ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
-------------------
NGUYỄN THANH TÚ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHẤT LƢỢNG LỢI NHUẬN CỦA CÁC
CÔNG TY NIÊM YẾT LẦN ĐẦU TIÊN
TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM
Đà Nẵng-2021
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
-------------------
NGUYỄN THANH TÚ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHẤT LƢỢNG LỢI NHUẬN CỦA CÁC
CÔNG TY NIÊM YẾT LẦN ĐẦU TIÊN
TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kế toán
Mã số: 62.34.03.01
Ngƣời hƣớng dẫn: 1. PGS.TS NGUYỄN CÔNG PHƢƠNG
2. PGS.TS TRẦN ĐÌNH KHÔI NGUYÊN
Đà Nẵng-2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập được thực hiện
bởi chính tác giả. Cách thức thu thập dữ liệu, lập luận, và phân tích kết quả trong
luận án là trung thực. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về các nội dung trình bày
trong luận án này.
Tác giả luận án
NGUYỄN THANH TÚ
ii
LỜI CẢM ƠN
Trƣớc tiên, tôi xin chân thành bày tỏ sự kính trọng và lòng tri ơn vô cùng sâu
sắc đến PGS.TS Nguyễn Công Phƣơng và PGS.TS Trần Đình Khôi Nguyên vì đã
luôn động viên và hƣớng dẫn để tôi có thể hoàn thành tốt luận án.
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới Phòng Đào tạo và Quý Thầy/Cô trong
Khoa Kế toán Trƣờng Đại học Kinh tế – Đại học Đà Nẵng. Tất cả Thầy/Cô đã rất
tận tình hỗ trợ cho tôi trong suốt thời gian thực hiện luận án này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban Chủ nhiệm Khoa và đồng nghiệp ở
Khoa Tài chính Thƣơng mại – Trƣờng Đại học Công nghệ Tp.HCM đã luôn tạo
điều kiện và động viên tôi hoàn thành luận án này.
Sau cùng, tôi xin gửi lời tri ân đến gia đình của tôi đã luôn cùng tôi vƣợt qua
những khó khăn trong quá trình nghiên cứu, động viên tinh thần giúp tôi tăng thêm
nghị lực để hoàn thành luận án này.
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... vii
DANH MỤC BẢNG BIỂU .................................................................................... viii
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
1. Sự cần thiết của đề tài ............................................................................................. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................ 5
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 5
4. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................. 6
5. Đóng góp của đề tài ................................................................................................. 6
6. Kết cấu đề tài ........................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ
CHẤT LƢỢNG LỢI NHUẬN ................................................................................. 9
1.1. Quan điểm về chất lƣợng lợi nhuận ..................................................................... 9
1.1.1. Chất lƣợng lợi nhuận dựa trên khoản dồn tích (quản trị lợi nhuận – earnings
management) ............................................................................................................. 11
1.1.2. Chất lƣợng lợi nhuận dựa trên tính duy trì, tính ổn định, và tính khả đoán của
lợi nhuận .................................................................................................................... 11
1.1.3. Chất lƣợng lợi nhuận dựa trên giá trị thích hợp .............................................. 13
1.1.4. Chất lƣợng lợi nhuận dựa trên tính kịp thời và thận trọng .............................. 14
1.1.5. Chất lƣợng lợi nhuận dựa trên giao dịch thực ................................................. 14
1.2. Các lý thuyết nền về chất lƣợng lợi nhuận ......................................................... 16
1.2.1. Lý thuyết chủ nghĩa cơ hội (Opportunism Theory) ........................................ 16
iv
1.2.2. Lý thuyết bất cân xứng thông tin (Information Asymmetry Theory) ............. 17
1.2.3. Lý thuyết tín hiệu (Signalling Theory) ........................................................... 19
1.3. Đo lƣờng chất lƣợng lợi nhuận .......................................................................... 23
1.4. Các nhân tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận.............................................. 30
1.4.1. Giới hạn tài chính (financial constaints) ......................................................... 30
1.4.2. Tính độc lập của HĐQT .................................................................................. 33
1.4.3. Chất lƣợng kiểm toán ...................................................................................... 36
1.4.4. Khả năng thanh khoản ..................................................................................... 39
1.4.5. Tăng trƣởng doanh thu .................................................................................... 40
1.4.6. Khả năng sinh lời ............................................................................................ 42
1.5. Nghiên cứu có liên quan đến chất lƣợng lợi nhuận ở Việt Nam ........................ 46
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .......................................................................................... 48
CHƢƠNG 2: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU ............................................................ 49
2.1. Giả thuyết nghiên cứu ........................................................................................ 49
2.1.1. Giới hạn tài chính và chất lƣợng lợi nhuận ..................................................... 50
2.1.2. Tính độc lập của HĐQT và chất lƣợng lợi nhuận ........................................... 53
2.1.3. Chất lƣợng kiểm toán và chất lƣợng lợi nhuận ............................................... 55
2.1.4. Tính thanh khoản và chất lƣợng lợi nhuận ..................................................... 57
2.1.5. Tăng trƣởng doanh thu và chất lƣợng lợi nhuận ............................................. 58
2.1.6. Khả năng sinh lời và chất lƣợng lợi nhuận ..................................................... 60
2.2. Mô hình nghiên cứu ........................................................................................... 62
2.3. Đo lƣờng biến phụ thuộc .................................................................................... 65
2.3.1. Lựa chọn phƣơng pháp đo lƣờng chất lƣợng lợi nhuận .................................. 65
v
2.3.2. Đo lƣờng chất lƣợng lợi nhuận dựa vào khoản dồn tích ................................. 67
2.3.3. Đo lƣờng chất lƣợng lợi nhuận dựa vào giao dịch thực .................................. 69
2.4. Đo lƣờng biến độc lập ........................................................................................ 71
2.5. Thu thập dữ liệu ................................................................................................. 74
2.6. Kỹ thuật phân tích dữ liệu .................................................................................. 74
2.6.1. Vấn đề nội sinh (Endogeneity) ........................................................................ 74
2.6.2. Xử lý nội sinh dựa vào kỹ thuật ƣớc lƣợng tĩnh và động ............................... 76
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .......................................................................................... 78
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.............................................................. 79
3.1. Phân tích chất lƣợng lợi nhuận........................................................................... 79
3.1.1. Đánh giá chất lƣợng lợi nhuận dựa vào khoản dồn tích (MHF) ..................... 80
3.1.2. Đánh giá chất lƣợng lợi nhuận dựa vào giao dịch thực (MHR)...................... 81
3.2. Các nhân tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận.............................................. 83
3.2.1. Thống kê mô tả biến ........................................................................................ 83
3.2.1.1. Thống kê biến độc lập .................................................................................. 83
3.2.1.2. Thống kê biến độc lập theo biến phụ thuộc ................................................. 86
3.2.1.3. Thống kê biến nghiên cứu theo nhóm ngành ............................................... 90
3.2.2. Phân tích đơn biến ........................................................................................... 93
3.2.3. Phân tích đa biến ............................................................................................. 99
3.2.3.1. Kiểm định khuyết tật của mô hình nghiên cứu ............................................ 99
3.2.3.2. Phân tích mô hình hồi quy đa biến ............................................................. 101
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................ 132
CHƢƠNG 4: BÀN LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................... 133
vi
4.1. Bàn luận kết quả ............................................................................................... 133
4.1.1. Chất lƣợng lợi nhuận của công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng
khoán Việt Nam ...................................................................................................... 133
4.1.2. Các nhân tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận của các công ty niêm yết lần
đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam ..................................................... 134
4.1.2.1. Giới hạn tài chính ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận ............................ 134
4.1.2.2. Tính độc lập của HĐQT ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận .................. 135
4.1.2.3. Chất lƣợng kiểm toán ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận ...................... 136
4.1.2.4. Khả năng thanh khoản ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận .................... 137
4.1.2.5. Tăng trƣởng doanh thu ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận .................... 137
4.1.2.6. Khả năng sinh lời ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận ............................ 138
4.1.3. Kết luận rút ra từ phần bàn luận kết quả ....................................................... 139
4.2. Khuyến nghị ..................................................................................................... 143
4.2.1. Khuyến nghị đối với nhà đầu tƣ .................................................................... 144
4.2.2. Khuyến nghị đối với công ty ......................................................................... 145
4.2.3. Khuyến nghị đối với cơ quan quản lý ........................................................... 146
4.3. Hạn chế của luận án ......................................................................................... 147
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 ........................................................................................ 149
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................ 150
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
PHỤ LỤC
vii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Tài sản cố định (Property: tài sản, Property – Plant – Equipment PPE Plant: nhà máy, Equipment: thiết bị)
Kỹ thuật ƣớc lƣợng bình phƣơng sai Ordinary Least Squared OLS số nhỏ nhất
Mô hình hồi quy gộp với dữ liệu Pooled Ordinary Least Squared POLS bảng trên cơ sở kỹ thuật OLS
Fixed Effect Model Mô hình tác động cố định FEM
Mô hình tác động ngẫu nhiên REM Random Effect Model
Phƣơng pháp Moment MM Method of Moment
Generalized Method of Phƣơng pháp Moment đƣợc tổng GMM Moment quát
Phƣơng pháp Moment đƣợc tổng Difference Generalized Method quát hóa dƣới dạng phƣơng trình sai DGMM of Moment phân
System Generalized Method of Phƣơng pháp Moment đƣợc tổng SGMM quát hóa dƣới dạng hệ phƣơng trình Moment
Seemingly Unrelated Hồi quy dƣờng nhƣ không liên quan SUR Regression
viii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Tổng hợp các lý thuyết nền về chất lƣợng lợi nhuận ............................... 22
Bảng 1.2. Tổng hợp cách đo lƣờng các yếu tố đại diện cho chất lƣợng lợi nhuận ... 24
Bảng 1.3. Tổng hợp các nhân tố tác động đến chất lƣợng lợi nhuận ........................ 44
Bảng 2.1. Tổng hợp giả thuyết nghiên cứu ............................................................... 62
Bảng 2.2. Tổng hợp cách đo lƣờng biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu ....... 70
Bảng 2.3. Tổng hợp các biến độc lập sử dụng trong mô hình nghiên cứu ............... 73
Bảng 3.1. Thống kê chất lƣợng lợi nhuận đo lƣờng dựa vào khoản dồn tích ........... 80
Bảng 3.2. Thống kê chất lƣợng lợi nhuận đo lƣờng dựa vào giao dịch thực ............ 82
Bảng 3.3. Thống kê mô tả biến giải thích trong mô hình ......................................... 84
Bảng 3.4. Mối quan hệ giữa biến độc lập và biến phụ thuộc khoản dồn tích ........... 87
Bảng 3.5. Mối quan hệ giữa biến độc lập và biến phụ thuộc giao dịch thực ............ 89
Bảng 3.6. Thống kê mô kê mô tả biến độc lập theo nhóm ngành ............................. 92
Bảng 3.7. Ma trận hệ số tƣơng quan giữa các biến trong mô hình ........................... 95
Bảng 3.8. Kiểm định hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi tại thời kỳ t ........................... 99
Bảng 3.9. Kiểm định hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi tại thời kỳ t – 1 ................... 100
Bảng 3.10. Kiểm định hiện tƣợng tự tƣơng quan cho mô hình sau khi xử lý ......... 101
Bảng 3.11. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình với kỹ thuật bình phƣơng nhỏ nhất gộp .. 103
Bảng 3.12. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình với kỹ thuật tác động cố định .................. 110
Bảng 3.13. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình với kỹ thuật tác động ngẫu nhiên ............ 116
Bảng 3.14. So sánh kết quả của các kỹ thuật ƣớc lƣợng tĩnh ................................. 122
Bảng 3.15. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình với kỹ thuật SGMM ................................ 124
Bảng 4.1. Bảng tóm tắt giả thuyết và kết quả nghiên cứu ...................................... 143
1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Chất lƣợng lợi nhuận là nhân tố quan trọng giúp đánh giá sức khỏe tài chính
công ty (Bellovary & cộng sự, 2005). Tuy vậy, nhân tố này đôi khi không đƣợc các
đối tƣợng sử dụng báo cáo tài chính (BCTC) chú ý. Có nhiều định nghĩa khác nhau
về chất lƣợng lợi nhuận, và các định nghĩa này tập trung nhấn mạnh vào ba khía
cạnh: (i) khoản chênh lệch giữa lợi nhuận báo cáo (lợi nhuận kế toán) và lợi nhuận
thực tế của công ty (đôi khi còn gọi là lợi nhuận kinh tế) (Pratt, 2010); (ii) mức độ
rủi ro thông tin mà công ty cung cấp cho ngƣời sử dụng (Ecker & cộng sự, 2006);
(iii) tính giá trị của thông tin tài chính cho việc ra quyết định của ngƣời sử dụng
(Dechow & cộng sự, 2010).
Với quyền tự quyết đối với báo cáo lợi nhuận, nhà quản trị có thể chủ động
che giấu hiệu quả hoạt động thực sự của công ty. Các nghiên cứu trƣớc đây tìm
kiếm bằng chứng về chất lƣợng lợi nhuận (quản trị lợi nhuận) khi công ty phát hành
cổ phiếu lần đầu ra công chúng (initial pulic offering – IPO) (Sletten & cộng sự,
2018; Premti & Smith, 2020). Aharony, Lin và Loeb (1993); Friedlan (1994) cho
rằng công ty thƣờng thực hiện quản trị lợi nhuận nhằm tăng giá cổ phiếu và giúp cổ
phiếu dễ dàng mua bán hơn trên thị trƣờng. Để gia tăng lợi nhuận, công ty thƣờng
―tác động‖ đến khoản dồn tích bất thƣờng (discretionary accruals). Do vấn đề bất
cân xứng thông tin nên nhà đầu tƣ thƣờng tiếp cận với nguồn thông tin hạn chế từ
công ty; từ đó, họ gặp khó khăn trong việc đánh giá tính hợp lý lợi nhuận cũng nhƣ
là dự báo sát hiệu quả hoạt động của công ty trong tƣơng lai.
Xét về mặt lý thuyết, chất lƣợng lợi nhuận có thể đƣợc giải thích thông qua
lý thuyết chủ nghĩa cơ hội (Opportunism Theory), lý thuyết bất cân xứng thông tin
(Information Asymmetry Theory) và lý thuyết tín hiệu (Signalling Theory)
(Rangan, 1998; Aboody, Hughes & Liu, 2005; Baskin & Miranti, 1997;
Shivakumar, 2000). Lý thuyết chủ nghĩa cơ hội cho rằng công ty thƣờng điều chỉnh
lợi nhuận khi công ty cảm thấy mình nắm bắt đƣợc cơ hội. Trong trƣờng hợp của
2
nghiên cứu thì niêm yết cổ phiếu lần đầu tiên là một cơ hội công ty cần phải nắm
bắt để gia tăng vị thế công ty và thu hút nhà đầu tƣ trên thị trƣờng. Lý thuyết bất
cân xứng thông tin cho rằng quản trị lợi nhuận có thể đƣợc thực hiện khi nhà đầu tƣ
không nắm rõ thông tin về tình hình hoạt động của công ty. Đối với trƣờng hợp
niêm yết lần đầu tiên cũng vậy, nhà đầu tƣ hoàn toàn không biết về công ty. Vì vậy,
điều mà nhà đầu tƣ có thể đánh giá chính là lợi nhuận. Hiểu đƣợc điều này, công ty
sẽ can thiệp vào lợi nhuận để gia tăng uy tín của mình đối với nhà đầu tƣ (Rajgopal
& Venkatachalam, 2011; Habib & Azim, 2008; Bushman & Smith, 2003). Lý
thuyết tín hiệu đề cập đến việc công bố thông tin công ty ra thị trƣờng. Tín hiệu là
vô cùng cần thiết đối với công ty niêm yết lần đầu vì có thể giúp họ thu hút đƣợc sự
chú ý của nhà đầu tƣ. Tuy nhiên, tín hiệu lợi nhuận xuất phát từ hành vi điều chỉnh
sẽ không phản ánh đúng tình hình hoạt động và khiến cho chất lƣợng lợi nhuận
công ty kém đi (Gunny, 2010; Louis & Robinson, 2005; Subramanyam, 1996).
Xét về mặt kiểm nghiệm, một số lớn các nghiên cứu trên thế giới về chất
lƣợng lợi nhuận đánh giá chất lƣợng lợi nhuận (thông qua quản trị lợi nhuận) của
các công ty IPO vì các công ty IPO có động cơ lớn trong việc báo cáo lợi nhuận
tăng nhằm ảnh hƣởng tích cực đến giá cổ phiếu. Cũng lƣu ý rằng, ở các nƣớc,
thƣờng IPO cũng đồng thời niêm yết (lần đầu) cổ phiếu trên thị trƣờng chứng khoán
(Boulton, Smart & Zutter, 2011). Công ty thƣờng có khuynh hƣớng quản trị lợi
nhuận trƣớc IPO để có thể can thiệp vào quyết định của nhà đầu tƣ vào thời điểm
IPO (Ronen & Yaari, 2008). Động cơ can thiệp lợi nhuận là nhằm thu hút nhà đầu
tƣ với mức chi phí thấp hơn (Richardson, 2003). Tuy nhiên, hành vi can thiệp này
lại làm suy giảm chất lƣợng lợi nhuận (Miloud, 2014; Karami & cộng sự, 2014;
Goodman & Hall, 2007).
Đối với đa phần các quốc gia trên thế giới thì IPO và niêm yết cổ phiếu lần
đầu tiên diễn ra cùng thời điểm. Tuy nhiên, đối với trƣờng hợp Việt Nam thì niêm
yết cổ phiếu lần đầu tiên thƣờng tiến hành sau IPO. Ngoài ra, các yêu cầu đối với
IPO và niêm yết cổ phiếu lần đầu tiên trên sở giao dịch chứng khoán cũng khác
nhau. Thƣờng tiêu chuẩn và yêu cầu đối với việc niêm yết cổ phiếu lần đầu tiên sẽ
3
khó hơn1. Nhƣ vậy, có thể suy ra rằng hành vi báo cáo lợi nhuận có lợi thậm chí còn
thể hiện rõ hơn nơi các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán
(TTCK). Để đạt đƣợc điều kiện niêm yết, công ty cần phải đáp ứng yêu cầu phát
hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng. Điều này đòi hỏi công ty phải duy trì mức lợi
nhuận hợp lý. Vì vậy, công ty có thể báo cáo lợi nhuận cao hơn tại bƣớc này. Sau
đó, để có thể niêm yết cổ phiếu lần đầu tiên trên thị trƣờng thì họ còn phải đáp ứng
các điều kiện khó khăn hơn. Trong tình cảnh này, công ty lại phải tiếp tục thực hiện
hành động làm thay đổi lợi nhuận báo cáo. Lợi nhuận cao trƣớc khi niêm yết lần
đầu là kết quả hành vi của ngƣời quản lý công ty. Đó là lý do tại sao lợi nhuận này
trên thực tế không phản ánh chính xác tình hình hoạt động của công ty trong tƣơng
lai. Hành động này dẫn đến hệ quả là sau thời điểm niêm yết lần đầu thì lợi nhuận
công ty không tiếp tục duy trì và giảm dần theo thời gian khi các khoản dồn tích
trƣớc đó đƣợc điều chỉnh lại cho hợp lý.
Thị trƣờng chứng khoán (TTCK) Việt Nam mới hình thành và phát triển
trong khoảng thời gian chƣa đủ dài nên các nghiên cứu về các công ty IPO còn khá
hạn chế (Trần Thị Hải Lý & Dƣơng Kha, 2019; Huang & cộng sự, 2016). Chủ yếu
là các nghiên cứu đánh giá quản trị lợi nhuận (Mai Thị Hoàng Khánh & Nguyễn
Vĩnh Khƣơng, 2018; Đặng Ngọc Hùng & cộng sự, 2017; Le & cộng sự, 2020; Đặng
Ngọc Hùng & cộng sự, 2018; Nguyễn Vĩnh Khƣơng & cộng sự, 2019; Mai Thị
Hoàng Khánh & Phung Anh Thu, 2019). Tuy nhiên, chƣa có nghiên cứu nào đánh
giá chất lƣợng lợi nhuận của các công ty niêm yết lần đầu tiên trên TTCK Việt
Nam.
Tại thị trƣờng Việt Nam thì các nghiên cứu về chất lƣợng lợi nhuận còn khá
hạn chế, chủ yếu nhấn mạnh đến một khía cạnh của chất lƣợng lợi nhuận có thể đo
1 IPO yêu cầu công ty hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi, lợi nhuận sau thuế của năm liền trƣớc dƣơng, và
không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký phát hành. Với những điều kiện khắc khe hơn, niêm yết cổ phiếu
lần đầu yêu cầu công ty phải có tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động sản xuất kinh doanh 2 năm gần nhất
có lãi, có ít nhất 50% cổ đông bên ngoài nằm giữ 20% vốn cổ phần (công ty vốn dƣới 100 tỷ đồng) hoặc 15%
(công ty có vốn trên 100 tỷ đồng), cổ đông là thành viên HĐQT, BGĐ, và Ban kiểm soát phải nắm giữ ít nhất
50% cổ phiếu sở hữu trong vòng 3 năm kể từ ngày niêm yết lần đầu.
lƣờng đó là quản trị lợi nhuận. Đa phần các nghiên cứu tập trung vào việc phân tích
4
các hình thức quản trị lợi nhuận (Đƣờng Nguyễn Hƣng, 2013; Phạm Thị Bích Vân,
2014), xác định mô hình đo lƣờng quản trị lợi nhuận (Phạm Thị Bích Vân, 2012;
Nguyễn Trọng Nguyên, 2015; Phạm Thị Bích Vân, 2015; Dƣơng Nguyễn Thanh
Tâm, 2014), nhân tố chi phối quản trị lợi nhuận (Đặng Ngọc Hùng, 2015; Nguyễn
Thị Phƣơng Hồng, 2016), và ảnh hƣởng của quản trị lợi nhuận đến thị trƣờng chứng
khoán (Nguyễn Công Phƣơng & cộng sự, 2016). Chỉ có một nghiên cứu đánh giá
quản trị lợi nhuận của các công ty phát hành thêm cổ phiếu của Nguyễn Công
Phƣơng (2017). Kết quả nghiên cứu này cho thấy rằng 75% công ty có dấu hiệu
điều chỉnh lợi nhuận cao hơn so với lợi nhuận thực tế của công ty vào thời điểm một
quý trƣớc khi phát hành thêm cổ phần mới ra thị trƣờng. Nhƣ vậy, vấn đề chất
lƣợng lợi nhuận của công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán vẫn
chƣa đƣợc đánh giá, trong khi các công ty này có động cơ lớn cho hành vi báo cáo
lợi nhuận tăng.
Một khi công ty niêm yết lần đầu có hành vi báo cáo lợi nhuận cơ hội, nhân
tố nào sẽ tác động đến mức độ báo cáo lợi nhuận cơ hội này là một câu hỏi cần giải
đáp. Các nghiên cứu trƣớc đây ở nƣớc ngoài chỉ ra một số nhân tố có thể ảnh hƣởng
đến chất lƣợng lợi nhuận bao gồm tính độc lập của hội đồng quản trị (HĐQT), chất
lƣợng kiểm toán, đòn bẩy tài chính, quy mô, dòng tiền, và chính sách cổ tức, khả
năng sinh lời, thanh khoản, và doanh thu (Kosi & Valentincic, 2013; Hamidzadeh &
Zeinali, 2015; Bhattacharya & cộng sự, 2012; Sepasi & cộng sự, 2016). Gần đây,
một số công trình nghiên cứu cho rằng các yếu tố bao gồm đòn bẩy tài chính, tỷ lệ
chi trả cổ tức, quy mô, và dòng tiền (đƣợc gọi là yếu tố giới hạn tài chính - financial
constraints) (Linn & Weagley, 2019; Jang & cộng sự, 2019; Kaushik & cộng sự,
2019; Driver & Muñoz-Bugarin, 2019; Fernando & cộng sự, 2012). Đối với trƣờng
hợp Việt Nam thì các yếu tố này chƣa đƣợc kết hợp để hình thành nên một chỉ số
duy nhất đánh giá khả năng tiếp cận nguồn quỹ của công ty. Đối với các công ty
niêm yết lần đầu trên thị trƣờng thì họ thƣờng gánh chịu vấn đề giới hạn tài chính
do công ty ít đƣợc biết đến bởi các bên tham gia trên thị trƣờng và cũng không nhận
5
đƣợc sự tín nhiệm cao từ họ. Vì vậy, công ty gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn
đầu tƣ và vốn vay. Điều này thúc đẩy động cơ quản trị lợi nhuận của công ty.
Dựa trên bằng chứng lý thuyết, kiểm nghiệm, cũng nhƣ tình hình thực tế về
lợi nhuận báo cáo của các công ty niêm yết cổ phiếu lần đầu tiên trên thị trƣờng
chứng khoán, chủ đề của luận án là: “CHẤT LƢỢNG LỢI NHUẬN CỦA CÁC
CÔNG TY NIÊM YẾT LẦN ĐẦU TIÊN TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
[1] Đánh giá đƣợc chất lƣợng lợi nhuận của các công ty niêm yết lần đầu tiên
trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam.
[2] Đánh giá đƣợc các nhân tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận của các công
ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là chất lƣợng lợi nhuận của các công ty
niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam, tập trung xem xét chất
lƣợng lợi nhuận suy giảm ở thời điểm niêm yết do quản trị lợi nhuận và các nhân tố
ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận của công ty.
Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt không gian: Phạm vi nghiên cứu là các công ty phi tài chính niêm yết
lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam.
- Về mặt thời gian: Số liệu công ty phi tài chính niêm yết lần đầu tiên trên thị
trƣờng chứng khoán đƣợc thu thập trong giai đoạn từ 2009 đến 2019.
- Về mặt đo lƣờng chất lƣợng lợi nhuận: Do nghiên cứu trong thời gian dài
cùng với kích thƣớc mẫu lớn, việc thu thập tất cả các loại dữ liệu liên quan rất khó
thực hiện. Do đó nghiên cứu không sử dụng nhiều cách đo khác nhau để đo lƣờng
chất lƣợng lợi nhuận, mà chỉ sử dụng hai đại diện có tính phổ thông nhất, đó là quản
6
trị lợi nhuận thông qua biến dồn tích (discretionary accruals) và thông qua giao dịch
thực.
4. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cách tiếp cận
Nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận thực chứng (positive approach) để đánh
giá thực trạng chất lƣợng lợi nhuận và các nhân tố có ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi
nhuận của công ty niêm yết lần đầu tiên tại thị trƣờng chứng khoán Việt Nam.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu định lƣợng (quantitative analysis) đƣợc sử dụng.
Phƣơng pháp này gồm các bƣớc: đặt giả thuyết nghiên cứu, đo lƣờng biến độc lập
và biến phụ thuộc, tiến hành thu thập và xử lý số liệu, kiểm định giả thuyết.
5. Đóng góp của đề tài
Đóng góp về mặt học thuật
Xét về khía cạnh học thuật, kết quả của công trình nghiên cứu đóng góp vào
cơ sở lý thuyết cũng nhƣ kiểm nghiệm nghiên cứu về chủ đề chất lƣợng lợi nhuận
qua các điểm sau:
Thứ nhất, thông qua đánh giá chất lƣợng lợi nhuận của các công ty niêm yết
lần đầu tiên trên sở giao dịch chứng khoán, nghiên cứu bổ sung thêm kiến thức
thông qua việc cung cấp bằng chứng về hành vi báo cáo lợi nhuận cơ hội của các
công ty này ở một thị trƣờng mới nổi.
Thứ hai, nghiên cứu trên kích thƣớc mẫu lớn, trong nhiều năm cung cấp bằng
chứng thuyết phục hơn về chủ đề này ở Việt Nam. Mặt khác, việc bổ sung nhân tố
―giới hạn tài chính‖ làm cho kết quả nghiên cứu đƣa ra đƣợc bằng chứng có giá trị
mới ảnh hƣởng của nhân tố này đến chất lƣợng lợi nhuận của các công ty niêm yết
lần đầu tiên ở Việt Nam. Điều này mở ra cơ hội cho việc sử dụng nhân tố này trong
các nghiên cứu trong tƣơng lai.
7
Đóng góp về mặt thực tiễn
Xét về khía cạnh thực tiễn, kết quả từ công trình nghiên cứu sẽ đƣa ra một số
gợi ý về chính sách và chiến lƣợc đối với các đối tƣợng sử dụng thông tin liên quan
đến chất lƣợng lợi nhuận của công ty thông qua các điểm sau:
Thứ nhất, kết quả đánh giá về chất lƣợng lợi nhuận của các công ty niêm yết
lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam sẽ giúp nhà đầu tƣ, chủ sở hữu,
và chủ nợ có đánh giá thận trọng hơn trong việc đƣa ra quyết định đầu tƣ, quyết
định tài chính. Bên cạnh đó, đánh giá về chất lƣợng lợi nhuận công ty cũng là cơ sở
để các cơ quan quản lý có liên quan xem xét để tăng cƣờng quản lý hoạt động niêm
yết lần đầu của các công ty để bảo vệ nhà đầu tƣ.
Thứ hai, kết quả đánh giá các nhân tố tác động đến chất lƣợng lợi nhuận của
công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam cung cấp cho
nhà đầu tƣ, công ty kiểm toán, chủ nợ, chủ sở hữu, và chính phủ những yếu tố quan
trọng đƣợc xem nhƣ là dấu hiệu của chất lƣợng lợi nhuận kém để theo dõi và đánh
giá sát sao.
Thứ ba, đối với riêng nhà nghiên cứu thì kết quả của công trình này sẽ là cơ
sở tham khảo cho các nghiên cứu chuyên sâu hơn về chất lƣợng lợi nhuận. Các nhà
nghiên cứu có thể mở rộng công trình này bằng việc đánh giá nhiều nhân tố tác
động hơn, sử dụng các biến đại diện khác cho các nhân tố nghiên cứu trong bài,
hoặc áp dụng các kỹ thuật ƣớc lƣợng khác giúp cải thiện kết quả nghiên cứu.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận án đƣợc tổ chức thành 4 chƣơng.
Chƣơng 1 – Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu về chất lƣợng lợi nhuận
– tổng hợp và phân tích các lý thuyết về các nghiên cứu kiểm nghiệm trong và
ngoài nƣớc có liên quan đến chất lƣợng lợi nhuận. Chƣơng này trình bày các lý
thuyết quản trị công ty và lý thuyết hành vi, các quan điểm khác nhau về chất lƣợng
8
lợi nhuận, cách thức đánh giá chất lƣợng lợi nhuận, và các nhân tố ảnh hƣởng đến
chất lƣợng lợi nhuận.
Chƣơng 2 – Thiết kế nghiên cứu – trình bày phƣơng pháp để đạt đƣợc mục
tiêu của luận án. Chƣơng này tập trung vào các giả thuyết nghiên cứu nhằm chỉ ra
mối quan hệ giữa chất lƣợng lợi nhuận và các yếu tố tác động (giới hạn tài chính,
tính độc lập của HĐQT, chất lƣợng kiểm toán, khả năng thanh khoản, tăng trƣởng
doanh thu, và khả năng sinh lời), mô hình nghiên cứu, cách thức đo lƣờng biến độc
lập và phụ thuộc, cách thức thu thập dữ liệu, và kỹ thuật phân tích dữ liệu. Phƣơng
pháp nghiên cứu đƣợc xem nhƣ là cách thức giúp luận án đạt đƣợc các mục tiêu
nghiên cứu đã đề ra.
Chƣơng 3 – Kết quả nghiên cứu – trình bày kết quả từ mô hình hồi quy về
tác động của các yếu tố khác nhau đến chất lƣợng lợi nhuận của công ty. Kết quả đề
cập đến thống kê mô tả cho biến độc lập và biến phụ thuộc, phân tích đơn biến
(phân tích hệ số tƣơng quan), và phân tích đa biến (kỹ thuật ƣớc lƣợng hồi quy –
POLS, FEM, REM, và SGMM). Chƣơng này cung cấp bằng chứng về các yếu tố
tác động đến chất lƣợng lợi nhuận của các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị
trƣờng chứng khoán Việt Nam.
Chƣơng 4 – Bàn luận và khuyến nghị – bàn luận kết quả nghiên cứu đối với
bối cảnh của các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt
Nam. Từ đó, nghiên cứu đƣa ra các khuyến nghị đối với các bên có liên quan bao
gồm công ty niêm yết, nhà đầu tƣ, và chính phủ.
9
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN
NGHIÊN CỨU VỀ CHẤT LƢỢNG LỢI NHUẬN
Chất lƣợng lợi nhuận (earnings quality) là vấn đề cốt lõi trong kinh doanh
nói chung và kế toán, tài chính nói riêng. Mục đích quan trọng nhất của báo cáo tài
chính là phản ánh đƣợc bản chất của công ty và giúp ngƣời sử dụng BCTC đƣa ra
quyết định hiệu quả nhất. Nếu số liệu trên BCTC có chất lƣợng thấp thì ngƣời sử
dụng không thể đƣa ra quyết định đúng đắn và vì lẽ đó không thể hoàn thành đƣợc
mục đích quan trọng nhất này. Nhƣ vậy, việc đánh giá chất lƣợng lợi nhuận của
công ty là vấn đề cực kỳ quan trọng và là một chủ đề tối cần thiết trong các nghiên
cứu về kế toán tài chính. Chƣơng một, sẽ trình bày cơ sở lý thuyết và tổng quan
nghiên cứu kiểm nghiệm liên quan đến chất lƣợng lợi nhuận theo trình tự nhƣ sau:
(1) tìm hiểu các quan điểm về chất lƣợng lợi nhuận trong các công trình nghiên cứu
trƣớc đây; (2) trình bày các lý thuyết nền tảng giải thích cho chất lƣợng lợi nhuận;
(3) tổng hợp cách thức đo lƣờng chất lƣợng lợi nhuận; (4) trình bày các nhân tố ảnh
hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận; (5) trình bày các công trình nghiên cứu có liên
quan đến về chất lƣợng lợi nhuận ở Việt Nam.
1.1. Quan điểm về chất lƣợng lợi nhuận
Theo các nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây, chất lƣợng lợi nhuận có thể
đƣợc hiểu là mức độ mà lợi nhuận báo cáo (reported earnings) phản ánh đúng bản
chất hoạt động của công ty hay cũng có thể đƣợc hiểu là sự khác biệt giữa lợi nhuận
báo cáo và lợi nhuận thực của công ty (Mohammady, 2010). Schipper và Vincent
(2003) đánh giá chất lƣợng lợi nhuận dựa trên mức độ phù hợp giữa thu nhập thực
của công ty và thu nhập kinh tế (economic income). Penman (2003) cho rằng lợi
nhuận kế toán có chất lƣợng tốt khi thông tin mà nó đem lại có thể giúp dự báo lợi
nhuận trong tƣơng lai của công ty. Qua các nghiên cứu này, luận án thấy hai khía
cạnh đánh giá chất lƣợng lợi nhuận là (1) lợi nhuận có phản ánh trung thực hoạt
động của công ty không và (2) lợi nhuận có hữu ích trong việc hỗ trợ ngƣời dùng
đƣa ra quyết định kinh tế không. Francis và cộng sự (2004), Roychowdhury (2006),
và Dechow, Ge, và Schrand (2010) phân các tiêu chí đánh giá chất lƣợng lợi nhuận
10
thành ba nhóm là (1) tiêu chí dựa trên số liệu kế toán (accounting-based measures),
(2) tiêu chí gắn với thị trƣờng (market-based attributes), và (3) tiêu chí dựa trên giao
dịch thực (real activities).
Các tiêu chí dựa trên số liệu kế toán bao gồm (1) chất lƣợng khoản dồn tích
(accrual quality), tính duy trì (earnings persistence), tính khả đoán (earnings
predictability), và tính ổn định (eanings smoothness). Tất cả các tiêu chí này đựa
trên giả định là lợi nhuận kế toán cho thấy khả năng phân bổ luồng tiền qua các kỳ
báo cáo kế toán một cách hiệu quả thông qua kế toán dồn tích. Chính vì vậy, luồng
tiền và các thông tin kế toán sẽ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau khi lợi nhuận báo
cáo phản ánh trung thực kết quả hoạt động thực sự của công ty.
Các tiêu chí gắn với thị trƣờng đƣợc xác định dựa trên quan điểm rằng lợi
nhuận phản ánh thu nhập kinh tế đƣợc đánh giá thông qua tỷ suất sinh lợi của cổ
phiếu. Nhóm này bao gồm hai tiêu chí (1) giá trị thích hợp (value relevance) và (2)
tính kịp thời và thận trọng (timeliness and conservatism). Giá trị thích hợp đƣa ra
mức độ mà lợi nhuận báo cáo có thể giải thích cho sự biến động trong giá cổ phiếu
và tỷ suất sinh lợi mà nhà đầu tƣ thu đƣợc từ cổ phiếu của công ty. Tính kịp thời và
thận trọng đánh giá xem các khoản lỗ có đƣợc ghi nhận kịp thời và đúng kỳ phát
sinh hay không.
Các tiêu chí dựa trên giao dịch thực bao gồm (1) điều chỉnh doanh số (sales
manipulation), (2) chi tiêu tự quyết (discretionary expenditure), và (3) sản xuất quá
mức (overproduction). Thứ nhất, điều chỉnh doanh số đƣợc định nghĩa là nỗ lực của
nhà quản trị để gia tăng doanh số tạm thời trong kỳ kế toán bằng cách đƣa ra mức
chiết khấu về giá và điều khoản tín dụng ít khe khắt hơn. Thứ hai, công ty sẽ nỗ lực
giảm chi tiêu tự quyết đối với chi phí bảo trì hay chi đầu tƣ phát triển nhằm gia tăng
lợi nhuận trong kỳ kế toán. Cuối cùng, công ty sản xuất nhiều hàng hóa hơn mức
cần thiết để đáp ứng mức cầu kỳ vọng từ đó giảm chi phí cố định trên mỗi đơn vị
sản xuất.
11
1.1.1. Chất lượng lợi nhuận dựa trên khoản dồn tích (quản trị lợi nhuận – earnings management)
Quan điểm của tiêu chí này là khoản dồn tích sẽ làm giảm chất lƣợng lợi
nhuận của công ty. Chất lƣợng lợi nhuận sẽ đƣợc đánh giá thông qua phân tích giá
trị các khoản hạch toán dồn tích và phần bị điều chỉnh (manipulation). Cụ thể, phần
hạch toán dồn tích bị điều chỉnh có thể đƣợc xác định thông qua:
- Sự tăng hay giảm trong tổng các khoản dồn tích: trong trƣờng hợp các
khoản hạch toán dồn tích không bị can thiệp bởi nhà quản trị thì các khoản
dồn tích sẽ ổn định qua thời gian. Chính vì vậy, sự biến động tăng giảm của
các khoản dồn tích này hàm ý rằng đây là kết quả của việc điều chỉnh số liệu
kế toán.
- Khoản dồn tích bất thƣờng (abnormal accruals): đối với phƣơng pháp này,
tổng dồn tích sẽ đƣợc đƣa vào mô hình hồi quy chung với các biến số kế toán
khác nhƣ doanh thu (revenues), khoản phải thu (account receivables), hay tài
sản cố định (fixed assets). Phần dƣ dự báo từ phƣơng trình hồi quy đƣợc sử
dụng để đánh giá khoản dồn tích bất thƣờng hay không giải thích đƣợc của
công ty.
- Mối quan hệ giữa tổng dồn tích và luồng tiền: Dechow và Dichev (2002)
phân tích và chỉ ra rằng các khoản dồn tích ngắn hạn (short-term accruals)
đƣợc xác định thông qua vốn lƣu động (working capital) có mối quan hệ chặt
chẽ với luồng tiền liền trƣớc, trong, và liền sau kỳ báo cáo.
1.1.2. Chất lượng lợi nhuận dựa trên tính duy trì, tính ổn định, và tính khả đoán của lợi nhuận
Tính duy trì của lợi nhuận (earnings persistence) đƣợc xác định dựa trên
sự tự tƣơng quan (autocorrelation) trong chuỗi giá trị lợi nhuận. Nó thể hiện mức độ
lợi nhuận hiện tại sẽ trở thành một phần cố định trong chuỗi giá trị lợi nhuận trong
tƣơng lai. Schipper và Vincent (2003) cho rằng tính duy trì của lợi nhuận có mối
quan hệ cùng chiều với mức độ phản ứng của nhà đầu tƣ đối với thông tin liên quan
đến lợi nhuận báo cáo. Nói cách khác, tính duy trì là đặc điểm thể hiện tính hữu
12
dụng (usefulness) của lợi nhuận báo cáo trong việc ra quyết định đầu tƣ. Dechow và
cộng sự (2010) nhấn mạnh rằng tính duy trì của lợi nhuận đƣợc xác định bằng hệ số
hồi quy giữa lợi nhuận hiện tại và lợi nhuận tƣơng lai. Thông tin với lợi nhuận kế
toán có khả năng duy trì cao rất hữu ích trong việc dự báo và đánh giá kết quả hoạt
động tƣơng lai của công ty. Điều này lý giải cho nguyên nhân đa phần các nghiên
cứu về tài chính công ty và thị trƣờng chứng khoán đều đề cập đến tính duy trì của
lợi nhuận. Ngoài ra, Dechow và cộng sự (2010) cũng cho rằng tính duy trì của lợi
nhuận có mối quan hệ cùng chiều với các tiêu chí khác chẳng hạn nhƣ khoản dồn
tích bất thƣờng. Công ty với tổng các khoản dồn tích cao thì giá trị dồn tích bất
thƣờng nhiều khả năng cũng sẽ cao, lợi nhuận có tính duy trì thấp, tần suất báo cáo
lại số liệu cao, hệ thống kiểm soát nội bộ kém, và phản ứng của nhà đầu tƣ đối với
thông tin về lợi nhuận cũng yếu hơn. Tính duy trì của lợi nhuận bị chi phối bởi đặc
điểm công ty và hệ thống kế toán.
Tính ổn định của lợi nhuận (earnings smoothness) là một thuộc tính quan
trọng phụ thuộc vào lựa chọn của hội đồng quản trị. Có nghĩa là, nhà quản trị sẽ
chuyển lợi nhuận từ các năm kinh doanh tốt sang các năm kinh doanh khó khăn để
lợi nhuận kế toán không có quá nhiều sự biến động giữa các năm (Copeland, 1968).
Hành vi nhƣ vậy có thể đƣợc giải thích theo hai khía cạnh nhƣ sau (1) việc can thiệp
làm ổn định lợi nhuận đƣợc coi là cố tình che giấu thông tin (Levitt & March,
1988). Bằng cách này, nội bộ công ty sẽ che giấu các hành vi của mình để trục lợi
và hạn chế sự can thiệp từ bên ngoài. Ví dụ, nhà quản trị sẽ giữ lợi nhuận ổn định
nhằm đạt đƣợc tiêu chí khen thƣởng và đảm bảo vị trí quản lý của mình (Healy &
Wahlen, 1999; Arya, Glover & Sunder, 2003; Fudenberg & Tirole, 1995). Phạm
Thị Bích Vân (2012) cũng cho rằng các công ty nỗ lực giảm thiểu sự biến động
trong chỉ tiêu lợi nhuận giữa các kỳ kế toán nhằm giữ giá cổ phiếu đƣợc ổn định
hoặc làm tăng giá trị thị trƣờng của cổ phiếu. Bởi vì lợi nhuận giữa các kỳ kế toán
biến động lớn đồng nghĩa với rủi ro cao khi đầu tƣ vào công ty đó, vì thế, giá cổ
phiếu sẽ rớt giá so với giá cổ phiếu của các công ty có lợi nhuận ổn định qua các kỳ
kế toán. Hệ quả là, nhà quản trị của các công ty niêm yết có khuynh hƣớng điều
13
chỉnh lợi nhuận (theo hƣớng san bằng) nhằm đạt đƣợc sự ổn định về lợi nhuận giữa
các kỳ kế toán để đảm bảo lợi nhuận bền vững trong dài hạn; (2) việc can thiệp làm
ổn định lợi nhuận sẽ cung cấp thông tin giúp nhận diện những thành phần ít thay đổi
trong lợi nhuận và truyền đạt thông tin riêng của nhà quản trị ra thị trƣờng. Tucker
và Zarowin (2006) cho rằng sự thay đổi trong giá cổ phiếu của các công ty với lợi
nhuận có tính ổn định cao sẽ mang lại thông tin về lợi nhuận tƣơng lai tốt hơn là các
công ty có tính ổn định của lợi nhuận thấp. Điều này hàm ý rằng tính ổn định của
lợi nhuận có thể truyền đạt thông tin của hội đồng quản trị đến nhà đầu tƣ trên thị
trƣờng.
Tính khả đoán của lợi nhuận (earnings predictability) là khả năng dự báo
lợi nhuận tƣơng lai của công ty dựa trên lợi nhuận hiện tại (Lipe, 1990). Nó cũng có
thể đƣợc hiểu là mức độ hữu ích của thông tin kế toán trong việc đƣa ra các dự báo
khác nhau. Dựa trên định nghĩa này thì tính khả đoán của lợi nhuận có thể đƣợc
đánh giá thông qua mối quan hệ với lợi nhuận tƣơng lai, luồng tiền trong tƣơng lai,
và các chỉ tiêu khác sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động. Khả năng dự báo đƣợc
đánh giá cao bởi những ngƣời tham gia thị trƣờng, đặc biệt là các nhà phân tích tài
chính. Họ cho rằng đặc tính này là một thành phần quan trọng trong việc định giá
công ty và dự đoán lợi nhuận, giá cổ phiếu để đƣa ra các đề xuất mua bán cổ phiếu.
Các nghiên cứu cho thấy những công ty mà có khả năng dự báo lợi nhuận thấp luôn
phải chịu chi phí đi vay cao hơn; nguyên nhân là do sự giới hạn trong khả năng dự
báo lợi nhuận dẫn đến bất cân xứng thông tin và rủi ro cao hơn. Crabtree và Maher
(2005) cung cấp thêm bằng chứng chỉ ra rằng khả năng dự báo lợi nhuận của một
công ty tỷ lệ nghịch với lãi trên trái phiếu, và tỷ lệ thuận với thứ hạng của trái phiếu.
1.1.3. Chất lượng lợi nhuận dựa trên giá trị thích hợp
Chất lƣợng lợi nhuận phải đảm bảo giá trị thích hợp hay khả năng giải thích
cho sự biến động của giá trị cổ phiếu và lợi tức từ đầu tƣ chứng khoán. Tính thích
hợp của lợi nhuận đƣợc đánh giá dựa trên mô hình Edwards Bell Ohlson (EBO) do
bởi giá cổ phiếu đại diện cho giá trị thị trƣờng của công ty trong khi số liệu kế toán
lại đại diện cho giá trị của công ty dựa trên chuẩn mực và nguyên tắc kế toán. Sự
14
thay đổi trong thông tin kế toán tƣơng ứng với sự thay đổi trong giá trị thị trƣờng
hàm ý rằng thông tin lợi nhuận cung cấp thông tin thích hợp và đáng tin cậy
(Nichols & Wahlen, 2004). Mô hình EBO giúp phản ánh mối quan hệ giữa số liệu
kế toán và phản ứng của thị trƣờng cổ phiếu (Barth, Beaver & Landsman, 2001;
Choi, Collins & Johnson, 1997; Nichols & Wahlen, 2004). Bên cạnh đó, Bernard,
Merton, và Palepu (1995) cho rằng mô hình EBO đóng góp quan trọng đối với các
nghiên cứu trên thị trƣờng vốn và đem lại nền tảng giúp xác định mục tiêu thích hợp
của các nghiên cứu liên quan đến giá trị công ty. Beisland (2009) cũng chỉ ra rằng
mô hình giá trị thích hợp của thông tin kế toán sử dụng đánh giá chất lƣợng lợi
nhuận có thể đƣợc sử dụng bởi các nhà đầu tƣ để ƣớc tính giá trị công ty.
1.1.4. Chất lượng lợi nhuận dựa trên tính kịp thời và thận trọng
Theo Beaver và Ryan (2005), nguyên tắc thận trọng trong kế toán có thể
đƣợc phân thành hai trƣờng hợp là (1) thận trọng có điều kiện và (2) thận trọng vô
điều kiện. Sự khác biệt chính giữa hai dạng thận trọng là thận trong có điều kiện
phụ thuộc vào các thông tin kinh tế trên thị trƣờng, trong khi đó thận trọng vô điều
kiện không phụ thuộc vào yếu tố này. Thận trọng có điều kiện đòi hỏi mức độ xác
minh cao để giúp nhận ra tin tốt hơn là tin xấu (Basu, 1997). Các tin này đƣợc xem
là mang lại tín hiệu tích cực đối với chất lƣợng lợi nhuận và giúp hạn chế vấn đề
đầu tƣ quá mức (Mora & Walker, 2015), hạn chế vấn đề quản trị lợi nhuận nhằm
gia tăng thu nhập (Lara, Osma, & Penalva, 2012), và nâng cao tính hiệu quả của
hợp đồng nợ (Beatty, Petacchi, & Zhang, 2012; Wittenberg-Moerman, 2008;
Zhang, 2008). Thận trọng vô điều kiện là việc lựa chọn giá trị thấp hay cao hơn
mong đợi trong ƣớc tính tài sản hoặc doanh thu trong điều kiện bất định (Ball &
Shivakumar, 2005). Các nghiên cứu thực nghiệm tìm thấy rằng thận trọng vô điều
kiện có thể dẫn đến đầu tƣ kém hiệu quả và gia tăng cơ hội quản trị lợi nhuận
(Jackson, Liu, & Cecchini, 2009; Jackson & Liu, 2010).
1.1.5. Chất lượng lợi nhuận dựa trên giao dịch thực
Chất lƣợng lợi nhuận có thể đƣợc đánh giá thông qua hoạt động thực của
công ty (Healy & Wahlen, 1999). Sự thay đổi trong hoạt động thực đƣợc xem là sự
15
thiên lệch về hành vi quản trị, khiến cho các bên có liên quan hiểu sai về khả năng
đạt đƣợc các mục tiêu tài chính của công ty. Mặc dù việc giảm giá hàng bán và gia
tăng chi tiêu đầu tƣ đƣợc xem là hoạt động bình thƣờng của công ty nhƣng nếu các
hoạt động này diễn ra với tần suất khá lớn thì nhiều khả năng là nhà quản trị đang
thực hiện quản trị lợi nhuận. Nhà quản trị can thiệp vào hoạt động thực để gia tăng
lợi nhuận so với kỳ trƣớc. Hành vi bóp méo hoạt động thực này có thể làm giảm giá
trị công ty (Graham & cộng sự, 2005).
Ba hành vi cụ thể mà nhà quản trị hay áp dụng để bóp méo giao dịch thực là
gia tăng doanh thu, tăng cƣờng sản xuất, và trì hoãn chi đầu tƣ phát triển (Healy &
Wahlen, 1999; Fudenberg & Tirole, 1995; Dechow & Skinner, 2000). Công ty
thƣờng giảm giá mạnh sản phẩm với mục tiêu gia tăng doanh số và lợi nhuận trong
ngắn hạn; tuy nhiên, trong dài hạn thì khách hàng thƣờng luôn mong đợi khoản
chiết khấu giảm giá nhiều hơn trong tƣơng lai và điều này ngụ ý là lợi nhuận biên
của doanh nghiệp sẽ ngày càng giảm. Đối với việc tăng cƣờng sản xuất thì sản xuất
quá mức sẽ tạo ra mức tồn kho lớn mà chỉ có thể bán đƣợc qua nhiều giai đoạn và
điều này tiêu tốn của công ty nhiều chi phí quản lý hàng tồn kho. Cuối cùng, nhà
quản trị cũng giảm các khoản chi đầu tƣ phát triển nhằm giảm chi phí và tăng lợi
nhuận biên. Họ mua lại cổ phiếu để tránh pha loãng, và nguồn tài trợ cho việc mua
lại này là từ khoản cắt giảm đầu tƣ phát triển (Bens & cộng sự, 2002). Tƣơng tự,
CEO thƣờng giảm chi tiêu nghiên cứu và phát triển vào cuối nhiệm kỳ để gia tăng
lợi nhuận trong ngắn hạn và đáp ứng tiêu chuẩn lợi nhuận đề ra (Dechow & Sloan,
1991; Baber & cộng sự, 1991; Bushee, 1998).
Nhà quản trị thƣờng nhắm tới việc bóp méo giao dịch thực hơn là khoản dồn
tích vì hai nguyên nhân sau (Bruns & Merchant, 1990; Graham & cộng sự, 2005).
Đầu tiên, bóp méo khoản dồn tích sẽ thu hút sự chú ý của nhiều đối tƣợng liên quan
hơn giao dịch thực (định giá sản phẩm và gia tăng sản xuất). Thứ hai, việc chỉ bóp
méo khoản dồn tích đem lại rủi ro phát hiện cao (thu nhập bóp méo và không bóp
méo do bởi khoản dồn tích thiên lệch khá lớn; khoản thu nhập vƣợt ngƣỡng mong
đợi). Tuy nhiên, đối với giao dịch thực thì khoản lợi nhuận tăng thêm do bóp méo
16
không vƣợt ngƣỡng mong đợi vào cuối năm. Nhƣ vậy, công ty với lợi nhuận âm
thƣờng cố gắng báo cáo lợi nhuận cao hơn từ doanh thu tài sản (Bartov, 1993), sản
xuất quá mức cần thiết (Thomas & Zhang, 2002; Hribar, 2002), hay là giảm chi tiêu
tự quyết trong doanh nghiệp (Graham & cộng sự, 2005).
1.2. Các lý thuyết nền về chất lƣợng lợi nhuận
1.2.1. Lý thuyết chủ nghĩa cơ hội (Opportunism Theory)
Chủ nghĩa cơ hội (opportunism) đề cập bản tính vụ lợi của con ngƣời
(Williamson, 1993). Chẳng hạn, một chủ thể kinh tế sẽ lợi dụng một bên nào đó để
gia tăng lợi ích bằng việc đƣa ra cam kết và giải thích không chính xác, không tuân
thủ cam kết, hoặc thay đổi điều khoản cam kết để đạt đƣợc lợi ích. Trong trƣờng
hợp khác thì chủ thể kinh tế muốn hƣởng lợi mà không cần bỏ ra chi phí. Do bởi
hành vi mang tính cơ hội và bên trung thực thƣờng rơi vào thế trao đổi bất lợi hơn.
Chen và cộng sự (2002) cho rằng sự xuất hiện các cá nhân theo chủ nghĩa cơ hội là
tiền đề cho cơ chế chống lại chủ nghĩa cơ hội trong giao dịch kinh tế. Chính vì vậy,
chủ nghĩa cơ hội là lý thuyết giả định hành vi xấu nhất đối với mỗi cá nhân và nêu
ra hậu quả của hành vi này (Fried, 2001).
Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng đƣợc xem là cơ hội mà nhà quản
trị có thể sử dụng để thu hút đƣợc nguồn vốn tài trợ từ nhà đầu tƣ bên ngoài thông
qua mua cổ phiếu. Vì nhà đầu tƣ thƣờng bị chi phối bởi lợi nhuận và không ý thức
về việc lợi nhuận công bố bị bóp méo nên nhà quản trị điều chỉnh lợi nhuận để
khiến cho nhà đầu tƣ phải chấp nhận mức giá chào bán cao hơn nhiều so với lợi
nhuận thực tế chƣa bóp méo của công ty. Theo Rangan (1998), Siew và cộng sự
(1998b), công ty phát hành cổ phiếu trên thị trƣờng thƣờng sử dụng khoản dồn tích
để gia tăng lợi nhuận để tạm thời bóp méo giá cổ phiếu tại thời điểm phát hành. Tuy
nhiên, sau khi phát hành thì các khoản dồn tích của công ty giảm và nhà đầu tƣ phải
gánh chịu sự sụt giảm nghiêm trọng trong lợi nhuận. Nhƣ vậy, theo lý thuyết chủ
nghĩa cơ hội thì khi ra quyết định đầu tƣ vào công ty, nhà đầu tƣ về mặt lý trí đã
không đƣa ra chiết khấu đối với mong đợi về dòng tiền trong tƣơng lai của công ty
dựa trên lợi nhuận đã bị điều chỉnh (Siew & cộng sự, 1998a).
17
Nói cách khác, trƣớc khi phát hành cổ phiếu ra công chúng, nhà quản trị sẽ
duy trì khoản dồn tích dƣơng nhằm đánh lừa nhà đầu tƣ rằng sau khi phát hành cổ
phiếu thì lợi nhuận công ty sẽ gia tăng. Nhìn chung, lý thuyết chủ nghĩa cơ hội tập
trung vào hai vấn đề chính là (1) nhà đầu tƣ không ý thức về hành vi điều chỉnh lợi
nhuận trên BCTC của nhà quản trị và (2) nhà đầu tƣ không quan sát đƣợc hành vi
điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị. Chủ nghĩa cơ hội là nguyên nhân khiến cho
thị trƣờng trở nên kém hiệu quả vì giá tài sản không phản ánh tất cả thông tin có sẵn
trên thị trƣờng (Fama, 1965).
Qua việc đánh giá lý thuyết chủ nghĩa cơ hội, nghiên cứu thấy rằng việc niêm
yết cổ phiếu lần đầu tiên của công ty trên thị trƣờng chứng khoán cũng đƣợc xem
nhƣ là một cơ hội mà nhà quản trị có thể sử dụng để không những thu hút nguồn
vốn mà còn nâng cao vị thế của công ty trong mắt của các nhà đầu tƣ mới trên thị
trƣờng. Lý thuyết này giúp lý giải nguyên nhân cho hành vi quản trị lợi nhuận của
nhà quản trị và liên hệ với việc chất lƣợng lợi nhuận suy giảm vào thời điểm công
niêm yết cổ phiếu lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán.
1.2.2. Lý thuyết bất cân xứng thông tin (Information Asymmetry Theory)
Lý thuyết bất cân xứng thông tin đƣợc phát triển vào thập niên 70 nhƣ là
nguyên nhân lý giải cho thất bại thị trƣờng (market failures) (Samuelson, 1984). Lý
thuyết này đề xuất rằng sự mất cân bằng về thông tin giữa ngƣời mua và ngƣời bán
có thể dẫn đến thất bại thị trƣờng. Đối với các nhà kinh tế học thì thất bại thị trƣờng
hàm ý là sự phân phối hàng hóa và dịch vụ kém hiệu quả trên thị trƣờng tự do mà
trong đó giá đƣợc xác định bởi quy luật cung – cầu.
Ba nhà kinh tế có tầm ảnh hƣởng quan trọng trong việc phát triển lý thuyết
thông tin bất cân xứng là Akerlof (1978), Spence (1978) và Stiglitz (2000). Akerlof
(1978) khẳng định rằng ngƣời mua xe hơi có thông tin khác biệt với ngƣời bán xe
hơi. Vì vậy, ngƣời bán có động lực bán xe hơi chất lƣợng kém mà không cần phải
hạ giá để bù cho sản phẩm kém chất lƣợng đó. Akerlof (1978) cho rằng ngƣời mua
không có thông tin để phân biệt xe hơi kém chất lƣợng với xe hơi chất lƣợng tốt. Vì
18
lẽ đó, ngƣời bán xe hơi chất lƣợng tốt không thể bán xe với giá cao hơn mức giá
trung bình (xe hơi chất lƣợng tốt không thể cạnh tranh với xe hơi chất lƣợng kém).
Spence (1978) chỉ ra rằng thuê nhân viên mới là khoản đầu tƣ bất định đối với công
ty. Chủ công ty không chắc chắn liệu ứng viên có năng lực làm việc hiệu quả hay
không. Nhƣ vậy, trong trƣờng hợp này, Spence (1978) định nghĩa thông tin bất cân
xứng giữa chủ công ty và nhân viên. Cuối cùng, Stiglitz (2000) là ngƣời giúp lý
thuyết về bất cân xứng thông tin đƣợc chấp nhận rộng rãi. Thông tin bất cân xứng
đƣợc đƣa vào mô hình cân bằng tổng thể để mô tả động tác tiêu cực khi định giá
quá cao phân khúc thấp nhất của thị trƣờng. Ví dụ, phí bảo hiểm y tế tăng cao để
bao trùm các trƣờng hợp cá nhân với rủi ro cao, nhƣng điều này lại khiến cho các cá
nhân với rủi ro thấp không thể tham gia bảo hiểm.
Bất cân xứng đề cập đến các quyết định đƣa ra trong một giao dịch mà trong
đó một trong hai bên có nhiều thông tin hơn và thông tin tốt hơn bên còn lại. Bất
cân xứng thông tin dẫn tới sự thiên lệch về quyền lợi của các bên trong giao dịch và
khiến cho giao dịch không thành công. Đây đƣợc xem là một dạng thất bại trên thị
trƣờng nghiêm trọng nhất.
Báo cáo tài chính giúp cung cấp thông tin hoạt động tài chính của công ty
cho nhà đầu tƣ và chủ nợ từ đó giúp họ đƣa ra quyết định tài chính phù hợp. Nếu
báo cáo tài chính có thể cung cấp thông tin chính xác thì chất lƣợng lợi nhuận sẽ tốt
(Aboody, Hughes & Liu, 2005). Khi có tình trạng bất cân xứng thông tin và xung
đột lợi ích thì nhà quản trị thƣờng chọn bóp méo thông tin báo cáo tài chính
(Rajgopal & Venkatachalam, 2011). Do đó, nhà quản trị nỗ lực thực hiện quản trị
lợi nhuận và điều chỉnh số liệu trên báo cáo tài chính để phù hợp với mong đợi của
chủ sở hữu với mục đích là duy trì vị trí công việc và lợi thế trong công ty. Cách
thức quản trị lợi nhuận nhƣ vậy che giấu đi thực trạng kinh doanh của công ty và
khiến cho nhà đầu tƣ thất bại trong việc đƣa ra quyết định phù hợp dựa trên những
báo cáo tài chính. Khi chất lƣợng báo cáo tài chính giảm thì chất lƣợng lợi nhuận
cũng giảm theo (Habib & Azim, 2008).
