LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận về kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
lượt xem 69
download
Thời gian gần đây, có những tài liệu do một số người đưa ra đã chĩa mũi nhọn đả kích vào chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước: "Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa", mà người ta thường gọi tắt là nền kinh tế thị trường theo định hướng...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận về kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
- LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận về kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
- Lời nói đầu Thời gian gần đây, có những tài liệu do một số người đưa ra đã chĩa mũi nhọn đả kích vào chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước: "Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa", mà người ta thường gọi tắt là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có người cho rằng: "Cả về lý thuyết và thực tiễn, kinh tế thị trường - điều kiện tất yếu để phát triển kinh tế - không thể đi đôi với định hướng xã hội chủ nghĩa được"... "Giữa hai cái, phải chọn lấy một, không thể "bắt cá hai tay" và theo họ nếu chọn định hướng xã hội chủ nghĩa thì "đấy là thất bại, là ngõ cụt!". Thật ra, không phải đến bây giờ, mà ngay cả cuối những năm 80 - đầu nhưng năm 90, khi công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo vừa mới tiến hành được ít lâu, lại gặp phải cuộc biến động chính trị lớn trên thế giới gắn liền với sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô, thì đã có một số người tung ra các bài viết, các tài liệu bài bác chủ trương kinh tế nói trên của Đảng ta. Lúc bấy giờ, họ gọi đó là một chủ trương "đổi mới nửa vời", "rối rắm", "đem gắn hai cái không thể gắn với nhau", do đó không thể tạo ra được một nền kinh tế thị trường "văn minh" mà chỉ có thể đưa đến một nền kinh tế thị trường "hoang dã" (sauvage). Chắc chắn họ nghĩ rằng dùng từ "hoang dã" như thế là điểm đúng "huyệt" yếu kém trong nền kinh tế thị trường còn mới mẻ của ta và làm cho ta bối rối. Nhưng sự thực như thế nào? Tại sao Đảng và Nhà nước ta lại chọn con đường phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà không theo con đường phát triển kinh tế thị trường tự do của các nước tư bản chủ nghĩa, nghĩa là cứ để mặc cho cơ chế thị trường tự do điều tiết nền kinh tế theo quy luật của chủ nghĩa tư bản hoãng dã: "Cá lớn nuốt cá bé", "không sống mống chết", "mạnh được yếu thua"? Những tiền đề lý luận nào giúp chúng ta kiên định theo đuổi đường lối đó? Xin được cùng nghiên cứu vấn đề đặt ra.
- Nội dung I. Cơ sở lý luận về kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 1. Thế nào là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. a. Thị trường. Thị trường xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hóa và được hình thành trong lĩnh vực lưu thông. Người có hàng hóa dịch vụ đem ra trao đổi gọi là người bán, người có nhu cầu và có khả năng thanh toán là người mua. Trong quá trình trao đổi, giữa người mua và người bán đã hình thành những mối quan hệ, vì vậy thị trường là nơi người mua và người bán gặp nhau, hình thành giá cả. Đứng trên phạm vi toàn xã hội, thị trường là một mạng lưới những người mua, người bán gặp nhau, nơi cung cầu gặp gỡ và cân bằng. b. Kinh tế thị trường Kinh tế thị trường thể hiện trình độ cao của kinh tế hàng hóa, quan hệ hàng hóa- tiền tệ trở nên phổ biến. Trong lịch sử nhân loại đã diễn ra các hình thức kinh tế khác nhau: Kinh tế tự nhiên (kinh tế hái lượm): con người lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên với cuộc sống hoang dã. Kinh tế tự cung tự cấp: sản xuất tự thỏa mãn trong các hộ gia đình, chua có sự phân công lao động, chuyên môn hóa, tự sản, tự tiêu, năng suất, chất lượng hiệu quả thấp. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa, sản suất để trao đổi, gắn liền với sự phân công lao động và trình độ chuyên môn hóa. Không gian thị trường rộng mở cho sự lựa chọn, tư duy giá trị trở nên phổ biến. Trong các hình thức kinh tế, kinh tế thị trường là hình thức kinh tế văn minh, là nền kinh tế có động lực, có sự cạnh tranh, sản suất gắn với nhu cầu, nền kinh tế mở. Khi nói đến kinh tế thị trường đó là nên kinh tế vận động, phát triển gắn liền với hệ thống đồng bộ các thị trường hàng hóa dịch vụ, thị trường tiền tệ và thị trường vốn, thị trường lao động và thị trường tài nguyên. Kinh tế thị trường đầy đủ gắn liền với một hệ thống luật lệ, thể chế, hệ thống các đạo luật, các quy phậm là sương sốngcủa nền kinh tế. Về thực chất là những khuôn khổ pháp lý đảm bảo cho nền kinh tế năng động có trật
- tự. c. Cơ chế thị trường Cơ chế thị trường là cơ chế vận hành nền kinh tế ở đó các quy luật khách quan phát huy tác dụng. Các quy luật khách quan gồm có: Quy luật giá trị, quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh. Cơ chế thị trường đầy đủ bao gồm ba yếu tố: -Một là: Thị trường hoat động theo quy luật vốn có của nó, ai nhận thuc được, làm đúng được sẽ có lợi , ngược lại không nhận thức được, không tôn trọng quy luật sẽ bị thua thiệt hoặc bi trừng phạt. -Hai là: Nhà nước nằm bên trong thị trường, điều tiết từ bên trong. Nhà nước đIều tiết thị trường nhằm hạn chế những khiến khuyết của thị trường, cân bằng những vấn đề kinh tế- xã hội-môi trường. Cơ chế thị trường hiện đại là kinh tế hỗn hợp, với cơ chế thị trường có đIều tiết vĩ mô. -Ba là: Người tiêu dùng, nhà doanh nghiệp-những tác nhân năng động của cơ chế thị trường được hoạt động tự chủ nhưng phải tuân thủ quy luật của nhà nước. c. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, trên sách báo, người ta thường nói đến nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế đó cụ thể như thế nào thì chưa được làm rõ. Có nhiều người cho rằng kinh tế thị trường không phải cái riêng có của chủ nghĩa tư bản; nó đã tồn tại, đang tồn tại và sẽ tồn tại mãi sau này... Đây là sự ngộ nhận đáng tiếc dẫn đến đồng nhất nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là gì? Nó khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ở điểm nào?... Để trả lời câu hỏi đó, trước hết ta phải hiểu rõ được định hướng xã hội chủ nghĩa và những đặc trưng cơ bản của nó. +Định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có những đặc trưng đã được Đảng ta chỉ rõ: - Cơ sở kinh tế của nó là lực lượng kinh tế nhà nước và lực lượng kinh tế hợp tác; hai lực lượng đó làm nòng cốt cho việc điều tiết kinh tế, bảo đảm phát huy mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác, trong đó có kinh tế tư nhân, vào mục tiêu
- phát triển kinh tế. - Cơ sở chính trị của nó là quyền lực của giai cấp công nhân, là nền dân chủ của công đảo nhân dân lao động, do giai cấp công nhân lãnh đạo. - Về lực lượng sản xuất, đó là nền sản xuất phát triển cao với trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại trên cơ sở công nghiệp hóa và hiện đại hóa, bảo đảm cân đói cơ cấu ngành và phân bố hợp lý các vùng lãnh thổ trong cả nước. - Về quan hệ sản xuất đó là quan hệ sở hữu với nhiều loại hình quá độ (giữa nhà nước với tập thể, với tư nhân và ngoài nước); là quan hệ phân phối vừa theo kết quả lao động, làm nhiều hưởng nhiều, vừa theo vốn đóng góp nhiều hay ít... Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là nâng cao mức sống, xóa bỏ bóc lột, không để phân hóa giàu nghèo, đảm bảo cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho mọi người trên cơ sở phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Về mặt xã hội, tạo lập một chuẩn mực giá trị xã hội và một trật tự xã hội trên cơ sở phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, xây dựng nền văn minh đại chúng, một xã hội vừa phồn vinh về kinh tế, vừa ổn định về chính trị xã hội. Thực hiện định định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình hình thành từng bước những tiền đề vật chất và tinh thần, những điều kiện khách quan và chủ quan để quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. ở những nước mà cách mạng giải phóng dân tộc do giai cấp công nhân lãnh đạo, sau khi dành được chính quyền muốn giữ vững thành quả cách mạng và bảo vệ lợi ích cho người lao động thì không thể đi con đường nào khác ngoài con đường xã hội chủ nghĩa. Đó chính là lý do vì sao chúng ta phải thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa, đi theo con đường Bác Hồ đã chọn. Vậy kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hôị chủ nghĩa. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 2. Các thành phần kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhát quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
- Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. + Kinh tế nhà nước: Có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Kinh tế nhà nước gồm có doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn và doanh nghiệp nhà nước có cổ phần chi phối ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Ngoài ra còn các tập đoàn kinh tế trên cơ sở các Tổng công ty nhà nước tham gia các hoạt động kinh doanh, buôn bán lớn, buôn bán xuyên quốc gia. + Kinh tế tập thể: gồm nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn. Đội ngũ xã viên trong hợp tác xã được nhà nước hỗ trợ, mở các lớp huấn luyện nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn để kịp thời nằm bắt khoa học, công nghệ, ứng dụng trong sản xuất thực tiễn, nâng cao hiệu quả lao động. + Kinh tế cá thể, tiểu chủ ở cả nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng. Nhà nước đang tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, khuyến khích các hình thức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. + Kinh tế tư bản tư nhân: Phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm. Nhà nước tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên, kể cả đầu tư ra nước ngoài. Ngoài ra nhà nước khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần bán cổ phiếu cho người lao động liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động. + Kinh tế tư bản nhà nước: Phát triển đa dạng dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước,
- mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh. + Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Đang phát triển thuận lợi, mục tiêu hướng vào xuất khẩu. Tạo điều kiện để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm cho nguồn lao động dồi dào trong nước. Ngoài ra, nhà nước ta đang có những chính sách thích hợp, tạo điều kiện pháp lý thuận lợi để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang chú trọng phát triển các hình thức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữ các thành phần kinh tế với nhau giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội. Nhân rộng mô hình hợp tác, liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Phát triển các loại hình trang trại với quy mô phù hợp trên từng địa bàn. 3. Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường a.Tự do, tự nguyện đề cao vai trò của người tiêu dùng và người sản xuất Trong nền kinh tế thị trường, ba vấn đề cơ bản do thị trường quyết định. Sản xuất cái gì,sản xuất nhu thế nào do lợi nhuận mách bảo, sản xuất cho ai do thu nhập quyết định. Nguồn lực của xã hội được luân chuyển theo chiều ngang, không gian thị trường được mở rộng cho sự lựa chọn. Sự vận động của cung cầu và cạnh tranh đã làm bộc lộ thực chất nguồn lực của xã hội. Nền kinh tế vận hành một cách khách quan. Nguồn lực xã hội được luân chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ nơi có hiệu quả thấp sang nơi có hiệu quả cao. Tuy nhiên để hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường, kinh tế thị trường đầy đủ bao giờ cũng gắn với vai trò quản lý nhà nước nhằm hạn chế tính tự phát của nó. b.Kinh tế thị trường gắn liền với sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh Kinh tế thị trường tự bản thân nó là một nền kinh tế xã hội gắn liền với chế độ sở hữu đa dạng, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh, nhiều loại quy mô. Sự đa dạng về sở hữu loại hình quy mô đã tạo điều kiện để giảI phóng sức sản xuất xã hội, nhằm khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, kinh tế nhà nước giữ vai trò định hướng, đIều chỉnh nền kinh tế. Kinh tế tư nhân, kinh tế hợp
- tác làm cho làm nền kinh tế năng động hơn. Kinh tế hợp tác sẽ là hình thức phổ biến hỗ trợ các hoạt động kinh tế, tăng sức mạnh cho các thành phần kinh tế. Thực hiện đường lối phát triển kinh tế do Đại hôịi VII của Đảng cộng sản Việt Nam là phát triển kinh tế hang hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta dang ra sức đảy mạnh sản xuất, xây dựng một nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. c. Thay vì việc can thiệp trực tiếp đối với hoạt động kinh tế, nhà nước định hướng, tạo môi trường điều tiết nền kinh tế. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, những vấn đề của kinh tế do nhà nước quyết định, vì chưa có thị trường do nhà nước quyết định,vì chưa có thị trường đó nhà nước can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế, nguồn lực xã hội chủ yếu luân chuyển theo chiều dọc, qua nhiều tầng, lớp đã hạn chế sự chủ động, sáng tạo của người tiêu dùng và các chủ thể sản xuất kinh doanh. Vì tập trung vào giải quyết những vấn đề cụ thể do đó những vấn đề quản lý vĩ mô không được coi trọng. Trong nền kinh tế thị trường với xu hướng dân chủ hóa, bản thân thị trường là một cơ chế đIều tiết kinh tế một cách khách quan, nằm trong cơ chế ấy nhà nước định hướng, dẫn dắt các lỗ lực phát triển, tạo sân chơi bằng phẳng cho cạnh tranh, điều tiết kinh tế bằng chính sách công cụ và thực lực kinh tế làm vai trò bà đỡ cho nền kinh tế phát triển. c. Kinh tế thị trường là nền kinh tế mở Nhờ tự do, mở cửa, không gian thị trường được rộng mở, thị trường là một thể thống nhất thông suốt, hòa nhập thị trường thế giới. Nguồn lực xã hội không chỉ ở trong nước mà còn cả quốc tế. Trong đIều kiện của xu hướng quốc tế toàn cầu hóa, mỗi quốc gia có thể tìm thấy lợi thế của mình trong quan hệ đa phương. Đối với nước kém và đang phát triển, mở cửa là xu hướng tất yếu để có thêm nguồn lực xã hội cho phát triển: vốn, công nghệ, thị trường, quản lý, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới cao hơn, có cả cơ hội và thách thức. Điều quan trọng là phảI có chiến lược biết chuẩn bị về nội lực để tiếp thu
- một cách có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài. d. Kinh tế thị trường gắn liền với những khuyết tật vốn có của nó. Với đặc trưng cơ bản là dân chủ hóa, tự do hóa cá nhân, coi trọng động lực lợi ích do đó dễ cường điệu hóa lợi ích cá biệt, phá vỡ những cân đối chung, những cân đối tổng thể của nền kinh tế,coi trọng lợi ích kinh tế, dễ bỏ qua những vấn đề xã hội, môi trường. Thị trường là cạnh tránh sẽ có kẻ thắng người thua, nhưng thị trường vô tư không bảo vệ những kẻ chiến bại. Cạnh tranh sớm muộn cũng dẫn đến độc quyền với những tác hại khôn lường: bóp méo sự vận động của cung cầu, giá cả. Chuyển sang kinh tế thị trường gắn liền với những thử thách về đạo đức nhân cách, những yếu tố truyền thống văn hóa. 4. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Về phương diện kinh tế, có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là: thời đại kinh tế tự nhiên, tự cung - tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hóa, mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường. Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tặng vật của tự hiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Nó được bó hẹp trong mối quan hệ tuần hoàn khép kín giữa con người và tự nhiên. Kinh tế tự nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con người và tự nhiên, mà tiêu biểu là giữa lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với xã hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp, tự cung, tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên, hiện vật, sinh tồn, tự cung, tự cấp gắn liền với kém phát triển và lạc hậu.
- Kinh tế hàng hóa, bắt đầu bằng kinh tế hàng hóa đơn giản, ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hóa là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Trong lịch sử phát triển của mình, vị thế của kinh tế hàng hóa cũng dần được đổi thay: từ chỗ như là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội không phổ biến, không hợp thời trong xã hội chiếm hữu nô lệ của những người thợ thủ công và nông dân tự do, đến chỗ được thừa nhận trong xã hội phong kiến, và đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế hàng hóa giản đơn không những được thừa nhận mà còn phát triển lên giai đoạn cao hơn, đó là kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, cũng đã trải qua ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất: Là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường (còn gọi là giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai hay dã man). Giai đoạn thứ hai: Là giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tự do. Đặc trưng quan trọng của giai đoạn này là sự phát triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do, nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế. Giai đoạn thứ ba: Là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Đặc trưng của giai đoạn này là nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường thông qua việc xây dựng các hình thức sở hữu nhà nước, các chương trình khuyến kích đầu tư và tiêu dùng, cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính, tín dụng, tiền tệ... để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Sự phối hợp giữa chính phủ và thị trường trong một nền kinh tế hỗn hợp nhằm bảo đảm sự phát triển có hiệu quả của những nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh. Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hóa (sản xuất hàng hóa nhỏ) tự phát sẽ "hằng ngày hằng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản" (nói theo cách nói của V.I.Lê - nin) và sự phát triển của kinh tế thị trường trong lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhưng tuyệt nhiên, kinh tế thị trường không phải là một chế độ kinh tế - xã hội. Kinh tế thị trường là hình thức và
- phương pháp vận hành kinh tế. Các quy luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, quy định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào (bao nhiêu) và sản xuất cho ai. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường theo quy luật giá trị đòi hỏi các chủ thể sản xuất - kinh doanh không ngừng đổi mới, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, mở rộng quy mô sản xuất - kinh doanh. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là quá trình mở rộng phân công lao động xã hội, phát triển khoa học - công nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất - kinh doanh. Sự phát triển của kinh tế thị trường gắn liền với quá trình phát triển của nền văn minh nhân loại, của khoa học - kỹ thuật, của lực lượng sản xuất. Nhiều học giả đã khái quát rằng: Giai đoạn kinh tế hàng hóa giản đơn gắn liền với nền văn minh nông nghiệp và kỹ thuật thủ công; giai đoạn kinh tế thị trường tự do gắn liền với nền văn minh công nghiệp và kỹ thuật cơ khí; giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại gắn liền với nền văn minh trí tuệ và kỹ thuật vi điện tử - tin học... Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật, tự cung tự cấp còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam, về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Việt Nam vẫn là một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Phát triển trở thành nhiệm vụ mục tiêu số một đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong bước đường đi tới. Muốn vậy, phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển, là phát triển nền kinh tế thị trường, cùng với nó là thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự phát triển kinh tế - xã hội nào rút cuộc cũng nhằm những mục tiêu xã hội, nhân văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia tăng về lượng (tăng trưởng kinh tế) còn bao hàm cả những thay đổi về chất (những biến đổi về mặt xã hội). "Phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân. Nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục, sức khỏe và bình đẳng về cơ hội là tất cả những yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế. Bảo đảm các quyền chính trị và công dân là một mục tiêu phát triển rộng hơn". Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác là một thành
- tựu khoa học của loài người. Nó phác họa quy luật vận động tổng quát của lịch sử nhân loại, và sự phát triển của xã hội loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn thấp của nó là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội không đối lập với phát triển, với kinh tế thị trường, mà là một nấc thang phát triển của loài người được đánh dấu bằng tiến bộ - xã hội của sự phát triển. Nó là cách thức giải quyết các quan hệ xã hội vì cuộc sống tốt đẹp của đại đa số nhân dân lao động, của toàn thể xã hội, là sự thiết lập một trật tự xã hội với mục tiêu công bằng và văn minh. Sự phát triển chỉ đem lại sự giàu có và sự thống trị của tư bản, của một số ít người trong xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất tư bản chủ nghĩa, là sự phát triển cổ điển. Sự phát triển đem lại sự giàu có, phồn vinh, hạnh phúc cho đại đa số nhân dân lao động, cho toàn thể xã hội, thì sự phát triển đó mang tính xã hội chủ nghĩa, là sự phát triển hiện đại. Cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ gian khổ và quyết liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng nhân dân lao động, đem lại hạnh phúc và giàu sang cho nhân dân lao động, đem lại hạnh phúc và giàu sang cho nhân dân lao động. Vì vậy, sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh và hạnh phúc của nhân dân lao động, vì sự hùng mạnh và giàu có của cả xã hội, của toàn dân tộc, là sự phát triển mang tính chất xã hội chủ nghĩa, là sự phát triển hiện đại. Nghĩa là, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó không chỉ đơn thuần là sự phát triển kinh tế nhằm đặt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, mà còn bao hàm vấn đề quan trọng mang tính hiện đại là thiết lập một kiểu tổ chức xã hội, một trật tự xã hội với nội dung công bằng, văn minh. Nhà nước xã hội chủ nghĩa "của dân, do dân và vì dân" dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện quan trọng bảo đảm thực hiện sự định hướng đó. b. Các chức năng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Nhìn chung, tư tưởng về sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường rất đa dạng. Tư tưởng về vai trò kinh tế của nhà nước được vận dụng ở các nước cũng rất khác nhau và thay đổi qua các thời kỳ. Song, điều khẳng định là: sự can thiệp, sự quản lý của nhà nước đối với kinh tế thị trường là thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế - một đặc trưng của kinh tế thị trường hiện đại (kể cả
- trong các nước TBCN). Người ta đã nói đến các chức năng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường (theo lịch sử phát triển). Những người theo phái trọng thương (thế kỷ 15 - 17) đã chủ trương nhà nước phải can thiệp vào kinh tế, chủ yếu là các hoạt động ngoạit hương, thực hiện chính sách thuế quan bảo hộ, nhằm giúp cho nền kinh tế dân tộc phát triển. Vào những năm 30 của thế kỷ 20, vấn đề nhà nước can thiệp vào kinh tế được đặt ra trong điều kiện hoàn toàn mới. Lúc này nền kinh tế TBCN thế giới đang lầm vào khủng hoảng thừa, do đó đòi hỏi nhà nước tư sản phải có phương pháp mới can thiệp vào toàn bộ quá trình tái sản xuất. Theo J.M. Kên, nhà nước phải duy trì mức cầu về đầu tư, mở ra các công trình đầu tư lớn; từ đó, theo nguyên lý "số nhân" mà kích thích tiêu dùng xã hội, nâng cao cầu có hiệu quả. Nhà nước sử dụng tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ làm công cụ chủ yếu để điều tiết kinh tế thị trường TBCN. Để đối phó với các khuyết tật của cơ chế thị trường, các nền kinh tế hiện đại đã phối hợp giữa "bàn tay vô hình" của thị trường và "bàn tay hữu hình" của Chính phủ. Theo P.A. Xa-mu-en-xơn, chính phủ có 4 chức năng chính trong nền kinh tế thị trường: Thiết lập khung khổ pháp luật; Sửa chữa những thất bại của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả; Đảm bảo sự công bằng; ổn định kinh tế vĩ mô. Dựa trên những tư tưởng và chức năng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường nêu trên, ngày nay người ta đã mô tả chức năng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường nói chung bằng mô hình: Cải thiện công Khắc phục thất bại của thị trường bằng xã hội Các Cung cấp dịch vụ thuần túy: Bảo vệ người chức - Quốc phòng nghèo năng tối - Khung pháp luật. - Các chương thiểu - Quyền sở hữu tài sản.- Quản lý kinh tế vĩ mô. trình giảm - Sức khỏe cộng đồng nghèo. - Cứu trợ xã hội Các Cung cấp các Kiểm soát độc Khắc phục thông
- chức yếu tố ngoại quyền: tin không hoàn năng sinh: - Quy định quyền hảo: trung - Giáo dục phổ sử dụng. - Bảo hiểm y tế, gian thông. - Chính sách nhân thọ... - Bảo vệ môi chống độc quyền. - Công khai về tài trường. chính. - Bảo vệ khách hàng Các Phối hợp hoạt Tái phân phối: chức động tư nhân: - Tái phân phối năng - Thúc đẩy sự thu nhập. tích cực phát triển của thị trường. - Tập hợp sáng kiến tập thể. c. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói gọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, theo tôi hiểu, thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là nhóm nhân tố của kinh tế thị trường đóng vai trò như là "động lực" thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh và nhóm nhân tố của xã hội đang định hướng xã hội chủ nghĩa, đóng vai trò hướng dẫn, chỉ định sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã được xác định. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế "mở". Độ "mở" của nền kinh tế tùy thuộc vào: Thứ nhất: Bối cảnh quốc tế, khu vực và năng lực nội sinh của nền kinh tế
- trong quá trình vươn ra tiếp cận với nền kinh tế thế giới; Thứ hai: Năng lực tổ chức quản lý, điều hành của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và khả năng "nội sinh hóa" có hiệu quả các yếu tố "ngoại sinh" (vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, tri thức kinh doanh...) du nhập vào nước ta. Như vậy, sự hiện diện của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa với tư cách là "bộ phận cấu thành trọng yếu" (kinh tế nhà nước), vừa với tư cách là chủ thể tổ chức xây dựng quan hệ quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường. Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường là thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế - một đặc trưng của kinh tế thị trường hiện đại. Đối với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng đó được thực hiện bởi nhà nước của dân, do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự điều tiết vĩ mô của nhà nước nhằm phát huy tác dụng tích cực và ngăn chặn những tác động tiêu cực của thị trường; đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế hướng tới chủ nghĩa xã hội. Sự điều tiết của nhà nước nền kinh tế thị trường phải dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế khách quan. Sai lầm chủ quan của nhà nước cũng tác hại không kém, thậm chí còn hơn, tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Sự điều tiết của nhà nước thể hiện ở các mặt sau đây: Một là: Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các cá nhân, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động. ở nước ta hiện nay, các cá nhân, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được chuyển quyền tự chủ sản xuất kinh doanh; các cá nhân, các doanh nghiệp khi lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh đều lấy lợi nhuận làm thước đo hiệu quả, đồng thời làm mục tiêu định hướng các hoạt động kinh tế của mình. Tất nhiên, tự chủ kinh doanh theo pháp luật và mọi hành vi đều phải tuân theo pháp luật. Do đó, nhà nước phải xây dựng và ban hành một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ như: luật về các quyền (sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, thừa kế, chuyển nhượng...); luật hợp đồng; luật về sự bảo đảm của nhà nước đối với các điều kiện khung của nền kinh tế (bảo hộ lao động, bảo vệ môi trường, chống hạn chế cạnh tranh, chăm sóc những người không có khả năng lao động, bảo hiểm xã hội...); luật thương mại v.v...
- Hai là: Nhà nước tạo môi trường kinh tế - xã hội ổn định bằng cách xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất (trong đó quan trọng nhất là phát triển hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc) và kết cấu hạ tầng xã hội (trong đó quan trọng nhất là phát triển hệ thống giáo dục - đào tạo, y tế), cùng với các dịch vụ công cộng khác, như đảm bảo an ninh, dịch vụ tín dụng... Ba là: Nhà nước soạn thảo kế hoạch, quy hoạch các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và ban hành các chính sách để hướng các chủ thể thị trường thực hiện các kế hoạch, quy hoạch và chương trình ấy thông qua các chính sách tài chính, tiền tệ, sử dụng các đòn bẩy kinh tế như: ưu đãi về thuế, về lãi suất cho vay cho những ai đầu tư vào lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích. Một vấn đề quan trọng là, Nhà nước ta quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa "theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực hạn chế, khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân". Có một số người cho rằng, khi chuyển sang kinh tế thị trường thì nhà nước đừng có can thiệp vào kinh tế và kế hoạch hóa vĩ mô của nhà nước cũng không còn cần thiết nữa. Quan niệm đó là giản đơn, hoàn toàn sai lầm và không có căn cứ lý luận và thực tiễn. Mọi người đều thấy rằng, trong tất cả các mô hình kinh tế được đúc kết đến nay trên thế giới đều có cả hai dạng điều tiết kinh tế. Một là: Điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hóa và các biện pháp hành chính Hai là: Điều tiết gián tiếp thông qua thị trường, vận dụng cơ chế thị trường để tác động đến các hoạt động của các doanh nghiệp, dùng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích hoặc gây áp lực buộc các doanh nghiệp phát triển trong khuôn khổ theo hướng kế hoạch do nhà nước đề ra. Hai dạng điều tiết kinh tế này chỉ khác nhau ở mức độ, liều lượng và hình thức trong cơ chế chung. Sở dĩ như vậy là vì, với tư cách là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, là biện pháp, thủ đoạn kinh tế, cả kế hoạch hóa và thị trường đều có những ưu thế và khuyết tật của nó. Thực chất của vấn đề kế hoạch hóa và thị trường - xét từ góc độ nhà nước - là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với hoạt động trên thị trường, cũng như đối với các hoạt
- động kinh tế trong xã hội. Thực tế ngày càng chứng tỏ rằng, sẽ hợp lý hơn và hiêu quả hơn nếu thông qua kế hoạch hóa của Nhà nước điều tiết thị trường để thị trường điều tiết sản xuất và điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường sẽ càng có thêm điều kiện giải phóng lực lượng sản xuất, đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội. Qua 14 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo các điều kiện để chuyển đổi nền kinh tế sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quản lý nhà nước nền xã hội chủ nghĩa định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đã đem lại nhiều kết quả. Song, nhìn chung, ta còn thiếu tri thức và kinh nghiệm quản lý nền kinh tế thị trường, quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn nhiều yếu kém. Trong những năm tới, cần tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước theo hướng: "Nhà nước thực hiện tốt các chức năng: định hướng sự phát triển: trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nỗ lực phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thiết lập khuôn khổ luật pháp, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt; khắc phục, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế - xã hội. Thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước. Cán bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp. 7. Mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. a. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu. Đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình
- thức sở hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa, từng bước hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh. Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất qua trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và một số cơ sở công nghiệp quan trọng. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu ứng dụng tiến bộ kho học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng, xây dựng các Tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế như dầu khí, điện, than, hàng không, đường sắt, vận tải viễn dương, viễn thông, cơ khí, luyện kim, hóa chất, vật liệu xây dựng, xuất nhập khẩu, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán... Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật, xóa bỏ bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp. Thực hiện chủ trường cổ phần hóa những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Ưu tiên cho người lao động được mua cổ phần và từng bước mở rộng bán cổ phần cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Thực hiện việc giao, bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ. Sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên. Phấn đấu trong những năm tới cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới và
- nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, củng cố và hiện đại hóa một bước các Tổng công ty nhà nước. Phát triển kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác đa dạng. Chuyển đổi hợp tác xã cũ theo Luật hợp tác xã đạt hiệu quả thiết thực. Phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành để sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong nông nghiệp, trên cơ sở phát huy tính tự chủ của hộ gia đình, chú trọng phát triển các hình thức hợp tác và hợp tác xã cung cấp dịch vụ, vật tư và tiêu thụ sản phẩm cho kinh tế hộ gia đình và trang trại. Mở rộng các hình thức kinh tế hỗn hợp, liên kết, liên doanh giữa hợp tác xã với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật và quản lý, mở rộng thị trường, ứng dụng công nghệ mới, phát triển vốn tập thể, giải quyết nợ tồn đọng của hợp tác xã cũ. Kinh tế cá thể và tiểu chủ ở nông thôn và thành thị được Nhà nước tạo điều kiện để phát triển. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm, khuyến khích hợp tác, liên doanh với nhau và với doanh nghiệp nhà nước, chuyển thành doanh nghiệp cổ phần và bán cổ phần cho người lao động. Kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước ngày càng phát triển đa dạng. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích phát triển, hướng mạnh vào sản xuất, kinh doanh hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu, hàng hóa và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết ấu hạ tầng. b. Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý về thể chế, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Có giải pháp hữu hiệu chống buôn lậu và gian lận thương mại.
