hàng rào thuế
quan đã bị dẹp bỏ.
Do đó, để hạn chế tình trạng nhập siêu, chúng ta cần xây dựng hàng rào kỹ
thuật. Đặc biệt, cần phân tích rõ cơ cấu nhập khẩu số lượng lớn hàng tiêu dùng
không thiết yếu, để giúp chúng ta biết được những mặt hàng nào trực tiếp phục vụ
sản xuất và những mặt hàng nào chỉ phục vụ cho cuộc sống hằng ngày của người
dân. Trên cơ sở đó, cơ quan quản lý Nhà nước định hướng chính sách rà soát để có
cơ sở cấp vốn vay nhập hàng, cũng như sử dụng các biện pháp khác, trong đó có
việc cấp giấy phép tự động, nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng
không thiết yếu. Việc tăng các rào cản thuế và phi thuế đối với hàng nhập khẩu
không thiết yếu phục vụ sản xuất tiêu dùng phải tuân thủ lộ trình giảm thuế đã cam
kết. Cụ thể, rà soát lại các khoản thuế, dòng thuế với các hàng hóa nhập khẩu, nhất
là nhóm hàng hạn chế nhập khẩu và áp dụng đến mức cao nhất mà lộ trình của
WTO đã cam kết cho phép; nghiên cứu, áp dụng các rào cản phi thuế như các rào
cản kỹ thuật, biện pháp vệ sinh và an toàn thực phẩm, biện pháp tự vệ, trợ cấp hoặc
biện pháp đối kháng theo đúng những điều kiện mà WTO đã quy định.
Ngoài ra, cần tăng cường kiểm tra giá tính thuế hàng nhập khẩu trong khâu
thông quan, thông qua việc đưa vào danh mục quản lý rủi ro từ 13 nhóm mặt hàng,
lên 20 nhóm mặt hàng vào cuối năm 2011. Ban hành quy chế xây dựng, thu thập,
cập nhật và cơ sở dữ liệu về danh mục hàng hóa, biểu thuế và phân loại, áp dụng
mức thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Đặc biệt, ngành chức năng cần tăng
cường kiểm tra sau thông quan, thanh tra việc phân loại hàng hóa, áp dụng mức
thuế với hàng hóa đã thông quan và thông báo sớm kết quả đã kiểm tra, thanh tra về
phân loại hàng hóa cho khâu thông quan để các Doanh nghiệp có biện pháp điều
chỉnh kịp thời. Như vậy, đã đến lúc Nhà nước phải đánh thuế cao với nhóm mặt
174
hàng xa xỉ. Hiện tại, quy định của WTO không cấm chúng ta đánh thuế cao, mà
quan trọng là chúng ta có thực thi biện pháp này hay không, hoặc chí ít có thể sử
dụng các biện pháp khác mà không vi phạm quy định của WTO như tạo thủ tục
hành chính thuế, hải quan khắt khe hơn đối với các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ như đã
nói ở trên. Đặc biệt, các ngành chức năng có thể đặt ra các tiêu chuẩn kỹ thuật, an
toàn môi trường, hay các biện pháp khác như hạn chế ngoại tệ, hạn chế cho vay để
nhập khẩu hàng xa xỉ không cần thiết.
Sớm thực hiện tốt những vấn đề nêu trên, hy vọng sẽ hạn chế được tình trạng
nhập siêu, cân bằng cán cân thương mại và cân đối cung cầu ngoại tệ; từ đó tạo ra
hoạt động ổn định trên thị trường ngoại hối và giảm thiểu rủi ro ngoại hối cho các
chủ thể tham gia vào nền kinh tế.
Tình trạng đôla hóa nền kinh tế
Đôla hóa là tình trạng khó tránh khỏi đối với các nước có xuất phát điểm
thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và đẩy mạnh hội nhập quốc tế như
Việt Nam. Tâm lý lo ngại về lạm phát, về sự mất giá của đồng nội tệ, thói quen sử
dụng tiền mặt trong giao dịch, v.v... không thể trong một thời gian ngắn xóa bỏ hay
giảm triệt để được.
Do đó, việc xóa bỏ đôla hóa trong nền kinh tế - xã hội nước ta phải được
thực hiện từng bước, từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát triển của
đất nước; phải bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế, vừa hành chính kết hợp với giáo
dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hội trong lộ trình thực thi nhiều cơ chế kinh tế
nghiệp vụ ngân hàng cụ thể nối tiếp nhau, để nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam
trong các chức năng thuộc tính của tiền tệ. Việc xóa bỏ đôla hóa không thể xử lý
theo quan điểm xóa bỏ sạch trơn, phủ định tất cả. Trong giai đoạn hiện nay cần cố
gắng khai thác mặt lợi, thu hút vốn đôla trong dân vào hệ thống ngân hàng, đầu tư
cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Khi đề cập đến kiềm chế, đẩy lùi và hạn
chế các mặt tiêu cực của tình trạng đôla hóa nền kinh tế, có nghĩa là chúng ta chấp
nhận sự tồn tại của đôla hóa ở những mặt tích cực khách quan. Điều quan trọng nhất
là Nhà nước phải giữ vai trò chủ động để điều chỉnh hiện tượng đôla hóa; nhất
175
quyết phải có các giải pháp hành chính - kinh tế - giáo dục đồng bộ để triệt tiêu các
mặt tiêu cực của đôla hóa. Chúng ta không thể sử dụng lại các biện pháp hành chính
đã từng áp dụng trong những thời gian trước đây như là: tăng tỷ lệ kết hối lên
100%, không cho nhận kiều hối bằng ngoại tệ, không nhận tiền gửi ngoại tệ hoặc hạ
thấp lãi suất tiền gửi ngoại tệ, chỉ cho phép doanh nghiệp được mở tài khoản ngoại
tệ tại một ngân hàng.
Những biện pháp hành chính này qua thực tiễn thực hiện đã chứng tỏ là
chúng gây khó khăn cho các doanh nghiệp, không khuyến khích nguồn kiều hối
chuyển về nước, và không phù hợp với xu hướng hội nhập với khu vực và thế giới.
Do đó, để giữ được những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đôla hóa,
chúng ta có thể thực hiện một số giải pháp được trình bày ngắn gọn sau đây:
Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn
ngoại tệ hiện có trong dân.
Những giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ
Cần tiếp tục phát triển dịch vụ ngân hàng và mở rộng thanh toán không
dùng tiền mặt trong nền kinh tế; Đẩy mạnh tuyên truyền về sử dụng thẻ,
kể cả thẻ tín dụng quốc tế.
Thay cho việc chỉ gắn với đồng đôla Mỹ như trước đây, tỷ giá ngang giá
nên gắn với một "rổ" tiền tệ (bao gồm một số ngoại tệ mạnh như USD,
EURO, JPY và một số đồng tiền của các nước trong khu vực như Trung
Quốc, Hàn Quốc, ...), các đồng tiền này tham gia vào "rổ" tiền tệ theo tỷ
trọng quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam. Việc xác định tỷ giá
như trên nhằm giảm bớt sự lệ thuộc của đồng Việt Nam vào đôla Mỹ, và
phản ánh xác thực hơn quan hệ cung cầu trên thị trường trên cơ sở có tính
đến xu hướng biến động các đồng tiền của các nước bạn hàng lớn.
Các Ngân hàng chỉ được phép cho vay đồng USD đối với những đối
tượng có doanh thu trực tiếp và có khả năng chi trả bằng đồng USD. Còn
tất cả các doanh nghiệp trong nước khác vay các NHTM trong nước đều
176
thực hiện bằng đồng bản tệ, khi cần ngoại tệ để thanh toán với quốc tế thì
mua ngoại tệ tại các NHTM để mở tín dụng thư (L/C) thanh toán.
Không được duy trì quyền sở hữu ngoại tệ không có nguồn gốc hợp pháp.
Cần có quy chế rõ ràng rằng sở hữu ngoại tệ của dân cư là sở hữu ngoại
tệ hợp pháp chuyển từ nước ngoài vào; không cho phép sở hữu số ngoại
tệ có được do sự trao đổi lòng vòng ở thị trường phi chính thức, rồi
chuyển số đó thành sở hữu riêng.
Sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt
buộc, ... để tác động đến điều kiện thị trường nhằm làm cho đồng Việt
Nam hấp dẫn hơn đôla Mỹ. Qua đó hạn chế xu hướng chuyển đổi từ đồng
Việt Nam sang đôla Mỹ.
Cần nhất quán chủ trương quản lý lưu hành ngoại tệ theo hướng "Tại
Việt Nam chỉ chi trả bằng đồng Việt Nam". Muốn vậy, cần có các quy
định cụ thể về việc sử dụng ngoại tệ của cá nhân.
Quá trình kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đôla hóa thành công là một tiền để
cần thiết để Việt Nam có được một cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn. Với sự mở
cửa của khu vực tài chính trong những năm tới và sự tự do hóa giao dịch tài khoản
vốn, việc đạt được mục tiêu kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đôla hóa là việc làm rất
khó khăn, muốn làm được cần phải có thời gian và có quyết tâm cao. Điều quan
trọng là những mặt tích cực mang lại lợi ích của hiện tượng đôla hóa trên thị trường
Việt Nam không nên bị xóa bỏ, nó tồn tại đan xen trong cơ chế thị trường mở cửa
và hội nhập, được sử dụng như một giải pháp bổ sung trong chính sách tiền tệ tích
cực của đất nước trong giai đoạn mới, còn những mặt tiêu cực của đôla hóa thì cần
phải được kiềm chế, đẩy lùi và xóa bỏ; để từ đó tạo ra sự hoạt động ổn định cho thị
trường ngoại hối.
3.4.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
Quản trị rủi ro trong KDNH của các NHTM là mảng hoạt động khá phức tạp
và khó khăn, bởi phạm vi của nó rất rộng, đồng thời các yếu tố nội hàm trong quản
lý rủi ro lại có mối tương quan phức tạp, có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau dưới nhiều
177
góc độ. Chính vì vậy, để quản trị rủi ro KDNH một cách hiệu quả, cần thực hiện
đồng bộ, thống nhất phối hợp ở tất cả các cấp độ, mà cấp độ cao nhất và trực tiếp
trong hệ thống ngân hàng Việt nam chính là NHNN. Tác giả kiến nghị các chính
sách sau với NHNN:
3.4.2.1. Chính sách tỷ giá USD/VND
Chính sách tỷ giá luôn là một chính sách vĩ mô rất quan trọng bởi phạm vi
tác động lớn, khó lường trước và thường phải đánh đổi giữa nhiều mục tiêu vĩ mô.
Trên thực tế thường có quá nhiều mục tiêu được đặt ra cho chính sách tỷ giá, trong
khi đó các công cụ thực thi chính sách và dư địa thực hiện chính sách lại khá hạn
hẹp. Việc giảm giá đồng nội tệ có thể thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh
toán, nhưng điều đó chỉ có thể xảy ra trong những điều kiện nhất định. Lựa chọn
một chế độ tỷ giá hối đoái phù hợp để ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng dài
hạn cũng như ổn định cho hoạt động trên thị trường ngoại hối được coi là một ưu
tiên trong quản lý kinh tế hiện nay. Việc đánh giá diễn biến và nguyên nhân biến
động của tỷ giá, đồng thời phân tích mối liên hệ giữa chính sách tỷ giá và các biến
số kinh tế vĩ mô là một chủ đề mà các nhà hoạch định chính sách hiện rất quan tâm,
theo Ủy ban kinh tế quốc hội (2011).
Chính sách neo tỷ giá có mục tiêu là giúp ổn định kinh tế vĩ mô nhưng cũng
làm tăng sức ép cho nhà quản lý, dẫn đến có giai đoạn điều hành bị giật cục, làm
tăng lạm phát như xảy ra gần đây. Tuy nhiên, trong giai đoạn vài năm trở lại đây khi
điều kiện thâm hụt thương mại lớn, cán cân tài khoản vãng lai thường xuyên thâm
hụt, lạm phát gần đây thuộc loại cao nhất khu vực, thì nền kinh tế tiếp tục bị đôla
hóa với tỷ lệ đáng kể. Lạm phát cao cũng làm tăng nhu cầu tích trữ của cải, hệ quả
là giá vàng trong nước thường xuyên cao hơn giá vàng quốc tế dẫn đến nhập lậu
vàng đáng kể. Trong bối cảnh như vậy, chính sách tỷ giá chịu nhiều sức ép và khó
có thể làm hài lòng tất cả mọi người.
Mối quan ngại hiện nay là các nước đều kiềm chế tốc độ tăng giá bản tệ và
dùng công cụ tỷ giá để thúc đẩy xuất khẩu mà không tuân theo quy luật cung cầu.
Trong khi đó, mức độ phát triển không đồng đều của thế giới đã làm gia tăng nỗi lo
178
về những phản ứng bất lợi khi các nước tìm cách bảo vệ sự cạnh tranh thương mại
của họ trước những kỳ vọng về sự mất giá tiếp theo của USD.
Giá bản tệ tăng có thể giúp đối phó với lạm phát nhờ dòng vốn vào tăng và
nhập khẩu rẻ hơn, góp phần thúc đẩy tiêu dùng trong nước, từng bước nâng cao chất
lượng cuộc sống và tăng năng suất lao động, đồng thời giúp các nhà hoạch định
chính sách đạt được mục tiêu biến nhu cầu nội địa thành động lực tăng trưởng kinh
tế lớn hơn, năng lực đầu tư được tăng cường và đóng góp nhiều hơn cho GDP. Giá
bản tệ tăng có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn, nhưng đảm
bảo tăng trưởng bền vững trong dài hạn và giúp khắc phục triệt để các vấn đề xã
hội.
Phá giá đồng nội tệ có thể hỗ trợ xuất khẩu, nhưng mức độ đóng góp của
xuất khẩu vào tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc vào tỷ trọng hàng nhập khẩu trong
hàng hóa xuất khẩu, một đồng bản tệ quá yếu sẽ gây nên lạm phát và bong bóng tài
sản, làm suy giảm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Vấn đề
quan trọng là phải tăng lợi nhuận xuất khẩu và tạo việc làm một cách liên tục,
nhưng không nên lệ thuộc vào điều chỉnh tỷ giá, những yếu tố khác của tăng trưởng
kinh tế có thể bù cho bất cứ sự sụt giảm nào của xuất khẩu. Việc các nước đồng loạt
phá giá đã làm cho việc phá giá trở nên vô nghĩa, thậm chí không còn khả năng
kiểm soát lạm phát do cung tiền quá mức, nhưng dường như các chính phủ và
NHTW còn bị chi phối bởi lợi ích quốc gia mặc dù biết rằng, một chính sách tỷ giá
phù hợp sẽ đảm bảo và cải thiện thu nhập thực tế của người lao động, làm nền tảng
để nâng cao hiệu quả tăng trưởng.
Trong khi đó, một chính sách tỷ giá thả nổi - công cụ của nền kinh tế thị
trường phát triển - là một nhân tố gây mất ổn định mạnh trong bối cảnh nền kinh tế
chuyển đổi chưa phát triển đầy đủ các quan hệ thị trường. Việc nhấn mạnh một
chiều các lợi ích của việc ấn định giá trị đồng bản tệ quá cao hoặc quá thấp, cũng
giống việc thả nổi hoàn toàn tỷ giá, là chỉ tính đến những lợi ích ngắn hạn và chứa
đựng trong đó tất cả những hiểm họa mà sớm hay muộn sẽ bùng nổ trong tương lai,
khiến toàn bộ nền kinh tế phải trả giá đắt hơn so với những lợi ích cục bộ thu được.
179
Cái giá phải trả càng cao nếu mức độ chênh lệch giữa tỷ giá trên thị trường chính
thức và tỷ giá trên thị trường phi chính thức càng lớn và được duy trì càng lâu, cũng
như nếu cơ chế và các thể chế thị trường trong nước càng sơ khai và thiếu đồng bộ.
Hơn nữa, sự đầu cơ quốc tế sẽ làm cho cái giá phải trả này càng trở nên khổng lồ và
khó lường trước được.
Do đó, không có một cơ chế tỷ giá hối đoái nào là tối ưu trong mọi trường
hợp. Nhưng thực tế cho thấy, giữ được tỷ giá ổn định dựa trên việc tìm kiếm thường
xuyên sự cân đối tối ưu giữa tính chất tự thân thị trường với sự can thiệp nhà nước
là điều kiện tốt cho tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Vì vậy, chính
sách tỷ giá ngày càng được nhiều nước lựa chọn là sự điều chỉnh tỷ giá có tính mềm
dẻo, linh hoạt một cách thận trọng thích ứng với những biến động dựa trên quan hệ
cung cầu thị trường có sự điều tiết tích cực của nhà nước.
Có hai phương thức xác định xu hướng và mức vận động của tỷ giá danh
nghĩa ổn định thường được dùng là:
Xác định một hoặc một số ngoại tệ mạnh mà tỷ giá bản tệ biến động gắn với
chúng: Đó có thể là ngoại tệ thường dùng trong thanh toán quốc tế, hoặc
đồng tiền của nước bạn hàng chính. Phương thức này đặt sự biến động của
đồng bản tệ vào các nhân tố bên ngoài, và do đó dễ gây ra tình trạng “nhập
khẩu” lạm phát hoặc thiểu phát, đột biến giá cả ngoài tầm quản lý của chính
phủ, tăng tính bị động của chính sách vĩ mô, thường gây bất ổn cho thị
trường ngoại hối.
Định kỳ điều chỉnh tỷ giá bản tệ: NHTW dự kiến trước mức điều chỉnh giá
bản tệ trong khoảng thời gian xác định trên cơ sở cân nhắc và dự báo cung -
cầu về ngoại tệ, tình hình kinh tế - xã hội cụ thể trong, ngoài nước và xu thế
vận động của chúng. Tuy vậy, nếu khoảng cách của các chu kỳ điều chỉnh tỷ
giá không được cân nhắc đầy đủ sẽ gây ra tình trạng hỗn loạn, bất an trong
tâm lý và hoạt động kinh tế; sẽ làm gia tăng nạn đầu cơ hoặc thái độ chờ thời
của các chủ đầu tư, đặc biệt là khi chính phủ tạo ra sự điều chỉnh tỷ giá một
chiều – tức chỉ tăng hay giảm tỷ giá.
180
Hơn nữa, nếu ghìm tỷ giá quá lâu hoặc mức điều chỉnh tỷ giá bản tệ quá mức
sẽ gây ra tình trạng tăng hoặc giảm quá giá trị bản tệ, từ đó kéo theo các hệ quả của
việc định giá quá cao hoặc quá thấp đồng bản tệ như đã phân tích ở trên.
Do vậy, sự điều chỉnh tỷ giá bản tệ sẽ là nhân tố ổn định chỉ khi những biện
pháp phối hợp của chính sách tiền tệ không làm tăng cung tiền vượt quá mức tăng
sản lượng hàng hóa vật chất và tiền tệ hóa sự thiếu hụt ngân sách - một việc làm sẽ
khiến gia tăng lạm phát, đôla hóa và dễ tạo ra vòng xoáy chóng mặt của lạm phát -
phá giá bản tệ - lạm phát, để rồi đi tới sự sụp đổ bản tệ, gây bất ổn trầm trọng cho
thị trường ngoại hối.
Bên cạnh đó, dù linh hoạt chính sách tỷ giá, Nhà nước vẫn giữ vai trò điều
tiết nền kinh tế và cần thúc đẩy các kênh đầu tư để thu hút lượng USD nhằm giảm
bớt tác dụng phụ của chính sách tỷ giá hối đoái, có biện pháp kiểm soát chặt hơn và
hạn chế nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, đặc biệt là của các quỹ đầu tư rủi
ro. Trong điều kiện nền kinh tế chưa hấp thu hiệu quả đồng vốn đầu tư gián tiếp
nước ngoài thì nên đặt ưu tiên số một là khôi phục ổn định vĩ mô của nền kinh tế,
đảm bảo cho sự tăng trưởng dài hạn.
3.4.2.2. Phát triển thị trường sản phẩm phái sinh
Công cụ phái sinh là một công cụ bắt nguồn từ một sản phẩm gốc đã có từ
trước như ngoại tệ, vàng, chứng chỉ tiền gửi bằng ngoại tệ, v.v… Các công cụ phái
sinh ngoại hối thông dụng bao gồm: kỳ hạn, hoán đổi, hợp đồng tương lai và hợp
đồng quyền chọn ngoại hối.
Công cụ phái sinh ngoại hối ra đời là để bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Tỷ giá biến
động theo một biên độ lớn và ngẫu nhiên, phản ánh quan hệ cung cầu về ngoại tệ
trên thị trường là điều kiện tiên quyết cho việc sử dụng các công cụ phòng chống rủi
ro. Trên thị trường ngoại hối, bên cạnh việc phản ánh quan hệ cung cầu về ngoại tệ
thì thị trường còn ẩn chứa các yếu tố đầu cơ và chênh lệch giá về ngoại tệ. Đây cũng
là những yếu tố quan trọng trong việc làm cho tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại
hối biến động một cách khó dự đoán. Chính vì sự không dự đoán trước được những
thay đổi của tỷ giá trên thị trường mà các doanh nghiệp cũng như các NHTM và các
181
chủ thể khác trong nền kinh tế có hoạt động giao dịch ngoại hối luôn có mong muốn
bảo hiểm rủi ro để chống lại những tổn thất có thể xảy ra đối với các dòng tiền
ngoại tệ của mình.
Theo thông lệ quốc tế, trước khi giao dịch các sản phẩm phái sinh như hoán
đổi, quyền chọn hay tương lai, các bên tham gia phải ký kết với nhau bản thỏa thuận
chung của Hiệp hội các nhà kinh doanh phái sinh và hoán đổi quốc tế ISDA. Thỏa
thuận này bao gồm các điều khoản và điều kiện nhằm quy định phạm vi giao dịch,
loại công cụ giao dịch, nghĩa vụ của các bên tham gia; quy định các vấn đề về giải
quyết tranh chấp, tòa án hay các vấn đề xử lý khi có bên tham gia bị mất khả năng
thanh toán, v.v…
Thị trường phái sinh và công cụ phái sinh ngoại hối rất đa dạng, phức tạp đòi
hỏi các giao dịch viên phải có trình độ chuyên môn cao về lĩnh vực ngoại hối, am
hiểu các kỹ thuật nghiệp vụ phái sinh ngoại hối. Đặc biệt là cán bộ giao dịch phải có
khả năng vận dụng linh hoạt các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá đối với danh
mục đầu tư bằng ngoại tệ, vàng của bản thân đơn vị. Bên cạnh điều kiện về trình độ
cán bộ thì vấn đề công nghệ áp dụng tại các đơn vị cũng là điều kiện cần thiết để
ứng dụng nghiệp vụ phái sinh ngoại hối. Vì các công cụ phái sinh nói chung và
công cụ phái sinh ngoại hối nói riêng được xây dựng trên cơ sở sử dụng các thuật
toán phức tạp để dự đoán về các khả năng biến động của tỷ giá hối đoái trong tương
lai. Do đó đòi hỏi các NHTM, doanh nghiệp và các chủ thể có liên quan cần phải có
các phần mềm hiện đại để xử lý giao dịch cũng như quản lý và tính phí đối với các
công cụ phái sinh. Từ đó, các chủ thể có hoạt động giao dịch ngoại hối có điều kiện
phòng ngừa và giảm rủi ro ngoại hối hiệu quả và kinh tế nhất theo điều kiện của đơn
vị mình.