19
Một số nghiên cứu cho rằng việc giảm thiểu tình trạng thông tin bất cân xứng
sẽ làm giảm giới hạn tài chính của công ty và làm cải thiện chất lƣợng lợi nhuận
(Biddle & Hilary, 2006; Hope, Thomas & Vyas, 2013). Chất lƣợng lợi nhuận cao
giúp nhà đầu tƣ đánh giá tốt hơn rủi ro của dự án đầu tƣ dẫn đến giảm chi phí vốn,
giúp nhà đầu tƣ đánh giá hành vi của nhà quản trị công ty, giảm chi phí đại diện,
giúp xác định sự chênh lệch giữa số liệu kế toán và thực tế từ đó giảm thông tin bất
cân xứng (Bushman & Smith, 2003).
Nhìn chung, thông tin bất cân xứng xảy ra khi mà một bên có thông tin và
bên còn lại không biết thông tin này (Nuryatno, Nazir & Rahmayanti, 2007). Điều
này dẫn đến nhận thức khác biệt giữa bên cung cấp thông tin và bên nhận thông tin
(Salehi, Zanjirdar & Zarei, 2012). Công bố thông tin chất lƣợng cao có thể giảm sự
bất lợi về mặt thông tin của nhà đầu tƣ không có thông tin so với nhà đầu tƣ có
thông tin và làm giảm chi phí vốn của công ty. Bất cân xứng thông tin giữa nhà đầu
tƣ trong và ngoài nƣớc cản trở nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Vậy nên, thông tin kế toán
chất lƣợng cao có thể thúc đẩy nhà đầu tƣ nƣớc ngoài (Ma, 2012). Chất lƣợng báo
cáo tài chính với thông tin tài chính đáng tin cậy sẽ tác động đến tính hiệu quả của
hoạt động đầu tƣ thông qua tính sẵn có của thông tin cân xứng giữa nhà quản trị và
chủ sở hữu (Li, Meng, Wang & Zhou, 2008).
1.2.3. Lý thuyết tín hiệu (Signalling Theory)
Vấn đề bất cân xứng thông tin (information asymmetry) thƣờng tồn tại trong
các giao dịch hợp đồng giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Trong các giao dịch này
thì một bên sẽ báo tín hiệu (truyền tải các thông tin đáng tin cậy cho bên còn lại).
Lý thuyết tín hiệu ban đầu đƣợc đƣa ra bởi Spence (1978) dựa trên sự chênh lệch về
thông tin giữa công ty tuyển dụng và ứng viên. Về sau, lý thuyết này đƣợc áp dụng
trong các lĩnh vực khác nhƣ quản trị nguồn nhân lực, kinh doanh, và tài chính.
Xét về lĩnh vực kinh doanh, trên thực tế nhà quản trị luôn nắm thông tin nội
bộ của công ty rõ hơn nhà đầu tƣ bên ngoài do bởi họ trực tiếp điều hành công ty.
Sự chênh lệch về thông tin giữa nhà quản trị và nhà đầu tƣ dẫn đến sự chênh lệch
20
giữa giá cổ phiếu của công ty trên thị trƣờng và giá trị thực của công ty. Chính vì
vậy, nhà quản trị có khuynh hƣớng cung cấp thông tin nội bộ cho nhà đầu tƣ bên
ngoài để họ có thể đánh giá giá trị thực của công ty tốt hơn. Giả định của lý thuyết
tín hiệu là nhà quản trị có động thái tiết lộ thông tin nội bộ ra bên ngoài và không
tồn tại tín hiệu giả trên thị trƣờng. Healy và Palepu (1988), Michaely, Thaler, và
Womack (1995), và Baskin và Miranti (1997) cho rằng công ty thƣờng sử dụng cổ
tức để truyền tải thông tin về tình hình hoạt động cho nhà đầu tƣ bên ngoài. Theo lý
thuyết tín hiệu thì việc gia tăng cổ tức là tín hiệu tốt đối với lợi nhuận trong tƣơng
lai của công ty. Vì vậy, giá cổ phiếu của công ty trên thị trƣờng sẽ phản ứng theo
chiều hƣớng thuận lợi. Ngƣợc lại, giảm chi trả cổ tức mang lại tín hiệu xấu và giá
cổ phiếu sẽ phản ứng theo chiều hƣớng xấu. Benartzi, Michaely, và Thaler (1997)
cũng tìm thấy rằng các công ty gia tăng cổ tức thì ít có khả năng giảm lợi nhuận
trong 3 năm tiếp theo. Tuy nhiên, Subramanyam (1996) thấy rằng việc điều chỉnh
chi trả cổ tức để phát tín hiệu thuận lợi ra thị trƣờng liên quan mật thiết với hành vi
quản trị khoản dồn tích. Nghiên cứu thấy rằng khoản dồn tích có mối quan hệ cùng
chiều với chi trả cổ tức. Koerniadi và Tourani-Rad (2011) ủng hộ cho quan điểm
này khi cho rằng các công ty tăng chi trả cổ tức thƣờng sử dụng khoản dồn tích
dƣơng để gia tăng thu nhập. Các khoản dồn tích này có mối quan hệ cùng chiều với
khả năng sinh lời và hỗ trợ cho mục đích báo tín hiệu của công ty.
Theo quan điểm của lý thuyết tín hiệu, nhà quản trị sẽ sử dụng quyền tự
quyết của mình đối với khoản dồn tích để thực hiện quản trị lợi nhuận từ đó báo tín
hiệu tốt (thông tin thuận lợi đối với công ty đƣa ra thị trƣờng) (Gunny, 2010; Louis
& Robinson, 2005; Subramanyam, 1996). Louis và Robinson (2005) cho rằng trƣớc
khi tiến hành chia tách cổ phiếu thì công ty sẽ báo cáo khoản dồn tích dƣơng và cao
vì họ biết rằng nhà đầu tƣ sẽ đƣa ra quyết định dựa trên khoản dồn tích này. Đối với
các công ty phát hành cổ phiếu lần đầu trên thị trƣờng thì Teoh và cộng sự (1998)
cho rằng công ty cũng sử dụng khoản dồn tích để gia tăng thu nhập từ đó truyền tải
thông tin về triển vọng tốt của công ty đến nhà đầu tƣ để nâng cao khả năng tiếp cận
nguồn tài trợ thông qua phát hành cổ phiếu. Đối với niêm yết cổ phiếu lần đầu trên
21
thị trƣờng chứng khoán cũng vậy. Để có thể niêm yết cổ phiếu trên thị trƣờng
chứng khoán thì công ty không những phải đáp ứng các điều kiện của phát hành cổ
phiếu lần đầu ra công chúng mà còn phải đáp ứng các quy định của sở giao dịch
chứng khoán niêm yết. Chính vì vậy, các điều kiện liên quan đến lợi nhuận càng
khắt khe hơn. Trong trƣờng hợp này thì công ty nhiều khả năng cũng điều chỉnh
khoản dồn tích tự quyết cao hơn nhằm gia tăng lợi nhuận báo cáo so với dòng tiền
thực. Lợi nhuận cao có thể đáp ứng một số yêu cầu của sở giao dịch chứng khoán.
Bên cạnh đó, lợi nhuận cao là tín hiệu lèo lái nhà đầu tƣ mua cổ phiếu của công ty
với giá cao hơn mà họ không ý thức đƣợc rằng lợi nhuận này đã bị phóng đại thông
qua khoản dồn tích.
22
Bảng 1.1. Tổng hợp các lý thuyết nền về chất lƣợng lợi nhuận
Lý thuyết Nội dung Liên hệ với chất lƣợng lợi
nhuận
Phát hành cổ phiếu lần đầu ra Chủ nghĩa cơ hội là động cơ
công chúng là cơ hội giúp giải thích cho quản trị lợi nhuận
công ty thu hút nhà đầu tƣ và sự suy giảm trong chất
thông qua việc điều chỉnh lƣợng lợi nhuận vào thời điểm Lý thuyết chủ
nghĩa cơ hội
(Opportunism
Theory) tăng lợi nhuận. niêm yết cổ phiếu lần đầu tiên
trên thị trƣờng.
Dƣới tình trạng bất cân xứng Bất cân xứng thông tin là động
thông tin thì việc điều chỉnh cơ giải thích cho quản trị lợi
lợi nhuận sẽ khó bị phát hiện nhuận và sự suy giảm trong
bởi nhà đầu tƣ nên nhà quản chất lƣợng lợi nhuận vào thời
trị sẽ chủ động thực hiện hành điểm niêm yết cổ phiếu lần đầu Lý thuyết bất
cân xứng
thông tin
(Information
Asymmetry
Theory) vi này để gia tăng lợi ích. tiên trên thị trƣờng.
Việc phát tín hiệu tốt giải thích Lợi nhuận đƣợc xem là tín cho quản trị lợi nhuận và sự suy hiệu thu hút nhà đầu tƣ trên giảm trong chất lƣợng lợi thị trƣờng vì vậy nhà quản trị nhuận vào thời điểm niêm yết thƣờng can thiệp vào yếu tố Lý thuyết
tín hiệu
(Signalling
Theory) cổ phiếu lần đầu tiên trên thị này để đạt đƣợc lợi ích. trƣờng.
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
23
1.3. Đo lƣờng chất lƣợng lợi nhuận
Dựa trên các quan điểm về chất lƣợng lợi nhuận trình bày trong phần trƣớc,
nghiên cứu tóm tắt các biến đại diện có thể sử dụng để đánh giá chất lƣợng lợi
nhuận theo từng quan điểm: (1) dựa vào cơ sở kế toán (accounting-based), (2) dựa
(Roychowdhury, 2006; Patricia Dechow & cộng sự, 2010; Parte-Esteban & García,
vào cơ sở thị trƣờng (market-based), và (3) dựa vào giao dịch thực (real activities)
2014). Các biến đại diện và cách đo lƣờng đƣợc tổng hợp ở Bảng 1.2.
24
Bảng 1.2. Tổng hợp cách đo lƣờng các yếu tố đại diện cho chất lƣợng lợi nhuận
STT Phân loại Đo lƣờng Yếu tố đại diện
cho CLLN
Dechow và Dichev (2002)
Trong đó là vốn lƣu động dồn tích (accrued working capital), đƣợc tính toán
bằng sự thay đổi trong tài sản ngắn hạn (current assets) trừ sự thay đổi trong tiền và Dựa vào cơ khoản tƣơng đƣơng tiền (cash and cash equivalents) và trừ đi sự thay đổi trong nợ sở kế toán 1 Khoản dồn tích ngắn hạn (current liabilities) và cộng với sự thay đổi trong nợ vay ngân hàng (bank (accounting debt) ( ); , , và lần lƣợt là dòng tiền -based)
hoạt động tại năm t – 1, năm t, và năm t + 1; là tổng tài sản đầu kỳ; là sai số
của mô hình.
Giá trị phần dƣ dự báo từ mô hình giúp đánh giá chất lƣợng lợi nhuận của công ty.
Giá trị tuyệt đối của phần dƣ đối với mỗi quan sát sẽ ngƣợc chiều với chất lƣợng lợi
nhuận. Giá trị phần dƣ càng cao thì chất lƣợng lợi nhuận càng thấp.
25
Để thuận lợi cho việc giải thích thì chất lƣợng lợi nhuận đƣợc quy thành giá trị âm
của giá trị tuyệt đối của phần dƣ. Độ lệch chuẩn của các phần dƣ từ mô hình ƣớc
lƣợng cũng đƣợc nhân cho (-1) vì độ lệch chuẩn càng lớn thì chất lƣợng lợi nhuận
càng thấp.
McNichols (2002) bổ sung mô hình của Dechow và Dichev (2002)
Trong đó hai nhân tố mới là sự thay đổi của doanh thu ( ) và giá trị bất động
sản, nhà xƣởng, và máy móc ( ).
Kothari, Leone, và Wasley (2005)
Trong đó là biến kế toán dồn tích không tự quyết (non-discretionary accruals);
là lợi nhuận sau thuế (EAT) trên tổng tài sản.
Kothari, Leone, và Wasley (2005) bổ sung thêm biến vào mô hình của
26
Dechow, Sloan, và Sweeney (1995).
Penman và Sougiannis (1998)
Tính duy trì 2 (persistence) Trong đó hệ số đo lƣờng tính duy trì của lợi nhuận; là lợi nhuận trƣớc
thuế và lãi vay (EBIT) trên tổng tài sản; là phần dƣ (error terms).
Kormendi và Lipe (1987)
và lần lƣợt là tỷ lệ EBIT (earnings before interests and tax – lợi Tính khả đoán 3 (predictability) nhuận trƣớc thuế và lãi vay) trên vốn chủ sở hữu (equity) của công ty tại năm t và t –
1.
là phƣơng sai của phần dƣ đƣợc dự đoán từ phƣơng trình bên trên.
27
Lambert (1984)
Tính ổn định 4 Trong đó là độ lệch chuẩn của lợi nhuận trƣớc thuế và lãi vay trên vốn (smoothness)
chủ sở hữu); là độ lệch chuẩn của dòng tiền hoạt động trên tổng tài sản.
Tỷ lệ thấp cho thấy khả năng can thiệp lợi nhuận so với dòng tiền trên báo cáo tài
chính cao hơn.
Dựa vào cơ Easton và Harris (1991)
sở thị Giá trị thích hợp 5 trƣờng (value relevance) Trong đó là tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu; là lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu; (market-
based) ; là sai số của mô hình.
28
Chất lƣợng lợi nhuận đƣợc xác định dựa trên kết quả hồi quy từ mô hình. Hệ số
và giá trị (hệ số xác định) phản ánh chất lƣợng lợi nhuận.
Basu (1997)
Trong đó là lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu; là biến giả mang giá trị 1 khi có Tính kịp thời và
thông tin xấu và 0 khi có thông tin tốt trên thị trƣờng; là tỷ suất sinh lợi của cổ thận trọng 6 (timeliness and phiếu; là sai số của mô hình.
conservatism) Hệ số là hệ số thể hiện tính kịp thời (timeliness) không cân xứng khi ghi nhận
thông tin và cũng thể hiện mức độ thận trọng (conservatism) trong kế toán. Hệ số
này càng cao thì mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng kế toán càng cao, hàm ý
chất lƣợng lợi nhuận tốt.
Dựa vào Dechow và cộng sự (1998) Điều chỉnh doanh giao dịch 7 - Điều chỉnh doanh thu thu (Sales thực (real
manipulation) activities)
29
Chi tiêu tự quyết
(Discretionary
expenses) - Chi tiêu tự quyết
Sản xuất quá mức
(Overproduction)
- Sản xuất quá mức
Trong đó là tổng tài sản tại thời điểm t – 1; là doanh số của công ty tại
thời điểm t; và ; là dòng
tiền hoạt động của công ty tại t; là chi phí tự quyết của công ty tại t; là
tổng chi phí sản xuất của công ty tại t; là phần dƣ (error terms).
Nguồn: Tổng hợp từ nghiên cứu Roychowdhury (2006), Patricia Dechow và cộng sự (2010), và Parte-Esteban và García (2014).
30
1.4. Các nhân tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận
1.4.1. Giới hạn tài chính (financial constaints)
Nguồn tài trợ và việc tiếp cận đối với nguồn vốn bên trong và bên ngoài là
phần tối thiết trong hoạt động công ty. Xét về khía cạnh này, việc tiếp cận đối với
nguồn tài trợ, đặc biệt là nguồn tài trợ từ ngân hàng, là nhân tố chủ yếu giúp công ty
duy trì hoạt động và tiềm năng tăng trƣởng. Tuy nhiên, trên thực tế công ty có sự
tiếp cận không công bằng và không đồng đều đối với thị trƣờng vốn. Kết quả là
nguồn quỹ bên trong và bên ngoài không giúp giải quyết hết các vấn đề nhƣ xung
đột đại diện, thuế, kiệt quệ tài chính, và thông tin bất cân xứng. Trong tình cảnh
này, công ty thƣờng phải đƣơng đầu với khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay cũng
nhƣ những dịch vụ ngân hàng tại mức chi phí hợp lý và điều khoản công bằng. Hạn
chế trong tiếp cận nguồn tài trợ đƣợc xem là giới hạn tài chính.
Công ty bị giới hạn tài chính thƣờng không có khả năng tiếp cận với nguồn
tài trợ bên ngoài, không thể theo đuổi chính sách đầu tƣ tối đa hóa và mất cơ hội
tăng trƣởng. Hiện tƣợng này đƣợc quan sát thấy rõ hơn tại thị trƣờng vốn của các
quốc gia đang phát triển, nơi mà công ty niêm yết vừa và nhỏ thƣờng bị giới hạn tài
chính so với các công ty khác. Hope (2003) cho rằng sự cân bằng giữa nợ và vốn cổ
phần trong cấu trúc vốn giúp gia tăng mức cầu đối với thông tin kế toán của công
ty. Ghosh và Moon (2010) cũng cho rằng công ty với sự phụ thuộc cao vào tài trợ
nợ có khả năng gánh chịu chi phí vay cao hơn từ chất lƣợng lợi nhuận công ty thấp.
Do đó, lợi ích từ việc điều chỉnh lợi nhuận để tránh các giới hạn khoản vay cao hơn.
Dẫu lợi nhuận có bao gồm khoản dồn tích kế toán đƣợc xem nhƣ là yếu tố dự báo
dòng tiền tƣơng lai, chúng phải chịu rủi ro bóp méo, thiên lệch và đƣợc xem nhƣ là
yếu tố dự báo sự biến động của dòng tiền tƣơng lai. Hơn nữa, nợ và sự tiếp cận của
công ty với vốn vay ngân hàng có mối liên hệ với hành vi mang tính cơ hội của nhà
quản trị và động thái bóp méo lợi nhuận (Ghosh và Moon, 2010).
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa nợ và chất lƣợng lợi nhuận chỉ ra hai quan
điểm trái ngƣợc nhau. Một mặt, nợ có tác động cùng chiều đối với chất lƣợng lợi
nhuận. Chủ nợ thƣờng đòi hỏi thông tin chất lƣợng lợi nhuận tốt hơn để đánh giá
31
tình trạng trả nợ, tính thanh khoản, và rủi ro phá sản của công ty đƣợc chính xác
hơn. Ngoài ra, nhà quản trị cũng sẵn sàng cung cấp thông tin chất lƣợng tốt để giảm
chi phí tài trợ nợ. Vì thế, họ chủ ý cung cấp thông tin chất lƣợng tốt hơn về triển
vọng tƣơng lai của công ty cho chủ nợ để giảm chi phí vay vốn (Feltham, Robb &
Zhang, 2007; Ghosh & Moon, 2010).
Ngƣợc lại, khả năng vay nợ nhiều hơn và chi phí thấp hơn tạo động lực cho
nhà quản trị cơ hội tự quyết định BCTC. Thực sự, nhà quản trị công ty tích cực điều
chỉnh khoản dồn và lợi nhuận tại mức tài trợ nợ cao. Vì thế nợ có mối quan hệ cùng
chiều với chất lƣợng lợi nhuận, và khoản dồn tích đƣợc xem là biến dự báo bị nhiễu
cho hiệu quả hoạt động công ty trong tƣơng lai (Billett, King & Mauer, 2007;
Ghosh & Moon, 2010; Watts & Zimmerman, 1986). Ghosh và Moon (2010) đồng ý
rằng trong khi công ty với mức nợ thấp ít có khả năng bóp méo lợi nhuận do bởi rủi
ro thấp hơn đối với việc vi phạm các điều khoản cho vay, thì khi mức vay nợ tăng
lên công ty lại tận dụng cách thức quản trị lợi nhuận.
Vốn bên trong và bên ngoài công ty là những khoản thay thế không hoàn hảo
và vì vậy chi phí vốn bên trong và bên ngoài mang lại sự giới hạn và hạn chế cơ hội
đầu tƣ của công ty. Một số nghiên cứu sử dụng mẫu thống kê bao gồm các công ty
niêm yết với các biến giới hạn tài chính nhƣ quy mô công ty, khả năng chi trả cổ
tức, và xếp hạng tín dụng (Ghosh và Moon, 2010; Rahaman, 2011; Schipper và
Vincent, 2003).
Lý thuyết tài chính đề xuất rằng lựa chọn đối nghịch (Adverse Selection) và
rủi ro về mặt đạo đức nhƣ đầu tƣ dƣới mức tối ƣu, đầu tƣ vào các dự án không lợi
nhuận, và thanh lý tài sản nảy sinh từ vấn đề thông tin bất cân xứng giữa bên mƣợn
và bên cho vay. Điều này đặt ra giới hạn lên dòng vốn đối với các công ty có cơ hội
đầu tƣ tốt (Bharath, Sunder và Sunder, 2008; Diamond, 1984; García-Teruel,
Martínez-Solano và Sánchez-Ballesta, 2014; Houston và James, 1996; Stiglitz và
Weiss, 1981). Trong tình cảnh này, mối quan hệ giữa ngân hàng và công ty so với
các bên cho vay công khác giúp công ty vay đƣợc nhiều nợ hơn.
32
Ngƣợc lại, phía ngân hàng cũng giám sát hiệu quả hơn và giúp cân bằng lợi
ích giữa nhà quản trị và chủ sở hữu. Nguồn tài trợ từ ngân hàng thì đóng vai trò
đáng kể trong nguồn vốn của công ty vì tài trợ ngân hàng giúp giảm vấn đề thông
tin bất cân xứng về nợ công cũng nhƣ đem lại thông tin mang tín hiệu tích cực về
chất lƣợng tín dụng của công ty (Denis & McConnell, 2003; Hooks, 2003).
Tiếp cận của công ty với nợ ngân hàng phụ thuộc vào khả năng chi trả về sự
liên quan của khoản thế chấp tới việc giảm các vấn đề rủi ro đạo đức dƣới tình trạng
thông tin bất cân xứng. Nhà quản trị có động thái nhiều hơn trong việc báo cáo chất
lƣợng lợi nhuận khi nợ tƣ cao hơn nợ công. Trong trƣờng hợp này, họ sẵn lòng tối
đa hóa giá trị công ty và tránh làm các bên có liên quan hiểu sai rằng họ có chất
lƣợng lợi nhuận thấp (García-Teruel & cộng sự, 2014; Ghosh & Moon, 2010;
Warfield, Wild & Wild, 1995). Dựa trên những lập luận này, tài trợ nợ từ ngân hàng
có tác động ngƣợc chiều tới lợi nhuận công ty cũng nhƣ nguồn tài trợ bên trong bởi
vì công ty sử dụng đòn bẩy và lợi nhuận có khả năng dùng quỹ bên trong hơn là quỹ
tài trợ ngân hàng từ bên ngoài.
Thông tin kế toán về chất lƣợng lợi nhuận tốt hơn là nhân tố chính giúp giảm
rủi ro đạo đức và bất cân xứng thông tin đi kèm với ngƣời đi vay. Nói cách khác,
ngƣời cho vay, cụ thể là phía ngân hàng, sử dụng thông tin này để ƣớc tính dòng
tiền tƣơng lai của công ty và khả năng trả lãi của ngƣời vay. Do đó, lợi nhuận càng
chính xác thì rủi ro thông tin càng thấp bởi vì ngƣời cho vay có thể ƣớc tính hay
nắm bắt đƣợc tất cả dòng tiền tƣơng lai của công ty đi vay chính xác hơn (Berger &
Udell, 2006; García-Teruel & cộng sự, 2014). Một số nghiên cứu gần đây cho rằng
chất lƣợng khoản dồn tích cao hơn có thể đƣợc xem là biến đại diện cho chất lƣợng
lợi nhuận bởi vì rủi ro thông tin thấp hơn đến từ khả năng đánh giá dòng tiền tƣơng
lai tốt hơn (P. M. Dechow, 1994; J. Francis & cộng sự, 2005; Bharath & cộng sự,
2008; García-Teruel & cộng sự, 2014).
Các nghiên cứu hiện tại về mối quan hệ giữa chất lƣợng lợi nhuận và tài trợ
nợ cho kết quả hỗn hợp. Mối liên hệ này có thể là cùng chiều (mức nợ thấp) hoặc
33
ngƣợc chiều (mức nợ cao). Khi mức độ nợ thấp, rủi ro vi phạm các điều khoản nợ
thấp hoặc không có, và nhà quản trị sẵn sàng sử dụng các ƣớc tính về mặt kế toán
để báo cáo chất lƣợng lợi nhuận cao và giữ chi phí nợ thấp nhất có thể. Chất lƣợng
lợi nhuận tốt hơn hay lợi nhuận đem lại nhiều thông tin hơn về hiệu quả hoạt động
công ty (dòng tiền tƣơng lai) sẽ giúp giảm rủi ro tín dụng (J. Francis & cộng sự,
2005; Ghosh & Moon, 2010). Ngƣợc lại, tại mức độ nợ cao, rủi ro vi phạm điều
khoản nợ cao hơn và nhà quản trị sẽ tránh chi phí vi phạm điều khoản nợ bằng chi
phí rủi ro của điều chỉnh chất lƣợng lợi nhuận cao hơn (J. Francis & cộng sự, 2005;
García-Teruel & cộng sự, 2014; Ghosh & Moon, 2010; Schipper & Vincent, 2003).
Một số nghiên cứu xem xét mối liên hệ giữa giới hạn tài chính và quyết định
tài chính của công ty, đặc biệt là quyết định đầu tƣ (Almeida & Campello, 2007;
Fazzari, Hubbard & Petersen, 1988; Kaplan & Zingales, 1997) và chi phí đầu tƣ
phát triển (Campello, Graham & Harvey, 2010; Klassen, Pittman, Reed & Fortin,
2004). Nhà quản trị có quyền quyết định số liệu kế toán báo cáo của công ty. Tuy
nhiên, việc quản trị lợi nhuận thì tốn chi phí. Quản trị lợi nhuận không tốt liên quan
tới rủi ro kiểm toán, rủi ro tranh chấp, và suy giảm hiệu quả hoạt động tƣơng lai của
công ty (Desai, Hogan & Wilkins, 2006; DuCharme, Malatesta & Sefcik, 2004;
Karpoff, Lee & Martin, 2008). Tính hữu dụng cao đi kèm với sự sẵn có của nguồn
vốn bên ngoài với điều kiện ƣu đãi làm gia tăng khả năng báo cáo lợi nhuận mang
tính cơ hội của nhà quản trị. Tác động này dễ dàng quan sát thấy tại các công ty bị
ràng buộc tài chính hay các công ty chƣa thiết lập đƣợc danh tiếng của mình trên thị
trƣờng tài chính. Công ty bị giới hạn tài chính phải chịu chi phí giao dịch cao hơn
công ty không bị giới hạn khi họ tìm kiếm nguồn tài trợ bên ngoài.
1.4.2. Tính độc lập của HĐQT
Theo lý thuyết đại diện, sự tách biệt về quyền sở hữu và quyền kiểm soát dẫn
đến sự khác nhau giữa lợi ích của nhà quản trị và lợi ích của chủ sở hữu (Jensen &
Meckling, 1976). Vì vậy, giám sát quyết định quản trị trở nên tối cần thiết đối với
HĐQT để bảo vệ lợi ích của cổ đông (Fama & Jensen, 1983).
34
Dựa theo bối cạnh đại diện, đặc trƣng bởi đại diện sở hữu tập trung, xung đột
xảy ra giữa cổ đông kiểm soát lớn và nhà đầu tƣ thiểu số bên ngoài với rủi ro khai
thác lợi ích cá nhân. Cổ đông nắm quyền tìm cách tối đa hóa lợi ích của riêng họ và
lấy đi tài sản từ các nhà đầu tƣ khác cũng nhƣ là các bên khác có liên quan (Shleifer
& Vishny, 1997; Holderness, 2003). Vì lẽ đó, trong khi cổ đông nội bộ lớn có thể
khai thác lợi ích và có sự tiếp cận trực tiếp với thông tin, cổ đông bên ngoài phụ
thuộc vào hoạt động giám sát của HĐQT.
HĐQT đƣợc thành lập để giám sát nhà quản trị thay cho cổ đông (Eisenhardt,
1989; Jensen & Meckling, 1976). Lý thuyết đại diện nhấn mạnh rằng tính độc lập
của HĐQT có tác động tích cực đến tính hiệu quả của nó (Huse, 1994). Vì vậy, một
nhân tố quan trọng ảnh hƣởng đến khả năng HĐQT có thể giám sát nhà quản trị
công ty là sự cấu thành và tỷ lệ phần trăm thành viên độc lập trong HĐQT (Fama &
Jensen, 1983; Jensen & Meckling, 1976).
HĐQT đƣợc kiểm soát chủ yếu bởi các thành viên độc lập thì có khả năng
giám sát và kiểm soát nhà quản trị tốt hơn (Dunn, 1987). Nhƣ đã đƣợc đề xuất bởi
Patton & Baker (1987), một HĐQT độc lập sẽ khuyến khích nhà quản trị tập trung
nhiều hơn vào hiệu quả hoạt động dài hạn của công ty hơn là đƣa ra những hành
động trong ngắn hạn để gia tăng nhanh chóng trên thị trƣờng chứng khoán. Trên
thực tế, HĐQT đƣợc kiểm soát chủ yếu bởi các thành viên độc lập bên ngoài để
giúp loại bỏ vấn đề đại diện bằng việc giám sát và kiểm soát hành vi mang tính cơ
hội của nhà quản trị (Jensen & Meckling, 1976). Họ làm điều này bằng việc đảm
bảo rằng nhà quản trị không là ngƣời đánh giá đơn thuần hiệu quả hoạt động của
riêng họ (Baysinger & Hoskisson, 1990; Pearce & Zahra, 1992), ảnh hƣởng đến
chất lƣợng của sự thận trọng và quyết định của nhà quản trị do bởi tính độc lập,
chuyên môn, uy tín, và mối liên hệ (Grace & cộng sự, 1995) và quan ngại với việc
duy trì tiếng tăm của họ với thị trƣờng lao động bên ngoài (Fama & Jensen, 1983).
Chủ sở hữu công ty với nhà quản trị tham gia vào HĐQT có thể mong đợi
rằng nhà quản trị sẽ tối đa hóa hành vi quản trị và sẽ phân biệt giữa quyết định tốt
35
và xấu đƣợc thực hiện bởi nhà quản trị (Byrd & Hickman, 1992). Một số nghiên
cứu cho rằng các đối tƣợng có liên quan ngoài công ty thƣờng đòi hỏi sự xuất hiện
của thành viên HĐQT độc lập bên ngoài để giám sát lợi ích của họ (Fiegener &
cộng sự, 2000; Gompers & Lerner, 2001; Gorman & Sahlman, 1989; Huse, 1998;
Mitchell & cộng sự, 1997; Pruthi & cộng sự, 2003). Tỷ lệ thành viên độc lập cao sẽ
dẫn đến hoạt động giám sát tốt hơn (Booth & cộng sự, 2002). Kết quả là, thành viên
độc lập bên ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát quy trình chuẩn bị
báo cáo tài chính của nhà quản trị (Beekes & cộng sự, 2004; Frankel & cộng sự,
2011; Lynall & cộng sự, 2003; Mather & Ramsay, 2006).
Một số nghiên cứu trƣớc đây chỉ ra tác động tích cực của thành viên bên
ngoài lên quyết định của công ty nhằm mục đích gia tăng tài sản của cổ đông (Bai
& cộng sự, 2004; Cravens & Wallace, 2001; Choi & cộng sự, 2007; Cotter & cộng
sự, 1997) và tác động lên việc kiểm soát quản trị lợi nhuận mang tính cơ hội
(Beasley, 1996; Dechow & cộng sự, 1996; Peasnell & cộng sự, 2000). Công ty với
thành viên HĐQT độc lập hơn sẽ có chất lƣợng lợi nhuận cao hơn thông qua việc
hạn chế quản trị lợi nhuận. Dechow và cộng sự (1996) và Beasley (1996) sử dụng
số liệu của Mỹ và tìm thấy rằng công ty với HĐQT đƣợc kiểm soát bởi thành viên
bên ngoài ít có khả năng tham gia vào các hành vi gian lận kế toán. Xie và cộng sự
(2003) báo cáo rằng quản trị lợi nhuận ít có khả năng xảy ra tại công ty với HĐQT
mà bao gồm thành viên độc lập bên ngoài. Ajinkya và cộng sự (2005) chỉ ra rằng
công ty Mỹ mà có tỷ lệ thành viên bên độc lập bên ngoài cao thì nhiều khả năng sẽ
đƣa ra các dự báo về lợi nhuận chính xác hơn và đem lại nhiều thông tin hữu ích
cho nhà đầu tƣ. Peasnell và cộng sự (2000, 2005) thấy rằng quản trị lợi nhuận mang
tính cơ hội của công ty tại Anh đƣợc giảm thiểu bằng việc gia tăng tỷ lệ các thành
viên không tham gia điều hành. Sử dụng dữ liệu các công ty tại Canada, Park và
Shin (2004) thấy rằng tỷ lệ thành viên bên ngoài trong HĐQT giúp giảm mức độ
quản trị lợi nhuận.
Tại Hy Lạp, Dimitropoulos và Asteriou (2010) xác định công ty với tỷ lệ
thành viên bên ngoài lớn hơn báo cáo lợi nhuận với chất lƣợng cao hơn (đo lƣờng
36
thông qua khoản dồn tích tự quyết hay bất thƣờng. Sử dụng dữ liệu tại Pháp và
Canada, Jouber và Fakhfakh (2011) thấy rằng HĐQT ít độc lập hơn đi kèm với
quản trị lợi nhuận lớn hơn. Đối với công ty Trung Quốc, Firth và cộng sự (2007) và
Lai và Tam (2007) cũng thấy rằng thành viên độc lập có mối liên hệ với quản trị lợi
nhuận thấp hơn. Jaggi và cộng sự (2009) chứng minh rằng HĐQT độc lập của các
công ty ở Hong Kong đã giám sát vấn đề quản trị lợi nhuận một cách hiệu quả và đề
xuất rằng tính độc lập của HĐQT quan trọng trong việc đảm bảo báo cáo tài chính
chất lƣợng cao. Tại Ý, Marra và cộng sự (2011) chỉ ra rằng sự xuất hiện của đại đa
số thành viên độc lập giúp giảm vấn đề quản trị lợi nhuận.
1.4.3. Chất lượng kiểm toán
Ban kiểm toán nội bộ/ban kiểm soát đƣợc định nghĩa là các thành viên đƣợc
công ty chọn để tham gia giám sát chính sách, quy trình kế toán, và chất lƣợng báo
cáo tài chính của công ty. Để có thể quản trị công ty tốt hơn và đảm bảo tính đầy đủ
và chính xác của BCTC thì ban kiểm toán phải là một bộ phận tích hợp trong cơ cấu
quản trị của công ty và là bộ phận đƣợc ủy quyền bởi ban giám đốc để hỗ trợ cho
ban giám đốc trong việc đƣa ra các tham vấn về rủi ro, kiểm soát, và quản trị trong
công ty. Vai trò của ban kiểm toán là giám sát tính minh bạch và liêm chính của báo
cáo tài chính cung cấp bởi bên quản lý công ty.
Ban kiểm toán nội bộ/ban kiểm soát đóng vai trò quan trọng trong việc giám
sát hoạt động tài chính của công ty (Xie, Davidson III & DaDalt, 2003). Ban kiểm
toán cũng giám sát chính sách, kế toán, và chất lƣợng báo cáo tài chính. Ban này
cũng giúp hạn chế xung đột lợi ích giữa bên sở hữu và giám đốc công ty (Menon,
Jaworski & Kohl, 1997). Việc lập ban kiểm toán trong công ty cho thấy tầm quan
trọng của cơ chế quản trị công ty (Saidin, 2007). Cadbury (1992) cho rằng ban kiểm
toán đƣợc xem là cơ chế quản trị giúp bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu công ty và giúp
cải thiện chất lƣợng kiểm toán, từ đó đạt đƣợc tính minh bạch trong báo cáo tài
chính. Ban kiểm toán đem lại những lợi ích sau: (1) tăng cƣờng mức độ độc lập của
kiểm toán ngoài; (2) tăng cƣờng độ tin cậy của báo cáo tài chính đƣợc kiểm toán;
(3) đảm bảo lợi ích mà chính sách công ty đem lại cho chủ sở hữu và cộng đồng; (4)
37
củng cố vị thế của kiểm toán nội bộ; (5) cải thiện hoạt động của ban quản trị cấp cao
và giúp ban giám đốc trao đổi với kiểm toán ngoài hiệu quả hơn (Okaro & Okafor,
2014).
Chitrabhan và Sen (2003) cho rằng ban kiểm toán đóng vai trò hiệu quả trong
việc nâng cao tính độc lập của kiểm toán công ty và cho phép kiểm toán viên đƣa ra
đánh giá độc lập mà không có áp lực từ hội đồng quản trị công ty. Công ty không có
ban kiểm toán có khả năng báo cáo số liệu trên báo cáo tài chính một cách cƣờng
điệu hóa (DeFond & Jiambalvo, 1991).
Ban kiểm toán đƣợc xem là yếu tố chính tác động đến chất lƣợng báo cáo tài
chính (Salehi, Zanjirdar & Zarei, 2012). Vì nhà quản trị có ít sự tƣơng tác với chủ
công ty nên giữa hai bên có thể tồn tại một sự không tin tƣởng nhất định. Ban kiểm
toán sẽ xóa bỏ sự ngờ vực giữa hai bên thông qua tính chuẩn xác của báo cáo tài
chính. Ban kiểm toán hiệu quả sẽ giúp cân bằng lợi ích giữa hai bên (Chan & Li,
2008). Nhƣ vậy, ban kiểm toán tốt giúp giảm xung đột đại diện giữa nhà quản trị và
chủ sở hữu (Mohiuddin & Karbhari, 2010).
Chất lƣợng kiểm toán cũng giúp nhà đầu tƣ đánh giá tiềm năng công ty dựa
trên báo cáo tài chính để đƣa ra quyết định tài chính của mình (Chen & cộng sự,
2015; Herbohn, Ragunathan & Garsden, 2007; Zureigat, 2010). Chất lƣợng kiểm
toán sẽ bảo đảm với nhà đầu tƣ rằng báo cáo tài chính đã đƣợc kiểm soát kỹ lƣỡng
và phản ánh đúng tình hình hoạt động công ty (Al-Ajmi, 2009). DeAngelo và
Masulis (1980) cho rằng kiểm toán viên sẽ báo cáo bất kỳ sự vi phạm của công ty
trong quy trình kế toán và ghi lại trong báo cáo kiểm toán (Vanstraelen, 2000).
Kilgore (2007) đề xuất sử dụng quy mô và uy tín của công ty kiểm toán để đánh giá
chất lƣợng kế toán.
Các công ty thuộc nhóm công ty hàng đầu (Big 4) đƣợc cho là có nguồn lực
tốt hơn các công ty khác trong công tác kiểm toán (Okike, 2007). Đội ngũ kiểm
toán có tác động tới chất lƣợng kiểm toán công ty (DeZoort, Hermanson,
Archambeault và Reed, 2002). Cam kết của nhân viên kiểm toán về khả năng
38
chuyên môn cũng nhƣ quy tắc đạo đức đối với công tác kiểm toán cũng tác động tới
chất lƣợng kiểm toán (Atoeijeri & Annafaabi, 2008). Các yếu tố liên quan tới kế
toán – kiểm toán công ty gần đây cũng đƣợc cho là có liên quan tới chất lƣợng lợi
nhuận (Cascino, Pugliese, Mussolino & Sansone, 2010). Dựa trên chất lƣợng thông
tin kế toán thì hai lý thuyết với các quan điểm đối nghịch nhau đƣợc đƣa ra liên
quan tới lý thuyết cân bằng lợi ích (alignment) và lý thuyết chiếm đoạt tài sản
(Barber & Dutta, 2000; Jensen & Meckling, 1976; Yang, Aydın, Babich & Beil,
2009).
Dịch vụ kiểm toán đƣợc xem nhƣ cơ chế giám sát mà công ty đòi hỏi để cung
cấp bằng chứng rằng họ cung cấp BCTC đáng tin cậy cho các bên có liên quan chủ
yếu là nhà đầu tƣ và chủ nợ. Các nghiên cứu hiện tại tập trung vào tác động của
công ty đƣợc kiểm toán so với công ty không đƣợc kiểm toán và liệu công ty kiểm
toán Big 4 có cung cấp chất lƣợng kiểm toán tốt hơn các công ty không thuộc Big 4
(Cascino & cộng sự, 2010; DeAngelo & Masulis, 1980; Van Tendeloo &
Vanstraelen, 2008). Cascino và cộng sự (2010) nghiên cứu các công ty sở hữu gia
đình niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán và tìm thấy vai trò của công ty kiểm toán
nổi tiếng trong việc gia tăng chất lƣợng lợi nhuận công ty.
Tranh luận của DeAngelo và Masulis (1980) về việc gia tăng chất lƣợng
kiểm toán tăng cƣờng mức độ tuân thủ của công ty đƣợc kiểm chứng. Van Tendeloo
và Vanstraelen (2008) xem xét mẫu nghiên cứu bao gồm các công ty tƣ nhân tại
châu Âu bao gồm Bỉ, Phần Lan, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha, và Anh và chứng
minh rằng công ty kiểm toán lớn giúp hạn chế quản trị lợi nhuận của công ty nhiều
hơn tại các quốc gia có sự điều chỉnh thuế cao. Kosi và Valentincic (2013) phân tích
công ty tƣ nhân sử dụng BCTC thay cho sự tƣơng tác của mình với thị trƣờng thì
kiểm toán viên hạn chế việc sử dụng thuế để đạt lợi ích của những công ty này.
Burgstahler, Hail, và Leuz (2006) và Francis và Wang (2008) nghiên cứu tác động
của kiểm toán lên chất lƣợng lợi nhuận khi phân tích chất lƣợng lợi nhuận giữa các
quốc gia. Nghiên cứu chỉ ra tác động của Big 4 trong việc giúp tăng cƣờng chất
lƣợng lợi nhuận tại các quốc gia có chế độ bảo hộ nhà đầu tƣ khắt khe.
39
1.4.4. Khả năng thanh khoản
Tính thanh khoản thƣờng đƣợc sử dụng để đánh giá xếp hạng tín dụng công
ty và đánh giá khả năng thanh khoản, cung cấp vốn của công ty trong tình trạng cấp
thiết (Kim-Soon, Rahman & Visvalingam, 2014; Narenhra, 2013; Platt & Platt,
1990). Chỉ số thanh khoản đƣợc xem là chỉ số đánh giá vị thế tài chính của công ty
và dự báo khả năng thành công hay thất bại của công ty cũng nhƣ là nguy cơ phá
sản. Kim-Soon và cộng sự (2014), Delen, Kuzey và Uyar (2013) tìm thấy mối quan
hệ cùng chiều giữa tính thanh khoản và vị thế tài chính của công ty. Tính thanh
khoản càng cao thì vị thế tài chính của công ty càng cao. Các chỉ số thƣờng đƣợc sử
dụng để đo lƣờng tính thanh khoản của công ty trong giai đoạn ngắn hạn hay khả
năng trả nợ của công ty thƣờng là tỷ lệ tiền mặt, hệ số khả năng thanh toán nhanh
(quick ratio), và hệ số khả năng thanh toán tức thời (current ratio). Những tỷ lệ này
giúp đánh giá hiệu quả tài chính và khả năng phá sản của công ty (Mohammed
Fathi, Cyril Eze & Guan Gan Goh, 2011). Tỷ lệ các yếu tố này càng cao thì biên độ
an toàn mà công ty có thể giải quyết các khoản nợ ngắn hạn càng lớn. Hassan và
Bello (2013) tìm thấy mối quan hệ ngƣợc chiều giữa tính thanh khoản và chất lƣợng
lợi nhuận của các công ty sản xuất tại Nigeria. Tƣơng tự, Hassan và Bello (2013)
cũng cho thấy tác động nghịch giữa tỷ lệ thanh khoản và chất lƣợng lợi nhuận của
công ty sản xuất tại Nigeria. Takhtaei và Mousavi (2012) cho rằng công ty với tính
thanh khoản thấp thƣờng tiết lộ thông tin của công ty ra thị trƣờng nhiều hơn cho
nên tính thanh khoản có liên hệ với khả năng công bố thông tin cũng nhƣ là chất
lƣợng lợi nhuận công ty.
Ngƣợc lại, một số công trình nghiên cứu lại quan sát thấy mối quan hệ cùng
chiều giữa tính thanh khoản và chất lƣợng lợi nhuận. Hamidzadeh và Zeinali (2015)
nghiên cứu các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Tehran trong giai
đoạn 2007 – 2011 để đánh giá tác động của tính thanh khoản lên chất lƣợng lợi
nhuận công ty. Kết quả nghiên cứu chỉ ra tác động cùng chiều của tính thanh khoản
đối với chất lƣợng lợi nhuận công ty. Mức độ thanh khoản càng cao thì chất lƣợng
lợi nhuận càng tốt. Bhattacharya, Ecker, Olsson, và Schipper (2011) phân tích mối
40
quan hệ giữa tính thanh khoản và chất lƣợng lợi nhuận của công ty niêm yết trên thị
trƣờng chứng khoán New York và NASDAQ trong giai đoạn 1998 – 2005 và thấy
rằng chất lƣợng lợi nhuận thấp khiến cho tình trạng thông tin bất cân xứng trở nên
trầm trọng và tính thanh khoản cổ phiếu giảm. Chitra B Bhattacharya, Sen, và
Korschun (2008) cũng phân tích mối liên hệ giữa chất lƣợng lợi nhuận và thông tin
bất cân xứng và minh chứng rằng chất lƣợng lợi nhuận thấp làm gia tăng vấn đề bất
cân xứng thông tin trên những thị trƣờng có thông tin yếu kém.
1.4.5. Tăng trưởng doanh thu
Kết quả của các nghiên cứu trƣớc đây chỉ ra sự khác nhau trong tác động của
tăng trƣởng doanh thu lên chất lƣợng lợi nhuận. Lý thuyết cạnh tranh cho rằng lợi
nhuận tăng thêm dựa trên tăng trƣởng doanh thu của công ty có tính ổn định và bền
vững cao hơn là lợi nhuận tăng thêm dựa trên cắt giảm chi phí (Porter & Strategy,
1980). Lý thuyết này chỉ ra rằng phần lợi nhuận tăng thêm dựa trên tăng trƣởng
doanh thu cho thấy tính duy trì của lợi nhuận cao hơn. Vì quản trị doanh thu thƣờng
đƣợc xem là phức tạp hơn quản trị chi phí (Ertimur, Livnat & Martikainen, 2003)
cho nên công ty với thu nhập gia tăng dựa trên tăng trƣởng doanh thu thì ít có khả
năng sử dụng khoản dồn tích kế toán, khoản mục đặc biệt, hay mua lại cổ phiếu để
điều chỉnh lợi nhuận báo cáo.
Ngoài ra, doanh thu đƣợc xem là yếu tố đóng vai trò then chốt trong lợi
nhuận công ty và tính bền vững của lợi nhuận có mối liên hệ trực tiếp với hiệu quả
hoạt động công ty (Holliday, 2000; Lundholm & O'keefe, 2001; Penman, 2007).
Nhƣ vậy, gia tăng lợi nhuận dựa trên chiến lƣợc tăng trƣởng doanh thu mang lại kết
quả lợi nhuận cao hơn. Cũng có một số trƣờng hợp lợi nhuận gia tăng là do bởi vấn
đề quản trị lợi nhuận của công ty (Burgstahler & Dichev, 1997). Tuy nhiên, quản trị
lợi nhuận thƣờng chỉ ảnh hƣởng tới lợi nhuận trong ngắn hạn chứ không giúp duy
trì lợi nhuận trong dài hạn nhƣ là khi có sự tham gia của tăng trƣởng doanh thu
(Sunder & Cyert, 1997). Nhƣ vậy, lợi nhuận có chất lƣợng cao khi nó đƣợc hỗ trợ
bởi tăng trƣởng doanh thu chứ không phải cắt giảm chi phí (Ghosh & Moon, 2005).
41
Hơn nữa, việc điều chỉnh lợi nhuận thông qua doanh thu cũng khó hơn thông qua
chi phí (Penman, 2007).
Sử dụng dữ liệu nghiên cứu gồm 391 công ty tại Mỹ trong giai đoạn 2003 –
2007, Peni và Vähämaa (2010) chứng minh tác động tích cực của tăng trƣởng doanh
số đến chất lƣợng khoản dồn tích của công ty. Độ lệch chuẩn cao của doanh số cho
thấy tính không chắc chắn trong môi trƣờng hoạt động, và chất lƣợng lợi nhuận
thƣờng giảm khi có sự biến động trong doanh số. Nghiên cứu 1725 công ty hoạt
động tại Mỹ trong giai đoạn 1987 – 1999, Dechow và Dichev (2002) xác định tác
động của biến động doanh thu tới môi trƣờng hoạt động của công ty. Nghiên cứu
cho rằng chất lƣợng khoản dồn tích sẽ càng thấp khi biến động doanh thu của công
ty càng cao. Hơn nữa, sự biến động thấp trong doanh thu đi kèm với biến động cao
trong dòng tiền hoạt động thƣờng xuất phát từ chi phí cố định cao hay là thực thi
quản trị tiền mặt kém. Công ty có tăng trƣởng cao thì lợi nhuận thƣờng ít ổn định
(Nissim & Penman, 2000). Khi công ty tăng trƣởng thì lợi nhuận cũng thay đổi theo
và vì vậy tính duy trì hay tính ổn định của lợi nhuận cũng thay đổi theo chiều hƣớng
tiêu cực. Ngoài ra, tăng trƣởng doanh thu cũng đi kèm với khả năng mắc lỗi đo
lƣờng lớn hơn và nguy cơ điều chỉnh lợi nhuận cao hơn (Richardson, Sloan,
Soliman & Tuna, 2005).
Công ty tăng trƣởng thƣờng cho thấy yếu kém trong công tác quản lý nội bộ
(Ashbaugh & cộng sự, 2004; Doyle, Ge & McVay, 2007), ít minh bạch hơn, có
nhiều khả năng liên quan tới quản trị lợi nhuận theo chủ nghĩa cơ hội (Geiger &
North, 2006), và thƣờng có thông tin bất cân xứng cao hơn các công ty khác, độ trễ
trong chính sách công ty cũng cao hơn (Lambert & Larcker, 1987; Yermack, 1995).
Quản trị lợi nhuận không minh bạch sẽ dẫn đến tính xung đột trong lợi nhuận kỳ
vọng của công ty (Smith Jr & Watts, 1992). Vì vậy, giám đốc đƣợc mong đợi là sẽ
gia tăng giá trị công ty thông qua giá trị cổ phiếu trên thị trƣờng (Smith Jr & Watts,
1992). Matsumoto (2002) cho rằng công ty tăng trƣởng quan ngại về việc điều
chỉnh giảm lợi nhuận của mình. Kết quả là Richardson (2003) thấy rằng công ty
tăng trƣởng thƣờng điều chỉnh tuyên bố lợi nhuận phổ biến hơn các công ty khác.
42
Công ty tuyên bố lại lợi nhuận có khoản dồn tích trong năm lớn hơn đƣợc cho là do
bóp méo lợi nhuận trong công ty. Do bởi sự thiếu minh bạch trong hành vi quản trị
của những công ty này mà khả năng điều chỉnh lợi nhuận sẽ cao hơn trong các công
ty tăng trƣởng.
1.4.6. Khả năng sinh lời
Thông tin kế toán chất lƣợng tốt cung cấp những đánh giá chính xác hơn về
lợi nhuận kỳ vọng của công ty trong tƣơng lai. Công ty với lợi nhuận cao có khả
năng cung cấp thông tin chất lƣợng tốt để có thể ƣớc tính giá trị thực của công ty
chính xác hơn (Lin & Wu, 2014). Lợi nhuận có tác động đến chất lƣợng lợi nhuận
của công ty (Hamidzadeh & Zeinali, 2015). Lợi nhuận càng cao thì vị thế tài chính
của công ty càng cao và thanh khoản công ty cũng cao hơn. Điều này làm gia tăng
động thái của công ty trong việc báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của mình
với chất lƣợng tốt. Khajavi, Ghadirian-Arani, và Fattahi-Nafchi (2016) nghiên cứu
mối liên hệ giữa chất lƣợng lợi nhuận và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và
tìm thấy rằng lợi tức cổ phiếu bị ảnh hƣởng bởi khoản cộng dồn.
Patricia Dechow và cộng sự (2010) đánh giá yếu tố quan trọng trong các
nhân tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận trong các nghiên cứu trƣớc đây. Từ đó
nghiên cứu rút ra đƣợc 5 nhóm nhân tố liên quan tới chất lƣợng lợi nhuận công ty:
(1) đặc điểm công ty bao gồm hiệu quả hoạt động, cấu trúc vốn, cơ hội tăng trƣởng,
và quy mô công ty; (2) yếu tố thực tiễn bao gồm vận dụng chính sách kế toán,
chuẩn mực kế toán, và các quy định liên quan tới báo cáo tài chính công ty; (3)
quản trị công ty bao gồm đặc điểm hội đồng quản trị, cấu trúc sở hữu, chế độ đãi
ngộ, cơ chế kiểm soát nội bộ; (4) động lực thị trƣờng khi công ty gia tăng vốn thông
qua phát hành cổ phiếu trên thị trƣờng hay khi công ty đạt đƣợc lợi nhuận mục tiêu;
(5) các nhân tố bên ngoài nhƣ đặc điểm thị trƣờng, diễn trình chính trị, và các quy
định về thuế.
Waweru và Riro (2013) cũng dựa trên mô hình Jones điều chỉnh và mô hình
của Kothari, Leone, và Wasley (2005) để nghiên cứu mối quan hệ giữa chất lƣợng
43
lợi nhuận và đặc điểm công ty. Phân tích dữ liệu bảng của 37 công ty niêm yết trên
sàn chứng khoán Nairobi tại Kenya trong giai đoạn 2006 – 2010, nghiên cứu chứng
minh rằng đặc điểm công ty (cấu trúc sở hữu, quy mô công ty, hiệu quả hoạt động,
và đòn bẩy tài chính) và quản trị công ty (tính độc lập của ủy ban kiểm toán và tính
độc lập của hội đồng quản trị) có tác động đến chất lƣợng lợi nhuận.
Lợi nhuận là một trong những đặc trƣng của công ty cũng đƣợc xác định có
tác động lớn lên chất lƣợng lợi nhuận công ty. Hashem và cộng sự (2012) cho thấy
ROA đƣợc sử dụng nhƣ biến đại diện cho hiệu quả hoạt động công ty có mối quan
hệ cùng chiều với quản trị lợi nhuận, mà chỉ ra rằng khi có sự gia tăng trong hiệu
quả hoạt động công ty, có sự gia tăng trong sự bóp méo lợi nhuận. Kết quả là chất
lƣợng lợi nhuận báo cáo không chính xác. Davidson, Stewart, và Kent (2005) và
Klein (2002b) cũng tìm thấy cùng kết quả rằng sự thay đổi trong lợi nhuận ảnh
hƣởng đến sự bóp méo của khoản dồn tích kế toán. Vì vậy, chất lƣợng lợi nhuận của
công ty thấp. Ngƣợc lại, Nelson và George (2013), Alsaeed (2006), và Haniffa và
Cooke (2002) không tìm thấy mối quan hệ giữa hiệu quả hoạt động và quản trị lợi
nhuận.
44
Bảng 1.3. Tổng hợp các nhân tố tác động đến chất lƣợng lợi nhuận
Nhân tố Liên hệ đến chất lƣợng lợi nhuận Nghiên cứu
Dẫu công ty có nhiều nhu cầu về vốn để thúc đẩy hoạt động đầu tƣ nhƣng Bharath và cộng sự (2008), Giới hạn giới hạn tài chính lại cản trở việc huy động nguồn vốn của công ty. Vì García-Teruel và cộng sự (2014). vậy, công ty thƣờng can thiệp vào số liệu trên BCTC để có thể thu hút tài chính
nguồn tài trợ. Tuy nhiên, điều này lại khiến cho CLLN suy giảm.
HĐQT có thể can thiệp vào quyết định tài chính hay hành vi của nhà quản Bai và cộng sự (2004), Cravens Tính độc lập trị. Vì vậy HĐQT với số lƣợng thành viên độc lập càng nhiều thì nhà quản và Wallace (2001), Choi và cộng của HĐQT trị sẽ hạn chế quản trị lợi nhuận. CLLN của công ty cũng đƣợc cải thiện. sự (2007).
Bên kiểm toán giúp giám sát chính sách, quy trình kế toán, cũng nhƣ là
chất lƣợng BCTC của công ty. Vì vậy, khi chất lƣợng kiểm toán đƣợc cải Bhattacharya và cộng sự (2012), Chất lƣợng
thiện, công ty sẽ ít khả năng thực hiện quản trị lợi nhuận. CLLN từ đó Mohiuddin và Karbhari (2010). kiểm toán
cũng đƣợc nâng cao.
Công ty với khả năng thanh khoản cao ít cho thấy khả năng quản trị lợi Hamidzadeh và Zeinali (2015); Khả năng
nhuận vì công ty không cần phải bóp méo lợi nhuận nhằm thu hút nguồn Bhattacharya và cộng sự (2012). thanh khoản
45
quỹ tài trợ trên thị trƣờng. Điều này giúp nâng cao CLLN của công ty.
Doanh thu là yếu tố đảm bảo cho việc gia tăng lợi nhuận của công ty. Gia
tăng doanh thu sẽ khó hơn việc giảm chi phí, và công ty hoạt động hiệu Yu và cộng sự (2010); Ghosh và Tăng trƣởng
quả mới có thể gia tăng doanh thu. Vì vậy, khi doanh thu cao, công ty sẽ ít Moon (2010) doanh thu
có động cơ điều chỉnh lợi nhuận. CLLN của công ty đƣợc cải thiện.
Lợi nhuận biến động hay cao quá mức là dấu hiệu cho thấy vấn đề quản Hashem và cộng sự (2012); Khả năng trị lợi nhuận của công ty. Chính hành vi can thiệp này làm cho CLLN của Davidson, Stewart, và Kent sinh lời công ty suy giảm. (2005)
Nguồn: Tổng hợp của tác giả.
46
1.5. Nghiên cứu có liên quan đến chất lƣợng lợi nhuận ở Việt Nam
Một số ít các nghiên cứu trong nƣớc có liên quan đến chất lƣợng lợi nhuận là
các nghiên cứu về quản trị lợi nhuận. Cụ thể, tác giả Đƣờng Nguyễn Hƣng (2013)
chỉ phân tích các khái niệm khác nhau về quản trị lợi nhuận và hƣớng điều chỉnh lợi
nhuận nhìn chung trong các công ty. Tƣơng tự, tác giả Phạm Thị Bích Vân (2014)
cũng nêu ra định nghĩa về quản trị lợi nhuận, các hình thức quản trị lợi nhuận, và sự
khác nhau giữa các hình thức quản trị lợi nhuận. Tác giả Phạm Thị Bích Vân (2012)
nghiên cứu mẫu 54 công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh
(HOSE) vào năm 2010. Dựa theo kết quả phân tích, tác giả thấy rằng mô hình Jones
điều chỉnh không hiệu quả trong việc giúp nhận diện hành vi bóp méo lợi nhuận của
các công ty trên sàn HOSE. Yếu điểm của nghiên cứu này là chỉ nghiên cứu tại một
thời điểm và số lƣợng công ty hạn chế trên một sàn chứng khoán cho nên chƣa xác
định đƣợc tính ứng dụng của mô hình.
Tuy nhiên, nghiên cứu cho mẫu dữ liệu lớn hơn bao gồm 267 công ty trên
sàn HOSE trong giai đoạn 2008 – 2011 đã chỉ ra tính phù hợp của mô hình Jones
điều chỉnh trong việc giúp phát hiện hành vi bóp méo lợi nhuận tại các công ty Việt
Nam (Nguyễn Trọng Nguyên, 2015). Ngoài ra, nghiên cứu còn thay biến tài sản cố
định bằng biến khấu hao tài sản cố định và đƣa thêm biến dự phòng vào mô hình
nghiên cứu để tinh chỉnh mô hình Jones điều chỉnh. Kết quả hồi quy cho rằng mô
hình điều chỉnh của Jones phù hợp với các công ty niêm yết trên sàn HOSE. Biến
dự phòng đƣợc đƣa thêm vào mô hình nghiên cứu không ảnh hƣởng đến việc phát
hiện vấn đề bóp méo lợi nhuận. Tác giả Nguyễn Công Phƣơng (2017) sử dụng mô
hình Jones điều chỉnh để xem xét hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty phát
hành thêm cổ phần mới tại Việt Nam trong năm 2015. Kết quả nghiên cứu tìm thấy
75% các công ty trong mẫu nghiên cứu có dấu hiệu điều chỉnh lợi nhuận cao hơn so
với giá trị thực vào thời điểm một quý trƣớc khi phát hành cổ phần mới ra thị
trƣờng.
