intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Luật học: Phòng ngừa tội phạm do nữ giới thực hiện ở Việt Nam

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:189

205
lượt xem
38
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án là đưa ra được hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm do nữ giới thực hiện để kiềm chế sự gia tăng tội phạm và làm giảm dần nữ giới phạm tội ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Luật học: Phòng ngừa tội phạm do nữ giới thực hiện ở Việt Nam

  1. 1 Bé Gi¸o dôc vµ §µo t¹o bé t− ph¸p tr−êng ®¹i häc luËt hµ néi lý v¨n quyÒn phßng ngõa téi ph¹m do n÷ giíi thùc hiÖn ë ViÖt Nam luËn ¸n tiÕn sÜ luËt häc Hµ néi - 2014
  2. 2 Bé Gi¸o dôc vµ §µo t¹o bé t− ph¸p tr−êng ®¹i häc luËt hµ néi lý v¨n quyÒn phßng ngõa téi ph¹m do n÷ giíi thùc hiÖn ë ViÖt Nam Chuyªn ngµnh : Téi ph¹m häc vµ phßng ngõa téi ph¹m M· sè : 62 38 01 05 luËn ¸n tiÕn sÜ luËt häc Ng−êi h−íng dÉn khoa häc: PGS.TS Lª ThÞ S¬n PGS.TS D−¬ng TuyÕt Miªn Hµ néi - 2014
  3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu cña riªng t«i. C¸c sè liÖu nªu trong luËn ¸n lµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn ¸n ch−a tõng ®−îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn ¸n Lý V¨n QuyÒn
  4. 4 Môc lôc Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4 PHẦN NỘI DUNG 27 Chương 1: TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NỮ GIỚI THỰC HIỆN Ở 27 VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2003 - 2012 1.1. Thực trạng của tội phạm do nữ giới thực hiện ở Việt Nam giai 27 đoạn 2003 - 2012 1.2. Diễn biến của tội phạm do nữ giới thực hiện ở Việt Nam giai 56 đoạn 2003 - 2012 Chương 2: NGUYÊN NHÂN CỦA TỘI PHẠM DO NỮ GIỚI THỰC 71 HIỆN Ở VIỆT NAM 2.1. Nguyên nhân về kinh tế - xã hội. 72 2.2. Nguyên nhân về văn hóa, giáo dục 79 2.3. Nguyên nhân trong quản lý Nhà nước về an ninh, trật tự, an toàn 89 xã hội 2.4. Nguyên nhân trong hoạt động chống tội phạm và giáo dục, cải 93 tạo phạm nhân nữ. Chương 3: DỰ BÁO TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VÀ CÁC BIỆN PHÁP 102 PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM DO NỮ GIỚI THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM 3.1. Dự báo tình hình tội phạm do nữ giới thực hiện 102 3.2. Các biện pháp phòng ngừa tội phạm 106 PHẦN KẾT LUẬN 144 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ 149 LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 150 PHỤ LỤC 157
  5. 5 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHSVN : Bộ luật Hình sự Việt Nam BLTTHS : Bộ luật Tố tụng Hình sự GS : Giáo sư HSST : Hình sự sơ thẩm MĐGTBQ : Mức độ gia tăng bình quân NCTNPT : Người chưa thành niên phạm tội Nxb : Nhà xuất bản PGS. : Phó giáo sư Tr. : Trang TS : Tiến sĩ TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao THCS : Trung học cơ sở THTP : Tình hình tội phạm UBND : Ủy ban nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  6. 6 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 1.1 Số bị cáo nữ đã bị xét xử sơ thẩm ở Việt Nam giai đoạn 29 2003 - 2012 1.2 Chỉ số người phạm tội nữ (2003 - 2012) 30 1.3 Chỉ số người phạm tội nam (2003 - 2012) 31 1.4 Cơ cấu của tội phạm do nữ giới thực hiện theo các nhóm tội 36 1.5 Cơ cấu của tội phạm do nam giới thực hiện theo các nhóm tội 37 1.6 Cơ cấu của tội phạm do nữ giới thực hiện theo tội danh 39 1.7 Cơ cấu của tội phạm do nữ thực hiện theo địa bàn phạm tội 42 1.8 Cơ cấu của tội phạm do người nữ giới thực hiện theo 4 loại 42 tội phạm 1.9 Cơ cấu của tội phạm do nữ giới thực hiện theo hình thức 43 thực hiện tội phạm 1.10 Cơ cấu theo loại hình phạt 44 1.11 Cơ cấu theo động cơ phạm tội 45 1.12 Cơ cấu theo độ tuổi 46 1.13 Cơ cấu theo nghề nghiệp 47 1.14 Cơ cấu theo trình độ học vấn 48 1.15 Cơ cấu theo tái phạm 49 1.16 Cơ cấu theo hoàn cảnh kinh tế 50 1.17 Cơ cấu theo hậu quả của tội phạm 52 1.18 Cơ cấu theo loại nạn nhân 53 1.19 Diễn biến của số người phạm tội nữ ở Việt Nam giai đoạn 57 2003 - 2012 1.20 So sánh diễn biến của số người phạm tội nữ và số người 59 phạm tội nam ở Việt Nam giai đoạn 2003 - 2012 1.21 Diễn biến của tội phạm do nữ giới thực hiện ở Việt Nam giai 61 đoạn 2003 - 2012 theo các chương của BLHS 1.22 Diễn biến của các tội phạm do nữ giới thực hiện phổ biến 63 nhất ở Việt Nam giai đoạn 2003 - 2012 1.23 Diễn biến của số người phạm tội nữ là người chưa thành 67 niên ở Việt Nam giai đoạn 2003 - 2012
  7. 7 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên biểu đồ Trang biểu đồ 1.1 So sánh số bị cáo nữ và số bị cáo nam đã bị xét xử sơ thẩm 29 ở Việt Nam giai đoạn 2003 - 2012 1.2 Cơ cấu của tội phạm do người nữ giới thực hiện theo 4 loại 43 tội phạm 1.3 Cơ cấu của tội phạm do nữ giới thực hiện theo hình thức 43 thực hiện tội phạm 1.4 Cơ cấu theo loại hình phạt 44 1.5 Cơ cấu theo động cơ phạm tội 45 1.6 Cơ cấu theo độ tuổi 46 1.7 Cơ cấu theo nghề nghiệp 47 1.8 Cơ cấu theo trình độ học vấn 48 1.9 Cơ cấu theo tái phạm 49 1.10 Cơ cấu theo hoàn cảnh kinh tế 50 1.11 Cơ cấu theo hậu quả của tội phạm 52 1.12 Cơ cấu theo loại nạn nhân 54 1.13 Diễn biến của số người phạm tội nữ ở Việt Nam giai đoạn 57 2003 - 2012 1.14 So sánh diễn biến của số người phạm tội nữ và số người 60 phạm tội nam ở Việt Nam giai đoạn 2003 - 2012 1.15 Diễn biến của tội phạm do nữ giới thực hiện ở Việt Nam giai 62 đoạn 2003 - 2012 theo các chương của BLHS, có xu hướng tăng với mức độ cao 1.16 Diễn biến của các tội phạm do nữ giới thực hiện phổ biến 64 nhất ở Việt Nam giai đoạn 2003 - 2012, có xu hướng tăng nới mức độ cao 1.17 Diễn biến của số người phạm tội nữ là người chưa thành 67 niên ở Việt Nam giai đoạn 2003 - 2012
  8. 8 DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC Trang Phụ lục 1: Cơ cấu của tội phạm do nữ giới thực hiện theo tội danh 157 Phụ lục 2: Cơ cấu của tội phạm theo giới tính người phạm tội trong 158 từng tội danh Phụ lục 3: Cơ cấu của tội phạm do nữ thực hiện theo địa bàn phạm tội 160 Phụ lục 4: Phiếu trưng cầu ý kiến 162 Phụ lục 5: Kết quả chạy SPSS 368 phiếu hỏi phạm nhân nữ 168
  9. 9 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nữ giới ở Việt Nam là một lực lượng căn bản, nguồn nhân tố quan trọng đóng góp vào sự phát triển toàn diện xã hội. Trải qua hàng nghìn năm xây dựng vì sự toàn vẹn lãnh thổ, đấu tranh chống thiên tai, duy trì nòi giống, phụ nữ Việt Nam luôn phát huy những đức tính quý báu mang đậm bản sắc truyền thống như đức tính tần tảo, chịu khó, biết hi sinh vì chồng con, coi trọng cuộc sống gia đình, coi trọng hôn nhân. Ở Việt Nam, nữ giới chiếm 51% lực lượng lao động trong đó nữ giới ở nông thôn vẫn đóng vai trò chính trong hoạt động sản xuất nông nghiệp; bên cạnh đó, nữ giới (nhất là phụ nữ) vẫn đóng vai trò chính trong công việc gia đình và nuôi dạy con cái, phụng dưỡng cha mẹ khi về già. Xã hội ngày càng phát triển, nữ giới càng có nhiều cơ hội được học tập, công tác, cải thiện vị trí của mình trong gia đình và xã hội, được cống hiến nhiều hơn cho xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm kể trên, trong những năm gần đây, tình hình tội phạm do nữ giới thực hiện đã có xu hướng gia tăng, bộc lộ nhiều đặc điểm nghiêm trọng cả về thực trạng và diễn biến. Vấn đề nữ giới phạm tội ở Việt Nam đã phản ánh khá rõ những đặc điểm về xã hội Việt Nam những năm gần đây cũng như phản ánh được tính riêng biệt về tâm sinh lí giới nữ của những người phạm tội nữ. Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, trên phạm vi toàn quốc năm 1995 có 4.151 người phạm tội nữ bị xét xử sơ thẩm hình sự thì đến năm 2002 con số này là 5.603 người, tăng lên 135% so với năm 1995 [80]; Năm 2003 trên phạm vi toàn quốc có 6.543 người phạm tội nữ bị xét xử sơ thẩm hình sự thì đến năm 2007 con số này là 7.231 người, tăng lên 111%, năm 2012 con số này là 6.895 người tăng lên 105 % so với năm 2003. Tính trung bình, mỗi năm có khoảng 6.570 người phạm tội nữ bị xét xử sơ thẩm hình sự [81]. Các tội phạm do nữ giới thực hiện ngày càng đa dạng và xảy ra ở tất cả các địa phương nhưng tập trung chủ yếu là Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Các tội phạm do nữ giới thực hiện có mức độ cao hơn cả là tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy; tội đánh bạc; tội trộm cắp tài
  10. 10 sản; tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc; tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; tội chứa mại dâm; tội cố ý gây thương tích; tội cướp giật tài sản; tội cướp tài sản; tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ; tội môi giới mại dâm; tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; tội giết người; tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả và tội mua bán phụ nữ (nay là tội mua bán người). Trước tình hình tội phạm do nữ giới thực hiện ngày càng phức tạp, hơn nữa từ năm 2003 đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề này trên phạm vi cả nước, do vậy việc nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề nữ giới phạm tội ở Việt Nam dưới góc độ tội phạm học là cần thiết nhằm tìm ra giải pháp kìm chế sự gia tăng và làm giảm tội phạm nói chung cũng như tội phạm do nữ giới thực hiện nói riêng. Vì vậy, tác giả đã chọn và nghiên cứu đề tài: "Phòng ngừa tội phạm do nữ giới thực hiện ở Việt Nam" làm luận án tiến sĩ. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là đưa ra được hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm do nữ giới thực hiện để kiềm chế sự gia tăng tội phạm và làm giảm dần nữ giới phạm tội ở Việt Nam trong những năm tiếp theo. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề cần xem xét, làm rõ trong quá trình nghiên cứu đề tài này, bao gồm tình hình tội phạm do nữ giới thực hiện; nguyên nhân của tội phạm do nữ giới thực hiện và các biện pháp phòng ngừa tội phạm do nữ giới thực hiện. Về phạm vi nghiên cứu, luận án nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học: Tội phạm do nữ giới thực hiện ở Việt Nam trong 10 năm từ năm 2003 đến năm 2012. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Xét về mặt lý luận, hầu hết các vấn đề được trình bày, phân tích trong luận án là những vấn đề mới lần đầu tiên được nghiên cứu một cách có hệ thống. Việc nghiên cứu thành công các vấn đề đó có thể được coi là một đóng góp đáng ghi nhận vào tội phạm học Việt Nam. Về thực tiễn, việc nghiên cứu, đánh giá được các đặc điểm tội phạm học của tình hình tội phạm do nữ giới thực hiện trên phạm vi toàn quốc giai đoạn 2003 -
  11. 11 2012 và xác định được các nguyên nhân của tội phạm do nữ giới thực hiện ở nước ta trong giai đoạn này có ý nghĩa thiết thực đối với thực tiễn phòng ngừa tội phạm do nữ giới thực hiện. Đặc biệt trong việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm do nữ giới thực hiện trên cơ sở xác định những tồn tại, hạn chế của hoạt động của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh chống tội phạm do nữ giới thực hiện và trong công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội là nữ.
  12. 12 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TỘI PHẠM DO NỮ GIỚI THỰC HIỆN Thông qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu về tội phạm do nữ giới thực hiện ở nước ngoài và ở Việt Nam tác giả thấy những nội dung cơ bản của vấn đề này được nghiên cứu bao gồm: Tình hình tội phạm do nữ giới thực hiện, nguyên nhân của tội phạm do nữ giới thực hiện và phòng ngừa tội phạm do nữ giới thực hiện. Những nội dung nêu trên đã được nhiều nhà khoa học đề cập tới trong các công trình nghiên cứu của mình ở những phương diện, góc độ khác nhau. Do đó, để thực hiện đề tài "Phòng ngừa tội phạm do nữ giới thực hiện ở Việt Nam" thì việc nghiên cứu, phân tích và đánh giá kết quả của các công trình có liên quan về những nội dung nêu trên có ý nghĩa quan trọng và rất cần thiết. 