3.4.2.3. Chính sách đối với huy động và tín dụng ngoại tệ
Nhận thức được những tác động tiêu cực của tín dụng ngoại tệ, NHNN đã có
chủ trương hạn chế, thu hẹp đối tượng cho vay và thắt chặt khả năng cho vay của
các NHTM và hạ thấp lãi suất huy động ngoại tệ. Trong giai đoạn 2008 - 2011,
NHNN đã liên tục đưa ra những thay đổi về đối tượng được vay và quy định đối với
182
TCTD cho vay bằng ngoại tệ, điển hình là các Quyết định 09/2008/QĐ-NHNN,
Thông tư 25/2009/TT-NHNN, Quyết định số 750/QĐ-NHNN, Quyết định số
74/QĐ-NHNN, v.v... Những động thái này cho thấy chủ trương của NHNN tăng
cường kiểm soát và hạn chế tín dụng ngoại tệ, nhằm tạo ra sự ổn định trên thị
trường ngoại hối. Tuy nhiên để biến chủ trương thành hiện thực cần phải xây dựng
một lộ trình với các giải pháp cụ thể.
Việc hạn chế và tiến tới xóa bỏ tín dụng ngoại tệ có thể được thực hiện theo
một lộ trình được xác định gồm hai giai đoạn, trước mắt đến hết năm 2013 là xóa bỏ
huy động tiền gửi ngoại tệ và hạn chế cho vay ngoại tệ, sau đó xóa bỏ hoàn toàn tín
dụng ngoại tệ chuyển sang quan hệ mua bán từ hết năm 2015. Các giải pháp cụ thể
Chấm dứt việc nhận tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ song song với việc giải
bao gồm như sau:
phóng lãi suất nội tệ và giải phóng tỷ giá, tạo điều kiện cho các chủ thể nắm
Hạn chế tình trạng nắm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp thông qua việc tái
giữ ngoại tệ bán cho các NHTM
Sàng lọc và lựa chọn khách hàng vay vốn bằng ngoại tệ kết hợp với việc xác
áp dụng chế độ kết hối ngoại tệ và khuyến khích bán ngoại tệ cho các NHTM
Hạn chế khách hàng vay vốn bằng ngoại tệ trung và dài hạn bằng cách
định hạn mức cho từng đối tượng khách hàng
Phát triển thị trường ngoại hối nhằm đáp ứng sử dụng ngoại tệ thông qua
khuyến khích vay bằng Đồng Việt Nam
quan hệ mua - bán tiến tới xóa bỏ hoàn toàn tín dụng ngoại tệ từ sau năm
2015.
Cho nên, hạn chế và tiến tới chấm dứt tín dụng ngoại tệ là một định hướng tư
duy hoàn toàn đúng đắn để giải quyết những bất cập, mất ổn định kinh tế vĩ mô ở
Việt Nam hiện nay và bằng chứng là Chính phủ và NHNN đã có những định hướng
rõ ràng về việc thu hẹp tín dụng ngoại tệ. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng hạn
chế và xóa bỏ tín dụng ngoại tệ ở Việt Nam là một sự đánh đổi, chấp nhận những
khó khăn thách thức trước mắt để củng cố lòng tin, sức mua và chủ quyền của đồng
183
tiền Việt Nam, một trong những điều kiện cơ bản để ổn định vững chắc kinh tế vĩ
mô.
3.4.2.4. Lập sàn giao dịch vàng, ngoại tệ và các sản phẩm phái sinh mang tính
quốc gia
Sở giao dịch vàng, ngoại tệ và các sản phẩm phái sinh mang tính Quốc gia
của Việt Nam sẽ là nơi giao dịch vàng, ngoại tệ và các sản phẩm phái sinh tập trung
và chính thức của cả nước. Việc hình thành một thị trường chung được kỳ vọng sẽ
tạo lập sân chơi có tổ chức, minh bạch, chấm dứt tình trạng lộn xộn hiện nay trên thị
trường. Cơ quan này sẽ thuộc sở hữu Nhà nước, được thành lập dưới dạng một công
ty TNHH một thành viên nhà nước, với mặt hàng đặc biệt là vàng, ngoại tệ và các
sản phẩm phái sinh. Những cá nhân, doanh nghiệp và các ngân hàng có vàng, ngoại
tệ có nhu cầu mua bán sẽ đăng ký lưu ký trên tài khoản của Sở giao dịch và đặt các
lệnh mua bán thông qua hệ thống giao dịch tại Sở. Sở giao dịch chỉ là nơi cung cấp
địa điểm, dịch vụ cho hoạt động thanh toán và giao nhận vàng và ngoại tệ, không
tham gia giao dịch trên sàn. Các thành viên tham gia thị trường gồm hai loại tự
doanh và môi giới, đây là các Ngân hàng hoặc doanh nghiệp kinh doanh ngoại hối
có uy tín và danh tiếng tốt, minh bạch trong kinh doanh. Sàn được xây dựng hệ
thống và quy định về giao dịch, hệ thống thanh toán cũng như các vấn đề về lưu trữ,
vận chuyển và đảm bảo chất lượng vàng. Các vấn đề về quản lý rủi ro đảm bảo
minh bạch trên thị trường cũng sẽ được tuân thủ các quy định rõ ràng. Tại Sở giao
dịch cũng có dịch vụ mua bán có kỳ hạn và thực hiện các công cụ phái sinh để
phòng ngừa rủi ro khi thị trường ngoại hối thế giới biến động bất thường. Nhà đầu
tư sẽ được tính giá mua, giá bán trên cơ sở khớp giá hàng ngày của nhiều người
mua, nhiều người bán, nếu lượng khách giao dịch càng lớn sẽ phản ánh giá mua và
giá bán càng khách quan hơn.
Đối với thị trường vàng hiện nay, Việt Nam đã trở thành quốc gia có số
người tham gia đầu tư vàng đứng trong nhóm các quốc gia có đầu tư vàng lớn nhất
trên thế giới, nếu tiếp tục để thị trường giao dịch tự do thì chắc chắn nhà đầu tư, các
NHTM cũng như thị trường vàng trong nước sẽ gặp nhiều rủi ro như thời gian qua.
184
Với việc thành lập sàn vàng quốc gia, cơ quan quản lý cũng nắm được lượng cung,
cầu của thị trường vàng, cung cầu ngoại tệ liên quan đến vàng cũng như lượng tiền
giao dịch trên thị trường vàng một cách chính xác, chủ động hơn, để có những điều
tiết kịp thời khi biến động xảy ra. Giá vàng do cung cầu xã hội quyết định, nhờ đó
làm giảm được lũng đoạn thị trường và thao túng giá, góp phần tạo trật tự khách
quan cho công bằng trên thị trường, giảm nhu cầu nhập khẩu và hạn chế xuất nhập
khẩu lậu vàng. Nhìn ở góc độ con số thống kê và dự báo, Chính phủ không những
biết được giá trị vàng trong nền kinh tế là bao nhiêu để có những biện pháp điều
chỉnh thị trường phù hợp, tránh tình trạng vàng gây nhiễu sang thị trường ngoại hối
như vừa qua.
Ngoài ra, khi vàng về kho Nhà nước, có thể tạm hiểu là Chính phủ vay vàng
của dân và tổ chức để làm dự trữ quốc gia. Trong trường hợp nhất định, có thể
chuyển đổi chúng thành tiền hoặc tài sản thanh khoản cao để tái đầu tư vào nền kinh
tế. Tất nhiên, hình thức huy động vàng này cũng phải cấp cho người dân và tổ chức
chứng chỉ giống như chứng chỉ tiền gửi và Chính phủ phải trả lãi cho người dân,
đồng thời cho người dân rút ra khi họ cần thì mới đảm bảo uy tín của Chính phủ.
Khi cầm “chứng chỉ vàng” trong tay, người dân và tổ chức được hưởng lãi suất như
tiền gửi. Trong trường hợp muốn mua bán thì chỉ cần giao dịch qua tài khoản, an
toàn hơn là giao dịch trực tiếp tại các cửa hàng vàng.
Bên cạnh đó, cho mở lại vàng tài khoản trên sàn vàng quốc gia cũng có nhiều
lợi ích khác như không tốn thêm ngoại tệ cho việc nhập vàng nhưng vẫn có thể đáp
ứng nhu cầu của dân; tiết kiệm được chi phí xã hội khi tận dụng nguồn lực vàng
trong dân; triệt tiêu cơ hội làm giá, đầu cơ của giới kinh doanh vàng; hạn chế tình
trạng nhập lậu vàng; kiểm soát được số lượng vàng xuất, nhập thông qua hạn mức
giao dịch trên tài khoản, giảm rủi ro cho các giao dịch kinh doanh vàng cho các
NHTM.
Trên thế giới, không nước nào cho giao dịch vàng miếng tự do như Việt
Nam, tuy nhiên, sau khi kênh kinh doanh vàng vật chất bị hạn chế, việc mở kênh
giao dịch phi vật chất là cần thiết để đáp ứng nhu cầu của người dân. Nhiều người
185
tham gia sàn vàng trước đây gặp rủi ro lớn do tỷ lệ ký quỹ thấp, khoảng 7%, trong
khi tại Mỹ, các sàn giao dịch vàng có lúc điều chỉnh tỷ lệ này lên tới 20-30% mỗi
khi thị trường biến động mạnh. NHNN cần xem tỷ lệ đặt cọc trên sàn vàng là công
cụ điều tiết thị trường khi giá vàng biến động mạnh, không nên cố định tỷ lệ đặt cọc
như trước đây. Do đó, nếu cho lập sàn vàng mới cần có những thay đổi để tránh lặp
lại sai lầm như trước. Cụ thể, tỷ lệ ký quỹ cần điều chỉnh cao hơn; Hành lang pháp
lý và quy chế cần được quy định rõ ràng hơn; Trách nhiệm của người tham gia sàn
vàng cũng như nhà quản lý phải được nâng cao hơn.
Bên cạnh đó, sàn vàng quốc gia sẽ giúp Chính phủ và NHNN quản lý thị
trường vàng tốt hơn. Nếu cần, NHNN sẽ tác động vào sàn giao dịch để bình ổn thị
trường và thông qua đó để tiến hành các biện pháp quản lý khác như thu thuế và từ
đó tăng nguồn thu hàng năm cho ngân sách nhà nước. NHNN còn có thể giám sát
được các giao dịch vàng với khối lượng lớn, biết được luồng vốn trung chuyển vào
ra thông qua con đường buôn bán vàng.
Về cấu trúc giao dịch, Sở giao dịch vàng, ngoại tệ và các sản phẩm phái sinh
mang tính quốc gia cũng có nhiều nét tương đồng với Sở giao dịch chứng khoán,
những nhà đầu tư cá nhân hoặc tổ chức sẽ thực hiện lệnh đặt mua, bán ngoại hối và
các sản phẩm phái sinh thông qua các thành viên của Sở giao dịch là các Ngân
hàng, công ty chuyên nghiệp. Các thành viên của Sở giao dịch sẽ gồm đơn vị có
chức năng tự doanh và đơn vị có thêm chức năng môi giới. Với thành viên có chức
năng môi giới, điều kiện sẽ chặt chẽ hơn bởi tổ chức này còn làm dịch vụ quản lý tài
khoản cho nhà đầu tư. Đối với vàng, điểm khác biệt so với Sở giao dịch chứng
khoán là giao dịch vàng có thêm phần kiểm soát chất lượng và cho rút ra đối với
vàng vật chất, còn chứng khoán chỉ có các nghiệp vụ ghi sổ.
Trong những năm trước đây, vàng miếng SJC của Công ty cổ phần Vàng bạc
Đá quý Sài Gòn (SJC) – chiếm trên 80% thị phần vàng miếng cả nước – hầu như có
đầy đủ các chức năng của một đồng tiền thứ hai trên lãnh thổ Việt Nam. Vàng đã là
thước đo giá trị, phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán, tự do lưu thông,
chuyển đổi, mua bán. Sau khi Nghị Định 24 ra đời, NHNN quy định vàng miếng là
186
hàng hóa đặc biệt do NHNN quản lý từ khâu phát hành đến lưu thông, hoạt động
xuất nhập khẩu, kinh doanh vàng sẽ phải tập trung đầu mối. Việc tự do giao dịch
vàng miếng như tại Việt Nam dẫn đến tình trạng người dân, doanh nghiệp nào cũng
có thể trở thành nhà phát hành tiền, vì trên thực tế vàng có thể biến thành USD, tiền
bất cứ lúc nào, gây nhiễu chính sách tiền tệ và tạo ra nhiều rủi ro cho hoạt động
KDNH của các NHTM.
Hiện nay, nhu cầu mua bán vàng, đầu cơ giá vàng vẫn còn rất lớn trong dân,
nếu NHNN không lập ra Sàn giao dịch vàng quốc gia thì các NHTM và các nhà đầu
tư gặp rất nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng. Dù sàn vàng bị cấm hoạt
động hơn 2 năm nay, song sàn vàng bất hợp pháp vẫn công khai chèo kéo người
chơi. Vì vậy, thay vì để xảy ra những vụ lừa đảo vì sàn vàng phi chính thức tương
tự vụ lừa đảo 60 tỷ USD vừa phát hiện ở Trung Quốc, NHNN cần nhanh chóng cho
phép kinh doanh vàng tài khoản, lập sàn vàng quốc gia. Trên thực tế, việc đầu tư
vào các sàn vàng bất hợp pháp này là khá rủi ro và các nhà đầu tư luôn chịu thiệt,
điển hình như hợp đồng mở tài khoản không theo quy định của pháp luật Việt Nam,
các chủ sàn vàng từ nước ngoài yêu cầu người tham gia sàn phải chấp nhận những
rủi ro như: hệ thống mạng vi tính bị ngắt đột ngột, tài khoản của chủ sàn vàng ở
nước ngoài bị phong toả do kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng, lệnh
bán nhiều khi không được khớp với lý do sự cố điện hay lỗi hệ thống, hoặc nếu có
bán thì giá giảm rất sâu so với mức kỳ vọng.
Các sàn giao dịch vàng trước đây phát triển quá nhanh, hoạt động chưa thật
chuyên nghiệp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro đối với nhà đầu tư. Một khi Sàn giao
dịch vàng quốc gia được thành lập sẽ khắc phục được các hạn chế trên, đây là đầu
mối giao dịch vàng tập trung và chính thức của cả nước. Việc hình thành một thị
trường chung được kỳ vọng sẽ tạo ra một kênh đầu tư tốt đối với các nhà đầu tư
đồng thời thu hút được sự tham gia của các Ngân hàng, doanh nghiệp kinh doanh
vàng có uy tín. Theo mô hình đề xuất sẽ xây dựng hệ thống và quy định về giao
dịch, hệ thống thanh toán cũng như các vấn đề về lưu trữ, vận chuyển và đảm bảo
chất lượng vàng. Các vấn đề về quản lý rủi ro, đảm bảo minh bạch trên thị trường
187
cũng được tuân thủ các quy định rõ ràng và chuyên nghiệp hơn. Sở giao dịch vàng
quốc gia sẽ vận hành trong mối quan hệ tổng hợp với các chủ thể là cơ quan quản lý
Nhà nước, Ngân hàng, doanh nghiệp, nhà đầu tư cá nhân, do đó sẽ gắn kết chặt chẽ
hơn thị trường vàng với hệ thống tài chính. Thông qua Sở giao dịch vàng cũng sẽ
huy động được một lượng vàng vật chất rất lớn trong dân (có thể thông qua hình
thức ký quỹ bằng vàng), thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước và hạn chế được tâm lý
tích trữ vàng vật chất.
Thêm vào đó, Sở giao dịch vàng sẽ giải quyết tình trạng nhiều cá nhân và
doanh nghiệp mở tài khoản kinh doanh vàng ở nước ngoài, khiến chảy máu ngoại
tệ; đồng thời sẽ giúp cho giá vàng trong nước và quốc tế không còn chênh lệch
nhiều như hiện nay do vàng được kiểm soát cung cầu một cách khoa học, từ đó
giảm các rủi ro phát sinh cho hoạt động kinh doanh vàng của NHTM. Khi cần bình
ổn giá, NHNN sẽ tác động vào Sàn giao dịch để tiến hành các biện pháp quản lý
khác như thu thuế, tăng hay giảm phí giao dịch. Tuy nhiên, điều khiến cơ quan chức
năng còn cân nhắc hiện nay là hoạt động kinh doanh vàng tài khoản còn tiềm ẩn
nhiều rủi ro, đặc biệt tạo điều kiện cho hoạt động đầu cơ, gây bất ổn thị trường
ngoại hối và ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ của NHNN và các chính sách điều
hành vĩ mô khác của Chính phủ.
Đối với các giao dịch về ngoại tệ cũng như các hợp đồng phái sinh, số lượng
giao dịch hiện nay của các cá nhân, tổ chức cũng như tại các NHTMCP tại TP.HCM
chưa nhiều. Tuy nhiên, việc thiết lập các giao dịch này trên Sàn giao dịch vàng,
ngoại tệ và các sản phẩm phái sinh mang tính quốc gia theo mô hình trên thật sự vô
cùng cần thiết và tiến gần đến các chuẩn mực của TTNH trên thế giới.
3.4.2.5. Hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ngoại tệ và kinh
doanh vàng
NHNN tiếp tục hoàn thiện thể chế thông qua việc xây dựng và ban hành các
văn bản về quản lý ngoại hối và quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Ngày
24/2/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP, trong đó chỉ đạo các Bộ,
ngành và địa phương quyết liệt thực hiện các giải pháp nhằm tập trung kiềm chế
188
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Việc ban hành Nghị quyết
này là một bước đi rất quan trọng nhằm củng cố tâm lý và lòng tin của người dân và
doanh nghiệp.
Thực hiện các giải pháp trong Nghị quyết 11, NHNN đã ban hành hàng loạt
các văn bản quy phạm pháp luật nhằm quản lý chặt chẽ thị trường ngoại tệ, góp
phần chuyển hóa quan hệ huy động - cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua - bán
ngoại tệ, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng đôla hóa trong nền kinh tế. Cụ thể,
NHNN đã ban hành Thông tư quy định về cho vay ngoại tệ của TCTD đối với
khách hàng là người cư trú nhằm thu hẹp đối tượng được vay ngoại tệ trong nước,
đồng thời tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các TCTD và quy định
trần lãi suất huy động vốn tối đa bằng đôla Mỹ của tổ chức kinh tế và cá nhân.
NHNN cũng đã ban hành Thông tư quy định về việc mua, bán ngoại tệ của
một số Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước, Thông tư quy định về mức ngoại tệ tiền
mặt phải khai báo khi xuất nhập cảnh và Thông tư quy định việc mua, bán ngoại tệ
tiền mặt của cá nhân với TCTD được phép. Việc ban hành các quy định này đã tạo
điều kiện để nguồn ngoại tệ tập trung vào hệ thống Ngân hàng, tạo điều kiện đáp
ứng các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp, hợp lý của người dân và doanh nghiệp theo chỉ
đạo của Chính phủ.
Đối với thị trường vàng, để góp phần giảm tình trạng đôla hóa trong nền
kinh tế, hạn chế tình trạng đầu cơ để góp phần ổn định thị trường ngoại hối và giảm
phương tiện thanh toán bằng vàng trong lưu thông, NHNN đã ban hành Thông tư
quy định về chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng của TCTD. Theo Thông
tư này, TCTD không được thực hiện cho vay vốn bằng vàng đối với khách hàng và
các TCTD khác hay gửi vàng tại TCTD khác. TCTD cũng không được thực hiện
các nghiệp vụ ủy thác, đầu tư và các hình thức cấp tín dụng khác bằng vàng. Ngoài
ra, TCTD không được huy động vốn bằng vàng hoặc chuyển đổi vốn huy động
bằng vàng trước đây thành VNĐ trừ một số trường hợp cụ thể trong giai đoạn
chuyển tiếp.
189
Khi thị trường vàng có dấu hiệu căng thẳng, thực hiện chỉ đạo của Thủ
tướng về việc áp dụng các biện pháp cần thiết để bình ổn thị trường, NHNN đã ban
hành Thông tư cho phép một số NHTM được bán một lượng vàng huy động và giữ
hộ tồn quỹ hay gọi là vàng tồn quỹ ra thị trường, đồng thời được mở tài khoản vàng
ở nước ngoài để bảo hiểm rủi ro biến động giá vàng. Biện pháp này có tác động
nhanh, mạnh với tính chủ động cao tới thị trường vàng do đã có sẵn lượng vàng tồn
quỹ trong kho mà lại tiết kiệm ngoại tệ, do lượng vàng cần cho phép nhập khẩu sau
này nhỏ hơn lượng vàng thực tế đã bán, vì các NHTM mua được vàng vật chất
trong nước để bù đắp lượng vàng tồn quỹ đã chuyển đổi khi thị trường ổn định.
3.4.2.6. Bình ổn thị trường ngoại tệ và thị trường vàng
Kịp thời thực hiện các giải pháp điều hành nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ
và thị trường vàng. Ngay từ đầu năm 2011, trước tình hình thị trường ngoại hối đặc
biệt căng thẳng, ngày 10/2/2011, NHNN đã thực hiện điều chỉnh tăng tỷ giá bình
quân liên Ngân hàng thêm 9,3% và giảm biên độ giao dịch từ +-3% xuống +-1%.
Bên cạnh đó, NHNN cũng điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt, kiểm
soát tăng trưởng và phân bổ tín dụng một cách hợp lý, kiểm soát chặt thanh khoản
VNĐ ngắn hạn của hệ thống TCTD, điều chỉnh các mức lãi suất điều hành của
NHNN phù hợp với diễn biến thị trường. Việc điều hành chính sách tiền tệ chặt
chẽ, đồng thời đẩy mạnh tín dụng phục vụ xuất khẩu trong cả năm 2011 đã góp
phần tích cực khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu và giảm áp lực về cung
cầu ngoại tệ trên thị trường.
Đầu tháng 9/2011, dựa trên những phân tích chi tiết các yếu tố ảnh hưởng
đến tỷ giá VNĐ/USD, NHNN đã công bố chủ trương điều hành tỷ giá ổn định và
đến cuối năm 2011 không vượt quá 1%. Cam kết giữ tỷ giá ổn định đến hết năm thể
hiện mục tiêu điều hành rõ ràng của NHNN, góp phần ổn định tâm lý thị trường,
kiểm soát tỷ lệ lạm phát dự tính và mất giá dự tính của đồng Việt Nam, hạn chế tình
trạng găm giữ ngoại tệ, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp chủ động hoạch
định kế hoạch sản xuất kinh doanh.
190
Trong những tháng cuối năm 2011, NHNN đã chủ động điều chỉnh tỷ giá
bình quân liên Ngân hàng linh hoạt, theo đúng định hướng đã đề ra là, điều hành tỷ
giá tương đối ổn định nhưng không cố định, tạo điều kiện bình ổn thị trường ngoại
hối, tích cực góp phần hỗ trợ sản xuất và kiềm chế lạm phát. Nhờ đó, tỷ giá ngoại tệ
những ngày cuối năm 2011 tương đối ổn định và là một điểm sáng trong chính sách
điều hành tỷ giá mấy năm qua.
NHNN cũng đã triển khai can thiệp thị trường ngoại tệ trong những thời
điểm có dấu hiệu căng thẳng, dưới các hình thức can thiệp trên thị trường ngoại tệ
liên Ngân hàng thông qua một số NHTM lớn và yêu cầu các Ngân hàng này chủ
động bán trước ngoại tệ trên thị trường, đồng thời bán ngoại tệ hỗ trợ cho một số
nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế. Việc can thiệp thị trường ngoại tệ đã được thực
hiện kịp thời với liều lượng hợp lý, góp phần bình ổn thị trường ngoại hối và tỷ giá.
Đối với thị trường vàng, trước tình hình cung cầu trên thị trường vàng mất
cân bằng, giá vàng trong nước tăng cao hơn giá vàng quốc tế khiến nhu cầu nhập
khẩu vàng (cả nhập khẩu chính thức và nhập lậu vàng) tăng đã góp phần gây sức ép
lên tỷ giá chính thức, ảnh hưởng bất lợi tới thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai
đồng bộ nhiều biện pháp để bình ổn thị trường vàng, từ đó góp phần hỗ trợ bình ổn
thị trường ngoại tệ. Vào các thời điểm bắt đầu xuất hiện dấu hiệu “sốt vàng”,
NHNN đã kịp thời đăng tải các thông điệp trên trang thông tin điện tử của NHNN
để ổn định tâm lý người dân, trong đó thông báo việc cho phép nhập khẩu vàng khi
cần thiết để bình ổn thị trường, đồng thời khuyến cáo người dân thận trọng khi
quyết định mua vàng trong bối cảnh thị trường đang diễn biến phức tạp để tránh các
thiệt hại không đáng có.
NHNN cũng đã nhanh chóng cấp phép nhập khẩu vàng cho các TCTD và
doanh nghiệp, ngoài ra còn yêu cầu Công ty SJC, doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước nắm giữ trên 90% thị phần vàng miếng, tăng năng lực sản xuất, gia công vàng
miếng và khẩn trương trả vàng miếng gia công cho các tổ chức nhập khẩu vàng để
nhanh chóng bổ sung nguồn cung vàng trong nước. Tuy nhiên, việc cấp hạn ngạch
191
nhập khẩu vàng dần dần không còn hiệu quả trong việc giảm nhanh mức chênh lệch
giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới như giai đoạn trước đó.
Mặt khác, để hạn chế khả năng dùng đòn bẩy tài chính để đầu cơ vàng gây
rối loạn thị trường như hiện tượng tổ chức, cá nhân vay vốn mua vàng hoặc thế
chấp, cầm cố vàng để vay vốn tại TCTD, NHNN yêu cầu các TCTD thực hiện các
biện pháp để kiểm tra chặt chẽ việc vay vốn của khách hàng có cầm cố, thế chấp
bằng vàng và ban hành quy định hệ số rủi ro là 250% đối với các khoản cho vay
được bảo đảm bằng vàng. Các TCTD không được đáp ứng nhu cầu vay vốn để mua
vàng trừ trường hợp được Thống đốc NHNN chấp thuận cho phép vay vốn mua
vàng để sản xuất vàng miếng, sản xuất, gia công vàng trang sức mỹ nghệ và cho
vay để nhập khẩu vàng nguyên liệu theo giấy phép của NHNN.
Căn cứ vào quy mô vàng tồn quỹ, khả năng quản trị rủi ro cũng như khả
năng tác động đến thị trường vàng của các NHTM, NHNN đã cho phép 5 NHTM
(tổng số vàng tồn quỹ chiếm trên 70% vàng tồn quỹ của cả hệ thống Ngân hàng)
được bán một phần lượng vàng tồn quỹ ra thị trường và mở tài khoản vàng ở nước
ngoài. NHNN cũng yêu cầu Công ty SJC tham gia bán vàng và đồng thời giữ vai
trò điều phối giữa các NHTM này dưới sự chỉ đạo của NHNN, nhằm tăng cường
hiệu quả của biện pháp can thiệp mới, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách giữa giá
vàng trong nước và giá vàng thế giới.
Sau khi thực hiện việc bán vàng can thiệp, với lượng cung vàng lớn từ Công
ty SJC và 05 NHTM, cơ chế bán vàng tồn quỹ can thiệp đã thu được những kết quả
khả quan. Mức chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới đã được
thu hẹp đáng kể. Tỷ giá đô la Mỹ trên thị trường tự do đã giảm do mức chênh lệch
thấp giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới, khiến cho nhu cầu thu gom đô
la Mỹ để nhập khẩu vàng lậu giảm mạnh. Giới đầu cơ vàng đã co lại và không thể
thao túng giá vàng trên thị trường trong nước, hiện tượng nhập khẩu lậu vàng gần
như chấm dứt, nhu cầu mua vàng của người dân đã được đáp ứng với mức giá hợp
lý so với giá vàng thế giới.
192
3.4.2.7. Thanh tra, kiểm tra, giám sát thị trường ngoại tệ và vàng
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thị trường ngoại hối và thị
trường vàng nửa đầu năm 2011, NHNN đã thực hiện các biện pháp giám sát, quản
lý chặt chẽ thị trường ngoại tệ, NHNN đã phối hợp với Bộ Công an tăng cường
kiểm tra hoạt động mua bán ngoại tệ tại các đại lý thu đổi ngoại tệ, nhằm xóa bỏ
giao dịch mua bán ngoại tệ bất hợp pháp trên thị trường tự do. Nhờ đó, thị trường
ngoại tệ và vàng đã diễn biến tương đối ổn định trong khoảng thời gian này, thị
trường ngoại tệ tự do được kiểm soát chặt chẽ hơn và hầu như không có giao dịch.
Đặc biệt, để tăng cường hơn nữa hiệu lực quản lý nhà nước về thị trường
ngoại hối và kinh doanh vàng, hạn chế tình trạng đôla hóa, tiến tới xóa bỏ thị
trường tự do, NHNN đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 95/2011/NĐ-CP
ngày 20/10/2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 202/2004/NĐ-CP
ngày 10/12/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động
Ngân hàng. NHNN đã có văn bản chỉ đạo các TCTD, chi nhánh Ngân hàng nước
ngoài tổ chức phổ biến rộng rãi trong toàn hệ thống các quy định tại Nghị định mới
và nghiêm chỉnh chấp hành các quy định về quản lý ngoại hối và quản lý hoạt động
kinh doanh vàng. Đồng thời, NHNN cũng đã có văn bản đề nghị các Bộ, ngành liên
quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố phối hợp thực hiện kiểm tra, rà soát
việc thực hiện Nghị định 95, tăng cường công tác thông tin truyền thông nhằm thực
hiện hiệu quả Nghị định 95.
NHNN đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổ chức các đợt kiểm tra,
phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm với mức phạt nghiêm khắc theo quy
định tại Nghị định 95. Các quy định của Nghị định 95 đã tạo ra cơ chế xử lý hiệu
quả hơn đối với hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối và
quản lý kinh doanh vàng, đòi hỏi tổ chức, cá nhân có liên quan cần nâng cao ý thức
tuân thủ pháp luật, góp phần thiết lập lại kỷ cương trên thị trường ngoại tệ và vàng,
tiến tới xóa bỏ thị trường ngoại tệ tự do.
Nhìn chung trong thời gian qua, NHNN đã triển khai các giải pháp đồng bộ
hướng tới mục tiêu chuyển hóa dần quan hệ huy động - cho vay ngoại tệ sang quan
193
hệ mua - bán ngoại tệ, nhằm khắc phục tình trạng đôla hóa và ổn định giá trị của
đồng Việt Nam. Nhờ thực hiện các giải pháp trên, thị trường ngoại tệ và vàng đã
diễn biến tương đối ổn định, thị trường ngoại tệ tự do tiếp tục được kiểm soát chặt
chẽ. Các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp, hợp lý của doanh nghiệp và người dân được
đáp ứng đầy đủ. NHNN đã mua được một lượng ngoại tệ đáng kể để bổ sung cho
dự trữ ngoại hối Nhà nước. Tình trạng đôla hóa trong nền kinh tế đã được khắc
phục một bước.
Bên cạnh đó, NHNN cần tiếp tục quyết liệt triển khai các biện pháp nhằm
khắc phục tình trạng đôla hóa. Hiện tượng đôla hóa trong nền kinh tế có ảnh hưởng
tiêu cực đến việc điều hành chính sách tiền tệ và quản lý kinh tế vĩ mô. Việc chống
hiện tượng đôla hóa cần phải triển khai đồng bộ nhiều giải pháp trong thời gian dài,
trong đó giải pháp căn cơ nhất là khôi phục và nâng cao lòng tin vào giá trị đồng
Việt Nam. Tuy nhiên, để đạt kết quả cuối cùng, trong mỗi giải pháp, chính sách
điều hành cần phải có phân tích tác động đến hiện tượng đôla hóa và sự góp phần
của giải pháp, chính sách đó trong việc chống hiện tượng đôla hóa. Ngoài ra, sự
kiên quyết và nhất quán trong việc chống hiện tượng đôla hóa thông qua việc kiểm
tra, giám sát thị trường cũng có vai trò quan trọng để đạt mục tiêu chống đôla hóa.
Hơn nữa, trong điều hành thị trường ngoại hối, NHNN cần có những cam
kết rõ ràng vào những thời điểm thích hợp và có các biện pháp cụ thể để đảm bảo
thực hiện các cam kết này. Điển hình như, việc NHNN đưa ra cam kết điều hành tỷ
giá ổn định và đến cuối năm không vượt quá 1% đã tạo sự ổn định tâm lý, kiểm soát
kỳ vọng của thị trường, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển sản xuất kinh
doanh. Vai trò và uy tín của NHNN cũng được nâng cao thêm qua việc NHNN giữ
vững cam kết của mình. Đây sẽ là điều kiện thuận lợi để NHNN tiếp tục nâng cao
hiệu quả thực hiện của các chính sách trong tương lai.
Đối với tỷ giá và thị trường ngoại hối, NHNN cần có các biện pháp điều
hành linh hoạt, phù hợp với các cân đối vĩ mô, hướng tới mục tiêu ổn định giá trị
của đồng Việt Nam, góp phần khắc phục căn bản tình trạng đôla hóa trong nền kinh
tế, tập trung nguồn ngoại tệ vào hệ thống các TCTD để tạo điều kiện đáp ứng tốt
194
các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp, hợp lý của nền kinh tế. Thực hiện các giải pháp phát
triển thị trường ngoại hối Việt Nam theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu
quả và phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã
hội chung của đất nước.
Đối với việc hoàn thiện thể chế, NHNN cần tiếp tục tập trung hoàn thiện
khuôn khổ pháp lý về quản lý ngoại hối với trọng tâm là sửa đổi Pháp lệnh Ngoại
hối, trình Chính phủ ban hành và tổ chức triển khai các Nghị định về quản lý dự trữ
ngoại hối Nhà nước, Nghị định về vay trả nợ nước ngoài không có bảo lãnh của
Chính phủ. NHNN cần hoàn thiện và triển khai Đề án huy động vàng trong dân
nhằm tăng cường nguồn lực, nâng cao vai trò điều tiết đối với thị trường vàng.
Đối với công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, NHNN tiếp tục phối hợp chặt
chẽ với các Bộ, ngành tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thị trường
ngoại tệ, thị trường vàng, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm nhằm hạn chế tình
trạng đôla hóa, xóa bỏ hoạt động của thị trường ngoại tệ tự do.
3.4.2.8. Chính sách về rủi ro và kiểm soát
Tăng cường quản lý các NHTM thông qua các quy định về kiểm toán bắt
buộc, kiểm tra trình độ định kỳ các Dealer của phòng KDNH cũng như tăng cường
thanh tra và hỗ trợ các NHTM nhận biết các rủi ro tiềm ẩn thông qua công tác đã
thanh tra của các NHTM, từ đó đưa ra giải pháp và đề xuất hữu hiệu giúp các
NHTM giảm thiểu rủi ro.
3.4.2.9. Chính sách kiều hối
Về chính sách chi trả kiều hối, NHNN nên ban hành văn bản hướng dẫn cụ
thể hơn và nên kết hợp với các ban ngành khác trong các qui định về chi trả kiều hối
tận nhà của các cộng tác viên công ty kiều hối. Về các đại lý ủy nhiệm thu đổi ngoại
tệ của các ngân hàng được phép KDNH, NHNN nên cho phép các công ty kiều hối
được phép làm đại lý ủy nhiệm thu đổi ngoại tệ cho các NHTM. Ngân hàng sẽ thu
hút được nguồn ngoại tệ từ các công ty kiều hối quay trở lại ngân hàng nhanh hơn.
Khách hàng nhận kiều hối thuận tiện hơn trong giao dịch mua bán thay vì khách
hàng phải đến ngân hàng bán hay bán ở thị trường phi chính thức nhằm từ đó tránh
195
sự cạnh tranh không lành mạnh giữa thị trường chính thức và phi chính thức và hạn
chế nhiều rủi ro xảy ra do chênh lệch giữa hai loại giá này.
3.4.2.10. Dự trữ ngoại hối
Đa dạng hóa các loại ngoại hối trong dự trữ. NHNN đóng vai trò là người
cuối cùng trong hoạt động kinh doanh trong hệ thống ngân hàng Việt nam, can thiệp
thị trường ngoại hối khi cần thiết. Tập trung dự trữ ngoại hối và có kế hoạch sử
dụng hợp lý. Quỹ dự trữ ngoại hối có tác dụng khi TTLNH đóng băng, ngoại tệ
khan hiếm, thị trường vàng biến động thất thường gây bất lợi cho người dân và ảnh
hưởng lớn đến ổn định kinh tế vĩ mô, NHNN dùng quỹ này để can thiệp. Khi thị
trường ngoại hối ổn định, NHNN mua vào các loại ngoại tệ và vàng theo tỷ trọng
cần thiết để tăng nguồn dự trữ.
3.4.2.11. Trạng thái ngoại tệ
Nên chuyển từ quy định quản lý trạng thái ngoại tệ tại thời điểm cuối ngày
như hiện nay sang quản lý trạng thái ngoại tệ thường xuyên tại bất kỳ thời điểm nào
trong ngày giao dịch. Trên thực tế, NHNN với vai trò là người quản lý hệ thống
Ngân hàng Việt nam, quy định trạng thái ngoại tệ nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro
tỷ giá quá mức có thể xảy ra đối với cá NHTM và tránh nạn đầu cơ tạo ra sự bất ổn
cho cả hệ thống ngân hàng trong nước. Xét dưới khía cạnh của NHTM, việc quản lý
chặt chẽ và thường xuyên trạng thái ngoại tệ là nhằm giảm rủi ro và tạo ra lợi nhuận
cao nhất cho NHTM trong hạn mức rủi ro mà ngân hàng mình chấp nhận được.
Trên khía cạnh này thì các NHTM sẽ tự thực hiện nhằm bảo vệ cho chính ngân
hàng của mình tránh các rủi ro gây tổn thất lớn cho ngân hàng. Tuy nhiên, một khi
ngân hàng quản lý rủi ro chặt chẽ thì khả năng tạo ra lợi nhuận trong KDNH lại
không cao. Do đó, NHNN cần giám sát thường xuyên và chặt chẽ hoạt động KDNH
của các NHTM bằng các quy định pháp lý để tránh rủi ro có thể xảy ra và tạo ra sự
bất ổn định cho hệ thống ngân hàng.
3.4.2.12. Hệ thống pháp luật
Hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định về việc thành lập, triển khai và chế
tài đối với hệ thống quản lý rủi ro KDNH tại các NHTM cổ phần. Từ đó, NHNN
196
từng bước hỗ trợ các NHTM áp dụng vào thực tiễn của từng ngân hàng cụ thể về
các quy định pháp luật quản lý rủi ro. NHNN giám sát quá trình thiết lập và thực
hiện hệ thống quản lý rủi ro trong KDNH tại các NHTM.
Bên cạnh đó, NHNN cần sớm đưa ra các quy định pháp lý về việc thành lập
sàn giao dịch Quốc gia về vàng, các loại ngoại tệ và sản phẩm phái sinh hợp nhất do
Nhà nước quản lý và các NHTM cũng như các tổ chức có đủ điều kiện theo quy
định của pháp luật thực hiện.
3.4.3. Kiến nghị với Hiệp hội Ngân hàng
Hiệp hội Ngân hàng là tổ chức nghề nghiệp trong lĩnh vực hoạt động kinh
doanh Ngân hàng, tư vấn cho các NHTM giải quyết các vấn đề về nghiệp vụ phát
sinh trong thực tế. Với tư cách đó, nhằm phát triển hoạt động quản lý rủi ro trong
KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cần:
Thứ nhất, đứng ra tổ chức các buổi hội thảo hay tọa đàm nhằm nghiên cứu
về hoạt động quản lý rủi KDNH, trong đó cần tập trung vào một số chuyên đề
quan trọng như: sự phối hợp giữa các TCTD trong hệ thống ngân hàng có tham
gia quản lý rủi ro ngoại hối, hạn chế rủi ro KDNH trong hoạt động của NHTM,
v.vv...
Thứ hai, làm đầu mối cho các NHTM cổ phần TP.HCM cùng chia sẻ kiến
thức, kinh nghiệm trong quá trình tìm kiếm đối tác, nghiên cứu triển khai hệ thống
quản trị rủi ro. .
Thứ ba, tìm hiểu và nghiên cứu việc triển khai hoạt động quản lý rủi ro
KDNH tại các nước trên thế giới, qua đó có sự tư vấn kịp thời cho các Ngân hàng
về vấn đề xây dựng và hoàn thiện quá trình xây dựng hệ thống quản lý rủi ro đảm
bảo tính khoa học, thống nhất và phù hợp với thông lệ quốc tế.
197
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trong những năm gần đây, thị trường ngoại hối Việt Nam đã hình thành và
từng bước phát triển. Chính sách quản lý ngoại hối đang dần được hoàn thiện phù
hợp với hướng phát triển kinh tế thị trường mở; những nhân tố thị trường ngày càng
trở nên quyết định hơn trong việc xác định tỷ giá hối đoái; bước đầu đã đưa một số
các giao dịch KDNH vào cuộc sống như giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn,
giao dịch hoán đổi và giao dịch quyền chọn. Mặc dù với những bước đi đầu tiên, thị
trường ngoại hối Việt Nam đã tạo ra môi trường KDNH cho các NHTM, đồng thời
cung cấp các công cụ hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu và những nhà đầu tư quốc tế cũng như các chủ thể khác trong nền
kinh tế có giao dịch ngoại hối.
Hoạt động KDNH chứa đựng nhiều loại rủi ro, nhất là rủi ro tỷ giá/giá, nhưng
nếu được quản lý một cách khoa học sẽ mang lại lợi nhuận lớn, đóng góp vào tổng
lợi nhuận chung cho các NHTM. Chính vì vậy, trong xu hướng hội nhập hiện nay,
việc hoàn thiện các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong hoạt động KDNH của
các NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM là rất cần thiết.
Trong chương này, tác giả đã giải quyết một số vấn đề nghiên cứu được đưa
ra như thực trạng và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro KDNH tại
các NHTM cổ phần TP.HCM cũng như các kiến nghị và đề xuất đến với các cơ
quan chức năng có thẩm quyền. Với các giải pháp và kiến nghị mà đề tài đưa ra để
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong hoạt
động KDNH của các NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM; và cũng với hy vọng
rằng trong những năm tới, các NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM sẽ có một
bước tiến mới trong quản lý rủi ro hoạt động KDNH, góp phần đưa hoạt động này
thành một trong những hoạt động quan trọng mang lại lợi nhuận chung cho ngành
ngân hàng, đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GDP của TP.HCM nói riêng và đất
nước nói chung.
198
KẾT LUẬN
Trong những năm gần đây, thị trường ngoại hối Việt Nam đã hình thành và
từng bước phát triển. Chính sách quản lý ngoại hối đang dần được hoàn thiện phù
hợp với hướng phát triển kinh tế thị trường mở; những nhân tố thị trường ngày càng
trở nên quyết định hơn trong việc xác định tỷ giá hối đoái; bước đầu đã đưa một số
các giao dịch KDNH vào cuộc sống như giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn,
giao dịch hoán đổi và giao dịch quyền chọn. Mặc dù với những bước đi đầu tiên, thị
trường ngoại hối Việt Nam đã tạo ra được một môi trường KDNH cho các NHTM,
đồng thời cung cấp các công cụ hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro ngoại hối cho các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu và những nhà đầu tư quốc tế cũng như các chủ thể
khác trong nền kinh tế có giao dịch ngoại hối.
Hoạt động KDNH chứa đựng nhiều loại rủi ro, nhất là rủi ro tỷ giá ngoại tệ và
giá vàng, nhưng nếu được quản lý một cách khoa học, có hệ thống sẽ mang lại lợi
nhuận lớn, đóng góp vào tổng lợi nhuận chung cho các NHTM. Chính vì vậy, trong
xu hướng hội nhập hiện nay, việc hoàn thiện các công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại
hối trong hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM là rất cần
thiết và nhằm giúp nâng cao hiệu quả trong việc quản lý rủi KDNH tại các NHTM.
Luận án này đã giải quyết được các vấn đề trong mục tiêu nghiên cứu, bao
gồm: làm rõ cơ sở lý luận về quản lý rủi ro trong KDNH tại các NHTM, thực trạng
về quản lý rủi ro trong KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro trong KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM.
Với các giải pháp mà Luận án đưa ra để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản lý rủi
ro KDNH tại các NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM; và cũng với hy vọng rằng
trong những năm tới, các NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM sẽ có một bước tiến
mới đáng kể trong quản lý rủi ro hoạt động KDNH, góp phần đưa hoạt động này
thành một trong những hoạt động quan trọng mang lại lợi ích và an toàn chung cho
ngành ngân hàng, đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GDP của Thành phố Hồ Chí
TP.HCM nói riêng và đất nước nói chung.
199
Tuy nhiên, dù nỗ lực và cố gắng rất nhiều để hoàn thành Luận án này, nhưng
Nghiên cứu sinh nghĩ rằng Luận án vẫn không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Nghiên
cứu sinh rất mong nhận được góp ý của Quý Thầy Cô trong Hội đồng khoa học nhà
trường để giúp cho Luận án hoàn thiện hơn.
200
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN
ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1) Quản lý rủi ro trong kinh doanh vàng tại các ngân hàng thương mại bằng mô
hình VaR * Tạp chí ngân hàng, số 5 (tháng 3/2013)
2) Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng của Ngân hàng thương mại *
Tạp chí công nghệ ngân hàng, số 73 (tháng 4/2012)
3) Lạm phát và tăng trường kinh tế năm 2011 tại Việt nam * Tạp chí công nghệ
ngân hàng, số tháng 1+2/2011
4) Nợ công thế giới và kinh nghiệm cho Việt nam * Hội thảo khoa học “Nợ công:
Kinh nghiệm thế giới và bài học cho Việt nam” tại trường Đại học ngân hàng
TP.HCM, tháng 6/2012
5) Rủi ro tỷ giá: phòng ngừa và tăng sức cạnh tranh đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ * Hội thảo khoa học “Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh giúp hệ thống
doanh nghiệp nhỏ và vừa Thành phố Cần Thơ vượt qua khủng hoảng” tại Sở Khoa
học công nghệ Thành phố Cần Thơ, tháng 9/2012.
6) Vai trò sản phẩm tài chính phái sinh và khả năng áp dụng ở Việt nam * Hội thảo
khoa học của Khoa Thị trường chứng khoán ngày 15.12.2012
201
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. TS. Hồ Diệu (2002), Quản trị ngân hàng, Nhà xuất bản TP.HCM.
2. PGS.,TS. Phan Thị Thu Hà (2002), Quản trị Ngân hàng thương mại, Nhà xuất
bản Giao thông vận tải.
3. Heinz Richl – M.Rodeiguez (1996), Thị trường hối đoái và thị trường tiền tệ,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
4. Nguyễn Phi Lân (2010), Cơ chế truyền dẫn tiền tệ dưới góc độ phân tích định
lượng, Ngân hàng nhà nước.
5. TS. Lê Quốc Lý (2004), Quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt
Nam, Nhà xuất bản thống kê.
6. TS.Nguyễn Ninh Kiều (2008), Thị trường ngoại hối và các giải pháp phòng
ngừa rủi ro, Nhà xuất bản thống kê.
7. TS.Nguyễn Ninh Kiều (1998), Thị trường ngoại hối, Nhà xuất bản tài chính
8. Đặng Hào Quang (2010), Kinh doanh ngoại hối, Nhà xuất bản thống kê.
9. PGS.,TS.Nguyễn Văn Tiến (2006), Cẩm nang thị trường ngoại hối và các giao
dịch kinh doanh ngoại hối, Nhà xuất bản Thống kê.
10. Ngân hàng Nhà nước Việt nam, Báo cáo NHNN qua các năm 2002-2011.
11. Bộ tài chính, Báo cáo nợ công và nợ nước ngoài/GDP của Việt nam (2006-
2011).
12. Website các ngân hàng, Báo cáo tài chính hàng năm các NHTM Sacombank,
Eximbank, ACB, Vietcombank (2007-2011).
13. IMF, Báo cáo thường niên của IMF (2007-2012).
14. Tổng cục thống kê, Chỉ số giá tiêu dùng các tháng trong năm (2007-2012).
15. Tổng cục thống kê, Giá trị Xuất nhập khẩu (2007-2012).
16. Trường Đại học kinh tế TP.HCM, Kiểm định các nhân tố tác động đến tỷ giá
hối đoái, ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đến lạm phát và cán cân thương mại
(2011).
202
17. Nhà xuất bản thống kê, Kỷ yếu hội thảo khoa học của Viện nghiên cứu Khoa
học ngân hàng (2003), Xây dựng cơ chế quản lý ngoại hối phù hợp tiến trình
hội nhập kinh tế thế giới.
18. Ngân hàng nhà nước Việt nam, Tỷ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng áp
dụng hàng ngày (2006-2011).
19. Ngân hàng nhà nước Việt nam, Thống kê tiền tệ Ngân hàng nhà nước 2011.
20. Uỷ ban kinh tế quốc hội, Tỷ giá hối đoái giai đoạn 2000-2011: Các nhân tố
quyết định, mức độ sai lệch và tác động đối với xuất khẩu (2011).
TIẾNG NƯỚC NGOÀI
21. Basel Committee on Banking Supervision, 2001, “Consultative Document:
Operational Risk” – Supporting Document to the New Basel Accord,
www.bis.org; www.en.wikipedia.org.
22. Clinton và Engert (2000), Money, monetary policy, and transmission
mechanisms: proceedings of a conference, Bank of Canada.
23. Kuttner và Mosser (2002), The Monetary Transmission Mechanism: Some
Answers and Further Questions, FRBNY Economic Policy Review.
24. Marc Levinson (2005), Guide to the Financial Markets, The Economist
25. Tim Weithers (2006), Foreign Exchange: A practical guide to the FX Markets,
John Wiley & Sons, Inc.
WEBSITE
26. Cao Sơn (2012), Kinh doanh vàng và ngoại hối ACB lỗ hơn 1000 tỷ đồng,
ngày 14/11/2012, Báo Lao động online
27. Đức Duy (2012), Giá vàng trong nước vẫn vượt thế giới 3,1 triệu đồng
Vietnam, www.vietnamplus.vn
28. Giá vàng Thế giới qua các năm (2000-2011), www.kitco.com
29. Thị trường ngoại hối là gì, www.investopedia.com
30. Các quy định pháp luật về ngoại hối, www.sbv.gov.vn
203
PHỤ LỤC
Bảng 3.1 - Thống kê giá vàng thực tế 750 điểm
(Từ 11/12/2009 đến 16/6/2012)
Tỷ giá
Tỷ giá
Tỷ giá
Tỷ giá
Tỷ giá
Ngày
Ngày
Ngày
Ngày
Ngày
(đ/chỉ)
(đ/chỉ)
(đ/chỉ)
(đ/chỉ)
(đ/chỉ)
16-Jul-12 4,173,000
26-Apr-12 4,290,000
8-Feb-12 4,488,000
24-Nov-11 4,435,000
21-Sep-11 4,706,000
13-Jul-12 4,174,000
25-Apr-12 4,285,000
7-Feb-12 4,469,000
23-Nov-11 4,455,000
20-Sep-11 4,675,000
12-Jul-12 4,160,000
24-Apr-12 4,275,000
6-Feb-12 4,474,000
22-Nov-11 4,415,000
19-Sep-11 4,685,000
11-Jul-12 4,171,000
23-Apr-12 4,266,000
3-Feb-12 4,520,000
21-Nov-11 4,565,000
17-Sep-11 4,708,000
10-Jul-12 4,180,000
20-Apr-12 4,256,000
2-Feb-12 4,528,000
19-Nov-11 4,560,000
16-Sep-11 4,660,000
9-Jul-12 4,175,000
19-Apr-12 4,255,000
1-Feb-12 4,530,000
18-Nov-11 4,575,000
15-Sep-11 4,700,000
6-Jul-12 4,183,000
18-Apr-12 4,277,000
31-Jan-12 4,520,000
17-Nov-11 4,610,000
14-Sep-11 4,695,000
5-Jul-12 4,202,000
17-Apr-12 4,284,000
30-Jan-12 4,490,000
16-Nov-11 4,610,000
13-Sep-11 4,680,000
4-Jul-12 4,203,000
16-Apr-12 4,295,000
20-Jan-12 4,400,000
15-Nov-11 4,610,000
12-Sep-11 4,725,000
3-Jul-12 4,197,000
13-Apr-12 4,335,000
19-Jan-12 4,403,000
14-Nov-11 4,635,000
10-Sep-11 4,730,000
2-Jul-12 4,189,000
12-Apr-12 4,333,000
18-Jan-12 4,370,000
12-Nov-11 4,620,000
9-Sep-11 4,750,000
29-Jun-12 4,168,000
11-Apr-12 4,333,500
17-Jan-12 4,375,000
11-Nov-11 4,595,000
8-Sep-11 4,680,000
28-Jun-12 4,166,000
10-Apr-12 4,336,000
16-Jan-12 4,320,000
10-Nov-11 4,610,000
7-Sep-11 4,710,000
27-Jun-12 4,167,000
9-Apr-12 4,345,000
13-Jan-12 4,350,000
9-Nov-11 4,640,000
6-Sep-11 4,760,000
26-Jun-12 4,178,000
6-Apr-12 4,347,000
12-Jan-12 4,377,000
8-Nov-11 4,625,000
5-Sep-11 4,780,000
25-Jun-12 4,170,000
5-Apr-12 4,355,000
11-Jan-12 4,355,000
7-Nov-11 4,560,000
1-Sep-11 4,665,000
22-Jun-12 4,180,000
4-Apr-12 4,358,000
10-Jan-12 4,324,300
5-Nov-11 4,530,000
31-Aug-11 4,665,000
21-Jun-12 4,190,000
3-Apr-12 4,390,000
9-Jan-12 4,320,000
4-Nov-11 4,550,000
30-Aug-11 4,620,000
20-Jun-12 4,216,000
30-Mar-12 4,394,000
7-Jan-12 4,315,000
3-Nov-11 4,490,000
29-Aug-11 4,670,000
19-Jun-12 4,225,000
29-Mar-12 4,388,000
6-Jan-12 4,325,000
2-Nov-11 4,500,000
27-Aug-11 4,710,000
18-Jun-12 4,218,000
28-Mar-12 4,412,000
5-Jan-12 4,315,000
1-Nov-11 4,460,000
26-Aug-11 4,640,000
15-Jun-12 4,218,000
27-Mar-12 4,430,000
4-Jan-12 4,330,000
31-Oct-11 4,455,000
25-Aug-11 4,470,000
14-Jun-12 4,212,000
26-Mar-12 4,400,000
3-Jan-12 4,310,000
29-Oct-11 4,500,000
24-Aug-11 4,760,000
13-Jun-12 4,206,000
23-Mar-12 4,380,000
31-Dec-11 4,080,000
28-Oct-11 4,495,000
23-Aug-11 4,855,000
12-Jun-12 4,187,000
22-Mar-12 4,370,000
30-Dec-11 4,110,000
27-Oct-11 4,465,000
22-Aug-11 4,845,000
11-Jun-12 4,186,000
21-Mar-12 4,375,000
29-Dec-11 4,173,000
26-Oct-11 4,460,000
20-Aug-11 4,690,000
8-Jun-12 4,180,000
20-Mar-12 4,370,000
28-Dec-11 4,240,000
25-Oct-11 4,380,000
19-Aug-11 4,715,000
7-Jun-12 4,230,000
19-Mar-12 4,410,000
27-Dec-11 4,295,000
24-Oct-11 4,375,000
18-Aug-11 4,542,000
204
6-Jun-12 4,255,000
16-Mar-12 4,420,000
26-Dec-11 4,310,000
22-Oct-11 4,380,000
17-Aug-11 4,540,000
5-Jun-12 4,212,000
15-Mar-12 4,420,000
24-Dec-11 4,335,000
21-Oct-11 4,320,000
16-Aug-11 4,490,000
4-Jun-12 4,204,000
14-Mar-12 4,440,000
23-Dec-11 4,320,000
20-Oct-11 4,280,000
15-Aug-11 4,405,000
1-Jun-12 4,128,000
13-Mar-12 4,462,000
22-Dec-11 4,305,000
19-Oct-11 4,335,000
13-Aug-11 4,435,000
31-May-12 4,140,000
12-Mar-12 4,457,000
21-Dec-11 4,315,000
18-Oct-11 4,370,000
12-Aug-11 4,460,000
30-May-12 4,125,000
9-Mar-12 4,464,000
20-Dec-11 4,310,000
17-Oct-11 4,420,000
11-Aug-11 4,500,000
29-May-12 4,148,000
8-Mar-12 4,444,000
19-Dec-11 4,335,000
15-Oct-11 4,405,000
10-Aug-11 4,400,000
28-May-12 4,158,000
7-Mar-12 4,435,000
17-Dec-11 4,360,000
14-Oct-11 4,390,000
9-Aug-11 4,500,000
25-May-12 4,140,000
6-Mar-12 4,445,000
16-Dec-11 4,335,000
13-Oct-11 4,385,000
8-Aug-11 4,375,000
24-May-12 4,135,000
5-Mar-12 4,460,000
15-Dec-11 4,300,000
12-Oct-11 4,380,000
6-Aug-11 4,165,000
23-May-12 4,135,000
2-Mar-12 4,471,000
14-Dec-11 4,379,000
11-Oct-11 4,340,000
5-Aug-11 4,145,000
22-May-12 4,160,000
1-Mar-12 4,470,000
13-Dec-11 4,392,000
10-Oct-11 4,260,000
4-Aug-11 4,130,000
21-May-12 4,210,000
29-Feb-12 4,512,000
12-Dec-11 4,435,000
8-Oct-11 4,300,000
3-Aug-11 4,110,000
18-May-12 4,188,000
28-Feb-12 4,492,000
10-Dec-11 4,470,000
7-Oct-11 4,305,000
2-Aug-11 4,006,000
17-May-12 4,110,000
27-Feb-12 4,510,000
9-Dec-11 4,462,000
6-Oct-11 4,365,000
1-Aug-11 3,985,000
16-May-12 4,090,000
24-Feb-12 4,522,000
8-Dec-11 4,489,000
5-Oct-11 4,420,000
30-Jul-11 4,007,000
15-May-12 4,127,000
23-Feb-12 4,515,000
7-Dec-11 4,484,000
4-Oct-11 4,500,000
29-Jul-11 3,993,000
14-May-12 4,140,000
22-Feb-12 4,480,000
6-Dec-11 4,455,000
3-Oct-11 4,420,000
28-Jul-11 3,993,000
11-May-12 4,166,000
21-Feb-12 4,469,000
5-Dec-11 4,503,000
1-Oct-11 4,380,000
27-Jul-11 3,998,000
10-May-12 4,171,000
20-Feb-12 4,466,000
3-Dec-11 4,500,000
30-Sep-11 4,365,000
26-Jul-11 3,972,000
9-May-12 4,135,000
17-Feb-12 4,463,000
2-Dec-11 4,515,000
29-Sep-11 4,360,000
25-Jul-11 3,980,000
8-May-12 4,187,000
16-Feb-12 4,460,000
1-Dec-11 4,520,000
28-Sep-11 4,440,000
23-Jul-11 3,940,000
7-May-12 4,240,000
15-Feb-12 4,470,000
30-Nov-11 4,465,000
27-Sep-11 4,530,000
22-Jul-11 3,926,000
4-May-12 4,240,000
14-Feb-12 4,459,000
29-Nov-11 4,470,000
26-Sep-11 4,450,000
21-Jul-11 3,942,000
3-May-12 4,262,000
13-Feb-12 4,470,000
28-Nov-11 4,485,000
24-Sep-11 4,550,000
20-Jul-11 3,917,000
2-May-12 4,283,000
10-Feb-12 4,465,000
26-Nov-11 4,450,000
23-Sep-11 4,650,000
19-Jul-11 3,955,000
27-Apr-12 4,290,000
9-Feb-12 4,477,000
25-Nov-11 4,420,000
22-Sep-11 4,650,000
18-Jul-11 3,934,000
16-Jul-11 3,904,000
13-May-11 3,742,000
5-Mar-11 3,757,000
22-Dec-10 3,580,000
19-Oct-10 3,332,000
15-Jul-11 3,882,000
12-May-11 3,732,000
4-Mar-11 3,756,000
21-Dec-10 3,578,000
18-Oct-10 3,307,000
14-Jul-11 3,890,000
11-May-11 3,759,000
3-Mar-11 3,768,000
20-Dec-10 3,580,000
16-Oct-10 3,314,000
13-Jul-11 3,853,000
10-May-11 3,754,000
2-Mar-11 3,760,000
18-Dec-10 3,581,000
15-Oct-10 3,314,000
12-Jul-11 3,802,000
9-May-11 3,750,000
1-Mar-11 3,727,000
17-Dec-10 3,574,000
14-Oct-10 3,307,000
11-Jul-11 3,800,000
7-May-11 3,742,000
28-Feb-11 3,756,000
16-Dec-10 3,582,000
13-Oct-10 3,264,000
9-Jul-11 3,793,000
6-May-11 3,732,000
26-Feb-11 3,758,000
15-Dec-10 3,586,000
12-Oct-10 3,243,000
8-Jul-11 3,776,000
5-May-11 3,760,000
25-Feb-11 3,762,000
14-Dec-10 3,613,000
11-Oct-10 3,250,000
7-Jul-11 3,778,000
4-May-11 3,785,000
24-Feb-11 3,775,000
13-Dec-10 3,602,000
9-Oct-10 3,230,000
205
6-Jul-11 3,768,000
29-Apr-11 3,753,000
23-Feb-11 3,755,000
11-Dec-10 3,577,000
8-Oct-10 3,180,000
5-Jul-11 3,752,000
28-Apr-11 3,752,000
22-Feb-11 3,775,000
10-Dec-10 3,581,000
7-Oct-10 3,270,000
4-Jul-11 3,757,000
27-Apr-11 3,738,000
21-Feb-11 3,770,000
9-Dec-10 3,570,000
6-Oct-10 3,273,000
2-Jul-11 3,759,000
26-Apr-11 3,738,000
19-Feb-11 3,750,000
8-Dec-10 3,583,000
5-Oct-10 3,168,000
1-Jul-11 3,760,000
25-Apr-11 3,754,000
18-Feb-11 3,748,000
7-Dec-10 3,650,000
4-Oct-10 3,156,000
30-Jun-11 3,773,000
23-Apr-11 3,745,000
17-Feb-11 3,690,000
6-Dec-10 3,650,000
2-Oct-10 3,146,000
29-Jun-11 3,771,000
22-Apr-11 3,748,000
16-Feb-11 3,667,000
4-Dec-10 3,645,000
1-Oct-10 3,124,000
28-Jun-11 3,765,000
21-Apr-11 3,760,000
15-Feb-11 3,634,000
3-Dec-10 3,610,000
30-Sep-10 3,122,000
27-Jun-11 3,767,000
20-Apr-11 3,750,000
14-Feb-11 3,604,000
2-Dec-10 3,622,000
29-Sep-10 3,113,000
25-Jun-11 3,762,000
19-Apr-11 3,728,000
12-Feb-11 3,592,000
1-Dec-10 3,623,000
28-Sep-10 3,055,000
24-Jun-11 3,782,000
18-Apr-11 3,713,000
11-Feb-11 3,587,000
30-Nov-10 3,589,000
27-Sep-10 3,064,000
23-Jun-11 3,803,000
16-Apr-11 3,715,000
10-Feb-11 3,568,000
29-Nov-10 3,576,000
25-Sep-10 3,041,000
22-Jun-11 3,810,000
15-Apr-11 3,708,000
9-Feb-11 3,587,000
27-Nov-10 3,562,000
24-Sep-10 3,041,000
21-Jun-11 3,805,000
14-Apr-11 3,691,000
8-Feb-11 3,584,000
26-Nov-10 3,570,000
23-Sep-10 3,028,000
20-Jun-11 3,800,000
13-Apr-11 3,695,000
30-Jan-11 3,540,000
25-Nov-10 3,571,000
22-Sep-10 3,022,000
18-Jun-11 3,802,000
11-Apr-11 3,720,000
29-Jan-11 3,535,000
24-Nov-10 3,590,000
21-Sep-10 3,002,000
17-Jun-11 3,780,000
9-Apr-11 3,725,000
28-Jan-11 3,509,000
23-Nov-10 3,562,000
20-Sep-10 3,000,000
16-Jun-11 3,774,000
8-Apr-11 3,714,000
27-Jan-11 3,527,000
22-Nov-10 3,563,000
18-Sep-10 2,985,000
15-Jun-11 3,770,000
7-Apr-11 3,685,000
26-Jan-11 3,512,000
20-Nov-10 3,545,000
17-Sep-10 2,994,000
14-Jun-11 3,768,000
6-Apr-11 3,686,000
25-Jan-11 3,502,000
19-Nov-10 3,560,000
16-Sep-10 2,972,000
13-Jun-11 3,768,000
5-Apr-11 3,662,000
24-Jan-11 3,528,000
18-Nov-10 3,540,000
15-Sep-10 2,972,000
11-Jun-11 3,775,000
4-Apr-11 3,667,000
22-Jan-11 3,522,000
17-Nov-10 3,432,000
14-Sep-10 2,932,000
10-Jun-11 3,788,000
2-Apr-11 3,681,000
21-Jan-11 3,520,000
16-Nov-10 3,487,000
13-Sep-10 2,922,000
9-Jun-11 3,778,000
1-Apr-11 3,690,000
20-Jan-11 3,548,000
15-Nov-10 3,488,000
11-Sep-10 2,923,000
8-Jun-11 3,780,000
31-Mar-11 3,685,000
19-Jan-11 3,558,000
13-Nov-10 3,475,000
10-Sep-10 2,924,000
7-Jun-11 3,797,000
30-Mar-11 3,655,000
18-Jan-11 3,557,000
12-Nov-10 3,570,000
9-Sep-10 2,935,000
6-Jun-11 3,790,000
29-Mar-11 3,644,000
17-Jan-11 3,552,000
11-Nov-10 3,615,000
8-Sep-10 2,942,000
4-Jun-11 3,773,000
28-Mar-11 3,666,000
15-Jan-11 3,550,000
10-Nov-10 3,625,000
7-Sep-10 2,920,000
3-Jun-11 3,767,000
26-Mar-11 3,690,000
14-Jan-11 3,557,000
9-Nov-10 3,680,000
6-Sep-10 2,918,000
2-Jun-11 3,778,000
25-Mar-11 3,692,000
13-Jan-11 3,568,000
8-Nov-10 3,555,000
4-Sep-10 2,919,000
1-Jun-11 3,763,000
24-Mar-11 3,695,000
12-Jan-11 3,575,000
6-Nov-10 3,500,000
3-Sep-10 2,922,000
31-May-11 3,766,000
23-Mar-11 3,696,000
11-Jan-11 3,570,000
5-Nov-10 3,468,000
1-Sep-10 2,917,000
30-May-11 3,766,000
22-Mar-11 3,702,000
10-Jan-11 3,520,000
4-Nov-10 3,410,000
31-Aug-10 2,890,000
28-May-11 3,760,000
21-Mar-11 3,710,000
8-Jan-11 3,559,000
3-Nov-10 3,368,000
30-Aug-10 2,891,000
27-May-11 3,748,000
19-Mar-11 3,704,000
7-Jan-11 3,543,000
2-Nov-10 3,364,000
28-Aug-10 2,890,000
26-May-11 3,746,000
18-Mar-11 3,704,000
6-Jan-11 3,580,000
1-Nov-10 3,350,000
27-Aug-10 2,889,000
206
25-May-11 3,757,000
17-Mar-11 3,684,000
5-Jan-11 3,582,000
30-Oct-10 3,333,000
26-Aug-10 2,898,000
24-May-11 3,744,000
16-Mar-11 3,688,000
4-Jan-11 3,605,000
29-Oct-10 3,294,000
25-Aug-10 2,883,000
23-May-11 3,740,000
15-Mar-11 3,705,000
31-Dec-10 3,560,000
28-Oct-10 3,280,000
24-Aug-10 2,854,000
21-May-11 3,742,000
14-Mar-11 3,720,000
30-Dec-10 3,572,000
27-Oct-10 3,280,000
23-Aug-10 2,869,000
20-May-11 3,731,000
12-Mar-11 3,694,000
29-Dec-10 3,505,000
26-Oct-10 3,282,000
21-Aug-10 2,862,000
19-May-11 3,728,000
11-Mar-11 3,690,000
28-Dec-10 3,560,000
25-Oct-10 3,290,000
20-Aug-10 2,875,000
18-May-11 3,726,000
10-Mar-11 3,732,000
27-Dec-10 3,575,000
23-Oct-10 3,276,000
19-Aug-10 2,870,000
17-May-11 3,730,000
9-Mar-11 3,744,000
25-Dec-10 3,580,000
22-Oct-10 3,266,000
18-Aug-10 2,848,000
16-May-11 3,726,000
8-Mar-11 3,756,000
24-Dec-10 3,580,000
21-Oct-10 3,304,000
17-Aug-10 2,838,000
14-May-11 3,734,000
7-Mar-11 3,763,000
23-Dec-10 3,572,000
20-Oct-10 3,293,000
16-Aug-10 2,824,000
14-Aug-10 2,810,000
11-Jun-10 2,788,000
3-Apr-10 2,610,000
23-Jan-10 2,640,000
13-Aug-10 2,814,000
10-Jun-10 2,788,000
2-Apr-10 2,609,000
22-Jan-10 2,634,000
12-Aug-10 2,799,000
9-Jun-10 2,809,000
1-Apr-10 2,608,000
21-Jan-10 2,650,000
11-Aug-10 2,800,000
8-Jun-10 2,824,000
31-Mar-10 2,604,000
20-Jan-10 2,673,000
10-Aug-10 2,803,000
7-Jun-10 2,770,000
30-Mar-10 2,617,000
19-Jan-10 2,679,000
9-Aug-10 2,812,000
5-Jun-10 2,775,000
29-Mar-10 2,619,000
18-Jan-10 2,678,000
7-Aug-10 2,810,000
4-Jun-10 2,760,000
27-Mar-10 2,617,000
16-Jan-10 2,673,000
6-Aug-10 2,798,000
3-Jun-10 2,776,000
26-Mar-10 2,604,000
15-Jan-10 2,680,000
5-Aug-10 2,799,000
2-Jun-10 2,781,000
25-Mar-10 2,588,000
14-Jan-10 2,683,000
4-Aug-10 2,790,000
1-Jun-10 2,780,000
24-Mar-10 2,600,000
13-Jan-10 2,683,000
3-Aug-10 2,775,000
31-May-10 2,720,000
23-Mar-10 2,621,000
12-Jan-10 2,715,000
2-Aug-10 2,773,000
29-May-10 2,735,000
22-Mar-10 2,630,000
11-Jan-10 2,707,000
31-Jul-10 2,771,000
28-May-10 2,766,000
20-Mar-10 2,631,000
9-Jan-10 2,684,000
30-Jul-10 2,763,000
27-May-10 2,776,000
19-Mar-10 2,646,000
8-Jan-10 2,672,000
29-Jul-10 2,762,000
26-May-10 2,786,000
18-Mar-10 2,643,000
7-Jan-10 2,687,000
28-Jul-10 2,766,000
25-May-10 2,752,000
17-Mar-10 2,656,000
6-Jan-10 2,680,000
27-Jul-10 2,794,000
24-May-10 2,744,000
16-Mar-10 2,642,000
5-Jan-10 2,686,000
26-Jul-10 2,799,000
22-May-10 2,734,000
15-Mar-10 2,639,000
4-Jan-10 2,665,000
24-Jul-10 2,796,000
21-May-10 2,730,000
13-Mar-10 2,636,000
31-Dec-09 2,660,000
23-Jul-10 2,806,000
20-May-10 2,742,000
12-Mar-10 2,650,000
30-Dec-09 2,637,000
22-Jul-10 2,795,000
19-May-10 2,768,000
11-Mar-10 2,636,000
29-Dec-09 2,658,000
21-Jul-10 2,798,000
18-May-10 2,784,000
10-Mar-10 2,662,000
28-Dec-09 2,675,000
20-Jul-10 2,794,000
17-May-10 2,808,000
9-Mar-10 2,661,000
26-Dec-09 2,663,000
19-Jul-10 2,807,000
15-May-10 2,805,000
8-Mar-10 2,678,000
25-Dec-09 2,647,000
17-Jul-10 2,806,000
14-May-10 2,812,000
6-Mar-10 2,672,000
24-Dec-09 2,638,000
16-Jul-10 2,816,000
13-May-10 2,804,000
5-Mar-10 2,674,000
23-Dec-09 2,610,000
207
15-Jul-10 2,823,000
12-May-10 2,797,000
4-Mar-10 2,669,000
22-Dec-09 2,650,000
14-Jul-10 2,820,000
11-May-10 2,742,000
3-Mar-10 2,663,000
21-Dec-09 2,690,000
13-Jul-10 2,815,000
10-May-10 2,712,000
2-Mar-10 2,652,000
19-Dec-09 2,695,000
12-Jul-10 2,820,000
8-May-10 2,728,000
1-Mar-10 2,659,000
18-Dec-09 2,670,000
10-Jul-10 2,823,000
7-May-10 2,718,000
27-Feb-10 2,648,000
17-Dec-09 2,715,000
9-Jul-10 2,810,000
6-May-10 2,670,000
26-Feb-10 2,642,000
16-Dec-09 2,706,000
8-Jul-10 2,822,000
5-May-10 2,660,000
25-Feb-10 2,623,000
15-Dec-09 2,692,000
7-Jul-10 2,805,000
4-May-10 2,675,000
24-Feb-10 2,636,000
14-Dec-09 2,682,000
6-Jul-10 2,827,000
3-May-10 2,667,000
23-Feb-10 2,654,000
12-Dec-09 2,665,000
5-Jul-10 2,827,000
29-Apr-10 2,644,000
22-Feb-10 2,661,000
11-Dec-09 2,715,000
3-Jul-10 2,830,000
28-Apr-10 2,645,000
20-Feb-10 2,668,000
2-Jul-10 2,825,000
27-Apr-10 2,634,000
19-Feb-10 2,650,000
1-Jul-10 2,855,000
26-Apr-10 2,639,000
12-Feb-10 2,625,000
30-Jun-10 2,852,000
22-Apr-10 2,626,000
11-Feb-10 2,610,000
29-Jun-10 2,840,000
21-Apr-10 2,630,000
10-Feb-10 2,575,000
28-Jun-10 2,860,000
20-Apr-10 2,628,000
9-Feb-10 2,535,000
26-Jun-10 2,857,000
19-Apr-10 2,614,000
8-Feb-10 2,528,000
25-Jun-10 2,846,000
17-Apr-10 2,624,000
6-Feb-10 2,530,000
24-Jun-10 2,834,000
16-Apr-10 2,641,000
5-Feb-10 2,500,000
23-Jun-10 2,839,000
15-Apr-10 2,640,000
4-Feb-10 2,633,000
22-Jun-10 2,829,000
14-Apr-10 2,645,000
3-Feb-10 2,642,000
21-Jun-10 2,860,000
13-Apr-10 2,634,000
2-Feb-10 2,630,000
19-Jun-10 2,846,000
12-Apr-10 2,662,000
1-Feb-10 2,620,000
18-Jun-10 2,825,000
10-Apr-10 2,650,000
30-Jan-10 2,633,000
17-Jun-10 2,806,000
9-Apr-10 2,648,000
29-Jan-10 2,635,000
16-Jun-10 2,810,000
8-Apr-10 2,632,000
28-Jan-10 2,642,000
15-Jun-10 2,793,000
7-Apr-10 2,607,000
27-Jan-10 2,637,000
14-Jun-10 2,803,000
6-Apr-10 2,604,000
26-Jan-10 2,636,000
12-Jun-10 2,794,000
5-Apr-10 2,610,000
25-Jan-10 2,644,000
208
Bảng 3.6 - Thống kê tỷ giá USD/VND liên ngân hàng
(Từ 01/06/2009 đến 06/09/2012)
Tỷ giá
Ngày
Ngày
Ngày
Ngày
Ngày
Tỷ giá
(đ/USD)
Tỷ giá
(đ/USD)
Tỷ giá
(đ/USD)
Tỷ giá
(đ/USD)
(đ/USD)
6-Sep-12
20,850
19-Jun-12
20,955
14-Mar-12
20,833
12-Dec-11
21,180
26-Sep-11
21,860
5-Sep-12
20,855
18-Jun-12
20,962
13-Mar-12
20,832
9-Dec-11
21,180
23-Sep-11
21,860
20,825
4-Sep-12
20,858
14-Jun-12
20,960
7-Mar-12
8-Dec-11
21,190
22-Sep-11
21,860
20,830
31-Aug-12
20,859
13-Jun-12
20,960
5-Mar-12
7-Dec-11
21,200
21-Sep-11
21,860
20,835
30-Aug-12
20,858
12-Jun-12
20,965
2-Mar-12
6-Dec-11
21,220
20-Sep-11
21,860
20,833
29-Aug-12
20,858
11-Jun-12
20,975
1-Mar-12
5-Dec-11
21,230
19-Sep-11
21,860
27-Aug-12
20,855
8-Jun-12
20,985
28-Feb-12
20,835
2-Dec-11
21,280
16-Sep-11
21,860
24-Aug-12
20,900
7-Jun-12
21,005
27-Feb-12
20,835
1-Dec-11
21,290
15-Sep-11
21,860
23-Aug-12
20,915
6-Jun-12
21,010
24-Feb-12
20,835
30-Nov-11
21,290
14-Sep-11
21,860
22-Aug-12
20,847
4-Jun-12
20,915
23-Feb-12
20,840
29-Nov-11
21,290
13-Sep-11
21,860
21-Aug-12
20,840
1-Jun-12
20,880
22-Feb-12
20,835
28-Nov-11
21,295
12-Sep-11
21,860
20-Aug-12
20,842
31-May-12
20,871
21-Feb-12
20,835
25-Nov-11
21,310
9-Sep-11
21,860
17-Aug-12
20,843
30-May-12
20,868
20-Feb-12
20,835
24-Nov-11
21,315
8-Sep-11
21,860
16-Aug-12
20,845
29-May-12
20,865
17-Feb-12
20,825
23-Nov-11
21,320
7-Sep-11
21,860
15-Aug-12
20,849
28-May-12
20,862
16-Feb-12
20,825
22-Nov-11
21,330
6-Sep-11
21,860
14-Aug-12
20,850
25-May-12
20,860
15-Feb-12
20,830
21-Nov-11
21,370
5-Sep-11
21,860
13-Aug-12
20,850
24-May-12
20,863
14-Feb-12
20,845
18-Nov-11
21,370
2-Sep-11
21,860
10-Aug-12
20,850
23-May-12
20,860
13-Feb-12
20,845
17-Nov-11
21,400
1-Sep-11
21,860
9-Aug-12
20,852
22-May-12
20,850
10-Feb-12
20,850
16-Nov-11
21,400
31-Aug-11
21,860
8-Aug-12
20,855
21-May-12
20,851
9-Feb-12
20,890
15-Nov-11
21,430
30-Aug-11
21,860
7-Aug-12
20,855
18-May-12
20,848
8-Feb-12
20,890
14-Nov-11
21,430
29-Aug-11
21,860
6-Aug-12
20,855
17-May-12
20,847
7-Feb-12
20,930
11-Nov-11
21,430
26-Aug-11
21,860
3-Aug-12
20,855
16-May-12
20,847
6-Feb-12
20,970
10-Nov-11
21,430
25-Aug-11
21,870
2-Aug-12
20,857
15-May-12
20,848
3-Feb-12
20,980
9-Nov-11
21,450
24-Aug-11
21,870
1-Aug-12
20,860
14-May-12
20,850
2-Feb-12
20,975
8-Nov-11
21,500
23-Aug-11
21,870
31-Jul-12
20,866
11-May-12
20,845
1-Feb-12
21,000
7-Nov-11
21,600
22-Aug-11
21,870
30-Jul-12
20,865
10-May-12
20,845
31-Jan-12
21,035
4-Nov-11
21,700
19-Aug-11
21,870
27-Jul-12
20,865
9-May-12
20,845
30-Jan-12
21,030
3-Nov-11
21,700
18-Aug-11
21,870
26-Jul-12
20,877
8-May-12
20,855
20-Jan-12
20,840
2-Nov-11
21,700
17-Aug-11
21,870
25-Jul-12
20,882
7-May-12
20,853
19-Jan-12
20,860
1-Nov-11
21,700
16-Aug-11
21,870
209
24-Jul-12
20,875
4-May-12
20,845
18-Jan-12
20,870
31-Oct-11
21,700
15-Aug-11
21,870
23-Jul-12
20,860
3-May-12
20,845
17-Jan-12
20,980
28-Oct-11
21,750
12-Aug-11
21,870
20-Jul-12
20,850
2-May-12
20,865
16-Jan-12
21,030
27-Oct-11
21,750
11-Aug-11
21,870
19-Jul-12
20,847
26-Apr-12
20,880
13-Jan-12
21,040
26-Oct-11
21,800
10-Aug-11
21,870
18-Jul-12
20,850
25-Apr-12
20,865
11-Jan-12
21,110
25-Oct-11
21,900
9-Aug-11
20,900
17-Jul-12
20,855
24-Apr-12
20,863
10-Jan-12
21,150
24-Oct-11
21,850
8-Aug-11
20,900
16-Jul-12
20,860
23-Apr-12
20,851
9-Jan-12
21,210
21-Oct-11
21,850
5-Aug-11
20,900
13-Jul-12
20,865
20-Apr-12
20,839
6-Jan-12
21,220
20-Oct-11
21,850
4-Aug-11
20,900
12-Jul-12
20,865
19-Apr-12
20,840
5-Jan-12
21,230
19-Oct-11
21,850
3-Aug-11
20,900
11-Jul-12
20,870
18-Apr-12
20,839
4-Jan-12
21,250
18-Oct-11
21,850
2-Aug-11
20,900
10-Jul-12
20,880
16-Apr-12
20,840
3-Jan-12
21,240
17-Oct-11
21,850
1-Aug-11
20,900
9-Jul-12
20,880
12-Apr-12
20,840
30-Dec-11
21,235
14-Oct-11
21,860
29-Jul-11
20,900
6-Jul-12
20,875
11-Apr-12
20,840
29-Dec-11
21,240
13-Oct-11
21,860
28-Jul-11
20,900
5-Jul-12
20,885
10-Apr-12
20,835
28-Dec-11
21,240
12-Oct-11
21,860
27-Jul-11
20,900
4-Jul-12
20,885
9-Apr-12
20,835
27-Dec-11
21,260
11-Oct-11
21,860
26-Jul-11
20,900
3-Jul-12
20,895
6-Apr-12
20,835
26-Dec-11
21,280
10-Oct-11
21,860
25-Jul-11
20,900
2-Jul-12
20,893
5-Apr-12
20,835
23-Dec-11
21,240
7-Oct-11
21,860
22-Jul-11
20,900
29-Jun-12
20,890
4-Apr-12
20,835
22-Dec-11
21,290
6-Oct-11
21,860
21-Jul-11
20,900
28-Jun-12
20,900
3-Apr-12
20,835
21-Dec-11
21,300
5-Oct-11
21,860
20-Jul-11
20,900
27-Jun-12
20,890
28-Mar-12
20,840
20-Dec-11
21,310
4-Oct-11
21,860
19-Jul-11
20,585
26-Jun-12
20,885
27-Mar-12
20,860
19-Dec-11
21,300
3-Oct-11
21,860
18-Jul-11
20,580
25-Jun-12
20,900
26-Mar-12
20,890
16-Dec-11
21,240
30-Sep-11
21,860
15-Jul-11
20,585
22-Jun-12
20,917
21-Mar-12
20,870
15-Dec-11
21,250
29-Sep-11
21,860
14-Jul-11
20,585
21-Jun-12
20,915
20-Mar-12
20,833
14-Dec-11
21,230
28-Sep-11
21,860
13-Jul-11
20,590
20-Jun-12
20,935
19-Mar-12
20,832
13-Dec-11
21,200
27-Sep-11
21,860
12-Jul-11
20,595
11-Jul-11
20,595
25-Apr-11
20,995
7-Feb-11
20,850
22-Nov-10
20,900
6-Sep-10
19,510
8-Jul-11
20,595
22-Apr-11
20,995
4-Feb-11
20,850
19-Nov-10
20,790
3-Sep-10
19,495
7-Jul-11
20,600
21-Apr-11
20,995
3-Feb-11
20,850
18-Nov-10
20,760
2-Sep-10
19,490
6-Jul-11
20,600
20-Apr-11
20,995
2-Feb-11
20,850
17-Nov-10
20,770
1-Sep-10
19,490
5-Jul-11
20,600
19-Apr-11
20,995
1-Feb-11
20,850
16-Nov-10
20,760
31-Aug-10
19,490
4-Jul-11
20,600
18-Apr-11
20,995
31-Jan-11
20,850
15-Nov-10
20,780
30-Aug-10
19,490
1-Jul-11
20,620
15-Apr-11
20,995
28-Jan-11
20,540
12-Nov-10
20,650
27-Aug-10
19,500
30-Jun-11
20,620
14-Apr-11
20,995
27-Jan-11
20,550
11-Nov-10
20,800
26-Aug-10
19,500
29-Jun-11
20,620
13-Apr-11
20,995
26-Jan-11
20,510
10-Nov-10
20,750
25-Aug-10
19,500
28-Jun-11
20,620
12-Apr-11
20,995
25-Jan-11
20,650
9-Nov-10
20,750
24-Aug-10
19,510
27-Jun-11
20,650
11-Apr-11
20,995
24-Jan-11
20,650
8-Nov-10
20,500
23-Aug-10
19,510
210
24-Jun-11
20,590
8-Apr-11
20,995
21-Jan-11
20,750
5-Nov-10
20,280
20-Aug-10
19,520
23-Jun-11
20,590
7-Apr-11
20,995
20-Jan-11
20,780
4-Nov-10
20,700
19-Aug-10
19,510
22-Jun-11
20,590
6-Apr-11
20,995
19-Jan-11
20,780
3-Nov-10
20,650
18-Aug-10
19,460
21-Jun-11
20,590
5-Apr-11
20,995
18-Jan-11
20,820
2-Nov-10
20,650
17-Aug-10
19,340
20-Jun-11
20,600
4-Apr-11
20,995
17-Jan-11
20,900
1-Nov-10
20,600
16-Aug-10
19,250
17-Jun-11
20,740
1-Apr-11
20,960
14-Jan-11
20,880
29-Oct-10
20,300
13-Aug-10
19,280
16-Jun-11
20,660
31-Mar-11
20,960
13-Jan-11
20,870
28-Oct-10
20,295
12-Aug-10
19,270
15-Jun-11
20,590
30-Mar-11
21,015
12-Jan-11
20,865
27-Oct-10
20,120
11-Aug-10
19,260
14-Jun-11
20,590
29-Mar-11
21,025
11-Jan-11
20,860
26-Oct-10
20,025
10-Aug-10
19,250
13-Jun-11
20,590
28-Mar-11
21,040
10-Jan-11
20,850
25-Oct-10
20,000
9-Aug-10
19,240
10-Jun-11
20,565
25-Mar-11
21,050
7-Jan-11
20,750
22-Oct-10
19,985
6-Aug-10
19,230
9-Jun-11
20,565
24-Mar-11
21,040
6-Jan-11
20,720
21-Oct-10
19,980
5-Aug-10
19,205
8-Jun-11
20,565
23-Mar-11
21,040
5-Jan-11
20,720
20-Oct-10
19,980
4-Aug-10
19,205
7-Jun-11
20,565
22-Mar-11
21,170
4-Jan-11
20,710
19-Oct-10
19,998
3-Aug-10
19,210
6-Jun-11
20,600
21-Mar-11
21,140
3-Jan-11
20,750
18-Oct-10
19,840
2-Aug-10
19,220
3-Jun-11
20,600
18-Mar-11
21,000
31-Dec-10
20,750
15-Oct-10
19,840
30-Jul-10
19,220
2-Jun-11
20,630
17-Mar-11
20,875
30-Dec-10
20,760
14-Oct-10
19,828
29-Jul-10
19,230
1-Jun-11
20,620
16-Mar-11
20,875
29-Dec-10
20,770
13-Oct-10
19,815
28-Jul-10
19,180
31-May-11
20,750
15-Mar-11
20,975
28-Dec-10
20,780
12-Oct-10
19,815
27-Jul-10
19,165
30-May-11
20,750
14-Mar-11
20,905
27-Dec-10
20,760
11-Oct-10
19,820
26-Jul-10
19,150
27-May-11
20,750
11-Mar-11
21,000
24-Dec-10
20,750
8-Oct-10
19,815
23-Jul-10
19,150
26-May-11
20,750
10-Mar-11
21,040
23-Dec-10
20,740
7-Oct-10
19,815
22-Jul-10
19,150
25-May-11
20,750
9-Mar-11
21,050
22-Dec-10
20,740
6-Oct-10
19,760
21-Jul-10
19,140
24-May-11
20,800
8-Mar-11
21,060
21-Dec-10
20,720
5-Oct-10
19,610
20-Jul-10
19,140
23-May-11
20,800
7-Mar-11
21,060
20-Dec-10
20,690
4-Oct-10
19,600
19-Jul-10
19,150
20-May-11
20,800
4-Mar-11
21,050
17-Dec-10
20,830
1-Oct-10
19,510
16-Jul-10
19,140
19-May-11
20,800
3-Mar-11
21,060
16-Dec-10
20,910
30-Sep-10
19,575
15-Jul-10
19,130
18-May-11
20,800
2-Mar-11
21,080
15-Dec-10
20,930
29-Sep-10
19,570
14-Jul-10
19,130
17-May-11
20,800
1-Mar-11
21,100
14-Dec-10
20,920
28-Sep-10
19,545
13-Jul-10
19,130
16-May-11
20,800
28-Feb-11
21,120
13-Dec-10
20,940
27-Sep-10
19,515
12-Jul-10
19,130
13-May-11
20,800
25-Feb-11
21,200
10-Dec-10
20,890
24-Sep-10
19,500
9-Jul-10
19,150
12-May-11
20,995
24-Feb-11
21,420
9-Dec-10
20,650
23-Sep-10
19,500
8-Jul-10
19,150
11-May-11
20,995
23-Feb-11
21,380
8-Dec-10
21,850
22-Sep-10
19,505
7-Jul-10
19,150
10-May-11
20,995
22-Feb-11
21,390
7-Dec-10
21,060
21-Sep-10
19,500
6-Jul-10
19,150
9-May-11
20,995
21-Feb-11
21,350
6-Dec-10
21,260
20-Sep-10
19,505
5-Jul-10
19,150
6-May-11
20,995
18-Feb-11
21,280
3-Dec-10
21,350
17-Sep-10
19,505
2-Jul-10
19,150
211
5-May-11
20,995
17-Feb-11
21,250
2-Dec-10
21,400
16-Sep-10
19,504
1-Jul-10
19,150
4-May-11
20,995
16-Feb-11
21,200
1-Dec-10
21,400
15-Sep-10
19,500
30-Jun-10
19,150
3-May-11
20,995
15-Feb-11
21,130
30-Nov-10
21,410
14-Sep-10
19,500
29-Jun-10
19,150
2-May-11
20,995
14-Feb-11
21,130
29-Nov-10
21,490
13-Sep-10
19,500
28-Jun-10
18,975
29-Apr-11
20,995
11-Feb-11
20,995
26-Nov-10
21,260
10-Sep-10
19,500
25-Jun-10
18,975
28-Apr-11
20,995
10-Feb-11
20,885
25-Nov-10
21,400
9-Sep-10
19,500
24-Jun-10
18,975
27-Apr-11
20,995
9-Feb-11
20,830
24-Nov-10
21,100
8-Sep-10
19,500
23-Jun-10
18,975
26-Apr-11
20,995
8-Feb-11
20,730
23-Nov-10
20,970
7-Sep-10
19,510
22-Jun-10
18,975
21-Jun-10
18,975
5-Apr-10
18,975
18-Jan-10
18,630
30-Oct-09
18,280
14-Aug-09
18,260
18-Jun-10
18,975
2-Apr-10
18,975
15-Jan-10
18,620
29-Oct-09
18,280
13-Aug-09
18,250
17-Jun-10
18,975
1-Apr-10
18,975
14-Jan-10
18,630
28-Oct-09
18,280
12-Aug-09
18,270
16-Jun-10
18,975
31-Mar-10
18,980
13-Jan-10
18,600
27-Oct-09
18,280
11-Aug-09
18,260
15-Jun-10
18,975
30-Mar-10
18,980
12-Jan-10
18,600
26-Oct-09
18,280
10-Aug-09
18,230
14-Jun-10
18,975
29-Mar-10
18,980
11-Jan-10
18,610
23-Oct-09
18,280
7-Aug-09
18,240
11-Jun-10
18,975
26-Mar-10
18,980
8-Jan-10
18,620
22-Oct-09
18,280
6-Aug-09
18,250
10-Jun-10
18,975
25-Mar-10
18,980
7-Jan-10
18,620
21-Oct-09
18,280
5-Aug-09
18,300
9-Jun-10
18,975
24-Mar-10
18,980
6-Jan-10
18,630
20-Oct-09
18,280
4-Aug-09
18,310
8-Jun-10
18,975
23-Mar-10
18,980
5-Jan-10
18,590
19-Oct-09
18,280
3-Aug-09
18,350
7-Jun-10
18,975
22-Mar-10
18,990
4-Jan-10
18,580
16-Oct-09
18,280
31-Jul-09
18,370
4-Jun-10
18,975
19-Mar-10
18,990
31-Dec-09
18,800
15-Oct-09
18,280
30-Jul-09
18,350
3-Jun-10
18,975
18-Mar-10
18,990
30-Dec-09
18,800
14-Oct-09
18,280
29-Jul-09
18,320
2-Jun-10
18,975
17-Mar-10
18,990
29-Dec-09
18,800
13-Oct-09
18,280
28-Jul-09
18,330
1-Jun-10
18,975
16-Mar-10
18,990
28-Dec-09
18,800
12-Oct-09
18,280
27-Jul-09
18,350
31-May-10
18,975
15-Mar-10
18,990
25-Dec-09
18,800
9-Oct-09
18,280
24-Jul-09
18,360
28-May-10
18,975
12-Mar-10
19,100
24-Dec-09
18,800
8-Oct-09
18,280
23-Jul-09
18,340
27-May-10
18,975
11-Mar-10
19,100
23-Dec-09
18,800
7-Oct-09
18,280
22-Jul-09
18,350
26-May-10
18,975
10-Mar-10
19,100
22-Dec-09
18,800
6-Oct-09
18,280
21-Jul-09
18,300
25-May-10
18,975
9-Mar-10
19,100
21-Dec-09
18,800
5-Oct-09
18,280
20-Jul-09
18,320
24-May-10
18,975
8-Mar-10
19,100
18-Dec-09
18,800
2-Oct-09
18,280
17-Jul-09
18,340
21-May-10
18,975
5-Mar-10
19,100
17-Dec-09
18,800
1-Oct-09
18,280
16-Jul-09
18,350
20-May-10
18,975
4-Mar-10
19,100
16-Dec-09
18,800
30-Sep-09
18,280
15-Jul-09
18,370
19-May-10
18,975
3-Mar-10
19,100
15-Dec-09
18,800
29-Sep-09
18,280
14-Jul-09
18,380
18-May-10
18,975
2-Mar-10
19,100
14-Dec-09
18,800
28-Sep-09
18,280
13-Jul-09
18,360
17-May-10
18,975
1-Mar-10
19,210
11-Dec-09
18,800
25-Sep-09
18,280
10-Jul-09
18,350
14-May-10
18,975
26-Feb-10
19,220
10-Dec-09
18,800
24-Sep-09
18,280
9-Jul-09
18,350
13-May-10
18,975
25-Feb-10
19,220
9-Dec-09
18,800
23-Sep-09
18,280
8-Jul-09
18,300
212
12-May-10
18,975
24-Feb-10
19,220
8-Dec-09
18,800
22-Sep-09
18,280
7-Jul-09
18,250
11-May-10
18,975
23-Feb-10
19,220
7-Dec-09
18,800
21-Sep-09
18,280
6-Jul-09
18,280
10-May-10
18,975
22-Feb-10
19,220
4-Dec-09
18,800
18-Sep-09
18,280
3-Jul-09
18,280
7-May-10
18,975
19-Feb-10
18,570
3-Dec-09
18,800
17-Sep-09
18,280
2-Jul-09
18,300
6-May-10
18,975
18-Feb-10
18,570
2-Dec-09
18,800
16-Sep-09
18,280
1-Jul-09
18,300
5-May-10
18,975
17-Feb-10
18,570
1-Dec-09
18,800
15-Sep-09
18,280
30-Jun-09
18,280
4-May-10
18,975
16-Feb-10
18,570
30-Nov-09
18,800
14-Sep-09
18,280
29-Jun-09
18,330
3-May-10
18,975
15-Feb-10
18,570
27-Nov-09
18,800
11-Sep-09
18,280
26-Jun-09
18,280
30-Apr-10
18,975
12-Feb-10
18,560
26-Nov-09
18,800
10-Sep-09
18,280
25-Jun-09
18,320
29-Apr-10
18,975
11-Feb-10
18,560
25-Nov-09
18,280
9-Sep-09
18,280
24-Jun-09
18,350
28-Apr-10
18,975
10-Feb-10
18,560
24-Nov-09
18,280
8-Sep-09
18,280
23-Jun-09
18,360
27-Apr-10
18,975
9-Feb-10
18,560
23-Nov-09
18,280
7-Sep-09
18,280
22-Jun-09
18,340
26-Apr-10
18,975
8-Feb-10
18,560
20-Nov-09
18,280
4-Sep-09
18,280
19-Jun-09
18,310
23-Apr-10
18,975
5-Feb-10
18,540
19-Nov-09
18,280
3-Sep-09
18,280
18-Jun-09
18,330
22-Apr-10
18,975
4-Feb-10
18,540
18-Nov-09
18,280
2-Sep-09
18,280
17-Jun-09
18,360
21-Apr-10
18,975
3-Feb-10
18,540
17-Nov-09
18,280
1-Sep-09
18,280
16-Jun-09
18,350
20-Apr-10
18,975
2-Feb-10
18,540
16-Nov-09
18,280
31-Aug-09
18,270
15-Jun-09
18,270
19-Apr-10
18,975
1-Feb-10
18,540
13-Nov-09
18,280
28-Aug-09
18,320
12-Jun-09
18,200
16-Apr-10
18,975
29-Jan-10
18,550
12-Nov-09
18,280
27-Aug-09
18,290
11-Jun-09
18,200
15-Apr-10
18,975
28-Jan-10
18,550
11-Nov-09
18,280
26-Aug-09
18,290
10-Jun-09
18,190
14-Apr-10
18,975
27-Jan-10
18,560
10-Nov-09
18,280
25-Aug-09
18,310
9-Jun-09
18,180
13-Apr-10
18,975
26-Jan-10
18,560
9-Nov-09
18,280
24-Aug-09
18,320
8-Jun-09
18,160
12-Apr-10
18,975
25-Jan-10
18,590
6-Nov-09
18,280
21-Aug-09
18,330
5-Jun-09
18,140
9-Apr-10
18,975
22-Jan-10
18,610
5-Nov-09
18,280
20-Aug-09
18,340
4-Jun-09
18,130
8-Apr-10
18,975
21-Jan-10
18,600
4-Nov-09
18,280
19-Aug-09
18,370
3-Jun-09
18,130
7-Apr-10
18,975
20-Jan-10
18,600
3-Nov-09
18,280
18-Aug-09
18,320
2-Jun-09
18,140
6-Apr-10
18,975
19-Jan-10
18,610
2-Nov-09
18,280
17-Aug-09
18,270
1-Jun-09
18,100
213
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
T Ư NG ĐẠ H C NGÂN HÀNG T . HỒ CHÍ MINH
BÙI QUANG TÍN
QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ K NH TẾ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2013
214
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
T Ư NG ĐẠ H C NGÂN HÀNG T . HỒ CHÍ MINH
BÙI QUANG TÍN
QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ K NH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 62.34.02.01
NGƯ HƯỚNG DẪN KHOA H C: PGS.;TS. NGÔ HƯỚNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2013
215
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả Luận án có lời cam đoan danh dự về công trình khoa học này của
mình, cụ thể:
- Tôi tên là: Bùi Quang Tín
- Sinh ngày: 20/10/1976
- Quê quán: Quãng Ngãi
- Hiện công tác tại: Khoa Quản trị Kinh doanh – Trường Đại học Ngân hàng
TP.HCM
- Là Nghiên cứu sinh khóa 15 của Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM
- Đề tài: Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng thương
mại cổ phần tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Người hướng dẫn: PGS.;TS. Ngô Hướng
Luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu
có tính độc lập, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa được công bố toàn bộ
nội dung này bất kỳ ở đâu; các số liệu, các nguồn trích dẫn trong Luận án được chú
thích nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tôi.
TP.Hồ Chí Minh, ngày 06 tháng 06 năm 2013
Tác giả
Bùi Quang Tín
216
MỞ ĐẦU
4. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Kể từ ngày 07/11/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ
chức thương mại thế giới WTO và đang trong tiến trình cải cách để hội nhập vào
nền kinh tế thế giới và song song là tiến trình tự do hóa nền kinh tế mà lĩnh vực
được ưu tiên hàng đầu chính là lĩnh vực tài chính ngân hàng. Khi tự do hóa kinh tế,
các ngân hàng có nhiều thuận lợi hơn trong hoạt động nhưng đồng thời cũng chịu
thêm nhiều áp lực cạnh tranh cũng như rủi ro từ môi trường bên ngoài, trong khi
không thể tiếp tục trông chờ vào chính sách bảo hộ của nhà nước. Tiến trình tự do
hóa kinh tế tất yếu dẫn đến tự do hóa các dòng vốn, tự do hóa lãi suất và tự do hóa
tỷ giá hối đoái. Từ trước tới nay, nhờ chính sách can thiệp của nhà nước đã giúp cho
lãi suất và tỷ giá hối đoái rất ổn định, ngoại trừ một số thời điểm đặc biệt như khủng
hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á năm 1997-1998.
Thêm vào đó, hoạt động của các ngân hàng trong những năm trước đây chủ
yếu tập trung vào khâu tín dụng, có những ngân hàng hoạt động kinh doanh tín
dụng chiếm đến hơn 90%. Vì thế, vấn đề KDNH cũng như quản lý rủi ro tỷ giá
ngoại tệ và giá vàng trong KDNH chưa được các ngân hàng quan tâm đúng mức.
Chỉ đến thời gian gần đây từ năm 2006-2010, khi thị trường chứng khoán sôi động,
tỷ giá USD/VND tăng giảm nhanh, giá vàng biến động mạnh, tỷ trọng kinh doanh
tín dụng giảm dần, nhiều loại hình kinh doanh mới xuất hiện như đầu tư tài chính,
kinh doanh vàng, v.vv… áp lực cạnh tranh trên thị trường tăng cao thì các ngân
hàng mới bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến việc sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi
ro tỷ giá cho KDNH và các giải pháp khác trong việc quản lý rủi ro trong hoạt động
KDNH. Về phía các Ngân hàng, hoạt động KDNH luôn được kỳ vọng đem lại
nhiều lợi nhuận và rủi ro là thấp nhất. Trong khi đó, sự biến động của tỷ giá ngoại tệ
và giá vàng là rất khó để dự đoán và có thể gây ra nhiều thiệt hại cho cả ngân hàng.
Cho nên, việc tìm ra các giải pháp để phòng ngừa và nâng cao hiệu quả quản lý rủi
ro ngoại hối cho hoạt động KDNH là thật sự cần thiết. Chính vì lẽ đó, tác giả chọn
217
“QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI TẠI CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TP.HCM” để làm đề tài nghiên cứu cho Luận
án Tiến sĩ.
5. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
Qua tìm hiểu trong thời gian vừa qua, tác giả nhận thấy các đề tài nghiên cứu
có liên quan đến đề tài này chỉ có các tác giả khác thực hiện ở cấp Thạc sỹ ở trong
nước từ năm 2008 trở về trước, còn ở nước ngoài thì không tìm thấy có tác giả nào
làm đề tài có liên quan mật thiết đến đề tài của tác giả đang nghiên cứu.
Các đề tài trên được thực hiện từ năm 2008 về trước nên phần thực trạng
không còn phù hợp với tình hình hiện nay. Ngoài ra, ở chương các giải pháp của các
đề tài cấp Thạc sỹ vẫn còn mang nặng tính lý thuyết hay khó áp dụng vào thực tiễn
hoạt động của các NHTM cổ phần ở TP.HCM. Do đó, việc tìm ra giải pháp căn bản
và khả thi nhất nhằm tăng cường quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại
hối tại các NHTM tại TPHCM là việc làm vô cùng cần thiết, trong đó cần có một
mô hình áp dụng được trong thực tiễn hoạt động của các Ngân hàng nhằm giúp cho
các đơn vị có liên quan trong ngân hàng sử dụng được bất cứ khi nào có nhu cầu
kiểm soát và phòng ngừa rủi ro ngoại hối.
6. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Xác định những nguyên nhân của tồn tại trong quản lý rủi ro ngoại hối của
Đề tài nghiên cứu nhằm đạt được 4 mục tiêu sau đây:
Đề ra các giải pháp để hạn chế rủi ro trong kinh doanh ngoại hối tại các ngân
các ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM.
Đề ra các giải pháp để tăng cường quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối
hàng thương mại cổ phần trên địa bàn TP.HCM.
Kiến nghị những biện pháp nhằm hổ trợ cho hoạt động kinh doanh ngoại hối
của các Ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn TP.HCM.
và quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối.
218
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu thực trạng và các
giải pháp trong việc tăng cường quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các
ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM.
Ngoài ra, trong hoạt động kinh doanh ngoại hối, Luận án này chỉ giới hạn
phạm vi nghiên cứu là các loại ngoại tệ mạnh (gồm có: USD, EUR, GBP, AUD,
JPY, CAD, CHF, SGD) và vàng, tại vì đây là hai loại ngoại hối có doanh số giao
dịch chủ yếu và lớn nhất hiện nay tại các Ngân hàng thương mại cổ phần tại
TP.HCM, chiếm tỷ lệ trên 90% tổng doanh số giao dịch về kinh doanh ngoại hối.
Khoảng thời gian nghiên cứu cho Luận án này là từ năm 2007 đến năm 2012.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Là công trình nghiên cứu khoa học nên trong quá trình thực hiện đề tài, tác
giả chủ yếu sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh, quy nạp, diễn dịch,
phương pháp VaR để thực hiện nghiên cứu.
5. KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được trình
bày ba chương:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG
KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI CỔ PHẦN
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH
NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
TẠI TP.HCM
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH
DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN TẠI TP.HCM
7. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
Làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngoại hối và gây
ra rủi ro trong kinh doanh ngoại hối trong điều kiện hiện nay.
219
Làm rõ những tồn tại trong quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các
Đề xuất các chính sách và giải pháp để tăng cường quản lý rủi ro trong kinh
ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM.
doanh ngoại hối của các ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO
TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ KINH DOANH
NGOẠI HỐI
1.1.1. Quan hệ ngoại hối trong nền kinh tế
Các quan hệ ngoại hối trong nền kinh tế không phát sinh một cách độc lập,
mà luôn chịu ảnh hưởng qua lại bởi rất nhiều yếu tố thị trường khác. Có nhiều yếu
tố nêu lên sự tác động qua lại giữa các giao dịch ngoại hối trong TTNH với các thị
trường khác như thị trường hàng hóa và trái phiếu. Ngoài ra, chúng ta có thể đề cập
đến các thị trường khác và các chính sách khác như: thị trường chứng khoán, các
chính sách chính trị, xã hội, kinh tế, …cũng tác động đến các quan hệ ngoại hối
trong nền kinh tế.
1.1.2. Thị trường ngoại hối
1.1.2.1. Khái niệm thị trường ngoại hối
Theo tác giả, Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các hoạt động chuyển đổi,
mua bán tiền tệ của các nước khác nhau; là nơi thực hiện các giao dịch vàng liên tục
và toàn cầu; là nơi diễn ra các hoạt động đầu tư, lưu chuyển tài chính quốc tế nhằm
thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể kinh tế; đồng thời cũng xác định được các điều
kiện giao dịch.
220
1.1.2.2. Đặc điểm, chức năng của thị trường ngoại hối
1.1.2.4 . Các chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối
Ngân hàng trung ương
Các ngân hàng thương mại
Các nhà môi giới
Các doanh nghiệp
Các cá nhân hay tổ chức trong và ngoài nước khác
Các định chế tài chính khác.
1.1.2.4. Xu hướng phát triển của thị trường ngoại hối trên thế giới
1.1.3. Kinh doanh ngoại hối
1.1.3.1. Khái niệm ngoại hối
Ngoại hối (foreign exchange) bao gồm các phương tiện tiền tệ được sử dụng
Ngoại tệ
Các giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ.
Vàng tiêu chuẩn quốc tế:
Đồng tiền quốc gia do người không cư trú nắm giữ.
trong thanh toán quốc tế. Đối với một quốc gia, ngoại hối bao gồm:
1.1.3.2. Khái niệm kinh doanh ngoại hối và những vấn đề cơ bản trong kinh doanh
ngoại hối
Theo tác giả, kinh doanh ngoại hối là việc mua và bán các đơn vị tiền tệ khác
nhau và vàng nhằm tìm kiếm chênh lệch giá hoặc hưởng phí.
Có ba phương pháp cơ bản để phát sinh lãi trong KDNH tại thị trường giao
ngay:
Lãi phát sinh từ việc tạo trạng thái ngoại hối.
Lãi thu được từ chênh lệch tỷ giá giữa các thị trường khác nhau hoặc cùng
trên một thị trường.
Lãi thu được từ chênh lệch tỷ giá mua vào và bán ra.
221
1.1.3.3. Các loại giao dịch ngoại hối
Giao dịch ngoại hối giao ngay (Spot)
Giao dịch ngoại hối kỳ hạn (Forward)
Giao dịch ngoại hối tương lai (Future)
Giao dịch ngoại hối hoán đổi (Swap)
Giao dịch ngoại hối quyền chọn (Option)
1.2. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN RỦI RO TRONG KINH DOANH
NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Các nhân tố chung tác động đến rủi ro trong kinh doanh ngoại hối
1.2.1.3 . Các yếu tố bên ngoài
Đây là các yếu tố chủ yếu thuộc các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội của
các nước trên thế giới có ảnh hưởng đến nền kinh tế của một Quốc gia nói chung và
hoạt động KDNH nói riêng.
1.2.1.4 . Các yếu tố bên trong
Đây là các yếu tố tác động từ nội tại của nền kinh tế của một quốc gia, trong
đó chủ yếu bao gồm: lạm phát, thâm hụt cán cân thương mại, tình trạng đôla hóa
nền kinh tế, trạng thái ngoại tệ, cơ chế điều hành tỷ giá và các hợp đồng giao dịch
phái sinh ngoại hối.
1.2.2. Các nhân tố riêng tác động đến rủi ro trong kinh doanh ngoại hối
Có hai nguyên nhân chính làm phát sinh rủi ro trong KDNH tại các Ngân
hàng, đó là:
Các Ngân hàng mua bán ngoại tệ hay vàng phục vụ cho khách hàng và mua
bán cho chính mình;
Các Ngân hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn bằng ngoại tệ hay
vàng.
1.2. CÁC TIÊU CHÍ ĐO LƯỜNG RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
222
1.3.1. Các tiêu chí định lượng
1.3.1.1. Phương pháp đo lường VaR
Một trong những phương pháp đo lường rủi ro trong hoạt động KDNH tại
các NHTM phổ biến nhất hiện nay là sử dụng mô hình VaR. Mô hình sẽ được phân
tích chi tiết trong mục 1.4.2.3 của chương 1 Luận án này.
1.3.1.2. Phương pháp đo lường trạng thái ngoại tệ
Đây cũng là một trong những phương pháp đo lường định lượng phổ biến
hiện nay trên thế giới về mức độ rủi ro của các giao dịch ngoại hối mà ngân hàng
thực hiện. Các tiêu chí của công thức này được trình bày chi tiết trong Mục 1.2.2
của Luận án này.
Lãi/lỗ đối với ngoại hối (i) = Trạng thái ngoại hối ròng (i) x
Mức biến động tỷ giá của ngoại tệ (i) hay giá vàng
1.3.2. Các tiêu chí định tính
Các chỉ tiêu này bao gồm: mức độ sử dụng các công cụ phái sinh (mục
1.4.2.3), sử dụng các kỷ thuật dự đoán tỷ giá, hạn mức (mục 1.4.2.3), tình hình kinh
tế - chính trị - xã hội trong và ngoài nước (mục 1.2.1), các chính sách của Chính
phủ và các cơ quan có thẩm quyền (mục 1.2.1), v.v…
1.4. QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.4.1. Rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng thương mại
Theo tác giả, rủi ro ngoại hối là rủi ro phát sinh do sự biến động của tỷ giá
ngoại tệ và giá vàng làm ảnh hưởng xấu đến giá trị kỳ vọng trong tương lai. Có hai
nguyên nhân chính gây nên rủi ro tỷ giá ngoại tệ và giá vàng: (1) các ngân hàng
giao dịch các đồng tiền nước ngoài, vàng nhằm phục vụ cho khách hàng và cho
chính ngân hàng mình; (2) các ngân hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn
bằng các ngoại tệ. Cả hai nguyên nhân này tạo ra một xu hướng trạng thái ngoại hối
ròng (trường hoặc đoản) trong mua bán ngoại hối và trong cơ cấu tài sản bằng ngoại
tệ. Nếu tỷ giá ngoại tệ và giá vàng biến động càng mạnh thì rủi ro ngoại hối sẽ càng
lớn.
223
1.4.2. Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương
mại
1.4.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối của NHTM
Theo tác giả, quản lý rủi ro KDNH tại ngân hàng là quá trình tiếp cận rủi ro
một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng
ngừa và giảm thiểu những tổn thất do rủi ro gây ra. Quy trình quản lý rủi ro thông
thường gồm năm bước: nhận dạng rủi ro, phân tích rủi ro, đo lường rủi ro, kiểm
soát, phòng ngừa rủi ro và tài trợ rủi ro.
1.4.2.3. Vai trò của quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối đối với NHTM
Quản trị rủi ro KDNH tốt giúp góp phần làm giảm thiểu chi phí hoạt động và
hạn chế tổn thất cho các ngân hàng.
Quản lý rủi ro KDNH hiệu quả góp phần tạo điều kiện làm lành mạnh tình
hình tài chính, ngăn ngừa nguy cơ phá sản và gia tăng uy tín cho các NHTM.
Quản lý rủi ro KDNH tốt giúp phát hiện kịp thời những nguyên nhân có thể
gây nên rủi ro cho hoạt động KDNH.
Quá trình này giúp xây dựng hình ảnh tốt đẹp cho ngân hàng, đáp ứng yêu
cầu của các quy định trong nước và các chuẩn mực quốc tế.
Hệ thống quản lý rủi ro KDNH hiệu quả giúp các NHTM có được các nhân
tố tích cực sau trong quá trình hoạt động của ngân.
1.4.2.3. Các phương pháp quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối tại ngân hàng
thương mại
Sử dụng các giới hạn trạng thái ngoại hối giao dịch qua đêm
Hạn mức (position limits) là giới hạn trạng thái ngoại hối tối đa mà mỗi
nhóm, cá nhân KDNH được phép thực hiện.
Cân bằng trạng thái ngoại hối
Sử dụng các kỹ thuật dự đoán tỷ giá
Bao gồm phương pháp phân tích cơ bản và phương pháp phân tích kỹ thuật.
Sử dụng các công cụ phái sinh
224
Các loại công cụ phái sinh khác nhau bao gồm: Hợp đồng kỳ hạn, Hợp đồng
tương lai, Hợp đồng quyền chọn, Hợp đồng hoán đổi và các sản phẩm lai tạp.
Sử dụng công cụ VaR – Giá trị chịu rủi ro
Khái niệm về VaR
VaR được xác định dựa trên quy luật phân bố xác suất cho giá trị thị trường
của danh mục. Thông thường, sự biến động giá trị của các tài sản được tuân theo
quy luật phân phối chuẩn, với 2 giá trị đặc trưng là mức kỳ vọng và phương sai.
Phương pháp đo lường VaR
Hiện tại, các Ngân hàng trên thế giới đang sử dụng ba phương pháp chính để
đo lường VaR, đó là: Phương pháp Delta – Gamma, phương pháp phân tích và
phương pháp Monte Carlo. Trong Luận án này, tác giả đề xuất sử dụng phương
pháp phân tích để áp dụng cho các NHTM cổ phần TP.HCM.
1.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối
của các ngân hàng thương mại
1.4.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng từ phía các NHTM
Tuân thủ không tốt các chính sách và quy trình QLRR của ngân hàng.
Thích các giao dịch có mức độ rủi ro cao.
Hạn mức giao dịch và tổn thất cao.
Theo đuổi mục tiêu lợi nhuận quá cao.
Trình độ nhân sự không tốt.
1.4.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng từ bên ngoài ngân hàng
Chính sách của nhà nước thay đổi.
Môi trường kinh doanh trong và ngoài nước tiềm ẩn nhiều rủi ro.
225
1.5. NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA TỪ KINH NGHIỆM VỀ QUẢN LÝ RỦI
RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA NGÂN HÀNG Ở MỘT
SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.5.1. Bài học thứ nhất về quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ cho các
Ngân hàng thương mại
1.5.2. Bài học thứ hai về quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ cho các ngân
hàng thương mại
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong Chương 1, tác giả đã trình bày các khái niệm cơ bản về thị trường
ngoại hối và hoạt động kinh doanh ngoại hối, bao gồm khái niệm, đặc điểm, chức
năng, hình thức hoạt động, xu hướng phát triển, lịch sử phát triển và các loại giao
dịch ngoại hối nói chung trên thị trường ngoại hối thế giới. Qua đó, chúng ta có
được một bức tranh tổng thể làm nền tảng cho các phần phân tích sau tại thị trường
ngoại hối Việt Nam.
Kinh doanh ngoại hối ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động
của nền kinh tế, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, NHTM và các
cá nhân có sở hữu ngoại hối. Vai trò này thể hiện qua việc kinh doanh ngoại hối
giúp cân đối cung cầu ngoại hối, phòng ngừa rủi ro tỷ giá và tìm kiếm lợi nhuận cho
người sở hữu ngoại hối và là một kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ của Ngân hàng
trung ương.
Bên cạnh đó, trong Chương 1 tác giả cũng đề cập đến tổng quan về quản lý
rủi ro trong hoạt động KDNH của các NHTM. Trong đó, bao gồm các phần khái
niệm về rủi ro KDNH, quản lý rủi ro trong KDNH cũng như các giải pháp trong
quan lý rủi ro KDNH tại các NHTM. Có nhiều giải pháp cũng như nhiều quan điểm
khác nhau trên thế giới trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong hoạt động KDNH
của các NHTM. Tuy nhiên, trong Luận án này tác giả chỉ đề cập đến các giải pháp
cơ bản nhằm giúp các NHTM phòng ngừa rủi ro trong KDNH và từ đó tối đa hóa
lợi nhuận trong hạn mức rủi ro mà Ngân hàng có thể chấp nhận được. Các giải pháp
226
đó bao gồm: sử dụng các giới hạn trạng thái ngoại hối giao dịch qua đêm, cân bằng
trạng thái ngoại hối, sử dụng các kỹ thuật dự đoán tỷ giá, sử dụng các công cụ phái
sinh, sử dụng công cụ VaR – giá trị chịu rủi ro.
Trong phần cuối Chương 1, tác giả đề cập đến một số kinh nghiệm về quản
lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối tại ngân hàng ở một số nước trên thế giới.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM
2.1 KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN TẠI TP.HCM
2.2 THỰC TRẠNG VỀ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM
2.2.1 Các nhân tố chung tác động đến rủi ro kinh doanh vàng và ngoại tệ
2.2.1.2. Các yếu tố bên trong
2.2.1.1. Các yếu tố bên ngoài
Lạm phát
Trong những năm vừa qua, theo Biểu đồ 2.1, tỷ lệ lạm phát đặc biệt cao
trong những năm từ 2007 đến 2011 trừ năm 2009. Như trong hai năm 2007 và 2008,
tỷ lệ lạm phát cao dẫn đến tình hình kinh tế vĩ mô trong nước bất ổn như mức sống
người dân ngày càng thấp, thất nghiệp cao, niềm tin vào đồng tiền Việt nam ngày
càng thấp, thâm hụt các cân thương mại nặng nề, v.v...
Đồng thời, tỷ lệ lạm phát cao khiến người dân trong nước “đổ xô” vào vàng
nhằm tìm kênh trú ẩn an toàn để bảo toàn giá trị tài sản của họ.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế trong nước vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề như: giá
USD vẫn tăng trong khi giá USD thế giới giảm, cầu vàng vẫn cao, chênh lệch giữa
giá vàng trong nước và quốc tế chưa giảm về mức hợp lý, dự trữ ngoại hối còn
mỏng, các hoạt động kinh tế nói chung còn trì trệ kéo theo cầu trong nước yếu,…
Từ đó, với các bất ổn trên của nền kinh tế trong nước kéo theo nhiều rủi ro tiềm ẩn
trung và dài hạn cho các hoạt động KDNH của các ngân hàng.
227
- Thâm hụt cán cân thương mại
Nhập siêu là nguyên nhân chính làm tăng nguy cơ thâm hụt cán cân thanh
toán và từ đó tạo áp lực giảm dự trữ ngoại hối nhà nước do NHNN phải bán ngoại
tệ để can thiệp trên thị trường ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá.
Trong cán cân thương mại của nước ta, nhập khẩu vàng là một trong những
nguyên nhân làm cho tình hình nhập siêu chưa được cải thiện đáng kể, mặc dù cán
cân thương mại năm 2012 có thặng dư nhỏ. Cầu vàng cao khiến cho cầu ngoại tệ
tăng và làm cho tỷ giá USD/VND luôn có xu hướng tăng; từ đó làm cho cung cầu
về ngoại tệ và vàng thường xuyên ở trạng thái mất cân đối. Cuối cùng, các vấn đề
này đã tạo nên nhiểu tổn thất cho hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần tại
TP.HCM như minh họa trong các biểu đồ từ 2.4 đến 2.7.
Tình trạng đôla hóa nền kinh tế
Các rủi ro tiềm ẩn trong trung và dài hạn vẫn còn đó, việc “yêu thích” USD
và vàng của người dân vẫn còn đó, tình trạng đôla hóa chưa thể chấp dứt được. Từ
đó, việc điều hành các chính sách vĩ mô của NHNN gặp không ít khó khăn, việc
quản lý thị trường ngoại hối trong nước vẫn luôn là một ẩn số và rất khó tìm được
sự đồng thuận lớn từ phía người dân cũng như các ngân hàng. Cho nên, các rủi ro
đối với hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần tại TP.HCM vẫn còn tồn tại trong
thời gian vừa qua cũng như sắp tới.
Trạng thái ngoại tệ
Cơ chế điều hành tỷ giá
- Các hợp đồng giao dịch phái sinh ngoại hối
Hầu hết các giao dịch phái sinh ngoại tệ và vàng mà các NHTM cổ phần
TP.HCM thực hiện đều đáp ứng cho nhu cầu mua bán sản phẩm phái sinh ngoại hối
từ phía khách hàng đa số là doanh nghiệp (theo các Bảng 2.5 đến 2.11).
Ngoài việc thực hiện môi giới cho khách hàng về các giao dịch phái sinh
ngoại hối, các NHTM cổ phần tại TP.HCM hầu như rất hiếm khi thực hiện mua hay
bán các giao dịch phái sinh ngoại hối cho chính các trạng thái ngoại hối của ngân
hàng mình để phòng ngừa rủi ro của tỷ giá ngoại tệ hay giá vàng. Chính vì lẽ đó,
228
trong những năm vừa qua, khi mà tỷ giá USD/VND và giá vàng ngày càng biến
động phức tạp, đồng thời rủi ro chính sách từ phía NHNN ngày càng hiện hữu, lợi
nhuận từ mảng KDNH của các ngân hàng ngày càng giảm, đặc biệt là bị lỗ trong
năm 2011 và năm 2012 vừa qua tại nhiều NHTM cổ phần có thị phần giao dịch lớn
trong KDNH và có trụ sở chính tại TP.HCM như trong Biểu đồ từ 2.4 đến 2.7 ở
trên.
2.2.2. Các nhân tố riêng tác động đến rủi ro kinh doanh vàng và ngoại tệ
Khi ngân hàng thực hiện mua hộ và bán hộ cho khách hàng để thu phí thì rủi
ro hối đoái không phát sinh. Một khi ngân hàng tiến hành mua bán ngoại hối cho
khách hàng hay cho chính ngân hàng nhằm mục tiêu kiếm lợi nhuận do tỷ giá ngoại
tệ hay giá vàng biến động, ngân hàng đang mở trạng thái ngoại hối trường hay
đoản, khi đó rủi ro ngoại hối sẽ xảy ra khi tỷ giá ngoại tệ hay giá vàng biến động
ngược với trạng thái ngoại hối mà ngân hàng đang nắm giữ.
Khía cạnh thứ hai của rủi ro hối đoái mà các Ngân hàng phải đối mặt là sự
không cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ đối với từng loại ngoại tệ hay vàng.
2.3. THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI
HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM
2.3.3 Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng
2.3.3.1 Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng vật chất
Tại Việt Nam, hiện nay phần lớn người dân mua vàng là để đầu cơ giá vàng,
tuy nhiên, từ đầu năm 2010, do việc kinh doanh vàng tài khoản trong nước và quốc
tế bị cấm, nên hoạt động đầu cơ giá vàng của người dân buộc phải thực hiện thông
qua việc trao đổi lượng vàng vật chất tương ứng với các cửa hàng trung gian ngày
càng rầm rộ.
Tuy nhiên hoạt động kinh doanh này cũng chứa đựng nhiều rủi ro.
Như trường hợp vào ngày 10/10/2011 tại Ngân hàng Sacombank, phòng
KDNH đã thực hiện hai giao dịch cùng lúc, đó là các dealer đã mua của đối tác
nước ngoài HSBC Hongkong thông qua mạng Reuters với số lượng 500 kg vàng
trên tài khoản với giá giá là 1.585 USD/oz (với giá USDVNĐ trên thị trường
229
interbank lúc bấy giờ 21.700), một giao dịch khác với một đối tác trong nước là
DNTN A cùng với số lượng 500kg vàng SJC (tương đương 500 * 26,666 = 13.333
lượng vàng SJC) với giá 43.900.000 đồng/lượng.
Khi thực hiện các giao dịch trên, phía Sacombank đã phải chịu sáu loại rủi ro
sau mà hầu như chưa có giải pháp phòng ngừa hữu hiệu.
Hàng ngày, phòng Quản lý rủi ro tại Hội sở Sacombank, vẫn luôn có cảnh
báo, nhắc nhở đến phòng KDNH và báo cáo nhanh lên Ban Tổng giám đốc về các
diễn biến bất lợi cho các giao dịch mà phòng Kinh doanh đã thực hiện. Tuy nhiên,
việc làm này vẫn còn mang tính đối phó và chưa thực sự hiệu quả trong công tác
quản lý và phòng ngừa rủi ro ngoại hối của NHTM.
Khi nhìn sang các NHTM cổ phần khác tại TP.HCM như ngân hàng ACB
hay Việt Á hay Eximbank thì các ngân hàng này vẫn thực hiện các giao dịch mua
bán vàng vật chất trong nước, cùng lúc đó là họ thực hiện bán mua đối ứng với tài
khoản vàng tại nước ngoài tương tự như các giao dịch trên của Sacombank. Cũng
với các giao dịch giống nhau về bản chất đó, các ngân hàng này vẫn không có các
giải pháp quản lý rủi ro một cách chặt chẽ, các báo cáo quản lý rủi ro KDNH vẫn
mang tính đối phó, các phòng ban vẫn thờ ơ về mức độ rủi ro của các giao dịch mà
mình đang thực hiện và quản lý, các cảnh báo cũng như các giải pháp quản lý rủi ro
định lượng như mô hình VaR chỉ mang tính tham khảo.
Do đó, các giải pháp quản lý rủi ro trong kinh doanh vàng vật chất tại các
NHTM cổ phần TP.HCM còn rất sơ sài, đối phó, còn mang nặng định tính hơn là
định lương. Đa phần các báo cáo rủi ro cho các giao dịch kinh doanh vàng vật chất
chỉ mang tính tham khảo và rất ít thông tin.
2.3.3.2 . Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản
Bên cạnh hoạt động kinh doanh vàng vật chất phổ biến và mang tính truyền
thống như đã trình bày ở trên, kinh doanh vàng tài khoản vẫn là lĩnh vực cũng chứa
đựng nhiều rủi ro cho hoạt động của các NHTM và gây nhiều bất ổn đến chính sách
quản lý kinh tế của Chính phủ. Trên thực tế, việc kinh doanh sàn vàng hay kinh
230
doanh vàng qua tài khoản với nước ngoài, các NHTM đã đối mặt với những rủi ro
sau:
Rủi ro pháp lý.
Rủi ro thị trường.
Rủi ro về trình độ.
Rủi ro về kỹ thuật công nghệ.
2.3.3.3 . Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu vàng
Tại các NHTM hiện nay, việc quản lý rủi ro này tỏ ra rất lỏng lẻo và hầu như
chưa có một quy định nào để quản lý hiệu quả rủi ro hoạt động xuất nhập khẩu vàng
này. Thực tế hoạt động xuất nhập khẩu vàng tại các NHTM với những rủi ro như
phân tích trên lại chưa có cách quản lý hiệu quả, tuy nhiên không thể vì những rủi
ro như vậy mà Nhà nước lại cấm loại hình giao dịch này.
2.3.4 Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ
2.3.4.1 . Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ phái sinh ngoại tệ
Hiện nay dù có tham gia vào một số nghiệp vụ phái sinh nhưng hầu như các
NHTM tại TP.HCM chỉ chú ý đến việc mua bán ngoại tệ nhằm mục đích đáp ứng
cho thanh toán quốc tế, vay và cho vay ngoại tệ mà hầu như không thực hiện bảo
hiểm tỷ giá nên trong KDNH thì các NHTM đóng vai trò chủ yếu là trung gian giao
dịch để hưởng chênh lệch giá hơn là những nhà tạo lập thị trường. Chính vì lẽ đó,
các NHTM rất yếu về phân tích tỷ giá mà đặc biệt là rất yếu về phân tích kỹ thuật,
hầu như rất ít Ngân hàng sử dụng phân tích kỹ thuật như một công cụ hỗ trợ thêm
cho phân tích cơ bản trong phân tích tỷ giá. Đó cũng là lý do vì sao mà ít NHTM
mạnh về kinh doanh đầu cơ mà chủ yếu chỉ kinh doanh cho khách hàng nhằm
hưởng chênh lệch giá, cho nên, hầu như các NHTM giữ trạng thái tự doanh ngoại tệ
rất ít, và đa phần cũng mua bán các giao dịch phái sinh ngoại tệ trong nước với các
đối tác nước ngoài nhằm hưởng chênh lệch giá, tùy thuộc vào từng thời kỳ theo
quyết định của Hội đồng Quản trị và Ban Tổng giám đốc Ngân hàng. Từ đó rủi ro
xảy ra cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ mặt hay ngoại tệ phái sinh rất ít khi xảy ra
hoặc nếu có xảy ra thì cũng trong chừng mực kiểm soát được. Hoạt động tự doanh
231
của Ngân hàng cũng như việc thực hiện các giao dịch phái sinh của Ngân hàng hay
doanh nghiệp với doanh số rất ít trong thời gian vừa qua cũng xuất phát từ nhiều
nguyên nhân.
2.3.4.2 . Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ mua bán ngoại tệ giao ngay
Khi thị trường ngoại tệ sôi động, cung cầu ngoại tệ mất cân đối, chênh lệch
hai tỷ giá lại được mở ra, Ngân hàng gặp ngay khó khăn trong việc xác định tỷ giá
mua bán và rủi ro cho Ngân hàng lại tiếp tục xảy ra. Các NHTM và NHNN vẫn
đang tìm kiếm giải pháp để các giao dịch ngoại tệ trên thị trường diễn ra lành mạnh,
NHTM có thể quản lý được rủi ro trong hoạt động mua bán ngoại tệ mặt.
2.4. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH
NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI
TP.HCM
2.4.1. Thành tựu
Có ban hành các quy định về quản lý rủi ro trong KDNH trong nội bộ ngân
hàng.
Tuân thủ các quy định quản lý rủi ro của NHNN và của chính ngân hàng.
Thường xuyên nâng cao năng lực quản trị rủi ro của đội ngũ quản lý và thực
hiện các quy định quản lý rủi ro.
2.4.2. Hạn chế
Thiếu các quy định pháp luật cho hoạt động KDNH của ngân hàng.
Tuân thủ các quy định của NHNN mang tính đối phó như về trạng thái ngoại
tệ, giao dịch option USD/VND, mua bán ngoại tệ với giá vượt trần quy định.
Chạy theo lợi nhuận nên ít quan tâm đến các quy định về quản lý rủi ro đã
ban hành.
Các biện pháp đo lường rủi ro về định lượng và định tính chỉ mang tính tham
khảo, thiếu sự cảnh báo và ngăn chặn kịp thời.
2.4.3. Nguyên nhân
Các chính sách của Chính phủ và NHNN chậm được ban hành để theo kịp
các thay đổi của thị trường.
232
Trong quá trình hội nhập và phát triển, mức độ cạnh tranh ngày càng cao làm
cho lợi nhuận các ngân hàng giảm đi nhiều. Do đó, để thực hiện chỉ tiêu lợi
nhuận theo kế hoạch, ngân hàng phải chấp nhận các hoạt động kinh doanh có
mức độ rủi ro cao hơn và làm cho quy trình quản lý rủi ro gặp nhiều khó
khăn.
Lợi ích bị xung đột giữa hai phòng ban trong ngân hàng: phòng KDNH và
phòng QLRR. Phòng KDNH luôn muốn kinh doanh có được lợi nhuận cao
nhất, phòng QLRR là muốn hoạt động kinh doanh với mức độ an toàn cao
nhất cho ngân hàng. Do đó, các cảnh báo và phân tích về rủi ro của phòng
QLRR ít được đội ngũ kinh doanh phòng KDNH quan tâm. Từ đó, việc quản
lý rủi ro khó được thực hiện.
Việc đầu tư hệ thống công nghệ thông tin tốn kém nhiều, nên các ngân hàng
rất ngại thay đổi và nâng cấp hệ thống hạ tầng tuy đã cũ kỹ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong những năm qua kể từ 2007 đến nay, nền kinh tế thế giới vẫn còn nhiều
diễn biến phức tạp như khủng hoảng nợ công Châu Âu còn nhiều di chứng nặng nề,
nhiều nước trong khu vực có mức nợ công/GDP chiếm trên 150%, nền kinh tế phát
triển chậm chạp; nền kinh tế Mỹ vẫn chưa thoát khỏi tình trạng khó khăn, thất
nghiệp liên tục qua nhiều năm trên 8%, thâm hụt ngân sách ngày càng trầm trọng;
các nền kinh tế ở Châu Á cũng chưa thoát khỏi tình trạng suy thoái chung của nền
kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam cũng còn rất nhiều khó khăn
và có ảnh hưởng một phần từ các nền kinh tế trên thế giới như lạm phát trong
những năm qua ở mức cao, có năm trên 15%, thâm hụt cán cân thương mại kéo dài
qua nhiều năm, tình trạng đôla hóa vẫn còn tiếp diễn chưa có dấu hiệu suy giảm, tín
dụng ngoại tệ tuy có giảm nhưng vẫn chưa thể chuyển qua quan hệ mua bán ngoại
tệ, v.v… Dưới những tác động tiêu cực trong, ngoài nước cũng như thực trạng về
hoạt động KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM như đã phân tích ở trên, hoạt
động KDNH tại các NHTM gặp nhiều rủi ro.
Từ những thực trạng về rủi ro KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM được
233
nêu trong phần 2.1, phần tiếp theo ở 2.2 là các giải pháp cơ bản nhằm hạn chế rủi ro
KDNH, trong đó bao gồm: ổn định tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước,
giảm thiểu thấp nhất các tác động tiêu cực của sự suy giảm nền kinh tế thế giới. Bên
cạnh đó, để ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển thị trường ngoại hối và giảm rủi ro
trong KDNH tại các NHTM, Chính phủ cần giảm tỷ lệ lạm phát xuống dưới 10%,
giảm nhập siêu xuống dưới 10 tỷ USD/năm, hạn chế và tiến đến xóa bỏ tình trạng
đôla hóa nền kinh tế. Ngoài ra, NHNN cần có cơ chế điều hành tỷ giá USD/VND
linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước, phát triển thị trường sản phẩm phái sinh
ngoại tệ, hạn chế và tiến tới xóa bỏ tín dụng ngoại tệ trong năm 2015, đồng thời
chuyển qua giao dịch mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Cùng với các giải
pháp đó, NHTM thực hiện tổ chức hoạt động KDNH và hạn chế rủi ro hoạt động;
sử dụng công cụ hạn mức; các phương pháp dự báo tỷ giá và công cụ lệnh nhằm
hạn chế rủi ro phát sinh trong KDNH.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI
HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM
3.1. ĐỊNH HƯỚNG VỀ TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO
TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
3.2 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO KINH DOANH NGOẠI
HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TẠI TP.HCM
3.2.1 Tổ chức lại hoạt động kinh doanh ngoại hối
Một NHTM trong KDNH cần có ba phòng có liên quan mật thiết với nhau
nhằm hạn chế rủi ro hoạt động trong quá trình KDNH tại các NHTM và tăng cường
khả năng quản lý rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Các phòng này bao gồm:
- Phòng kinh doanh
- Phòng thanh toán
- Phòng quản lý rủi ro
234
3.2.2. Sử dụng công cụ hạn mức
Hạn mức (position limits) là giới hạn trạng thái ngoại hối tối đa mà mỗi tổ
chức, cá nhân kinh doanh ngoại hối được phép thực hiện. Tùy theo kinh nghiệm,
trình độ, mục đích kinh doanh, năng lực tài chính và trang thiết bị mà hạn mức giữa
các tổ chức, giữa các Dealer là không giống nhau. Việc quản lý hạn mức kinh doanh
tại một NHTM có thể căn cứ vào một số tiêu chí như sau:
- Hạn mức chung cho cả phòng KDNH.
- Hạn mức theo các đồng tiền kinh doanh.
- Hạn mức cho các loại nghiệp vụ cụ thể, ví dụ hạn mức giao ngay, kỳ hạn, tương
lai hoán đổi và quyền chọn.
3.2.3 Sử dụng các phương pháp dự báo tỷ giá
Trên thị trường tài chính nói chung và thị trường hối đoái nói riêng các
chuyên gia thường dùng 2 cách phân tích sau đây để dự báo giá: phân tích cơ bản
(Fundamental analysis) và phân tích kỹ thuật (Technical analysis).
3.2.4. Sử dụng công cụ lệnh
Một phương pháp khác để hạn chể rủi ro trong KDNH là các Dealer có thể
đưa ra các lệnh rằng, nếu có những thay đổi nhất định trên thị trường phù hợp với
các lệnh đã được đưa ra trước đó, thì giao dịch được tự động thực hiện. Chính việc
làm này chắc chắn sẽ làm giảm đi những khoản lỗ ngoài dự kiến và giúp các Dealer
kiểm soát tốt hoạt động KDNH của ngân hàng mình. Trong mỗi lệnh, phải nói rõ
giá cả, các thông số để trên cơ sở đó một giao dịch có thể thực hiện.
3.3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO KINH
DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
TẠI TP.HCM
3.3.5 Các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường trong hoạt động quản lý rủi ro
kinh doanh ngoại hối
3.3.5.1 Thiết lập trạng thái ngoại hối hợp lý và phù hợp
Một NHTM huy động vốn bằng ngoại tệ và sau đó dùng toàn bộ vốn huy
động được để cho vay cũng bằng ngoại tệ, tức không có sự chuyển đổi mua bán
235
nào, thì cho dù tỷ giá biến động thế nào, NHTM cũng không chịu rủi ro tỷ giá bởi vì
trạng thái ngoại tệ không được tạo ra. Cho nên, chỉ khi NHTM duy trì trạng thái
ngoại tệ mở khác 0, tức duy trì trạng thái tài sản có và tài sản nợ nội và ngoại bảng
không cân xứng với nhau, khi đó, rủi ro phát sinh theo hướng biến động của tỷ giá
như sau:
Các trường hợp Tỷ giá không đổi Tỷ giá tăng Tỷ giá giảm
TSCF = TSNF Lợi nhuận
không thay đổi Lợi nhuận
không thay đổi
Lãi ngoại tệ Lỗ ngoại tệ TSCF > TSNF
Lỗ ngoại tệ Lãi ngoại tệ TSCF < TSNF Lợi nhuận
không thay đổi
Lợi nhuận
không thay đổi
Lợi nhuận
không thay đổi
Việc duy trì một trạng thái ngoại hối hợp lý và phù hợp với mức độ rủi ro
của từng ngân hàng, các NHTM đã và đang cùng với NHNN quản lý hiệu quả được
hoạt động KDNH trong nội bộ NHTM và giúp hoạt động của thị trường ngoại hối
ngày càng hiệu quả và ổn định hơn.
3.3.5.2 . Sử dụng mô hình định lượng rủi ro VAR
Mô hình đo lường rủi ro Var được áp dụng tại Eximbank theo tình huống
điển hình như sau:
Ngân hàng Eximbank mua vào 2000 chỉ vàng ngày 15/07/2012 với giá vàng
là 4.200.000 đồng/chỉ. Ngày 16/7/2012 Ngân hàng xác định tổng lỗ dự kiến bao
gồm lỗ do giá vàng giảm giá từ 4.200.000 đồng/chỉ xuống 4.100.000 đồng/chỉ và
các mức lỗ dự kiến với khả năng 99% và 95% tương ứng với kết quả trong bảng
tính 3.2 bên dưới theo các công thức đã nêu trong phần 1.2.2.5 của chương 1 Luận
án này về sử dụng mô hình VaR để xác định mức lỗ tối đa có thể xảy ra. Các bảng
số liệu này được tính toán dựa trên số liệu thống kê giá vàng thực tế tại TP.HCM từ
ngày 11/12/2009 đến ngày 16/06/2012 (750 ngày) (Bảng 1 ở phụ lục cuối Luận án).
Do giá mua ngày 15/7/2012 là 4.200.000 đồng/chỉ, đến ngày 16/7/2012 giá
chỉ còn 4.100.000 đồng/chỉ, ngân hàng bị lỗ là 2.000 * 100.000 = 200 triệu đồng.
236
Cùng với khoản lỗ đó, giá trị lỗ tối đa dự kiến VaR với xác xuất 99% là 110,43 triệu
đồng, với xác xuất 95% khoản lỗ dự kiến VaR là 76,76 triệu đồng. Do đó, tổng
khoản lỗ thực tế và lỗ dự kiến tối đa là: xác xuất 99% là 310,43 triệu đồng, xác xuất
95% là 276,76 triệu đồng.
Trong bảng 3.3, với các giả định giá vàng thị trường biến động từ 4.100.000
đến 4.300.000 đồng/chỉ. Tương ứng với sự biến động giá đó là các khoản lãi/lỗ dự
kiến được liệt kê trong cột cuối cùng của bảng 3.3.
Với các kết quả được tính toán trong bảng 3.2 và 3.3 cũng như thu thập số
liệu giá vàng trong bảng 3.1, các chuyên viên kinh doanh của phòng KDNH tính
toán được mức lỗ tối đa một khi thực hiện mua 2.000 chỉ vàng với giá vàng lúc mua
là 4.200.000 đồng/chỉ. Sau khi tính toán, phòng KDNH quyết định là có thực hiện
giao dịch đó hay không. Ngoài ra, phòng QLRR cũng sẽ có các bảng tính tương tự
như vậy, để thực hiện chức năng của phòng là cảnh báo cho phòng KDNH nếu số lỗ
đó vượt quá hạn mức lỗ cho phép, và báo cáo kịp thời trạng thái các giao dịch lên
Ban lãnh đạo ngân hàng. Cùng với đó, NHNN cũng nhận được các báo cáo rủi ro
của các trạng thái kinh doanh ngoại hối hàng ngày của từng ngân hàng, từ đó có các
quản lý và điều chỉnh kịp thời và cuối cùng là bảo đảm an toàn cho hoạt động của
hệ thống ngân hàng nói chung.
Với các kết quả tính toán VaR trên, Eximbank biết trước được rằng với một
giao dịch ngoại tệ của ngân hàng thì ngân hàng sẽ xác định được mức lổ tối đa có
thể xảy ra là bao nhiêu, và mức lổ đó có nằm trong hạn mức rủi ro mà Ban lãnh đạo
ngân hàng giao cho phòng KDNH trong việc thực hiện các giao dịch ngoại tệ tự
doanh hay không. Từ đó, các chuyên viên phòng KDNH sẽ tổng hợp các yếu tố như
về giá cả thị trường, các phân tích kỷ thuật, phân tích cơ bản về sự biến động của
giá ngoại tệ, … cùng với các tính toán về giá trị chịu rủi ro tối đa VaR, các chuyên
viên sẽ quyết định là có nên thực hiện các giao dịch ngoại tệ đó hay không. Một
khía cạnh khác, phòng quản lý rủi ro (QLRR) sau khi nhận được các thông tin về
giao dịch từ phía phòng KDNH, phòng QLRR xác định giá trị VaR cho giao dịch
đó, tạo ra báo cáo cho lãnh đạo ngân hàng, đồng thời cảnh báo đến các phòng ban
237
liên quan nếu các giao dịch ngoại tệ đó có mức rủi ro cao hơn hạn mức cho phép
của ngân hàng hay có vi phạm các quy định của ngân hàng.
3.3.5.3 . Sử dụng các sản phẩm phái sinh ngoại tệ
Để có thể hạn chế được rủi ro tỷ giá, Ngân hàng phải thực hiện các biện pháp
phòng ngừa, một trong những công cụ phòng ngừa hữu hiệu chính là các hợp đồng
phái sinh về ngoại hối. Các hợp đồng phái sinh ngoại hối bao gồm: hợp đồng kỳ
hạn, hợp đồng hoán đổi, hợp đồng quyền chọn và hợp đồng tương lai.
3.3.5.4 . Hạn chế các giao dịch trên thị trường không có nhu cầu thực
Để thực hiện được giải pháp này, trước tiên rất cần có các quy định từ phía
Nhà nước và cần sự kiên trì thực hiện, kiểm tra giám sát, xử phạt nghiêm minh việc
thực thi các quy định của pháp luật đã được đưa ra.
Ngoài ra, nhằm giảm các giao dịch trên thị trường ngoại hối có nhu cầu giả
tạo và đầu cơ ngoại hối thì NHNN cần tạo ra một thị trường ngoại hối hoạt động ổn
định lâu dài.
Trên thị trường vàng, nhằm giảm mua bán tràn lan và đầu cơ cũng như tác
động xấu đến CSTT bằng cách thông qua sự hỗ trợ của NHNN bằng chính sách
pháp luật.
Ngoài ra NHNN cần tiếp tục xem xét một số giải pháp nhằm tăng cường sự
ổn định của thị trường vàng lâu dài và hỗ trợ cho hoạt động KDNH của NHTM hiệu
quả và tránh rủi ro cho các NHTM.
3.3.6 Các giải pháp khác từ phía các ngân hàng thương mại để hổ trợ cho việc
tăng cường hoạt động quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối
3.3.6.1 Tăng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại
3.3.6.2 . Đầu tư công nghệ
3.3.6.3 . Phát triển nguồn nhân lực
3.4. CÁC KIẾN NGHỊ VỚI CƠ QUAN CHỨC NĂNG
3.4.1. Kiến nghị với Chính phủ, Bộ, Ngành liên quan
3.4.1.1. Ổn định tình hình bên ngoài: kinh tế, chính trị và xã hội
238
3.4.1.2. Các chính sách vĩ mô cơ bản: lạm phát, thâm hụt cán cân thương mại, tình
trạng đôla hóa nền kinh tế
3.4.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
3.4.2.1. Chính sách tỷ giá USD/VND
3.4.2.2. Phát triển thị trường sản phẩm phái sinh
3.4.2.3. Chính sách đối với huy động và tín dụng ngoại tệ
3.4.2.4. Lập sàn giao dịch vàng, ngoại tệ và các sản phẩm phái sinh mang tính
quốc gia
3.4.2.5. Hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ngoại tệ và kinh doanh
vàng
3.4.2.6. Bình ổn thị trường ngoại tệ và thị trường vàng
3.4.2.7. Thanh tra, kiểm tra, giám sát thị trường ngoại tệ và vàng
3.4.2.8. Chính sách về rủi ro và kiểm soát
3.4.2.9. Chính sách kiều hối
3.4.2.10. Dự trữ ngoại hối
3.4.2.11. Trạng thái ngoại tệ
3.4.2.12. Hệ thống pháp luật
3.4.3. Kiến nghị với Hiệp hội Ngân hàng
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN
Trong những năm gần đây, thị trường ngoại hối Việt Nam đã hình thành và
từng bước phát triển. Chính sách quản lý ngoại hối đang dần được hoàn thiện phù
hợp với hướng phát triển kinh tế thị trường mở; những nhân tố thị trường ngày càng
trở nên quyết định hơn trong việc xác định tỷ giá hối đoái; bước đầu đã đưa một số
các giao dịch KDNH vào cuộc sống như giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn,
giao dịch hoán đổi và giao dịch quyền chọn. Mặc dù với những bước đi đầu tiên, thị
trường ngoại hối Việt Nam đã tạo ra được một môi trường KDNH cho các NHTM,
đồng thời cung cấp các công cụ hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro ngoại hối cho các
239
doanh nghiệp xuất nhập khẩu và những nhà đầu tư quốc tế cũng như các chủ thể
khác trong nền kinh tế có giao dịch ngoại hối.
Hoạt động KDNH chứa đựng nhiều loại rủi ro, nhất là rủi ro tỷ giá ngoại tệ và
giá vàng, nhưng nếu được quản lý một cách khoa học, có hệ thống sẽ mang lại lợi
nhuận lớn, đóng góp vào tổng lợi nhuận chung cho các NHTM. Chính vì vậy, trong
xu hướng hội nhập hiện nay, việc hoàn thiện các công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại
hối trong hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM là rất cần
thiết và nhằm giúp nâng cao hiệu quả trong việc quản lý rủi KDNH tại các NHTM.
Luận án này đã giải quyết được các vấn đề trong mục tiêu nghiên cứu, bao
gồm: làm rõ cơ sở lý luận về quản lý rủi ro trong KDNH tại các NHTM, thực trạng
về quản lý rủi ro trong KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro trong KDNH tại các NHTM cổ phần TP.HCM.
Với các giải pháp mà Luận án đưa ra để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản lý rủi
ro KDNH tại các NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM; và cũng với hy vọng rằng
trong những năm tới, các NHTM cổ phần trên địa bàn TP.HCM sẽ có một bước tiến
mới đáng kể trong quản lý rủi ro hoạt động KDNH, góp phần đưa hoạt động này
thành một trong những hoạt động quan trọng mang lại lợi ích và an toàn chung cho
ngành ngân hàng, đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GDP của Thành phố Hồ Chí
TP.HCM nói riêng và đất nước nói chung.
240
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN
ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1) Quản lý rủi ro trong kinh doanh vàng tại các ngân hàng thương mại bằng mô
hình VaR * Tạp chí ngân hàng, số 5 (tháng 3/2013)
2) Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng của Ngân hàng thương mại *
Tạp chí công nghệ ngân hàng, số 73 (tháng 4/2012)
3) Lạm phát và tăng trường kinh tế năm 2011 tại Việt nam * Tạp chí công nghệ
ngân hàng, số tháng 1+2/2011
4) Nợ công thế giới và kinh nghiệm cho Việt nam * Hội thảo khoa học “Nợ công:
Kinh nghiệm thế giới và bài học cho Việt nam” tại trường Đại học ngân hàng
TP.HCM, tháng 6/2012
5) Rủi ro tỷ giá: phòng ngừa và tăng sức cạnh tranh đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ * Hội thảo khoa học “Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh giúp hệ thống
doanh nghiệp nhỏ và vừa Thành phố Cần Thơ vượt qua khủng hoảng” tại Sở Khoa
học công nghệ Thành phố Cần Thơ, tháng 9/2012.
6) Vai trò sản phẩm tài chính phái sinh và khả năng áp dụng ở Việt nam * Hội thảo
khoa học của Khoa Thị trường chứng khoán ngày 15.12.2012
241
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH
BẢNG THÔNG TIN TÓM TẮT
VỀ NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN
- Đề tài luận án: “Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân
hàng thương mại cổ phần tại Thành phố Hồ Chí Minh”
- Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số: 62.34.02.01
- Nghiên cứu sinh: Bùi Quang Tín Khóa: 15
- Người hướng dẫn khoa học: PGS.;TS. Ngô Hướng
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận cũng như
thực tiễn như sau:
- Ý nghĩa khoa học: Hệ thống hóa những vấn đề mang tính lý luận về thị
trường ngoại hối, kinh doanh ngoại hối, rủi ro và quản lý rủi ro trong kinh doanh
- Ý nghĩa thực tiễn: hoạt động của các ngân hàng trong những năm trước đây
ngoại hối tại các Ngân hàng thương mại cổ phần.
chủ yếu tập trung vào khâu tín dụng, có những ngân hàng hoạt động kinh doanh tín
dụng chiếm đến hơn 90%. Vì thế, vấn đề KDNH cũng như quản lý rủi ro tỷ giá
ngoại tệ và giá vàng trong KDNH chưa được các ngân hàng quan tâm đúng mức.
Chỉ đến thời gian gần đây từ năm 2006-2010, khi thị trường chứng khoán sôi động,
tỷ giá USD/VND tăng giảm nhanh, giá vàng biến động mạnh, tỷ trọng kinh doanh
tín dụng giảm dần, nhiều loại hình kinh doanh mới xuất hiện như đầu tư tài chính,
kinh doanh vàng, v.vv… áp lực cạnh tranh trên thị trường tăng cao thì các ngân
hàng mới bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến việc sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi
ro tỷ giá ngoại tệ, giá vàng cho KDNH và các giải pháp khác trong việc quản lý rủi
ro trong hoạt động KDNH. Về phía các Ngân hàng, hoạt động KDNH luôn được kỳ
vọng đem lại nhiều lợi nhuận và rủi ro là thấp nhất. Trong khi đó, sự biến động của
242
tỷ giá ngoại tệ và giá vàng là rất khó để dự đoán và có thể gây ra nhiều thiệt hại cho
cả ngân hàng. Cho nên, việc tìm ra các giải pháp để phòng ngừa và tăng cường hoạt
động quản lý rủi ro ngoại hối cho hoạt động KDNH là thật sự cần thiết và có ý
- Đóng góp mới của Luận án:
nghĩa về mặt thực tiễn.
Thứ nhất, tác giả đã làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh ngoại hối và gây ra rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng
thương mại trong điều kiện hiện nay.
Bên cạnh đó, Luận án cũng đề cập đến tiêu chí định lượng và định tính trong đo
lường rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương mại;
các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân
hàng thương mại.
Làm rõ những thành tựu, tồn tại cũng như các nguyên nhân của các tồn tại đó
của quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại hối tại các ngân hàng thương mại cổ phần
Đề xuất các chính sách và giải pháp để tăng cường quản lý rủi ro trong kinh
trên địa bàn TP.HCM.
doanh ngoại hối của các ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM, trong đó bao
gồm các giải pháp chủ yếu như thiết lập trạng thái ngoại hối hợp lý và phù hợp, sử
dụng mô hình định lượng VaR, sử dụng các sản phẩm phái sinh ngoại tệ và hạn chế
các giao dịch trên thị trường không có nhu cầu thực; cũng như các giải pháp hổ trợ
khác nhằm tăng cường hoạt động quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối như tăng vốn
Các kiến nghị quan trọng và cần thiết với các cơ quan chức năng như: Chính
chủ sở hữu, đầu tư công nghệ, phát triển nguồn nhân lực.
phủ, các Bộ, ngành có liên quan, Ngân hàng nhà nước và Hiệp hội ngân hàng.
243
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TP.HCM, Ngày 6 tháng 6 năm 2013
NGHIÊN CỨU SINH
PGS.; TS. NGÔ HƯỚNG BÙI QUANG TÍN
244
THE MINISTRY OF EDUCATION TRAINING THE STATE BANK OF VIETNAM
BANKING UNIVERSITY OF HO CHI MINH CITY
ABSTRACTS
Thesis: “Risk management in foreign exchange trading of joint – stock
commercial banks in Ho Chi Minh City”
Research field: Banking and Finance Code: 62.34.02.01
Postgraduate Student’s name: Bui Quang Tin Course: 15th
Science Instructor: Associate Prof.; Dr. Ngo Huong
Researching this thesis presents important meanings both in theory and practice:
Scientific contribution: the thesis systematically presents the basic theory of
foreign exchange market, foreign exchange trading, risk and risk management in
foreign exchange trading in the joint – stock commercial banks.
Practical contribution: operation of banks mainly focus on credit previously,
with which some banks with 90% operation in credit. So that, foreign exchange
trading and foreign exchange management are not considered enough. Only from
the period 2006-2010, Because of fluctuated stock market, changed USD/VND rate,
quickly varied gold prices, decreased credit trading, raised forms of business such
as financial investment, gold trading, etc., risen market competition, the banks care
more about using preventive instrument for foreign rate and gold price risk in
foreign exchange trading and solution for risk management in foreign exchange
trading. Banks always hope much profit in foreign exchange trading and the least
risk. The fluctuation of foreign rate and gold price are very difficultly predictive and
easily make damage to bank operation. So, having the method to stave off and
increase risk management in foreign exchange trading are really necessary and
reality meaning.
245
- New findings:
The author makes clear about the factors influencing foreign exchange trading
and making risk to foreign exchange trading in banks.
Besides, the thesis also mentions quantitative and qualitative criteria in
measuring risk of foreign exchange trading in banks.
The thesis makes clear about the achievement and constraint and also reasons for
such constraint of risk management for foreign exchange trading in banks in Ho Chi
Minh City.
Propose policies and solution in order to increase risk management for foreign
exchange trading in banks in Ho Chi Minh City, such as establishing the logical
foreign exchange position, using VaR, derivatives, restricting transactions without
real demand; and also other supportive methods to increase risk management for
foreign exchange trading such as increasing equity, investing in technology,
developing human resource.
Necessary and important numbers of proposal to Government, Ministries, the
State bank of Vietnam, and Bank Association.
HCM City, 6/6/2013
Science Instructor Postgraduate Student
Associate Prof.; Dr. Ngo Huong Bui Quang Tin