intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Chính trị học: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo báo điện tử trong giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: Nguyễn Minh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:179

243
lượt xem
54
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ Chính trị học: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo báo điện tử trong giai đoạn hiện nay nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về sự lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử ở Việt Nam, luận án đề xuất các giải pháp khả thi nhằm góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Chính trị học: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo báo điện tử trong giai đoạn hiện nay

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Báo chí cách mạng Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, góp phần nâng cao nhận thức, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, thúc đẩy phong trào hành động cách mạng, đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc đến thắng lợi. Hiện nay, Đảng và nhân dân ta đang thực hiện sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đây là sự nghiệp cách mạng vĩ đại, nhưng đầy khó khăn, thử thách. Trong sự nghiệp đó, Đảng cần phát huy vai trò của báo chí để báo chí tham gia, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao tính tự giác cách mạng của các tầng lớp nhân dân, tranh thủ thời cơ, khắc phục các nguy cơ, thật sự xứng đáng là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và diễn đàn của nhân dân. Báo chí nước ta hiện nay đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Báo chí phải không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động; bảo đảm tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng của hoạt động báo chí, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. Để đáp ứng yêu cầu đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương năm khóa X “về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới” yêu cầu phải đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí. Báo điện tử là loại hình báo chí mới, truyền tải thông tin trên các trang thông tin điện tử. Báo điện tử ra đời từ sự kết hợp của ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Báo điện tử có tác dụng và tiện ích hơn hẳn các loại hình báo chí truyền thống, với dung lượng thông tin rất lớn, tương tác thông tin nhanh, phát hành không bị trở ngại về không gian, thời gian, biên giới quốc gia. Đặc điểm nội bật nhất của báo điện tử là thông tin luôn được cập nhật và độc giả
  2. 2 có thể đọc mọi lúc, mọi nơi, rất tiện lợi. Một đặc điểm quan trọng nữa của báo điện tử là tính tương tác rất cao với người viết, có thể tạo ra giao lưu với người đọc bằng nhiều hình thức khác nhau. Với những ưu điểm đó, báo điện tử ngày càng trở nên gần gũi với cộng đồng, có ảnh hưởng to lớn đến đời sống xã hội. Kể từ khi xuất hiện đến nay, hệ thống báo điện tử ở Việt Nam phát triển khá nhanh và mạnh. Báo điện tử đã bám sát thực tiễn đời sống xã hội, thực hiện đúng sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng thông tin của Đảng, Nhà nước, thông tin nhanh nhạy, toàn diện về mọi diễn biến của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và thế giới. Ngày 22-7-2005, Ban Bí thư (BBT) Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 52-CT/TW “về phát triển và quản lý báo điện tử ở nước ta hiện nay”. Thực hiện Chỉ thị của BBT, Ban Tư tưởng - Văn hóa (TT-VH) Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) đã có các văn bản hướng dẫn, Bộ Văn hóa - Thông tin đã ban hành các văn bản quản lý đối với báo điện tử. Các cơ quan lãnh đạo và quản lý đã hình thành cơ chế lãnh đạo, quản lý đối với các báo điện tử, kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh. Cấp ủy, thủ trưởng cơ quan chủ quản báo điện tử đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện đối với cơ quan báo điện tử của mình. Tuy nhiên, lãnh đạo báo điện tử vẫn là vấn đề mới, còn có sự lúng túng nhất định. Một số cấp ủy đảng, thủ trưởng cơ quan chủ quản và một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của báo điện tử, cả mặt tích cực cũng như tác hại của nó, dẫn đến tình trạng khắt khe hoặc dễ dãi, buông lỏng lãnh đạo, quản lý. Sự lãnh đạo, quản lý báo điện tử của Đảng và Nhà nước chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng, có phần phức tạp của loại hình báo chí này; thiếu các văn bản cần thiết để lãnh đạo, quản lý mạng internet nói chung, đối với báo điện tử nói riêng; nhiều điều khoản trong Luật Báo chí đã tỏ ra lạc hậu, không theo kịp với sự phát triển của báo chí, nhất là với báo điện tử. Thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan liên quan trong chỉ đạo, quản lý về lĩnh vực này.
  3. 3 Xuất phát từ tình hình nêu trên, việc nghiên cứu đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo báo điện tử trong giai đoạn hiện nay”, làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống báo điện tử ở nước ta, thúc đẩy phát triển và phát huy mạnh mẽ vai trò, tác dụng của loại hình báo chí tiện ích này có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về sự lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử ở Việt Nam, luận án đề xuất các giải pháp khả thi nhằm góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ - Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. - Làm rõ vai trò, đặc điểm của báo điện tử và những vấn đề lý luận liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử ở Việt Nam. - Đánh giá đúng thực trạng sự lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử ở Việt Nam, xác định rõ nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm. - Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử ở Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài luận án chủ yếu khảo sát sự lãnh đạo của Đảng ở cấp Trung ương (Ban Chấp hành Trung ương (BCHTƯ), Bộ Chính trị (BCT), (BBT), ban, bộ, ngành Trung ương và các cấp ủy lãnh đạo báo điện tử có số lượt người truy cập lớn) đối với báo điện tử ở Việt Nam từ năm 1998 (từ khi có
  4. 4 báo điện tử ở Việt Nam) đến nay. Các giải pháp luận án đề xuất có giá trị đến năm 2020. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án nghiên cứu trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về công tác tư tưởng, báo chí; về sự lãnh đạo, quản lý báo chí nói chung, báo điện tử nói riêng. Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố có liên quan đến đề tài. 4.2. Cơ sở thực tiễn Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng hoạt động báo điện tử và sự lãnh đạo đối với báo điện tử của cấp ủy, tổ chức đảng ở Trung ương. Luận án tham khảo các báo cáo, thống kê, tư liệu có liên quan. 4.3. Phương pháp nghiên cứu - Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. - Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: tổng kết thực tiễn; khảo sát, thống kê; lôgíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch; chuyên gia; so sánh… 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Làm rõ đặc điểm của báo điện tử ở Việt Nam và quan niệm, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử ở Việt Nam. - Rút ra 5 bài học kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Kết quả nghiên cứu của luận án có thể là tài liệu các cấp ủy, tổ chức đảng tham khảo trong lãnh đạo báo điện tử, góp phần nâng cao hiệu quả sự
  5. 5 lãnh đạo và xây dựng báo điện tử ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. - Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 3 chương, 6 tiết.
  6. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC 1.1.1. Đề tài khoa học và sách - Đề tài khoa học cấp cơ sở “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại của một số cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp” của Ban Tuyên giáo Trung ương [12] đã làm rõ một số vấn đề lý luận chung về chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại của các cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực; chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại của một số cơ quan thông tấn báo chí chủ lực ở nước ta với những thành tựu, hạn chế, những vấn đề đặt ra; nêu vị trí, vai trò và những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại của các cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực ở nước ta. Đề tài chỉ rõ, trong các loại hình báo chí, báo điện tử có thuận lợi hơn cả trong việc đánh giá chất lượng, hiệu quả báo chí đối ngoại. Thông qua việc phân tích dữ liệu chứa trong phai mã hóa (logfile) có thể biết được số lượng người truy cập hằng ngày, nước nào truy cập nhiều nhất, thời gian truy cập dài hay ngắn, chuyên mục nào được độc giả quan tâm. Báo điện tử nắm bắt được sự phản hồi của người xem một cách nhanh nhất. Thông qua địa chỉ (IP) truy cập có thể biết được phạm vi truy cập. Bên cạnh phạm vi của thông tin, tần suất thông tin cũng là một tiêu chí quan trọng đóng góp vào hiệu quả của thông tin đối ngoại. Tiêu chí này có thể được thể hiện qua các kỳ phát hành của báo in, thời lượng các chương trình trên phát thanh và truyền hình, việc cập nhật thông tin trên báo mạng… Thông tin phải được duy trì, bảo đảm sự ổn định, liên tục, không bị ngắt quãng. Mặt khác, đề tài đề cập vai trò của báo chí trong việc đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực chống đối. Trong cả hai
  7. 7 chiều thông tin đi và thông tin trở lại cho người Việt Nam, báo chí cung cấp những thông tin chọn lọc, đúng định hướng, giúp công chúng tin tưởng vào đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, không bị dao động trước những luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch. Đề tài chỉ ra phương hướng và các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại của một số cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực thời gian tới, nhất là giai đoạn từ nay đến năm 2020: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với các cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực; mở rộng và nâng cao hiệu quả sự phối hợp hoạt động thông tin đối ngoại của các cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực; đa dạng hóa nội dung, hình thức hoạt động của các cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực; đổi mới cơ chế