intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Ảnh hưởng tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:106

167
lượt xem
43
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Để đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là thời kỳ đẩy mạnh cộng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải không ngừng nâng cao trình độ tư duy lý luận và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong thực tiễn. Chính đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở là người giữ vai trò quan trọng, là cấp cuối cùng, trực tiếp đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống, biến nó...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Ảnh hưởng tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau

  1. LUẬN VĂN: Ảnh hưởng tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Để đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là thời kỳ đẩy mạnh cộng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải không ngừng nâng cao trình độ tư duy lý luận và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong thực tiễn. Chính đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở là người giữ vai trò quan trọng, là cấp cuối cùng, trực tiếp đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống, biến nó thành hiện thực, đem lại lợi ích thiết thực cho quần chúng nhân dân tại đơn vị cơ sở. Có thể nói, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hàng ngày, hàng giờ luôn đối mặt và phải giải quyết liên tục những vấn đề mới nảy sinh trong hoạt động lãnh đạo, quản lý tại cơ sở. Nhận thức được điều này, Đảng ta có rất nhiều nghị quyết, chủ trương tăng cường sự lãnh đạo cũng như việc nâng cao trình độ các mặt cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Tuy vậy, thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở hiện nay nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, tổng kết vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Đảng ta nhận định rằng, đội ngũ cán bộ còn nhiều mặt bất cập trước yêu cầu đổi mới, thiếu và yếu cả về phẩm chất chính trị, trình độ trí tuệ, năng lực chuyên môn. Sự yếu kém đó thể hiện rõ nhất ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói chung và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau nói riêng. Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn thiếu năng lực tư duy biện chứng trong hoạt động lãnh đạo, quản lý và tổng kết thực tiễn để rút ra những kinh nghiệm bổ ích nhằm điều chỉnh nhận thức và hoạt động thực tiễn trong các giai đoạn tiếp theo cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Những hạn chế, khuyết điểm trong thời gian qua, điểm chủ yếu là một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau vẫn còn tiếp tục mắc phải những ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm trong hoạt động lãnh đạo và tổ chức thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu sự “Ảnh hưởng tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau” là yêu cầu cấp thiết để nâng nhận thức lên tầm tư
  3. duy khoa học trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Đây là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà các văn kiện, các nghị quyết của Đảng đã đề cập, đặc biệt là từ Đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu vấn đề đổi mới tư duy, trong đó phải kể đến một số công trình có liên quan như: - Giáo sư, tiến sĩ Lê Hữu Nghĩa: Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta, Tạp chí Triết học số 2/1998. - Giáo sư, tiến sĩ Hoàng Chí Bảo: Từ tư duy lý luận đến tư duy kinh nghiệm, Thông tin lý luận, số 6/1998. - Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Ngọc Long: Chống bệnh kinh nghiệm giáo điều đổi mới tư duy lý luận, Tạp chí Cộng sản số 05/1988 - Tiến sĩ Thiều Quang Đồng: Lôgíc học với việc nâng cao trình độ tư duy lôgíc … “Triết học với đổi mới và đổi mới nghiên cứu giảng dạy triết học”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2007. - Tiến sĩ Nguyễn Thị Nga: Vấn đề khắc phục sự lạc hậu của ý thức xã hội ở nước ta hiện nay, “Triết học với đổi mới và đổi mới nghiên cứu giảng dạy triết học”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007… Đến nay, tuy đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tư duy con người, nhưng việc nghiên cứu tư duy đặc thù của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh Cà Mau nói riêng thì hầu như chưa có công trình nào đề cập một cách cụ thể. Do vậy, vấn đề nghiên cứu tư duy trong quá trình nhận thức đối với cán bộ ta vẫn là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu để góp phần cho các cấp lãnh đạo, quản lý nghiên cứu và tổ chức thực tiễn trong thời gian tới.
  4. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Làm rõ bản chất của tư duy kinh nghiệm và những ảnh hưởng của nó trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ, từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở tỉnh Cà Mau. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Phân tích làm rõ bản chất, biểu hiện và những nguyên nhân chủ yếu của t ư duy kinh nghiệm; phân tích đánh giá thực trạng và nguyên nhân ảnh hưởng của nó, qua đó trình bày một số giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục tư duy kinh nghiệm, nâng cao trình độ tư duy lý luận đối với đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ cấp cơ sở ở Cà Mau nói riêng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Nghiên cứu bản chất, biểu hiện và nguyên nhân chủ yếu mang tính đặc thù của tư duy kinh nghiệm ảnh hưởng đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn giới hạn việc nghiên cứu sự ảnh h ưởng của tư duy kinh nghiệm đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở xã, phường, thị trấn nhưng phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu đối với cấp xã gồm: Bí thư, Phó bí thư đảng ủy, Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân, Trưởng, phó các ngành của xã qua khảo sát thực tế tại tỉnh Cà Mau. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận của luận văn - Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng lý luận và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những nguyên lý nhận thức mác xít, các văn kiện của Đảng và Nhà nước về tư tưởng lý luận, nhận thức, các văn kiện của Đảng bộ Cà Mau (tỉnh, huyện, xã, phường, thị trấn). - Luận văn kế thừa và sử dụng một số kết quả công trình khoa học của tác giả đã nghiên cứu và được công bố trên các sách, báo, tạp chí có liên quan đến đề tài.
  5. 5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Trong luận văn, tác giả sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch sử-lôgíc, điều tra, khảo sát thực tế. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn cung cấp những luận cứ khoa học giúp cho lãnh đạo, quản lý nghiên cứu, tổ chức thực tiễn nhằm để khắc phục tư duy kinh nghiệm thiếu cơ sở khoa học và chỉ ra con đường biện chứng duy vật trong nhận thức, lãnh đạo hoạt động thực tiễn. - Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu giảng dạy ở các trường chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, các trường cao đẳng và đại học, về xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước vững mạnh,… 7. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Lần đầu tiên, tác giả luận văn khái quát một số nét đặc thù của tư duy kinh nghiệm và sự ảnh hưởng của nó đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau; chỉ ra tác hại của tư duy thiếu cơ sở khoa học, nâng cao năng lực tư duy biện chứng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Cà Mau. - Tìm ra nguyên nhân và đề ra một số giải pháp chủ yếu mang tính khả thi góp phần cùng Đảng bộ Cà Mau nâng cao trình độ và năng lực cho cán bộ ngang tầm với yêu cầu của thời kỳ mới. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
  6. Chương 1 TƯ DUY KINH NGHIỆM VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TƯ DUY CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TỈNH CÀ MAU 1.1. TƯ DUY KINH NGHIỆM VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA NÓ TRONG HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ 1.1.1. Tư duy Tư duy là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học. Mỗi ngành khoa học nghiên cứu tư duy ở góc độ khác nhau. Từ xa xưa, con người đã biết suy luận một cách tự nhiên, tự phát. Trong quá trình lao động sản xuất và trong hoạt động thực tiễn của mình, nhu cầu hiểu biết về thế giới khách quan, nhu cầu trao đổi kinh nghiệm, những hiểu biết của mình với người khác ngày một nâng cao. Chính trong quá trình đó đã dần dần tạo cho con người cách suy nghĩ. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, tư duy là sản phẩm cao nhất của cái vật chất có tổ chức đặc biệt, đó là bộ não người. Quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan của tư duy được biểu hiện trong các khái niệm, phán đoán, suy luận, chứng minh,... Tư duy xuất hiện trong quá trình hoạt động sản xuất xã hội của con người và đảm bảo phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp, phát hiện ra những mối liên hệ bản chất của hiện thực. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, các cơ chế sinh lý học vật chất của tư duy được nghiên cứu trong sinh lý học hoạt động thần kinh cao cấp. Tuy nhiên, mặc dù không tách khỏi bộ não của con người nhưng tư duy vẫn không thể được giải thích một cách hoàn toàn bởi hoạt động của bộ máy sinh lý học. Bởi lẽ, tư duy gắn liền trước hết không phải với sự tiến hóa của sinh học mà còn gắn với sự phát triển của xã hội. Nó là sản phẩm của xã hội cả về những đặc điểm của sự xuất hiện, cả về phương thức hoạt động, cả về kết quả của nó. Sở dĩ như thế là vì, tư duy chỉ tồn tại trong một mối liên hệ không thể tách rời khỏi hoạt động lao động và lời nói; là hoạt động chỉ tiêu biểu cho xã hội loài người, là hoạt động mang tính tộc loại. Cho nên, tư duy của con người được thực hiện trong mối liên hệ chặt chẽ nhất với lời nói và những kết quả của tư duy được ghi nhận trong ngôn ngữ.
  7. Tiêu biểu cho tư duy là quá trình trừu tượng hóa, khái quát hóa, quá trình phân tích và tổng hợp, việc nêu lên vấn đề và tìm cách giải quyết chúng, việc đề xuất những giả thiết, những ý niệm, v.v... Kết quả của quá trình tư duy bao giờ cũng là một ý nghĩ nào đó. Khả năng phản ánh thực tại một cách khái quát của tư duy được biểu hiện ở khả năng của con người có thể xây dựng khái niệm chung. Việc xây dựng khái niệm khoa học là gắn liền với sự trình bày những quy luật tương ứng. Khả năng phản ánh hiện thực một cách gián tiếp của tư duy được biểu hiện ở khả năng suy lý, kết luận logic, chứng minh,... của con người. Xuất phát từ chỗ phân tích các sự kiện có thể tri giác được một cách trực tiếp, nó cho phép nhận thức được những gì không thể tri giác được nhờ các giác quan. Những khái niệm và hệ thống những khái niệm ghi lại kinh nghiệm của loài người là sự tập trung tri thức của con người và là điểm xuất phát để tiếp tục nhận thức thực tại. Chính vì vậy, mỗi ngày con người có thể nhận thức sâu rộng hơn về thế giới. Tư duy, xét về bản chất là sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan, bởi vì trong quá trình phản ánh, tư duy không sao chép nguyên xi sự vật mà biết phân loại sự vật, chính bằng sức mạnh của tư duy trừu tượng trên cơ sở khái quát hóa, trừu tượng hóa, đem đến cho con người những tri thức về bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng khách quan. Sự sáng tạo của tư duy còn thể hiện ở chỗ sự phản ánh không rập khuôn, giáo điều, máy móc và càng xa lạ với thái độ thụ động, ỷ lại, chủ quan duy ý chí, đó là khả năng nắm bắt được bản chất của sự vật, biết phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát từ thực tế sinh động của đời sống hiện thực để rút ra những kết luận khoa học. Nói như Các-Mác, sự sáng tạo đó thể hiện ở “cái vật chất di chuyển vào trong óc và cải biến đi” hay như cách nói của V.I. Lênin, đó là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Với bản chất phản ánh sáng tạo, tư duy luôn vươn tới cái mới, cái tiến bộ giúp con người nhận thức thế giới khách quan ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận” [27, tr.489]. Khi đề cập tư duy, xem nó là vấn cốt lõi của lý luận nhận thức, cũng chính là để giải quyết, tìm ra phương pháp, cách thức đi đến nhận thức bản chất quy luật của các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Nếu không giải quyết một cách thấu đáo, có cơ sở khoa học thì việc lý giải nhận thức của con người chỉ dừng lại ở việc
  8. nghiên cứu. Qua nghiên cứu lịch sử triết học cho thấy, các nhà triết học trước Mác dù đứng trên quan điểm duy vật hay duy tâm, việc nghiên cứu tư duy của họ chỉ giới hạn ở việc xem xét nghiên cứu tư duy chủ yếu ở mặt nội dung của nó và họ thấy rằng tư duy chỉ là sự phản ánh thụ động thế giới bên ngoài vào óc con người, họ giới hạn ở việc chỉ ra tác động của khách thể đối với chủ thể, coi tư duy chỉ là kết quả của sự tác động đó. Tuy nhiên, họ cũng đã đề cập các dạng nhận thức ở các cấp độ khác nhau giữa nhận thức lý tính và nhận thức cảm tính và khẳng định được vai trò của cảm giác, kinh nghiệm hoặc là lý tính, tư duy, nhưng họ chưa giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng của quá trình nhận thức, từ nhận thức cảm tính đến lý tính, chưa thấy được bước chuyển hóa giữa hai quá trình này, chưa giải quyết một cách đúng đắn về nội dung, hình thức, phương pháp và vai trò, tác dụng của quá trình nhận thức… Do đó, các nhà triết học trước Mác chưa xây dựng được phương pháp luận khoa học cho quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. C.Mác đã chỉ rõ: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ của chủ nghĩa duy vật từ trước tới nay kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người là thực tiễn” [26, tr.9]. Theo Mác, cả nội dung và hình thức của tư duy đều phụ thuộc vào thực tiễn - lịch sử - xã hội. Vậy, lịch sử không phải bắt đầu từ tư duy mà là từ thực tiễn hoạt động của con người trong đó, chính hoạt động lao động sản xuất vật chất là nền tảng cho sự tồn tại, phát triển xã hội, là hoạt động cơ bản nhất và cũng chính hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở hình thành các loại quan điểm, tư tưởng, các quan hệ và các thiết chế xã hội khác nhau và cũng là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội. Nghĩa là, hoạt động sản xuất vật chất ngày càng phát triển thì tư duy, trí tuệ của con người cũng phát triển theo cùng với quá trình cải biến tự nhiên của con người. Bởi vì, trong quá trình tác động biến đổi hiện thực, con người luôn tìm tòi, suy nghĩ, dùng những biện pháp, cách thức để tác động vào giới tự nhiên làm cho tự nhiên bộc lộ những đặc điểm, những quy luật, những thuộc tính của nó, qua đó con người nhận biết về chúng trên cơ sở những kinh nghiệm được tích lũy dần dần trong quá trình hoạt động thực tiễn. Đây là cơ sở cho quá trình nhận thức. Bằng cảm giác, bằng các giác quan của mình dần dần hình thành nên tri thức, biểu tượng về sự vật
  9. được tái hiện trong đầu một cách khái quát và dựa trên tài liệu mà nhận thức cảm tính đem lại, trải qua quá trình phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… mà xây dựng các khái niệm, phạm trù, vạch ra bản chất quy luật của sự vật, hiện tượng. Đó là nhận thức đáng tin cậy, gắn với chân lý khách quan, đáp ứng được mục đích của nhận thức. Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình con người phản ánh một cách biện chứng thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử - xã hội. Quá trình nhận thức diễn ra không giản đơn, thụ động, máy móc, mà là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào óc người một cách năng động, sáng tạo, biện chứng. Đó là quá trình nhận thức từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông đến sâu, từ chưa đầy đủ đến đầy đủ… và phải trải qua hai giai đoạn nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Hai giai đoạn này có mối quan hệ biện chứng với nhau, tuy chúng có khác nhau về vị trí, mức độ, phạm vi phản ánh, nhưng xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn, đều lấy sự vật, hiện tượng làm đối tượng phản ánh và chỉ có thể đạt được sự nhận thức khi nó vạch ra mối liên hệ bản chất, tất yếu, vạch ra quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải một mình giới tự nhiên với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở trực tiếp nhất, chủ yếu nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên” [27, tr.720]. Sự ra đời của triết học Mác đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lý luận nhận thức và trên cơ sở thực tiễn các nhà kinh điển duy vật mác-xít đã luận giải một cách khoa học về quá trình nhận thức cũng như sự hình thành tư duy của con người, đồng thời V.I. Lênin cũng đã cảnh báo về khả năng nguy cơ sai lầm khi tuyệt đối hóa bất kỳ mặt nào, giai đoạn nào của quá trình nhận thức. Bởi vì, nhận thức là một quá trình mang tính lịch sử - cụ thể, những tri thức mà con người đạt được ở mỗi giai đoạn nhất định là nấc thang, con đường vô tận mà con người luôn vươn tới để phản ánh. Do đó, nó không phải là cái gì cứng nhắc mà hết sức sống động biến đổi, phát triển trước sự đa dạng muôn vẽ của thực tại khách quan.
  10. Ở những trình độ khác nhau, điều kiện lịch sử khác nhau thì tư duy, vốn tri thức của con người cũng không giống nhau, tuy nhiên nó vẫn có điểm chung là đều phản ánh hiện thực khách quan. Sự xâm nhập trí tuệ con người vào thế giới khách quan đi từ cảm tính đến lý tính, từ kinh nghiệm đến lý luận, đó là sự phản ánh hiện thưc ở cấp độ bản chất, quy luật, cái bên trong, tất yếu của sự vật, hiện tượng. Vì thế, nó gắn liền với tư duy trừu tượng là khái quát cao của nhận thức, nhưng lý luận không phải là kết quả của sự trừu tượng thuần túy mà lý luận xét ở góc độ nhất định là kết quả của sự khái quát từ kinh nghiệm cảm tính. Nói về quá trình nhận thức của con người, V.I. Lênin đã chỉ rõ: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn” [18, tr.179]. Đây là quá trình diễn ra rất phức tạp bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu khác nhau, song đây là con đường biện chứng của nhận thức chân lý. Tư duy, giai đoạn thứ hai của quá trình nhận thức là sự khái quát những cảm giác, tri giác và phản ánh hiện thực khách quan thông qua những biểu t ượng, khái niệm, phạm trù, là năng lực của bộ óc người, vì thế, tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức, nó nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính, và nếu dừng lại ở tri giác, cảm giác thì không thể nhận thức được bản chất, quy luật của sự vật. Vậy về bản chất, tư duy là sự vận động tất yếu của quá trình nhận thức, là sản phẩm cao nhất của cái vật chất được tổ chức một cách đặc biệt là bộ não, gắn liền với hoạt động sản xuất xã hội và ngôn ngữ, phản ánh một cách tích cực sáng tạo thế giới khách quan trong các khái niệm, phạm trù, quy luật là trình độ cao của quá trình nhận thức. Quy luật của tư duy là sự phản ánh khái quát các quy luật của thực tại khách quan một cách gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ hợp quy luật của thực tại, đem lại nhận thức mới và định hướng, chi phối sự vận động và phát triển của sự vật. Tư duy phản ánh tồn tại, do tồn tại quy định, song tư duy có tính năng động, sáng tạo, có tính độc lập tương đối so với tồn tại. Điều đó được hiểu theo hai nghĩa: Một là, cái phản ánh và cái được phản ánh không bao giờ trùng khít hoàn toàn. Hai là, quá trình tư duy còn có những quy luật riêng có của nó. Sự chuyển hóa từ tư duy kinh nghiệm lên tư duy lý luận, từ tư duy thông thường lên tư duy khoa học, từ cụ
  11. thể đến trừu tượng và ngược lại, từ đơn nhất đến đặc thù, phổ biến và ngược lại, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp thấp đến bản chất cấp cao. Đây là quá trình lịch sử của tư duy và quá trình phát triển của tư duy đang nhận thức. Hai mặt này gắn bó chặt chẽ với nhau của tư duy biện chứng. Ph.Ăngghen viết: Lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư duy cũng phải bắt đầu từ đó, và sự vận động tiếp tục của nó chẳng qua chỉ là sự phản ánh quá trình lịch sử dưới một hình thái trừu tượng nhất quán về lý luận, nó là sự phản ánh uốn nắn lại, nhưng uốn nắn theo những quy luật mà bản thân quá trình lịch sử hiện thực đã cung cấp, hơn nữa mỗi nhân tố đều có thể được xem xét ở cái điểm phát triển mà ở đó quá trình đạt tới chỗ hoàn toàn chín muồi, đạt tới hình thức cổ điển của nó [28, tr.614-615]. Tư duy cũng như mọi hoạt động có ý thức của con người, bao giờ cũng có sự tham gia của nhiều yếu tố tâm lý xã hội khác nhau như lòng tin, ý chí, trình độ nhận thức, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử… nếu không dựa trên cơ sở tư duy khoa học đúng đắn thì sẽ làm cho hoạt động của con người thiếu sự chứng minh, thiếu phê phán, phân tích sự vật sẽ dẫn tới sai lầm trong thực tiễn, không giúp con người có định hướng đúng đắn. Chúng ta biết rằng, tư duy của con người luôn mang tính sáng tạo và quy luật hoạt động của tư duy luôn vươn tới những nhận thức mới, nắm bắt cái mới, định hướng cho nhận thức hoạt động thực tiễn của con người. Vì thực tiễn là cơ sở, là động lực của nhận thức và tư duy do động lực của hiện thực khách quan chi phối và quy định. Cho nên, khi còn ở trình độ thấp (nhận thức cảm tính) thì động lực của tư duy chỉ đáp ứng ở mức độ theo trình độ nhận thức đó. Khi hoạt động thực tiễn của con người ngày càng đi sâu vào khám phá, nhận thức được bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng thì phương pháp và cách thức của tư duy cũng được nâng lên ở trình độ cao hơn (nhận thức lý tính). Vì thế, tư duy của con người không phải là bất biến mà nó có quá trình hình thành và phát triển theo quy luật vốn có của nó. Nghĩa là nó cũng có quá trình hình thành, biến đổi và phát triển để đạt đến trình độ ngày càng cao hơn. Ph.Ăngghen khẳng định, “tư duy, trí tuệ của con người phát triển song song với trình độ cải biến quá trình tự nhiên” [1, tr.357].
  12. Như vậy, tư duy xuất hiện, biến đổi và phát triển trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người, là sản phẩm của lịch sử và mục đích của tư duy là hướng tới phục vụ cho thực tiễn. Do đó, tư duy không những là vấn đề cốt lõi của lý luận nhận thức mà trong mọi hoạt động của con người đều phải dựa trên cơ sở của tư duy và tùy thuộc vào trình độ năng lực và kết quả nhận thức của chủ thể. 1.1.2. Tư duy kinh nghiệm - Khái niệm: Như đã phân tích các khía cạnh về tư duy, trình độ của tư duy được xem xét ở các cấp độ khác nhau như tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận. Tư duy kinh nghiệm có phương pháp và chức năng khác với tư duy lý luận. Đối tượng nghiên cứu của tư duy kinh nghiệm là những khách thể tồn tại trong không gian và thời gian với sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cái đặc thù và cái phổ biến. Tuy vậy, trong lịch sử triết học, có rất nhiều nhà triết học xem xét tư duy kinh nghiệm ở nhiều góc độ khác nhau. Quan điểm của những nhà cảm giác, kinh nghiệm chủ nghĩa cho rằng, kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức. Trong khi đó, chủ nghĩa duy vật thừa nhận rằng, nguồn gốc của kinh nghiệm là ở bên ngoài, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Tính trực quan của chủ nghĩa duy vật trước Mác đã thể hiện quan niệm về vấn đề này là kinh nghiệm chỉ được coi như kết quả của sự tiếp thu thụ động thế giới bên ngoài, nhưng tự bản thân nó, kinh nghiệm cảm tính không đem lại một tri thức phổ biến và cần thiết, mà chỉ nắm lấy mặt bên ngoài, bề mặt của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Kế thừa những thành tựu triết học trước kia, chủ nghĩa Mác đã khắc phục tính chất trực quan trong việc giải thích kinh nghiệm, thừa nhận kinh nghiệm là cái có sau so với hiện thực khách quan, chủ nghĩa Mác coi kinh nghiệm không phải là một nội dung thụ động của ý thức mà là sự tác động thực tiễn của con người đến thế giới bên ngoài. Trong quá trình tác động đó, con người phát hiện ra những mối liên hệ cần thiết, những đặc tính, những tính quy luật của các sự vật, hiện tượng, con người tìm kiếm và thử nghiệm những phương pháp và phương tiện hoạt động phù hợp với thực tiễn đặt ra.
  13. Như vậy, kinh nghiệm được hiểu là sự tác động qua lại của các chủ thể xã hội với thế giới bên ngoài, vừa được hiểu là kết quả của sự tác động đó. Hay “kinh nghiệm được dùng để chỉ sự hiểu biết có thể áp dụng hữu hiệu cho cuộc sống có được là nhờ tiếp xúc; từng trải thực tế” [4, tr.948]. Xét về mặt lịch sử, nội dung của kinh nghiệm luôn có tính lịch sử - cụ thể. Kinh nghiệm là cái riêng, nếu so với lý luận là cái chung. Kinh nghiệm cũng phản ánh trình độ hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người ở một giai đoạn thời điểm lịch sử nhất định. Như vậy, theo quan điểm của triết học mácxit, kinh nghiệm là một dạng tri thức phản ánh hiện thực khách quan. Về phương diện nhận thức luận, kinh nghiệm là tính thứ hai, hiện thực khách quan là tính thứ nhất. Về hình thức, kinh nghiệm là cái thuộc về chủ quan là hình thức của ý thức, của tư duy. Về nội dung, kinh nghiệm mang nội dung khách quan, vì nó phản ánh thế giới khách quan. Nhận thức của con người là quá trình phản ánh hiện thực khách quan và quá trình hình thành tri thức về hiện thực khách quan trong bộ não người nhờ có nhận thức. Vì vậy, tri thức là kết quả của quá trình nhận thức, không phải giản đơn, thụ động, máy móc mà là một quá trình biện chứng, chủ động, tích cực, sáng tạo để có thể rút ra những kết luận ngày càng chính xác, tiếp cận ngày càng gần hơn chân lý khách quan. Kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn con người, nó được khái quát hóa, trừu tượng hóa thành lý luận. Lý luận là cấp độ phát triển cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh hiện thực khách quan từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất nông đến bản chất sâu sắc hơn và cũng chính những kết quả của quá trình nhận thức làm con người có những tri thức ở những trình độ khác nhau. Có thể nói rằng, tư duy kinh nghiệm được hiểu là sự thể hiện năng lực trừu tượng hóa của trí tuệ con người nhưng còn ở trình độ thấp. Từ kinh nghiệm trong thực tiễn cuộc sống (sản xuất, giao tiếp…), người ta có thể rút ra những kết luận có khi khá chính xác về sự vật, hiện tượng riêng lẻ, nhưng chưa thể khái quát được những mối liên hệ bản chất giữa các sự vật, hiện tượng và chưa giải quyết được một cách khoa học về những kết luận ấy. C.Mác cho rằng: “Những người kinh nghiệm chủ nghĩa là những người vẫn còn là trừu tượng” [25, tr.278]. Từ đó, có thể thấy rằng, những người kinh nghiệm tưởng mình
  14. đã xuất phát từ thực tế khách quan, từ cuộc sống sinh động nhưng cuối cùng lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm trừu tượng, chính vì họ chỉ mới dừng lại ở những kinh nghiệm vụn vặt về sự vật, hiện tượng riêng lẻ, thiếu sự khái quát sâu sắc nên đã lấy cái cụ thể, cái đơn nhất, cái phiến diện đem áp dụng cho cái phổ biến, cái toàn thể, cái đa dạng do không đủ trình độ năng lực nắm bắt được bản chất, quy luật phổ biến, tất yếu của các sự vật, hiện tượng tồn tại vốn có của hiện thực khách quan. V.I. Lênin viết: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ giao tiếp của sự vật đó” [20, tr.364]. - So sánh tư duy kinh nghiệm và những trình độ tư duy khác Tư duy kinh nghiệm là tri thức do con người thu được qua thực tiễn sản xuất, đấu tranh xã hội, tiếp nhận trực tiếp từ quan sát sự vật, hiện tượng cụ thể, khách quan nhưng còn rời rạc, bề ngoài, riêng lẻ, cục bộ, chưa sâu sắc, chưa đi sâu nghiên cứu khái quát về bản chất, tất yếu bên trong vốn có của sự vật, hiện tượng. Triết học duy vật biện chứng một mặt khẳng định, nhận thức là một quá trình từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Trong quá trình đó, con người tích lũy, rèn luyện dần dần phát triển từ trình độ tư duy kinh nghiệm hay (tiền khoa học) tiền lý luận rồi được nâng lên để đạt tới trình độ tư duy khoa học phản ánh chính xác hơn, sâu sắc hơn bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong quá trình nhận thức của con người, nếu chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm thì không thể phục vụ tốt cho đời sống hiện thực sinh động đang diễn ra hàng ngày. Ph.Ăngghen viết: “Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu” [27,tr.718]. Do đó, nhận thức của con người không thể dừng lại ở những kinh nghiệm thu nhận được trực tiếp từ thực tiễn mà phải nâng lên thành lý luận. Kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ khác nhau của quá trình nhận thức đồng thời lại thống nhất với nhau, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận cũng không đồng nhất với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, tuy chúng có quan hệ với nhau. Bởi vì, trong nhận thức kinh nghiệm, ngoài hoạt động trực quan cảm tính còn có sự tham gia của yếu tố lý tính. Như vậy, có thể coi kinh nghiệm và lý luận là những bậc thang của lý tính nhưng khác nhau về trình độ, đối tượng, tính chất phản ánh hiện thực, về chức năng cũng như về trật
  15. tự lịch sử. Tuy nhiên, trên thực tế, chúng thường diễn ra đan xen với nhau trong một quá trình nhận thức nhưng chúng có nhiệm vụ và chức năng khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn liền với hoạt động thực tiễn, với sự tác động của hiện thực khách quan cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức lý tính nhờ có tính khái quát cao lại có thể hiểu được bản chất, quy luật của sự vận động, phát triển sinh động của sự vật, hiện tượng, giúp cho nhận thức cảm tính có định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn. Song, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người cũng chỉ mới có được tri thức về đối tượng, còn bản chất những tri thức ấy có chân thực, có đúng đắn và đúng như thế nào thì con người chưa thể biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định xem những tri thức ấy có chân thực hay không thì nhất thiết nhận thức phải trở về với thực tiễn. Bởi vì, thực tiễn là tiêu chuẩn, là thước đo tính chân thực của tri thức đạt được trong quá trình nhận thức. Cũng chính trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức trước kia và hiện nay vẫn phải thường xuyên chịu sự kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo. Bởi lẽ, những tri thức được thực tiễn trước đây chứng minh có thể là đúng đắn nhưng ở giai đoạn tiếp theo có thể nó không còn phù hợp, không còn đúng, vì vậy phải được tiếp tục bổ sung, điều chỉnh để tránh những cực đoan sai lầm như: giáo điều, bảo thủ, chủ quan duy ý chí, trì trệ cản trở sự phát triển. Như vậy, kinh nghiệm là một dạng tri thức phản ánh hiện thực khách quan có tính trực quan cảm tính, nhưng không thể đồng nhất kinh nghiệm với nhận thức cảm tính. Quá trình hình thành tri thức kinh nghiệm là quá trình cải tạo, cải biến những tài liệu cảm tính thông qua sự phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hóa và khái quát hóa những tài liệu do nhận thức cảm tính đem lại. Kết quả đó chính là tìm ra những mối quan hệ bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện tượng được lặp đi lặp lại trong hiện thực khách quan. Do đó, kinh nghiệm và lý luận là những bậc thang của lý tính nh ưng lại khác nhau về trình độ phản ánh hiện thực cũng như trật tự xét về góc độ lịch sử. Nếu như tư duy kinh nghiệm chỉ mới dừng lại ở việc mô tả những đặc điểm, những mối liên hệ bên ngoài của sự vật thì tư duy lý luận đi sâu phản ánh các thuộc tính, các mối liên hệ của tính quy luật, bản chất của chúng. Với bản chất đó, tri thức lý luận mang tính định hướng, dự báo khoa học về xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng; chỉ đạo, dẫn dắt hoạt động
  16. thực tiễn của con người vững chắc hơn, chủ động hơn, tự giác hơn, tránh được sự mò mẫm, bế tắc, tự phát trong nhận thức cũng như trong hành động. Kinh nghiệm với tư cách là một dạng tri thức chưa hoàn thiện, chưa đầy đủ, nó chỉ phản ánh được những thuộc tính bề ngoài riêng lẻ, giới hạn ở lĩnh vực các sự kiện quan sát, miêu tả, thí nghiệm, chưa sâu sắc, chưa chính xác, chưa phản ánh được cái bên trong, tất yếu của thế giới hiện thực. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm là cơ sở, là nguồn tài liệu trực tiếp, quan trọng cho sự khái quát thành lý luận, dựa vào kinh nghiệm để con người bổ sung, phát triển lý luận này càng hoàn thiện hơn, chính xác hơn, khoa học hơn. Nếu không có kinh nghiệm thì khoa học không phát triển được. Kinh nghiệm càng nhiều, càng phong phú thì càng tạo ra cơ sở ban đầu quan trọng cho sự phát triển lý luận. Vì vậy, kinh nghiệm có vai trò hết sức quan trọng. Thiếu kinh nghiệm, không xuất phát từ kinh nghiệm, tách khỏi kinh nghiệm, lý luận sẽ trở thành ảo tưởng, hoang đường, không phục vụ được gì cho hoạt động thực tiễn của con người, có thể dẫn đến sai lầm nghiệm trọng trong đường lối, chủ trương, chính sách của một chế độ xã hội. Khẳng định tầm quan trọng của kinh nghiệm, Hồ Chí Minh cho rằng: “Đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh kỹ lưỡng, rõ ràng làm thành kết luận. Rồi đem nó chứng minh trong thực tế” [33, tr.233]. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, không phải mọi lý luận đều được ra đời trực tiếp bằng kinh nghiệm, mà do tính độc lập tương đối của nó, với sức mạnh nội tại đặc thù của mình, lý luận có thể đi trước những dữ liệu kinh nghiệm, vượt trước kinh nghiệm. Bởi vì, ở mọi giai đoạn của lịch sử, cả lý luận và kinh nghiệm đều có những trình độ khác nhau, tức là có kinh nghiệm tiền khoa học và kinh nghiệm khoa học cũng như có lý luận trước khoa học và lý luận khoa học. Còn tư duy khoa học (cả kinh nghiệm và lý luận) là bước phát triển cao nhất của nhận thức. Vì thế, khi đánh giá vai trò của lý luận và kinh nghiệm trước khoa học trong sự hình thành tri thức cũng như trong sự phát triển của khoa học hiện nay, cũng cần thấy rằng, tri thức khoa học phát triển từ kinh nghiệm đồng thời khắc phục những mặt hạn chế của kinh nghiệm. Nếu dừng lại ở tư duy kinh nghiệm thông thường sẽ dẫn đến bế tắc, cục bộ, lúng túng, mò mẫm, tự phát trong hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên coi thường kinh nghiệm và cũng không nên cường
  17. điệu kinh nghiệm, mà cần thấy rằng, phải xuất phát từ kinh nghiệm để nâng lên trình độ lý luận. Vì tri thức lý luận là tri thức khách quan từ kinh nghiệm, nó tồn tại trong hệ thống các khái niệm, phạm trù quy luật của lý luận nói chung. Lý luận được hình thành từ kinh nghiệm trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, do đó phải coi trọng lý luận nhưng không cường điệu vai trò lý luận coi thường thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn. Phải thấy rằng, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau, song chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận, nó cung cấp tài liệu rất phong phú, cụ thể tạo thành cơ sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận. Tuy nhiên, nhận thức kinh nghiệm còn dừng lại ở các sự kiện, những dữ kiện được thu nhận từ quan sát và thí nghiệm trực tiếp, nó chỉ đem lại sự hiểu biết riêng lẻ, bề ngoài, rời rạc chưa phản ánh được bản chất, mối liên hệ có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, do đó tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học được. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học thì tất yếu phải trải qua, thông qua khả năng tổng kết trừu tượng, khái quát, nâng lên thành lý luận và lý luận phải được thâm nhập vào thực tiễn để kiểm nghiệm, chứng minh để tiếp tục phát triển, bổ sung làm cho lý luận ngày càng hoàn thiện hơn, chính xác hơn, định hướng chỉ đạo hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Vì vậy, trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn không được tuyệt đối hóa vai trò của lý luận cũng như vai trò của kinh nghiệm. VBàn về vấn đề này, Hồ Chí Minh khẳng định: “Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng, một mắt mờ” [33, tr.234]. Và V.I. Lênin cũng đã chỉ rõ: “Muốn hiểu biết thì phải bắt đầu tìm hiểu, nghiên cứu từ kinh nghiệm, từ kinh nghiệm mà đi đến cái chung” [18, tr.220]. Như vậy, bất cứ dạng thức nào của tư duy kinh nghiệm cũng có chung một đặc tính là tính tiền đề và tính định đề. Theo đó, Ph.Ăngghen chia ra hai loại kinh nghiệm: “Bên ngoài, vật chất và bên trong - các quy luật và các hình thức của tư duy” [27, tr.829]. Kinh nghiệm bên ngoài là kết quả của sự trải nghiệm (sự hiểu biết do tiếp xúc với thực tế) của cuộc sống hàng ngày là sự đúc rút từ lao động sản xuất, từ đấu tranh xã hội và hoạt động nghiên cứu khoa học, còn kinh nghiệm bên trong là kinh nghiệm tư duy là sự đúc rút về các quy luật và hình thức của tư duy.
  18. Kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ khác nhau của nhận thức nhưng chúng lại tác động bổ sung và chuyển hóa cho nhau thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Kinh nghiệm là điểm xuất phát, là tiền đề, là cơ sở để hình thành nên lý luận. Lý luận, đến lượt mình, nó định hướng, chỉ đạo, dẫn dắt cho hoạt động thực tiễn. Chính trong hoạt động thực tiễn trên cơ sở tổng kết thực tiễn cung cấp cho lý luận những kinh nghiệm phong phú để hình thành lý luận mới. Do đó, kinh nghiệm cũng như lý luận đều là kết quả của hoạt động nhận thức và đều phản ánh hiện thực khách quan, tuy kinh nghiệm phản ánh hiện thực còn rời rạc bề ngoài, riêng lẻ, chưa nắm được cái tất yếu những mối liên hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng nhưng nó lại chứa đựng nội dung khách quan trong quá trình phản ánh. Sự phản ánh đó đúng hay sai, tích cực hay tiêu cực đều phụ thuộc vào chủ thể nhận thức. Nếu kinh nghiệm không khái quát lên thành lý luận và lý luận không được kiểm nghiệm hoặc kiểm nghiệm chưa đạt tới một trình độ nhất định thì sẽ không có một lý luận thật sự khoa học. Kinh nghiệm có tính chất trực quan dễ nhận biết, có vai trò không thể thiếu trong hoạt động hàng ngày của con người, do đó chúng dễ bị con người tuyệt đối hóa, cường điệu hóa trong việc giải quyết những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Vì thế, trong hoạt động thực tiễn, con người dễ mắc phải những sai lầm hoặc không lý giải được những vấn đề phong phú, đa dạng, phức tạp do cuộc sống đặt ra. Do đó, chỉ có thể lấy những mặt tích cực của lý luận để khắc phục những mặt hạn chế vốn có của kinh nghiệm và lấy những mặt tích cực của kinh nghiệm để khắc phục khả năng xa rời thực tiễn của lý luận và cứ như vậy mới làm cho lý luận ngày càng hoàn thiện hơn, chính xác hơn và kinh nghiệm ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Thống nhất lý luận với thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” [31, tr.72]. Thực tiễn ở đây là thực tiễn sản xuất vật chất, thực tiễn đấu tranh giai cấp, thực tiễn hoạt động chính trị - xã hội, thực tiễn hoạt động thực nghiệm khoa học và lý luận ở đây là lý luận khoa học, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, là lĩnh vực tinh thần, soi đường, hướng dẫn cho hoạt động thực tiễn. Và theo V.I. Lênin: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà cả của tính hiện thực trực tiếp” [18, tr.230]. Đây là quan điểm xuyên suốt trong
  19. quá trình hình thành và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bởi chính các ông đã lăn lộn trong phong trào công nhân, theo sát thực tiễn, tổng kết thực tiễn để sửa đổi, bổ sung và phát triển lý luận. Từ sự phân tích trên, có thể khẳng định rằng, kinh nghiệm, tư duy kinh nghiệm là điểm xuất phát, là cơ sở đầu tiên, quan trọng của quá trình nhận thức. Từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính, từ nhận thức kinh nghiệm đến nhận thức lý luận là một quá trình, nhưng quá trình đó không làm mất đi mối liên hệ mật thiết giữa chúng. Mà trong quá trình đó, kinh nghiệm cung cấp những tài liệu, thông tin, tri thức ban đầu về sự vật, hiện tượng. Quá trình hình thành tri thức lý luận là quá trình cải biến các tài liệu do nhận thức cảm tính đem lại và thông qua các thao tác của tư duy mà nhận thức kinh nghiệm đã tách cái chung ra khỏi cái riêng, cái tất nhiên ra khỏi cái ngẫu nhiên, cái bản chất ra khỏi cái không bản chất để tìm ra quy luật vận động, biến đổi và phát triển của các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan. Từ đó, ta thấy rằng, kinh nghiệm cũng như lý luận đều là kết quả hoạt động nhận thức của con người, được hình thành và phát triển thông qua hoạt động thực tiễn, chúng đều phản ánh hiện thực khách quan, tuy sự phản ánh đó ở những cấp độ khác nhau, có vị trí, vai trò khác nhau, nhưng chúng nương tựa, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình nhận thức. V.I.Lênin viết: “Dòng thác kinh nghiệm không có lý tính, không có trật tự, không có tất cả cái gì phù hợp với quy luật: nhận thức của chúng ta là đưa lý luận vào đó. Những thiên thể kể cả trái đất đều là những tượng trưng của nhận thức của con người” [17, tr.199-200]. Do vậy, cần thấy rằng, khi đề cập tư duy kinh nghiệm, không nên dừng lại ở dạng tư duy thông thường (tiền khoa học) mà còn phải thấy những kinh nghiệm khoa học thu nhận được từ những thí nghiệm khoa học. Trong sự phát triển của xã hội, hai loại tri thức kinh nghiệm này càng thâm nhập vào nhau, quá trình thâm nhập đó là sự thâm nhập của trí tuệ con người vào thế giới khách quan, đi từ cảm tính đến lý tính, từ nhận thức kinh ngiệm lên nhận thức lý luận. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Trong kinh nghiệm cái quan trọng chính là trí tuệ mà người ta dùng để tiếp xúc với hiện thực. Một trí tuệ vĩ đại thực hiện được những kinh nghiệm vĩ đại, và thấy được cái quan trọng trong sự vận động muôn vẻ của các hiện tượng” [27, tr.687].
  20. Xét về nguồn gốc và nội dung, phản ánh của kinh nghiệm là phản ánh hiện thực, là thực tiễn hoạt động sản xuất vật chất, đấu tranh xã hội, giao tiếp,… diễn ra trong đời sống hằng ngày của con người. Sở dĩ kinh nghiệm có thể đóng vai trò là cơ sở cho tư duy lý luận là do kinh nghiệm được tích lũy tự nó đã đòi hỏi phải có sự hệ thống hóa và phải tìm ra mối liên hệ bên trong tất yếu của nó. Thực hiện được điều đó cũng có nghĩa là tư duy đã chuyển từ giai đoạn kinh nghiệm lên giai đoạn lý luận. Do đó, cũng cần thấy rằng, sự phản ánh của kinh nghiệm có giới hạn của nó, tức là nó chỉ phản ánh dừng lại ở những thời điểm nhất định, cụ thể mà thôi, khi gặp những tình huống mới xuất hiện thì nó trở nên lúng túng, bất cập. Nếu so với nhận thức chủ quan, duy ý chí hay giáo điều thì nhận thức kinh nghiệm cũng từ một mẹ sinh ra, chúng có quan hệ đan xen, gắn bó, liên kết với nhau, quyện thành một khối rất chặt chẽ trong tư duy, hành động của quá trình lãnh đạo, quản lý, tổ chức, xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội. Thực tiễn xây dựng đất nước ta từ sau 1975 đến nay đã chứng minh rất rõ điều đó. Bản thân tư duy kinh nghiệm không phải là một sai lầm trong nhận thức mà sự sai lầm là ở chỗ, coi kinh nghiệm cảm tính là nguốn gốc của mọi tri thức, tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm, hạ thấp hoặc phủ nhận vai trò của lý luận, không thấy giữa kinh nghiệm và lý luận thống nhất, chuyển hóa lẫn nhau trong hoạt động nhận thức của con người. Tuy nhiên, khi nghiên cứu tư duy kinh nghiệm là ý đồ muốn loại bỏ “bệnh kinh nghiệm” giáo điều, máy móc, chủ quan duy ý chí chứ không phủ nhận một cách sạch trơn tri thức kinh nghiệm. Vì rằng, tri thức kinh nghiệm có vai trò quan trọng đối với hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, nó là cơ sở để khái quát lên thành lý luận. Nhưng chỉ dùng tri thức kinh nghiệm đơn thuần để xử lý công việc thì không khoa học, hiệu quả kém. Chúng ta biết rằng, đối với những vấn đề đơn giản, con người có thể dùng kinh nghiệm để giải quyết được, nhưng tự nhiên, xã hội và cả tư duy không phải lúc nào cũng như vậy mà thực tế cho thấy, có rất nhiều hiện tượng phức tạp còn ẩn giấu mà từ xưa tới nay con người chưa có đủ trình độ, năng lực và điều kiện để nhận thức, có đủ cơ sở chứng minh bằng lý luận khoa học. Từ sự phân tích, so sánh trên, ta thấy, xét về bản chất, tư duy kinh nghiệm có những đặc trưng chủ yếu sau:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1