Luận văn
Đăng ký bảo hộ nhãn
hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Lời nói đầu
Chưa bao giờ vấn đề thương hiệu lại trở thành một chủ đề thời sự được
các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội thương mại
quan tâm một cách đặc biệt như hiện nay. Nhiều hội thảo, hội nghị đã được tổ
chức, hàng trăm bài báo và cả những trang website thường xuyên đề cập đến
các khía cạnh khác nhau của vấn đề này.
Một trong những khía cạnh được đề cập nhiều nhất có lẽ là tình trạng các
doanh nghiệp Việt Nam bị mất thương hiệu hay nhãn hiệu hàng hoá ở thị
trường nước ngoài, đặc biệt ở thị trường Hoa Kỳ. Chúng ta có thể kể ra hàng
loạt các vụ tranh chấp thương hiệu gần đây như cuộc chiến Catfish giữa các
nhà xuất khẩu cá Tra, cá Basa Việt Nam với Hiệp hội các chủ trại cá nheo Mỹ
(CFA) về việc sử dụng thương hiệu “Catfish” cho các loại cá nói trên của Việt
Nam nhập khẩu vào Mỹ; cuộc chiến của Trung Nguyên đòi lại thương hiệu từ
chính đối tác là Rice Field Corp do họ đã đăng ký nhãn hiệu này trước tại Mỹ;
các nhãn hiệu Vinataba, Vinatea đều đã bị đăng ký sở hữu tại nhiều nước
trong đó có Mỹ.
Những sự kiện đó xảy ra ngay khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được
ký kết và bắt đầu được triển khai đã nhấn mạnh với chúng ta rằng: Hiệp định
có thể mở ra nhiều cơ hội làm ăn cho các doanh nghiệp Việt Nam, song cũng
là khởi đầu của nhiều thách thức mới. Làm ăn với một đối tác đầy tiềm năng
nhưng cũng khó lường như Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt
với không ít khó khăn. Bài học kinh nghiệm đắt giá đầu tiên mà một số doanh
nghiệp Việt Nam gặp phải khi tiếp cận thị trường Mỹ, đó là bài học về đăng
ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Thực tiễn đó khiến chúng ta phải đặt ra câu
2
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ hỏi: Làm thế nào để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trong việc đăng ký bảo
hộ nhãn hiệu hàng hoá tại Mỹ?
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, em đã mạnh dạn chọn
đề tài: “Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ” làm đề
tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận
được bố cục thành 3 chương:
Chương I: Nhãn hiệu hàng hoá và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trong
thương mại quốc tế
Chương II: Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa
Kỳ
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả đăng ký nhãn hiệu hàng
hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Giảng viên - ThS. Phạm Thị
Mai Khanh, người đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Em cũng
xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các bạn đã giúp đỡ trong việc thu
thập tài liệu để hoàn thành khoá luận.
Do những hạn chế về thời gian nghiên cứu, về tài liệu thu thập và khả
năng của người viết, nội dung khoá luận khó tránh khỏi những sai sót và
khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự chỉ dẫn tận tình của các thầy cô
giáo cùng sự góp ý của các bạn.
3
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
CHƯƠNG I
NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ VÀ ĐĂNG KÝ NHÃN HIỆU HÀNG
HOÁ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ
1. Khái niệm nhãn hiệu hàng hoá
Trong thương mại quốc tế hiện nay có rất nhiều loại sản phẩm hàng hoá
dịch vụ được lưu thông. Mỗi loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ lại được nhiều
hãng, nhiều công ty của nhiều nước khác nhau trên thế giới sản xuất ra, và
mỗi loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ này lại có những chất lượng rất không
giống nhau. Tuy vậy, người tiêu dùng trên thế giới lại có thể phân biệt được
sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của những công ty khác nhau căn cứ vào nhãn
hiệu hàng hoá của sản phẩm hàng hoá dịch vụ đó. Thí dụ, ô tô là mặt hàng
được nhiều công ty của nhiều nước sản xuất, nhưng người tiêu dùng có thể
phân biệt được chất lượng của từng loại ô tô mang các thương hiệu khác nhau
và xác định được chủng loại xe nào là phù hợp với nhu cầu của mình. Nhãn
hiệu hàng hoá chính là chỉ dẫn ban đầu giúp người tiêu dùng phân biệt được
sản phẩm hàng hoá dịch vụ của những nhà sản xuất kinh doanh khác nhau và
đánh giá được phần nào chất lượng của sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Vậy nhãn
hiệu hàng hoá là gì?
1.1 Định nghĩa nhãn hiệu hàng hoá
4
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Trong thực tế, mỗi quốc gia trên thế giới đều có quy định khác nhau về
nhãn hiệu hàng hoá. Tuy vậy, khi thương mại quốc tế ngày càng phát triển,
chu kỳ sống của hàng hoá dịch vụ bị rút ngắn lại dẫn đến việc xuất hiện ngày
càng nhiều những hàng hoá dịch vụ mới với những chất lượng khác nhau thì
những tranh chấp, xung đột giữa các công ty liên quan đến nhãn hiệu hàng
hoá là điều khó tránh khỏi. Để hạn chế những tranh chấp, xung đột đó cần
phải có những quy định thống nhất về nhãn hiệu hàng hoá trên phạm vi toàn
thế giới.
Tại vòng đàm phán Uruguay của GATT (tiền thân của tổ chức WTO) đã
thông qua Hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) được ký kết vào
ngày 15/04/1994 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1995 cùng với sự ra
đời của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Trong Hiệp định TRIPS, các quốc
gia trên thế giới đã tiến tới một thoả thuận chung nhất về nhãn hiệu hàng hoá
trong thương mại quốc tế. Theo Hiệp định này thì nhãn hiệu hàng hoá được
coi là đối tượng có khả năng bảo hộ là: "bất kỳ một dấu hiệu, hoặc sự kết hợp
nào của những dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của
một doanh nghiệp này với hàng hoá hoặc dịch vụ của những doanh nghiệp
khác. Những dấu hiệu đó (có thể là những ký tự đặc biệt như tên người, chữ
cái, chữ số, yếu tố hình và sự kết hợp màu sắc cũng như sự kết hợp bất kỳ của
những dấu hiệu đó) có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hoá". (Trích
Khoản 1 Điều 15 Mục 2 Hiệp định TRIPS). Do đó, nhãn hiệu hàng hoá là bất
kỳ một dấu hiệu nào hoặc bất kỳ sự kết hợp nào của những dấu hiệu có khả
năng phân biệt hàng hoá hay dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hay
dịch vụ của một doanh nghiệp khác. Dấu hiệu có thể là chữ số, chữ cái, tên
người, yếu tố hình và sự kết hợp màu sắc.
