VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MÃ NGỌC THỂ

THÍCH ỨNG CỦA SINH VIÊN DÂN TỘC THIỂU SỐ

VỚI HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC

HÀ NỘI - 2016

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MÃ NGỌC THỂ

THÍCH ỨNG CỦA SINH VIÊN DÂN TỘC THIỂU SỐ

VỚI HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP

Chuyên ngành: Tâm lý học chuyên ngành

Mã số: 62 31 04 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS.TS TRẦN THỊ MINH ĐỨC

HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ liệu, kết

quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng công bố trong bất kì công

trình nghiên cứu nào khác.

Hà Nội, ngày tháng năm 2016

Tác giả luận án

MÃ NGỌC THỂ

LỜI CẢM ƠN

Để có kết quả như ngày hôm nay, với sự kính trọng đặc biệt, tôi xin chân

thành cảm ơn GS. TS. Trần Thị Minh Đức đã đồng ý nhận lời làm người hướng dẫn

khoa học cho tôi mặc dù tôi chưa làm được những điều tốt nhất khiến cô cảm thấy

hài lòng, nhưng GS. TS. Trần Thị Minh Đức đã vẫn vui lòng hướng dẫn và gợi ý

cho tôi những ý tưởng trong quá trình lựa chọn các vấn đề nghiên cứu, tạo điều

kiện giúp đỡ, động viên để tôi vượt qua nhiều hạn chế trong nghiên cứu. Tôi vô

cùng biết ơn cô, người đã truyền cho tôi ngọn lửa đam mê nghiên cứu khoa học và

làm việc.

Tôi nhận được sự giúp đỡ đầy trách nhiệm của các cán bộ Khoa Tâm lý học

và các Phòng Quản lý Đào tạo - Học viện Khoa học Xã hội. Trong quá trình làm

luận án của mình, tôi không thể không nhắc tới sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của

GS. TS Vũ Dũng và PGS. TS. Nguyễn Thị Mai Lan, những người luôn chỉ bảo, giúp

đỡ tôi những lúc khó khăn. Xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc tới tập thể cán bộ, giảng

viên của Học viện Khoa học Xã hội.

Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn đồng nghiệp, Ban giám hiệu trường Đại

học Tân Trào đã tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành luận án của mình.

Sau cùng, tôi đặc biệt cảm ơn những người thân trong gia đình đã động viên,

quan tâm, dành thời gian để tôi hoàn thiện luận án này.

Trong thời gian làm luận án, do kinh nghiệm nghiên cứu chưa nhiều nên luận

án của tôi còn mắc nhiều lỗi và cần được góp ý, chỉnh sửa để bản luận án ngày

hoàn thiện hơn. Kính mong quý Thầy, Cô giáo và quý bạn đồng nghiệp, những ai

quan tâm đến đề tài nghiên cứu này đóng ý kiến, để tôi có thể chỉnh sửa, hoàn thiện

luận án này được tốt hơn.

Xin trân trọng cảm ơn!

Tuyên Quang – Hà Nội, tháng…..năm 2016

Mã Ngọc Thể

MỤC LỤC

Lời cam đoan Lời cảm ơn Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng số liệu Danh mục các biểu đồ, sơ đồ MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THÍCH ỨNG CỦA SINH VIÊN DÂN TỘC THIỂU SỐ VỚI HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP ........................................ 8 1.1. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước ..................................................................... 8 1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước .................................................................... 15 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÍCH ỨNG CỦA SINH VIÊN DÂN TỘC THIỂU SỐ VỚI HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP .............................................................. 26 2.1. Một số khái niệm cơ sở ...................................................................................... 26 2.2. Các biểu hiện thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập ở trường đại học ........................................................................................................... 41 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập. ............................................................................................................. 47 Chương 3: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU....................................... 55 3.1. Tổ chức nghiên cứu ............................................................................................ 55 3.2. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 63 Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN VỀ THÍCH ỨNG CỦA SINH VIÊN DÂN TỘC THIỂU SỐ VỚI HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP ..................................... 71 4.1. Thực trạng thích ứng học tập của sinh viên dân tộc thiểu số ............................. 71 4.2. Các khía cạnh thích ứng học tập của sinh viên dân tộc thiểu số ........................ 92 4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng học tập của sinh viên ............................. 114 4.4. Một số biện pháp cơ bản nâng cao mức độ thích ứng cho sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập………………………………………………………….128 4.5. Phân tích trường hợp tham vấn tâm lý nhằm nâng cao khả năng thích ứng học tập của sinh viên dân tộc thiểu số ........................................................................... 133 KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 150 DANH MỤC CÁC BÀI VIẾT LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt Từ

DTTS Dân tộc thiểu số

ĐH, CĐ Đại học, cao đẳng

ĐTB Điểm trung bình

ĐLC Độ lệch chuẩn

HĐHT Hoạt động học tập

MĐTƯ Mức độ thích ứng

SL Số lượng

SV Sinh viên

SV DTTS Sinh viên dân tộc thiểu số

TB Trung bình

TBC Trung bình chung

TƯ Thích ứng

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Các mức độ thích ứng qua các mặt biểu hiện ....................................... 33

Bảng 3.1: Mẫu nghiên cứu ..................................................................................... 63

Bảng 3.2: Bảng thể hiện ý nghĩa và điểm tương ứng ............................................ 68

Bảng 4.1: Đánh giá chung về ba mặt thích ứng của SV DTTS với hoạt động học

tập .............................................................................................................................. 71

Bảng 4.2: Mức độ thích ứng về nhận thức của SV qua các mặt biểu hiện .......... 73

Bảng 4.3: Nhận thức của sinh viên về phương pháp giảng dạy không có sự tham

gia .............................................................................................................................. 74

Bảng 4.4: Nhận thức của SV về phương pháp giảng dạy có sự tham gia ................ 75

Bảng 4.5: Thái độ của sinh viên tham gia vào các hoạt động học tập .................. 77

Bảng 4.6: Những biểu hiện thái độ của SV tham gia hoạt động học tập............. 78

Bảng 4.7: Đánh giá về sự thành thạo các kĩ năng trong quá trình học tập .......... 84

Bảng 4.8: Xoay thành phần các nhân tố về thích ứng hành vi ............................. 84

Bảng 4.9: Đánh giá về sự thành thạo các kĩ năng trong quá trình học tập ......... 85

Bảng 4.10: Sự thích ứng của sinh viên biểu hiện qua nhóm hành vi ................... 87

Bảng 4.11: Một số yếu tố có liên quan đến hành vi học tập ở sinh viên ............... 89

Bảng 4.12: Thích ứng của SV DTTS biểu hiện qua mặt nhận thức ..................... 92

Bảng 4.13: Thích ứng của SV DTTS qua mặt thái độ (xét theo năm học) ................ 95

Bảng 4.14: Biểu hiện thái độ tương tác của SV trong hoạt động học tập ............ 97

Bảng 4.15: Thích ứng của SV DTTS biểu hiện qua mặt thái độ (xét theo năm học) ......... 98

Bảng 4.16: Thích ứng của SV DTTS biểu hiện qua mặt hành vi .......................... 99

Bảng 4.17: Biểu hiện của nhóm hành vi giao tiếp, ra quyết định và tư duy

tích cực ...................................................................................................................100

Bảng 4.18: Biểu hiện của nhóm hành vi ứng phó và tự kiềm chế ......................101

Bảng 4.19: Sự thích ứng của SV DTTS biểu hiện qua nhóm hành vi ................102

Bảng 4.20: Thích ứng nhận thức của sinh viên xét theo nhóm dân tộc .............107

Bảng 4.21: Sự thích ứng của các nhóm SV DTTS thể hiện qua mặt thái độ .........108

Bảng 4.22: Thích ứng của SV DTTS biểu hiện qua mặt hành vi .............................110

Bảng 4.23: Sự khác biệt giữa ba mặt thích ứng học tập của các nhóm SV dân tộc ..111

Bảng 4.24: Mối tương quan của các mặt thích ứng với từng năm học ......112

Bảng 4.25: Sự tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng ......................113

Bảng 4.26: Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến thích ứng của SV DTTS ........116

Bảng 4.27: Cách ứng phó tích cực của SV với khó khăn trong học tập .............120

Bảng 4.28: Những cách ứng phó tiêu cực của SV với khó khăn học tập ...........121

Bảng 4.29: Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến thích ứng học tập của SV ..........122

Bảng 4.30: Ảnh hưởng của đặc điểm dân tộc đến thích ứng của SV .................126

Bảng 4.31: Mối quan hệ của các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng của SV

DTTS .......................................................................................................... 127

DANH MỤC BIÊU ĐỒ VÀ SƠ ĐỒ Biểu đồ 1: Mức độ thích ứng học tập của SV DTTS .............................................. 72

Biểu đồ 2: Thái độ của sinh viên với việc lắng nghe ý kiến của bạn học……….80

Biểu đồ 3: Các mức độ thích ứng thể hiện qua nhận thức của sinh viên ................. 94

Biểu đồ 4: Thích ứng học tập của sinh viên xét theo năm học ............................105

Biểu đồ 5: Các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng học tập của SV dân tộc ..........115

Biểu đồ 6: Sự tham gia của SV vào các hoạt động chung trong nhà trường .....118

Biểu đồ 7: Đánh giá về phương pháp giảng dạy của giảng viên .........................123

Biểu đồ 8: Đánh giá về kết quả học tập của năm học .........................................124

Sơ đồ1: Mối tương quan giữa các mặt của thích ứng............................................ 90

Sơ đồ 2: Tác động của nhận thức, thái độ, hành vi đến thích ứng học tập .......... 91

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Thích ứng là phản ứng của con người trước những khó khăn trong cuộc sống. Con người luôn phải thích ứng với những yếu tố mới xuất hiện, những khó khăn, biến cố có thể xảy ra trong các mối quan hệ mới, môi trường sống mới, cuộc

sống mới bắt buộc họ phải có khả năng bắt nhịp, ứng phó bằng cách tạo ra những hành vi hợp lý, sáng tạo ra những phương thức sống mới để đáp lại những thay đổi

nhanh chóng của môi trường. Thích ứng có vai trò rất quan trọng đối với sự phát

triển của mỗi cá nhân. Nhiều công trình nghiên cứu trước cho thấy, khả năng thích

ứng có vai trò quan trọng giúp tăng năng suất lao động, tạo ra tính hiệu quả trong

công việc, giúp giảm stress, góp phần tích cực vào quá trình phát triển nhân cách. Ở

từng hoàn cảnh và môi trường sống đều có những khó khăn nhất định gây ra cho

con người. Những tác nhân ấy khiến con người phải biết cách ứng phó bằng cách tự

điều chỉnh tâm lý, hoạt động của mình sao cho phù hợp để đảm bảo sự tồn tại và

phát triển cá nhân.

1.2. Hiện nay ở Việt Nam đã có một số đề tài nghiên cứu về thích ứng tâm lý

trong hoạt động học tập của sinh viên như Lê Ngọc Lan (2002) [30], Trần Thị Minh

Đức (2003) [9], Đỗ Thị Thanh Mai (2008) [40], Dương Thị Thoan (2010) [67],

Đặng Thị Lan (2012) [32], Nguyễn Thị Út Sáu (2013) [58], Đặng Thanh Nga (2014)

[50]. Các nghiên cứu này phần lớn tập trung vào sự thích ứng của sinh viên năm thứ

nhất biểu hiện qua sự thích ứng với phương pháp học tập, chương trình đào tạo,

nhận thức, thái độ, hành vi. Các yếu tố chi phối khách quan và chủ quan như chỉ số

sự phát triển thông minh, kiểu tính cách, sức khỏe, nỗ lực cá nhân. Tuy các tác giả không nghiên cứu trực tiếp về sự thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số nhưng đã gợi mở cho chúng tôi những ý tưởng, những mặt còn chưa nghiên cứu về thích ứng học tập. Trong số các công trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có Nguyễn Thị Hoài (2007) [20], Ngô Giang Nam (2013) [46], Nguyễn Thị Lan Anh (2015) [1], đã nghiên cứu gần hơn về người dân tộc thiểu số qua các vấn đề kỹ năng giao tiếp, đặc

điểm giao tiếp của sinh viên dân tộc thiểu số, đó là những nghiên cứu hết sức đáng quý, cung cấp cho chúng tôi nhiều thông tin có liên quan đến thích ứng của sinh

1

viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập. Bởi vì, hoạt động học tập của sinh viên

bao giờ cũng có gắn với yếu tố giao tiếp. Nó là một trong những điều kiện để sinh viên thích ứng nhanh, hòa nhập tốt với môi trường sống. Các nghiên cứu cũng giúp

cho chúng tôi những ý tưởng trong việc làm rõ thực trạng và đưa ra các biện pháp cụ thể tác động nâng cao mức độ thích ứng học tập cho SV DTTS.

1.3. Môi trường đại học là môi trường có nhiều khó khăn, luôn tạo ra áp lực cho SV DTTS. Các em phải trải qua quá trình thích ứng khó khăn do thay đổi môi

trường sống và học tập từ phổ thông đến đại học. Những sinh viên này là nhóm

người thiểu số phải đương đầu với nhiều khó khăn dẫn đến chất lượng học tập giảm sút. Những biểu hiện của sự khó khăn này được xem như một hệ quả của một sang

chấn, một cú sốc văn hóa mà hầu hết các SV thuộc nhóm thiểu số đều gặp phải. Các

nghiên cứu về thích ứng học tập hiện nay tập trung vào thích ứng của học sinh tiểu

học và sinh viên năm thứ nhất, có rất ít nghiên cứu về SV DTTS. Phần lớn đề tài

nghiên cứu hướng vào nghiên cứu khó khăn tâm lý của SV DTTS. Do đó, nghiên

cứu thích ứng của SV DTTS với hoạt động học tập nhằm góp phần bổ sung thông

tin lý luận về thích ứng học tập và kết quả nghiên cứu thực tiễn, đưa ra các biện

pháp tác động nâng cao thích ứng học tập và chất lượng đào tạo cho SV của trường

đại học, vừa góp phần thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.

Nghiên cứu thích ứng của SV DTTS với hoạt động học tập có ý nghĩa về mặt thực

tiễn và hoàn toàn cấp thiết trong giai đoạn mà đề án đổi mới căn bản, toàn diện nền

giáo dục Việt Nam được đặt ra hiện nay. Đó chính là lý do chúng tôi chọn đề tài

nghiên cứu: “Thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập ”

làm Luận án Tiến sĩ của mình.

2. Mục đích và Nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng thích ứng của sinh viên dân tộc

thiểu số với hoạt động học tập, luận án thực hiện một số tác động sư phạm tăng cường phương pháp giảng dạy cho giảng viên, tổ chức nhóm, câu lạc bộ kỹ năng sống, tham vấn tâm lý, qua đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao mức độ thích ứng cho sinh viên trong hoạt động học. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 2.2.1. Nghiên cứu lý luận thích ứng; phân tích các khái niệm, các khuynh hướng nghiên cứu, xây dựng tiêu chí xác định sự thích ứng và không thích ứng của SV

2

DTTS với hoạt động học tập.

2.2.2 Khảo sát thực trạng và phân tích các biểu hiện thích ứng của SV DTTS với hoạt động học tập, phân tích những ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan và khách

quan đến sự thích ứng của SV DTTS với hoạt động học tập.

2.2.3. Đề xuất một số biện pháp cơ bản : hoạt động nhằm tăng cường phương

pháp giảng dạy của giảng viên, tổ chức nhóm, câu lạc bộ kỹ năng sống cho sinh viên, tham vấn tâm lý để nâng cao mức độ thích ứng cho SV DTST với hoạt động

học tập.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Biểu hiện và mức độ thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt

động học tập.

3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.2.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu Chúng tôi chú trọng tập trung nghiên cứu thích ứng học tập của SV biểu hiện

qua mặt nhận thức, thái độ và hành vi. Nghiên cứu được tiến hành theo lát cắt

ngang. Chúng tôi khảo sát thực trạng và phân tích nguyên nhân thích ứng (hoặc

không thích ứng) của SV theo năm học về các biểu hiện nhận thức, thái độ và hành

vi để thấy rõ SV có thích ứng với hoạt động học tập hay không. Luận án chỉ tập

trung nghiên cứu trên SV DTTS, không nghiên trên SV dân tộc Kinh nên chúng tôi

không nghiên cứu sự khác biệt giữa thích ứng của SV DTTS và thích ứng của SV

nói chung với hoạt động học tập. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng học

tập của SV DTTS, nhưng trong luận án này, do giới hạn về mặt thời gian nghiên

cứu chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu các đặc điểm cá nhân về tính cách, tính tích

cực hoạt động - giao tiếp, ý chí khắc phục khó khăn, điều kiện sống...là những yếu

tố cơ bản nhất ảnh hưởng đến thích ứng của SV DTTS với hoạt động học tập. Còn

các yếu tố khác chúng tôi sẽ đi sâu vào trong những nghiên cứu tiếp theo.

3.2.2 Giới hạn về khách thể nghiên cứu

Khách thể là SV DTTS thuộc các dân tộc điển hình như Tày, H’Mông - Dao

và dân tộc khác đang học từ năm I đến năm III.

3.2.3. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu

3

Nghiên cứu được tiến hành ở trường Đại học Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang.

4. Phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu

4.1. Nguyên tắc phương pháp luận Nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở một số nguyên tắc phương pháp

luận trong tâm lý học sau :

- Nguyên tắc hoạt động - nhân cách: Trong luận án này chúng tôi nghiên cứu sự thích ứng về học tập của SV DTTS trong đó tập trung vào các khía cạnh biểu

hiện nhận thức, thái độ và hành vi. Các khía cạnh này là thành phần không thể thiếu trong mối quan hệ với hoạt động - giao tiếp và các đặc điểm tâm lý hình thành nên nhân cách của SV DTTS. Hoạt động là những phương thức tồn tại của con người, là

nhân tố quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách cá nhân. Khi SV DTTS

tham gia vào hoạt động học tập có mục đích, mang tính chất xã hội, cộng đồng,

chắc chắn SV phải thể hiện ra bên ngoài bằng những hành vi - thao tác và công cụ

nhất định. Tuy nhiên nếu các em không nhận thức một cách đúng đắn và học tập

một cách tích cực, chủ động và tự giác, không tham gia vui chơi với bạn bè, không

có những hành vi giao tiếp, ứng xử phù hợp trong môi trường học tập mới, thì các

em sẽ không thể phát triển đầy đủ những phẩm chất và năng lực của nhân cách. Khi

SV DTTS gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, các chuẩn

mực các em sẽ biết đánh giá và chuyển dần thành tự đánh giá, giúp các em thấm

nhuần những bài học, những chuẩn mực, những giá trị xã hội ngày một sâu sắc hơn.

Vì vậy, nhà trường, giảng viên cần quan tâm hướng dẫn, tổ chức và tạo môi trường

hoạt động - giao tiếp cho SV tham gia vào các hoạt động để giúp các em thích ứng

và nâng cao sự thích ứng với hoạt động học tập ở trường đại học.

- Nguyên tắc hệ thống: Chúng tôi xem xét sự thích ứng của SV DTTS có sự

thống nhất với nhau biểu hiện qua ba mặt nhận thức, thái độ và hành vi trong các

mối quan hệ tác động qua lại. Trong luận án này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ hành

vi đồng nhất với thuật ngữ hành động. Vì trong cấu trúc của hoạt động, hành động được coi là đơn vị nhỏ hơn hoạt động, hành vi ở một nghĩa nào đó được coi là hành động, đơn vị nhỏ nhất của hoạt động. Cho nên, khi nghiên cứu hành vi thích ứng của SV DTTS với hoạt động học tập, chúng tôi thống nhất chọn đơn vị nhỏ nhất là hành vi làm thuật ngữ đại diện. Bản thân nhiều hành vi đồng nhất sẽ tạo ra hành động, nhiều hành động đồng nhất sẽ tạo ra hoạt động học tập ở SV DTTS.

- Nguyên tắc phát triển: Con người sẽ không thể tồn tại, phát triển được nếu

4

không có hoạt động - giao tiếp với thế giới xung quanh, với cộng đồng người. Các

quan hệ xã hội không phải là cái gì trừu tượng, xa lạ, mà do chính con người tạo ra,

khi con người có nhận thức tốt, có thái độ đúng đắn và có hành vi tương ứng sẽ tạo

ra được sự phát triển trong tâm lý và ý thức ở bản thân. Trong nghiên cứu này xem

xét sự thích ứng học tập của SV DTTS không phải là một hiện tượng tâm lý tĩnh,

mà luôn thay đổi dưới sự tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, những

SV có sự chủ động tích cực, có ý chí khắc phục khó khăn càng cao thì mức độ thích

ứng của các em càng cao. Thích ứng cũng là một điều kiện, một phẩm chất tâm lý

quan trọng giúp SV DTTS đáp ứng được những yêu cầu của cuộc sống, và tạo được

những khả năng để phát triển trong tương lai.

4.2. Các phương pháp nghiên cứu

Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu; Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi;

Phương pháp quan sát; Phương pháp phỏng vấn sâu; Phương pháp nghiên cứu

sản phẩm của hoạt động; Phương pháp tham vấn tâm lý; Phương pháp thống kê

toán học. Mục đích và cách thức sử dụng được trình bày chi tiết trong Chương 3.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

5.1. Đóng góp về mặt lý luận

- Luận án đã khái quát được những vấn đề lý luận cơ bản về sự thích ứng,

thích ứng với hoạt động học tập, sinh viên dân tộc thiểu số, khái niệm thích ứng của

SV DTTS với hoạt động học tập; Xác định biểu hiện thích ứng qua ba mặt: nhận

thức, thái độ và hành vi; các tiêu chí đánh giá thích ứng; các yếu tố ảnh hưởng đến

sự thích ứng.

5.2. Đóng góp về mặt thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận án đã làm sáng tỏ thực trạng thích ứng của SV

DTTS với hoạt động học tập biểu hiện qua ba mặt nhận thức, thái độ và hành vi.

Nghiên cứu cho thấy, mức độ thích ứng học tập của SV DTTS ngày càng được nâng

cao theo thời gian học tập ở mỗi năm học về sau. Luận án chỉ ra các yếu tố chủ

quan (Tính cách cá nhân, Tính tích cực hoạt động và giao tiếp, Ý chí khắc phục khó

khăn) và các yếu tố khách quan (Phương pháp giảng dạy của giảng viên, Các đặc

5

điểm học tập, Điều kiện sống) ảnh hưởng đến sự không thích ứng của SV DTTS.

Đề xuất được một số biện pháp cơ bản và sử dụng tham vấn tâm lý để nâng cao

mức độ thích ứng học tập cho SV nói chung và SV DTTS nói riêng.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Những phân tích, khái quát và hệ thống hóa các công trình nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam góp phần cung cấp cơ sở khoa học, bổ sung thông tin lý luận về thích ứng của SV DTTS với hoạt động học tập cho những nghiên cứu tiếp

theo.

Kết quả nghiên cứu thực tiễn là tài liệu tham khảo cho học viên cao học và sinh viên khối ngành sư phạm, các nhà nghiên cứu về chính sách xã hội, cán bộ

quản lý, giảng viên các trường Đại học, Cao đẳng để có những hình thức tác

động giúp cho sinh viên dân tộc thiểu số thích ứng với hoạt động học tập ngày

một cao hơn.

7. Cơ cấu của luận án Luận án bao gồm các phần và các chương như sau: - Mở đầu.

- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về thích ứng của sinh viên dân

tộc thiểu số với hoạt động học tập.

- Chương 2: Cơ sở lý luận về thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với

hoạt động học tập.

- Chương 3: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu.

- Chương 4: Kết quả nghiên cứu thực tiễn thích ứng của sinh viên dân tộc

thiểu số với hoạt động học tập.

- Kết luận. - Danh mục công trình đã công bố của tác giả.

6

- Danh mục tài liệu tham khảo. - Phụ lục.

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THÍCH ỨNG

CỦA SINH VIÊN DÂN TỘC THIỂU SỐ VỚI HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP

1.1. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước

Thông qua phân tích các tài liệu nghiên cứu của nước ngoài, phần này luận

án tập trung làm rõ ba hướng nghiên cứu về thích ứng, đó là hướng nghiên cứu về

thích ứng chung, thích ứng với hoạt động học tập của học sinh, sinh viên và thích

ứng với môi trường đại học.

1.1.1. Hướng nghiên cứu về thích ứng chung

Loài người trải qua hàng triệu năm tiến hóa, biến đổi để trở thành con

người hiện đại, thông minh và có tổ chức cao. Những biến đổi đó phần lớn do con

người biết thích nghi với môi trường sống, cải tổ bản thân để có thể tồn tại và phát

triển được. Trong bản thể con người có hai vấn đề đảm bảo sự tồn tại và phát

triển, đó là thích nghi về mặt sinh học và thích ứng về mặt tâm lý xã hội. Cho nên,

trước tiên cần khẳng định sự thích nghi đã đem lại cho con người một sức sống

trường tồn. Khoa học sinh vật học đã chúng minh điều đó qua thuyết tiến hoá và

tạo ra những ảnh hưởng đến tâm lý học một thời gian dài, đem lại những dữ kiện

sống góp phần cho tâm lý học khẳng định vai trò sự thích ứng tâm lý xã hội của

con người là một phần không thể thiếu trong sự phát triển của cá nhân và xã hội

loài người.

Khái niệm nền tảng của thuyết tiến hoá là khái niệm thích nghi (thích ứng

sinh học) của sinh vật. Jean Lamarck (1809) hiểu bản chất sự thích nghi của sinh

vật với môi trường là sự di truyền các đặc tính tập thành; từ sự quan sát các hoá

thạch, ông đã kết luận rằng các thay đổi của môi trường là nguyên nhân làm cho có

sự thay đổi về cấu trúc nơi các loài thực vật, động vật và khả năng thích nghi được

phát triển trong đời sống của một sinh vật thì được truyền lại cho con cái của sinh

7

vật ấy.[97].

Để hiểu bản chất sự thích nghi của sinh vật là sự sống sót của vật thích hợp

nhất, Herbert Spencer (1852) cho rằng, con người sống trong xã hội, giống như các

loài vật khác trong môi trường tự nhiên của chúng, luôn tranh đấu để sinh tồn và chỉ

có cá nhân nào thích hợp nhất mới sống sót.[105]. Đến Charles Darwin (1859), ông

coi sự thích nghi là khả năng của sinh vật để sống và sinh sản. Vì vậy, sự thích nghi

được quyết định bởi các đặc tính của sinh vật và của môi trường. Các đặc tính cho

phép sinh vật điều chỉnh thích đáng với môi trường thì được gọi là thích nghi.[89].

Người có công lớn đem khái niệm thích ứng vào tâm lý học là nhà Tâm lý

học người Thuỵ Sỹ J. Piaget. Theo J. Piaget, trong sự tương tác giữa cơ thể và môi

trường thì mọi cơ thể đều có một xu thế bẩm sinh để thích ứng với môi trường. Mỗi

thay đổi bên trong của bản thân hay môi trường sẽ dẫn tới tình trạng mất cân bằng.

Khi đồng hoá và điều ứng cân đối với nhau, không cái nào ngự trị cái nào thì đạt

được sự cân bằng (sự thích ứng).[dẫn theo 15].

Theo S. Freud, hành vi sống của con người chủ yếu được thúc đẩy bởi bản

năng (cái Nó), mà bản năng này lại luôn bị chèn ép và cấm đoán bởi những

chuẩn mực, quy tắc xã hội (cái Siêu Tôi). Cái Tôi là cái “thực tại” luôn tìm cách

giải quyết sự xung khắc giữa cái Nó và cái Siêu Tôi. Theo S.Freud, cái Tôi có

nguyên tắc là thích ứng với thực tế; cái Tôi phục vụ cho cái Nó, cái siêu tôi và

môi trường bên ngoài.[dẫn theo 14]

Như vậy, cả J. Piaget và S. Freud đều quan tâm đến trạng thái “cân bằng” và

“mất cân bằng” khi bàn về quá trình thích ứng của con người với môi trường xã hội.

Cả hai ông thống nhất: cân bằng của con người được xem xét từ hai khía cạnh, đó

là cân bằng với môi trường bên ngoài và cân bằng với cái bên trong của bản thân.

Do đó mỗi thay đổi bên trong hay thay đổi của môi trường sẽ dẫn tới sự mất cân

bằng. Đây là đóng góp to lớn của hai ông trong nghiên cứu về thích ứng của con

người. Theo chúng tôi, điểm hạn chế trong lý luận của J. Piaget và S. Freud chính là

xem sự thích ứng của con người như là sự thích ứng thuần tuý sinh học: con người

thụ động trong quá trình thích ứng với môi trường, chịu sự điều khiển hầu như hoàn

8

toàn bởi các quy luật sinh học.

Thực tế hàng ngày cho thấy, các sinh vật phản ứng với môi trường dựa

theo các phản xạ vô điều kiện và có điều kiện. Chính vì vậy, I.P. Pavlov (1890)

cho rằng, bản chất sự thích ứng của sinh vật với môi trường là sự tập thành, hay

học được các phản xạ có điều kiện- các phản xạ chỉ có thể được hình thành nhờ

sự lặp đi lặp lại các kích thích và các phản ứng có điều kiện.[ dẫn theo 14].

Với quan niệm rằng bản chất của sự kém thích ứng (hay không thích ứng) là

không học được, hoặc hành vi học được không đáp ứng được yêu cầu của môi

trường, J.Watson (1913) cho rằng, mọi hành vi ứng xử của con người được hình

thành thông qua quá trình học tập và tập nhiễm, là quá trình mà cá nhân học được

những hành vi mới cho phép nó giải quyết những yêu cầu đòi hỏi của cuộc

sống.[108].

Theo Tremblay (1992), sự thích ứng bên trong chính là sự thoải mái, dễ chịu

khi con người được “tự do” bộc lộ bản thân mình; còn sự thích ứng bên ngoài là khi

các cá nhân đáp ứng được các yêu cầu, chuẩn mực xã hội, hoà nhập được với người

xung quanh và môi trường xã hội.[106].

Trong cuốn “Nền sư phạm đại học” tác giả Dupont và Ossandon (1999) đã

tập hợp những chỉ báo về sự thích ứng với hoạt động học tập cho rằng, đối với hoạt

động học tập, cá nhân có nhiều cách hoạt động trí óc cần được xác lập ngay từ bậc

trung học và cần được sử dụng tiếp ở bậc đại học, bở chúng đóng góp cho việc tiếp

cận tri thức một cách năng động.[dẫn theo 44]

Các công trình nghiên cứu của các tác giả đã đưa ra các khái niệm về thích

nghi sinh học, mối liên quan hoặc chỉ rõ sự khác biệt giữa thích nghi sinh học với

thích ứng tâm lý xã hội. Các tiêu chí có thể xem xét sự thích nghi, thích ứng của cá

nhân với môi trường. Thực tế cho thấy, sự thích ứng có mối liên quan đến khả năng

học tập của con người. Quá trình thích ứng thể hiện ở những phản xạ của con người

khi đáp ứng với môi trường, nếu con người tự do thoải mái thì đáp ứng tốt hoặc qua

học tập, con người có khả năng nhận thức, nắm bắt được các yêu cầu, chuẩn mực

của xã hội thì sẽ nhanh chóng thích nghi và thích ứng. Tuy nhiên, có tác giả vẫn đề

9

cao vai trò của yếu tố sinh học làm cho tính chủ động tích cực thay đổi của con

người bị hạ thấp, không đánh giá đúng tính chủ thể, bởi vì con người luôn biết cách

để thay đổi mình để nhanh chóng hòa nhập vào môi trường mới.

1.1.2. Hướng nghiên cứu về thích ứng với hoạt động học tập của học

sinh, sinh viên

Nghiên cứu về sự thích ứng với kết quả học tập (xét theo mối quan hệ khác

giới), các nhà tâm lý học người Anh là J. Hopkins, N. Malleson, I. Sarnoff (1957)

đã so sánh mối liên hệ giữa kết quả học tập với quan hệ bạn bè khác giới của sinh

viên nước ngoài học tập ở London, kết quả cho thấy; có (62,7%) sinh viên có bạn

khác giới đạt kết quả học tập tốt, và sinh viên không có bạn khác giới đạt kết quả

học tập kém (68,4%). [95]. Theo các tác giả kết quả này chỉ ra rằng sinh viên có

mối quan hệ giao tiếp với bạn bè hoặc bạn khác giới sẽ thúc đẩy tính tích cực hoạt

động - giao tiếp và đạt kết quả học tập tốt hơn so với những sinh viên không có mối

quan hệ bạn bè khác giới. Những kết quả trên giúp chúng ta nhận thấy rằng nếu sinh

viên phát huy được tính tích cực, hoạt động - giao tiếp sẽ làm tăng khả năng thích

ứng với hoạt động học tập của sinh viên. Rõ ràng giao tiếp có vai trò là điều kiện để

tâm lý con người hình thành, phát triển. Giao tiếp cũng tạo ra nhu cầu, động cơ học

tập tích cực giúp sinh viên đạt kết quả học tập ngày càng cao hơn trước.

Trong tác phẩm “Thích ứng và sức khỏe tâm lý” Abe Arkoff (1968) đã công

bố kết quả nghiên cứu về thích ứng tâm lý, bao gồm cả sự thích ứng học tập của học

sinh và sinh viên. Theo tác giả, sự thích ứng nói chung của con người bao gồm các

chỉ số: Hạnh phúc, sự hài lòng, lòng tự trọng, sự phát triển cá nhân, sự hội nhập cá

nhân, khả năng tiếp xúc với môi trường, sự độc lập với môi trường. [86]. Như vậy,

tác giả đã chỉ ra các chỉ số cụ thể cho thấy con người muốn thích ứng được với cuộc

sống, cần thiết phải có được một số phẩm chất và năng lực ở bản thân có liên qua

đến nhận thức (hạnh phúc, lòng tự trọng ), thái độ (hài lòng, sự phát triển cá nhân)

và có những hành vi - hành động (sự độc lập, khả tiếp xúc với môi trường). Quan

điểm này đã đem đến cho chúng tôi những gợi ý khi xem xét sự thích ứng của sinh

viên DTTS với hoạt động học tập ở phần xây dựng những biểu hiện của khía cạnh

10

biểu hiện của sự thích ứng.

Trên cơ sở nghiên cứu quá trình hình thành hoạt động học tập của các SV

thuộc khoa Tâm lý học – trường Đại học tổng hợp Matxcova năm 1971, A.I.

Alaudie và A.L. Meseracov đã đi kết luận: Việc thích ứng của SV đại học với hoạt

động học tập thực chất là khả năng tổ chức quá trình nghiên cứu phát triển của

người học, tiếp cận được với hệ thống tri thức và kinh nghiệm xã hội lịch sử. [dẫn

theo 13]. Rõ ràng quan điểm của hai tác giả trên cho thấy, hoạt động học tập của SV

luôn gắn liền với việc làm thế nào để SV tiếp cận được tri thức, kinh nghiệm và

phát triển được bản thân trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập trong

trường đại học. Bất cứ SV nào tham gia vào các hoạt động mà không đạt được 3

yếu tố đó, có nghĩa là mục đích, nội dung dạy học không đạt được yêu cầu cơ bản.

Nghiên cứu thích ứng học tập của sinh viên, A.V.Petrovxki và các đồng

nghiệp (1986) quan niệm rằng, thích ứng học tập của SV là một quá trình phức tạp,

diễn ra ở nhiều mặt như: 1/Thích nghi với hệ thống học tập mới; 2/Thích nghi với

chế độ làm việc và nghỉ ngơi; 3/Thích nghi với các mối quan hệ mới.[dẫn theo 14].

Tiếp cận vấn đề thích ứng học tập của SV thông qua hệ thống các tác động

hình thành các kỹ năng học tập ở trường Đại học tại Hoa kỳ, B.P. Allen (1990) đã

chỉ ra rằng điều kiện cơ bản của sự thích ứng học tập của SV là hình thành ở họ các

nhóm kỹ năng:

1/ Sử dụng quỹ thời gian cá nhân;

2/ Kỹ năng hình thành các hành động học tập và phảm chất khác (như tâm

thế, sự lựa chọn các hình thức, nội dung học tập;

3/ Kỹ năng làm chủ các cảm xúc tiêu cực;

4/Kỹ năng chủ động luyện tập và hình thành các thói quen hành vi mang

tính nghề nghiệp.[87].

Như vậy, sự thích ứng (hay không thích ứng của SV được giải thích chủ yếu

do SV có (hay thiếu) một số kỹ năng nào đó, mà ít chú ý đến khía cạnh tổ chức

trong hệ thống giáo dục của trường đại học, cao đẳng.

Nghiên cứu về mối quan hệ bạn bè của trẻ vị thành niên 10-11 tuổi ảnh

11

hưởng đến thành tích học tập, thái độ và hành vi ứng xử của các em, tác giả

P.Zettergren (2003) thuộc Đại học Stockholm Thụy Điển nhận định rằng: Thành

tích học tập và mức độ trí thông minh của các em bị bạn bè hắt hủi là kém hơn so

với các em khác. Như vậy, do những ảnh hưởng của mối quan hệ bạn bè không

được thuận lợi dẫn đến việc thích ứng với hoạt động học tập ở các em bị ảnh

hưởng rõ ràng.

Trong đề tài: “Sự thích ứng của sinh viên với hoạt động học tập trong nhà

trường sư phạm: những khó khăn, các vấn đề và con đường giải quyết chúng” tác giả

Volgina T.Iu (2007) chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thích ứng là: Nguồn gốc

xuất thân, lứa tuổi và giới tính. Volgina T.Iu nghiên cứu theo các hướng: 1. Sự đánh

giá của SV về những kỹ xảo nhận được trong nhà trường đối với nghề nghiệp tương

lai; Sự hiểu biết của SV năm thứ nhất về nghề nghiệp tương lai; 3. Quan niệm của

SV về nghề nghiệp tương lai.[107].

Nghiên cứu về: “Ảnh hưởng của những đặc điểm trí tuệ đến sự thích ứng

với hoạt động học của sinh viên trường đại học kỹ thuật” trên SV năm thứ nhất

các trường đại học kỹ thuật, A.E Piskun (2011) cho rằng, khó khăn trong quá trình

thích ứng của SV với hoạt động học tập không chỉ liên quan đến xúc cảm, tình

cảm hay môi trường giao tiếp mà nó còn liên quan đến những hạn chế trong sự

phát triển trí tuệ, đặc biệt liên quan đến tư duy lôgic, không gian và kỹ thuật.[102].

1.1.3. Hướng nghiên cứu về thích ứng với môi trường đại học

Văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn, mỗi cá nhân đều chịu ảnh hưởng nhất định

nào đó từ môi trường văn hóa mà mình đã gắn bó trong một quãng thời gian nào

đấy. Sự ảnh hưởng của văn hóa dù theo chiều hướng xấu hay tích cực nó cũng tạo

ra những thách thức, các khó khăn để con người phải thích nghi với những biến đổi

của sự phát triển văn hóa. Đặc biệt sự di chuyển từ môi trường sống này sang môi

trường sống khác cũng tạo ra hàng loạt các vấn đề xã hội, các bất đồng và xung đột

văn hóa, từ đó nảy sinh các vấn đề tâm lý do con người không thể thích nghi và

thích ứng kịp với văn hóa nơi mà mình sẽ sống lâu dài. Sự va chạm giữa các nhóm

người di cư từ nhiều vùng miền khác nhau, hoặc sự giao thoa văn hóa cũng tạo ra

12

những rào cản cho từng cá nhân khi muốn thâm nhập vào một thế giới khác với

trước đây đã sống. Có thể nói nghiên cứu thích ứng văn hóa chiếm một mảng lớn

trong hệ thống các nghiên cứu về thích ứng.

Khái niệm “sốc văn hóa” được Nhà nhân chủng học Mỹ, K. Oberg (1960)

nhắc đến khi ông cho rằng, con người gia nhập vào một nền văn hóa mới kèm theo

những vấn đề về sức khỏe tinh thần, những cảm xúc tiêu cực: cảm giác đánh mất

bạn bè, địa vị, không thoải mái, sự khó khăn trong định hướng giá trị và mâu thuẫn

nội tâm [100]. Điều đó cho thấy, con người khi gia nhập vào môi trường mới khó có

thể hòa nhập, thích ứng một cách dễ dàng với những giá trị khác biệt mà bản thân

gặp phải. Ít nhiều, sự khác biệt tạo ra rào cản làm cho con người khó thích ứng được

nếu như không trải qua một thời gian làm quen, thâm nhập, cải biến bản thân.

Vấn đề sốc văn hóa sau đó được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, chẳng

hạn như: P.S. Adler, E. H. Jacobson, A.C. Garza – Guerrero… và mặc dù, mỗi tác

giả đưa ra những giai đoạn khác nhau của sốc văn hóa nhưng họ đều cho rằng triệu

chứng của sốc văn hóa rất đa dạng: từ sự bất an thường xuyên về chất lượng thực

phẩm, nước uống, điều kiện vệ sinh, sợ tiếp xúc với người khác, mất ngủ, thiếu tự

tin [84], [93].

Từ các nghiên cứu của Zarka (1976) tại Đại học RenĐ – Descartes (Paris),

Sheldon (1982) cho thấy, SV sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi gia nhập môi trường

sống mới ở đại học. Những quy định về học tập, những khác biệt về cách học, sự

thay đổi lối sống sinh hoạt cũng là một trong những tác nhân gây nên sự khó khăn

tâm lý, làm cho SV có thể khó hòa nhập, không thích ứng được với môi trường đại

học. Những SV không thích nghi được quy định, chuẩn mực ở môi trường mới và

không có những thay đổi ở bản thân để thích ứng được với các hoạt động học tập

trong nhà trường sẽ gặp phải khó khăn, đặc biệt có nhiều trường hợp SV không

thích ứng được đã phải bỏ học.[ dẫn theo 9].

Khi nghiên cứu về sự hoà nhập hay bỏ học ở đại học, các nhà nghiên cứu

thường chỉ ra các biến số ảnh hưởng thuộc về cá nhân như: giới tính, tuổi tác, hoàn

13

cảnh gia đình, nguồn gốc xã hội văn hoá, quá khứ học tập.v.v.

Khi nghiên cứu về việc hòa nhập của SV trong trường đại học, Chenard (1988),

De Ketele (1993) cho rằng cần chú ý đến các kiểu hình văn hóa khác nhau, một số SV có

thể hòa nhập được vào môi trường học tập ở đại học và rất thành công, còn một số khác

thì không. Các lý do dẫn tới sự không hòa nhập được là do yếu tố sự khác biệt về văn

hóa, các yếu tố chủ quan, các quy định và các yếu tố môi trường sống (đô thị hóa, tệ nạn

xã hội, những luật bất thành văn).[dẫn theo 9].

Còn Tremblay (1992) cho rằng, những chuẩn mực xã hội, những khuôn mẫu,

những giá trị, phong tục, những luật bất thành văn hay không đều tạo ra những rào

cản văn hóa nhất định và gây ra những khó khăn tâm lý trong sự thích ứng của con

người, tác giả nhận xét các yếu tố cấu thành nên thích ứng có ảnh hưởng rất lớn đến

sự thích ứng của con người với môi trường văn hóa.[106].

Với quan niệm, T.G. Stefanenko cho rằng: ‘‘việc tìm kiếm các đặc trưng dân

tộc, trong đó có cả các đặc trưng tâm lý đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng lớn

tới mối quan hệ giữa con người (từ quan hệ giữa các cá nhân đến quan hệ giữa các

quốc gia) thì hoàn toàn cần thiết nghiên cứu khía cạnh tâm lý của yếu tố dân tộc’’.

[dẫn theo 16]. Như vậy, sự thích ứng với môi trường phản ánh những khó khăn tâm

lý mà con người gặp phải khi tham gia vào các mối quan hệ, các đặc trưng tâm lý cá

nhân hay tâm lý dân tộc đóng một vai trò quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến sự thích

ứng của cá nhân đó trong môi trường văn hóa mới.

Một số nhà tâm lý đã nghiên cứu sự thích ứng của SV nước ngoài khi

học tập trong môi trường văn hóa mới. Như A. Anumonye (1970) tiến hành

phỏng vấn 150 SV châu Phi học tập ở Anh về những ảnh hưởng của văn hóa

đối với kết quả học tập. Tác giả đã đưa ra hàng loạt những nguyên nhân gây

hẫng hụt đối với SV châu Phi trong môi trường văn hóa mới. Trong nhiều

nguyên nhân, những nguyên nhân về văn hóa chiếm một tỉ lệ lớn. Theo ông,

chính sự không thích ứng với môi trường văn hóa khiến SV châu Phi gặp nhiều

khó khăn trong học tập tại Anh. Và hệ quả của nó là những rắc rối nảy sinh

14

trong đời sống tâm lý của họ.[85].

Tóm lại, những nghiên cứu đa dạng trên cho thấy những khía cạnh khác nhau

của đời sống tâm lý con người khi chuyển sang môi trường văn hóa khác với những

chuẩn mực đã có làm cho cá nhân có thể bỏ dở học tập (với sinh viên) hoặc không

hòa nhập được với các phong tục, truyền thống và văn hóa, các rào cản, những

khuôn mẫu hay luật bất thành văn là những nguyên nhân văn hóa khiến cho cá nhân

không thích ứng với môi trường sống mới đã dẫn đến những hậu quả tiêu cực trong

đời sống và hoạt động của con người.

Khái quát các công trình nghiên cứu thích ứng trên thế giới của những nhà

khoa học đã đem đến cho chúng tôi những thông tin quan trọng và bổ ích. Các công

trình nghiên cứu nước ngoài được tiến hành trên SV nước ngoài tới học tập tại các

quốc gia khác. Những SV này có thể được xem là là nhóm SV “thiểu số” tại các

nước bản địa và vì thế có thể có những đặc tính giống với sự mô tả về SV DTTS

(khác về văn hóa, khác về ngôn ngữ, khác về giá trị và chuẩn mực…). Các tác giả

nước ngoài đã nghiên cứu khá nhiều khía cạnh của thích ứng trong học tập, trong đó

luôn đề cập đến vấn đề lý luận chung về thích ứng, kĩ năng giải quyết vấn đề, mối

quan hệ với bạn bè, những khó khăn mà SV sẽ gặp phải trong môi trường giao tiếp

ở đại học, chỉ ra nhiều yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến quá trình

thích ứng của học sinh, SV đồng thời đưa ra các biện pháp giúp học sinh, SV nhanh

chóng thích ứng với môi trường có nhiểu biến động. Các công trình nghiên cứu về

thích ứng của SV nói trên đã gợi ý cho chúng tôi những hướng nghiên cứu thích

ứng phù hợp với SV DTTS với hoạt động học tập.

1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước

Ở Việt Nam, từ việc tiếp thu kế thừa các nghiên cứu về thích ứng trên thế

giới, các nhà khoa học đã quan tâm và phần lớn tập trung nghiên cứu sự thích ứng

trong lĩnh vực giáo dục. Các nghiên cứu về sự thích ứng học đường được trình bày

trong các luận văn, luận án ở trường Đại học sư phạm Hà Nội, khoa Tâm lý học,

trường Đại học KHXH & NV Hà Nội, khoa Tâm lý học, Học viện KHXH và một

số nhà khoa học đang là các nhà giáo ở các cơ sở giáo dục trong cả nước. Có thể

15

nêu ra đây một số nghiên cứu. Phần dưới đây luận án sẽ trình bày ba hướng nghiên

cứu chính là nghiên cứu về thích ứng nghề, thích ứng với hoạt động học tập của học

sinh, sinh viên và thích ứng của học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số.

1.2.1. Hướng nghiên cứu về thích ứng nghề

Với “Nghiên cứu sự thích ứng với học tập và rèn luyện của học viên các

trường sỹ quan quân đội” tác giả Đỗ Mạnh Tôn (1996) đã chỉ ra được cấu trúc ba

thành phần: động cơ học tập và rèn luyện; kỹ năng, kỹ xảo học tập, rèn luyện; thói

quen sinh hoạt, học tập và rèn luyện là các yếu tố giúp cho học viên các trường sỹ

quan quân đội có thể thích ứng tốt với hoạt động học tập. Và cho rằng thích ứng là

một phẩm chất phức hợp và động cơ của nhân cách học viên. [73]

Khi nghiên cứu: “Sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên trường

Cao đẳng Sư phạm Nhà trẻ Mẫu giáo Trung ương I”, tác giả Nguyễn Thạc (2003)

chỉ ra rằng: SV chưa thích ứng được với việc học là do trình độ học lực, chưa quen

với phương pháp học tập mới, cách giảng dạy của giảng viên và do thay đổi môi

trường học tập. [61]

Trong đề tài: “Phát triển năng lực thích ứng nghề cho sinh viên cao đẳng sư

phạm” tác giả Dương Thị Nga, (2012) đã nhận xét, quá trình thích ứng của SV cao

đẳng sư phạm với nghề dạy học xét đến cùng đó chính là quá trình SV tích cực học

tập, rèn luyện, thay đổi những đặc điểm tâm- sinh lý của bản thân để tiến dần đến sự

phù hợp với nghề dạy học tương lai. [49].

Phân tích sự thích ứng với nghề công tác xã hội cuả SV, tác giả Nguyễn Thị

Hiền (2015), đã nhận xét rằng sự thích ứng đối với việc học nghề là một trong

những tiền đề có tính chất quyết định cho sự thành công của hoạt động cá nhân đối

với nghề nghiệp sau này. Thích ứng với việc học nghề công tác xã hội của SV

không chỉ đơn thuần giúp SV tìm ra phương pháp học tập tốt, thích ứng được với

môi trường hoạt động của nghề mà còn góp phần hình thành kĩ năng và nhân cách

nghề nghiệp cho SV. Số liệu nghiên cứu được tác giả rút ra từ Luận án Tiến sĩ Tâm

lý học cùng tên bài báo của mình, trong đó, nghiên cứu chỉ ra những biểu hiện thích

ứng của SV với quá trình tự học, tự nghiên cứu nghề nghiệp. Những biểu hiện như:

16

Lập thời gian biểu và thực hiện đúng kế hoạch; Thường lên thư viện tìm kiếm tài

liệu học thêm; Thường xuyên nghiên cứu khoa học; Thường gặp gỡ các anh chị

khóa trên, các thầy cô để trao đổi nội dung học tập và học hỏi kinh nghiệm; thường

tình nguyện tham gia các hoạt động xã hội, thường lên mạng internet tìm kiếm tài

liệu; thường chỉ học khi đến kì thi;. Trong các biểu hiện này, SV có mức độ thích

ứng cao với việc tìm kiếm tài liệu trên mạng internet (ĐTB = 2.62). Tác giả kết luận

rằng: đa số SV thích ứng với quá trình tự học ở mức độ trung bình. (66.2%). Đối

với nghề CTXH SV thích ứng ở mức độ trung bình và thấp là chủ yếu. Điều này do

một số nguyên nhân như việc đào tạo nghề CTXH còn mang tính hình thức lên lớp,

ít có cơ hội thực tế, chưa có nhiều hoạt động cho SV, SV chưa có sự đam mê và tự

hào về nghề nghiệp, do SV chưa có nhiều kiến thức, kĩ năng về nghề nghiệp [18].

Khi nghiên cứu sự thích ứng với hoạt động dạy học của giáo viên tiểu học

mới vào nghề, tác giả Nguyễn Thanh Nga (2015) chỉ ra rằng, các yếu tố ảnh hưởng

đến sự thích ứng nghề mang tính chủ quan như: Xu hướng nghề nghiệp sư phạm

được biểu hiện qua nhận thức được ý nghĩa xã hội của nghề sư phạm; nhận thức

được các yêu cầu đặc trưng của nghề sư phạm;nhận thức được những đặc điểm tâm

lý cá nhân cần thiết với nghề sư phạm; Lòng yêu thương học trò, sự say mê nghề

nghiệp; tích cực học hỏi, rèn luyện tay nghề, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, bồi

dưỡng tình cảm nghề nghiệp;. Tính tích cực trong hoạt động dạy học được biểu

hiện qua Độc lập, chủ động khắc phục khó khăn; luôn tìm tòi, sáng tạo và đổi mới;

tự nguyện, tự giác tích lũy tri thức; cố gắng vươn lên để nâng cao hiệu quả trong

hoạt động dạy học;. Tính cách cá nhân, thể hiện qua các biểu hiện Tinh thần hợp

tác; năng động, sáng tạo; tỉ mỉ kiên trì; lao động có kỉ luật; yêu nghề; sự cởi mở;.

Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập đến các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến sự thích

ứng như: Bầu không khí tâm lý sư phạm, yếu tố cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt

động dạy học, chính sách đãi ngộ. [51; tr60-66]. Tác giả đi đến kết luận: Các yếu tố

chủ quan và khách quan đều có sự ảnh hưởng nhất định đến sự thích ứng của người

giáo viên mới vào nghề. Trong đó, yếu tố xu hướng nghề và tính tích cực của cá nhân

được đánh giá có ảnh hưởng nhiều nhất và mang tính quyết định đến sự thích ứng. Các

17

yếu tố khách quan cũng có ảnh hưởng đến sự thích ứng nhưng ở mức độ thấp.

1.2.2. Hướng nghiên cứu thích ứng với hoạt động học tập của học

sinh, sinh viên

Trong nghiên cứu: “Sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên”, tác

giả Lê Ngọc Lan (2002) quan niệm rằng: Thích ứng với cuộc sống và hoạt động ở

môi trường mới, với những yêu cầu mới cao hơn là một quá trình tưong đối lâu dài.

Quá trình đó diễn ra với tốc độ và kết quả như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào sự nỗ

lực, vào ý thức và khả năng...của mỗi SV. Nhưng quá trình đó sẽ có thể diễn ra

nhanh hơn, đúng hướng hơn, nếu như SV được nhà trường đại học, đoàn thanh niên

hướng dẫn ngay từ những ngày đầu mới vào trường, đặc biệt là được cán bộ giảng

dạy hướng dẫn và giúp đỡ cụ thể trong việc xây dựng cho mình một phương pháp

học tập – có tính chất nghiên cứu tương ứng với mỗi bộ môn khoa học ở đại học.

Tác giả cũng khẳng định: “Với ý thức tích cực, tự giác trong học tập lại có được

phương pháp học tập thích hợp, sinh viên sẽ nâng cao được kiến thức và kỹ năng

nghề nghiệp không chỉ trong hiện tại mà cả trong tương lai.” [30]

Trung tâm nghiên cứu về phụ nữ thuộc Đại học quốc gia Hà Nội (2003) đã

tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu sự thích ứng của sinh viên năm thứ nhất Đại

học quốc gia Hà Nội với môi trường Đại học” do tác giả Trần Thị Minh Đức làm chủ

nhiệm đề tài. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: Nhiều SV đã không có được một trạng

thái nhập cuộc tốt, không có được động cơ và hứng thú cần thiết với ngành học họ

đang theo học. Đây là biểu hiện sự kém thích ứng về tâm lý của SV. Bên cạnh đó,

nhiều SV chưa thích ứng được với nội dung chương trình và tổ chức đào tạo của nhà

trường, chưa thích vứng ới phương pháp đào tạo (với phương pháp học tập tương ứng)

và cách thức đánh giá học tập của khoa, của nhà trường. [9].

Cũng nghiên cứu về mức độ thích ứng với hoạt động học tập của SV, tác

giả Đỗ Thị Thanh Mai (2008) đã chỉ ra: Mức độ thích ứng với hoạt động thực

hành môn học của SV chịu sự chi phối của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan

như: chỉ số phát triển thông minh, kiểu tính cách, sức khỏe, nỗ lực cá nhân, việc

18

tổ chức đào tạo của nhà trường.[40].

Còn Dương Thị Thoan (2010) với “Nghiên cứu sự thích ứng với hoạt động

học tập phù hợp với phương thức đào tạo theo tín chỉ của sinh viên năm thứ nhất

trường đại học Hồng Đức Thanh Hóa” đã chỉ ra: SV năm thứ nhất trường ĐH

Hồng Đức đã thích ứng với hoạt động học tập theo tín chỉ ở mức độ trung bình khá.

Không có hình thức hoạt động nào đạt mức độ thích ứng rất tốt, cũng không có hình

thức hoạt động nào sinh viên không thể thích ứng được. Trong ba mặt biểu hiện của

thích ứng với hoạt động học tập theo tín chỉ thì mặt nhận thức biểu hiện tốt nhất,

thứ hai là mặt thái độ, và thấp nhất là mặt hành vi làm quen.[67].

Trong nghiên cứu “Một số khó khăn của trẻ em lang thang cơ nhỡ trong việc

thích ứng với cuộc sống” Vũ Dũng (2012) đã chỉ ra rằng “đối với các khó khăn về

ăn ở, học tập và sức khỏe thì nhóm trẻ học tiểu học có khó khăn lớn hơn nhóm trẻ

học trung học cơ sở (khó khăn về ăn ở: 33,1% so với 19,1%; khó khăn về học tập:

36,4% so với 20,2% và khó khăn về sức khỏe: 10,8% so với 9,1%. Như vậy, trẻ em

có học vấn cao hơn thì sự thích ứng với cuộc sống cũng tốt hơn nhóm trẻ có học

vấn thấp hơn”. [6].

Nhóm tác giả Mã Ngọc Thể, Nguyễn Thị Chính, Lê Minh Công (2012) khi

nghiên cứu về người chưa thành niên vi phạm pháp luật có đề cập đến sự thích ứng

của người chưa thành niên vi phạm pháp luật khi sống trong trường giáo dưỡng.

Bản thân những người chưa thành niên phạm pháp khi trở thành học sinh trường

giáo dưỡng đều gặp những khó khăn tâm lý ảnh hưởng đến sự thích ứng với cuộc

sống trong trường giáo dưỡng, theo các tác giả, người chưa thành niên có hành vi

phạm pháp có mức độ nghiêm trọng bao nhiêu thì việc thích ứng và hòa nhập với

cuộc sống trong trường giáo dưỡng của họ càng khó khăn bấy nhiêu. Các chỉ số

thích ứng với cuộc sống như “sự phát triển cá nhân”, “sự tự do cá nhân”, “nhóm

bạn bè” gắn liền với những điều kiện xã hội vĩ mô và vi mô có ảnh rất lớn đến sự

thích ứng của người chưa thành niên vi phạm pháp luật với cuộc sống trong trường

giáo dưỡng. Sự thống nhất giữa mặt nhận thức và thực hiện hành vi sẽ quyết định

người chưa thành niên lựa chọn chiều hướng tích cực thay đổi bản thân hay đi

19

ngược lại xu hướng tiến bộ”. [64].

Trong nghiên cứu một số biện pháp nâng cao mức độ thích ứng với hoạt

động học môn Tâm lý học của SV sư phạm, tác giả Đặng Thị Lan (2012) chỉ ra

rằng, việc hướng dẫn và tổ chức cho SV thực hành một số hành động học cơ bản

môn Tâm lý học là biện pháp sư phạm chính xác, phù hợp, đúng đắn và có hiệu

quả trong việc nâng cao mức độ thích ứng với hoạt động học môn Tâm lý học

của SV sư phạm. Biện pháp này không chỉ áp dụng trong việc nâng cao mức độ

thích ứng với hoạt động học môn Tâm lý học của SV sư phạm, mà còn có thể áp

dụng trong việc nâng cao mức độ thích ứng với hoạt động học các môn bằng

tiếng Việt của SV các trường đại học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.[32].

Khi nghiên cứu trên SV Đại học Thái nguyên, tác giả Nguyễn Thị Út Sáu

(2013) với nghiên cứu “Thích ứng với hoạt động học tập theo học tín chỉ của sinh

viên Đại học Thái Nguyên”, đã nhận định rằng: SV thích ứng ở mức khá với hoạt

động học tập theo tín chỉ, tuy nhiên những mặt SV thích ứng ở mức độ cao chưa

phản ánh những đặc trưng của phương thức đào tạo theo tín chỉ. Còn những nội

dung thể hiện đặc trưng của phương thức đào tạo này thì SV thể hiện ở mức thấp

hơn. [58].

Với nghiên cứu “Những yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng với hoạt động

học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ của sinh viên trường Đại học Luật Hà

Nội” tác giả Đặng Thanh Nga (2014) đã chỉ ra rằng, phương thức đào tạo có ảnh

hưởng nhiều đến sự thích ứng học tập của SV, các yếu tố chủ quan và khách quan

có tác động đến quá trình thích ứng.[50].

Nhìn chung các tác giả đã có những hướng tiếp cận và lý giải khác nhau về

các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng của học sinh, SV với hoạt động học tập. Các

yếu tố chủ quan ( sức khỏe, tính tích cực học tập, các phẩm chất nhân cách cá nhân)

và các yếu tố khách quan (môi trường sống, điều kiện học tập, khối lượng kiến

thức, các quy định về trường học…) được đề cập đến đều phản ánh thực trạng

khó khăn tâm lý gây ảnh hưởng đến thích ứng của học sinh, SV. Tuy nhiên, xu

hướng của các tác giả thường căn cứ vào kết quả học tập để đánh giá mức độ

20

thích ứng, tức là điểm số học tập của học sinh, SV cao hay thấp sẽ tương ứng

thích ứng như vậy với hoạt động học tập. Như vậy, nghiên cứu về sự thích ứng

với hoạt động học tập còn nhiều điểm cần nghiên cứu hơn nữa, vẫn chưa thực sự

đầy đủ. Đây cũng là những điểm còn thiếu để chúng tôi nghiên cứu về sinh viên

dân tộc thiểu số.

1.2.3. Hướng nghiên cứu về thích ứng của học sinh - sinh viên dân tộc

thiểu số

Các công trình nghiên cứu về dân tộc thiểu số ở nhiều lĩnh vực khoa học

được quan tâm, đặc biệt nghiên cứu dưới góc độ tâm lý học về dân tộc thiểu số

thì rất ít. Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng đã đề cập đến các khía cạnh của đời

sống dân tộc như bản sắc văn hóa, phong tục, vấn đề tính cách, nhân cách dân

tộc, sự thích ứng, hoạt động học tập của trẻ em, học sinh, SV là người dân tộc

thiểu số. Các nghiên cứu này ngày càng được nhìn nhận một cách sâu sắc, toàn

diện và hệ thống hơn.

Nghiên cứu của nhóm tác giả Lã Thị Bưởi, Đinh Đăng Hòe, Nguyễn Thị

Mai, Nguyễn Việt, Trần Viết Nghị, Võ Văn Bản (2001) trên 30 học sinh lớp 10,

30 học sinh lớp 12 dân tộc ít người tại trường phổ thông vùng cao Việt Bắc cho

thấy sự thay đổi môi trường sống làm các em khó thích ứng với việc học tập tại

trường. Nếu thầy cô giáo tăng sự quan tâm động viên, chia sẻ, giúp đỡ thì các em

sẽ dễ dàng hòa nhập với cuộc sống mới và học tập tốt hơn.[dẫn theo 30].

Nghiên cứu về đặc trưng tâm lý của học sinh dân tộc thiểu số khu vực Đông

Bắc Việt Nam tác giả Phùng Thị Hằng, (2012) nhận định rằng, trong các yếu tố ảnh

hưởng đến giao tiếp của học sinh trung học phổ thông Tày, Nùng yếu tố chủ quan

(học lực, vốn sống, khả năng ngôn ngữ, quan hệ bạn bè, giới tính) có ảnh hưởng rất

lớn và có tính quyết định đến giao tiếp của học sinh trong môi trường học tập. Các

yếu tố khách quan (tác động của môi trường miền núi, phong tục tập quán, giáo dục

nhà trường) cũng có ảnh hưởng nhất định nhưng không mạnh bằng các yếu tố khách

quan. Những yếu tố ảnh hưởng ảnh hưởng trực tiếp đến sự thích ứng của học sinh

21

với môi trường học tập. [16]

Từ kết quả công trình nghiên cứu “Giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống cho

học sinh dân tộc thiểu số” tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2012) và cộng sự đã đưa ra

các nhận định rằng: “ Nếu con người không có nền tảng giá trị sống, kĩ năng sống

chúng ta sẽ không biết cách tôn trọng bản thân và người khác, không biết cách

hợp tác, không biết cách xây dựng và duy trì tình đoàn kết trong mối quan hệ,

không biết cách thích ứng trước những đổi thay”. Các tác giả cũng cho rằng khi

giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống cho thanh niên học sinh dân tộc thiểu số cần

phải nâng cao nhận thức và đưa các thành tố trọng yếu của kĩ năng sống vào cuộc

sống của thanh thiếu niên, sẽ giúp các em nâng cao năng lực để có được những lựa

chọn lành mạnh hơn, có được sự kháng cự tốt hơn với những áp lực tiêu cực và

kích thích những thay đổi tích cực trong cuộc sống của các em. Như vậy, giáo dục

giá trị sống, kĩ năng sống chính là tăng cường khả năng thích ứng của học sinh

dân tộc thiểu số với môi trường sống và hoạt động học tập.[37].

Nguyễn Thị Ngọc (2013), với Ảnh hưởng của phong tục, tập quán đến các

hoạt động giáo dục quyền và bổn phận cho trẻ em Tày - Nùng tỉnh Thái Nguyên đã

chỉ ra rằng, các yếu tố văn hóa dân tộc tác động ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý học

sinh dân tộc, nhận thức về quyền và bổn phận của trẻ em, học sinh là người dân tộc

thiểu số Tày – Nùng. Phong tục tập quán với các quy định khắt khe, môi trường sống ở

miền núi tạo ra những cản trở khiến cho trẻ em, học sinh dân tộc thiểu số khó có thể

nhận được đầy đủ các giá trị, hưởng lợi từ quyền và bổn phận chăm sóc trẻ em của

người lớn. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến trẻ em khó thích ứng với

môi trường sống, tiếp cận với giá trị văn hóa chung của xã hội hiện đại. [54].

Trong nghiên cứu: “Sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên năm

thứ nhất người dân tộc thiểu số” tại trường Đại học Tây Nguyên tác giả Nguyễn

Thị Hoài (2007) nhận xét: chỉ qua một thời gian ngắn học tập ở đại học, SV

người dân tộc thiểu số đã có sự thay đổi về nhận thức, thái độ và kỹ năng đối với

các hành động học tập. Quá trình thay đổi này sẽ diễn ra nhanh hay chậm không

chỉ phụ thuộc vào sự tự tin, chủ động, tích cực vượt qua những khó khăn tâm lý

22

đặc trưng của bản thân mỗi SV, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào sự quan tâm tích

cực của các cấp quản lý của nhà trường, của các khoa và các giảng viên trực tiếp

tham gia giảng dạy. Nghiên cứu chỉ ra: “Sinh viên người dân tộc thiểu số ở Đại

học Tây Nguyên thích ứng chưa cao với hoạt động học tập ở đại học. Ở sinh viên

còn nhiều đặc điểm gây khó khăn cho sự thích ứng với hoạt động học tập”. [20].

Nghiên cứu về “Phát triển kỹ năng giao tiếp cho sinh viên dân tộc thiểu số

Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên”, tác giả Ngô Giang Nam,

(2013) chỉ ra một số kĩ năng giao tiếp cơ bản như kĩ năng tiếp nhận thông tin

(nghe, đọc, hiểu), kĩ năng diễn đạt, kĩ năng trình bày văn bản, được SV thường

dùng trong hoạt động học tập và đề xuất một số kĩ năng mềm như kĩ năng kiểm

soát cảm xúc, kĩ năng xác định các giá trị, kĩ năng xá định các mục tiêu có thể

giúp SV thích ứng tốt hơn với hoạt động học tập.[46].

Nghiên cứu về đề tài “đặc điểm nội dung giao tiếp của sinh viên người

dân tộc Tày tỉnh Tuyên Quang” tác giả Nguyễn Thị Lan Anh (2015), cho thấy,

giao tiếp của SV dân tộc Tày ở mức độ trao đổi thường xuyên (ĐTB=2.60) điều

này chứng tỏ sinh viên với nhau về các nội dung liên quan đến học tập và nhu

cầu thành đạt; trao đổi cảm xúc, tình cảm; trao đổi về tâm linh và phong tục tập

quán; nhu cầu và đời sống tinh thần của bản thân. Trong đó nội dung trao đổi

cảm xúc, tình cảm có mức độ thường xuyên cao nhất; Tiếp đến là nội dung giao

tiếp liên quan đến học tập và nhu cầu thành đạt. Và hai nội dung giao tiếp còn lại

có mức độ giap tiếp thường xuyên thấp hơn.[1].

Khi nghiên cứu về: “Thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt

động học tập” tác giả Mã Ngọc Thể (2015) đã xem xét thích ứng học tập của

SV qua ba mặt biểu hiện nhận thức, thái độ và hành vi. Kết quả nghiên cứu chỉ

ra rằng, phần lớn SV DTTS đạt mức độ thích ứng trung bình, trong các mặt này

thì mặt hành vi quyết định rất nhiều đến sự thích ứng của SV. Trong đó đề cập

đến các kĩ năng “Hợp tác với bạn bè” và “kĩ năng đánh giá các vấn đề học tập”

được phần lớn SV đánh giá cao ảnh hưởng đến quá trình thích ứng học tập

23

(78.6%). Với kĩ năng “xác lập mối quan hệ với giảng viên trong trường” được

SV đánh giá ở các mức độ từ trung bình đến Khá và Cao lần lượt là (76.1%),

(2.5%) và (21.4%). [63].

Khi nghiên cứu về các yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến sự

thích ứng của SV DTTS tác giả Mã Ngọc Thể (2015) chỉ ra rằng trong các yếu tố

khách quan bao gồm tính ham hiểu biết, óc tìm tòi sáng tạo, ý chí khắc phục khó

khăn, tính tích cực hoạt động giao tiếp với giảng viên, với bạn học và sự tham gia

vào các hoạt động SV DTTS đạt điểm giá trị trung bình từ 3.45 đến 4.49. Còn các

yếu tố khách quan gồm phương pháp giảng dạy của giảng viên, điều kiện sống (môi

trường sống, truyền thống văn hóa, giáo dục gia đình), đặc điểm học tập đạt điểm

giá trị trung bình từ 3.52 đến 3.83. Như vậy, nhìn vào tổng điểm trung bình thì các

yếu tố khách quan có điểm số cao hơn so với yếu tố chủ quan, nhưng xét ở ảnh

hưởng của từng yếu tố thì yếu tố tính cách cá nhân có điểm giá trị trung bình lớn

nhất và ảnh hưởng mạnh nhất, có tính chất quyết định đến sự thích ứng của SV

DTTS. [65]. Từ kết quả nghiên cứu trên, đã gợi ý cho chúng tôi hướng đến việc lựa

chọn các yếu tố ảnh hưởng chủ quan và khách quan trong nghiên cứu ở luận án này.

Tóm lại, trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp và phân tích các công trình khoa

học của các nhà khoa học ngoài nước và trong nước, chúng tôi nhận thấy, các

nghiên cứu đã chỉ ra sự thích ứng của SV dựa trên các biến số giới tính, đặc thù

môn học, môi trường học tập mà chưa có nghiên cứu sâu về các yếu tố điều kiện xã

hội, yêu cầu của việc học tập trên lớp, ở nhà (ký túc xá) và hoạt động học tập ngoại

khóa. Có thể nói, môi trường học tập và rèn luyện kết hợp với kỷ luật nghiêm khắc

đã tạo cho SV việc thường xuyên trau dồi, tu dưỡng tăng khả năng thích ứng với

những khó khăn trong học tập và khắc phục các hạn chế bản thân bồi dưỡng các

phẩm chất và năng lực. Việc nghiên cứu thích ứng của SV không bó hẹp ở những

vấn đề mang tính lý luận mà còn mang tính thực tiễn. Các nghiên cứu trên đã đề

cập đến đời sống, văn hóa, kĩ năng sống, kĩ năng thực hành nghề nghiệp của SV

trong tương lai. Có một vài nghiên cứu về sự thích ứng của học sinh - sinh viên

dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, các nghiên cứu này còn mỏng, có nhiều khoảng trống

24

và cần phân tích sâu hơn về thực tiễn. Các nghiên cứu đã mở ra cho chúng tôi

những hướng mới để nghiên cứu sâu hơn trong đề tài của mình. Do đó, nghiên cứu

hoạt động học tập của SV không thể tách rời khỏi nghiên cứu những biểu hiện và

mức độ thích ứng, những khó khăn, các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giao tiếp,

mối quan hệ của SV với bạn học, với giảng viên, điều kiện sống. Trong các tác

nhân đó thì tác nhân nào ảnh hưởng mạnh mẽ và quyết định sự thích ứng của SV

DTTS với hoạt động học tập trong từng năm học, đây cũng là vấn đề cần phải

nghiên cứu đầy đủ hơn nên chúng tôi đã lựa chọn vấn đề này làm đề tài nghiên

cứu của mình.

Tiểu kết Chương 1

Những nghiên cứu về thích ứng của các tác giả nước ngoài đã đem lại cho

chúng tôi một cách nhìn tổng quan và khái quát hơn về các khía cạnh của thích ứng

cũng như thích ứng với hoạt động học tập. Đặc biệt nghiên cứu thích ứng được gắn

với từng điều kiện và hoàn cảnh có vấn đề, những khía cạnh tâm lý xã hội luôn

được các tác giả quan tâm nghiên cứu. Có thể thấy các hướng nghiên cứu chính về

thích ứng với môi trường, nghề nghiệp, hoạt động học tập của học sinh và sinh viên.

Các nghiên cứu cũng đã đề cập đến đời sống, văn hóa, kĩ năng sống, kĩ năng thực

hành nghề nghiệp của sinh viên trong tương lai.

Ở Việt Nam cho đến nay có rất ít nghiên cứu về thích ứng của SV DTTS với

hoạt động học tập, đặc biệt là nghiên cứu thích ứng trên các năm học khác nhau

mặc dù đây là vấn đề rất cần thiết cho thực tiễn. Chính vì vậy, sự lựa chọn hướng

nghiên cứu về sự thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học là

25

hướng đúng cho đề tài của luận án này.

CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÍCH ỨNG CỦA SINH VIÊN DÂN TỘC

THIỂU SỐ VỚI HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP

2.1. Một số khái niệm cơ sở

Để làm rõ khái niệm thích ứng, phần này làm rõ khái niệm thích ứng qua các

định nghĩa của các tác giả trong và ngoài nước. Từ đó đưa ra các tiêu chí đo sự

thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập.

2.1.1. Thích ứng

2.1.1.1. Khái niệm thích ứng

Thích ứng là một phạm trù được rất nhiều khoa học nghiên cứu. Ở từng lĩnh

vực khoa học sẽ có cách tiếp cận nghiên cứu khác nhau. Trong đó, thích ứng được

nghiên cứu rất phổ biến trong tâm lý học. Tùy vào quan niệm, hướng tiếp cận mà

các nhà tâm lý học định nghĩa sự thích ứng của con người. Có tác giả tiếp cận theo

hướng lý giải sự thích ứng liên quan đến môi trường, có tác giả nghiên cứu dưới góc

độ nhận thức hoặc tiếp cận qua quan sát hành vi và kết quả hành vi trong từng hoạt

động.

Dưới đây chúng tôi xin khái quát một số nghiên cứu dưới góc độ tâm lí học

về thích ứng. Chịu ảnh hưởng của học thuyết Darwin, Spencer H (1998) cho rằng,

chọn lọc tự nhiên là quy luật cơ bản của thích ứng tâm lí, thể hiện ở việc cá thể biến

đổi hành vi loài một cách phù hợp trước những yêu cầu của môi trường xung quanh.

Như vậy, bản chất của quan niệm này cho sự thích ứng của con người chính là biểu

hiện của thích nghi sinh học. Theo lý thuyết hành vi của Watson J. (1913) thích ứng

của người và động vật giống nhau, đều phải học được một hệ thống hành vi, ứng xử

phù hợp với kích thích, phù hợp với môi trường. Mỗi hành vi cụ thể có cơ sở là các

kinh nghiệm, hành vi cũ và có động lực là sự thích ứng. Đó là quá trình cá nhân học

được những hành vi mới cho phép nó giải quyết những yêu cầu, những đòi hỏi của

cuộc sống. Ông coi con người là một cơ thể sống với một hệ thống hành vi, phản

26

ứng đáp lại kích thích của bên ngoài nhằm thích ứng với môi trường.

Tóm lại, quan điểm thích ứng với môi trường nhấn mạnh tới vai trò quan

trọng của hành vi khi con người sự thích ứng với môi trường, trong khi đó từ góc độ

nhận thức, Jean Piagie chỉ ra rằng, khi tương tác với môi trường, cá nhân có được

kinh nghiệm. Nếu kinh nghiệm này phù hợp với cơ cấu nhận thức hiện có của bản

thân, nó sẽ được tiếp thu. Như vậy, cá nhân sẽ có những sự thay đổi về cấu trúc

nhận thức. Bên trong sự tương tác của chủ thể sẽ diễn ra quá trình điều ứng (một

biểu hiện của sự thích nghi – thích ứng). Chủ thể sẽ tái lập lại những đặc điểm của

khách thể vào cái đã có, qua đó biến đổi sơ đồ đã có, tạo ra sơ đồ mới… cơ cấu

nhận thức của chủ thể sẽ được thay đổi để nó có thể tiếp nhận kinh nghiệm mới. Do

đó cơ cấu nhận thức của cá nhân phát triển thêm nhiều cơ cấu mới, giúp cá nhân có

sự thích nghi, đồng thời tương tác phù hợp và hiệu quả với môi trường, duy trì sự

cân bằng với môi trường. [dẫn theo 15]

Quan điểm của Jean Piagie đã mở ra các hướng mới cho những nghiên cứu

về thích ứng sau này. Bởi bản thân quan niệm thích nghi sinh học đặt nền tảng cho

những nghiên cứu nhận thức (sự hiểu biết, kinh nghiệm, cơ cấu nhận thức) để

những người đi sau chú trọng hơn đến bản chất sự thích ứng của con người không

chỉ giới hạn ở mặt thích nghi sinh học thuần túy mà nó còn có sự liên quan tới thích

ứng về mặt tâm lý – xã hội. Vì quá trình phát triển tâm lý của con người mang bản

chất xã hội – lịch sử.

Từ góc độ các nhà tâm lý học như L.X Vưgotxki; A.N Leonchiev; X. L

Rubinstein; P.Ia Ganperin cho rằng yếu tố quan trọng đối với quá trình thích ứng,

đó là tính tích cực của chủ thể, mức độ thích ứng phụ thuộc vào hoạt động và hiệu

quả của nó, chủ thể càng tích cực trong hoạt động thì cường độ sự trao đổi giữa

con người và môi trường càng lớn và vì thế càng thích ứng với môi trường. Thích

ứng được thực hiện bằng cơ chế hoạt động và giao tiếp. Quá trình thích ứng diễn

ra trong hoạt động, giao tiếp, được biểu hiện trong hoạt động, giao tiếp và được

đánh giá bằng hiệu quả của hoạt động và giao tiếp.

Có thể nói, với mỗi cách nhìn khác nhau về sự thích ứng các nhà khoa học lý

27

giải sự thích ứng của con người khác nhau. Tuy nhiên để cụ thể hóa vấn đề thích

ứng của con người, luận án quan tâm làm rõ khái niệm thích ứng và các đặc điểm

của nó. Từ đó có cơ sở để xem xét sự thích ứng tâm lý của sinh viên trong bối cảnh

học đại học.

Từ điển tiếng Việt giải thích rằng: Thích nghi là “Có những biến đổi nhất

định cho phù hợp với hoàn cảnh môi trường mới”; còn thích ứng thì có hai nghĩa “1)

Như thích nghi; 2) Là có những thay đổi cho phù hợp với điều kiện, yêu cầu mới”.

Theo từ điển tiếng Anh thuật ngữ adapt được hiểu là phỏng theo, làm cho vừa, làm

cho thích hợp, sửa đổi, tùy thời. Từ điển Tâm lý học (tiếng Anh) khái niệm thích

ứng và thích nghi (adapt - Adaptation) được hiểu là “để đáp ứng với môi trường

mới”. [88]. Khái niệm “adaptation” được dịch sang tiếng Việt là “thích nghi”, hoặc

“thích ứng”.

Chúng tôi xin đưa ra một số quan điểm của các nhà tâm lý học về thích

nghi và thích ứng nhằm làm sáng tỏ hơn về thuật ngữ thích ứng sẽ được sử dụng

trong nghiên cứu về sự thích ứng với hoạt hoạt động học tập của sinh viên dân

tộc thiểu số.

A.N. Leonchiev cũng đã phân biệt khái niệm thích nghi sinh học và thích

nghi tâm lý xã hội: Thích nghi sinh học là quá trình thay đổi các thuộc tính của

loài và năng lực hành vi của cơ thể…thích nghi tâm lý- xã hội của con người

diễn ra không phải bằng cơ chế di truyền sinh học mà là di truyền xã hội - tức là

quá trình lĩnh hội những giá trị xã hội thông qua hoạt động và giao tiếp của cá

nhân khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội. [dẫn theo 13].

Theo Từ điển Tâm lý do Nguyễn Khắc Viện (1994) chủ biên diễn giải thích

ứng, thích nghi được hiểu là: “Một sinh vật sống được trong một môi trường có

nhiều biến động, bằng cách thay đổi phản ứng của bản thân, hoặc tìm cách thay đổi

môi trường. Bước đầu là điều chỉnh những phản ứng sinh lý ( như thích nghi với

nhiệt độ cao hay thấp, môi trường khô hay ẩm…); sau là thay đổi cách ứng xử, đây

28

là thích nghi tâm lý.” [82]

Theo tác giả Vũ Dũng (2012), thích nghi tâm lý là sự thích ứng của con

người đối với những yêu cầu và tiêu chuẩn đánh giá hiện có trong xã hội nhờ chiếm

lĩnh được những chuẩn mực và giá trị của xã hội đó.[6].

Tác giả cũng cho rằng: Thích ứng là phản ứng của cơ thể với những thay đổi

của môi trường. Về nguyên tắc, có hai phương thức thích ứng khác nhau của cơ thể

đối với những thay đổi các điều kiện của môi trường:

1) Thích ứng bằng cách thay đổi cấu tạo và hoạt động của các cơ quan. Đây

là phương thức phổ biến đối với động vật và thực vật.

2) Thích ứng bằng cách thay đổi hành vi mà không thay đổi tổ chức.

Phương thức này chỉ đặc trưng cho động vật và gắn liền với sự phát triển tâm lý.

Phương thức thích ứng này được phân chia thành hai hướng khác nhau:

a) Thay đổi chậm những hình thức hành vi được kế thừa – bản năng, mà sự

tiến hóa của những bản năng này diễn ra dưới ảnh hưởng của những thay đổi môi

trường với tốc độ chậm;

b) Phát triển năng lực học tập của cá nhân, năng lực “hành động hợp lý” –

những thay đổi nhanh của hành vi, “sáng tạo” ở mức độ nhất định những phương

thức hành vi mới để đáp lại những thay đổi nhanh của môi trường mà bản năng bị

bất lực. Những hoạt động này không nhất thiết phải cố định, phải di truyền, vì sự ưu

việt của chúng là tính mềm dẻo cao. Vì vậy, chỉ có những khả năng hành động quy

định thứ bậc cao của tổ chức tâm lý của sinh vật mới được di truyền.

Theo tác giả Trần Thị Minh Đức (2004), Thích ứng là quá trình hoà nhập

tích cực với hoàn cảnh có vấn đề, qua đó cá nhân đạt được sự trưởng thành về mặt

tâm lý xã hội.[9].

Như vậy, tác giả đã chỉ ra đặc điểm của thích ứng thể hiện qua 3 mặt dưới đây:

- Sự hoà nhập tích cực: là sự chủ động thay đổi bản thân và cải tạo hoàn

cảnh trong sự hài hoà nhất định. Cá nhân phát hiện vấn đề, phân tích vấn đề, liên hệ

kinh nghiệm bản thân và tìm cách thay đổi bản thân, cải tạo hoàn cảnh cho phù hợp

29

với bản thân.

- Hoàn cảnh có vấn đề: Tình huống, sự kiện xuất hiện không nằm trong kinh

nghiệm của cá nhân, có ảnh hưởng đến cuộc sống của cá nhân, buộc cá nhân phải

huy động tiềm năng của bản thân để giải quyết chúng.

- Sự trưởng thành về mặt tâm lý- xã hội: Là sự thích ứng tâm lý bên trong

của mỗi cá nhân, sự phát triển hài hoà và làm chủ trong các mối quan hệ xã hội của

con người.

Khi nói đến thích ứng, người ta thường hay nhắc đến sự thay đổi cấu trúc

tâm lý, trong đó có 3 mặt chính, đó là nhận thức, thái độ và hành vi. Trong sự biến

đổi này có sự thống nhất giữa ba mặt trên. Khi chủ thể có sự thay đổi về nhận thức,

thái độ mà không có sự thay đổi về hành vi thích ứng với môi trường xung quanh

thì chủ thể sẽ không thể biến quá trình thay đổi đó thành sự phát triển hoàn thiện.

Đặc biệt, hành vi thích ứng có vai trò quyết định đối với sự thích ứng hay không

thích ứng của chủ thể trước những tác động của bên ngoài.

Theo Nguyễn Tuấn Vĩnh (2015) hành vi thích ứng là một tập hợp các kĩ năng

mà cá nhân học được trong cuộc sống hàng ngày, giúp cá nhân duy trì cuộc sống,

thực hiện sự độc lập cá nhân, thiết lập các mối quan hệ xã hội, trên cơ sở đó đáp ứng

những yêu cầu của môi trường và hội nhập vào cộng đồng.[80]. Như vậy, tác giả coi

hành vi thích ứng là sự tập hợp các kĩ năng, các kĩ năng này sau khi học được sẽ giúp

cá nhân trưởng thành trong môi trường và cộng đồng.

Tác giả Lê Thị Minh Loan (2010) cho rằng: Thích ứng là quá trình cá nhân

lĩnh hội một cách tích cực, chủ động các điều kiện mới hay hoàn cảnh mới, qua đó

đạt được các mục đích yêu cầu đề ra và sự trưởng thành về mặt tâm lý, nhân

cách.[35] Với cách tiếp cận và quan niệm này, tác giả Lê Thị Minh Loan có sự

tương đồng quan điểm với tác giả Trần Thị Minh Đức ở hướng tiếp cận thích ứng

như là một sự hòa nhập, sự lĩnh hội một cách chủ động, tích cực khi mà tham gia

vào hoàn cảnh có vấn đề, các điều kiện và hoàn cảnh mới và bản thân chủ thể có sự

30

trưởng thành về mặt tâm lý, xã hội và nhân cách tạo nên các đặc điểm tâm lý mới.

Như vậy, các tác giả trên khi nói đến thích ứng đều chú trọng các yếu tố cá

nhân tích cực, chủ động trong những điều kiện hoàn cảnh mới để tạo ra sự thay đổi

ở bản thân và có sự phát triển về mặt tâm lý.

Nói đến “sự thích ứng” là nói đến khả năng hòa nhập của con người với

những biến động trong một hoàn cảnh mới khi mà những yêu cầu, đòi hỏi mới chưa

hề có trong kinh nghiệm của bản thân. “sự thích ứng” tức là làm quen, xâm nhập

vào môi trường mới.

Từ những quan điểm nghiên cứu của các tác giả đi trước, chúng tôi quan niệm

rằng: Thích ứng là sự thay đổi tích cực, chủ động của con người về nhận thức, thái độ

và hành vi để vượt qua khó khăn nhằm đáp ứng được các yêu cầu của cuộc sống”.

Như vậy, thích ứng thể hiện tính năng động, tích cực, linh hoạt, chủ động

thay đổi của mỗi người về nhận thức, thái độ và hành vi trước những thay đổi của

môi trường, hoàn cảnh sống. Khái niệm “thích ứng” chúng tôi sử dụng ở đây được

hiểu với nghĩa “thích ứng tâm lý- xã hội”.

2.1.1.2. Tiêu chí đo biểu hiện của sự thích ứng

Những biểu hiện thích ứng của con người trong tự nhiên và xã hội phản ánh

những nét đặc trưng được khái quát lại dưới đây:

- Sự ứng phó chủ động của con người bằng cách thay đổi tâm lý về mặt nhận

thức, thái độ đồng thời tạo ra những hành vi phù hợp với thực tế nhằm duy trì sự tồn

tại và phát triển hài hòa bản thân trước đòi hỏi của hoàn cảnh mới.

- Khi môi trường sống thay đổ mỗi cá nhân sẽ hình thành những thao tác tư

duy mới để điều chỉnh bản thân (thái độ, hành vi) sao cho phù hợp, đảm bảo cho sự

phát triển của họ. Tức là, khi điều kiện sống có sự thay đổi sẽ làm nảy sinh những

yêu cầu mới cho chủ thể, bắt buộc chủ thể phải nhanh chóng xác lập những nhận

thức mới, hành vi mới, các đặc điểm tâm lý mới để phản ứng với môi trường sống

mới. Kết quả của nó làm biến đổi cấu trúc tâm lý bên trong hình thành nên phương

thức hành động mới cho phù hợp với yêu cầu của cuộc sống.

- Tâm lý là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ

31

thể cho nên khi gia nhập môi trường sống mới, chủ thể sẽ phải xác lập cơ chế thích

ứng riêng đối với từng hoàn cảnh, điều kiện sống để nhằm lĩnh hội, học hỏi kinh

nghiệm xã hội - lịch sử để hình thành những cấu tạo tâm lý mới, cho phép cá nhân

có những ứng xử hài hòa với điều kiện sống và hoạt động mới.

Với những nét đặc trưng của thích ứng nêu trên, chúng ta cần xác định được

các tiêu chí đánh giá mức độ thích ứng. Có nhiều quan điểm phân chia mức độ thích

ứng khác nhau, tùy theo cách tiếp cận và hướng nghiên cứu của nhà khoa học.

Để xác định được các tiêu chí đánh giá mức độ thích ứng chúng tôi dựa vào

tiêu chí: 1/ Tính tích cực. 2/ Tính tự giác.

- Tính tích cực biểu hiện qua sự chủ động và tích cực của chủ thể khi tham

gia vào các hoạt động tương tác với môi trường, với các những người xung quanh.

Tính tích cực còn biểu hiện ở sự chủ động của các cá nhân được hình thành trong

quá trình con người tự nhận thức về vai trò của mình đối với thế giới. Con người

từng bước đạt tới trình độ tự “tách mình” ra khỏi tự nhiên, sau đó “tách mình” ra

khỏi xã hội và trở thành một chủ thể có tính độc lập, tự chủ. Sự chủ động của cá

nhân biểu hiện ở khả năng hoạt động của họ khi tham gia vào các tương tác khác

nhau. Những tương tác này phản ánh sự tự ý thức, khả năng điều chỉnh nội dung,

hình thức, thời gian và phương pháp hoạt động của chủ thể sao cho thích ứng hay

không thích ứng với môi trường .

- Tính tự giác cho thấy chủ thể có sự sẵn sàng hay không sẵn sàng trong các

hoạt động. Chủ thể biết đặt mình vào tình huống của đời sống thực tế, được trải

nghiệm, trực tiếp quan sát, giải quyết vấn đề đặt ra theo hướng suy nghĩ của mình,

vừa thông qua làm việc cá nhân, vừa phải theo nhóm, từ đó thu được những kiến

thức mới, phát huy tiềm năng sáng tạo, linh hoạt, năng động và và biết cách hợp tác

với người khác.

Từ các tiêu chí tính tích cực, tính tự giác đã trình bày ở phần trên, các mặt

biểu hiện thích ứng được xác định tương ứng với các mức độ thích ứng và sử dụng

trong luận án này làm căn cứ đo các mức độ thích ứng với hoạt động học tập của

32

sinh viên dân tộc thiểu số như sau:

Bảng 2.1: Các mức độ thích ứng qua các mặt biểu hiện

Các mặt Các mức độ thể hiện tính tích cực, tự giác tương ứng

mức độ thích ứng

biểu hiện MĐTƯ MĐTƯ MĐTƯ MĐTƯ

Thấp Trung bình Khá Tốt

Chưa đúng, sai Phân biệt được ở Khá tích cực, đã Hoàn toàn tích Nhận

lệch, chưa đầy mức độ cơ bản, rõ ràng và đầy cực, rõ ràng, thức

đủ, không có tương đối rõ đủ hơn. đúng đắn, sâu

hoặc ít thay đổi.

ràng nhưng còn sai sót. sắc, đúng bản chất.

Tự tin hơn, đã có Khá tự tin, chưa Hoàn toàn tự tin, Thái độ Chưa tự tin,

chưa đúng đắn, sự thay đổi hoàn toàn làm làm chủ được

thụ động, ít có nhưng chưa nhất chủ được tình tình huống,

thay đổi, quán, trông chờ, huống, có nhiều không nhất thiết

không cố gắng cố gắng khắc thay đổi, nỗ lực phải cố gắng

khắc phục khó phục khó khăn. khắc phục khó khắc phục khó

khăn. khăn. khăn.

Đáp ứng yêu Khá chủ động, Hoàn toàn chủ Hành vi Bị động, trông

chờ, chậm cầu, theo nghĩa linh hoạt, tương động, khéo léo,

chạp, cứng vụ, tốc độ trung đối thành thạo, thuần thục, hoàn

bình, ít kĩ xảo. có kĩ xảo. thiện, sáng tạo. nhắc, rập

khuôn.

Trong các mặt biểu hiện thích ứng luôn có sự thống nhất với nhau giữa nhận

thức, thái độ và hành vi. Mỗi mặt là một thành phần cấu tạo nên thích ứng của con

người. Tuy nhiên, mặt hành vi thích ứng có ưu thế thể hiện rõ sự thích ứng nhất.

Bởi vì, khi con người có sự biến đổi về tâm lý (nhận thức, thái độ) thì cũng phải có

sự thay đổi phù hợp về mặt hành vi.

Như vậy khi nghiên cứu về thích ứng, không thể nghiên cứu một mặt nhận

thức, hay thái độ mà phải nghiên cứu cả hành vi thích ứng của chủ thể khi tham gia

vào các lĩnh vực đời sống. Bởi vì, hệ thống hành vi, cử chỉ chịu sự chi phối và gắn

kết chặt chẽ với hệ thống thái độ và nhận thức của con người. Nhận thức (sự hiểu

33

biết, là tri thức của tri thức, sự phản ánh của phản ánh) và thái độ là mặt nội dung

biểu hiện những biến đổi trong sự phát triển tâm lý của cá nhân, nhưng hệ thống

hành vi, cử chỉ là mặt hình thức của tâm lý con người. Ba thành phần này gắn kết và

thống nhất với nhau. Nếu con người chỉ có sự thay đổi về tâm lý mà không có sự

thay đổi điều chỉnh hành vi phù hợp với nhận thức và thái độ đó thì không tạo ra

biến đổi, không nảy sinh sự thích ứng của con người khi tham gia vào các hoạt động

khác nhau trong cuộc sống. Hệ thống hành vi chỉ có thể thay đổi khi nhận thức và

thái độ thay đổi. Hành vi là sự phản ánh tiềm năng, khả năng hòa nhập của con

người với môi trường xung quanh. Cho nên, khi xem xét sự thích ứng không thể bỏ

qua bất cứ một thành phần nào trong những yếu tố tạo nên thích ứng của con người.

2.1.2. Hoạt động học tập của sinh viên dân tộc thiểu số

2.1.2.1. Sinh viên dân tộc thiểu số

- Sinh viên

Thuật ngữ SV có nguồn gốc từ tiếng la tinh, nghĩa tương đương với từ

“student” trong tiếng Anh, “etudiant” trong tiếng Pháp để chỉ những người theo học

ở bậc ĐH và CĐ, những người đang học tập và rèn luyện để lĩnh hội một trình độ

chuyên môn cao. Vậy có thể hiểu, SV là những người đang theo học ở bậc Đại học

và Cao đẳng.

- Dân tộc thiểu số

Trong ngôn ngữ Việt, cũng có thể hiểu thuật ngữ “dân tộc” có hai nghĩa, vừa

là tộc người (Ethnicity), vừa mang nghĩa quốc gia, dân tộc (Nation). Như vậy, dân

tộc là một khái niệm chỉ một dân tộc cụ thể trong một cộng đồng, một quốc gia.

Dân tộc chiếm số đông thường sẽ là đại diện dân tộc mang nghĩa quốc gia, dân tộc.

Còn dân tộc có số lượng ít, không mang tính đại diện quốc gia, được gọi là dân tộc

thiểu số. Theo từ điển Tiếng Việt thì “DTTS là dân tộc chiếm số ít, so với dân tộc

chiếm số đông nhất trong một nước có nhiều dân tộc” [75, tr 318].

- Sinh viên dân tộc thiểu số

Có thể hiểu SV DTTS là SV thuộc các dân tộc ít người. Họ sinh ra và lớn lên

ở những vùng miền khác nhau mà ở nơi đó có rất nhiều khó khăn về mặt kinh tế xã

34

hội, hạn chế về các điều kiện khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin và đời sống

tinh thần. Họ đang học tập, rèn luyện trong các trường ĐH, CĐ. Họ được đào tạo

theo chương trình chuyên biệt (SV trong trường Đại học hệ Cử tuyển) hoặc không

chuyên biệt để trở thành nguồn nhân lực quan trọng trong tương lai, đóng góp trí tuệ

vào phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.

- Một số đặc điểm tâm lý cơ bản của sinh viên dân tộc thiểu số có liên

quan đến hoạt động học tập

Hiện nay phần lớn SV DTTS đều sinh sống ở những địa bàn miền núi khó

khăn về kinh tế, hạn chế về giao lưu văn hóa, phương tiện truyền thông công nghệ

hiện đại. Tuy nhiên, người DTTS luôn sống đan xen với các dân tộc khác trên một

khu vực nhất định. Những phong tục tập quán luôn có sự giao thoa, học tập lẫn

nhau. Sự giao thoa này thể hiện các dân tộc học tập và ảnh hưởng lẫn nhau về

phương thức sản xuất, ẩm thực, nhà ở, hoặc trang phục. Các giá trị, tinh hoa đều

được các dân tộc học hỏi, duy trì, phát triển làm phong phú thêm kho tàng văn hóa

của dân tộc mình nhưng cũng không làm mất đi bản sắc, các giá trị đã có.

Đối với SV DTTS những biểu hiện tâm lý của các em chịu sự tác động của

những yếu tố khách quan có liên quan đến điều kiện sống, đặc điểm dạy và học, ảnh

hưởng của điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa ở miền núi.

Xuất phát từ những đặc điểm tâm lý dân tộc nói chung, SV DTTS có một đời

sống tâm lý ổn định. Các em có những đặc trưng tâm lý, cơ bản, khác biệt với SV

khác như sau:

Về trình độ nhận thức và tự đánh giá

Về mặt bằng trình độ văn hóa, SV DTTS ngang bằng với SV nói chung

nhưng về mặt nhận thức, ít nhiều có những hạn chế nhất định. Điều này là do môi

trường sống, điều kiện giao tiếp không được thuận lợi như những SV dân tộc Kinh.

Tuy nhiên, khi tham gia vào học tập, tham gia vào đời sống xã hội, nhờ khả năng tự

đánh giá mà SV biết cách nhìn nhận, xem xét năng lực học tập để điều chỉnh ý thức,

thái độ, vào phương pháp học tập của họ sao cho phù hợp với hoàn cảnh. Xuất phát

từ đặc điểm học tập của học sinh dân tộc nội trú mà SV DTTS chưa có thói quen lao

35

động trí óc, ngại suy nghĩ, ngại động não, tư duy độc lập và óc phê phán còn hạn

chế.[37]. Điều này cho thấy tư duy của các em chưa mềm dẻo, linh hoạt và còn

cứng nhắc. Những đặc điểm này sẽ gây ra ở các em những hạn chế trong học tập đó

là thiếu quyết đoán, thiếu nhạy cảm trong việc vận dụng kiến thức vào thực tế và có

một sức ỳ lớn, tạo ra sự rụt rè, nhút nhát không dám khẳng định bản thân, kìm hãm

tính ham hiểu biết, óc tò mò, sáng tạo, gặp nhiều khó khăn đối với các kĩ năng học

tập, khó thích ứng được với những yêu cầu của nhiệm vụ học tập.

Về đời sống tình cảm

Các em biểu hiện bộc lộ cảm xúc, tìm cảm sâu sắc và bền vững. Thể hiện

trong quan niệm sống coi trọng tình người, luôn mong muốn hướng đến tình cảm

đẹp, gắn bó. Điều này bộc lộ rõ ở nhu cầu kết bạn với những người thân thiết, gần

gũi, tạo được sự tin cậy ở các em. Với nét tính cách hồn nhiên, thật thà, trung thực

các em luôn muốn tìm cho mình một người bạn thân thiết gắn bó khi mới vào

trường đại học. Xuất hiện nhu cầu có những người bạn đồng hành, đồng cảm, chia

ngọt, sẻ bùi ngày một gia tăng.

Về mối quan hệ xã hội

Phần lớn SV DTTS có tính cách trầm, ít nói, không cởi mở, tự ti, có ít bạn

thân, sống thu mình, hạn chế giao tiếp. Chỉ một số ít SV DTTS có tính cách cởi mở,

hòa đồng, những em này đa phần là sinh sống ở những thị xã, thị trấn. Tình bạn của

SV DTTS rất bền vững, gắn bó và ít thay đổi nên các em có xu hướng tiếp cận làm

quen và kết bạn với những SV cùng cảnh ngộ, tương ứng với hoàn cảnh của mình

cho nên các em thường chọn bạn có lối ứng xử nhẹ nhàng, tình cảm, thật thà. Điều

quan trọng là khi các em đã chọn ai làm bạn tức là các em đã gửi gắm niềm tin, chia

sẻ tâm sự. Các em coi bạn như người thân trong gia đình và hình ảnh các bạn gần

gũi trong học tập là sự hiện hữu người thân mỗi khi các em nhớ đến. SV DTTS nói

chung và SV dân tộc Tày nói riêng “quan tâm nhiều đến khía cạnh chọn bạn đời,

người bạn thân nhất - bạn “tồng”. Việc kết tồng diễn ra với những thủ tục nhất

định, có giá trị khẳng định một tình cảm sâu sắc, bền vững lâu dài. Mối quan hệ

đặc biệt này giúp sinh viên dân tộc Tày có được người bạn gần gũi, gắn bó hơn tất

cả những người bạn khác”. [1; trang 91]. Phần lớn SV DTTS có hoàn cảnh gia đình

36

khó khăn về kinh tế nên nguồn chu cấp kinh phí sinh hoạt và học tập cho các em bị

eo hẹp, một số em có ý chí nỗ lực, khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn các em biết tìm

cách xoay sở như đi làm thêm để kiếm tiền ăn học. Đây cũng là điểm thích ứng với

cuộc sống nói chung, là một trong những yếu tố tác động khiến SV chủ động tích

cực thay đổi bản thân để khắc phục hoàn cảnh nhưng lại là điểm yếu cản trở hoạt

động học tập tích cực với mục đích lập thân, lập nghiệp ở các em. Vì có nhiều em

do chưa quen với sự mới lạ của cuộc sống hiện đại, vốn bản chất thật thà, dễ tin

người dễ bị sa vào những cám dỗ vật chất, ý thức kiếm tiền nhiều hơn đã sinh ra

tâm lý lười học, động cơ học tập giảm sút, coi trọng giá trị vật chất, hình thành lối

sống xa hoa hưởng thụ.

Về đặc trưng văn hóa

Sinh viên DTTS chịu ảnh hưởng nhiều của truyền thống văn hóa, phong tục

tập quán của dân tộc mình một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Với truyền thống văn

tộc luôn có tinh thần đoàn kết, quý trọng con người, sống tình nghĩa, chất phác, thật

thà... cho nên khi xa gia đình, học tập ở môi trường mới SV DTTS luôn có biểu

hiện nhớ nhà, nhớ quê hương. Những biểu hiện này thường thấy ở giai đoạn đầu

mới vào trường đại học, nếu SV DTTS gặp nhiều áp lực về học tập, có khó khăn về

đời sống vật chất các em sẽ có tâm lý chán nản, bỏ bê việc học tập, thậm chí bỏ về

nhà không muốn học nữa. Trong đặc trưng văn hóa có thể thấy đặc điểm giao tiếp

của SV dân tộc có những nét khác biệt đó là, “nội dung được trao đổi ít nhất là

chuyện tình dục. Có thể đây là nội dung tế nhị, nhạy cảm...đối với người dân tộc

thiểu số việc nói đến chuyện tình dục được coi như những điều cấm kỵ,” hoặc là

các yếu tố ít được SV DTTS nói chuyện đến là phong tục tập quán, tâm linh và thờ

cúng [1; trang 91]. Đây là những nét văn hóa đặc trưng có sự khác biệt không được

chia sẻ với những SV khác khi chưa được coi là bạn “tồng” của các em.

2.1.2.2. Hoạt động học tập

a. Khái niệm

Hoạt động học tập là một dạng hoạt động trí tuệ, là một trong những hình

thức lao động chính của con người. Nó quyết định trực tiếp đến sự phát triển, hoàn

37

thiện nhân cách con người cũng như sự tiến bộ, phát triển của lịch sử nhân loại

Trong quá trình học tập, lĩnh hội kinh nghiệm xã hội, tri thức của nhân loại,

cá nhân có thể tiến hành bằng nhiều cách học khác nhau.

Hoạt động học tập theo đúng nghĩa là hoạt động có ý thức, có mục đích, có

kế hoạch của con người thì mới có thể hình thành ở người học những tri thức khoa

học, hình thành hành vi tích cực, hình thành cấu trúc tương ứng của hoạt động tâm

lí và sự phát triển toàn diện nhân cách.

Khi bàn về hoạt động học tập có rất nhiều quan niệm khác nhau tuỳ theo góc

độ nghiên cứu của các tác giả.

L. B. Enconhin (1980) đưa ra quan niệm, hoạt động học tập là việc lĩnh hội

tri thức, là việc xác định bởi cấu trúc và mức độ phát triển của hoạt động học tập.

Cũng nghiên cứu dưới góc độ hoạt động A.N. Leonchiev (1980), N. Ph. Taludia và

P. Ia Ganperin (1952) coi học tập xuất phát từ mục đích trực tiếp và từ nhiệm vụ

giảng dạy được biểu hiện ở hình thức bên ngoài và bên trong của hoạt động đó.[dẫn

theo 12]

A.V Petrovxki (1986) đã chỉ ra, hoạt động học tập là vấn đề phẩm chất tư

duy và kết hợp các loại hoạt động trong việc thực hiện mục đích và nhiệm vụ giảng

dạy. Còn N.V Cudơmina (1976) khi bàn về hoạt động học tập của sinh viên cũng đã

coi hoạt động học tập là loại nhận thức cơ bản của sinh viên được thực hiện dưới sự

hướng dẫn của cán bộ giảng dạy. Trong quá trình này việc nắm vững nội dung cơ

bản các thông tin mà thiếu nó thì không thể tiến hành được hoạt động nghề nghiệp

tương lai.[dẫn theo 13].

Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, nghiên cứu về hoạt động học tập

luôn được các nhà tâm lí học, giáo dục học quan tâm.

Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn “Hoạt động học tập” là hoạt động được

thực hiện theo phương thức nhà trường, do người học thực hiện dưới sự hướng dẫn

của người lớn (thầy giáo) nhằm lĩnh hội tri thức, khái niệm khoa học, và hình thành

những kĩ năng, kĩ xảo tương ứng, làm phát triển trí tuệ và năng lực con người để

38

giải quyết các nhiệm vụ do cuộc sống đặt ra.[77]

Theo tác giả Bùi Văn Huệ, “Hoạt động học tập là hoạt động có ý thức nhằm

thay đổi bản thân chủ thể hoạt động. Trong hoạt động này, các phương thức chung

của việc thực hiện những hành động nhận thức và thực tiễn trở thành mục đích

trung tâm của hoạt động.[23] Tác giả cũng cho rằng hoạt động học thực chất là hoạt

động nhận thức được tổ chức một cách chuyên biệt để chiếm lĩnh những khái niệm

khoa học. Nhà bác học nhận thức thế giới và phát hiện ra cái mới cho nhân loại.

Học sinh bằng hoạt động lĩnh hội những cái mà các nhà bác học đã khám phá ra

dưới sự tổ chức của giáo viên. Nhờ vậy học sinh cũng lặp lại đúng quy luật như quá

trình phát minh của các nhà bác học. Học sinh phát hiện ra cái mới cho chính bản

thân mình, từ đó mà họ hoàn thiện tri thức.

Cùng quan điểm với Bùi Văn Huệ khi bàn về hoạt động học tập, tác giả Lê

Văn Hồng đã đưa ra khái niệm rất khoa học và được nhiều người thừa nhận. Theo

ông: “hoạt động học là hoạt động đặc thù của con người, đựơc điều khiển bởi mục

đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, những phương thức hành vi

và các dạng hoạt động nhất định”. [23]

Trong xu hướng hiện nay trên thế giới hoạt động dạy học của người giáo

viên phải hướng đến tiếp cận năng lực ở người học, tức là hướng tới việc phát triển

năng lực, coi phát triển năng lực là mục tiêu của hoạt động dạy. Ứng dụng tiếp cận

năng lực trong dạy học nghĩa là tổ chức các hoạt động dạy học hướng vào phát triển

năng lực người học, đảm bảo đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội. Với quan điểm trên,

tác giả Mã Ngọc Thể (2015) cho rằng, “Có thể coi dạy học tiếp cận năng lực phát

triển tính sáng tạo cho học sinh chính là việc người giáo viên có chủ đích sử dụng

phương pháp dạy học tích cực nhằm thúc đẩy các năng lực sáng tạo của học sinh

trong HĐHT. Nhờ các phương pháp dạy học tích cực, phát triển tính sáng tạo mà

học sinh luôn có óc tò mò, thích khám phá cái mới lạ, không cảm thấy sự gò bó

trong tư duy, chủ động tích cực học tập”.[66]. Từ cách quan niệm trên suy ra, đối

việc dạy học ở trường đại học, người giảng viên nên thường xuyên sử dụng phương

pháp dạy học tích cực nhằm thúc đẩy các năng lực sáng tạo của sinh viên trong

39

hoạt động học tập có như thế SV mới có sự chủ động tích cực học tập. Điều này

cho thấy hai chủ thể “dạy- học” trong HĐHT đều giữ vai trò chủ động, tích cực

nhằm trao đổi, chia sẻ kiến thức, tạo lập các kĩ năng đồng thời phát triển năng lực

cho cả hai phía. Quá trình học tập này được diễn ra đúng tiến trình sẽ giúp cho SV

thích ứng tốt với HĐHT ở trường đại học.

Như vậy từ những quan điểm của các tác giả nêu trên cho phép chúng ta hiểu:

Hoạt động học tập là hoạt động có mục đích của chủ thể nhằm lĩnh hội những tri

thức, kĩ năng, kĩ xảo của loài người được kết tinh trong nền văn hoá xã hội, biến nó

thành vốn riêng để từ đó vận dụng vào thực tiễn phục vụ cho cuộc sống và hoàn

thiện nhân cách của bản thân.

Hoạt động học là hoạt động chiếm lĩnh, lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo

tương ứng với tri thức đó. Thông qua hoạt động học, chủ thể có được sự phát triển

tâm lý, thay đổi bản thân, có những biến đổi nhất định trong nhận thức về thế giới.

Như vậy, hoạt động học làm thay đổi chủ thể, hình thành nhân cách mới ở người

học. Nội dung hoạt động học không chỉ có ý nghĩa là hệ thống tri thức mà nó còn là

các tập hợp những kĩ năng, kĩ xảo tương ứng giúp cho người học có năng lực thực

hành, vận dụng các lý thuyết, các khái niệm khoa học vào thực tế.

b. Đặc điểm của hoạt động học tập

HĐHT có các đặc điểm cơ bản thể hiện bản chất của nó như sau:

- Đối tượng của hoạt động học tập là những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo tương

ứng với nó.

HĐHT là hoạt động lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo tương ứng với tri thức.

Nghĩa là tri thức, kĩ năng, kĩ xảo là đối tượng của hoạt động học. Khi người học

thực hiện hoạt động học thì chính họ trở thành chủ thể chiếm lĩnh nội dung học tập,

chủ thể hành động tích cực cả trí óc và chân tay. Trong quá trình này, các chức năng

tâm lý của người học được vận hành.

- Hoạt động học tập là hoạt động hướng vào làm thay đổi và phát triển tâm

40

lí của chính chủ thể.

Bằng hoạt động học, mỗi người học sẽ tạo ra được sự thay đổi ở bản thân

thông qua sự lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Sự hiểu biết được nâng cao, có sự

phong phú về tâm hồn, hình thành tâm lý và nhân cách tích cực.

- Hoạt động học tập là hoạt động được điều khiển bởi mục đích có ý thức

nhằm tiếp thu những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.

HĐHT là hoạt động tương tác giữa giáo viên và học sinh, trong đó sự tổ chức,

điều khiển, dẫn dắt của người giáo viên có tính chất quyết định đối với chất lượng

học tập. Do đó, người giáo viên luôn xây dựng kế hoạch dạy học theo một chương

trình, kế hoạch nội dung cụ thể giúp cho người học lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo

một cách tốt nhất.

- Hoạt động học tập là hoạt động tiếp thu phương pháp học tập.

Người học không chỉ hướng vào việc tiếp thu những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo

mới (cái) mà còn tiếp thu cả những tri thức của chính bản thân hoạt động (cách),

nắm bắt các cách thức để chiếm lĩnh hoạt động học tập.

Trong luận án này, khía cạnh đặc điểm học tập của SV DTTS được chúng tôi

xem xét ở các khía cạnh: tiếp thu phương pháp học tập, mục đích có ý thức nhằm

tiếp thu những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, hướng vào làm thay đổi và phát triển tâm lí

của chính chủ thể.

2.2. Sự thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập

trong trường đại học

Để làm rõ sự thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập

ở trường đại học, trong phần này luận án phân tích khái niệm, biểu hiện và các mức

độ thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập.

2.2.1. Khái niệm thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động

học tập

Thích ứng là một trong những đặc điểm sinh học và tâm lý của con người,

đứng trước những tác động của thế giới xung quanh bắt buộc con người phải có

những phản ứng phù hợp để thích nghi với những thay đổi đó. Dưới góc độ tâm lý

41

học, có thể hiểu thích ứng là sự biến đổi tâm lý bên trong (nhận thức, thái độ) đến

hành vi thể hiện bên ngoài để đáp ứng với những yêu cầu mới của môi trường sống.

Theo Luckasson (1992) thích ứng được coi như là một loạt khả năng mà nhờ đó con

người có thể đáp ứng được những tình huống quen thuộc đồng thời có thể thay đổi

hành vi để phù hợp với những đòi hỏi của hoàn cảnh. Có thể thấy các kĩ năng đó thể

hiện qua giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại nhà, kĩ năng xã hội, tự điều khiển… học

đường chức năng, giải trí, lao động/làm việc.

Khi nghiên cứu sự thích ứng của sinh viên cao đẳng sư phạm tác giả Dương

Thị Nga (2010) đã đưa ra các tiêu chí của thích ứng như sau:

(1) Nhận thức được những yêu cầu cao và luôn thay đổi của xã hội về phẩm

chất đạo đức người thầy giáo (tuyệt đối mẫu mực, yêu nghề, yêu người, lối sống

trong sáng, lý tưởng nghề cao đẹp…).

(2) Tiếp cận với phương pháp học tập mới, có khả năng tự giáo dục và rèn

luyện các phẩm chất nhân cách người thầy giáo.

(3) Có khả năng đáp ứng những đòi hỏi cao của xã hội đối với sinh viên sư

phạm (cách ăn mặc, ứng xử, tác phong…)

(4) Tự chủ, thích nghi với môi trường đạo đức đặc biệt ở trường sư phạm và

nghề dạy học.

(5) Nhận thức và có khả năng làm chủ dưới những tác động tiêu cực của xã

hội. [49]

Từ những tài liệu nghiên cứu về thích ứng, chúng tôi nhận thấy SV DTTS là

một thực thể tự nhiên và xã hội cho nên cũng sẽ có biểu hiện thích ứng với môi

trường xung quanh cũng như thích ứng với HĐHT qua các mặt nhận thức, thái độ,

hành vi và kĩ năng vận dụng trong hoạt động học tập.

Khi nói tới hoạt động dạy học, các nhà giáo dục luôn có mục tiêu hướng đến

sự hình thành ở người học về kiến thức, hành vi, kĩ năng và thái độ. Các mục tiêu

ấy cũng luôn được thể hiện qua các HĐHT của SV ở trên lớp, hoạt động ngoại khóa

và việc học tập ở nhà. Những yêu cầu đó cần phải đảm bảo được sau khi học tập,

SV có thể tiếp thu được kiến thức một cách tốt nhất, vận dụng tốt các kĩ năng vào

thực tế và có một thái độ tích cực khi nhìn nhận đánh giá khách quan những vấn đề

42

diễn ra trong HĐHT tiếp theo và trong cuộc sống hàng ngày. Cho nên, khi tham gia

vào các HĐHT ở trường đại học, SV DTTS cũng như các SV khác đều gặp những

khó khăn nhất định về tâm lý khi mới làm quen môi trường học tập khác biệt với

HĐHT ở trường phổ thông trước đây. Những điểm mạnh hay hạn chế của những

SV này sẽ bộc lộ qua quá trình tham gia vào những HĐHT khác nhau. Do đó, SV

cần phải thích ứng với các hoạt động đó bằng cách có những ứng xử phù hợp trong

từng điều kiện, hoàn cảnh học tập khác nhau. Có thích ứng được thì SV mới có thể

hoàn thành tốt được nhiệm vụ học tập trong những năm học tập ở trường đại học.

Có thể thấy mặc dù là SV năm thứ nhất hay năm thứ hai và các năm tiếp theo

thì quá trình học tập và rèn luyện của SV cũng phải trải qua sự thích ứng dần dần

với môi trường sống ở đại học và thích ứng với HĐHT từ mức độ thấp cho đến mức

độ cao, thời gian học càng dài, SV sẽ thích ứng tốt hơn so với năm đầu mới nhập

học. Sự thích ứng của SV bắt đầu từ khi các em làm quen với hoàn cảnh mới, điều

kiện học tập với và kết thúc khi các em xác lập được hệ thống ứng xử phù hợp với

môi trường thông qua sự thống nhất giữa các yếu tố nhận thức, thái độ và hành vi,

vận dụng kĩ năng với hoạt động học tập ở trường đại học. Sự thống nhất ấy đảm bảo

cho các em có được kết quả tốt nhất trong các HĐHT và giao tiếp ở nhà trường. Các

ứng xử đặc trưng phù hợp với yêu cầu và điều kiện khách quan đặt ra đối với

HĐHT chính là cơ sở để đánh giá trình độ thích ứng của SV DTTS với HĐHT.

Từ việc nghiên cứu những thành tựu lý luận trong và ngoài nước chúng tôi

quan niệm rằng:

“Thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập là sự thay

đổi tích cực, chủ động của sinh viên về nhận thức, thái độ và hành vi để vượt qua

khó khăn trong môi trường đại học nhằm đáp ứng được các yêu cầu của hoạt động

học tập.”

2.2.2. Biểu hiện thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động

học tập

Dựa trên những quan điểm của các nhà khoa học, những khái niệm liên quan

chúng tôi đi xác định các biểu hiện thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số qua các

43

mặt dưới đây:

a. Thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập biểu

hiện qua mặt nhận thức

Để học tập được tốt SV cần nhận thức được mục đích học tập, phương thức

đào tạo, sự hiểu biết nắm vững kiến thức trên lớp. SV nhận thức được bản thân là

chủ thể của HĐHT, là người tích cực, chủ động trong việc lĩnh hội, khám phá tri

thức, tham gia vào các HĐHT như đóng góp ý kiến, nâng cao điểm số học tập, tự

học ở nhà, phương pháp giảng dạy của giảng viên, phương pháp tự học. Nhận thức

được những đặc điểm riêng về văn hóa dân tộc có ảnh hưởng đến sự hòa nhập vào

HĐHT ở trường đại học.

Nhận thức về HĐHT của sinh viên thể hiện qua 4 mức độ:

- Mức độ thích ứng tốt: SV thể hiện có nhận thức đầy đủ, chính xác về mục

đích học tập; tầm quan trọng của sự hiểu biết nắm vững kiến thức; nắm bắt được

các phương pháp giảng dạy của giảng viên; tạo lập cho mình những phương pháp tự

học trên lớp và ở nhà; có ý thức phát biểu ý kiến; nâng cao điểm số; tham gia vào

các hoạt động học tập chung.

- Mức độ thích ứng khá: Thể hiện SV có nhận thức khá tích cực, đã rõ ràng

và đầy đủ hơn về mục đích học tập. Hiểu được các phương pháp dạy học của giảng

viên. Đã biết tạo lập cho mình một số phương pháp tự học; có ý thức phát biểu ý

kiến.

- Mức độ thích ứng trung bình: Thể hiện SV phân biệt được các vấn đề ở

mức độ cơ bản, tương đối rõ ràng nhưng còn sai sót. Nhận thức các nội dung học

tập chưa trọn vẹn, có đánh giá chưa đầy đủ về vai trò ý nghĩa của các nội dung với

HĐHT của bản thân.

- Mức độ thích ứng thấp: SV xác định được một lượng thông tin ít ỏi, không

coi trọng, đánh giá thấp vai trò và ý nghĩa của các nội dung và hình thức học tập ở

trường.

Thông qua các mức độ nhận thức, nếu SV có biểu hiện tích cực chủ động,

sáng tạo trong hành động, nỗ lực khắc phục khó khăn, xoay sở để thay đổi hoàn

44

cảnh, tích cực thay đổi bản thân trước hoàn cảnh. Khi có hiểu biết về những khó

khăn và thuận lợi của bản thân SV sẽ không thụ động ứng phó với những biến đổi

của môi trường mà chủ động tác động vào môi trường, biết xoay sở để thay đổi

hoàn cảnh.

b. Thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập biểu

hiện qua mặt thái độ

Thái độ thể hiện ý thức của SV để đạt được các mục đích học tập. Thái độ đối

với HĐHT của SV DTTS thể hiện qua các mức độ:

- Mức độ thích ứng tốt: SV hoàn toàn tự tin, làm chủ được tình huống, không

nhất thiết phải cố gắng khắc phục khó khăn. Thể hiện sự say mê, quan tâm đến nội

dụng và hình thức học tập. SV có khả năng đánh giá nhìn nhận các vấn đề dạy học

và học tập, đánh giá được những khó khăn, hạn chế cá nhân. Các em biết bày tỏ thái

độ đối với các vấn đề tiếp thu bài học trên lớp, chú ý ghi chép bài cẩn thận, đầy đủ,

cầu thị, bổ sung kiến thức, thông tin, coi trọng giao tiếp với giảng viên, quan tâm

những điều giảng viên hướng dẫn tự học ở nhà, hợp tác với bạn học cùng lớp, sự tập

trung chú ý đến thời gian tự học ở nhà,…

- Mức độ thích ứng khá: SV có thái độ chủ động, cần cù, say mê học tập và

nghiên cứu khoa học để hướng đến sự thay đổi bản thân nhằm đáp ứng được yêu

cầu của HĐHT trong những hoàn cảnh khác nhau. SV có những phản ánh cảm xúc

trong các hành động như say mê, hứng thú, sự quan tâm, hài lòng, không hài lòng

với HĐHT của bản thân. Những cảm xúc này biểu hiện thái độ thật của SV trước

những tác động của môi trường học tập.

- Mức độ thích ứng trung bình: Thể hiện có sự tự tin hơn, đã có sự thay đổi

nhưng chưa nhất quán, trông chờ, có cố gắng khắc phục khó khăn trong những hoàn

cảnh khác nhau. SV chỉ quan tâm tới những điều có liên quan đến nhu cầu thực hiện

trách nhiệm của bản thân, ít có hứng thú học tập.

- Mức độ thích ứng thấp: Thể hiện SV thụ động tham dự vào các hoạt động

học tập trên lớp, ngoại khóa, tự học, giao tiếp với bạn học, với giảng viên... một

cách thiếu tự tin, thụ động, không có hứng thú, cảm thấy chán nản, muốn bỏ học,

45

thôi học.

c. Thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập biểu

hiện qua mặt hành vi

Hành vi học tập của SV là tập hợp các thao tác hợp lý để vận dụng giải quyết

các yêu cầu, nhiệm vụ học tập đề ra. Các mức độ thích ứng qua mặt hành vi như sau:

- Mức độ thích ứng tốt: Sự thuần thục, thành thạo các kĩ năng học tập phản

ánh sự thích ứng tốt của SV trong HĐHT. Thể hiện SV biết liên hệ các kiến thức đã

học vào thực tế cuộc sống, có hành vi tích cực trong vận dụng những kĩ năng vào

giải quyết các yêu cầu của HĐHT. Các biểu hiện thích ứng tốt qua sự sử dụng thành

thạo nhiều kĩ năng vào HĐHT. SV có thể hành động thuần thục, sử dụng thành thạo

các công cụ, phương tiện hành động, có kĩ năng tự học, tự nghiên cứu khoa học. SV

phải có phương pháp học tập phù hợp trên lớp và khi tự học ở nhà, tạo dựng được

các mối quan hệ thân thiết với bạn học, với giảng viên trở thành sự quen thuộc của

hành vi...

- Mức độ thích ứng khá: Thể hiện SV đã biết cách chủ động, linh hoạt, khá

thành thạo, có kĩ xảo vận dụng vào giải quyết các yêu cầu của HĐHT. Có thể vận

dụng phương pháp học tập trên lớp và biết điều chỉnh phương pháp tự học ở nhà,

tạo dựng được các mối quan hệ với giảng viên và bạn bè.

- Mức độ thích ứng trung bình: Thể hiện sinh viên đáp ứng được yêu cầu với

HĐHT khi các em thâm nhập, làm quen với cách thức học tập mới trên lớp, vận

dụng phương pháp học tập tại các giờ tự học, tự nghiên cứu, xác lập những mối

quan hệ mới với giảng viên và bạn bè trong quá trình hoạt động, những kết quả của

hành động, hành vi học tập đạt được ở mức độ hoàn thành yêu cầu nhiệm vụ.

- Mức độ thích ứng thấp: Thể hiện tâm lý chưa tự tin, trông chờ trước những

cái mới, cái lạ, xử lý tình huống còn chậm chạp. Các thao tác học tập còn lúng túng,

thiếu chủ động, trông chờ vào giảng viên. Đặc biệt còn yếu về khả năng vận dụng

các phương pháp tự học, không biết cách giao tiếp (với bạn bè, với giảng viên), có

những hạn chế trong ứng phó với những khó khăn gặp phải trong học tập...

Như vậy, trong việc tiếp cận thích ứng học tập của SV DTTS, chúng ta

46

thấy các mặt thích ứng thể hiện rất rõ ràng. Khi SV DTTS có sự thay đổi về nhận

thức, thái độ trong một môi trường mới thì bắt buộc họ phải xác lập được những

hành vi tương ứng với những thay đổi đó. Sự thích ứng hay không thích ứng, sự

thụt lùi hay bắt nhịp của sinh viên với những yêu cầu mới đặt ra phản ánh kết

quả thay đổi tâm lý ở bản thân mỗi sinh viên. Bởi vì trong mỗi một điều kiện học

tập khác nhau sẽ có những đòi hỏi nhất định bắt buộc sinh viên phải thích ứng

với những hoàn cảnh nhất định trong hoạt động học tập.

2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số

với hoạt động học tập

Thích ứng của con người trong xã hội là sự biến đổi của cá nhân trong quá

trình tiếp xúc với thế giới xung quanh để làm giảm thiểu đi những khác biệt hay xóa

dần đi ranh giới không hòa hợp giữa con người với môi trường mới, với người khác,

cải biến mình trong những hoàn cảnh, điều kiện mới lạ nhằm hoàn thiện bản thân.

Sinh viên DTTS khi gia nhập vào môi trường học tập ở bậc đại học sẽ gặp không ít

những khó khăn, trở ngại về tâm lý cũng như các điều kiện về vật chất, hạn hẹp về

môi trường giao tiếp...có nhiều nguyên nhân, nhiều ảnh hưởng từ chủ quan cho đến

khách quan tác động ảnh hưởng đến sự thích ứng hoặc không thích ứng ở các em.

Có thể nhận thấy các nguyên nhân xuất phát từ các khía cạnh biểu hiện sự thích ứng

về nhận thức, thái độ, hành vi hoặc đến từ các yếu tố ảnh hưởng như, tính cách cá

nhân, ý chí khắc phục nỗ lực khó khăn, tính tích cực hoạt động - giao tiếp, phương

pháp giảng dạy của giảng viên, đặc điểm ngôn ngữ, đặc trưng văn hóa dân tộc, yếu

tố gia đình, điều kiện sống...mỗi một yếu tố chủ quan hay khách quan cùng đều có

những tác động nhất định đến sự thích ứng hay không thích ứng của SV DTTS. Ở

góc độ nào đó, các yếu tố ảnh hưởng dưới đây cũng chính là một trong rất nhiều

nguyên nhân ảnh hưởng đến sự thích ứng của SV DTTS với HĐHT. Trong các yếu tố

cơ bản mà chúng tôi lựa chọn tuy nó không phản ánh một cách toàn diện nhưng nó

cũng khái quát được tương đối đầy đủ các mặt, các nguyên nhân tác động đến sự thích

ứng của SVDTTS. Những yếu tố còn lại, trong thời điểm hiện tại chưa phù hợp để

chúng tôi có thể nghiên cứu được hết, cần phải nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hơn ở những

47

đề tài khác ngoài giới hạn của luận án này.

2.3.1. Ảnh hưởng của yếu tố chủ quan

Tính cách cá nhân

Tính cách là một thuộc tính tâm lí phức hợp của cá nhân biểu hiện hệ thống

thái độ của cá nhân đó đối với hiện thực trong hành vi, cử chỉ, cách nói năng khi

tham gia vào các mối quan hệ xã hội.

Tính cách cá nhân của người SV bộc lộ qua biểu hiện ứng xử cởi mở hay

không cởi mở trong tập thể, HĐHT, cách giao tiếp với giảng viên và bạn bè. SV

DTTS có nét tính cách riêng như ít nói, ít bộc lộ bản thân, nhất là trong lĩnh vực học

tập. Các em thường im lặng, ngại nói, ngại biểu đạt suy nghĩ, không thích sự gò bó,

ồn ào. Những đặc điểm tâm lý này đã gây ra khó khăn tâm lý cho các em khi tham

gia vào các HĐHT. Bởi vì, với môi trường học tập mở như hiện nay, SV DTTS phải

biết cách tự học, tự nghiên cứu và phải có sự liên kết với nhiều nhóm học tập khác

nhau, với các nét tính cách như trên sẽ làm cản trở sự thích ứng của các em trong

những HĐHT như hạn chế óc tò mò, tính ham hiểu biết và sáng tạo. Điểm mạnh

trong tính cách của SV DTTS là hồn nhiên, trung thực, thật thà, ghét sự gian dối. Tuy

nhiên, nét tính cách này cũng có những ảnh hưởng nhất định đến hoạt động sống và

học tập. Ví dụ, các em sống trung thực, thật thà nếu nhìn thấy bạn khác có biểu hiện

gian dối, kiêu căng các em sẽ đấu tranh (thái quá hoặc im lặng), hoặc không thích giao

lưu, kết bạn với những sinh viên đó. Như vậy, các em sẽ không cởi mở trong suy nghĩ,

hành động làm hạn chế tinh thần hợp tác với người khác, không chấp nhận người khác

trong mỗi hoàn cảnh khác nhau.

Bên cạnh đó cần nghiên cứu các biểu hiện của tính cách trong HĐHT như

tính ham hiểu biết, óc tìm tòi, tò mò sáng tạo, sự tích cực, năng động, linh hoạt...

Tính cách thể hiện qua tính ham hiểu biết, óc tìm tòi, sáng tạo trong học tập.

SV có thể hiện qua thái độ say mê ham hiểu biết, có cái nhìn tích cực trong việc

khám phá tri thức, sáng tạo trong các HĐHT. Nếu SV không có sự ham hiểu biết,

óc tìm tòi, sáng tạo sẽ có những hạn chế về hành vi và kỹ năng học tập.

Tính cách cũng biểu hiện qua sự tích cực, năng động linh hoạt phản ánh sự

48

thích ứng nhanh của SV với những tình huống, hoàn cảnh, điều kiện mới trong các

HĐHT. Ngược lại nếu SV có tính cách rụt rè, e thẹn, xấu hổ hoặc tự ti trong giao

tiếp ứng xử, chắc chắn họ sẽ thích ứng kém với những hoàn cảnh mới lạ, không có

được những hành vi ứng phó với tình huống khó khăn, điều kiện phức tạp xảy ra

trong cuộc sống.

Một số nét đặc trưng như thói quen xấu, tác phong lề mề, chậm chạp, tính

bảo thủ, tự ái, lòng tự tôn dân tộc có ảnh hưởng nhất định đến sự thích ứng trong

các HĐHT chung.

Tính tích cực hoạt động và giao tiếp

Sự chủ động, sáng tạo trong hành động nói lên tính tích cực của SV khi tham

gia vào HĐHT ở trường đại học. Thích ứng thể hiện sự phát triển của cá nhân người

SV đó, nó cho thấy sự thụ động hay chủ động của SV khi ứng phó với những biến

đổi của môi trường. SV có bộc lộ sự chủ động tác động vào môi trường, không cam

chịu mà biết xoay sở để thay đổi hoàn cảnh.

SV là chủ thể của hoạt động và giao tiếp cho nên họ cần phải thể hiện được

sự thích ứng, hòa nhập được với cuộc sống ở đại học bằng cách thay đổi nhận thức,

thái độ, tích cực hoạt động để phát triển bản thân.

Trong môi trường học tập, SV không thể bỏ qua những hoạt động giao tiếp,

vì giao tiếp giúp cho SV có thể thích ứng nhanh hơn với môi trường mới, thầy giáo

mới và bạn bè mới. Đặc biệt, qua giao tiếp SV có thể nắm bắt nhanh hơn những

thông tin khoa học, kiến thức và phương pháp học tập ở nhà trường dưới sự chia sẻ

hướng dẫn của giảng viên và trao đổi, làm việc trong nhóm học tập của SV. Bởi vì

sự phát triển tâm lí của SV là kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh

nghiệm xã hội mà họ đã tham gia đời sống một cách tích cực, sau đó biến thành cái

riêng của mỗi người thông qua hoạt động, giao tiếp của họ trong các mối quan hệ ấy.

Tính tích cực cũng thể hiện qua thái độ đối với học tập,

Ý chí khắc phục khó khăn

Chịu ảnh hưởng từ nhỏ bởi điều kiện sống khó khăn, thói quen sinh hoạt, tập

tục văn hóa dân tộc những nét tâm lý, tính cách riêng của SV DTTS bộc lộ ra bên

49

ngoài rất rõ ràng các em có tâm lý rụt rè, mặc cảm, tự ti, tự ái, bảo thủ. Những đặc

điểm đó chính là những khó khăn tâm lý làm cản trở sự thích ứng của các em khi

tham gia vào các hoạt động học tập và giao tiếp với bạn bè, thầy cô.

Những hạn chế về môi trường giao tiếp trước đây đã tạo ra ở SV DTTS

những khó khăn tâm lý trong việc xác định các nhu cầu có liên quan đến sinh hoạt

hàng ngày. Nhiều em không có kĩ năng giải quyết những khó khăn tâm lý cho nên

dễ rơi vào trạng thái chán nản học tập, phó mặc cuộc sống hoặc dễ rơi vào trạng thái

stress khi không theo kịp được cách học tập ở trường đại học.

Những khó khăn trong tâm lý đòi hỏi SV phải có ý chí khắc phục khó khăn

đến cùng để hoàn thành nhiệm vụ học tập. Ý chí được xem là mặt năng động của ý

thức, biểu hiện ra bên ngoài đó là SV phải tự ý thức được mục đích của HĐHT, biết

đấu tranh động cơ giữa học tập và những cám dỗ khác để từ đó lựa chọn cho mình

các biện pháp vượt qua mọi trở ngại, khó khăn thực hiện đến cùng trong từng hành

động học tập đạt được mục đích đề ra.

Áp lực học tập rất lớn đối với SV nếu như bản thân không chịu khó, tích cực

học tập thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Nếu SV có ý thức học tập chưa cao, lười học

sẽ dẫn đến có tâm lý e dè, ngại phát biểu ý kiến. Với SV DTTS, nhiều em do những

điều kiện kinh tế gia đình có nhiều khó khăn, không có điều kiện mua sắm những

phương tiện kĩ thuật công nghệ thông tin nên có hạn chế khi tiếp xúc với máy tính,

internet. Do đó có nhiều SV DTTS chưa biết cách khai thác các tài liệu, thông tin

trên internet và báo chí để phục vụ cho việc học tập trên lớp và tự học ở nhà. Chưa

biết cách xây dựng cho mình phương pháp tự học tích cực, chủ động, ngại khi tham

gia các hoạt động học tập theo nhóm.

Việc chỉ ra các yếu tố ý chí khắc phục khó khăn của sinh viên trong HĐHT

sẽ là một trong những căn cứ cho biết, sự thích ứng chính là quá trình SV tích cực,

chủ động thay đổi, điều chỉnh về mặt tâm lý (do những hạn chế nào đó) để khắc

phục những khó khăn của môi trường học tập mới một cách hiệu quả.

2.3.2. Ảnh hưởng của yếu tố khách quan

2.3.2.1. Phương pháp giảng dạy của giảng viên

Việc học tập của SV ít nhiều bị ảnh hưởng bởi phương pháp giảng dạy của

50

giảng viên. Mỗi giảng viên đều có năng lực riêng và thực hiện các phương pháp

giảng dạy phù hợp với đặc thù môn dạy của mình. Phương pháp giảng dạy có thể

hiểu, là cách thức, cách dạy, cách tổ chức hoạt động học tập của người giảng viên

cho SV nhằm giúp họ tiếp nhận tri thức và hình thành các kĩ năng, kĩ xảo thông

qua từng tiết học. Người giảng viên sử dụng nhiều phương pháp để truyền tải đến

người học các thông điệp về kiến thức và đưa người học vào các tình huống vận

dụng kĩ năng, biến các tri thức hàn lâm thành dễ hiểu, dễ áp dụng vào cuộc sống

và nghề nghiệp trong tương lai.

Như vậy, phương pháp giảng dạy của người giảng viên rất quan trọng nó có

thể làm cho sinh viên không thích ứng hoặc thích ứng rất cao đối với hoạt động học

tập. Khi xem xét những tác động của phương pháp giảng dạy đối với sinh viên có

thể thấy hai chiều hướng như sau:

- Chiều hướng thứ nhất, người giảng viên sử dụng phương pháp giảng dạy,

đơn giản, nhàm chán, lặp đi lặp lại không kích thích được hứng thú học tập ở SV thì

coi như đó là sự thất bại. Những hạn chế đó sẽ không giúp SV tăng tính tự giác học

tập. Thậm chí có thể làm cho SV hoang mang, khó thích ứng với HĐHT khi mà

phải tiếp nhận những khối lượng tri thức khổng lồ. Các em sẽ không biết chọn lọc

tri thức, khó xác định được những kiến thức cơ bản, không phát huy được tính sáng

tạo, có tâm lý thụ động trông chờ vào giảng viên. Nhiều em sẽ lựa chọn cách “tự

học” tiêu cực như không cần học mà chỉ cần chuẩn bị tài liệu “phao” để quay cóp

mỗi khi có bải kiểm tra hoặc thi hết học phần. Nếu tình trạng này kéo dài, sẽ hình

thành ở SV ý thức kém đối với nhiệm vụ học tập và không coi trọng giảng viên,

không xác lập được các hành vi tự học, làm việc nhóm với các bạn cùng lớp.

Chiều hướng thứ hai, người giảng viên sử dụng đa dạng, linh hoạt các

phương pháp trong từng giờ học. Thông qua sự hướng dẫn, tổ chức của giảng viên,

SV biết cách tự học, tự nghiên cứu. Tức là SV biết xây dựng cho mình phương pháp

học tập riêng của bản thân. Do đó, nếu giảng viên có sự hướng dẫn nhiệt tình, tận

tâm và hỗ trợ SV kịp thời, đúng lúc trong những tình huống học tập sẽ xây dựng

được mối quan hệ gần gũi, thân thiện với SV. Những biểu hiện đó sẽ giúp cho SV

51

tự tin hơn trong giao tiếp với giảng viên và với bạn học cùng lớp. Các em có niềm

tin và động lực học tập, nỗ lực khắc phục khó khăn, dành thời gian cho việc học tập

nhiều hơn. Khi phương pháp giảng dạy của giảng viên sử dụng hiệu quả, linh hoạt,

khoa học, có tính thực hành cao sẽ giúp SV chủ động, tích cực, phát huy được năng

lực của bản thân và có xu hướng hình thành những nhu cầu và năng lực học tập

thường xuyên, suốt đời.

2.3.2.2. Đặc điểm hoạt động học tập

Hiện nay hầu hết các trường Đại học và Cao đẳng ở Việt Nam đã chuyển

phương thức đào tạo học tập từ niên chế sang đào tạo tín chỉ. Bản chất của phương

pháp này là phát huy tính cá thể của người học rất cao. Khi học theo phương thức

này bản thân người học được đặt vào “vị trí trung tâm”, họ phải chủ động, tích cực,

tự giác trong học tập để có thể tiếp thu được hệ thống kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo một

cách tốt nhất. Khi tham gia vào hình thức học tập này SV phải thực hiện theo những

hướng dẫn của giảng viên và dưới sự hướng dẫn của giảng viên SV sẽ hình thành

được cho mình năng lực tự học, tự nghiên cứu, thực hành, thực tập theo một quy

trình nhất định được xây dựng theo kế hoạch nhằm giúp sinh viên tích lũy đủ khối

lượng kiến thức theo yêu cầu. Các hình thức học tập giờ tín chỉ yêu cầu sinh viên

phải tăng cường thời gian tự học ở nhà nhiều hơn, SV phải đọc trước các tài liệu

môn học trước khi đến lớp. SV DTTS có những khó khăn nhất định trong HĐHT…

đặc biệt khi học tập ở trường đại học các em chịu sự chi phối bởi các yếu tố điều

kiện học tập, sự quản lý của nhà trường (giờ giấc lên lớp, yêu cầu của kí túc xá, yêu

cầu của giảng viên) còn bỡ ngỡ, thụ động, thực hiện dập khuôn, máy móc, thiếu tính

chủ động, trông chờ vào sự hướng dẫn của giảng viên, hoặc không hiểu cách tính

điểm số về môn học, chưa biết cách khai thác tài liệu, giáo trình ở thư viện...cho nên

nhiều em chưa quen với các điều kiện học tập này đã gây ra những khó khăn tâm lý,

ảnh hưởng đến thích ứng của SV DTTS với hoạt động học tập.

2.3.2.3. Điều kiện sống

Sinh viên dân tộc thiểu số phần lớn là những em đã từng sống ở môi trường

miền núi, vùng cao, có khó khăn về địa lý. Nhiều em có nhiều năm sống xa gia

52

đình để sống tập trung trong các trường dân tộc nội trú, hoặc bị ảnh hưởng từ nhỏ

bởi điều kiện sống khó khăn, thiếu thốn vật chất. Là người dân tộc thiểu số cho

nên các SV này vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề các phong tục tập quán lạc hậu.

Trong môi trường sống của bản làng, các em chịu ảnh hưởng của các truyền thống,

tập quán và thói quen sinh hoạt của dân tộc mình. Một số hoạt động văn hóa, tập

tục đã tác động đến thói quen, lối sống và tạo ra tính cách riêng của sinh viên dân

tộc thiểu số. Các em thích sống tự do, không thích bị ràng buộc bởi nền nếp, quy

định tập thể. Do là từ nhỏ các em đã quen với cuộc sống núi rừng, gần gũi thiên

nhiên, tự do phóng khoáng nên khi vào môi trường học tập có tích kỉ luật và yêu

cầu tính chủ động sáng tạo cao ở trường đại học các em sẽ gặp rất nhiều khó khăn,

ít nhiều sẽ khó thích ứng ngay được với HĐHT ở trường đại học. Mỗi SV DTTS

đều mang đậm nét văn hóa, lối sống và ngôn ngữ của dân tộc mình, điều này đã

tạo ra sự xung đột văn hóa khi tham gia vào hoạt động học tập.

Xét từ yếu tố gia đình đến trường dân tộc nội trú và trường đại học là những

bước thay đổi hoàn toàn khác biệt. Chính vì vậy, các em cần phải thay đổi cách

sống, làm quen với hoàn cảnh mới. SV DTTS trải qua môi trường học ở trường Nội

trú nên việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Kinh là phổ biến, cùng với đặc trưng văn hóa

dân tộc khép kín của mình SV DTTS ít sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình nơi

đông người, trong học tập và giao tiếp ở trường đại học. Trong môi trường đại học,

các hoạt động diễn ra đa dạng, có hoạt động cá nhân và phần lớn hoạt động mang

tính tập thể, phối hợp hợp tác với nhau đòi hỏi SV DTTS phải nhanh chóng hòa

nhập với môi trường học tập mới. Tính tự học, tự lập và chủ động, tự giác cao là

những yêu cầu bắt buộc với mỗi SV. Ở trường đại học SV DTTS có cơ hội mở rộng

giao lưu, có thêm nhiều mối quan hệ, được mở rộng tầm hiểu biết, tiếp xúc với

nhiều kiến thức khoa học tiên tiến, hiện đại. Điều đó vừa là thuận lợi nhưng cũng là

những thách thức với những SV có hạn chế nhất định về nhận thức, thói quen

xấu,… Sinh viên có thích ứng được hay không phụ thuộc nhiều vào thái độ của bản

thân với các HĐHT và sống trong môi trường đại học. SV DTTS sống trong kí túc

xá hay thuê trọ ở ngoài đều là những người sống xa gia đình, thiếu thốn về vật chất,

ít nhiều chịu sức ép từ việc tự làm chủ bản thân, tính tự giác cao, mang tính kỉ luật

53

khi ở kí túc xá hay chịu sự quản lý của chủ nhà trọ. Tất cả các yếu tố đó là những

hạn chế không gian học tập khi sinh viên học tập ở nhà. Các em không thể tự học

tốt khi sự quản lý quá khắt khe, hoặc quá lỏng lẻo. Bởi vì các em cần sự quan tâm

giúp đỡ nhất định để thích ứng và hòa nhập tốt bù đắp cho sự hụt hẫng thường trực

khi các em sống xa gia đình, thiếu sự quan tâm của người thân gây ra những xáo

trộn nhất định trong cách sống và ứng xử trong một môi trường sôi động đa văn hóa.

Chính vì vậy, SV DTTS cần được quan tâm và được tham gia nhiều hoạt động khác

nhau để có điều kiện hòa nhập và thích ứng tốt nhất khi học ở trường đại học.

Tiểu kết Chương 2

Trên cơ sở xem xét thích ứng là sự thay đổi tích cực, chủ động của con người

về nhận thức, thái độ, hành vi để vượt qua khó khăn nhằm đáp ứng được các yêu

cầu của cuộc sống, chúng tôi đưa ra quan niệm: Thích ứng của sinh viên dân tộc

thiểu số với hoạt động học tập là sự thay đổi tích cực, chủ động của sinh viên về

nhận thức, thái độ và hành vi để vượt qua khó khăn trong môi trường đại học nhằm

đáp ứng được các yêu cầu của hoạt động học tập.

Thích ứng của SV DTTS được xem xét trên cơ sở biểu hiện qua ba mặt nhận

thức, thái độ và hành vi. Thích ứng học tập của SV phải có sự thống nhất giữa ba

mặt với nhau. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Khi

SV có nhận thức, thái độ tốt dẫn đến hành vi thích ứng sẽ tốt hơn trong hoàn cảnh

sống mới. Các mức độ thích ứng được đánh giá theo các mức độ thấp, trung bình,

khá và tốt.

Trong số những yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng của SV DTTS thì những

yếu tố chủ quan (tính cách cá nhân, tính tích cực hoạt động – giao tiếp, ý chí khắc

phục khó khăn) và yếu tố khách quan (phương pháp giảng dạy của giảng viên, điều

kiện sống, đặc điểm học tập) có ảnh hưởng rất nhiều đến thích ứng của SV DTTS

với hoạt động học tập.

Từ những kết quả nghiên cứu lý luận có thể thấy luận án đã hoàn thành

nhiệm vụ thứ nhất của đề tài. Đây là cơ sở lý luận để chúng tôi xác định nội dung,

phương pháp, hình thức tổ chức nghiên cứu. Hơn nữa, cơ sở lý luận trên cũng định

54

hướng cho việc xử lý và khái quát hóa các kết quả nghiên cứu thực tiễn.

CHƯƠNG 3

TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Tổ chức nghiên cứu

3.1.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu

Trường Đại học Tân Trào nằm trên địa bàn xã Trung Môn, huyện Yên Sơn,

tỉnh Tuyên Quang, là cơ sở đào tạo đại học, sau đại học, nghiên cứu khoa học, ứng

dụng và chuyển giao công nghệ trong các lĩnh vực giáo dục, kinh tế, văn hoá, khoa

học kỹ thuật phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực miền núi phía Bắc

và hội nhập quốc tế.

Trường đại học Tân trào tiền thân là Trường Sơ cấp sư phạm Tuyên Quang

được thành lập năm 1959. Đến tháng 6/1969 trường được nâng cấp lên thành trường

Trung cấp Sư phạm Tuyên Quang. Qua quá trình phát triển, nhà trường đã nhiều lần

thay đổi địa điểm, thay đổi tên gọi và hợp nhất nhiều trường Sư phạm khác nhau

như: Trường Sư phạm cấp I; Trường Sư phạm cấp II; Trường Sơ cấp nuôi dạy trẻ;

Trường Sơ cấp Sư phạm Mầm non; Trường Cán bộ Quản lý giáo dục. Ngày

11/02/1999, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 18/1999/QĐ-TTg thành lập

Trường Cao đẳng Sư phạm Tuyên Quang.

Sau hơn nửa thế kỷ xây dựng, trưởng thành và không ngừng lớn mạnh, ngày

30/6/2011, trường Cao đẳng Sư phạm Tuyên Quang được Bộ GD&ĐT ký Quyết

định số 2651/QĐ-BGDĐT đổi tên thành trường Cao đẳng Tuyên Quang.

Đáp ứng lòng mong mỏi, nhu cầu học tập của con em cộng đồng 22 dân tộc

sinh sống, học sinh vùng khó khăn và các tỉnh lân cận vùng Tây Bắc, ngày 14 tháng 8

năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1404/QĐ-TTg nâng cấp trường

Cao đẳng Tuyên Quang thành trường Đại học Tân Trào - trường Đại học đầu tiên

trên quê hương cách mạng, thủ đô khu giải phóng, thủ đô kháng chiến, đóng vai trò

nòng cốt trong hệ thống các trường đào tạo chuyên nghiệp của tỉnh Tuyên Quang.

Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường ngày một được nâng lên, tỷ lệ

55

chuyển lớp hàng năm của HSSV xấp xỉ 99%, số HSSV các hệ tốt nghiệp ra trường

đạt tỷ lệ xấp xỉ 100% hàng năm, trong đó số HSSV đạt loại khá trở lên chiếm 38%,

HSSV ra trường đã bước đầu đáp ứng được yêu cầu của xã hội và người sử dụng

lao động. Nhà trường luôn quan tâm đến công tác trợ cấp xã hội, trợ cấp ưu đãi,

miễn học phí và hỗ trợ chỗ ở cho sinh viên một số ngành học, và đặc biệt thực hiện

tốt chế độ đối với sinh viên là người dân tộc thiểu số.

Phần lớn sinh viên trường đại học Tân trào là người dân tộc thiểu số chiếm

trên 60% tổng số sinh viên trong trường, thuộc 22 dân tộc (Tày, H’mông - Dao, Cao

Lan, Sán Chỉ, Nùng, Hoa và một số dân tộc khác…), trong đó dân tộc Tày có số

lượng lớn nhất. Những sinh viên này đến từ các huyện, thành phố của tỉnh Tuyên

Quang và các tỉnh thành khu vực miền núi Đông Bắc và Tây Bắc bao gồm Hà

Giang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc,…

Hiện nay, phương thức đào tạo của nhà trường bắt đầu chuyển dần theo

phương thức đào tạo tín chỉ. Từ năm học 2015- 2016 nhà trường chuyển toàn bộ

chương trình đào tạo từ niên chế sang hình thức đào tạo tín chỉ. Các lớp học với số

lượng sinh viên tương đối đông từ trên 50 – đến hơn 100 người trở lên. Nhà trường

trang bị cơ sở vật chất, thiết bị tương đối khang trang, hiện đại về giảng đường,

trung tâm nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, trung tâm thực hành, hệ

thống internet (wifi) phủ sóng toàn trường giúp cho sinh viên có thể truy cập

internet thường xuyên để tra cứu thông tin tài liệu từ hệ thống thông tin thư viện

điện tử. Phần lớn giảng viên có trình độ cao, trẻ, năng động, hiện đại, cập nhật

thường xuyên các phương pháp dạy học hiện đại, sử dụng thành thạo các thiết bị

công nghệ thông tin – khoa học kĩ thuật. Với những điều kiện học tập tốt sinh viên

có thể an tâm học tập và phát huy tốt các khả năng của bản thân. Tuy nhiên, những

điều kiện học tập tốt cũng là những khó khăn, thách thức đối với SV DTTS khi học

tập. Các em cần phải thường xuyên rèn luyện những kĩ năng, kiến thức về tin học,

ngoại ngữ để có thể sử dụng internet như một công cụ hỗ trợ học tập, đọc và nghiên

cứu tài liệu trực tuyến, phương pháp giảng dạy của giảng viên hiện đại (sử dụng các

phương tiện máy chiếu, giao bài tập qua dùng thư điện tử, các phần mềm học tập,

56

giáo án điện tử...) bắt buộc phải nắm bắt được phương pháp học tập hiện đại, tự học,

tự nghiên cứu, sinh viên phải có kĩ năng ghi chép, tóm tắt bài học, biết làm việc

nhóm, chủ động tham gia vào các hình thức học tập. Bên cạnh những yêu cầu học

tập ngày một cao, tăng tính chủ động, tích cực của trường đại học, SV gặp phải

những khó khăn trong sinh hoạt như: tuân thủ nội quy kí túc xá, hạn chế về các điều

kiện vật chất, đời sống văn hóa,...

3.1.2. Tổ chức nghiên cứu

Từ khung lý luận đã được xác định của luận án, chúng tôi tổ chức thực hiện

nghiên cứu theo 3 giai đoạn như sau: Giai đoạn 1: nghiên cứu lý luận; Giai đoạn 2:

nghiên cứu thực tiễn; Giai đoạn 3: Đề xuất các biện pháp tác động tâm lý.

3.1.2.1. Nghiên cứu lý luận

Xuất phát từ quan điểm nghiên cứu, chúng tôi thực hiện các công việc

nghiên cứu lý luận như sau:

Xác định mục đích nghiên cứu

- Giới thiệu tổng quan các công trình nghiên cứu của những tác giả trong và

ngoài nước về vấn đề thích ứng và hoạt động học tập.

- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về thích ứng của SV DTTS với hoạt

động học tập.

- Từ việc phân tích các quan điểm tiếp cận khi nghiên cứu thích ứng, xác lập

quan điểm chủ đạo trong nghiên cứu thích ứng của sinh viên DTTS với hoạt động

học tập trên thực tế.

Nội dung nghiên cứu

- Phân tích, tổng hợp, hệ thống những nghiên cứu của các tác giả ở trong và

ngoài nước về thích ứng nói chung và thích ứng của SV DTTS với hoạt động học

tập nói riêng. Từ đó chỉ ra những điểm còn thiếu, chưa đầy đủ để xây dựng nội dung

nghiên cứu này.

- Xác định các khái niệm công cụ và các khái niệm liên quan và hệ thống hóa

một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến đề tài như: Khái niệm thích ứng, thích

ứng của SV DTTS với hoạt động học tập, các biểu hiện của thích ứng, tiêu chí để đo

57

mức độ thích ứng, các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng của SV DTTS.

- Xác định nội dung nghiên cứu thực tiễn: Lựa chọn các yếu tố phù hợp với

nghiên cứu thực tiễn về thích ứng được dựa trên kết quả nghiên cứu và tổng hợp các

nghiên cứu trong và ngoài nước, các quan điểm lý thuyết chung trên thế giới khi đề

cập đến thích ứng.

Trong phần nghiên cứu lý thuyết chúng tôi giới hạn nội dung nghiên cứu

thích ứng biểu hiện qua 3 mặt nhận thức, thái độ, hành vi. Cụ thể nội dung của cách

tiếp cận này đã được trình bày ở chương 2.

Toàn bộ nội dung nghiên cứu này được xây dựng phù hợp với cách tiếp cận

này. Đó nghiên cứu thực trạng thích ứng của sinh viên DTTS với hoạt động học tập

thông qua các tiêu chí đã nêu trên. Để nhận biết đầy đủ hơn sự thích ứng của sinh

viên DTTS với hoạt động học tập diễn ra như thế nào chúng tôi cũng nghiên cứu

các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng của sinh viên DTTS theo thời gian học tập

tại trường.

3.1.2.2. Nghiên cứu thực tiễn

Nghiên cứu thực tiễn được thực hiện qua các giai đoạn: Giai đoạn thiết kế

bảng hỏi, Giai đoạn điều tra chính thức, Đề xuất các biện pháp tác động tâm lý để

nâng cao thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập. Mỗi giai

đoạn có mục đích, phương pháp nghiên cứu khác nhau.

Giai đoạn 1: Thiết kế bảng hỏi

Chúng tôi khai thác thông tin từ các nguồn tư liệu lý luận đã xác định ở

chương 2 để làm cơ sở cho việc xây dựng các nội dung câu hỏi, lấy ý kiến các

chuyên gia đã nghiên cứu về thích ứng và thích ứng của sinh viên DTTS với hoạt

động học tập, thăm dò ý kiến của sinh viên DTTS đang học tập ở trường đại học.

Thời gian thực hiện từ tháng 1/2013 – 6/2013.

- Thiết kế bảng hỏi lần 1

Cấu trúc của bảng hỏi: Để bám sát nội dung nghiên cứu, nội dung bảng hỏi

58

được chúng tôi xác định qua các chỉ báo, tiêu chí chí đánh giá cho từng nội dung:

Phần thông tin tìm hiểu mức độ thích ứng qua mặt nhận thức.

Các chỉ báo đều phản ánh nội dung các câu hỏi liên quan đến nhận thức của

sinh viên DTTS về hoạt động học tập như: mức độ hiểu nội dung bài giảng; đánh

giá khả năng nắm vững kiến thức trên lớp; nắm bắt các phương pháp tự học; nhận

thức về việc tự học ở nhà; nắm bắt phương pháp dạy học của giảng viên… nhận

thức về các khó khăn gặp phải trong quá trình học tập.

Phần thông tin tìm hiểu mức độ thích ứng biểu hiện qua mặt thái độ trong

học tập.

Các chỉ báo liên quan đến đánh giá về thái độ với việc tự học trên lớp, ở nhà

và thái độ hợp tác với bạn bè và giảng viên, thái độ học tập qua các đánh giá về sự

nỗ lực khắc phục khó khăn để học tập tốt, thái độ học tập của bản thân.

Phần thông tin tìm hiểu mức độ thích ứng biểu hiện qua mặt hành vi

Các chỉ báo phản ánh những nội dung có liên quan đến việc xác định các khó

khăn mà bản thân sinh viên gặp phải trong quá trình học tập ở nhà; các kĩ năng ứng

phó, xác định những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập, tính chủ động trong học

tập, khả năng vận dụng các kĩ năng sau khi học bài trên lớp, các hạn chế của bản

thân, sự tham gia vào các hoạt động học tập ở trường đại học.

Phần những yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số

với hoạt động học tập

Phần này chúng tôi xây dựng nội dung theo các chỉ báo liên quan:

- Yếu tố chủ quan như: Tính cách cá nhân; tính tích cực hoạt động – giao tiếp;

Ý chí khắc phục khó khăn;

- Yếu tố khách quan: Phương pháp giảng dạy của giảng viên; Đặc điểm học

tập; Điều kiện sống;

Phần thông tin chung

Chúng tôi xây dựng các chỉ báo thông tin cá nhân: dân tộc, giới tính, năm

học, nơi ở.

59

Điều tra thử bảng hỏi lần 1

Chúng tôi thực hiện trưng cầu ý kiến của 50 sinh viên là người DTTS thuộc

trường Đại học Tân Trào. Trong đó có 20 SV năm thứ nhất, 15 SV năm thứ 2 và 15

SV năm thứ ba. Thời gian thực hiện tháng 8 năm 2013.

Trong tổng thể phần lớn các câu hỏi, chúng tôi thực hiện chia thang điểm

gồm 4 mức:

Yếu: 1 điểm; Trung bình: 2 điểm; Khá: 3 điểm; Tốt: 4 điểm.

Cùng với cách chia điểm, chúng tôi có xây dựng nhiều câu hỏi mở nhằm thu

thập thêm nhiều thông tin hỗ trợ cho các câu hỏi lựa chọn, câu hỏi đóng.

Sau khi xử lý số liệu và thực hiện các thao tác trên phần mềm thống kê SPSS

16.0, chúng tôi nhận thấy một số câu hỏi gây khó khăn cho sinh viên khi trả câu hỏi,

nhiều chỉ báo sinh viên dễ hiểu nhầm. Bảng hỏi có quá nhiều câu hỏi mở dẫn đến

sinh viên bị phân tán sự tập trung chú ý. Các câu hỏi quá dài, các ý chưa tập trung

và ăn khớp với nhau.

Với các lý do trên, chúng tôi không sử dụng bảng hỏi lần 1 và có điều chỉnh,

thiết kế lại bảng hỏi trên cơ sở phát hiện những sai sót, chưa hợp lý để làm lại câu

hỏi, cho thang điểm đánh giá chính xác hơn.

- Xây dựng bảng hỏi lần 2

Thời gian thực hiện tháng 10 năm 2013. Từ những phiếu trưng cầu ý kiến

thu được, chúng tôi đã chỉnh sửa lại nội dung và thang điểm của bảng hỏi, lược bớt

một số câu hỏi mở và điều chỉnh lại một số ý lựa chọn trong những câu hỏi lựa chọn,

đánh giá về điểm số.

Chúng tôi vẫn thực hiện chia thang điểm thành 4 mức tương ứng:

Yếu: 1 điểm; Trung bình: 2 điểm; Khá: 3 điểm; Tốt: 4 điểm.

Để đánh giá được sự chính xác hơn về mức độ thích ứng của sinh viên DTTS

với hoạt động học tập, chúng tôi thực hiện lấy ý kiến trên 100 sinh viên là người

DTTS đang học tại trường Đại học Tân Trào - Tuyên Quang.

Kết quả thu được giúp chúng tôi có những hình dung rõ hơn về cách trình

60

bày hình thức cũng như các nội dung trong bảng hỏi. Chúng tôi nhận thấy, sinh viên

đã hiểu rõ các tiêu chí đánh giá thích ứng. Tức là sinh viên đã đánh giá trên cơ sở

điểm số từ 1 đến 4 tương ứng với ý nghĩa đã cho.

Sau khi xử lý số liệu, chúng tôi nhận thấy các mệnh đề trong từng câu hỏi đã

rõ ràng và sinh viên trả chính xác hơn. Kết quả trưng cầu ý kiến thử lần 2 đã giúp

chúng tôi có những nhận định, thay đổi mới hơn về cách chia thang đo, ngắn gọn

hơn và cụ thể trong từng mức độ. Vì vậy, chúng tôi có chỉnh sửa và đi đến giai đoạn

điều tra chính thức.

Giai đoạn 2: Điều tra chính thức

Thời gian thực hiện từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 7 năm 2014.

- Mục đích: Tìm hiểu các mức độ thích ứng của sinh viên DTTS với hoạt

động học tập, đánh giá về các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng đó. Chỉ ra mối

tương quan sự thích ứng của sinh viên các năm học, giữa sinh viên dân tộc này với

sinh viên dân tộc khác trong hoạt động học tập.

- Phương pháp: Điều tra bằng bảng trưng cầu ý kiến cá nhân.

- Nguyên tắc điều tra: Cá nhân sinh viên tham gia trả lời một cách độc lập,

theo suy nghĩ của cá nhân, không có sự trao đổi với người thứ hai. Những câu hỏi,

các mệnh đề mà sinh viên không hiểu, điều tra viên có thể giải thích để giúp họ có

sự trả lời chính xác hơn.

- Cách thức xử lý số liệu điều tra: Chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê

toán học. Số liệu thu được sau khảo sát thực tế được xử lý bằng phần mềm SPSS

16.0. Các thông số và phép toán thống kê được sử dụng trong nghiên cứu này là

phân tích thống kê mô tả và phân tích thống kê suy luận.

Đối với những câu hỏi có đặt thang điểm mức độ từ 1 đến 4 tương ứng với ý

nghĩa đã cho, trên cơ sở thang điểm này chúng tôi chia ra thành 4 mức độ thích ứng

của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập sẽ được trình bày ở phần sau.

Đối với câu hỏi không có thang điểm có mức độ từ 1 đến 4 chúng tôi chỉ tính

tỉ lệ phần trăm số người đã trả lời câu hỏi theo từng nội dung.

Giai đoạn 3: Phân tích kết quả nghiên cứu và đánh giá thực trạng

61

Mục đích: Phân tích và đánh giá thực trạng.

Nội dung: Theo mục đích nghiên cứu và khung nội dung đưa ra, dữ liệu thu

về được phân tích trên các vấn đề:

- Đánh giá chung về thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động

học tập.

- Biểu hiện thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập

qua 3 mặt: Nhận thức, Thái độ và Hành vi

- Đánh giá qua các biểu hiện thích ứng ở sinh viên dân tộc thiểu số xét theo

các khía cạnh năm học, theo dân tộc.

- Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với

hoạt động học tập. Phần này thể hiện qua ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan (Tính

cách cá nhân, tính tích cực hoạt động – giao tiếp, Ý chí khắc phục khó khăn) và ảnh

hưởng của yếu tố khách quan (Phương pháp giảng dạy của giảng viên, Đặc điểm

học tập, Điều kiện sống).

- Đề xuất các biện pháp tác động nâng cao mức độ thích ứng cho sinh viên.

3.1.2.3. Đề xuất các biện pháp tác động tâm lý để nâng cao mức độ thích

ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập

Chúng tôi đề xuất các biện pháp tác động mang tính tập thể (vĩ mô) và tác

động cá nhân (vi mô) để nhằm nâng cao mức độ thích ứng của sinh viên dân tộc

thiểu số với hoạt động học tập. Cụ thể đề xuất các biện pháp tác động nâng cao mức

độ thích ứng qua thay đổi phương pháp giảng dạy của giảng viên, tổ chức nhóm,

câu lạc bộ kỹ năng sống cho sinh viên và tham vấn tâm lý. Nội dung này được trình

bày chi tiết tại chương 4.

3.1.3. Mẫu nghiên cứu thực trạng

Mẫu nghiên cứu được chúng tôi lựa chọn là sinh viên dân tộc thiểu số đang

học từ năm thứ nhất đến năm thứ ba tại trường Đại học Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang.

Tổng số mẫu là 630 sinh viên dân tộc thiểu số. Các mẫu được lựa chọn và phân bổ

như sau:

Lựa chọn số lượng SV DTTS theo từng năm học, và đang sống trong Kí túc

62

xá hoặc thuê trọ ở ngoài.

Chúng tôi có thực hiện chia nhóm dân tộc điển hình thành 3 nhóm mẫu: 1)

Nhóm dân tộc Tày; 2) Nhóm H’Mông – Dao; 3) Nhóm dân tộc khác (Cao Lan, Sán

Chí, Nùng, Hoa, và các dân tộc khác). Sự phân chia có tính tương đối về số lượng

người, số dân tộc thiểu số điển hình. Trong cách phân chia này, chúng tôi dựa vào

thực tế số lượng sinh viên dân tộc thiểu số khi tham gia khảo sát để xếp những

nhóm sinh viên có sự tương đồng về đặc điểm dân tộc, địa bàn cư trú, sự giao thoa

văn hóa thành các nhóm. Trong số các sinh viên dân tộc thiểu số, sinh viên dân tộc

Tày có số lượng nhiều nhất (219 SV chiếm 34.8%), còn sinh viên H’Mông và sinh

viên người Dao ít hơn sinh viên người Tày nhưng thường có sự tương đồng về địa

bàn cư trú, có sự tương đồng văn hóa, giao thoa sinh hoạt nên xếp chung vào thành

nhóm H’Mông – Dao (234 SV chiếm 37.2%). Các sinh viên còn lại là những sinh

viên số ít của các dân tộc khác chúng tôi xếp thành một nhóm (117 SV chiếm 28%)

Bảng 3.1: Mẫu nghiên cứu

STT Năm học SL Nam Nữ Tày H’Mông DT

-Dao khác

1 Năm I 210 102 108 73 81 59

2 Năm II 210 102 108 73 81 59

3 Năm III 210 102 108 73 81 59

Tổng 630 306 324 219 234 177

3.2. Phương pháp nghiên cứu

3.2.1. Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu

- Mục đích: Hình thành sơ bộ khung lý thuyết cho luận án

- Nội dung: Tìm hiểu các nghiên cứu đi trước để thấy được cái nhìn tổng

quan về vấn đề nghiên cứu, tìm ra các căn cứ để phát hiện tính mới mẻ của đề tài

luận án.

- Cách thức tiến hành: Thực hiện các giai đoạn phân tích, tổng hợp, so sánh,

hệ thống và khái quát những lý thuyết, các công trình nghiên cứu của các tác giả ở

trong và ngoài nước đã được đăng tải trên các sách báo, tạp chí chuyên ngành có

63

nghiên cứu về thích ứng và thích ứng của sinh viên DTTS với hoạt động học tập.

3.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

- Mục đích: thu thập các ý kiến trả lời một cách tổng thể giúp chúng tôi xác

định được các biểu hiện của sự thích ứng và các nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến

sự thích ứng với hoạt động học tập.

- Nội dung: dựa trên cơ sở xây dựng một hệ thống các câu hỏi định lượng và

định tính chúng tôi khảo sát thực trạng, các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng của SV

DTTS với hoạt động học tập. Các thông tin mà SV DTTS trả lời sẽ là những thông

tin quan trọng giúp nhà nghiên cứu nắm được thực trạng để lựa chọn biện pháp tác

động giúp SV DTTS thích ứng tốt với hoạt động học tập.

- Cách thức tiến hành: Chúng tôi thực hiện trưng cầu ý kiến của SV DTTS

học từ năm thứ 1 đến năm thứ 3, các em trả lời trực tiếp vào phiếu trưng cầu ý kiến

bằng cách đánh dấu và viết ý kiến cá nhân vào những ý phù hợp với các em.

- Cấu trúc của bảng hỏi: Chúng tôi xây dựng bảng hỏi theo cấu trúc chia

thành các phần:

Phần thông tin tìm hiểu mức độ thích ứng qua mặt nhận thức (Câu 1, 2)

Phần thông tin tìm hiểu mức độ thích ứng biểu hiện qua mặt thái độ trong

học tập.(Câu 3)

Phần thông tin tìm hiểu mức độ thích ứng biểu hiện qua mặt hành vi

(Câu 4, 5, 10)

Phần những yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số

với hoạt động học tập(Câu 6,7, 8, 9, 11)

Phần thông tin chung

Các nội dung cơ bản được trình bày chi tiết ở mục Giai đoạn nghiên cứu

thực tiễn phần Thiết kế bảng hỏi thuộc chương 3.

3.2.3. Phương pháp quan sát

- Mục đích: bổ sung thông tin cho các phương pháp khác, tìm hiểu biểu hiện

64

thích ứng của SV DTTS về mặt hành vi trong các hoạt động học tập.

- Nội dung: Quan sát các biểu hiện tâm lý, hành vi của sinh viên khi tham gia

vào hoạt động học tập trên lớp, thảo luận nhóm, giờ ra chơi, giờ sinh hoạt lớp, giờ

học ngoại khóa, tham vấn tâm lý và sẽ được trình bày phân tích ở chương 4.

- Cách thức tiến hành: Chúng tôi quan sát các hoạt động tại trường học bằng

sử dụng phiếu quan sát là chính. Bên cạnh đó chúng tôi có sử dụng máy ảnh bổ trợ

để lưu hình một vài hoạt động học tập. Tuy nhiên, việc này khá hạn chế bởi chúng

tôi không muốn làm ảnh hưởng nhiều đến sự tập trung của các em.

3.2.4. Phương pháp phỏng vấn sâu

- Mục đích: Thu thập thêm các ý kiến bổ sung của sinh viên sau khi trưng

cầu ý kiến bằng bảng hỏi làm sáng tỏ thêm các thông tin về thích ứng với hoạt động

học tập của SV DTTS.

- Nội dung: Tìm hiểu về một số suy nghĩ, quan niệm, những khó khăn tâm lý

ảnh hưởng đến sự thích ứng của SV DTTS trong các hoạt động học tập.

- Cách thức tiến hành: Phỏng vấn sâu được tiến hành sau khi sinh viên tham

gia trả lời phiếu trưng cầu ý kiến, nhà nghiên cứu đặt ra những câu hỏi bổ trợ thông

tin với các hoạt động thảo luận nhóm, tham vấn tâm lý với các khách thể là: sinh

viên và giảng viên, cán bộ quản lý kí túc xá.

Về cấu trúc của bảng hỏi: Tập trung vào các nội dung liên qua đến các biểu

hiện thích ứng học tập về nhận thức, thái độ và hành vi. Cụ thể:

+ Bảng phỏng vấn sâu dành cho giảng viên: Chúng tôi xây dựng với 8 câu hỏi

để nhảm mục đích thu thập thêm các đánh giá của giảng viên về sự hòa nhập, sự ảnh

hưởng của thích ứng đến học tập, những khó khăn, sự khác nhau giữa sinh viên dân tộc

thiểu số với dân tộc khác, sự hỗ trợ của giảng viên và nhà trường để sinh viên có thể

thích ứng tốt hơn với hoạt động học tập ở nhà trường.

+ Bảng hỏi đối với sinh viên dân tộc thiểu số: Chúng tôi thực hiện phỏng vấn

6 câu hỏi đối với các em sinh viên về các nội dung lý do đi học, sự khó khăn khi

học tập, các đặc điểm dân tộc, những hạn chế của bản thân, những yêu cầu đối với

giảng viên và nhà trường trong việc hỗ trợ sinh viên dân tộc thiểu số trong hoạt

65

động học tập.

3.2.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm của hoạt động

- Mục đích: Thu thập các tài liệu về kết quả hoạt động học tập của sinh viên

để củng cố thêm những thông tin đã thu được qua khảo sát thực trạng, quan sát sự

thích ứng của SV DTTS với hoạt động học tập.

- Nội dung: Tìm hiểu tự đánh giá của sinh viên về kết quả học tập trong thời

gian học tập và những kết quả học tập có liên quan gì đến thích ứng của sinh viên.

- Cách thức tiến hành: Thực hiện trưng cầu ý kiến của SV DTTS qua bảng

hỏi, qua phỏng vấn sâu, qua bảng điểm kết quả học tập toàn khóa. Phân tích kết quả

học tập trên cơ sở đánh giá về mặt định lượng cũng như định tính để thấy được

thích ứng có ảnh hưởng như thế nào đến kết quả học tập (sản phẩm hoạt động học

tập) của sinh viên.

3.2.6. Phương pháp tham vấn tâm lý

- Mục đích: Sử dụng kĩ thuật tham vấn tâm lý nhằm làm thay đổi nhận thức,

thái độ, hành vi của SV DTTS để giúp sinh viên thích ứng tốt hơn với hoạt động

học tập.

- Nội dung: Chúng tôi sử dụng phương pháp tham vấn theo hướng tiếp cận

nhận thức và hành vi. Các kĩ thuật trò chuyện, các giải pháp, bài tập trị liệu hướng

đến thay đổi suy nghĩ và hành vi của các em về các sự kiện gây khó khăn tâm lý,

các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng hoặc không thích ứng với hoạt động học tập

của SV DTTS.

- Cách thức tiến hành: Chúng tôi lựa chọn 02 sinh viên DTTS điển hình

về thích ứng để tham vấn. Quy trình tham vấn được thực hiện theo các bước:

+ Gặp gỡ và đánh giá ban đầu:

Các vấn đề cần làm việc giữa nhà tham vấn và thân chủ có liên quan đến

thông tin cá nhân, gia đình, tình trạng hiện tại về sức khỏe, tâm lý, hoạt động học

tập của sinh viên, tham vấn trên cơ sở thỏa thuận số các buổi tham vấn trực tiếp

giữa nhà tham vấn và thân chủ, thống nhất cách thức làm việc, mục tiêu tham

vấn, cam kết tham vấn, Sau khi thống nhất những công việc phải làm, nhà tham

66

vấn sẽ cùng thân chủ lên mục tiêu cho từng buổi làm việc.

+ Tham vấn: Nhà tham vấn cùng thân chủ thực hiện các buổi tham vấn

như lịch đã thỏa thuận, nhà tham vấn can thiệp hoặc hỗ trợ và đánh giá theo các

kỹ thuật và hướng tiếp cận đã lựa chọn.

+ Kết thúc tham vấn: Các buổi tham sẽ kết thúc khi thân chủ cảm thấy

không cần sự trợ giúp của nhà tham vấn.

3.2.7. Phương pháp thống kê

Đối với số liệu định lượng (thu thập được từ bảng hỏi), chúng tôi sử dụng

phần mềm SPSS để xử lý số liệu. Đối với số liệu định tính qua phỏng vấn: chúng

tôi sử dụng phương pháp liệt kê đơn giản và đưa vào trong phần phân tích kết quả

những ý quan trọng.

- Phân tích kết quả nghiên cứu: Chúng tôi dựa trên cơ sở số liệu được sử lý

bằng phần mềm thống kê SPSS phiên bản 16.0 dành cho các nghiên cứu khoa học

xã hội để đảm bảo được tính khách quan. Các thông số và các phép toán thống kê

được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm:

- Hệ số Alpha Cronbach được sử dụng đối với những nội dung được thiết kế

theo thang đo mức độ, nhằm xác định độ tin cậy của toàn thang đo. Độ tin cậy

Alpha Cronbach của các thang đo sau khi đã chỉnh sửa trong nghiên cứu này đạt từ

khoảng 0,5 trở lên . Nói chung là các thang đo đó có thể chấp nhận được.

- Phân tích thống kê mô tả: Các chỉ số phân tích thống kê mô tả được sử

dụng trong nghiên cứu này bao gồm: Tỉ lệ % (frequency), điểm trung bình cộng

(mean), độ lệch chuẩn (Standardizied Deviation)

- Phân tích thống kê suy luận: Các phép thống kê được sử dụng trong phân

tích thống kê suy luận bao gồm:

+ Phân tích so sánh: Trong nghiên cứu này, phép so sánh giá trị trung bình

(compare means) được sử dụng nhiều nhất, trong đó có phép phân tích phương sai

một yếu tố (Anova) cho 3 nhóm và phép kiểm định t về độc lập giữa hai mẫu

(Independent Samples t Test) cho 2 nhóm. Các giá trị trung bình được coi là khác

nhau có ý nghĩa về mặt thống kê khi F-test và t-test của phân tích biến thiên có giá

67

trị vượt ngưỡng thống kê với xác suất p < 0,05. Bên cạnh đó, phép kiểm định khi

bình phương Pearson cũng được sử dụng để kiểm định về tính độc lập giữa hai biến

cột và biến dòng của bảng chéo hai chiều và kiểm định ngang bằng về tỷ lệ dọc theo

các hàng (hay các cột).

+ Phân tích tương quan nhị biến: nhằm tìm hiểu sự liên hệ tuyến tính giữa

hai biến số định lượng, cụ thể sự biến thiên ở một biến số có xảy ra đồng thời với sự

biến thiên ở biến số kia không. Mức độ liên kết hay độ mạnh của mối liên hệ giữa

hai biến số được chỉ số hoá bởi hệ số tương quan Pearson (r).

- Thang đo và mức độ: Chúng tôi dùng cách tính điểm trung bình để đo các mức

độ thích ứng, và đo các yếu tố tác động đến sự thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số

với hoạt động học tập. Thang điểm được chia ra theo 4 mức điểm: thấp nhất là 1 điểm.

Cao nhất là 4 điểm.

Bảng 3.2: Bảng thể hiện ý nghĩa và điểm tương ứng

Ý nghĩa Điểm số

1. Không quan trọng; Không bao giờ; Hoàn toàn sai; 1

Không ảnh hưởng.

2. Không ý kiến; Trung bình; Thỉnh thoảng; Nửa 2

đúng, nửa sai.

3. Hài lòng; Quan trọng; Thường xuyên; Ảnh hưởng 3

nhiều.

4. Rất hài lòng; Rất quan trọng; Rất thường xuyên; 4

Việc phân chia như trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Với số lượng mẫu đủ lớn

Ảnh hưởng rất nhiều.

(n>200) chúng tôi coi đây là một phân bố chuẩn. Vì thế, chúng tôi áp dụng cách phân chia mức độ dựa vào độ lệch chuẩn của điểm trung bình.

Từ cách tính điểm trên sau khi tính giá trị trung bình, chúng tôi chia ra làm 4

mức độ và cách chia khoảng các mức độ để đánh giá mức độ thích ứng như sau:

Thấp <

- Mức Thấp: - 2SD < - 1SD

- Mức Trung bình: - 1SD < TB < + 1SD

- Mức Khá: + 1SD < Khá < + 2SD

Tốt <

68

- Mức Tốt: + 2SD < + 3SD

Từ các căn cứ trên, chúng tôi xác định mức độ thích ứng như sau: - Mức độ thích ứng thấp: Biểu hiện sinh viên chưa tự tin, chưa chủ động,

không có hoặc ít có sự thay đổi về nhận thức, thái độ và hành vi, kĩ năng vận dụng

để khắc phục khó khăn trong hoàn cảnh sống mới.

- Mức độ thích ứng trung bình: Biểu hiện sinh viên đã tự tin hơn, chủ động hơn, tích cực và có sự thay đổi về nhận thức, thái độ và hành vi, kĩ năng vận dụng

tuy nhiên chưa có sự đồng đều và thống nhất giữa 3 mặt với nhau. Các biểu hiện

của sinh viên đáp ứng được những yêu cầu ở mức cơ bản đối với việc khắc phục khó khăn về học tập ở hoàn cảnh sống mới.

- Mức độ thích ứng khá: Biểu hiện sinh viên khá tự tin hơn, chủ động, tích

cực, có sự thay đổi khá đồng đều và thống nhất về nhận thức, thái độ và hành vi, kĩ

năng vận dụng để khắc phục khó khăn trong hoàn cảnh sống mới

- Mức độ thích ứng tốt: Biểu hiện sinh viên hoàn toàn tích cực, tự tin, chủ

động về nhận thức, thái độ và hành vi, kĩ năng vận dụng trong giải quyết những khó

khăn ở hoàn cảnh sống mới.

Tiểu kết chương 3

Để tiến hành nghiên cứu thực tiễn thích ứng của sinh viên dân tộc

thiểu số với hoạt động học tập. Trước khi đi vào khảo sát chính thức, chúng tôi thực

hiện điều tra thử 02 lần. Lần thứ nhất 50 sinh viên, lần thứ hai 100 sinh viên để

đánh giá hiệu quả của mẫu phiếu khảo sát. Sau khi đã hiệu chỉnh, chúng tôi tiến

hành khảo sát chính thức đối với 630 sinh viên là người dân tộc thiểu số đang học

từ năm thứ nhất đến năm thứ ba tại trường Đại học Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang và

sàng lọc để tham vấn tâm lý cho 02 sinh viên có mức độ thích ứng thấp và trung

bình nhằm tác động nâng cao mức độ thích ứng học tập cho các em này.

Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, luận án được tổ chức nghiên

cứu theo 03 giai đoạn chính.

- Giai đoạn 1: Nghiên cứu lý luận về thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập luận án đã xác định được các khái niệm công cụ, xây dựng được thang đo và các tiêu chí đánh giá mức độ thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập.

- Giai đoạn 2: Nghiên cứu thực tiễn về thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu

69

số với hoạt động học tập, trong giai đoạn này chúng tôi tiến hành các giai đoạn như:

Thiết kế công cụ điều tra ý kiến, các bảng hỏi phỏng vấn sâu, điều tra thử, điều tra chính thức, phân tích kết quả nghiên cứu.

- Giai đoạn 3: Đề xuất biện pháp tác động tâm lý, kết luận và kiến nghị

Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng phối hợp đồng bộ các phương

pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu, điều tra bằng bảng hỏi, quan sát, phỏng vấn sâu, phương pháp chuyên gia, nghiên cứu sản phẩm hoạt động, tham vấn tâm lý và phân

70

tích dữ liệu thống kê.

CHƯƠNG 4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN VỀ THÍCH ỨNG CỦA SINH VIÊN

DÂN TỘC THIỂU SỐ VỚI HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP

4.1. Thực trạng thích ứng học tập của sinh viên dân tộc thiểu số Để làm rõ thực trạng thích ứng học tập của sinh viên dân tộc thiểu số, luận

án phân tích một bức tranh chung nhất về thực trạng thích ứng của sinh viên dân tộc

thiểu số với hoạt động học tập. Các nội dung chính được trình bày bao gồm đánh giá chung về thực trạng, các mặt biểu hiện thích ứng qua nhận thức, thái độ và hành

vi, sau đó làm rõ các khía cạnh, các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng học tập ở

sinh viên dân tộc thiểu số.

4.1.1. Đánh giá chung về thực trạng thích ứng học tập của sinh viên dân

tộc thiểu số

Trước khi phân tích cụ thể các biểu hiện, các khía cạnh thích ứng của SV

DTTS, chúng tôi xem xét một cách tổng thể và có đánh giá chung về thực trạng

thích ứng của SV DTTS qua kết quả tổng hợp dưới đây:

Bảng 4.1: Đánh giá chung về ba mặt thích ứng của SV DTTS với hoạt

động học tập

STT Nội dung ĐTB ĐLC MĐTƯ

1 Biểu hiện qua nhận thức 3.13 0.37 TB

2 Biểu hiện qua thái độ 3.26 0.43 Khá

3 Biểu hiện qua hành vi 3.09 0.33 TB

Trung bình chung 3.18 0.27 Khá

Nhìn vào bảng số liệu trên cho thấy, ba mặt biểu hiện thích ứng có những khác biệt về điểm số theo thang đo mức độ thích ứng. Xét cụ thể, mặt thái độ có điểm giá trị trung bình cao nhất, sau đó là nhận thức và thấp nhất là mặt hành vi (Tổng TBC = 3.18). Có thể nói, SV DTTS có sự thích ứng học tập xếp ở mức độ Khá. Điều này phản ánh đúng với thực tế mà chúng tôi quan sát được trong quá trình nghiên cứu. SV DTTS có nhận thức và thái độ nghiêm túc trong các hoạt động học tập, tuy nhiên các kĩ năng của các em còn chưa theo kịp với nhận thức và thái

71

độ của bản thân đối với hoạt động học tập. Nhìn vào bảng thấy được biểu hiện hành vi thích ứng có điểm giá trị trung bình thấp hơn (ĐTB = 3.09) so với biểu hiện thái

độ (ĐTB = 3.26) Khi được phỏng vấn sâu đánh giá sự hòa nhập, thích ứng của SV DTTS với hoạt động học tập phần lớn các giảng viên đều cho rằng: nhìn chung sinh

viên đều có nhận thức và thái độ học tập tương đối nghiêm túc, tuy nhiên có một số

em còn mải chơi, lười học, chưa thực sự tích cực với các hoạt động trong nhà

trường. Sinh viên có hạn chế là các em còn thiếu nhiều kĩ năng học tập, chưa rèn luyện thường xuyên... Như ý kiến của một giảng viên cho rằng: ‘‘SV DTTS còn

chậm chạp, chưa khai thác hiệu quả các tài liệu học tập, vẫn giữ khoảng cách giao

tiếp với giảng viên, các kĩ năng thực hành giải quyết các bài tập chưa tốt’’ (cô N.T.C Bộ môn TL - GD).

Các ý kiến này cho thấy thực trạng chung hiện nay của sinh viên các trường

đại học ở Việt Nam sau khi tốt nghiệp đi làm ở các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp

cùng có một yếu điểm đó là các kĩ năng thực hành vận dụng vào thực tế còn chưa

cao, chỉ giỏi về mặt lý thuyết, nặng tính hàn lâm. Như vậy, có thể thấy thực tế cuộc

sống đánh giá rất cao vai trò của mặt hành vi, kĩ năng vận dụng của sinh viên sau

khi đi làm. Có thể nói, sự thành thạo hành vi, kĩ năng vận dụng của sinh viên có tính

quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo ở trường đại học.

Biểu đồ 1: Mức độ thích ứng học tập của SV DTTS Nhìn vào biểu đồ trên thấy sự khác nhau về mức độ giữa các khía cạnh của thích ứng học tập. Trong đó chủ yếu là mức thích ứng khá và trung bình, thứ hai là

72

mức thích ứng tốt và ít nhất là mức thích ứng thấp. Trong ba mặt biểu hiện thích ứng thì mặt nhận thức và thái độ có điểm giá trị trung bình cao hơn hẳn nhưng ở mặt hành vi, các item cụ thể điểm giá trị trung bình ở mức độ thích ứn khá lại

chiếm ưu thế. Ở mức độ thích ứng thấp, mặt thái độ có một SV duy nhất (chiếm 0.2%) nhưng ở mặt hành vi thì mức độ này chiếm tỉ lệ cao hơn cả trong ba mặt

(22.7%). Điều đó cho thấy mặt thích ứng hành vi có sự phân hóa về mức độ cao

nhất. Có lẽ, tạo nên kết quả này là do khi đánh giá về hành vi, SV có xu hướng nhìn

thấy có sự thích ứng hay không thích ứng một cách rõ ràng nhất.

Kết quả chung, có 62.6% SV có có điểm giá trị đạt mức độ thích ứng trung

bình và khá, 20.5% đạt mức độ thích ứng thấp và 17% đạt mức độ thích ứng tốt.

Như vậy có thể nói rằng, phần lớn SV có mức thích ứng ở mức Khá. Số liệu có sự

tương đồng với kết quả học tập của SV ở trường Đại học Tân Trào hiện nay.

4.1.2. Các biểu hiện thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động

học tập

4.1.2.1. Thích ứng học tập của sinh viên biểu hiện qua mặt nhận thức Trong quá trình khảo sát về thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt

động học tập, điều đầu tiên chúng tôi muốn khảo sát chính là tìm hiểu nhận thức của

sinh viên về tầm quan trọng của một số yếu tố có thể giúp sinh viên học ngày một

tốt hơn trong hoạt động học tập. Bởi vì nhận thức chính là sự hiểu biết.

Bảng 4.2: Mức độ thích ứng về nhận thức của SV qua các mặt biểu hiện

Các biểu hiện ĐTB ĐLC MĐTƯ

1. Nghe giảng trong lớp 3.19 0.58 Khá

2. Phát biểu ý kiến trong giờ học 3.04 0.54 TB

3. Hợp tác với giảng viên và bạn cùng lớp 3.28 0.81 Khá

4. Phương tiện dạy và học 3.33 0.67 Khá

5. Tự học ở nhà 3.09 0.83 TB

6. Liên hệ nội dung bài giảng với thực tế 3.08 0.63 TB

7. Tham gia vào hoạt động chung trong lớp 3.14 0.38 Khá

8. Củng cố và nắm vững tri thức 2.95 0.94 TB

9. Phát huy tính độc lập, sáng tạo 3.10 0.81 TB

10. Mở rộng kiến thức, nâng cao hiểu biết 3.10 0.74 TB

73

Trung bình chung 3.13 0.69 Khá

Kết quả trên thu được cho thấy, nhận thức về Phương tiện dạy và học có điểm trung bình cao nhất (ĐTB = 3.33). Tương tự, nội dung khác như, về Hợp tác với giảng viên và bạn cùng lớp (ĐTB = 3.28); Nghe giảng trong lớp (ĐTB = 3.19) và Sự tham gia vào các hoạt động học tập đều đạt ở mức thích ứng Khá. Kết quả này phản ánh một điều, nếu trong giờ học sinh viên có sự tập trung, nắm được phương pháp giảng dạy của giảng viên kết hợp với biết cách tham gia vào các hoạt động, hợp tác với giảng viên và bạn học thì kết quả học tập sẽ được nâng cao. Số liệu điều tra cho thấy cho thấy, có (45.4%) sinh viên có sự thích ứng ở mức Trung bình về việc Củng cố và nắm vững tri thức. Để kiểm tra sự thống nhất về nhận thức của sinh viên đối với việc nắm vững kiến thức đã học ở trên lớp chúng tôi tìm hiểu đánh giá của sinh viên về Mở rộng kiến thức, nâng cao hiểu biết như thế nào? Có (54.9%) sinh viên đánh giá sự mở rộng, nâng cao hiểu biết tri thức của mình ở mức độ thích ứng trung bình và có (45.1%) sinh viên đánh giá sự hiểu biết kiến thức của bản thân ở mức độ thích ứng khá. Con số này nói lên có những yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến việc nắm vững kiến thức ở sinh viên. Có nhiều nguyên nhân tạo ra điều này, có thể do nguyên nhân từ bên trong bản thân sinh viên chưa thực sự tạo cho mình cách suy nghĩ phải thường xuyên củng cố kiến thức, chưa nhận thức được tầm quan trọng của phương pháp tự học trong khi đó các em có nhận thức đạt mức độ thích ứng khá với phương pháp giảng dạy của giảng viên. Điều này có mâu thuẫn gì với nhau hoặc các điều kiện học tập, sự xác lập các hành vi học tập của các em chưa thực sự thường xuyên đã ảnh hưởng đến điều đó?

Bảng 4.3: Nhận thức của sinh viên về phương pháp giảng dạy không có sự tham gia

Nhận thức về phương pháp không có sự tham gia

1. Giảng viên đọc chép 2. Giảng viên lý luận 3. Giảng viên đơn điệu, thiếu đa dạng 4. Cứng nhắc, máy móc, dập khuôn 5. Giảng viên làm trung tâm

Trung bình chung ĐTB ĐLC MĐTƯ 0.72 3.02 0.28 2.96 0.56 3.15 0.70 3.39 0.46 3.26 0.55 3.14 TB TB Khá Khá Khá Khá

Khi xem xét nhận thức về tầm quan trọng của phương pháp dạy học của giảng viên, phần lớn sinh viên đánh giá có mức độ thích ứng Khá về điều này. Để

74

đo được và lượng giá chính xác nhận thức của sinh viên về phương pháp giảng dạy của giảng viên, chúng tôi đã đưa ra một số tiêu chí đánh giá để sinh viên biểu lộ

nhận thức đúng hay chưa đúng của các em về phương pháp giảng dạy của giáo viên. Số liệu cho chúng ta thêm những thông tin về biểu hiện nhận thức của sinh viên

trong quá trình thích ứng với phương pháp giảng dạy của giảng viên khi học tập

trong trường đại học.

Như vậy, bảng 4.3 trả lời câu hỏi sinh viên nhận thức đúng về phương pháp giảng dạy của giảng viên như thế nào? Những phân tích ở trên cho thấy ngay bản thân sinh viên có những mâu thuẫn trong nhận thức về phương pháp giảng dạy của

giảng viên, ví dụ: các em đánh giá phương pháp Cứng nhắc, máy móc, dập khuôn (ĐTB: 3.39) là cao nhất. Nhìn vào bảng chúng ta thấy phần lớn các em đánh giá

phương pháp giảng dạy của giảng viên có nhiều hạn chế, chưa phát huy được tính

tích cực, chủ động của sinh viên.

Bảng 4.4: Nhận thức của SV về phương pháp giảng dạy có sự tham gia

Nhận thức về phương pháp có sự tham gia ĐTB ĐLC MĐTƯ

1. Giảng viên tạo sự lôi cuốn 2.83 0.48 TB

2. Giảng viên tạo sự chủ động 3.26 0.73 Khá

3. Sinh viên có sự tham gia, trao đổi 3.32 0.60 Khá

4. Giảng viên trang bị kĩ năng cho sinh viên 3.07 0.29 TB

5. Tăng sự trải nghiệm sáng tạo cho sinh viên 3.16 0.70 Khá

Trung bình chung 3.14 0.55 Khá

Nhìn vào bảng trên cho thấy nhận thức của sinh viên về phương pháp giảng

dạy của giảng viên xếp ở mức độ thích ứng khá. Số liệu ở bảng 4.2 với mệnh đề

Phương pháp giảng dạy của giảng viên (ĐTB = 3.33) có sự tương đồng với nhận

thức của sinh viên về phương pháp của giảng viên ở bảng 4.4 dạy học sinh viên có

sự tham gia, trao đổi (ĐTB = 3.32). Những đánh giá của sinh viên phần nào phản ánh những ưu điểm và nhược điểm của phương pháp giảng dạy của giảng viên có ảnh hưởng đến thích ứng học tập ở các em.

Như vậy, phương pháp giảng dạy của giảng viên là một yếu tố hay còn gọi là nguyên nhân ảnh hưởng rất nhiều đến sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh

viên DTTS trong quá trình học tập ở trên lớp cũng như ở nhà. Vì phương pháp

75

giảng dạy là cách thức tổ chức của người giảng viên đối với sinh viên. Nếu phương pháp hiện đại, phù hợp với xu thế dạy học chung sẽ lôi cuốn, kích thích những hứng

thú học tập ở sinh viên. Nó là động lực để sinh viên có thái độ học tập tốt hơn, thúc đẩy hành vi thường xuyên học tập tích cực của sinh viên ở bất cứ hoàn cảnh nào.

Phương pháp giảng dạy giữ vai trò quan trọng, vì nó có thể tạo ra sự tích cực hoặc

tiêu cực trong nhận thức, thái độ và hành vi học tập ở người học.

Khi phỏng vấn sâu đối với sinh viên, chúng tôi đặt ra câu hỏi: Khi học tập trên lớp hay học ở nhà sinh viên cần nắm được những vấn đề gì? Đây là câu hỏi để

sinh viên có thể nói ra những suy nghĩ của bản thân, phần lớn các em đều cho biết

những điều các em cần đó chính là phải nắm vững kiến thức, làm chủ được các kĩ năng, phương pháp học tập, các thông tin khoa học mới và điều quan trọng là biết

cách khai thác các loại tài liệu tham khảo.

Những suy nghĩ trên phản ánh tâm lý mong muốn rất thực tế sinh viên cần

được trang bị kĩ năng học tập, các phương pháp tự học, tự nghiên cứu khoa học và

kĩ năng sống. Đây cũng là vấn đề đang được các nhà khoa học, các trường đại học

rất quan tâm nghiên cứu, ứng dụng. Bởi vì, ở bậc đại học sinh viên cần phải chủ

động tích cực học tập và làm chủ được các lĩnh vực đó mới có thể phát huy được

các năng lực, có kiến thức vững chắc về khoa học.

Tự học là một trong những yêu cầu của phương thức đào tạo đối với sinh

viên hiện nay. Nhà trường không chỉ là nơi cung cấp tri thức mà còn chú trọng đến

các kĩ năng ở sinh viên. Do đó, nếu bản thân sinh viên không nhận thức được tầm

quan trọng của phương pháp tự học thì sẽ không thể tiếp thu kiến thức được tốt.

Nhất là yêu cầu tự học ở nhà của nhà trường đối với sinh viên là rất cao. Phương

pháp tự học ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của sinh viên trong quá trình học

tập ở trường đại học. Xét ở góc độ thích ứng, sinh viên không có phương pháp tự

học sẽ dẫn đến khó thích ứng hoặc kém thích ứng với hoạt động học tập.

Kết quả điều tra ở bảng 4.2 nhận thức về tự học ở nhà khi xem xét số

lượng sinh viên đánh giá vai trò của tự học cho thấy có (99.8%) sinh viên có nhận thức về tự học ở nhà (ĐTB = 3.09) đạt mức độ thích ứng trung bình. Như vậy, tự học là một trong những phương pháp, kĩ năng đòi hỏi tính tích cực chủ động của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập. Bởi vì khi sinh viên có nhận thức tốt, đúng về tự học các em sẽ có tính tích cực chủ động hơn khi tham gia vào các hoạt động học tập.

Chúng tôi trò chuyện với sinh viên về chủ đề học tập các em cho biết để học

tốt hơn ở môi trường đại học sinh viên cần phải nhận thức được những điều cần

76

thiết nhất với sinh viên đó là: “Có ý thức tích cực chủ động trong học tập, tự tìm

cho mình phương pháp và cách thức học phù hợp với bản thân, đi thư viên đọc tài liệu và tham gia vào nhiều hoạt động học tập ngoại khóa nhiều hơn nữa”. (N.N.A,

sinh viên lớp ĐH V-TT)

Những phân tích ở trên phản ánh nhận thức ở sinh viên đó là muốn hiểu bài,

tiếp thu kiến thức, kĩ năng vững chắc, thành thạo thì cần phải tích cực chủ động tạo cho mình cách học, không thụ động trông chờ vào giảng viên.

4.1.2.2. Thích ứng học tập của sinh viên thể hiện qua mặt thái độ Để có được những chiều cạnh khác nhau về thích ứng học tập của sinh viên, cần phân tích, đánh giá một cách đầy đủ về thái độ của họ đối với hoạt động học tập.

Vì thái độ phản ánh cách nhìn nhận, quan điểm, suy nghĩ, sự đánh giá của sinh viên

về chính những kiến thức, kĩ năng mà mình chưa có, đã có và sự thể hiện thái độ

tích cực hay tiêu cực trong các hoạt động học tập sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc

quyết định có thực hiện hành động học tập lâu dài hay không, hoặc các hành động

học tập đó mang tính tự nguyện, xuất phát từ nhu cầu và hứng thú học tập của sinh

viên hay chỉ là những hành động học tập mang tính đối phó.

Bảng 4.5: Thái độ của sinh viên tham gia vào các hoạt động học tập

Những biểu hiện ĐTB ĐLC MĐTƯ

Thái độ học tập trên lớp và ở nhà 3.44 0.40 Khá

Thái độ tương tác với bạn học và giảng TB 3.09 0.48 viên trên lớp

Trung bình chung 3.26 0.43 Khá

Nhìn vào bảng 4.5 chúng ta thấy thái độ học tập của sinh viên trên lớp và ở

nhà có sự chủ động nhiều hơn thể hiện qua điểm giá trị trung bình (ĐTB = 3.44;

ĐLC = 0.40) và đạt mức điểm thích ứng Khá. Như vậy, về mặt tâm lý cá nhân các

em luôn có sự tích cực chủ động, các em có thể tự tin với bản thân mình trong suy

nghĩ và thái độ. Tuy nhiên, khi đứng trước đám đông hoặc có sự tương tác với nhiều

người, với người có ảnh hưởng đến bản thân nên các em thiếu tự tin và chủ động

hơn, có thể do các em chưa quen với sự tự tin với đám đông và chưa có đủ kỹ năng

77

để tương tác với người khác. Điều này thể hiện qua điểm giá trị trung bình ở biểu

hiện thái độ tương tác với bạn học và giảng viên trên lớp (ĐTB = 3.09; ĐLC = 0.48)

và đạt mức điểm mức độ thích ứng trung bình.

Xem xét những biểu hiện cụ thể ở các khía cạnh thái độ học tập của sinh viên

trên lớp và ở nhà qua bảng 4.6 cho chúng ta kết quả như sau:

Bảng 4.6: Những biểu hiện thái độ của SV tham gia hoạt động học tập

Những biểu hiện ĐTB ĐLC MĐTƯ

Thái độ học tập trên lớp và ở nhà

1. Giảng bài trên lớp 3.24 0.43 TB

2. Chép bài trên lớp 3.87 0.32 Tốt

3. Bổ sung kiến thức, thông tin 3.34 0.56 Khá

4. Thực hiện những yêu cầu về tự học 4.08 0.64 Tốt

5. Sự tập trung chú ý trong thời gian học 3.33 0.47 Khá

6. Nghiên cứu khoa học 2.78 0.99 Thấp

Trung bình chung 3.44 0.40 Khá

Thái độ tương tác với bạn học, giảng viên

trên lớp

4. Tôn trọng giảng viên trong giờ học 3.06 0.29 TB

5. Phát biểu ý kiến trước lớp 3.29 0.46 TB

6. Lắng nghe ý kiến của bạn học 2.75 0.96 Thấp

7. Hợp tác với bạn học trong lớp 3.25 0.52 TB

Trung bình chung 3.09 0.48 TB

Với số liệu trên cho thấy có hai biểu hiện đáng chú ý Chép bài trên lớp (ĐTB = 3.87) và quan tâm Thực hiện những yêu cầu về tự học (ĐTB = 4.08) được sinh viên đánh giá là có thái độ đạt mức độ thích ứng tốt. Hai nội dung Bổ sung kiến thức, thông tin và Sự tập trung chú ý trong thời gian học xếp mức độ thích ứng khá. Còn lại các biểu hiện trong bảng đạt mức độ thích ứng trung bình. Đặc biệt có nội dung và Nghiên cứu khoa học có điểm trung bình thấp và có điểm giá trị đạt mức

78

độ thích ứng thấp (ĐTB = 2.78).

Kết quả nghiên cứu thu được cho thấy sinh viên thể hiện nhiều thái độ khác nhau, có thái độ tiêu cực và tích cực. Nhưng có một thái độ nổi trội, có ý nghĩa ở

sinh viên, đó là thái độ Thực hiện những yêu cầu tự học tương ứng với mức độ thích

ứng Tốt (92.2%). Có nội dung lắng nghe ý kiến của bạn học đạt điểm trung bình

thấp và xếp mức độ thích ứng thấp (ĐTB = 2.75). Nếu như sinh viên có thái độ tốt sẽ có ý thức ngày càng tốt hơn trong việc tự học, và tự ý thức trong các hoạt động

học tập ở nhà. Tuy nhiên, ở phần phân tích (xem bảng 4.2) nhận thức của sinh viên

về vấn đề tự học ở nhà, kết quả chỉ đạt mức độ thích ứng trung bình (ĐTB = 3.09; ĐLC = 0.83). Vậy phải chăng giữa hai mặt này có sự khác biệt, không thống nhất?

Vì hết thời gian học trên lớp, sinh viên trở về nhà bắt buộc phải tìm cách tốt nhất để

tự học một cách có hiệu quả. Như vậy, cần phải có biện pháp tác động làm cho sinh

viên quan tâm đến những điều giảng viên hướng dẫn tự học ở nhà sẽ giúp sinh viên

hiểu sâu, nắm bắt tốt các yêu cầu học tập mà giảng viên và môn học đặt ra trong quá

trình tự học ở nhà. Chính thái độ này cũng giúp cho sinh viên có thể chuẩn bị bài

học ở nhà tốt hơn trước khi lên lớp gặp giảng viên.

Khi tham gia vào hoạt động học tập, người sinh viên không thể học tập theo

lối thụ động “thầy đọc, trò chép” như ở phổ thông. Tuy nhiên, học ở đại học, sinh

viên cũng không thể không ghi chép gì. Bởi vì bên cạnh những kiến thức đã được

hệ thống hóa trong giáo trình, tài liệu. Sinh viên không thể chỉ có nghe mà phải biết

cách ghi chép, và ghi chép bài giảng một cách cẩn thận đầy đủ trong thời gian trên

lớp và cả thời gian ở nhà để có thể hiểu nhanh, nhớ lâu nhờ biết cách ghi chép. Ghi

chép là một kĩ năng và nó được hoàn thiện dần theo thời gian trải nghiệm của sinh

viên. Tuy nhiên, không phải sinh viên nào cũng biết cách ghi chép, hoặc không phải

sinh viên nào cũng ghi chép bài cẩn thận và đầy đủ. Điều này phụ thuộc rất nhiều

vào thái độ của họ với việc ghi chép.

Kết quả số liệu cho thấy có (100%) sinh viên có thái độ thích ứng từ trung bình trở lên đối với việc ghi chép bài trên lớp. Điều này phản ánh trong quá trình nắm bắt kiến thức, do các em còn bỡ ngỡ với cách giảng dạy mới ở trường đại học nên có những hạn chế khi kết hợp giữa nghe giảng với tự ghi chép, chắt lọc kiến thức mà giảng viên đã chia sẻ. Các em muốn nhớ bài lâu, hiểu sâu thì phải chi chép bài cẩn thận, một phần nguyên nhân do kĩ năng ghi nhớ, các kĩ xảo tóm tắt của các

em chưa cao. Nếu những kĩ năng kĩ xảo này các em không nắm vững hoặc không

79

được tập luyện củng cố thì chắc chắn việc tiếp nhận kiến thức, những nhận thức mới về bài học sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều. Các em sẽ không nhớ được lâu những gì

đã nghe, quan sát và hành động. Do đó cần phải trang bị kĩ năng ghi chép, kĩ năng nghe giảng cho các em ngay từ những năm đầu học đại học.

Những con số trên cho thấy về mặt nhận thức sinh viên đã có những ý thức

tìm ra cách học riêng phù hợp với bản thân, tự chủ trong học tập, biết chủ động

trong việc tiếp nhận kiến thức. Tuy nhiên, nếu như các em có ghi chép bài giảng ở trên lớp sẽ giúp các em nắm vững được kiến thức tốt hơn, điều đó sẽ có tác dụng

khi các em khắc sâu những lời giảng của giảng viên và có thể liên hệ thực tế được

nhiều hơn.

Trong hoạt động học tập, nếu sinh viên biết cách lắng nghe, có thái độ tốt

chú ý tiếp thu ý kiến của mọi người, sinh viên sẽ học hỏi được rất nhiều từ các bạn

học. Bởi vì cách học “học thầy không tày học bạn” sẽ giúp sinh viên phát huy

nhanh hơn những kiến thức, kinh nghiệm trong cuộc sống để có thể dễ dàng hòa

nhập hơn vào mỗi hoạt động học tập.

Biểu đồ 2: Thái độ của sinh viên với việc lắng nghe ý kiến của bạn học Biểu đồ 2, cho biết phần lớn sinh viên có thái độ không coi trọng việc lắng nghe ý kiến của bạn học (59.2%). Điều này phản ánh sinh viên chưa thực sự hòa đồng trong học tập với các bạn. Tuy nhiên, trong số sinh viên còn lại cũng có thái

độ đạt mức độ thích ứng từ trung bình (8.7%) và lần lượt khá (29.4%) và tốt (2.7%) đối với việc lắng nghe ý kiến của bạn học. Khi sinh viên có thái độ tốt thì sẽ phát huy được khả năng hợp tác được với bạn học trong những hoạt động học tập chung

trên lớp mà còn có thể biết cách cùng nhau tạo ra những hoạt động học tập khi ở

80

nhà và các hoạt động ngoại khóa, cộng đồng.

Về những biểu hiện về thái độ đối với học tập, luận án làm rõ liệu sinh viên

có hài lòng với thái độ học tập của bản thân?

Để trả lời cho câu hỏi này, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu sinh viên về

sự hài lòng của họ đối với với hoạt động học tập. Phần lớn sinh viên được phỏng

vấn cho biết họ hài lòng với hoạt động học tập hiện nay của bản thân. Tuy nhiên

vẫn có một số ít sinh viên còn có thái độ chưa rõ ràng, nửa hài lòng và nửa không

hài lòng. Đây là sự đánh giá trung tính, người đánh giá chưa bộc lộ rõ ràng thái độ

tích cực hay tiêu cực với hoạt động học tập của bản thân. Như lời em M.T.T (sinh

viên năm thứ hai) cho biết: “em cảm thấy mình vẫn còn chưa thực sự tập trung vào

hoạt động học tập, vẫn biết là sinh viên năm thứ hai là cần phải tập trung vào học

tập, ít chơi, chú ý đến việc thực hành và rèn luyện kĩ năng để chuẩn bị cho việc đi

kiến tập nhưng em còn mải chơi”.

Để có cái nhìn khách quan hơn trong việc đánh giá sự thích ứng của sinh

viên với hoạt động học tập, chúng tôi có đặt câu hỏi cho sinh viên để các em tự

nhận định sau thời gian nhập học đến thời điểm hiện tại các em thấy mình có thích

ứng được với phương thức học tập ở trường đại học không? Phần lớn sinh viên

đánh giá đạt mức độ thích ứng từ trung bình (30%), khá (47.6%) và cao (8.3%) với

phương thức học tập và khi được hỏi tại sao? Có em đã cho biết: “vì đã quen được

môi trường học tập, nắm bắt được cách học, đã tự chủ được về thời gian học tập.”

(Sinh viên V.T. L lớp ĐH V-TT A K1).

Số sinh viên còn lại đạt mức độ thích ứng thấp về phương thức học tập

(14.1%). Như lý giải của sinh viên cho câu hỏi những khó khăn gì khi hòa nhập,

thích ứng với hoạt động học tập ở trường đại học, cho biết: “vì không theo kịp được

chương trình học nhanh, trừu tượng, khó hiểu và không có nhiều tài liệu để học

tập”. (Sinh viên N.T. H lớp ĐH Tiểu học A K)

Thái độ phản ánh sự sẵn sàng về mặt tinh thần có tác dụng điều chỉnh hoặc

ảnh hưởng đến sự ứng xử của cá nhân với tình huống, hoàn cảnh đã và đang diễn ra.

Khi nói đến thái độ, người ta thường nói đến sự cấu thành bởi ba thành tố nhận thức,

cảm xúc và hành vi của con người kết hợp lại. Thái độ có thể bộc lộ qua tính cách,

81

kinh nghiệm, quá trình học tập, cảm xúc, các quan điểm khoa học.

Những biểu hiện của thái độ thường nhận thấy qua những đánh giá, cách

nhìn nhận tích cực hoặc tiêu cực về một vấn đề trải nghiệm. Khi nói đến thái độ

học tập của sinh viên, cần phải nghiên cứu thái độ của các em theo chiều hướng

nào (tích cực hay tiêu cực) để từ đó có thể có những biện pháp tác động phù hợp

trong môi trường học tập.

Dựa trên số liệu thu được, phần phân tích này tập trung chỉ ra thái độ tích

cực là điểm chính, nếu thái độ của các em kém thì sẽ tự cho điểm số 1 là thấp

nhất. Như vậy, sẽ có sự thống nhất về các tiêu chí mà các em lựa chọn. Vì thái

độ của mỗi người phản ánh quan điểm suy nghĩ của họ. Có thể tích cực với

người này nhưng lại là tiêu cực với người khác. Cho nên chúng tôi xây dựng

theo các mức độ như trên là phù hợp.

Kết quả điều tra chỉ ra rằng không có sinh viên nào đạt mức độ thích ứng

thấp về thái độ học tập, mà phần lớn biểu hiện thái độ đạt mức độ thích ứng từ

trung bình trở lên với hoạt động học tập. Các biểu hiện như: thái độ đánh giá sự

tích cực đạt mức độ thích ứng trung bình (15.7%) tích cực (67.5%), rất tích cực

(11.6%). Như vậy, sinh viên đánh giá đúng thực tế về thái độ tích cực với hoạt

động học tập ở bản thân mình. Các đánh giá trên phần nào nói lên đặc điểm tâm

lý của sinh viên là các em có yêu thích hoạt động học tập thì các em sẽ có thái độ

đúng mực với hoạt động đó. Bên cạnh đó, các em sẽ tận dụng những cơ hội để

có thể học tập tốt hơn, biết tìm đến sự hỗ trợ giúp đỡ và cần có sự hợp tác với

người khác trong hoạt động học tập mới đạt được kết quả cao. Qua thái độ đánh

giá về việc học tập của bản thân, cho thấy sinh viên phần lớn đạt mức độ thích

ứng từ trung bình trở lên về thái độ học tập tích cực. Có (5.2%) sinh viên có thái

độ không tích cực đối với hoạt động học tập, điều này có thể do một số nguyên

nhân nào đó đến từ các yếu tố chủ quan, hoặc khách quan ảnh hưởng đến sự

thích ứng của sinh viên. Con số này nói lên rằng có thể việc các em đang

học tập tại trường có nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhiều em đi học và

chọn ngành học không xuất phát từ yêu thích của bản thân mà đi học do

những tác động của người khác, của gia đình hoặc có thể do sự lựa chọn một

82

ngành học để xin việc làm dễ hơn. Khi trò chuyện, phỏng vấn sâu có nhiều

sinh viên cho rằng mình đi học để cho bằng bạn bè, đây có thể do ảnh hưởng

từ tâm lý xã hội, mọi gia đình đều mong muốn con cái học hành, đỗ đạt để

mang tiếng thơm cho gia đình, vừa có nghề nghiệp để xin việc, có công ăn

lương, là người của nhà nước. Những yếu tố tâm lý xã hội này khiến cho bản

thân sinh viên là những người trẻ lo lắng hoặc có phong trào đua nhau vào

học ở các trường chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học.

Bên cạnh những hướng suy nghĩ tích cực có ảnh hưởng đến thái độ học tập

của sinh viên thì cũng có những suy nghĩ tiêu cực ảnh hưởng đến việc học tập và nó

là trong những nguyên nhân khiến sinh viên không có sự thích ứng hoặc thích ứng

không cao với hoạt động học tập ở trường đại học.

Ngoài ra, trong quá trình phỏng vấn chúng tôi nhận thấy có một số ít sinh

viên có những đánh giá mang tính tiêu cực. Những điều các em chia sẻ bộc lộ thái

độ kém trong việc học tập, làm ảnh hưởng rất lớn đến động cơ, hứng thú với việc

học tập ở một bộ phận sinh viên. Trong số đó có nhiều sinh viên có suy nghĩ học

đối phó, chỉ cần qua. Đây là những sinh viên có thái độ chưa đúng về việc học,

chưa ý thức được vai trò và trách nhiệm của người con, người sinh viên, người của

thế hệ tương lai. Nhiều em có sự đánh giá rằng mình học chưa thực sự cố gắng, và

học để giết thời gian. Những thái độ này đáng báo động khi một bộ phận sinh viên

học tập nhưng chủ yếu để giết thời gian, tức là sinh viên không có mục tiêu và động

lực để học tập, những em này có thể là do bị sức ép bắt buộc phải học đại học chứ

không phải mục đích học tập để trang bị cho mình kiến thức khoa học, có một hành

trang vào đời.

4.1.2.3. Thích ứng học tập của sinh viên biểu hiện qua mặt hành vi

Sự thích ứng của sinh viên với hoạt động học tập phụ thuộc rất nhiều vào

nhận thức, thái độ của các em đối với nhiệm vụ học tập và kết quả học tập ấy thể

hiện qua những hành vi mang tính ứng dụng. Dù có nhận thức và thái độ tốt nhưng

không gắn với những hành động cụ thể trong học tập thì nó không có ý nghĩa. Với

83

kết quả thu được dưới đây cho thấy:

Bảng 4.7: Đánh giá về sự thành thạo các kĩ năng trong quá trình học tập

Nội dung ĐTB ĐLC MĐTƯ

1. Giao tiếp với bạn học và giảng viên 2.85 0.71 Thấp

2. Đọc tài liệu, xử lý thông tin 3.12 0.33 TB

3. Làm bài tập trên lớp, ở nhà 3.11 0.31 TB

4. Điều chỉnh cảm xúc 2.33 0.75 Thấp

5. Giải quyết khó khăn trong học tập 3.08 0.28 TB

6. Làm chủ các phương pháp học tập 3.37 1.24 Khá

7. Phân phối thời gian học tập 3.01 0.35 TB

8. Kĩ năng nói, viết trong học tập 3.11 0.42 TB

9. Xác định, nhận diện vấn đề học tập 3.36 1.22 Khá

3.09 0.61 TB Trung bình chung

Từ bảng 4.7 chúng tôi tiến hành phân tích nhân tố để và đã rút trích ra được

3 nhân tố. Số liệu được thể hiện ở Bảng 4.8.

Bảng 4.8: Xoay thành phần các nhân tố về thích ứng hành vi

Nội dung Nhân tố

1 2 3

1. Đọc tài liệu, xử lý thông tin .694

2. Làm bài tập trên lớp, ở nhà .857

3. Giải quyết khó khăn trong học tập .836

4. Giao tiếp với bạn học và giảng viên .794

5. Làm chủ các phương pháp học tập .894

6. Xác định, nhận diện vấn đề học tập .898

7. Điều chỉnh cảm xúc .684

8. Phân phối thời gian học tập .834

9. Kỹ năng nói, viết trong học tập .933

Từ bảng 4.7 và bảng 4.8 cho thấy tương quan giữa các biến trong ma trận

84

này tương đối khá cao Kiểm định Bartlett cho thấy các biến tương quan mạnh với nhau. Như vậy, các biến có mối tương quan với nhau trong tổng thể, chúng ta có thể bác bỏ giả thuyết H0. Theo tiêu chuẩn Eigenvalue đặt ra chỉ lấy các nhân tố các

nhân tố có giá trị lớn hơn 1 nên chỉ có 3 nhân tố được rút trích ra. Giá trị Cumulative % cho biết 3 nhân tố đầu giải thích cho 75.23% biến thiên của dữ liệu.

Để các nhân tố trở lên đơn giản và dễ dàng hơn, chúng tôi tiến hành phương

pháp xoay nhân tố rút các thành phần chính – Principal components, kết quả thể

hiện ở Bảng 4.8 cho thấy:

- Các biến 1,2,3 có tương quan với nhau thuộc nhân tố 1.

- Các biến 4, 5, 6 có tương quan với nhau thuộc nhân tố 2

- Các biến 7, 8, 9 có tương quan với nhau thuộc nhân tố 3 Từ những điểm giống nhau (thể hiện thuộc tính chúng) của biến nằm trong

nhân tố, chúng tôi đặt tên cho từng nhóm nhân tố như sau:

+ Nhóm 1: Hành vi giải quyết vấn đề học tập

+ Nhóm 2: Hành vi giao tiếp, ra quyết định và tư duy tích cực.

+ Nhóm 3: Hành vi ứng phó và tự kiềm chế.

Dựa vào bảng ở phụ lục 9 ta xác định các nhân tố như sau:

F1= 0.305* Đọc tài liệu, xử lý thông tin + 0.359* Làm bài tập trên lớp, ở nhà

+ 0.342* Ứng phó với khó khăn trong học tập.

F2= 0.338* Giao tiếp với bạn học và giảng viên + 0.394* Làm chủ các

phương pháp học tập + 0.400* Xác định, nhận diện vấn đề học tập.

F3= 0.310* Điều chỉnh cảm xúc + 0.340* Phân phối thời gian học tập +

0.417* Kỹ năng nói, viết trong học tập.

Từ thao tác xử lý số liệu trên và thực hiện phân nhóm các hành vi, chúng ta

nhận thấy những biểu hiện thích ứng về mặt hành vi của SV DTTS qua bảng số liệu

4.9 như sau:

Bảng 4.9: Đánh giá về sự thành thạo các kĩ năng trong quá trình học tập

Nội dung ĐTB ĐLC MĐTƯ

1. Đọc tài liệu, xử lý thông tin 3.12 0.33 TB

2. Làm bài tập trên lớp, ở nhà 3.11 0.31 TB

vi giải Hành quyết vấn đề học tập 3. Giải quyết khó khăn trong học tập 3.08 0.28 TB

4. Giao tiếp với bạn học và giảng viên 2.85 0.71 Thấp

Hành vi giao ra quyết tiếp, 5. Làm chủ các phương pháp học tập 3.37 1.24 Khá

85

định và tư duy 6. Xác định, nhận diện vấn đề học tập 3.36 1.22 Khá tích cực.

Hành vi ứng phó 7. Điều chỉnh cảm xúc 2.33 0.75 Thấp

và tự kiềm chế. 8. Phân phối thời gian học tập 3.01 0.35 TB

9. Kĩ năng nói, viết trong học tập 3.11 0.42 TB

Trung bình chung 3.09 0.53 TB

Bảng 4.9 trả lời cho câu hỏi SV DTTS có thích ứng về mặt hành vi trong

hoạt động học tập hay không? Và đạt mức độ thích ứng nào? Kết quả cho thấy,

phần lớn sinh viên đạt mức độ thích ứng trung bình về mặt hành vi từ 3.01 đến 3.50.

Nhóm hành vi giải quyết vấn đề học tập thể hiện tính chủ động, tích cực của sinh viên trong việc khám phá tri thức, thúc đẩy sự nỗ lực khắc phục khó khăn

để hoàn thành nhiệm vụ học tập được giao. Khi sinh viên thiết lập được hành vi

đọc tài liệu, xử lý thông tin (ĐTB = 3.12; ĐLC = 0.33) sinh viên sẽ có được sự

hứng thú, hoặc yêu thích, có kĩ năng làm bài tập trên lớp, ở nhà (ĐTB = 3.11;

ĐLC = 0.31) đây là những hành vi nảy sinh từ thực tế học tập có thể do giảng viên

yêu cầu hoặc sinh viên yêu thích môn học, ngành học tạo nên. Đây là hai hành có

điểm số lớn hơn trong nhóm hành vi này, nhưng vẫn chỉ phản ánh sinh viên đạt

mức độ thích ứng trung bình. Thậm chí những khó khăn trong học tập là nguyên

nhân làm cản trở sự thích ứng với học tập ở sinh viên. Cụ thể trong hành vi giải

quyết khó khăn trong học tập điểm giá trị trung bình của sinh viên chỉ xếp loại

thích ứng thấp (ĐTB =3.08; ĐLC = 0.28). Như vậy, sinh viên có nhiều hạn chế

trong các hành vi khi giải quyết vấn đề học tập.

Theo bảng 4.9 biểu hiện nhóm hành vi giao tiếp, ra quyết đinh và tư duy

tích cực ở sinh viên thể hiện sự thành thạo các kĩ năng trong học tập trong từng

hành vi Làm chủ phương pháp học tập (ĐTB = 3.37; ĐLC = 1.24) và Xác định, nhận diện vấn đề học tập (ĐTB = 3.36; ĐLC = 1.22). Hai hành vi này đều đạt mức độ thích ứng khá so với 7 hành vi còn lại. Trong nhóm này, hành vi giao tiếp với bạn học và giảng viên có điểm giá trị (ĐTB = 2.85; ĐLC = 0.71) xếp mức độ thích ứng thấp. Như vậy, bên cạnh các hành vi, kĩ năng học tập tốt thì hành vi giao tiếp cũng là hành vi hỗ trợ rất nhiều cho sinh viên trong học tập. Cần khẳng định rằng, khi các em có nhận thức và thái độ tốt, các em sẽ luôn có hành động tương

ứng với những nhận thức và thái độ ấy. Sự hiểu biết, có tri thức nhất định về hoạt

86

động học tập sẽ giúp các em có sự trải nghiệm, xác định, nhận diện vấn đề học tập

tốt hơn trong các hoạt động học tập trên lớp, ngoại khóa hoặc chủ động đối với cách thức học tập ở nhà.

Đối với nhóm hành vi ứng phó và tự kiềm chế, khi xem xét Hành vi điều

chỉnh cảm xúc cho thấy phần lớn sinh viên có hạn chế khi điều chỉnh cảm xúc lúc gặp

phải những khó khăn trong cuộc sống cũng như học tập. Nếu các em thiếu kĩ năng này sẽ luôn có những hành vi ứng phó không phù hợp và làm ảnh hưởng đến thích

ứng học tập. Nếu SV biết ứng phó và kiềm chế tốt, các em cũng biết cách thể hiện

cách nói, cách viết sao cho rõ ràng, mạch lạc để người khác hiểu về các em nhiều hơn. Thậm chí các em chế ngự được cảm xúc, các ham muốn sẽ biết phân phối thời gian

học tập sao cho phù hợp với hoàn cảnh, tránh xa những cám dỗ đời thường ảnh

hưởng đến hành vi các gành vi giao tiếp, ra quyết định và tư duy tích cực ở các em.

Kết quả cho thấy Hành vi điều chỉnh cảm xúc đạt mức độ thích ứng Thấp (ĐTB =

2.33). Điều này cho thấy kĩ năng sống ở sinh viên có những hạn chế nhất định, các

em chưa thể tự làm chủ được những rung cảm có liên quan đến đời sống tình cảm,

những xúc cảm chi phối rất nhiều làm ảnh hưởng đến hoạt động học tập của các em.

Đây cũng là một nguyên nhân tạo ra những hạn chế về kỹ năng sống của sinh viên.

Nếu giảng viên, nhà trường thành lập được các lớp học và câu lạc bộ kỹ năng sống

cho sinh viên sẽ giúp các em nâng cao được rất nhiều sự thích ứng với hoạt động học

tập ở trường đại học.

Kết quả ở bảng 4.10 cho chúng ta một cái nhìn chung về thích ứng học tập

của SV DTTS qua khía cạnh hành vi:

Bảng 4.10: Sự thích ứng của sinh viên biểu hiện qua nhóm hành vi

Biểu hiện ĐTB ĐLC MĐTƯ

Hành vi giải quyết vấn đề học tập 3.10 0.25 TB

3.19 0.93 TB Hành vi giao tiếp, ra quyết định, tư duy tích cực

Hành vi ứng phó và tự kiềm chế 2.82 0.42 Thấp

Trung bình chung 3.09 0.53 TB

Với kết quả ở bảng 4.10 trên cho thấy nhóm Hành vi giao tiếp, ra quyết

định, tư duy tích cực và nhóm Hành vi giải quyết vấn đề học tập ở SV DTTS có điểm giá trị trung bình lần lượt là (ĐTB = 3.19; ĐLC = 0.93) và (ĐTB = 3.10;

87

ĐLC = 0.25) tuy có điểm số cao hơn so với nhóm Hành vi ứng phó và tự kiềm chế

nhưng chỉ đạt điểm ở mức độ thích ứng Trung bình. Còn nhóm Hành vi ứng phó và tự kiềm chế ở sinh viên có điểm giá trị (ĐTB = 2.82; ĐLC = 0.42) đạt mức độ

thích ứng thấp. Những số liệu trên đây cho biết SV DTTS còn rất yếu trong các kỹ

năng ứng phó và tự kiềm chế trong học tập và các vấn đề của cuộc sống. Đánh giá

chung về sự thành thạo các hành vi trong hoạt động học tập của SV DTTS đạt mức độ thích ứng trung bình.

Như vậy, từ các phân tích về các hành vi cụ thể được thể hiện trong hành

động học tập của SV DTTS cho thấy các em nắm bắt kĩ năng và vận dụng các hành vi học tập ở mức độ trung bình. Kết quả này cho thấy, nhiều hành vi học tập khác

nếu sinh viên không biết vận dụng, không chủ động và phát huy trong mọi thời

điểm thì nó sẽ làm cản trở sự thích ứng của các em trong quá trình học tập.

Những con số từ bảng 4.10 thể hiện sinh viên đáp ứng được yêu cầu với

HĐHT khi các em thâm nhập, làm quen với cách thức học tập mới trên lớp, vận

dụng phương pháp học tập tại các giờ tự học, tự nghiên cứu, xác lập những mối

quan hệ mới với giảng viên và bạn bè trong quá trình hoạt động, những kết quả của

các nhóm hành vi học tập đạt được ở mức độ hoàn thành yêu cầu nhiệm vụ.

Nhìn vào bảng số liệu 4.11 cho thấy, theo đánh giá của sinh viên thì các nội

dung từ 1 cho đến 10 (ĐTB từ 3.27 đến 3.99) hầu hết có ảnh hưởng đến sự thích

ứng về mặt hành vi học tập ở sinh viên. Điều này cho biết, điểm số càng cao thì

mức độ ảnh hưởng càng nhiều. Nó có tác động làm tăng sự thích ứng hoặc cản trở

thích ứng của sinh viên. Các hành vi gian lận trong làm bài kiểm tra, bài thi, đánh

giá không khách quan cũng khiến cho sinh viên có những nhận thức tiêu cực hoặc

thái độ không đúng với nhiệm vụ học tập và diễn ra sự tranh đấu về động cơ học tập tích cực hoặc tiêu cực.

Sự hình thành kĩ năng thực hành ở sinh viên là một quá trình tác động từ việc

hình thành nhận thức (kiến thức khoa học, sự hiểu biết) đến việc hình thành và củng

cố những kĩ năng tương ứng ở sinh viên. Sự liên hệ từ lý thuyết được giảng viên

hướng dẫn kèm theo định hình những kĩ năng giúp sinh viên xác định được mô hình

kĩ năng cần hình thành ở bản thân. Từ những lý thuyết mang tính định hướng, sinh

viên sẽ rèn luyện để vận dụng vào học tập và cuộc sống sao cho phù hợp nhất.

Kết quả cho biết một số yếu tố có liên quan, ảnh hưởng đến hành vi học tập

88

ở trên lớp và khi về nhà của sinh viên như sau:

Bảng 4.11: Một số yếu tố có liên quan đến hành vi học tập ở sinh viên

Nội dung ĐTB ĐLC

1. Hành vi gian lận trong làm bài kiểm tra, bài thi 3.27 0.44

2. Đánh giá khách quan của giảng viên 3.69 0.46

3. Hành động ý chí nỗ lực học tập 3.48 0.68

4. Mối quan hệ của sinh viên với giảng viên tốt 3.53 0.72

5. Có phương pháp tự học 3.76 0.87

6. Điều kiện học tập tốt 3.99 1.17

7. Cách thức giảng dạy 3.69 1.38

8. Năng lực học tập của sinh viên 3.61 0.79

9. Yêu cầu học tập phù hợp 3.70 0.53

10. Sự yêu thích môn học, ngành học 3.77 1.05

Như vậy, để học tập được tốt ngoài ý thức học tập tốt, sinh viên cần phải có

những hành động tương ứng, có sự thống nhất trong các hoạt động học tập. Các em tích cực chủ động học tập sẽ đem lại cho mình kết quả cao hơn, bên cạnh đó xác lập được mối quan hệ với giảng viên sẽ giúp cho em bổ sung được thông tin đầy đủ và chính xác hơn sau giờ lên lớp mà chưa nắm vững được kiến thức.

Trong khả năng vận dụng những kĩ năng sau học bài ở trên lớp có hai đánh giá đáng chú ý, đó là: Biết hợp tác với bạn bè trong các hoạt động học tập lần lượt

xếp ở các mức độ thích ứng trung bình (78.6%) và Khá (21.4%). Hành vi học tập và

vận dụng kĩ năng của sinh viên phản ánh tâm lý sẵn sàng học tập, tích cực hay

không tích cực học tập ở sinh viên. Sự chủ động càng cao thì sự thích ứng học tập

càng rõ ràng và có thể thích ứng cao hơn. Tuy nhiên, các hành vi học tập không chỉ

bộc lộ qua việc học tập trên lớp mà nó còn bộc lộ sự tham gia của sinh viên trong

các hoạt động chung.

Khái quát mối quan hệ giữa các mặt thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số chỉ ra rằng ba khía cạnh nhận thức, thái độ và hành vi, kĩ năng vận dụng có sự liên quan mật thiết với nhau. Nếu sinh viên nhận thức tốt được các vấn đề có liên quan đến học tập sẽ có được thái độ học tập đúng đắn, tích cực. Tuy nhiên, nếu như trong

89

nhà trường chỉ chú trọng đến dạy học và giáo dục hình thành nhận thức (tri thức, sự hiểu biết), thái độ (sự đánh giá, quan điểm, xúc cảm,..) thì sẽ không thể tạo ra sự thay đổi tâm lý sinh viên theo chiều hướng phát triển về chất lượng (mặt nội dung

tâm lý) và không có sự phát triển về số lượng (mặt hình thức : số lượng các hành vi, kĩ năng, kĩ xảo tương ứng). Do đó, cần phải đưa sinh viên vào các hoạt động mang

tính tập thể như sinh hoạt nhóm, câu lạc bộ để các em có cơ hội rèn luyện và trải nghiệm thực tế. Vì đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sự thích ứng của SV DTTS.

4.1.3. Mối quan hệ tương quan giữa các mặt biểu hiện sự thích ứng học tập Từ kết quả ở bảng 4.1 qua phân tích kết quả cho thấy, sự tương quan giữa

giữa 3 khía cạnh nhận thức, thái độ, hành vi. Vậy mối quan hệ giữa ba mặt của sự

thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số diễn ra như thế nào ? Sơ đồ bên dưới sẽ cho

chúng ta một cái nhìn khái quát về điều đó:

Ghi chú: ** Mức ý nghĩa p<0.01 Sơ đồ1: Mối tương quan giữa các mặt của thích ứng Xét về mối quan hệ giữa ba mặt của thích ứng là Nhận thức, Thái độ và Hành vi phải có mối tương quan thuận với nhau. Tức là, sự thích ứng về mặt nhận thức càng cao thì sự thích ứng về mặt thái độ và hành vi càng cao. Nhưng kết quả nghiên cứu cho thấy, mối quan hệ giữa yếu tố nhận thức và hành vi có mức độ tương quan mạnh nhất (r = 0.48), tiếp đó là mối quan hệ giữa hành vi với thái độ (r = 0.31) và mức độ tương quan yếu hơn cả mối quan hệ giữa nhận thức và thái độ (r

90

= 0.14). Nhưng khi đánh giá mối quan hệ tương quan giữa ba mặt của thích ứng với sự thích ứng học tập nói chung thì kết quả lại có xu hướng ngược lại, sự thích ứng

về mặt nhận thức với sự thích ứng học tập nói chung có tương quan yếu hơn (r = 0.72) so với hai mặt còn lại (r = 0.78).

Sự tác động giữa các mặt biểu hiện đến sự thích ứng học tập Để làm rõ ảnh hưởng của các mặt này đến sự thích ứng, chúng tôi sử dụng

phép hồi quy, kết quả như sau: Sự thích ứng về mặt nhận thức giải thích được 5.1% sự biến thiên của sự thích ứng học tập nói chung, mức độ giải thích này

Ghi chú: ** Mức ý nghĩa p<0.01

cũng ngang bằng vai trò của sự thích ứng về mặt thái độ (R = 0.50). Tuy nhiên, sự thích ứng về mặt hành vi có thể giải thích tới (R = 0.61) sự biến thiên của sự thích ứng học tập nói chung.

Sơ đồ 2: Tác động của nhận thức, thái độ, hành vi đến thích ứng học tập Từ các kết quả trên, chúng ta có thể khẳng định rằng, trong ba mặt biểu hiện

của sự thích ứng học tập điểm giá trị trung bình của hai khía nhận thức, thái độ có cao hơn nhưng xét về mặt thực tiễn khía cạnh hành vi có ảnh hưởng lớn hơn cả. Nó có tính chất quyết định đối với sự thích ứng với hoạt động của SV DTTS. Bởi vì, sự

thành thục của hành vi, vận dụng các kĩ năng kĩ xảo (mặt hình thức) có thể nhìn

91

thấy và quan sát, đánh giá được sự thích ứng hay không thích ứng cho nên nó có

ảnh hưởng mạnh mẽ đến các mặt nhận thức và thái độ (mặt nội dung) của sinh viên dân tộc thiểu số.

4.2. Các khía cạnh thích ứng học tập của sinh viên dân tộc thiểu số 4.2.1. Thích ứng của sinh viên xét theo năm học Thời gian học tập tại trường đại học của sinh viên dân tộc thiểu số tăng lên theo từng năm có làm mức độ thích ứng học tập của các em tăng hay không? Để có

thể trả lời cho câu hỏi này, chúng tôi tiến tìm hiểu mức độ thích ứng của sinh viên

theo từng năm học, từ năm I đến năm III qua ba biểu hiện thích ứng về mặt nhận thức, thái độ và hành vi.

4.2.1.1.Mức độ thích ứng học tập thể hiện nhận thức hiểu biết của sinh viên Để có cách nhìn ở nhiều khía cạnh khác nhau, chúng tôi tìm hiểu thích ứng

của sinh viên xét theo năm học và xem xét nó trên cơ sở mặt nhận thức của sinh

viên từ năm I đến năm III.

Bảng 4.12: Thích ứng của SV DTTS biểu hiện qua mặt nhận thức

NỘI DUNG Năm I Năm II Năm III Tổng

MĐTƯ ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC

1. Kiến thức trên lớp 2.21 0.64 2.89 0.66 3.73 0.80 2.95 0.94 TB

2. Phương pháp tự 2.60 0.67 3.02 0.55 3.68 0.80 3.10 0.81 học trên lớp TB

3. Tự học ở nhà 2.70 0.45 2.70 0.46 3.85 0.87 3.09 0.83 TB

4. Phương pháp dạy Khá 3.22 0.65 3.21 0.66 3.57 0.65 3.33 0.67 học của giảng viên

5. Tiếp thu, liên hệ TB

nội dung bài giảng 2.96 0.53 2.96 0.54 3.31 0.72 3.08 0.63

với thực tế

Khá

3.08 0.71 3.03 0.71 3.74 0.82 3.28 0.81

6. Khả năng hợp tác với giảng viên, bạn cùng lớp

TB

3.03 0.69 3.02 0.68 3.24 0.81 3.10 0.74

7. Ý thức nâng cao điểm số của từng môn học

92

8. Phát biểu ý kiến TB 3.02 0.52 3.00 0.53 3.10 0.57 3.04 0.54 trong học tập

Khá 3.14 0.38 3.13 0.37 3.16 0.39 3.14 0.38 9. Tham gia vào hoạt động học tập

Khá 10. Tập trung nghe

giảng, phát biểu ý 3.15 0.59 3.17 0.57 3.23 0.58 3.19 0.58

kiến

Trung bình chung 2.92 0.58 3.01 0.57 3.46 0.70 3.13 0.37 TB

Kết quả được tổng hợp ở bảng 4.12 cho thấy, với sinh viên năm I có mức độ thích ứng thấp về nhận thức qua nội dung nắm vững kiến thức trên lớp (ĐTB =

2.21) và phương pháp tự học trên lớp (ĐTB = 2.60). Tuy nhiên phần lớn các nội

dung khác, sinh viên năm I đều đạt điểm giá trị từ mức độ thích ứng trung bình trở

lên về mặt nhận thức. Cụ thể là nhận thức được việc tự học ở nhà (ĐTB = 2.70),

tiếp thu, liên hệ nội dung bài giảng với thực tế (ĐTB=2.96), ý thức nâng cao điểm

số của từng môn học (ĐTB = 3.03),…và yếu tố phương pháp dạy học của giảng

viên (ĐTB = 3.22) đạt mức độ thích ứng khá. Phần lớn các em sinh viên dân tộc

thiểu số năm I xếp mức độ thích ứng Trung bình về nhận thức (ĐTB = 2.92; ĐLC =

0.58).

Với sinh viên năm II có mức độ thích ứng khác hơn, không có em nào có

nhận thức thấp về các vấn đề hoạt động học tập. Phần lớn đạt mức độ thích ứng trung bình như nhận thức về phương pháp giảng dạy của giảng viên, tham gia các

hoạt động học tập và nhận thức về tập trung nghe giảng, phát biểu ý kiến đạt điểm

giá trị ở mức độ thích ứng khá.

So sánh số liệu trên cho thấy, sinh viên năm II có điểm cao hơn sinh viên

năm I nhưng vẫn đạt mức độ thích ứng trung bình về mặt nhận thức (ĐTB = 3.01;

ĐLC = 0.57).

Với sinh viên năm III, khi đối chiếu mức độ thích ứng của sinh viên ở năm

học cao hơn, chúng ta thấy có sự khác biệt mức độ thích ứng về mặt nhận thức của SV DTTS (tổng ĐTB = 3.46; ĐLC=0.70). Trong đó phần lớn sinh viên đạt mức độ khá thích ứng về mặt nhận thức. Nội dung tự học ở nhà Sinh viên năm III đạt điểm giá trị mức độ thích ứng Tốt (ĐTB = 3.85; ĐLC = 0.87) . Điều này cho thấy nhận

thức của các em đã được nâng cao hơn, kiến thức học tập được cũng như kinh

93

nghiệm đã giúp các em rất nhiều trong việc thích ứng trong việc học tập và giải

quyết các bài tập, các kĩ năng vận dụng theo yêu cầu mà giảng viên đưa ra. Việc học ở nhà trường với thời gian nhiều hơn đã có những ảnh hưởng nhất định đến

mức độ thích ứng ở các em.

Như vậy theo thời gian học tập sinh viên đã quen dần với môi trường và hoạt

động học tập nên số sinh viên thích ứng với hoạt động học tập ngày càng được tăng lên về mặt nhận thức đối với các vấn đề học tập ở trường đại học. Khi đối chiếu về

điểm đạt được trong các nội dung cho thấy sinh viên năm I có 6/10 nội dung đạt

trên 3 điểm. Sinh viên năm II có 7/10 nội dung đạt trên 3 điểm. Điều này thấy rõ ràng hơn khi xem xét đến điểm số thích ứng của sinh viên năm III đã có sự thay đổi

rõ ràng, mức độ thích ứng thấp là không. Sinh viên năm III có 8/10 nội dung đạt

điểm mức độ thích ứng khá, điển hình là khả năng hợp tác với giảng viên và bạn

cùng lớp (ĐTB = 3.74) và lần lượt các yếu tố nắm vững kiến thức trên lớp (ĐTB =

3.73), nắm bắt phương pháp tự học trên lớp (ĐTB = 3.68), nhận thức về phương

pháp dạy học của giảng viên (ĐTB = 3.57). Như vậy, sinh viên năm III đạt mức độ

thích ứng khá về mặt nhận thức.

Biểu đồ 3: Các mức độ thích ứng thể hiện qua nhận thức của sinh viên

Từ những phân tích trên, thích ứng học tập của sinh viên thể hiện qua mặt

nhận thức của 3 năm học đạt mức độ Trung bình. Sinh viên học thời gian dài hơn sẽ

có sự thích ứng về nhận thức cao hơn so với sinh viên mới nhập học. Nhìn vào biểu

đồ chúng ta thấy sinh viên học ở những năm sau có sự thích ứng nhận thức cao hơn

94

so với những sinh viên mới nhập học.

4.2.1.2. Đánh giá mức độ thích ứng qua mặt thái độ

Thái độ của sinh viên đối với hoạt động học tập là những phản ứng tích cực

hoặc tiêu cực, biểu lộ sự hài lòng hay không hài lòng, đánh giá thấp, cao, kém, tốt,

thờ ơ, không quan tâm hay đồng tình với những hoạt động học tập mà các em tham

gia vào.

Để trả lời cho câu hỏi SV DTTS các năm học có sự khác nhau về thái độ cá

nhân đối việc học trên lớp, ở nhà hay không? Nhìn vào bảng dưới đây, chúng ta sẽ

thấy một số những biến đổi về thái độ của sinh viên các năm học đối với hoạt động

học tập. Thái độ của sinh viên bộc lộ ở ngay bản thân cá nhân khi các em đánh giá

các biểu hiện của việc nghe giảng bài, ghi chép, học tập trên lớp và duy trì thái độ

ổn định khi học tập ở nhà….

Bảng 4.13: Thích ứng của SV DTTS qua mặt thái độ (xét theo năm học)

Thái độ học tập Năm I Năm II Năm III Tổng

trên lớp, ở nhà MĐTƯ ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC

1. Giảng bài trên lớp 3.24 0.43 3.22 0.41 3.25 0.44 3.24 0.43 TB

2. Chép bài trên lớp 3.88 0.32 3.89 0.31 3.85 0.35 3.87 0.32 Tốt

3. Bổ sung kiến thức, 3.33 0.55 3.31 0.53 3.39 0.61 3.34 0.56 Khá thông tin

4. Thực hiện những 4.08 0.63 4.06 0.65 4.09 0.63 4.08 0.64 Tốt yêu cầu về tự học

5. Sự tập trung chú ý 3.29 0.45 3.27 0.44 3.43 0.50 3.33 0.47 Khá trong thời gian học

2.61 0.90 2.57 0.89 3.16 1.07 2.78 0.99 TB 6. Nghiên cứu khoa học

Trung bình chung 3.40 0.54 3.38 0.53 3.52 0.60 3.44 0.55 Khá

Nhìn bảng 4.13 cho biết với sinh viên năm I, có một nội dung xếp mức độ

thích ứng thấp, đó là Nghiên cứu khoa học (ĐTB = 2.61; ĐLC = 0.90). Phần lớn đạt

95

mức độ thích ứng từ trung bình trở lên. Trong số đó có hai nội dung đạt mức độ

thích ứng tốt, đó là các nội dung chép bài trên lớp (ĐTB = 3.88; ĐLC = 0.32), thực

hiện những yêu cầu về tự học (ĐTB = 4.08). Xét tổng thể sinh viên năm I đạt mức

độ thích ứng Khá về mặt thái độ học tập cá nhân trên lớp và ở nhà (ĐTB = 3.40;

ĐLC = 0.54).

Với sinh viên năm II: Số liệu cho thấy các nội dung đạt mức độ thích ứng có

sự khác hơn một chút so với sinh viên năm I. Tuy nhiên vẫn có nội dung xếp ở mức

độ thích ứng thấp về thái độ, đó là nội dung nghiên cứu khoa học (ĐTB = 2.57).

Điều này nói lên rằng, sinh viên năm I và II vẫn chưa được làm quen với hoạt động

nghiên cứu khoa học, cho nên thái độ chưa thực sự bộc lộ sự say mê hứng thú

nghiên cứu khoa học. Nếu được làm quen, hướng dẫn chắc chắn sẽ có sự thích ứng

khá hơn. Có hai nội dung đạt mức độ tốt, ghi chép bài (ĐTB = 3.89) và Thực hiện

những yêu cầu về tự học (ĐTB = 4.06). Xét tổng thể sinh viên năm II đạt mức độ

thích ứng khá về mặt thái độ học tập cá nhân trên lớp và ở nhà (ĐTB = 3.38; ĐLC =

0.53). Nhìn vào số liệu trên cho thấy, thái độ ghi chép của sinh viên tốt phản ánh sự

thích ứng tốt về thái độ khi thực hiện những yêu cầu về tự học. Tuy nhiên, khi xem

xét tổng thể, thái độ học tập cá nhân trên lớp và ở nhà của sinh viên năm I và II là

tương đồng nhau.

Với sinh viên năm III đã có sự thay đổi rõ ràng. Điển hình là ghi chép bài

(ĐTB = 3.85) có giảm hơn so với sinh viên năm I và II nhưng điều này cho thấy

năm học lâu hơn cho các em sinh viên năm III kinh nghiệm dành thời gian ghi chép

bài trên lớp ít đi, các em sẽ tập trung vào các nội dung khác như Sự tập trung chú ý

trong giờ học (ĐTB = 3.43), thực hiện những yêu cầu về tự học (ĐTB = 4.09),

nghiên cứu khoa học (ĐTB = 3.16), bổ sung kiến thức thông tin (ĐTB = 3.39). Như

vậy, phần lớn điểm số biểu hiện thích ứng cho biết SV năm III đạt mức độ thích

ứng Khá về thái độ đối học tập cá nhân trên lớp và ở nhà.

Từ khía cạnh thái độ học tập của cá nhân trên lớp và ở nhà, chúng ta xem xét

thái độ tương tác của sinh viên với bạn học và giảng viên trên lớp để thấy được sự

96

thống nhất về thái độ học tập của sinh viên.

Bảng 4.14: Biểu hiện thái độ tương tác của SV trong hoạt động học tập

Thái độ tương Năm I Năm II Năm III Tổng

MĐTƯ ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC

tác với bạn học, giảng viên trên

lớp

1. Tôn trọng giảng 3.04 0.20 3.03 0.18 3.12 0.41 3.06 0.29 TB viên trong giờ học

2. Phát biểu ý 3.24 0.43 3.22 0.41 3.41 0.51 3.29 0.46 Khá kiến trước lớp

3. Lắng nghe ý 2.57 0.86 2.52 0.83 3.16 1.05 2.75 0.96 TB kiến của bạn học

4. Hợp tác với bạn 3.20 0.49 3.17 0.49 3.38 0.55 3.25 0.52 Khá học trong lớp

Trung bình 3.01 0.49 2.91 0.47 3.26 0.63 3.09 0.48 TB chung

Theo bảng 4.14 cho thấy, đối với thái độ tương tác với bạn học, giảng viên

trên lớp sinh viên các năm học đều có mức độ thích ứng trung bình (ĐTB = 3.09;

ĐLC = 0.48). Xem xét ở khía cạnh thích ứng thì SV DTTS còn hạn chế trong thái

độ tương tác với người khác. Nếu thái độ này không được tác động, giáo dục sẽ ảnh

hưởng rất lớn đến các hành vi tương tác khác trong học tập ở trên lớp khi sinh viên

tham gia vào các hoạt động học nhóm, làm việc nhóm, khi đi thực tập hoặc nghiên

cứu khoa học. Tuy nhiên, xét theo mỗi năm học riêng biệt cho thấy, các biểu hiện

thái độ của sinh viên năm III có sự thích ứng cao hơn so với sinh viên năm I và II.

Trong đó, sinh viên năm II có điểm giá trị trung bình thấp hơn so với sinh viên năm

I. Điều này có thể thấy rằng, đối với sinh viên năm I, do các em mới gia nhập vào

môi trường học tập mới có nhiều điều mới lạ hấp dẫn các em tìm hiểu, sự trách

nhiệm, ước mnơ học tập tại trường đại học, tiếp xúc với bạn học mới, thầy cô giáo

mới nên luôn có thái độ tốt, tôn trọng giảng viên và bạn học, các em có tinh thần

97

hợp tác rõ ràng hơn so với sinh viên năm II.

Nhìn một cách khái quát mức độ thích ứng của SV DTTS qua mặt thái độ ở

bảng dưới sẽ giúp chúng ta đánh giá đầy đủ hơn về thái độ học tập của sinh viên

bộc lộ ra theo mỗi năm học.

Bảng 4.15: Thích ứng của SV DTTS biểu hiện qua mặt thái độ (xét theo năm học)

Năm I Năm II Năm III Tổng

MĐTƯ ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC

Biểu hiện

1. Thái độ học tập trên lớp và 3.40 0.54 3.38 0.53 3.52 0.60 3.44 0.40 Khá

ở nhà

2. Thái độ

tương tác với

bạn học và 3.01 0.49 2.91 0.47 3.26 0.63 3.09 0.48 TB

giảng viên trên

lớp

trung Điểm 3.25 0.43 3.23 0.42 3.43 0.41 3.30 0.44 Khá bình

Nhìn vào bảng 4.15 chúng ta thấy biểu hiện thái độ học tập trên lớp và ở nhà

của SV DTTS có điểm giá trị cao hơn so với biểu hiện thái độ tương tác với bạn học

và giảng viên lần lượt là (ĐTB = 3.44; ĐTB = 0.40) và (ĐTB = 3.09; ĐTB = 0.48).

Phần lớn SV DTTS có sự thích ứng khá về mặt thái độ trong hoạt động học tập.

Giữa sinh viên năm I, II có những tương đồng nhất định. Ở sinh viên năm II vẫn

còn nội dung đạt điểm giá trị ở mức độ thích ứng Thấp là thái độ tương tác với bạn

học và giảng viên. Điều này thể hiện các em còn có những hạn chế nhất định về chủ

quan như chưa tự tin, chưa chủ động về mặt thái độ khi khắc phục khó khăn trong

hoạt động học tập. Tâm lý này cũng cho thấy, sinh viên năm II, sau một năm học đã

nhận biết, đánh giá được một số những đặc điểm của hoạt động học tập, cách thức

tổ chức lớp học, sự phân bố thời gian dành cho học tập trên lớp và ở nhà khiến cho

98

các em có tâm lý chủ quan, tự tin hoặc buông bỏ, không hào hứng so với năm I.

4.2.1.3. Mức độ thích ứng học tập thể hiện qua mặt hành vi

Hành vi là sự biểu hiện mặt hình thức của cấu trúc tâm lý con người có

những biến đổi nhằm đảm bảo sự thích ứng với môi trường. Hành vi, kĩ năng vận

dụng có vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến sự thích ứng của con người.

Khi nghiên cứu thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập,

không thể bỏ qua những biểu hiện hành vi thích ứng đó.

Bảng 4.16: Thích ứng của SV DTTS biểu hiện qua mặt hành vi

Nhóm hành vi Năm I Năm II Năm III Tổng

MĐTƯ ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC

giải quyết vấn đề học tập

1. Đọc tài liệu, xử 3.10 0.30 3.10 0.30 3.17 0.38 3.12 0.33 lý thông tin Khá

2. Làm bài tập 3.11 0.31 3.10 0.30 3.12 0.33 3.11 0.31 Khá trên lớp, ở nhà

3. Giải quyết khó

khăn trong học 3.08 0.28 3.07 0.26 3.10 0.30 3.08 0.28 TB

tập

Trung bình 3.10 0.26 3.09 0.25 3.13 0.24 3.10 0.25 Khá chung

Nhìn vào bảng 4.16 chúng ta thấy, hầu hết sinh viên các năm đều có sự

tương đồng với nhau về điểm số giá trị đạt được khi xem xét sự thích ứng học tập

qua mặt hành vi giải quyết các vấn đề học tập. Có duy nhất biểu hiện giải quyết khó

khăn trong học tập, sinh viên năm II có điểm giá trị cao hơn so với sinh viên năm I

lần lượt là (ĐTB = 3.10> ĐTB = 3.08) và đây là hành vi có điểm giá trị đạt mức

độ thích ứng trung bình. Như vậy, sinh viên năm III thời gian học tập nhiều hơn sẽ

có lợi thế khi giải quyết được các khó khăn trong học tập so với các sinh viên năm

I, II. Những biểu hiện trên không thể đánh giá hết sự thích ứng của sinh viên qua

99

hành vi mà cần phải xem xét ở các nhóm hành vi khác nhau. Mỗi nhóm hành vi đều

phản ánh một cách tổng quát những biểu hiện của sinh viên trong quá trình tham gia

vào các hoạt động học tập ở trên lớp, ở nhà cũng như các hoạt động ngoại khóa.

Việc sinh viên chủ động, tích cực hay tự giác, sẵn sàng tham gia vào các hoạt

động học tập hay tự điều chỉnh những hành vi ứng xử, giao tiếp với giảng viên, với

bạn học cũng cho biết mức độ thích ứng của sinh viên như thế nào trong mỗi năm

học.

Bảng 4.17: Biểu hiện của nhóm hành vi giao tiếp, ra quyết định

và tư duy tích cực

Năm I Năm II Năm III Tổng

Nhóm hành vi giao tiếp ra MĐTƯ ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC

quyết định và tư

duy tích cực

1. Giao tiếp với TB bạn học và giảng 2.18 0.72 3.13 0.34 3.25 0.43 2.85 0.71

viên

2. Làm chủ các

phương pháp học 1.90 0.67 3.83 0.66 4.37 0.59 3.37 1.24 Khá

tập

3. Xác định, nhận

diện vấn đề học 1.90 0.70 3.76 0.58 4.41 0.52 3.36 1.22 Khá

tập

Trung bình 1.99 0.38 3.57 0.31 4.01 0.31 3.19 0.93 Khá chung

Ở đây, chúng tôi xem xét nhóm hành vi giao tiếp, ra quyết định và tư duy tích cực để đo mức độ thích ứng ở sinh viên trong từng năm học. Đối với hành vi giao tiếp với bạn học và giảng viên, sinh viên năm I có điểm giá trị mức độ thích ứng thấp hơn cả (ĐTB = 2.18), tương tự với hành vi làm chủ các phương pháp học tập và hành vi xác định, nhận diện các vấn đề học tập đạt điểm thích ứng thấp hơn cả, đều có điểm giá trị là 1.90. Trong khi đó, cũng với những hành vi này, sinh viên

100

năm II và III đều đạt điểm thích ứng từ khá trở lên. Thực tế trên cho thấy, sự trải

nghiệm càng nhiều trong môi trường học tập sẽ giúp sinh viên, tự tin, làm chủ được các hành vi của bản thân khi tham gia vào các hoạt động học tập ở sinh viên.

Sự trải nghiệm theo thời gian học tập ở trên ghế nhà trường đại học giúp cho

sinh viên rất nhiều khi hòa nhập vào các hoạt động. Tuy nhiên, ở độ tuổi thanh niên-

sinh viên các em vẫn có những hạn chế nhất định sự điều tiết, điều chỉnh các hành vi. Điều này thể hiện qua bảng 4.18:

Bảng 4.18: Biểu hiện của nhóm hành vi ứng phó và tự kiềm chế

Nhóm hành vi Năm I Năm II Năm III Tổng

ứng phó và tự MĐTƯ ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC

kiềm chế

1. Điều chỉnh cảm 2.20 0.55 2.16 0.50 2.64 1.00 2.33 0.75 Thấp xúc

2. Phân phối thời 3.01 0.35 3.00 0.33 3.02 0.38 3.01 0.35 TB gian học tập

3. Kĩ năng nói, 3.11 0.43 3.09 0.38 3.12 0.44 3.11 0.42 Khá viết trong học tập

bình Trung 2.77 0.39 2.75 0.35 2.93 0.47 2.82 0.42 TB chung

Đối với nhóm hành vi ứng phó và tự kiềm chế, tất cả sinh viên của các năm

học đều gặp khó khăn khi điều chỉnh cảm xúc của bản thân. Điểm số giá trị trung

bình mà sinh viên của cả 3 năm đạt được đều ở mức độ thấp, lần lượt là (ĐTB =

2.20; 2.16 và 2.64). Việc tự kiềm chế, điều chỉnh cảm xúc khi gặp những khó khăn

không phải bất cứ ai cũng có thể giải quyết một cách ổn thỏa. Vấn đề này thể hiện

những kỹ năng sống mà sinh viên đã có hoặc thiếu hụt dẫn đến các em không có

kinh nghiệm trong giải quyết các khó khăn gặp phải. Như vậy, trong việc tổ chức

các hoạt động học tập cho sinh viên DTTS cần phải lưu ý đến việc hỗ trợ tâm lý

hoặc bồi dưỡng thường những kỹ năng sống tích cực cho mỗi sinh viên trong

trường đại học.

Từ sự phân tích trên những biểu hiện cụ thể qua mặt hành vi, chúng ta có cái

101

nhìn tổng thể về các nhóm hành vi học tập của sinh viên trong từng năm học và xem

xét sự thích ứng về hành vi học tập của SV DTTS. Trong những nhóm hành vi này,

tuy rằng chưa thực sự nói lên toàn bộ các hành vi thích ứng học tập của sinh viên

trong đó nhưng cũng cho chúng ta thấy được, mỗi nhóm hành vi cũng bộc lộ những

điểm mạnh, điểm yếu ở sinh viên. Những nhóm hành vi này có mối quan hệ tương

đồng với các nhóm hành vi kỹ năng mềm cũng như kỹ năng sống cần thiết phải

hình thành ở sinh viên. Kết quả được thể hiện như sau:

Bảng 4.19: Sự thích ứng của SV DTTS biểu hiện qua nhóm hành vi

Năm I Năm II Năm III Tổng

Nhóm hành vi MĐTƯ ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC

Nhóm hành vi

giải quyết vấn 3.10 0.26 3.09 0.25 3.13 0.24 3.10 0.25 Khá

đề học tập

Nhóm hành vi

giao tiếp ra 1.99 0.38 3.57 0.31 4.01 0.31 3.19 0.93 Khá quyết định và

tư duy tích cực

Nhóm hành vi

ứng phó và tự 2.77 0.39 2.75 0.35 2.93 0.47 2.82 0.42 TB

kiềm chế

Trung bình 2.62 0.21 3.14 0.18 3.36 0.21 3.04 0.37 TB chung

Kết quả nghiên cứu thu được cho thấy, với sinh viên năm I có nhóm hành vi

giao tiếp ra quyết định và tư duy tích cực có mức độ thích ứng Thấp (ĐTB = 1.99;

ĐLC = 0.38). Điểm trung bình từ 1.90 đến 2.20. Các yếu tố này liên quan đến hành vi làm chủ các phương pháp học tập (ĐTB = 1.90)…. giao tiếp với bạn học và

giảng viên (ĐTB = 2.18), hành vi điều chỉnh cảm xúc (ĐTB = 2.20).

Điều này cho thấy ở sinh viên năm I các em có hạn chế, gặp khó khăn với các vấn đề có liên quan đến giao tiếp, điều chỉnh cảm xúc của bản thân và gặp khó

khăn khi mới làm quen với môi trường học tập mới ở đại học, đang trong quá trình

thích nghi với các phương pháp giảng dạy của giảng viên. Quan sát thực tế cho

102

thấy, sinh viên năm I luôn lúng túng trong việc đọc sách, chọn lọc thông tin, nắm

bắt và vận dụng các phương pháp học tập. Nhiều em chưa mạnh dạn phát biểu ý kiến, chưa thực sự tham gia vào các hoạt động học tập chung trên lớp. Có em còn

có mặc cảm về trang phục, hạn chế ngôn ngữ nên còn e ngại khi chia sẻ, trò chuyện

trước tập thể lớp. Khi giảng viên thực hiện các hoạt động học nhóm, về cơ bản sinh

viên năm I cũng hiểu được kiến thức và các lý thuyết liên quan. Nhưng khi tham gia vào hoạt động nhóm, nhiều em sợ không dám đảm nhiệm vai trò trưởng nhóm hoặc

là người đại diện nhóm trình bày ý kiến tập thể trước giảng viên và các bạn nhóm

khác. Điều này cho thấy, sự va chạm, mạnh dạn trong giao tiếp với giảng viên, với bạn học cũng có ảnh hưởng rất lớn đến sự thích ứng nhanh hay chậm ở SV DTTS

năm thứ I. Nếu các giảng viên chú ý đến dấu hiệu này ở sinh viên và tạo ra nhiều

tình huống hoạt động sẽ giúp các em dần làm quen và nhanh chóng hòa nhập với

phương pháp học tập hơn.

Xem xét các kĩ năng như Đọc tài liệu, thông tin khoa học mới (ĐTB = 3.1),

Lập kế hoạch học tập (ĐTB = 3.50), Làm bài tập trên lớp, ở nhà (ĐTB = 3.11); Kĩ

năng nói, viết trong học tập (ĐTB = 3.11) đều đạt mức độ thích ứng Khá về mặt

thay đổi hành vi trong học tập.

Phỏng vấn sâu một SV DTTS cho biết: Bên cạnh những kĩ năng mà em tiếp

thu, học tập được trong các môn học thì em chưa được tham gia những khóa học về

kĩ năng sống, cơ hội thực hành, thực tế còn hạn chế cho nó ảnh hưởng rất nhiều đến

sự tham gia của em trong các hoạt động học tập. Có sinh viên tâm sự: “Khi mới vào

trường học em thực sự bỡ ngỡ và cảm thấy xa lạ với các bạn đến từ các địa phương

khác, em không biết bắt đầu học từ đâu, nhất là không biết cách ghi chép nội dung

bài học giảng viên dạy, sợ hãi và lo lắng mỗi khi giảng viên mời lên phát biểu ý

kiến”. (Sinh viên N.V. S lớp ĐH Tiểu học A)

Với sinh viên năm II có 1/10 nội dung đạt mức độ thấp, điều chỉnh cảm xúc

khi tự học ở nhà (ĐTB = 2.16). Có 9/10 nội dung đạt điểm trung bình từ 3.0 đến 3.83. Trong đó có 6/10 nội dung đạt mức độ thích ứng khá trở lên về mặt hành vi. Điển hình có hai kĩ năng đạt mức độ thích ứng tốt như kĩ năng Xác đinh, nhận diện vấn đề học tập (ĐTB = 3.76), và Làm chủ các phương pháp học tập (ĐTB= 3.83). Như vậy, có một nội dung có lặp lại từ sinh viên năm thứ nhất với năm thứ II đó là có mức độ thích ứng thấp đối với hành vi điều chỉnh cảm xúc. Đây là một vấn đề có

nhiều nguyên nhân từ chủ quan đến khách quan ảnh hưởng đến cảm xúc khi học tập

ở nhà. Bởi vì khi học ở nhà có nhiều yếu tố chi phối ảnh hưởng đến hoạt động học

103

tập của các em như: sự kích thích lôi cuốn của các phương tiện giải trí, có nhiều

thời gian, sự mất cân bằng giữa nhu cầu vui chơi, giải trí và nhu cầu học tập, các yếu tố quản lý giờ giấc sinh hoạt, ảnh hưởng của các tác nhân bên ngoài gây ảnh

hưởng đến thời gian tự học như ồn ào, tiếp khách ngoài dự kiến…

Với sinh viên năm III, kết quả cho thấy phần lớn điểm giá trị đạt mức độ

thích ứng từ Trung bình đến Tốt (2.64 đến 4.41), tập trung nhiều vào điểm số đạt

mức độ khá. Bảng số liệu cho thấy có 2 nội dung đạt mức độ thích ứng tốt về mặt

hành vi, lần lượt là Làm chủ các phương pháp học tập (ĐTB = 4.37), Kĩ năng Xác

định, nhận diện vấn đề học tập (ĐTB = 4.41). Điều này phản ánh rằng sinh viên sẽ

nâng dần mức độ thích ứng theo thời gian hòa nhập, làm quen với môi trường. Sự

trải nghiệm, các kĩ năng ứng phó sẽ giúp các em có sự thay đổi từ nhận thức, thái độ

và hành vi. Sự rèn luyện, ý chí khắc phục khó khăn sẽ tạo ra sự thành thạo về các

hành vi thường xuyên được sử dụng trong quá trình học tập. Tuy nhiên, sinh viên

năm III có mức độ thích ứng trung bình về hành vi có liên quan đến điều chỉnh cảm

xúc (ĐTB = 2.64). Kĩ năng này có thể là yếu điểm của bất cứ sinh viên nào.

Qua phân tích dữ liệu trên, kết quả thu được cho thấy với kĩ năng điều chỉnh

cảm xúc, sinh viên năm I đến năm II có mức độ thích ứng Thấp nhưng đối với sinh

viên năm III lại đạt mức độ thích ứng Trung bình. Xét điểm trung bình chung cả 3

năm (ĐTB = 2.33; ĐLC = 0.75) sinh viên dân tộc thiểu số đạt mức độ thích ứng

Thấp. Đây là một vấn đề có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến cảm xúc khi học tập.

Vì kĩ năng điều chỉnh cảm xúc của bản thân là một phạm trù có liên quan đến kĩ năng

sống của mỗi cá nhân. Sinh viên không nằm ngoài những yếu điểm đó, nhất là sinh

viên năm I đến năm III là những người có độ tuổi từ 18-21 đang trong quá trình có

nhiều những rung cảm và tình cảm phong phú có liên quan đến đời sống tình cảm.

Những rung cảm này sẽ tạo ra những xáo trộn tâm lý của các em, ảnh hưởng đến quá

trình học tập trong suốt thời gian học ở trên lớp cũng như ở nhà.

Tóm lại, với số liệu trong bảng 4.9 và sự phân tích ở trên trả lời cho câu hỏi

sinh viên dân tộc thiểu số có mức độ thích ứng về hành vi học tập như thế nào? Kết

quả của cả 3 năm học cho thấy phần lớn SV DTTS đạt mức độ thích ứng Trung

104

bình. Do đó, nhà trường đại học cần chú ý đến yếu tố này trong việc bổ sung xây

dựng các chương trình đào tạo, mở khóa học, các hoạt động ngoại khóa giúp sinh

viên nâng cao được kĩ năng sống, và các kĩ năng có liên quan đến việc cảm xúc cá

nhân.

Từ kết quả phân tích chi tiết biểu hiện thích ứng của SV DTTS qua ba mặt

nhận thức, thái độ, hành vi có thể tổng hợp lại qua biểu đồ dưới đây:

Biểu đồ 4: Thích ứng học tập của sinh viên xét theo năm học Nhìn vào biểu đồ 4 ta thấy thích ứng của SV DTTS với hoạt động học tập

theo năm học biểu hiện qua ba mặt nhận thức, thái độ và hành vi có điểm số được nâng dần theo các năm học về sau.

Như vậy, qua những số liệu chi tiết cho thấy những năm đầu học ở đại học

các em sinh viên có mức độ thích ứng thấp, sinh viên có thời gian học nhiều hơn thì

mức độ thích ứng của sinh viên được nâng dần càng về cuối bậc học sẽ thích ứng

cao hơn.

Ngoài việc tính ĐTB và xếp mức các khía cạnh của thích ứng học tập theo năm học, chúng tôi còn sử dụng phép One way Anova để so sánh sự khác biệt giữa

các năm học với các mặt biểu hiện thích ứng học tập ở SV DTTS: Kết quả cho thấy mức ý nghĩa p<0.01 ở tất cả các khía cạnh được so sánh. Chúng ta có thể khẳng định rằng, sự khác biệt về thích ứng học tập (nói chung của các khía cạnh) giữa sinh

105

viên năm thứ nhất, năm thứ hai và năm thứ ba có ý nghĩa về mặt thống kê.

Nhìn vào biểu đồ 4 cho thấy: đối với SV năm I, sự thích ứng học tập của SV đạt mức trung bình (ĐTB = 2.96), năm II đã có sự tăng lên (ĐTB = 3.14) nhưng vẫn

đạt ở mức trung bình nhưng đến năm thứ III thì sự thích ứng đã tăng lên ở mức Khá

(ĐTB = 3.42). Trong năm I và năm II, ĐTB của các mặt thích ứng thái độ và thích

ứng nhận thức thấp hơn so với ĐTB của thích ứng hành vi nhưng đến năm III thì ngược lại, sự thích ứng về nhận thức lại có ĐTB cao nhất.

Khi đối chiếu với từng năm học, chúng ta thấy sinh viên Năm I, sự thích ứng

về mặt thái độ có điểm giá trị trung bình cao nhất (ĐTB = 3.25), năm II là thích ứng

về nhận thức (ĐTB = 2.92) và cuối cùng là hành vi (ĐTB = 2.71). Điều này cũng dễ

hiểu bởi vì năm I, SV mới chỉ có những hiểu biết và thái độ tích cực đối với việc

học tập chứ chưa có nhiều kỹ năng học tập. Ở năm II, thích ứng về nhận thức và

thích ứng hành vi tăng lên nhưng thích ứng về mặt thái độ lại giảm đi (ĐTB = 3.23).

Liệu sang năm II, thái độ tích cực học tập của SV bị giảm sút do không còn tâm lý

háo hức, kỳ vọng như năm I?

Điểm chung của nhóm SV năm I và năm II là đứng ở vị trí cao nhất thích

ứng về mặt nhận thức. Đến năm thứ III, sự thích ứng nhận thức lại đạt số điểm cao

nhất (ĐTB = 3.47), tiếp đó là mặt thái độ và cuối cùng là mặt hành vi. Chúng tôi

cho rằng chính việc chương trình đào tạo hiện nay còn tập trung nhiều vào phần lý

thuyết, mảng kỹ năng thực hành còn chưa được quan tâm đầy đủ nên kết quả là SV

cảm thấy làm chủ về kiến thức hơn là kỹ năng thực hành.

Với kết quả trên, có thể kết luận được sinh viên tự đánh giá mức độ thích

ứng với hoạt động học tập là phù hợp và có biến đổi sự thích ứng theo chiều hướng

gia tăng mức độ thích ứng đối với hoạt động học tập.

4.2.2. Thích ứng học tập của sinh viên xét theo dân tộc

Để có cái nhìn toàn diện về thích ứng học tập của sinh viên, chúng tôi tiến

hành xem xét sự thích ứng học tập của sinh viên dân tộc thiểu số qua khía cạnh

các nhóm dân tộc khác nhau ở ba mặt biểu hiện nhận thức, thái độ và hành vi.

Mặc dù mỗi sinh viên đều là người dân tộc thiểu số nhưng trong cộng đồng, các

dân tộc đều có sự tương tác trong sinh hoạt, văn hóa nên sẽ tự hình thành nhóm

106

dân tộc có nét tâm lý tương đối giống nhâu. Các phân tích dưới đây sẽ góp phần

làm sáng tỏ hơn thực trạng thích ứng của SV DTTS với hoạt động học tập ở

trường đại học.

4.2.2.1. Thích ứng biểu hiện qua mặt nhận thức

Thích ứng phản ánh sự tích cực chủ động của mỗi chủ thể trong các hoạt

động của mình. Chủ thể có nhận thức tốt sẽ có cái nhìn khách quan và tích cực hơn

đối với hành vi mà mình tạo ra. Sinh viên ở mỗi nhóm dân tộc khác nhau có nhận

thức như thế nào về hoạt động học tập? Kết quả tổng hợp thu được thể hiện qua

bảng dưới đây:

Bảng 4.20: Thích ứng nhận thức của sinh viên xét theo nhóm dân tộc

Các nhóm dân tộc ĐTB ĐLC MĐTƯ SL

1. Tày 219 3.15 0.70 Khá

2. H’Mông - Dao 234 3.17 0.70 Khá

3. Dân tộc khác 177 3.06 0.65 Trung bình

Bảng 4.20 cho thấy, nhóm sinh viên dân tộc H’Mông - Dao và nhóm sinh

Trung bình chung 3.13 0.69 Khá

viên là người Tày có mức độ thích ứng Khá và nhóm sinh viên thuộc các dân tộc

khác có mức độ thích ứng Trung bình với hoạt động học tập qua mặt nhận thức.

Xem xét trên phương diện tổng thể theo khía cạnh dân tộc thì SV các nhóm dân tộc

có mức độ thích ứng Khá biểu hiện qua mặt nhận thức.

Phân tích từ bảng dữ liệu (xem ở Phụ lục 6) kết quả cho thấy phần lớn sinh

viên các dân tộc đạt điểm từ trung bình trở lên ở nội dung Tập trung nghe giảng

trên lớp, sinh viên thuộc nhóm Tày, H’Mông – Dao có điểm số cao hơn so với dân

tộc khác (Cao Lan, Sán Chỉ, Nùng, Hoa…). Tổng ĐTB ở nội dung này ở tất cả các

dân tộc có mức độ thích ứng Khá (ĐTB = 3.13).

Nhận thức về Phương pháp giảng dạy của giảng viên (ĐTB = 3.33) phần lớn sinh viên đạt mức độ Khá, trong đó, nhóm sinh viên dân tộc khác có sinh viên dân tộc Cao Lan đạt điểm mức độ thích ứng Khá, cao hơn so với SV nhóm còn lại (ĐTB = 3.42). Như vậy, ở nội dung này có sự khác biệt rất ít về mức độ thích ứng qua mặt nhận thức giữa sinh viên các dân tộc.

107

Với nội dung Liên hệ nội dung bài giảng với thực tế sinh viên các dân tộc đều đạt mức độ thích ứng trung bình. Điểm trung bình đạt được từ 3.05 đến 3.09.

Tổng (ĐTB = 3.08). Khi xem xét khả năng Hợp tác với giảng viên và bạn cùng lớp, hầu hết sinh viên dân tộc đều đạt mức độ thích ứng trung bình, có duy nhất sinh

viên dân tộc Dao trong nhóm H’Mông - Dao đạt mức độ thích ứng Khá (ĐTB =

3.41). Điểm đạt được của tất cả sinh viên các dân tộc ở nội dung này từ 3.04 đến

3.41, với điểm tổng ĐTB = 3.28.

Với mệnh đề Mở rộng kiến thức,nâng cao hiểu biết và củng cố và nắm vững

tri thức hầu hết sinh viên các dân tộc đều đạt ở điểm mức độ Trung bình và Khá.

Từ số liệu trên cho chúng ta thấy, nhóm dân tộc Tày và H’Mông đạt mức độ Khá về mặt nhận thức, nhóm SV dân tộc khác có mức điểm thích ứng đạt trung

bình về nhận thức. Tóm lại, phần lớn sinh viên dân tộc thiểu số đạt mức độ thích

ứng Khá về mặt nhận thức. Kết quả trên phần nào phản ánh ở mỗi nhóm sinh viên

đều có những khả năng thích ứng, bắt kịp về mặt nhận thức được đánh giá tương

đương với nhau ở từng biểu hiện trong item nhận thức. Tuy nhiên, số những sinh

viên thuộc số ít trong các dân tộc thiểu số thường do gặp khó khăn về mặt điều kiện

kinh tế xã hội, cũng như môi trường sống tạo ra những hạn chế nhận thức như vậy.

4.2.2.2. Thích ứng biểu hiện qua mặt thái độ Để có thông tin đầy đủ trước khi đi phân tích mức độ thích ứng học tập của

SV DTTS biểu hiện qua mặt thái độ, cần hiểu được mức độ thích ứng về thái độ của

sinh viên dựa trên mỗi nhóm dân tộc được thống kê với các thông tin ở bảng dưới:

Bảng 4.21: Sự thích ứng của các nhóm SV DTTS thể hiện qua mặt thái độ

Các nhóm dân tộc ĐTB ĐLC MĐTƯ

1. Tày 3.32 0.56 Khá

2. H’Mông - Dao 3.32 0.57 Khá

3. Dân tộc khác 3.26 0.53 Trung bình

Trung bình chung 3.39 0.56 Khá

Bảng 4.21 cho thấy, nhìn tổng thể biểu hiện thích ứng về mặt thái độ của sinh viên các nhóm dân tộc, trong đó Nhóm sinh viên Tày, H;Mông - Dao đều đạt mức độ thích ứng Khá (ĐTB = 3.32). Có thể nói hai nhóm dân tộc này tuy là DTTS nhưng số lượng người chỉ đứng sau người Kinh nên họ cũng là những dân tộc có sự giao thoa văn hóa và du nhập những kinh nghiệm, kiến thức từ rất sớm nên có thái

độ đánh giá các vấn đề tốt hơn so với các dân tộc khác (ĐTB = 3.26). Sự thích ứng

108

học tập biểu hiện qua mặt thái độ được phân tích sâu hơn ở bên dưới.

Kết quả điều tra về thích ứng học tập thể hiện qua mặt thái độ của sinh viên xét theo khía cạnh dân tộc (xem ở bảng Phục lục 7) cho thấy, về thái độ nghe giảng

bài trên lớp, phần lớn sinh viên các dân tộc đạt được ở mức độ trung bình, có điểm

trung bình từ 3.23 đến 3.25. Không có điểm mức độ thấp hoặc khá, cao, với tổng

điểm (ĐTB = 3.24). Thái độ đối với việc chú ý Chép bài trên lớp có điểm số cao hơn ở nội dung 1. Cụ thể điểm đạt từ 3.86 đến 3.88 với tổng điểm (ĐTB = 3.87).

Điểm số này đạt mức độ khá về mặt thái độ. Điều này cho thấy, sinh viên các dân

tộc có sự đồng đều nhau về thái độ ghi chép bài. Vì các em luôn nhận thức được việc tự học là một yêu cầu cao đối với sinh viên. Sinh viên muốn có kiến thức nền

tảng và hiểu sâu, nắm vững kiến thức cần phải ghi chép bài cẩn thận và đầy đủ.

Xem xét thái độ của sinh viên về sự cầu thị sự tiến bộ, bổ sung kiến thức

chuyên môn, kết quả cho thấy hầu hết SV các dân tộc có thái độ cầu thị Bổ sung

kiến thức, thông tin đạt điểm trung bình từ 3.33 đến 3.36. Trong các nhóm dân tộc

có sinh viên dân tộc Dao, Hoa đạt điểm mức độ khá lần lượt từ 3.41; 3.42 . Như

vậy, phần lớn SV DTTS đều có thái độ theo chiều hướng tích cực, nhận thức được

việc cầu thị, bổ sung kiến thức, thông tin sẽ giúp các em học tập tốt hơn.

Về mặt giao tiếp với giảng viên, sinh viên DTTS đều đạt mức độ điểm trung

bình từ 3.05 đến 3.07, không có sinh viên nào xếp mức độ thấp hoặc khá, cao. Điều

này phản ánh sinh viên đều có sự tương đồng trong thái độ coi trọng giao tiếp với

giảng viên như nhau với tổng ĐTB của nội dung này đạt (ĐTB = 3.06).

Với nội dung 5, thái độ đối với Thực hiện những yêu cầu về tự học được sinh

viên các dân tộc cho điểm Tốt. Mức điểm trung bình đạt từ 4.07 đến 4.08. Phần lớn ở

nội dung này sinh viên các dân tộc đạt thích ứng tốt về mặt bày tỏ thái độ tích cực với

những điều giảng viên hướng dẫn tự học ở nhà và sinh viên DTTS là người Hoa đạt

mức độ thích ứng tốt với nội dung này (ĐTB = 4.26) và tổng điểm của nội dung này là

(ĐTB=4.08).

Trong nội dung 6, Thái độ phát biểu ý kiến trước lớp của sinh viên phần lớn đạt điểm trung bình từ 3.26 đến 3.33. Có duy nhất sinh viên là người Hoa đạt mức điểm thích ứng khá (ĐTB = 3.42).

Các nội dung 7 và 10 phần lớn sinh viên các dân tộc đều đạt mức độ thích ứng thấp. Tuy nhiên, với nội dung lắng nghe ý kiến của bạn học có sinh viên người

Cao Lan và Nùng trong nhóm dân tộc khác có mức điểm thích ứng thấp lần lượt

(ĐTB = 2.52) và (ĐTB = 2.4). Tương tự, thái độ nghiên cứu khoa học sinh viên

109

DTTS là người Cao Lan và Nùng có mức điểm thích ứng thấp lần lượt (ĐTB =

2.54) và (ĐTB = 2.46). Những sự khác biệt về mức độ ở từng nội dung cho thấy, trong quá trình học tập sinh viên dân tộc thiểu số vẫn có sự khác nhau về thái độ

đối với học tập. Có rất nhiều lý do, có thể xuất phát từ chủ quan hoặc do đặc điểm

tâm lý dân tộc dẫn đến các em có thái độ đánh giá khác nhau về cùng một vấn đề.

Điều đáng chú ý là Hợp tác với bạn học trong lớp và sự tập trung chú ý trong thời gian học ở nhà sinh viên người Hoa đạt điểm thích ứng về thái độ ở mức độ khá,

ĐTB = 3.42. Như vậy, nhìn tổng thể từ tiêu chí 1 đến 10, sinh viên người Hoa có 5

nội dung đạt mức độ thích ứng khá và cao. Đây là những con số nổi trội hơn so với sinh viên DTTS khác. Điều này cho thấy, những đặc điểm tâm lý đặc trưng của dân

tộc Hoa là luôn có tính gắn kết cộng đồng cao, có sự cầu thị, tiếp thu và hợp tác rất

tốt với dân tộc khác khi có cùng lĩnh vực quan tâm.

Đánh giá chung mức độ thích ứng về mặt thái độ cho thấy SV DTTS ở các

nhóm đạt mức thích ứng khá với hoạt động học tập ở mặt thái độ.

4.2.2.3. Thích ứng biểu hiện qua mặt hành vi Phân tích kết quả thu được cụ thể về sự thích ứng học tập qua mặt hành vi xét theo dân tộc qua bảng số liệu bên dưới cho thấy, tất cả các nội dung phần lớn sinh viên các dân tộc thiểu số đạt mức độ thích ứng trung bình về hành vi. Trong các nhóm SV dân tộc ở bảng 4.22 có hai nhóm dân tộc Tày và H’Mông – Dao đạt điểm giá trị mức độ thích ứng khá. Tuy nhiên, đối với hành vi giao tiếp nhóm Tày, H’mông - Dao, và nhóm dân tộc khác (có SV dân tộc Cao Lan và Hoa) đạt ĐTB ở mức độ thích ứng tốt từ 3.46 đến 3.53. Còn nhóm dân tộc khác có mức độ thích ứng trung bình về mặt hành vi, riêng SV dân tộc Nùng có hành vi giao tiếp với bạn học và giảng viên đạt điểm giá trị thấp (ĐTB = 2.30).

Bảng 4.22: Thích ứng của SV DTTS biểu hiện qua mặt hành vi

Các nhóm dân tộc ĐTB ĐLC MĐTƯ

1. Tày 3.14 0.62 Khá

2. H’Mông - Dao 3.11 0.62 Khá

3. Dân tộc khác 3.0 0.59 Trung bình

Tổng 3.08 0.61 Trung bình

Bảng phụ lục 8 cho thấy, hành vi điều chỉnh cảm xúc cho thấy, sinh viên các

110

dân tộc đều gặp khó khăn, hạn chế khi điều chỉnh cảm xúc, điểm đạt từ 2.3 đến 2.40 xếp ở mức độ thích ứng thấp (ĐTB = 2.33; ĐLC = 0.75). Đối với hành vi làm chủ các phương pháp học tập, phần lớn sinh viên các dân tộc đạt mức độ thích ứng khá

từ 3.12 đến 3.49. Tổng (ĐTB = 3.37). Ở nội dung này có SV DTTS Tày và H’mông đạt điểm điểm cao nhất lần lượt (ĐTB = 3.49) và (ĐTB = 3.43). Đối với nội dung

Xác định, nhận diện vấn đề học tập phần lớn đạt mức độ thích ứng khá ĐTB từ

3.11 đến 3.47. Cùng nội dung này có SV DTTS Tày và H’mông - Dao đạt mức độ

thích ứng Khá (ĐTB = 3.47) và (ĐTB = 3.41). Như vậy, theo số liệu bảng trên chúng ta thấy sinh viên dân tộc Tày và H’mông – Dao có nhiều nội dung đạt mức

độ thích ứng khá so với các sinh viên dân tộc khác. Đánh giá chung sinh viên các

dân tộc có mức độ thích ứng trung bình về mặt hành vi.

Chúng tôi sử dụng phép One way anova để xem xét sự khác biệt giữa ba mặt

thích ứng học tập của các nhóm SV thuộc ba nhóm dân tộc. Kết quả thu được thể

hiện ở bảng sau:

Bảng 4.23: Sự khác biệt giữa ba mặt thích ứng học tập của các nhóm SV dân tộc

Thích ứng Thích ứng Thích ứng Thích ứng

chung Nhận thức Thái độ Hành vi

Dân tộc ĐTB P ĐTB P ĐTB P ĐTB P

Tày 3.21 3.15 3.32 3.14

H'mông – Dao 3.20 0.00 3.17 0.01 3.32 0.24 3.11 0.00

Nhóm DT khác 3.11 3.06 3.26 3.00

Số liệu cho thấy giữa các dân tộc có sự khác nhau về thích ứng học tập với mức ý nghĩa p<0.01 tuy nhiên sự chênh lệch là không đáng kể. Nhóm dân tộc Tày có ĐTB=3.21 là cao nhất, thứ hai là nhóm dân tộc H’Mông – Dao (ĐTB=3,20) và nhóm DT khác có (ĐTB=3.11). Khi xem xét từng khía cạnh của thích ứng học tập, chúng ta thấy có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê giữa các nhóm dân tộc mặt thích ứng về thích ứng nhận thức và thích ứng hành vi (p<0.05) nhưng ở mặt thích ứng thái độ thì sự khác biệt không có ý nghĩa về mặt thống kê. Trong đó, sự chênh lệch về ĐTB của hai nhóm SV dân tộc Tày và H’mông – Dao là không đáng kể, ĐTB của nhóm SV thuộc nhóm DT khác luôn đứng ở vị trí thấp nhất.

111

Từ cơ sở phân tích các biểu hiện trên, chúng tôi cũng đi tìm hiểu mối tương quan giữa các mặt biểu hiện của thích ứng cuả SV DTTS với từng năm học khác nhau. Kết quả được thể hiện và phân tích qua bảng 4.24

Bảng số liệu này cho thấy có một xu hướng chung của cả ba nhóm dân tộc là mức độ thích ứng của năm I < năm II < năm III. Như vậy, có thể khẳng định rằng,

dù là SV thuộc dân tộc nào thì sự thích ứng học tập vẫn tăng lên theo thời gian học

tập ở trường Đại học. Trong đó, sự biến thiên sự thích ứng theo năm học của nhóm

dân tộc H’mông – Dao (0.54) > Dân tộc khác (0.45) > Tày (0.38). Trong năm I, SV dân tộc Tày có điểm thích ứng cao hơn cả (ĐTB=3.01) nhưng ở năm II và III SV

dân tộc H’mông – Dao lại có sự thích ứng cao nhất.

Trong ba khía cạnh biểu hiện của thích ứng học tập thì mặt thích ứng thái độ có ĐTB cao nhất, thứ hai là mặt nhận thức và cuối cùng là mặt hành vi. Thích ứng ở

khía cạnh nhận thức nhóm SV thuộc dân tộc H’mông – Dao > Tày > DT khác.

Tương tự như thế, ở mặt thái độ thì SV nhóm DT khác lại có mức thích ứng thấp

nhất (ĐTB=3.26), nhóm SV Tày ngang bằng với nhóm SV H’mông – Dao (ĐTB =

3.32). Mức chênh lệch về ĐTB về thích ứng nhận thức và thái độ giữa SV nhóm

dân tộc Tày và dân tộc H’mông – Dao là không đáng kể (0-0.01). Về hành vi, nhóm

SV dân tộc Tày có ĐTB cao nhất, hơn nhóm SV thuộc dân tộc H’mông – Dao 0.03

và hơn nhóm SV thuộc nhóm DT khác 0.14 điểm.

Bảng 4.24: Mối tương quan của các mặt thích ứng với từng năm học

Các mặt biểu hiện của thích ứng Thích ứng chung Dân tộc Năm học Hành vi ĐTB ĐLC

Tày

H'Mông- Dao

Dân tộc khác

112

Năm I Năm II Năm III TBC Năm I Năm II Năm III TBC Năm I Năm II Năm III TBC 3.01 3.15 3.39 3.21 2.92 3.16 3.46 3.20 2.96 3.11 3.41 3.11 0.23 0.21 0.18 0.26 0.19 0.19 0.20 0.30 0.19 0.17 0.22 0.26 Thái độ Nhận thức ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC 0.23 2.94 0.16 2.99 0.18 3.45 0.31 3.15 0.14 2.90 0.17 3.03 0.19 3.51 0.34 3.17 0.19 2.92 0.15 3.05 0.20 3.39 0.32 3.06 0.31 0.33 0.23 0.37 0.26 0.28 0.27 0.38 0.30 0.29 0.28 0.34 3.33 3.26 3.36 3.32 3.18 3.26 3.49 3.32 3.25 3.16 3.45 3.26 0.48 0.44 0.40 0.44 0.39 0.44 0.40 0.43 0.43 0.36 0.41 0.41 2.76 3.21 3.36 3.14 2.68 3.20 3.38 3.11 2.71 3.12 3.38 3.0

Số liệu bảng 4.24 cho thấy: Dường như sự thích ứng học tập của SV dân tộc Tày là cao nhất nhưng người H’mông – Dao lại có khả năng thích ứng tốt hơn theo

thời gian, người thuộc các nhóm dân tộc ít người còn lại có mức thích ứng thấp nhất.

Đây chính là kết quả đáng lưu ý khi tiến hành các biện pháp thúc đẩy sự thích ứng

học tập cho SV dựa vào đặc điểm dân tộc.

Chúng tôi sử dụng phép hồi quy của SPSS để tìm hiểu sự tác động của các

yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng học tập của các dân tộc, mỗi mặt thích ứng đều

bị ảnh hưởng bởi các nguyên nhân, các yếu tố chủ quan và khách quan. Mỗi tác động đó cũng gây ra những cản trở sự thích ứng học tập ở sinh viên nói chung và

sinh viên dân tộc thiểu số nói riêng. Kết quả biểu thị ở bảng sau:

Bảng 4.25: Sự tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng

Các yếu tố ảnh hưởng

Dân tộc Các mặt thích ứng Chung Chủ quan Khách quan

Thích ứng nói chung r2 0.15** r2 0.36** r2 -

Thích ứng nhận thức - - 0.23* Tày Thích ứng thái độ 0.54** 0.71** 0.06**

Thích ứng hành vi - 0.07** 0.14**

Thích ứng nói chung 0.15** 0.44** 0.2*

Thích ứng nhận thức - 0.03** 0.10** H'Mông-

Thích ứng thái độ 0.55** 0.74** 0.06** Dao

Thích ứng hành vi 0.02* 0.20** 0.11**

Thích ứng nói chung 0.18** 0.40** -

Thích ứng nhận thức - - 0.04** Dân tộc

Thích ứng thái độ 0.62** 0.81** 0.07** khác

Ghi chú: * mức ý nghĩa p<0.05; ** mức ý nghĩa p<0.01 Số liệu trên cho thấy sự tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến các khía cạnh thích ứng học tập của SV dân tộc thiểu số là không như nhau, mức độ tác động của từng nhóm yếu tố, đến từng mặt thích ứng là khác nhau. Điểm đáng chú ý nhất là các yếu tố ảnh hưởng tác động mạnh nhất đến mặt thái độ r2>0.70, chỉ ảnh hưởng một chút đến yếu tố hành vi r2<0.15. Điểm đáng chú ý nữa là trong hai nhóm yếu tố

113

Thích ứng hành vi - 0.11** 0.07**

ảnh hưởng thì sự tác động của yếu tố chủ quan đến sự thích ứng cao hơn nhóm yếu tố khách quan.

Dưới đây, chúng tôi tập trung phân tích mối quan hệ ảnh hưởng của các yếu

tố đến các mặt thích ứng của các nhóm SV dân tộc thiểu số khác nhau.

Sự tác động của yếu tố ảnh hưởng nói chung: Sự biến thiên của các yếu tố ảnh hưởng nói chung giải thích được 18% sự biến thiên sự thích ứng nói chung của

SV thuộc nhóm DT khác, giải thích 15% sự biến thiên sự thích ứng chung của SV

thuộc hai nhóm DT còn lại. Về mặt thích ứng thái độ, sự ảnh hưởng của các yếu tố nói chung đến nhóm SV thuộc nhóm DT khác đạt mức cao nhất trong 3 nhóm SV (r2 = 0.62), sự tác động này sự thích ứng thái độ của SV dân tộc Tày và H’mong – Dao là r2 = 0.54, 0.55.

Sự tác động của yếu tố chủ quan: Sự biến thiên của yếu tố chủ quan giải

thích được hơn trên dưới 40% sự biến thiên sự thích ứng nói chung của cả ba nhóm

dân tộc; trong đó, sự tác động đối với nhóm SV dân tộc H’Mông – Dao là lớn nhất r2 = 0.44, thấp nhất là SV dân tộc Tày: r2 = 0.36. Đáng lưu ý là sự biến thiên của các

yếu tố chủ quan giải thích được 81% sự biến thiên sự thích ứng thái độ của SV dân

tộc nhóm còn lại, giải thích được 71% và 74% sự biến thiên sự thích ứng thái độ

của SV dân tộc Tày và H’Mông – Dao.

Sự tác động của các yếu tố khách quan: Yếu tố khách quan tác động đến các

mặt thích ứng học tập không nhiều. Có một sự khác biệt về sự tác động của các yếu

tố ảnh hưởng ở đây là: Trong khi yếu tố chủ quan tác động mạnh nhất đến mặt thích

ứng thái độ thì yếu tố chủ quan lại tác động mạnh hơn đến mặt thích ứng hành vi.

Điểm cao nhất là mặt thích ứng hành vi của nhóm SV dân tộc Tày và H’Mông - Dao r2 = 0.14; 0.11. Sự tác động của các yếu tố khách quan đến mặt thích ứng nhận

thức là không đáng kể: 2-4% (nhóm dân tộc H’Mông – Dao và DT khác), mặt thích

ứng thái độ là 6-7%.

4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng học tập của sinh viên

Thích ứng là một quá trình tâm lý phản ánh khả năng bắt nhịp, làm quen của

con người với những khó khăn trong cuộc sống mới bắt buộc họ phải ứng phó bằng

cách thay đổi cấu trúc tâm lý (về các mặt nhận thức, thái độ và hành động) đồng

114

thời tạo ra những hành vi phù hợp với thực tế nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển

hài hòa bản thân trong hoàn cảnh mới. Sinh viên dân tộc thiểu số cũng bị ảnh hưởng

rất nhiều từ các yếu tố chủ quan cũng như khách quan đến sự thích ứng với hoạt

động học tập trên lớp và ở nhà. Các em chịu sự tác động bởi các yếu tố nào? Quá

trình ảnh hưởng đó đã tạo ra sự biến đổi gì trong cấu trúc tâm lý của các em?

Có nhiều yếu tố ảnh hưởng , chúng tôi tìm hiểu các yếu tố chủ quan và khách

quan ảnh hưởng đến thích ứng của SV DTTS đối với học tập được khái quát qua

biểu đồ dưới đây:

Biểu đồ 5: Các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng học tập của SV dân tộc Từ biểu đồ trên cho thấy, mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đối với bản thân

sinh viên dân tộc thiểu số có sự khác nhau rất rõ. Đối với các yếu tố chủ quan,

chúng ta thấy Tính cách cá nhân có ảnh hưởng nhiều nhất (ĐTB = 4.49), tiếp đó là

yếu tố Ý chí khắc phục khó khăn (ĐTB = 3.66) và cuối cùng là Tính tích cực hoạt

động - giao tiếp (ĐTB = 3.45).

Tương tự, đối với các yếu tố chủ quan chúng ta thấy xếp thứ 1 là yếu tố

Phương pháp giảng dạy của giảng viên ảnh hưởng rất nhiều đến sinh viên (ĐTB =

3.83). Xếp thứ 2 là yếu tố Điều kiện sống (ĐTB = 3,76). Và xếp thấp nhất là yếu tố

Đặc điểm học tập ảnh hưởng rất ít đến sự thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số

với hoạt động học tập. Vậy các yếu tố này có sự ảnh hưởng cụ thể như thế nào?

Những phân tích dưới đây sẽ chỉ ra những tác động của yếu tố chủ quan và khách

115

quan đến thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập.

4.3.1. Ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan Bất cứ hoạt động nào của con người có kết quả đều chịu sự chi phối của các

yếu tố chủ quan và khách quan. Sinh viên khi học tập trong môi trường đại học đều

gặp phải những khó khăn nhất định và yếu tố chủ quan là một trong nhưng tác nhân

gây ra những ảnh hưởng đến sự ứng thích ứng.

Bảng 4.26: Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến thích ứng của SV DTTS

Yếu tố chủ quan ĐTB ĐLC BẬC

1. Tính ham hiểu biết, óc tìm tòi, sáng tạo. 4.49 0.96 1

3.45 0.89 3 2. Khả năng giao tiếp (với bạn học, với giảng viên, sự tham gia vào các hoạt động)

Ghi chú: 1- thứ bậc cao nhất; 3 - thứ bậc thấp nhất. Xem xét về ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan gắn liền với những đặc điểm

3. Sự cố gắng, ý chí khắc phục khó khăn, sự tích 3.66 0.47 2 cực chủ động.

tâm lý, giao tiếp của sinh viên ở sinh viên thể hiện qua tính cách cá nhân (Tính ham hiểu biết, óc tìm tòi, sáng tạo); Tính tích cực hoạt động - giao tiếp (Khả năng giao

tiếp với bạn học và giảng viên, sự tham gia vào các hoạt động) và ý chí khắc phục

khó khăn (Sự cố gắng, ý chí khắc phục khó khăn, sự tích cực chủ động). Cụ thể

được phân tích dưới đây:

4.3.1.1. Tính cách cá nhân Như chúng ta đã biết, tính cách là một thuộc tính tâm lí phức hợp của cá

nhân bao gồm một hệ thống thái độ của nó đối với hiện thực, thể hiện trong hệ

thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng tương ứng. Xét về tính cách của SV DTTS,

ảnh hưởng của tính cách cá nhân đến mức độ thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu

số là cao. Khi nghiên cứu về tính cách có ảnh hưởng đến thích ứng của sinh viên

đối với học tập, chúng tôi tìm hiểu ảnh hưởng của tính cách như thế nào đến sự thích ứng với hoạt động học tập. Kết quả điều tra cho thấy, phần lớn sinh viên trả lời tính cách có ảnh hưởng rất nhiều đến sự thích ứng (93.3%). Với cách đánh giá trên, sinh viên nhận thức được rất rõ ràng tính cách của mình có những ảnh hưởng nhất định đến sự thích ứng. Tính cách cá nhân của sinh viên bộc lộ trong học tập thể hiện quan Tính ham hiểu biết, óc tìm tòi, sáng tạo (ĐTB = 4.49; ĐLC = 0.96). Khi

116

nói đến tính cách, sinh viên hiểu bản thân mình có những biểu hiện gì về thái độ của bản thân với học tập, mình có hành vi tương ứng ra sao, thậm chí các em cũng biết tính cách của bản thân bộc lộ rất rõ yêu thích môn học, ngành học. Các em có

yêu thích ngành học mình đang theo đuổi thì các em sẽ có động lực học tập tốt hơn. Đây là một trong những tác nhân tạo ra sự thay đổi rất lớn về cách nhìn nhận

vấn đề, thái độ học tập và nhu cầu nâng cao sự hiểu biết ở sinh viên. Tính cách

cũng thể hiện sự năng động, linh hoạt và sáng tạo của sinh viên trong học tập.

Sinh viên sẽ tự đánh giá được những ngành học, môn học đó có những yêu cầu gì mang tính nghề nghiệp và bản thân có phù hợp với ngành nghề đó không. Từ đó

các em sẽ điều chỉnh được ý thức, hành vi hoặc là sự hiểu rõ ngành học sẽ giúp

cho các em có động cơ học tập rõ ràng hơn. Nếu như tính cách sinh viên không năng động, linh hoạt, các em lại có tâm lý tự ti, rụt rè, e ngại chắc chắn sẽ dẫn đến

các em sẽ thích ứng kém với những yêu cầu khắt khe của ngành học. Và như vậy,

các em sẽ khó có thể đáp ứng được tiêu chí đầu ra của nhà trường đối với ngành

học đang theo đuổi.

4.3.1.2 Tính tích cực hoạt động và giao tiếp Tính tích cực thể hiện sự chủ động của con người trong các mối quan hệ xã

hội. Nó phản ánh sự tự tin, năng lực đối phó và làm chủ kĩ năng của con người

trong những tình huống khác nhau. Do vậy, tính tích cực hoạt động giao tiếp cũng

là một mặt biểu hiện sự thích ứng, sẵn sàng gia nhập hay đóng kín bản thân mình

trong các hoạt động. Chỉ có hoạt động mới làm con người tồn tại và phát triển, sinh

viên không tham gia vào các hoạt động giao lưu với bạn bè, thầy cô thì không thể

học được những hành vi, cách xử sự, sự chủ động trong giao tiếp, như vậy nếu sinh

viên không tích cực chủ động thì sẽ không thể phát triển đầy đủ những phẩm chất

và năng lực của nhân cách. Trong nghiên cứu này, tính tích cực hoạt động giao tiếp

của sinh viên dân tộc thiểu số biểu hiện qua việc sinh viên chủ động tích cực trong

việc giao tiếp với bạn bè, quan hệ với giảng viên, sự chủ động tham gia vào các

hoạt động chung. Các yếu tố này có ảnh hưởng rất nhiều đến sự thích ứng ở các em

sinh viên dân tộc thiểu số.

Xem xét yếu tố tích cực hoạt động và giao tiếp phần lớn sinh viên cho rằng yếu tố tích cực hoạt động – giao tiếp ảnh hưởng nhiều đến sự thích ứng (72.4%). Điều này nói lên rằng, hoạt động giúp kích thích hứng thú, niềm say mê sáng tạo và làm nảy sinh những nhu cầu mới, những thuộc tính tâm lý mới… Nếu sinh viên tham gia tích cực vào các hoạt động – giao tiếp có thể giúp sinh viên hình thành và

phát triển nhân cách. Nhờ giao tiếp sinh viên gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh

117

hội nền văn hóa xã hội, chuẩn mực từ đó hình thành khả năng giao tiếp riêng cho

bản thân mình. Khi mình giao tiếp với nhiều đối tượng, với nhiều người thì ta sẽ rút ra được nhiều kinh nghiệm cho việc giao tiếp của mình.

Biểu đồ 6: Sự tham gia của SV vào các hoạt động chung trong nhà trường Đánh giá về sự tham gia vào các hoạt động chung trong nhà trường có

(84.8 %) sinh viên có tham gia vào ban cán sự lớp, các nhóm học tập, các câu lạc bộ

ở trong trường. Bên cạnh đó vẫn có (15.2%) sinh viên không tham gia vào các hoạt

động chung. Như vậy, có một bộ phận sinh viên không hào hứng với những hoạt

động chung, các em có thể nhìn nhận những hoạt động đó không phải là mối quan

tâm của bản thân nên thấy chán nản, gò bó, miễn cưỡng. Nếu các em tham gia vào

các hoạt động chung (hoạt động ngoại khóa, câu lạc bộ...) thì đó sẽ là hoạt động bổ

trợ cho những hoạt động học tập chính khóa. Hoạt động này sẽ tạo điều kiện giúp

sinh viên liên hệ giữa lý thuyết với thực tế, bổ sung thêm các kĩ năng, tạo ra môi

trường để sinh viên có thể giao lưu, tiếp xúc được nhiều hơn với các bạn trong lớp,

khác lớp.

Tính tích cực hoạt động và giao tiếp còn thể hiện thông qua sự đánh giá về sự giao tiếp với các bạn cùng lớp, cùng trường, có (74.4% %) sinh viên cho rằng có giao tiếp với bạn học, bạn cùng trường. Số sinh viên còn lại cho rằng mình không có giao tiếp với bạn học, bạn cùng trường. Trong số này có thể có nhiều em có những hạn chế nhất định về kĩ năng cũng như tâm lý e ngại, thiếu tự tin khi tham

118

gia vào các hoạt động và sẽ có biểu hiện thụ động trong các trò chơi, bài tập ứng dụng hoặc không hợp tác được với các bạn.

Khi nhà nghiên cứu thực hiện hoạt động quan sát thích ứng của sinh viên với

hoạt động học tập thảo luận nhóm cho thấy, lúc đầu sinh viên còn ngại ngần, e dè,

chưa chủ động, nhưng sau khi được nhà nghiên cứu hướng dẫn cách học và các

phương pháp khai thác thông tin tài liệu, cách trình bày kết quả sinh viên đã tự tin

hơn, chủ động hơn và có sự mạnh dạn như di chuyển vị trí nhiều hơn, hăng hái phát

biểu ý kiến, chủ động đảm nhận các vị trí trong hoạt động nhóm.

4.3.1.3. Ý chí khắc phục khó khăn

Để tìm hiểu thêm về những hành vi thích ứng của sinh viên trong học tập,

chúng tôi khảo sát hành vi ứng phó của sinh viên khi gặp phải những khó khăn

trong học tập. Trong đó chúng tôi đặt ra những ứng phó tích cực và ứng phó tiêu

cực để thấy được những kĩ năng giải quyết vấn đề của sinh viên có được các em sử

dụng ở mức độ nào.

Trong khi đi tìm hiểu những yếu tố chủ quan là ý chí khắc phục khó khăn

của sinh viên, cho thấy khi gặp những khó khăn trong học tập, sinh viên có bao nghĩ

đến việc bỏ học, bảo lưu kết quả học tập không? Kết quả cho thấy có (19.7%) sinh

viên trả lời có và (80.3%) sinh viên trả lời không.

Khi trò chuyện phỏng vấn sâu có nhiều sinh viên cho rằng kết quả học tập

mà mình có được do hành động nỗ lực khắc phục khó khăn, hoàn thành đến cùng

nhiệm vụ học tập ở sinh viên. Điều này cho thấy sinh viên đã có thích ứng cao về

mặt ý chí nỗ lực khắc phục khó khăn trong học tập. Cũng có một số ít sinh viên cho

rằng chưa thực sự tin vào kết quả mà mình đã đạt trong quá trình học tập. Thông tin

này cho biết, có nhiều nguyên nhân tác động, tạo ra những khó khăn đối với sinh

viên trong quá trình học tập và khiến cho một bộ phận sinh viên chưa thực sự tin

tưởng vào bản thân mình. Vậy sinh viên có những hành vi ứng phó với các khó

khăn gặp phải trong học tập như thế nào?

Có thể xem xét hành vi ứng phó tích cực và hành vi ứng phó tiêu cực qua

119

những phân tích dưới đây:

- Những hành vi ứng phó tích cực

Bảng 4.27: Cách ứng phó tích cực của SV với khó khăn trong học tập

Cách ứng phó tích cực ĐTB ĐLC

1. Tìm chỗ khác để có thể học được bài 2.92 0.48

2.33 0.59 2. Mặc kệ mọi chuyện, vẫn học tập bình thường

3. Cố gắng tìm cách khắc phục để có thể học 1.50 0.57 tốt hơn

1.75 0.53 4. Tìm đến bạn bè để cùng trao đổi, thảo luận bài học

5. Tìm đến thầy, cô giáo để được cung cấp 1.84 0.76 thêm kiến thức, phương pháp học tập

Hành vi ứng phó tích cực là biểu hiện của ý chí nỗ lực khắc phục khó khăn

của sinh viên. Nếu các em có nhận thức tích cực về nhiệm vụ học tập của bản thân

thì các em sẽ biết chủ động trong các hành động, hành vi ứng phó với khó khăn.

Tìm chỗ khác để có thể học được bài (75.9%), Mặc kệ mọi chuyện, vẫn coi như bình

thường (21.3%), Cố gắng tìm cách khắc phục để có thể học tốt hơn (42.7%), Tìm đến bạn bè để cùng trao đổi, thảo luận bài học (65.1%), Tìm đến thầy, cô giáo để

được cung cấp thêm kiến thức, phương pháp học tập (60.7%). Ở cách ứng phó này

chúng ta nhận thấy các em chủ yếu tập trung vào ý thức giải quyết vấn đề triệt để,

mang xu hướng tích cực, biết tìm đến những đối tượng có thể giúp mình giải quyết

những khó khăn đó như thầy cô giáo, bạn bè. Các hành vi ấy thể hiện các em xác định rất tốt nhiệm vụ học tập và muốn học tập tốt thì hãy tìm cách để khắc phục và làm mọi điều để có thể giúp cho mình ngày một tốt hơn. Như vậy, nếu những hành vi ứng phó này diễn ra thường xuyên sẽ giúp sinh viên thích ứng rất tốt với hoạt động học tập với nhiều áp lực, căng thẳng. Trong số các em trả có hành vi ứng phó

tích cực vẫn còn có một số em thực hiện những hành vi giải quyết vấn đề khó khăn chưa được liên tục, thỉnh thoảng các em mới làm những điều đó. Phải chăng đây là

những tồn tại còn tiềm ẩn ở những kĩ năng mà sinh viên thiếu hụt trong cuộc sống?

Các em có thể có suy nghĩ đến việc tìm kiếm sự trợ giúp của bạn bè nhưng các em

120

chưa thực sự đặt nhu cầu đó lên hàng đầu mà vẫn tự mình khắc phục là chính.

- Những hành vi ứng phó tiêu cực

Hành vi ứng phó tiêu cực là biểu hiện của sự thiếu quyết tâm, nhụt ý chí khi

gặp phải những khó khăn của cá nhân trước những thay đổi trong cuộc sống. Nó

phản ánh sự thiếu hụt kĩ năng giải quyết vấn đề trong từng hoàn cảnh nhất định.

Bảng 4.28: Những cách ứng phó tiêu cực của SV với khó khăn học tập

Cách ứng phó tiêu cực ĐTB ĐLC

1. Chơi điện tử, chơi thể thao 1.44 0.64

2. Không học nữa, bỏ đi đâu đó 1.93 0.54

3. Nghe nhạc, xem tivi, ngủ, đọc truyện 3.89 0.34

4. Mặc kệ mọi chuyện đến đâu thì đến 2.00 0.75

5. Muốn bỏ học, không muốn học nữa 1.61 0.61

Nhìn vào bảng 4.28 kết quả thu được cho thấy: sinh viên có những ứng phó

tiêu cực khi thường xuyên nghe nhạc, xem tivi, ngủ, đọc truyện (86.8 %), tỉnh

thoảng có suy nghĩ và hành động mặc kệ mọi chuyện đến đâu thì đến (42.4%), hoặc

thỉnh thoảng không học nữa bỏ đi đâu đó (69.5%). Đây là những hành vi cho biết

nhiều khi bản thân sinh viên không thể kiểm soát được bản thân cho nên sẽ có

những suy nghĩ thoái thác, chối bỏ để thoát ra khỏi khó khăn mà mình không đương

đầu, đối phó được.

4.3.2. Ảnh hưởng của các yếu tố khách quan

Cùng với những tác động của yếu tố chủ quan thì yếu tố khách quan có tác

động đến khả năng thích ứng của sinh viên. Với những tác động của nhân tố con

người, ngoại cảnh, các đặc điểm học tập cũng sẽ tạo ra những khó khăn khiến cho

sự thích ứng của sinh viên có thể tốt hơn hoặc kém đi. Trong luận án này, chúng tôi

nghiên cứu các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến mức độ thích ứng của SV DTTS

với hoạt động học tập dựa trên cơ sở phân tích phương pháp giảng dạy của giảng

121

viên, đặc điểm học tập của sinh viên ( với những điều kiện học tập, sự quản lý của

nhà trường), và điều kiện sống (môi trường sống, học tập). Dưới đây là một số yếu

tố khách quan có ảnh hưởng trực tiếp đến sinh viên.

Bảng 4.29: Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến thích ứng học tập của SV

Yếu tố khách quan ĐTB ĐLC BẬC

1. Phương pháp giảng dạy của giảng viên 3.83 0.36 1

2. Những điều kiện học tập, sự quản lý của nhà trường

(giờ giấc lên lớp, yêu cầu của giảng viên, yêu cầu của 3.52 0.85 3

Kí túc xá)

Ghi chú: 1- thứ bậc cao nhất; 3 - thứ bậc thấp nhất.

3.76 0.97 2 3. Môi trường sống, truyền thống văn hóa, giáo dục gia đình

Trong ba yếu tố ở bảng trên cho thấy yếu tố Phương pháp giảng dạy của

giảng viên có ảnh hưởng lớn nhất, xếp thứ 1 (ĐTB = 3.83; ĐLC = 0.36). Còn yếu tố

Điều kiện sống (Môi trường sống, truyền thống văn hóa, giáo dục gia đình) xếp thứ

2 (ĐTB = 3.76; ĐLC = 0.97) và yếu tố Đặc điểm học tập (Những điều kiện học tập,

sự quản lý của nhà trường (giờ giấc lên lớp, yêu cầu của giảng viên, yêu cầu của Kí

túc xá) xếp thấp nhất (ĐTB = 3.52; ĐLC = 0.85). Những yếu tố này ảnh hưởng như

thế nào sẽ được phân tích kết quả dưới đây:

4.3.2.1 Phương pháp giảng dạy của giảng viên

Phương pháp giảng dạy giữ vai trò khá quan trọng đối với hoạt động học tập

của sinh viên. Phương pháp dễ hiểu, dễ nắm bắt kĩ năng thì sinh viên sẽ nhanh

chóng thích ứng với những điều giảng viên trao đổi, hướng dẫn.

Xem xét điểm giá trị trung bình cho thấy Phương pháp giảng dạy của giảng

viên có ảnh hưởng lớn nhất, xếp thứ 1 (ĐTB = 3.83; ĐLC = 0.36). Những dữ liệu

trên cho thấy Phương pháp giảng dạy của giảng viên được sinh viên rất coi trọng.

Các kết quả nghiên cứu thực tiễn cũng là những căn cứ để đề xuất những biện pháp

tác động đến sự thích ứng với hoạt động học tập ở sinh viên thông qua sự điều

122

chỉnh và thay đổi những phương pháp giảng dạy từ mỗi giảng viên sao cho phù hợp

với yêu cầu của dạy học hiện đại và đảm bảo không quá sức với khả năng nhận thức

và những hạn chế trong các hành vi học tập của SV DTTS trong tình hình đổi mới

giáo dục hiện nay.

Vì vậy, có thể xem xét sự ảnh hưởng của phương pháp giảng dạy của giảng

viên đối với thích ứng của SV DTTS qua biểu đồ :

Biểu đồ 7: Đánh giá về phương pháp giảng dạy của giảng viên

Nhìn vào biểu đồ mô tả sự ảnh hưởng của phương pháp giảng dạy của giảng

viên đến sự thích ứng của sinh viên cho thấy, sinh viên đánh giá mức độ ảnh hưởng

của phương pháp đến sự thích ứng ở mức trung bình (16.2%), ảnh hưởng nhiều

(83.8%). Như vậy chúng ta thấy, sinh viên đã có nhận thức rất rõ ràng phương pháp

giảng dạy của giảng viên phần lớn ảnh hưởng nhiều đến sự thích ứng cũng như kết

quả học tập của sinh viên. Đây cũng là kết quả đáng chú ý khi tiến hành các biện

pháp thúc đẩy sự thích ứng ứng cho SV dựa vào các hoạt động thay đổi phương

pháp giảng dạy ở giảng viên.

4.3.2.2 Đặc điểm học tập của sinh viên

Đặc điểm học tập của sinh viên ảnh hưởng rất nhiều đến sự thích ứng của họ.

Đặc điểm học tập thể hiện qua những điều kiện học tập, điểm số học tập, đặc thù

123

ngành học, sự quản lý của nhà trường (giờ giấc lên lớp, yêu cầu của kí túc xá, yêu

cầu của giảng viên). Đặc điểm học tập của sinh viên có ảnh hưởng nhất định đến kết

quả học tập của các em. Chúng tôi đi tìm hiểu kết quả học tập của sinh viên trong

năm học vừa qua. Kết quả này không quyết định toàn bộ sự thích ứng của sinh viên

với hoạt động học tập nhưng nó cũng thể hiện rõ ràng hơn những kết quả của quá

trình thích ứng với học tập ở trường đại học.

Biểu đồ 8: Đánh giá về kết quả học tập của năm học Kết quả học tập của sinh viên qua 2 học kì cho thấy, học kì I sinh viên xếp

loại học lực yếu (5.4%), trung bình (75.9%), khá (14.3%) và giỏi, xuất sắc (4.4%).

Con số này cho biết ở học kì một vẫn có sinh viên xếp học lực yếu, phần lớn sinh

viên có học lực trung bình, và đã có tỷ lệ nhỏ sinh viên đạt học lực loại giỏi, xuất

sắc. Vậy kết quả học tập ở học kì II có sự thay đổi hay không sau khi trải qua một

quá trình rút kinh nghiệm học tập ở học kì I. Tổng hợp số liệu thu được, ở học kì

II phần lớn sinh viên có học lực trung bình (38.6%) và khá (61.4%). Học kì này

không có sinh viên xếp loại học lực yếu hay kém. Tuy nhiên sinh viên đạt học lực

khá giỏi lại không có em nào. Như vậy, có thể thấy kết quả học tập của sinh viên ở từng học kì sẽ có những biến đổi nhất định, điều này phụ thuộc vào các yếu tố chủ quan hoặc khách quan tạo ra.

Điểm số học tập phản ánh chất lượng học tập của sinh viên nhưng tiêu chí đánh giá về các hành động, hành vi vận dụng kĩ năng của sinh viên trong học tập

124

cũng là vấn đề cần được đề cấp đến. Khi đối xem xét đặc điểm học tập của sinh viên với kết quả học tập, phần lớn sinh viên đánh giá những đặc điểm học tập như điểm số, sự quản lý của nhà trường có ảnh hưởng rất nhiều đến sự thích ứng của các

em với hoạt động học tập (76.0%). Bởi vì, trong những đặc điểm này có liên quan đến điểm số, sự quản lý của nhà trường về giờ giấc học tập, những yêu cầu của

giảng viên đối với sinh viên đã tạo ra những nguyên nhân gây áp lực, khiến sinh

viên bị chi phối nhiều hơn dẫn đến ảnh hưởng nhiều đến sự thích ứng của họ. Ngoài

ra, ngành học là phản ánh chuyên ngành đào tạo với những yêu cầu và mang tính nghề nghiệp có đặc trưng riêng so với các ngành học khác cũng là yếu tố tác động

đến sự thích ứng của SV DTTS. Ở mỗi ngành sẽ có các tiêu chí đầu ra, các yêu cầu

đảm bảo về khối lượng kiến thức và khả năng thực hành của sinh viên. Cho nên ngành học có sự ảnh hưởng tới hứng thú, nhu cầu học tập ở sinh viên. Nếu ngành

học có những yêu cầu quá khắt khe, khắc nghiệt sẽ tạo ra những khó khăn rất lớn

khiến cho sinh viên có thể thích ứng kém với hoạt động học tập chuyên ngành. Để

bổ sung thêm thông tin, chúng tôi có đặt ra câu hỏi xem sinh viên có yêu thích

ngành học hiện nay không ? Có (72.4%) cho rằng yêu thích ngành học mình đang

theo đuổi. Như vậy, dù xem xét ở góc độ nào thì cũng không thể đánh giá 100%

sinh viên đều yêu thích ngành học mà mình đang theo đuổi. Bởi có rất nhiều lý do

để sinh viên chọn ngành học. Trong các lý do có thể xuất phát từ nguyên nhân chủ

quan yêu thích, do mong muốn được học tập ở bậc đại học nên quyết tâm thi đỗ,

hoặc các nguyên nhân khách quan do gia đình có thể xin được việc sau khi tốt

nghiệp, do yếu cầu của điểm số thi đầu vào thấp nên sinh viên đăng kí vào học...

4.3.2.3 Điều kiện sống Môi trường sống là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên

và môi trường xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của cá

nhân. Những điều kiện có thể kể đến như kinh tế gia đình, tuyền thống văn hóa và

giáo dục gia đình, nơi ăn ở, tài liệu, sách vở và thiết bị thông tin.... Sinh viên là một

chủ thể cho nên sẽ chịu rất nhiều ảnh hưởng và tác động của các điều kiện và môi

trường sống xung quanh các em.

Kết quả điều tra cho thấy, phần lớn sinh viên đánh giá yếu tố môi trường có ảnh hưởng nhiều đến sự thích ứng của sinh viên với hoạt động học tập (64,7%). Số sinh viên còn lại cho rằng nó ảnh hưởng rất ít hoặc không ảnh hưởng. Sở dĩ có sự đánh giá khác nhau này là do tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với sự thích ứng của sinh viên còn phụ thuộc vào lập trường,

quan điểm, thái độ của sinh viên đối với các ảnh hưởng đó, cũng như tùy thuộc

vào xu hướng và năng lực, vào mức độ mà sinh viên tham gia vào môi trường

125

hoạt động nhiều hay ít. Nếu SV có mục đích, động cơ học tập đúng đắn với hoạt

động học tập cộng với những điều kiện và môi trường thuận lợi, các em sẽ thích ứng tốt hơn với những thay đổi của cuộc sống, từ đó hình thành và phát triển

những điểm điểm tâm lý và nhân cách của mình.

Chúng tôi tìm hiểu một số đặc điểm dân tộc cũng như các điều kiện sống ảnh

hưởng đến sự thích ứng của SV DTTS, số liệu thu được góp phần bổ sung thêm những thông tin cho nhà nghiên cứu khi kết luận về những yếu tố ảnh hưởng đến sự

thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập.

Bảng 4.30: Ảnh hưởng của đặc điểm dân tộc đến thích ứng của SV

Nội dung Tỷ lệ (%)/Mức độ/ĐTB

Ảnh

Không Ảnh Trung Ảnh hưởng

ảnh hưởng ít bình hưởng rất ĐTB

hưởng nhiều nhiều

1. Ngôn ngữ phổ thông 10.5 35.2 29.8 15.7 8.7 3.33 hạn chế

2. Phong tục dân tộc 17.9 28.6 3.2 3.60 16.3 34.0

3. Bản sắc văn hóa gia 13.5 42.2 12.2 28.6 3.5 3.78 đình

4. Đặc điểm tâm lý, tính 34.1 15.2 19.7 27.8 3.2 3.74 cách dân tộc

5. Môi trường sống 16.7 23.2 3.7 3.94 17.5 38.6

6. Điều kiện kinh tế, vật 16.3 32.5 13.0 24.6 24.8 3.78 chất gia đình

7. Lòng tự tôn dân tộc 21.0 18.9 7.6 3.53 18.3 34.1

17.9 31.7 27.0 17.1 6.2 3.42 8. Bất đồng văn hóa trong giao tiếp, ứng xử

9. Giáo dục gia đình 25.6 20.0 7.3 3.41 12.4 34.8

Nhìn bảng số liệu trên thấy phần lớn sinh viên cho rằng các đặc điểm dân tộc,

126

từ nội dung 1 đến 9 đều có ảnh hưởng từ ít cho đến ảnh hưởng rất nhiều. Với nội dung ngôn ngữ phổ thông hạn chế ảnh hưởng đến sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên nhưng có điểm giá trị trung bình thấp nhất so với các nội dung

khác (ĐTB = 3.33), tỷ lệ rất nhỏ sinh viên đánh giá rằng nó không ảnh hưởng đến sự thích ứng với HĐHT (8.7%). Điều này cho thấy, phần lớn SV là người DTTS có

thể nói, đọc, viết tiếng Việt thành thạo. Khi đặt câu hỏi bản sắc văn hóa của dân tộc

có cản trở sự hòa nhập của em với môi trường văn hóa ở trường đại học không ? Có

(66.7 %) và (33.3%) sinh viên trả lời là không.

Khi đối chiếu với điểm trung bình theo các mức độ thích ứng phần lớn các

đánh giá đạt mức độ thích ứng khá trở lên như đặc điểm Phong tục dân tộc (ĐTB =

3.60), Bản sắc văn hóa gia đình (ĐTB = 3.78), Đặc điểm tâm lý, tính cách dân tộc (ĐTB = 3.74), Môi trường sống (ĐTB = 3.94). Như vậy, phần lớn SV đều cho rằng

các yếu tố đặc điểm dân tộc có ảnh hưởng nhiều đến sự thích ứng của SV DTTS với

hoạt động học tập.

- Đánh giá chung về các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng của sinh viên

dân tộc thiểu số với hoạt động học tập

Trong phần này, chúng tôi xem xét mối quan hệ của các yếu tố ảnh hưởng

lên mức độ thích ứng của các nhóm SV thuộc các dân tộc khác nhau.

Bảng 4.31: Mối quan hệ của các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng của SV

DTTS

Các yếu tố ảnh hưởng

Dân tộc Các mặt thích ứng Chung Chủ quan Khách quan

r p r p r p

Thích ứng nói chung -0.39 0.00 -0.60 0.00 0.18 0.09

TƯ về mặt nhận thức 0.04 0.53 -0.05 0.50 0.02 0.15 Tày TƯ về mặt thái độ -0.74 0.00 -0.84 0.00 -0.24 0.00

TƯ về mặt hành vi 0.004 0.95 -0.26 0.00 0.38 0.00

Thích ứng nói chung -0.39 0.00 -0.66 0.00 0.15 0.02

TƯ về mặt nhận thức 0.05 0.46 -0.18 0.01 0.32 0.00

TƯ về mặt thái độ -0.74 0.00 -0.86 0.00 -0.24 0.00 H'mông- Dao

TƯ về mặt hành vi -0.14 0.03 -0.45 0.00 0.33 0.00

Thích ứng nói chung -0.42 0.00 -0.64 0.00 0.07 0.39

TƯ về mặt nhận thức 0.10 0.20 -0.03 0.73 0.21 0.006

Ghi chú: r – hệ số tương quan Pearson; p – mức ý nghĩa.

127

TƯ về mặt thái độ -0.79 0.00 -0.90 0.00 -0.25 0.00 Nhóm dân tộc khác TƯ về mặt hành vi -0.09 0.24 -0.33 0.00 0.26 0.00

Cụ thể, chúng ta xem xét mối quan hệ tương quan của các nhóm yếu tố ảnh

hưởng tới các mặt của thích ứng học tập như sau:

Sự tương quan của yếu tố ảnh hưởng nói chung: Mối quan hệ của yếu tố ảnh

hưởng nói chung và sự thích ứng học tập có mối quan hệ tương quan nghịch, độ mạnh trung bình : rTày = rH’Mông-Dao = -0.39; rKhác = -0.42; Các yếu tố ảnh hưởng nói chung không có quan hệ tương quan với thích ứng về mặt nhận thức; đối với mặt

hành vi, các yếu tố ảnh hưởng chỉ tác động đến mặt thích ứng hành vi của nhóm dân

tộc H’Mông – Dao nhưng hệ số tương quan thấp r = -0.14.

Sự tương quan của các yếu tố chủ quan: Yếu tố ảnh hưởng chủ quan có mối

quan hệ tương quan tương nghịch tương đối mạnh với sự thích ứng chung: 0.6<│r

│<0.8. Đối với mặt nhận thức, yếu tố chủ quan chỉ tác động đến thích ứng của

nhóm SV dân tộc H’Mông – Dao; tuy nhiên sự ảnh hưởng này rất yếu: r = -0.18.

Đánh chú ý là ở mặt thích ứng thái độ, các yếu tố chủ quan có tác động nghịch rất

mạnh: │r│> 0.8. Điều đó cho thấy các khía cạnh về khả năng tìm tòi, khả năng giao

tiếp, ý chí khắc phục khó khăn có mối liên hệ chặt chẽ với sự thích ứng học tập về

mặt thái độ của SV dân tộc thiểu số. Trong khi đó, về mặt thích ứng hành vi thì mối

liên hệ này chỉ ở mức độ trung bình.

Sự tương quan của các yếu tố khách quan: Điểm chung là hầu hết quan hệ

tương quan giữa các yếu tố khách quan với các mặt thích ứng theo chiều thuận, nhưng

mức độ tương quan ở mức thấp hoặc trung bình. Chỉ riêng đối với mặt thái độ thì mối

quan hệ ở chiều nghịch và hệ số tương quan ở mức trung bình: -0.4 < r < -0.2.

Nhìn chung, đối với cả ba nhóm dân tộc, trong các mặt của sự thích ứng học

tập thì các yếu tố ảnh hưởng tác động mạnh tới mặt thái độ, thứ hai là mặt hành vi,

tác động ít hoặc không có mối quan hệ ảnh hưởng tới mặt nhận thức. Để nâng cao mức độ thích ứng với hoạt động học tập, giảm bớt những ảnh hưởng của các yếu tố khách quan cũng hư chủ quan, cần phải có những biện pháp tác động đến sự thích

ứng học tập của SV DTTS trong trường đại học.

4.4. Một số biện pháp cơ bản nâng cao mức độ thích ứng của sinh viên

dân tộc thiểu số với hoạt động học tập

Sự thích ứng học tập của sinh trong các năm học tại trường đại học có tốt

hay không phụ thuộc rất nhiều vào chính bản thân sinh viên, ngoài ra khi trường đại

học có những biện pháp tác động tích cực sẽ giúp cho SV DTTS nâng cao được

128

mức độ thích ứng học tập trong từng hoạt động. Luận án này đưa ra một số biện

pháp cơ bản như tăng cường phương pháp giảng dạy cho giảng viên, tổ chức hoạt động nhóm, câu lạc bộ kỹ năng sống, tham vấn tâm lý cá nhân sẽ góp phần nâng

cao hơn nữa mức độ thích ứng của SV DTTS với hoạt động học tập.

4.4.1. Hoạt động nhằm tăng cường phương pháp giảng dạy của giảng

viên theo hướng tiếp cận năng lực

Muốn nâng chất lượng đào tạo ở trường đại học, ngoài các yếu tố về cơ sở

vật chất, chương trình đào tạo thì việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng

viên là một yêu cầu cần được ưu tiên trong quản lý giáo dục. Mỗi giảng viên cần biến giờ dạy thành một hoạt động vui vẻ, có ý nghĩa, hình thành ở sinh viên thái độ

học tập đúng đắn, có khả năng nhận thức được vấn đề và giải quyết được vấn đề

một cách thông minh sáng tạo. Để làm được như vậy người giảng viên cần không

ngừng đổi mới và cải tiến phương pháp giảng dạy sao cho luôn luôn là những phải

là những phương pháp dạy học hiện đại, khoa học. Tiếp cận được xu thế chung của

giáo dục đại học thế giới.

Hiện nay, giáo dục đại học Việt Nam đang vận dụng những phương pháp

dạy học tích cực theo hướng tiếp cận năng lực, hình thành ở người học những năng

lực cần thiết cho cuộc sống. Bên cạnh việc tuân thủ thực những kỹ thuật của mỗi

phương pháp riêng biệt, để nâng cao được sự thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu

số với phương pháp dạy học tích cực khi tổ chức hoạt động học tập cho sinh viên.

Trong quá trình thực hiện các hoạt động nhằm tăng cường phương pháp

giảng dạy của giảng viên theo hướng tiếp cận năng lực đối với một số môn học Tâm

lý học - Giáo dục học tại Bộ môn Tâm lý - Giáo dục trường Đại học Tân Trào. Các

giảng viên cùng thảo luận kết quả đánh giá các giờ dạy và thống nhất biên bản ghi

nhớ về hoạt động nhằm tăng cường phương pháp giảng dạy của giảng viên theo

hướng tiếp cận năng lực, tăng cường thích ứng học tập cho sinh viên dân tộc thiểu

số. Dưới đây là phần trích và tóm tắt biên bản ghi nhớ như sau:

TRÍCH BIÊN BẢN TỔNG HỢP ĐÁNH GIÁ GIỜ DẠY (Từ tháng 8 đến tháng 12/2014)

I. Thời gian, thành phần, địa điểm + Thời gian: 9h ngày 12/12/2014 + Địa điểm: Văn phòng bộ môn Tâm lý – Giáo dục

+ Thành phần:

Giảng viên giảng dạy: Mã Ngọc Thể

129

Giảng viên dự giờ: N.T.C, C.T.M.N, N.Đ.T.

+ Chủ tọa: N.T.C - Trưởng nhóm + Thư ký: N.Đ.T

II. Nội dung:

Đánh giá, thảo luận về phương pháp giảng dạy của giảng viên và kết luận

thống nhất các kinh nghiệm cho tất cả các giảng viên khi giảng dạy nhằm tăng cường thích ứng của SV DTTS với hoạt động học tập.

Nội dung tập trung vào các vấn đề sau:

- Giảng viên đã đáp ứng được những yêu cầu để các phương pháp dạy học

tích cực phát huy hiệu quả cao như sau:

+ Giảng viên đã có những phương pháp giảng dạy phù hợp với đặc điểm

tâm sinh lý, đặc điểm nhận thức của sinh viên dân tộc thiểu số, luôn luôn chú ý tạo

“tình huống có vấn đề” nhằm khêu gợi hứng thú học tập, khả năng tư duy sáng tạo,

yếu tố tâm lý dân tộc, khả năng giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ của mỗi sinh viên.

+ Tổ chức được các hoạt động học tập theo nhóm cho sinh viên hòa nhập và

nhanh thích ứng hơn trong giao tiếp với giảng viên và các bạn sinh viên khác.

- Đánh giá: Kết quả các giờ dạy là rất hiệu quả, có thể nâng cao được mức độ

thích ứng cho SV DTTS với hoạt động học tập.

- Một số ý kiến chung cho các giảng viên khi tổ chức các hoạt động học tập

theo nhóm. Các giảng viên cần quan tâm chú ý đến các phương pháp giảng dạy tích

cực nhằm tác động đến sinh viên dân tộc thiểu số qua các biểu hiện nhận thức, thái

độ và hành vi. Cụ thể như sau:

+ Về mặt nhận thức, giảng viên chú ý tăng cường tính tích cực nhận thức

như tư duy, tưởng tưởng, trừu tượng hoá, tổng hợp, phân tích, sáng tạo,… vào hoạt

động học của sinh viên, hỗ trợ để sinh viên biết tìm cách để đáp ứng những yêu cầu,

đòi hỏi của giảng viên về bài học và cố gắng vượt qua các thử thách do vấn đề học

thuật mang lại.

+ Hình thành cho sinh viên thái độ đúng đắn về mục tiêu, động cơ học, và khả năng tự quản lý, tự học. Có tâm thế sẵn sàng, nỗ lực cố gắng rèn luyện các kỹ năng học tập. Chú ý đến thái độ lắng nghe giảng viên thuyết trình, đặt câu hỏi cho giảng viên về những vấn đề chưa hiểu, tham gia thảo luận với bạn cùng lớp…hoặc những biểu hiện thờ ơ và cử chỉ không hứng thú.

+ Về mặt hành vi, chú ý đến các biểu hiện: xác lập các hành động tích cực

130

(tuân thủ nội quy lớp học), thực hiện các nhiệm vụ học tập (chú ý, tập trung, kiên trì,

nỗ lực, trình bày thắc mắc, đóng góp cho thảo luận…) và tham gia vào các hoạt động tập thể (chơi trò chơi, giúp đỡ bạn bè trong học tập…).

- Giảng viên cần chú ý quan sát những hành vi: hiện diện trong lớp, lắng

nghe lúc giảng viên thuyết trình hoặc bạn bè thảo luận, ghi chép bài học, làm bài tập,

tham gia thảo luận, trình bày trước nhóm, cả lớp, tham gia các hoạt động được giảng viên tổ chức trên lớp.

Từ thực tiễn giảng dạy và thảo luận trong nhóm giảng viên, chúng tôi nhận

thấy, để tăng cường sự thích ứng cho SV DTTS với hoạt động học tập mỗi giảng viên ngoài sử dụng đúng các kỹ thuật của mỗi phương pháp giảng dạy cần hết sức

linh hoạt trong việc vận dụng các phương pháp sao cho những tác động tâm lý,

quan sát tâm lý đối với sinh viên dân tộc thiểu số đạt được mục đích hình thành

nhận thức, thái độ và hành vi học tập tích cực, phát huy được năng lực tự chủ, tự

học và nâng cao năng lực, sở trường của bản thân các em trong mọi tình huống học

tập và ứng xử hài hòa trong cuộc sống.

4.4.2. Tổ chức nhóm, câu lạc bộ kỹ năng sống cho sinh viên Đây là hình thức hoạt động rất thiết thực và có ý nghĩa đối với sinh viên nói

chung và sinh viên dân tộc thiểu số nói riêng. Khi nhà trường tiến hành tổ chức các

buổi sinh hoạt tập thể dưới hình thức nhóm, câu lạc bộ kỹ năng sống cho sinh viên,

các em sẽ có nhận thức đúng về các giá trị sống, có thái độ tích cực đấu tranh với

cái xấu để hoàn thiện bản thân cũng như hình thành các kỹ năng sống lành mạnh

hướng đến một tương lai tốt đẹp.

Sinh hoạt trong câu lạc bộ sinh viên dân tộc thiểu số có cơ hội học hỏi kinh

nghiệm, trao đổi thông tin, nghiên cứu khoa học và lập nghiệp nhờ đó phát huy hiệu

quả các kiến thức chuyên môn và phát triển tiềm năng cá nhân, thích ứng nhanh hơn

với tình hình thực tế, đáp ứng nhanh nhu cầu càng cao của của xã hội.

Khi tổ chức nhóm và câu lạc bộ kỹ năng sống cho sinh viên chúng tôi tiến

hành thực hiện các giai đoạn như sau:

131

1. Xác định các chủ đề hoạt động 2. Hình thành nhóm, câu lạc bộ 3. Giới thiệu, làm quen 4. Giới thiệu mục tiêu, nội dung, tính chất hoạt động 5. Thảo luận nhóm: xây dựng nội quy, quy chế, điều lệ hoạt động 6. Tổ chức các hoạt động theo chủ đề cho nhóm và câu lạc bộ.

7. Xây dựng các kế hoạch hoạt động, phân công công việc, sự tham gia của

mỗi thành viên trong các hoạt động chung. 8. Thực hiện các hoạt động. 9. Lượng giá, tổng kết các hoạt động. Các hoạt động của nhóm sinh hoạt theo hình thức quy định tối thiểu 1 buổi/tháng. Mọi hoạt động, phân công các thành viên thực hiện theo kế hoạch đã

được cả nhóm, câu lạc bộ lập ra.

Khi sinh viên tham gia vào các hoạt động nhóm, câu lạc bộ các em sẽ tăng được tính chủ động trong giao tiếp, tích cực hơn. Vì vậy, tổ chức các hoạt động sinh

hoạt nhóm, câu lạc bộ kỹ năng sống cho sinh viên dân tộc thiểu số là một biện pháp

tác động để nâng cao mức độ thích ứng, giúp sinh viên thích ứng nhanh hơn với

các hoạt động học tập ở trường đại học.

4.4.3. Kết quả tham vấn tâm lý cá nhân cho sinh viên Tham vấn tâm lý là một hình thức tiếp xúc tâm lý giữa chuyên gia tâm lý -

giáo dục đối với những sinh viên dân tộc thiểu số cần đến sự hỗ trợ về những vấn đề

tâm lý cá nhân có liên quan đến học tập và sinh hoạt trong cuộc sống.

Việc sử dụng hình thức tham vấn tâm lý cá nhân trong trường học đã

có từ lâu ở các trường đại học trên thế giới, tuy nhiên, ở Việt Nam vẫn chưa trở

thành một hệ thống và chưa đáp ứng được nhu cầu hỗ trợ tâm lý của sinh viên. Vì

vậy, đưa tham vấn tâm lý vào các trường đại học ở Việt Nam là hoạt động hết sức

có ý nghĩa.

Các bước tham vấn chúng tôi tập trung vào các vấn đề cơ bản sau: 1. Giới thiệu làm quen, xác định mục tiêu tham vấn và kế hoạch giúp đỡ

thân chủ.

2. Xác định vấn đề của thân chủ 3. Lên kế hoạch giúp đỡ 4. Thảo luận về quá trình thực hiện 5. Lượng giá kết quả 6. Xây dựng mục tiêu tương lai, nguồn hỗ trợ, sự tham gia của thân chủ

trong các hoạt động tương lai.

Các vấn đề trên được nhà tham vấn thực hiện lồng ghép vào từng buổi

tham vấn sao cho phù hợp với mỗi thân chủ để đảm bảo tham vấn đạt được kết

132

quả tốt nhất..

Dưới đây là những phân tích, mô tả các trường hợp điển hình tham vấn tâm lý sẽ cho thấy hiệu quả của tham vấn tâm lý đối với việc nâng cao mức độ thích ứng

của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập.

4.5. Phân tích trường hợp tham vấn tâm lý nhằm nâng cao khả năng

thích ứng học tập của sinh viên dân tộc thiểu số

Với mục đích nâng cao mức độ thích ứng học tập cho SV DTTS, luận án này

thực hiện hoạt động tham vấn tâm lý cá nhân cho 2 sinh viên có sự thích ứng thấp

và trung bình. Sinh viên N.Đ.H và sinh viên N.N. A là hai trường hợp có những vấn đề cần có sự hỗ trợ tâm lý của giảng viên, chuyên viên tham vấn tâm lý trong

trường học. Trường hợp N.Đ.H có những vấn đề tâm lý cá nhân, hoàn cảnh gia đình,

điều kiện sống ảnh hưởng rất lớn đến sự thích ứng, thâm chí tạo ra nhiều cản trở

khiến cho SV này luôn gặp khó khăn trong học tập. Đối với trường hợp N.N.A có

sự thích ứng với hoạt động học tập ở mức trung bình nhưng bản thân em này lại gặp

những khó khăn về nhận thức, dẫn đến khó hình thành các hành vi học tập chủ động,

tích cực. Bản thân em này có những mâu thuẫn trong suy nghĩ về sự lựa chọn, sắp

xếp các môn học, dành thơi gian cho học tập…Dưới đây là những mô tả các hoạt

động của chuyên viên tâm lý đối với hai trường hợp nêu trên

4.5.1. Trường hợp 1 Em N.Đ.H, giới Nam, học lớp ĐH V – T, Trường ĐH TT. Em là dân tộc

Dao ở huyện QB tỉnh HG. H sinh ra trong một gia đình có 5 người là bố, mẹ, Chị

gái, H và cô em gái. Bố mẹ H đều là nông dân và làm nghề tự do, nhưng công việc

làm thêm thất thường do đó gia đình luôn khó khăn vẫn trông chờ vào việc làm

nông nghiệp và chăn nuôi gia súc, gia cầm. H là người có mức độ thích ứng thấp

với hoạt động học tập.

Tiểu sử - Quá trình học tập của H từ nhỏ cho đến hiện tại (học lực, hạnh kiểm,...) + Tiểu học: Lên đến tiểu học, em là một trong 3 học sinh học rất kém về Tiếng Việt và Toán. Em luôn phải cố gắng cho bằng bạn bè. Suốt 5 năm học cấp 1, em đều không tập trung học, cứ đến sát kỳ thi em mới ra sức học bài.

- Khi học tập ở trường PT Nội trú tỉnh H cảm thấy không thích học, em không hiểu vì sao mình lại không thích; em không hiểu vì sao em lại không thể nhớ

nổi bài lịch sử em đã học thuộc kỹ ở nhà để chép vào bài kiểm tra… H kể: “nhiều

lúc em cũng không thích nói chuyện riêng trong giờ học nhưng các bạn hay quay

133

sang hỏi, lại hay gây sự với em nên em cứ phải nói lại…”.

Hiện tại H đang sống ở trong KTX cùng với 6 bạn khác ở tầng 3. Các bạn sống cùng phòng với H đến từ các tỉnh và học ở các hệ CĐ, ĐH khác nhau. Trong

phòng luôn có người ra vào, ồn ào, mất trật tự, em luôn đi ra ngoài chơi rồi đến giờ

về ngủ hoặc đắp chăn ngủ suốt cả ngày không trò chuyện với ai.

Tình hình học tập cả học kỳ vừa qua, em không tập trung học, cụ thể là học kỳ vừa rồi, em hay nghỉ học, không hề làm bài kiểm tra, đến lớp thì hay ngồi chơi

cờ ca-rô với bạn. Có nhiều lần em bị giảng viên nhắc nhở về thái độ học tập không

nghiêm túc.

Hoàn cảnh gia đình, điều kiện sống và học tập Kinh tế gia đình tương đối khó khăn nên nên H có cuộc sống không đầy đủ về

vật chất, bố mẹ H cũng là những người nông dân chân lấm tay bùn, việc làm thêm

thất thường nên sự quan tâm đến việc học tập của H thường là sao nhãng. Đến khi

học trung học cơ sở, bố mẹ xin cho H vào học trường dân tộc nội trú huyện. Từ đó H

phải xa gia đình, tự lập với số tiền ít ỏi hàng tháng gia đình gửi lên. Sự khốn khó ít

nhiều khiến H cảm thấy căng thẳng, mệt mỏi, e dè và ngại giao tiếp với người lạ.

Ở lớp, em được sắp xếp theo ngồi theo tổ, nơi mà em không thích vì ở góc

cuối lớp. Ngồi cùng với hai bạn nữ hay nói chuyện riêng, không tập trung, không

tham gia vào các hoạt động của lớp. Điều đó làm ảnh hưởng rất nhiều đến em. Do

đó H đã chán nản lại càng thêm chán nản không muốn trò chuyện với bạn cùng lớp

và luôn né tránh giáo tiếp với hai bạn ngồi cùng bàn với mình.

H cho biết, khi còn ở nhà, có bố mẹ và các chị, em thì em luôn thấy vui vẻ.

Nhưng từ khi đi học, ở phòng trọ KTX ồn ào dẫn đến em thấy khó chịu, cứ đến lớp

thì em lại mất tập trung, không hẳn là chống đối, nhưng em thường xuyên không

chủ động tham gia vào hoạt động học tập như các bạn ở lớp.

Đặc điểm thân chủ Các sự kiện liên quan đến mối quan hệ bạn bè, môi trường bên ngoài không có gì đặc biệt, ngoại trừ H cảm thấy khó chịu với không khí ồn ào của phòng trọ KTX và vấn đề hay nói chuyện riêng của hai bạn nữ cùng bàn.

Quan sát thái độ, tướng mạo, khí sắc: tướng mạo, khí sắc bình thường, các

ứng xử phi ngôn ngữ: không có gì đặc biệt.

+ Năng lực: năng lực học tập của H vào loại trung bình, nhưng do H không

thích học và không muốn học nên H học sút. Theo H nói, nếu em tập trung thì kết

quả sẽ cao hơn.

134

+ Phẩm chất : H là người con ngoan ngoãn, hiền lành, dễ gần.

+ Khó khăn : Không tập trung học, nguyên nhân là do không hòa nhập được với môi trường học tập mới, bạn bè mới. Nguyên nhân của việc H không dễ

dàng hoàn nhập, nói chuyện với bạn bè là vì H cảm thấy lo lắng, mất tự tin. Qua

quan sát, nhà nghiên cứu thấy sức khỏe của H tốt, không có vẻ ốm đau gì đặc biệt.

Nhưng ẩn chứa trong mắt thấp thoáng vẻ buồn buồn.

- Đánh giá ban đầu

H là người có sự mâu thuẫn giữa nhận thức và hành vi. H nhận thức rất tốt về

những ảnh hưởng của việc khó chịu, không hòa nhập được với các bạn học cùng lớp, thấy hạn chế của bản thân trong giao tiếp với bạn bè nhưng H cảm thấy ngại, bối rối

khi gặp các bạn gái,... Nhà tham vấn cho rằng, có thể giúp đỡ được H lấy lại cân

bằng thông qua trò chuyện về những điều H mong muốn, những điều H thấy còn

băn khoăn, e ngại...hoặc huấn luyện cho H những kĩ năng cần trong cuộc sống để

em hòa nhập được với môi trường học tập mới.

Tóm tắt nội dung các buổi làm việc với thân chủ

1. Giới thiệu làm quen, xác định vấn đề, mục tiêu tham vấn và lập kế

hoạch giúp đỡ.

Nhà tham vấn và H trò chuyện làm quen, em tỏ ra là một sinh viên không sẵn

sàng và không cởi mở, em rất dè dặt khi trình bày ý kiến của mình.

Sau khi được giải thích về công việc của một người làm công tác tâm lý (về

chức năng nhiệm vụ, về tính bảo mật thông tin, về một số nguyên tắc đạo đức nghề

nghiệp…), và mục đích của việc nghiên cứu về thích ứng của SV DTTS. Từ mục

đích này dẫn đến có chương trình tham vấn tâm lý cho sinh viên có nhu cầu được

tham vấn về tâm lý có liên quan đến học tập của sinh viên. Sau khi nắm rõ mục đích

H đã yên tâm về mật bảo mật thông tin nên tỏ ra vui vẻ và có những cử chỉ thoải

mái, dễ gần, thân thiện, nói năng dễ nghe hơn khi chia sẻ với nhà tham vấn.

Nhà tham vấn cùng thân chủ trò chuyện một số vấn đề có liên quan đến cá

nhân của sinh viên như tên, tuổi, dân tộc, hoàn cảnh gia đình và điều kiện học tập.

Trò chuyện trao đổi về những thông tin cơ bản đã giúp nhà tham vấn xác

đinh được một số vấn đề cần hỗ trợ tâm lý cho H, các nội dung: + H là người có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế. + Có những hạn chế về kĩ năng giao tiếp.

+ Tự ti mặc cảm về bản thân và gia đình.

Về cơ bản, nhà tham vấn cùng thân chủ thống nhất các vấn đề trên đã tạo ra

135

tình trạng của H hiện nay, và thống nhất sẽ thực hiện các buổi tham vấn tiếp theo để

cùng làm việc tháo gỡ những khó khăn tâm lý cho H, giúp em thích ứng được với hoạt động học tập.

Nhà tham vấn cùng thân chủ thống nhất chương trình làm việc và cam kết

thực hiện kế hoạch tham vấn.

2. Thảo luận về quá trình thực hiện Nhà tham vấn cùng với H trao đổi về những điều H cảm thấy khó khăn khi

giao tiếp với bạn học cùng lớp.

Nhà tham vấn đã đặt những câu hỏi: NTV: Em có thể vui lòng cho biết, từ lúc học phổ thông đến giờ, em đã gặp

khó khăn gì trong học tập mà nó khiến em nhớ đến nhiều nhất?

TC: Dạ, có lẽ em nhớ nhất về thời kì cồn học ở trường nội trú ạ. Có thể nó

hơi trẻ con nhưng em thấy nó luôn khiến em nhớ nhất...

H kể: Khi học tập ở trường PT Nội trú tỉnh H cảm thấy không thích học, em

chẳng hiểu vì sao em lại không thích; em không hiểu vì sao em lại không thể nhớ

nổi bài lịch sử em đã học thuộc kỹ ở nhà để chép vào bài kiểm tra… H kể: “nhiều

lúc em cũng không thích nói chuyện riêng trong giờ học nhưng các bạn hay quay

sang hỏi, lại hay gây sự với em nên em cứ phải nói lại…”.

NTV: Chắc hẳn những điều đó sẽ làm em khó chịu?

TC: Dạ, lúc đầu em cũng không thấy khó chịu lắm, nhưng các bạn ấy hỏi

nhiều quá, mà em lại không thích cái kiểu hỏi khó chịu đấy. Em cũng sợ cô giáo

nhắc nhở nên không muốn nói chuyện và khi ra chơi em không chơi với các bạn

đó nữa.

NTV: Em không chơi với các bạn nữa thì điều gì sẽ xảy ra?

TC: Em biết không chơi với các bạn sẽ làm cho mình không có bạn, nhưng em

thấy như thế sẽ thoải mái hơn, em thích làm gì thì làm chứ chơi với các bạn ấy làm

em thấy không thoải mái mỗi khi các bạn ấy trêu chọc em, em thích sự yên lặng.

NTV: Em có thể nói rõ hơn, sự yên lặng mà em yêu thích đó có ảnh hưởng gì

đến em hiện nay không?

Thân chủ kể: Sự yên lặng đó làm cho em gặp khó khăn khi đối diện với bạn cùng lớp, khi tham gia các hoạt động chung làm cho em không thấy tự tin lắm vì H nghĩ em không chơi với các bạn nên khi bắt buộc phải học chung thì miễn cưỡng

chơi cùng chứ không có ý định chơi với các bạn ấy lâu dài....Hiện tại H đang sống ở

trong KTX cùng với 6 bạn khác ở tầng 3. Các bạn sống cùng phòng với H đến từ

136

các tỉnh và học ở các hệ CĐ, ĐH khác nhau. Trong phòng luôn có người ra vào, ồn

ào, mất trật tự, em luôn đi ra ngoài chơi rồi đến giờ về ngủ hoặc đắp chăn ngủ suốt cả ngày không trò chuyện với ai. Tình hình học tập cả học kỳ vừa qua, em không

tập trung học, cụ thể là học kỳ vừa rồi, em hay nghỉ học, không hề làm bài kiểm tra,

đến lớp thì hay ngồi chơi cờ ca-rô với bạn. Có nhiều lần em bị giảng viên nhắc nhở

về thái độ học tập không nghiêm túc.

Ở lớp, em được sắp xếp theo ngồi theo tổ, nơi mà em không thích vì ở góc

cuối lớp. Ngồi cùng bạn với hai bạn nữ hay nói chuyện riêng, không tập trung,

không tham gia vào các hoạt động của lớp. Điều đó làm ảnh hưởng rất nhiều đến em. Do đó H đã chán nản lại càng thêm chán nản không muốn trò chuyện với bạn

cùng lớp và luôn né tránh giao tiếp với hai bạn ngồi cùng bàn với mình.

Nhà tham vấn cùng thân chủ phân tích hậu quả của việc không giao tiếp sẽ

tạo ra những khó khăn gì ở bản thân của thân chủ.

Nhà tham vấn có gợi ý để thân chủ viết liệt kê ra giấy những điểm mạnh của

thân chủ về tính cách, quan niệm sống, ý thức học tập. Cùng với đó thân chủ liệt kê

ra các điểm yếu của bản thân.

Nhà tham vấn cùng thân chủ xác định những vấn đề nên làm gì với điểm

mạnh và điểm yếu để giúp thân chủ nhận thức được giá trị căn bản giúp ích cho

thân chủ trong hoạt động học tập và liên quan đến giao tiếp.

Nhà tham vấn cùng thân chủ kết thúc buổi làm việc sau khi thống nhất, H về

nhà sẽ tiếp tục liệt kê chi tiết hơn những điểm mạnh và điểm yếu của bản thân, từ đó

hình thành về mặt nhận thức những phương pháp, cách thức giải quyết nó và đến

buổi sau sẽ cùng nhà tham vấn trao đổi cụ thể những vấn đề đó. Nhà tham vấn có

nhấn mạnh, việc liệt kê các điểm mạnh, điểm yếu là một bài tập bắt buộc ở nhà của

H cần thực hiện đến cùng điều đó. Buổi làm việc sau có thuận lợi và tốt hơn là phụ

thuộc vào kết quả ở việc thực hiện làm bài tập của H.

Nhà tham vấn cùng thân chủ phân tích những điểm mạnh và điểm yếu của H

dựa trên kết quả thực hiện bài tập liệt kê mà H đã thực hiện ở nhà.

Buổi làm việc này, nhà tham vấn cùng thân chủ tập trung vào các điểm: - Phân tích điểm mạnh của H đối với việc học tập hiện nay, H cho rằng, H có thể thay đổi được tình trạng hiện nay nếu H được chuyển vị trí ngồi trong lớp. H có thể chọn ngồi với một bạn mà H có thiện cảm. Nhà tham vấn đồng ý với cách suy

nghĩ của H vì nếu bản thân H cảm thấy thoải mái khi ngồi trong lớp học, chắc chăn

H sẽ ít cảm thấy ‘‘ấn tượng xấu’’ hơn và không cảm thấy bị làm phiền. Bản liệt kê

137

cho thấy H là người thật thà, sống theo suy nghĩ muốn đối xử tốt với mọi người

nhưng lại không muốn làm phiền người khác. Đặc điểm tâm lý này chính là điểm mạnh nhưng cũng có thể chính là điểm yếu của H. Bởi vì, H sống thật thà sẽ luôn

chỉ nghĩ gì làm đấy, đặc biệt không muốn làm phiền người khác sẽ tạo ra rào cản

trong giao tiếp, đó là không muốn nói ra những điều không hài lòng, không muốn

phê phán và sợ đụng chạm...

- Phân tích điểm yếu của H, H đã chỉ ra hạn chế của bản thân là có mặc cảm

về gia đình khó khăn, ít nói, ngại giao tiếp. H cũng có tâm lý tự ti khi gặp gỡ các

bạn sinh viên là người ở thành phố, hoặc các bạn nữ ăn mặc đẹp có tính kênh kiệu, nói nhiều...Nhà tham vấn cùng thân chủ trao đổi những nguyên nhân dẫn đến những

tâm lý đó, đặc biệt nhấn mạnh và xoáy sâu vào ấn tượng không tốt về các bạn thành

phố, việc ăn mặc đẹp và kênh kiệu. H đã bộc lộ được nguyên nhân tâm lý khi còn là

học sinh, nhà H nghèo nên H cùng các chị, em không có được quần áo đẹp, thường

phải mặc lại quần áo của người khác cho, có những bộ quần áo mặc nhiều do phải

lao động dẫn đến bị rách, phải khâu vá lại. Khi đến trường hay bị các bạn trêu và đã

từng bị các bạn kéo rách áo. Khiến H có mặc cảm về hoàn cảnh gia đình và ghét

những bạn con nhà giàu, khá giả. Những ấn tượng đó tạo cho h một cảm giác không

an toàn khi giao tiếp với các bạn thành phố, ăn mặc đẹp. Đặc biệt, sự trêu chọc

nhiều lần khiến cho H có cảm giác bị tra tấn bởi những lời nói nhiều. Cho nên H

không thoát ra được cảm giác gò bó, khó chịu, không thoải mái khi giao tiếp với

những người có đặc điểm liên quan đến ‘‘ấn tượng xấu đó’’...

- Nhà tham vấn cùng H đánh giá hậu quả của những cảm giác gò bó, khó

chịu, không thoải mái khi giao tiếp. H đã nhận thức được tình trạng hiện nay bị ảnh

hưởng rất nhiều bởi các cảm giác này. Từ trao đổi này H cho biết thêm hiện nay H ở

phòng trọ KTX ồn ào dẫn đến em thấy khó chịu, cứ đến lớp thì em lại mất tập trung,

không hẳn là chống đối, nhưng em thường xuyên không chủ động tham gia vào hoạt

động học tập như các bạn ở lớp.

Nhà tham vấn đã đặt : Em đã bao giờ nghĩ đến mình sẽ dùng cách nào để để giải quyết vấn đề này chưa? H có nói rằng em đã nghĩ đến việc tìm đọc những cuốn sách có liên quan đến kĩ năng giao tiếp, ứng xử hoặc đọc trên báo những tình huống tư vấn có liên quan đến vấn đề của em để tham khảo. Em cũng nhận thức rất rõ và hiểu mình nên làm gì với tình trạng của bản thân, nhưng sự khất lần, kéo dài khiến

cho em không thể thực hiện được ý định thay đổi bản thân. Vì em vẫn ngại, các bạn

sẽ nghĩ em có vấn đề đang không chơi với các bạn lại ‘‘tự dưng’’ thấy nói chuyện

138

với các bạn nhiều hơn. Nhà tham vấn có nói rằng, nếu em nhận thức được tình

trạng của mình như vậy, sao không bắt tay vào thực hiện với kế hoạch cụ thể? Nếu không bắt đầu từ bây giờ thì đến bao giờ em mới bắt đầu? H im lặng và không nói

gì. Nhà tham vấn có gợi mở nếu như có một kế hoạch cho việc tháo gỡ tình trạng

hiện nay của em, thì em sẽ làm gì đầu tiên? H nói, em đã suy nghĩ đến việc chỉ có

hành động cụ thể mới giúp em thoát dần ra được những tình trạng e ngại trong giao tiếp...nhà tham vấn có trao đổi thêm với thân chủ về mục đích, động cơ học tập của

H và những yếu tố sẽ ảnh hưởng đến hoạt động học tập. Nếu H không giao tiếp

được tốt sẽ có những hạn chế như không học hỏi được ở các bạn và giảng viên những điều cần thiết, quan trọng, những kiến thức chuyên sâu. Vì học là phải hỏi và

chia sẻ thông tin kiến thức. Nếu H không thể hiện được giao tiếp, chắc chắn sẽ tạo

ra cản trở cho việc học tập, sẽ bị cô lập nhiều hơn. Thời gian lâu dài sẽ làm cho H

khó hòa nhập được với việc học tập ở trường.

Sau khi đánh giá vấn đề, nhà tham vấn cùng thân chủ kết luận lại những

điểm quan trọng ảnh hưởng đến tâm lý tự ti, ngại giao tiếp và vai trò của việc hành

động giải quyết các khó khăn tâm lý đó. Cuối buổi, nhà tham vấn cùng thân chủ

thống nhất, H về nhà sẽ thực hiện bài tập xây dựng các kế hoạch cải thiện tình trạng

của bản thân, đến buổi gặp tiếp theo sẽ cùng nhà tham vấn trao đổi về kế hoạch đó.

Nhà tham vấn cùng thân chủ trao đổi về kế hoạch mà H đã xây dựng, mục đích

của buổi tham vấn này giúp cho thân chủ lựa chọn được những giải pháp tốt nhất cho các

bước thực hiện những hành động giải quyết các khó khăn trong giao tiếp.

Sau khi thảo luận, nhà tham vấn xác cùng thân chủ xác định được vấn đề

quan trọng cần thực hiện như sau :

- Thứ nhất, xác định vấn đề H có những hạn chế về kĩ năng giao tiếp. Các

hạn chế này thường gặp trong giao tiếp với các bạn trong lớp và ở phòng ở trong kí

túc xá.

- Thứ hai, xác định vấn đề tự ti mặc cảm về bản thân và gia đình. Vấn đề này

liên quan đến những cảm xúc, tự đánh giá của thân chủ.

Nhà tham vấn cùng thân chủ lựa chọn một tiến trình hành động xóa bỏ tâm lý e ngại giao tiếp, điều chỉnh cảm xúc...như thân chủ tập kĩ năng nói, phát biểu ý kiến bắt đầu bằng các cụm từ “tôi muốn”, “theo tôi”, “ý của tôi là”, “tôi hiểu ý của bạn/ anh/ chị/ thầy/ cô là”...cùng với đó thân chủ thực hiện các hành động dấn thân

như tham gia vào các hoạt động học tập thảo luận nhóm, đi chơi cùng các bạn cùng

phòng, mỗi ngày trò chuyện lần lượt với một bạn trong lớp và bạn ở cùng kí túc xá.

139

Những hành động này được thân chủ thực hành hàng ngày trên lớp và ở nhà.

Tiến trình này cần được thân chủ nghiêm túc thực hiện và ghi chép lại những cảm nhận của bản về những cảm xúc, những khó khăn mà mình gặp khi thực hiện

các bài tập đó. Sau thời gian thực hành, thân chủ sẽ gặp gỡ để trao đổi, đánh giá về

bài tập mà thân chủ đã thực hiện, lượng giá và điều chỉnh cho phù hợp với thực tế.

3. Lượng giá kết quả. Nhà tham vấn và thân chủ trao đổi về những vấn đề còn vướng mắc, những

điều H chưa làm được trong quá trình thực hành giao tiếp.

Thân chủ chia sẻ những cảm nhận về tiến trình hành vi khi tham gia vào các hoạt động giao tiếp trên lớp và ở nhà. H cho biết, khó khăn trong ngày đầu tiên là H

không biết bắt đầu từ đâu. Nhưng khi nhớ lại những điều đã trao đổi cùng nhà tham

vấn về động cơ nào khiến H học tập, vai trò của giao tiếp và ảnh hưởng của nó đến

tình trạng hiện nay của H nên em đã bắt đầu vận dụng các câu nói “theo tôi”, “ý của

tôi là”, “tôi hiểu ý của bạn/ anh /chị/ thầy/ cô là” trong khi phát biểu ý kiến trước

lớp, trước những câu hỏi do giảng viên đặt ra, bày tỏ quan điểm trong thảo luận

nhóm về một vấn đề học tập. Thân chủ cho biết, khi dùng các cụm từ trên, thân chủ

cảm thấy cần phải sắp xếp câu chữ, tư duy trước vấn đề cần nói nên đã giúp em thấy

bình tĩnh hơn và tự tin hơn khi phát biểu ý kiến. Cảm giác nói ra điều mình suy nghĩ

giúp em không chú ý đến nỗi sợ hãi bị người khác soi mói hay đánh giá. Thân chủ

đề xuất tiến trình hành vi của mình rằng, sẽ tập trung vào đọc tìm hiểu thêm nhiều

kiến thức về tâm lý ứng xử, kĩ năng giao tiếp để biết thêm các tình huống có thể xảy

ra để khi gặp phải sẽ biết cách ứng phó. Thân chủ nhận thấy, nếu bản thân chủ động

trong giao tiếp khi bắt đầu câu chuyện với một ai đó mà có liên quan đến chủ đề học

tập sẽ dễ dàng bắt chuyện với các bạn học cùng lớp. Bên cạnh đó, thân chủ cùng

hiểu được, việc tự học trước ở nhà những kiến thức của môn học sẽ tạo cơ hội để H

có thể phát biểu ý kiến mỗi khi giảng viên nêu vấn đề, hoặc H có lượng kiến thức

nhất định để trao đổi với các bạn dễ dàng hơn. Tuy nhiên, thân chủ cho biết cản trở mà H gặp phải đó là sự hồi hộp trước khi có ý định phát biểu ý kiến. Thân chủ đã cố gắng kiểm soát tình trạng này nhưng có lúc được và có lúc không, cơn hồi hộp xuất hiện không thường xuyên nhưng làm cho H cảm thấy mất bình tĩnh trong những tình huống giao tiếp khi cơn hồi hộp xuất hiện. Nhà tham vấn cùng trao đổi với thân chủ về cảm giác hồi hộp như nào? Những biểu hiện của nó? H cho biết mỗi khi định

phát biểu tim H đập nhanh, hiện tượng nóng mặt, nóng tai xảy ra.

Nhà tham vấn có trao đổi với H về tác dụng của việc thở sâu, giúp điều hòa

140

được nhịp tim, làm giảm cơn hồi hộp. H đã nhận thức được ý nghĩa của điều này

nên đã yêu cầu nhà tham vấn hướng dẫn kĩ thuật. Nhà tham vấn đã hướng dẫn H cách thở sâu, điều hòa “hít vào bụng to, thở ra bụng xẹp lại”. Lúc đầu H tập thở, nhà

tham vấn theo dõi thấy H khi hít vào thì bụng xẹp, thở ra thì bụng lại đầy khí. Nhà

tham vấn có yêu cầu H thở lại và chỉ cho H cách dùng tay để lên bụng để kiểm soát

việc hít vào thở ra. Khi H đặt tay lên bụng H đã cảm nhận rõ hơn sự chuyển động của bụng qua cảm nhận sự di chuyển của bàn tay. Qua 2 lần tập luyện H đã biết thở

đúng cách.

Nhà tham vấn cũng chia sẻ với H rằng, phương pháp thở điều hòa nếu được tập luyện thường xuyên sẽ giúp H điều tiết được sự hổi hộp, cân bằng được xúc cảm,

giảm những biểu hiện nóng mặt, nóng tai. Vì vậy, H nên dành thời gian để tập luyện

thở sâu, điều hòa nhịp thở sao cho đúng cách. H cũng đã nhận thức rõ và nói rằng,

em sẽ cố gắng dành thời gian nhiều nhất để luyện tập cách thở này.

Sau khi thống nhất lại các vấn đề cơ bản cốt lõi của buổi tham vấn là H sẽ

tiếp tục tăng cường thực hành giao tiếp nhiều hơn, tập nói chuyện thường xuyên sử

dụng các cụm từ như đã nói ở trên, kết hợp thở điều hòa mỗi khi giao tiếp nhằm

giảm đi sự hồi hộp...buổi tham vấn kết thúc. Hẹn gặp lại buổi sau.

4. Hướng đến mục tiêu tương lai, nguồn hỗ trợ, sự tham gia của thân

chủ trong các hoạt động tương lai.

Nhà tham vấn và thân chủ cùng trao đổi về sự tiến bộ của H sau thời gian

thực hành giao tiếp, H đã rất vui vẻ trò chuyện, cách nói chuyện đã biểu đạt được

quan điểm cá nhân của mình khi trình bày với nhà tham vấn các vấn đề có liên

quan đến tự đánh giá về tình trạng của bản thân. H cho biết, tác dụng của việc hít

thở điều hòa đa giúp H cân bằng được mỗi khi cơn hồi hộp xuất hiện. H nhận thức

được nếu thở sâu đúng cách và duy trì nhịp thở ổn định sẽ không xuất hiện cơn hồi

hộp và cảm giác nóng mặt nóng tai. H nói rằng, thời gian vừa qua H đã tập nói

chuyện nhiều hơn, có ngày H đã nói chuyện được với nhiều người và cảm giác tự tin tăng nên rất nhiều, H đã chủ động tham gia vào các hoạt động nhóm, các hoạt động tình nguyện ở trường và đã biết cách nói chuyện được với nhiều giảng viên hơn để học hỏi kinh nghiệm và kiến thức. Bên cạnh đó, thân chủ đã cảm nhận được sự gần gũi, cởi mở của mọi người xung quanh. H thấy rằng sự cởi mở bản thân trong giao tiếp đã giúp H có thêm tự tin và có niềm tin, giảm định kiến và

biết vị tha hơn với những tác động tiêu cực xảy ra mỗi ngày. H đã thường xuyên

gọi điện hỏi thăm gia đình nhiều hơn. Những lời động viên thăm hỏi của người

141

thân trong gia đình, đã giúp H có thêm nghị lực, xóa bỏ mặc cảm về hoàn cảnh. H

thêm tin, thêm yêu quý và thấy rằng “ai cũng có một gia đình, dù có thế nào vẫn là nơi có những người thân yêu đang mong muốn H học tập thật tốt”. H đã suy

nghĩ, một ngày nghỉ nào đó sẽ mời một vài người bạn ở cùng phòng kí túc xá về

nhà mình chơi, thăm gia đình...

H cảm thấy tự tin hơn và xúc động cảm ơn nhà tham vấn trong thời gian qua đã giúp đỡ, hỗ trợ cho H để H tìm thấy được những xúc cảm vui vẻ bấy lâu nay H

đã bỏ quên. Nhà tham vấn cũng rất vui mừng và chúc cho H có nhiều niềm vui

trong cuộc sống. H nói rằng, mọi con đường đang ở phía trước, nhưng H tin rằng H đã biết cách giao tiếp tốt hơn qua những bài tập thực hành giao tiếp, H hi vọng, thời

gian tới mỗi khi gặp khó khăn, H mong nhà tham vấn sẽ đồng ý hỗ trợ tâm lý cho H

những khi H gặp vướng mắc, khó khăn về tâm lý trong cuộc sống.

Nhận thức đây là buổi đánh giá được những tiến bộ của H trong thời gian

vừa qua, cuối cùng H cũng đã có thể làm chủ được các kĩ năng giao tiếp và điều

chỉnh được tâm lý của bản thân, xóa bỏ được mặc cảm về gia đình, điều quan

trọng H đã nhận thấy có thể tự đi được và nghĩ được bằng cách sống của mình theo

chiều hướng tích cực. Nhà tham vấn cùng thân chủ đã thống nhất kết thúc chương

trình tham vấn. Thời gian tới H sẽ tiếp tục thực hiện những hành động giao tiếp để

trở những kĩ năng giao tiếp của bản thân ngày càng thuần thục hơn.

Kết luận: Sau khi tác động bằng tham vấn tâm lý, em H đã nhanh nhẹn, hoạt

bát và chủ động hơn trong các giao tiếp với bạn bè, với giảng viên. Em đã có mục

tiêu phấn đấu rõ ràng hơn trong các kế hoạch thay đổi bản thân, đã lamg chủ được

các kĩ năng điều chỉnh cảm xúc, xóa bỏ tâm lý tự ti về hoàn cảnh gia đình của mình,

có nhận thức và thái độ tích cực đối với các vấn đề cải thiện tình trạng của bản thân

nhằm khắc phục những khó khăn. Như vậy, qua những tác động bằng tham vấn tâm

lý chúng ta thấy sự thay đổi một cách tích cực, chủ động của sinh viên về nhận thức,

thái độ, hành vi để vượt qua khó khăn nhằm đáp ứng được các yêu cầu của hoạt động học tập.

4.5.2. Trường hợp 2 Em N.N.A, giới Nam, học lớp ĐH TH. Em là người dân tộc Tày ở thị trấn…huyện C, tỉnh Tuyên Quang. A sinh ra trong một gia đình có hai anh em, A là con cả và có một em gái. Bố mẹ A đều là cán bộ cơ quan nhà nước, có thu nhập ổn

định nên gia đình A có kinh tế khá giả. A là người có mức độ thích ứng trung bình

142

đối với hoạt động học tập.

Tiểu sử Quá trình học tập của A từ nhỏ cho đến hiện tại.

Do gia đình có điều kiện kinh tế nên A được học tại trường của thị trấn

huyện. Quá trình học tập được thể hiện theo từng cấp học như sau:

+ Tiểu học: luôn đạt thành tích từ khá trở lên. A luôn là người dẫn đầu trong

các hoạt động tập thể ở lớp.

+ Học tập phổ thông: hoạt động giao tiếp của A được mở rộng, dẫn đến kết

quả học tạp bị giảm sút ở năm học lớp 10 và 11. A dành nhiều thời gian chơi các game điện tử, nhiều lúc bị bố mẹ than phiền và cấm đoán, do chơi nhiều A bị lấn

sâu vào các game ăn tiền và bỏ bê học tập. Kết quả học tập ở lớp 10 và 11 đạt kết

quả trung bình, một số môn bị điểm dưới trung bình.

Do bố mẹ, thầy cô giáo tác động A đã nhận thức được nếu chơi nhiều game

và sử dụng internet nhiều kết quả học tập kém nguy cơ không được lên lớp và sẽ bị

thất học nên A đã từ bỏ chơi game để chú tâm vào học tập.

Năm học lớp 12 A đã quan tâm đến việc học tập nhiều hơn và kết quả học

tập đã được nâng dần lên rõ rệt. A dành thời gian tham gia học thêm, tham gia các

hoạt động của Đoàn TNCS hồ Chí Minh, các hoạt động xã hội từ thiện.

Hoàn cảnh gia đình, điều kiện sống và học tập Gia đình A là gia đình có nền tảng,kinh tế khá giả, bố mẹ có vị trí xã hộ và

luôn yêu thương, chiều chuộng con cái. Đặc biệt A là con trai nên được bố mẹ,

người thân trong gia đình luôn quan tâm đến đáp ứng nhu cầu về vật chất lẫn những

đòi hỏi mà A đưa ra.

Hiện tại A đang ở trong kí túc xá cùng với các bạn nam học cùng lớp. Họ là

những người đến từ các địa phương khác, có bạn là người dân tộc thiểu số và người

Kinh. Mỗi bạn có cách sống khác nhau cho nên phòng ở luôn có sự ồn ào, bừa bộn.

hầu hết sinh viên trong phòng ít dành thời gian tự học hàng ngày ở nhà mà mỗi khi đến kì thi mới tập trung vào tìm kiếm các tài liệu học tập để học gấp đối phó với kì thi. Những tác nhân đó ít nhiều ảnh hưởng đến cảm xúc của A, làm cho A xáo trộn về tâm lý nên em thường xuyên đi ra ngoài tham gia vào các hoạt động nhóm, tình nguyện mỗi khi có điều kiện.

Đặc điểm thân chủ - Phẩm chất: A là người nhanh nhẹn, vui vẻ, dễ hòa đồng, trung thực, thẳng

143

thắn nhưng thiếu sự kiên nhẫn.

- Năng lực: Học lực ở mức độ khá, tuy nhiên bị ảnh hưởng của các hoạt động

xã hội, những tác động ngoại cảnh dẫn đến kết quả học tập ở mức trung bình khá.

- Khó khăn: A là người có nhiều ý tưởng, luôn nhận thức tích cực và có thái

độ cầu thị tuy nhiên, A bị chi phối bởi các yếu tố ngoại cảnh đến tâm lý có liên quan

đến cảm xúc, hứng thú cho nên nhiều khi A có những suy nghĩ và hành động thất thường. Khi A thích điều gì đó thì A sẽ làm đến cùng, nếu không thích A luôn có

thái độ thờ ơ, chán nản và không muốn quan tâm đến. Sự kiên trì nhẫn nại là một

điểm yếu trong tính cách của A.

- Đánh giá ban đầu: A là người có sự bất đồng giữa nhận thức, thái độ với

hành vi. Bản chất con người A là tốt, tuy nhiên em có hạn chế là chưa có những kĩ

năng điều chỉnh cảm xúc của bản thân, luôn bị các yếu tố ngoai cảnh tác động, chi

phối cảm xúc dẫn đến các hành vi của A luôn thay đổi thất thường, không bền vững

và chưa trở thành hệ thống thói quen tích cực.

Tóm tắt nội dung các buổi làm việc của nhà tham vấn với thân chủ

1. Giới thiệu làm quen, xác định vấn đề, mục tiêu tham vấn và lập kế

hoạch giúp đỡ.

Nhà tham vấn cùng A trò chuyện, giới thiệu và làm quen. A là người dễ hòa

đồng nên sau khi nhà tham vấn giới thiệu về bản thân, công việc và mục đích của

buổi trò chuyện A đã chủ động giới thiệu về bản thân, điều kiện sống và học tập

hiện nay…

Các thông tin đã giúp cho nhà tham vấn xây dựng được chân dung tâm lý của

A và xác định được một số vấn đề cần làm việc hỗ trợ tâm lý cho A, các nội dung

được xác định:

+ A là người có sự bất đồng giữa nhận thức, thái độ với hành vi.

+ Có những hạn chế về kĩ năng sống, đặc biệt là kĩ năng kìm chế cảm xúc.

Nhà tham vấn đã cùng thân chủ thống nhất hai vấn đề cơ bản trên cần có sự hỗ trợ của nhà tham vấn. Thân chủ đã chủ đồng trao đổi với nhà tham vấn về ý định thực hiện các buổi tham vấn để tháo gỡ tình trạng hiện tại của thân chủ.

Nhà tham vấn cùng thân chủ thống nhất chương trình làm việc và lập kế

hoạch định hướng cho các buổi làm việc tiếp theo.

2. Thảo luận về quá trình thực hiện Nhà tham vấn đến đúng giờ như lịch hẹn với thân chủ vào lúc 14h00 buổi

144

chiều tại địa điểm đã thống nhất. Tuy nhiên, A đến sau 15 phút so với quy định.

Nhà tham vấn quan sát thấy A có biểu hiện bối rối, ngần ngại khi đến muộn.

Nhà tham vấn liền chủ động trò chuyện với A bằng câu hỏi mào đầu:

NTV: Hôm nay chắc em có việc bận nên đến muộn?

TC: Dạ! Em xin lỗi! Vâng em có có chút chuyện riêng nên đến muộn so với

lịch hẹn.

NTV: Uh, ai cũng có lúc có việc đột xuất, chuyện ngoài ý muốn có thể xảy ra

với chúng ta bất cứ lúc nào. Chúng ta đã mất 15 phút theo lịch hẹn, vậy chúng ta

hãy bắt đầu nhé!

TC: Vâng, em cũng thành thật xin lỗi, chuyện là..(A gãi đầu) em đến muộn

cũng không hẳn do em có việc.

NTV: Em cũng có thể không nói ra nguyên nhận em đến muộn nếu như nó

làm ảnh hưởng đến em một cách thực sự.

TC: Dạ không phải là em không thể nói được mà chẳng qua là chuyện hôm

trước em gặp thầy…

NTV: Có lẽ em có sự thay đổi nào đó về những buổi làm việc của chúng ta?

TC: Dạ! Thú thật là lần trước trò chuyện với thầy em cũng rất mong

muốn được chia sẻ tâm sự với thầy về vấn đề của em. Nhưng sau khi về tự

dưng em có suy nghĩ không biết có nên gặp thầy để nhận được trợ giúp của

thầy nữa hay không?

Sau khi trao đổi với A về việc có nên gặp hay không gặp nhà tham vấn tùy

theo sự quyết định của A, nếu A cảm thấy thoải mái thì A có thể từ chối đến gặp

nhà tham vấn. A chia sẻ rằng A đã có suy nghĩ là cần thiết đến gặp nhà tham vấn

nhưng do A chần chừ và dẫn đến quyết định muộn buổi gặp gỡ hôm nay.

Nhà tham vấn cùng thân chủ trao đổi thêm về những ảnh hưởng của quyết

định không rõ ràng ở A đã tạo ra những bất lợi cho A trong xử lý những khó khăn

thường gặp trong cuộc sống.

Nhà tham vấn cùng thân chủ tập trung trao đổi về vấn đề sự bất đồng giữa nhận thức, thái độ với hành vi ở A. A đã chỉ ra một số ví dụ A thường lặp lại trong cuộc sống như A muốn mua một cái điện thoại để liên lạc và sử dụng giải trí. Tuy nhiên, do A không đưa ra được quyết định đã dẫn đến nhiều lần A tiết kiệm tiền rồi không mua và đã hai lần tiêu hết số tiền dành dụm mà chưa mua được điện thoại. A

cũng kể rằng khi A có dự định đi học thêm về ngoại ngữ để giúp cho việc học ở

trong trường đỡ vất vả hơn, nhưng A lại ngại tìm các địa chỉ dạy thêm để đăng kí

145

học tập….

Nhà Tham vấn trao đổi và đặt ra câu hỏi cho A suy nghĩ thêm về những mâu

thuẫn trong nhận thức và hành vi của mình.

NTV: Theo em, có ai bắt buộc em phải học thêm ngoại ngữ không?

TC: Em nghĩ là không nhưng em cũng muốn mình đi học thêm để bổ sung

thêm những kĩ năng học tập, giúp cho việc thi ở trường đạt điểm cao hơn.

A cũng cho biết, em biết em thích rất nhiều cái nhưng em thực sự cũng

nhanh chán vì em cảm thấy mình không có động lực để có thể tự đi học một mình.

Mặc dù em đã rủ thêm bạn khác đi học cùng cho vui nhưng các bạn ấy không đi nên em đã thấy không có hứng thú với việc học thêm ngoại ngữ nữa.

NTV: Nếu cho em làm lại những việc đó em sẽ bắt đầu từ đâu?

TC: Có lẽ em sẽ bắt đầu từ việc lập cho mình một thói quen, nghĩ, nói và làm

ngay khi có ý tưởng mới.

NTV: Em sẽ làm thế nào để thực hiện việc đó?

TC: Em cũng chưa nghĩ đến nên làm thế nào nhưng có thể em sẽ phải bắt

đầu từ việc xây dựng cho mình một kế hoạch cụ thể. Em sẽ dành thời gian để làm

việc này trong thời gian sớm nhất.

NTV: Người ta nói, muốn xây một cái nhà ngoài các điều kiện về tiền nong,

người chủ đầu tư cũng cần phải có một bản thiết kế, một kế hoạch hành động chi

tiết để chủ động biết được mình cần điều gì và nên làm như thế nào. Em có thể vẽ

ra bản thiết kế những dự định của mình được không?

TC: Em thì cũng chưa biết bắt đầu từ đâu nhưng em sẽ cố gắng tập trung khả

năng tốt nhất để làm tạo ra nó.

NTV: Em có thể thực hiện nó ngay bây giờ?

TC: Vâng! Em có thể phác thảo sơ qua về kế hoạch của mình trên giấy được

chứ ạ?

NTV: Hiện nay trong phòng đã có giấy và bút, em có thể làm việc này, nếu

cảm thấy khó khăn tôi có thể giúp cùng em trao đổi thêm về nó.

Sau khi trao đổi thêm những thông tin, A tiến hành viết những dự định của bản thân về kế hoạch học tập và điều chỉnh những hạn chế của bản thân về ý tưởng với hành động.

Khi A phác thảo xong bản kế hoạch, nhà tham vấn cùng A trao đổi rất kĩ về

cách lập bản kế hoạch sao cho đúng và rõ ràng các tiêu chí của hành động. Khi đã

146

hiểu đầy đủ ý nghĩa của bản kế hoạch hành động, A cùng nhà tham vấn thống nhất

A sẽ thực hiện bản kế hoạch đã xây dựng và quyết tâm thực hiện nó ngay sau buổi tham vấn này.

Nhà tham vấn cùng A thống nhất các mục tiêu A đã đề ra và cần thực hiện

nó bao gồm:

+ Trong thời gian 1 tuần, A sẽ chuẩn bị các công việc: Tìm địa chỉ học ngoại

ngữ, tiền học phí, tiền mua tài liệu học tập.

+ A sẽ về suy nghĩ thêm và hoàn thiện bản kế hoạch, mục tiêu sẽ đạt được

trong học kì này và cả năm học.

3. Lượng giá kết quả, trao đổi về mục tiêu tương lai, nguồn hỗ trợ, sự

tham gia của thân chủ trong các hoạt động tương lai.

Nhà tham vấn đã cùng A trao đổi về các mục tiêu mà A đã thực hiện trong

thời gian vừa qua. A đã thực hiện được các công việc như tìm được địa chỉ và đăng

kí học tập. A đã sử dụng tiền tiết kiệm và xin thêm từ gia đình để đóng học phí học

thêm ngoại ngữ. A cho biết sau khi A thực hiện xong các mục tiêu như bản kế

hoạch đa trao đổi với nhà tham vấn, A thấy đã cảm thấy nhẹ nhàng và nhận thức ra

một điều nếu như A có ý định làm việc gì và làm một cách cẩn thận, có kế hoạch thì

mọi việc đều tốt hơn. Tâm trạng A cảm thấy phấn chấn vì đã làm được việc mà

trước đây chưa làm được, còn chần chừ. A tự đánh giá về bản thân là có sức ỳ, chưa

dứt khoát rõ ràng. Nhà tham vấn đã động viên A, khích lệ A rằng, nếu như em đã

xác định được kế hoạch của bản thân và rõ ràng như vậy mọi điều thuận lợi sẽ đến

với em. Sự dứt khoát, chủ động sẽ tạo cho em những cơ họi mới mở ra trong tương

lai vì khi thực hiện được điều mình mong muốn, nó sẽ thúc đẩy mình có khao khát

hành động nhiều hơn. Như thế các mục tiêu sẽ nhanh chóng đạt được.

Nhà tham vấn cũng trao đổi với A về mục tiêu của A trong năm học sẽ phấn

đấu đạt kết quả gì? A cho biết, em không đặt ra mục tiêu cao vì em biết nếu đặt ra

quá cao so với khả năng em sẽ khó đạt được nên em dự định trong học kì và năm học em phấn đấu đạt kết quả học tập ở loại khá.

Qua quan sát biểu hiện của A nhà tham vấn nhận thấy A có tâm trạng rất vui vẻ, em rất phấn khởi, tự tin hơn về những điều mình đã làm được. Do đó, nhà tham vấn cùng thân chủ xác định thêm mục tiêu để A có động lực hoàn thiện sự thống nhất giữa nhận thức với hành động, giữa ý tưởng và quyết tâm thực hiện đến cùng ý

tưởng đã đặt ra. A đã tự xác định thêm cho bản thân mục tiêu phấn đấu trong thời

gian tới, đó là A cần học ngoại ngữ tốt hơn để có thể tra cứu được những tài liệu

147

bằng tiếng nước ngoài. Để làm được điều này A sẽ dành ra mỗi ngày 1-2 tiếng để

học thêm từ mới, tập đọc, dịch các đoạn văn ngắn, tập nói giao tiếp, nghe các hội thoại để tăng cường cho bản thân các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết bằng ngoại ngữ tốt

hơn. A sẽ tìm thêm bạn để cùng học tập chung với nhau trong các hoạt động ở trên

lớp cũng như ở nhà.

Nhà tham vấn cùng A xác định các mục tiêu mà A xây dựng là hoàn toàn phù hợp với bản thân A và nó là một quá trình rèn luyện lâu dài. Cho nên, A và nhà

tham vấn đã cùng lập bản kế hoạch kiểm tra đánh giá những mục tiêu mà A sẽ thực

hiện sau này bằng cách hai tuần một lần A sẽ gặp gỡ và trao đổi với nhà tham vấn về các kết quả đã thực hiện được.

- Kết quả: Sau một thời gian tác động bằng tham vấn tâm lý, A đã có nhiều

tiến bộ, chủ động, tích cực hơn trước rất nhiều. A đã có mục tiêu phấn đấu rõ ràng

cho bản thân. A đã đạt được sự thuần thục các kĩ năng cơ bản trong học ngoại ngữ

và em đã thi đạt được chứng chỉ B về ngoại ngữ. Kết quả học tập của năm học đạt

được mục tiêu đề ra là học lực khá. Điểm trung bình của em đạt gần 8,0 điểm. Bên

cạnh đó, A còn tích cực tham gia vào nhiều hoạt động ở trong trường. Em đã xây

dựng được thói quen thường xuyên lập bản kế hoạch hành động cho bản thân theo

thời gian, xác lập được nói và làm, suy nghĩ và hành động thống nhất với nhau.

Kết luận về kết quả tác động bằng tham vấn tâm lý nhằm nâng cao mức độ

thích ứng cho sinh viên dân tộc thiểu số:

Tác động qua tham vấn tâm lý đã cho những kết quả rất khả quan. Điều này

cho thấy khi xác định đúng vấn đề khó khăn của sinh viên DTTS trong thích ứng

với hoạt động học tập thì có thể đưa ra được biện pháp tác động phù hợp để nâng

cao được mức độ thích ứng với hoạt động học tập của các em. Việc sử dụng các kĩ

thuật tham vấn có thể giúp cho sinh viên xác định được thái độ tích cực đối với hoạt

động học tập, các em có nhận thức cao hơn về vai trò, mục đích học tập cũng như

trách nhiệm của bản thân trong học tập, đồng thời dưới tác động tâm lý sẽ hình thành được cho sinh viên động cơ học tập đúng đắn, các em tạo lập được thói quen vận dụng các kĩ năng vào học tập một cách thành thạo.

Tham vấn tâm lý nâng cao được nhận thức và thái độ của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập sẽ giúp các em nâng cao được thích ứng và như vậy, nâng cao được kết quả học tập, nâng cao được chất lượng đào tạo.

Tham vấn tâm lý là biện pháp tác động tâm lý đòi hỏi thời gian dài và có tính

chất chuyên môn, chuyên nghiệp. Mỗi sinh viên sẽ có vấn đề khó khăn khi thích

148

ứng với hoạt động học tập, do đó khi tham vấn cho sinh viên cần căn cứ vào điều

kiện, hoàn cảnh của mỗi sinh viên mà nhà tham vấn thực hiện số buổi tham vấn sao cho phù hợp. Nếu có phòng tham vấn tâm lý và tác động tâm lý bằng tham vấn

thường xuyên sẽ giúp sinh viên có cơ hội được giải tỏa tâm lý, học hỏi các kĩ năng

học tập, giao tiếp ứng xử, nâng cao dần mức độ thích ứng với hoạt động học tập ở

trường đại học.

Tiểu kết chương 4

Nghiên cứu thực tiễn về thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt

động học tập cho thấy :

- Sinh viên có mức độ thích ứng Khá với hoạt động học tập thể hiện qua ba

mặt nhận thức, thái độ và hành vi. Thích ứng học tập ở sinh viên có sự khác nhau,

thay đổi theo các năm học. Sinh viên có thời gian học càng dài sẽ thích ứng tốt hơn

sinh viên có thời gian học ngắn hơn. Mức độ thích ứng của sinh viên được tăng dần

theo thời gian và sự trải nghiệm ở trường đại học. Càng về những năm cuối sinh

viên thích ứng tốt hơn. Họ có thể hoàn toàn tự tin và chủ động đối phó với những

khó khăn trong học tập. Trong đó sự khác biệt dễ dàng nhận thấy ở những sinh viên

DTTS năm thứ nhất và sinh viên DTTS năm thứ ba.

- Sinh viên DTTS năm thứ nhất đến năm thứ ba có chung một vài đặc

điểm giống nhau và có mức độ thích ứng thấp như có hạn chế ở hành vi điều

chỉnh cảm xúc,

- Kết quả nghiên cứu cho thấy, sự thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số có

liên quan đến các yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng tới mức độ thích ứng

của sinh viên. Trong đó yếu tố chủ quan (Tính cách, ý chí khắc phục khó khăn) của

sinh viên có ảnh hưởng mạnh nhất đã gợi mở ra hướng nghiên cứu tiếp theo về

thích ứng của sinh viên DTTS với hoạt động học tập để có thể có những kết luận rõ

nét hơn về ảnh hưởng của các yếu tố này đến thích ứng của sinh viên DTTS với

hoạt động học tập.

Luận án mô tả hai chân dung điển hình thích ứng thấp và trung bình nhằm nâng cao mức độ thích ứng cho sinh viên dân tộc thiểu số. Tác động qua tham vấn tâm lý đã chỉ ra những ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan và khách quan, mối quan hệ của các yếu tố này với các biểu hiện của thích ứng. Tác động bằng tham vấn tâm lý theo cách tiếp cận nhận thức hành vi có hiệu quả và có thể sử dụng hình thức

tham vấn tâm lý để nâng cao mức độ thích ứng của SV DTTS với hoạt động học tập.

Kết quả tác động này nhằm bổ sung cho kết quả nghiên cứu lý luận cũng như

149

nghiên cứu thực tiễn.

KẾT LUẬN

1. Kết luận 1.1 Nghiên cứu lý luận cho thấy thích ứng của SV DTTS với HĐHT là quá

trình SV DTTS tích cực, chủ động thay đổi, điều chỉnh về mặt tâm lý để khắc phục

những khó khăn gặp phải trong hoạt động học tập và nhanh chóng thích ứng được những yêu cầu của hoạt động học tập trong từng điều kiện và hoàn cảnh khác nhau.

Thích ứng là điều kiện quan trọng để SV đáp ứng được các yêu cầu của hoạt động

học tập, mang đặc thù riêng so với HĐHT ở trường phổ thông.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng hợp nhiều ý kiến của nhiều tác giả về

thích ứng và hoạt động học tập, chúng tôi quan niệm: Thích ứng của SV DTTS biểu

hiện qua ba mặt nhận thức, thái độ và hành vi, vận dụng kĩ năng trong học tập.

Thích ứng của SV DTTS số với HĐHT là sự thay đổi một cách tích cực, chủ động

của SV về nhận thức, thái độ, hành vi để vượt qua khó khăn nhằm đáp ứng được các

yêu cầu của hoạt động học tập.

Thích ứng với HĐHT của SV DTTS chịu sự chi phối ảnh hưởng rất nhiều

vào các yếu tố : Yếu tố chủ quan (tính cách cá nhân, tính tích cực hoạt động – giao

tiếp, ý chí khắc phục khó khăn) và yếu tố khách quan (phương pháp giảng dạy của

giảng viên, đặc điểm học tập, kiện và môi trường sống). Các yếu tố chủ quan có sự

ảnh hưởng mạnh hơn yếu tố khách quan.Tuy nhiên các yếu tố này đều có vai trò và

ảnh hưởng nhất định đến sự thích ứng của SV trong quá trình học tập ở trường đại

học.

1.2 Nhìn chung mức độ thích ứng của SV DTTS với HĐHT thay đổi theo

chiều hướng tích cực, gia tăng theo thời gian học tập. Điều này thể hiện ở nhận thức

và thái độ học tâp của các em ngày càng tốt hơn, đầy đủ chính xác hơn, quan hệ

giao tiếp của các em với bạn học, với giảng viên tốt hơn, kĩ năng học tập thuần thục,

thành thạo hơn.

Kết quả nghiên cứu thực tiễn đã cho chúng ta thấy phần lớn SV DTTS đạt mức độ thích ứng với hoạt động học tập ở mức độ Khá. Ba khía cạnh của thích ứng: Nhận thức- Thái độ và Hành vi, kết quả nghiên cứu cho thấy ở SV DTTS có mức độ thích ứng về thái độ cao nhất, tiếp theo là nhận thức và mặt hành vi có mức độ thích ứng thấp nhất. Kết quả nghiên cứu thực trạng cho thấy, theo logic chung thì

mặt nhận thức và thái độ có mức độ thích ứng khá sẽ kéo theo mặt hành vi cũng

thích ứng khá và đó là mối tương quan thuận với nhau. Nhưng kết quả nghiên cứu

150

thực trạng thích ứng của SV DTTS cho thấy mặt hành vi chỉ đạt mức độ trung bình.

Thực tế này phản ánh, SV DTTS là những người có nhận thức và thái độ tốt nhưng do một số hạn chế về tâm lý dân tộc, các điều kiện sống và tính tích cực hoạt động,

giao tiếp đã tạo ra sự thích ứng thấp về mặt hành vi. Như vậy, SV muốn thành công

trong học tập, thích ứng tốt và hòa nhập được tốt với môi trường đại học, các em

phải luôn phát huy được các hành vi, kĩ năng tốt nhất vào học tập. Bởi vì hành vi quyết định rất nhiều đến sự thích ứng của SV, nó có thể tác động làm cho SV nâng

cao khả năng thích ứng về mặt nhận thức và thái độ. Khi SV thích ứng tốt về mặt

hành vi, tức là có sự thống nhất trong tâm lý của SV giữa mặt hình thức (hành vi) và mặt nội dung (nhận thức, thái độ). Do đó, nhà trường đại học cần chú trọng những

hoạt động thúc đẩy hành vi học tập ở SV nhiều hơn nữa. Như thế SV sẽ thích ứng

nhanh hơn khi tham gia vào các hoạt động học tập.

1.3. Kết quả nghiên cứu cho thấy yếu tố chủ quan của SV DTTS có ảnh

hưởng đến sự thích ứng của các em rất lớn. Sinh viên muốn học tập tốt cần phải có

sự tích cực chủ động giao tiếp với bạn học, với giảng viên, tham gia vào các hoạt

động trong nhà trường nhằm rèn luyện được các kĩ năng học tập, giao tiếp tốt, hình

thành các phẩm chất tâm lý, bồi dưỡng các phẩm chất nhân cách cho bản thân

không chỉ trong hoạt động học tập mà còn cả trong các hoạt động sống khác. Ngoài

các yếu tố chủ quan, sự thích ứng của sinh viên cũng bị ảnh hưởng từ điều kiện

sống đến tính cách, lối tư duy suy nghĩ,… trong đó hình thức đào tạo, đặc điểm học

tập, những yêu cầu của giảng viên, sự quản lý học sinh, sinh viên cũng ảnh hưởng

đến sự thích ứng ở các em.

1.4. Một số biện pháp cơ bản có thể tác động nâng cao cao thích ứng của SV

DTTS với hoạt động học tập như đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên

theo hướng tiếp cận năng lực, tổ chức sinh hoạt nhóm, câu lạc bộ kỹ năng sống và

tham vấn tâm lý cho SV. Mỗi một biện pháp đều có vai trò quan trọng, có thể tác

động thường xuyên và rất phù hợp với hoạt động học tập của SV ở trường đại học nói chung và SV DTTS nói riêng. Trong đó biện pháp tác động bằng tham vấn tâm lý là một biện pháp còn mới và rất hiệu quả đối với trường đại học hiện nay.

Kết quả tác động bằng tham vấn tâm lý nhằm nâng cao thích ứng cho SV DTTS cho thấy: Bằng các tác động tâm lý như trò chuyện, đưa ra giải pháp,.. đã tác động làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi ở SV DTTS theo chiều hướng tích

cực hơn. Giúp SV nâng cao được mức độ thích ứng với HĐHT. Nếu sử dụng tham

vấn tâm lý sẽ giúp SV giải quyết được kịp thời những khó khăn tâm lý làm cản trở

151

sự thích ứng của họ. Tham vấn tâm lý là một biện pháp tác động sử dụng thời gian

dài và đem lại hiệu quả cao trong việc nâng cao thích ứng với hoạt động học tập cho sinh viên nói chung và SV DTTS nói riêng trong các trường đại học.

2. Kiến nghị Dựa vào kết quả kém thích ứng, chúng tôi cho rằng để tăng cường thích ứng

học tập cho SV DTTS cần phải thực hiện một số hoạt động sau đây :

2.1. Sinh viên, không ngừng rèn luyện nâng cao ý thức tự chủ, chủ động

trong việc tham gia vào các hoạt động học tập trên lớp, ngoại khóa và ở nhà. Xây

dựng cho mình một kế hoạch học tập cụ thể và rõ ràng. Tích cực chủ động hoạt động và giao tiếp với các bạn học ở trên lớp, tạo dựng mối quan hệ giao tiếp với

giảng viên để có thể học tập tốt hơn. Gắn việc học tập lý thuyết với hoạt động thực

hành, với cuộc sống, tạo cho mình những cách thức tự học, tự nghiên cứu phù hợp

với điều kiện, thời gian của bản thân.

2.2. Giảng viên không ngừng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tiếp

cận năng lực. Sử dụng phương tiện trực quan sinh động nhiều hơn nữa để kích thích

hứng thú học tập cũng như khơi gợi tính tò mò khám phá ở sinh viên. Cần quan tâm

đến việc phân phối thời gian học tập giữa chính khóa và ngoại khóa để sinh viên có

thời gian làm quen với thực tế cuộc sống nhiều hơn. Giúp các em có sự liên hệ giữa

thông tin, kiến thức trên lớp học với việc rèn luyện các kĩ năng…

2.3. Nhà trường có các hoạt động hỗ trợ sinh viên DTTS khi gặp một số khó

khăn trong ứng phó với những thay đổi của môi trường hoạt động học tập tạo ra như

kĩ năng điều chỉnh cảm xúc, các kĩ năng tự học, kĩ năng ghi chép và nghe giảng. Vì

vậy, nhà trường tổ chức các hoạt động sinh hoạt nhóm, câu lạc bộ kỹ năng sống để

trang bị cho sinh viên các kĩ năng ứng phó mang tính tích cực, biết điều chỉnh bản

thân, chủ động giao tiếp với giảng viên và bạn bè, tham gia vào các mối quan hệ xã

hội. Cần thành lập phòng tham vấn học đường để hỗ trợ tâm lý cho sinh viên mỗi

khi các em gặp khó khăn trong học tập và giải quyết những vướng mắc trong cuộc sống.

3. Các hướng nghiên cứu tiếp theo Trong khuôn khổ lý thuyết về thích ứng của SV DTTS với HĐHT mà luận án đã trình bày và kết quả nghiên cứu thực tiễn cho thấy một số vấn đề sau cần được làm rõ hơn:

- Ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan có mối quan hệ như thế nào với đặc

152

điểm văn hóa dân tộc trong sự tác động đến mức độ thích ứng của sinh viên.

- Cần nghiên cứu chuyên sâu hơn về đặc điểm văn hóa dân tộc, đặc điểm tính cách, ý chí khắc phục khó khăn, các đặc điểm gia đình, đặc điểm giao tiếp của SV

DTTS có liên quan gì đến sự thích ứng trong hoạt động học tập của sinh viên. Xem

xét đến mối tương quan giữa các yếu tố này với nhau làm ảnh hưởng đến sự thích

ứng cũng như trong các yếu tố này, yếu tố nào ảnh hưởng lớn nhất và mang tính quyết định sự hòa nhập kém hay hòa nhập tốt vào môi trường đại học.

- Làm rõ mối quan hệ giữa đặc điểm văn hóa gia đình đối với sự thích ứng

của SV DTTS trong hoạt động học tập. Trong đó, chú ý đến vai trò của cha mẹ với việc giáo dục con cái để định hướng cho con trong quá trình học tập ở phổ thông và

153

đại học sau này.

DANH MỤC CÁC BÀI VIẾT

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ

1. Mã Ngọc Thể, (2015), “Thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt

động học tập”, Tạp chí Tâm lý học xã hội, số tháng 5.

2. Mã Ngọc Thể, (2015), “Các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng của sinh viên

dân tộc thiểu số với hoạt động học tập”, Tạp chí Tâm lý học xã hội, số tháng 7.

3. Mã Ngọc Thể, (2012), “Người chưa thành niên vi phạm pháp luật và sự

thích ứng với cuộc sống trong trường giáo dưỡng”. Sách chuyên khảo (nhiều tác

giả), Người chưa thành niên vi phạm pháp luật: Thực trạng và Giải pháp, Nxb Đại

154

học Quốc Gia tp Hồ Chí Minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tiếng Việt

[1] Nguyễn Thị Lan Anh, (2015), “Đặc điểm nội dung giao tiếp của sinh viên

người dân tộc Tày tỉnh Tuyên Quang”, Tạp chí Tâm lý học xã hội, số 6,

tháng 6/2015.

[2] Võ Thị Minh Chí, (2006), “Đánh giá mức độ thích nghi của học sinh một số

trường tiểu học và trung học cơ sở”, Tạp chí Tâm lý học, số 4.

[3] Michel Daigneault, (1998), Sự thích nghi của con người, Chương trình đào tạo

cán bộ giảng dạy Việt Nam về sự phạm tương tác và tâm lý học phát triển.

[4] Dacco P (2004), Những thành tựu lẫy lừng trong tâm lý học hiện đại, Nxb

Thống kê, Hà Nội.

[5] Vũ Dũng, (2012), Từ điển thuật ngữ Tâm lý học, Nxb Từ điển bách khoa,

Hà Nội.

[6] Vũ Dũng, (2012), “Một số khó khăn của trẻ em lang thang cơ nhỡ trong

việc thích ứng với cuộc sống”, Tạp chí Tâm lý học, số 7.

[7] Hồ Ngọc Đại, (2004), Tâm lý học dạy học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

[8] Hồ Ngọc Đại, (1994), Công nghệ giáo dục, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[9] Trần Thị Minh Đức, (2004), “Nghiên cứu sự thích ứng của sinh viên năm

thứ nhất – Đại học quốc gia Hà Nội với môi trường đại học”. Đề tài nghiên

cứu khoa học đặc biệt cấp Đại học quốc gia. Hà nội.

[10] Jo. Godefrold, (1998), Những con đường của tâm lý học, tập 2, Tủ sách NT

(lưu hành nội bộ)

[11] Trần Văn Hà (Chủ biên) (2011), Nghiên cứu tái định cư thủy điện ở Việt

Nam thời kỳ Đổi mới, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.

[12] Phạm Minh Hạc, (2001). Tâm lý học Vưgotxki, tập một, NXB Giáo dục, Hà Nội.

[13] Phạm Minh Hạc, Hồ Thanh Bình (1978), Tâm lý học Liên Xô, NXB Tiến

bộ Matxcova.

155

[14] Phạm Minh Hạc, (2002), Tuyển tập tâm lý học, Nxb Giáo dục, Hà Nội

[15] Phạm Minh Hạc, (1996), Tuyển tập tâm lý học J. Piaget, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[16] Phùng Thị Hằng, (2012), Nghiên cứu đặc trưng tâm lý của học sinh dân tộc

thiểu số khu vực Đông Bắc Việt Nam. Đề tài khoa học cấp Bộ GD – DT.

[17] Tô Thúy Hạnh, (2012), “ Thích ứng của các nhóm yếu thế qua thay đổi nhu

cầu sống”, Tạp chí Tâm lý học, số 7.

[18] Nguyễn Thị Hiền, (2015), “Thích ứng với nghề công tác xã hội của sinh

viên”, Tạp chí Tâm lý học xã hội, số 3/2015.

[19] Hề Hoa (Biên dịch: Huy Sanh, Trần Thu Nguyệt), (2004). Sách trả lời tâm

lý cho nam sinh-nữ sinh. Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

[20] Nguyễn Thị Hoài, (2007) “Sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh

viên năm thứ nhất người dân tộc thiểu số”. Tạp chí Tâm lý học, số 4.

[21] Phạm Quang Hoan (Chủ biên) (2012), Văn hóa các tộc người vùng lòng hồ

và vùng tái định cư thủy điện Sơn La, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

[22] Nguyễn Văn Hộ (2000), Thích ứng sư phạm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[23] Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, (2001) Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư

phạm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[24] Nguyễn Thế Hùng, (2008), “Những khó khăn tâm lý trong học tập của sinh

viên cao đẳng Bến Tre”, Tạp chí Tâm lý học, số 5.

[25] Đỗ Duy Hưng, (2012), “Thích ứng của các nhóm yếu thế qua thay đổi thu

nhập, mức sống và các hoạt động văn hóa thể thao”, Tạp chí Tâm lý học, số 7.

[26] Lê Thị Thanh Hương, (2009), Nhân cách văn hoá trí thức Việt Nam trong

tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Bộ

KH&CN Mã số: KX.03.11/06-10.

[27] Lescarret O, Lê Khanh, Ricaud H (2001), (đồng chủ biên), Trẻ em, văn hóa,

giáo dục, Kỷ yếu hội thảo Việt – Pháp về tâm lý học, Nxb Thế giới, Hà Nội.

[28] Nguyễn Công Khanh, (2004), Đánh giá và đo lường trong khoa học xã hội,

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[29] Đặng Phương Kiệt, (2001), Cơ sở tâm lý học ứng dụng – tập 1, NXB

156

ĐHQG, Hà Nội.

[30] Lê Ngọc Lan, (2002), “Sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên”.

Tạp chí Tâm lý học, số 3.

[31] Đặng Thị Lan, (2009), Mức độ thích ứng với hoạt động học một số môn học

chung và môn đọc hiểu tiếng nước ngoài của sinh viên trường Đại học

Ngoại ngữ – Đại học Quốc gia Hà Nội, Luận án Tiến sĩ Tâm lý học.

[32] Đặng Thị Lan, (2012), “Biện pháp nâng cao mức độ thích ứng với hoạt động

học môn Tâm lý học của sinh viên sư phạm”, Tạp chí Tâm lý học, số 7.

[33] Phan Quốc Lâm, (1998). “Một số vấn đề tâm lý học về sự thích ứng”. Tạp

chí Tâm lsy học, số 10.

[34] Phan Quốc Lâm, (1999), “Thực trạng hành vi thích ứng với hoạt động học

tập của học sinh lớp 1”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 4.

[35] Lê Thị Minh Loan, (2010), Mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên

sau khi tốt nghiệp, Đề tài khoa học cấp Bộ, Mã số: QG. 08-19.

[36] B. Ph. Lomov, (2000), Những vấn đề lí luận và phương pháp luận tâm lí

học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

[37] Nguyễn Thị Mỹ Lộc, (2012), Giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống cho học

sinh dân tộc thiểu số, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

[38] Phan Trọng Luận, (2002), “Dạy cho sinh viên tự học và học sáng tạo”. Tạp

chí Giáo dục, số 25, tháng 3.

[39] Lê Văn Luyện, (1994). Từ vựng Tâm lý học. Nxb Thế giới, Hà Nội.

[40] Đỗ Thị Thanh Mai, (2008), “Thực trạng thích ứng với hoạt động học tập

của sinh viên hệ cao đẳng trường Đại học công nghiệp Hà Nội”, Tạp chí

Tâm lý học, số 2/2008.

[41] Đỗ Thị Thanh Mai, (2008), Mức độ thích ứng với hoạt động học tập của

sinh viên hệ cao đẳng trường Đại học công nghiệp Hà Nội, Luận án tiến sĩ

Tâm lý học, ĐHSP Hà Nội.

[42] Joachim Matthes, (1994). Một số vấn đề lý luận về phương pháp nghiên

157

cứu con người và xã hội. Hà Nội

[43] Prof. Meier, (2003). Phương pháp giảng dạy đại học. Bộ Giáo dục và Đào

tạo, Hà Nội.

[44] Pol Dupont, Marcole Ossandon, (1999), Nền sư phạm đại học, Nxb Thế

giới, Hà Nội.

[45] Patricia H. Miler, (2003), Các thuyết về tâm lý học phát triển, Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

[46] Ngô Giang Nam, (2013), Phát triển kỹ năng giao tiếp cho sinh viên dân tộc thiểu

số Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, Đề tài khoa học cấp Đại học

Thái Nguyên, Viện Kinh tế - XH& NV miền núi- Đại học Thái Nguyên.

[47] Vũ Thị Nho, (1998), “Một số đặc điểm về sự thích nghi với hoạt động học

tập của học sinh đầu bậc tiểu học”, Tạp chí Tâm lý học, số 5/1998.

[48] Vũ Thị Nho, (1999), Tâm lí học phát triển, NXB ĐHQG Hà Nội.

[49] Dương Thị Nga, (2012), Phát triển năng lực thích ứng nghề cho sinh viên

cao đẳng sư phạm, Luận án Tiến sĩ, Đại học Thái Nguyên.

[50] Đặng Thanh Nga, (2014), “Những yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng với

hoạt động học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ của sinh viên trường

Đại học Luật Hà Nội”, Tạp chí Tâm lý học, số 2.

[51] Nguyễn Thanh Nga, (2015), “Các yếu tố ảnh hưởng tới sự thích ứng với

hoạt động dạy học của giáo viên tiểu học mới vào nghề ở Hà Nội”, Tạp chí

Tâm lý học xã hội, số 3.

[52] Phan Trọng Ngọ, Nguyễn Đức Hưởng, (2003) Các lý thuyết phát triển tâm

lí người, NXB ĐHSP Hà Nội.

[53] Nguyên Ngọc, (2004). “10 vấn đề lớn của giáo dục” (Tóm tắt các nội dung

trong Xemina về cải cách giáo dục do GS Hoàng Tụy đề xướng và chủ trì).

Báo Tia Sáng, tháng 6.

[54] Nguyễn Thị Ngọc, (2013), Ảnh hưởng của phong tục, tập quán đến các

hoạt động giáo dục quyền và bổn phận cho trẻ em Tày - Nùng tỉnh Thái

158

Nguyên. Đề tài khoa học cấp đại học Thái Nguyên.

[55] Đào Thị Oanh (chủ biên), (2007), Vấn đề nhân cách trong tâm lí học ngày

nay, NXB Giáo dục, Hà Nội.

[56] Guy Palmade, (2002). Các phương pháp sư phạm. Nxb Thế giới, Hà Nội.

[57] Ngô Đình Qua, (2002). “Thực trạng biểu hiện và biện pháp phát huy tính độc

lập nhận thức của học sinh trung học phổ thông”. Tạp chí Giáo dục, số 28.

[58] Nguyễn Thị Út Sáu, (2013), Thích ứng với hoạt động học tập theo tín chỉ

của sinh viên Đại học Thái Nguyên, Luận án Tiến sĩ, khoa Tâm lý học, Học

viện KHXH, Hà Nội.

[59] Nguyễn Thanh Sơn,(1998).“Những khó khăn của học sinh miền núi khi học

tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam”. Nghiên cứu Giáo dục, số 4

[60] Nguyễn Chí Tăng, (2011), Sự thích ứng của giáo viên Trung học cơ sở với

việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động giảng dạy, Luận án Tiến

sĩ, khoa Tâm lý học, Học viện KHXH, Hà Nội.

[61] Nguyễn Thạc, /(2003), “Sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên

trường Cao đẳng Sư phạm Nhà trẻ Mẫu giáo Trung ương I”. Tạp chí Tâm lý

học, số 3.

[62] Nguyễn Thạc (chủ biên), (1992). Tâm lí học sư phạm Đại học. Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

[63] Mã Ngọc Thể, (2015), “Thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt

động học tập”, Tạp chí Tâm lý học xã hội, số 5.

[64] Mã Ngọc Thể, Nguyễn Thị Chính, Lê Minh Công (2012), “Người chưa

thành niên vi phạm pháp luật và sự thích ứng với cuộc sống trong trường

giáo dưỡng”, Sách chuyên khảo: Người chưa thành niên vi phạm pháp luật:

Thực trạng và Giải pháp. Nxb Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh.

[65] Mã Ngọc Thể, (2015), “Các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng của sinh viên

dân tộc thiểu số với hoạt động học tập”, Tạp chí Tâm lý học xã hội, số

159

tháng 7.

[66] Mã Ngọc Thể (2015) “Một số vấn đề dạy học phát triển tính sáng tạo cho

học sinh tiểu học”. Trích từ sách chuyên khảo (Nguyễn Khải Hoàn -

Nguyễn Bá Đức (chủ biên) Đánh giá học sinh tiểu học theo tiếp cận năng

lực. Nxb Đại học Thái Nguyên, 2015.

[67] Dương Thị Thoan, (2010), “Nghiên cứu sự thích ứng với hoạt động học tập

phù hợp với phương thức đào tạo theo tín chỉ của sinh viên năm thứ nhất

trường đại học Hồng Đức Thanh Hóa”. Tạp chí Tâm lý học, số 3.

[68] Đậu Xuân Thoan, (2002). “Phương pháp dạy học tích cực hóa hoạt động

học tập của sinh viên”. Tạp chí Giáo dục số 27.

[69] Trần Thị Lệ Thu (2006), Nghiên cứu hành vi thích ứng của trẻ chậm phát

triển trí tuệ trong các lớp giáo dục đặc biệt ở Hà Nội, Luận án Tiến sĩ Tâm

lí học, Viện Tâm lí học.

[70] Trần Trọng Thuỷ, (1992). Khoa học chẩn đoán tâm lí. NXB Giáo dục.

[71] Nguyễn Xuân Thức, (2003), “Biện pháp nâng cao sự thích ứng với hình

thức tổ chức hoạt động ngoại khóa cho học sinh phổ thông của sinh viên sư

phạm”, Tạp chí Tâm lý học, số 3.

[72] Nguyễn Xuân Thức, (2005), Sự thích ứng với hoạt động rèn luyện nghiệp

vụ của sinh viên Đại học sư phạm”, Tạp chí Tâm lý học, số 8.

[73] Đỗ Mạnh Tôn, (1996). Nghiên cứu sự thích ứng đối với học tập và rèn

luyện của học viên các trường sĩ quan quân đội. Luận án PTS Kh quân sự.

Học viện chính trị quân sự. Hà Nội.

[74] Dương Diệu Tống, (2003). “Phải đổi mới dạy và học từ đâu?” Tạp chí

Khoa học và Phát triển, số 11.

[75] Trung tâm Từ điển học, (2008), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

[76] Nguyễn Thị Trâm, (2003), “Giáo dục đại học Việt Nam cần một số đổi mới

toàn diện”. Phụ Nữ Việt Nam, số 20.

[77] Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) (1998) Tâm lý học đại cương, Nxb ĐHSP

160

Hà Nội.

[78] Đặng Thị Vân, (2006), “Thực trạng thích ứng của sinh viên khoa Sư phạm

kĩ thuật đối với việc học tập bằng phương pháp thảo luận nhóm”, Tạp chí

Tâm lý học, số 7.

[79] Nguyễn Tuấn Vĩnh, (2014), “Hành vi thích ứng của trẻ có hội chứng Down

trong hoạt động giao tiếp”, Tạp chí Tâm lý học xã hội, số 7.

[80] Nguyễn Tuấn Vĩnh, (2015), Nghiên cứu hành vi thích ứng của trẻ có hội

chứng Down tại các cơ sở giáo dục đặc biệt ở thành phố Huế, tỉnh Thừa

Thiên – Huế, Luận án Tiến sĩ, khoa Tâm lý học, Học viện KHXH, Hà Nội.

[81] Nguyễn Khắc Viện, (1994). Từ điển xã hội học. Nxb Thế giới, Hà Nội.

[82] Nguyễn Khắc Viện, (1991). Từ điển tâm lý học. Nxb Ngoại văn, Hà Nội.

[83] Franz Emanuel Weinert (Chủ biên), (1998). Sự phát triển nhận thức học

tập và giảng dạy. Nxb ĐHQG Hà Nội.

2. Tiếng nước ngoài

[84] Adler P.S. (1974), The transitional experience: an alternative view of

culture shock. // Hournal of Humanistic Psychology. Humantic

Psychology, 15, 13-23, 1975.

[85] Anumonye A. (1970), African students in Aline Cutures – London.

[86] Arkoff. A, Adjustmant and mental health – MCGraw-Hill Book

Company.

[87] Allen B.P. (1990), Personal adjustment, Canifornia University USA.

[88] Arther S.Rebel And Emily. Rebel, (2001), The Penguin Dictionary of

Psychology, England.

[89] Darwin, C. (1877). A biographical sketch of an infant. Mind , 2 , 285-294.

[90] Dykens EM, Hodapp RM, Evans DW, (2006), Profiles and development

of adaptive behavior in children with Down syndrome, Down Syndrome

Research and Practice, 2006, 9(3), 45 – 50.

161

[91] Erikson. E. (1967), Childhood and society, New York.

[92] John T. Doby, Alvin Boskoff, William W. Pendleton (1973), Sociology:

the study of man in adaption, Emory University, USA.

[93] Jacobson E.H. (1965), Sojourn research: a definition of the field.// Journal

of Social Issues, 19, (3).

[94] Hesketh. B, (2001), Ada.ting Vocational Psychology to Cope with

Change. Journal of Vocational Behavior, Vol.59, Issue:2, pp.203-212.

[95] Hopkins.J, Malleson.N, Sarnoff.I (1957), Some non-intellectual corelates

of success and failure among university students. British Journal of

Sociology, No.9, pages 25-36.

[96] Lambert N., Nihira K., Leland H. (1993), Adaptive Behavior Scale-

School, 2nd Edition: Examiner’s Manual, American Association on

Mental Retardation.

[97] Lamarck. J (1809), Philosophie zoologique, University Oxford.

[98] A. Maslow, (1963), Motivation and adjustment, USA.

[99] Ming – Kung Yang, Wei-Chin Hsiao, (2000), A study of skill learning

adjustment at vocational high schoool, Educational Research and

information, Vol.8, No.3, Pages 55-57.

[100] Oberg K, Cultural Shock: adjustment to new cultural enviroments.//

Practical Anthropology, 177-82, 1960.

[101] Peter Creed, Tracy Fallon, Michelle Hood, (2005), The relationship between

career adaptability person and situation variabes and career concerns in

young adults, School of Psychology, Griffith University, Australia.

[102] A. E Piskun, (2011), Impact of intellectual traits to adapt the learning

activities of students the technical university. P.P Lecgapta, Vol 11.

[103] Richard B. Mazess: Biologycal adaptation: Aptitudes and acclimatization

– The Hague: Mouton Publishers.

[104] Schultz, D. P., & Schultz, S. E. (2004). A History of Modern Psychology.

Belmont, CA: Wadsworth

162

[105] Spencer. H, (1998), The principles of Psychology, Vol 1, New York.

[106] Tremblay RE, Mâsse B, Perron D, LeBlanc M, Schwartzman AE,

Ledingham JE, (1992), Early disruptive behavior, poor school

achievement, delinquent behavior and delinquent personality:

Longitudinal analyses. Journal of Consulting and Clinical Psychology.

[107] Volgina T. Iu (2007) The adaptation of students with learning activities in

schools pedagogy,

[108] Watson, JB (1913). Psychology as the behaviorist views it. Psychological

Review , 20 , 158-177.

[109] Zettergren. P. (2003), School adjustment in adolescent for previously

rejected average and popular children. British Journal of Educational

163

Psychology, Vol. 73.

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI (Dành cho sinh viên)

KHOA TÂM LÝ HỌC

Các bạn sinh viên thân mến!

Chúng tôi đang thực hiện công trình nghiên cứu về sự thích ứng học tập của sinh

viên dân tộc thiểu số ở trường đại học. Để hoàn thành được nghiên cứu này chúng

tôi cần các bạn cho biết một số thông tin liên quan đến vấn đề học tập qua những

câu hỏi dưới đây. Các bạn không cần ghi tên và các thông tin này chỉ nhằm mục

đích nghiên cứu khoa học, không có mục đích nào khác.

Các bạn vui lòng trả lời bằng cách đánh dấu (x) hoặc khoanh tròn vào các ô số

tương ứng trong phiếu theo ý kiến đánh giá của cá nhân mình.

1. Hãy cho biết đánh giá của bạn về mức độ quan trọng của các yếu tố giúp

sinh viên ngày càng học tốt hơn.

1. Không quan trọng 3.Trung bình 3. Quan trọng 4. Rất quan trọng

Mức độ

Nội dung 1 2 3 4

1. Nghe giảng trong lớp

2. Phát biểu ý kiến trong giờ học

3. Hợp tác với giảng viên và bạn cùng lớp

4. Phương tiện dạy và học

5. Tự học ở nhà

6. Liên hệ nội dung bài giảng với thực tế

7. Tham gia vào hoạt động chung trong lớp

8. Củng cố và nắm vững tri thức

9. Phát huy tính độc lập, sáng tạo

10. Mở rộng kiến thức, nâng cao hiểu biết

2. Theo bạn, phương pháp giảng dạy của giảng viên ở đại học hiện nay là:

1. Hoàn toàn sai 2. Nửa đúng, nửa sai 3. Đúng nhiều hơn sai 4. Hoàn toàn đúng

Mức độ

Nội dung 1 2 3 4

Phương pháp không có sự tham gia

1. Giảng viên đọc chép

2. Giảng viên lý luận

3. Đơn điệu, thiếu đa dạng

4. Cứng nhắc máy móc, dập khuôn

5. Giảng viên làm trung tâm

Phương pháp có sự tham gia

6. Giảng viên tạo sự lôi cuốn

7. Giảng viên tạo sự chủ động

8. Sinh viên có sự tham gia, trao đổi

9. Giảng viên trang bị kỹ năng cho sinh viên

10. Tăng sự trải nghiệm sáng tạo cho sinh viên

3. Hãy đánh giá thái độ của bản thân đối với các biểu hiện dưới đây?

1. Thấp (kém) 2.Trung bình 3. Khá 4. Tốt

Mức độ

Nội dung 1 2 3 4

Thái độ học tập trên lớp và ở nhà

1. Giảng bài trên lớp

2. Chép bài trên lớp

3. Bổ sung kiến thức, thông tin

4. Thực hiện những yêu cầu về tự học

5. Sự tập trung chú ý trong thời gian học

6. Nghiên cứu khoa học

Thái độ tương tác với bạn học và giảng viên

trên lớp

7. Tôn trọng giảng viên trong giờ học

8. Phát biểu ý kiến trước lớp.

9. Lắng nghe ý kiến của bạn học

10. Hợp tác với bạn học trong lớp

4. Bạn hãy đánh giá các kĩ năng dưới đây qua các mức độ

1. Thấp 2.Trung bình 3. Khá 4. Tốt

Mức độ

Các kĩ năng 1 2 3 4

1. Giao tiếp với bạn học và giảng viên

2. Đọc tài liệu, xử lý thông tin

3. Làm bài tập trên lớp, ở nhà

4. Điều chỉnh cảm xúc

5. Giải quyết khó khăn trong học tập

6. Làm chủ các phương pháp học tập

7. Phân phối thời gian học tập

8. Kĩ năng nói, viết trong học tập

9. Xác định, nhận diện vấn đề học tập

5. Năm học vừa qua bạn đã đạt kết quả học tập ở mức nào dưới đây:

1. Dưới trung bình 2. Trung bình 3. Khá 4. Giỏi, xuất sắc

Mức độ

Kết quả học tập 4 1 2 3

1. Học Kì 1

2. Học kì 2

6. Các yếu tố dưới đây ảnh hưởng đến kết quả học tập của bạn như thế nào ?

1. Không ảnh hưởng 2.Trung bình 3.Ảnh hưởng nhiều 4.Ảnh hưởng rất

nhiều

Mức độ

Nội dung 1 2 3 4

1. Hiện tượng gian lận trong học tập

2. Đánh giá khách quan của giảng viên

3. Sự nỗ lực trong học tập

4. Mối quan hệ tốt giữa sinh viên và giảng viên

5. Phương pháp tự học tốt

6. Điều kiện học tập tốt

7. Cách thức giảng dạy

8. Năng lực học tập của sinh viên

9. Khả năng liên hệ từ lý thuyết đến thực tế

10. Sự yêu thích môn học, ngành học

7. Yếu tố chủ quan dưới đây ảnh hưởng như thế nào đến thích ứng của bạn với

hoạt động học tập ở đại học ?

1. Không ảnh hưởng 2. Trung bình 3.Ảnh hưởng nhiều 4. Ảnh hưởng rất

nhiều

Mức độ

Nội dung 1 2 3 4

Yếu tố chủ quan

1. Tính ham hiểu biết, óc tìm tòi, sáng tạo.

2. Khả năng giao tiếp (với bạn học, với giảng

viên và tham gia vào các hoạt động).

3. Sự cố gắng, ý chí khắc phục khó khăn, sự tích

cực chủ động.

8. Yếu tố khách quan dưới đây ảnh hưởng như thế nào đến thích ứng của bạn

với hoạt động học tập ở đại học ?

1. Không ảnh hưởng 2. Trung bình 3. Ảnh hưởng nhiều 4. Ảnh hưởng rất nhiều

Mức độ

Nội dung 1 2 3 4

Yếu tố khách quan

1. Phương pháp giảng dạy của giảng viên

2. Những điều kiện học tập, sự quản lý của nhà

trường (giờ giấc lên lớp, yêu cầu của Kí túc xá,

yêu cầu của giảng viên)

3. Môi trường sống, truyền thống văn hóa, giáo

dục gia đình

9. Bên cạnh những yếu tố cơ bản nêu trên, theo bạn những yếu tố dưới đây có

ảnh hưởng đến thích ứng học tập của sinh viên không?

1. Có 2. Không

Mức độ

Nội dung 1 2

1. Tham gia vào ban cán sự lớp, các nhóm học tập, các câu lạc

bộ

2. Hài lòng trong giao tiếp với giảng viên và bạn học

3. Yêu thích ngành học, môn học

4. Khó khăn nghĩ đến việc bỏ học, bảo lưu kết quả học tập

5. Khác biệt văn hóa của dân tộc cản trở sự hòa nhập với môi

trường văn hóa ở đại học

10. Khi gặp các khó khăn, bạn thường có cách ứng phó nào dưới đây :

1. Không bao giờ 2. Thỉnh thoảng 3. Thường xuyên 4. Rất thường xuyên

NỘI DUNG Không Thỉnh Thường Rất

bao giờ thoảng xuyên thường

xuyên

1 2 3 4

1. Chơi điện tử, chơi thể thao

2. Không học nữa, bỏ đi đâu đó

3. Tìm chỗ khác để có thể học được bài

4. Mặc kệ mọi chuyện, vẫn học tập bình

thường

5. Nghe nhạc, xem tivi, ngủ, đọc truyện

6. Cố gắng tìm cách khắc phục để học tốt

hơn

7. Tìm đến bạn bè để cùng trao đổi, thảo

luận bài học

8. Tìm đến thầy, cô giáo để được cung cấp

thêm kiến thức, phương pháp học tập

9. Mặc kệ mọi chuyện đến đâu thì đến

10. Muốn bỏ học, không muốn học nữa

11. Theo bạn những đặc điểm dân tộc ảnh hưởng như thế nào đến thích ứng

học tập của sinh viên dân tộc thiểu số.

1. Không ảnh hưởng 2. Trung bình 3. Ảnh hưởng nhiều 4. Ảnh hưởng rất nhiều

Mức độ

Nội dung 1 2 3 4

1. Ngôn ngữ phổ thông hạn chế

2. Phong tục dân tộc

3. Bản sắc văn hóa gia đình

4. Đặc điểm tâm lý, tính cách dân tộc

5. Môi trường sống

6. Điều kiện kinh tế, vật chất gia đình

7. Lòng tự tôn dân tộc

8. Bất đồng văn hóa trong giao tiếp, ứng xử

9. Giáo dục gia đình

PHẦN THÔNG TIN CHUNG

- Họ và tên:…………………………………………………………..............

- Ngày tháng năm sinh:…………………. Giới: 1. Nam 2. Nữ

- Dân tộc: 1.Tày 2.H’mông - Dao 3. Khác

- Sinh viên năm thứ: 1. 2. 3.

- Nơi ở hiện nay: 1. Ký túc xá 2. Thuê trọ

Xin chân thành cám ơn!

PHỤ LỤC 2

PHIẾU QUAN SÁT

A. Người được quan sát:

Họ và tên:……………………………………………………………………..

Giới tính:…………..Lớp học:…………………..Trường:……………………

B. Người quan sát:

Họ và tên:………………………………………………………………………

Địa điểm quan sát:……………………………………………………………..

Thời gian:………………………………………………………………………

C. Nội dung quan sát

1. Môi trường học tập

- Lớp học.

- Số người tham gia học tập.

- Mô tả nơi học tập.

- Mô tả đồ dùng, vật dụng và phương tiện học tập.

- Hình thức tổ chức học tập.

2. Các hoạt động học tập của sinh viên tại thời điểm quan sát

- Số lần thay đổi vị trí ngồi.

- Mức độ tham gia vào các hoạt động như phát biểu ý kiến, bày tỏ bản thân.

- Vai trò thể hiện trong hoạt động học tập.

3. Quan sát về việc tiếp nhận kiến thức, vận dụng kĩ năng và thái độ học tập.

STT Biểu hiện cụ thể Các hoạt Nhận xét đánh giá về

động sự thích ứng của SV

1 Hiểu đúng, nắm vững lý thuyết, kiến

thức bài học.

2 Có thái độ tích cực trong đánh giá về

nội dung, phương pháp học tập, tích

cực tham gia vào hoạt động học tập.

3 Sự thành thạo hành vi, kĩ năng vận

dụng. Biết cách trình bày, khái quát

nội dung kiến thức theo hướng dẫn

của giảng viên. Giao tiếp với bạn học,

với giảng viên.

PHỤ LỤC 3

PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU GIẢNG VIÊN

1. Theo đánh giá của ông (bà) sinh viên hiện nay có hòa nhập, thích ứng với

hoạt động học tập ở trường đại học không?

………………………………………………………………………………

2. Sự thích ứng với hoạt động học tập ảnh hưởng như thế nào đến kết quả học

tập ở sinh viên?

………………………………………………………………………………

3. Ông (bà) đánh giá thế nào về sự khác nhau giữa sinh viên dân tộc thiểu số

với sinh viên người Kinh trong các hoạt động học tập ở trường đại học?

………………………………………………………………………………

4. Những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số

với hoạt động học tập?

………………………………………………………………………………

5. Để thích ứng với hoạt động học tập ngay từ năm đầu, sinh viên cần phải

được trang bị những kĩ năng gì? Vì sao?

………………………………………………………………………………

6. Theo ông (bà) sinh viên dân tộc thiểu số thường gặp những khó khăn gì khi

học tập ở trường đại học?

………………………………………………………………………………

7. Các nguyên nhân ảnh hưởng đến sự thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số

với hoạt động học tập ở trường đại học?

………………………………………………………………………………

8. Nhà trường và giảng viên cần hỗ trợ những gì để cho sinh viên năm thứ nhất

có thể hòa nhập, thích ứng với hoạt động học tập ở trường đại học?

PHỤ LỤC 4

CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU SINH VIÊN DÂN TỘC THIỂU SỐ

1. Em hãy cho biết lý do em vào học trong trường hiện nay?

2. Theo em, sinh viên dân tộc thiểu số có những khó khăn gì khi hòa nhập,

thích ứng với hoạt động học tập ở trường đại học?

………………………………………………………………………………

3. Các đặc điểm dân tộc nào ảnh hưởng đến đến kết quả học tập ở sinh viên?

………………………………………………………………………………

4. Em đánh giá như thế nào về sự khác nhau giữa sinh viên dân tộc thiểu số với

sinh viên người Kinh trong các hoạt động học tập ở trường đại học?

………………………………………………………………………………

5. Hạn chế nào lớn nhất ở bản thân ảnh hưởng đến sự hòa nhập của sinh viên

dân tộc thiểu số với hoạt động học tập? Em có hài lòng với hoạt động học tập

của bản thân?

6. Nhà trường và giảng viên cần hỗ trợ những gì để cho sinh viên năm thứ nhất

có thể hòa nhập, thích ứng với hoạt động học tập ở trường đại học?

………………………………………………………………………………

PHỤ LỤC 5

KĨ THUẬT THAM VẤN VÀ CÁC BƯỚC CAN THIỆP

- Xác định nguồn lực: thân chủ là sinh viên sống xa nhà, có nhiều hạn chế

khi giao tiếp, chia sẻ với người thân trong gia đình. Do đó, các bạn cùng lớp học,

giảng viên sẽ là những nhân tố có tác động và ảnh hưởng làm thay đổi nhận thức, và

hành vi thích ứng, những hoạt động học tập chung sẽ là nguồn hỗ trợ động viên tâm

lý cho thân chủ tốt nhất. Do đó, nhà tham vấn sẽ tập trung hướng thân chủ tham gia

vào những hoạt động mang tính tập thể để được hòa nhập, làm quen với các bạn.

- Thời gian làm việc: 1 đến 2 lần/tuần ; mỗi lần 45-60 phút.

- Mục tiêu: Nhà tham vấn sử dụng kĩ thuật tham vấn theo mô hình nhận thức

và hành vi để tham vấn hỗ trợ tâm lý và nâng cao kĩ năng sống, kĩ năng học tập cho

sinh viên có biểu hiện thích ứng thấp với hoạt động học tập.

- Ý nghĩa của việc tham vấn: Nhà tham vấn sẽ tiến hành tham vấn theo

hướng tiếp cận nhận thức và hành vi cho thân chủ. Sự tác động bằng các kĩ thuật

tham vấn vào hệ thống thái độ, nhận thức, niềm tin có ảnh hưởng mạnh đến hành vi

của thân chủ.

- Nguyên tắc và cách thức tiến hành: Sau khi thăm khám và chẩn đoán tâm

lý và xây dựng được hồ sơ tâm lý, chúng tôi sẽ tiến hành tham vấn cho sinh viên. Số

buổi tham vấn được thực hiện dựa trên sự thỏa thuận của nhà tham vấn và thân chủ

là sinh viên dân tộc thiểu số có biểu hiện thích ứng thấp trong hoạt động học tập.

Tuy nhiên, số buổi tham vấn có thể thực hiện từ 3 cho đến 6 buổi.

Thời gian dành cho 1 buổi tham vấn khoảng từ 45 phút cho đến 60 phút. Các

buổi tham vấn không quá liên tục và tối thiểu khoảng cách giữa các buổi ít nhất là

từ 02 ngày trở lên cho đến một tuần để đảm bảo những nội dung tham vấn được

thân chủ thực sự thấu hiểu và có những điều chỉnh hành vi phù hợp.

- Phương án hỗ trợ: trò chuyện, tham vấn cho thân chủ về những khó khăn

tâm lý khi khó hòa nhập với bạn cùng phòng trọ ở KTX, ngại giao tiếp hoặc

khó ứng xử với bạn học.

PHỤ LỤC 6

Bảng Thích ứng của SV DTTS thể hiện qua mặt nhận thức xét theo dân tộc

NỘI DUNG Tày H’mông DT khác Tổng

Dao MĐTƯ

ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC

1. Tập trung nghe 3.18 0.57 3.17 0.60 3.19 0.56 3.19 0.58 Khá giảng trong lớp

2. Phát biểu ý kiến 3.05 0.58 3.06 0.53 3.01 0.51 3.04 0.54 TB trong giờ học

3. Hợp tác với giảng 3.33 0.85 3.31 0.83 3.21 0.74 3.28 0.81 Khá viên và bạn cùng lớp

4. Phương pháp dạy 3.32 0.69 3.37 0.65 3.30 0.66 3.33 0.67 Khá học của giảng viên

5. Tự học ở nhà 3.14 0.83 3.16 0.88 2.96 0.75 3.09 0.83 TB

6. Liên hệ nội dung 3.08 0.64 3.09 0.66 3.05 0.56 3.08 0.63 TB bài giảng với thực tế

7. Tham gia vào

hoạt động chung 3.09 0.35 3.19 0.41 3.18 0.39 3.14 0.38 Khá

trong lớp

8. Củng cố và nắm 3.02 0.94 3.02 0.99 2.75 0.83 2.95 0.94 TB vững tri thức

9. Phát huy tính độc 3.18 0.85 3.16 0.81 2.9 0.71 3.1 0.81 TB lập sáng tạo

10. Mở rộng kiến

thức, nâng cao hiểu 3.1 0.77 3.11 0.73 3.04 0.84 3.1 0.74 TB

biết

Tổng 3.15 0.70 3.17 0.70 3.06 0.65 3.13 0.69 Khá

PHỤ LỤC 7

Bảng Thích ứng của SV DTTS thể hiện qua mặt thái độ xét theo dân tộc

NỘI DUNG Tày H’mông DT khác Tổng

Dao MĐTƯ

ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC

1. Giảng bài trên lớp 3.25 0.44 3.23 0.42 3.23 0.41 3.24 0.43 TB

3.86 0.34 3.87 0.32 Tốt 2. Chép bài trên lớp 3.86 0.33 3.88 0.31

3. Bổ sung kiến thức, 3.35 0.57 3.34 0.56 Khá thông tin 3.36 0.57 3.33 0.55

4. Tôn trọng giảng viên 3.05 0.24 3.08 0.32 3.07 0.26 3.06 0.29 TB trong giờ học

5. Thực hiện những yêu 4.07 0.64 4.08 0.64 Tốt cầu về tự học 4.08 0.64 4.07 0.61

6. Phát biểu ý kiến trước 3.33 0.49 3.29 0.45 3.26 0.43 3.29 0.46 TB lớp

7. Lắng nghe ý kiến của 2.79 0.96 2.81 1.0 2.68 0.9 2.75 0.96 TB bạn học

8. Hợp tác với bạn học 3.29 0.53 3.25 0.53 3.22 0.50 3.25 0.52 TB trong lớp

9. Sự tập trung chú ý 3.35 0.47 3.34 0.48 3.30 0.45 3.33 0.47 Khá trong thời gian học

10. Nghiên cứu khoa 2.82 0.99 2.85 1.03 2.69 0.93 2.78 0.99 TB học

Tổng 3.32 0.56 3.32 0.57 3.26 0.53 3.39 0.56 Khá

PHỤ LỤC 8

Bảng: Thích ứng của SV DTTS thể hiện qua mặt hành vi xét theo dân tộc

NỘI DUNG Tày H’mông Dao DT khác Tổng MĐ

TƯ ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC

1. Giao tiếp với

bạn học và giảng 2.97 0.65 2.85 0.71 2.89 0.71 2.63 0.75 TB viên

2. Đọc tài liệu, 3.17 0.38 3.12 0.33 3.10 0.3 3.09 0.28 xử lý thông tin Khá

3. Lập kế hoạch 3.53 0.58 3.47 0.59 3.46 0.57 3.5 0.58 Tốt học tập

4. Làm bài tập 3.14 0.34 3.11 0.32 3.1 0.27 3.11 0.31 Khá trên lớp, ở nhà

5. Điều chỉnh 2.33 0.74 2.40 0.81 2.3 0.69 2.33 0.75 cảm xúc Thấp

6. Giải quyết

khó khăn trong 3.10 0.3 3.08 0.28 3.07 0.26 3.08 0.28 TB

học tập

7. Làm chủ các

phương pháp 3.49 1.22 3.43 1.25 3.12 1.23 3.37 1.24 Khá học tập

8. Phân phối thời 3.02 0.38 3.05 0.36 3.01 0.34 3.01 0.35 gian học tập TB

9. Kĩ năng nói, 3.12 0.44 3.11 0.42 3.11 0.40 3.11 0.42 viết trong học tập Khá

10. Xác định,

nhận diện vấn đề 3.47 1.24 3.41 1.2 3.11 1.2 3.36 1.22 Khá

học tập

Tổng 3.14 0.62 3.11 0.62 3.0 0.59 3.08 0.61 TB

PHỤ LỤC 9

Bảng Số liệu rút trích nhân tố về hành vi thích ứng học tập của SV DTTS

Bảng

Descriptive Statistics

Mean

Std. Deviation

Analysis N

Giao tiep voi ban hoc va giang vien

2.8571

.71231

630

Doc tai lieu, xu ly thong tin

3.1254

.33143

630

Lam bai tap tren lop, o nha

3.1143

.31841

630

Dieu chinh cam xuc

2.3381

.75336

630

Giai quyet kho khan trong hoc tap

3.0889

.28481

630

Lam chu cac phuong phap hoc tap

3.3714

1.24124

630

Phan phoi thoi gian hoc tap

3.0143

.35857

630

Ki nang noi, viet trong hoc tap

3.1111

.42239

630

Xac dinh, nhan dien van de hoc tap

3.3635

1.22491

630

Bảng

KMO and Bartlett's Test

Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy.

.623

Bartlett's Test of

Approx. Chi-Square

2688.052

Sphericity

df

36

Sig.

.000

Bảng

Communalities

Extraction

Initial

Giao tiep voi ban hoc va giang vien

1.000

.680

Doc tai lieu, xu ly thong tin

1.000

.570

Lam bai tap tren lop, o nha

1.000

.737

Dieu chinh cam xuc

1.000

.719

1.000

.716

Giai quyet kho khan trong hoc tap Lam chu cac phuong phap hoc tap

1.000

.802

Phan phoi thoi gian hoc tap

1.000

.852

Ki nang noi, viet trong hoc tap

1.000

.877

Xac dinh, nhan dien van de hoc tap

1.000

.818

Extraction Method: Principal Component Analysis.

Bảng

Component Matrixa

Component

1

2

3

Giao tiep voi ban hoc va giang vien

.688

-.056

.451

Doc tai lieu, xu ly thong tin

.594

-.340

-.318

Lam bai tap tren lop, o nha

.622

-.064

-.588

Dieu chinh cam xuc

.566

.595

-.209

Giai quyet kho khan trong hoc tap

.614

.018

-.582

Lam chu cac phuong phap hoc tap

.581

-.141

.667

Phan phoi thoi gian hoc tap

-.171

.878

.226

Ki nang noi, viet trong hoc tap

.191

.913

-.082

Xac dinh, nhan dien van de hoc tap

.527

-.020

.735

Extraction Method: Principal Component Analysis.

a. 3 components extracted.

Bảng 7

Rotated Component Matrixa

Component

1

2

3

Giao tiep voi ban hoc va giang vien

.216

.794

.049

Doc tai lieu, xu ly thong tin

.694

.184

-.232

Lam bai tap tren lop, o nha

.857

-.026

.051

Dieu chinh cam xuc

.475

.158

.684

Giai quyet kho khan trong hoc tap

.836

-.035

.129

Lam chu cac phuong phap hoc tap

.005

.894

-.056

Phan phoi thoi gian hoc tap

-.394

-.026

.834

Ki nang noi, viet trong hoc tap

.072

-.023

.933

Xac dinh, nhan dien van de hoc tap

-.096

.898

.053

Extraction Method: Principal Component Analysis.

Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization.

a. Rotation converged in 4 iterations.

Bảng

Component Transformation Matrix

Component

1

2

3

1

.737

.656

.164

2

-.135

-.095

.986

3

-.663

.749

-.019

Extraction Method: Principal Component Analysis.

Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization.

Bảng

Component Score Coefficient Matrix

Component

1

2

3

Giao tiep voi ban hoc va giang

.055

.338

.026

vien

Doc tai lieu, xu ly thong tin

.305

.050

-.081

Lam bai tap tren lop, o nha

.359

-.052

.053

Dieu chinh cam xuc

.136

.044

.310

Giai quyet kho khan trong hoc

.342

-.054

.077

tap

Lam chu cac phuong phap hoc

-.032

.394

-.042

tap

Phan phoi thoi gian hoc tap

-.238

.004

.340

Ki nang noi, viet trong hoc tap

-.046

-.020

.417

Xac dinh, nhan dien van de hoc

-.083

.400

.004

tap

Extraction Method: Principal Component Analysis.

Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization.

Component Scores.

Bảng

Component Score Covariance Matrix

Component

1

2

3

1

1.000

.000

.000

2

.000

1.000

.000

3

.000

.000

1.000

Extraction Method: Principal Component Analysis.

Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization.

Component Scores.

PHỤ LỤC 10

Bảng Sự khác biệt giữa các năm học với các mặt biểu hiện thích ứng học tập

ở SV DTTS

Số Xếp Năm học Các mặt thích ứng ĐTB ĐLC lượng mức

Thích ứng nói chung TB 0.21 2.96

Thích ứng nhận thức TB 0.29 2.92 210 Năm I Thích ứng thái độ 0.43 Khá 3.25

Thích ứng hành vi 0.19 Thấp 2.71

Thích ứng nói chung 0.19 TB 3.14

Thích ứng nhận thức 0.30 Khá 3.20 210 Năm II Thích ứng thái độ 0.42 Khá 3.23

Thích ứng hành vi 0.16 Khá 3.18

Thích ứng nói chung 0.20 Khá 3.42

Thích ứng nhận thức 0.26 Tốt 3.47 210 Năm III Thích ứng thái độ 0.41 Khá 3.43

Thích ứng hành vi 0.19 Khá 3.37

PHỤ LỤC 11

Bảng Ảnh hưởng của đặc điểm dân tộc đến thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số

với hoạt động học tập

Descriptives

Descriptive Statistics

Std.

N

Minimum Maximum

Sum

Mean

Deviation

630

1.00

5.00

2102.00

3.3365

1.43245

Ngon ngu pho thong han che

630

1.00

5.00

2268.00

3.6000

1.21281

Phong tuc dan toc

630

1.00

5.00

2386.00

3.7873

1.21169

Ban sac van hoa gia dinh

Dac diem tam ly, tinh cach dan

630

1.00

5.00

2359.00

3.7444

1.17056

toc

Moi truong song

630

1.00

54.00

2488.00

3.9492

3.67918

Dieu kien kinh te, vat chat gia

630

1.00

54.00

2385.00

3.7857

3.68127

dinh

Long tu ton dan toc

630

1.00

23.00

2227.00

3.5349

1.55387

Thoi quen sinh hoat

630

1.00

5.00

2265.00

3.5952

1.27579

Bat dong van hoa trong giao tiep

630

1.00

5.00

2155.00

3.4206

1.33887

ung xu

Giao duc gia dinh

1.00

5.00

2153.00

3.4175

1.37500

Valid N (listwise)

630 630

Frequency Table

Ngon ngu pho thong hạn che

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

Khong anh huong

55

8.7

8.7

8.7

Anh huong it

188

29.8

29.8

38.6

Trung binh

99

15.7

15.7

54.3

Anh huong nhieu

66

10.5

10.5

64.8

Anh huong rat nhieu

222

35.2

100.0

Total

630

100.0

35.2 100.0

Phong tuc dan toc

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

Khong anh huong

3.2

3.2

3.2

20

Anh huong it

17.9

21.1

17.9

113

Trung binh

28.6

49.7

28.6

180

Anh huong nhhieu

16.3

66.0

16.3

103

Anh huong rat nhieu

100.0

34.0

214

Total

34.0 100.0

100.0

630

Ban sac van hoa gia dinh

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

Khong anh huong

3.5

3.5

3.5

22

Anh huong it

12.2

15.7

12.2

77

Trung binh

28.6

44.3

28.6

180

Anh huong nhieu

13.5

57.8

13.5

85

Anh huong rat nhieu

100.0

42.2

266

Total

42.2 100.0

100.0

630

Dac diem tam ly, tinh cach dan toc

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

Khong anh huong

3.2

3.2

3.2

20

Anh huong it

15.2

18.4

15.2

96

Trung binh

19.7

38.1

19.7

124

Anh huong nhieu

27.8

65.9

27.8

175

Anh huong rat nhieu

100.0

34.1

215

Total

34.1 100.0

100.0

630

Moi truong song

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

Khong anh huong

3.7

3.7

23

3.7

Anh huong it

16.7

20.3

105

16.7

Trung binh

23.2

43.5

146

23.2

Anh huong nhieu

17.5

61.0

110

17.5

Anh huong rat nhieu

38.6

99.5

243

38.6

54

100.0

3

.5

Total

630

100.0

.5 100.0

Dieu kien kinh te, vat chat gia dinh

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

Khong anh huong

1.3

1.3

8

1.3

Anh huong it

24.6

25.9

155

24.6

Trung binh

24.8

50.6

156

24.8

Anh huong nhieu

16.3

67.0

103

16.3

Anh huong rat nhieu

32.5

99.5

205

32.5

54

100.0

3

.5

Total

630

100.0

.5 100.0

Long tu ton dan toc

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

Khong anh huong

7.6

7.6

48

7.6

Anh huong it

21.0

28.6

132

21.0

Trung binh

18.9

47.5

119

18.9

Anh huong nhieu

18.3

65.7

115

18.3

Anh huong rat nhieu

34.1

99.8

215

34.1

23

100.0

1

.2

Total

.2 100.0

630

100.0

Thoi quen sinh hoat

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

Khong anh huong

5.4

5.4

5.4

34

Anh huong it

18.7

24.1

18.7

118

Trung binh

21.1

45.2

21.1

133

Anh huong nhieu

20.5

65.7

20.5

129

Anh huong rat nhieu

100.0

34.3

216

Total

34.3 100.0

100.0

630

Bat dong van hoa

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

Khong anh huong

6.2

6.2

6.2

39

Anh huong it

27.0

33.2

27.0

170

Trung binh

17.1

50.3

17.1

108

Anh huong nhieu

17.9

68.3

17.9

113

Anh huong rat nhieu

100.0

31.7

200

Total

31.7 100.0

100.0

630

Giao duc gia dinh

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

Khong anh huong

7.3

7.3

7.3

46

Anh huong it

25.6

32.9

25.6

161

Trung binh

20.0

52.9

20.0

126

Anh huong nhieu

12.4

65.2

12.4

78

Anh huong rat nhieu

100.0

34.8

219

Total

34.8 100.0

100.0

630