1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Có thể nói cho tới nay, ở nước ngoài có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề nữ giới phạm tội dưới dạng công trình sách chuyên khảo, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài viết đăng trong các tạp chí. Các công trình nghiên cứu này được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau thể hiện quá trình phát triển không ngừng của tội phạm học. Kể từ khi có công trình nghiên cứu đầu tiên về tội phạm do nữ giới thực hiện dưới góc độ tội phạm học - cuốn "Tội phạm nữ giới" của Cesare Lombroso, cho đến nay, có hàng loạt các công trình nghiên cứu của các tác giả từ nhiều quốc gia khác nhau nghiên cứu về vấn đề nữ giới phạm tội. Sau đây tác giả xin trình bày tóm tắt các công trình này theo sự phân loại về các hướng tiếp cận khác nhau của các nhà khoa học. 1.1.1. Sách chuyên khảo nghiên cứu vấn đề nữ giới phạm tội 1.1.1.1. Dưới góc độ sinh học Cuốn sách chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu về vấn đề nữ giới phạm tội là của nhà tội phạm học người Ý - Cesare Lombroso với tiêu đề "Tội phạm nữ giới", xuất bản năm 1878. "Đây là cuốn sách đầu tiên và có ảnh hưởng nhất nghiên cứu về vấn đề nữ giới phạm tội" [102]. Tiếp đó là cuốn sách ông viết chung với tác giả Guglielmo Ferrero "Tội phạm nữ giới, mại dâm nữ và những người phụ nữ bình thường’’, xuất bản năm
  13. 13 1900 [101]. Có thể nói, trong hai cuốn sách này, qua lăng kính sinh học và bằng những nghiên cứu khoa học và thực nghiệm đối với não và bộ xương người của nữ giới (bao gồm cả nữ giới phạm tội và nữ giới không phạm tội), ông đã đề cập, lí giải liên quan đến vấn đề nữ giới phạm tội. Đặc biệt là trong cuốn sách "Tội phạm nữ giới", Cesare Lombroso đã nghiên cứu các yếu tố sinh học của nữ giới có ảnh hưởng, tác động đến việc phạm tội của nữ giới. Có thể nói, các yếu tố này được ông phân tích rất sâu sắc với những minh chứng cụ thể. Cụ thể như các vấn đề: Giải phẫu sinh học và sinh học của nữ giới, hộp sọ và não bộ của nữ giới, giác quan và sự nhạy cảm của nữ giới, đồng tính nữ và nhạy cảm tình dục của nữ giới, phản ứng và sức mạnh của nữ giới thời kì kinh nguyệt, nhân chủng học nữ giới, tội phạm nữ bẩm sinh, tội phạm nữ nhất thời, tính thiện và ác thời kì nữ giới mang thai, tội phạm từ sự đam mê của nữ giới, nguồn gốc của mại dâm, mại dâm nữ bẩm sinh và mại dâm nữ nhất thời… Có thể nói hai cuốn sách này là công trình công phu lý giải dưới góc độ sinh học liên quan đến vấn đề nữ giới phạm tội. Tuy nhiên, Cesare Lombroso trên mới chỉ đề cao nhân tố bẩm sinh sinh học - tính di truyền hiện tượng lại giống khi đề cập đến nguyên nhân phạm tội của nữ giới mà chưa đề cập đến sự tác động qua lại giữa các yếu tố tiêu cực của môi trường sống đối với người phạm tội. Bên cạnh đó, ông đã có đánh giá chưa đúng về nữ giới khi cho rằng nữ giới phạm tội do đặc điểm sinh học bất thường về não và thể hiện tính "đỏng đảnh, thụ động" của mình. Tác giả cho rằng khó có thể học tập cách tiếp cận này trong việc nghiên cứu luận án của mình vì nó đòi hỏi người nghiên cứu phải có kiến thức chuyên sâu về nhân chủng học cũng như có nhiều thời gian nghiên cứu, hơn nữa cách tiếp cận này mới chỉ dừng lại dưới góc độ sinh học, nên còn hẹp và chưa đa diện. 1.1.1.2. Dưới góc độ tâm lí học Dưới góc độ tâm lí học, nghiên cứu về vấn đề nữ giới phạm tội thì tiêu biểu nhất là những công trình nghiên cứu của Sigmund Freud - nhà phân tâm học nổi tiếng người Áo. Với tác phẩm "Phân tâm học nhập môn", xuất bản năm 1890, "Những nghiên cứu về sự cuồng loạn", xuất bản năm 1895 và "Giải mã những giấc mơ", xuất bản năm 1899, ông đã đưa ra những luận giải về vấn đề nữ giới phạm tội [57, tr.94-99]. Ông cho rằng nhìn chung, nữ giới có tính thụ động, do đó nữ giới khó có thể hoàn
  14. 14 toàn giải quyết được mặc cảm Oedipus. Họ luôn quan tâm đến sự chấp thuận của nam giới khi hành động, do đó, như một quy luật, họ không có nguy cơ làm xáo trộn thói quen đó bằng việc phạm tội. Vì nữ giới không có dương vật, nên họ không trải qua "giai đoạn thèm muốn" như nam giới nên họ có cá tính thụ động, không dễ dàng nổi nóng, thiếu kiềm chế như nam giới. Ông cho rằng mọi cá nhân sinh ra đều có bản năng phạm tội trong đó bản năng cơ bản của con người là bản năng chống đối xã hội. Ông nghiên cứu đối với trẻ em trai và trẻ em gái đã kết luận rằng do khác biệt gen nên nữ giới thụ động hơn so với nam giới. Freud cho rằng nữ giới phạm tội thể hiện sự chống đối lại tâm lí thụ động của mình và họ rất khó khăn để có thể được như nam giới. Nhìn chung, cách tiếp cận của Sigmund Freud dựa trên nền tảng của lí thuyết phân tâm học - nghiên cứu con người dưới góc độ vi mô lí giải vấn đề con người phạm tội trong đó có nữ giới phạm tội. Để áp dụng hướng tiếp cận này đòi hỏi người nghiên cứu phải có nền tảng lí thuyết vững chắc về phân tâm học trong khi đó ngành khoa học này còn xa lạ, chưa phổ biến ở Việt Nam nên tác giả cho rằng khó có thể học tập kinh nghiệm từ việc nghiên cứu các công trình trên của Sigmund Freud vào luận án của mình. 1.1.1.3. Dưới góc độ xã hội học Có thể nói từ giữa thế kỉ XX trở đi, tội phạm học phát triển theo xu hướng nghiêng về xã hội học nên những công trình nghiên cứu vấn đề nữ giới phạm tội dưới góc độ xã hội học chiếm tỉ lệ đáng kể. Trước hết, phải kể đến một số công trình nghiên cứu - sách chuyên khảo nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề nữ giới phạm tội. Tiêu biểu là cuốn sách "Tội phạm nữ giới: những trẻ em gái, phụ nữ và tội phạm", xuất bản năm 2004, của hai tác giả Meda Chesney-Lind (giảng viên đại học Hawai, Mỹ) và Lisa Pasko (giảng viên đại học Hawai, Mỹ) [104]. Trong công trình này nhóm tác giả đã nghiên cứu về tù nhân nữ tại nhà tù Bang California (nhà tù dành cho nữ) - nhà tù lớn thứ hai của nước Mỹ. Phân tích về tình hình tội phạm do nữ giới thực hiện qua số liệu thống kê số phạm nhân nữ trong nhà tù này, nhóm tác giả đã phân tích chỉ trong một thập kỉ từ năm 1992 - 2001, số lượng nữ tù nhân ở Mỹ đã cao gấp ba lần so với trước đây. Cuốn sách đã đặc biệt phân tích kĩ lưỡng về nguyên nhân dẫn đến nữ giới
  15. 15 phạm tội ở Mỹ như: Hoàn cảnh sống (nghèo đói, thất nghiệp), hoàn cảnh gia đình (tuổi thơ không bình thường, cha mẹ bỏ nhau, cha mẹ nghiện rượu, bạo lực với con cái), vấn đề sắc tộc, văn hóa (vấn đề phụ nữ da đen phạm tội, xung đột văn hóa), vấn đề quản lí ma túy và nạn lạm dụng ma túy, mức độ phản ứng của xã hội đối với tội phạm nói chung và tội phạm nữ giới nói riêng. Đặc biệt, nhóm tác giả có cái nhìn rất sâu sắc và đồng cảm về vấn đề giới, vấn đề bất bình đẳng về giới và yếu tố văn hóa trong cuộc sống của nữ giới khi phạm tội. Nhóm tác giả cũng phân tích sâu sắc về xu hướng phạm tội ngày càng bạo lực hơn của nữ giới. Điểm đáng chú ý của công trình này là nhóm tác giả đã phủ nhận hiệu quả của việc giam giữ tù nhân nữ vì cho rằng nó tốn kém, không hiệu quả trong phòng ngừa tội phạm. Có thể nói, đây là cuốn sách nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề nữ giới phạm tội có sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu của tội phạm học hiện đại. Với các phương pháp nghiên cứu của xã hội học như phương pháp thống kê, nghiên cứu mẫu, mô tả bằng bảng thống kê và biểu đồ, nhóm tác giả đã vẽ bức tranh khá rõ về tình hình nữ giới phạm tội ở Mỹ, phân tích các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nữ giới phạm tội trong đó phân tích đặc biệt kĩ yếu tố văn hóa, vấn đề bất bình đẳng về giới. Đây là điểm mạnh của công trình này và tác giả cho rằng có thể học tập, rút ra được kinh nghiệm cho việc nghiên cứu luận án của mình. Tiếp theo là cuốn sách Tội phạm học của Giáo sư Tiến sĩ Ulrich Eisenberg, xuất bản lần thứ 6, năm 2005, Nhà xuất bản C.H.Beck Muenchen [109, tr. 777-790]. Ulrich Eisenberg sử dụng phương pháp nghiên cứu thống kê hình sự để làm rõ tình hình tội phạm theo giới tính của người phạm tội ở Cộng hòa Liên bang Đức. Đặc điểm tội phạm học của tình hình tội phạm do nữ giới thực hiện cần chú ý là một số tội phạm và nhóm tội, nữ giới phạm tội cao hơn nam giới. Ví dụ, đối với tội trộm cắp không có tình tiết tăng nặng, số lượng nữ giới chưa thành niên phạm tội chiếm quá nửa trong tổng số tội phạm. Ngay cả nữ giới đã thành niên trên 25 tuổi cũng nhiều hơn nam giới. Những loại tội mà tỉ lệ nữ giới phạm tội luôn luôn cao là tội trộm cắp, tội lừa đảo. Để lí giải cho tỉ lệ nữ giới phạm tội ít trong tổng số tội phạm theo Giáo sư Tiến sĩ Ulrich Eisenberg cho rằng phần tội phạm ẩn của nữ giới phạm tội có thể là khá cao. Đặc biệt là trong các tội như phá thai trái phép, trộm cắp trong các cửa
  16. 16 hàng, các hành vi lạm dụng trẻ em. Xuất phát từ khía cạnh thực hiện hành vi phạm tội, nữ giới với những vai trò đặc trưng trong nghề nghiệp nên dễ dàng có được khả năng che giấu, ngụy trang các hành vi phạm tội hoặc có thể xuất phát từ mối quan hệ giữa quan điểm lập pháp và sự phân chia vai trò giới tính, những vấn đề tâm lí xã hội như việc lo sợ hành vi phạm tội bị phát hiện, khả năng bị phát hiện hành vi phạm tội và quan điểm trừng trị là những cơ sở để lí giải vấn đề này. Trong thời gian gần đây, xu hướng thu hẹp khoảng cách về sự khác nhau giữa tội phạm nữ giới và tội phạm nam giới một phần là do sự thay đổi xã hội (sự giải phóng phụ nữ) với những hiệu quả rõ rệt. Từ những kết quả nghiên cứu này tác giả có thể tham khảo cho việc nghiên cứu đánh giá tình hình tội phạm do nữ giới thực hiện trong luận án của mình. Giáo trình tội phạm học, của Giáo sư A.I.Dolgovoi và các đồng nghiệp Nga, Nhà xuất bản luật học Matxcova, năm 2008. Chương 30 cuốn sách này [110, tr. 802-818], viết về "Tội phạm nữ giới" đã phân tích đánh giá tội phạm nữ giới từ năm 1997 đến năm 2004 ở nước Nga trong sự so sánh với tội phạm nam giới. Theo đó tội phạm nữ giới có một số đặc điểm như mức độ tội phạm nữ giới thấp hơn mức độ tội phạm nam giới từ 5 đến 8 lần; cơ cấu của tội phạm thì tội phạm nữ giới khác với tội phạm nam giới bởi mối tương quan trong các tội phạm vụ lợi, bạo lực, cũng như một số tội phạm khác và diễn biến của tội phạm nữ giới ở nước Nga cuối thể kỉ XX thì tốc độ phát triển của nó nhanh hơn tội phạm nam giới. Nhưng sau năm 2000 diễn biến của tội phạm nữ giới cũng như tội phạm nói chung có xu hướng giảm xuống. Đặc biệt, trong giai đoạn này có 2 xu hướng chính trong hành vi phạm tội do nữ giới thực hiện. Đó là xu hướng tăng mức độ phạm tội trong lĩnh vực kinh tế và xu hướng nữ giới phạm các tội nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng có tính chất chuyên nghiệp và có tổ chức. Sự thay đổi đặc điểm tội phạm học của tội phạm nữ giới được xác định bởi sự thay đổi về xã hội, về kinh tế cũng như thay đổi về tinh thần của xã hội. Trong chương này cũng làm rõ được các nguyên nhân phát sinh tội phạm nữ giới là do các hiện tượng sau: Nữ giới ngày càng tham gia tích cực hơn vào nền sản xuất xã hội. Sự suy yếu đáng kể của một số thiết chế xã hội chủ yếu mà trước hết là gia đình. Sự kiểm tra giám sát xã hội đối với nữ giới giảm đi. Sự căng thẳng, xung đột có chiều hướng gia tăng trong xã hội dẫn đến sự bất an của con người, mâu
  17. 17 thuẫn thù địch giữa con người với con người và sự gia tăng của các hiện tượng tiêu cực trong xã hội (say rượu, nghiện ma túy, mại dâm). Trên cơ sở làm rõ các nguyên nhân của tội phạm nữ giới, Giáo sư A.I.Dolgovoi đã soạn thảo biện pháp phòng ngừa thành các nhóm như sau: Xây dựng được chương trình quốc gia về vai trò của nữ giới hướng đến việc làm tốt hơn của họ và kiện toàn môi trường đạo đức xã hội. Hệ thống biện pháp giáo dục có tính đến những đặc điểm hình thành cách ứng xử của nữ giới và nâng cao hiệu quả kiểm soát xã hội đối với việc hoàn thiện chức năng vai trò gia đình của nữ giới. Những biện pháp ngăn chặn những loại tội phạm cụ thể do nữ giới thực hiện có tính đến những đặc điểm đặc trưng của việc thực hiện tội phạm của nữ giới. Những biện pháp hướng đến ngăn chặn những hành vi vi phạm khác nhau dẫn đến việc phạm tội như say rượu, sử dụng ma túy. Những biện pháp giúp đỡ những người có lối sống tiêu cực; những biện pháp giúp đỡ những nữ giới đã cai nghiện, đã phục hồi nhân phẩm và những biện pháp giúp đỡ những phạm nhân nữ đã chấp hành hình phạt tước tự do tái hòa nhập cộng đồng. Từ những kết quả nghiên cứu này, tác giả có thể tham khảo, rút kinh nghiệm cho việc nghiên cứu luận án của mình. Đó là nghiên cứu đánh giá nữ giới phạm tội ở Việt Nam giai đoạn 2003 - 2012 trong sự so sánh với nam giới phạm tội; giải thích sự thay đổi của tội phạm do nữ giới thực hiện bởi sự thay đổi về kinh tế, xã hội và tinh thần. Và trên cơ sở làm rõ các nguyên nhân của tội phạm do nữ giới thực hiện để đưa ra các biện pháp phòng ngừa riêng tội phạm do nữ giới thực hiện có tính đến những đặc điểm đặc trưng của việc thực hiện tội phạm của nữ giới. Ngoài ra còn có một số cuốn sách chuyên