Tác giả Đặng Ngọc Hùng (2015) xác định lý do bóp méo lợi nhuận của công
ty. Nghiên cứu dữ liệu 193 công ty niêm yết tại Việt Nam trong giai đoạn 2011 –
47
2014, tác giả thấy rằng khi thuế thu nhập công ty tăng cao vào năm 2013 thì các
công ty có xu hƣớng điều chỉnh giảm lợi nhuận. Ngƣợc lại vào các năm trƣớc và
sau năm 2013 thì các công ty thƣờng điều chỉnh tăng lợi nhuận. Ngoài ra, nghiên
cứu cũng chứng minh rằng việc điều chỉnh tăng lợi nhuận không phụ thuộc vào quy
mô công ty (đo lƣờng bằng doanh thu). Tác giả Phạm Thị Bích Vân (2015) phân
tích quản trị lợi nhuận thông qua hai khía cạnh là khoản dồn tích và giao dịch thực.
Dữ liệu nghiên cứu bao gồm 111 công ty phát hành cổ phiếu trên sàn HOSE trong
năm 2011. Kết quả cho thấy nhà quản trị của các công ty này thƣờng điều chỉnh lợi
nhuận bằng cách can thiệp vào các khoản dồn tích và các giao dịch thực.
Bên cạnh việc ứng dụng mô hình vào nghiên cứu chất lƣợng lợi nhuận, các
công trình nghiên cứu trong nƣớc cũng lần lƣợt chỉ ra các nhân tố quyết định chất
lƣợng lợi nhuận của công ty Việt Nam. Tác giả Dƣơng Nguyễn Thanh Tâm (2013)
xem xét tác động của cấu trúc vốn tới chất lƣợng lợi nhuận đối với các công ty niêm
yết trên HOSE trong giai đoạn 2008 – 2011. Biến đại diện cho chất lƣợng lợi nhuận
là tỷ lệ khoản dồn tích trên tổng tài sản. Cấu trúc vốn đƣợc đánh giá dựa trên nợ
ngắn hạn, dài hạn, và khoản phải trả ngƣời bán. Kết quả nghiên cứu chỉ ra tác động
tích cực của nợ ngắn hạn, dài hạn, và khoản phải trả ngƣời bán đến chất lƣợng lợi
nhuận.
Tác giả Nguyễn Thị Phƣơng Hồng (2016) phân tích 23 nhân tố tác động đến
chất lƣợng báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng
khoán Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy 17 trong số 23 nhân tố đề xuất có tác
động đến chất lƣợng lƣợng báo cáo tài chính. Nghiên cứu này khá hữu ích đối với
các đối tƣợng nhƣ nhà quản trị, kế toán viên, nhà đầu tƣ, ủy ban chứng khoán nhà
nƣớc, và các cơ quan lập sách trong việc đƣa ra các giải pháp giúp nâng cao chất
lƣợng thông tin trên báo cáo tài chính. Đồng thời, dựa trên kết quả của nghiên cứu
này thì các đối tƣợng sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính cũng sẽ đƣa ra các
quyết định của mình một cách hiệu quả nhất.
48
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trƣớc đây đã hệ thống hóa cơ sở lý
luận về chất lƣợng lợi nhuận công ty. Các nghiên cứu đa phần tập trung vào đặc
điểm công ty, kiểm soát quản lý, và thị trƣờng chứng khoán trong bối cảnh khác
nhau của từng quốc gia. Ngoài ra, ít có nghiên cứu đánh giá chất lƣợng lợi nhuận
của các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán. Thực tế này đặt
ra vấn đề cần phải tìm hiểu và đánh giá chất lƣợng lợi nhuận của các công ty niêm
yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam.
Một vấn đề mà các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán
thƣờng đối mặt là vấn đề giới hạn tài chính. Giới hạn tài chính khiến cho nguồn vốn
của công ty trở nên khan hiếm và khó thực hiện đƣợc các dự án đầu tƣ sinh lợi. Vì
vậy lợi nhuận công ty phần nào cũng bị ảnh hƣởng. Sự biến động lợi nhuận gây ra
do bởi giới hạn tài chính cũng khiến cho chất lƣợng lợi nhuận của công ty biến đổi
theo. Hiện tại, đa phần các nghiên cứu phân tích tác động của giới hạn tài chính đến
lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán. Nghiên cứu đánh
giá ảnh hƣởng của giới hạn tài chính lên chất lƣợng lợi nhuận của các công ty niêm
yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam. Việc đƣa yếu tố giới hạn tài
chính vào mô hình mang lại những thông tin hữu ích hơn cho cơ quan nhà nƣớc,
nhà quản trị công ty, ngân hàng, cũng nhƣ là nhà đầu tƣ trên thị trƣờng. Nghiên cứu
này hy vọng sẽ giúp các đối tƣợng liên quan đề ra chính sách và chiến lƣợc phù
hợp.
49
CHƢƠNG 2: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Chƣơng hai, trình bày ba mục tiêu chính: (1) đề ra các giả thuyết nghiên cứu
về tác động của từng yếu tố xem xét đến chất lƣợng lợi nhuận công ty, (2) chỉ ra
cách thức đo lƣờng biến phụ thuộc và biến độc lập, và (3) xây dựng mô hình nghiên
cứu phù hợp để kiểm định các giả thuyết đề ra. Chƣơng này, trình bày giả thuyết về
tác động của biến độc lập đến chất lƣợng lợi nhuận, cách thức đo lƣờng biến chất
lƣợng lợi nhuận (dựa theo hai phƣơng pháp) và biến độc lập (đặc biệt là giới hạn tài
chính), mô hình nghiên cứu dựa trên tiếp cận tĩnh và tiếp cận động, và cuối cùng,
các kỹ thuật phân tích dành cho hai tiếp cận này bao gồm POLS, FEM, REM, và
SGMM.
2.1. Giả thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu này đánh giá chất lƣợng lợi nhuận và các nhân tố tác động đến
chất lƣợng lợi nhuận công ty. Các công trình nghiên cứu trƣớc đây chỉ ra rằng chất
lƣợng lợi nhuận đƣợc đo lƣờng theo các cách khác nhau, và thƣờng phụ thuộc vào
đặc điểm công ty nhƣ đòn bẩy tài chính, quy mô, lợi nhuận, doanh thu, hay cổ tức
(Parte-Esteban & García, 2014; Mai Thị Hoàng Khánh & Nguyễn Vĩnh Khƣơng,
2018). Bên cạnh đó, yếu tố quản trị chẳng hạn nhƣ quyết định của ban quản trị và
quy trình kiểm toán cũng liên quan đến chất lƣợng lợi nhuận (Hope & cộng sự,
2013; Sepasi & cộng sự, 2016; Waweru & Riro, 2013). Từ đó, nghiên cứu chọn ra
một số nhân tố đƣợc xem là có liên quan trực tiếp đến chất lƣợng lợi nhuận nhƣ đòn
bẩy tài chính, quy mô công ty, cổ tức, thanh khoản, doanh thu, lợi nhuận, kiểm toán,
và tính độc lập của HĐQT. Gần đây, một số nghiên cứu chỉ ra rằng công ty tại các
quốc gia đang phát triển thƣờng gánh chịu các vấn đề giới hạn tài chính. Vấn đề này
khiến công ty có động lực cao để thực hiện quản trị lợi nhuận do bởi hành vi này có
thể giúp công ty gia tăng tín dụng và giảm chi phí lãi vay (Ghosh & cộng sự, 2010).
Đa phần các nghiên cứu chỉ ra rằng giới hạn tài chính có thể đƣợc đánh giá thông
qua tỷ lệ chi trả cổ tức (Jang & cộng sự, 2019; Kaushik & cộng sự, 2019; Linn &
Weagley, 2019), quy mô công ty (Alm & cộng sự, 2019; Driver & Muñoz-Bugarin,
2019; Fernando & cộng sự, 2012), đòn bẩy tài chính (Chang & cộng sự, 2019; Linn
50
& Weagley, 2019), và thời gian niêm yết (Alm & cộng sự, 2019; Fernando & cộng
sự, 2012). Khác với các nghiên cứu trƣớc đây tác giả sử dụng một chỉ số liên quan
đến các yếu tố trên để đại diện cho giới hạn tài chính và đánh giá tác động của giới
hạn tài chính lên chất lƣợng lợi nhuận.
2.1.1. Giới hạn tài chính và chất lượng lợi nhuận
Các nghiên cứu kiểm nghiệm trƣớc đây thƣờng giải thích cho hành vi can
thiệp vào báo cáo về tình hình hoạt động và lợi nhuận của công ty. Công ty thƣờng
có xu hƣớng báo cáo khoản dồn tích (accruals) cao hơn khi công ty phát hành cổ
phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) (Morsfield & Tan, 2006; Teoh & cộng sự,
1998b), phát hành cổ phiếu để gia tăng vốn theo chu kỳ (Cohen & Zarowin, 2010;
Rangan, 1998; Shivakumar, 2000; Teoh & cộng sự, 1998a), và sáp nhập hay mua
lại công ty dựa trên cổ phiếu (Erickson & Wang, 1999; Louis, 2004). Nghiên cứu sẽ
lý giải mối quan hệ giữa yếu tố giới hạn tài chính và chất lƣợng lợi nhuận đối với
công ty niêm yết lần đầu tiên dựa trên hai lý thuyết là lý thuyết chủ nghĩa cơ hội
(opportunisum) và lý thuyết tín hiệu (signalling theory).
Lý thuyết chủ nghĩa cơ hội cho rằng trƣớc khi phát hành cổ phiếu ra công
chúng lần đầu, công ty thƣờng sử dụng khoản dồn tích để làm gia tăng lợi nhuận, từ
đó bóp méo giá cổ phiếu và khiến cho nhà đầu tƣ đánh giá cao quá mức giá trị của
công ty phát hành (Rangan, 1998; Teoh & cộng sự, 1998a). Tuy nhiên, sau khi phát
hành cổ phiếu thì lợi nhuận của công ty suy giảm do việc hoàn lại khoản dồn tích tự
quyết của công ty. Nhƣ vậy, giới hạn tài chính của các công ty niêm yết lần đầu
khiến cho họ phải thực hiện quản trị lợi nhuận từ đó khiến cho chất lƣợng lợi nhuận
suy giảm vì họ nghĩ rằng hành vi này sẽ giúp cổ phiếu của họ đƣợc đánh giá cao
hơn (Teoh & cộng sự, 1998b). Nói cách khác, việc báo cáo khoản dồn tích dƣơng
của công ty trƣớc khi phát hành cổ phiếu là nhằm mục đích khiến cho nhà đầu tƣ dự
đoán sai về lợi nhuận của công ty. Có hai vấn đề ở đây là nhà đầu tƣ không ý thức
về hành động này của công ty hoặc là bản thân họ không thể quan sát đƣợc. Nhìn
chung, hành vi cơ hội của công ty có thể lý giải cho mối quan hệ giữa giới hạn tài
chính và chất lƣợng lợi nhuận của công ty.
51
Lý thuyết tín hiệu cho rằng nhà quản trị sử dụng lợi nhuận để giao tiếp với
thị trƣờng về triển vọng của công ty (Gunny, 2010; Linck & cộng sự, 2013; Louis &
Robinson, 2005; Subramanyam, 1996). Louis và Robinson (2005) chỉ ra rằng việc
báo cáo khoản dồn tích dƣơng cao hơn của công ty trƣớc khi phát hành cổ phiếu
thƣờng giúp công ty có đƣợc lợi nhuận cao hơn. Tuy nhiên, hành vi này lại làm cho
chất lƣợng lợi nhuận của công ty suy giảm. Ngoài ra, còn có tranh luận rằng công ty
bị giới hạn tài chính thƣờng sử dụng khoản dồn tích cao hơn nhằm cung cấp thông
tin về triển vọng tốt của công ty đối với nhà đầu tƣ. Điều này giúp công ty có thể
tiếp cận với thị trƣờng cổ phiếu và có đƣợc nguồn quỹ đầu tƣ dễ dàng hơn IPO
(Teoh & cộng sự, 1998a; Teoh & cộng sự, 1998b).
Nhƣ vậy, cả hai lý thuyết đều giúp lý giải cho mối quan hệ giữa giới hạn tài
chính và chất lƣợng lợi nhuận đối với các công ty phát hành cổ phiếu lần đầu tiên.
Lý thuyết chủ nghĩa cơ hội cho rằng việc sử dụng khoản dồn tích giúp gia tăng lợi
ích cảm nhận và giảm chi phí mong đợi đối với công ty bị giới hạn tài chính hơn là
các công ty không bị giới hạn về tài chính, vì vậy các công ty bị giới hạn về tài
chính đƣợc mong đợi là sẽ báo cáo khoản dồn tích gia tăng dựa trên lợi nhuận nhiều
hơn. Điều này khiến cho chất lƣợng lợi nhuận của công ty giảm đi. Bên cạnh đó,
công ty bị giới hạn tài chính thƣờng gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn trên thị
trƣờng tài chính và gánh chịu chi phí giao dịch cao hơn khi vay vốn (Hennessy &
Whited, 2007). Dựa trên chủ nghĩa cơ hội thì các công ty bị giới hạn tài chính
thƣờng muốn nhấn mạnh nhiều hơn vào lợi ích cảm nhận trong ngắn hạn của hành
vi quản trị lợi nhuận của mình (có nhiều vốn bằng tiền mặt hơn nhờ vào bán cổ
phần ở mức giá cao) hơn là tiếng tăm (rủi ro kế toán và hiệu quả hoạt động kém hậu
phát hành).
Ngƣợc lại, công ty không bị giới hạn về tài chính có khả năng kiếm đƣợc
nguồn tài trợ tốt hơn và có tiếng tăm hơn, đối với các định chế tài chính thƣờng ít
chú tâm đến lợi ích ngắn hạn của quản trị lợi nhuận. Ngoài ra, vấn đề can thiệp lợi
nhuận của các công ty bị giới hạn tài chính thƣờng không bị lƣu ý bởi các nhà đầu
tƣ; tuy nhiên, trong dài hạn thì quản trị lợi nhuận của công ty bị giới hạn tài chính
52
khiến cho tỷ suất sinh lợi cổ phiếu giảm. Tất cả điều này đều hàm ý rằng giới hạn
tài chính sẽ khiến cho vấn đề can thiệp lợi nhuận trầm trọng hơn và chất lƣợng lợi
nhuận suy giảm. Stein (1989) lý luận rằng chính áp lực về thị trƣờng vốn khiến cho
các nhà quản trị nỗ lực bóp méo lợi nhuận.
Ngoài ra, so với công ty không bị giới hạn tài chính thì công ty bị giới hạn tài
chính thƣờng phải chịu áp lực thị trƣờng cao hơn. Về lý trí nhà đầu tƣ suy đoán rằng
công ty bị giới hạn tài chính thƣờng bóp méo lợi nhuận. Để phù hợp với tín hiệu
tiêu cực này đối với giá cổ phiếu vào thời điểm phát hành thì công ty bị giới hạn tài
chính sẽ điều chỉnh tăng lợi nhuận trƣớc phát hành cao hơn. Dựa trên lý thuyết tín
hiệu thì công ty bị giới hạn tài chính sẽ có nhiều khả năng tham gia vào hành vi bóp
méo lợi nhuận. Việc làm nhƣ vậy giúp công ty đƣa ra các tín hiệu tốt hơn đến nhà
đầu tƣ. Việc bóp méo lợi nhuận của công ty bị giới hạn tài chính dẫn đến sự gia
tăng bất thƣờng trong giá cổ phiếu. Tuy nhiên, trên thực tế thì công ty đã dựa vào
khoản dồn tích tự quyết để can thiệp vào dòng tiền. Điều này mang lại kết quả ở
chất lƣợng lợi nhuận thực tế của công ty kém hơn. Từ các lý thuyết và lập luận
nghiên cứu, tác giả đƣa ra giả thuyết về mối liên hệ giữa giới hạn tài chính và chất
lƣợng lợi nhuận của công ty niêm yết lần đầu tiên.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến cho các công ty tại Việt Nam gặp
nhiều khó khăn trong kinh doanh. Các công ty bị từ chối hợp đồng giao dịch, sản
phẩm tiêu thụ chậm, hàng tồn kho nhiều, và nhu cầu vốn lƣu động tăng cao. Chính
sách thắt chặt tiền tệ và hạn chế tăng trƣởng tín dụng khiến cho lãi suất vay vƣợt
ngoài khả năng công ty. Điều này khiến cho các công ty tại Việt Nam thƣờng bị
giới hạn tài chính. Dẫu các bằng chứng kiểm nghiệm chỉ cho thấy việc quản trị lợi
nhuận đối với công ty IPO. Tuy nhiên, tại Việt Nam, niêm yết cổ phiếu lần đầu
đƣợc thực hiện sau IPO nên công ty cũng sẽ có khuynh hƣớng thực hiện quản trị lợi
nhuận (Ly & Kha, 2013; Hoang, 2014). Khi niêm yết lần đầu do không đƣợc biết
đến bởi các bên tham gia trên thị trƣờng nên công ty thƣờng gặp khó khăn trong
việc tiếp cận vốn. Nhƣ vậy, giới hạn tài chính đƣợc xem là động cơ để công ty quản
trị lợi nhuận khi niêm yết cổ phiếu lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán. Riêng
53
đối với bối cảnh thị trƣờng Việt Nam thì quản trị lợi nhuận còn nghiêm trọng hơn
do nguồn lực của công ty chƣa đủ lớn mạnh và còn phụ thuộc vào vốn vay trên thị
trƣờng tài chính. Điều này gợi ý rằng, giới hạn tài chính đối với các công ty niêm
yết lần đầu tiên tại Việt Nam có thể dẫn đến vấn đề quản trị lợi nhuận nghiêm trọng
hơn và khiến cho chất lƣợng lợi nhuận suy giảm nghiêm trọng.
Giả thuyết 1: Giới hạn tài chính làm giảm chất lượng lợi nhuận của các công
ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
2.1.2. Tính độc lập của HĐQT và chất lượng lợi nhuận
Hội đồng quản trị (HĐQT) đóng vai trò tối thiết trong việc giúp giám sát
quản trị lợi nhuận của công ty cũng nhƣ bảo vệ quyền lợi cổ đông (Fama & Jensen,
1983). Đặc trƣng của HĐQT sẽ giúp cải thiện cơ chế quản trị nội bộ và gia tăng tính
hiệu quả trong việc giám sát hành vi tuân thủ của nhà quản trị đối với các quy định
của công ty. Đầu tiên, mức độ độc lập của HĐQT có tác động tích cực đến chất
lƣợng lợi nhuận (Beasley, 1996; Klein, 2002; Peasnell & cộng sự, 2005). Thực tế,
HĐQT thƣờng bao gồm chủ tịch và các thành viên độc lập (ngƣời đại diện cho cổ
đông và không ràng buộc với công ty). Tính độc lập của HĐQT càng cao thì tính kỷ
luật của nhà quản trị càng cao. Điều này giúp công ty tránh đƣợc việc các thành
viên HĐQT thông đồng với nhau để trục lợi từ cổ đông (Fama & Jensen, 1983).
Nhƣ vậy, quản trị lợi nhuận sẽ đƣợc giảm thiểu khi mức độ độc lập của HĐQT tăng
lên (Klein, 2002; Uzun & cộng sự, 2004; Peasnell & cộng sự, 2005).
Tính độc lập đề cập đến vấn đề kiêm nhiệm chức vụ của thành viên HĐQT.
Nếu một thành viên vừa giữ chức vụ chủ tịch HĐQT vừa làm giám đốc điều hành
thì điều này sẽ tạo ra xung đột nghiêm trọng về lợi ích. Khi một ngƣời nắm giữ
nhiều quyền lực thì sai phạm và gian lận sẽ diễn ra (Kumari & Pattanayak, 2014),
chất lƣợng giám sát của HĐQT giảm (Jensen & Mecking, 1976; Dechow & cộng
sự, 1996; Xie & cộng sự, 203), và báo cáo tài chính đƣợc trình bày theo lợi ích của
nhà quản trị chứ không phải chủ sở hữu (Healy, 1985). Mulgrew và Forker (2006)
tìm thấy rằng nếu chủ tịch HĐQT cũng kiêm giám đốc điều hành thì nguy cơ quản
54
trị lợi nhuận sẽ tăng cao. Charfeddine và cộng sự (2003) cho rằng trong trƣờng hợp
chủ tịch HĐQT không kiêm giám đốc điều hành thì quản trị lợi nhuận cũng tồn tại
nhƣng không nghiêm trọng. Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu không tìm thấy
mối quan hệ giữa tính độc lập của HĐQT và bóp méo lợi nhuận.
Đối với thị trƣờng Việt Nam, nhóm tác giả Đặng Ngọc Hùng và cộng sự
(2017) đã xem xét số liệu các công ty niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán Việt
Nam trong giai đoạn 2012 – 2016. Kết quả tìm thấy rằng tính độc lập của HĐQT
giúp nâng cao chất lƣợng lợi nhuận. Đặng Ngọc Hùng và cộng sự (2018) nghiên
cứu các nhân tố tác động đến quản trị lợi nhuận dựa vào khoản dồn tích. Nghiên
cứu thu thập số liệu 260 công ty niêm yết trên sở giao dich chứng khoán Việt Nam
từ 2012 đến 2016. Kết quả tìm thấy rằng tính độc lập của HĐQT làm giảm quản trị
lợi nhuận. Nhóm tác giả Trần Quốc Thịnh và cộng sự (2020) sử dụng mẫu dữ liệu
gồm 523 công ty phi tài chính niêm yết trong giai đoạn 2009 – 2016, nghiên cứu
không tìm thấy mối quan hệ ý nghĩa giữa quản trị lợi nhuận và tỷ lệ thành viên độc
lập trong HĐQT. Tƣơng tự, tác giả Nguyễn Tuấn Huy (2016) cũng không tìm thấy
mối liên hệ giữa tỷ lệ phần trăm thành viên độc lập với quản trị lợi nhuận đối với
mẫu dữ liệu gồm 570 công ty phi tài chính niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán
trong giai đoạn 2010 – 2014.
Tuy nhiên, vẫn chƣa có nghiên cứu nào đánh giá ảnh hƣởng của tính độc lập
của HĐQT đến chất lƣợng lợi nhuận của công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị
trƣờng chứng khoán. Để có thể niêm yết thành công lần đầu tiên, các công ty tại
Việt Nam phải thực hiện điều chỉnh lợi nhuận nghiêm trọng. Trong trƣờng hợp này,
vài trò của bên kiểm soát độc lập không liên quan đến công ty rất quan trọng. Công
tác giám sát của họ giúp hạn chế quản trị lợi nhuận của nhà quản trị. Đối với các
công ty niêm yết bình thƣờng, động cơ quản trị lợi nhuận không quá rõ rệt nên vai
trò của bên quản trị độc lập không nổi bật. Tuy nhiên, đối với vấn đề can thiệp
nghiêm trọng thì vai trò của họ sẽ thể hiện rõ nét.
55
Giả thuyết 2: HĐQT có tính độc lập càng cao thì chất lượng lợi nhuận của
các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trường chứng khoán Việt Nam càng được
cải thiện.
2.1.3. Chất lượng kiểm toán và chất lượng lợi nhuận
Kiểm toán ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc giảm vấn đề bất cân
xứng thông tin giữa nhà quản trị và chủ sở hữu trong công ty – nguyên nhân gây ra
vấn đề đại diện. Bằng cách thẩm định mức độ tin cậy và chính xác của báo cáo tài
chính, kiểm toán giúp gia tăng chất lƣợng thông tin tài chính và giảm thiểu quản trị
lợi nhuận. Một số nghiên cứu trƣớc đây chỉ ra tác động tích cực của chất lƣợng
kiểm toán lên chất lƣợng lợi nhuận công ty (Alzoubi, 2017; Gul & cộng sự, 2009;
Rusmin, 2010).
Sự khác biệt về chất lƣợng kiểm toán giữa công ty kiểm toán thuộc Big 4 và
không thuộc Big 4 cũng đƣợc báo cáo. Đầu tiên, dựa trên nền tảng khách hàng trên
toàn cầu, công ty kiểm toán lớn có động cơ lớn hơn để duy trì chất lƣợng kiểm toán
và tránh những rủi ro liên quan đến tiếng tăm công ty kiểm toán (Krishnan, 2003).
Công ty kiểm toán Big 4 cũng rất bảo thủ trong việc giảm thiểu quản trị lợi nhuận.
Kim và Park (2013) cho thấy rằng khi công ty có mức độ quản trị lợi nhuận cao thì
công ty kiểm toán nhiều khả năng không muốn giữ chân khách hàng. Ngoài ra, công
ty kiểm toán Big 4 đƣợc mong đợi là có nhiều nguồn lực hơn để cho phép họ thực
hiện các quy trình sâu rộng hơn để phát hiện quản trị lợi nhuận (Alzoubi, 2017;
Rusmin, 2010). Nghiên cứu trƣớc đó cho thấy rằng mức độ quản trị lợi nhuận thấp
đƣợc báo cáo đối với khách hàng của công ty kiểm toán Big 4 (Alzoubi, 2017;
Francis & Wang, 2008), trong khi đó công ty kiểm toán không phải Big 4 cho phép
vấn đề quản trị lợi nhuận lớn hơn (Singh & cộng sự, 2001).
Ngƣợc lại, một số công ty cũng cho rằng chất lƣợng kiểm toán không có tác
động hoặc sẽ làm trầm trọng quản trị lợi nhuận. Piot và Janin (2007) cho thấy rằng
không có sự khác biệt giữa kiểm toán Big 4 và kiểm toán không phải Big 4 xét về
quản trị lợi nhuận. Piot và Janin (2007) tuyên bố rằng rủi ro kiện tụng của công ty
56
kiểm toán tại Pháp không đáng kể. Vì vậy, không có sự khác biệt giữa công ty kiểm
toán Big 4 và không phải Big 4 xét về việc giảm thiểu quản trị lợi nhuận. Bằng việc
xem xét việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng tại Anh trong giai đoạn 1998
– 2008, Alhadab và Clacher (2017) thấy rằng sự xuất hiện của công ty kiểm toán
Big 4 không thể kiểm soát vấn đề quản trị lợi nhuận. Với mức độ bóp méo lợi
nhuận dựa trên chỉ tiêu tự quyết thấp, công ty mới phát hành cổ phiếu lần đầu đƣợc
kiểm toán bởi công ty Big 4 vẫn cho thấy mức độ bóp méo lợi nhuận dựa trên
doanh thu cao. Alves (2013) cũng đề cập rằng công ty kiểm toán Big 4 chỉ ra mối
quan hệ cùng chiều với quản trị lợi nhuận. Đặc biệt, Chi và cộng sự (2011) cho rằng
chất lƣợng kiểm toán cao hơn đi kèm với quản trị lợi nhuận dựa trên khoản dồn
tích.
Tại Việt Nam, nhóm tác giả Mai Thị Hoàng Khánh và Nguyễn Vĩnh Khƣơng
(2018) sử dụng mẫu dữ liệu gồm 1.687 quan sát của các công ty niêm yết tại Việt
Nam. Nghiên cứu chỉ ra rằng không có sự khác biệt giữa công ty kiểm toán Big 4 và
không phải Big 4 trong việc giảm thiểu quản trị lợi nhuận công ty. Nhóm tác giả
Phung Anh Thu và cộng sự (2018) xem xét tác động của chất lƣợng kiểm toán lên
quản trị lợi nhuận dựa trên khoản dồn tích của 29 công ty ngành năng lƣợng niêm
yết trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng phƣơng phƣơng
pháp tác động cố định và tác động ngẫu nhiên. Nghiên cứu tìm thấy rằng chất lƣợng
kiểm toán giúp hạn chế quản trị lợi nhuận. Nhóm tác giả Phạm Kim Ngọc và cộng
sự (2017) đánh giá các nhân tố tác động đến độ tin cậy của thông tin tài chính. Sử
dụng mẫu nghiên cứu gồm 192 công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Hà
Nội và Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2006 – 2014, nghiên cứu thấy rằng công ty
kiểm toán Big 4 cho thấy chất lƣợng kiểm toán tốt hơn các công ty không thuộc
kiểm toán Big 4. Nhóm tác giả Đặng Ngọc Hùng và cộng sự (2017) đánh giá các
nhân tố ảnh hƣởng đến mức độ quản trị lợi nhuận của công ty niêm yết trên thị
trƣờng chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2012 – 2016. Sử dụng kỹ thuật ƣớc
lƣợng Bình phƣơng nhỏ nhất gộp (POLS), nghiên cứu tìm thấy rằng công ty kiểm
toán lớn giúp giảm vấn đề quản trị lợi nhuận.
57
Đối với các công ty mới niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán
Việt Nam thì vấn đề quản trị lợi nhuận là khó tránh khỏi vì các công ty phải đáp
ứng điều kiện phát hành và điều kiện niêm yết. Quản trị lợi nhuận giúp họ xây dựng
đƣợc vị thế của mình trên thị trƣờng. Việc cố gắng làm đẹp số liệu lợi nhuận báo
cáo nhằm thu hút nhà đầu tƣ khiến cho quản trị lợi nhuận có xác suất xảy ra cao đối
với các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng. Khi đó vai trò của kiểm toán
Big 4 càng lớn vì họ có thể phát hiện vấn đề quản trị lợi nhuận dễ hơn và giúp nâng
cao chất lƣợng lợi nhuận.
Giả thuyết 3: Chất lượng kiểm toán giúp nâng cao chất lượng lợi nhuận của
các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
2.1.4. Tính thanh khoản và chất lượng lợi nhuận
Tính thanh khoản thƣờng đƣợc sử dụng để đánh giá vị thế tài chính của công
ty. Biến này đƣợc xem xét dựa trên tỷ lệ tiền mặt, hệ số khả năng thanh toán nhanh,
hay hệ số khả năng thanh toán hiện hành (Burke & cộng sự, 2011). Khả năng thanh
khoản càng cao thì công ty có thể đáp ứng đƣợc các khoản vay ngắn hạn. Nhƣ vậy,
công ty với khả năng thanh khoản càng cao thì vị thế tài chính càng cao và nguy cơ
phá sản cũng thấp hơn. Các tổ chức tín dụng cũng dựa vào khả năng thanh khoản để
xếp hạng tín dụng và đƣa ra quyết định cấp vốn cho công ty (Kim & Purnanandam,
2014; Narenhra, 2013; Platt & cộng sự, 1994). Chính vì vậy, trong trƣờng hợp công
ty có thanh khoản thấp, họ thƣờng can thiệp vào lợi nhuận để không làm suy giảm
vị thế tài chính của công ty trong mắt của các tổ chức tín dụng trên thị trƣờng.
Bello và cộng sự (2013) và Takhtaei và Mousavi (2012) đều chứng minh cho
mối quan hệ ngƣợc chiều giữa khả năng thanh khoản và quản trị lợi nhuận. Họ cho
rằng công ty với mức thanh khoản thấp thƣờng chủ động tiết lộ thông tin lợi nhuận
của công ty ra thị trƣờng nhiều hơn và vì vậy công ty có khả năng cao là sẽ thực
hiện quản trị lợi nhuận. Sử dụng dữ liệu gồm các công ty niêm yết tại Iran trong giai
đoạn 2007 – 2011, Hamidzadeh và Zeinali (2015) chỉ ra rằng tính thanh khoản càng
cao thì công ty càng ít cho thấy vấn đề quản trị lợi nhuận.
58
Tính thanh khoản thấp khiến công ty phải quản trị lợi nhuận để che đậy
thông tin xấu (Bhattacharya & cộng sự, 2012). Tuy nhiên, điều này lại làm cho vấn
đề bất cân xứng thông tin trở nên nghiêm trọng hơn và các tổ chức sẽ không nhận ra
đƣợc chất lƣợng lợi nhuận thấp của công ty (Bhattacharya & cộng sự, 2008). Nhƣ
vậy, minh chứng cho mối quan hệ giữa khả năng thanh khoản và chất lƣợng lợi
nhuận giúp chỉ ra sự tồn tại của vấn đề thông tin bất cân xứng tại thị trƣờng Việt
Nam. Điều này ủng hộ cho quan điểm của lý thuyết bất cân xứng thông tin. Bên
cạnh đó, quản trị lợi nhuận trong trƣờng hợp thanh khoản thấp là cách mà công ty
phát tín hiệu rằng họ đang hoạt động hiệu quả. Điều này ủng hộ cho quan điểm của
lý thuyết tín hiệu nội tại thị trƣờng Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu về tác động của khả năng thanh khoản đến chất
lƣợng lợi nhuận còn khá hạn chế. Chỉ có nghiên cứu của Trần Minh Tâm và Ngô
Phú Thanh (2019) với mẫu dữ liệu gồm các công ty niêm yết trên sở giao dịch
chứng khoán HOSE và HNX trong giai đoạn 2010 – 2015 tìm thấy mối quan hệ
cùng chiều giữa khả năng thanh khoản và chất lƣợng lợi nhuận. Các công ty niêm
yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam thƣờng điều chỉnh lợi nhuận
để thu hút nhà đầu tƣ. Tuy nhiên, khi có thanh khoản cao thì công ty sẽ ít thực hiện
hành vi này hơn vào thời điểm niêm yết cổ phiếu lần đầu tiên trên thị trƣờng vì tính
thanh khoán đã giúp tăng vị thế của công ty đối với các bên khác nhau trên thị
trƣờng. Uy tín công ty gia tăng và công ty dần nhận đƣợc sự tin tƣởng từ các bên
khác nhau trên thị trƣờng.
Giả thuyết 4: Khả năng thanh khoản càng cao thì chất lượng lợi nhuận của
các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trường chứng khoán Việt Nam càng cao.
2.1.5. Tăng trưởng doanh thu và chất lượng lợi nhuận
Lý thuyết cạnh trạnh (Rivalry Theory) đề xuất rằng lợi nhuận tăng thêm nhờ
vào tăng trƣởng doanh thu sẽ bền vững hơn lợi nhuận tăng thêm nhờ vào giảm chi
phí (Porter, 1980). Ghosh và cộng sự (2010) cho rằng lợi nhuận đƣợc hỗ trợ bởi
tăng trƣởng doanh thu thƣờng có chất lƣợng cao hơn. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng
59
tăng trƣởng doanh thu tạo đà để công ty tiếp tục duy trì lợi nhuận của mình trong
tƣơng lai. Ngoài ra, Ertimur và cộng sự (2003) chỉ ra rằng quản trị doanh thu mang
tính phức tạp hơn quản trị chi phí cho nên công ty mà có thể gia tăng doanh thu
minh chứng cho việc rằng công ty ít khả năng thực hiện quản trị lợi nhuận. Chất
lƣợng lợi nhuận sẽ tốt hơn khi lợi nhuận phản ánh đúng tình hình hoạt động của
công ty. Penman (2007) thấy rằng điều chỉnh lợi nhuận bằng doanh thu khó hơn
bằng chi phí. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu cho rằng doanh thu quyết định tính
duy trì của lợi nhuận và hiệu quả hoạt động của công ty (Holliday, 2000; Penman,
2007). Yu và cộng sự (2010) chứng minh mối quan hệ cùng chiều giữa tăng trƣởng
doanh thu và chất lƣợng khoản dồn tích của công ty với mẫu dữ liệu gồm 391 công
ty ở Hoa Kỳ trong giai đoạn 2003 – 2007.
Trƣờng phái ngƣợc lại cho rằng biến động doanh thu càng cao thì chất lƣợng
khoản dồn tích càng thấp vì nó ảnh hƣởng đến biến động cao trong dòng tiền. Đây
là dấu hiệu chỉ ra hành vi quản trị kém của công ty (Dechow & Dichev, 2002;
Nissim & Penman, 2000). Sự yếu kém trong công tác quản trị nội bộ khiến cho
thông tin công ty ít minh bạch và gia tăng nguy cơ quản trị lợi nhuận do bởi chủ
nghĩa cơ hội của nhà quản trị (Doyle & cộng sự, 2007; Geiger & North, 2006;
Lambert & Larcker, 1987; Richardson & cộng sự, 2005). Bên cạnh đó, cũng có
nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ ý nghĩa giữa tăng trƣởng doanh thu và quản
trị lợi nhuận (Lee & cộng sự, 2006).
Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu hiện tại về mối quan hệ giữa hai
yếu tố này còn khá hạn chế và đều cho thấy không có ý nghĩa thống kê. Cụ thể,
nghiên cứu của nhóm tác giả Lê Thị Nhƣ (2020) với mẫu dữ liệu gồm các công ty
niêm yết tại Việt Nam từ năm 2007 đến 2016 sử dụng phƣơng pháp tác động cố
định và nghiên cứu của nhóm tác giả Sử Đình Thành (2020) với mẫu gồm 432 công
ty phi tài chính niêm yết tại Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2017. Các công ty
mới niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán thƣờng can thiệp vào lợi
nhuận để thu hút nhà đầu tƣ. Nếu công ty có thể gia tăng doanh thu thực thì công ty
không cần thực hiện quản trị lợi nhuận để thu hút nhà đầu tƣ. Nhƣ vậy, đối với các
60
công ty mới niêm yết lần đầu tại Việt Nam thì tác động của tăng trƣởng doanh thu
sẽ mạnh hơn và sẽ giúp giảm thiểu vấn đề quản trị lợi nhuận tốt hơn vì tăng trƣởng
doanh thu là yếu tố giúp gia tăng vị thế của công ty trên thị trƣờng.
Giả thuyết 5: Tăng trưởng doanh thu có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng
lợi nhuận của công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
2.1.6. Khả năng sinh lời và chất lượng lợi nhuận
Công ty có lợi nhuận cao sẽ chủ động cung cấp thông tin tốt này ra thị trƣờng
để nhà đầu tƣ có thể đánh giá giá trị hiện tại của công ty và kỳ vọng về lợi nhuận
của công ty trong tƣơng lai (Chen & cộng sự, 2014). Lợi nhuận cao cũng là nhân tố
giúp nâng cao vị thế tài chính của công ty trên thị trƣờng (Hamidzadeh & Zeinali,
2015). Vì vậy, công ty thƣờng mong muốn báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
với lợi nhuận cao.
Khajavi và cộng sự (2016) và Dechow và cộng sự (2010) cho rằng khả năng
sinh lời là yếu tố chính chi phối chất lƣợng lợi nhuận của công ty. Tƣơng tự, khi
phân tích dữ liệu gồm 37 công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Kenya
trong giai đoạn 2006 – 2010, Kothari và cộng sự (2005) giả thuyết rằng khả năng
sinh lời cao xuất phát từ quản trị lợi nhuận làm gia tăng khoản dồn tích với mục tiêu
là nâng cao vị thế tài chính của công ty. Tuy nhiên, hành vi này khiến cho số liệu tài
chính không phản ánh chính xác tình hình hoạt động của công ty. Trên thực tế hiệu
quả hoạt động kém tạo động lực để nhà quản trị tham gia vào quản trị lợi nhuận
(Doyle & cộng sự, 2007; Keating & Zimmerman, 1999). Vì vậy, khả năng sinh lợi
cao bất thƣờng do bởi quản trị lợi nhuận khiến chất lƣợng lợi nhuận giảm.
Tại thị trƣờng Việt Nam, nhóm tác giả Trần Minh Tâm và Ngô Phú Thanh
(2019) tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa khả năng sinh lời và quản trị lợi nhuận
đối với mẫu dữ liệu gồm các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán HOSE
và HNX trong giai đoạn 6 năm (2010 – 2015). Nhóm tác giả Mai Thị Hoàng Khánh
và Nguyễn Vĩnh Khƣơng (2018) thu thập số liệu gồm 241 công ty niêm yết tại thị
trƣờng chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2016, nghiên cứu chứng
61
minh đƣợc rằng công ty có động cơ lớn đối với việc quản trị lợi nhuận, đặc biệt là
muốn thu hút nhà đầu tƣ khi phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng. Vì vậy, khả
năng sinh lời có mối quan hệ cùng chiều với quản trị lợi nhuận. Gần đây nhất, nhóm
tác giả Võ Xuân Vinh và Chu Thị Kim Hƣơng (2019) nghiên cứu 322 công ty niêm
yết trên hai sở giao dịch chứng khoán từ năm 2007 đến 2015. Kết quả của nghiên
cứu cũng chỉ ra tác động cùng chiều của khả năng sinh lời (đo lƣờng bằng ROA) lên
quản trị lợi nhuận.
Khác với doanh thu thì các công ty mới niêm yết lần đầu thƣờng can thiệp
vào lợi nhuận để báo cáo tình hình hoạt động tốt của công ty trên thị trƣờng. Lợi
nhuận công ty cao hàm ý họ đã thực hiện động thái quản trị lợi nhuận vào thời điểm
niêm yết. Nếu đối với các công ty niêm yết, lợi nhuận giúp giải thích cho chất lƣợng
lợi nhuận thì đối với trƣờng hợp các công ty niêm yết lần đầu, lợi nhuận còn can
thiệp mạnh hơn vì vấn đề quản trị lợi nhuận của các công ty này thƣờng rõ ràng
hơn.
Giả thuyết 6: Khả năng sinh lời càng cao thì chất lượng lợi nhuận của các
công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trường chứng khoán Việt Nam càng giảm.
62
Bảng 2.1. Tổng hợp giả thuyết nghiên cứu
Nhân tố tác động Nền tảng lý thuyết Giả
thuyết Dấu kỳ
vọng
Lý thuyết chủ nghĩa cơ hội. Giới hạn tài chính - H1 Lý thuyết tín hiệu.
Lý thuyết bất cân xứng thông tin. Tính độc lập của HĐQT + H2 Lý thuyết chủ nghĩa cơ hội.
Lý thuyết chủ nghĩa cơ hội.
Chất lƣợng kiểm toán + Lý thuyết bất cân xứng thông tin. H3
Lý thuyết tín hiệu.
Lý thuyết tín hiệu. Khả năng thanh khoản + H4 Lý thuyết bất cân xứng thông tin.
Lý thuyết tín hiệu. Tăng trƣởng doanh thu + H5 Lý thuyết bất cân xứng thông tin.
Lý thuyết tín hiệu. Khả năng sinh lời - H6 Lý thuyết bất cân xứng thông tin.
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
2.2. Mô hình nghiên cứu
Theo nhƣ các giả thuyết nghiên cứu đã đề ra, nghiên cứu tìm kiếm mô hình
định lƣợng hợp lý để kiểm chứng giả thuyết về ảnh hƣởng của các nhân tố đến chất
lƣợng lợi nhuận của công ty. Các nhân tố đƣợc lựa chọn trong mô hình đƣợc xem
xét dựa trên các nghiên cứu kiểm nghiệm trƣớc đây về các nhân tố tác động đến
chất lƣợng lợi nhuận. Biến giới hạn tài chính đƣợc đánh giá từ biến đại diện là chỉ
số đƣợc tổng hợp từ các đặc điểm khác nhau của công ty nhƣ dòng tiền, đòn bẩy tài
chính, chi trả cổ tức, quy mô công ty, và tăng trƣởng doanh thu (Gan & Anh, 2019;
Nguyen, Nguyen & Li, 2017; Wu, 2019; Ge & cộng sự, 2020; Boubakri & cộng sự,
63
2017; Jaslowitzer, Megginson & Rapp, 2016). Các nhân tố khác bao gồm tính độc
lập của hội đồng quản trị, chất lƣợng kiểm toán, khả năng thanh khoản, tăng trƣởng
doanh thu, và khả năng sinh lời cũng đƣợc sử dụng trong các nghiên cứu trƣớc đây
về chất lƣợng lợi nhuận (Bajra & Cadez, 2018; Gaio & Pinto, 2018; Garane &
Mwangi, 2018; Hoffmann & cộng sự, 2018; Mai Thị Hoàng Khánh & Nguyễn Vĩnh
Khƣơng, 2018; Pagalung & Sudibdyo, 2018; Prior & cộng sự, 2019; Trần Minh
Tâm & Ngô Phú Thanh, 2019).
Nghiên cứu sử dụng tiếp cận tĩnh và tiếp cận động. Mô hình ƣớc lƣợng tĩnh
không có sự xuất hiện của biến độ trễ bên vế phải phƣơng trình. Ngƣợc lại, mô hình
động xem biến độ trễ của biến phụ thuộc nhƣ là biến độc lập. Nghiên cứu sử dụng
cả hai tiếp cận vì các công trình trƣớc đây đều giả sử cả hai cách tiếp cận này vì
chƣa ai chứng minh đƣợc tiếp cận nào hiệu quả hơn tiếp cận nào. Đối với từng cách
tiếp cận, nghiên cứu sẽ sử dụng kỹ thuật ƣớc lƣợng tƣơng ứng.
Mô hình ƣớc lƣợng tĩnh:
- Biến độc lập ở thời điểm t
(2.1)
(2.2)
- Biến độc lập ở thời điểm t – 1
Mô hình ƣớc lƣợng động:
- Biến độc lập ở thời điểm t
(2.3)
(2.4)
- Biến độc lập ở thời điểm t – 1
Trong đó, (earnings quality) là chất lƣợng lợi nhuận của công ty i tại
thời điểm t. Theo nhƣ phần lựa chọn phƣơng pháp đo lƣờng thì chất lƣợng lợi
64
nhuận đo lƣờng dựa trên phƣơng pháp kế toán lấy từ chính bản thân lợi nhuận báo
cáo của công ty đƣợc cho là phù hợp để đánh giá chất lƣợng lợi nhuận của công ty.
Các yếu tố đo lƣờng đại diện cho chất lƣợng lợi nhuận dựa vào cơ sở dồn tích và
dựa vào giao dịch thực. Để tính toán ra một chỉ số đo lƣờng chất lƣợng lợi nhuận
chung nhất, nghiên cứu áp dụng phƣơng pháp xếp hạng (ranking), sau đó quy các
biến về cùng đơn vị bằng phƣơng pháp tỷ lệ (ratio), và cuối cùng tính giá trị trung
bình của 4 yếu tố để lập nên một chỉ số duy nhất (Thomaz & Giraldi, 2010;
Gammell & cộng sự, 2003; Nehi, 2010; Rao, 2008; Wen & Li, 2009);
(earnings quality) là chất lƣợng lợi nhuận của công ty i tại thời điểm t -1; và
(financial constraints) là giới hạn tài chính đƣợc đại diện bằng các yếu tố tỷ
lệ chia cổ tức, quy mô công ty, đòn bẩy tài chính và số năm niêm yết, chỉ số WW,
và chỉ số SA; và (liquidity) là tính thanh khoản của công ty i tại thời
điểm t và t - 1; và (profitability) là tỷ lệ lợi nhuận của công ty i tại
thời điểm t và t - 1; và (sales growth) là tăng trƣởng doanh thu của
công ty i tại thời điểm t và t - 1; và (auditing) là biến giả bằng 1 đối
với công ty đƣợc kiểm toán bởi Big 4; và (board independence) đại
diện cho tính độc lập của ban quản trị của công ty; là sai số chuẩn của mô hình
nghiên cứu.
Trong mô hình nghiên cứu, tác giả hồi quy các biến độc lập tại thời điểm t
với biến phụ thuộc cũng tại thời điểm t vì những lý do sau đây: (1) các biến độc lập
đƣợc cho là các yếu tố chi phối quản trị lợi nhuận của công ty, cho nên sự thay đổi
của yếu tố đó ngay ở thời điểm hiện tại có thể là dấu hiệu của quản trị lợi nhuận và
có thể ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận ngay hiện tại; (2) vì nghiên cứu thu thập
dữ liệu theo năm nên việc sử dụng độ trễ 1 giai đoạn cho biến phụ thuộc khiến thời
gian tác động của các nhân tố lên chất lƣợng lợi nhuận quá dài, không phù hợp với
tình hình thực tế. Sự thay đổi của các yếu tố có thể là dấu hiệu ban đầu của hành vi
can thiệp lợi nhuận và đƣợc phản ánh vào chất lƣợng lợi nhuận của công ty; (3) các
65
công trình nghiên cứu về chất lƣợng lợi nhuận thƣờng sử dụng các biến ở cùng thời
điểm t để đánh giá. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đƣa ra mô hình với biến độc lập
ở thời điểm t – 1 để so sánh với kết quả hồi quy đối với mô hình với biến độc lập ở
thời điểm t.
2.3. Đo lƣờng biến phụ thuộc
2.3.1. Lựa chọn phương pháp đo lường chất lượng lợi nhuận
Chất lƣợng lợi nhuận là một chủ đề nhận đƣợc sự quan tâm trong nghiên cứu
về kế toán (Canina & Potter, 2019; Chvàrarin & Subiyantoro, 2019; Dechow &
cộng sự, 2010; Dechow & Schrva, 2004; Ecker & cộng sự, 2006; Francis & cộng
sự, 2004; Prior & cộng sự, 2019). Nhiều nghiên cứu trƣớc đây đánh giá chất lƣợng
lợi nhuận thông qua đánh giá quản trị lợi nhuận (xem chƣơng 1). Khi tiếp cận chất
lƣợng lợi nhuận thông qua quản trị lợi nhuận, các nghiên cứu trƣớc đây thƣờng
chọn một hoặc cả hai cách để đánh giá chất lƣợng lợi nhuận: (1) dựa vào khoản dồn
tích (accruals) và (2) dựa vào giao dịch thực (real activities) (Bajra & Cadez, 2018;
Canina & Potter, 2019; Chandrarin & Subiyantoro, 2019; Prior & cộng sự, 2019;
Trần Minh Tâm & Ngô Phú Thanh, 2019).
Đo lƣờng thứ nhất là dựa vào biến dồn tích. Theo cách đo lƣờng này, khoản
dồn tích thƣờng đƣợc đánh giá qua các mô hình sau: (1) mô hình Jones (1991) đánh
giá khoản dồn tích thông qua doanh thu và tài sản cố định đến mô hình; (2) mô hình
Dechow và cộng sự (1995), còn đƣợc gọi là Modified Jones, bổ sung cho mô hình
Jones (1991) bằng việc thêm vào mô hình khoản phải thu; (3) mô hình Kothari và
cộng sự (2005) xác định khoản dồn tích dựa vào mô hình Modified Jones và thêm
biến ROA của công ty; (4) mô hình Dechow và Dichev (2002) đánh giá tầm quan
trọng của dòng tiền đối với khoản dồn tích của công ty và thêm yếu tố này vào các
mô hình nghiên cứu trƣớc đây; cuối cùng (5) mô hình Francis và cộng sự (2005)
phát triển mô hình của Dechow và Dichev (2002) bằng cách thêm vào yếu tố doanh
thu, tài sản cố định, khấu hao và đồng thời phân rã độ lệch chuẩn của phần dƣ thành
phần sai lệch gốc và phần sai lệch do hành vi bóp méo. Nhƣ vậy, trong các mô hình
đã trình bày thì mô hình Francis và cộng sự (2005) giúp khắc phục đƣợc điểm yếu
66
của các mô hình trƣớc đó để giúp đo lƣờng chất lƣợng lợi nhuận hiệu quả hơn. Theo
phần giả thuyết nghiên cứu thì các công ty niêm yết lần đầu, trong trƣờng hợp có
thêm tình trạng giới hạn tài chính, thƣờng có khuynh hƣớng can thiệp vào các
khoản dồn tích từ đó làm gia tăng lợi nhuận của công ty nhằm mục đích thu hút các
nhà đầu tƣ trên thị trƣờng. Tuy nhiên, hành động này lại làm cho chất lƣợng lợi
nhuận suy giảm. Nhƣ vậy, sự bất thƣờng trong khoản dồn tích có thể đại diện cho
chất lƣợng lợi nhuận của công ty. Biến này đánh giá hành vi can thiệp của công ty
thông qua các yếu tố làm gia tăng khoản dồn tích nhƣ dòng tiền hoạt động, tài sản
ngắn hạn, tài sản dài hạn, nợ ngắn hạn, doanh thu, chi phí khấu hao, lợi nhuận bất
thƣờng, và lƣợng tiền mặt. Phƣơng pháp này tính đến nhiều yếu tố cấu thành mà
công ty có thể can thiệp để bóp méo lợi nhuận. Vì vậy, khi đánh giá chất lƣợng lợi
nhuận của công ty niêm yết lần đầu tiên có thể áp dụng phƣơng pháp khoản dồn tích
để đo lƣờng yếu tố chất lƣợng lợi nhuận.
Đo lƣờng thứ hai dựa vào giao dịch thực. Đo lƣờng chất lƣợng lợi nhuận dựa
vào giao dịch thực liên quan đến các quyết định trong hoạt động kinh doanh nhằm
quản trị lợi nhuận thông qua dòng tiền hoạt động (Bartov & cộng sự, 2002), chi phí
sản xuất (Thomas & Zhang, 2002), và chi tiêu tự quyết (Graham & cộng sự, 2005).
Để bóp méo giao dịch thực, công ty thƣờng can thiệp để tăng doanh thu, tăng cƣờng
sản xuất, và trì hoãn đầu tƣ phát triển (Healy & Wahlen, 1999; Fudenberg & Tirole,
1995; Dechow & cộng sự, 1995; Dechow & Skinner, 2000). Gia tăng doanh thu
giúp công ty gia tăng lợi nhuận, tăng cƣờng sản xuất giúp tạo ra lƣợng hàng tồn kho
lớn, và trì hoãn đầu tƣ phát triển để làm giảm chi phí của công ty. Điểm lợi của
phƣơng pháp này là giúp nhận định hành vi can thiệp lợi nhuận của công ty ngay từ
những dấu hiệu ban đầu trong quyết định mà nhà quản trị đƣa ra. Việc này giúp
đánh giá sớm vấn đề quản trị lợi nhuận cũng nhƣ chất lƣợng lợi nhuận của công ty.
Vì nghiên cứu đánh giá chất lƣợng lợi nhuận của các công ty niêm yết lần đầu kèm
với tình trạng giới hạn tài chính nên các công ty này thƣờng can thiệp vào doanh thu
để ảnh hƣởng đến lợi nhuận nhƣ là cách thu hút nhà đầu tƣ trên thị trƣờng nhanh
nhất. Do đó, nghiên cứu sử dụng phƣơng pháp giao dịch thực đánh giá dựa trên tính
67
bất thƣờng của dòng tiền hoạt động để đại diện cho chất lƣợng lợi nhuận đo lƣờng
bằng giao dịch thực.
Tóm lại, cả phƣơng pháp đo lƣờng dựa vào khoản dồn tích và dựa vào giao
dịch thực đều có thể đƣợc sử dụng để đánh giá chất lƣợng lợi nhuận của công ty vì
cả hai có cách tiếp cận khác nhau. Phƣơng pháp khoản dồn tích dựa vào hành vi
điều chỉnh lợi nhuận thông qua vận dụng linh hoạt các chính sách kế toán. Đối với
các công ty niêm yết lần đầu và chịu ảnh hƣởng của giới hạn tài chính thì công ty có
thể sẽ can thiệp thông qua các khoản dồn tích và các khoản dồn tích này lại làm cho
lợi nhuận trở nên bất thƣờng. Nghiên cứu này sử dụng đo lƣờng chất lƣợng lợi
nhuận thông qua biến dồn tích, sử dụng mô hình của Francis và cộng sự (2005).
Phƣơng pháp giao dịch thực đánh giá hành vi can thiệp lợi nhuận ngay từ bƣớc ra
quyết định liên quan đến giao dịch của công ty vì vậy phƣơng pháp này giúp phát
hiện sớm xem liệu chất lƣợng lợi nhuận tốt hay không. Với các công ty niêm yết lần
đầu tiên và bị giới hạn tài chính thì họ thƣờng can thiệp ngay từ lúc ra quyết định
thực hiện giao dịch để sớm quản trị lợi nhuận nhằm đạt đƣợc lợi nhuận mong muốn.
Nghiên cứu cũng sử dụng phƣơng pháp đo lƣờng chất lƣợng lợi nhuận qua giao
dịch thực, sử dụng mô hình của Roychowdhury (2006).
2.3.2. Đo lường chất lượng lợi nhuận dựa vào khoản dồn tích
Đối với phƣơng pháp dồn tích, tồn tại một số mô hình nghiên cứu kiểm
nghiệm giúp đo lƣờng khoản dồn tích bất thƣờng trong công ty nhƣ là mô hình
Jones (1991), mô hình Dechow và cộng sự (1995), mô hình Kothari và cộng sự
(2005), mô hình Dechow và Dichev (2002), và mô hình Francis và cộng sự (2005).
Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ lựa chọn mô hình Francis và cộng sự (2005) vì mô hình
này giải quyết đƣợc các yếu điểm trong các mô hình trƣớc đó và giúp đo lƣờng chất
lƣợng lợi nhuận chính xác hơn do bởi phƣơng pháp này xem xét nhiều yếu tố mà có
khả năng làm gia tăng khoản dồn tích bất thƣờng trong công ty và làm sụt giảm chất
lƣợng lợi nhuận. Mô hình này đƣợc kế thừa và phát triển từ mô hình Dechow và
Dichev (2002) thông qua hai thay đổi: (1) đƣa thêm biến doanh thu, TSCĐ hữu
hình, khấu hao vào mô hình của Dechow và Dichev, dựa vào đề xuất của
68
McNichols và Stubben (2008) và (2) phân chia độ lệch chuẩn của phần dƣ thành
phần sai lệch gốc và sai lệch do hành vi ―bóp méo‖. Francis và cộng sự (2005) ƣớc
tính mô hình biến dồn tích theo năm và ngành cũng nhƣ tính toán độ lệch tiêu chuẩn
của phần dƣ của mỗi công ty j trong năm t dựa trên giá trị từ năm t – 4
cho đến năm t. Độ lệch chuẩn của phần dƣ giúp đo lƣờng chất lƣợng dồn
tích. Độ lệch chuẩn càng cao thì chất lƣợng càng thấp. Để phân tách chất lƣợng
khoản dồn tích thành thành phần tự nhiên và thành phần bị tác động bởi hành vi bóp
méo thì tác giả đƣa ra mô hình chất lƣợng khoản dồn tích là hàm đặc điểm của công
ty:
(2.5)
Trong đó, (standard deviation of residules) đại diện cho chất lƣợng
dồn tích giúp công ty đạt đƣợc hiệu quả hoạt động về cơ bản; (firm size) là
quy mô hoạt động của công ty đo lƣờng dựa trên logarit của tổng tài sản;
(standard deviation of cash flow from operations) là độ lệch chuẩn của dòng tiền
tiền hoạt động công ty; (sales) là độ lệch chuẩn doanh thu của công ty;
(operation cycle) là chu kỳ hoạt động của công ty; (negative
earnings) là số trƣờng hợp công ty có lợi nhuận âm trong giai đoạn 10 năm; là
chất lƣợng khoản dồn tích tùy ý.
Nhƣ vậy, thông qua việc trình bày và đánh giá các mô hình đo lƣờng biến đại
diện cho chất lƣợng khoản dồn tích thì mô hình của Francis và cộng sự (2005) cho
đến hiện tại là mô hình kết hợp đƣợc điểm mạnh và khắc phục điểm yếu của các mô
hình trƣớc đó, từ đó giúp việc xác định khoản dồn tích tự quyết ít mắc sai lầm hơn
và đo lƣờng chất lƣợng lợi nhuận phù hợp hơn. Tuy nhiên, hiện tại thì đa phần các
mô hình đo lƣờng biến dồn tích chỉ thực hiện tại cấp độ công ty. Điều này chỉ ra các
nhân tố tác động đến khoản dồn tích sẽ biến động theo đặc trƣng của công ty.
Ngƣợc lại, khi ƣớc tính hệ số đƣợc giả định là không đổi theo ngành thì công ty có
69
phần dƣ lớn thƣờng do bởi cách thức phân loại ngành hơn là từ quản trị lợi nhuận.
Sai lầm đo lƣờng thƣờng liên quan đến đặc trƣng ngành. Ví dụ, mô hình đo lƣờng
biến dồn tích đôi khi không còn phù hợp nữa do bởi các nhân tố xuất phát từ đặc
điểm ngành chứ không phải chất lƣợng khoản dồn tích.
2.3.3. Đo lường chất lượng lợi nhuận dựa vào giao dịch thực
Nghiên cứu của Roychowdhury (2006) tổng hợp ba cách thức khác nhau để
đo lƣờng chất lƣợng lợi nhuận dựa trên giao dịch thực thông qua dòng tiền hoạt
động (Bartov & cộng sự, 2002), chi phí sản xuất (Thomas & Zhang, 2002), và chi
tiêu tự quyết (Graham & cộng sự, 2005). Tuy nhiên, trong ba phƣơng pháp này thì
nghiên cứu sử dụng đánh giá chất lƣợng lợi nhuận dựa trên giao dịch thực thông
qua dòng tiền hoạt động. Vì nghiên cứu đánh giá chất lƣợng lợi nhuận thay vì chi
phí hay chi tiêu nên các quyết định về giao dịch thực liên quan đến tính bất thƣờng
của dòng tiền sẽ làm biến đại diện tốt hơn trong nghiên cứu này.
Đối với phƣơng pháp thông qua dòng tiền hoạt động thì dòng tiền hoạt động
bình thƣờng là phƣơng trình của doanh thu và thay đổi trong doanh thu ở thời điểm
hiện tại. Mô hình ƣớc tính biến đại diện cho khoản dồn tích đƣợc trình bày nhƣ sau:
(2.6)
Trong đó,
(Cash flow for operations): dòng tiền hoạt động bình thƣờng của công
ty tại thời điểm t.
(total assets): tổng tài sản của công ty tại thời điểm t – 1
(sales): doanh thu của công ty tại thời điểm t
(changes in sales): thay đổi doanh thu của công ty giữa năm t
và t – 1
Nhƣ vậy, dòng tiền hoạt động bất thƣờng đƣợc tính toán bằng cách lấy dòng
tiền hoạt động của công ty (số liệu thực tính toán dựa vào bảng cân đối kế toán) trừ
đi dòng tiền hoạt động bình thƣờng đƣợc ƣớc tính từ mô hình.
70
(2.7)
Trong đó,
: dòng tiền hoạt động bất thƣờng của công ty tại thời điểm t.
: dòng tiền hoạt động tính toán dựa trên số liệu thực trên sổ
sách kế toán của công ty tại thời điểm t.
: dòng tiền hoạt động bình thƣờng của công ty đƣợc ƣớc tính dựa
trên mô hình nghiên cứu.
Bảng 2.2. Tổng hợp cách đo lƣờng biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu
Chất lƣợng lợi nhuận Cách thức đo lƣờng
Mô hình Francis và cộng sự (2005)2:
Khoản dồn tích
Mô hình Roychowdhury (2006)
Dòng tiền hoạt động bình thƣờng3:
Giao dịch thực
Dòng tiền hoạt động bất thƣờng:
2 Trong mô hình Francis và cộng sự,
là chất lƣợng khoản dồn tích;
là quy mô;
là độ
lệch chuẩn của dòng tiền tiền hoạt động;
là độ lệch chuẩn của doanh thu;
là chu kỳ
hoạt động;
là số trƣờng hợp công ty có lợi nhuận âm trong giai đoạn 10 năm;
là chất lƣợng
là dòng tiền hoạt động bình thƣờng;
(total assets): tổng tài sản
là doanh thu tại thời điểm t;
là sự thay đổi doanh thu của
khoản dồn tích tùy ý.
3 Trong mô hình Roychowdhury,
của công ty tại thời điểm t – 1;
công ty giữa năm t và t – 1.
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
71
2.4. Đo lƣờng biến độc lập
Tồn tại một số đo lƣờng đại diện giới hạn tài chính của công ty. Tuy nhiên
một cách đo lƣờng tối ƣu chƣa có sự đồng thuận cao. Hennessy và Whited (2007)
cho rằng công ty có quy mô lớn thì khả năng tiếp cận nguồn vốn càng dễ vì họ đƣợc
cho là ít có khả năng phá sản hay thất bại trong kinh doanh. Ngoài ra, các công ty
này cũng tạo dựng uy tín của mình trong một khoản thời gian dài nên cũng nhận
đƣợc sự tín nhiệm từ chủ nợ (Driver & Muñoz-Bugarin, 2019; Alm & cộng sự,
2019). Almeida và Campello (2010) chỉ ra rằng các công ty chi trả cổ tức cao
thƣờng ít gặp phải vấn đề giới hạn tài chính. Một khía cạnh khác cho rằng chi trả cổ
tức cho thấy công ty đang hoạt động hiệu quả và nhận đƣợc mức tín nhiệm cao từ
chủ nợ trên thị trƣờng (Linn & Weagley, 2019b).
Gần đây, một số công trình nghiên cứu ứng dụng sử dụng các chỉ số để đánh
giá giới hạn tài chính. Các chỉ số này là sự kết hợp của nhiều yếu tố quyết định giới
hạn tài chính của công ty. Đầu tiên, chỉ số SA kết hợp hai yếu tố là quy mô và thời
gian niêm yết của công ty (Hadlock & Pierce, 2010)4. Sau khi tính toán xong chỉ số
này thƣờng nằm trong khoảng từ 1 (giới hạn tài chính thấp nhất) đến 5 (giới hạn tài
chính cao nhất). Thứ hai, chỉ số WW kết hợp đến 6 yếu tố bao gồm dòng tiền, chi
trả cổ tức, đòn bẩy tài chính, quy mô, tăng trƣởng doanh thu theo ngành, và tăng
trƣởng doanh thu công ty (Whited & Wu, 2006; Fahlenbrach & Stulz, 2009;
Franzoni, 2009)5. Chỉ số này càng cao thì mức độ giới hạn tài chính càng cao. So
với các cách tiếp cận trƣớc thì việc tổng hợp nhiều yếu tố giúp đƣa ra nhận định
chính xác hơn về giới hạn tài chính của công ty. Nhƣ vậy, nghiên cứu lựa chọn chỉ
số WW để đại diện cho yếu tố giới hạn tài chính. Mặc dù chỉ số này đƣợc phát triển
ở thị trƣờng phát triển, vẫn có thể sử dụng cho thị trƣờng mới nổi nhƣ Việt Nam.
Tính thanh khoản cho thấy khả năng công ty có thể thực hiện các nghĩa vụ
4 Công thức xác định chỉ số SA đƣợc trình bày nhƣ sau:
5 Công thức xác định chỉ số WW đƣợc trình bày nhƣ sau:
ngắn hạn của mình dựa trên tài sản ngắn hạn sẵn có. Biến này đƣợc đo lƣờng bằng
72
tỷ lệ tài sản ngắn hạn trên nợ ngắn hạn của công ty. Khả năng sinh lời liên quan đến
tỷ lệ lợi nhuận của công ty và đƣợc đại diện bằng tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên tổng
tài sản. Tăng trƣởng doanh thu đƣợc xác định bằng tỷ lệ chênh lệch giữa doanh thu
năm nay và năm trƣớc chia cho doanh thu năm trƣớc. Tính độc lập của HĐQT đƣợc
đo lƣờng bằng tỷ lệ thành viên độc lập bên ngoài không tham gia điều hành trên
tổng số thành viên hội đồng. Cuối cùng, chất lƣợng kiểm toán là biến giả mang giá
trị 1 đối với công ty đƣợc kiểm toán bởi Big 4 và 0 nếu ngƣợc lại.
73
Bảng 2.3. Tổng hợp các biến độc lập sử dụng trong mô hình nghiên cứu
Tên biến Cách thức đo lƣờng Nghiên cứu tiêu biểu
Fahlenbrach và Stulz (2009);
Mulier, Schoors, và Merlevede
(2016); Law và Mills (2015).
Giới hạn
tài chính Chỉ số WW: xác định dựa trên
sự kết hợp của 6 yếu tố trong
cùng một mô hình bao gồm
dòng tiền, chi trả cổ tức, đòn bẩy
tài chính, quy mô công ty, tăng
trƣởng doanh thu ngành, và tăng
trƣởng doanh thu công ty.
WWit = - 0.091CFit – 0.062DIVit
+ 0.021LEVit – 0.044Sizeit +
0.102ISGit – 0.035FSGit.
Tỷ lệ số thành viên độc lập bên
ngoài trên tổng số thành viên
HĐQT. Tính độc
lập của
HĐQT Suyono và Al Farooque (2018);
Mohammad và Wasiuzzaman
(2019); Fakhfakh và Jarboui
(2020).
Biến dummy, mang giá trị 1 nếu
công ty đƣợc kiểm toán bởi Big
4 và 0 là ngƣợc lại. Lennox, Wu, và Zhang (2016);
Lambert và cộng sự (2017);
Chen và Komal (2018). Chất
lƣợng
kiểm toán
Tỷ lệ tài sản ngắn hạn trên nợ
ngắn hạn Khả năng
thanh
khoản Lestari và Rahayu
(2017);
Yusuf, Pagalung, và Rasyid
(2019); Pagalung và Sudibdyo
(2018).
Tỷ lệ phần tăng thêm của doanh
thu năm t so với năm t - 1 Gaio và Pinto (2018); Haq,
Lang, và Xu (2017); Akintoye,
Adegbie, và Nwaobia (2019). Tăng
trƣởng
doanh thu
(2019); Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên
tổng tài sản Khả năng
sinh lời Warrad (2017); Athanasakou và
Athanassakos
Shi
(2020).
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
74
2.5. Thu thập dữ liệu
Đầu tiên nghiên cứu thu thập dữ liệu từ báo cáo tài chính của tất cả công ty
niêm yết lần đầu tiên tại thị trƣờng chứng khoán Việt Nam trên hai sở giao dịch
chứng khoán là Hồ Chí Minh (HOSE) và Hà Nội (HNX) trong giai đoạn 12 năm
(2009 – 2019). Các biến nghiên cứu trong mô hình đƣợc tính toán dựa trên số liệu
thu thập từ BCTC (bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo
cáo lƣu chuyển tiền tệ, và báo cáo thƣờng niên) của các công ty niêm yết lần đầu
tiên trên thị trƣờng. BCTC đƣợc thu thập từ nguồn tổng hợp và đánh giá của
Thomson Reuters Eikon. Các công ty trong mẫu đƣợc lựa chọn phải thỏa mãn
những điều kiện sau: (1) công ty chỉ chào bán cổ phần thƣờng, (2) công ty thuộc
loại phi tài chính (loại trừ các công ty tài chính nhƣ ngân hàng, quỹ đầu tƣ, và công
ty bảo hiểm vì BCTC của các công ty này khác với đa số các công ty còn lại trong
mẫu), (3) chỉ những công ty niêm yết đúng lần đầu tiên đƣợc bao gồm trong mẫu dữ
liệu (loại đi các công ty niêm yết lần đầu sau đó bị hủy niêm yết rồi sau đó lại niêm
yết lại), (4) số liệu của các công ty trong mẫu thu thập phải đƣợc kiểm toán (số liệu
chƣa kiểm toán không cho thấy mức độ chính xác cao), và (5) chỉ các công ty có số
liệu tài chính liên tiếp 5 năm mới đƣợc đƣa vào mẫu nghiên cứu (hạn chế vấn đề
thiếu thông tin dẫn đến kết quả không hợp lý). Dựa trên những tiêu chuẩn chọn
mẫu, nghiên cứu hình thành nên dữ liệu bảng không cân bằng bao gồm 649 công ty
niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2009 –
2019. Tổng số quan sát có thể có trƣớc khi chạy mô hình lên đến 7139 công ty –
năm.
2.6. Kỹ thuật phân tích dữ liệu
2.6.1. Vấn đề nội sinh (Endogeneity)
Có ba nguyên nhân chính gây ra hiện tƣợng nội sinh. Thứ nhất, không đƣa
các biến quan trọng vào mô hình. Khi một yếu tố cần thiết phải đƣợc xem xét nhƣ là
biến độc lập thì việc bỏ qua yếu tố này làm nảy sinh vấn đề nội sinh. Mặc dù các
nhà nghiên cứu cố gắng xác định nhiều biến độc lập trong mô hình nghiên cứu, tuy
nhiên do bởi góc nhìn và quan điểm nghiên cứu khác nhau cho nên vấn đề nội sinh
75
thƣờng khó mà ngăn chặn. Một ví dụ trong công ty là dù tình trạng thông tin bất cân
xứng và xung đột đại diện có liên quan đến lợi nhuận công ty nhƣng việc đo lƣờng
hai yếu tố này trong thực tế thƣờng gặp nhiều khó khăn. Khả năng tiếp cận thông tin
trong nghiên cứu thƣờng bị giới hạn và đôi khi bất khả thi. Nên một số yếu tố quan
trọng không thể đƣợc đƣa vào mô hình nghiên cứu. Các yếu tố này sẽ nằm trong sai
số của mô hình. Nếu tƣơng quan giữa các biến bằng 0 thì vấn đề sẽ ít nghiêm trọng.
Tuy nhiên, khi nhóm biến độc lập và sai số tƣơng quan cao với nhau (vấn đề nội
sinh) thì hệ số của các biến trong mô hình sẽ bị thiên lệch và có tính vững thấp.
Thứ hai, biến độc lập và biến phụ thuộc có mối quan hệ qua lại. Nội sinh gây
ra bởi vấn đề này làm cho hệ số ƣớc lƣợng không còn đáng tin cậy. Tuy vậy, liệu
biến độc lập và phụ thuộc có tác động đồng thời trong mô hình không đôi khi còn
khá mơ hồ. Cho nên tƣơng quan đồng thời nảy sinh ra biến nội sinh trong mô hình
nghiên cứu.
Thứ ba, các biến trong mô hình nghiên cứu bị đo lƣờng sai. Khi một yếu tố
trong mô hình nghiên cứu không đƣợc quan sát một cách chính xác và không thể
định lƣợng đƣợc thì biến đại diện cho yếu tố đó thƣờng không nhất quán qua thời
gian. Sai sót này xảy ra là do sai lầm trong việc thu thập dữ liệu và khác biệt về
cách thức định nghĩa biến. Vì vậy, biến quan trọng đƣợc xác định không chính xác
nhƣng lại đƣa vào mô hình dẫn đến sai lầm trong đo lƣờng biến.
Nghiên cứu này sử dụng tiếp cận tĩnh và tiếp cận động. Đối với tiếp cận tĩnh
thì vấn đề nội sinh dƣờng nhƣ không tồn tại do bởi ba nguyên nhân gây ra nội sinh
không bị vi phạm. Tuy nhiên, đối với tiếp cận động thì có thể dễ dàng xác định
đƣợc vấn đề nội sinh gây ra do bởi mối quan hệ tƣơng quan giữa phần dƣ và biến độ
trễ của chất lƣợng lợi nhuận trong nghiên cứu này. Với giả định rằng công ty với
chất lƣợng lợi nhuận tốt sẽ tiếp tục duy trì chất lƣợng lợi nhuận này trong tƣơng lai,
nghiên cứu đƣa thêm biến độ trễ của chất lƣợng lợi nhuận vào vế phải của phƣơng
trình. Nhƣ vậy, mô hình tiếp cận động gặp phải vấn đề nội sinh và nghiên cứu cần
phải đƣa ra giải pháp để khắc phục vấn đề này vì hiện tƣơng nội sinh sẽ làm cho
76
ƣớc tính đối với các biến số trong mô hình sẽ bị thiện lệch và kết luận dựa trên
những hệ số ƣớc lƣợng này cũng không còn chính xác nữa.
2.6.2. Xử lý nội sinh dựa vào kỹ thuật ước lượng tĩnh và động
Đối với tiếp cận mô hình tĩnh, nghiên cứu sử dụng các kỹ thuật ƣớc lƣợng
đối với dữ liệu bảng dựa trên phƣơng pháp bình phƣơng nhỏ nhất (Ordinary Least
Square) vì phƣơng pháp này cho ra các ƣớc lƣợng hệ số có độ thiên lệch thấp nhất.
Các kỹ thuật ƣớc lƣợng dựa trên nguyên tắc này bao gồm hồi quy gộp (Pooled
Ordinary Least Square – xem xét tất cả các đối tƣợng nhƣ nhau), tác động cố định
(Fixed Effects – xem xét yếu tố cố định và khác nhau giữa các đối tƣợng), và tác
động ngẫu nhiên (Random Effects – thêm yếu tố ngẫu nhiên vào từng đối tƣợng)
(Diggle & cộng sự, 2002; Fitzmaurice & cộng sự, 2012; Greene, 2003; Wooldridge,
2015).
Tuy nhiên, tiếp cận động lại có sự xuất hiện của biến độ trễ của chất lƣợng
lợi nhuận và cho thấy tác động điều chỉnh của chất lƣợng lợi nhuận qua thời gian
(Yule, 1927; Walker, 1931; Karanasos, 2001; Karanasos & Kim, 2003). Thuở đầu,
phƣơng pháp bình phƣơng nhỏ nhất (OLS) đƣợc sử dụng để ƣớc lƣợng hệ số trong
mô hình. Tuy nhiên, hiện tƣợng nội sinh khiến cho phƣơng pháp này không còn phù
hợp nữa (Kiviet, 1995; Nickell, 1981). Khi tồn tại mối quan hệ tƣơng quan giữa
phần dƣ và biến phụ thuộc (mô hình động) thì kỹ thuật IV (instrumental variables)
đƣợc sử dụng. Vấn đề thƣờng xuyên tồn tại trong mô hình nghiên cứu là hiện tƣợng
phƣơng sai thay đổi. Dẫu tính nhất quán của ƣớc lƣợng hệ số IV không bị ảnh
hƣởng bởi phƣơng sai thay đổi nhƣng ƣớc tính cho sai số chuẩn lại không nhất
quán, làm cho kết luận từ hệ số không còn chính xác nữa. Kiểm định đối với vấn đề
nội sinh (endogeneity) và kiểm định đối ràng buộc xác định quá mức
(overidentifying restrictions) không có hiệu lực khi tồn tại hiện tƣợng phƣơng sai
thay đổi. Những vấn đề này có thể đƣợc giải quyết thông qua việc sử dụng robust
cho sai số chuẩn. Tóm lại, kỹ thuật IV quy ƣớc tuy nhiên lại kém hiệu quả trong
trƣờng hợp phƣơng sai thay đổi. Sự ra đời của kỹ thuật GMM (Generalized Method
of Moments) giúp đƣa ra ƣớc tính hiệu quả hơn trong trƣờng hợp phƣơng sai thay
77
đổi (Hansen, 1982). Kỹ thuật này là công cụ suy nghiệm (heuristic) hữu ích. Nhiều
kỹ thuật ƣớc lƣợng tiêu chuẩn chẳng hạn nhƣ OLS và IV có thể đƣợc xem nhƣ là
trƣờng hợp đặc biệt của kỹ thuật GMM. Dẫu GMM có thể đƣa ra ƣớc lƣợng nhất
quán trong trƣờng hợp phƣơng sai thay đổi nhƣng trong điều kiện mẫu giới hạn thì
kỹ thuật này lại cho kết quả không chính xác. Vì vậy, nếu tồn tại hiện tƣợng phƣơng
sai thay đổi thì kỹ thuật IV sẽ đƣợc ƣu tiên hơn.
Mặc dù phƣơng pháp GMM sẽ giúp giải quyết vấn đề nội sinh gây ra do mối
quan hệ giữa biến độc lập và sai số, giúp giảm tính biến động của hệ số ƣớc tính
thông qua ma trận tối ƣu. Tuy nhiên, vấn đề nội sinh do bởi tƣơng quan giữa độ trễ
biến phụ thuộc và sai số trong mô hình chƣa đƣợc giải quyết. Anderson và Hsiao
(1982) dùng phƣơng trình sai phân bậc nhất và hồi quy hai giai đoạn với các độ trễ
của biến phụ thuộc làm biến công cụ cho chính nó. Bất lợi của phƣơng pháp này là
tính vững và tính hiệu quả không cao do bởi tƣơng quan của phần dƣ. Arellano và
Bond (1991) kết hợp phƣơng pháp của Anderson và Hsiao (1982) và Hansen
(1982). Phƣơng pháp này chỉ cho phép tự tƣơng quan bậc nhất của biến phụ thuộc.
Khi kết hợp chung với hồi quy dƣờng nhƣ không liên quan (Seemingly Unrelated
Regression – SUR) cho phƣơng trình gốc và phƣơng trình sai phân bậc 1 thì phƣơng
pháp SGMM giúp nâng cao tính hiệu quả của mô hình. Ngoài ra, tính hiệu quả của
biến công cụ cũng đƣợc gia tăng thông qua việc đƣa biến độ trễ trong phƣơng trình
gốc làm biến công cụ cho phƣơng trình sai phân và độ trễ của biến trong phƣơng
trình sai phân làm biến công cụ cho phƣơng trình gốc.
Mỗi kỹ thuật ƣớc lƣợng đều có ƣu và nhƣợc điểm nhất định. Đôi khi chúng
phải thỏa mãn một số tiêu chuẩn nhất định để có thể đƣợc xem là phù hợp. Vì vậy,
nghiên cứu ứng dụng tất cả các kỹ thuật nêu trên tƣơng ứng với tiếp cận tĩnh và tiếp
cận động rồi sau đó so sánh kết quả hồi quy cho từng ƣớc lƣợng này. Nếu hệ số ƣớc
lƣợng cho các biến có sự nhất quán với nhau qua từng ƣớc lƣợng thì độ tin cậy của
các ƣớc lƣợng càng cao với điều kiện là các kiểm định liên quan đến ƣớc lƣợng phải
thỏa mãn.
78
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Chƣơng hai trình bày các phƣơng pháp nghiên cứu sử dụng để đạt đƣợc mục
tiêu của nghiên cứu. Dựa vào các công trình nghiên cứu trƣớc đây liên quan đến các
nhân tố tác động đến chất lƣợng lợi nhuận, nghiên cứu lập ra giả thuyết cho tác
động của từng yếu tố đến chất lƣợng lợi nhuận. Nghiên cứu cho rằng các công ty
mới niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán sẽ cho thấy dấu hiệu quản trị
lợi nhuận rõ rệt hơn nên tác động của các yếu tố đối với nhóm công ty này cũng sẽ
khác đi so với phát hiện của các nghiên cứu trƣớc.
Để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu, mô hình nghiên cứu đƣợc thiết lập
với biến phụ thuộc là chất lƣợng lợi nhuận (đo lƣờng dựa vào khoản dồn tích và
giao dịch thực) và nhóm biến độc lập bao gồm giới hạn tài chính, tính độc lập của
HĐQT, chất lƣợng kiểm toán, khả năng thanh khoản, khả năng sinh lợi, và tăng
trƣởng doanh thu. Nghiên cứu sử dụng hai cách tiếp cận là mô hình tĩnh và mô hình
động và ƣớc lƣợng hệ số hồi quy của mô hình dựa vào kỹ thuật ƣớc lƣợng đối với
từng cách tiếp cận. Ƣớc lƣợng tĩnh đối với dữ liệu bảng sử dụng kỹ thuật bình
phƣơng nhỏ nhất gộp (POLS), tác động cố định (Fixed Effects), và tác động ngẫu
nhiên (Random Effects). Ƣớc lƣợng động (thêm vào biến trễ của biến phụ thuộc) sử
dụng kỹ thuật hệ phƣơng trình momen tổng quát để giải quyết vấn đề nội sinh.
Chƣơng hai đóng vai trò quan trọng và làm tiền đề cho phần phân tích kết quả
nghiên cứu của nghiên cứu trong chƣơng tiếp theo.
79
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chƣơng ba trình bày phân tích số liệu thống kê liên quan đến chất lƣợng lợi
nhuận đƣợc đo lƣờng dựa vào khoản dồn tích và giao dịch thực. Nội dung đầu tiên
trình bày phần thống kê dành riêng cho biến độc lập và phụ thuộc và sau đó là giá
trị thống kê của biến độc lập đối với các trƣờng hợp khác nhau của biến phụ thuộc.
Việc phân tích này giúp chỉ ra tính bất thƣờng cũng nhƣ mối quan hệ thống kê bƣớc
đầu trong dữ liệu thu thập. Nội dung thứ hai, nghiên cứu sử dụng ma trận hệ số
tƣơng quan để phân tích mối quan hệ đơn biến giữa biến độc lập và biến phụ thuộc
trong mô hình. Ngoài ra, ma trận hệ số tƣơng quan còn giúp chỉ ra hai biến đại cho
chất lƣợng lợi nhuận có phù hợp không và tƣơng quan giữa các biến độc lập có gây
ra hiện tƣợng đa cộng tuyến hay không. Cuối cùng, nghiên cứu phân tích hồi quy đa
biến và lập luận kết quả nghiên cứu theo từng biến đại diện cho chất lƣợng lợi
nhuận và theo từng kỹ thuật ƣớc lƣợng (POLS, FE, RE, và SGMM).
3.1. Phân tích chất lƣợng lợi nhuận
Nghiên cứu đo lƣờng chất lƣợng lợi nhuận dựa vào MHF và MHR. Đối với
cả hai biến đại diện này, nghiên cứu phân biến chất lƣợng lợi nhuận ra thành ba
mức độ là chất lƣợng lợi nhuận thấp, chất lƣợng lợi nhuận bình thƣờng, và chất
lƣợng lợi nhuận cao. Việc phân chia này dựa vào sự phân chia danh mục đầu tƣ để
xác định tỷ suất sinh lời của Fama và French (1995) - nghiên cứu sử dụng phƣơng
pháp tam phân vị (phân dữ liệu quan sát thành ba phần tƣơng ứng với ba mức độ giá
trị khác nhau). Theo nhƣ Fama và French (1995), nghiên cứu sử dụng tỷ lệ 30% giá
trị thấp nhất, 40% giá trị trung bình, và 30% giá trị cao nhất (tỷ lệ 3:4:3). Trong
luận án này, nghiên cứu phân 30% giá trị khoản dồn tích và giao dịch thực cao nhất
thuộc quan sát có chất lƣợng lợi nhuận thấp, 30% giá trị khoản dồn tích và giao dịch
thực thấp nhất thuộc quan sát có chất lƣợng lợi nhuận cao, và 40% giá trị còn lại
thuộc quan sát có chất lƣợng lợi nhuận trung bình. Các phần bên dƣới sẽ lần lƣợt
trình bày thống kê mô tả đối với hai biến đại diện – MHF và MHR.
80
3.1.1. Đánh giá chất lượng lợi nhuận dựa vào khoản dồn tích (MHF)
Đầu tiên, nghiên cứu trình bày phần thống kê mô tả đối với chất lƣợng lợi
nhuận đo lƣờng dựa vào MHF. Đối với phần thống kê mô tả, nghiên sẽ trình bày số
quan sát, giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, phƣơng sai, giá trị nhỏ nhất, và giá trị lớn
nhất.
Bảng 3.1. Thống kê chất lƣợng lợi nhuận đo lƣờng dựa vào khoản dồn tích
Chất lƣợng lợi nhuận Thấp Bình thƣờng Cao (Theo mô hình Francis và cộng sự, 2005)
Observation 670 892 669 (Số quan sát)
Mean 0.957 0.657 0.413 (Trung bình)
Standard deviation 0.148 0.066 0.100 (Độ lệch chuẩn)
Variance 0.022 0.004 0.010 (Phƣơng sai)
Min 0.779 0.541 0.123 (Giá trị nhỏ nhất)
Max 1.520 0.778 0.540 (Giá trị lớn nhất)
Nguồn: Tổng hợp các tính toán của tác giả bằng phần mềm STATA 15
Qua bảng 3.1 nghiên cứu thấy rằng tổng số quan sát là 2231 trong đó 30%
(670 quan sát) có giá trị cao (giá trị trung bình là 0.957), 40% (892 quan sát) có giá
trị bình thƣờng (giá trị trung bình là 0.657), và 30% (669 quan sát) có giá trị thấp
(giá trị trung bình là 0.413). Đối với cách đo lƣờng MHF thì các yếu tố dồn tích
khác nhau sẽ đƣợc đƣa vào để dự đoán ra mức độ quản trị lợi nhuận. Nhƣ vậy, giá
trị tính toán càng cao cho thấy hành vi quản trị lợi nhuận càng nghiêm trọng. Vì
nghiên cứu đánh giá chất lƣợng lợi nhuận nên phân loại giá trị cao hay thấp sẽ
81
ngƣợc lại tức mức đoạn quản trị lợi nhuận càng lớn thì chất lƣợng lợi nhuận càng
thấp và ngƣợc lại. Nhóm có chất lƣợng lợi nhuận thấp có giá trị trung bình của biến
MHF cao (0.957). Nhƣ vậy, các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng
khoán Việt Nam mà có lợi nhuận cao nhờ vào khoản dồn tích bất thƣờng cao thì
thƣờng xuất phát từ hành vi quản trị lợi nhuận. Trong trƣờng hợp này, lợi nhuận
không phản ánh chính xác hiệu quả hoạt động và không thể đƣợc sử dụng để dự báo
tình hình hoạt động của công ty trong tƣơng lai. Ngƣợc lại, khi giá trị khoản dồn
tích bất thƣờng thấp (0.413) thì công ty đƣợc phân loại là có chất lƣợng lợi nhuận
cao vì khoản dồn tích thấp là dấu hiệu minh chứng cho việc các công ty niêm yết
lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam ít can thiệp vào các yếu tố hình
thành nên lợi nhuận công ty.
Độ lệch chuẩn và phƣơng sai là hai yếu tố dùng để đánh giá mức độ biến
động của biến nghiên cứu. Trong bảng 3.1, chúng ta có thể thấy so với giá trị trung
bình thì mức độ biến động của biến MHF không quá cao (cao nhất là 0.148 và thấp
nhất là 0.066). Giá trị MHF cao nhất là 1.52 (phân loại chất lƣợng lợi nhuận thấp)
và giá trị MHF thấp nhất là 0.12 (phân loại chất lƣợng lợi nhuận cao). Tóm lại,
trong bảng 3.1, chúng ta quan sát thấy rằng quản trị lợi nhuận thông qua MHF có
quan hệ ngƣợc chiều với chất lƣợng lợi nhuận. Dấu hiệu quản trị lợi nhuận càng rõ
rệt thì chất lƣợng lợi nhuận càng giảm.
3.1.2. Đánh giá chất lượng lợi nhuận dựa vào giao dịch thực (MHR)
Thứ hai, nghiên cứu trình bày thống kê mô tả cho chất lƣợng lợi nhuận đo
lƣờng dựa vào MHR. Tƣơng tự nhƣ bảng 3.1, nghiên cứu cũng trình bày số quan
sát, giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, phƣơng sai, giá trị nhỏ nhất, và giá trị lớn nhất.
82
Bảng 3.2. Thống kê chất lƣợng lợi nhuận đo lƣờng dựa vào giao dịch thực
Chất lƣợng lợi nhuận Thấp Bình thƣờng Cao (Theo mô hình Roychowdhury (2006)
Observation 840 1,118 839 (Số quan sát)
Mean 0.703 0.537 0.366 (Trung bình)
Standard deviation 0.073 0.030 0.071 (Độ lệch chuẩn)
Variance 0.005 0.001 0.005 (Phƣơng sai)
Min 0.599 0.464 0.199 (Giá trị nhỏ nhất)
Max 0.869 0.598 0.464 (Giá trị lớn nhất)
Nguồn: Tổng hợp các tính toán của tác giả bằng phần mềm STATA 15
Biến MHR có tổng số quan sát là 2797, trong đó 30% (840 quan sát) có giá
trị cao (giá trị trung bình là 0.703), 40% (1118 quan sát) có giá trị bình thƣờng (giá
trị trung bình là 0.537), và 30% (839 quan sát) có giá trị thấp (giá trị trung bình là
0.366). Khác với đo lƣờng dựa trên MHF (lợi nhuận cao dựa vào các khoản dồn tích
bất thƣờng trong công ty) thì biến MHR đánh giá hành vi quản trị lợi nhuận ngay từ
chính quyết định ban đầu của công ty. Các quyết định ở đây liên quan đến việc tăng
cƣờng sản xuất (đánh vào doanh thu) hay trì hoãn hoạt động đầu tƣ (đánh vào chi
phí). Nhƣ vậy, các dấu hiệu dựa trên quyết định của công ty sẽ giúp đánh giá chất
lƣợng lợi nhuận sớm hơn là xem xét khoản dồn tích. Giống với biến MHF thì giá trị
biến MHR càng cao cho thấy chất lƣợng lợi nhuận càng thấp vì giá trị cho thấy dấu
hiệu rõ rệt hơn đối với can thiệp giao dịch thực của công ty. Chất lƣợng lợi nhuận
83
thấp có giá trị MHR trung bình là 0.703. Ngƣợc lại, chất lƣợng lợi nhuận cao có giá
trị MHR trung bình là 0.366.
Có thể thấy rằng nếu sử dụng biến MHR thì nghiên cứu sẽ phát hiện đƣợc
nhiều quan sát nghi ngờ thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận nhiều hơn so với biến
MHF ở mỗi phân loại cao, trung bình, và thấp của chất lƣợng lợi nhuận. Tuy nhiên,
dẫu nhiều quan sát hơn nhƣng dấu hiệu lại không rõ rệt khi đánh giá khoản dồn tích
theo MHF. Điều này đúng với thực tế rằng, đôi khi quyết định chiến lƣợc của công
ty không phải là dấu hiệu rõ ràng cho hành vi quản trị lợi nhuận. Nó chỉ là dấu hiệu
giúp phát hiện sớm nhất nguy cơ quản trị lợi nhuận của công ty. Vì thế giá trị trung
bình của biến MHR dẫu có số quan sát nhiều hơn nhƣng lại thấp hơn nhiều so với
biến MHF. Nhƣ vậy, mỗi cách đánh giá chất lƣợng lợi nhuận đều có ƣu thế riêng
(MHF: giúp phát hiện hành vi quản trị lợi nhuận rõ rệt hơn – đƣa ra kết luận chính
xác hơn; MHR: giúp phát hiện hành vi quản trị lợi nhuận sớm hơn để có thể can
thiệp kịp thời tránh dẫn đến hậu quả nghiêm trọng sau đó).
Dựa vào độ lệch chuẩn và phƣơng sai, nghiên cứu thấy rằng cả ba mức độ
MHF khác nhau có độ biến động không quá cao (giá trị độ lệch chuẩn nhỏ nhất là
0.03 và lớn nhất là 0.074 chiếm tỷ lệ khá nhỏ trong giá trị trung bình). Cuối cùng,
giá trị MHR lớn nhất là 0.869 (phân loại chất lƣợng lợi nhuận thấp) và giá trị MHR
thấp nhất là 0.199 (phân loại chất lƣợng lợi nhuận cao). Nhìn chung, với biến đại
diện thứ hai cho chất lƣợng lợi nhuận thì nghiên cứu cũng quan sát thấy rằng quản
trị lợi nhuận dựa trên MHR có mối quan hệ ngƣợc chiều với chất lƣợng lợi nhuận.
3.2. Các nhân tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận
3.2.1. Thống kê mô tả biến
3.2.1.1. Thống kê biến độc lập
84
Bảng 3.3. Thống kê mô tả biến giải thích trong mô hình
Variables Mean Median Std. Dev. Min Max Skewness Kurtosis Obs.
(Số quan sát) (Các biến) (Trung bình) (Trung vị) (Độ lệch chuẩn) (Nhỏ nhất) (Lớn nhất)
2,851 0.005216 0.005277 0.001338 0.002177 0.007835
2,855 0.007218 0.007306 0.001160 0.004345 0.009186
2,990 0.000762 0.000000 0.002654 0.000000 1.0000
2,850 0.011192 0.008562 0.008767 0.002182 0.059745
2,827 0.000615 0.000755 0.00293 -0.009279 0.009900
2,847 0.001333 0.001263 0.001169 -0.002255 0.004581
FCWW
(Giới hạn tài chính)
Independence
(Tính độc lập HĐQT)
Audit
(Chất lƣợng kiểm toán)
Liquidity
(Khả năng thanh khoản)
Revenue
(Tăng trƣởng doanh thu)
Profitability
(Khả năng sinh lời) -0.002036 0.022608
-0.004492 0.024490
0.031945 0.011205
0.024388 0.010431
-0.001505 0.043377
0.002635 0.030433
Nguồn: Tổng hợp các tính toán của tác giả bằng phần mềm STATA 15
85
Bảng 3.3 trình bày thống kê mô tả đối với nhóm biến độc lập trong mô hình
nghiên cứu. Nhóm biến độc lập bao gồm giới hạn tài chính (đo lƣờng bằng chỉ số
WW), tính độc lập của HĐQT, chất lƣợng kiểm toán, khả năng thanh khoản, tăng
trƣởng doanh thu, và lợi nhuận. Nghiên cứu đánh giá số quan sát, giá trị trung bình,
giá trị trung vị, độ lệch chuẩn, giá trị nhỏ nhất, và giá trị lớn nhất của từng biến
nghiên cứu. Ngoài ra, bảng thống kê còn xem xét hai chỉ số độ nghiên (skewness)
và độ nhọn (kurtosis) để đánh giá hình dáng phân phối dữ liệu của từng biến.
Xét trên nhóm các biến giải thích, thì biến chất lƣợng kiểm toán là biến có số
quan sát nhiều nhất. Độ lệch chuẩn của biến này cao hơn nhiều so với giá trị trung
bình, chỉ ra mức độ biến động của biến này khá cao. Đồng thời, giá trị của độ
nghiên và độ nhọn khác biệt rất nhiều so với giá trị 0 và 3 nên dữ liệu của biến này
không tuân theo phân phối chuẩn. Nguyên nhân của những vấn đề trên là do bởi
biến chất lƣợng kiểm toán là biến giả (mang giá trị 1: công ty đƣợc kiểm toán và
mang giá trị 0: công ty không đƣợc kiểm toán). Biến mang giá trị 0 và 1 không có
phân phối chuẩn vì không phải là biến liên tục. Tƣơng tự, biến khả năng thanh
khoản cũng không có dạng phân phối chuẩn do bởi độ nghiên và độ nhọn khác biệt
nhiều so với giá trị tiêu chuẩn. Ngoài ra, chúng ta quan sát thấy rằng giá trị trung
bình (1.1192) và giá trị trung vị (0.8562) gần với giá trị nhỏ nhất (0.2182) nên phân
phối sẽ bị lệch về bên trái và có phần đuôi dài về phía bên phải. Mức độ biến động
của yếu tố này cũng khá cao so với giá trị trung bình (0.8767 vs 1.1192), đó là lý do
giải thích cho việc yếu tố này khó đạt đƣợc dạng phân phối chuẩn. Đây là dấu hiện
chỉ ra khả năng thanh khoản thấp của các công ty niêm yết lần đầu tiên trên sở giao
dịch chứng khoán. Các biến còn lại đều cho thấy hình dáng phân phối của dữ liệu
tiệm cận phân phối chuẩn (hình chuông) khi giá trị độ nghiên và độ nhọn gần bằng
với giá trị tiêu chuẩn. Trong các biến độc lập thì giới hạn tài chính có mức độ biến
động không quá cao so với giá trị trung bình và giao động từ 0.2177 (giá trị nhỏ
nhất) đến 0.7835 (giá trị lớn nhất). Nhƣ vậy, mức độ giới hạn tài chính của các công
ty niêm yết lần đầu tiên trên sở giao dịch chứng khoán không quá cao. Ngoài ra,
68% dữ liệu của biến này nằm trong khoảng [0.3878; 0.6554].
86
Kết quả phân tích thống kê mô tả chỉ ra rằng đa phần các biến nghiên cứu
đều có phân phối chuẩn dựa trên giá trị trung bình, trung vị, độ nghiên, và độ nhọn.
Chỉ có chất lƣợng kiểm toán và khả năng thanh khoản không có dạng phân phối
chuẩn do bởi chất lƣợng kiểm toán là biến giả và khả năng thanh khoản có tỷ lệ độ
lệch chuẩn trên giá trị trung bình khá cao. Dựa trên các thông số thì biến khoản dồn
tích là biến phụ thuộc có phân phối tiệm cận chuẩn nhất. Số quan sát của các biến
trong mẫu nghiên cứu không quá chênh lệch nhau, lớn nhất là chất lƣợng kiểm toán
(2,990) và thấp nhất là khoản dồn tích (2,231).
3.2.1.2. Thống kê biến độc lập theo biến phụ thuộc
a. Chất lượng lợi nhuận đo lường dựa trên khoản dồn tích
Trong bảng 3.4 nghiên cứu trình bày thống kê đối với từng biến độc lập
tƣơng ứng với ba mức chất lƣợng lợi nhuận khác nhau là chất lƣợng lợi nhuận thấp,
chất lƣợng lợi nhuận bình thƣờng, và chất lƣợng lợi nhuận cao. Đối với biến giới
hạn tài chính, giá trị trung bình của biến này càng cao thì CLLN càng thấp (giá trị
0.564 cho mức CLLN thấp và 0.493 cho mức CLLN cao). Ngƣợc lại, tính độc lập
của HĐQT càng cao thì CLLN càng cao (0.708 cho mức CLLN thấp và 0.730 cho
mức CLLN cao). Tƣơng tự, giá trị trung bình của khả năng thanh khoản càng cao
thì CLLN càng cao (1.065 cho mức CLLN thấp và 1.154 cho mức CLLN cao). Chất
lƣợng kiểm toán tốt hơn cũng cho thấy CLLN cao hơn (0.883 cho mức CLLN thấp
và 0.931 cho mức CLLN cao). Tuy nhiên, doanh thu và khả năng sinh lời lại cho
thấy rằng doanh thu hoặc khả năng sinh lời cao thì CLLN có thể thấp hoặc có thể
cao. Nhƣ vậy, chúng ta có thể thấy rằng đôi khi doanh thu và khả năng sinh lời cao
xuất phát từ hành vi quản trị lợi nhuận và điều này khiến cho CLLN suy giảm. Tuy
nhiên, cũng có trƣờng hợp khi doanh thu và khả năng sinh lời cao lại đến từ việc
công ty hoạt động hiệu quả. Nhƣ vậy, công ty không có động thái quản trị lợi nhuận
và CLLN cao trong trƣờng hợp này. Xét về độ lệch chuẩn thì dựa trên giá trị trung
bình, mức độ biến động của các biến độc lập tƣơng đối cao.
87
Bảng 3.4. Mối quan hệ giữa biến độc lập và biến phụ thuộc khoản dồn tích
ACCRUALS Mean (Trung Bình) Std.Dev (Độ lệch chuẩn) Min (Giá trị nhỏ nhất) Max (Giá trị lớn nhất)
Thấp Cao Thấp Cao Thấp Cao Thấp Cao (Khoản dồn tích) Bình
thƣờng Bình
thƣờng Bình
thƣờng Bình
thƣờng
FCWW 0.564 0.537 0.493 0.127 0.128 0.133 0.217 0.227 0.218 0.780 0.783 0.783 (Giới hạn tài chính)
INDEPENDENCE 0.706 0.720 0.729 0.118 0.112 0.116 0.435 0.436 0.434 0.916 0.916 0.918 (Tính độc lập HDQT)
AUDIT 0.883 0.941 0.931 0.321 0.236 0.253 0.000 0.000 0.000 1.000 1.000 1.000 (Chất lƣợng kiểm toán)
LIQUIDITY 1.065 1.104 1.154 0.754 0.892 0.919 0.218 0.218 0.221 5.239 5.974 5.917 (Khả năng thanh khoản)
REVENUE 0.069 0.049 0.065 0.287 0.280 0.303 -0.92 -0.916 -0.927 0.943 0.962 0.989 (Tăng trƣởng doanh thu)
PROFITABILITY 0.138 0.128 0.134 0.113 0.118 0.117 -0.21 -0.213 -0.226 0.457 0.447 0.458 (Khả năng sinh lời)
Nguồn: Tổng hợp các tính toán của tác giả bằng phần mềm STATA 15
88
b. Chất lượng lợi nhuận đo lường dựa trên giao dịch thực
Giống với bảng 3.4, bảng 3.5 cũng trình bày thống kê của các biến độc lập tại
ba mức chất lƣợng lợi nhuận thấp, bình thƣờng, và cao. Đầu tiên, giá trị trung bình
của biến giới hạn tài chính càng thấp thì CLLN đo lƣờng bằng giao dịch thực càng
cao. Tuy nhiên, sự chênh lệch về giá trị trung bình không quá lớn (cao nhất là 0.527
đối với CLLN thấp và thấp nhất là 0.517 đối với CLLN cao). Thứ hai, HĐQT càng
độc lập thì CLLN càng cao. Giá trị trung bình của biến này đối với mức CLLN thấp
là 0.719 và sau đó tăng cao đối với CLLN bình thƣờng và CLLN cao. Thứ ba, biến
chất lƣợng kiểm toán có giá trị cao đối với CLLN thấp và bình thƣờng. Tuy nhiên,
mức độ chênh lệch về giá trị trung bình không cao. Thứ tƣ, CLLN càng cao thì giá
trị của biến khả năng thanh khoản càng cao (0.963 đối với CLLN thấp và 1.269 đối
với CLLN cao). Đối với doanh thu và khả năng sinh lời thì giá trị trung bình cao đi
kèm với CLLN thấp (doanh thu: 0.081 và khả năng sinh lời: 0.149 tại mức CLLN
thấp). Nhƣ vậy, đối với giao dịch thực thì doanh thu và khả năng sinh lời cao nhiều
khả năng sẽ xuất phát từ hành vi quản trị lợi nhuận của công ty, điều này lý giải cho
CLLN thấp của công ty.
89
Bảng 3.5. Mối quan hệ giữa biến độc lập và biến phụ thuộc giao dịch thực
REAL ACTIVITIES Mean (Trung Bình) Std.Dev (Độ lệch chuẩn) Min (Giá trị nhỏ nhất) Max (Giá trị lớn nhất)
Thấp Cao Thấp Cao Thấp Cao Thấp Cao (Giao dịch thực) Bình
thƣờng Bình
thƣờng Bình
thƣờng Bình
thƣờng
FCWW 0.527 0.522 0.516 0.130 0.131 0.139 0.217 0.217 0.218 0.780 0.783 0.783 (Giới hạn tài chính)
INDEPENDENCE 0.719 0.725 0.720 0.115 0.112 0.120 0.435 0.435 0.434 0.916 0.918 0.918 (Tính độc lập HDQT)
AUDIT 0.936 0.931 0.904 0.243 0.253 0.294 0.000 0.000 0.000 1.000 1.000 1.000 (Chất lƣợng kiểm toán)
LIQUIDITY 0.962 1.100 1.268 0.748 0.799 1.020 0.225 0.218 0.218 5.724 5.974 5.967 (Khả năng thanh khoản)
REVENUE 0.081 0.055 0.051 0.283 0.283 0.310 -0.93 -0.922 -0.927 0.962 0.989 0.978 (Tăng trƣởng doanh thu)
PROFITABILITY 0.149 0.138 0.115 0.117 0.118 0.113 -0.23 -0.219 -0.213 0.456 0.458 0.456 (Khả năng sinh lời)
Nguồn: Tổng hợp các tính toán của tác giả bằng phần mềm STATA 15
90
3.2.1.3. Thống kê biến nghiên cứu theo nhóm ngành
Trong hai phần trƣớc, nghiên cứu đã phân tích thống kê mô tả đối với biến
phụ chất lƣợng lợi nhuận phân theo ba mức độ khác nhau và sau đó phân tích mô tả
thống kê cho các biến độc lập phân theo ba mức độ khác nhau của biến phụ thuộc.
Trong phần này, nghiên cứu sẽ thống kê giá trị của các biến độc lập theo từng
ngành. Đối với trƣờng hợp các công ty niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán Việt
Nam thì Thomson Reuters Eikon chia các công ty thành 15 nhóm ngành nhƣ sau:
(1) Bán buôn, (2) Bán lẻ, (3) Công nghệ - thông tin, (4) Khoa học và công nghệ, (5)
Dịch vụ hỗ trợ, (6) Dịch vụ khác (ngoại trừ hành chính công), (7) Dịch vụ lƣu trú và
ăn uống, (8) Khai khoáng, (9) Nghệ thuật, vui chơi, và giải trí, (10) Sản xuất, (11)
Sản xuất nông nghiệp, (12) Thuê và cho thuê, (13) Tiện ích, (14) Vận tải và kho bãi,
(15) Xây dựng và bất động sản. Việc phân chia thành các nhóm ngành, mục tiêu là
để đánh giá ngành nào có chất lƣợng lợi nhuận cao/thấp và sự khác biệt giữa các
nhân tố tác động theo ngành.
Bảng 3.6 trình bày thống kê mô tả về giá trị trung bình theo 15 nhóm ngành
đối với các biến độc lập trong mô hình nghiên cứu bao gồm giới hạn tài chính, tính
độc lập của HĐQT, chất lƣợng kiểm toán, khả năng thanh khoản, tăng trƣởng doanh
thu, và khả năng sinh lời. Mức độ giới hạn tài chính đối với các ngành nhìn chung
không chênh lệch quá cao, thấp nhất là ngành khoa học và công nghệ (0.4599) và
cao nhất là ngành dịch vụ khác (0.5815). Mức độ độc lập của HĐQT trong các
nhóm ngành đều cao hơn 50% và đa phần cách ngành đều trên 70%. Tất cả các
ngành đa phần cho thấy chất lƣợng kiểm toán tốt và một số ngành hoàn toàn đƣợc
kiểm toán bởi Big4. Khả năng thanh khoản của các công ty cũng khá cao, cao nhất
là 1.8274 (dịch vụ hỗ trợ) và thấp nhất là 0.7240 (nghệ thuật, vui chơi, và giải trí).
Nhƣ vậy, đa phần các công ty có tài sản ngắn hạn tƣơng đƣơng hoặc cao hơn nợ
ngắn hạn nên xác suất vỡ nợ khá thấp. Tất cả các nhóm ngành đều cho thấy tăng
trƣởng doanh thu (giá trị trung bình mang dấu dƣơng), trong đó ngành thuê và cho
thuê cho thấy tăng trƣởng cao nhất (17.81%) và ngành dịch vụ hỗ trợ tăng trƣởng
thấp nhất (1.58%). Cuối cùng, 14/15 ngành cho thấy lợi nhuận (khả năng sinh lời
91
tốt) của công ty. Chỉ có duy nhất ngành dịch vụ khác cho thấy số liệu lợi nhuận âm.
Tuy nhiên, tỷ lệ lợi nhuận âm không cao (khoảng 1.9%). Ở đây chúng ta có thể thấy
một số nhóm ngành có tăng trƣởng doanh thu không cao nhƣng khả năng sinh lời
lại rất cao và cao hơn tỷ lệ tăng trƣởng doanh thu. Đây là dấu hiệu khá rõ cho hành
vi can thiệp lợi nhuận của các công ty mới niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng
chứng khoán.
92
Bảng 3.6. Thống kê mô kê mô tả biến độc lập theo nhóm ngành
Ngành
FCWW
Giới hạn
tài chính Independence
Tính độc lập
HĐQT Audit
Chất lượng
kiểm toán Liquidity
Khả năng
thanh khoản Revenue
Tăng trưởng
doanh thu Profitability
Khả năng
sinh lời
0.7149
0.7141
0.7211
0.6589
0.6915
0.6471
0.7715
0.7071
0.5512
0.7223
0.7277
0.5263
0.7564
0.7178
0.7273 Bán buôn
Bán lẻ
Công nghệ - thông tin
Khoa học và công nghệ
Dịch vụ hỗ trợ
Dịch vụ khác (ngoại trừ hành chính công)
Dịch vụ lƣu trú và ăn uống
Khai khoáng
Nghệ thuật, vui chơi, và giải trí
Sản xuất
Sản xuất nông nghiệp
Thuê và cho thuê
Tiện ích
Vận tải và kho bãi
Xây dựng và bất động sản 0.4995
0.5647
0.5262
0.4599
0.6091
0.5815
0.5486
0.5288
0.5507
0.5253
0.5380
0.5247
0.5226
0.5067
0.5191 0.9324
0.9053
0.8739
0.9273
1.0000
1.0000
0.9000
0.9419
1.0000
0.9430
0.9273
1.0000
0.9091
0.9196
0.9015 1.2447
1.2982
1.0730
1.6449
1.8274
0.9052
1.4520
1.1935
0.7240
1.1229
1.2296
1.0254
0.8838
1.0991
1.0432 0.0566
0.1116
0.0948
0.0843
0.0158
0.0912
0.0614
0.0350
0.0776
0.0468
0.0936
0.1781
0.0591
0.0539
0.0751 0.1342
0.1669
0.1312
0.1443
0.1577
-0.0019
0.1504
0.1305
0.0968
0.1299
0.1241
0.1377
0.1251
0.1453
0.1332
Nguồn: Tổng hợp các tính toán của tác giả bằng phần mềm STATA 15
93
3.2.2. Phân tích đơn biến
Phân tích đơn biến nhằm đánh giá mối liên hệ giữa các cặp biến trong mô
hình nghiên cứu, thƣờng đƣợc đánh giá thông qua ―hệ số tƣơng quan‖. Thuật ngữ
―hệ số tƣơng quan‖ (correlation) đƣợc nhắc đến lần đầu tiên trong nghiên cứu của
hai tác giả Galton (1889), Snedecor và Cochran (1989). Tuy nhiên, hệ số này chỉ
thực sự phổ biến thông qua nghiên cứu sau đó của Pearson (1896), Pearson và Filon
(1898). Vì vậy, hệ số tƣơng quan thƣờng đƣợc nhắc đến nhƣ là hệ số Pearson
(Stigler, 1986). Hệ số Pearson đƣợc ƣớc tính thông qua công thức sau:
Trong đó, là trọng số (nếu đƣợc cụ thể hóa) hay bằng 1 nếu trọng
số không đƣợc cụ thể hóa; là giá trị trung bình của ;
là giá trị trung bình của . Mức ý nghĩa của hệ số này đƣợc
xác định thông qua hệ số tƣơng quan pairwise nhƣ sau:
Bên cạnh kiểm định đề ra bởi Pearson để xác định mức độ tƣơng quan giữa
các biến với nhau thì sau đó Bonferroni (1936) và Šidák (1967) đƣa ra kỹ thuật hiệu
chỉnh kiểm định tính phù hợp của các giá trị của hệ số tƣơng quan Pearson. Nghiên
cứu sử dụng hệ số tƣơng quan Pearson, hệ số tƣơng quan pairwise Pearson cùng với
các kết quả của kiểm định tính phù hợp của hệ số Pearson và các kết quả kiểm định
đƣợc hiệu chỉnh bởi kỹ thuật Bonferroni và kỹ thuật Šidák. Mục đích của phân tích
đơn biến thông qua hệ số tƣơng quan là xác định độ lớn về mối quan hệ giữa các
biến định lƣợng trong mô hình nghiên cứu, cụ thể là mối quan hệ tuyến tính giữa
biến độc lập và biến phụ thuộc.
Bảng 3.7 trình bày ma trận hệ số tƣơng quan giữa các biến trong mô hình
nghiên cứu. Ma trận này thể hiện sự tƣơng quan giữa các biến trong nhóm biến phụ
94
thuộc (khoản dồn tích và giao dịch thực) với các biến trong nhóm biến độc lập (giới
hạn tài chính, tính độc lập của HĐQT, chất lƣợng kiểm toán, khả năng thanh khoản,
tăng trƣởng doanh thu, và khả năng sinh lời), và tƣơng quan giữa các biến độc lập.
95
Bảng 3.7. Ma trận hệ số tƣơng quan giữa các biến trong mô hình
Ma trận hệ số tƣơng quan (2) (3) (4) (5) (6) (7) (1) (8)
1
(1) Accruals
Khoản dồn tích
Tƣơng quan Pearson
Tƣơng quan PW Pearson
P-value
P-value bonferroni
P-value hiệu chỉnh sidak -.2701
-.2419 .1328
.1479 .0408
.1104 -.0164
-.0283
.1905
1
.9995 -.0104
-.0349
.1073
1
.9832 -.0967
-.0269
.2147
1
.9998 .4838
.4519
Tƣơng quan Pearson .4838 -.0017 .1501 -.0962 -.1507 -.0229 .0586 1 Tƣơng quan PW Pearson .4519 -.0732 .0290 .0139 .1470 -.0482 -.1160
(2) Real Activities
Giao dịch thực
P-value
P-value bonferroni
P-value hiệu chỉnh sidak .0002
.0055
.0055 .1344
1
.9945 .4626
1
1 .0127
.4565
.3683
1
(3) FCWW
Giới hạn tài chính
Tƣơng quan Pearson
Tƣơng quan PW Pearson
P-value
P-value bonferroni
P-value hiệu chỉnh sidak -.2701
-.2419 -.0946
-.1059 -.1422
-.1801 -.0165
-.0792
.0013
.0013 -.0644
-.0588
.0023
.0818
.0786 -.2274
-.2225 -.0229
-.0732
.0002
.0055
.0055
1
(4) Independence
Tính độc lập
HĐQT Tƣơng quan Pearson
Tƣơng quan PW Pearson
P-value
P-value bonferroni .1328
.1479 -.0946
-.1059 -.0172
.0104
.5792
1 -.2536
-.2307 -.0243
-.0763
.0001
.0027 -.0071
.0237
.2178
1 .0586
.0290
.1344
1
96
P-value hiệu chỉnh sidak .9945 .0026 .9999 1
1
(5) Audit
Chất lƣợng kiểm
toán
Tƣơng quan Pearson
Tƣơng quan PW Pearson
P-value
P-value bonferroni
P-value hiệu chỉnh sidak .0408
.1104 -.0017
.0139
.4626
1
1 -.1422
-.1801 -.0172
.0104
.5792
1
1 .0553
.0723
.0001
.0041
.0041 -.0257
-.0388
.0390
1
.7612 -.0997
-.0210
.2635
1
1
1
(6) Liquidity
Khả năng thanh
khoản
Tƣơng quan Pearson
Tƣơng quan PW Pearson
P-value
P-value bonferroni
P-value hiệu chỉnh sidak -.0164
-.0283
.1905
1
.9995 .1501
.1470 -.0165
-.0792
.0013
.0013 -.2536
-.2307 .0553
.0723
.0001
.0041
.0041 .0169
.0593
.0021
.0744
.0718 .0078
.0375
.0515
1
.8509
1
(7) Revenue
Tăng trƣởng
doanh thu
Tƣơng quan Pearson
Tƣơng quan PW Pearson
P-value
P-value bonferroni
P-value hiệu chỉnh sidak -.0104
-.0349
.1073
1
.9832 -.0962
-.0482
.0127
.4565
.3683 -.0644
-.0588
.0023
.0818
.0786 -.0243
-.0763
.0001
.0027
.0026 -.0257
-.0388
.0390
1
.7612 .0169
.0593
.0021
.0744
.0718 .2740
.2408
1
(8) Profitability
Khả năng sinh lời
Tƣơng quan Pearson
Tƣơng quan PW Pearson
P-value
P-value bonferroni
P-value hiệu chỉnh sidak -.0967
-.0269
.2147
1
.9998 -.1507
-.1160 -.2274
-.2225 -.0071
.0237
.2178
1
.9999 -.0997
-.0210
.2635
1
1 .0078
.0375
.0515
1
.8509 .2740
.2408
Nguồn: Tổng hợp các tính toán của tác giả bằng phần mềm STATA 15
97
Trong các biến phụ thuộc thì khoản dồn tích có mối quan hệ tƣơng quan cao
so với giao dịch thực (0.4838). Mức độ tƣơng quan cao này cho thấy rằng hai biến
này có thể đƣợc sử dụng thay thế cho nhau để làm biến đại diện cho chất lƣợng lợi
nhuận. Hệ số tƣơng quan cao còn hàm ý rằng hai biến này không nên đƣợc đƣa vào
trong cùng một mô hình để tránh hiện tƣợng đa cộng tuyến làm cho hệ số của các
biến bị thiên lệch. Giá trị p-value xác định từ cả ba phƣơng pháp đều cho thấy tƣơng
quan ý nghĩa thống kê mạnh, chứng minh cho mối quan hệ giữa hai biến phụ thuộc
này. Ngoài ra, dấu dƣơng của hệ số tƣơng quan cho rằng các can thiệp này biến
động cùng chiều, tức công ty gia tăng can thiệp vào yếu tố này cũng làm cho yếu tố
kia biến động xấu theo.
Giới hạn tài chính cho thấy mối quan hệ tƣơng quan ngƣợc chiều với cả hai
biến đại diện cho chất lƣợng lợi nhuận. Ý nghĩa thống kê của biến này thông qua ba
giá trị p-value chỉ ra rằng giới hạn tài chính tác động ngƣợc chiều có ý nghĩa thống
kê đến chất lƣợng lợi nhuận của công ty. Giới hạn tài chính càng cao thì xác suất
quản trị lợi nhuận xảy ra càng cao. Chất lƣợng lợi nhuận của công ty vì vậy cũng
suy giảm. Khả năng sinh lời cũng là yếu tố cho thấy mối quan hệ tƣơng quan ngƣợc
chiều với cả hai biến phụ thuộc, khẳng định cho việc rằng khả năng sinh lời cao của
công ty có thể xuất phát từ việc họ quản trị lợi nhuận nhằm để thu hút nhà đầu tƣ
trên thị trƣờng. Tính độc lập của HĐQT có tƣơng quan cùng chiều đối với cả hai
biến đại diện.
Xét về mức ý nghĩa thống kê thì chỉ có biến đại diện khoản dồn tích là cho
thấy mối quan hệ tƣơng quan cùng chiều mạnh nhất dựa trên giá trị p-value của cả
ba phƣơng pháp. Dấu dƣơng của hệ số tƣơng quan hàm ý rằng các thành viên trong
HĐQT không tham gia vào công tác quản lý càng nhiều thì quản trị lợi nhuận của
công ty càng giảm và chất lƣợng lợi nhuận đƣợc cải thiện. Yếu tố này giải thích tốt
nhất đối với đo lƣờng dựa trên khoản dồn tích bất thƣờng của công ty. Chất lƣợng
kiểm toán có mối quan hệ cùng chiều với chất lƣợng lợi nhuận thông qua hệ số
tƣơng quan cùng chiều có ý nghĩa thống kê của biến khoản dồn tích, thể hiện mối
quan hệ tƣơng quan mạnh thông qua giá trị p-value ở mức 0.000 cho cả ba phƣơng
98
pháp kiểm định. Dấu dƣơng của hệ số tƣơng quan giúp giải thích cho việc rằng
công ty đƣợc kiểm toán sẽ có chất lƣợng lợi nhuận tốt hơn công ty không đƣợc
kiểm toán.
Khả năng thanh khoản có mối quan hệ cùng chiều với giao dịch thực, giá trị
p-value của cả ba phƣơng pháp kiểm định chỉ ra tƣơng quan có ý nghĩa thống kê
cao. Công ty với khả năng thanh khoản tốt sẽ ít có động cơ quản trị lợi nhuận và
chất lƣợng lợi nhuận của công ty vì vậy cũng cao hơn. Tăng trƣởng doanh thu
dƣờng nhƣ không có mối quan hệ với cả hai biến phụ thuộc. Giá trị của ba kiểm
định đều cho thấy không có ý nghĩa thống kê. Nhƣ vậy, doanh thu cao không giải
thích đƣợc cho chất lƣợng lợi nhuận của công ty.
Tóm lại, dựa vào phân tích đơn biến (ma trận hệ số tƣơng quan) nghiên cứu
xác định đƣợc mối quan hệ giữa từng cặp biến với nhau. Các biến phụ thuộc có thể
đƣợc sử dụng để đại diện cho chất lƣợng lợi nhuận vì biến khoản dồn tích có tƣơng
quan cao với giao dịch thực. Xét về tƣơng quan giữa biến độc lập và phụ thuộc thì
giới hạn tài chính và khả năng sinh lời cho thấy mối quan hệ ngƣợc chiều với cả hai
biến đại diện, biến tăng trƣởng doanh thu không chỉ ra mối quan hệ với chất lƣợng
lợi nhuận, và các biến còn lại (tính độc lập của HĐQT, chất lƣợng kiểm toán, và
khả năng thanh khoản) có mối quan hệ cùng chiều với chất lƣợng lợi nhuận. Kết
quả phân tích đơn biến bƣớc đầu ủng hộ cho các giả thuyết đặt ra về mối quan hệ
giữa các biến giải thích và chất lƣợng lợi nhuận của công ty.
Tuy nhiên, mô hình nghiên cứu lại xem xét tất cả các biến độc lập trong cùng
một mô hình. Khi các biến độc lập nằm chung với nhau trong một vế của phƣơng
trình thì nhiều khả năng sẽ xảy ra hiện tƣợng đa cộng tuyến nếu các biến có mối
quan hệ tƣơng quan lớn với nhau. Trong trƣờng hợp này, bảng ma trận hệ số tƣơng
quan cũng giúp cho chúng ta xác định liệu vấn đề đa cộng tuyến giữa các biến độc
lập có khả năng xảy ra hay không. Qua bảng 3.7, nhìn chung hệ số tƣơng quan giữa
các biến độc lập trong mô hình không cao (tất cả các hệ số đều dƣới 0.3), cho nên
hiện tƣợng đa cộng tuyến trong mô hình không nghiêm trọng. Kết luận này giúp hỗ
99
trợ cho kết quả ƣớc lƣợng từ mô hình hồi quy đa biến vì hiện tƣợng đa cộng tuyến
là nguyên nhân khiến cho dấu của hệ số biến và mức ý nghĩa bị thiên lệch. Nhƣ vậy,
kết quả hồi quy mô hình trong phần trình bày sau đây hoàn toàn đáng tin cậy.
3.2.3. Phân tích đa biến
3.2.3.1. Kiểm định khuyết tật của mô hình nghiên cứu
a. Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi (heteroskedasticity)
Một trong những giả định của phƣơng trình hồi quy tuyến tính là phƣơng sai
của sai số phải không đổi (homoskedasticity). Phƣơng sai của sai số thay đổi là hiện
tƣợng mà phƣơng sai của sai số ƣớc lƣợng không bằng nhau qua thời gian. Hiện
tƣợng này thƣờng xuất hiện trong dữ liệu chéo (cross section). Hiện tƣợng phƣơng
sai thay đổi nảy sinh do bởi sự xuất hiện của biến ngoại vi (outliers) hoặc do bởi sự
khác nhau trong cách đo lƣờng của cùng một biến. Khi xảy ra hiện tƣợng phƣơng
sai thay đổi thì ƣớc lƣợng đối với OLS vẫn là ƣớc lƣợng không chệch nhƣng nó
không phải là ƣớc lƣợng hiệu quả nhất vì các kiểm định của mô hình không còn
đáng tin cậy. Chính vì vậy mà kết luận dựa trên mô hình sẽ không còn chính xác
nữa. Đối với tiếp cận mô hình tĩnh thì tƣơng ứng với từng kỹ thuật ƣớc lƣợng,
nghiên cứu sẽ đƣa ra các kiểm định khác nhau: kiểm định Breusch – Pagan/Cook-
Weisberg cho kỹ thuật POLS, kiểm định Modified Wald cho kỹ thuật FE, và kiểm
định Breusch và Pagan Lagrangian Multiplier cho kỹ thuật RE.
Bảng 3.8. Kiểm định hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi tại thời kỳ t
Phƣơng sai thay đổi Thời kỳ t
Khoản dồn tích Giao dịch thực
Bình phƣơng nhỏ nhất gộp (POLS)
Chi (2)
Kiểm định Breusch-Pagan - Cook-Weisberg P-value 19.77
0.000 3.87
0.0492
Tác động cố định (FE)
Kiểm định Modified Wald Chi (2)
P-value 1.58
0.9035 12.84
0.0250
Chibar2 989.62 942.82
P-value 0.000 0.000 Tác động ngẫu nhiên (RE)
Kiểm định Breusch và Pagan Lagrangian
Multiplier
Nguồn: Tổng hợp và tính toán của tác giả bằng phần mềm STATA 15
100
Bảng 3.9. Kiểm định hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi tại thời kỳ t – 1
Phƣơng sai thay đổi Thời kỳ t - 1
Khoản dồn tích Giao dịch thực
Bình phƣơng nhỏ nhất gộp (POLS)
Chi (2)
Kiểm định Breusch-Pagan - Cook-Weisberg P-value 2.57
0.1088 2.50
0.1142
Tác động cố định (FE)
Kiểm định Modified Wald Chi (2)
P-value 0.60
0.9631 7.66
0.1047
Chibar2 496.40 472.82
P-value 0.000 0.000 Tác động ngẫu nhiên (RE)
Kiểm định Breusch và Pagan Lagrangian
Multiplier
Nguồn: Tổng hợp và tính toán của tác giả bằng phần mềm STATA 15
Kết quả kiểm định trong bảng 3.8 và 3.9 đều cho thấy rằng đa phần các mô
hình cho thấy hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi. Khi đó nghiên cứu sẽ điều chỉnh sai
số chuẩn trong mô hình nghiên cứu để khắc phục hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi
bằng phƣơng pháp robust standard errors. Việc điều chỉnh sai số này sẽ điều chỉnh
lại giá trị t của biến nghiên cứu và đƣa ra mức ý nghĩa chính xác hơn. Kết quả
nghiên cứu trong phần định lƣợng sẽ đƣợc điều chỉnh để khắc phục hiện tƣợng
phƣơng sai thay đổi.
b. Hiện tượng tự tương quan (autocorrelation)
Hiện tƣợng tự tƣơng quan thƣờng xuất hiện trong dữ liệu chuỗi thời gian và
dữ liệu bảng. Hiện tƣợng này xảy ra khi phần dƣ ở thời điểm t có mối quan hệ
tƣơng quan với chính nó ở thời điểm t – 1 hay là tại bất kỳ thời điểm nào trƣớc đó.
Hiện tƣợng tự tƣơng quan sẽ khiến cho giá trị p-value nhỏ hơn (t – value lớn hơn)
và làm cho hệ số hồi quy có khuynh hƣớng là có ý nghĩa thống kê. Trong trƣờng
hợp này, nghiên cứu có thể đƣa ra kết luận sai rằng biến độc lập có thể ảnh hƣởng
đến biến phụ thuộc nhƣng trên thực tế tác động này bị gây ra bởi hiện tƣợng tự
tƣơng quan. Khi mô hình đồng thời xuất hiện tự tƣơng quan và phƣơng sai thay đổi
thì ƣớc lƣợng cho các hệ số càng trở nên thiếu tin cậy. Vì vậy, nghiên cứu cần phải
khắc phục hiện tƣợng tự tƣơng quan cho mô hình nghiên cứu. Sau khi đã khắc phục
101
hiện tƣợng tự tƣơng quan, tác giả trình bày kiểm định Wooldridge để kiểm định lại
liệu mô hình có còn hiện tƣợng tự tƣơng quan hay không.
Bảng 3.10. Kiểm định hiện tƣợng tự tƣơng quan cho mô hình sau khi xử lý
Wooldridge Accruals
(Khoản dồn tích) Real Activities
(Giao dịch thực)
Thời kỳ t Thời kỳ t-1 Thời kỳ t Thời kỳ t-1
F statistic 0.259 0.261 2.198 2.037 Kiểm định P-value 0.6110 0.6097 0.1390 0.1543
Nguồn: Tổng hợp và tính toán của tác giả bằng phần mềm STATA 15
Đối với kiểm định Wooldridge thì giả thuyết gốc đề ra là không có hiện
tƣợng tự tƣơng quan trong mô hình. Sau khi đánh giá hiện tƣợng tự tƣơng quan qua
hai mô hình với biến phụ thuộc chất lƣợng lợi nhuận khác nhau (khoản dồn tích và
giao dịch thực), nghiên cứu thấy rằng đa phần các mô hình trong bảng 3.10 đều bác
bỏ giả thuyết H0 với mức ý nghĩa 5%. Nhƣ vậy, hiện tƣợng tự tƣơng quan về cơ bản
đã đƣợc khắc phục trong các mô hình nghiên cứu. Trong các bảng phân tích đa biến
trong các phần sau, nghiên cứu đã khắc phụ hiện tƣợng tự tƣơng quan để hệ số ƣớc
lƣợng của các biến không bị thiên lệch.
3.2.3.2. Phân tích mô hình hồi quy đa biến
Phân tích đa biến sử dụng hai cách tiếp cận: cách tiếp cận tĩnh và cách tiếp
cận động. Mỗi cách tiếp cận sử dụng các kỹ thuật phân tích khác nhau. Cách tiếp
cận tĩnh dựa trên mô hình tĩnh (không có sự tồn tại của biến độ trễ trong mô hình).
Mô hình này nhìn chung không gánh chịu vấn đề nội sinh do tƣơng quan giữa phần
dƣ và biến độ trễ của biến phụ thuộc. Đối với dữ liệu bảng không bị nội sinh,
nghiên cứu có thể sử dụng phƣơng pháp bình phƣơng nhỏ nhất (cho kết quả ƣớc
lƣợng hệ số ít bị thiên lệch nhất và dự báo mối liên hệ chính xác hơn) bao gồm ba
kỹ thuật POLS, FEM, và REM. Kỹ thuật POLS không bao gồm yếu tố đặc trƣng
của công ty vào mô hình. Kỹ thuật FEM và REM thêm vào yếu tố đặc trƣng của
công ty. Kỹ thuật FEM cho cố định các yếu tố đặc trƣng này còn kỹ thuật REM cho
102
rằng các yếu tố đặc trƣng này thay đổi qua thời gian. Ba kỹ thuật này có thể sử dụng
thay thế cho nhau để kiểm định tính vững và tính nhất quán của các hệ số hồi quy
trong mô hình.
Cách tiếp cận động mắc phải hiện tƣợng nội sinh do bởi sự tồn tại của biến
trễ của biến phụ thuộc trong mô hình. Tiếp cận động giả định rằng chất lƣợng lợi
nhuận của công ty ở hiện tại bị tác động bởi chất lƣợng lợi nhuận của công ty trong
quá khứ. Đối với tiếp cận động thì ba kỹ thuật ƣớc lƣợng của phƣơng pháp bình
phƣơng nhỏ nhất sẽ khiến cho hệ số hồi quy bị thiên lệch. Vì vậy, nghiên cứu phải
sử dụng kỹ thuật SGMM. Kỹ thuật giúp giải quyết hiện tƣợng nội sinh bằng cách sử
dụng biến trong phƣơng trình gốc (level equation) để làm biến công cụ cho biến độ
trễ trong phƣơng trình sai phần (difference equation) và ngƣợc lại. Tuy nhiên, kỹ
thuật này cần phải thỏa mãn các kiểm định và điều kiện cụ thể để chứng minh tính
hiệu quả của nó.
Trên thực tế thì các nghiên cứu về chất lƣợng lợi nhuận vẫn chƣa khẳng định
liệu chất lƣợng lợi nhuận có mối quan hệ động hay không nên các kỹ thuật dữ liệu
bảng đƣợc sử dụng phối hợp với nhau để có thể so sánh và kiểm chứng qua lại để
xem các hệ số trong mô hình có nhất quán về dấu và mức ý nghĩa hay không. Kết
quả phân tích từ hai tiếp cận với bốn kỹ thuật ƣớc lƣợng sẽ đƣợc lần lƣợt trình bày
trong phần giải thích kết quả hệ số sau đây.
a. Tiếp cận mô hình tĩnh với kỹ thuật bình phương nhỏ nhất gộp (POLS)
Bảng 3.11 trình bày ƣớc lƣợng tĩnh sử dụng kỹ thuật bình phƣơng nhỏ nhất
gộp (POLS) với hai biến đại diện khác nhau cho chất lƣợng lợi nhuận. Biến khoản
dồn tích sử dụng đo lƣờng dựa trên mô hình của Francis và cộng sự (2005) và biến
giao dịch thực dựa trên dòng tiền hoạt động bất thƣờng của Roychowdhury (2006).
Nội dung sau trình bày kết quả phân tích lần lƣợt tác động của các nhân tố khác
nhau đến chất lƣợng lợi nhuận.
103
Bảng 3.11. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình với kỹ thuật bình phƣơng nhỏ nhất gộp
Accruals
(Khoản dồn tích) Real Activities
(Giao dịch thực) Biến độc lập
Thời kỳ t Thời kỳ t-1 Thời kỳ t Thời kỳ t-1
-0.503*** -0.436*** -0.0894*** -9.21e-05 FC-WW
(Giới hạn tài chính) (0.0416) (0.0500) (0.0231) (0.0260)
0.223*** 0.183*** 0.0906*** 0.0583* Independence
(Tính độc lập) (0.0479) (0.0563) (0.0271) (0.0301)
0.0365 0.0528** -0.0159 -0.00327 Audit
(Chất lƣợng kiểm toán) (0.0229) (0.0245) (0.0142) (0.0139)
-0.000418 0.0210*** 0.0317*** 0.0185*** Liquidity
(Khả năng thanh khoản) (0.00669) (0.00799) (0.00356) (0.00410)
0.00747 -0.0145 -0.00782 0.0280** Revenue
(Tăng trƣởng doanh thu) (0.0194) (0.0226) (0.0111) (0.0123)
-0.224*** -0.174*** -0.173*** -0.0830*** Profitability
(Khả năng sinh lời) (0.0484) (0.0562) (0.0273) (0.0299)
0.772*** 0.784*** 0.520*** 0.499*** Constant
(Hệ số chặn) (0.0533) (0.0621) (0.0304) (0.0332)
1,784 1,346 2,231 1,813
0.104 0.0856 0.057 0.0207
Observations (Số quan sát)
R2 (Hệ số R2)
R2 adj. (R2 hiệu chỉnh) 0.101 0.0815 0.0543 0.0175
F-Statistics (Thống kê F) 34.39 20.90 22.34 6.368
Prob. 1.77E-39 1.60e-23 1.12E-25 0.00000120
Sai số chuẩn đƣợc ghi trong ngoặc Nguồn: Tính toán của tác giả từ STATA 15
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
104
a1. Trường hợp chất lượng lợi nhuận được đo lường bằng “khoản dồn tích”
Chất lƣợng lợi nhuận trong hai mô hình đầu tiên đƣợc đo lƣờng dựa trên
khoản dồn tích. Kết quả chỉ ra rằng giới hạn tài chính, tính độc lập của HĐQT, và
khả năng sinh lời cho thấy tác động có ý nghĩa thống kê đến chất lƣợng lợi nhuận.
Các yếu tố còn lại không có ý nghĩa thống kê.
Các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán thƣờng quản
trị lợi nhuận dựa trên chủ nghĩa cơ hội (opportunism). Công ty duy trì khoản dồn
tích bất thƣờng để gia tăng lợi nhuận công ty trƣớc thời điểm phát hành. Điều này
khiến cho nhà đầu tƣ hiểu sai về hiệu quả hoạt động công ty và cảm thấy tự tin về
triển vọng lợi nhuận của công ty trong tƣơng lai. Tuy nhiên, sau phát hành thì lợi
nhuận suy giảm nghiêm trọng do công ty đảo ngƣợc lại khoản dồn tích bất thƣờng
trƣớc đó. Kết quả của phân tích sẽ phản ánh yếu tố nào thực sự góp phần vào hành
vi sử dụng khoản dồn tích bất thƣờng của công ty vào thời điểm phát hành.
Thứ nhất, nghiên cứu tìm thấy rằng giới hạn tài chính có mối quan hệ ngƣợc
chiều với chất lƣợng lợi nhuận của công ty niêm yết cổ phiếu lần đầu tiên trên thị
trƣờng chứng khoán. Kết quả này mở rộng phát hiện của các nghiên cứu trƣớc đây.
Các công trình trƣớc tập trung đánh giá tác động của từng yếu tố riêng lẻ nhƣ đòn
bẩy tài chính, chi trả cổ tức, quy mô, và thời gian niêm yết đến quản trị lợi nhuận
(Alipour & cộng sự, 2019; Mousa & Desoky, 2019; Lawson & Wang, 2016; Mai
Thị Hoàng Khánh & Nguyễn Vĩnh Khƣơng, 2018; Berger, Chen & Li, 2018;
Pagalung & Sudibdyo, 2018; Ganguli & Guha Deb, 2017). Tuy nhiên, nghiên cứu
này lại tổng hợp các yếu tố này thành chỉ số WW và xem chúng nhƣ là biến đại diện
cho giới hạn tài chính của công ty. Các công ty niêm yết lần đầu tiên thƣờng khó
thu hút nhà đầu tƣ vì nhà đầu tƣ không quan tâm nhiều đến những công ty này và
công ty cũng khó vay nợ vì điểm tín dụng của họ từ phía chủ nợ (ngân hàng) không
cao. Vì vậy, động cơ cần phải thu hút nhà đầu tƣ và các bên khác nhau trên thị
trƣờng càng cần thiết. Quản trị lợi nhuận là nhằm khắc phục hai vấn đề này. Dẫu lợi
nhuận sau khi điều chỉnh gây ấn tƣợng tốt với nhà đầu tƣ và chủ nợ nhƣng nó không
105
phản ánh đúng tình hình hoạt động của công ty. Nghiên cứu này chứng minh đƣợc
rằng giới hạn tài chính thúc đẩy quản trị lợi nhuận và làm suy giảm chất lƣợng lợi
nhuận.
Thứ hai, ảnh hƣởng của khả năng sinh lời lên chất lƣợng lợi nhuận giống với
biến giới hạn tài chính. Kết quả của nghiên cứu này phù hợp với các công trình
nghiên cứu trƣớc khi cho rằng lợi nhuận cao bất thƣờng chính là chiến lƣợc gia tăng
khoản dồn tích nhằm thu hút vốn đầu tƣ và ƣu đãi trên thị trƣờng của công ty (Barth
& cộng sự, 2008; Lin & Wu, 2014; Hamidzadeh & Zeinali, 2015; Khajavi & cộng
sự, 2016; Dechow & cộng sự, 2010; Waweru & Riro, 2013). Nghiên cứu này khác
với các nghiên cứu trƣớc khi đánh giá tác động của khả năng sinh lời đối với các
công ty niêm yết lần đầu trên thị trƣờng. Nghiên cứu cho rằng hành vi bóp méo lợi
nhuận sẽ càng rõ nét hơn do bởi công ty phải đáp ứng những tiêu chí khắt khe về lợi
nhuận trƣớc khi niêm yết. Suy cho cùng, khả năng sinh lời cao là dấu hiệu phản ánh
chất lƣợng lợi nhuận thấp đối với các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng
tại Việt Nam.
Ngƣợc lại với hai yếu tố trên, tính độc lập của HĐQT có mối quan hệ cùng
chiều với chất lƣợng lợi nhuận. Các công trình nghiên cứu trƣớc đây cho rằng thành
viên bên ngoài giúp giám sát hoạt động của công ty tốt hơn và đảm bảo thông tin
đƣợc cung cấp minh bạch nhất có thể (Nariman & Ekadjaja, 2018; Hoang & cộng
sự, 2017; Khalil & Ozkan, 2016; Asogwa & cộng sự, 2019; Susanto & cộng sự,
2017). Giống với các công trình trƣớc đó nghiên cứu cho rằng bên thứ ba không
tham gia vào công tác quản trị công ty sẽ sẽ có vai trò giám sát mạnh mẽ nhằm đảm
bảo số liệu công bố phù hợp với tình hình hoạt động hiện tại của công ty. Thay vì
chỉ lập luận về khả năng ngăn chặn quản trị lợi nhuận của thành viên độc lập,
nghiên cứu còn nhấn mạnh điều này có thể giúp cải thiện chất lƣợng lợi nhuận của
công ty.
Các yếu tố còn lại bao gồm chất lƣợng kiểm toán, khả năng thanh khoản, và
tăng trƣởng doanh thu đều không cho thấy ý nghĩa thống kê. Nhƣ vậy, đối với các
106
công ty niêm yết cổ phiếu lần đầu tiên thì ba yếu tố này không đủ mạnh để giải
thích cho vấn đề quản trị lợi nhuận nhằm tạo ra khoản dồn tích bất thƣờng trong
công ty.
Bên cạnh việc đánh giá tác động của biến độc lập ở thời kỳ t, nghiên cứu còn
xem xét thêm tác động của biến độc lập ở thời kỳ t – 1. Nhìn chung, tác động của
các biến phụ thuộc ở thời kỳ t – 1 cho thấy sự tƣơng đồng với tác động của các biến
phụ thuộc ở thời kỳ t. Giới hạn tài chính và khả năng sinh lời cho thấy tác động tiêu
cực lên chất lƣợng lợi nhuận của công ty. Ngƣợc lại, tính độc lập của HĐQT và chất
lƣợng kiểm toán có tác động tích cực đến chất lƣợng lợi nhuận. Điều này chỉ ra tác
động của các nhân tố này trong dài hạn. Điểm khác biệt là biến chất lƣợng kiểm
toán không có ý nghĩa có thời kỳ t nhƣng lại có ý nghĩa ở thời kỳ t – 1 cho thấy việc
nâng cao chất lƣợng kiểm toán không phản ánh vào chất lƣợng lợi nhuận cùng kỳ
mà mãi đến kỳ sau mới thể hiện tác động. Các biến còn lại bao gồm tăng trƣởng
doanh thu và khả năng thanh khoản không cho thấy tác động ý nghĩa thống kê ở cả
thời kỳ t và t – 1.
a2. Trường hợp chất lượng lợi nhuận được đo lường bằng “giao dịch thực”
Hai mô hình sau đo lƣờng chất lƣợng lợi nhuận dựa vào giao dịch thực của
công ty. Trong mô hình này các biến giới hạn tài chính, tính độc lập của HĐQT,
khả năng thanh khoản, và khả năng sinh lời là các yếu tố cho thấy tác động có ý
nghĩa thống kê.
Giao dịch thực chủ yếu nhắm vào dòng tiền hoạt động mà chủ yếu đƣợc quy
định bởi doanh thu của công ty. Công ty sẽ can thiệp chủ yếu vào doanh thu nhằm
thay đổi dòng tiền và từ đó làm thay đổi lợi nhuận báo cáo.
Giống với mô hình 1, giới hạn tài chính và khả năng sinh lời có tác động tiêu
cực đến chất lƣợng lợi nhuận. Các công ty niêm yết lần đầu trên sở giao dịch chứng
khoán thƣờng trải qua giai đoạn bị giới hạn tài chính do sự hạn chế trong khả năng
tiếp cận nguồn vốn. Vì vậy, họ thƣờng thực hiện quản trị lợi nhuận để thu hút vốn
tài trợ từ phát hành cổ phiếu hoặc từ vay nợ. Hành vi này đƣợc ủng hộ bởi các công
107
trình nghiên cứu trƣớc đây mà cho rằng quản trị lợi nhuận mang lại tác động xấu vì
số liệu công bố không phản ánh đúng hiệu quả hoạt động của công ty, và quyết định
kinh tế của các chủ thể tham gia trên thị trƣờng sẽ bị thiên lệch (Muttakin và cộng
sự, 2017; Amidu và cộng sự, 2016; Mousa và Desoky, 2019; Lawson và Wang,
2016; Firmansyah và Herawaty, 2019). Khác với các nghiên cứu trƣớc, nghiên cứu
này tìm thấy vấn đề quản trị lợi nhuận đối với các công ty mới niêm yết lần đầu và
chỉ ra chất lƣợng lợi nhuận kém của họ.
Tƣơng tự, khả năng sinh lời cũng có mối quan hệ ngƣợc chiều với chất lƣợng
lợi nhuận. Các nghiên cứu trƣớc đây chứng minh rằng lợi nhuận cao bất thƣờng là
dấu hiệu phản ánh quản trị lợi nhuận của công ty (Cakici và cộng sự, 2017; Lennox
và cộng sự, 2016; Ahmadpour và Shahsavari, 2016; Buana và Wahyudin, 2016).
Theo lập luận là công ty mới niêm yết lần đầu sẽ có động cơ điều chỉnh lợi nhuận
để thu hút nhà đầu tƣ trên thị trƣờng, nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng khả năng sinh
lời cao là do bởi quản trị lợi nhuận, và trong trƣờng hợp này công ty sẽ có chất
lƣợng lợi nhuận thấp.
Ngƣợc lại, tính độc lập của HĐQT và khả năng thanh khoản lại có mối quan
hệ cùng chiều với chất lƣợng lợi nhuận. Các nghiên cứu trƣớc đây cho rằng thành
viên bên ngoài giúp giám sát hành vi của nhà quản trị công ty tốt hơn, và vì vậy
nâng cao tính độc lập của HĐQT sẽ giúp giảm thiểu quản trị lợi nhuận (Mohammad
& Wasiuzzaman, 2019; Egbunike & Odum, 2018; Nariman & Ekadjaja, 2018;
Hoang & cộng sự, 2017; Khalil & Ozkan, 2016; Susanto & cộng sự, 2017). Kết quả
của nghiên cứu này cũng ủng hộ cho phát hiện của các nghiên cứu trƣớc nhƣng
chứng minh cho trƣờng hợp của các công ty niêm yết lần đầu và đánh giá chất
lƣợng lợi nhuận (kết quả của quản trị lợi nhuận). Nhƣ vậy, đối với các công ty niêm
yết lần đầu thì gia tăng số thành viên độc lập giúp hạn chế quản trị lợi nhuận và
nâng cao chất lƣợng lợi nhuận của công ty. Xét về khả năng thanh khoản thì các
nghiên cứu trƣớc đây chỉ ra rằng công ty thƣờng nhận đƣợc khả năng tín nhiệm cao
nhờ vào khả năng thanh khoản của mình (Zhu & Shen, 2016; Farber & cộng sự,
2018; Ajina & Habib, 2017; Wruck & Wu, 2017; Pagalung & Sudibdyo, 2018;
108
Takhtaei & Mousavi, 2012; Hamidzadeh & Zeinali, 2015). Đối với các công ty
niêm yết lần đầu thì khả năng thanh khoản thậm chí còn đóng vai trò lớn hơn khi
các công ty này rất cần sự tín nhiệm từ các bên khác nhau trên thị trƣờng. Vì vậy,
giống với các công trình nghiên cứu trƣớc, tác giả cũng chứng minh đƣợc tác động
tích cực của khả năng thanh khoản đến chất lƣợng lợi nhuận công ty.
Giống với biến đại diện khoản dồn tích, nghiên cứu cũng đánh giá tác động
của các biến phụ thuộc ở thời kỳ t – 1 đến chất lƣợng lợi nhuận đo lƣờng dựa trên
giao dịch thực. Dấu và mức ý nghĩa của hệ số hồi quy nhìn chung giống nhau giữa
hai thời kỳ. Tính độc lập của HĐQT và khả năng thanh khoản cho thấy tác động
cùng chiều đến chất lƣợng lợi nhuận. Ngƣợc lại, khả năng sinh lời có tác động
ngƣợc chiều đến chất lƣợng lợi nhuận. Tuy nhiên, giới hạn tài chính ở thời kỳ t – 1
không có tác động ý nghĩa thống kê nhƣng vẫn mang dấu âm. Các biến còn lại nhƣ
chất lƣợng kiểm toán và tăng trƣởng doanh thu không cho thấy tác động ý nghĩa
thống kê. Nhƣ vậy, ở đây chúng ta có thể thấy rằng một số yếu tố có thể giải thích
hiệu quả cho khoản dồn tích nhƣng lại không giải thích đƣợc cho giao dịch thực.
Một số yếu tố có tác động dài hạn đến chất lƣợng lợi nhuận trong khi một số yếu tố
chỉ có tác động tức thời và không kéo dài phụ thuộc vào biến đại diện khác nhau
cho chất lƣợng lợi nhuận.
Sau khi phân tích kết quả về mối quan hệ giữa biến độc lập và biến phụ
thuộc, nghiên cứu đánh giá xem mô hình nào phù hợp với kỹ thuật ƣớc lƣợng bình
phƣơng nhỏ nhất gộp (POLS). Tính phù hợp của mô hình đƣợc kiểm chứng thông
qua hệ số xác định R2. Mô hình 1 có hệ số xác định R2 bằng 0.104. Hệ số này mang
ý nghĩa là các biến độc lập trong mô hình về trung bình có thể giải thích đƣợc
10.4% sự biến động trong biến phụ thuộc (khoản dồn tích). Mô hình 2 có hệ số xác
định R2 bằng 0.0856. Hệ số này mang ý nghĩa là các biến độc lập trong mô hình về
trung bình có thể giải thích đƣợc 8.56% sự biến động trong biến phụ thuộc.
Mô hình 3 có hệ số xác định R2 bằng 0.057. Hệ số này mang ý nghĩa là các
biến độc lập trong mô hình về trung bình có thể giải thích đƣợc 5.7% sự biến động
109
trong biến phụ thuộc (giao dịch thực). Mô hình 4 có hệ số xác định R2 bằng 0.0207.
Hệ số này mang ý nghĩa là các biến độc lập trong mô hình về trung bình có thể giải
thích đƣợc 2.07% sự biến động trong biến phụ thuộc. Nhƣ vậy, dựa trên hệ số xác
định R2 thì có thể quan sát thấy rằng mô hình với biến đại diện khoản dồn tích phù
hợp hơn vì các biến độc lập có thể giải thích nhiều nhất cho biến phụ thuộc. Ngoài
ra, mô hình với biến độc lập thời kỳ t vẫn cho thấy giá trị R2 cao hơn và có thể giải
thích nhiều hơn cho biến phụ thuộc. Ngoài ra bảng 3.11 còn trình bày giá trị của
kiểm định F với giả định ban đầu rằng các biến độc lập trong mô hình có hệ số hồi
quy đồng thời bằng không. Qua các mô hình nghiên cứu thì hệ số của các biến độc
lập không đồng thời bằng không, khẳng định cho việc các biến độc lập đƣợc đƣa
vào mô hình phù hợp với biến phụ thuộc. Nhƣ vậy, bảng 3.11 kết luận rằng các biến
độc lập đƣợc lựa chọn có thể giải thích tốt nhất cho biến đại diện của chất lƣợng lợi
nhuận – khoản dồn tích.
b. Tiếp cận mô hình tĩnh với kỹ thuật tác động cố định (FEM)
Bảng 3.12 thể hiện kết quả ƣớc lƣợng của kỹ thuật tác động cố định (Fixed
Effects Model - FEM). Kết quả nghiên cứu cũng đƣợc trình bày thành bốn mô hình
với các biến đại diện khác nhau cho chất lƣợng lợi nhuận. Trong từng mô hình,
nghiên cứu kiểm chứng tác động của giới hạn tài chính, tính độc lập của HĐQT,
chất lƣợng kiểm toán, khả năng thanh khoản, tăng trƣởng doanh thu, và khả năng
sinh lời đến chất lƣợng lợi nhuận.
110
Bảng 3.12. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình với kỹ thuật tác động cố định
Accruals
(Khoản dồn tích) Real Activities
(Giao dịch thực) Biến độc lập
Thời kỳ t Thời kỳ t-1 Thời kỳ t Thời kỳ t-1
-0.488*** -0.478*** -0.0637*** -0.0517** FC-WW
(Giới hạn tài chính) (0.0418) (0.0480) (0.0231) (0.0250)
0.225*** 0.232*** 0.0908*** 0.0978*** Independence
(Tính độc lập) (0.0478) (0.0552) (0.0268) (0.0292)
0.0346 0.0255 -0.0217 -0.0162 Audit
(Chất lƣợng kiểm toán) (0.0229) (0.0278) (0.0141) (0.0163)
-0.00182 -0.00122 0.0291*** 0.0292*** Liquidity
(Khả năng thanh khoản) (0.00669) (0.00774) (0.00354) (0.00383)
0.00697 0.0299 -0.0102 0.00913 Revenue
(Tăng trƣởng doanh thu) (0.0197) (0.0232) (0.0111) (0.0121)
-0.213*** -0.265*** -0.161*** -0.174*** Profitability
(Khả năng sinh lời) (0.0485) (0.0571) (0.0271) (0.0300)
0.765*** 0.775*** 0.513*** 0.502*** Constant
(Hệ số chặn) (0.0533) (0.0620) (0.0301) (0.0330)
1,784 1,350 2,231 1,802
0.0987 0.0992 0.048 0.0491
0.285 0.627 0.81 0.882
Observations (Số quan sát)
R2 within (R2 nội trong nhóm)
R2 between (R2 giữa các nhóm)
R2 overall (R2 tổng quát) 0.104 0.101 0.0562 0.0554
F-Statistics (Thống kê F) 32.37 24.59 18.65 15.42
Prob. 4.20E-58 2.47E-39 3.13E-33 1.85E-24
Sai số chuẩn đƣợc ghi trong ngoặc Nguồn: Tính toán của tác giả từ STATA 15
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
111
b1. Trường hợp chất lượng lợi nhuận được đo lường bằng “biến dồn tích”
Giống với kỹ thuật POLS, mô hình 1 kiểm chứng tác động của các nhân tố
khác nhau đến chất lƣợng lợi nhuận đo lƣờng bằng khoản dồn tích. Mô hình này chỉ
ra rằng giới hạn tài chính, tính độc lập của HĐQT, và khả năng sinh lời cho thấy tác
động có ý nghĩa thống kê, trong khi đó chất lƣợng kiểm toán, khả năng thanh
khoản, và tăng trƣởng doanh thu không có tác động ý nghĩa thống kê đến chất lƣợng
lợi nhuận. Nghiên cứu chỉ phân tích dấu hệ số của các yếu tố đƣợc cho là có tác
động đến chất lƣợng lợi nhuận.
Giới hạn tài chính và khả năng sinh lời cao hơn đều làm giảm chất lƣợng lợi
nhuận của các công ty IPO. Các nghiên cứu trƣớc cho rằng giới hạn tài chính là
nguyên nhân kiến công ty thực hiện quản trị lợi nhuận khi họ cần nguồn quỹ để tài
trợ cho các dự án đầu tƣ (Schipper & Vincent, 2003; Ghosh & Moon, 2010;
Warfield, Wild & Wild, 1995; Benartzi, Michaely & Thaler, 1997; Caskey &
Hanlon, 2005; Berger, Chen & Li, 2018; Deng, Li & Liao, 2017; Karami & Akhgar,
2014; Gaio, 2010). Khác với các nghiên cứu trƣớc, nghiên cứu này xem việc niêm
yết lần đầu nhƣ là nguyên nhân cho giới hạn tài chính của công ty. Nhƣ vậy, các
công ty này có động cơ mạnh mẽ đối với quản trị lợi nhuận vì họ rất cần thu hút nhà
đầu tƣ và các bên khác nhau trên thị trƣờng trong giai đoạn này. Vì vậy, nghiên cứu
này cũng chứng minh đƣợc cho tác động tiêu cực của giới hạn tài chính lên chất
lƣợng lợi nhuận. Đối với khả năng sinh lời, kết quả của nghiên cứu ủng hộ cho các
phát hiện trƣớc đây. Các phát hiện trƣớc đây cho rằng công ty thƣờng thực hiện
quản trị lợi nhuận thông qua điều chỉnh số liệu lợi nhuận (Lin & Wu, 2014;
Hamidzadeh & Zeinali, 2015; Waweru & Riro, 2013; Lennox, Wu & Zhang, 2016;
Buana & Wahyudin, 2016; Warrad, 2017; Al-Momani & Almomni, 2018). Trong
nghiên cứu này, khả năng sinh lời cao đi kèm với chất lƣợng lợi nhuận kém. Điều
này cũng chỉ ra vấn đề quản trị lợi nhuận giống nhƣ các công trình nghiên cứu
trƣớc.
112
Các nghiên cứu trƣớc cho rằng quyết định tài chính, quy trình kế toán, và
công bố thông tin sẽ đƣợc cải thiện nhờ vào sự tham gia của thành viên độc lập
không nắm giữ vai trò nào trong công ty (Nariman & Ekadjaja, 2018; Hoang &
cộng sự, 2017; Khalil & Ozkan, 2016; Susanto & cộng sự, 2017; Salehi & cộng sự,
2017; Kapoor & Goel, 2017; Waweru & Prot, 2018). Tƣơng tự, trong nghiên cứu
này, tác giả cũng nhấn mạnh rằng thành viên càng ít kiêm nhiệm có thể giám sát
công ty tốt hơn và từ đó hạn chế quản trị lợi nhuận. Kết quả này phù hợp đối với các
công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam.
Bên cạnh xem xét biến độc lập tại thời điểm t, nghiên cứu còn đánh giá ảnh
hƣởng của biến độc lập t – 1 lên chất lƣợng lợi nhuận ở hiện tại. Mục đích của việc
làm này là nhằm kiểm chứng liệu các dấu hiệu bất thƣờng trong các biến giải thích
ở thời điểm trƣớc đó có ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận của công ty ở hiện tại
không. Dựa trên kết quả của biến phụ thuộc ở thời điểm t – 1, nghiên cứu cũng tìm
thấy tác động tiêu cực của giới hạn tài chính và khả năng sinh lời lên chất lƣợng lợi
nhuận và tác động cùng chiều của tính độc lập HĐQT. Nhìn chung, kết quả khá
tƣơng thích với biến độc lập ở thời điểm t. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng các yếu tố giải
thích không những ảnh hƣởng ngay đến chất lƣợng lợi nhuận mà tác động này còn
kéo dài vì sự bất thƣờng của các biến độc lập ở kỳ trƣớc vẫn có tác động mạnh đến
chất lƣợng lợi nhuận ở kỳ hiện tại.
b2. Trường hợp chất lượng lợi nhuận được đo lường bằng “giao dịch thực”
Mô hình 2 trong bảng 3.12 xem xét đo lƣờng chất lƣợng lợi nhuận dựa trên
giao dịch thực. Tƣơng tự nhƣ 2 mô hình trƣớc, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng giới
hạn tài chính, tính độc lập của HĐQT, khả năng thanh khoản, và khả năng sinh lời
cho thấy tác động có ý nghĩa thống kê đến chất lƣợng lợi nhuận. Hai biến còn lại
(chất lƣợng kiểm toán và tăng trƣởng doanh thu) không có ý nghĩa thống kê đối với
chất lƣợng lợi nhuận.
Các nghiên cứu trƣớc đây xem xét tác động của HĐQT lên quản trị lợi nhuận
chỉ ra rằng tỷ lệ thành viên độc lập càng cao thì năng lực giám sát đối với quyết
113
định của HĐQT cũng gia tăng, nhờ vậy quy trình lập BCTC cũng minh bạch hơn
(Waweru & Prot, 2018; Fuzi & cộng sự, 2016; Mohammad & Wasiuzzaman, 2019;
Arniati & cộng sự, 2019; Orazalin, 2019, Kankanamage, 2016). Nghiên cứu này
cho rằng tính độc lập của HĐQT có tác động tích cực đến chất lƣợng lợi nhuận của
các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng. Kết quả này mở rộng bằng chứng
kiểm nghiệm khi các nghiên cứu trƣớc đây chỉ xét đến việc tính độc lập của HĐQT
giúp hạn chế quản trị lợi nhuận.
Giống với biến tính độc lập của HĐQT, khả năng thanh khoản cũng cho thấy
mối quan hệ cùng chiều với chất lƣợng lợi nhuận. Mặc dù nghiên cứu sử dụng mẫu
gồm các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng nhƣng kết quả kiểm nghiệm
cho thấy sự tƣơng đồng với các công trình nghiên cứu trƣớc đó mà chỉ ra rằng công
ty sẽ ít có động thái thực hiện quản trị lợi nhuận do bởi họ có thể sử dụng chính
nguồn quỹ nội bộ thay vì phải thu hút vốn từ các chủ thể khác nhau trên thị trƣờng
(Sayari & Omri, 2017; Chen & cộng sự, 2017; Al-Jaifi, 2017; Zhong & cộng sự,
2017; Cheng & cộng sự, 2018; Takhtaei & Mousavi, 2012; Hamidzadeh & Zeinali,
2015).
Ngƣợc lại, các nghiên cứu trƣớc đây lại cho rằng lợi nhuận là yếu tố mà công
ty thƣờng hay can thiệp. Do vậy, trƣờng hợp lợi nhuận cao là dấu hiệu của quản trị
lợi nhuận (Lin & Wu, 2014; Hamidzadeh & Zeinali, 2015; Khajavi & cộng sự,
2016; Dechow & cộng sự, 2010; Waweru & Riro, 2013; Kothari & cộng sự, 2005;
Kapoor & Goel, 2017; Cakici & cộng sự, 2017; Lennox & cộng sự, 2016;
Ahmadpour & Shahsavari, 2016). Nghiên cứu này mở rộng các công trình nghiên
cứu trƣớc ở hai điểm. Thứ nhất, yếu tố lợi nhuận rất quan trọng đối với các công ty
niêm yết lần đầu tiên. Do vậy, họ sẽ có xu hƣớng can thiệp nhiều hơn để nâng cao
uy tín của mình trên thị trƣờng. Thứ hai, thay vì đánh giá quản trị lợi nhuận, nghiên
cứu xét đến chất lƣợng lợi nhuận. Quản trị lợi nhuận càng gia tăng thì chất lƣợng lợi
nhuận càng giảm. Vì vậy, đối với nghiên cứu này, tác giả chứng minh đƣợc tác
động tiêu cực của khả năng sinh lời đến chất lƣợng lợi nhuận công ty.
114
Cuối cùng, công ty càng bị giới hạn tài chính thì chất lƣợng lợi nhuận càng
kém. Các nghiên cứu trƣớc nhấn mạnh vào nguyên nhân nảy sinh quản trị lợi
nhuận. Họ cho rằng công ty quản trị lợi nhuận chủ yếu nhằm để thu hút nguồn tài
trợ trong trƣờng hợp thiếu vốn (Koo & cộng sự, 2017; He & cộng sự, 2017, Mousa
& Desoky, 2019; Firmansyah & Herawaty, 2019; Espahbodi & cộng sự, 2018;
Smith & Pennathur, 2019; Bonacchi & cộng sự, 2017; Warrad, 2017; Nisansala &
Menike, 2018; Inaam & Khamoussi, 2016). Nghiên cứu này cho rằng các công ty
niêm yết lần đầu dễ rơi vào tình trạng giới hạn tài chính. Thứ nhất, công ty không
có đủ nguồn lực nội bộ để tài trợ cho các dự án đầu tƣ lớn. Thứ hai, vì mới niêm yết
nên các nhà đầu tƣ trên thị trƣờng ít biết đến công ty. Nhƣ vậy đối với các công ty
mới niêm yết vấn đề giới hạn tài chính thƣờng sẽ nghiêm trọng hơn và thôi thúc
công ty thực hiện quản trị lợi nhuận mạnh mẽ hơn. Đó là lý do tại sao nghiên cứu
tìm thấy tác động xấu của giới hạn tài chính lên chất lƣợng lợi nhuận.
Khi xét đến tác động của biến độc lập ở thời điểm t – 1, kết quả cho thấy sự
tƣơng đồng với các biến độc lập ở thời điểm t. Giới hạn tài chính và khả năng sinh
lời có mối quan hệ ngƣợc chiều với chất lƣợng lợi nhuận, trong khi đó tính độc lập
của HĐQT và khả năng thanh khoản cho thấy tác động cùng chiều. Các biến còn lại
nhƣ chất lƣợng kiểm toán và tăng trƣởng doanh thu không có tác động ý nghĩa
thống kê đến chất lƣợng lợi nhuận. Kết quả thống nhất về dấu và ý nghĩa của các
biến này cho thấy rằng các biến độc lập vừa có tác động tức thời vừa có tác động
dài hạn đến chất lƣợng lợi nhuận của công ty.
Đối với kỹ thuật tác động cố định (FEM) thì tính phù hợp của mô hình đƣợc
đánh giá thông qua hệ số xác định R2 within, R2 between, và R2 overall. Mô hình 1
có hệ số xác định R2 overall là 0.104, tức các biến độc lập trong mô hình về trung
bình giải thích đƣợc 10.4% sự biến động trong biến phụ thuộc. Mô hình 2 có hệ số
xác định R2 overall là 0.101, tức là các biến độc lập trong mô hình về trung bình
giải thích đƣợc 10.1% sự biến động trong biến phụ thuộc. Mô hình 3 có hệ số xác
định R2 overall là 0.0562, tức các biến độc lập trong mô hình về trung bình giải
thích đƣợc 5.62% sự biến động trong biến phụ thuộc. Mô hình 4 có hệ số xác định
115
R2 overall là 0.0554, tức là các biến độc lập trong mô hình về trung bình giải thích
đƣợc 5.54% sự biến động trong biến phụ thuộc. Nhƣ vậy, qua cả bốn mô hình với
các biến đại diện khác nhau cho chất lƣợng lợi nhuận, hai mô hình (mô hình 1 và
mô hình hai) với biến đại diện là khoản dồn tích đƣợc xem là mô hình phù hợp nhất
vì các biến độc lập đƣợc lựa chọn có thể giải thích nhiều nhất cho biến đại diện này
của chất lƣợng lợi nhuận. Giá trị R2 đối với mô hình ở thời kỳ t và thời kỳ t – 1 hầu
nhƣ chênh lệch rất ít. Điều này lý giải cho dấu và ý nghĩa hệ số các biến khá giống
nhau. Nhƣ vậy, chất lƣợng lợi nhuận có thể đƣợc đánh giá dựa trên dấu hiệu của các
biến độc lập ở hiện tại hoặc trong quá khứ. Ngoài ra thì thống kê F trong bảng 3.12
cho thấy rằng các hệ số của các biến phụ thuộc trong cả hai mô hình không đồng
thời bằng không, khẳng định cho tính phù hợp của các mô hình nghiên cứu.
c. Tiếp cận mô hình tĩnh với kỹ thuật tác động ngẫu nhiên (REM)
Bảng 3.13 đánh giá kết quả ƣớc lƣợng bằng kỹ thuật tác động ngẫu nhiên
(Random Effects Model - REM) đối với các nhân tố tác động đến chất lƣợng lợi
nhuận. Đối với từng mô hình thì nghiên cứu đều xem xét cùng nhóm biến tác động
bao gồm giới hạn tài chính, tính độc lập của HĐQT, chất lƣợng kiểm toán, khả năng
thanh khoản, tăng trƣởng doanh thu, và khả năng sinh lời.
116
Bảng 3.13. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình với kỹ thuật tác động ngẫu nhiên
Accruals
(Khoản dồn tích) Real Activities
(Giao dịch thực) Biến độc lập
Thời kỳ t Thời kỳ t-1 Thời kỳ t Thời kỳ t-1
-0.351*** -0.257*** -0.279*** -0.0404 FC-WW
(Giới hạn tài chính) (0.0391) (0.0489) (0.0235) (0.0283)
0.326*** 0.215*** 0.145*** 0.0548 Independence
(Tính độc lập) (0.0768) (0.0821) (0.0447) (0.0432)
0.0595*** 0.0734*** 0.00930 0.0151 Audit
(Chất lƣợng kiểm toán) (0.0219) (0.0248) (0.0132) (0.0151)
0.0486*** -0.0108 0.0601*** 0.0216*** Liquidity
(Khả năng thanh khoản) (0.00644) (0.00794) (0.00375) (0.00450)
0.00987 0.00771 0.0197** -0.00936 Revenue
(Tăng trƣởng doanh thu) (0.0127) (0.0155) (0.00808) (0.0103)
-0.0390 -0.0672 -0.087*** -0.0150 Profitability
(Khả năng sinh lời) (0.0436) (0.0520) (0.0269) (0.0318)
0.519*** 0.619*** 0.509*** 0.492*** Constant
(Hệ số chặn) (0.0673) (0.0752) (0.0398) (0.0413)
1,784 1346 2,231 1813
0.13 0.00738 0.331 0.0292
0.0516 0.0997 0.00584 0.002
0.0682 0.0776 0.0387 0.0119
Observations (Số quan sát)
R2 within (R2 nội trong nhóm)
R2 between (R2 giữa các nhóm)
R2 overall (R2 tổng quát)
Wald Chi2 (Thống kê Wald Chi2) 204.4 52.56 538.4 30.75
Nguồn: Tính toán của tác giả từ STATA 15
Prob. 2.15E-41 1.44E-09 4.54E-113 3E-05
Sai số chuẩn đƣợc ghi trong ngoặc
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
117
c1. Trường hợp chất lượng lợi nhuận được đo lường bằng “biến dồn tích”
Mô hình 1 sử dụng biến chất lƣợng lợi nhuận đo lƣờng dựa trên khoản dồn
tích. Đây là mô hình đầu tiên cho thấy tác động có ý nghĩa thống kê của biến chất
lƣợng kiểm toán. Các nghiên cứu trƣớc đề cập đến yếu tố kiểm toán cho rằng công
ty kiểm toán lớn với quy trình kiểm toán chặt chẽ và đội ngũ nhân viên chuyên
nghiệp có thể giúp phát hiện các vi phạm của công ty, từ đó thông tin về tình hình
hoạt động đƣợc công bố một cách minh bạch và chính xác hơn (Lennox & cộng sự,
2016; Lawson & Wang, 2016; Inaam & Khamoussi, 2016; Chen & Komal, 2018;
Nisansala & Menike, 2018; Narayanaswamy & Raghunandan, 2019; Francis &
Wang, 2008; Zureigat, 2010). Giống với các công trình nghiên cứu trƣớc đây,
nghiên cứu này chỉ ra tác động tích cực của kiểm toán Big 4 lên chất lƣợng lợi
nhuận của các công ty niêm yết lần đầu. Các công ty kiểm toán thuộc Big 4 là
những công ty lớn và có uy tín về kiểm toán tại Việt Nam. Khi công ty đƣợc kiểm
toán bởi Big 4 thì họ sẽ hạn chế quản trị lợi nhuận của mình.
Đối với giới hạn tài chính, các nghiên cứu trƣớc đây cho rằng công ty thƣờng
giảm thiểu vấn đề giới hạn tài chính thông qua quản trị lợi nhuận vì lợi nhuận cao
giúp công ty vay vốn trên thị trƣờng dễ dàng hơn (Nisansala & Menike, 2018;
Cameran & cộng sự, 2016; Schipper & Vincent, 2003; Berger & cộng sự, 2018;
Deng & cộng sự, 2017). Nghiên cứu này chứng minh đƣợc ảnh hƣởng của giới hạn
tài chính lên chất lƣợng lợi nhuận của công ty. Nghiên cứu này mở rộng quan điểm
của các nghiên cứu trƣớc. Tại Việt Nam, các công ty niêm yết cổ phiếu lần đầu trên
thị trƣờng thƣờng bị giới hạn tài chính do bởi họ ít nhận đƣợc sự tín nhiệm từ các
bên khác nhau trên thị trƣờng. Công ty thƣờng giảm thiểu vấn đề này bằng cách
điều chỉnh lợi nhuận hoạt động nhằm nâng cao uy tín của mình đối với nhà đầu tƣ
và chủ nợ.
Tính độc lập của HĐQT và khả năng thanh khoản lại có tác động tích cực
đến chất lƣợng lợi nhuận. Xét về tính độc lập của HĐQT, các công trình nghiên cứu
trƣớc đây cho rằng gia tăng tỷ lệ thành viên trong trực thuộc nội bộ công ty giúp
118
tăng mức độ giám sát của HĐQT đối với hành vi của nhà quản trị khiến cho họ phải
công bố thông tin minh bạch và chính xác hơn (Hoang & cộng sự, 2017; Khalil &
Ozkan, 2016; Asogwa & cộng sự, 2019; Susanto & cộng sự, 2017; Fuzi & cộng sự,
2016; Kankanamage, 2016; Bzeouich & cộng sự, 2019). Tƣơng tự, nghiên cứu này
cũng ủng hộ cho các công trình trƣớc đây khi chứng minh đƣợc rằng nâng cao tính
độc lập của HĐQT giúp hạn chế quản trị lợi nhuận và cải thiện chất lƣợng lợi
nhuận.
Nghiên cứu này cũng cho thấy tác động tích cực của khả năng thanh khoản
đối với chất lƣợng lợi nhuận. Lập luận của nghiên cứu này dựa trên các công trình
nghiên cứu trƣớc đây mà chỉ ra rằng công ty với khả năng thanh khoản cao có ít
động lực thực hiện quản trị lợi nhuận vì họ có nguồn quỹ sẵn có để tài trợ cho các
dự án đầu tƣ của mình (Sayari & Omri, 2017; Chen & cộng sự, 2017; Takhtaei &
Mousavi, 2012; Hamidzadeh & Zeinali, 2015; Ajina & Habib, 2017; Wruck & Wu,
2017). Nghiên cứu này chứng minh đƣợc tác động của khả năng thanh khoản đối
với các công ty niêm yết lần đầu tiên tại thị trƣờng chứng khoán Việt Nam.
Giống với kỹ thuật tác động cố định, trong kỹ thuật tác động ngẫu nhiên, tác
giả cũng đánh giá tác động của các biến độc lập ở thời kỳ t – 1 lên chất lƣợng lợi
nhuận của công ở thời kỳ t. Qua phân tích đối với biến độc lập đo lƣờng thông qua
khoản dồn tích, nghiên cứu thấy rằng dấu và ý nghĩa thống kê thống kê của các biến
ở thời kỳ t – 1 cũng tƣơng tự so với tại thời kỳ t. Giới hạn tài chính có tác động tiêu
cực đến chất lƣợng lợi nhuận, tính độc lập của HĐQT và chất lƣợng kiểm toán có
tác động tích cực đến chất lƣợng lợi nhuận, và khả năng sinh lời không có tác động
đến chất lƣợng lợi nhuận. Sự khác biệt nhỏ đối với biến khoản dồn tích là tác động
của khả năng thanh khoản. Trong khi khả năng thanh khoản ở cùng thời kỳ t có tác
động tích cực đến chất lƣợng lợi nhuận tại thời kỳ t thì khả năng thanh khoản ở thời
kỳ t – 1 lại không đủ mạnh để can thiệp đến chất lƣợng lợi nhuận. Điều này chỉ ra
rằng một số yếu tố khi can thiệp có thể có tác động dài hạn đến chất lƣợng lợi
nhuận, trong khi đó một số yếu tố chỉ là dấu hiệu phản ánh nhất thời và trong dài
hạn không còn lý giải cho chất lƣợng lợi nhuận nữa.
119
c2. Trường hợp chất lượng lợi nhuận được đo lường bằng “giao dịch thực”
Trong bảng 3.13, mô hình 2 sử dụng biến đại diện chất lƣợng lợi nhuận đo
lƣờng dựa vào giao dịch thực. Nhìn chung, tất cả các biến trong mô hình đều có ý
nghĩa thống kê trừ biến chất lƣợng kiểm toán. Giới hạn tài chính và khả năng sinh
lời có tác động xấu trong khi các biến còn lại có tác động tốt đến chất lƣợng lợi
nhuận. Hệ số và ý nghĩa của biến giới hạn tài chính nhất quán với mô hình 1.
Nghiên cứu kiểm nghiệm trƣớc đây chỉ ra rằng mục đích điều chỉnh lợi
nhuận của công ty là nhằm thu hút nhà đầu tƣ trên thị trƣờng, và họ thƣờng điều
chỉnh lợi nhuận thông qua các giao dịch thực tế (Kent & cộng sự, 2016; Cameran,
Prencipe & Trombetta, 2016; Abbadi, Hijazi & Al-Rahahleh, 2016; Ge & McVay,
2005; Yunos & cộng sự, 2014; Amidu, Yorke & Harvey, 2016; Espahbodi, Liu &
Weigand, 2018; Rezaee & cộng sự, 2018; Putra & Subowo, 2016; Isidro, Martins &
Lopes, 2016; Fernández-Gámez & cộng sự, 2019; Gullett, Kilgore & Geddie, 2018;
SeTin & Murwaningsari, 2018). Các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng
thƣờng đối mặt với vấn đề giới hạn tài chính vì vậy họ có nhiều động cơ can thiệp
vào lợi nhuận. Nghiên cứu này chứng minh rằng giới hạn tài chính sẽ làm suy giảm
chất lƣợng lợi nhuận vì lợi nhuận của công ty trƣớc niêm yết sẽ đảo ngƣợc sau niêm
yết.
Khả năng sinh lời có dấu hệ số giống với biến giới hạn tài chính. Trong khi
giới hạn tài chính là động cơ thúc đẩy công ty thực hiện quản trị lợi nhuận thì khả
năng sinh lời cao quá mức của công ty là dấu hiệu cho thấy công ty đã thực hiện
quản trị lợi nhuận. Lợi nhuận cao này là kết quả của việc can thiệp vào giao dịch
thực làm đẩy dòng tiền hoạt động của công ty tăng lên. Vì vậy, khả năng sinh lợi
cao cho thấy chất lƣợng lợi nhuận tốt hơn của công ty. Trong bảng 3.13 thì chỉ có
hệ số trong mô hình 2 chỉ ra tác động có ý nghĩa thống kê. Nhƣ vậy, khả năng sinh
lời có thể giải thích cho chất lƣợng lợi nhuận đo lƣờng dựa vào giao dịch thực.
Ba biến bao gồm tính độc lập của HĐQT, khả năng thanh khoản, và tăng
trƣởng doanh thu đều cho thấy tác động tích cực đến chất lƣợng lợi nhuận. HĐQT
120
có mức độ độc lập càng hàm ý rằng các thành viên bên ngoài có nhiều cơ hội để
giám sát hành vi của nhà quản trị và quyết định của công ty. Kết quả của nghiên cứu
này bổ sung cho các nghiên cứu trƣớc khi các nghiên cứu trƣớc đây chỉ ra rằng tính
độc lập của HĐQT liên quan đến quản trị lợi nhuận của công ty (Nariman &
Ekadjaja, 2018, Hoang & cộng sự, 2017, Susanto & cộng sự, 2017, Salehi & cộng
sự, 2017). Đối với các công ty niêm yết lần đầu tiên thì nâng cao tính độc lập của
HĐQT giúp giám sát hoạt động của công ty tốt hơn và các công ty này sẽ ít cho
thấy vấn đề quản trị lợi nhuận.
Nhờ vào điều này, các thông tin công bố bởi công ty trở nên chính xác và
phản ánh đúng tình hình hoạt động của công ty. Khả năng thanh khoản, giống với
mô hình trƣớc cũng chỉ ra sự cải thiện trong chất lƣợng lợi nhuận. Vì một lẽ rằng,
công ty có thanh khoản cao không có nhiều động lực để thực hiện điều chỉnh lợi
nhuận mà muốn công bố thông tin một cách thực tế nhất đến thị trƣờng (Kim-Soon
& cộng sự, 2014; Delen, Kuzey & Uyar, 2013; SeTin & Murwaningsari, 2018;
Elayan & cộng sự, 2018; Zhu & Shen, 2016). Công ty thƣờng khó can thiệp vào
tăng trƣởng doanh thu hơn là khả năng sinh lời. Tăng trƣởng doanh thu phải dựa
trên giao dịch thực tế của công ty trong khi khả năng sinh lời có thể điều chỉnh
thông qua chi phí hay các khoản thu nhập khác (Anderson & cộng sự, 2019;
Bonacchi, Marra & Zarowin, 2017; Gullett, Kilgore & Geddie, 2018; Lisic & cộng
sự, 2019; Basu, Cready & Paek, 2016; García-Alcober & cộng sự, 2019; Kama,
2009). Vì vậy, tăng trƣởng doanh thu hàm ý rằng công ty hoạt động hiệu quả và ít
có động cơ thực hiện quản trị lợi nhuận. Tăng trƣởng doanh thu cao đi kèm với chất
lƣợng lợi nhuận tốt.
Đối với biến đại diện cho chất lƣợng lợi nhuận đo lƣờng dựa trên giao dịch
thực thì tác động của các biến phụ thuộc ở thời kỳ t – 1 dƣờng nhƣ không rõ ràng
bằng tác động của các biến phụ thuộc ở thời kỳ t. Đối với thời kỳ t thì giới hạn tài
chính cho thấy tác động ngƣợc chiều có ý nghĩa thống kê lên chất lƣợng lợi nhuận.
Tuy nhiên, ở thời kỳ t – 1 thì giới hạn tài chính lại không đủ mạnh để tác động đến
chất lƣợng lợi nhuận dẫu vẫn mang dấu âm. Kết quả tƣơng tự đối với tính độc lập
121
của HĐQT (thời kỳ t cho thấy tác động cùng chiều có ý nghĩa thống kê nhƣng thời
kỳ t – 1 lại không cho thấy tác động có ý nghĩa thống kê dù vẫn mang dấu dƣơng).
Tăng trƣởng doanh thu và khả năng sinh lời cũng đều không chỉ ra tác động có ý
nghĩa thống kê ở thời kỳ t – 1. Một trƣờng hợp đặc biệt là biến khả năng thanh
khoản mang tác động cùng chiều có ý nghĩa thống kê đến chất lƣợng lợi nhuận ở cả
thời kỳ t và t – 1, minh chứng cho tác động dài hạn của khả năng thanh khoản. Nhƣ
vậy, chúng ta thấy tác động dài hạn của biến độc lập lên chất lƣợng lợi nhuận chịu
ảnh hƣởng phần nào từ việc lựa chọn biến đại diện cho chất lƣợng lợi nhuận. Khả
năng thanh khoản không tác động dài hạn đến khoản dồn tích nhƣng lại có tác động
dài hạn dựa trên giao dịch thực. Các yếu tố khó can thiệp đến giao dịch thực trong
dài hạn nhƣng lại có thể ảnh hƣởng đến khoản dồn tích.
Giống nhƣ kỹ thuật ƣớc lƣợng tác động cố định (FEM), tính phù hợp của mô
hình trong kỹ thuật ƣớc lƣợng tác động ngẫu nhiên (REM) cũng đƣợc đánh giá
thông qua ba hệ số là R2 within, R2 between, và R2 overall. Nghiên cứu đánh giá
cho hệ số xác định R2 overall của toàn bộ mô hình. Mô hình 1 có hệ số xác định R2
overall là 0.0682, tức là các biến độc lập trong mô hình về trung bình giải thích
đƣợc 6.82% sự biến động trong biến phụ thuộc. Mô hình 2 có hệ số xác định R2
overall là 0.0776, tức là các biến độc lập trong mô hình về trung bình giải thích
đƣợc 7.76% sự biến động trong biến phụ thuộc. Mô hình 3 có hệ số xác định R2
overall là 0.0387, tức là các biến độc lập trong mô hình về trung bình giải thích
đƣợc 3.87% sự biến động trong biến phụ thuộc. Mô hình 4 có hệ số xác định R2
overall là 0.0119, tức là các biến độc lập trong mô hình về trung bình giải thích
đƣợc 1.19% sự biến động trong biến phụ thuộc. Dựa trên hệ số xác định R2 overall
của cả bốn mô hình thì mô hình 1 và 2 có mức độ phù hợp cao hơn, minh chứng cho
việc rằng biến khoản dồn tích là biến đại diện phù hợp hơn và đƣợc giải thích nhiều
hơn bởi các biến độc lập. Khác với kỹ thuật ƣớc lƣợng trƣớc, bảng 3.13 đánh giá hệ
số của các biến độc lập có đồng thời bằng không thông qua kiểm định Chi bình
phƣơng (Wald Chi-squared test). Kết quả của kiểm định cho rằng hệ số của các biến
độc lập không đồng thời bằng không và cả hai mô hình nghiên cứu đều phù hợp.
122
Bảng 3.14. So sánh kết quả của các kỹ thuật ƣớc lƣợng tĩnh
POLS FEM REM
Giả
thuyết MHF MHR MHF MHR MHF MHR
- - - - - - H1
+ + + + + + H2
Không Không Không Không Không + H3
+ Không Không + + + H4
Không Không Không Không Không + H5
- - - - - - H6
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Nhƣ vậy, nghiên cứu đã trình bày xong kết quả đối với tiếp cận mô hình tĩnh
bao gồm ba kỹ thuật ƣớc lƣợng là bình phƣơng nhỏ nhất gộp (POLS), tác động cố
định (FEM), và tác động ngẫu nhiên (REM). Cả ba kỹ thuật đều trình bày những mô
hình nghiên cứu với lần lƣợt hai biến đại diện khác nhau cho chất lƣợng lợi nhuận
(khoản dồn tích và giao dịch thực). Qua cả ba kỹ thuật ƣớc lƣợng đối với tiếp cận
tĩnh, kết quả chỉ ra rằng giới hạn tài chính (H1) và khả năng sinh lời (H6) có tác
động tiêu cực đến chất lƣợng lợi nhuận. Các biến còn lại bao gồm tính độc lập của
HĐQT (H2), chất lƣợng kiểm toán (H3), khả năng thanh khoản (H4), và tăng
trƣởng doanh thu (H5) cho thấy mối quan hệ cùng chiều với chất lƣợng lợi nhuận.
Tuy nhiên, trong đó, chất lƣợng kiểm toán (H3) và tăng trƣởng doanh thu (H5) đa
phần là không có ý nghĩa thống kê qua các mô hình, điều này phần nào lý giải rằng
hai yếu tố ít liên quan đến chất lƣợng lợi nhuận. Chất lƣợng kiểm toán chỉ giải thích
đƣợc cho chất lƣợng lợi nhuận đo lƣờng bằng khoản dồn tích trong một mô hình;
ngƣợc lại, tăng trƣởng doanh thu lại có thể giải thích cho chất lƣợng lợi nhuận đo
lƣờng thông qua giao dịch thực. Nhìn chung, dấu và ý nghĩa hệ số giống nhau qua
ba kỹ thuật ƣớc lƣợng. Riêng chỉ có chất lƣợng kiểm toán và tăng trƣởng doanh thu
là chỉ có ý nghĩa thống kê đối với kỹ thuật REM.
123
d. Tiếp cận bằng mô hình động với kỹ thuật moment tổng quát (SGMM)
Khác với tiếp cận mô hình tĩnh, tiếp cận mô hình động thêm vào biến độ trễ
của biến phụ thuộc vào vế phải của phƣơng trình nhƣ là biến độc lập. Trên thực tế,
nếu công ty có chất lƣợng lợi nhuận trong quá khứ tốt thì công ty có thể tiếp tục duy
trì chất lƣợng lợi nhuận này trong tƣơng lai. Vì tiếp cận tĩnh không xét đến biến độ
trễ của chất lƣợng lợi nhuận nên vô tình sẽ bỏ qua biến quan trọng trong mô hình.
Việc thêm biến độ trễ này vào mô hình nghiên cứu giúp cho kết quả hồi quy đƣợc
chính xác hơn. Dẫu vậy, các lý thuyết nghiên cứu thực sự vẫn chƣa chứng minh
đƣợc tính cần thiết của việc đƣa biến độ trễ của chất lƣợng lợi nhuận vào trong mô
hình. Vì vậy, nghiên cứu này mới xem xét cả hai cách tiếp cận để đánh giá liệu kết
quả có nhất quán với nhau không. Tuy nhiên, tiếp cận mô hình động sẽ mắc phải
hiện tƣợng nội sinh gây ra do bởi mối quan hệ giữa phần dƣ và độ trễ của biến phụ
thuộc. Đó là lý do mà nghiên cứu sử dụng kỹ thuật hệ phƣơng trình momen
(SGMM) cho tiếp cận mô hình động. Kỹ thuật này sử dụng ngay chính các biến
trong mô hình để làm biến công cụ cho biến độ trễ của biến phụ thuộc. Kỹ thuật
SGMM sẽ giúp khắc phục vấn đề nội sinh và cải thiện kết quả ƣớc tính của các biến
hồi quy trong mô hình nghiên cứu. Tuy nhiên, kỹ thuật này chỉ có thể hiệu quả khi
các kiểm định liên quan đến nó đƣợc thỏa mãn và bên cạnh việc phân tích tác động
của các nhân tố trong mô hình thì nghiên cứu còn xem xét đến các kiểm định về độ
mạnh của biến công cụ cũng nhƣ là hiện tƣợng tự tƣơng quan của biến phụ thuộc
trong mô hình.
Bảng 3.15 trình bày các nhân tố tác động đến chất lƣợng lợi nhuận của các
công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam sử dụng kỹ
thuật SGMM. Bốn mô hình trong bảng lần lƣợt đại diện cho các biến phụ thuộc
khác nhau của chất lƣợng lợi nhuận bao gồm khoản dồn tích và giao dịch thực ở
thời kỳ t và t - 1. Biến độc lập bao gồm giới hạn tài chính, tính độc lập của HĐQT,
chất lƣợng kiểm toán, khả năng thanh khoản, tăng trƣởng doanh thu, và khả năng
sinh lời.
124
Bảng 3.15. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình với kỹ thuật SGMM
Accruals
(Khoản dồn tích) Real Activities
(Giao dịch thực) Biến độc lập
Thời kỳ t Thời kỳ t-1 Thời kỳ t Thời kỳ t-1
0.471*** 0.412*** 0.502*** 0.441*** Lag-EQ
(Độ trễ chất lƣợng lợi nhuận) (0.120) (0.0837) (0.155) (0.100)
-0.461** -0.215*** -0.278*** 0.0548 FC-WW
(Giới hạn tài chính) (0.230) (0.0564) (0.103) (0.0589)
0.149* 0.196*** 0.0568 0.0885 Independence
(Tính độc lập) (0.0768) (0.0624) (0.0701) (0.0557)
0.0273 -0.00683 -0.0345 1.038*** Audit
(Chất lƣợng kiểm toán) (0.906) (0.0275) (0.0420) (0.324)
0.0427*** 0.0266*** 0.0482*** 0.0335*** Liquidity
(Khả năng thanh khoản) (0.0114) (0.00738) (0.00856) (0.00632)
0.185*** 0.0508*** 0.136** 0.0347** Revenue
(Tăng trƣởng doanh thu) (0.0474) (0.0165) (0.0576) (0.0154)
-2.131*** -0.0723 -1.308* 0.0888 Profitability
(Khả năng sinh lời) (0.609) (0.0598) (0.734) (0.0557)
0.707 0.375*** 0.529*** -0.832** Constant
(Hệ số chặn) (1.016) (0.0811) (0.160) (0.357)
No. of Observations (Số quan sát) 1,311 1,350 1,730 1,730
No. of Instruments (Số công cụ) 9 12 12 13
No. of Groups (Số nhóm) 530 537 537 520
F-Statistics (Thống kê F) 25.64 10.07 13.33 17
Prob. 2.84E-20 3.24E-30 7.46E-12 6.65E-16
125
Arellano-Bond test for AR(1) -5.027 -6.339 -3.67 -4.11
Prob. 4.98E-07 2.32E-10 0.000243 4E-05
Arellano-Bond test for AR(2) -0.103 -0.999 -0.232 -1.448
Prob. 0.918 0.318 0.816 0.148
Sargan test of over-identification 5.959 7.553 3.079 3.23
0.109 0.545 0.072 Prob. 0.31
5.965 3.227 2.589 Hansen test of over-identification 1.772
Nguồn: Tính toán của tác giả từ STATA 15
0.202 0.521 0.108 Prob. 0.88
Sai số chuẩn đƣợc ghi trong ngoặc
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Đối với kỹ thuật SGMM thì tính phù hợp của mô hình đƣợc đánh giá thông
qua một số kiểm định thống kê. Đầu tiên, kiểm định Hansen với giả thuyết gốc là
―biến công cụ cho biến nội sinh là phù hợp‖. Giá trị kiểm định trong bảng 3.14
không có ý nghĩa thống kê và hàm ý rằng ―không có bằng chứng để bác bỏ giả
thuyết gốc‖. Nhƣ vậy, biến công cụ sử dụng cho biến nội sinh (độ trễ của biến phụ
thuộc).
Dựa trên kết quả của bảng 3.15 thì giá trị của cả bốn mô hình với biến phụ
thuộc khác nhau đều không có ý nghĩa thống kê, hàm ý rằng không có bằng chứng
để bác bỏ giả thuyết ban đầu. Nhƣ vậy, các biến công cụ đƣợc sử dụng cho biến độ
trễ của biến phụ thuộc là phù hợp trong nghiên cứu này. Ngoài ra, mức độ phù hợp
của mô hình còn đƣợc đánh giá thông qua tƣơng quan bậc 1 và bậc 2 của biến phụ
thuộc. Vì nghiên cứu đƣa biến độ trễ 1 giai đoạn (t – 1) của biến chất lƣợng lợi
nhuận vào trong mô hình cho nên mô hình đƣợc coi là phù hợp chỉ khi nó có tƣơng
quan chuỗi bậc 1 và không có tƣơng quan chuỗi bậc 2. Kiểm định Arellano – Bond
AR(1) có giả định gốc là ―tồn tại tƣơng quan chuỗi bậc 1‖. Giá trị p-value ở cả bốn
mô hình đều chấp nhận rằng biến chất lƣợng lợi nhuận có tƣơng quan chuỗi bậc 1.
Kiểm định Arellano – Bond AR(2) có giả định gốc là ―tồn tại tƣơng quan chuỗi bậc
126
2‖. Giá trị p-value ở cả bốn mô hình đều bác bỏ giả thuyết gốc tức là biến chất
lƣợng lợi nhuận không có tƣơng quan chuỗi bậc 2. Cuối cùng, nghiên cứu cần phải
so sánh số biến công cụ (number of instruments) và số nhóm (number of groups).
Các mô hình nghiên cứu đều cho thấy số biến công cụ nhỏ hơn số nhóm.
Tóm lại, khi các điều kiện cần và đủ đối với kỹ thuật ƣớc lƣợng SGMM thỏa
mãn theo các giả định đặt ra ở trên thì tính vững và tính chính xác của các hệ số ƣớc
lƣợng đều gia tăng. Giống với các kỹ thuật ƣớc lƣợng trƣớc, nghiên cứu cũng đánh
giá kiểm định F với giả định gốc là ―tất cả các biến độc lập trong mô hình đều đồng
thời bằng 0‖. Kết quả kiểm định cho rằng trong cả bốn mô hình thì tất cả các biến
độc lập không đồng thời bằng 0. Kết luận, cả bốn mô hình trong bảng 3.15 sử dụng
kỹ thuật SGMM phù hợp với dữ liệu nghiên cứu.
d1. Trường hợp chất lượng lợi nhuận được đo lường bằng “biến dồn tích”
Tất cả các biến trong mô hình 1 đều có ý nghĩa thống kê ngoại trừ chất lƣợng
kiểm toán. Đối với tiếp cận động, đầu tiên nghiên cứu sẽ phân tích tác động của
chất lƣợng lợi nhuận quá khứ đến chất lƣợng lợi nhuận hiện tại. Biến này cho thấy
tác động cùng chiều có ý nghĩa thống kê, hàm ý rằng chất lƣợng lợi nhuận trong quá
khứ tốt sẽ tạo điều kiện để công ty nâng cao chất lƣợng lợi nhuận hiện tại. Kết quả
này tƣơng đồng với các nghiên cứu trƣớc khi xem xét mô hình động cho các nhân tố
tác động đến quản trị lợi nhuận (Salawu, 2016; Ocak & Can, 2018; Alipour & cộng
sự, 2019; Amidu & cộng sự, 2016; Santos-Cabalgante & cộng sự, 2016). Trong
nghiên cứu này, tác động cùng chiều và có ý nghĩa thống kê của biến độ trễ cũng
chứng tỏ cho sự phù hợp của tiếp cận động.
Các công trình nghiên cứu trƣớc cho thấy rằng các công ty niêm yết lần đầu
thƣờng gặp khó khăn đối với việc tiếp cận vốn vay. Vì vậy, họ thƣờng chủ động
thực hiện quản trị lợi nhuận nhằm tạo sự dễ dàng trong vay vốn (Karami & Akhgar,
2014; Francis & cộng sự, 2004; Abed & cộng sự, 2012; Muttakin & cộng sự, 2017;
Amidu & cộng sự, 2016; Espahbodi & cộng sự, 2018; Nisansala & Menike, 2018;
Koo & cộng sự, 2017; He & cộng sự, 2017). Nghiên cứu này chứng minh tác động
127
ngƣợc chiều vì yếu tố xem xét là chất lƣợng lợi nhuận thay vì quản trị lợi nhuận.
Ngoài ra, nghiên cứu cho rằng các công ty niêm yết lần đầu bị giới hạn tài chính sẽ
có động cơ quản trị lợi nhuận cao hơn vì công ty chƣa có uy tín nên khoản vay khá
giới hạn và chi phí vay cao. Xét về khía cạnh đầu tƣ, uy tín thấp cũng khiến họ khó
thu hút nhà đầu tƣ trên thị trƣờng. Giới hạn tài chính vì vậy khá nghiêm trọng đối
với các công ty này. Thông qua hành vi quản trị lợi nhuận, công ty có thể gia tăng
điểm tín nhiệm và tiếp cận nguồn quỹ trên thị trƣờng dễ dàng hơn. Tuy nhiên, chính
hành vi này làm suy giảm chất lƣợng lợi nhuận.
Đối với tính độc lập của HĐQT, các nghiên cứu trƣớc chỉ ra rằng tỷ lệ thành
viên độc lập cao gia tăng khả năng giám sát quản trị lợi nhuận (Fuzi & cộng sự,
2016; Alqatan & cộng sự, 2019; Kankanamage, 2016; Goh & cộng sự, 2016;
Mohammad & Wasiuzzaman, 2019; Arniati & cộng sự, 2019). Vì vậy, khả năng
quản trị lợi nhuận của công ty giảm. Trong nghiên cứu này, tác giả cho rằng thành
viên bên ngoài thƣờng không ràng buộc lợi ích với công ty nên số thành viên này
càng cao thì khả năng giám sát tiến trình ra quyết định của công ty càng chặt chẽ và
trung lập. Vì vậy, nghiên cứu này chỉ ra rằng tính độc lập của HĐQT càng cao thì
chất lƣợng lợi nhuận càng cao. Dẫu mức ý nghĩa thống kê không cao nhƣng tính
độc lập của HĐQT cũng cho thấy tác động tích cực lên chất lƣợng lợi nhuận.
Trong mô hình 1, chất lƣợng kiểm toán là biến duy nhất không có ý nghĩa
thống kê. Tuy vậy, dấu dƣơng của yếu tố này cũng chỉ ra rằng công ty đƣợc kiểm
toán bởi Big 4 sẽ có chất lƣợng lợi nhuận tốt hơn công ty đƣợc kiểm toán bởi các
công ty kiểm toán khác. Kết quả này ủng hộ các nghiên cứu trƣớc khi cho rằng công
ty IPO thƣờng thực hiện quản trị lợi nhuận và quy trình kiểm toán nghiêm ngặt sẽ
giúp hạn chế hành vi này (Mohiuddin & Karbhari, 2010; Zureigat, 2010, Al-Ajmi,
2009; Kilgore, 2007; Okike, 2007; Atoeijeri & Annafaabi, 2008; Cascino & cộng
sự, 2010; Vanstraelen, 2000). Nhƣng khác với các nghiên cứu trƣớc, nghiên cứu
này mở rộng đánh giá chất lƣợng lợi nhuận công ty.
128
Các công trình nghiên cứu trƣớc đây cho rằng doanh thu giúp đảm bảo lợi
nhuận công ty. Doanh thu chỉ có thể gia tăng khi công ty thực sự hoạt động hiệu
quả. Doanh thu cao sẽ bảo chứng cho lợi nhuận cao mà công ty công bố ra thị
trƣờng đối với nhà đầu tƣ. Lợi nhuận này sẽ thể hiện cho tình hình hoạt động tốt của
công ty. Vì vậy, công ty tăng trƣởng doanh thu cao ít có khả năng quản trị lợi nhuận
(Khan & cộng sự, 2019; Nisansala & Menike, 2018; Al-Momani & Almomni, 2018;
Bonacchi & cộng sự, 2017; Wang & cộng sự, 2018; Gullett & cộng sự, 2018). Dựa
trên nền tảng này, nghiên cứu cũng chứng minh đƣợc tác động của tăng trƣởng
doanh thu nhƣng đối với chất lƣợng lợi nhuận. Nghiên cứu cho rằng tăng trƣởng
doanh thu có tác động tích cực đến chất lƣợng lợi nhuận vì tình hình hoạt động của
công ty đƣợc phản ánh phù hợp thông qua lợi nhuận.
Trong các nghiên cứu trƣớc, khả năng sinh lời tăng lại đƣợc cho là phản ánh
vấn đề quản trị lợi nhuận nhằm làm đẹp báo cáo tài chính của công ty để từ đó thu
hút nhà đầu tƣ trên thị trƣờng (Kapoor & Goel, 2017; Cakici & cộng sự, 2017;
Lennox & cộng sự, 2016; Ahmadpour & Shahsavari, 2016; Warrad, 2017; Al-
Momani & Almomni, 2018; Suteja & cộng sự, 2016). Vì xem xét các công ty niêm
yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán nên nghiên cứu cho rằng động cơ can
thiệp vào lợi nhuận của các công ty này còn lớn hơn vì nhu cầu thu hút vốn của họ
hơn nhiều lần so với công ty bình thƣờng. Nghiên cứu này chứng minh đƣợc tính
đúng đắn của quan điểm này khi chỉ ra mối quan hệ ngƣợc chiều giữa khả năng sinh
lời và chất lƣợng lợi nhuận.
Trong mô hình 2 với biến độc lập ở thời kỳ t – 1 nhìn chung dấu và ý nghĩa
của các biến độc lập vẫn giống nhƣ mô hình 1. Biến độ trễ của biến phụ thuộc cũng
tác động cùng chiều có ý nghĩa thống kê đến chất lƣợng lợi nhuận, minh chứng cho
tính phù hợp của mô hình tiếp cận động. Giới hạn tài chính có mối quan hệ ngƣợc
chiều với chất lƣợng lợi nhuận, trong khi tính độc lập của HĐQT, khả năng thanh
khoản, và tăng trƣởng doanh thu có mối quan hệ cùng chiều. Hai biến còn lại là chất
lƣợng kiểm toán và khả năng sinh lời không cho thấy tác động có ý nghĩa thống kê.
129
Đặc biệt, biến khả năng sinh lời có tác động tức thời trong ngắn hạn nhƣng lại
không có tác động kéo dài (năm trƣớc không tác động đến năm sau).
d2 . Trường hợp chất lượng lợi nhuận được đo lường bằng “giao dịch thực”
Trong mô hình 3 (đo lƣờng chất lƣợng lợi nhuận thông qua giao dịch thực)
thì chỉ có biến chất lƣợng kiểm toán và tính độc lập của HĐQT là không có tác
động đủ mạnh để có ý nghĩa thống kê đến chất lƣợng lợi nhuận.
Biến giới hạn tài chính và khả năng sinh lời cho thấy mối quan hệ ngƣợc
chiều với chất lƣợng lợi nhuận. Trong khi giới hạn tài chính có mức ý nghĩa thống
kê cao (tác động mạnh) thì biến khả năng sinh lời có mức có ý nghĩa thống kê thấp
(tác động yếu). Thông thƣờng, các công ty niêm yết lần đầu tiên trên sở giao dịch
chứng khoán thƣờng đối mặt với vấn đề giới hạn tài chính (Beyer, Guttman &
Marinovic, 2018; Inaam & Khamoussi, 2016; Mai Thị Hoàng Khánh & Nguyễn
Vĩnh Khƣơng, 2018; Berger, Chen & Li, 2018; Ding, Li & Wu, 2018; García-
Teruel & cộng sự, 2014; Ghosh & Moon, 2010; Koo, Ramalingegowda & Yu,
2017; He & cộng sự, 2017; Mousa & Desoky, 2019). Thông thƣờng thì công ty sẽ
quản trị lợi nhuận để nâng cao tín nhiệm của mình đối với các nhà đầu tƣ trên thị
trƣờng. Hành vi này có thể giúp nâng cao lợi nhuận và khiến cho nhà đầu tƣ tìm đến
công ty nhiều hơn. Nhƣng sau đó lợi nhuận của công ty lại sụt giảm và khó duy trì
đƣợc nhƣ ban đầu.
Giống với giới hạn tài chính thì biến khả năng sinh lời cũng chỉ ra mối quan
hệ ngƣợc chiều với chất lƣợng lợi nhuận. Khả năng sinh lời của công ty gia tăng
một cách bất thƣờng là dấu hiệu ban đầu cho thấy hành vi can thiệp của nhà quản trị
đối với số liệu lợi nhuận. Các nghiên cứu trƣớc cho rằng lợi nhuận có đƣợc từ quản
trị lợi nhuận không thể duy trì trong dài hạn (Buana & Wahyudin, 2016; Warrad,
2017; Al-Momani & Almomni, 2018; Suteja & cộng sự, 2016; Akani & Vivian,
2018; Waweru & Riro, 2013; García Sánchez & García Meca, 2017; Kothari &
cộng sự, 2005). Từ đó, nghiên cứu lý giải cho lý do tại sao khả năng sinh lời cao thì
chất lƣợng lợi nhuận càng thấp.
130
Tất cả các biến còn lại bao gồm khả năng thanh khoản, tăng trƣởng doanh
thu, và biến độ trễ đều cho thấy tác động tích cực có ý nghĩa thống kê đến chất
lƣợng lợi nhuận. Khả năng thanh khoản cho thấy công ty sẽ ít có động cơ can thiệp
vào lợi nhuận để thu hút nhà đầu tƣ vì bản thân công ty đã có sẵn nguồn quỹ cho
đầu tƣ. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trƣớc đó chứng minh dựa trên quản
trị lợi nhuận (Zhong & cộng sự, 2017; Cheng & cộng sự, 2018; Hsu & Yu, 2015;
Sundgren & cộng sự, 2018; Takhtaei & Mousavi, 2012; Hamidzadeh & Zeinali,
2015). Theo nghiên cứu này, chất lƣợng lợi nhuận của công ty đƣợc cải thiện khi
công ty gia tăng khả năng thanh khoản.
Các công trình nghiên cứu trƣớc chỉ ra rằng nếu công ty với lợi nhuận cao
chƣa chắc là do bởi hoạt động hiệu quả thì doanh thu tăng là dấu hiệu mạnh mẽ cho
tình hình hoạt động tốt của công ty (Dichev & cộng sự, 2013; Ball & Shivakumar,
2005; Khan & cộng sự, 2019; Hribar & Craig Nichols, 2007; Wang & cộng sự,
2018; Nisansala & Menike, 2018; Al-Momani & Almomni, 2018). Trong nghiên
cứu này, công ty gia tăng doanh thu cho thấy chất lƣợng lợi nhuận cao. Điều này
chứng tỏ rằng tăng trƣởng doanh thu hạn chế quản trị lợi nhuận của công ty.
Biến độ trễ cho thấy tác động tích cực của chất lƣợng lợi nhuận trong quá
khứ. Nhƣ vậy, cả hai mô hình đều khẳng định cho dạng mô hình động với sự có mặt
của biến độ trễ là phù hợp. Nếu trong quá khứ công ty có chất lƣợng lợi nhuận tốt
thì ở hiện tại công ty sẽ tiếp tục duy trì chất lƣợng nhƣ vậy và số liệu lợi nhuận luôn
phản ánh đúng tình hình hoạt động của công ty. Kết quả này ủng hộ cho các nghiên
cứu trƣớc đề xuất sử dụng mô hình động để đánh giá các nhân tố tác động đến quản
trị lợi nhuận (Salawu, 2016; Ocak & Can, 2018; Alipour & cộng sự, 2019; Santos-
Cabalgante & cộng sự, 2016; Amidu & cộng sự, 2016).
Trong mô hình cuối cùng, nghiên cứu xem xét tác động của các biến độc lập
ở thời kỳ t – 1 lên chất lƣợng lợi nhuận đo lƣờng dựa trên giao dịch thực ở hiện tại.
Biến độ trễ của chất lƣợng lợi nhuận vẫn cho thấy tác động cùng chiều có ý nghĩa
thống kê. Kết quả này một lần nữa cũng ủng hộ cho việc sử dụng tiếp cận mô hình
131
động trong nghiên cứu và chứng minh rằng chất lƣợng lợi nhuận ở kỳ trƣớc có thể
ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận của kỳ sau. Trong mô hình 4, biến chất lƣợng
kiểm toán, khả năng thanh khoản, và tăng trƣởng doanh thu đều có tác động cùng
chiều đến chất lƣợng lợi nhuận của công ty. Biến khả năng thanh khoản và tăng
trƣởng doanh thu thì có dấu và ý nghĩa thống kê giống với mô hình 3 nhƣng biến
chất lƣợng kiểm toán chỉ có ý nghĩa thống kê trong mô hình 4. Điều này hàm ý rằng
kiểm toán năm nay chỉ có tác động đến chất lƣợng lợi nhuận của năm sau. Nguyên
nhân có thể là do bởi công ty thƣờng công bố BCTC chƣa kiểm toán trƣớc trong
năm nay và tới năm sau mới công bố BCTC đã kiểm toán nên quy trình kiểm toán
ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận trong năm kế tiếp. Ngƣợc lại thì giới hạn tài
chính và khả năng sinh lời có tác động ý nghĩa ở thời kỳ t nhƣng lại không có ý
nghĩa ở thời kỳ t – 1. Nhƣ vậy, giới hạn tài chính và khả năng sinh lời là dấu hiệu
phản ánh ngay vào chất lƣợng lợi nhuận và đƣợc xem là dấu hiệu trong ngắn hạn để
đánh giá quản trị lợi nhuận của công ty. Tóm lại, chúng ta thấy rằng một số nhân tố
trong mô hình có thể giúp phản ánh ngay chất lƣợng lợi nhuận nhƣng cũng có một
số yếu tố cần phải có thời gian đủ dài để có thể can thiệp vào chất lƣợng lợi nhuận.
Nhƣng thời gian tác động dài hay ngắn còn phụ thuộc vào biến đại diện cho chất
lƣợng lợi nhuận. Đa phần các biến độc lập tác động đến chất lƣợng lợi nhuận đo
lƣờng dựa trên khoản dồn tích ở hiện tại và cả trong tƣơng lai (các yếu tố thƣờng có
tác động dài hạn đến khoản dồn tích). Ngƣợc lại, một số yếu tố tác động có thể phản
ánh ngay vào giao dịch thực nhƣng một số yếu tố cần thời gian để thể hiện tác động
lên giao dịch thực.
132
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Chƣơng 3 trình bày mô tả thống kê biến, cho thấy rằng các biến nghiên cứu
trong mô hình không có mức độ biến động quá cao và không không có trƣờng hợp
biến ngoại vi (outliers) vì vậy tác động của một biến không bị chi phối quá nhiều
bởi các phần tử (công ty) trong mẫu nghiên cứu. Kết quả phân tích đơn biến (ma
trận hệ số tƣơng quan) chỉ ra rằng không có hiện tƣợng đa cộng tuyến nghiêm trọng
giữa các biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu. Các biến phụ thuộc có mối quan
hệ tƣơng quan cao với nhau cho thấy các biến này có thể đƣợc chọn là các biến thay
thế nhau đại diện cho chất lƣợng lợi nhuận của công ty. Ngoài ra, các biến độc lập
có mối quan hệ tƣơng quan cao với biến phụ thuộc cho thấy các biến này có thể giải
thích cho chất lƣợng lợi nhuận của công ty. Dấu của từng hệ số tƣơng quan của biến
độc lập hàm ý cho mối quan hệ cùng chiều hay ngƣợc chiều của yếu tố này đến chất
lƣợng lợi nhuận.
Kết quả phân tích đa biến thông qua các kỹ thuật ƣớc lƣợng (POLS, FEM,
REM, và SGMM) và các biến đại diện khác nhau cho chất lƣợng lợi nhuận (khoản
dồn tích và giao dịch thực) cho thấy giới hạn tài chính có quan hệ ngƣợc chiều có ý
nghĩa thống kê đến chất lƣợng lợi nhuận. Khả năng sinh lời cũng cho thấy tác động
tiêu cực đến chất lƣợng lợi nhuận. Ngƣợc lại, tính độc lập của HĐQT, chất lƣợng
kiểm toán, khả năng thanh khoản, và tăng trƣởng doanh thu chỉ ra mối quan hệ cùng
chiều với chất lƣợng lợi nhuận. Nhìn chung, qua các bảng kết quả thì dấu và mức ý
nghĩa thống kê của các biến độc lập đa phần nhất quán với nhau đối với từng biến
đại diện và từng kỹ thuật ƣớc lƣợng. Dựa trên kiểm định hệ số xác định, nghiên cứu
cho thấy mô hình với khoản dồn tích làm biến đại diện cho biến phụ thuộc là mô
hình phù hợp hơn vì mức độ giải thích của các biến độc lập thƣờng cao đối với mô
hình này. Kết quả của nghiên cứu ủng hộ mạnh mẽ cho các giả thuyết đã đƣợc nêu
ra và là minh chứng kiểm nghiệm cho các lập luận dựa trên lý thuyết nghiên cứu.
133
CHƢƠNG 4: BÀN LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Chƣơng bốn trình bày hai nội dung chính: (1) bàn luận về chất lƣợng lợi
nhuận của các công ty niêm yết lần đầu tiên trên sở giao dịch chứng khoán Việt
Nam và giải thích cho sự can thiệp của từng nhân tố đối với chất lƣợng lợi nhuận
dựa trên lý thuyết và các công trình kiểm nghiệm nghiên cứu; (2) đƣa ra khuyến
nghị đối với nhà đầu tƣ, nhà quản trị công ty, và cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền.
4.1. Bàn luận kết quả
4.1.1. Chất lượng lợi nhuận của công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Trong nghiên cứu này, chất lƣợng lợi nhuận đƣợc đánh giá thông qua hai yếu
tố đo lƣờng là khoản dồn tích và giao dịch thực. Giá trị của cả hai đo lƣờng này
càng cao thì chất lƣợng lợi nhuận của công ty càng thấp. Vì luận án xem chất lƣợng
lợi nhuận là biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu nên việc đánh giá chất lƣợng
lợi nhuận của các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt
Nam đƣợc thực hiện thông qua thống kê mô tả. Nghiên cứu phân dữ liệu về chất
lƣợng lợi nhuận ra thành ba phân vị tƣơng ứng với các giá trị thấp, trung bình, và
cao của biến khoản dồn tích và giao dịch thực.
Đối với biến dồn tích, có 670 quan sát đƣợc phân loại là có chất lƣợng lợi
nhuận thấp, 892 đƣợc phân loại là có chất lƣợng lợi nhuận bình thƣờng, và 669
đƣợc phân loại là có chất lƣợng lợi nhuận cao (giá trị khoản dồn tích càng cao thì
chất lƣợng lợi nhuận càng thấp). Đối với biến giao dịch thực thì có 840 quan sát
đƣợc phân loại là có chất lƣợng lợi nhuận thấp, 1118 đƣợc phân loại là có chất
lƣợng lợi nhuận bình thƣờng, và 839 đƣợc phân loại là có chất lƣợng lợi nhuận cao
(giá trị biến giao dịch thực càng cao thì chất lƣợng lợi nhuận càng thấp).
Qua kết quả tìm đƣợc này, chúng ta có thể lƣu ý một số vấn đề về chất lƣợng
lợi nhuận của các công ty mới niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán
Việt Nam nhƣ sau: (1) việc xác định chất lƣợng lợi nhuận dựa trên khoản dồn tích
có số quan sát thấp hơn là dựa trên giao dịch thực (2231 vs 2797 quan sát) vì việc
134
tính toán bằng khoản dồn tích bao hàm khá nhiều yếu tố vào trong mô hình nên việc
thiếu biến dễ xảy ra; (2) đối với biến khoản dồn tích có 670 quan sát có chất lƣợng
lợi nhuận thấp, trong khi đó biến giao dịch thực có 840 quan sát có chất lƣợng lợi
nhuận thấp. Nhƣ vậy, việc sử dụng giao dịch thực giúp phát hiện dấu hiệu chất
lƣợng lợi nhuận kém của công ty dễ dàng hơn; (3) một tỷ lệ không nhỏ các công ty
niêm yết cổ phiếu lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán cho thấy dấu hiệu của
hành vi quản trị lợi nhuận dẫn đến chất lƣợng lợi nhuận kém.
Nhìn chung, chất lƣợng lợi nhuận của các công ty niêm yết lần đầu tiên trên
thị trƣờng chứng khoán Việt Nam chƣa cao. Các công ty mới niêm yết thƣờng can
thiệp vào lợi nhuận thông qua khoản dồn tích và giao dịch thực. Giá trị khoản dồn
tích và giao dịch thực càng cao thì chất lƣợng lợi nhuận càng thấp. Vì vậy, hai yếu
tố này là dấu hiệu chỉ rõ cho chất lƣợng lợi nhuận công ty. Một tỷ lệ lớn các công
niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam cho thấy chất lƣợng lợi
nhuận thấp.
4.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận của các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trường chứng khoán Việt Nam
4.1.2.1. Giới hạn tài chính ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận
Nghiên cứu cho rằng các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng
khoán thƣờng gặp nhiều khó khăn trong khả năng tiếp cận vốn. Điều này liên hệ
mật thiết với mức giới hạn tài chính cao của công ty. Giới hạn tài chính khiến công
ty gia tăng khuynh hƣớng quản trị lợi nhuận nhằm gia tăng vị thế công ty trên thị
trƣờng nhằm thu hút nhà đầu tƣ. Hành vi này xét về phƣơng diện nào đó ảnh hƣởng
đến chất lƣợng lợi nhuận. Đây là hƣớng tiếp cận mới đối với các công trình nghiên
cứu hiện tại khi chỉ ra đƣợc mối quan hệ giữa giới hạn tài chính và chất lƣợng lợi
nhuận. Các công trình nghiên cứu trƣớc đây tập trung vào tác động của giới hạn tài
chính và hiệu quả hoạt động (Altaf & Ahmad, 2019; Soedarmono, Trinugroho &
Sergi, 2019) hay chỉ xét đến các nhân tố đại diện cho giới hạn tài chính đến quản trị
lợi nhuận (Kurt, 2018; Đặng Ngọc Hùng & Trần Mạnh Dũng, 2020).
135
Mối quan hệ ngƣợc chiều giữa giới hạn tài chính và chất lƣợng lợi nhuận
chứng minh đƣợc tính phù hợp của hai lý thuyết bao gồm lý thuyết Chủ nghĩa cơ
hội và lý thuyết Tín hiệu đối với riêng thị trƣờng Việt Nam. Lý thuyết Chủ nghĩa cơ
hội cho rằng công ty giới hạn tài chính muốn nhấn mạnh nhiều hơn vào lợi ích cảm
nhận trong ngắn hạn của nhà đầu tƣ và thực hiện quản trị lợi nhuận. Lý thuyết Tín
hiệu thấy rằng công ty giới hạn tài chính điều chỉnh lợi nhuận cao hơn để gửi tín
hiệu tốt đến nhà đầu tƣ trên thị trƣờng. Đối với bối cảnh các công ty niêm yết lần
đầu tiên tại Việt Nam thì họ thƣờng áp dụng hành vi quản trị lợi nhuận nhằm thu
hút nhà đầu tƣ trên thị trƣờng. Hành động này dựa trên cả ba lý thuyết nêu trên.
Niêm yết cổ phiếu lần đầu tiên là cơ hội mà công ty có thể tận dụng để gia tăng uy
tín của mình trên thị trƣờng. Lợi nhuận đƣợc điều chỉnh là cách công ty phát tín
hiệu ra thị trƣờng để thu hút nhà đầu tƣ. Cuối cùng, vì nhà đầu tƣ luôn mặc định
rằng các công ty phát hành cổ phiếu lần đầu tiên thƣờng điều chỉnh lợi nhuận nên
công ty sẽ thực hiện cách quản trị lợi nhuận cho phù hợp. Chứng minh cho mối
quan hệ giữa giới hạn tài chính với chất lƣợng lợi nhuận cho thấy sự tồn tại của cả
ba lý thuyết này đối với các công ty niêm yết lần đầu tiên tại Việt Nam và đóng góp
thêm bằng chứng kiểm nghiệm giải thích cho những lý thuyết này.
4.1.2.2. Tính độc lập của HĐQT ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận
Tính độc lập của HĐQT có mối quan hệ cùng chiều và có ý nghĩa thống kê
đối với chất lƣợng lợi nhuận công ty. HĐQT độc lập hàm ý rằng sẽ có nhiều đối
tƣợng khác bên ngoài tham gia giám sát việc ra quyết định của công ty. Ngoài ra,
quy trình hạch toán kế toán và công bố thông tin cũng đƣợc minh bạch hơn vì công
tác giám sát của các thành viên độc lập này giúp hạn chế sai phạm của công ty. Điều
này giúp hạn chế quản trị lợi nhuận và cải thiện chất lƣợng lợi nhuận của công ty
(Fuzi, Halim & Julizaerma, 2016; Alqatan, Albitar & Huang, 2019; Kankanamage,
2016; Mohammad & Wasiuzzaman, 2019; Chatterjee, 2019; Arniati, Puspita, Amin
& Pirzada, 2019; Egbunike & Odum, 2018). Tác động của tính độc lập của HĐQT
có thể đƣợc lý giải dựa trên quan điểm của lý thuyết bất cân xứng thông tin. Sự
tham gia của thành viên độc lập giúp cải thiện vấn đề công bố thông tin của công ty
136
trên thị trƣờng. Đối với bối cảnh Việt Nam thì các công ty niêm yết lần đầu tiên trên
thị trƣờng chứng khoán thƣờng có thông tin bất cân xứng cao do bởi nhà đầu tƣ
chƣa biết rõ về tình hình hoạt động thực của công ty. Thành viên độc lập trong
HĐQT giúp cải thiện tính chính xác của thông tin công bố. Nhờ vậy, nhà đầu tƣ có
thể đánh giá hiệu quả hoạt động công ty tốt hơn. Mối quan hệ giữa tính độc lập của
HĐQT và chất lƣợng lợi nhuận là bằng chứng kiểm nghiệm ủng hộ cho lý thuyết
bất cân xứng thông tin đối với vấn đề quản trị lợi nhuận.
4.1.2.3. Chất lượng kiểm toán ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận
Biến chất lƣợng kiểm toán không có ý nghĩa thống kê đến chất lƣợng lợi
nhuận của công ty. Dẫu vậy, dấu của hệ số hồi quy chỉ ra rằng chất lƣợng kiểm toán
nếu có ý nghĩa thống kê sẽ có mối quan hệ cùng chiều với chất lƣợng lợi nhuận của
công ty. Vì biến chất lƣợng kiểm toán là biến giả mang giá trị 0 và 1 nên tác động
tích cực của yếu tố này cho thấy rằng công ty đƣợc kiểm toán bởi Big 4 có chất
lƣợng lợi nhuận tốt hơn công ty mà quy trình kiểm toán đƣợc thực hiện bởi các
công ty kiểm toán còn lại. Việc này là dấu hiệu minh chứng rằng khi công ty bị
giám sát chặt chẽ bởi một bên thứ ba thì nhà quản trị sẽ ít có khả năng thực hiện
quản trị lợi nhuận thông qua điều chỉnh số liệu trên báo cáo kế toán vì lo sợ hành vi
này sẽ bị phát hiện (Chen & cộng sự, 2011; Cheng & Leung, 2012; Francis &
Wang, 2008; Saidin, 2007; Okaro & Okafor, 2014).
Giống với biến tính độc lập của HĐQT thì chất lƣợng kiểm toán cũng là yếu
tố minh chứng cho sự tồn tại của thông tin bất cân xứng tại thị trƣờng Việt Nam.
Các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán thƣờng dựa vào sự
chênh lệch về tiếp cận thông tin giữa nhà quản trị và nhà đầu tƣ để thực hiện quản
trị lợi nhuận. Sự xuất hiện của bên kiểm toán chuyên nghiệp trong quá trình công bố
thông tin giúp xác thực liệu đây có phải là số liệu thực của công ty hay không và
điều chỉnh lại cho hợp lý. Nhƣ vậy, cải thiện chất lƣợng kiểm toán giúp minh bạch
thông tin công bố của công ty và giúp số liệu phản ánh đúng tình hình hoạt động
của công ty. Kết quả này lần nữa đƣa ra bằng chứng kiểm nghiệm ủng hộ cho lý
thuyết bất cân xứng thông tin.
137
4.1.2.4. Khả năng thanh khoản ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận
Tỷ lệ thanh khoản cho thấy tác động tích cực có ý nghĩa thống kê đến chất
lƣợng lợi nhuận đo lƣờng bằng giao dịch thực. Vì tỷ lệ thanh khoản đƣợc đánh giá
dựa vào tỷ lệ tài sản ngắn hạn trên nợ ngắn hạn cho nên khi tỷ lệ này cao chứng tỏ
là một đồng nợ của công ty có thể đƣợc đảm bảo bằng hơn một đồng tài sản của
công ty. Nhƣ vậy, khi tỷ lệ thanh khoản càng cao thì xác suất mất khả năng thanh
toán của công ty càng thấp. Đó là lý do nhà quản trị ít có động cơ thực hiện quản trị
lợi nhuận. Mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ lệ thanh khoản và chất lƣợng lợi nhuận
đã đƣợc chứng minh trong các nghiên cứu trƣớc đây (Kim-Soon, Rahman &
Visvalingam, 2014; Narenhra, 2013; Kim-Soon & cộng sự, 2014; Delen, Kuzey &
Uyar, 2013).
Đối với các công ty mới niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán
mà có thanh khoản cao thì họ ít có động cơ thực hiện quản trị lợi nhuận vì với mức
thanh khoản cao công ty có thể thu hút nhà đầu tƣ và nâng cao uy tín của mình trên
thị trƣờng. Quan điểm này phù hợp với lý thuyết tín hiệu. Công ty với tín hiệu tốt sẽ
báo cáo lợi nhuận sát với tình hình hoạt động của họ hơn. Tác động của khả năng
thanh khoản giúp giải thích cho sự tồn tại của lý thuyết tín hiệu tại Việt Nam để giải
thích cho vấn đề quản trị lợi nhuận.
4.1.2.5. Tăng trưởng doanh thu ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận
Tăng trƣởng doanh thu cũng chỉ ra tác động cùng chiều có ý nghĩa thống kê
đến chất lƣợng lợi nhuận của công ty. Điều này hàm ý rằng tăng trƣởng doanh thu
càng cao thì chất lƣợng lợi nhuận càng đƣợc cải thiện. Lợi nhuận của công ty phụ
thuộc vào doanh thu và chi phí, vì vậy doanh thu tăng là dấu hiệu cho thấy công ty
đang hoạt động hiệu quả và có thể duy trì lợi nhuận của mình trong những giai đoạn
tiếp theo (Kama, 2009; Akers, Giacomino & Bellovary, 2007; Ball & Shivakumar,
2005; Bedard & cộng sự, 2012; Hribar & Craig Nichols, 2007). Tuy nhiên thì mức
ý nghĩa của hệ số biến này không cao cho thấy rằng dẫu tăng trƣởng doanh thu có
liên quan đến lợi nhuận nhƣng đây không phải là yếu tố mang tính quyết định và có
tác động đủ mạnh đến chất lƣợng lợi nhuận của công ty.
138
Tăng trƣởng doanh thu cũng là tín hiệu tốt cho hiệu quả hoạt động của công
ty. Công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam với tăng
trƣởng doanh thu cao sẽ ít có khả năng thực hiện quản trị lợi nhuận. Khi công ty có
tín hiệu tốt, họ có thể thu hút nhà đầu tƣ trên thị trƣờng dễ dàng mà không cần phải
điều chỉnh lợi nhuận cao vì bản thân tăng trƣởng doanh thu đã bảo chứng cho lợi
nhuận cao của công ty. Chứng minh đƣợc mối quan hệ giữa hai yếu tố này, tác giả
cho rằng có sự tồn tại của lý thuyết tín hiệu tại thị trƣờng Việt Nam và có thể đƣợc
sử dụng để giải thích chất lƣợng lợi nhuận của công ty.
4.1.2.6. Khả năng sinh lời ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận
Khả năng sinh lời có mối quan hệ ngƣợc chiều với chất lƣợng lợi nhuận. Hệ
số có ý nghĩa thống kê của biến này hàm ý rằng khả năng sinh lời cao đi kèm với
chất lƣợng lợi nhuận thấp. Khả năng sinh lời cao đƣợc cho là xuất phát từ quản trị
lợi nhuận chứ không phải từ hoạt động hiệu quả của công ty. Mục đích duy trì khả
năng sinh lời cao là nhằm giúp công ty thu hút nhà đầu tƣ trên thị trƣờng và gia tăng
mức độ tin tƣởng của chủ sở hữu vào tình hình hoạt động hiện tại của công ty
(Barth, Landsman & Lang, 2008; Ashbaugh, Collins & LaFond, 2004; Francis,
LaFond, Olsson & Schipper, 2005). Nghiên cứu nhận định đƣợc rằng khả năng sinh
lời cao bất thƣờng là dấu hiệu của quản trị lợi nhuận và làm giảm chất lƣợng lợi
nhuận.
Giống với khả năng thanh khoản và tăng trƣởng doanh thu, tác động của khả
năng sinh lời của các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán
cũng có thể giải thích cho chất lƣợng lợi nhuận của công ty. Các công ty niêm yết
lần đầu tiên thƣờng thực hiện quản trị lợi nhuận để nâng cao vị thế tài chính của
mình. Tuy nhiên, lợi nhuận quá cao cho thấy rằng công ty đang thực hiện quản trị
lợi nhuận. Tác động của yếu tố này liên quan đến lý thuyết bất cân xứng thông tin
và tín hiệu. Công ty dựa trên sự chênh lệch về thông tin tiếp cận để đánh lừa nhà
đầu tƣ với tín hiệu giả trên thị trƣờng.
139
Cuối cùng, thông qua việc chứng minh mối liên hệ giữa khả năng thanh
khoản, tăng trƣởng doanh thu, và khả năng sinh lời với chất lƣợng lợi nhuận, nghiên
cứu cho thấy quan điểm của lý thuyết tín hiệu có thể đƣợc áp dụng tại thị trƣờng
chứng khoán Việt Nam. Khả năng thanh khoản và tăng trƣởng doanh thu đƣợc xem
nhƣ là các chỉ tiêu giúp công ty truyền tín hiệu tốt đến thị trƣờng. Còn khả năng
sinh lời thì ngƣợc lại. Khả năng thanh khoản và tăng trƣởng doanh thu thấp hàm ý
rằng chất lƣợng lợi nhuận thấp do công ty thực hiện quản trị lợi nhuận. Trong khi
đó, khả năng sinh lời cao lại hàm ý rằng chất lƣợng lợi nhuận thấp do bởi lợi nhuận
cao quá mức cho thấy khả năng can thiệp lợi nhuận cao. Ở đây, nghiên cứu cũng
thấy rằng việc thực hiện điều chỉnh lợi nhuận cũng dựa trên quan điểm của lý thuyết
bất cân xứng thông tin. Chênh lệch thông tin giữa công ty và thị trƣờng tạo điều
kiện thuận lợi để công ty bóp méo thông tin nhằm thu hút nhà đầu tƣ. Nhƣ vậy, lý
thuyết tín hiệu và lý thuyết bất cân xứng thông tin cũng giải thích cho các công ty
niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam.
4.1.3. Kết luận rút ra từ phần bàn luận kết quả
Nhƣ vậy, nghiên cứu đã đánh giá chất lƣợng lợi nhuận thông qua phân tích
thống kê và bàn luận các nhân tố chính can thiệp đến chất lƣợng lợi nhuận thông
qua mô hình hồi quy đối với các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng
khoán Việt Nam. Thông qua kết quả thống kê và hồi quy, nghiên cứu rút ra một số
kết luận chung nhƣ sau:
Đầu tiên, sau khi đánh giá chất lƣợng lợi nhuận, nghiên cứu thấy rằng việc sử
dụng biến giao dịch thực giúp chỉ ra số công ty có chất lƣợng lợi nhuận thấp cao
hơn vì yếu tố này xem xét cả một quá trình quản trị lợi nhuận của công ty trƣớc thời
điểm niêm yết cổ phiếu lần đầu, trong khi đó biến khoản dồn tích chỉ xem xét dòng
tiền bất thƣờng ngay tại thời điểm niêm yết cổ phiếu lần đầu trên thị trƣờng. Bên
cạnh đó, số quan sát với chất lƣợng lợi nhuận thấp đối với cả hai biến đại diện đều
cao, nhấn mạnh quản trị lợi nhuận là vấn đề thƣờng gặp đối với các công ty niêm
yết cổ phiếu lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam và nhà đầu tƣ cần
phải thực sự cẩn thận khi xem xét đầu tƣ vào các công ty này vì lợi nhuận mà họ
140
quan sát không phản ánh đúng tình hình hoạt động hiện tại của công ty. Sau khi
phát hành cổ phiếu lần đầu trên thị trƣờng chứng khoán, giá cổ phiếu công ty có thể
giảm đột ngột quay trở lại giá trị nội tại vốn có của công ty.
Sau đó, nghiên cứu xem xét các nhân tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận
của công ty bao gồm giới hạn tài chính, khả năng sinh lời, tính độc lập của HĐQT,
chất lƣợng kiểm toán, khả năng thanh khoản, và tăng trƣởng doanh thu. Giới hạn tài
chính và khả năng sinh lời đƣợc chứng minh là có mối quan hệ ngƣợc chiều với
chất lƣợng lợi nhuận, trong khi các yếu tố còn lại cho thấy mối quan hệ cùng chiều
với chất lƣợng lợi nhuận. Sau đây, nghiên cứu sẽ trình bày kết luận cụ thể cho từng
nhân tố tác động.
Thứ nhất, nghiên cứu thấy rằng giới hạn tài chính (đo lƣờng thông qua chỉ số
WW) có tác động tiêu cực đến chất lƣợng lợi nhuận. Kết quả này ủng hộ cho giả
thuyết 1 ―Giới hạn tài chính làm giảm chất lƣợng lợi nhuận của công ty‖. Ủng hộ
cho giả thuyết này đồng nghĩa với việc nghiên cứu củng cố cho quan điểm của hai
lý thuyết về chất lƣợng lợi nhuận (lý thuyết Chủ nghĩa cơ hội và lý thuyết Tín hiệu)
(Louis & Robinson, 2005; Shivakumar, 2000; Rangan, 1998). Lý thuyết Chủ nghĩa
cơ hội giải thích rằng các công ty bị giới hạn tài chính thƣờng báo cáo khoản dồn
tích cao hơn vì công ty muốn gia tăng lợi ích cảm nhận trong ngắn hạn ở phía nhà
đầu tƣ. Lý thuyết Tín hiệu cho rằng công ty bị giới hạn tài chính thực hiện quản trị
lợi nhuận để đem lại tín hiệu tốt cho nhà đầu tƣ trên thị trƣờng. Nhƣ vậy, kết quả
của nghiên cứu này là bằng chứng kiểm nghiệm cho các lập luận lý thuyết về mối
liên hệ giữa giới hạn tài chính của các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng
chứng khoán và chất lƣợng lợi nhuận.
Thứ hai, mối quan hệ ngƣợc chiều giữa khả năng sinh lời và chất lƣợng lợi
nhuận ủng hộ cho giả thuyết 6 ―Khả năng sinh lời càng cao thì chất lƣợng lợi nhuận
càng giảm‖. Nghiên cứu bác bỏ luận điểm của một số công trình kiểm nghiệm trƣớc
mà cho rằng công ty với khả năng sinh lời cao sẽ chủ động tiết lộ thông tin tốt này
ra thị trƣờng và ít có động lực để tham gia vào quản trị lợi nhuận. Tuy nhiên, nghiên
141
cứu lại kiểm chứng nhân tố này đối với các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị
trƣờng chứng khoán. Vì vậy, khả năng sinh lời cao của nhóm các công ty này là dấu
hiệu cho thấy quản trị lợi nhuận nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động kém trƣớc phát
hành cổ phiếu lần đầu tiên ra thị trƣờng. Điều này giải thích cho việc tại sao khả
năng sinh lời cao lại làm suy giảm chất lƣợng lợi nhuận của các công ty niêm yết
lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán.
Thứ ba, tính độc lập của HĐQT có tác động tích cực đến chất lƣợng lợi
nhuận. Hệ số của biến này giống với mong đợi của giả thuyết 2 ―HĐQT có tính độc
lập càng cao thì chất lƣợng lợi nhuận càng đƣợc cải thiện‖. Tính độc lập cao giúp
nâng cao tính kỷ luật và minh bạch trong quyết định của HĐQT. Các thành viên
kiêm nhiệm sẽ ít có khả năng thực hiện quản trị lợi nhuận và gây tổn hại đến lợi ích
của cổ đông (Klein, 2002; Uzun & cộng sự, 2004; Peasnell & cộng sự, 2005). Kết
quả của yếu tố này ủng hộ cho việc cần phải nâng cao tính độc lập của HĐQT.
Thứ tƣ, chất lƣợng kiểm toán cũng cho thấy mối quan hệ cùng chiều với chất
lƣợng lợi nhuận, ủng hộ cho giả thuyết 3 ―Chất lƣợng kiểm toán tốt giúp cải thiện
chất lƣợng lợi nhuận‖. Kết quả này phù hợp với lập trƣờng của các nghiên cứu
trƣớc đây rằng các công ty đƣợc kiểm toán bởi công ty kiểm toán uy tín sẽ có nguy
cơ quản trị lợi nhuận thấp hơn (Van Tendeloo & Vanstraelen, 2008; Kosi &
Valentincic, 2013).
Thứ năm, khả năng thanh khoản có tác động tích cực đến chất lƣợng lợi
nhuận. Nhận định thông qua kết quả hồi quy lần nữa ủng hộ cho giả thuyết 4 ―Khả
năng thanh khoản càng cao thì chất lƣợng lợi nhuận càng cao‖. Công ty với tỷ lệ
thanh khoản cao thƣờng có vị thế tài chính cao và nguy cơ phá sản thấp. Thanh
khoản còn giúp công ty nhận đƣợc xếp hạng tín dụng cao từ các tổ chức cấp vốn. Vì
vậy, công ty ít có động lực để bóp méo lợi nhuận hoạt động (Kim & Purnanandam,
2014; Narenhra, 2013).
Cuối cùng, tăng trƣởng doanh thu cũng cho thấy mối quan hệ cùng chiều với
chất lƣợng lợi nhuận. Kết luận này ủng hộ cho giả thuyết 5 ―Tăng trƣởng doanh thu
142
có ảnh hƣởng tích cực đến chất lƣợng lợi nhuận‖. Lợi nhuận có chất lƣợng cao là
lợi nhuận tăng thêm dựa trên tăng doanh thu thực (Ghosh & cộng sự, 2010). Ngoài
ra, gia tăng doanh thu thƣờng mang tính phức tạp và một khi công ty có thể tăng
doanh thu thì công ty cũng hạn chế quản trị lợi nhuận của mình (Ertimur & cộng sự,
2003; Penman, 2007; Yu & cộng sự, 2010). Nhƣ vậy, kết quả của các biến nghiên
cứu nhìn chung phù hợp với mong đợi thông qua giả thuyết nghiên cứu về tác động
của từng yếu tố đến chất lƣợng lợi nhuận của công ty. Kết quả nghiên cứu đa phần
cho thấy sự nhất quán đối với các biến đại diện khác nhau cho chất lƣợng lợi nhuận
(khoản dồn tích, và giao dịch thực) với các kỹ thuật ƣớc lƣợng khác nhau (POLS,
FEM, REM, và SGMM). Xét về tính phù hợp của mô hình thì đa phần các bảng
nghiên cứu chỉ ra rằng mô hình với biến đại diện khoản dồn tích là mô hình phù hợp
nhất vì các biến độc lập đƣợc lựa chọn giúp giải thích nhiều hơn cho biến đại diện
này.
143
Bảng 4.1. Bảng tóm tắt giả thuyết và kết quả nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu Ảnh hƣởng
kỳ vọng Kết quả
nghiên cứu So
sánh
Giả thuyết 1: “Giới hạn tài chính làm giảm - - chất lượng lợi nhuận của công ty” Phù
hợp
Giả thuyết 2: “ Tính độc lập của HĐQT
càng cao thì chất lượng lợi nhuận càng + + Phù
hợp được cải thiện”
Giả thuyết 3: “Chất lượng kiểm toán tốt + + giúp cải thiện chất lượng lợi nhuận” Phù
hợp
Giả thuyết 4: “Khả năng thanh khoản càng + + cao thì chất lượng lợi nhuận càng cao” Phù
hợp
Giả thuyết 5: “Tăng trưởng doanh thu có
ảnh hưởng tích cực đến chất lượng lợi + + Phù
hợp nhuận của công ty”
Giả thuyết 6: “Khả năng sinh lời càng cao - - thì chất lượng lợi nhuận càng giảm” Phù
hợp
Nguồn: Tổng hợp của tác giả.
4.2. Khuyến nghị
Nghiên cứu này đánh giá các nhân tố tác động đến chất lƣợng lợi nhuận của
các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam. Nghiên
cứu chứng minh đƣợc rằng chất lƣợng lợi nhuận có mối quan hệ cùng chiều với tính
độc lập của HĐQT, chất lƣợng kiểm toán, khả năng thanh khoản, và tăng trƣởng
doanh thu, trong khi đó lại có mối quan hệ ngƣợc chiều với giới hạn tài chính và
khả năng sinh lời. Các đối tƣợng có liên quan trên thị trƣờng có thể sử dụng kết quả
này để can thiệp vào quản trị lợi nhuận từ đó giúp nâng cao chất lƣợng lợi nhuận
công ty. Sau đây, nghiên cứu đƣa ra một số khuyến nghị tập trung vào ba nhóm đối
144
tƣợng chính: (1) nhà đầu tƣ – đối tƣợng sử dụng kết quả nghiên cứu để phân tích
tình hình hoạt động và hành vi của nhà quản trị để đƣa ra quyết định đầu tƣ phù
hợp, (2) công ty – đối tƣợng sử dụng kết quả nghiên cứu để nâng cao công tác quản
trị công ty và giảm thiểu vấn đề quản trị lợi nhuận, và (3) cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền/chính phủ - đối tƣợng sử dụng kết quả nghiên cứu để ban hành các quy định
và chính sách phù hợp liên quan đến quản trị công ty và thị trƣờng chứng khoán
nhằm nâng cao chất lƣợng lợi nhuận của công ty niêm yết.
4.2.1. Khuyến nghị đối với nhà đầu tư
Thứ nhất, nhà đầu tƣ nên thận trọng khi đầu tƣ vào các công ty mới niêm yết
lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam do bởi các công ty này nhiều khả
năng sẽ thực hiện quản trị lợi nhuận nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn niêm yết cũng
nhƣ tạo ra khoản dồn tích lớn để gia tăng lợi nhuận nhằm thu hút nhà đầu tƣ. Kết
quả là đôi khi nhà đầu tƣ mua cổ phiếu của công ty với mức giá bị thổi phồng hơn
nhiều so với giá trị thực của công ty.
Thứ hai, để hỗ trợ cho đánh giá của nhà đầu tƣ, nghiên cứu chỉ ra một số
nhân tố giải thích cho chất lƣợng lợi nhuận của công ty niêm yết lần đầu tiên trên
thị trƣờng chứng khoán. Các yếu tố xem xét bao gồm giới hạn tài chính, tính độc
lập của HĐQT, chất lƣợng kiểm toán, khả năng thanh khoản, và tăng trƣởng doanh
thu. Nhà đầu tƣ nên cẩn trọng với các công ty bị giới hạn tài chính. Giới hạn tài
chính có thể đƣợc phát hiện thông qua số liệu trên BCTC nhƣ dòng tiền, chi trả cổ
tức, đòn bẩy tài chính, và quy mô. Các công ty mà có các chỉ số thể hiện giới hạn tài
chính thấp càng có ít khả năng quản trị lợi nhuận vì công ty không cần phải bóp
méo lợi nhuận nhằm thu hút nguồn tài trợ cho hoạt động đầu tƣ của mình. Chính vì
vậy, lợi nhuận mà công ty công bố phản ánh đúng hiệu quả hoạt động thực sự của
họ và công ty có chất lƣợng lợi nhuận tốt.
Tuy nhiên, các số liệu thể hiện trên BCTC mà nhà đầu tƣ dựa vào để đánh
giá chất lƣợng lợi nhuận cũng cần phải đƣợc bảo chứng về tính xác thực. Trong
trƣờng hợp này, tính độc lập của HĐQT và chất lƣợng kiểm toán là hai yếu tố mà
145
nhà đầu tƣ cần phải cân nhắc. Nhà đầu tƣ nên kiểm tra báo cáo thƣờng niên để xem
công ty có bao nhiêu thành viên độc lập trong HĐQT để minh chứng cho mức độ
minh bạch của thông tin trên BCTC. Một yếu tố khác bên ngoài công ty giúp minh
chứng thêm cho kết luận này là chất lƣợng kiểm toán. Nếu công ty đƣợc kiểm toán
bởi bên thứ ba thuộc công ty kiểm toán Big 4 thì xác suất cao là công ty sẽ phải tuân
theo quy trình kế toán quy chuẩn và minh bạch số liệu báo cáo.
Ngoài ra thì nhà đầu tƣ cũng có thể đánh giá trực tiếp các yếu tố nhƣ khả
năng thanh khoản, tăng trƣởng doanh thu, và khả năng sinh lời để đƣa ra kết luận về
chất lƣợng lợi nhuận. Chẳng hạn các công ty với khả năng thanh khoản cao không
cần phải thực hiện quản trị lợi nhuận để thu hút nhà đầu tƣ. Công ty tăng trƣởng
doanh thu tốt là dấu hiệu công ty đang hoạt động hiệu quả nên chất lƣợng lợi nhuận
cũng tăng. Tuy nhiên, theo nghiên cứu thì khả năng sinh lời cao lại cho thấy chất
lƣợng lợi nhuận thấp nguyên nhân là do bởi công ty thƣờng sử dụng các khoản
doanh thu khác hay cắt giảm chi phí để gia tăng khoản dồn tích từ đó gia tăng khả
năng sinh lời. Chính vì vậy khả năng sinh lời cao bất thƣờng phản ánh vấn đề quản
trị lợi nhuận của công ty. Những công ty thỏa mãn các yếu tố này thƣờng có chất
lƣợng lợi nhuận tốt và nhà đầu tƣ có thể xem xét đầu tƣ vốn vào các công ty này.
4.2.2. Khuyến nghị đối với công ty
Vì vấn đề quản trị lợi nhuận khiến cho chất lƣợng suy giảm thƣờng xuất phát
từ hành vi của nhà quản trị nên công ty cần phải đƣa ra một số giải pháp nhằm khắc
phục vấn đề này. Đầu tiên, công ty có thể sử dụng các yếu tố nhƣ khả năng thanh
khoản, tăng trƣởng doanh thu, và khả năng sinh lời để đánh giá hành vi của nhà
quản trị. Chẳng hạn, nếu khả năng thanh khoản thấp nhƣng khả năng sinh lời lại cao
bất thƣờng thì đây là dấu hiệu cho thấy nhà quản trị nhiều khả năng thực hiện hành
vi quản trị lợi nhuận và công ty nên điều tra và can thiệp kịp thời. Bên cạnh đó, nếu
tăng trƣởng doanh thu thấp nhƣng khả năng sinh lời lại cao bất thƣờng thì đây cũng
có thể là dấu hiệu quản trị lợi nhuận của nhà quản trị. Khả năng sinh lời cao bất
thƣờng này có thể đến từ việc công ty gia tăng khoản dồn tích thông qua thu nhập
khác hoặc là giảm chi phí. Tuy nhiên, việc gia tăng thu nhập khác và giảm chi phí
146
chỉ mang tính tạm thời và sẽ không kéo dài trong tƣơng lai. Nghiên cứu cũng chứng
minh rằng giới hạn tài chính có mối quan hệ ngƣợc chiều với chất lƣợng lợi nhuận
vì thế công ty cũng cần phải xem xét các yếu tố đánh giá giới hạn tài chính. Nếu
giới hạn tài chính của công ty cao mà khả năng sinh lời cũng cao thì nhiều khả năng
nhà quản trị đang thực hiện quản trị lợi nhuận.
Bên cạnh đó, nghiên cứu còn tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa tính độc
lập của HĐQT và chất lƣợng lợi nhuận. Yếu tố này quyết định rất nhiều đến khả
năng giám sát thông tin công bố vì thành viên độc lập sẽ đóng vai trò rất quan trọng
trong công tác kiểm tra thông tin. Vì tính độc lập của HĐQT giúp nâng cao chất
lƣợng lợi nhuận nên công ty cần phải gia tăng tính độc lập của HĐQT. Nghiên cứu
đƣa ra một số đề xuất nhƣ sau: (1) công ty cần phải tuân thủ quy định về số thành
viên độc lập trong HĐQT, (2) tăng cƣờng giám sát và chất vấn hoạt động quản trị,
và (3) một số quyết định quan trọng cần phải có sự phê duyệt của thành viên HĐQT
độc lập. Giống với tính độc lập của HĐQT thì công ty cũng có thể kiểm soát hành
vi của nhà quản trị dựa vào cơ chế bên ngoài thông qua công ty kiểm toán. Theo
nhƣ nghiên cứu thì kiểm toán Big4 có mối quan hệ cùng chiều với chất lƣợng lợi
nhuận. Nhƣ vậy, công ty nên thuê các bên kiểm toán uy tín để kiểm toán số liệu kế
toán nhằm giảm thiểu vấn đề quản trị lợi nhuận từ phía nhà quản trị từ đó giúp cải
thiện khả năng phản ánh của lợi nhuận về tình hình hoạt động của công ty.
4.2.3. Khuyến nghị đối với cơ quan quản lý
Dựa vào phát hiện của nghiên cứu, cơ quan quản lý cần đƣa ra các chính sách
can thiệp vào các nhân tố ảnh hƣởng đến quản trị lợi nhuận để nâng cao chất lƣợng
lợi nhuận của công ty. Mục tiêu của các chính sách này đƣợc đƣa ra nhằm gia tăng
tính minh bạch đối với số liệu công bố của công ty và bảo hộ nhà đầu tƣ trên thị
trƣờng.
Theo nghiên cứu này thì các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng
chứng khoán có khả năng rất cao sẽ thực hiện quản trị lợi nhuận, và hành vi này sẽ
làm suy giảm chất lƣợng lợi nhuận của công ty. Vì vậy, nghiên cứu đề suất là cơ
147
quan quản lý cần phải tăng cƣờng giám sát các công ty này. Chẳng hạn, Bộ Tài
chính sẽ quy định các thành viên trong Ban kiểm soát nội bộ phải có chuyên môn về
kế toán nhằm giám sát các quyết định của HĐQT. Việc này sẽ hạn chế vấn đề quản
trị lợi nhuận và buộc công ty phải cung cấp các thông tin trung thực và chính xác.
Ngoài ra, Bộ Tài chính cần quy định cụ thể trong văn bản pháp luật các điều khoản
liên quan đến công bố thông tin quản trị trong báo cáo thƣờng niên. Báo cáo thƣờng
niên cần phải trình bày chi tiết các nội dung liên quan đến HĐQT, Ban Giám đốc,
chính sách công bố thông tin, chuẩn mực đạo đức, và trách nhiệm xã hội. Tất cả các
quy định này đều nhằm cung cấp thông tin tốt hơn đối với nhà đầu tƣ trên thị trƣờng
để giúp họ đƣa ra quyết định kinh tế chính xác hơn.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng chứng minh đƣợc mối liên hệ cùng chiều giữa
chất lƣợng kiểm toán và chất lƣợng lợi nhuận. Vì vậy, cơ quan quản lý cũng cần
phải đƣa ra các chính sách phù hợp nhằm nâng cao chất lƣợng kiểm toán đối với
các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán tại Việt Nam. Nghiên
cứu đƣa ra một số đề xuất nhƣ sau: (1) Bộ Tài chính và Ủy ban chứng khoán nhà
nƣớc cần phải tăng cƣờng kiểm tra và giám sát chất lƣợng dịch vụ kiểm toán đối với
các công ty kiểm toán độc lập và công ty kiểm toán Big 4. Hiện tại, tuy hằng năm
Bộ tài chính có thực hiện thanh tra chất lƣợng dịch vụ kiểm toán nhƣng đa phần chỉ
tại một số công ty kiểm toán quy mô nhỏ trên thị trƣờng, tuy nhiên trên thực tế thì
khách hàng của các công ty kiểm toán thuộc Big 4 cũng vẫn có nguy cơ phá sản rất
cao; (2) ngành kế toán – kiểm toán cần phải xây dựng và phát triển hệ thống pháp lý
về kế toán – kiểm toán bằng cách ứng dụng thông lệ quốc tế vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam, tạo ra môi trƣờng pháp lý đầy đủ và chặt chẽ để thúc đẩy hoạt động
kế toán – kiểm toán phát triển, và nâng cao chất lƣợng và đạo đức nghề nghiệp.
4.3. Hạn chế của luận án
Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc, nghiên cứu này cũng có một số hạn chế
mà tác giả chƣa hoàn thiện đƣợc do nhiều nguyên nhân khách quan.
148
Thứ nhất, việc chỉ sử dụng hai cách đo lƣờng quản trị lợi nhuận để đánh giá
chất lƣợng lợi nhuận là chƣa bao quát. Điều này là do khó khăn trong việc thu thập
dữ liệu khi dùng nhiều cách đo khác nhau. Tuy vậy cách tiếp cận này cũng đƣợc
nhiều nghiên cứu trên thế giới thực hiện.
Thứ hai, việc chọn mẫu nghiên cứu tƣơng đối phức tạp. Nghiên cứu đã loại
bỏ đi các công ty thiếu số liệu và có đặc điểm khác với các công ty còn lại. Điều
này cho thấy số liệu không bao quát hết tất cả các công ty niêm yết tại Việt Nam mà
chỉ đúng với các công ty phi tài chính, số liệu đầy đủ, và hoạt động hiệu quả liên tục
(không bị hủy niêm yết).
Thứ ba, trong nghiên cứu biến tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập đƣợc tính bằng
số thành viên độc lập bên ngoài trên tổng số thành viên HĐQT. Thông tin này
thƣờng đƣợc thu thập tại báo cáo thƣờng niên. Tuy nhiên, việc công bố thông tin
không đầy đủ của các công ty niêm yết khiến cho việc thu thập dữ liệu khó khăn. Vì
vậy, với một số công ty không công bố thông tin đầy đủ, nghiên cứu giả định là nếu
thành viên HĐQT không có tên trong ban giám đốc hay các phòng ban thì đƣợc cho
là độc lập. Hạn chế về thu thập dữ liệu ảnh hƣởng đến kết quả nghiên cứu.
149
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4
Chƣơng bốn trình bày bàn luận về kết quả nghiên cứu của từng yếu tố tác
động đến chất lƣợng lợi nhuận. Kết quả cho thấy rằng giới hạn tài chính và khả
năng sinh lời có tác động tiêu cực đến chất lƣợng lợi nhuận. Trong khi đó, tính độc
lập của HĐQT, chất lƣợng kiểm toán, khả năng thanh khoản, và tăng trƣởng doanh
thu có tác động tích cực đến chất lƣợng lợi nhuận. Kết quả của các yếu tố này đều
phù hợp với giả thuyết nghiên cứu đã đề ra dựa vào phân tích lý thuyết và kiểm
nghiệm. Nghiên cứu này là một công trình kiểm nghiệm quan trọng về các nhân tố
khác nhau tác động đến chất lƣợng lợi nhuận của các công ty niêm yết lần đầu tiên
trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam. Kết quả này giúp nghiên cứu đề ra chính
sách đối với nhà đầu tƣ, công ty, và chính phủ. Nhà đầu tƣ cần phải trang bị kiến
thức về kế toán – kiểm toán để nâng cao chuyên môn từ đó đánh giá đƣợc các công
ty cho thấy dấu hiệu quản trị lợi nhuận. Công ty nên gia tăng tính độc lập của thành
viên HĐQT, nâng cao vai trò của ban kiểm soát và kiểm soát nội bộ, và nâng cao ý
thức của nhà quản trị. Cuối cùng, chính phủ nên tăng cƣờng công tác quản lý công
ty, đƣa ra các quy định bảo vệ nhà đầu tƣ trên thị trƣờng, và từng bƣớc nâng cao
chất lƣợng kiểm toán độc lập.
150
KẾT LUẬN CHUNG
Công trình nghiên cứu tập trung vào việc đánh giá chất lƣợng lợi nhuận của
các công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam và các yếu
tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng lợi nhuận của các công ty này. Để thực hiện hai mục
tiêu này, nghiên cứu tiến hành thu thập dữ liệu 649 công ty niêm yết lần đầu tiên
trên sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) và Hồ Chí Minh (HOSE) trong giai
đoạn từ năm 2009 đến 2019 từ nguồn Thomson Reuters Eikon. Đối với mục tiêu
thứ nhất, nghiên cứu sử dụng biến khoản dồn tích và giao dịch thực để đo lƣờng
chất lƣợng lợi nhuận. Giá trị của hai biến này càng cao cho thấy mức độ can thiệp
lợi nhuận càng nghiêm trọng và chất lƣợng lợi nhuận càng thấp. Nghiên cứu sử
dụng thống kê mô tả để đánh giá chất lƣợng lợi nhuận của các công ty niêm yết lần
đầu trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam. Kết quả cho thấy rằng biến đại diện
giao dịch thực giúp phát hiện đƣợc nhiều công ty với chất lƣợng lợi nhuận thấp hơn
biến đại diện khoản dồn tích. Ngoài ra, một số lớn các quan sát đối với các công ty
niêm yết lần đầu tiên trên sở giao dịch chứng khoán cho thấy chất lƣợng lợi nhuận
thấp. Vì vậy, các nhà đầu tƣ nên thực sự cẩn thận khi đầu tƣ vào các công ty mới
niêm yết và chính phủ nên theo dõi quản trị lợi nhuận của các công ty này.
Đối với mục tiêu thứ hai, nghiên cứu đánh giá các nhân tố ảnh hƣởng đến
chất lƣợng lợi nhuận thông qua mô hình tĩnh và mô hình động. Trong mô hình tĩnh,
nghiên cứu sử dụng ba kỹ thuật ƣớc lƣợng là POLS, FE, và RE. Trong mô hình
động, nghiên cứu sử dụng kỹ thuật ƣớc lƣợng SGMM để khắc phục hiện tƣợng nội
sinh gây ra khi đƣa biến trễ của biến phụ thuộc vào trong mô hình. Kết quả hồi quy
chỉ ra rằng giới hạn tài chính và khả năng sinh lời có tác động tiêu cực đến chất
lƣợng lợi nhuận. Giới hạn tài chính là động cơ thúc đẩy công ty quản trị lợi nhuận
để thu hút nhà đầu tƣ, trong khi đó khả năng sinh lời quá cao vào thời điểm niêm
yết cổ phiếu lần đầu cũng là dấu hiệu của quản trị lợi nhuận. Vì vậy, sự gia tăng
trong cả hai yếu tố này đều cho thấy chất lƣợng lợi nhuận kém hơn. Ngƣợc lại, các
yếu tố nhƣ tính độc lập của HĐQT, chất lƣợng kiểm toán, khả năng thanh khoản, và
tăng trƣởng doanh thu có tác động tích cực đến chất lƣợng lợi nhuận. HĐQT với sự
151
xuất hiện của nhiều thành viên độc lập hơn sẽ tạo nên cơ chế giám sát tốt hơn đối
với việc ra quyết định của nhà quản trị từ đó giúp hạn chế vấn đề quản trị lợi nhuận
vì lợi ích cá nhân. Việc cải thiện chất lƣợng kiểm toán sẽ giúp quy trình đánh giá số
liệu kế toán của công ty chặt chẽ và chính xác hơn, giúp phát hiện sớm các việc can
thiệp lợi nhuận. Công ty có thanh khoản cao vào thời điểm niêm yết lần đầu ít có
động lực can thiệp lợi nhuận để thu hút vốn từ nhà đầu tƣ trên thị trƣờng vì bản thân
công ty đang thừa nguồn vốn cho các dự án đầu tƣ của mình. Cuối cùng, khác với
khả năng sinh lời cao, tăng trƣởng doanh thu cao lại là dấu hiệu cho tình hình hoạt
động tốt của công ty. Đối với khả năng sinh lời, công ty có thể can thiệp bằng các
khoản dồn tích thông qua việc bán tài sản thì đối với doanh thu bán hàng thì gia
tăng doanh thu hàm ý là công ty đang kinh doanh hiệu quả, và gia tăng doanh thu
đƣợc xem là cơ chế bền vững để công ty gia tăng lợi nhuận trong dài hạn. Phát hiện
từ nghiên cứu trình bày cho nhà đầu tƣ các chỉ số cần phải xem xét để đánh giá liệu
số liệu lợi nhuận có phản ánh đúng tình hình hoạt động của công ty hay không để
đƣa ra quyết định đầu tƣ cho phù hợp. Từ đó, nhà đầu tƣ có thể hạn chế một số sai
lầm không đáng có dẫn đến việc sụt giảm lợi nhuận nghiêm trọng sau thời gian
công ty niêm yết lần đầu tiên trên thị trƣờng. Các nhân tố này cũng là cơ sở mà
chính phủ có thể sử dụng để can thiệp kịp thời ngăn chặn hành vi bóp méo lợi
nhuận để giảm thiểu thiệt hại của nhà đầu tƣ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu Tiếng Việt
Dƣơng Nguyễn Thanh Tâm (2014), ―Tác động của cấu trúc nợ đến chất lƣợng lợi
nhuận của doanh nghiệp‖, Tạp chí Kinh tế và ngân hàng Châu Á, 51.
Đƣờng Nguyễn Hƣng (2013), ―Hành vi quản trị lợi nhuận đối với thông
tin lợi nhuận công bố trên báo cáo tài chính‖, Tạp chí Kế toán và Kiểm
toán, Số 1+2+3.
Đặng Ngọc Hùng (2015), Nghiên cứu các yếu tố tài chính ảnh hƣởng đến hiệu quả
kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán Việt
Nam.
Đƣờng Nguyễn Hƣng (2013), ―Ảnh Hƣởng Của Quản Trị Lợi Nhuận Đến Tỷ Suất
Sinh Lời Trên Cổ Phiếu – Trƣờng Hợp Các Công Ty Niêm Yết Thuộc Nhóm
Ngành Chế Biến Lƣơng Thực Thực Phẩm‖, Tạp Chí Kinh Tế Phát Triển, 2,
123-131.
Nguyễn Trọng Nguyên (2015), Tác động của quản trị công ty đến chất lượng thông
tin báo cáo tài chính tại các công ty niêm yết ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh
tế, Đại học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Phƣơng Hồng (2016), Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo
tài chính của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán - Bằng chứng thực
nghiệm tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh Tế Tp. Hồ Chí
Minh.
Nguyễn Công Phƣơng và Phƣơng, Nguyễn Thị Thanh Phƣơng (2014), ―Các yếu tố
ảnh hƣởng đến mức độ công bố thông tin tài chính của công ty niêm yết‖, Tạp
chí Phát triển kinh tế, 287, 15-33.
Nguyễn Công Phƣơng, Ngô Hà Tấn, Trần Đình Khôi Nguyên, Đoàn Thị Ngọc Trai
và Nguyễn Trọng Hiếu (2016), Thao túng báo cáo tài chính của các công ty
niêm yết và tác động tới thị trường chứng khoán Việt Nam, Đề tài KH&CN
cấp bộ, Mã Số B2015-04-15.
Nguyễn Công Phƣơng (2017), ―Áp Dụng mô hình modified jones với dữ liệu chéo:
Nghiên Cứu hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết khi phát hành
thêm cổ phiếu‖, Tạp chí Phát triển kinh tế, Số: 28(3), 32-49.
Nguyễn Thị Phƣơng Hồng (2017), Phân tích thực trạng mức quản trị lợi nhuận của
các công ty niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam bằng mô hình
Jones điều chỉnh.
Phạm Thị Bích Vân (2012), ―Cơ chế quản trị công ty và quản trị lợi nhuận
của các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu ra công chúng niêm yết trên
Hose‖, Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng, Số 127 (12/2012), Năm
2012, Pp 58-66.
Phạm Thị Bích Vân (2014), ―Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của các công ty phát hành thêm cổ phiếu niêm yết trên thị trƣờng chứng
khoán Việt Nam‖, Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng, Số 148, Tháng
9/2014, Pp 50-60.
Phạm Thị Bích Vân (2015), ―Quản Trị Lợi Nhuận Và Giá Cổ Phiếu Của Các
Công Ty Phát Hành Thêm Cổ Phiếu Niêm Yết Trên Thị Trƣờng Chứng Khoán
Việt Nam‖, Tạp Chí Khoa Học Và Đào Tạo Ngân Hàng, Số 154, Tháng
3/2015, Pp 86-98.
B. Tài liệu Tiếng Anh
Alhadab, M. M. (2018), ―Real And Accrual Earnings Management Around Initial
Public Offerings In Jordan‖, International Business Research, 11(1), 204-216.
Alhadab, M., & Clacher, I. (2018), ―The Impact Of Audit Quality On Real And
Accrual Earnings Management Around Ipos‖, The British Accounting Review,
50(4), 442-461.
Alm, J., Liu, Y., & Zhang, K. (2019), ―Financial Constraints And Firm Tax
Evasion‖, International Tax And Public Finance, 26(1), 71-102.
Anderson, T. W., & Hsiao, C. (1982), ―Formulation And Estimation Of Dynamic
Models Using Panel Data‖, Journal Of Econometrics, 18(1), 47-82.
Aobdia, D., Caskey, J., & Ozel, N. B. (2014), ―Inter-Industry Network Structure
And The Cross-Predictability Of Earnings And Stock Returns‖, Review Of
Accounting Studies, 19(3), 1191-1224.
Arellano, M., & Bond, S. (1991), ―Some Tests Of Specification For Panel Data:
Monte Carlo Evidence And An Application To Employment Equations‖, The
Review Of Economic Studies, 58(2), 277-297.
Ashbaugh-Skaife, H., Collins, D. W., & Kinney Jr, W. R. (2007), ―The Discovery
And Reporting Of Internal Control Deficiencies Prior To Sox-Mandated
Audits‖, Journal Of Accounting And Economics, 44(1-2), 166-192.
Abbadi, S. S., Hijazi, Q. F., & Al-Rahahleh, A. S. (2016), ―Corporate Governance
Quality And Earnings Management: Evidence From Jordan‖, Australasian
Accounting, Business And Finance Journal, 10, 54-75.
Abed, F. H., Al-Tamimi, A. K., & Al-Himairee, R. M. (2012) ―Characterization
And Modeling Of Ductile Damage In Structural Steel At Low And
Intermediate Strain Rates‖, Journal Of Engineering Mechanics, 138, 1186-
1194.
Aharony, J., & Dotan, A. (1994), ―Regular Dividend Announcements And Future
Unexpected Earnings: An Empirical Analysis‖, Financial Review, 29, 125-
151.
Aharony, J., Lin, C. J., & Loeb, M. P. (1993), ―Initial Public Offerings, Accounting
Choices, And Earnings Management‖, Contemporary Accounting Research,
10, 61-81.
Aharony, J., & Swary, I. (1980), ―Quarterly Dividend And Earnings
Announcements And Stockholders' Returns: An Empirical Analysis‖, The
Journal Of Finance, 35, 1-12.
Ahmadpour, A., & Ahmadi, A. (2008), ―Using The Financial Information’s
Qualitative Characteristics For Evaluating Earning Quality‖.
Ahmadpour, A., & Shahsavari, M. (2016), ―Earnings Management And The Effect
Of Earnings Quality In Relation To Bankruptcy Level (Firms Listed At The
Tehran Stock Exchange)‖.
Ajina, A., & Habib, A. (2017), ―Examining The Relationship Between Earning
Management And Market Liquidity‖, Research In International Business And
Finance, 42, 1164-1172.
Akani, H. W., & Vivian, A. (2018), ―Theoretical Perspectives Of Earnings,
Profitability And Asset Quality In Banking: Descriptive Evidence From
Nigeria Economy‖, World Journal Of Finance And Investment Research, 3, 1-
24.
Akintoye, R. I., Adegbie, F. F., & Nwaobia, A. N. (2019), ―Growth Opportunities
And Earnings Quality From Emerging Economies‖.
Al-Ajmi, J. (2009), ―Audit Firm, Corporate Governance, And Audit Quality:
Evidence From Bahrain‖, Advances In Accounting, 25, 64-74.
Al-Jaifi, H. A. (2017), ―Ownership Concentration, Earnings Management And
Stock Market Liquidity: Evidence From Malaysia‖, Corporate Governance:
The International Journal Of Business In Society.
Al-Momani, A., & Almomni, T. (2018), ―The Impact Efficiency Of Using Assets
To Enhance Earnings Quality In The Jordanian Industrial Companies Listed In
The Amman Stock Exchange: An Empirical Study‖, International Journal Of
Business And Management, 2, 40-46.
Ali, A., Chen, T.-Y., & Radhakrishnan, S. (2007), ―Corporate Disclosures By
Family Firms‖, Journal Of Accounting And Economics, 44, 238-286.
Ali, M. J., Razzaque, R. M., & Ahmed, K. (2018), ―Real Earnings Management
And Financial Statement Fraud: Evidence From Malaysia‖, International
Journal Of Accounting and Information Management.
Alipour, M., Ghanbari, M., Jamshidinavid, B., & Taherabadi, A. (2019), ―The
Relationship Between Environmental Disclosure Quality And Earnings
Quality: A Panel Study Of An Emerging Market‖, Journal Of Asia Business
Studies.
Almeida, H., & Campello, M. (2007), ―Financial Constraints, Asset Tangibility,
And Corporate Investment‖, The Review Of Financial Studies, 20, 1429-1460.
Almeida, H., & Campello, M. (2010), ―Financing Frictions And The Substitution
Between Internal And External Funds‖, Journal Of Financial And
Quantitative Analysis, 589-622.
Alqatan, A., Albitar, K., & Huang, W. (2019), ―The Role Of Board Characteristics
On The Relationship Between International Financial Reporting Standards
(Ifrs) Adoption And Earnings Management: Evidence From China‖, Journal
Of Accounting And Taxation, 11, 145-154.
Altaf, N., & Ahmad, F. (2019), ―Working Capital Financing, Firm Performance
And Financial Constraints‖, International Journal Of Managerial Finance.
Altamuro, J., & Beatty, A. (2006), ―Do Internal Control Reforms Improve Earnings
Quality‖, W Paper, The Ohio State University.
Alves, S. (2013), ―The Impact Of Audit Committee Existence And External Audit
On Earnings Management. Journal Of Financial Reporting & Accounting‖.
Alzoubi, A. (2017), ―The Effect Of Profit And Cash Indices And The Financial
Increase On The Distribution Of Cash Profits In The Industrial Companies
Listed In Amman Stock Exchange‖, International Journal Of
Entrepreneurship, 21, 1-15.
Amidu, M., Yorke, S. M., & Harvey, S. (2016), ―The Effects Of Financial
Reporting Standards On Tax Avoidance And Earnings Quality: A Case Of An
Emerging Economy‖, Journal Of Accounting And Finance, 16.
Anderson, R. C., Mansi, S. A., & Reeb, D. M. (2004), ―Board Characteristics,
Accounting Report Integrity, And The Cost Of Debt‖, Journal Of Accounting
And Economics, 37, 315-342.
Archer, S. H., & Faerber, L. G. (1966), ―Firm Size And The Cost Of Externally
Secured Equity Capital‖, The Journal Of Finance, 21, 69-83.
Ardestani, H. S., Rasid, S. Z. A., & Mehri, R. B. M. (2013), ―Dividend Payout
Policy, Investment Opportunity Set And Corporate Financing In The Industrial
Products Sector Of Malaysia‖, Journal Of Applied Finance And Banking, 3,
123.
Arniati, T., Puspita, D. A., Amin, A., & Pirzada, K. (2019), ―The Implementation
Of Good Corporate Governance Model And Auditor Independence In
Earnings' Quality Improvement‖, Entrepreneurship And Sustainability Issues,
7, 188-200.
Arnott, R. D., & Asness, C. S. (2003), ―Surprise! Higher Dividends Higher
Earnings Growth‖, Financial Analysts Journal, 59, 70-87.
Arrow, K. J. (1963), ―The American‖, The American Economic Review, 53, 941-
973.
Ashbaugh, H., Collins, D. W., & Lafond, R. (2004), ―Corporate Governance And
The Cost Of Equity Capital‖, University Of Iowa, 26, 2006.
Asogwa, C. I., Ofoegbu, G. N., Nnam, J. I., & Chukwunwike, O. D. (2019), ―Effect
Of Corporate Governance Board Leadership Models And Attributes On
Earnings Quality Of Quoted Nigerian Companies‖, Cogent Business and
Management, 6, 1683124.
Asquith, P., & Mullins Jr, D. W. (1983) ―The Impact Of Initiating Dividend
Payments On Shareholders' Wealth‖, Journal Of Business, 77-96.
Athanasakou, V. E., & Athanassakos, G. (2019), ―Earnings Quality And Book-To-
Market In The Cross Section Of Expected Returns‖, Available At Ssrn
3467747.
Atoeijeri, A., & Annafaabi, H. (2008), ―The Quality Of Audit Service: A Field
Study Analysis For Factors Affecting It From The Perspectives Of Auditors‖,
Journal Of King Abdelazeez University For Economics And Management, 22,
219-255.
Aboody, D., Hughes, J., & Liu, J. (2005), ―Earnings Quality, Insider Trading, And
Cost Of Capital‖, Journal Of Accounting Research, 43, 651-673.
Adaoglu, C. (2000), ―Instability In The Dividend Policy Of The Istanbul Stock
Exchange (Ise) Corporations: Evidence From An Emerging Market‖,
Emerging Markets Review, 1, 252-270.
Anderson, T. W., & Hsiao, C. (1982), ―Formulation And Estimation Of Dynamic
Models Using Panel Data‖, Journal Of Econometrics, 18, 47-82.
Baltagi, B. (2008), ―Econometric Analysis Of Panel Data: John Wiley & Sons‖.
Bello, D. A., Hassan, Z. I., Afolaranmi, T. O., Tagurum, Y. O., Chirdan, O. O., &
Zoakah, A. I. (2013), ―Supportive Supervision: An Effective Intervention In
Achieving High Quality Malaria Case Management At Primary Health Care
Level In Jos, Nigeria‖, Annals Of African Medicine, 12(4), 243.
Bhattacharya, C. B., Sen, S., & Korschun, D. (2008), ―Using Corporate Social
Responsibility To Win The War For Talent‖, Mit Sloan Management Review,
49(2).
Bhattacharya, N., Ecker, F., Olsson, P. M., & Schipper, K. (2012), ―Direct And
Mediated Associations Among Earnings Quality, Information Asymmetry,
And The Cost Of Equity‖, The Accounting Review, 87(2), 449-482.
Bigus, J., & Häfele, S. (2018), ―Shareholder Loans And Earnings Smoothing–
Empirical Findings From German Private Firms‖, European Accounting
Review, 27(1), 37-74.
Bland, J. M., & Altman, D. G. (1996), ―Statistics Notes: Measurement Error‖. Bmj,
312(7047), 1654.
Burgstahler, D., & Dichev, I. (1997), ―Earnings Management To Avoid Earnings
Decreases And Losses‖, Journal Of Accounting And Economics, 24(1), 99-
126.
Burke, M., Fathi, N. M., Eze, U. C., & Goh, G. G. G. (2011), ―Key Determinants Of
Knowledge Sharing In An Electronics Manufacturing Firm In Malaysia‖,
Library Review.
Bahmani, D. (2014), ―The Relation Between Disclosure Quality And Information
Asymmetry: Empirical Evidence From Iran‖, International Journal Of
Financial Research, 5, 110.
Bajra, U., & Čadež, S. (2018), ―Audit Committees And Financial Reporting
Quality: The 8th Eu Company Law Directive Perspective‖, Economic Systems,
42, 151-163.
Ball, R., & Brown, P. (1968), ―An Empirical Evaluation Of Accounting Income
Numbers‖, Journal Of Accounting Research, 159-178.
Ball, R., & Shivakumar, L. (2005), ―Earnings Quality In Uk Private Firms:
Comparative Loss Recognition Timeliness‖, Journal Of Accounting And
Economics, 39, 83-128.
Baltagi, B. (2008), ―Econometric Analysis Of Panel Data, John Wiley and Sons‖.
Barber, S., & Dutta, B. (2000), ―Incentive Compatible Reward Schemes For
Labour-Managed Firms‖, Review Of Economic Design, 2, 111-127.
Barth, M. E., Landsman, W. R., & Lang, M. H. (2008), ―International Accounting
Standards And Accounting Quality‖, Journal Of Accounting Research, 46,
467-498.
Barton, J., & Simko, P. J. (2002), ―The Balance Sheet As An Earnings Management
Constraint‖, The Accounting Review, 77, 1-27.
Bartov, E., Givoly, D., & Hayn, C. (2002), ―The Rewards To Meeting Or Beating
Earnings Expectations‖, Journal Of Accounting And Economics, 33, 173-204.
Baskin, J., & Miranti Jr, P. (1997), ―History Of Corporate Finance‖, Cambridge
University Press, 263–270.
Basu, S., Cready, W. M., & Paek, W. (2016), ―Measuring Matching Using Reported
Revenues And Expenses‖, Working Paper.
Beasley, M. S. (1996), ―An Empirical Analysis Of The Relation Between The
Board Of Director Composition And Financial Statement Fraud‖, Accounting
Review, 443-465.
Beaver, W., Eger, C., Ryan, S., & Wolfson, M. (1989), ―Financial Reporting,
Supplemental Disclosures, And Bank Share Prices‖, Journal Of Accounting
Research, 27, 157-178.
Bellovary, J., Giacomino, E., & Akers, M. (2005), ―Earning Quality: Its Time To
Measure And Report‖.
Bellovary, J. L., Giacomino, D. E., & Akers, M. D. (2007), ―A Review Of
Bankruptcy Prediction Studies: 1930 To Present‖, Journal Of Financial
Education, 1-42.
Benartzi, S., Michaely, R., & Thaler, R. (1997), ―Do Changes In Dividends Signal
The Future Or The Past?‖, The Journal Of Finance, 52, 1007-1034.
Beneish, M. D. (1999), ―The Detection Of Earnings Manipulation‖, Financial
Analysts Journal, 55, 24-36.
Beneish, M. D., & Vargus, M. E.( 2002), ―Insider Trading, Earnings Quality, And
Accrual Mispricing‖, The Accounting Review, 77, 755-791.
Benkraiem, R., Hamrouni, A., Lakhal, F., & Toumi, N. (2017), ―Board
Independence, Gender Diversity And Ceo Compensation‖, Corporate
Governance: The International Journal Of Business In Society.
Berger, A. N., & Udell, G. F. (2006), ―A More Complete Conceptual Framework
For Sme Finance‖, Journal Of Banking and Finance, 30, 2945-2966.
Berger, P. G., & Chen, H. J., Li, F. (2018), ―Firm Specific Information And The
Cost Of Equity Capital‖, Firm Specific Information And The Cost Of Equity
Capital (April 2, 2018).
Beyer, A., Guttman, I., & Marinovic, I. (2019), ―Earnings Management And
Earnings Quality: Theory And Evidence‖, The Accounting Review, 94, 77-
101.
Bharath, S. T., Sunder, J., & Sunder, S. V. (2008), ―Accounting Quality And Debt
Contracting‖, The Accounting Review, 83, 1-28.
Bhattacharya, C. B., & Sen, S. (2003), ―Consumer–Company Identification: A
Framework For Understanding Consumers’ Relationships With Companies‖,
Journal Of Marketing, 67, 76-88.
Bhattacharya, C. B., Sen, S., & Korschun, D. (2008), ―Using Corporate Social
Responsibility To Win The War For Talent‖, Mit Sloan Management Review,
49.
Bhattacharya, S. (1979), ―Imperfect Information, Dividend Policy, And" The Bird
In The Hand" Fallacy‖, The Bell Journal Of Economics, 259-270.
Biddle, G. C., & Hilary, G. (2006), ―Accounting Quality And Firm‐ Level Capital
Investment‖, The Accounting Review, 81, 963-982.
Billett, M. T., King, T. H. D., & Mauer, D. C. (2007), ―Growth Opportunities And
The Choice Of Leverage, Debt Maturity, And Covenants‖, The Journal Of
Finance, 62, 697-730.
Bolton, P., & Dewatripont, M. (2004), ―Contract Theory The Mit Press‖,
Cambridge.
Bonacchi, M., Marra, A., & Zarowin, P. (2017), ―Earnings Quality Of Private And
Public Firms: Business Groups Versus Stand-Alone Firms‖, Working Paper.
Bonferroni, C. (1936), ―Teoria Statistica Delle Classi E Calcolo Delle Probabilita‖,
Pubblicazioni Del R Istituto Superiore Di Scienze Economiche E
Commericiali Di Firenze, 8, 3-62.
Boubakri, N., Mirzaei, A., & Samet, A. (2017), ―National Culture And Bank
Performance: Evidence From The Recent Financial Crisis‖, Journal Of
Financial Stability, 29, 36-56.
Boulton, T. J., Smart, S. B., & Zutter, C. J. (2011), ―Earnings Quality And
International Ipo Underpricing‖, The Accounting Review, 86, 483-505.
Bowen, R. M., Noreen, E. W., & Lacey, J. M. (1981), ―Determinants Of The
Corporate Decision To Capitalize Interest‖, Journal Of Accounting And
Economics, 3, 151-179.
Brav, A., Graham, J. R., Harvey, C. R., & Michaely, R. (2005), ―Payout Policy In
The 21st Century‖, Journal Of Financial Economics, 77, 483-527.
Breeden, R. C., & Rakoff, J. S. (2003), ―Restoring Trust: Report To The Hon. Jed
S. Rakoff, The United States District Court For The Southern District Of New
York: On Corporate Governance For The Future Of Mci, Inc, Worldcom,
Incorporated‖.
Buana, R., & Wahyudin, A. (2016), ―The Roles Of Profitability Moderating
Corporate Governance On Earnings Quality‖, Accounting Analysis Journal, 5,
213-219.
Burgstahler, D., & Dichev, I. (1997), ―Earnings Management To Avoid Earnings
Decreases And Losses‖, Journal Of Accounting And Economics, 24, 99-126.
Burgstahler, D., & Eames, M. (2006), ―Management Of Earnings And Analysts'
Forecasts To Achieve Zero And Small Positive Earnings Surprises‖, Journal
Of Business Finance & Accounting, 33, 633-652.
Burgstahler, D. C., Hail, L., & Leuz, C. (2006), ―The Importance Of Reporting
Incentives: Earnings Management In European Private And Public Firms‖,
The Accounting Review, 81, 983-1016.
Bushman, R. M., & Smith, A. J. (2003), ―Transparency, Financial Accounting
Information, And Corporate Governance. Financial Accounting Information,
And Corporate Governance‖, Economic Policy Review, 9.
Bzeouich, B., Lakhal, F., & Dammak, N. (2019), ―Earnings Management And
Corporate Investment Efficiency: Does The Board Of Directors Matter?‖,
Journal Of Financial Reporting And Accounting.
Chang, X., Chen, Y., & Dasgupta, S. (2019), ―Macroeconomic Conditions,
Financial Constraints, And Firms’ Financing Decisions‖, Journal Of Banking
And Finance, 101, 242-255.
Chen, C. W., Kang, H. W., Hsiao, S. Y., Yang, P. F., Chiang, K. M., & Lin, H. W.
(2014), ―Efficient And Uniform Planar Type Perovskite Solar Cells By Simple
Sequential Vacuum Deposition‖, Advanced Materials, 26(38), 6647-6652.
Cohen, D. A., & Zarowin, P. (2010), ―Accrual-Based And Real Earnings
Management Activities Around Seasoned Equity Offerings‖, Journal Of
Accounting And Economics, 50(1), 2-19.
Cadbury, A. (1992), ―Report Of The Committee On The Financial Aspects Of
Corporate Governance, Gee‖.
Cakici, N., Chatterjee, S., Tang, Y., & Tong, L. (2017), ―Alternative Profitability
Measures And Cross Section Of Expected Stock Returns: International
Evidence‖, Springer.
Cameran, M., Prencipe, A., & Trombetta, M. (2016), ―Mandatory Audit Firm
Rotation And Audit Quality‖, European Accounting Review, 25, 35-58.
Campello, M., Graham, J. R., & Harvey, C. R. (2010), ―The Real Effects Of
Financial Constraints: Evidence From A Financial Crisis‖, Journal Of
Financial Economics, 97, 470-487.
Canina, L., & Potter, G. (2019), ―Determinants Of Earnings Persistence And
Predictability For Lodging Properties‖, Cornell Hospitality Quarterly, 60, 40-
51.
Cascino, S., Pugliese, A., Mussolino, D., & Sansone, C. (2010), ―The Influence Of
Family Ownership On The Quality Of Accounting Information‖, Family
Business Review, 23, 246-265.
Caskey, J., & Hanlon, M. (2005), ―Do Dividends Indicate Honesty? The Relation
Between Dividends And The Quality Of Earnings‖, Citeseer.
Chaffai, M., & Medhioub, I. (2018), ―Herding Behavior In Islamic Gcc Stock
Market: A Daily Analysis‖, International Journal Of Islamic And Middle
Eastern Finance And Management.
Chalaki, P., Didar, H., & Riahinezhad, M. (2012), ―Corporate Governance
Attributes And Financial Reporting Quality: Empirical Evidence From Iran‖,
International Journal Of Business And Social Science, 3.
Chan, K. C., & Li, J. (2008), ―Audit Committee And Firm Value: Evidence On
Outside Top Executives As Expert-Independent Directors‖, Corporate
Governance: An International Review, 16, 16-31.
Chan, L. H., Chen, K. C., & Chen, T.-Y., Yu, Y. (2012), ―The Effects Of Firm-
Initiated Clawback Provisions On Earnings Quality And Auditor Behavior‖,
Journal Of Accounting And Economics, 54, 180-196.
Chandrarin, G., & Subiyantoro, E. (2019), ―Effect Of Audit Quality On Earnings
Quality: Evidence From Indonesia Stock Exchange‖, International Journal Of
Financial Research, 10, 86-97.
Chen, J. Z., Lobo, G. J., & Zhang, J. H. (2017), ―Accounting Quality, Liquidity
Risk, And Post Earnings Announcement Drift‖, Contemporary Accounting
Research, 34, 1649-1680.
Chen, K. Y., Elder, R. J., & Hsieh, Y.-M. (2007), ―Corporate Governance And
Earnings Management: The Implications Of Corporate Governance Best-
Practice Principles For Taiwanese Listed Companies‖, Journal Of
Contemporary Accounting and Economics, 3, 73-105.
Chen, S., & Komal, B. (2018), ―Audit Committee Financial Expertise And Earnings
Quality: A Meta-Analysis‖, Journal Of Business Research, 84, 253-270.
Cheng, J., Fang, J., & Myers, L. A. (2018), ―Stock Liquidity And The Earnings-
Return Asymmetry For Negative Versus Positive Returns‖.
Chi, W., Lisic, L. L., & Pevzner, M. (2011), ―Is Enhanced Audit Quality Associated
With Greater Real Earnings Management?‖, Accounting Horizons, 25, 315-
335.
Collins, D. W., & Kothari, S. (1989), ―An Analysis Of Intertemporal And Cross-
Sectional Determinants Of Earnings Response Coefficients‖, Journal Of
Accounting And Economics, 11, 143-181.
Commerford, B. P., Hatfield, R. C., & Houston, R. W. (2018), ―The Effect Of Real
Earnings Management On Auditor Scrutiny Of Management's Other Financial
Reporting Decisions‖, The Accounting Review, 93, 145-163.
Chou, D.-W., Lin, J. P., Chan, C.-Y., & Chang, S.-C. (2011), ―The Impact Of
Earnings Management On The Choice Of Debt Maturity Structure‖,
Management Review, 30, 137-151.
Dang, N. H., Hoang, T. V. H., & Tran, M. D. (2017), ―Factors Affecting Earnings
Management: The Case Of Listed Firms In Vietnam‖, International Journal
Of Economic Research, 14(20), 117-134.
Deangelo, H., Deangelo, L., & Stulz, R. M. (2010), ―Seasoned Equity Offerings,
Market Timing, And The Corporate Lifecycle‖, Journal Of Financial
Economics, 95(3), 275-295.
Dechow, P. M., & Dichev, I. D. (2002), ―The Quality Of Accruals And Earnings:
The Role Of Accrual Estimation Errors‖, The Accounting Review, 77(S-1), 35-
59.
Dechow, P., Ge, W., & Schrand, C. (2010), ―Understanding Earnings Quality: A
Review Of The Proxies, Their Determinants And Their Consequences‖,
Journal Of Accounting And Economics, 50(2-3), 344-401.
Degeorge, F., Patel, J., & Zeckhauser, R. (1999), ―Earnings Management To
Exceed Thresholds‖, The Journal Of Business, 72(1), 1-33.
Diggle, P., Diggle, P. J., Heagerty, P., Heagerty, P. J., Liang, K.-Y., & Zeger, S.
(2002), ―Analysis Of Longitudinal Data: Oxford University Press‖.
Doyle, J., Ge, W., & Mcvay, S. (2007), ―Determinants Of Weaknesses In Internal
Control Over Financial Reporting‖, Journal Of Accounting And Economics,
44(1-2), 193-223.
Driver, C., & Muñoz-Bugarin, J. (2019), ―Financial Constraints On Investment:
Effects Of Firm Size And The Financial Crisis‖, Research In International
Business And Finance, 47, 441-457.
Dang Ngoc, H. & Tran Manh, D. (2020), ―The Impact Of Ownership Structure,
Financial Distress On Earnings Management: The Case Of Vietnam‖.
De Meza, D., & Webb, D. C. (2001), ―Advantageous Selection In Insurance
Markets‖, Rand Journal Of Economics, 249-262.
Deangelo, H., & Masulis, R. W. (1980), ―Optimal Capital Structure Under
Corporate And Personal Taxation‖, Journal Of Financial Economics, 8, 3-29.
Dechow, P. M. (1994), ―Accounting earnings and cash flows as measures of firm
performance: The role of accounting accruals‖, Journal of Accounting and
Economics, 18, 3-42.
Dechow, P. M., & Schrand, C. M. (2004), ―Earnings Quality. Research Foundation
Of Cfa Institute Charlottesville, Va‖.
Dechow, P. M., & Skinner, D. J. (2000), ―Earnings management: Reconciling the
views of accounting academics, practitioners, and regulators‖, Accounting
Horizons, 14, 235-250.
Dechow, P. M., & Sloan, R. G. (1991), ―Executive incentives and the horizon
problem: an empirical investigation‖, Journal of Accounting and Economics,
14, 51-89.
Dechow, P. M., & Sloan, R. G., Sweeney, A. P. (1995), ―Detecting Earnings
Management‖, Accounting Review, 193-225.
Defond, M. L., & Jiambalvo, J. (1991), ―Incidence and circumstances of accounting
errors‖, Accounting Review, 643-655.
Delen, D., Kuzey, C., & Uyar, A. (2013), ―Measuring firm performance using
financial ratios: A decision tree approach, Expert systems with applications‖,
40, 3970-3983.
Deng, L., Li, S., & Liao, M. (2017), ―Dividends and earnings quality: Evidence
From China‖, International Review of Economics & Finance, 48, 255-268.
Denis, D. K., & Mcconnell, J. J. (2003), ―International corporate governance‖,
Journal of Financial and Quantitative Analysis, 1-36.
Desai, H., Hogan, C. E., & Wilkins, M. S. (2006), ―The Reputational penalty for
aggressive accounting: Earnings restatements and management turnover‖, The
Accounting Review, 81, 83-112.
Dezoort, F. T., Hermanson, D. R., Archambeault, D. S., & Reed, S. A. (2002),
―Audit committee effectiveness: A synthesis of the empirical audit committee
literature‖.
Diamond, D. W. (1984), ―Financial Intermediation And Delegated Monitoring‖,
The Review Of Economic Studies, 51, 393-414.
Dichev, I. D., Graham, J. R., Harvey, C. R., & Rajgopal, S. (2013), ―Earnings
Quality: Evidence From The Field‖, Journal Of Accounting And Economics,
56, 1-33.
Ding, R., Li, J., & Wu, Z. (2018), ―Government affiliation, real earnings
management, and firm performance: The case of privately held firms‖,
Journal of Business Research, 83, 138-150.
River, C., & Muñoz-Bugarin, J. (2019), ―Financial constraints on investment:
Effects of firm size and the financial crisis‖, Research in international
business and finance, 47, 441-457.
Ducharme, L. L., Malatesta, P. H., & Sefcik, S. E. (2004), ―Earnings management,
stock issues, and shareholder lawsuits‖, Journal of financial economics, 71,
27-49.
Erickson, M., & Wang, S.-W. (1999), ―Earnings management by acquiring firms in
stock for stock mergers‖, Journal of accounting and economics, 27(2), 149-
176.
Ertimur, Y., Livnat, J., & Martikainen, M. (2003), ―Differential market reactions to
revenue and expense surprises‖, Review of accounting studies, 8(2-3), 185-
211.
Easterbrook, F. H. (1984), ―Two agency-cost explanations of dividends‖, The
American Economic Review, 74, 650-659.
Ecker, F., Francis, J., Kim, I., Olsson, P. M., & Schipper, K. (2006), ―A returns
based representation of earnings quality‖, The Accounting Review, 81, 749-
780.
Ecker, F., Francis, J., Olsson, P., & Schipper, K. (2005), ―Comparing Total And
Current Accruals Quality‖, Unpublished Working Paper, Duke University,
Durham, Nc.
Egbunike, C. F., & Odum, A. N. (2018), ―Board Leadership Structure And Earnings
Quality‖, Asian Journal Of Accounting Research.
Ertimur, Y., Livnat, J., & Martikainen, M. (2003), ―Differential Market Reactions
To Revenue And Expense Surprises‖, Review Of Accounting Studies, 8, 185-
211.
Espahbodi, R., Liu, N., & Weigand, R. A. (2018), ―Firm Performance And Earnings
Management Around Dividend Change Announcements‖..
Fernando, C. S., May, A. D., & Megginson, W. L. (2012), ―The Value Of
Investment Banking Relationships: Evidence From The Collapse Of Lehman
Brothers‖, The Journal Of Finance, 67(1), 235-270.
Fitzmaurice, G. M., Laird, N. M., & Ware, J. H. (2012), ―Applied Longitudinal
Analysis‖ (Vol. 998): John Wiley & Sons.
Francis, J., Lafond, R., Olsson, P., & Schipper, K. (2005), ―The Market Pricing Of
Accruals Quality‖, Journal Of Accounting And Economics, 39(2), 295-327.
Fahlenbrach, R., & Stulz, R. M. (2009), ―Managerial Ownership Dynamics And
Firm Value‖, Journal Of Financial Economics, 92, 342-361.
Fakhfakh, I., & Jarboui, A. (2020), ―Audit Certification, Earnings Management And
Risk Governance: A Moderated-Mediation Analysis‖, Journal Of Financial
Reporting And Accounting.
Fama, E. F. (1965), ―The Behavior Of Stock-Market Prices‖. The Journal Of
Business, 38, 34-105.
Fama, E. F., & Jensen, M. C. (1983), ―Agency Problems And Residual Claims‖,
The Journal Of Law And Economics, 26, 327-349.
Fang, H., Shen, C.-H., & Lee, Y.-H. (2017), ―The Dynamic And Asymmetric
Herding Behavior Of Us Equity Fund Managers In The Stock Market‖.
International Review Of Economics & Finance, 49, 353-369.
Farber, D. B., Huang, S. X., & Mauldin, E. (2018), ―Audit Committee Accounting
Expertise, Analyst Following, And Market Liquidity‖, Journal Of Accounting,
Auditing & Finance, 33, 174-199.
Fazzari, S., Hubbard, R. G., & Petersen, B. (1988), ―Investment, Financing
Decisions, And Tax Policy‖, The American Economic Review, 78, 200-205.
Feltham, G., Robb, S., & Zhang, P. (2007), ―Precision In Accounting Information,
Financial Leverage And The Value Of Equity‖, Journal Of Business Finance
and Accounting, 34, 1099-1122.
Feltham, G. A., & Ohlson, J. A. (1995), ―Valuation And Clean Surplus Accounting
For Operating And Financial Activities‖, Contemporary Accounting Research,
11, 689-731.
Fernández-Gámez, M., Del Castillo, A., Alaminos, D., Santos, J. A. C., &
Alcoforado, E. (2019), ―Corporate Reputation, Financial Performance And
Earnings Quality‖.
Firmansyah, A., & Herawaty, V. (2019), ―Pengaruh Income Smoothing, Kebijakan
Deviden, Leverage Dan Ukuran Perusahaan Terhadap Earnings Response
Coefficient Dan Future Earnings Response Coefficient‖, Jurnal Informasi,
Perpajakan, Akuntansi, Dan Keuangan Publik, 11, 31-48.
Francis, J., Lafond, R., Olsson, P. M., & Schipper, K. (2004), ―Costs Of Equity And
Earnings Attributes‖, The Accounting Review, 79, 967-1010.
Francis, J. R., & Wang, D. (2008), ―The Joint Effect Of Investor Protection And
Big 4 Audits On Earnings Quality Around The World‖, Contemporary
Accounting Research, 25, 157-191.
Franzoni, F. (2009), ―Underinvestment Vs. Overinvestment: Evidence From Price
Reactions To Pension Contributions‖, Journal Of Financial Economics, 92,
491-518.
Friedlan, J. M. (1994), ―Accounting Choices Of Issuers Of Initial Public Offerings‖,
Contemporary Accounting Research, 11, 1-31.
Fudenberg, D., & Tirole, J. (1995), ―A Theory Of Income And Dividend Smoothing
Based On Incumbency Rents‖, Journal Of Political Economy, 103, 75-93.
Fuzi, S. F. S., Halim, S. A. A., & Julizaerma, M. (2016), ―Board Independence And
Firm Performance‖, Procedia Economics And Finance, 37, 460-465.
Fitzmaurice, G. M., Laird, N. M., & Ware, J. H. (2012), ―Applied Longitudinal
Analysis‖, John Wiley & Sons.
Geiger, M. A., & North, D. S. (2006), ―Does Hiring A New Cfo Change Things?
An Investigation Of Changes In Discretionary Accruals‖, The Accounting
Review, 81(4), 781-809.
Ghosh, A., Marra, A., & Moon, D. (2010), ―Corporate Boards, Audit Committees,
And Earnings Management: Pre-And Post-Sox Evidence‖, Journal Of
Business Finance & Accounting, 37(910), 1145-1176.
Greene, W. H. (2003), ―Econometric Analysis: Pearson Education India‖.
Gunny, K. A. (2010), ―The Relation Between Earnings Management Using Real
Activities Manipulation And Future Performance: Evidence From Meeting
Earnings Benchmarks‖, Contemporary Accounting Research, 27(3), 855-888.
Gaio, C. (2010), ―The Relative Importance Of Firm And Country Characteristics
For Earnings Quality Around The World‖, European Accounting Review, 19,
693-738.
Gaio, C. & Pinto, I. (2018), ―The Role Of State Ownership On Earnings Quality:
Evidence Across Public And Private European Firms‖, Journal Of Applied
Accounting Research.
Galton, F. (1889), ―I. Co-Relations And Their Measurement, Chiefly From
Anthropometric Data‖, Proceedings Of The Royal Society Of London, 45, 135-
145.
Gammell, M. P., Vries, H. D., Jennings, D. J., Carlin, C. M., & Hayden, T. J.
(2003), ―David's Score: A More Appropriate Dominance Ranking Method
Than Clutton-Brock Et Al.'S Index‖, Animal Behaviour, 66, 601-605.
Gan, C., Anh, & D. L. T. (2019), ―Should Firms Keep A Balance Between State
And Foreign Ownership? A Perspective On Financial Constraints And
Investments In Vietnam‖, Asian Economic And Financial Review, 9, 517.
Ganguli, S. K., & Guha Deb, S. (2017), ―Negotiated Bank Finance, Earning Quality
And Firm Characteristics: Indian Evidence. Earning Quality And Firm
Characteristics: Indian Evidence‖ (May 16, 2017).
Garane, B. M., & Mwangi, M. (2018), ―Determinants Of Earnings Management
Among Retail Chains In Nairobi County‖, Journal Of International Business,
Innovation And Strategic Management, 2, 52-69.
García-Alcober, M. P., Prior, D., Tortosa-Ausina, E., & Illueca, M. (2019), ―Risk-
Taking Behavior, Earnings Quality, And Bank Performance: A Profit Frontier
Approach‖, Brq Business Research Quarterly.
García Sánchez, I. M., & García Meca, E. (2017), ―Csr Engagement And Earnings
Quality In Banks. The Moderating Role Of Institutional Factors‖, Corporate
Social Responsibility And Environmental Management, 24, 145-158.
García Teruel, P. J., Martínez Solano, P., & Sánchez Ballesta, J. P. (2014),
―Supplier Financing And Earnings Quality‖, Journal Of Business Finance and
Accounting, 41, 1193-1211.
Ge, T., Li, J., Sha, R., & Hao, X. (2020), ―Environmental Regulations, Financial
Constraints And Export Green-Sophistication: Evidence From China’s
Enterprises‖, Journal Of Cleaner Production, 251, 119671.
Ge, W., & Mcvay, S. (2005), ―The Disclosure Of Material Weaknesses In Internal
Control After The SarbanesOxley Act‖, Accounting Horizons, 19, 137-158.
Ghosh, A., & Moon, D. (2010), ―Corporate Debt Financing And Earnings Quality‖,
Journal Of Business Finance and Accounting, 37, 538-559.
Givoly, D., Hayn, C. K., & Katz, S. P. (2010), ―Does Public Ownership Of Equity
Improve Earnings Quality?‖, The Accounting Review, 85, 195-225.
Glassman, D. (2006), ―Multinationals In The Middle Kingdom: Performance,
Opportunities, And Risks‖, Journal Of Applied Corporate Finance, 18, 120-
131.
Glen, J. D., Karmokolias, Y., Miller, R. R., & Shah, S. (1995), ―Dividend Policy
And Behavior In Emerging Markets: To Pay Or Not To Pay‖, The World
Bank.
Goh, B. W., Lee, J., Ng, J., & Ow Yong, K. (2016), ―The Effect Of Board
Independence On Information Asymmetry‖, European Accounting Review, 25,
155-182.
Goodman, T. H., & Hall, M. (2007), ―Abnormal Accruals And External Financing‖,
Eller College Of Management, University Of Arizona.
Graham, J. R., Harvey, C. R., & Rajgopal, S. (2005), ―The Economic Implications
Of Corporate Financial Reporting‖, Journal Of Accounting And Economics,
40, 3-73.
Gul, F. A., Fung, S. Y. K., & Jaggi, B. (2009), ―Earnings Quality: Some Evidence
On The Role Of Auditor Tenure And Auditors’ Industry Expertise‖, Journal
Of Accounting And Economics, 47, 265-287.
Gullett, N. S., Kilgore, R. W., & Geddie, M. F. (2018), ―Use Of Financial Ratios To
Measure The Quality Of Earnings‖, Academy Of Accounting And Financial
Studies Journal, 22, 1-12.
Gupta, M., & Fields, L. P. (2009), ―Board Independence And Corporate
Governance: Evidence From Director Resignations‖, Journal Of Business
Finance and Accounting, 36, 161-184.
Hamidzadeh, S., & Zeinali, M. (2015), ―The Asset Structure And Liquidity Effect
On Financial Reporting Quality At Listed Companies In Tehran Stock
Exchange‖, Oman Chapter Of Arabian Journal Of Business And Management
Review, 34(2603), 1-7.
Hansen, L. P. (1982), ―Large Sample Properties Of Generalized Method Of
Moments Estimators‖, Econometrica: Journal Of The Econometric Society,
1029-1054.
Hao, L., & Yu, M. (2019), ―Accrual Manipulations During Ipo Lockup Expiration
And The Monitoring Role Of Auditors‖, Journal Of Accounting and Finance
(2158-3625), 19(1).
Hennessy, C. A., & Whited, T. M. (2007), ―How Costly Is External Financing?
Evidence From A Structural Estimation‖, The Journal Of Finance, 62(4),
1705-1745.
Hoang, K. M. T., & Phung, T. A. (2019), ―The Effect Of Financial Leverage On
Real And Accrual-Based Earnings Management In Vietnamese Firms‖,
Economics & Sociology, 12(4), 299-333.
Holliday, I. (2000), ―Productivist Welfare Capitalism: Social Policy In East Asia‖,
Political Studies, 48(4), 706-723.
Hope, O.-K., Thomas, W. B., & Vyas, D. (2013), ―Financial Reporting Quality Of
Us Private And Public Firms‖, The Accounting Review, 88(5), 1715-1742.
Huang, S. Y., Lee, C. H., Pan, L. H., & Nguyen Thi, B. H. (2016), ―Ipo Initial
Excess Return In An Emerging Market: Evidence From Vietnam’s Stock
Exchanges‖, Review Of Pacific Basin Financial Markets And Policies, 19(02),
1650011.
Hung, D. N., Do Hoai Linh, T. T. V., Hoa, T. M. D., & Ha, H. T. V. (2018),
―Factors Influencing Accrual Earnings Management And Real Earnings
Management: The Case Of Vietnam‖, In International Conference On
Humanities And Social Sciences, Khon Kaen University, Thailand.
Habib, A., & Azim, I. (2008), ―Corporate Governance And The ValueRelevance Of
Accounting Information‖. Accounting Research Journal.
Hadlock, C. J., & Pierce, J. R. (2010), ―New Evidence On Measuring Financial
Constraints: Moving Beyond The Kz Index‖, The Review Of Financial
Studies, 23, 1909-1940.
Hagerman, R. L., & Zmijewski, M. E. (1979), ―Some Economic Determinants Of
Accounting Policy Choice‖, Journal Of Accounting And Economics, 1, 141-
161.
Haghighat, H., & Homayoun, A. (2004), ―The Relationship Between Accruals
Quality And Profitability Of Tse-Listed Companies‖, Ma Thesis, Islamic Azad
University, Mashhad Branch.
Haji, A. A. (2014), ―The Relationship Between Corporate Governance Attributes
And Firm Performance Before And After The Revised Code: Some Malaysian
Evidence‖, International Journal Of Commerce And Management, 24, 134-
151.
Han, J. C., & Wang, S.-W. (1998), ―Political Costs And Earnings Management Of
Oil Companies During The 1990 Persian Gulf Crisis‖, Accounting Review,
103-117.
Hanlon, M., Myers, J. N., & Shevlin, T. J. (2007), ―Are Dividends Informative
About Future Earnings?‖
Haq, I., Lang, T., & Xu, H. (2017), ―The Relationship Of The Change In Audit
Committee Chair To Earnings Quality‖, Proceedings Of The Northeast
Business & Economics Association.
Harris, T., Huh, E., & Fairfield, P. (2000), ―Gauging Profitability On The Road To
Valuation‖, Strategy Report, Global Valuation And Accounting. New York,
Ny: Morgan Stanley Dean Witter.
Hart, O. D., & Holmström, B. (1987), ―The Theory Of Contracts, In (Bewley, T.
Eds.) Advances In Economic Theory: Fifth World Congress‖.
Hassan, S. U. (2013), ―Financial Reporting Quality, Does Monitoring
Characteristics Matter? An Empirical Analysis Of Nigerian Manufacturing
Sector‖, The Business & Management Review, 3, 147.
Hassan, S. U., & Farouk, M. A. (2014), ―Firm Attributes And Earnings Quality Of
Listed Oil And Gas Companies In Nigeria‖, Review Of Contemporary
Business Research, 3, 99-114.
He, W., Ng, L., Zaiats, N., & Zhang, B. (2017), ―Dividend Policy And Earnings
Management Across Countries‖, Journal Of Corporate Finance, 42, 267-286.
Healy, P. M. (1985), ―The Effect Of Bonus Schemes On Accounting Decisions‖,
Journal Of Accounting And Economics, 7, 85-107.
Healy, P. M., & Wahlen, J. M. (1999), ―A Review Of The Earnings Management
Literature And Its Implications For Standard Setting‖, Accounting Horizons,
13, 365-383.
Herbohn, K., Ragunathan, V., & Garsden, R. (2007), ―The Horse Has Bolted:
Revisiting The Market Reaction To Going Concern Modifications Of Audit
Reports‖, Accounting and Finance, 47, 473-493.
Hoang, T. C., Abeysekera, I., & Ma, S. (2017), ―The Effect Of Board Diversity On
Earnings Quality: An Empirical Study Of Listed Firms In Vietnam‖,
Australian Accounting Review, 27, 146-163.
Hoang, V. X. (2014), ―Is Modified Jones Model Effective In Detecting Earnings
Management? Evidence From Ipo Company On Hose‖, International
University HCMC, Vietnam.
Hoffmann, D. L., Standish, C. D., García-Diez, M., Pettitt, P. B., Milton, J. A.,
Zilhão, J., Alcolea-González, J. J., Cantalejo-Duarte, P., Collado, H., & De
Balbín, R. (2018), ―U-Th Dating Of Carbonate Crusts Reveals Neandertal
Origin Of Iberian Cave Art‖, Science, 359, 912-915.
Holliday, K. K. (2000b), ―Forget Cost Cutting Think Low-Cost Revenue Growth.
American Bankers Association‖, Aba Banking Journal, 92, 31.
Hooks, L. M. (2003), ―The Impact Of Firm Size On Bank Debt Use‖, Review Of
Financial Economics, 12, 173-189.
Hope, O. K. (2003), ―Disclosure Practices, Enforcement Of Accounting Standards,
And Analysts' Forecast Accuracy: An International Study‖, Journal Of
Accounting Research, 41, 235-272.
Houston, J., & James, C. (1996), ―Bank Information Monopolies And The Mix Of
Private And Public Debt Claims‖, The Journal Of Finance, 51, 1863-1889.
Hribar, P., & Craig Nichols, D. (2007), ―The Use Of Unsigned Earnings Quality
Measures In Tests Of Earnings Management‖, Journal Of Accounting
Research, 45, 1017-1053.
Hsu, M.-F., & Yu, J. (2015), ―The Influence Of Earnings Quality And Liquidity On
The Cost Of Equity‖, International Business Research, 8, 194.
Huang, T.-C., & Wang, K.-Y. (2017), ―Investors’ Fear And Herding Behavior:
Evidence From The Taiwan Stock Market‖, Emerging Markets Finance And
Trade, 53, 2259-2278.
Hung, D. N., Do Hoai Linh, T. T. V., Hoa, T. M. D., & Ha, H. T. V. (2018),
―Factors Influencing Accrual Earnings Management And Real Earnings
Management: The Case Of Vietnam‖. International Conference On
Humanities And Social Sciences, Khon Kaen University, Thailand.
Inaam, Z., & Khamoussi, H. (2016), ―Audit Committee Effectiveness, Audit
Quality And Earnings Management: A Meta-Analysis‖, International Journal
Of Law And Management.
Isidro, H., Martins, M. M., & Lopes, I. T. (2016), ―Earnings Quality And
Governance Quality: A Comparative Analysis Between Traditional And New
Brazilian Capital Market. Earnings Quality And Governance Quality: A
Comparative Analysis Between Traditional And New Brazilian Capital
Market‖, 605-610.
Jang, S. H., Lee, K.-J., Mun, J., Han, Y.-K., & Yim, T. (2019), ―Chemically-
Induced Cathode–Electrolyte Interphase Created By Lithium Salt Coating On
Nickel-Rich Layered Oxides Cathode‖, Journal Of Power Sources, 410, 15-
24.
Karanasos, M. (2001), ―Prediction In Arma Models With Garch In Mean Effects‖,
Journal Of Time Series Analysis, 22(5), 555-576.
Jaslowitzer, P., Megginson, W. L., & Rapp, M. S. (2016), ―Disentangling The
Effects Of State Ownership On Investment–Evidence From Europe‖, Working
Paper.
Jensen, M. C., & Meckling, W. H. (1976), ―Theory Of The Firm: Managerial
Behavior, Agency Costs And Ownership Structure‖, Journal Of Financial
Economics, 3, 305-360.
Jin, Y., Yan, M., Xi, Y., & Liu, C. (2016), ―Stock Price Synchronicity And Stock
Price Crash Risk‖, China Finance Review International.
John, K., & Williams, J. (1985), ―Dividends, Dilution, And Taxes: A Signalling
Equilibrium‖, The Journal Of Finance, 40, 1053-1070.
Johnson, M. (1999), ―Non-Profit Organisations And The Internet‖.
Jonas, G. J., Blanchet, J. (2000), ―Assessing Quality Of Financial Reporting‖,
Accounting Horizons, 14, 353.
Jones, T. M. (1991), ―Ethical Decision Making By Individuals In Organizations: An
Issue-Contingent Model‖, Academy Of Management Review, 16, 366-395.
Karanasos, M., & Kim, J. (2003), ―Moments Of The Arma–Egarch Model‖, The
Econometrics Journal, 6(1), 146-166.
Kaushik, M., Chauhan, G., Mathiyazhagan, K., Ojha, R., & Kumar, M. (2019),
―Reducing Rejections Using Six Sigma: A Case From Indian Automobile
Component Manufacturing Industry‖, International Journal Of Services And
Operations Management, 33(1), 69-86.
Keating, A. S., & Zimmerman, J. L. (1999), ―Depreciation-Policy Changes: Tax,
Earnings Management, And Investment Opportunity Incentives‖ Journal Of
Accounting And Economics, 28(3), 359-389.
Khajavi, S., Ghadirian-Arani, M.-H., & Fattahi-Nafchi, H. (2016), ―Intellectual
Capital And Earnings Quality: A Comprehensive Investigation‖ International
Journal Of Learning And Intellectual Capital, 13(4), 316-337.
Khanh, H. T. M., & Nguyen, V. K. (2018), ―Audit Quality, Firm Characteristics
And Real Earnings Management: The Case Of Listed Vietnamese Firms‖,
International Journal Of Economics And Financial Issues, 8(4), 243.
Khuong, N. V., Ha, N. T. T., & Thu, P. A. (2019), ―The Relationship Between Real
Earnings Management And Firm Performance: The Case Of Energy Firms In
Vietnam‖, International Journal Of Energy Economics And Policy, 9(2), 307-
314.
Kim, E. H., & Purnanandam, A. (2014), ―Seasoned Equity Offerings, Corporate
Governance, And Investments‖, Review Of Finance, 18(3), 1023-1057.
Kiviet, J. F. (1995), ―On Bias, Inconsistency, And Efficiency Of Various Estimators
In Dynamic Panel Data Models‖, Journal Of Econometrics, 68(1), 53-78.
Kormendi, R., & Lipe, R. (1987), ―Earnings Innovations, Earnings Persistence, And
Stock Returns‖, Journal Of Business, 323-345.
Kothari, S. P., Leone, A. J., & Wasley, C. E. (2005), ―Performance Matched
Discretionary Accrual Measures‖, Journal Of Accounting And Economics,
39(1), 163-197.
Kanagaretnam, K., Lim, C. Y., & Lobo, G. J. (2011), ―Effects Of National Culture
On Earnings Quality Of Banks‖, Journal Of International Business Studies,
42, 853-874.
Kankanamage, C. (2016), ―The Relationship Between Board Characteristics And
Earnings Management: Evidence From Sri Lankan Listed Companies‖,
Kelaniya Journal Of Management, 4.
Kaplan, S. N., & Zingales, L. (1997), ―Do Investment-Cash Flow Sensitivities
Provide Useful Measures Of Financing Constraints?‖, The Quarterly Journal
Of Economics, 112, 169-215.
Kapoor, N., & Goel, S. (2017), ―Board Characteristics, Firm Profitability And
Earnings Management: Evidence From India‖, Australian Accounting Review,
27, 180-194.
Karami, A., & Akhgar, M. (2014), ―Effect Of Company’s Size And Leverage
Features On The Quality Of Financial Reporting Of Companies Listed In
Tehran Stock Exchange‖, Interdisciplinary Journal Of Contemporary
Research In Business, 6, 71-81.
Karami, G., Kordlar, A. E., Amini, Y., & Hajipour, S. (2014), ―Earnings
Management And Underpricing Of Initial Public Offerings (Ipo), Evidence
From Iran‖, International Business Research, 7, 1913-9012.
Karpoff, J. M., Lee, D. S., & Martin, G. S. (2008), ―The Cost To Firms Of Cooking
The Books‖, Journal Of Financial And Quantitative Analysis, 43, 581-611.
Khalil, M., & Ozkan, A. (2016), ―Board Independence, Audit Quality And Earnings
Management: Evidence From Egypt‖, Journal Of Emerging Market Finance,
15, 84-118.
Khan, U., Peddireddy, V., & Rajgopal, S. (2019), ―Earnings Quality On The
Street‖. Available At Ssrn 3347217.
Kilgore, A. (2007), ―Corporate Governance, Professional Regulation And Audit
Quality‖, Management & Accounting Review (Mar), 6, 65-84.
Kim-Soon, N., Rahman, A., & Visvalingam, L. (2014) ―Can It Be Used To
Differentiate Guest’s Perception Of Service Quality Of 3 Star From A 4 Star
Hotel‖, International Business Research, 7, 37-47.
Kim, S.-H., & Lee, K. H. (2014), ―Pricing Of Liquidity Risks: Evidence From
Multiple Liquidity Measures‖, Journal Of Empirical Finance, 25, 112-133.
Kim, S., & Park, H. (2013), ―Effects Of Various Characteristics Of Social
Commerce (S-Commerce) On Consumers’ Trust And Trust Performance‖,
International Journal Of Information Management, 33, 318-332.
Kinney Jr, W. R., & Mcdaniel, L. S. (1989), ―Characteristics Of Firms Correcting
Previously Reported Quarterly Earnings‖, Journal Of Accounting And
Economics, 11, 71-93.
Klai, N., & Omri, A. (2011), ―Corporate Governance And Financial Reporting
Quality: The Case Of Tunisian Firms‖, International Business Research, 4,
158-166.
Klassen, K. J., Pittman, J. A., Reed, M. P., & Fortin, S. (2004), ―A CrossNational
Comparison Of R&D Expenditure Decisions: Tax Incentives And Financial
Constraints‖, Contemporary Accounting Research, 21, 639-680.
Klein, A. (2002), ―Economic Determinants Of Audit Committee Independence‖,
The Accounting Review, 77, 435-452.
Koo, D. S., & Ramalingegowda, S., Yu, Y. (2017), ―The Effect Of Financial
Reporting Quality On Corporate Dividend Policy‖, Review Of Accounting
Studies, 22, 753-790.
Kosi, U., & Valentincic, A. (2013), ―Write-Offs And Profitability In Private Firms:
Disentangling The Impact Of Tax-Minimisation Incentives‖, European
Accounting Review, 22, 117-150.
Krishnan, G. V. (2003), ―Audit Quality And The Pricing Of Discretionary
Accruals‖, Auditing: A Journal Of Practice & Theory, 22, 109-126.
Kumari, P., & Pattanayak, J. (2014), ―The Role Of Board Characteristics As A
Control Mechanism Of Earnings Management: A Study Of Select Indian
Service Sector Companies‖, Iup Journal Of Corporate Governance, 13, 58.
Kurt, A. C. (2018), ―How Do Financial Constraints Relate To Financial Reporting
Quality? Evidence From Seasoned Equity Offerings‖, European Accounting
Review, 27, 527-557.
Lambert, R. A., & Larcker, D. F. (1987), ―An Analysis Of The Use Of Accounting
And Market Measures Of Performance In Executive Compensation
Contracts‖, Journal Of Accounting Research, 85-125.
Le, H. T. M., Kweh, Q. L., Ting, I. W. K., & Nourani, M. (2020), ―Ceo Power And
Earnings Management: Dual Roles Of Foreign Shareholders In Vietnamese
Listed Companies‖, International Journal Of Finance & Economics.
Lee, Z., Ophus, C., Fischer, L., Nelson-Fitzpatrick, N., Westra, K., Evoy, S., &
Mitlin, D. (2006), ―Metallic Nems Components Fabricated From
Nanocomposite Al–Mo Films. Nanotechnology‖, 17(12), 3063.
Linck, J. S., Netter, J., & Shu, T. (2013), ―Can Managers Use Discretionary
Accruals To Ease Financial Constraints? Evidence From Discretionary
Accruals Prior To Investment‖, The Accounting Review, 88(6), 2117-2143.
Linn, M., & Weagley, D. (2019), ―Estimating Financial Constraints With Machine
Learning‖, Available At Ssrn 3375048.
Lipe, R. (1990), ―The Relation Between Stock Returns And Accounting Earnings
Given Alternative Information‖, Accounting Review, 49-71.
Lo, H. C., Wu, R. S., & Kweh, Q. L. (2017), ―Do Institutional Investors Reinforce
Or Reduce Agency Problems? Earnings Management And The Post-Ipo
Performance‖, International Review Of Financial Analysis, 52, 62-76.
Louis, H. (2004), ―Earnings Management And The Market Performance Of
Acquiring Firms‖, Journal Of Financial Economics, 74(1), 121-148.
Louis, H., & Robinson, D. (2005), ―Do Managers Credibly Use Accruals To Signal
Private Information? Evidence From The Pricing Of Discretionary Accruals
Around Stock Splits‖, Journal Of Accounting And Economics, 39(2), 361-380.
Laffont, J.-J., & Martimort, D. (2009), ―The Theory Of Incentives: The Principal-
Agent Model‖, Princeton University Press.
Lambert, R. A. (1984), ―Income Smoothing As Rational Equilibrium Behavior‖,
Accounting Review, 604-618.
Lambert, T. A., Jones, K. L., Brazel, J. F., & Showalter, D. S. (2017), ―Audit Time
Pressure And Earnings Quality: An Examination Of Accelerated Filings‖,
Accounting, Organizations And Society, 58, 50-66.
Lang, M. H., Lins, K. V., & Miller, D. P. (2004), ―Concentrated Control, Analyst
Following, And Valuation: Do Analysts Matter Most When Investors Are
Protected Least?‖, Journal Of Accounting Research, 42, 589-623.
Lanouar, C., Riahi, R., & Omri, A. (2013), ―The Determinants Of Earnings
Management In Developing Countries: A Study In The Tunisian Context‖,
The Iup Journal Of Corporate Governance, 12, 35-49.
Law, K. K., & Mills, L. F. (2015), ―Taxes And Financial Constraints: Evidence
From Linguistic Cues‖, Journal Of Accounting Research, 53, 777-819.
Lawson, B. P., & Wang, D. (2016), ―The Earnings Quality Information Content Of
Dividend Policies And Audit Pricing‖, Contemporary Accounting Research,
33, 1685-1719.
Le, T., Mai, V., & Nguyen, V. (2020b), ―Determinants Of Profitability: Evidence
From Construction Companies Listed On Vietnam Securities Market‖,
Management Science Letters, 10, 523-530.
Lee, C.-W. J., Li, L. Y., & Yue, H. (2006), ―Performance, Growth And Earnings
Management‖, Review Of Accounting Studies, 11, 305-334.
Lennox, C., Wu, X., & Zhang, T. (2016), ―The Effect Of Audit Adjustments On
Earnings Quality: Evidence From China‖, Journal Of Accounting And
Economics, 61, 545-562.
Lestari, N., & Rahayu, U. (2017), ―Influence Earning Quality And Liquidity Of
Cost Of Capital‖, Journal Of Applied Managerial Accounting, 1, 62-69.
Li, H., Meng, L., Wang, Q., & Zhou, L.-A. (2008), ―Political Connections,
Financing And Firm Performance: Evidence From Chinese Private Firms‖,
Journal Of Development Economics, 87, 283-299.
Lin, F., & Wu, S.-F. (2014), ―Comparison Of Cosmetic Earnings Management For
The Developed Markets And Emerging Markets: Some Empirical Evidence
From The United States And Taiwan‖, Economic Modelling, 36, 466-473.
Lintner, J. (1956), ―Distribution Of Incomes Of Corporations Among Dividends,
Retained Earnings, And Taxes‖, The American Economic Review, 46, 97-113.
Lisic, L. L., Myers, L. A., Seidel, T. A., & Zhou, J. (2019), ―Does Audit Committee
Accounting Expertise Help To Promote Audit Quality? Evidence From
Auditor Reporting Of Internal Control Weaknesses‖, Contemporary
Accounting Research, 36, 2521-2553.
Lundholm, R., & O'keefe, T. (2001), ―Reconciling Value Estimates From The
Discounted Cash Flow Model And The Residual Income Model‖,
Contemporary Accounting Research, 18, 311-335.
Mangala, D., & Dhanda, M. (2019), ―Earnings Management And Performance Of
Ipo Firms: Evidence From India‖, Indian Journal Of Corporate Governance,
12(1), 39-58.
Mcvay, J., Kmatz, J., Smith, D. F., & San Ching, W. (2006), ―Exercise Device:
Google Patents‖.
Morsfield, S. G., & Tan, C. E. (2006), ―Do Venture Capitalists Influence The
Decision To Manage Earnings In Initial Public Offerings?‖ The Accounting
Review, 81(5), 1119-1150.
Ma, T. (2012), ―Financial Reporting Quality And Information Asymmetry:
Evidence From The Chinese Stock Market‖, Olin Business School
Washington University, St. Louis.
Malkiel, B. (2003), The Dividend Bounce. Wall Street Journal.
Matsumoto, D. A. (2002), ―Management's Incentives To Avoid Negative Earnings
Surprises‖, The Accounting Review, 77, 483-514.
Mcnichols, M. F. (2002), ―Discussion Of The Quality Of Accruals And Earnings:
The Role Of Accrual Estimation Errors‖, The Accounting Review, 77, 61-69.
Mcnichols, M. F., & Stubben, S. R. (2008), ―Does Earnings Management Affect
Firms’ Investment Decisions?‖, The Accounting Review, 83, 1571-1603.
Menon, A., Jaworski, B. J., & Kohli, A. K. (1997), ―Product Quality: Impact Of
Interdepartmental Interactions‖, Journal Of The Academy Of Marketing
Science, 25, 187.
Miller, M. H., & Rock, K. (1985), ―Dividend Policy Under Asymmetric
Information‖, The Journal Of Finance, 40, 1031-1051.
Miloud, T. (2014), ―Offer Price, Target Ownership Structure And Post-Listing
Liquidity Of Newly Listed Firms‖, Managerial Finance.
Mohammad, W. M. W., & Wasiuzzaman, S. (2019), ―Effect Of Audit Committee
Independence, Board Ethnicity And Family Ownership On Earnings
Management In Malaysia‖, Journal Of Accounting In Emerging Economies.
Mohiuddin, M., & Karbhari, Y. (2010), ―Audit Committee Effectiveness: A Critical
Literature Review‖, Aiub Journal Of Business And Economics, 9, 97-125.
Mousa, G. A., & Desoky, A. (2019), ―The Effect Of Dividend Payments And
Firm’s Attributes On Earnings Quality: Empirical Evidence From Egypt‖,
Investment Management And Financial Innovations, 14-29.
Mulgrew, M., & Forker, J. (2006), ―Independent Non-Executive Directors And
Earnings Management In The Uk‖, Irish Accounting Review, 13.
Mulier, K., Schoors, K., & Merlevede, B. (2016), ―Investment-Cash Flow
Sensitivity And Financial Constraints: Evidence From Unquoted European
Smes‖, Journal Of Banking & Finance, 73, 182-197.
Muttakin, M. B., Khan, A., & Mihret, D. G. (2017), ―Business Group Affiliation,
Earnings Management And Audit Quality: Evidence From Bangladesh‖,
Managerial Auditing Journal.
Myers, B. (2000), ―E-Learning: Asset Or Anathema‖, Retrieved June, 18, 2005.
Myers, S. C., & Majluf, N. S. (1984), ―Corporate Financing And Investment
Decisions When Firms Have Informationthat Investors Do Not Have‖,
National Bureau Of Economic Research.
Modigliani, F., & Miller, M. H. (1959), ―The Cost Of Capital, Corporation Finance,
And The Theory Of Investment: Reply‖, The American Economic Review, 49,
655-669.
Moses, O. D. (1987), ―Income Smoothing And Incentives: Empirical Tests Using
Accounting Changes‖, Accounting Review, 358-377.
Narenhra, V. (2013), ―Liquidity, Profitability And Efficiency Analysis: An
Empirical Research On Indian Pharmaceutical Industry‖, International
Journal Of Applied Financial Management Perspectives, 2(2), 367.
Nickell, S. (1981), ―Biases In Dynamic Models With Fixed Effects‖, Econometrica:
Journal Of The Econometric Society, 1417-1426.
Nissim, D., & Penman, S. (2000), ―The Empirical Relationship Between Interest
Rates And Accounting Rates Of Return‖, Working Paper, Columbia
University.
Narayanan, M. (1985), ―Managerial Incentives For Short Term Results‖, The
Journal Of Finance, 40, 1469-1484.
Narayanaswamy, R., & Raghunandan, K. (2019), ―The Effect Of Mandatory Audit
Firm Rotation On Audit Quality, Audit Fees And Audit Market Concentration:
Evidence From India‖, Iim Bangalore Research Paper.
Nariman, A., & Ekadjaja, M. (2018), ―Implikasi Corporate Governance, Investment
Opportunity Set, Firm Size, Dan Leverage Terhadap Earnings Quality‖, Jurnal
Ekonomi, 23, 33-47.
Nehi, H. M. (2010), ―A New Ranking Method For Intuitionistic Fuzzy Numbers‖,
International Journal Of Fuzzy Systems, 12.
Nguyen, T. H. (2016), ―The Impact Of Board Of Directors And Ownership
Characteristics On Earnings Management Of Publicly Listed Firms In
Vietnam‖, University Of Twente.
Nisansala, K., & Menike, L. (2018), Audit Quality, Earnings Management And
Financial Performance: Evidence From Colombo Stock Exchange. Volume
Vii.
Nuryatno, M., Nazir, N., & Rahmayanti, M. (2019), ―Hubungan Antara
Pengungkapan, Informasi Asimetri Dan Biaya Modal‖, Jurnal Informasi,
Perpajakan, Akuntansi, Dan Keuangan Publik, 2, 9-26.
Ocak, M., & Can, G. (2018), ―Engagement Partner Attributes And Earnings
Quality: Evidence From Borsa İstanbul‖, Afro-Asian Journal Of Finance And
Accounting, 8, 351-388.
Okaro, S., & Okafor, G. (2014), ―Joint Provision Of Audit And Non-Audit Services
In Nigeria: An Empirical Study‖, Iup Journal Of Accounting Research &
Audit Practices, 13.
Okike, E. N. (2007), ―Corporate Governance In Nigeria: The Status Quo. Corporate
Governance‖, An International Review, 15, 173-193.
Orazalin, N. (2019), ―Corporate Governance And Corporate Social Responsibility
(Csr) Disclosure In An Emerging Economy: Evidence From Commercial
Banks Of Kazakhstan‖, Corporate Governance: The International Journal Of
Business In Society.
Parte-Esteban, L., & García, C. F. (2014), ―The Influence Of Firm Characteristics
On Earnings Quality‖, International Journal Of Hospitality Management, 42,
50-60.
Penman, S. H. (2007), ―Financial Reporting Quality: Is Fair Value A Plus Or A
Minus?, Accounting And Business Research, 37(Sup1), 33-44.
Perotti, P., & Wagenhofer, A. (2014), ―Earnings Quality Measures And Excess
Returns‖, Journal Of Business Finance & Accounting, 41(5-6), 545-571.
Platt, H. D., Platt, M. B., & Pedersen, J. G. (1994), ―Bankruptcy Discrimination
With Real Variables‖, Journal Of Business Finance & Accounting, 21(4), 491-
510.
Porter, M. E. (1980), ―Industry Structure And Competitive Strategy: Keys To
Profitability‖, Financial Analysts Journal, 36(4), 30-41.
Premti, A., & Smith, G. (2020), ―Earnings Management In The Pre-Ipo Process:
Biases And Predictors‖, Research In International Business And Finance, 52,
101120.
Pagalung, G., & Sudibdyo, B. (2018), ―The Determinant Factors Of Earnings
Quality And Economic Consequences‖. Ekuitas (Jurnal Ekonomi Dan
Keuangan), 16, 105-122.
Pearson, K. (1896), ―Mathematical Contributions To The Theory Of Evolution
Regression, Heredity, And Panmixia Philosophical Transactions Of The Royal
Society Of London‖, Series A, Containing Papers Of A Mathematical Or
Physical Character, 253-318.
Pearson, K., & Filon, L. N. G. (1898), ―Mathematical Contributions To The Theory
Of Evolution. Iv. On The Probable Errors Of Frequency Constants And On
The Influence Of Random Selection On Variation And Correlation‖,
Proceedings Of The Royal Society Of London, 62, 173-176.
Peasnell, K. V., Pope, P. F., & Young, S. (2005), ―Board Monitoring And Earnings
Management: Do Outside Directors Influence Abnormal Accruals?‖, Journal
Of Business Finance & Accounting, 32, 1311-1346.
Penman, S. H., & Sougiannis, T. (1998), ―A Comparison Of Dividend, Cash Flow,
And Earnings Approaches To Equity Valuation‖, Contemporary Accounting
Research, 15, 343-383.
Penman, S. H., & Zhang, X. (2003), ―Modeling Sustainable Earnings And P/E
Ratios Using Financial Statement Information‖, Unpublished Paper.
Penman, S. H., & Zhang, X. J. (2002), ―Accounting Conservatism, The Quality Of
Earnings, And Stock Returns‖, The Accounting Review, 77, 237-264.
Pettit, R. R. (1972), ―Dividend Announcements, Security Performance, And Capital
Market Efficiency‖, The Journal Of Finance, 27, 993-1007.
Pham, N. K., Duong, H. N., Quang, T. P., Thuy, & N. H. T. (2017), ―Audit Firm
Size, Audit Fee, Audit Reputation And Audit Quality: The Case Of Listed
Companies In Vietnam‖, Asian Journal Of Finance & Accounting, 9, 429-447.
Piot, C., & Janin, R. (2007), ―External Auditors, Audit Committees And Earnings
Management In France‖, European Accounting Review, 16, 429-454.
Platt, H. D., & Platt, M. B. (1990), ―Development Of A Class Of Stable Predictive
Variables: The Case Of Bankruptcy Prediction‖, Journal Of Business Finance
& Accounting, 17, 31-51.
Pratt, J. (2010), ―Financial Accounting In An Economic Context‖, John Wiley &
Sons.
Pukelsheim, F. (1994), ―Optimal Design Of Experiments‖, Journal Of The
Operational Research Society, 45, 961-961.
Putra, N. Y., & Subowo, S. (2016), ―The Effect Of Accounting Conservatism,
Investment Opportunity Set, Leverage, And Company Size On Earnings
Quality‖, Accounting Analysis Journal, 5, 299-306.
Qamar, M. A. J., Farooq, U., Afzal, H., & Akhtar, W. (2016a), ―Determinants Of
Debt Financing And Their Moderating Role To Leverage-Performance
Relation: An Emerging Market Review‖. International Journal Of Economics
And Finance, 8, 300.
Qamar, M. A. J., Masood, S., & Khan, M. M. (2016b), ―Impact Of Capital Structure
On Profitability Of Commercial Banks Listed On Karachi Stock Exchange‖,
International Journal Of Empirical Finance, 5, 78-87.
Qamar, M. A. J., Farooq, U., Afzal, H., & Akhtar, W. (2016), Determinants Of Debt
Financing And Their Moderating Role To Leverage.
Rangan, S. (1998), ―Earnings Management And The Performance Of Seasoned
Equity Offerings‖, Journal Of Financial Economics, 50(1), 101-122.
Richardson, S. A., Sloan, R. G., Soliman, M. T., & Tuna, I. (2005), ―Accrual
Reliability, Earnings Persistence And Stock Prices‖, Journal Of Accounting
And Economics, 39(3), 437-485.
Roberts, M., & Whited, T. (2011), Endogeneity In Corporate Finance Wharton
Working Paper.
Rahaman, M. M. (2011), ―Access To Financing And Firm Growth‖, Journal Of
Banking & Finance, 35, 709-723.
Rajgopal, S., & Venkatachalam, M. (2011), ―Financial Reporting Quality And
Idiosyncratic Return Volatility‖, Journal Of Accounting And Economics, 51,
1-20.
Ramadan, I. Z. (2015), ―Earnings Quality Determinants Of The Jordanian
Manufacturing Listed Companies‖, International Journal Of Economics And
Finance, 7, 140-146.
Revsine, L., Collins, D. W., Johnson, W. B., Mittelstaedt, H. F., & Soffer, L. C.
(1999), ―Financial Reporting & Analysis, Prentice Hall Upper Saddle River
Enew Jersey New Jersey‖.
Richardson, S. (2003), ―Earnings Surprises And Short Selling‖, Accounting
Horizons, 17, 49-61.
Richardson, S., Sloan, R., & Soliman, M. Irem Tuna (2001), ―Information In
Accruals About The Quality Of Earnings‖. Working Paper
Roberts, M., & Whited, T. (2011), ―Endogeneity In Corporate Finance‖, Wharton
Working Paper.
Ronen, J., & Yaari, V. (2008), ―Definition Of Earnings Management‖.
Roychowdhury, S. (2006), ―Earnings Management Through Real Activities
Manipulation‖, Journal Of Accounting And Economics, 42, 335-370.
Rozeff, M. S. (1982), ―Growth, Beta And Agency Costs As Determinants Of
Dividend Payout Ratios‖, Journal Of Financial Research, 5, 249-259.
Rusmin, R. (2010), ―Auditor Quality And Earnings Management: Singaporean
Evidence‖, Managerial Auditing Journal.
Schiemann, F., & Guenther, T. (2013), ―Earnings Predictability, Value Relevance,
And Employee Expenses‖, The International Journal Of Accounting, 48(2),
149-172.
Sepasi, S., Kazempour, M., & Mansourlakoraj, R. (2016), ―Ownership Structure
And Disclosure Quality: Case Of Iran‖, Procedia Economics And Finance, 36,
108-112.
Shivakumar, L. (2000), ―Do Firms Mislead Investors By Overstating Earnings
Before Seasoned Equity Offerings?‖, Journal Of Accounting And Economics,
29(3), 339-371.
Sletten, E., Ertimur, Y., Sunder, J., & Weber, J. (2018), ―When And Why Do Ipo
Firms Manage Earnings?‖, Review Of Accounting Studies, 23(3), 872-906.
Stein, J. C. (1989), ―Efficient Capital Markets, Inefficient Firms: A Model Of
Myopic Corporate Behavior‖, The Quarterly Journal Of Economics, 104(4),
655-669.
Subramanyam, K. (1996), ―The Pricing Of Discretionary Accruals‖, Journal Of
Accounting And Economics, 22(1-3), 249-281.
Saidin, S. (2007), ―Audit Committee Characteristics And Quality Of Unaudited
Financial Accounts‖.
Salawu, M. K. (2016), ―Auditor Independence And Earnings Quality Of Listed
Companies In Nigeria (2006-2013)‖, Obafemi Awolowo University.
Salehi, A., Mohammadi, S., & Afshari, M. (2017), ―Impact Of Institutional
Ownership And Board Independence On The Relationship Between Excess
Free Cash Flow And Earnings Management‖, Advances In Mathematical
Finance And Applications, 2, 91-105.
Salehi, M., Zanjirdar, M., & Zarei, F. (2012), ―Factors Affecting The Quality Of
Audit Committee: A Study‖, Iup Journal Of Accounting Research & Audit
Practices, 11, 34.
Santos-Cabalgante, B., Osma, B. G., & Fúnez, D. R. (2016), ―Earnings Quality In
Railway Companies During The 19th Century: The Case Of Spanish Norte
And Mza‖.
Savov, S., & Weber, M. (2006), ―Fundamentals Or Market Movements: What
Drives The Dividend Decision?‖
Sayari, S., & Omri, A. (2017), ―Earnings Management, Accruals And Stock
Liquidity‖, The Journal Of Finance, 5, 17-28.
Schipper, K., & Vincent, L. (2003), ―Earnings Quality‖, Accounting Horizons, 17,
97-110.
Setin, S., & Murwaningsari, E. (2018), ―The Effect Of Managerial Ability Towards
Earning Quality With Audit Committee As Moderating Variable‖, Journal Of
Business And Retail Management Research, 12.
Šidák, Z. (1967), ―Rectangular Confidence Regions For The Means Of Multivariate
Normal Distributions‖, Journal Of The American Statistical Association, 62,
626-633.
Singh, S. P., Reynolds, R. G., & Muhammad, S. (2001), ―A GenderBased
Performance Analysis Of Micro And Small Enterprises In Java, Indonesia‖,
Journal Of Small Business Management, 39, 174-182.
Skinner, D. J., & Soltes, E. (2011), ―What Do Dividends Tell Us About Earnings
Quality?‖, Review Of Accounting Studies, 16, 1-28.
Sloan, R. G. (1996), ―Do Stock Prices Fully Reflect Information In Accruals And
Cash Flows About Future Earnings?‖, Accounting Review, 289-315.
Smith, D. D., & Pennathur, A. K. (2019), ―Signaling Versus Free Cash Flow
Theory: What Does Earnings Management Reveal About Dividend
Initiation?‖, Journal Of Accounting, Auditing & Finance, 34, 284-308.
Smith Jr, C. W., & Watts, R. L. (1992), ―The Investment Opportunity Set And
Corporate Financing, Dividend, And Compensation Policies‖, Journal Of
Financial Economics, 32, 263-292.
Snedecor, G. W., & Cochran, W. G. (1989), ―Statistical Methods, 8thedn. Ames:
Iowa State Univ‖, Press Iowa, 54, 71-82.
Soedarmono, W., Trinugroho, I., & Sergi, B. S. (2019), ―Thresholds In The Nexus
Between Financial Deepening And Firm Performance: Evidence From
Indonesia‖, Global Finance Journal, 40, 1-12.
Souther, M. E. (2019), ―Does Board Independence Increase Firm Value? Evidence
From Closed-End Funds‖, Journal Of Financial And Quantitative Analysis, 1-
47.
Spence, M. (2002), ―Signaling In Retrospect And The Informational Structure Of
Markets‖, American Economic Review, 92, 434-459.
Stiglitz, J. E., & Weiss, A. (1981), ―Credit Rationing In Markets With Imperfect
Information‖, The American Economic Review, 71, 393-410.
Sunder, S., & Cyert, R. M. (1997), ―Theory Of Accounting And Control, South-
Western College Pub‖.
Susanto, Y. K., Pradipta, A., & Djashan, I. A. (2017), ―Free Cash Flow And
Earnings Management: Board Of Commissioner, Board Independence And
Audit Quality‖. Corporate Ownership And Control, 14, 284-288.
Suteja, J., Gunardi, A., & Mirawati, A. (2016), ―Moderating Effect Of Earnings
Management On The Relationship Between Corporate Social Responsibility
Disclosure And Profitability Of Banks In Indonesia‖, International Journal Of
Economics And Financial Issues, 6.
Suyono, E., & Al Farooque, O. (2018), ―Do Governance Mechanisms Deter
Earnings Management And Promote Corporate Social Responsibility?‖
Accounting Research Journal.
Sundgren, S., Mäki, J., & Somoza-López, A. (2018), ―Analyst Coverage, Market
Liquidity And Disclosure Quality: A Study Of Fair-Value Disclosures By
European Real Estate Companies Under Ias 40 And Ifrs 13‖, The International
Journal Of Accounting, 53, 54-75.
Takhtaei, N., & Mousavi, Z. (2012), ―Disclosure Quality And Firm's
Characteristics: Evidence From Iran‖, Asian Journal Of Finance And
Accounting, 4(2), 290-300.
Teoh, S. H., Welch, I., & Wong, T. J. (1998a), ―Earnings Management And The
Long-Run Market Performance Of Initial Public Offerings‖, The Journal Of
Finance, 53(6), 1935-1974.
Teoh, S. H., Welch, I., & Wong, T. J. (1998b), ―Earnings Management And The
Underperformance Of Seasoned Equity Offerings‖, Journal Of Financial
Economics, 50(1), 63-99.
Walker, G. T. (1931), ―On Periodicity In Series Of Related Terms. Proceedings Of
The Royal Society Of London‖. Series A, Containing Papers Of A
Mathematical And Physical Character, 131(818), 518-532.
Waweru, N. M., & Riro, G. K. (2013), ―Corporate Governance, Firm
Characteristics And Earnings Management In An Emerging Economy‖,
Journal Of Applied Management Accounting Research, 11(1), 43.
Wooldridge, J. M. (2015), ―Introductory Econometrics: A Modern Approach:
Nelson Education‖.
Whited, T. M., & Wu, G. (2006), ―Financial Constraints Risk‖, The Review Of
Financial Studies, 19, 531-559.
Wruck, K. H., & Wu, Y. (2017), ―Equity Incentives, Disclosure Quality, And Stock
Liquidity Risk‖, Charles A Dice Center Working Paper.
Xie, B., Davidson Iii, W. N., & Dadalt, P. J. (2003), ―Earnings Management And
Corporate Governance: The Role Of The Board And The Audit Committee‖,
Journal Of Corporate Finance, 9, 295-316.
Yosra, B. M., & Fawzia, J. (2015), ―Earnings Volatility And Earnings
Predictability‖, Journal Of Business Studies Quarterly, 6(3), 36.
Yu, S., Lord, R., Peni, E., & Vähämaa, S. (2010), ―Female Executives And
Earnings Management‖, Managerial Finance.
Yule, G. U. (1927), ―On Reading A Scale‖, Journal Of The Royal Statistical
Society, 90(3), 570-587.
Yang, Z., Aydın, G., Babich, V., & Beil, D. R. (2009), ―Supply Disruptions,
Asymmetric Information, And A Backup Production Option‖, Management
Science, 55, 192-209.
Yao, J., & Tangjitprom, N. (2019), ―Herding Behaviors In Asean Stock Markets‖,
Journal Of Economics And Management Strategy, 6.
Yermack, D. (1995), ―Do Corporations Award Ceo Stock Options Effectively?‖,
Journal Of Financial Economics, 39, 237-269.
Yousaf, I., Ali, S., & Shah, S. Z. A. (2018), ―Herding Behavior In Ramadan And
Financial Crises: The Case Of The Pakistani Stock Market‖, Financial
Innovation, 4, 16.
Yunos, M. Z., Harun, Z., Basri, H., & Ismail, A. F. (2014), ―Studies On Fouling By
Natural Organic Matter (Nom) On Polysulfone Membranes: Effect Of
Polyethylene Glycol (Peg)‖. Desalination, 333, 36-44.
Yusuf, M., Pagalung, G., & Rasyid, S. (2019), ―The Effect Of Company Size,
Liquidity, Profit Persistence, Supply Method, And Sales Growth On Earnings
Response Coefficient‖. Gsj, 7.
Tam, T. M., & Thanh, N. P. (2019), "Earnings Quality: Does State Ownership
Matter? Evidence From Vietnam". International Econometric Conference Of
Vietnam, 2019. Springer, 477-496.
Thanh, S. D., Canh, N. P., & Ha, N. T. T. (2020), "Debt Structure And Earnings
Management: A Non-Linear Analysis From An Emerging Economy", Finance
Research Letters, 35, 101283.
Thomas, J. K., & Zhang, H. (2002), "Inventory Changes And Future Returns",
Review Of Accounting Studies, 7, 163-187.
Thomaz, C. E., & Giraldi, G. A. (2010), "A New Ranking Method For Principal
Components Analysis And Its Application To Face Image Analysis‖, Image
And Vision Computing, 28, 902-913.
Thu, P. A., Khanh, T. H. T., Ha, N. T. T., & Khuong, N. V. (2018), "Perceived
Audit Quality, Earnings Management And Cost Of Debt Capital: Evidence
From The Energy Listed Firms On Vietnam’s Stock Market", International
Journal Of Energy Economics And Policy, 8, 120-127.
Tong, Y. H., & Miao, B. (2011), "Are Dividends Associated With The Quality Of
Earnings?", Accounting Horizons, 25, 183-205.
Tran, T. Q., Ly, A. H., & Nguyen, D. K. N. (2020), "Relationship Between
Ownership Structures And Earnings Management Behavior In Vietnamese
Commercial Banks", The Journal Of Asian Finance, Economics, And
Business, 7, 401-407.
Uzun, H., Szewczyk, S. H., & Varma, R. (2004), "Board Composition And
Corporate Fraud", Financial Analysts Journal, 60, 33-43.
Van Tendeloo, B., & Vanstraelen, A. (2008), "Earnings Management And Audit
Quality In Europe: Evidence From The Private Client Segment Market",
European Accounting Review, 17, 447-469.
Vanstraelen, A. (2000), "Impact Of Renewable Long-Term Audit Mandates On
Audit Quality", European Accounting Review, 9, 419-442.
Vo, X. V., & Chu, T. K. H. (2019), "Do Foreign Shareholders Improve Corporate
Earnings Quality In Emerging Markets? Evidence From Vietnam", Cogent
Economics & Finance, 7, 1698940.
Wang, F., Sun, J., & Anderson, M. C. (2018), "How Does Employment Change
With Changes In Sales Activity?".
Warfield, T. D., Wild, J. J., & Wild, K. L. (1995), "Managerial Ownership,
Accounting Choices, And Informativeness Of Earnings", Journal Of
Accounting And Economics, 20, 61-91.
Warrad, L. H. (2017), "The Effect Of Market Valuation Measures On Stock Price:
An Empirical Investigation On Jordanian Banks", International Journal Of
Business And Social Science, 8, 67-74.
Watts, R. L. (2003), "Conservatism In Accounting Part I: Explanations And
Implications", Accounting Horizons, 17, 207-221.
Watts, R. L., & Zimmerman, J. L. (1986), Positive Accounting Theory.
Waweru, N. M., & Prot, N. P. (2018), "Corporate Governance Compliance And
Accrual Earnings Management In Eastern Africa", Managerial Auditing
Journal.
Zariffard, A., & Nazemi, A. (2004), "Accounting Earning And Cash Flow As
Measures Of Firm Performance: An Empirical Investigation Of Tehran Stock
Exchange (Tse)".
Zattoni, A., Witt, M. A., Judge, W. Q., Talaulicar, T., Chen, J. J., Lewellyn, K., Hu,
H. W., Gabrielsson, J., Rivas, J. L., & Puffer, S. (2017), "Does Board
Independence Influence Financial Performance In Ipo Firms? The Moderating
Role Of The National Business System", Journal Of World Business, 52, 628-
639.
Zhang, M., & Wang, Y.-M. (2020), "Network Correlation Between Investor’s
Herding Behavior And Overconfidence Behavior", Chinese Physics B, 29,
048901.
Zhong, L., Chourou, L., & Ni, Y. (2017), "On The Association Between Strategic
Institutional Ownership And Earnings Quality: Does Investor Protection
Strength Matter?" Journal Of Accounting And Public Policy, 36, 429-450.
Zhu, Z., & Shen, X. (2016),"The Relationship Between The Quality Of Accounting
Information Disclosure And The Liquidity—Based On The Neeq Market",
International Conference On Logistics, Informatics And Service Sciences
(Liss), 2016. Ieee, 1-4.
Zureigat, Q. (2010), "The Effect Of Modified Auditors Opinions On Shares Prices
Evidence From Amman Stock Exchange", Jordan Journal Of Business
Administration, 6, 210-224.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Đặng Đức Tiệp, Nguyễn Thanh Tú (2018), Các nhân tố ảnh hƣởng đến mức
độ công bố thông tin tự nguyện trên báo cáo thƣờng niên của công ty thuộc
nhóm ngành bất động sản trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam, Kỷ yếu
Hội nghị Khoa học Công nghệ, Đại học Công nghệ Tp.Hồ Chí Minh, 112-
118.
2. Nguyễn Thanh Tú, Nguyễn Văn Bảo (2018), Cơ cấu sở hữu và hành vi quản
trị lợi nhuận của các Công ty niêm yết trên HoSE, Tạp chí Tài chính, 688, 50-
54.
3. Nguyễn Văn Bảo, Nguyễn Thanh Tú (2018), Các nhân tố ảnh hƣởng đến tính
kịp thời của báo cáo tài chính – nghiên cứu thực nghiệm trên thị trƣờng
chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, 180, 24-31.
4. Nguyễn Thanh Tú, Trần Thị Mỹ Trinh (2018), Nhân tố ảnh hƣởng đến chất
lƣợng lợi nhuận của các Công ty niêm yết trên HoSE, Tạp chí Tài chính, 690,
93-97.
5. Nguyễn Văn Bảo, Nguyễn Thanh Tú, Tạ Văn Trọng (2018), Các nhân tố ảnh
hƣởng đến mức độ công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết
trên Sở Giao dịch chứng khoán Tp.HCM, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, 183,
29-35.
6. Phạm Nguyễn Đình Tuấn, Trần Thị Bích Duyên, Nguyễn Thanh Tú (2018),
Vai trò kiểm toán độc lập trong quản trị lợi nhuận: Bằng chứng từ các công ty
niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam, Hội thảo khoa học cấp quốc gia –
ESR 2018, Đại học Công nghệ Tp.Hồ Chí Minh, 398-407.
7. Nguyễn Thanh Tú, Nguyễn Văn Bảo, Đặng Đức Tiệp (2018), Đặc điểm công
ty ảnh hƣởng đến hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết trên Sở
Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM, Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Công nghệ,
Đại học Công nghệ Tp.Hồ Chí Minh, 98-105.
8. Nguyễn Thanh Tú (2020), Uy tín công ty kiểm toán ảnh hƣởng đến lợi nhuận
của công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh, Tạp chí
Tài chính, 731, 71-73.
9. Nguyễn Thanh Tú (2020), Tổng quan lý thuyết về quản trị lợi nhuận và chất
lƣợng lợi nhuận, Tạp chí Tài chính, 732, 92-94.
10. Nguyễn Thanh Tú (2020), Ảnh hƣởng của quản trị công ty đến chất lƣợng lợi
nhuận của các công ty niêm yết trên HOSE, Tạp chí Tài chính, 741, 97-100.
PHỤ LỤC
PL1. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình POLS với chất lƣợng lợi nhuận đƣợc đo
lƣờng dựa trên phƣơng pháp dồn tích (accruals) với dữ liệu các công ty niêm
yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t
PL2. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình POLS với chất lƣợng lợi nhuận đƣợc đo
lƣờng dựa phƣơng pháp dồn tích (accruals) với dữ liệu các công ty niêm yết
lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t-1
PL3. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình POLS với chất lƣợng lợi nhuận đƣợc đo
lƣờng dựa vào giao dịch thực (real activites) với dữ liệu các công ty niêm yết
lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t
PL4. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình POLS với chất lƣợng lợi nhuận đƣợc đo
lƣờng dựa vào giao dịch thực (real activites) với dữ liệu các công ty niêm yết
lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t-1
PL5. Kết quả mô hình FEM với chất lƣợng lợi nhuận đƣợc đo lƣờng phƣơng
pháp dồn tích (accruals) với dữ liệu công ty niêm yết lần đầu tiên trên HOSE
và HNX ở thời kỳ t
PL6. Kết quả mô hình FEM với chất lƣợng lợi nhuận đƣợc đo lƣờng phƣơng
pháp dồn tích (accruals) với dữ liệu công ty niêm yết lần đầu tiên trên HOSE
và HNX ở thời kỳ t-1
PL7. Kết quả mô hình FEM với chất lƣợng lợi nhuận đƣợc đo lƣờng trên giao dịch
thực (real activites) với dữ liệu công ty niêm yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở
thời kỳ t
PL8. Kết quả mô hình FEM với chất lƣợng lợi nhuận đƣợc đo lƣờng trên giao dịch
thực (real activites) với dữ liệu công ty niêm yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở
thời kỳ t-1
PL9. Kết quả mô hình REM với chất lƣợng lợi nhuận đƣợc đo lƣờng dựa
phƣơng pháp dồn tích (accruals) với dữ liệu các công ty niêm yết lần đầu tiên
trên HOSE và HNX ở thời kỳ t
PL10. Kết quả mô hình REM với chất lƣợng lợi nhuận đƣợc đo lƣờng dựa
phƣơng pháp dồn tích (accruals) với dữ liệu các công ty niêm yết lần đầu tiên
trên HOSE và HNX ở thời kỳ t-1
PL11. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình REM với chất lƣợng lợi nhuận đƣợc đo
lƣờng dựa vào giao dịch thực (real activites ) với dữ liệu các công ty niêm yết
lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t
PL12. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình REM với chất lƣợng lợi nhuận đƣợc đo
lƣờng dựa vào giao dịch thực (real activites ) với dữ liệu các công ty niêm yết
lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t-1
PL13. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình SGMM với chất lƣợng lợi nhuận đƣợc đo
lƣờng dựa phƣơng pháp dồn tích (accruals) với dữ liệu các công ty niêm yết
lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t
PL14. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình SGMM với chất lƣợng lợi nhuận đƣợc đo
lƣờng dựa phƣơng pháp dồn tích (accruals) với dữ liệu các công ty niêm yết
lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t-1
PL15. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình SGMM với chất lƣợng lợi nhuận đƣợc đo
lƣờng dựa vào giao dịch thực (real activites ) với dữ liệu các công ty niêm yết
lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t
PL16. Kết quả ƣớc lƣợng mô hình SGMM với chất lƣợng lợi nhuận đƣợc đo
lƣờng dựa vào giao dịch thực (real activites ) với dữ liệu các công ty niêm yết
lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t-1
PL17. Đồ thị phân phối xác suất và kiểm tra tính chuẩn của phân phối
(normally distributed) trong phần dƣ ƣớc lƣợng từ mô hình PL 1 bằng chỉ số
Skewness và Kurtosis.
PL18. Đồ thị phân phối xác suất và kiểm tra tính chuẩn của phân phối
(normally distributed) trong phần dƣ ƣớc lƣợng từ mô hình PL 3 bằng chỉ số
Skewness và Kurtosis.
PL19. Đồ thị phân phối xác suất và kiểm tra tính chuẩn của phân phối
(normally distributed) trong phần dƣ ƣớc lƣợng từ mô hình PL 5 bằng chỉ số
Skewness và Kurtosis.
PL20. Đồ thị phân phối xác suất và kiểm tra tính chuẩn của phân phối
(normally distributed) trong phần dƣ ƣớc lƣợng từ mô hình PL 7 bằng chỉ số
Skewness và Kurtosis.
PL21. Đồ thị phân phối xác suất và kiểm tra tính chuẩn của phân phối
(normally distributed) trong phần dƣ ƣớc lƣợng từ mô hình PL 9 bằng chỉ số
Skewness và Kurtosis.
PL22. Đồ thị phân phối xác suất và kiểm tra tính chuẩn của phân phối
(normally distributed) trong phần dƣ ƣớc lƣợng từ mô hình PL 11 bằng chỉ số
Skewness và Kurtosis.
PL23. Đồ thị phân phối xác suất và kiểm tra tính chuẩn của phân phối
(normally distributed) trong phần dƣ ƣớc lƣợng từ mô hình PL 13 bằng chỉ số
Skewness và Kurtosis.
PL24. Đồ thị phân phối xác suất và kiểm tra tính chuẩn của phân phối
(normally distributed) trong phần dƣ ƣớc lƣợng từ mô hình PL 15 bằng chỉ số
Skewness và Kurtosis.
PL25: Kiểm định phƣơng sai thay đổi cho mô hình POLS với chất lƣợng lợi
nhuận đƣợc đo lƣờng dựa vào khoản dồn tích (Accruals) với dữ liệu các công
ty niêm yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t
PL26: Kiểm định phƣơng sai thay đổi cho mô hình POLS với chất lƣợng lợi
nhuận đƣợc đo lƣờng dựa vào khoản dồn tích (Accruals) với dữ liệu các công
ty niêm yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t-1
PL27: Kiểm định phƣơng sai thay đổi cho mô hình POLS với chất lƣợng lợi
nhuận đƣợc đo lƣờng dựa vào giao dịch thực (Real Activities) với dữ liệu các
công ty niêm yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t
PL28: Kiểm định phƣơng sai thay đổi cho mô hình POLS với chất lƣợng lợi
nhuận đƣợc đo lƣờng dựa vào giao dịch thực (Real Activities) với dữ liệu các
công ty niêm yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t-1
PL29: Kiểm định phƣơng sai thay đổi cho mô hình FE với chất lƣợng lợi
nhuận đƣợc đo lƣờng dựa vào khoản dồn tích (Accruals) với dữ liệu các công
ty niêm yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t
PL30: Kiểm định phƣơng sai thay đổi cho mô hình FE với chất lƣợng lợi
nhuận đƣợc đo lƣờng dựa vào khoản dồn tích (Accruals) với dữ liệu các công
ty niêm yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t-1
PL31: Kiểm định phƣơng sai thay đổi cho mô hình FE với chất lƣợng lợi
nhuận đƣợc đo lƣờng dựa vào giao dịch thực (Real Activities) với dữ liệu các
công ty niêm yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t
PL32: Kiểm định phƣơng sai thay đổi cho mô hình FE với chất lƣợng lợi
nhuận đƣợc đo lƣờng dựa vào giao dịch thực (Real Activities) với dữ liệu các
công ty niêm yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t-1
PL33: Kiểm định phƣơng sai thay đổi cho mô hình RE với chất lƣợng lợi
nhuận đƣợc đo lƣờng dựa vào khoản dồn tích (Accruals) với dữ liệu các công
ty niêm yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t
PL34: Kiểm định phƣơng sai thay đổi cho mô hình RE với chất lƣợng lợi
nhuận đƣợc đo lƣờng dựa vào khoản dồn tích (Accruals) với dữ liệu các công
ty niêm yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t-1
PL35: Kiểm định phƣơng sai thay đổi cho mô hình RE với chất lƣợng lợi
nhuận đƣợc đo lƣờng dựa vào giao dịch thực (Real Activities) với dữ liệu các
công ty niêm yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t
PL36: Kiểm định phƣơng sai thay đổi cho mô hình RE với chất lƣợng lợi
nhuận đƣợc đo lƣờng dựa vào giao dịch thực (Real Activities) với dữ liệu các
công ty niêm yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t-1
PL37: Kiểm định tự tƣơng quan cho mô hình FE với chất lƣợng lợi nhuận
đƣợc đo lƣờng dựa vào khoản dồn tích (Accruals) với dữ liệu các công ty niêm
yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t
PL38: Kiểm định tự tƣơng quan cho mô hình FE với chất lƣợng lợi nhuận
đƣợc đo lƣờng dựa vào khoản dồn tích (Accruals) với dữ liệu các công ty niêm
yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t-1
PL39: Kiểm định tự tƣơng quan cho mô hình FE với chất lƣợng lợi nhuận
đƣợc đo lƣờng dựa vào giao dịch thực (Real Activities) với dữ liệu các công ty
niêm yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t
PL40: Kiểm định tự tƣơng quan cho mô hình FE với chất lƣợng lợi nhuận
đƣợc đo lƣờng dựa vào giao dịch thực (Real Activities) với dữ liệu các công ty
niêm yết lần đầu tiên trên HOSE và HNX ở thời kỳ t-1
PL41: Bảng tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố tác động đến
chất lƣợng lợi nhuận.
Nhân tố tác động Mối quan hệ Nghiên cứu
Đặc điểm công ty (firm characteristics)
Hiệu quả hoạt động + (firm performance)
Petroni (1992), DeFond và Park
(1997), Balsam và cộng sự (1995),
Keating và Zimmerman (1999),
Doyle và cộng sự (2007a), Kinney
và McDaniel (1989).
sự
Đòn bẩy tài chính - (financial leverage)
Bowen và
(1981),
cộng
Zmijewski và Hagerman (1981),
(1983),
Daley
và Vigeland,
Johnson và Ramanan
(1988),
Malmquist (1990), Balsam và cộng
sự (1995), LaBelle (1990).
Tăng trưởng công ty - Nissim và Penman (2001), Penman
và Zhang (2002). (firm growth)
Quy mô công ty - (firm size)
Jensen và Meckling (1976), Watts
và Zimmerman (1986), Kinney và
McDaniel (1989), Ge và McVay
(2005), Doyle và cộng sự (2007a),
Ashbaugh-Skaife và cộng sự, 2007.
Cách thực thi BCTC (financial statement practices)
Phương thức kế toán - Loudder và Behn (1995), Altamuro
và cộng sự (2005). (accounting methods)
Cách thực thi BCTC - (financial statement practices) Kerstein và Rai (2007), Jacob và
(2007), Brown và
Jorgensen
Pinello (2007).
Phương pháp dựa trên nguyên
tắc và dựa trên quy tắc Cuccia và cộng sự (1995), Nelson
và cộng sự (2002). +
(principle and rule-based
methods)
Quản trị công ty (corporate governance)
cộng sự Quản trị nội bộ + (2007a),
sự cộng (internal management) Doyle và
Ashbaugh-Skaife và
(2008).
Sở hữu của nhà quản trị - (managerial ownership) Smith (1976), Dhaliwal và cộng sự
(1982), LaFond và Roychowdhury
(2008).
Mức độ tập trung sở hữu + Fan và Wong (2002), Kim và Yi
(2006). (ownership concentration)
Đền bù cho nhà quản trị +/- (managerial compensation)
Hagerman và Zmijewski (1979),
Bowen và cộng sự (1981), Healy
(1985), Skinner (1993), Holthausen
và cộng sự (1995), Gaver và cộng
sự (1995), Guidry và cộng sự
(1999).
Kiểm toán (auditing)
Thời gian kiểm toán Caramanis và Lennox (2008). + (auditing period)
Chuyên môn kiểm toán + Krishnan (2003) (auditing expertise)
Kiểm toán Big X + (Big X auditing)
Becker và cộng sự (1998), DeFond
và Subramanyam (1998), Francis
và cộng sự (1999), Kim và cộng sự
(2003).
sự
Phí kiểm toán +/- (auditing fees)
Frankel và cộng
(2002),
Ashbaugh và cộng sự (2003),
Chung và Kallapur (2003), Gul và
cộng sự (2003), Ferguson và cộng
sự (2004), Larcker và Richardson
(2004), Francis và Ke (2006),
Ruddock và cộng sự (2006), Gul và
Srinidhi (2007).
Nguồn: Tổng hợp của tác giả.