thông tin, bảo đảm tính nhanh nhạy, tính sắc bén, tính thuyết phục trong hoạt động thông tin đối ngoại của các cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, nhanh chóng áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin; nâng cao bản lĩnh chính trị, chất lượng chuyên môn của cán bộ, phóng viên. - Sách “Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW của Bộ Chính trị khóa VIII về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản” do Ban TT-VH Trung ương, Bộ Văn hóa - Thông tin, Hội Nhà báo (HNB) Việt Nam phối hợp phát hành [19] đã khẳng định, báo chí là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ công tác tư tưởng - văn hóa (TT-VH) của Đảng; là một trong những công cụ sắc bén, hiệu quả để xây dựng, bồi đắp nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng; tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cổ vũ, động viên, tổ chức nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, là chiếc cầu hữu nghị để Việt Nam mở rộng giao lưu, hội nhập với thế giới. Cuốn sách cũng nêu, để nâng cao hiệu quả lãnh đạo đối với báo chí, Đảng phải không ngừng đổi mới tư duy, phong cách, phương thức lãnh đạo đối với công tác báo chí. Đảng lãnh đạo báo chí bằng việc đề ra nghị quyết,
  8. 8 chỉ thị, định hướng quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống báo chí và định hướng nội dung thông tin, tuyên truyền của báo chí; lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong cơ quan báo chí; lãnh đạo các đoàn thể chính trị - xã hội trong cơ quan báo chí. Nhà nước có trách nhiệm thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, quan điểm của Đảng về báo chí bằng chính sách, pháp luật trong quản lý hoạt động báo chí. Trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã có bước chuyển quan trọng trong việc đổi mới tư duy, phong cách và phương thức lãnh đạo đối với công tác báo chí. - Sách “Cơ sở lý luận báo chí” do PGS, TS Tạ Ngọc Tấn và TS Đinh Thế Huynh đồng chủ biên [113] đã đề cập các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí (tính đảng, tính quần chúng, tính chân thật); những quy định, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác báo chí. Cuốn sách đề cập báo chí là sản phẩm thuộc kiến trúc thượng tầng, nó ra đời và phát triển do nhu cầu thông tin của xã hội. Một mặt, báo chí được sử dụng như một phương tiện tuyên truyền, giáo dục, cổ động nhân dân; mặt khác, nó trở thành diễn đàn của mọi người về các lĩnh vực của đời sống. Không có một đảng phái, tổ chức kinh tế, xã hội nào không sử dụng báo chí với tư cách một phương tiện thông tin để phục vụ các mục tiêu của mình. Các tác giả chỉ ra phương pháp nghiên cứu lý luận báo chí, đặc biệt là phương pháp luận khoa học, sáng tạo dựa trên phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin để tìm hiểu các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Nhà nước về vấn đề báo chí. Ngoài ra, các tác giả cũng sơ bộ xem xét hệ thống tư liệu mang tính pháp lý của Việt Nam về báo chí. - Sách “Tăng cường lãnh đạo, quản lý tạo điều kiện để báo chí Việt Nam phát triển mạnh mẽ, vững chắc trong thời gian tới” do Ban Tuyên giáo Trung ương biên soạn [13] đã đề cập vấn đề có tính quy luật đối với báo chí cách mạng nước ta là báo chí luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
  9. 9 nước, là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân; báo chí luôn cần có sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường công tác xây dựng Đảng và nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, ý thức trách nhiệm của đảng viên trong các cơ quan báo chí. Các cấp ủy đảng, đảng đoàn, ban cán sự đảng và lãnh đạo các cơ quan báo chí chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan báo chí hoạt động theo đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, tuân thủ nghiêm các quy định pháp luật của Nhà nước. Cuốn sách nêu một số yếu kém, khuyết điểm và nguyên nhân dẫn đến yếu kém, khuyết điểm của một số cơ quan báo chí, như thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng tư tưởng, văn hóa của báo chí cách mạng, thậm chí có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; xa rời tôn chỉ, mục đích; thông tin không trung thực, suy diễn chủ quan, áp đặt vô lối, sa đà vào những tiêu cực, yếu kém, mặt trái xã hội mà xem nhẹ việc phát hiện, biểu dương nhân tố mới, điển hình tiên tiến; khuynh hướng tư nhân hóa báo chí, tư nhân núp bóng Nhà nước để ra báo; một số báo có vị trí quan trọng, nhưng chậm đổi mới và chưa đủ sức làm chủ, chi phối thông tin. Đồng thời, cuốn sách đề ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu có tính trước mắt và lâu dài nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với báo chí. - Sách “Báo chí và dư luận xã hội” do PGS, TS Nguyễn Văn Dững chủ biên [53] đã đề cập đến tính chất tương tác, đa phương tiện của báo điện tử, loại hình báo chí gắn với nhóm công chúng - đối tượng trẻ và giới trí thức - cũng như những người có trình độ văn hóa cao, nhóm cư dân mạng. Những đặc điểm của báo điện tử đã và đang đặt ra cho nhà báo - chủ thể hoạt động báo chí - nhiều yêu cầu không chỉ về nhận thức, quan điểm và thái độ hành nghề, mà còn về phong cách sống, phong cách tác nghiệp và tích hợp đa kỹ năng cũng như tính trung thực, trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp. Mặt khác, sách nêu vai trò của báo chí trong việc nâng cao năng lực và hiệu quả tác động tới công chúng. Cuốn sách cũng nêu các đặc điểm nhận diện báo chí hiện đại;
  10. 10 vấn đề công chúng - nhóm đối tượng của báo chí và cuối cùng là cơ chế tác động của báo chí. - Sách “Báo mạng điện tử: những vấn đề cơ bản” do TS Nguyễn Thị Trường Giang chủ biên [65] đã nêu và làm rõ lịch sử ra đời, khái niệm báo điện tử, sự khác nhau giữa báo điện tử với trang thông tin điện tử; vai trò của báo điện tử trong đời sống xã hội. Báo điện tử là kết quả của sự tích hợp giữa công nghệ và truyền thông, dựa trên nền của internet và sự tích hợp ưu thế của các loại hình báo chí truyền thống, đã đem lại những giá trị rất lớn cho xã hội, cho người dân. Báo điện tử đã tạo ra bước ngoặt, làm thay đổi cách truyền tin và tiếp nhận thông tin. Sách cũng nêu đặc điểm của báo điện tử, trong đó có đề cập đến tính đa phương tiện của báo điện tử hiện nay - đây là ưu điểm vượt trội của báo điện tử so với các loại hình báo chí khác. Những thông tin bằng văn bản, hình ảnh, âm thanh cùng xuất hiện trên trang chủ của báo điện tử luôn tạo ra sự hấp dẫn, sống động đặc biệt đối với công chúng. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng đề cập về mô hình tòa soạn và quy trình sản xuất thông tin của báo điện tử, những phẩm chất của nhà báo điện tử; nêu cách viết, trình bày nội dung báo điện tử, đề xuất cách thiết kế, trình bày nội dung và cách viết cho báo điện tử. - Sách “Công tác lãnh đạo, quản lý báo chí trong 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới” do TS Nguyễn Thế Kỷ chủ biên [75] đã nêu quan niệm về Đảng lãnh đạo công tác báo chí, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về báo chí, nội dung và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với báo chí; mặt khác, sách nêu những thành tựu, ưu điểm, chỉ ra hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm công tác lãnh đạo của Đảng đối với báo chí. Cuốn sách đề cập đến vai trò của báo điện tử, mạng xã hội, các phương tiện truyền thông qua internet trên thế giới và ở Việt Nam, thực trạng báo điện tử ở nước ta hiện nay, bên cạnh thế mạnh và ưu điểm cơ bản, một số báo điện tử còn thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng TT-VH, xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ.
  11. 11 Tác giả cuốn sách cũng nêu hạn chế của báo điện tử và mạng xã hội ở Việt Nam: thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng tư tưởng, văn hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ. Cùng với những báo, tạp chí điện tử đã được cấp phép đúng luật, xuất hiện nhiều trang điện tử (Website) không phải là cơ quan báo chí, nhưng hoạt động và đăng tải thông tin như một cơ quan báo chí, vi phạm Luật Báo chí và các quy định pháp luật khác... Từ thực trạng báo chí Việt Nam, tác giả nêu một số nhiệm vụ, giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với báo chí. Các tác giả nhấn mạnh công tác chỉ đạo, quản lý báo chí, nhất là báo chí điện tử, trang tin điện tử và mạng xã hội trên internet, thúc đẩy đầu tư hạ tầng dịch vụ công nghệ thông tin, tạo ra những đơn vị tiên phong đủ mạnh để cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Từ thực trạng báo chí nói chung, báo điện tử nói riêng, tác giả nêu một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nâng cao công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước đối với báo chí trong tình hình mới. 1.1.2. Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ - Luận án “Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong thời kỳ đổi mới”, của Nguyễn Vũ Tiến [122] đã nêu về mặt lý luận, tác giả đã làm sáng tỏ các quan niệm báo chí, quản lý báo chí, sự lãnh đạo, vị trí tầm quan trọng của công tác quản lý báo chí, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng về báo chí Việt Nam. Về thực tiễn, tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng báo chí và sự lãnh đạo báo chí của Đảng ở Việt Nam, nêu ra những kết quả, hạn chế, nguyên nhân của những kết quả, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm, nêu lên những vấn đề đặt ra đối với việc lãnh đạo, quản lý báo chí trong thời kỳ đổi mới. Từ đó, tác giả nêu phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở xác định rõ nội dung định hướng chính trị của Đảng đối với báo chí, cần xúc tiến xây dựng chiến lược truyền thông quốc gia với quan điểm và phương hướng chủ yếu,
  12. 12 các cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là các tổ chức đảng trong cơ quan báo chí và cơ quan chủ quản phải bảo đảm cơ quan báo chí của mình hoạt động đúng định hướng chính trị của Đảng. Trên cơ sở sắp xếp lại hệ thống báo chí, tổ chức tốt sự phối hợp giữa các tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân trong việc lãnh đạo, quản lý và hỗ trợ báo chí; kiện toàn tổ chức đảng trong cơ quan báo chí, tăng cường quản lý, đào tạo, bồi dưỡng các nhà báo và cán bộ quản lý báo chí; tăng cường công tác kiểm tra của Đảng đối với hoạt động báo chí và công tác lãnh đạo, quản lý báo chí. - Luận án “Tính hấp dẫn của báo đảng nước ta trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Văn Sinh [106] đã nêu khái niệm và làm sáng tỏ hấp dẫn và tính hấp dẫn của báo chí nói chung và của báo đảng, chỉ rõ quan điểm báo đảng, tính hấp dẫn của báo Đảng và vai trò của báo đảng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam; đưa ra tiêu chí đánh giá tính hấp dẫn của cả tờ báo đảng và tiêu chí đánh giá tính hấp dẫn của một tác phẩm báo chí. Đồng thời, các tác giả nêu rõ vai trò của tập thể và cá nhân những người làm báo để nâng cao tính hấp dẫn của tờ báo và tác phẩm báo chí; khái quát thực trạng của báo đảng, đặc biệt là chỉ ra những hạn chế, những bất cập của tính hấp dẫn ở các tờ báo đảng hiện nay, làm cho bạn đọc chưa gắn bó, yêu thích các tờ báo đảng. Luận án đã làm rõ những vấn đề mới về nhu cầu thông tin của công chúng bạn đọc đối với báo đảng; những vấn đề đặt ra đối với tính hấp dẫn của báo đảng trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế; vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng và sự cạnh tranh thông tin của báo đảng hiện nay. Luận án đưa ra những giải pháp mang tính khả thi để nâng cao tính hấp dẫn của báo đảng trong giai đoạn hiện nay. - Luận văn “Sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Đồng Nai đối với báo chí trong giai đoạn hiện nay” của Dương Thanh Tân [111] đã làm sáng tỏ khái niệm về báo chí, sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, vị trí, vai trò, chức năng của báo chí. Ngoài ra, tác giả đề cập phải làm gì để đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo báo chí, những tiêu chí để lựa chọn con người làm báo đúng tôn chỉ, mục đích, đúng quy ước đạo đức nhà báo, công tác quản lý hoạt động báo chí sao cho
  13. 13 đúng luật pháp. Tác giả nêu rõ những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về báo chí và sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí. Trong phần thực tiễn, tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Đồng Nai đối với báo chí của tỉnh, nêu lên những kết quả đạt được và những hạn chế, yếu kém, chỉ ra các nguyên nhân của hạn chế yếu kém, rút ra một số kinh nghiệm và nêu lên một số vấn đề đặt ra trong quá trình lãnh đạo của Tỉnh ủy Đồng Nai đối với báo chí. Từ đó, tác giả nêu phương hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Đồng Nai đối với báo chí trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn hiện nay. - Luận văn “Phản biện xã hội của báo chí góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng” của Nguyễn Văn Minh [92] đã làm sáng tỏ khái niệm phản biện xã hội của báo chí, công tác tư tưởng; các chức năng, nhiệm vụ, tính chất phản biện của báo chí. Về thực tiễn, tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng phản biện xã hội của báo chí ở nước ta hiện nay, những kết quả đạt được và các hạn chế, yếu kém, chỉ ra những nguyên nhân của kết quả, nguyên nhân của hạn chế, yếu kém và rút ra một số kinh nghiệm trong thực hiện phản biện xã hội báo chí hiện nay, từ đó tác giả nêu phương hướng và các pháp giải pháp nhằm cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả của phản biện báo chí đối với xã hội. - Luận văn “Nâng cao chất lượng thông tin trên báo điện tử” của Phạm Thị Hằng [69] đã nêu vai trò, vị trí, tầm quan trọng của báo điện tử trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong phần lý luận, tác giả đã làm sáng tỏ khái niệm về báo điện tử, chất lượng thông tin, làm sáng tỏ về thông tin báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng. Trong phần thực tiễn, tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng của việc thông tin trên báo điện tử hiện nay, nêu lên những kết quả đạt được, chỉ ra những hạn chế cần khắc phục, tìm ra các nguyên nhân của các hạn chế, yếu kém, rút ra một số kinh nghiệm của báo điện tử trong thời đại thông tin toàn cầu. Tác giả đã nêu ra phương hướng và những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin trên báo điện
  14. 14 tử: tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật về báo điện tử để tạo môi trường pháp lý thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận trên báo điện tử, nâng cao hiệu quả hoạt động; tiếp tục rà soát, điều chỉnh hợp lý quy hoạch hệ thống báo điện tử và phát triển báo điện tử; xác định tính hợp pháp, sự phù hợp về tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của các tờ báo điện tử; đẩy mạnh cải cách bộ máy, cơ chế quản lý, đội ngũ cán bộ quản lý điện tử để thực hiện tốt việc nâng cao chất lượng thông tin trên báo điện tử; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, đội ngũ cán bộ phóng viên báo điện tử. Việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ, phóng viên ở các toà soạn báo điện tử có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng thông tin của báo. Các cơ quan báo điện tử cần xây dựng quy chế tuyển dụng, đào tạo, bố trí, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, phóng viên, nhân viên trong cơ quan mình; nâng cấp hạ tầng kỹ thuật là một trong những nhiệm vụ quan trọng tạo điều kiện cho hoạt động của các cơ quan báo điện tử. - Luận văn “Pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay” của Phí Thị Thanh Tâm [110], phần lý luận tác giả đã làm sáng tỏ khái niệm báo chí, quản lý nhà nước về báo chí, vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí; quan niệm về quản lý nhà nước đối với báo chí và vị trí, vai trò và đặc điểm của quản lý nhà nước đối với báo chí. Trong phần thực tiễn, tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay; những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của những mặt còn hạn chế và những vấn đề đang đặt ra đối với báo chí hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay. Nhiệm vụ hàng đầu là phải thường xuyên rà soát, kịp thời sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về báo chí nhằm loại bỏ những quy định pháp luật bị chồng chéo, mâu thuẫn nhau và lạc hậu, đồng thời ban hành mới các văn bản pháp luật có chất lượng pháp lý cao có sức sống dài hơn.
  15. 15 Đẩy mạnh cải cách bộ máy, cơ chế quản lý, đội ngũ cán bộ công chức để thực hiện tốt pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và thanh tra, xử lý nghiêm vi phạm pháp luật trong hoạt động báo chí. - Luận văn “Tính chủ động, kịp thời trong công tác chỉ đạo, định hướng nội dung thông tin báo chí” của Nguyễn Thị Mỹ Linh [82], phần lý luận của luận văn, tác giả đã làm sáng tỏ các khái niệm lãnh đạo, báo chí, Đảng lãnh đạo báo chí, quản lý, nhà nước quản lý báo chí. Luận văn đề cập các nội dung Đảng lãnh đạo báo chí: Đảng định hướng chính trị tư tưởng cho báo chí; Đảng chủ động, kịp thời cung cấp thông tin và định hướng thông tin cho báo chí, coi đây là cách tốt nhất để định hướng và thông tin cho toàn Đảng và toàn xã hội; Đảng lãnh đạo, tổ chức sự phối hợp giữa các cơ quan báo chí. Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến việc Đảng chỉ đạo, định hướng nội dung thông tin báo chí trên các lĩnh vực của đất nước, Nhà nước quản lý hoạt động của báo chí. Trong phần thực tiễn, luận văn đã nêu và phân tích, đánh giá tình trạng công tác lãnh đạo, quản lý thông tin báo chí; những vấn đề đặt ra cho báo chí nước ta hiện nay trong việc nâng cao chất lượng nội dung, hình thức, tăng cường tính chủ động, kịp thời trong chỉ đạo, định hướng thông tin báo chí. Luận văn nêu một số giải pháp chủ yếu: nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác chỉ đạo, định hướng nội dung thông tin báo chí; tăng cường các nguồn lực, phương tiện phục vụ công tác chỉ đạo; định hướng thông tin báo chí. 1.1.3. Các bài báo khoa học trên tạp chí, báo, kỷ yếu hội thảo 1.1.3.1. Các bài báo khoa học trên tạp chí, báo - TS Lưu Văn Kiền trong bài viết: “Báo chí - công cụ sắc bén của công tác tư tưởng” [74] đã đề cập vị trí, vai trò của báo chí trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, đồng thời cũng chỉ ra phương hướng, mục tiêu cần thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu, mục tiêu phát triển của báo chí trong từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ công tác tư tưởng và dựa trên những căn cứ lý luận và thực tiễn. Theo tác giả, định hướng tuyên
  16. 16 truyền trong hoạt động báo chí là một khâu trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, một yếu tố trong nội hàm Đảng lãnh đạo báo chí. Tác giả nêu một số giải pháp nhằm thực hiện việc định hướng thông tin, định hướng tuyên truyền trong hoạt động báo chí đạt hiệu quả cao. - Nông Đức Mạnh trong bài viết: “Phát triển nền báo chí cách mạng có chất lượng cao, đóng góp có hiệu quả vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc” [88] đã đánh giá, trong những năm đổi mới, báo chí đã đóng góp to lớn và tích cực vào những thành tựu phát triển chung của đất nước. Đồng thời, tác giả nêu nhiệm vụ trước mắt của báo chí là cần quán triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm chỉ đạo là phát triển đi đôi với quản lý để nâng cao chất lượng và hiệu quả của báo chí đối với xã hội. Phát triển báo chí cần bảo đảm cả số lượng, chất lượng nội dung, công nghệ, sự hợp lý về loại hình trong hệ thống, đáp ứng tốt nhất những yêu cầu, nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, giải trí của nhân dân, phục vụ tích cực việc thực hiện đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Báo chí phải tác động tích cực và có hiệu quả vào việc hình thành bản lĩnh, trí tuệ, tâm hồn, khí phách con người Việt Nam trong thời kỳ mới, hình thành dư luận xã hội lành mạnh góp phần cổ vũ sức mạnh toàn dân tộc thực hiện các nhiệm vụ cách mạng… - Trương Tấn Sang trong bài viết: Tiếp tục phát triển nền báo chí cách mạng, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [105] đã đánh giá cao vai trò của báo chí, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn đánh giá cao vai trò của báo chí, coi trọng đội ngũ cán bộ báo chí, quan tâm tới công tác lãnh đạo, quản lý báo chí để báo chí đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của đất nước. Báo chí đã hoạt động đúng định hướng chính trị, đúng pháp luật, thực hiện tốt chức năng vừa là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các đoàn thể quần chúng, vừa là diễn đàn của nhân dân. Báo chí đã tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời phản ánh kịp thời tâm tư, nguyện vọng
  17. 17 chính đáng của nhân dân đến với Đảng, Nhà nước; góp phần tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cổ vũ, động viên phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt; tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, chống “diễn biến hòa bình”, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tác giả chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của báo chí, đồng thời nêu một số giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động báo chí. Coi trọng công tác xây dựng Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, trách nhiệm của đảng viên, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan chủ quản báo chí và cơ quan báo chí. Tăng cường và nâng cao trách nhiệm quản lý nhà nước đối với báo chí… - PGS, TS Tô Huy Rứa trong bài viết: “Phấn đấu để báo chí nước ta phát triển đúng định hướng, mạnh mẽ, vững chắc trong thời gian tới” [103] đã đánh giá vị trí, vai trò, tác dụng to lớn của báo chí đối với xã hội; Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về lãnh đạo và quản lý báo chí; đồng thời, khẳng định những thành tích, ưu điểm mà báo chí đã đạt được - đây là yêu cầu quan trọng, vì thành tích, ưu điểm của báo chí nước ta rất lớn, rất cơ bản; xác lập niềm tự hào chính đáng, quyết tâm phấn đấu cao hơn trong thời gian tới. Mặt khác và quan trọng hơn, phải đề cao tinh thần tự phê bình và phê bình, chỉ rõ những non kém, khuyết điểm, tìm ra nguyên nhân, nhất là các nguyên nhân chủ quan; từ đó, đề xuất hệ thống các giải pháp để khắc phục. Tác giả nhấn mạnh, cùng với tuân thủ pháp luật theo tiêu chí đúng, sai, cơ quan báo chí do Ðảng và Nhà nước ta lãnh đạo, quản lý còn có một tiêu chí khác không kém phần quan trọng là: nên hay không nên đưa tin. Ðể thực hiện tiêu chí này rất cần nhãn quan chính trị đúng đắn, sự nhạy cảm và tinh thần trách nhiệm cao của người làm báo, nhất là cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí.
  18. 18 - GS, TS Nguyễn Phú Trọng trong bài viết: “Báo chí cách mạng Việt Nam ngày càng lớn mạnh, chuyên nghiệp và hiện đại” [123] đã nêu vị trí, tầm quan trọng và những thành tựu, cống hiến của báo chí Việt Nam trong 85 năm qua. Tác giả cũng chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của báo chí, trong đó nhấn mạnh những biểu hiện “thương mại hóa”, xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo thị hiếu tầm thường, đưa tin và viết bài theo kiểu giật gân, câu khách, thiếu trung thực, làm ảnh hưởng chung đến uy tín của báo chí nước ta. Qua đó, tác giả nêu ra một số giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa vai trò của báo chí, để báo chí nước ta sẽ tiếp tục đổi mới mạnh mẽ để làm tốt sứ mệnh cao cả là tiếng nói của Ðảng, Nhà nước, đồng thời là diễn đàn của nhân dân, đóng góp ngày càng xứng đáng vào sự nghiệp vẻ vang của Ðảng và dân tộc. - Nguyễn Công Dũng trong bài viết: “Vì sao cần tăng cường quản lý báo điện tử?” [49] đã nêu tầm quan trọng của báo điện tử hiện nay, việc cung cấp nội dung, hình thức đa dạng, phong phú, thông tin nhanh, nhạy của báo điện tử, thực trạng công tác quản lý báo điện tử hiện nay. Sự phát triển của loại hình báo điện tử, trang tin điện tử ở Việt Nam đã góp phần đa dạng hóa các nguồn thông tin, phương tiện chuyển tải thông tin đến độc giả. Bên cạnh đó, tác giả nêu một số hạn chế của báo điện tử cần khắc phục: chất lượng thông tin cả về nội dung và hình thức còn sơ suất, nhiều khi thiếu chính xác, thiếu khách quan; khuynh hướng “thương mại hóa”, lợi nhuận kinh tế thuần túy, chạy theo thị hiếu tầm thường, khai thác đời tư cá nhân, những chuyện giật gân, tiêu cực...; ít chú ý đến việc bồi dưỡng những nét đẹp về nhân cách, lối sống, phát hiện, cổ vũ, biểu dương những tấm gương người tốt, việc tốt; buông lỏng tính định hướng dư luận, dẫn dắt quần chúng, làm “nóng” lên những vấn đề không đáng “nóng”; nhiều báo điện tử hoạt động xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, coi nhẹ chức năng chính trị, tư tưởng của báo chí cách mạng. Từ đó, tác giả chỉ ra những giải pháp nhằm tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với báo điện tử. Cần quy hoạch, định hướng sự phát triển của hệ thống báo điện tử; hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp
  19. 19 luật để lãnh đạo, quản lý hệ thống báo chí nói chung, báo điện tử nói riêng, quản lý chặt chẽ việc đăng ký, cấp phép hoạt động báo điện tử; nâng cao phẩm chất, bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ những người làm báo điện tử; lãnh đạo, quản lý tốt việc xây dựng và thực hiện quy trình làm báo điện tử một cách khoa học, hợp lý, bảo đảm chất lượng, tốc độ và độ chính xác của thông tin; nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính chuyên nghiệp của báo mạng, xác định rõ và tuân thủ đúng tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ, thực hiện tốt chức năng tương tác xã hội, quản lý chắt chẽ việc tuân thủ tôn chỉ, mục đích, quan tâm phát triển hạ tầng và kỹ thuật, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế, trao đổi kinh nghiệm với các nước cớ báo điện tử phát triển. - Đỗ Quý Doãn trong bài viết: “Thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng về báo chí, xuất bản thành chính sách, pháp luật của Nhà nước” [48] đã đề cập thực trạng công tác lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, đồng thời nêu những kết quả đạt được và hạn chế của báo chí nước ta trong những năm qua. Tác giả đã nêu ba giải pháp nâng cao chất lượng công tác thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng về báo chí, xuất bản trong xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trước hết, phải nói đến vai trò của đội ngũ những người làm công tác xây dựng pháp luật, chính sách. Đội ngũ này phải quán triệt đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với lĩnh vực tư tưởng, lý luận nói chung, báo chí, xuất bản nói riêng. Thứ hai, tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan tham gia xây dựng pháp luật, Quốc hội với cơ quan tham mưu của Đảng để các loại văn bản quy phạm pháp luật về báo chí, xuất bản được ban hành bảo đảm tiến độ thời gian, không để xảy ra tình trạng văn bản chỉ đạo của Đảng đã ban hành, nhưng không được thể chế hóa trong các quy định của pháp luật hoặc không ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Thứ ba, nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn cho bộ phận tham mưu, xây dựng các văn bản của Đảng liên quan đến lĩnh vực báo chí, xuất bản.
  20. 20 - TS Nguyễn Thị Trường Giang trong bài viết, “Xu hướng phát triển báo mạng điện tử ở Việt Nam” [66] đã đề cập đến internet và ưu thế của các loại hình báo chí truyền thống đã tạo ra bước ngoặt, làm thay đổi cách truyền tin và tiếp nhận thông tin. Báo mạng điện tử có sự tổng hợp của công nghệ đa phương tiện, nghĩa là không chỉ văn bản, hình ảnh mà cả âm thanh, video và các chương trình tương tác khác. Báo mạng điện tử không bị giới hạn bởi khuôn khổ, số trang, không bị phụ thuộc vào khoảng cách địa lý, nên có khả năng truyền tải thông tin đi khắp toàn cầu với số lượng không giới hạn. Thông tin từ khi thu nhận đến khi phát hành đều được diễn ra rất nhanh chóng, với những thao tác hết sức đơn giản nên báo mạng điện tử có thể tức thời và phi định kỳ, luôn sống 24 giờ/ngày, 7 ngày/tuần. Báo mạng điện tử chiếm ưu thế tuyệt đối trong việc thiết lập các diễn đàn, các cuộc giao lưu, bàn tròn, phỏng vấn trực tuyến… nhằm tăng mối quan hệ giữa tòa soạn với độc giả, giữa độc giả với nhau, tạo cơ hội cho độc giả có thể giao lưu, trao đổi với nhân vật mình quan tâm, yêu thích. Báo mạng điện tử là một thư viện đúng nghĩa, người đọc không chỉ xem các tin, bài hiện tại, mà còn đọc được những tin, bài trong quá khứ. Bài viết cung cấp cho người đọc một công cụ tìm kiếm thông tin khoa học và hiệu quả. Với những ưu thế không thể phủ nhận, báo mạng điện tử đang trở thành kênh truyền thông được nhiều người lựa chọn. Tác giả nhận định, những tờ báo điện tử thuộc cơ quan báo in, đài phát thanh, đài truyền hình lớn đang dần khẳng định vị thế của mình, có triển vọng trở thành những tờ báo mạng điện tử hàng đầu Việt Nam. - ThS Nguyễn Minh Huế trong bài viết: “Nâng cao hiệu quả hoạt động tương tác trên báo mạng điện tử” [72] đã nêu vị trí, vai trò của báo điện tử trong điều kiện hiện nay, đồng thời đánh giá hiệu quả hoạt động, làm rõ một số đặc trưng của báo điện tử hiện nay, các tính năng của báo điện tử, nhất là tính tương tác. Hoạt động tương tác trên báo điện tử có vai trò quan trọng đối với mỗi tòa soạn và đối với công chúng. Mặt khác, hiện nay, mỗi tờ báo luôn dựa trên những thế mạnh riêng để khai thác, tận dụng những hoạt động tương
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2