khảo khác không nghiên cứu vấn đề nữ giới phạm tội như là vấn đề độc lập mà nghiên cứu vấn đề nữ giới phạm tội đặt trong mối quan hệ với hệ thống tư pháp hình sự. Tiêu biểu như cuốn sách "Hệ thống tư pháp hình sự và phụ nữ", xuất bản năm 2004 của các tác giả Bacbara, Raffel Price và Natalie J.Skololoff [100]. Cuốn sách này đã nghiên cứu về nữ giới với các tư cách, địa vị pháp lí khác nhau như người phạm tội, nạn nhân, phạm nhân và người lao động bình thường. Khi đề cập với tư cách là người phạm tội, các tác giả cũng đã đề cập vấn đề nữ giới phạm tội ở Mỹ với một số đặc điểm về tình hình tội phạm, nguyên nhân của tội phạm. Các số liệu được nhóm tác giả minh họa khá rõ nét, sinh động. Trong chương 5 của cuốn sách này, nhóm tác giả đã phác thảo xu
  18. 18 hướng phạm tội của nữ giới trong tương lai với những lí giải sâu sắc, những số liệu thuyết phục từ thống kê chính thức của FBI và các cuộc điều tra về nạn nhân của tội phạm trong quãng thời gian khá dài từ 1965 đến 2000. Với thời gian dài liên tục như vậy, tỉ lệ nữ giới phạm tội ở Mỹ có xu hướng ngày càng tăng, số lượng tội phạm nghiêm trọng do nữ giới thực hiện cũng có xu hướng tăng. Cùng với việc phân tích các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị ở nước Mỹ, từ đó nhóm tác giả nhận định trong tương lai nam giới phạm tội vẫn chiếm đa số ở Mỹ, tuy nhiên, tỉ lệ nữ giới phạm tội ngày càng gia tăng và có xu hướng thu hẹp dần khoảng cách về tỉ lệ phạm tội giữa nam và nữ. Nhóm tác giả cũng dự báo về loại hình tội phạm nữ giới chủ yếu thực hiện, xu hướng nữ giới phạm tội là người chưa thành niên gia tăng, nữ giới tham gia các tổ chức tội phạm cũng gia tăng, sự phức tạp của việc quản lí tù nhân nữ trong tương lai trong các nhà tù của Mỹ. 1.1.1.4. Dưới góc độ liên ngành. Đến cuối thế kỉ XX, các nhà tội phạm học đã áp dụng phương pháp tiếp cận liên ngành để nghiên cứu, tiếp cận theo hướng liên ngành sẽ cho kết quả nghiên cứu toàn diện hơn, tổng quát hơn. Có thể nói, ngày nay, các nhà tội phạm học khi nghiên cứu về nữ giới phạm tội thường tiếp cận dưới góc độ đa ngành và có thể nói đây là xu thế khá phổ biến trên thế giới. Có thể nêu một số công trình tiêu biểu sau: Cuốn sách "Tội phạm nữ giới", xuất bản năm 1950 của tác giả Otto Pollack [106]. Với 202 trang, tác giả Pollak - giáo sư, tiến sĩ xã hội học, tội phạm học người Mỹ đã cố gắng làm rõ vấn đề tội phạm nữ giới ở Hoa Kỳ thời điểm sau chiến tranh thế giới thứ II với các nội dung như: Đặc trưng của tội phạm nữ giới, một số tội phạm nữ giới thường thực hiện (tội phạm xâm phạm tài sản, tội phạm xâm hại con người), mức độ thực của tội phạm nữ giới, tác động của phong trào giải phóng phụ nữ với sự gia tăng của tội phạm nữ giới. Nội dung khác rất quan trọng trong cuốn sách là Otto Pollack đã phân tích rất sâu sắc các nhân tố có thể ảnh hưởng đến việc nữ giới phạm tội ở Hoa Kỳ như: Tuổi, tình trạng hôn nhân, trí tuệ, sắc tộc, nghề nghiệp... cũng như các yếu tố sinh học khác như nội tiết tố của nữ giới, thời kì kinh nguyệt và thai sản của nữ giới... có thể ảnh hưởng đến việc phạm tội của nữ giới. Có thể nói, đây là công trình nghiên cứu khá đa diện với nhiều cách tiếp cận khác nhau như xã hội học, sinh học, tâm lí học. Otto Pollack đã vẽ nên bức tranh
  19. 19 toàn cảnh về tội phạm nữ giới ở Hoa Kỳ thời kì sau chiến tranh thế giới thứ II với những đặc trưng nhất định. Bên cạnh đó, Otto Pollack cũng làm sáng tỏ được những nhân tố có thể ảnh hưởng đến việc phạm tội của nữ giới, làm rõ được một số nguyên nhân đặc thù riêng của nữ như vấn đề nội tiết tố nữ, vấn đề cá tính, tâm lí, nhận thức của nữ giới thời kì kinh nguyệt và thai sản...Tác giả có thể học được cách tiếp cận liên ngành của Otto Pollak nhằm làm rõ được nguyên nhân phạm tội của nữ giới cũng như những nguyên nhân được coi là đặc thù riêng của nữ giới để phục vụ cho việc nghiên cứu luận án của mình. Cũng với cách tiếp cận liên ngành còn có cuốn sách tiêu biểu khác là cuốn sách "Một khám phá về tội phạm và tội phạm do nữ giới thực hiện", xuất bản năm 1995 của tác giả - nhà tội phạm học người Mỹ R. Barri Flower [107]. Cuốn sách được R. Barri Flower nghiên cứu dưới góc độ xã hội học, tâm lí học để tìm hiểu về vấn đề nữ giới phạm tội trên đất Hoa Kỳ. R. Barri Flower đã có nhận xét về tình hình tội phạm do nữ giới thực hiện ở Hoa Kỳ. Trong vài thập niên trở lại đây, tội phạm nữ giới ở Hoa Kỳ đã phát triển với một tốc độ nhanh hơn so với tội phạm nam giới trong vài thập niên vừa qua. Đây cũng là lí do R. Barri Flower quyết định nghiên cứu về vấn đề nữ giới phạm tội. Cuốn sách nghiên cứu bốn nội dung: Phần thứ nhất đề cập một số vấn đề về tội phạm nữ giới có liên quan đến tình hình tội phạm và nguyên nhân của tội phạm như: họ là ai, họ từ đâu đến, những loại tội phạm nào họ thường thực hiện, tại sao họ thực hiện hành vi phạm tội và phạm tội và làm thế nào họ đang bị giam giữ. Bên cạnh đó, phần thứ hai cuốn sách cũng dành phần đáng kể thảo luận về mức độ và bản chất của tội phạm nữ giới ở Hoa Kỳ và so sánh nó với tội phạm nam giới. Phần thứ ba khám phá mối liên hệ giữa tội phạm và hành vi lệch lạc của người phạm tội nữ như mối liên hệ giữa tội phạm với hành vi lệch lạc nghiện rượu, nghiện ma túy. Phần thứ tư tập trung vào các tội phạm và phạm pháp của người chưa thành niên nữ. Cuối quyển sách đề cập đến sự tranh luận về vấn đề quản lí và cải tạo nữ giới phạm tội trong các nhà tù ở Hoa kỳ. Có thể nói, với cuốn sách này, tác giả đã học được cách tiếp cận khá đa diện về xã hội học, tâm lí học khi R. Barri Flower đưa ra các số liệu đa dạng, phong phú liên quan đến tội phạm do nữ giới thực hiện. Các lí giải liên quan đến nguyên nhân phát sinh tội phạm do nữ giới thực hiện rất gắn kết với đặc thù của nước Mỹ với các
  20. 20 đặc điểm như: vấn đề đa sắc tộc, đa văn hóa, xung đột văn hóa, chênh lệch về mức sống, giàu nghèo... cũng được tác giả đề cập sâu sắc với những minh chứng rất cụ thể. 1.1.2. Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ Các công trình là luận án tiến sĩ nghiên cứu về tội phạm nữ giới có thể kể đến là: + "Phụ nữ, tội phạm và chính sách hình sự ở bang New South Wales giai đoạn 1880-1939", tác giả Allen Judith, năm 1984, Macquarie University, Australia [99]. Trong công trình này, Allen Judith phân tích các yếu tố liên quan đến nữ giới phạm tội ở Bang New South Wales giai đoạn 1880-1939 như: Lịch sử, đặc điểm của nữ giới, các loại tội phạm nữ giới thường thực hiện, các nhân tố tác động đến việc nữ giới phạm tội, sự phân biệt đối xử về giới trong hoạt động nghề nghiệp, môi trường gia đình và quản lí, thi hành hệ thống tư pháp hình sự. Đặc biệt, Allen Judith đã phân tích rất kĩ các yếu tố chính trị, xã hội, văn hóa thời kì này đã ảnh hưởng đến nữ giới phạm tội như thế nào cũng như ảnh hưởng đến địa vị pháp lí của họ trong quá trình tố tụng hình sự ra sao. Tác giả có thể học được kinh nghiệm của Allen Judith khi kết hợp phân tích, làm rõ các nhân tố chính trị, xã hội, văn hóa có thể tác động, ảnh hưởng đến việc nữ giới phạm tội như thế nào trong luận án của mình. + "Tội phạm nữ giới - con đường đi tới tội phạm bạo lực", tác giả Adelene (người Nam Phi), năm 2011, Cape Town University, Nam Phi [97]. Trong công trình khoa học này, Adelene đã đi sâu tìm hiểu những người phạm tội nữ đang bị giam trong các nhà tù ở Nam Phi, tìm hiểu những lí do nào dẫn đến họ phạm tội, tác động gây ra cho xã hội do việc nữ giới phạm tội bạo lực, bản chất và xu hướng gia tăng tội phạm bạo lực của nữ giới. Bên cạnh đó, Adelene cũng nghiên cứu các đặc điểm về giới, bạo lực trên cơ sở giới, phân biệt đối xử trên cơ sở giới, bệnh tâm thần có liên quan đến cơ sở giới. Đặc biệt trong công trình khoa học này, Adelene đã tiếp cận chủ yếu dưới góc độ tâm lí để làm rõ các nhân tố giới, tâm lí giới liên quan đến nữ giới phạm tội. Tác giả có thể học kinh nghiệm của Adelene trong việc tiếp cận vấn đề giới, tâm lí nữ giới liên quan đến việc nữ giới phạm tội vào luận án của mình. Về luận văn thạc sĩ, có công trình sau đây: "Tuổi, testosterone, hành vi phạm tội của phạm nhân nữ giới", tác giả Affiliation, năm 1997, Rutger University, Mỹ [98]. Trong công trình nghiên cứu
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2