- Phát triển thị trường vốn và tiền tệ, nhất là thị trường vốn trung hạn và dài hạn. Tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, từng bước mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, kể cả việc thu hút vốn nước ngoài. Hình thành và phát triển thị trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật; từng bước mở thị trường bất động sản cho ngươi Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư. Phát triển thị trường lao động; người lao động được tìm và tạo việc làm ở mọi nơi trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu lao động với sự tham gia của các thành phần kinh tế. Phát triển các loại thị trường dịch vụ khoa học, công nghệ, sản phẩm trí tuệ, dịch vụ bảo hiểm, các dịch vụ tư vấn và phục vụ sản xuất kinh doanh... Nhà nước tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt động khách quan của thị trường, tạo điều kiện phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục, hạn chế những tác động tiêu cực của thị trường. Nhà nước tập trung làm tốt chức năng hoạch định chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển, thực hiện những dự án trọng điểm bằng nguồn lực tập trung, đổi mới thể chế quản lý, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; điều tiết thu nhập hợp lý; xây dựng pháp luật và kiểm tra giám sát việc thực hiện; giảm mạnh sự can thiệp trực tiếp bằng biện pháp hành chính vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đơn giản hóa các thủ tục hành chính; công khai hóa và thực hiện đúng trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong quan hệ với doanh nghiệp và nhân dân; kiên quyết xóa bỏ những quy định và thủ tục mang nặng tính hành chính quan liêu, bao cấp, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, gây phiền hà, sách nhiễu cho doanh nghiệp và nhân dân. c. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như: AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, tiến tới gia nhập WTO... Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có khả năng cạnh
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận triết học - Cơ sở lý luận triết học của đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Việt Na
18 p | 612 | 193
-
Tiểu luận triết học "Cơ sở lý luận triết học của đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ"
14 p | 461 | 158
-
Luận văn Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là Người dân tộc khmer ở tỉnh trà vinh
120 p | 319 | 77
-
LUẬN VĂN:Cơ sở lý luận và thực tiễn về kháng nghị phúc thẩm hình sự của
93 p | 322 | 75
-
Tiểu luận môn Cơ sở lý luận báo chí: Một số vấn đề về tính nhân văn của báo chí hiện nay
32 p | 657 | 69
-
Tiểu luận triết học - Vận dụng quan điểm cơ sở lý luận về chuyển đổi nền kinh tế thị trường
17 p | 427 | 64
-
Luận văn:Cơ sở lý luận chung về quản trị nguyên liệu và các giải pháp cơ bản về phát triển vùng Nguyên liệu Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn
100 p | 224 | 58
-
Tiểu luận triết học: Một số vấn đề thực tiễn và cơ sở lý luận đối với quá trình CNH - HĐH ở VN
17 p | 198 | 48
-
Báo cáo " Một số cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu sự tự học của sinh viên"
8 p | 182 | 36
-
Luận văn: Cơ sở pháp lý về Du lịch và vấn đề hội nhập quốc tế về Du lịch tại Việt Nam
78 p | 134 | 29
-
LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận cho việc phân tích mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
18 p | 120 | 23
-
LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận triết học của đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ
16 p | 136 | 17
-
Tóm tắt luận văn ngành Quản lý văn hóa: Ẩm thực vỉa hè một nét văn hóa độc đáo ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
12 p | 97 | 14
-
Luận Văn: “Cơ sở khoa học của việc cấp GCNQSDĐ ở cho hộ gia đình cá nhân đang sử dụng đất”
42 p | 96 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Ban quản lý dự án Xây dựng và bảo trì công trình giao thông, Sở GTVT tỉnh hòa Bình
123 p | 23 | 10
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lý luận và Phương pháp dạy học: Phát triển năng lực ngữ văn cho học sinh trung học phổ thông qua dạy học văn học trung đại Việt Nam
28 p | 14 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng của Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Thăng Long - T.D.K
115 p | 6 | 1
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Tạo động lực cho cán bộ nhân viên tại chi nhánh Đông Đô Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
85 p | 1 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn