LUẬN VĂN: Các khu công nghiệp trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Giang
lượt xem 25
download
Thực tiễn phát triển của các nước trên thế giới những năm qua đã chứng tỏ rằng việc thành lập các KCN, KCX là một trong những giải pháp quan trọng đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển KT - XH của đất nước. Vận dụng kinh nghiệm thế giới vào thực tế Việt Nam, từ năm 1991 Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thí điểm và triển khai việc xây dựng các KCN và KCX. Đến nay đã qua 15 năm, quá trình này đã có những bước tiến dài, cả nước đã...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Các khu công nghiệp trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Giang
- LUẬN VĂN: Các khu công nghiệp trong sự phỏt triển kinh tế - xó hội ở tỉnh Bắc Giang
- Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực tiễn phát triển của các nước trên thế giới những năm qua đã chứng tỏ rằng việc thành lập các KCN, KCX là một trong những giải pháp quan trọng đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển KT - XH của đất nước. Vận dụng kinh nghiệm thế giới vào thực tế Việt Nam, từ năm 1991 Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thí điểm và triển khai việc xây dựng các KCN và KCX. Đến nay đã qua 15 năm, quá trình này đã có những bước tiến dài, cả nước đã có 134 KCN và KCX với tổng diện tích đất có thể cho thuê là 18.561 ha, thu hút hơn 4.500 dự án đầu tư trong và ngoài nước, tổng số vốn đăng ký trên 17 tỷ USD và hơn 100.000 tỷ đồng Việt Nam, tạo việc làm cho trên 2 triệu lao động [16, tr.13]. Các KCX đã và đang trở thành điểm thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài, đón nhận các tiến bộ KH – CN và tạo ra những nhân tố quan trọng góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển KT - XH của đất nư- ớc. Bắc Giang là tỉnh nằm cách Thủ đô Hà Nội 50 km về phía Bắc, cách cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị 110 km về phía Nam, cách cảng Hải Phòng hơn 100 km về phía Đông, một tỉnh có nhiều tiềm năng về đất đai, tài nguyên khoáng sản. Địa lý lãnh thổ không những có nhiều vùng núi cao, mà còn có nhiều vùng đất trung du trải rộng xen kẽ với các vùng đồng bằng phì nhiêu. Kể từ khi có chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng các KCN đến nay, Bắc Giang đã xây dựng và phát triển được 11 khu và cụm công nghiệp, đã thu hút được 109 dự án đầu tư trong nước và nước ngoài với tổng số vốn đầu tư là 11.122 tỷ đồng. Quá trình phát triển KCN ở Bắc Giang đã đạt được một số thành tựu quan trọng, góp phần tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu KT - XH, tăng cường thế và lực của tỉnh ở trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, việc phát triển KCN ở Bắc Giang còn có không ít khó khăn và thách thức. Sức thu hút các dự án đầu tư vào KCN còn chưa hấp dẫn. Các KCN chủ yếu mới thu hút các doanh nghiệp chế biến nông sản, hàng dệt may và một số sản phẩm khác, còn thiếu những dự án sử dụng công nghệ cao. Còn nhiều bất cập trong giải quyết vấn đề môi trường sinh thái, việc làm và thu nhập của người dân mất đất do phát triển KCN. Những khó khăn, bất cập đó đã và đang là những lực cản làm cho các KCN chưa phát huy tốt vai trò khu kinh tế động lực đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển KT - XH trên địa bàn tỉnh.
- Trước những vấn đề bức xúc nêu trên, cần phải có những nghiên cứu lý luận và đánh giá thực tiễn tác động của các KCN trên địa bàn của tỉnh đối với quá trình phát triển KT - XH của địa phương để có những điều chỉnh, bổ sung các giải pháp thích hợp. Để góp phần vào việc giải quyết vấn đề này, tôi chọn đề tài: “Cỏc khu cụng nghiệp trong sự phỏt triển kinh tế - xó hội ở tỉnh Bắc Giang " nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị. Việc nghiên cứu này không chỉ cần thiết đối với tỉnh Bắc Giang, mà còn có ý nghĩa góp phần để phát huy tối đưa những ảnh hưởng tích cực, hạn chế đến mức tối thiểu những tác động tiêu cực của các KCN đối với sự phát triển KT - XH của cả nước nói chung, nâng cao hiệu quả KT - XH của các KCN. Đây là một vấn đề thời sự và cấp bách. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Kể từ khi Đảng và Nhà nước có chủ trương xây dựng và phát triển các KCN đến nay, đã có những nghiên cứu về vấn đề này. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các cơ quan nghiên cứu của Trung ương và các địa phương của nước ta đã tổ chức những hội thảo về xây dựng và phát triển các KCN, đề xuất các biện pháp đẩy mạnh thu hút đầu tư, quản lý hoạt động và quản lý môi trường trong các KCN, chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư vào KCN... Đã có một số công trình nghiên cứu khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sỹ nghiên cứu về hiệu quả kinh tế xã hội của các KCN, các giải pháp phát triển KCN ở một số địa phương, hoặc nghiên cứu vấn đề việc làm và thu nhập của người dân có đất bị thu hồi xây dựng KCN, vấn đề nhà ở cho người lao động làm việc tại KCN v.v.. Đã có một số cuốn sách viết về vấn đề này, như: "Kinh nghiệm thế giới về phát triển KCN, KCX và đặc khu kinh tế" của Viện Kinh tế học năm 1994; "KCN, KCX các tỉnh phía Nam" của Bộ Kế hoạch và Đầu tư xuất bản năm 2002 nhằm đánh giá khái quát về những thành công và hạn chế của các KCN, KCX tại các tỉnh phía nam nước ta. Cũng trong năm 2002, Bộ Kế hoạch và Đầu tư còn tổ chức nghiệm thu đề tài cấp Bộ "Nghiên cứu mô hình quản lý nhà nước về KCN, KCX ở Việt Nam" nội dung giới thiệu kinh nghiệm quản lý các KCN, KCX của nước ngoài, đánh giá những mặt tốt và những hạn chế của mô hình quản lý hiện đang áp dụng tại Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất một số mô hình quản lý mới nhằm nâng cao hiệu quả quản lý các KCN, KCX trong thời gian tới. Năm 2004, nhà xuất bản Khoa học xã hội đã xuất bản cuốn "Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ môi trường ở các KCN, KCX" của tiến sĩ Trương Thị Minh Sâm, đánh
- giá khá chi tiết và toàn diện tình trạng ô nhiễm môi trường ở các KCN, KCX vùng kinh tế trọng điểm phía nam, những thách thức đặt ra đối với công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, đề xuất một hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà n ước đối với vấn đề này ở các KCN, KCX thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía nam. Riêng năm 2004, cả nước đã có 6 hội thảo về phát triển KCN, KCX, trong đó Hội thảo với chủ đề "Phát triển KCN, KCX ở các tỉnh phía Bắc - những vấn đề lý luận và thực tiễn" do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Tạp chí Cộng sản và Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa tổ chức tại Thanh Hóa đã có 40 bài tham luận gửi đến và nhiều tham luận của các đại biểu. Các bài viết đã tập trung vào một số vấn đề cơ bản, như vị trí, vai trò của các KCN, KCX; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển KCN, KCX, một số vấn đề lý luận về KCN, KCX; công tác quy hoạch phát triển các KCN, KCX; các chính sách liên quan đến phát triển KCN, KCX; những nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém phát triển của các KCN phía Bắc so với các KCN phía Nam; tổ chức bộ máy quản lý nhà n ước đối với các KCN, KCX và vấn đề tạo động lực cho các KCN, KCX. Tháng 7/2006, nhân kỷ niệm 15 năm xây dựng các KCN, KCX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức "Hội nghị - hội thảo quốc gia 15 năm xây dựng và phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam" tại Long An nhằm nhìn nhận lại những thành tựu đạt được, những hạn chế và kinh nghiệm xây dựng và phát triển KCN, KCX ở nước ta, kiến nghị phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển, nâng cao chất lượng hoạt động của các KCN, KCX. Hội thảo đã nhận được gần 100 bài viết và tham luận về vấn đề này của cả nước cũng như của các tỉnh. Đã có một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sỹ kinh tế nghiên cứu về vấn đề này, như: "Hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý nhà nước đối với các KCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (qua thực tiễn KCN các tỉnh phía bắc" luận án tiến sĩ của tác giả Lê Hồng Yến, trường Đại học Thương mại, năm 1996; "Cung cầu về nhà ở cho công nhân các KCN hiện nay" luận văn thạc sỹ Kinh tế của tác giả Phạm Xuân Đức, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2005; "Thu nhập của người lao động ở KCN Tân Bình - quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh", luận văn thạc sỹ Kinh tế của tác giả Lê Công Đồng Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2005; "Hiệu quả KT - XH của các KCN ở thành phố Hà Nội" luận văn thạc sỹ Kinh tế của tác giả Nguyễn Duy Cường, Học viện Chính trị quốc gia
- Hồ Chí Minh, năm 2006... Tuy nhiên, các nghiên cứu này mới tập trung nghiên cứu những vấn đề chung trên phạm vi tổng thể cả nước, hoặc trên một địa bàn - một vùng, một tỉnh khác. Đến nay, ở Bắc Giang chưa có công trình khoa học nào dưới góc độ kinh tế chính trị nghiên cứu về tác động của KCN đối với sự phát triển KT - XH của địa phương. Đề tài mà học viên lựa chọn nghiên cứu là mới mẻ, không trùng lặp với công trình khoa học nào. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích: Đánh giá thực trạng tác động của các KCN (bao gồm cả KCN, KCX và cụm công nghiệp) ở tỉnh Bắc Giang đối với quá trình phát triển KT - XH của địa phương, đề xuất giải pháp nhằm phát huy cao độ tác động tích cực, ngăn ngừa và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của chúng trong thời gian tới. - Nhiệm vụ: + Hệ thống hóa cơ sở lý luận - thực tiễn về tác động của các KCN đối với quá trình phát triển KT - XH trên địa bàn một tỉnh ở nước ta. + Đánh giá thực trạng tác động của các KCN đến sự phát triển KT - XH ở tỉnh Bắc Giang và tìm nguyên nhân chủ yếu của các thực trạng đó. + Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy cao độ vai trò tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của các KCN trên địa bàn đối với quá trình phát triển KT - XH ở tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Giang bao gồm KCN, KCX và cụm công nghiệp và ảnh hưởng của các KCN này đối với đời sống KT - XH trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. - Phạm vi nghiên cứu: về không gian nghiên cứu là địa bàn tỉnh Bắc Giang; về thời gian để nghiên cứu: từ khi triển khai xây dựng và phát triển các KCN ở nước ta đến nay (1991 - 2006). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của Kinh tế chính trị Mác - Lênin, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đổi mới của
- Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời sử dụng những lý thuyết kinh tế học hiện nay về vai trò của hoạt động đầu tư trong nền kinh tế thị trường. 6. Những đóng góp khoa học của luận văn - Hệ thống hóa cơ sở lý luận về tác động của các KCN đối với quá trình phát triển KT - XH, kinh nghiệm của một số địa phương trong việc phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong xây dựng và phát triển KCN trên địa bàn để tỉnh Bắc Giang có thể tham khảo. - Phân tích và đánh giá thực trạng tác động của các KCN đối với quá trình phát triển KT - XH trên địa bàn tỉnh Bắc Giang từ khi chúng được thành lập đến nay, tìm ra nguyên nhân tác động tích cực và hạn chế của thực trạng đó. - Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, ngăn ngừa hạn chế mặt tiêu cực trong xây dựng và phát triển các KCN đối với sự phát triển KT - XH của tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
- Chương 1 Cơ sở lý luận - thực tiễn về vai trò của các Khu công nghiệp trong sự phát triển Kinh tế - xã hội 1.1. sự cần thiết của Sự ra đời, phát triển các Khu công ngiệp và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế - Xã hội 1.1.1. Khu công nghiệp và sự cần thiết ra đời, phát triển khu công nghiệp 1.1.1.1. Khái niệm khu công nghiệp Thuật ngữ KCN xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX - khi các KCN bắt đầu được hình thành và phát triển. Có nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về KCN và KCX. Các quan niệm này được xây dựng để thực hiện các mục tiêu nhất định như phát triển các KCX, quản lý nhà nước về KCX hoặc khai thác tác động của KCX đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Theo quan điểm thông thường, KCN là khu vực có tính chất độc lập, trong đó có các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng hóa, thực hiện các hoạt động dịch vụ và có chế độ quản lý riêng. KCX là khu chuyên sản xuất hàng dành cho xuất khẩu, ở đó áp dụng nhiều biện pháp ưu đãi như miễn thuế (xuất- nhập khẩu, thu nhập cá nhân, thuế tài sản...) và tự do mua bán. Theo quan điểm của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO) trong tài liệu KCX tại các nước đang phát triển (Export processing Zone in Developing Countries) công bố năm 1990 thì KCN là khu vực tương đối nhỏ, phân cách về mặt địa lý trong một quốc gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công nghiệp này những điều kiện về đầu tư và mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ nhà. Trong đó đặc biệt là KCX cho phép nhập khẩu hàng hóa dùng cho sản xuất để xuất khẩu miễn thuế. Theo quan điểm của Hiệp hội Thế giới về KCX (World Export Processing Zone Association - WEPZA), KCX là tất cả khu vực được chính phủ các nước cho phép thành lập và hoạt động như Cảng tự do, Khu mậu dịch tự do, KCN tự do hoặc bất kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác được tổ chức này công nhận. Cũng từ quan điểm này, do nhu cầu phát triển của các mối quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế ngày càng được mở rộng, xuất phát từ yêu cầu bức thiết của quá trình công nghiệp hóa, hướng về xuất khẩu của các nước
- đang phát triển, khái niệm này đã được bổ sung bằng những quan niệm mới như Khu kinh tế mở, Thành phố mở, Đặc khu kinh tế... Như vậy, quan niệm của Hiệp hội thế giới về KCX là một quan niệm rất rộng, nó đòi hỏi các chính sách quản lý có độ linh hoạt cao và mức độ tự do hóa khá lớn. Các nước như Thái Lan, Philippin, quan niệm KCN như một thành phố công nghiệp, vì thực tế KCN là một cộng đồng tự túc và độc lập. Ngoài việc cung cấp cơ sở hạ tầng, các tiện nghi, tiện tích công cộng hoàn chỉnh và xử lý chất thải, KCN còn bao gồm khu thương mại, dịch vụ ngân hàng, trường học, bệnh viện, các khu vui chơi giải trí, nhà ở cho công nhân...Các KCN ở Indnesia và Thái Lan thường gồm ba bộ phận chủ yếu: khu sản xuất hàng tiêu thụ nội địa, khu sản xuất hàng xuất khẩu và khu thương mại và dịch vụ [25, tr.30,31,33]. Tuy nhiên, cũng có những quan niệm cho rằng KCN là một khu vực phụ (Subregion), không nhất thiết phải có sự ngăn cách, biệt lập. Trên thực tế có nhiều tập đoàn và tổ hợp công nghiệp với một chuỗi đồ sộ các xí nghiệp, nhà máy liên kết với nhau trên một khu vực rộng lớn. Việc bố trí mặt bằng các khu sản xuất trên quy mô lớn nh ư vậy hình thành là một loại hình tổ chức mới của KCN mà không nhất thiết phải có quy mô đặc thù. Những quan niệm trên mặc dù có những điểm khác nhau về KCN, KCX, nhưng về cơ bản chúng thống nhất ở những đặc trưng sau: Thứ nhất: KCN, KCX là bộ phận không thể thiếu và không thể tách rời của một quốc gia, thường là những khu vực địa lý riêng biệt thích hợp, có hàng rào giới hạn với các vùng, lãnh thổ còn lại của nước sở tại và được chính phủ nước đó cho phép hoặc rút phép xây dựng và phát triển; Thứ hai: KCN, KCX là nơi hội tụ và thích ứng với nhau về mặt lợi ích và mục tiêu xác định giữa chủ đầu tư và nước chủ nhà. KCN, KCX là nơi có môi trường kinh doanh đặc biệt phù hợp, được hưởng những quy chế tự do, các chính sách ưu đãi kinh tế (đặc biệt là thuế quan) so với các vùng khác ở nội địa. Chúng là nơi có vị trí thuận lợi cho việc phát triển sản xuất, thương mại dịch vụ, đầu tư trên cơ sở các chính sách ưu đãi về cơ sở hạ tầng, cơ chế pháp lý, thủ tục hải quan, thủ tục hành chính, chính sách tài chính - tiền tệ, môi trường đầu tư... Thứ ba: Là nơi thực hiện mục tiêu hàng đầu về ưu tiên chính sách hướng ngoại, thu hút chủ yếu vốn đầu tư nước ngoài, phát triển các loại hình kinh doanh, sản xuất, phục vụ
- xuất khẩu. Đây là mô hình thu nhỏ về chính sách KT - XH mở cửa của một đất nước. ở Việt Nam, khái niệm về KCN được quy định tại Nghị định 192/CP ngày 15/12/1994 của Chính Phủ về Quy chế KCN, các KCN được định nghĩa là: Các khu vực công nghiệp tập trung, được thành lập do quyết định của Chính phủ với các danh giới được xác định, cung ứng các dịch vụ hỗ trợ sản xuất và không có dân cư. Trong Điều 2 Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ ban hành về “Quy chế hoạt động của các KCN, KCX, KCNC” có đưa ra khái niệm đầy đủ hơn về KCN. Theo đó thì KCN là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định (có tường rào bao quanh), không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ Tướng Chính phủ quyết định thành lập [38, tr.2]. Nghị định 36/ CP có giải thích một số thuật ngữ sau đây: - KCN: Là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. - KCX: Là KCN tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu. Những doanh nghiệp này được hưởng những ưu đãi đặc biệt về thuế quan: miễn thuế đối với tất cả các hàng hóa xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, sản phẩm của các doanh nghiệp này chỉ được phép xuất khẩu chứ không được tiêu thụ trên thị trường nội địa. Trong trường hợp bán trên thị trường nội địa thì sẽ phải chịu thuế nhập khẩu như đối với các hàng hóa nhập khẩu thông thường. - KCNC: Là KCN tập trung những doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, bao gồm nghiên cứu, triển khai KH - CN, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có ranh giới xác định, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghệ cao có thể có doanh nghiệp chế xuất. + Doanh nghiệp chế xuất: Là doanh nghiệp chuyên sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, được thành lập và hoạt động theo quy chế này. + Doanh nghiệp KCN: Là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN, gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ. + Doanh nghiệp sản xuất KCN: Là doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN.
- + Doanh nghiệp dịch vụ KCN: Là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN, thực hiện dịch vụ và các công trình kết cấu hạ tầng KCN, dịch vụ sản xuất công nghiệp. Có thể thấy rằng ba thuật ngữ KCN, KCX, khu công nghệ cao có liên quan đến nhau, trong đó thuật ngữ KCN có ý nghĩa cơ bản và phổ biến, hai thuật ngữ kia là sự phát triển tiếp theo với những đặc trưng nhất định. Xuất phát từ khái niệm của Nghị định 36/ CP cùng các thuật ngữ nghị định giải thích ta thấy rằng khái niệm KCN là một khái niệm động, gắn liền với điều kiện cụ thể nơi nó hình thành và phát triển. Như vậy, theo cách hiểu của chúng ta, KCN có một số điểm: - Là khu vực tập trung tương đối nhiều xí nghiệp trong một khu vực có ranh giới rõ ràng, sử dụng chung kết cấu hạ tầng sản xuất. Vì vậy, các xí nghiệp này có điều kiện thuận lợi để tiết kiệm tối đưa chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. - Các xí nghiệp trong KCN thường được hưởng một quy chế riêng của nhà nước và địa phương sở tại. Các quy chế này thể hiện sự quan tâm, ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho các xí nghiệp này phát triển. - KCN có Ban quản lý chung thống nhất, thực hiện quy chế quản lý thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi và hiệu suất tối đưa cho các xí nghiệp công nghiệp và các doanh nghiệp hoạt động. - Khả năng hợp tác sản xuất giữa các xí nghiệp công nghiệp và các doanh nghiệp với nhau trong KCN tùy thuộc vào sự tự liên kết với nhau giữa chúng trong quá trình phát triển để đạt được hiệu quả cao. - KCN thường có giới hạn địa lý hẹp, khoảng vài chục đến vài trăm ha và có thể được ngăn cách với xung quanh bởi hàng rào cứng. Không có dân cư trong KCN. - Hoạt động chính trong KCN là hoạt động sản xuất công nghiệp. Tuy nhiên, có thể coi khái niệm KCN mà chúng ta sử dụng là khái niệm hẹp bởi chúng ta chỉ quan tâm chủ yếu đến phần diện tích dành cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng để cho thuê, còn việc xây dựng các công trình phúc lợi xã hội không nằm trong phạm vi quy định. Quan niệm này dẫn đến một thực tế là khi xây dựng KCN, người ta không quan tâm đến tính đồng bộ của nó theo nghĩa rộng, dẫn đến yếu tố bất cập, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả KT - XH
- của KCN. Cho nên, việc quy hoạch phát triển sản xuất nhất thiết phải đi kèm quy hoạch phát triển hạ tầng xã hội, hai vấn đề này phải được đồng thời triển khai thực hiện. Như vậy, sự ra đời của các KCN nhằm mục đích cung cấp các điều kiện về cơ sở hạ tầng tốt nhất cho việc xây dựng và vận hành của các cơ sở sản xuất công nghiệp. Đặc biệt là đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào nước sở tại sẽ có được đầy đủ điều kiện (mặt bằng, đường xá, hệ thống cung cấp điện nước, hệ thống xử lý nước thải...) tốt để sản xuất kinh doanh mang lại lợi ích cho cả hai phía. 1.1.1.2. Sự cần thiết ra đời và phát triển các khu công nghiệp - Sự phát triển tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất dưới tác động của cách mạng khoa học - kỹ thuật đòi hỏi phải hình thành các KCN tập trung để phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp trong các ngành. CNH, HĐH để phát triển lực lượng sản xuất, chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn là vấn đề có tính quy luật chung của nhiều nước hiện nay trên thế giới. Để đạt được mục tiêu nói trên, Mỗi nước tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà xác định con đường và giải pháp thực hiện CNH, HĐH theo cách riêng. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới ở vào giai đoạn toàn cầu hóa và hậu công nghiệp, những thành tựu phát triển vượt bậc của khoa học - công nghệ và cách mạng tin học làm cho các quốc gia không thể đứng ngoài xu thế toàn cầu hóa kinh tế. Mỗi sản phẩm được sản xuất ra trên thị trường trong điều kiện hiện nay không còn là sản phẩm thuần túy riêng của mỗi nước, nó là sự kết tinh chung của những giá trị mang tính nhân loại. Do vậy, liên kết kinh tế và chủ động tham gia quá trình phân công lao động quốc tế là một lợi thế cần được khai thác một cách triệt để, trong đó, phát triển KCN là một phương thức rất quan trọng để phát triển. Nói cách khác, sự phát triển tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất dưới sự tác động của cách mạng KH - CN đòi hỏi phải hình thành các KCN tập trung để phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp trong các ngành. Như vậy, phát triển KCN là con đường tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế theo hướng chuyên môn hóa, tập trung hóa và xã hội hóa sản xuất. Phương thức này cho phép khai thác tốt nhất tài nguyên, nguồn lực con người, sử dụng vốn, KH – CN, trình độ quản lý... của thế giới vào quá trình sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
- - Sản xuất công nghiệp càng phát triển thì càng nảy sinh nhiều vấn đề phải xử lý, cần tập trung các doanh nghiệp vào một KCN. Mục tiêu chung của việc hình thành KCN là tăng trưởng nhanh và vững chắc, tạo việc làm, đô thị hóa các vùng nông thôn lạc hậu, nâng cao dân trí. Các KCN sẽ góp phần tích cực bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, hiệu quả vốn đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp liên kết, hợp tác với nhau, năng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế. KCN phát triển sẽ tác động đến việc hình thành các vùng nguyên liệu, các vùng công nghiệp vệ tinh. Sản xuất công nghiệp phải xây dựng thành từng khu bởi vì hoạt động công nghiệp là loại hoạt động khẩn trương, nhanh nhạy, kịp thời thích ứng với sự biến đổi của thị trường, của những tiến bộ kỹ thuật - công nghệ, là một loại hoạt động rất chính xác, ăn khớp và đồng bộ. Hơn nữa, theo quan niệm của CNH, HĐH thì quy mô xí nghiệp phần nhiều là vừa và nhỏ nhưng không phân bố tản mạn, không đứng đơn độc mà phải nằm trong hệ thống phân công liên hoàn ngày càng rộng rãi. Tính chất đặc thù đó của hoạt động công nghiệp đòi hỏi tính đồng bộ, chất lượng cao của cơ sở hạ tầng, đòi hỏi sự quản lý và điều hành nhanh nhạy, thủ tục đơn giản. Hơn nữa, sự phân bố tập trung của công nghiệp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý nhà nước kịp thời nắm bắt tình hình, kịp thời xử lý các vụ việc phát sinh... Những xí nghiệp quy mô lớn với khả năng và sức mạnh của nó, có thể tồn tại riêng biệt trên một địa điểm nhất định. Còn xí nghiệp vừa và nhỏ, muốn hoạt động có hiệu quả cần được quy tụ vào một khu vực nhất định, nơi đã có sẵn cơ sở hạ tầng và dịch vụ, có sẵn bộ máy quản lý, các thủ tục đơn giản, nhanh. Về cơ bản, KCN tập trung nhằm mục tiêu thu hút vốn đầu tư. Bên cạnh đó, mục tiêu quan trọng của việc hình thành KCN tập trung là để tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào kết cấu hạ tầng. Trong KCN tập trung, các doanh nghiệp dùng chung các công trình hạ tầng nên giảm được chi phí trên một đơn vị diện tích và đơn vị sản phẩm, thực hiện phát triển công nghiệp theo quy hoạch thống nhất, kết hợp giữa quy hoạch phát triển ngành với quy hoạch lãnh thổ. Mặt khác, việc tập trung các doanh nghiệp trong KCN tập trung sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn trong việc xử lý chất thải công nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Các doanh nghiệp công nghiệp có điều kiện thuận lợi liên kết, hợp
- tác với nhau, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh. Ngoài ra, tập trung các doanh nghiệp vào KCN còn là một mô hình phát triển năng động và nhạy bén, phù hợp với nền kinh tế thị trường. Trong việc phát triển và quản lý các KCN này, các thủ tục hành chính đã được giảm thiểu đến mức tối đưa thông qua cơ chế một cửa, tại chỗ, tập trung vào Ban quản lý các KCN đó. Những chính sách áp dụng trong các KCN tập trung gắn quyền lợi và nghĩa vụ của nhà đầu tư với một hợp đồng, giảm thiểu thủ tục hành chính, do đó tạo sự an toàn, yên tâm cho các nhà đầu tư. - Đối với nước đang phát triển, việc phát triển các KCN còn là một giải pháp thu hút và tập trung đầu tư tạo ra khu vực kinh tế động lực thúc đẩy CNH, HĐH và phát triển KT - XH của đất nước. Bước sang thế kỷ mới, tình hình kinh tế thế giới có những biến đổi nhanh chóng và sâu sắc do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ. Để thích ứng với sự biến đổi đó, nhiều nước đã tận dụng tốt những lợi thế so sánh của mình, đồng thời mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Phù hợp với xu thế chung, các nước đang phát triển tiến hành cải cách kinh tế theo hướng mở cửa. Việc khuyến khích đầu tư trong nước, đồng thời thu hút vốn đầu tư nước ngoài là giải pháp mang tính tối ưu. Trong khi nguồn vốn trong nước còn hạn chế, chưa tạo ra môi trường huy động tối đưa vốn đó thì nguồn lực bên ngoài chiếm tỷ trọng lớn, có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp CNH, HĐH. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài là một trong những bộ phận quan trọng nhất của chính sách mở cửa nhằm thu hút vốn, kỹ thuật, giải quyết việc làm, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm quản lý, sản xuất hàng xuất khẩu đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Như vậy, KCN được sử dụng như những công cụ để thu hút đầu tư nước ngoài và huy động vốn tối đa nguồn vốn trong n- ước, làm động lực thúc đẩy quá trình CNH, HĐH và phát triển KT - XH của đất nước. Việc thành lập KCN để tăng năng lực xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước, tận dụng tối đa lợi thế so sánh của nước chủ nhà trong nền kinh tế thế giới và khu vực, góp phần vào công cuộc CNH, HĐH theo hướng hướng vào xuất khẩu là một tất yếu khách quan và cần thiết, là b ước phát triển có tính logic của các chính sách phát triển kinh tế đất nước nói chung và hợp tác đầu tư nước ngoài nói riêng. 1.1.2. Những tác động tích cực và tiêu cực của các khu công nghiệp đối với sự
- phát triển kinh tế - xó hội Sự ra đời của các KCN là một tất yếu kinh tế và cần thiết. Trong quá trình tồn tại và phát triển các KCN, chúng có tác động đến đời sống KT - XH cả tích cực lẫn tiêu cực. Thực tiễn phát triển các KCN ở các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển và ở Việt Nam, chúng ta thấy rằng, việc phát triển các KCN góp phần nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp; tăng năng lực xuất khẩu cho đất nước; thu hút vốn đầu tư, công nghệ; tạo việc làm; phát triển công nghiệp theo quy hoạch; phát huy hiệu quả sử dụng các nguồn lực đất, KH - CN, con người... hình thành các đô thị mới, thực hiện văn minh, tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, sự ra đời các KCN cũng đem lại một số tiêu cực, hạn chế. Khả năng thu hút đầu tư còn thấp, việc thành lập ồ ạt các KCN mới vừa không hiệu quả, vừa gây lãng phí nguồn lực. Việc phân bố các KCN chưa đồng đều giữa các vùng, lĩnh vực đầu tư vào công nghiệp làm mất đi tính cân đối trong đầu tư khiến cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế không theo kịp, rồi vấn đề môi trường bị ô nhiễm, vấn đề xã hội... 1.1.2.1. Những tác động tích cực của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xó hội của nước ta hiện nay Nước ta đang trong quá trỡnh CNH, HĐH, chuyển nền kinh tế đang phát triển lên nền kinh tế phát triển, đây là bước đi tất yếu nhằm giải phóng sức sản xuất trong nước, phát huy cao độ các nguồn lực trong nước, đồng thời ra sức tìm cách thu hút các nguồn lực từ bên ngoài. Sự kết hợp giữa nguồn lực trong nước và nguồn lực từ bên ngoài là điều kiện, tiền đề đặc biệt quan trọng để CNH, HĐH. Nguồn lực trong nước được khai thác có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thu hút và sử dụng tốt các nguồn lực từ bên ngoài. Ngược lại, nếu thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực bên ngoài sẽ kích thích việc huy động nguồn lực trong nước, tạo điều kiện để các nguồn lực này hoạt động có hiệu quả cao hơn. Việc xây dựng các KCN được xem như là giải pháp hết sức quan trọng nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho quá trình thu hút, sử dụng các nguồn lực như vốn, công nghệ, phương thức quản lý...từ bên ngoài. Trên cơ sở đó thúc đẩy mạnh mẽ quá trình CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế, ảnh hưởng tích cực tác động của các KCN có thể xác định trên một số khía cạnh như sau: Thứ nhất, thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước, tập trung các doanh nghiệp công nghiệp vào một khu vực địa lý tăng cường mối liên kết trong sản xuất kinh doanh.
- Xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay đang tạo ra những cơ hội to lớn cho việc phát triển kinh tế của các nước, nhất là các nước đang phát triển. Tuy nhiên, hầu hết các nước này đang phải đối đầu với những khó khăn về thiếu hụt vốn, cơ sở hạ tầng kinh tế còn thấp kém, kỹ thuật - công nghệ lạc hậu, chưa đủ sức sản xuất ra được các mặt hàng đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, trình độ quản lý, tay nghề chưa cao, môi trường, thể chế đầu tư chưa hoàn thiện...Do vậy, khắc phục những yếu kém trên là vấn đề hết sức khó khăn và quan trọng. Trong khi chưa thể tiến hành cùng một lúc trên phạm vi cả nước, thì việc quy hoạch, phát triển KCN là phương thức phù hợp nhằm tập trung đầu tư cho một số khu vực có ưu thế hơn. Việc xây dựng các KCN sẽ giảm bớt một cách đáng kể những khó khăn cho nhà đầu tư. KCN với những ưu đãi đặc biệt về thủ tục hành chính, cơ chế quản lý, tài chính, thuế quan... so với sản xuất trong nước đã trở thành môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, vì vậy mà thu hút được vốn đầu tư từ cả hai nguồn trong và ngoài nước. Thực tế trong những năm qua ở nước ta, KCN đã đóng vai trò tích cực vào việc thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là FDI. Số dự án đầu tư (cả trong nước và ngoài nước) vào các KCN chiếm tỷ trọng khá lớn. Sự gia tăng vốn đầu tư vào các KCN góp phần quan trọng vào việc tăng tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, đóng góp trực tiếp vào việc tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mặt khác còn tác động, kích thích tăng đầu tư mới vào các doanh nghiệp ngoài KCN. Ở Việt Nam vài năm gần đây, dòng vốn đầu tư trong nước trong KCN tăng đáng kể, số dự án trong nước trong các KCN hai năm gần đây đã vượt trội hẳn. Đến tháng 6 năm 2007, các KCN cả nước đã thu hút được khoảng 2600 dự án trong nước với tổng số vốn đầu tư đăng ký lên tới gần 126.000 tỷ đồng. Kết quả này cho thấy rõ tiềm lực của khu vực kinh tế trong nước và là kết quả của chủ trương phát huy nội lực để xây dựng và phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Trong điều kiện nền kinh tế tích lũy nội bộ còn thấp thì thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài là rất quan trọng. KCN là một giải pháp hữu hiệu nhằm huy động vốn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế từ khi xây dựng KCN cho đến nay, số dự án và tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào KCN không ngừng gia tăng và chiếm tỉ lệ lớn trong tổng số vốn FDI đầu tư trên cả nước. Tổng số dự án có vốn đầu tư nước ngoài trong KCN đến tháng 6 năm 2007 là hơn 2.300 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 17,7 tỷ USD. Có thể nói, KCN là nơi chính sách ưu
- đãi với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài được thể hiện rõ nét nhất, các nhà đầu tư nước ngoài nhìn chung cảm thấy yên tâm hơn khi đầu tư vào KCN, bởi lẽ trong KCN có một hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại và sẵn có, một môi trường pháp lý thuận lợi và thống nhất, là nơi cơ chế một cửa, tại chỗ được thực thi rõ ràng nhất. Đây chính là những lợi thế chủ yếu để thu hút nhà đầu tư vào KCN. Bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, việc tập trung các doanh nghiệp công nghiệp vào một khu vực địa lý, hình thành KCN tập trung là một vấn đề không kém phần quan trọng, bởi trong KCN tập trung, các doanh nghiệp dùng chung các công trình hạ tầng nên giảm được chi phí trên một đơn vị diện tích và đơn vị sản phẩm, thực hiện phát triển công nghiệp theo một quy hoạch thống nhất, kết hợp giữa quy hoạch phát triển ngành với quy hoạch lãnh thổ. Mặt khác, việc tập trung các doanh nghiệp trong KCN tập trung sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn trong việc xử lý chất thải công nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Các doanh nghiệp công nghiệp có điều kiện thuận lợi liên kết, hợp tác với nhau đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh. Thứ hai, tạo điều kiện tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại và phương pháp quản lý tiên tiến của các nước phát triển. Cùng với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, việc tiếp thu công nghệ hiện đại và các phương pháp (kinh nghiệm) quản lý tiên tiến của các nhà đầu tư được thực hiện khá tốt thông qua các KCN nhằm góp phần nâng cao trình độ công nghệ, khả năng hấp thụ các công nghệ mới, nâng cao năng lực quản lý. Để tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và thị trường nội địa, các nhà đầu tư nước ngoài thường đưa vào KCN các công nghệ tương đối hiện đại. Mặc dù, ở các KCN, đầu tư nước ngoài chủ yếu thực hiện các hoạt động sản xuất, tiêu dùng, dệt may, gia công giày da, lắp ráp điện tử... sau đó là sản xuất cơ khí, linh kiện điện tử... song, quá trình chuyển giao công nghệ vẫn diễn ra thông qua nhiều hình thức như: đào tạo công nhân nước chủ nhà để sử dụng máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất, đưa máy móc hiện đại sang để tiến hành sản xuất nhằm mục đích tạo năng suất lao động cao... Các công ty ở các KCN có thể chuyển giao một số các công nghệ mới vào giúp đỡ kỹ thuật cho các nhà cung cấp địa phương hoặc các công ty sản xuất các chi tiết sản phẩm của KCN... Như vậy, các KCN là yếu tố thúc đẩy việc hình thành và phát triển nhanh
- chóng các ngành công nghiệp mới đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH nền kinh tế. Mặt khác, các doanh nghiệp KCN còn thu hút một lượng lớn người lao động Việt Nam vào các vị trí quản lý doanh nghiệp quan trọng, đội ngũ lao động này được tiếp xúc với phương thức quản trị doanh nghiệp tiên tiến, hiện đại, kỹ năng marketing, quản lý tài chính, tổ chức nhân sự... Đội ngũ lao động này khi chuyển đi làm việc tại các doanh nghiệp Việt Nam, hoặc tự mình khởi sự doanh nghiệp sẽ áp dụng phương thức quản lý tiên tiến đã tiếp thu được vào hoạt động của doanh nghiệp mình. Từ đó sẽ vừa nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, vừa truyền đạt những kiến thức quản lý cho người lao động Việt Nam khác. Thứ ba, tạo việc làm và thu nhập Sự hình thành và phát triển các KCN không chỉ thu hút lao động vào các doanh nghiệp bên trong KCN mà còn kích thích các hoạt động dịch vụ phát triển, do đó thu hút vào các hoạt động này một số lớn lao động khác. Việc xây dựng KCN sản xuất cũng như các dịch vụ hỗ trợ bên ngoài KCN đã giải quyết được một số lượng lao động khá lớn. Theo con số thống kê, đến nay, các doanh nghiệp trong KCN, KCX đã tạo việc làm cho khoảng 750 nghìn người lao động trực tiếp, và hơn 1 triệu lao động gián tiếp. Phần lớn những lao động này là lao động trẻ, có khả năng nhanh chóng tiếp thu kỹ thuật mới. Trong tổng số lượng lao động trong các KCN, có đến 90% lao động có độ tuổi từ 18 đến 35. Nếu so sánh với khả năng tạo việc làm của các KCN, KCX thì con số 750 nghìn lao động trực tiếp và hơn 1 triệu lao động gián tiếp chưa phải là lớn, chưa tương xứng với tiềm năng. Nhưng điều quan trọng là số lao động này được tiếp cận với công nghệ sản xuất hiện đại, phương thức quản lý tiên tiến. Đây là điều kiện hết sức quan trọng để xây dựng đội ngũ lao động mới có kỷ luật, có chuyên môn, kỹ thuật và có năng suất lao động cao đáp ứng nhu cầu của công cuộc CNH, HĐH đất nước. Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp, nhiều KCN, KCX đã mở các cơ sở đào tạo nghề. Việc thành lập các trung tâm dạy nghề và đào tạo trong các KCN, KCX đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp trong KCN nói riêng, cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung. Thực tế cho thấy, tại các địa phương có KCN, tỷ lệ thất nghiệp giảm rõ rệt, điều đó tác động khá tích cực đến việc xóa đói giảm nghèo, đồng thời góp phần làm giảm các tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây nên. Theo điều tra thì có khoảng 40% số lao động làm việc trong các KCN, KCX là những người có thu nhập thấp đến từ nhiều địa phương. Như vậy,
- việc mở mang các KCN, KCX không chỉ góp phần tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mà còn góp phần đáng kể vào việc xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập, mở rộng thị trường tiêu thụ tại địa phương, kích thích sản xuất, kinh doanh trên địa bàn, từ đó tạo thêm việc làm mới, góp phần làm ổn định đời sống cho người lao động ở nước ta. Thứ tư, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả Chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng CNH, HĐH là một nội dung quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại Hội X của Đảng đã xác định: Mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, để trở thành một nước công nghiệp, trong những năm tới tốc độ tăng trưởng kinh tế không chỉ nhanh mà còn phải đảm bảo yêu cầu bền vững. Cơ cấu kinh tế phải chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông, lân, thủy sản, tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Để đạt được mục tiêu đó, có nhiều việc phải làm, trong đó có nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện hệ thống các chính sách và giải pháp đồng bộ và tích cực để phát triển các KCN, KCX, thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ công nghiệp. Xét về mặt lượng, đương nhiên KCN góp phần nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp trong tổng số GDP của các ngành kinh tế tạo ra trên cả nước. Nhưng quan trọng hơn về mặt chất, KCN thu hút được các dự án có hàm lượng vốn lớn, công nghệ cao. Mặc dù số lượng các dự án này trong KCN còn ít, nhưng cũng góp phần phát triển ngành nghề mới, đa dạng hóa cơ cấu ngành nghề công nghiệp. Các dự án đầu tư vào KCN tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, da giày... và công nghiệp chế biến thực phẩm, đây là dự án thu hút nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu cao. Các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm là những ngành truyền thống, đã có từ lâu ở nước ta,nhưng các dự án trong KCN đã góp phần nâng cấp các ngành này về dây chuyền công nghệ, chất lượng sản phẩm. Mặt khác, phải kể đến sự đóng góp của KCN vào việc nâng cao tỷ trọng các ngành dịch vụ công nghiệp như dịch vụ tư vấn, thiết kế xây dựng, bưu chính viễn thông, bảo hiểm. Đây là những dịch vụ có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Tóm lại, KCN đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH cả về mặt chất và mặt lượng. Mặc dù đến nay vẫn còn nhiều bất hợp lý trong cơ cấu kinh tế, đặc
- biệt là cơ cấu ngành nghề trong công nghiệp. Tỷ trọng các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp kỹ thuật cao so với đòi hỏi còn thấp, còn tồn tại những hậu quả do các công nghệ lạc hậu do thiếu kinh nghiệm và trình độ du nhập vào Việt Nam. Tuy nhiên, những đóng góp của KCN vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước là hết sức quan trọng và không thể phủ nhận được. Thứ năm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý ô nhiễm môi trường, bảo vệ môi trường sinh thái cho phát triển bền vững. Bảo vệ môi trường là nội dung cơ bản của phát triển bền vững. Các nước đang phát triển thực hiện CNH, HĐH cần chú ý sự phát triển cân bằng cả kinh tế, xã hội và môi trường. Vấn đề môi trường là một yếu tố quan trọng mà bất cứ một doanh nghiệp sản xuất nào đều phải giải quyết và xử lý. Với mục tiêu chỉnh trang các đô thị theo hướng hiện đại, văn minh và bảo vệ môi trường, phải di dời nhà máy, xí nghiệp sản xuất công nghiệp trong các đô thị ra các vùng ngoại thành. Nếu các doanh nghiệp phân bố phân tán, mặt khác việc xử lý chất thải do từng doanh nghiệp thực hiện riêng rẽ sẽ rất tốn kém và không đồng bộ. Việc tập trung nhiều doanh nghiệp trên cùng một địa bàn sẽ cho phép xây dựng các trung tâm xử lý chất thải với chi phí ít tốn kém hơn, đồng bộ hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc quản lý môi trường của các cơ quan chức năng hơn. KCN là nơi tiếp nhận các nhà máy, xí nghiệp, tạo nên một địa bàn sản xuất đồng bộ, tập trung. Do tập trung các cơ sở sản xuất nên có điều kiện thuận lợi trong việc kiểm soát, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường, do vậy KCN là địa điểm tốt để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường từ nội thành, từ các vùng dân cư, phục vụ tốt cho mục tiêu phát triển bền vững. Đây là một trong số mục tiêu đặt ra đối với việc thành lập các KCN. Cho đến nay, hầu hết các KCN tập trung được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, trong thiết kế cũng như trong quá trình triển khai xây dựng có chú ý đến việc xử lý nước thải công nghiệp, đã có các cơ sở hạ tầng xử lý, từ đó giảm thiểu ô nhiễm môi trường, cải tạo môi trường sống cho dân cư, góp phần cho nền kinh tế phát triển bền vững. Thứ sáu, góp phần tăng cung ứng hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Một trong những mục tiêu quan trọng đặt ra khi xây dựng các KCN là góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Thực tế cho thấy, nhiều KCN ở các nước,
- đặc biệt ở các quốc gia khu vực châu á đã thành công trong mục tiêu này. Theo thống kê của WEPZA (Hiệp hội KCX thế giới), một KCX diện tích khoảng 100 ha, cần đầu tư 50 triệu USD cho kết cấu hạ tầng, trong vòng 10 năm sẽ tạo việc làm cho 10.000 lao động, từ đó tạo ra hàng xuất khẩu trị giá 100 triệu USD/năm và 100 triệu/năm thu nhập thông qua việc làm gián tiếp ngoài KCX, như vậy tính bình quân một công nhân trong KCX tạo ra giá trị 5000 – 10000 USD/năm. Ở Đài Loan, chỉ tính riêng 3 KCX và 2 khu công nghệ cao hàng năm đã xuất khẩu đạt giá trị gần 22 tỷ USD; giá trị xuất khẩu ở 5 đặc khu kinh tế Trung Quốc trong năm 1996 đạt gần 30% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tại các nước Malaysia, Hàn Quốc... giá trị xuất khẩu của các KCN cũng chiếm tỷ lệ quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu của những nước này. ở Việt Nam, riêng trong năm 2002, kim ngạch xuất khẩu của các KCN đạt 3,2 tỷ USD, chiếm khoảng 19% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước [38,tr.35]. Thứ bảy, tạo điều kiện xây dựng khu đô thị, nâng cao chất lượng đời sống dân cư. Tại mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, sẽ có một hình thái phân bố dân cư hợp lý nhất nổi lên. Như vậy, các tiến trình phát triển khác, hình thái phân bố dân cư cũng có chuyển dịch, mà không cố định lâu dài ở một dạng nào. Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, các đô thị mới đều ra đời từ yêu cầu tập trung sản xuất công nghiệp. Vì vậy, trình độ và quy mô phát triển công nghiệp nói chung và KCN nói riêng cũng thể hiện ở trình độ văn minh của đô thị (về cơ cấu dân cư, mức sống, lối sống, môi trường, văn hóa, giáo dục đào tạo và trình độ quản lý đô thị). Ở các đô thị gắn liền với KCN thì bộ phận chủ yếu của dân cư đô thị là những người lao động và quản lý trong các KCN. Họ có nhu cầu đi lại, ăn ở, nghỉ ngơi, giải trí sao cho phù hợp với yêu cầu làm việc trong KCN. ở các quốc gia đang phát triển, với mục tiêu chỉnh trang các đô thị theo hướng hiện đại, văn minh và bảo vệ môi trường, phải thực hiện di dời các nhà máy, xí nghiệp sản xuất trong các đô thị ra các vùng ngoại thành. KCN là nơi tiếp nhận các nhà máy, xí nghiệp đó và tạo nên một địa bàn sản xuất đồng bộ, tập trung. Chính vì vậy, vấn đề quy hoạch phát triển KCN không thể tách rời quy hoạch phát triển đô thị, phát triển kinh tế ở đây không thể tách rời xã hội và văn hóa. Phát triển KCN là hạt nhân hình thành đô thị mới, mang lại văn minh đô thị, góp phần cải thiện đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội cho khu vực rộng lớn được đô thị hóa. Tuy nhiên, kinh nghiệm phát triển KCN trong thời gian qua cho thấy, việc hình thành các khu đô thị
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Một số giải pháp phát triển khu chế xuất và khu công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020
54 p | 220 | 51
-
Luận văn Thạc sỹ: Phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc
30 p | 246 | 37
-
Luận văn: Các khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam - hiệu quả hoạt động và xu hướng phát triển
173 p | 150 | 36
-
Chuyên đề tốt nghiệp: Đầu tư phát triển các khu công nghiệp-khu chế xuất vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, thực trạng và giải pháp
59 p | 174 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Định hướng phát triển bền vững các khu công nghiệp huyện Đức Hòa (tỉnh Long An) thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa
141 p | 139 | 15
-
Luận văn tốt nghiệp Công nghệ thông tin: Xây dựng phần mềm quản lý khám chữa bệnh tại một phòng khám (Dương Văn Phong)
166 p | 30 | 14
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Gia Lai
26 p | 97 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học môi trường: Đánh giá hiện trạng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý môi trường của các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội
97 p | 55 | 12
-
Luận văn tốt nghiệp: Công tác phòng chống môi trường đo hoạt động hàng hải khu vực thành phố Hồ Chí Minh - Vũng Tàu
100 p | 91 | 11
-
Luận văn tốt nghiệp Công nghệ thông tin: Xây dựng phần mềm lưu trữ và truy xuất thông tin biến đổi khí hậu phục vụ cho các tổ chức nghiên cứu biến đổi khí hậu
103 p | 24 | 9
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Thực hiện chính sách việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
28 p | 42 | 8
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Tổ chức không gian kiến trúc các khu công nghiệp ở Nghệ An theo hướng phát triển bền vững
43 p | 28 | 6
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc
11 p | 48 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Định hướng sử dụng lao động ở các khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Long thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa
151 p | 140 | 6
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp phát triển các khu công nghiệp tại vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung
31 p | 58 | 5
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
26 p | 38 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về dịch vụ xử lý chất thải ở các khu công nghiệp, qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Bình
23 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La
102 p | 0 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn