intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn báo cáo: Phối hợp rèn luyện kỹ năng giải toán phương trình với phát triển tư duy hàm cho học sinh thpt trong dạy học đại số và giải tích

Chia sẻ: Hồ Dũng | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:131

123
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn báo cáo đề tài Phối hợp rèn luyện kỹ năng giải toán phương trình với phát triển tư duy hàm cho học sinh thpt trong dạy học đại số và giải tích được nghiên cứu với mục đích: Xác định mối quan hệ tương hỗ giữa việc rèn luyện kỹ năng giải phương trình, bất phương trình với việc phát triển tư duy hàm cho học sinh trong dạy học Đại số và Giải tích nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở trường THPT.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn báo cáo: Phối hợp rèn luyện kỹ năng giải toán phương trình với phát triển tư duy hàm cho học sinh thpt trong dạy học đại số và giải tích

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1.  Nâng cao chất lượng dạy học nói chung, chất lượng dạy học   môn Toán nói riêng đang là một yêu cầu cấp bách đối với ngành Giáo dục   nước ta hiện nay. Một trong những khâu then chốt để  thực hiện yêu cầu   này là đổi mới nội dung và phương pháp dạy học. Định hướng đổi mới  phương pháp dạy học đã được chỉ  rõ trong các văn bản có tính chất pháp  quy của Nhà nước và ngành Giáo dục nước ta. Có thể  dẫn ra một vài văn  bản đã được ban hành trong những năm qua như sau: ­   Luật   Giáo   dục   (1998)   quy   định:   “…Phương   pháp   giáo   dục   phổ  thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo cho học sinh;   phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự  học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn…”. ­ Dự  thảo chương trình (1989) môn Toán nêu rõ: “...Góp phần phát  triển năng lực trí tuệ, tư duy trừu tượng và trí tưởng tượng không gian, tư  duy biện chứng, tư duy hàm…; đồng thời rèn luyện các phẩm chất của tư  duy linh hoạt, độc lập, sáng tạo…”. Tuy   nhận   thức   rõ   được   tầm   quan   trọng   và   định   hướng   đổi   mới   phương pháp đã được nêu ra  ở  trên nhưng thực tế  dạy học hiện nay vẫn   còn chịu ảnh hưởng nhiều của quan niệm và phương pháp dạy học xưa cũ.  Nhận định về  vấn đề  này đã có không ít nhà nghiên cứu đưa ra những ý  kiến, đặt ra nhiều vấn đề  cho ngành Giáo dục và mỗi giáo viên suy nghĩ,   tháo gỡ. Sau đây là một số ý kiến như vậy: ­ Ý kiến của GS. Hoàng Tụy: "Ta còn chuộng cách dạy nhồi nhét,  luyện trí nhớ  dạy mẹo vặt để  giải những bài toán oái ăm, giả  tạo; chẳng  
  2. 2 giúp gì mấy để  phát triển trí tuệ  mà làm cho học sinh thêm xa rời thực tế,  mỏi mệt và chán chường". ­ Ý kiến của GS. Nguyễn Cảnh Toàn: “Kiến thức, tư duy, tính cách  con người chính là mục tiêu của giáo dục. Thế  nhưng, hiện nay trong nhà   trường tư duy và tính cách bị chìm đi trong kiến thức". 1.2. Kiến thức và kỹ  năng là hai mặt gắn bó hữu cơ  trong mỗi nội   dung dạy học. Không thể nói đến vấn đề rèn luyện kỹ năng thực hiện một   loại hoạt động nào đó nếu không chú ý trang bị  kiến thức về  lĩnh vực đó  một cách vững chắc. Ngược lại, việc rèn luyện kỹ năng thực hiện các hoạt  động trong mỗi lĩnh vực có tác dụng củng cố  và mở  rộng kiến thức, giúp  cho người học tìm thấy những tác dụng to lớn của kiến thức học được  trong việc giải quyết các tình huống trong thực tiễn và trong khoa học. Chủ  đề  phương trình và bất phương trình có vị  trí quan trọng trong  chương trình môn Toán THPT. Kiến thức và kỹ năng về chủ đề này có mặt   xuyên suốt từ đầu cấp đến cuối cấp. Những kiến thức về phương trình và  bất phương trình còn là chìa khoá để  giải quyết nhiều vấn đề  thuộc hầu   hết các chủ  đề  kiến thức về  Đại số, Giải tích và Hình học, đặc biệt là  Hình học giải tích. Vì vậy bên cạnh việc giảng dạy các kiến thức lý thuyết  về  chủ đề  phương trình, bất phương trình một cách đầy đủ  theo quy định  của chương trình, việc rèn luyện kỹ năng giải phương trình và bất phương   trình cho học sinh có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng  dạy học nhiều nội dung môn Toán ở trường THPT. Kiến thức  hàm số  có vai trò quan trọng trong toàn bộ  chương trình  môn Toán phổ  thông. Điều này được khẳng định không chỉ   ở  nước ta mà  còn được đề cập đến trong nhiều ý kiến của các nhà khoa học nước ngoài.  Ta có thể thấy được điều này qua các ý kiến được trích từ [16] sau đây: ­ Ý kiến của Kơlanh khi khởi xướng phong trào cải cách việc dạy  học Toán  ở  trường phổ  thông đầu thế  kỷ  XX đã đề  nghị: Đưa cái mới vào 
  3. 3 giáo trình toán phổ  thông, lấy tư  tưởng hàm số  và biến hình làm tư  tưởng   quan trọng nhất. ­ Kiến nghị  của Hội nghị Quốc tế về giáo dục quốc dân   họp tại Giơnevơ (tháng 7 năm 1956) gửi các vị Bộ trưởng Giáo dục các nước   nêu rõ: Nên xây dựng chương trình sao cho việc dạy Toán dựa trên các cơ sở  hàm số ... ­ Ý kiến của GS. Papy tại Hội nghị Quốc tế các nhà toán học họp tại  Matxcơva (tháng 8 năm 1966) đề nghị: Chương trình toán Trung học (cấp II   và II) phải bao gồm: Tập hợp, Quan hệ, Đồ  thị, Nhóm, Không gian vectơ,  Các yếu tố của phép tính vi phân và tích phân. ở  Việt Nam, chương trình môn Toán trong cải cách giáo dục và các  chương trình đổi mới trong những năm gần đây đều chú trọng đến kiến thức   hàm số. Trong [24], GS. Nguyễn Bá Kim đã cho rằng "Đảm bảo vị  trí trung  tâm của khái niệm  hàm  số" là một trong "những tư  tưởng  cơ  bản" của   chương trình môn Toán bậc THPT. Khi phân tích tư tưởng cơ bản này tác giả  đã nhấn mạnh: ­ Nghiên cứu hàm số  được coi là nhiệm vụ  xuyên suốt chương trình  bậc Phổ thông Trung học; ­ Phần lớn chương trình Đại số  và Giải tích dành cho việc trực tiếp  nghiên cứu hàm số và công cụ khảo sát hàm số; ­ Cấp số  cộng và cấp số  nhân được nghiên cứu như  những hàm số  đối số tự nhiên; ­ Lượng giác chủ yếu nghiên cứu những hàm số lượng giác còn phần  công thức được giảm nhẹ; Phương trình và bất phương trình được trình bày liên hệ  chặt chẽ  với hàm số. 1.3.  Gắn bó chặt chẽ  với tư  tưởng hàm số, tư  tưởng biến hình, tư  tưởng về sự tương ứng đơn trị giữa các tập hợp, các sự vật và hiện tượng  là vấn đề  tư  duy hàm. Những đặc trưng về  tư  duy hàm được các tác giả 
  4. 4 Nguyễn   Bá   Kim,   Đinh   Nho   Chương,   Nguyễn   Mạnh   Cảng,   Vũ   Dương  Thuỵ, Nguyễn Văn Thường chỉ  ra trong [25]. Phát triển tư  duy hàm có ý   nghĩa quan trọng trong dạy học toán, nó vừa là yêu cầu của việc dạy học   môn Toán, vừa là điều kiện để  nâng cao chất lượng dạy học nhiều tuyến  kiến thức môn Toán. Việc dạy học các kiến thức môn Toán được trình bày   theo tư tưởng hàm số  có tác dụng tốt trong việc phát triển tư duy hàm cho   học sinh đồng thời có thể  rèn luyện nhiều kỹ  năng giải toán và ứng dụng  kiến thức toán cho học sinh trong sự kết hợp phát triển tư duy hàm. 1.4.  Có một số  công trình nghiên cứu các biện pháp nâng cao chất   lượng dạy học nội dung Phương trình, bất phương trình. Nhiều công trình   nghiên cứu về  phát triển tư  duy hàm cho học sinh thông qua dạy học các  chủ đề kiến thức cụ thể. Dựa trên những kết quả nghiên cứu đó, chúng tôi   tập trung xét vấn đề rèn luyện kỹ năng giải toán phương trình cho học sinh  trong sự phối hợp hữu cơ với vấn đề phát triển tư duy hàm. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài của luận văn là: “Phối hợp rèn luyện  kỹ  năng giải toán phương trình với phát triển tư  duy hàm cho học   sinh THPT trong dạy học Đại số và Giải tích ". 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Xác định mối quan hệ  tương hỗ  giữa việc rèn luyện kỹ  năng giải  phương trình, bất phương trình với việc phát triển tư duy hàm cho học sinh  trong dạy học Đại số và Giải tích nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy   học môn Toán ở trường THPT. 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 3.1. Hệ  thống hoá các vấn đề  lý luận về  kỹ  năng và quan điểm rèn   luyện kỹ năng toán học cho học sinh. 3.2.  Hệ  thống hoá các kỹ  năng giải toán phương trình, bất phương   trình cần rèn luyện cho học sinh THPT.
  5. 5 3.3.  Hệ  thống hoá các thành tố  của tư  duy hàm và quan điểm phát  triển tư duy hàm cho học sinh trong dạy học toán. 3.4.  Đề  xuất quan  điểm rèn luyện các kỹ  năng giải toán phương   trình, bất phương trình trong sự  phối hợp với việc phát triển tư  duy hàm   cho học sinh THPT thông qua dạy học Đại số và Giải tích. 3.5.  Thực nghiệm sư  phạm, kiểm tra tính khả  thi và hiệu quả  áp  dụng. 4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC Trên cơ sở dạy học đúng chương trình quy định, áp dụng các phương  pháp dạy học và sử dụng các phương tiện hiện có, nếu trong quá trình dạy   học giáo viên quan tâm phối hợp giữa việc rèn luyện kỹ năng giải toán với   việc phát triển tư duy hàm cho học sinh thì chất lượng dạy học môn Toán   (thể  hiện qua khả  năng giải toán phương trình, bất phương trình của học  sinh) được cải thiện. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5.1. Nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các vấn đề về Tâm lý học, Giáo  dục học, Lý luận dạy học, Toán học, Triết học, Thống kê trong giáo dục ...  có liên quan đến đề tài. 5.2. Nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, Điều tra ... 5.3. Thực nghiệm sư phạm. 6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN 6.1. Hệ thống hoá các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài. 6.2. Đề xuất một số quan điểm phối hợp rèn luyện kỹ năng giải toán   phương trình với phát triển tư duy hàm.  7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận  văn có 3 chương:
  6. 6 Chương 1: Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài 1.1. Một số đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học 1.1.1. Một số đổi mới về nội dung 1.1.2. Đổi mới về phương pháp dạy học 1.2. Kỹ năng và vấn đề rèn luyện kỹ năng toán học cho học sinh 1.2.1. Khái niệm kỹ năng 1.2.2. Vấn đề rèn luyện kỹ năng toán học cho học sinh 1.3. Tư duy hàm và vấn đề phát triển tư duy hàm cho học sinh 1.3.1. Tư duy hàm 1.3.2. Vấn đề phát triển tư duy hàm thông qua dạy học phương trình 1.4. Kết luận chương 1 Chương 2: Phối hợp rèn luyện kỹ  năng giải toán phương trình với   phát triển tư duy hàm cho học sinh THPT 2.1. Phân tích nội dung chủ đề Phương trình trong môn Toán THPT 2.1.1. Về chủ đề phương trình, bất phương trình 2.1.2. Các kỹ năng cần rèn cho học sinh khi giải toán phương trình 2.2. Rèn kỹ năng giải toán phương trình dựa vào các tư tưởng chủ đạo của   tư duy hàm 2.2.1. Rèn kỹ năng vận dụng các dạng phương trình mẫu 2.2.2. Rèn kỹ năng biến đổi phương trình 2.2.3. Rèn kỹ  năng giải phương trình thông qua đánh giá giá trị  các  biểu thức thành phần 2.2.4. Rèn kỹ năng chuyển đổi ngôn ngữ, cách phát biểu bài toán 2.2.5. Rèn kỹ năng giải phương trình thông qua xét sự biến thiên của  hàm số 2.3. Phát triển tư duy hàm cho học sinh thông qua giải toán phương trình
  7. 7 2.3.1. Tìm miền xác định của tương  ứng hàm thông qua giải toán   phương trình, bất phương trình 2.3.2. Tìm giá trị  vào, giá trị  ra của một tương  ứng thông qua giải  toán phương trình 2.3.3. Xét tính chất của tương  ứng hàm thông qua giải toán phương   trình, bất phương trình 2.3.4. Định hướng sử dụng phương trình, bất phương trình trong quá  trình lợi dụng tương ứng hàm để giải quyết vấn đề. 2.4. Kết luận chương 2 Chương 3: Thực nghiệm sư phạm 3.1. Mục đích thực nghiệm 3.2. Tổ chức và nội dung thực nghiệm 3.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm 3.4. Kết luận chung về thực nghiệm CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. MỘT SỐ ĐỔI MỚI VỀ NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC 1.1.1. Một số đổi mới về nội dung Chương trình sách giáo khoa (SGK) mới hiện nay đã có những thay   đổi về nội dung và cách trình bày như: ­ Đưa thêm vào một số  nội dung Toán học cho hoàn chỉnh chương   trình THPT, như Số phức, Thống kê, Tổ hợp, Xác suất… Sắp xếp nội dung  chương trình theo hệ thống để dễ dạy, dễ học hơn như phần toạ độ trong  
  8. 8 mặt phẳng ở chương trình lớp 12 được đưa vào cuối lớp 10 giảm nhẹ phần  các đường cônic. Đồng thời nhấn mạnh liên hệ giữa các phần khác nhau của  chương trình Toán  ở  các cấp, các lớp, giữa các môn học. Chẳng hạn đưa  phần Đạo hàm xuống lớp 11 để giúp kịp thời cho dạy và học môn Vật lý ở  đầu lớp 12.  ­ Cách viết SGK như từ trước đến nay còn mang tính hàn lâm: Thông   báo kiến thức, trình bày các vấn đề quá lôgíc chặt chẽ; đưa ra nhiều các bài  toán khó nên còn thiếu tính sư  phạm. SGK chưa thể  hiện được phương   pháp dạy học tích cực. Theo cách viết SGK và cách giảng dạy cũ, SGK chỉ  đơn thuần là một tài liệu khoa học dùng cho giáo viên, nội dung các tiết   dạy thường được viết cô đọng, đầu tiên là nêu định nghĩa của một khái   niệm mới, sau đó là các tính chất và chứng minh, rồi các định lý và chứng   minh, cuối cùng là các ví dụ  và các bài toán. Theo định hướng đổi mới,   SGK phải trình bày và hướng dẫn như  thế  nào đó để  cho nếu không có  thầy giáo, học sinh cũng có thể  tự  học được, cố  nhiên là khó khăn và vất  vả hơn.  SGK mới nêu nhiều câu hỏi, đề  ra nhiều hoạt động tại lớp mà giáo   viên có thể  thay đổi cho thích hợp để  phát huy tính tích cực học tập của  học sinh, học sinh được suy nghĩ và hoạt động nhiều hơn. Nhiều câu hỏi   đặt ra nhằm giúp học sinh nhớ  lại một kiến thức nào đó hoặc để  gợi ý,   hoặc để  định hướng cho những suy nghĩ của họ… Các câu hỏi này nói  chung là dễ, vì thế không đưa ra câu trả lời trong SGK.  SGK theo tinh thần mới tinh giảm những nội dung phức tạp, giảm   bớt   những   suy   luận   quá   hình   thức,   quá   trừu   tượng,   giảm   nhẹ   phần   lý  thuyết, chủ  yếu là giảm nhẹ  các chứng minh của các tính chất hoặc định  lý. Một số  tính chất quá hiển nhiên không nêu ra, các định lý chứng minh   quá phức tạp thì chỉ  nêu những trường hợp cụ  thể   để  kiểm chứng mà   không cần phải chứng minh. 
  9. 9 SGK theo tinh thần mới tăng cường những nội dung thực tiễn, thiết  thực, những điều gần gũi với cuộc sống của học sinh trong trường hợp có  thể. Chẳng hạn, trong phần véctơ, có thể đưa thêm những ứng dụng trong  Vật lý: Tổng hợp lực, phân tích lực… Ngoài ra, SGK mới còn đưa thêm các phần như: Có thể em chưa biết,  em có biết, bài đọc thêm, để  nói thêm những chi tiết hay, thú vị  gây hứng   thú học tập cho học sinh. SGK mới đã chỉ  ra các hoạt động tại từng thời điểm để  thầy, trò  xem xét và giải quyết. Nh ững ho ạt động này rất đa dạng, có thể  là ôn  lại kiến thức cũ, đặt vấn đề  cho kiến thức m ới, qua các ví dụ  cụ  thể  gợi ý phươ ng pháp giải quyết v ấn đề  hay bài toán đặt ra, thực hành áp  dụng trực tiếp các công thức nêu trong lý thuyết. Cách thức thực hi ện   các hoạt động này cũng rất đa dạng: Có thể thầy làm hoặc cho học sinh  thực hiện, hoặc nêu thành vấn đề  để  cả  lớp cùng thảo luận tìm cách   giải quyết. Tóm lại so với sách giáo khoa cũ thì sách giáo khoa lần này không  phải thay đổi nhiều về nội dung mà chủ yếu thay đổi cách trình bày để học  sinh học tập một cách tích cực hơn.  Những sự  thay đổi trên của sách giáo khoa hiện nay đã tạo điều   kiện để  học sinh học tập một cách tích cực hơn, từ  đó giáo viên có thể  phối hợp rèn luyện kỹ  năng với việc phát triển tư  duy hàm cho học sinh   qua dạy học Toán nói chung và dạy học chủ đề phương trình nói riêng. 1.1.2. Đổi mới phương pháp dạy học Thực tế  dạy học Toán lâu nay cho thấy, chúng ta chỉ  coi trọng đến  mục đích truyền thụ  tri thức, thường thì giáo viên đưa ra các định lý, tính  chất rồi giải thích cho học sinh thông hiểu chứng minh, vận dụng định lý,  tính chất. Phương pháp dạy học được sử  dụng phổ  biến trong nhà trường   là phương pháp thuyết trình tràn lan, thầy truyền đạt kiến thức  áp đặt, 
  10. 10 dưới dạng có sẵn, ít yếu tố tìm tòi phát hiện, trò tiếp thu thụ động. Đa số  giáo viên chỉ  nghĩ đến việc dạy đúng, dạy đủ, dạy nội dung gì chứ  chưa   nghĩ đến cách dạy như  thế  nào? Phần lớn khi giảng dạy họ  coi mọi đối   tượng   học   sinh   là   như   nhau   nên   giảng   cùng   một   nội   dung,   cùng   một  phương pháp và tự cho là hoàn thành nhiệm vụ. Ngoài ra kiểu đánh giá và  thi cử đã  ảnh hưởng rõ rệt tới phương pháp giảng dạy, đánh giá và thi cử  như  thế  nào thì sẽ  có lối dạy tương  ứng đối phó như  thế   ấy, dạy và học   theo kiểu "Thi gì ­ học nấy". Về  thực trạng này, nhà toán học Nguyễn Cảnh Toàn đã nhận định:  “Cách dạy phổ biến hiện nay là thầy đưa ra kiến thức (khái niệm, định lý)  rồi giải thích, chứng minh, trò cố  gắng tiếp thu nội dung khái niệm, nội  dung định lý, hiểu chứng minh định lý, cố gắng tập vận dụng các công thức  định lý để tính toán, chứng minh…”. GS. Hoàng Tụy phát biểu: “Ta còn chuộng cách dạy nhồi nhét, luyện  trí nhớ, dạy mẹo vặt để  giải các bài toán oái oăm, giả  tạo, chẳng giúp gì  mấy đến việc phát triển trí tuệ  mà làm cho học sinh thêm xa rời thực tế,   mệt mỏi và chán nản …". Tóm lại, với kiểu dạy học như vậy tạo thói quen "Thầy giảng ­ Trò   ghi", thầy truyền thụ  kiến thức còn trò thụ  động tiếp thu kiến thức, điều  thầy nói được coi là tuyệt đối đúng, những gì thầy giảng thường không có  sự  tranh luận giữa thầy và trò, không có sự  phản hồi, thông tin ngược từ  phía học sinh trong bài giảng. Kiểu giảng dạy  "một chiều"  như  vậy làm  giảm hiệu suất tiếp thu kiến thức cũng như  hoạt động tự  giác, tích cực,  sáng tạo của học sinh; không kiểm soát được việc học. Do đó việc đổi mới   phương pháp dạy học được xác định là một trong những nội dung chủ yếu  trong đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay. Quan điểm đổi mới phương pháp dạy học bao gồm sự  đổi mới trên  các phương diện: cách dạy, cách học, cách tổ  chức và cách kiểm tra đánh 
  11. 11 giá. Cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập tích  cực, chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Chuyển từ  dạy học  lấy giáo viên làm trung tâm sang dạy học lấy học sinh làm trung tâm, làm   cho học sinh suy nghĩ nhiều hơn, hoạt động nhiều hơn trong một tiết học.  Thay vì lối dạy truyền thống truyền thụ một chiều, thuyết trình, giảng giải  các kiến thức sẵn có, giáo viên cần phát huy tính tích cực, tự  giác, chủ  động, sáng tạo, tự  học, kỹ năng vận dụng vào thực tiễn, phù hợp với đặc  điểm từng học sinh; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, tạo được sự  hứng thú học tập cho học sinh, tận dụng được công nghệ  mới nhất áp  dụng trong dạy và học. Dạy học theo quan điểm mới giáo viên không chỉ đơn giản cung cấp   kiến thức mà còn phải thiết kế, tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động để  học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức   và chỉ  đạo. Từ  đó tự  lực khám phá kiến thức mình chưa biết chứ  không  phải tiếp thu thụ   động những kiến thức sẵn có. Giáo viên cần cài đặt  những tình huống thực tế  để  học sinh trực tiếp quan sát, làm thí nghiệm,  thảo luận, giải quyết theo cách riêng của bản thân, từ đó học sinh lĩnh hội   được kiến thức mới. Như   vậy,   chức   năng   và   vai   trò   của   giáo   dục   ngày   nay   đã   được  "chuyển sang vai trò nhà tổ  chức giáo dục", phương pháp dạy học mới đã  chú trọng đến việc phát huy tối đa tính tích cực, độc lập của học sinh, đề  cao phương pháp tự học, "chuyển quá trình giáo dục sang quá trình tự giáo   dục". Xóa bỏ cách học cũ không kích thích được học sinh suy nghĩ, tìm tòi,  rèn luyện trí thông minh, chuyển đổi chức năng từ thông báo, tái hiện sang  tìm tòi. "Để  phát huy tối đa tính tích cực học tập của học sinh, tốt nhất là  tổ  chức tốt những tình huống có vấn đề, đòi hỏi dự  đoán, nêu giả  thuyết,  tranh luận giữa những ý kiến trái ngược" (Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên   2006).
  12. 12 Đổi mới phương pháp dạy học không chỉ  đổi mới cách dạy, cách  học, cách tổ  chức hoạt động mà còn đổi mới cả  cách kiểm tra đánh giá.  Nội dung kiểm tra, đánh giá phải toàn diện, bao gồm cả kiến thức, kỹ năng   và phương pháp có trong chương trình học, khắc phục tình trạng "học tủ"  đối phó với thi cử, ra đề  kiểm tra nặng về  tính toán, mẹo vặt như  trước   đây. Việc đổi mới phương pháp dạy học dựa trên những thành tựu của  Tâm lý học hiện đại, Lý luận dạy học cho rằng, nhân cách của học sinh   được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động chủ động, có ý thức.  Do đó để  đạt được mục đích dạy học thì cần phải đặt học sinh vào vị  trí  của chủ  thể  hoạt động trong quá trình dạy học, thông qua hoạt động tích  cực của bản thân mà nắm được kiến thức mới, kỹ  năng mới đồng thời  nắm được phương pháp "làm ra" những kiến thức, kỹ năng đó, không theo  những khuôn mẫu có sẵn, bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Qua hoạt  động học sinh không những chiếm lĩnh được kiến thức mới mà còn hình  thành và phát triển năng lực. Tuy nhiên, cần phải nói thêm rằng đổi mới phương pháp dạy học không  có nghĩa là gạt bỏ, phủ nhận hoàn toàn các phương pháp truyền thống  mà cần kế thừa, phát triển các mặt tích cực của hệ thống phương pháp  dạy học quen thuộc, đồng thời cần học hỏi, vận dụng một số phương  pháp mới, theo quan điểm đổi mới phù hợp với điều kiện dạy và học ở  từng vùng, từng miền ở nước ta. 1.2.   KỸ   NĂNG   VÀ   VẤN   ĐỀ   RÈN   LUYỆN   KỸ   NĂNG   TOÁN  HỌC CHO HỌC SINH 1.2.1. Khái niệm kỹ năng Theo Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm thì: “Kỹ năng là khả  năng vận dụng kiến thức (khái niệm, cách thức, phương pháp…) để giải quyết   một nhiệm vụ mới” [19, tr.131].
  13. 13 Còn Tâm lý học đại cương cho rằng: “Kỹ  năng là năng lực sử  dụng  các dữ liệu, các tri thức hay khái niệm đã có, năng lực vận dụng chúng để  phát hiện những thuộc tính bản chất của sự  vật và giải quyết thành công   những nhiệm vụ lý luận hay thực hành xác định”[31, tr.149]. Theo từ điển Tiếng Việt khẳng định: "Kỹ năng là khả năng vận dụng những  kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế"[44, tr. 426].  Tóm lại, kỹ  năng là khả  năng vận dụng kiến thức vào giải quyết   nhiệm vụ  mới. Trong thực tế dạy học, học sinh thường gặp khó khăn khi  vận dụng kiến thức (khái niệm, cách thức, phương pháp...) vào giải quyết  các bài tập cụ  thể. Học sinh thường khó tách ra những chi tiết thứ  yếu,   không bản chất ra khỏi đối tượng nhận thức, không phát hiện những thuộc   tính, mối quan hệ vốn có giữa kiến thức và đối tượng. Sở dĩ như vậy là do   kiến thức không chắc chắn, khái niệm trở  nên chết cứng, không gắn liền  cơ sở của kỹ năng. Một sự  vật có thể  có nhiều thuộc tính bản chất khác nhau, những  thuộc tính bản chất về  các mặt phù hợp với những hoạt động, mục đích  nhất định. Do đó cần lựa chọn những thuộc tính phù hợp với mục tiêu đặt  ra trước hành động, để  hành động biến đổi đối tượng đạt mục tiêu (tất   nhiên mục tiêu đặt ra thu được thông tin mới). Sự dễ dàng hay khó khăn khi  vận dụng kiến thức (hình thành kỹ  năng) tùy thuộc vào khả  năng nhận  dạng kiểu bài toán, phát hiện, nhìn thấy trong các dữ  liệu đã cho của bài  toán, có những thuộc tính và những quan hệ là bản chất để  thực hiện giải   bài toán đã cho. Theo các nhà Tâm lý học sự hình thành kỹ năng chịu  ảnh hưởng của  các yếu tố sau: Nội dung của bài toán đặt ra, được tách ra một cách rõ ràng hay che đậy   quan hệ bản chất của bài toán bởi các dữ liệu xuất phát, làm lệch hướng tư duy. Ví dụ 1: Giải phương trình:
  14. 14 1 1 9 3 1   + cos4x − cos2x + + cos4x − cos2x = 16 2 16 2 2 Mới nhìn dễ  gây cho học sinh tâm lý hoảng sợ  vì nghĩ là phương  trình vô tỉ lượng giác nhưng chịu khó suy nghĩ, xem xét các biểu thức dưới   dấu căn, xét thấy các biểu thức dưới căn là các bình phương đúng: 2 1 1 � 1� + cos4x − cos2x = �cosx − � 16 2 � 4� 2 9 3 � 3� + cos4x − cos2x = �cosx − � 16 2 � 4� Như vậy, tính chất vô tỉ trong bài toán chỉ là cái áo ngụy trang, bởi vì  1 3 1 A = A 2 , phương trình đã cho có dạng:  cos x − + cos2x + = . Việc  2 4 4 2 lột bỏ hình thức bề ngoài của bài toán, phát hiện ra mối quan hệ bản chất   ẩn chứa trong bài toán, giúp học sinh xác định đúng bản chất của bài toán. Để phát hiện ra mối quan hệ bản chất chứa trong bài toán, học sinh  chỉ  nhìn thấy, phân tích những yếu tố  riêng biệt của bài toán mà cần thâu   tóm toàn bộ những yếu tố có mặt trong bài toán. Ví dụ 2: Giải phương trình: ( ) ( ) ( ) x x x   26 + 15 3 + 2 7 + 4 3 − 2 2 − 2 3 =1 Cần phải quan sát, phân tích tất cả các số  hạng có mặt trong phương   trình, từ đó mới phát hiện được mối quan hệ bản chất có mặt trong bài toán  đó là:
  15. 15 ( 7 + 4 3) = ( 2 + 3) x 2x ( 26 + 15 3 ) = ( 2 + 3 ) x 3x ( 2 − 3) = 1 x ( 2 + 3) x Khả  năng khái quát, mở  rộng  ảnh hưởng không nhỏ  đến việc hình  thành kỹ  năng. Tâm lý và thói quen tâm lý cũng là một yếu tố   ảnh hưởng   đến sự  hình thành kỹ  năng. Khi học sinh hăng say, hứng thú trong học tập  sẽ giúp họ dễ dàng hình thành kỹ năng, còn ngược lại sẽ cản trở việc học   tập. Thói quen tâm lý là một trở  ngại thường gặp trong học tập. Nguyên  nhân chủ yếu hình thành thói quen tâm lý đó là tư duy của con người có tính  phương hướng. Một loại kiến thức hoặc phương pháp cũ nào  đó dùng   nhiều lần,  ấn tượng sâu làm cho học sinh không bứt ra khỏi sự  ràng buộc  của thói quen tư duy cũ để mở ra một hướng suy nghĩ mới. Ngoài ra, một nguyên nhân nữa hình thành thói quen tâm lý đó là nhận   thức chỉ  dừng lại  ở  bề  mặt, không quan sát phân tích đặc điểm của từng  bài toán cụ thể. 1   2 ( 2x − 1) − x + 2 Ví dụ 3: Giải phương trình: =0 2 Nếu chỉ quan sát trên bề mặt thông thường học sinh sẽ  chỉ nghĩ đến  việc khai triển rồi đơn giản đưa ra phương trình bậc hai:  ( ) 4 2x 2 − 4 2 + 1 x + 2 + 1 2 = 0  và tìm nghiệm theo công thức quen  thuộc rất cồng kềnh, phức tạp: ( ) ( ) � 1� 2 4 2 +1 4 2 + 1 − 4.4 2 � 2 + � � 2 � . . . x12 = = 2.4 2
  16. 16 Tuy nhiên, nếu chú ý quan sát, phân tích đặc điểm bài toán thấy giữa  các hệ  số  hình thành tỉ  lệ, thực hiện biến đổi đơn giản các hệ  số  đưa   phương trình về dạng:    a( x + b) ( x + c) = 0 :  1 2 ( 2x − 1) − ( 2x − 1) = 0 2 2     2x − 1 = 0 � 1� � ( 2x − 1) � 2 ( 2x − 1) − �= 0 � 1 � 2� 2 ( 2x − 1) − =0 2 Như vậy, thói quen tâm lý là một thứ tiêu cực, làm cho tư duy trở nên   cứng nhắc, bảo thủ và cản trở quá trình học tập của học sinh. 1.2.2. Vấn đề rèn luyện kỹ năng toán học cho học sinh Trong các mục đích riêng của môn Toán ở trường phổ thông thì việc   truyền thụ  kiến thức, rèn luyện kỹ  năng là cơ  sở  vì các mục đích khác  muốn thực hiện được phải dựa trên mục đích này. Và kiến thức về  một  mặt nào đó sẽ không được củng cố, mở rộng, vận dụng vào thực tiễn cũng  như  vào các ngành khoa học khác, nếu không chú trọng việc rèn luyện kỹ  năng thực hiện các hoạt động tương ứng. Việc rèn luyện kỹ  năng hoạt động nói chung, kỹ  năng toán học nói  riêng là một yêu cầu quan trọng, đảm bảo mối liên hệ  giữa học với hành,  điều này đã được nhiều tác giả đề cập như: “ Suy nghĩ tức là hành động” ( J. Piaget) “ Cách tốt nhất để tìm hiểu là làm” ( Kant) “ Học để hành, học và hành phải đi đôi” ( Hồ Chí Minh) Dạy học sẽ không đạt kết quả nếu học sinh chỉ biết học thuộc lòng  khái niệm, định nghĩa, định lý mà không biết vận dụng hay vận dụng không  thành thạo vào việc giải bài tập. Dạy toán là dạy kiến thức, kỹ  năng tư  duy và tính cách cho học sinh   ( Nguyễn Cảnh Toàn). Việc hình thành và rèn luyện kỹ  năng giải toán cho 
  17. 17 học sinh là một trong những yêu cầu cơ  bản và cần thiết của hoạt động  dạy toán, giúp học sinh hiểu sâu sắc kiến thức toán trong trường phổ thông,   đồng thời rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy, các hoạt động trí tuệ.  Từ  đó, bồi dưỡng các phẩm chất trí tuệ, phát triển năng lực giải toán cho  học sinh.  Sự  hình thành kỹ  năng đó là sự  nắm vững một hệ  thống phức tạp   các thao tác nhằm làm biến đổi và sáng tỏ những thông tin chứa đựng trong  bài tập, trong nhiệm vụ và đối chiếu chúng với những hành động cụ thể. Có thể dạy cho học sinh kỹ năng bằng những con đường khác nhau  như: Con đường thứ nhất: Sau khi cung cấp, truyền thụ cho học sinh vốn   tri thức cần thiết thì yêu cầu học sinh vận dụng tri thức đó để giải các bài   toán liên quan theo mức độ tăng dần. Con đường thứ  hai:  Dạy những dấu hiệu đặc trưng, từ  đó có thể  định hướng một số  dạng bài toán và các thao tác cần thiết để  giải dạng   toán đó. Con đường thứ ba: Dạy học sinh các hoạt động tâm lý cần thiết đối  với việc vận dụng tri thức. Việc hình thành và rèn luyện cho học sinh cần được tiến hành trên  các bình diện khác nhau. ­ Kỹ năng vận dụng tri thức trong nội bộ toán, thể hiện rõ dưới dạng   giải bài tập toán. ­ Kỹ năng vận dụng tri thức toán học vào những môn học khác như vật  lý, hoá học. ­ Kỹ năng vận dụng vào đời sống. Có thể  nói, bài tập toán chính là  ''mảnh đất''  để  rèn luyện kỹ  năng  toán. Do đó, để  rèn luyện kỹ  năng toán cho học sinh, giáo viên cần tăng  cường hoạt động giải toán (đây cũng chính là hoạt động chủ  yếu khi dạy 
  18. 18 toán). Cụ  thể  hơn thông qua hoạt động giải toán, rèn luyện kỹ  năng toán  cho học sinh cần quan tâm chú trọng những vấn đề sau:  * Cần hướng cho học sinh biết cách tìm tòi để nhận xét ra yếu tố đã   cho, yếu tố phải tìm và mối quan hệ giữa chúng. Nói cách khác, hướng cho  học sinh biết cách phân tích đặc điểm bài toán. Ví dụ 1: Giải bất phương trình ( x +1 + ) ( ) ( 2x − 3 + 50 − 3x ) 12 (1) Nếu giải bài toán này theo phương pháp thông thường, tức dùng biến   đổi tương đương, thì sẽ tương đối phức tạp. Ta nhận thấy, tổng các bình phương các căn thức ở vế trái là một số  không đổi: ( ) ( ) ( ) 2 2 2 x +1 + 2x − 3 + 50 − 3x = 48 Và vế  trái của (1) có dạng a1b1  + a2b2  + a3b3  trong bất đẳng thức  Bunhiakốpxki. Từ  đó, ta nghĩ đến sử  dụng bất  đẳng thức Bunhiakốpxki để  giải  quyết   bài  toán:   Nếu   ta   xem  a1 = 1 + x; a2 = 2x − 3; a3 = 50 − 3x; b1 = b2 = b3 = 1  thì ta có:  ( 1. 1 + x + 1. 2x − 3 + 1. 50 − 3x ) ( 1 + 1 + 1 ) 48 2 2 2 � 1 + x + 2x − 3 + 50 − 3x �12 Tức là (1) luôn đúng. Vậy nghiệm của bất phương trình đã cho chính là điều kiện cho các  3 50 căn thức có nghĩa:  x 2 3 * Hướng cho học sinh hình thành mô hình khái quát để giải quyết các  bài tập, các đối tượng cùng loại. * Xác lập được mối liên quan giữa bài tập mô hình khái quát và các   kiến thức tương ứng.    
  19. 19 Ngoài ra, còn tạo nhu cầu hướng thú cho học sinh, khắc phục  ảnh hưởng   tiêu cực của thói quen tâm lý bằng cách rèn luyện ba mặt sau: + Nhìn bài toán dưới nhiều khía cạch khác nhau, từ đó so sánh  các cách giải với nhau để hiểu sâu sắc, vận dụng hợp lý kiến thức. + Quan sát tỉ mỉ và chú ý tìm ra đặc điểm của bài toán Ví dụ 2: Giải bất phương trình  ( ) ( x +1 + ) ( 50 − 3x ) 12 2x − 3 + Nếu  để  ý mối liên hệ:   ( x + 1 ) + ( 2x − 3 ) + ( ) 2 2 2 50 − 3x = 48   là  một hằng số; làm ta liên hệ  tới tích vô hướng. Có thể  xem vế  trái là tích   của hai véc tơ còn vế phải là tích các độ dài của chúng. Với hướng suy nghĩ  này, lời giải bài toán khá độc đáo. x −1 3 3 50 Điều kiện để bất phương trình có nghĩa là:  x �� x 2 2 3 50 x 3 Đặt:  r ( u x + 1, 2x − 3, 50 − 3x ) r v ( 1, 1, 1) rr u.v = x + 1 + 2x − 3 + 50 − 3x r u = ( x + 1) + ( 2x − 3) + ( 50 − 3x ) = 48 r v = 3 r r u . v = 12 Từ  góc độ  hình học để  hiểu bất phương trình thì vấn đề  trở  nên rõ   rr r r ràng. Bài toán chuyển về chứng minh  u.v u . v . Đây là một bất đẳng thức 
  20. 20 đúng với tích vô hướng của hai véc tơ. Vậy nghiệm của bất phương trình  3 50 là những giá trị của x mà bất phương trình có nghĩa tức là:  x . 2 3 Như vậy, các cách giải hay, độc đáo đều gắn liền với đặc điểm của  từng bài. Do đó cần phải quan sát kỹ  và chú ý đầy đủ  mới có thể  nhìn ra  đặc điểm ẩn sâu trong bài toán. + Tích cực suy nghĩ, tìm tòi cách giải ngắn gọn trong khi giải toán.  Học sinh không chỉ gặp những bài toán đơn giản, tuân theo phương pháp và   các bước làm rõ ràng mà còn gặp khá nhiều bài phức tạp, không có phương   pháp sẵn. Đòi hỏi phải suy nghĩ tìm cách giải ngắn gọn, chặt chẽ độc đáo. Ví dụ 3: Giải phương trình: (x2 – 5x + 3)(2x2 + 5x – 1) = (x2 + 5x + 3)(2x2 – 5x ­1) Khi gặp bài toán này, thông thường học sinh nhân các số hạng với  nhau, sau đó đơn giản rồi giải, như vậy sẽ rất phiền phức. Chăm suy nghĩ,  chú ý đến đặc điểm phương trình, các hệ số có mặt ở hai vế phương trình,  nghĩ tới cách học cấp phương trình,dùng phương pháp xác định hệ số để  giải.   Đặt a = x2 ­ 5x + 3; b = 2x2 + 5x ­1.  Phương trình trở thành: ab = ( a + 10x)(b – 10x) Rút gọn được: ­ 100x2 + 10x(b – a) = 0 x =2 Suy ra : x = 0; b – a = 10x  � x − 4 = 0 � 2 x = −2 Hoặc cũng có thể đặt a = x2 + 3; b = 2x2 – 1. Không dừng lại  ở  cách giải này, tiếp tục suy nghĩ, xem xét phân  tíchđặc điểm phương trình. Phương trình cho  ở  dạng tích nên có thể  biến  đổi thành dạng tỉ lệ: 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0