Cũng trên tinh thần của Hiệp định TRIPS, tại Điều 785 Mục I Chương II
Phần VI của Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995 đã ghi rõ: “Nhãn hiệu hàng hoá
5
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá dịch vụ cùng loại của các cơ
sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hoá có thể là từ ngữ, hình
ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu
sắc”.
Theo Luật Lanham Act (Mỹ) thì nhãn hiệu hàng hoá bao gồm từ ngữ,
tên, biểu tượng, hình vẽ hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó nhằm phân biệt
hàng hoá của một người cung cấp với hàng hoá của những người cung cấp
khác. Nhãn hiệu hàng hoá có thể được áp dụng cho hàng hoá, dịch vụ và
những nhãn hiệu xác nhận nguồn gốc, chất lượng, độ nguyên chất nếu chúng
thoả mãn các yêu cầu của một nhãn hiệu (certification marks).
Như vậy, luật của các nước đều thống nhất rằng nhãn hiệu hàng hoá bao gồm cả tên nhãn hiệu (brand name) và dấu hiệu của nhãn hiệu (brand mark)1.
Tên nhãn hiệu là bộ phận của nhãn hiệu mà ta có thể đọc được như: “Dove”,
“Tiger”... Còn dấu hiệu của nhãn hiệu là bộ phận của nhãn hiệu mà ta có thể
nhận biết được, những không thể đọc được, ví dụ như biểu tượng, hình vẽ,
màu sắc, hay kiểu chữ đặc thù. Ví dụ như hình ảnh con chim bồ câu là biểu
tượng cho sản phẩm Dove, con hổ vàng là biểu tượng cho bia Tiger hay hình
ảnh ba hình thoi chụm vào nhau là biểu tượng cho ô tô của hãng Mitsubishi...
Việc gắn tên nhãn hiệu hiện nay đã phổ biến rộng rãi đến mức hầu như
bất kỳ hàng hoá nào cũng đều có nhãn hiệu. Ngoài ra, các nước còn có xu
hướng mở rộng việc bảo hộ đối với các yếu tố cấu thành nhãn hiệu nhằm
nâng cao tính khác biệt của sản phẩm đến mức tối đa có thể. Bất kỳ một đặc
trưng nào của sản phẩm tác động vào giác quan của người tiêu dùng cũng có
thể được coi là một phần của nhãn hiệu, miễn là chúng có tính phân biệt. Do
đó, ngoài tên nhãn hiệu, dấu hiệu nhãn hiệu thì tiếng động, mùi vị riêng biệt
1 Theo: “Marketing căn bản - Marketing essentials” , Philip Kotler. Nhà xuất bản Thống kê, 2002.
6
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ của sản phẩm cũng có thể được đăng ký bản quyền. Tuy nhiên, vấn đề này sẽ
gây nhiều khó khăn cho việc lưu trữ, đối chiếu, kiểm tra khi xảy ra tranh
chấp.
1.2 Phân biệt nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu thương mại và thương hiệu
Theo Hiệp hội nhãn hiệu thương mại quốc tế (International Trademark
Association) thì: “Nhãn hiệu thương mại (trademark) bao gồm những từ ngữ,
tên gọi, biểu tượng hay bất kỳ sự kết hợp nào giữa những yếu tố trên được
dùng trong thương mại để xác định và phân biệt hàng hoá của các nhà sản
xuất hoặc của người bán với nhau và để xác định nguồn của hàng hoá đó”.
Như vậy, khi hàng hoá được lưu thông trên thị trường thì nhãn hiệu hàng
hoá trở thành nhãn hiệu thương mại. Nếu nhãn hiệu thương mại được đăng ký
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì
người chủ sở hữu có toàn quyền sử dụng nhãn hiệu thương mại đó dưới sự
bảo hộ của luật pháp. Điều đó có nghĩa là người chủ sở hữu có thể sử dụng,
chuyển nhượng, hoặc bán nhãn hiệu thương mại, hay nói cách khác thì chủ sở
hữu có thể định giá đối với nhãn hiệu thương mại của mình. Với ý nghĩa đó,
khái niệm thương hiệu của hàng hoá ra đời và được hiểu là nhãn hiệu hàng
hoá sau khi đã được thương mại hoá, được mua bán trên thị trường. Khi đó,
nhãn hiệu sẽ được gắn thêm biểu tượng đ (registered trademark - nhãn hiệu
thương mại đã được đăng ký).
Ngoài khía cạnh thương mại, thương hiệu của một sản phẩm còn bao
hàm nhiều giá trị khác bởi thương hiệu là cảm nhận tổng thể về chất lượng, uy
tín và giá trị đằng sau một cái tên, một cái logo của doanh nghiệp. Do vậy,
thương hiệu có thể là bất cứ cái gì được gắn liền với sản phẩm hoặc dịch vụ
nhằm làm cho chúng được nhận diện dễ dàng và khác biệt hoá với các sản
phẩm cùng loại.
7
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
2. Một số loại nhãn hiệu hàng hoá
Thông thường, người ta dùng từ trademark để gọi chung cho nhãn hiệu thương mại hàng hoá (trademark - TM) và nhãn hiệu thương mại dịch vụ (servicemark - SM).
Hiện nay chưa có một văn bản pháp luật nào đưa ra một bảng phân loại
nhãn hiệu hàng hoá một cách đầy đủ với ranh giới xác định rõ ràng. Tuy
nhiên, có thể kể ra đây một số loại nhãn hiệu hàng hoá điển hình nhất:
2.1 Nhãn hiệu liên kết
Theo quy định tại Khoản 8 Điều 2 Nghị định 06/2001/NĐ-CP sửa đổi bổ
sung một số điều của Nghị định 63/1996/NĐ-CP quy định chi tiết về sở hữu
công nghiệp thì nhãn hiệu liên kết được hiểu là “các nhãn hiệu hàng hoá
tương tự nhau do cùng một chủ thể đăng ký để dùng cho các sản phẩm, dịch
vụ cùng loại, tương tự nhau hay có liên quan đến nhau, và các nhãn hiệu hàng
hoá trùng nhau do cùng một chủ thể đăng ký để dùng cho các sản phẩm, dịch
vụ tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau”.
2.2 Nhãn hiệu tập thể
Nghị định 63/1996/NĐ-CP đã quy định như sau: “Nhãn hiệu tập thể là
nhãn hiệu hàng hoá được tập thể các cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể
khác cùng sử dụng, trong đó mỗi thành viên sử dụng một cách độc lập theo
quy chế do tập thể đó quy định.”
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ cũng nêu lên rằng nhãn hiệu tập thể là
nhãn hiệu dùng chung cho các thành viên của một tổ chức, một nhóm, ví dụ
như Saigon Times Group hay Coop Mart,...
2.3 Nhãn hiệu nổi tiếng
“Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng liên tục cho
những sản phẩm, dịch vụ có uy tín làm cho nhãn hiệu đó được biết đến rộng
8
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ rãi”. (Khoản 10 Điều 2 Nghị định 06/2001/NĐ-CP).
Định nghĩa nêu trên không quy định rõ ràng căn cứ xác định “biết đến
rộng rãi”. Luật pháp quốc tế và Luật của các nước trên thế giới cũng không có
các tiêu chuẩn mang tính “công thức” để xác định nhãn hiệu nổi tiếng. Trên
thực tế, để xác định một nhãn hiệu có nổi tiếng hay không, phải xem xét từng
trường hợp cụ thể dựa trên nhiều căn cứ khác nhau như thời điểm nhãn hiệu
được đăng ký, giá trị thương mại của nhãn hiệu, thị phần của nhãn hiệu,...
Khoản 6 Điều 6 trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ cũng đã đề cập
đến vấn đề này như sau: “Để xác định một nhãn hiệu hàng hoá có phải là nổi
tiếng hay không phải xem xét đến sự hiểu biết về nhãn hiệu hàng hoá đó trong
bộ phận công chúng có liên quan, gồm cả sự hiểu biết đạt được trong lãnh thổ
của Bên liên quan do kết quả của hoạt động khuếch trương nhãn hiệu hàng
hoá này. Không Bên nào được yêu cầu rằng sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng
hoá phải vượt ra ngoài bộ phận công chúng thường tiếp xúc với hàng hoá
hoặc dịch vụ liên quan hoặc yêu cầu rằng nhãn hiệu hàng hoá đó phải được
đăng ký”. Tuy vậy, khái niệm “bộ phận công chúng có liên quan” lại chưa
được nêu rõ trong Hiệp định này.
2.4 Nhãn hiệu chứng nhận
Hiện nay, do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường đã xuất
hiện một loại nhãn hiệu mới là nhãn hiệu chứng nhận. Khái niệm nhãn hiệu
chứng nhận đã được công nhận là nhãn hiệu do người chủ sở hữu cho phép
3. Điều kiện đối với các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá
người khác dùng, chẳng hạn như nhãn hiệu “Hàng Việt Nam chất lượng cao”.
Nhãn hiệu của một hàng hoá, dịch vụ là tên gọi tượng trưng của hàng
hóa dịch vụ đó. Cách thiết kế nhãn hiệu cho một loại hàng hoá dịch vụ rất
phong phú. Không thể kể hết được các loại hình của các loại nhãn hiệu, song
điều đó không có nghĩa là cấu tạo của nhãn hiệu có thể tùy tiện.
9
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 3.1 Các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá được bảo hộ
Phù hợp với tập quán thương mại quốc tế, trong Khoản 1 Điều 6 Nghị
định 63/1996/NĐ-CP đã quy định rõ các dấu hiệu được công nhận dùng làm
nhãn hiệu hàng hoá nếu đáp ứng được đầy đủ các điều kiện sau đây:
a) được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố độc đáo, dễ nhận biết hoặc
từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể độc đáo, dễ nhận biết;
b) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
hàng hoá của người khác đang được bảo hộ tại Việt Nam (kể cả các nhãn hiệu
hàng hoá đang được bảo hộ theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham
gia);
c) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
hàng hoá nêu trong đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá đã
nộp cho Cơ quan có thẩm quyền với ngày ưu tiên sớm hơn (kể cả các đơn về
nhãn hiệu hàng hoá được nộp theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham
gia);
d) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
hàng hoá của người khác đã hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ hiệu lực bảo hộ
nhưng thời gian tính từ khi hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ hiệu lực chưa quá 5
năm, trừ trường hợp hiệu lực bị đình chỉ vì nhãn hiệu hàng hoá không được
sử dụng theo quy định tại điểm c)
e) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
hàng hoá của người khác được coi là nổi tiếng (theo điều 6 bis Công ước Pari)
hoặc với nhãn hiệu hàng hoá của người khác đã được sử dụng và đã được
thừa nhận một cách rộng rãi;
f) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với tên
thương mại được bảo hộ với tên gọi xuất xứ hàng hoá được bảo hộ;
10
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
g) không trùng với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ hoặc đã được
nộp đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ với ngày ưu tiên sớm hơn;
h) không trùng với một hình tượng, nhân vật đã thuộc quyền tác giả của
người khác trừ trường hợp được người đó cho phép.
3.2 Các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá không được bảo hộ
Khoản 2 Điều 6 Nghị định 63/1996/NĐ-CP đã quy định những dấu hiệu
sau không được bảo hộ với danh nghĩa là nhãn hiệu hàng hoá:
a) dấu hiệu không có khả năng phân biệt, như các hình và hình hình học
đơn giản, các chữ số, chữ cái, các chữ không có khả năng phát âm như một từ
ngữ, chữ nước ngoài thuộc ngôn ngữ không thông dụng trừ trường hợp các
dấu hiệu này đã được sử dụng và đã được thừa nhận một cách rộng rãi;
b) dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của
hàng hoá thuộc bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên,
nhiều người biết đến;
c) dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại, số
lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị mang tính mô tả
hàng hoá, dịch vụ và xuất xứ của hàng hoá, dịch vụ;
d) dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa đảo
người tiêu dùng về xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị của hàng
hoá hoặc dịch vụ;
e) dấu hiệu giống hoặc tương tự với dấu chất lượng, dấu kiểm tra, dấu
bảo hành ... của Việt Nam, nước ngoài cũng như của các tổ chức quốc tế;
g) dấu hiệu, tên gọi (bao gồm cả ảnh, tên, biệt hiệu, bút danh), hình vẽ,
biểu tượng giống hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc
huy, lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân, địa danh, các tổ chức của Việt Nam
cũng như của nước ngoài nếu không được các cơ quan, người có thẩm quyền
tương ứng cho phép.
11
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 4. Chức năng, vai trò của nhãn hiệu hàng hoá
4.1 Đối với người tiêu dùng
Mục tiêu của việc xây dựng nhãn hiệu là nhằm tạo dựng lòng tin và sự
chung thủy của khách hàng đối với các sản phẩm của công ty. Vậy nhãn hiệu
hàng hoá có vai trò như thế nào đối với người tiêu dùng?
Với người tiêu dùng, nhãn hiệu hàng hoá xác định nguồn gốc của sản
phẩm hoặc nhà sản xuất của một sản phẩm và giúp khách hàng xác định nhà sản xuất cụ thể hoặc nhà phân phối nào phải chịu trách nhiệm2. Nhãn hiệu
hàng hoá có ý nghĩa đặc biệt đối với khách hàng. Nhờ những kinh nghiệm đối
với một sản phẩm và chương trình tiếp thị của sản phẩm đó qua nhiều năm,
khách hàng biết đến các nhãn hiệu. Họ tìm ra được nhãn hiệu nào thoả mãn
được nhu cầu của mình còn nhãn hiệu nào thì không. Kết quả là, các nhãn
hiệu là một công cụ nhanh chóng hoặc là cách đơn giản hoá đối với quyết
định mua sản phẩm của khách hàng (xem Hình 1). Đây chính là điều quan
Tìm kiếm thông tin
Đánh giá các lựa chọn
Nhận thức vấn đề
Hành vi sau khi mua
Quyết định mua
Hình 1: Chu trình ra quyết định mua sắm của khách hàng
trọng nhất mà một thương hiệu cũng như công ty được gắn với thương hiệu
đó cần vươn tới.
Nếu khách hàng nhận ra một nhãn hiệu và có một vài kiến thức về nhãn
hiệu đó, họ không phải suy nghĩ nhiều hoặc tìm kiếm, xử lý nhiều thông tin
để đưa ra quyết định về tiêu dùng sản phẩm. Như vậy, từ khía cạnh kinh tế,
thương hiệu cho phép khách hàng giảm bớt chi phí tìm kiếm sản phẩm. Dựa
2 Theo: “Tạo dựng và quản trị thương hiệu. Danh tiếng -Lợi nhuận” - Viện nghiên cứu và đào tạo về quản lý, Nhà xuất bản Lao động xã hội, 2003
12
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ vào những gì họ đã biết về nhãn hiệu - chất lượng, đặc tính của sản phẩm... -
khách hàng hình thành những giả định và kỳ vọng có cơ sở về những gì mà
họ còn chưa biết về nhãn hiệu.
Mối quan hệ giữa thương hiệu và khách hàng có thể được xem như một
kiểu cam kết hay giao kèo. Khách hàng đặt niềm tin và sự trung thành của
mình vào thương hiệu và ngầm hiểu rằng bằng cách nào đó, thương hiệu sẽ
đáp lại và mang lại lợi ích cho họ thông qua tính năng hợp lý của sản phẩm,
giá cả phù hợp, các chương trình tiếp thị, khuyến mại và các hỗ trợ khác. Nếu
khách hàng nhận thấy những ưu điểm và lợi ích từ việc mua thương hiệu
cũng như họ cảm thấy thoả mãn khi tiêu thụ sản phẩm thì khách hàng có thể
tiếp tục mua sản phẩm thương hiệu đó.
Thực chất, các lợi ích này được khách hàng cảm nhận một cách rất đa
dạng và phong phú. Các thương hiệu có thể xem như một biểu tượng mà
khách hàng tự khẳng định giá trị bản thân. Một số thương hiệu gắn liền với
một con người hoặc một mẫu người nào đó để phản ánh những giá trị khác
nhau hoặc những nét khác nhau. Do vậy tiêu thụ sản phẩm được gắn với
những thương hiệu này là một cách để khách hàng có thể giao tiếp với những
người khác, thậm chí với chính bản thân họ - tuýp người mà họ đang hoặc
muốn trở thành. Chẳng hạn, các khách hàng trẻ tuổi trở nên sành điệu, hợp
mốt hơn trong các sản phẩm của Nike, với một số người khác lại mong muốn
hình ảnh một thương nhân năng động và thành đạt với chiếc xe Mercedes đời
mới,...
Thương hiệu còn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc báo hiệu
những đặc điểm và thuộc tính của sản phẩm tới người tiêu dùng. Các nhà
nghiên cứu đã phân loại các sản phẩm và các thuộc tính hoặc các lợi ích kết
hợp của chúng thành ba loại chính: hàng hoá tìm kiếm, hàng hoá kinh nghiệm
và hàng hoá tin tưởng.
13
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Với hàng hoá tìm kiếm, các thuộc tính của sản phẩm có thể được đánh
giá qua sự kiểm tra bằng mắt (Ví dụ: sự cứng cáp, kích cỡ, màu sắc, kiểu
dáng, trọng lượng, và thành phần cấu tạo của một sản phẩm...)
Với hàng hoá kinh nghiệm, các thuộc tính của sản phẩm không thể dễ
dàng đánh giá bằng việc kiểm tra, mà việc thử sản phẩm thật và kinh nghiệm
là cần thiết (Ví dụ: độ bền, chất lượng dịch vụ, độ an toàn, dễ dàng xử lý hoặc
sử dụng...)
Với hàng hoá tin tưởng, các thuộc tính của sản phẩm rất khó có thể biết
được (Ví dụ: chi trả bảo hiểm...) Do việc đánh giá, giải thích các thuộc tính và
lợi ích của sản phẩm là hàng hoá kinh nghiệm và hàng hoá tin tưởng rất khó
nên các thương hiệu có thể là dấu hiệu đặc biệt quan trọng về chất lượng và
các đặc điểm khác để người tiêu dùng nhận biết rõ ràng hơn.
Thương hiệu có thể làm giảm các loại rủi ro khi quyết định mua và tiêu
dùng một sản phẩm như:
Rủi ro chức năng: Sản phẩm không được như mong muốn.
Rủi ro vật chất: Sản phẩm đe dọa sức khỏe hoặc thể lực của người sử
dụng hoặc những người khác.
Rủi ro tài chính: Sản phẩm không tương xứng với giá đã trả.
Rủi ro xã hội: Sản phẩm không phù hợp với văn hóa, tín ngưỡng,
hoặc chuẩn mực đạo đức xã hội.
Rủi ro tâm lý: Sản phẩm ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần của người
sử dụng.
Rủi ro thời gian: Sản phẩm không như mong muốn dẫn đến mất chi
phí cơ hội để tìm sản phẩm khác.
Mặc dù khách hàng có những cách khác nhau để xử lý những rủi ro này,
nhưng chắc chắn có một cách mà họ sẽ chọn, đó là chỉ mua những thương
hiệu nổi tiếng, nhất là những thương hiệu mà họ đã có những kinh nghiệm tốt
14
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ trong quá khứ. Vì vậy, thương hiệu có thể là một công cụ xử lý rủi ro rất quan
trọng (xem thêm Hộp 1).
Như vậy, với khách hàng, ý nghĩa đặc biệt của thương hiệu là có thể làm
thay đổi nhận thức và kinh nghiệm của họ về các sản phẩm. Sản phẩm giống
hệt nhau có thể được khách hàng đánh giá khác nhau tùy thuộc vào sự khác
Hộp 1: Tầm quan trọng của nhãn hiệu hàng hoá
đối với khách hàng và nhà sản xuất
Khách hàng
Xác định nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm
Quy trách nhiệm cho nhà sản xuất sản phẩm
Giảm thiểu rủi ro trong tiêu dùng
Tiết kiệm chi phí tìm kiếm
Khẳng định giá trị bản thân
Yên tâm về chất lượng
Nhà sản xuất
Công cụ để nhận diện và khác biệt hoá sản phẩm
Là phương tiện bảo vệ hợp pháp các lợi thế và đặc điểm riêng có
của sản phẩm
Khẳng định đẳng cấp chất lượng trước khách hàng
Đưa sản phẩm ăn sâu vào tâm trí khách hàng
Là nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh
Là nguồn gốc của lợi nhuận
biệt và uy tín của thương hiệu hoặc các thuộc tính của sản phẩm. Với người
tiêu dùng, thương hiệu làm cho sinh hoạt hàng ngày cũng như cuộc sống của
họ trở nên thuận tiện và phong phú hơn.
15
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 4.2 Đối với doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp, thương hiệu đóng những vai trò quan trọng.
Về cơ bản, thương hiệu đáp ứng mục đích nhận diện để đơn giản hóa việc xử
lý sản phẩm hoặc truy tìm nguồn gốc sản phẩm cho công ty. Về mặt hoạt
động, thương hiệu giúp tổ chức kiểm kê, tính toán và thực hiện các ghi chép
khác. Thương hiệu đã được bảo hộ cho phép các doanh nghiệp bảo vệ hợp
pháp những đặc điểm và/hoặc hình thức đặc trưng, riêng có của sản phẩm.
Điều đó đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể đầu tư một cách an toàn cho
thương hiệu và thu lợi nhuận từ một tài sản đáng giá.
Ngoài việc mang lại cho sản phẩm những đặc điểm và thuộc tính riêng
có thể phân biệt với các sản phẩm khác, thương hiệu cũng có thể cam kết một
tiêu chuẩn hay đẳng cấp chất lượng của sản phẩm. Lòng trung thành của
khách hàng đối với thương hiệu cho phép các doanh nghiệp dự báo và kiểm
soát thị trường. Hơn nữa, nó tạo nên một rào cản, gây khó khăn cho các doanh
nghiệp khác muốn xâm nhập thị trường. Mặc dù các quy trình sản xuất và
thiết kế sản phẩm có thể dễ dàng bị sao chép lại, nhưng những ấn tượng ăn
sâu trong đầu người tiêu dùng qua nhiều năm về sản phẩm thì không thể dễ
dàng sao chép lại như vậy. Về khía cạnh này, thương hiệu có thể được coi như
một cách thức hữu hiệu để đảm bảo lợi thế cạnh tranh, là tài sản vô giá đối
với các doanh nghiệp. Chính vì thế, các công ty và các tập đoàn lớn trên thế
giới đều đưa ra khẩu hiệu: “The Brand’s the Thing” - “Có thương hiệu là có
tất cả”.
4.3 Đối với quốc gia
Khi nói đến Thuỵ Sỹ, người ta nghĩ ngay đến đồng hồ, nói đến Nhật Bản
người ta nghĩ ngay đến Sony, Honda, Toyota mặc dù đồng hồ không phải là
tất cả nước Thuỵ Sỹ cũng như Sony, Honda, Toyota không phải là tất cả nước
Nhật. Như vậy, việc xây dựng thương hiệu không chỉ thúc đẩy sản phẩm của
16
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ doanh nghiệp mà còn góp phần tạo nên diện mạo quốc gia. Những thương
hiệu mạnh đã quảng bá hình ảnh và trình độ phát triển của nước Nhật, Thuỵ
Sỹ,... đến toàn thế giới .
Những thương hiệu mạnh sẽ đóng vai trò sứ giả để sản phẩm các quốc
gia chiếm lĩnh thị trường thế giới, tạo nên những bước đệm vững chắc góp
phần đưa đất nước hội nhập kinh tế quốc tế.
II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN
HIỆU HÀNG HOÁ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1. Sự hình thành và phát triển hệ thống luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá
Như đã đề cập ở trên, thương hiệu là một tài sản vô hình có giá trị của
doanh nghiệp.Việc sử dụng đúng đắn chức năng của thương hiệu theo đúng
pháp luật sẽ tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, phát triển sản
xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống,
mọi việc không hoàn toàn diễn ra một cách lành mạnh như vậy. Để đạt được
lợi nhuận nhanh chóng và bằng chi phí rẻ nhất, người ta đã làm giả, hoặc làm
nhái theo các thương hiệu được ưa chuộng, mặc dù các loại này có chất lượng
thấp hơn hàng thật, thậm chí hoàn toàn không có chức năng sử dụng. Điều
này đã xảy ra từ xa xưa, khi bắt đầu xuất hiện việc trao đổi hàng hoá trên trái
đất và cùng với sự phát triển của xã hội, tệ nạn đó ngày càng phát triển về quy
mô và độ tinh vi. Các vụ tranh chấp, kiện cáo về nhãn hiệu tại các tòa án ngày
càng nhiều.
Ban đầu, vấn đề mà các toà án cần phải phán quyết là quyền sở hữu đối
với nhãn hiệu thuộc về ai. Trong các trường hợp này, nguyên tắc thường được
áp dụng là: quyền sở hữu sẽ thuộc về người đầu tiên sử dụng nhãn hiệu hàng
hoá đó. Để xác định ai là người sử dụng đầu tiên, các toà án lập sổ ghi nhãn
hiệu hàng hoá. Lúc đầu các sổ đó chỉ dùng để theo dõi các nhãn hiệu bị tranh
17
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ chấp, sau đó ghi các nhãn hiệu khác chưa bị tranh chấp để đề phòng các tranh
chấp sẽ có trong tương lai. Cuối cùng ngay cả các nhãn hiệu chưa được sử
dụng nhưng chủ nhãn hiệu có ý định sử dụng cũng được ghi nhận vào sổ. Sổ
theo dõi nhãn hiệu hàng hoá dần dần trở thành sổ đăng bạ nhãn hàng, từ đó
hình thành phương thức đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại toà án (thường gọi là
“Nhãn hiệu trình toà”). Tuy nhiên, lúc đó việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
như vậy được thực hiện theo thông lệ chứ không theo quy định của một văn
bản pháp luật nào.
Luật nhãn hiệu hàng hoá đầu tiên dược hình thành tại Pháp năm 1857.
Tiếp theo là các nước: Italia (1868), Anh (1875), Bỉ (1879), Mỹ (1881), Đức
(1894), Nga (1896) ... Đến nay hầu hết các nước đều đã có luật về nhãn hiệu
hàng hoá. Tuy nhiên, các quy phạm pháp luật này chỉ điều chỉnh vấn đề bảo
hộ thương hiệu trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Trong khi đó, việc tham gia
thương mại quốc tế là một đòi hỏi tất yếu hiện nay đối với các doanh nghiệp
muốn vươn xa và chiếm lĩnh thị trường. Điều đó không chỉ gây khó khăn cho
các doanh nghiệp mà còn cho các quốc gia trong việc kiểm soát việc bảo hộ
nhãn hiệu hàng hoá.
Trước thực tế đó, các Điều ước quốc tế và Điều ước khu vực lần lượt
được ra đời như: Công ước Paris, Thoả ước Madrid, Nghi định thư Madrid,
Quy chế thiết lập nhãn hiệu thương mại cộng đồng Châu Âu... Một mặt, đó là
những căn cứ pháp lý cơ sở để xây dựng và hoàn chỉnh luật bảo hộ nhãn hiệu
hàng hoá ở các nước thành viên, nhưng quan trọng hơn, đó là những đóng
góp để tạo dựng một Hệ thống đăng ký nhãn hiệu trong thương mại quốc tế,
2. Tác dụng của việc đăng ký nhãn hiệu trong thương mại quốc tế
từ đó thúc đẩy tiến trình hội nhập và hình thành nên một thị trường toàn cầu.
2.1 Đối với các doanh nghiệp thương mại nói chung
18
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 2.1.1 Chống lại hành vi giả mạo và cạnh tranh không lành mạnh
Động cơ làm giàu bất hợp pháp, kiến thức pháp luật hạn chế cộng với
những kẽ hở trong khung pháp luật đã dẫn đến một thực tế: Hàng giả hầu như
đã len lỏi vào tận các ngóc ngách của xã hội hay nói cách khác là không có
lĩnh vực nào, ngành hàng nào mà không có đồ giả. Ngay khi một hàng hoá có
uy tín nhất định trên thị trường thì lập tức xuất hiện một loạt các thương hiệu
tương tự, na ná nhằm gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Không chỉ vậy,
nhiều khi các đối thủ cạnh tranh còn sao chép toàn bộ thương hiệu, cả nhãn
sản phẩm của doanh nghiệp để gắn lên hàng hoá của họ. Không chỉ những
hàng hoá tiêu dùng thông thường bị làm giả, còn nhiều thứ giả khác mà hậu
quả gây ra cho người tiêu dùng khó lường hết được như dược phẩm, thực
phẩm, vật liệu xây dựng,... Các loại hàng giả đó xuất hiện trong mọi lĩnh vực
của hoạt động thương mại, từ sản xuất, tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ trong
nước đến hàng hoá xuất nhập khẩu.
Hiện nay, nạn làm hàng giả đang chiếm tỷ lệ lớn, tới 5- 7% giá trị
thương mại toàn cầu, hàng năm gây thiệt hại về mặt kinh tế khoảng 2-3 tỷ Euro3. Tại Việt Nam, theo thống kê của Cục quản lý thị trường, cứ một mặt
hàng mới ra đời sẽ có 10 mặt hàng cùng loại trên thị trường xuất hiện với mẫu
mã giống hệt hoặc tương tự như thế với chất lượng kém hơn và đương nhiên
giá cả cũng thấp hơn giá của hàng chính hiệu. Không chỉ có các sản phẩm
hàng hoá bị làm giả mà ngay cả sản phẩm dịch vụ cũng bị làm giả. Theo ông
Hồ Huy, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Mai Linh cho biết “sự xuất hiện
của hãng giả taxi Mai Linh" đã khiến hãng bị thiệt hại tới 2,7 tỷ đồng trong
một năm. Không riêng taxi Mai Linh mà nhiều hãng taxi có uy tín khác cũng
bị treo biển giả như Festival, Vina, Saigon Tourist,...
3 Theo: “Hội thảo về thực thi quyền Sở hữu trí tuệ” tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh: 27/05/2002- 31/05/2002.
19
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Nạn hàng giả ngày càng trở thành nỗi ám ảnh của các doanh nghiệp làm
ăn chân chính, là một trong những thách thức lớn trên con đường khẳng định
uy tín và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
Trước tình hình đó, việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá chính là công cụ
hiệu quả để chống lại hành vi giả mạo và cạnh tranh không lành mạnh. Một
nhãn hiệu hàng hoá đã được pháp luật công nhận bảo hộ sẽ cho phép doanh
nghiệp căn cứ vào các công cụ pháp lý có liên quan để bảo vệ quyền lợi của
mình, ngăn chặn có hiệu quả hành vi vi phạm nhãn hiệu hàng hoá đã được
bảo hộ. Vì vậy, để tránh rơi vào tình trạng “ mất bò mới lo làm chuồng”, hay
việc đổ tiền bạc, thời gian cho các vụ kiện tụng, các doanh nghiệp hãy biến
việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu thương mại thành việc làm đầu tiên mỗi khi có
ý định gây dựng một nhãn hiệu hay một mặt hàng nào đó bởi bảo hộ thương
hiệu là bảo vệ chính mình.
2.1.2 Tạo khả năng độc quyền khai thác thương hiệu
Nguyên tắc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá là cho phép chủ sở hữu được độc
quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá đã được bảo hộ nhằm mục đích kinh
doanh. Do đó, một khi chủ sở hữu đăng ký và được bảo hộ nhãn hiệu thì họ sẽ
có quyền gắn nhãn hiệu đó lên hàng hoá, bao bì, giấy tờ giao dịch trong hoạt
động kinh doanh và quảng cáo nhãn hiệu của mình thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng như đài, báo, truyền hình, biển quảng cáo... Độc quyền
khai thác nhãn hiệu tạo cho doanh nghiệp khả năng lập chiến lược phân phối
và kiểm soát thị trường cho sản phẩm của mình một cách hợp lý. Tất cả
những hoạt động này sẽ đảm bảo cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp
diễn ra một cách trôi chảy, lành mạnh và đạt hiệu quả cao nhất.
Mặt khác, việc bảo hộ quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá với nội dung
đảm bảo tính độc quyền sử dụng nhãn hiệu sẽ tạo cho doanh nghiệp tâm lý an
toàn. Đồng thời, nó cũng khuyến khích các doanh nghiệp không ngừng hoàn
20
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ thiện sản phẩm, nghiên cứu và phát triển những sản phẩm mới đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của xã hội.
2.1.3 Thúc đẩy hợp tác, liên doanh liên kết và chuyển giao công nghệ
Nhờ giá trị có được từ tiềm năng khai thác thương mại của thương hiệu
trên thị trường mà quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá được xác định giá trị và
trở thành tài sản góp vốn khi liên doanh, liên kết sản xuất, phân phối sản
phẩm. Một số nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam đã được xác định giá trị
tới vài triệu USD và dùng để góp vốn liên doanh như nhãn hiệu Viso cho sản
phẩm bột giặt, P/S cho kem đánh răng,...
Không chỉ được định giá cao trong liên doanh, liên kết, quyền sở hữu
nhãn hiệu hàng hoá còn gắn liền với việc chuyển giao công nghệ. Ở Việt
Nam, rất nhiều trường hợp người nước ngoài đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng
hoá nhằm mục đích chào bán quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá mà họ được
bảo hộ cho các tổ chức sản xuất, kinh doanh của Việt Nam (mua bán Lixăng).
Hiện nay, việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo Lixăng đã bắt đầu hình
thành và đang trở thành một biện pháp hữu hiệu để thúc đẩy sản xuất, đổi mới
công nghệ, đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu ở các nước, nhất
là ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Thái Lan. Năm 1997, số hợp đồng
lixăng đã được đăng ký là 221, trong đó có 26 hợp đồng được ký giữa các
doanh nghiệp Việt Nam, 23 hợp đồng được ký kết giữa các doanh nghiệp nước ngoài và 172 hợp đồng giữa doanh nghiệp Việt Nam với nước ngoài4.
Điều đó chứng tỏ hoạt động sở hữu công nghiệp đã có tác động trực tiếp đến
việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam và giữa các cơ sở
trong nước với nhau.
4 Theo Cục Sở hữu công nghiệp Việt Nam, nay là Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam
21
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Ngoài ra, trong thương mại quốc tế, việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
hàng hoá còn có thêm các tác dụng sau:
2.1.4 Thâm nhập thị trường nước ngoài dễ dàng
Nền kinh tế toàn cầu đang tiến đến một sân chơi chung với luật lệ hài
hoà và thống nhất. Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong hoạt động
xuất nhập khẩu, hoạt động thương mại quốc tế ngày càng trở nên thông
thoáng. Tuy nhiên, để bảo hộ nền sản xuất nội địa, các nước đều dựng lên các
tiêu chuẩn khéo léo nhằm hạn chế sự xâm nhập của hàng hoá nước ngoài.
Xuất phát từ thực tế đó cộng với ý nghĩa quan trọng của bảo hộ thương hiệu
mà quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá trở thành một trong những rào cản để
thông quan hàng hoá. Các Giấy chứng nhận thương hiệu chỉ có giá trị trong
phạm vi một lãnh thổ nhất định, thông thường là lãnh thổ quốc gia. Khi xuất,
nhập hàng hoá vào một lãnh thổ quốc gia khác, nếu các doanh nghiệp không
quan tâm đến việc mở rộng phạm vi bảo hộ của văn bằng hoặc đăng ký bảo
hộ thương hiệu của mình trên lãnh thổ quốc gia đó, việc lưu thông hàng hoá
có thể bị ngăn cấm hoặc chỉ suôn sẻ sau khi doanh nghiệp đã tốn nhiều công
sức và chi phí. Khi đó, cơ hội kinh doanh và các khoản lợi nhuận có thể đã
tuột khỏi tay doanh nghiệp.
2.1.5 Đứng vững trước rào cản cạnh tranh không lành mạnh tại thị trường nước ngoài
Trong bất kỳ một môi trường kinh doanh nào, hàng hoá của doanh
nghiệp đều phải cạnh tranh với vô vàn hàng hoá cùng loại do các doanh
nghiệp trong nước sản xuất cũng như được nhập khẩu từ nhiều nước khác
nhau. Song mỗi môi trường cạnh tranh có đặc điểm riêng chịu sự điều chỉnh
của một hành lang pháp lý riêng. Quy tắc “đào thải” sẽ dễ dàng loại bỏ doanh
nghiệp nào lơ là với những quy tắc riêng đó. Bởi vậy, thích ứng và đối phó
thành công với hoạt động cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường ngoài
22
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ nước là một thách thức với doanh nghiệp ngay cả khi doanh nghiệp đã tạo
dựng được một thương hiệu uy tín với những sản phẩm có năng lực cạnh
tranh cao.
Pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của các nước có thể khác nhau
nhưng đều đảm bảo quyền lợi chính đáng của chủ sở hữu hợp pháp nhãn hiệu
hàng hoá, đó là quyền yêu cầu bảo vệ quyền lợi khi bị người khác xâm phạm,
quyền sử dụng nhãn hiệu và quyền chuyển giao quyền sở hữu nhãn hiệu hàng
hoá. Do đó, bảo hộ thương hiệu trong thương mại quốc tế mà cụ thể là bảo hộ
thương hiệu trên các thị trường doanh nghiệp hoạt động hoặc có ý định kinh
doanh là một lá chắn vững chắc bảo vệ doanh nghiệp trước những đòn tấn
công khó lường của các đối thủ cạnh tranh.
2.1.6 Góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế
Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đã tham gia các Điều ước quốc
tế về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Thay vì phải đăng ký bảo hộ thương hiệu tại
mỗi nước mà doanh nghiệp có ý định kinh doanh, doanh nghiệp của các nước
thành viên chỉ cần đăng ký tại một địa điểm quy định và Giấy chứng nhận bảo
hộ thương hiệu sẽ có giá trị trong phạm vi lãnh thổ mà Điều ước quốc tế đó có
hiệu lực. Ngoài ra, các Điều ước còn cho phép được bảo hộ nhãn hiệu hàng
hoá ngay cả ở những nước mà doanh nghiệp chưa sẵn sàng kinh doanh. Khi
ấy, bảo hộ thương hiệu trong thương mại quốc tế chính là một trong những
yếu tố gợi mở nhu cầu mở rộng và phát triển kinh doanh trong phạm vi các
quốc gia.
Ngoài ra, việc bảo hộ thương hiệu trong thương mại quốc tế thông qua
các Điều ước quốc tế còn đảm bảo cho quá trình lưu thông hàng hoá giữa các
quốc gia được thông suốt, khắc phục tâm lý e ngại và tạo dựng sự tự tin cho
các doanh nghiệp khi thâm nhập thị trường nước ngoài.
2.2 Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nói riêng
23
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 2.2.1 Khắc phục khả năng tài chính hạn hẹp
Trong thời gian gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam hết sức bàng hoàng
trước hiện tượng một số thương hiệu hàng hoá nổi tiếng của mình bị chính
các đối tác nước ngoài chiếm đoạt bằng cách đăng ký trước nhãn hiệu đó với
cơ quan bảo hộ sở hữu công nghiệp ở nước ngoài. Việc mất nhãn hiệu gây tổn
hại trực tiếp tới tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt
Nam, buộc họ phải từ bỏ thị truờng đó hoặc phải mất công gây dựng lại một
nhãn hiệu khác để thâm nhập thị trường. Còn nếu muốn giành lại nhãn hiệu
của mình, chắc chắn các doanh nghiệp sẽ phải theo đuổi các vụ kiện tụng tốn
kém. Để lấy lại thương hiệu của mình tại Mỹ, Vifon phải mất hơn 1 năm và
chi phí gần 10.000 USD; Vinamilk cũng đã mất khoảng 20.000 USD mới đòi
lại được nhãn hiệu của chính mình,... So với lệ phí đăng ký trung bình
200USD cho một thương hiệu hàng hoá (xét mặt bằng chung trên thế giới) thì
đó là những khoản tiền không nhỏ đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
2.2.2 Khắc phục hiểu biết hạn chế về thị trường đối tác
Tâm lý làm ăn nhỏ hẹp, làm riêng lẻ, ngày nào biết ngày đó cộng với khả
năng tài chính hạn chế khiến cho hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam rất
chậm trong việc tiếp cận thông tin và trì hoãn công việc khảo sát, thăm dò thị
trường đối tác. Trong khi đó, Nhà nước ta cũng như bản thân các doanh
nghiệp đều hy vọng tiếp cận với các thị trường xuất khẩu mạnh như Mỹ,
Nhật, Nga, EU,... Chiến đấu được trên những thị trường rộng lớn đó chỉ với
lượng thông tin rất hạn chế là một thách thức lớn với các doanh nghiệp Việt
Nam. Một trong những giải pháp cho vấn đề này chính là đăng ký bảo hộ
thương hiệu - công cụ hữu hiệu đảm bảo một môi trường lành mạnh cho các
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên mọi thị trường.
2.2.3 Tạo chỗ đứng và nâng cao vị thế của hàng Việt Nam
24
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Hàng Việt Nam hiện xuất khẩu chủ yếu phải qua nước thứ ba, dưới
thương hiệu của nước trung gian. Thế giới chủ yếu biết đến Việt Nam như là
một nước xuất khẩu nông sản nhưng thế giới không thể nhận biết đâu là sản
phẩm sản xuất tại Việt Nam. Đây là một trong những lý do quan trọng giải
thích tại sao sản phẩm Việt Nam dù là đặc sản nhưng vẫn khó xuất khẩu, giá
cả bấp bênh, thu nhập của nông dân có xu hướng giảm. Khi các doanh nghiệp
quan tâm phát triển thương hiệu của riêng mình và đăng ký bảo hộ thương
hiệu đó, họ đã góp phần tạo dựng bộ mặt cho quốc gia.
III. THỰC TRẠNG NHẬN THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM VỀ VIỆC ĐĂNG KÝ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ
1. Thực trạng việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trong nước
Nhìn chung, việc bảo hộ bản quyền nhãn hiệu sản phẩm trên thị trường
Việt Nam trong những năm qua đã thu được một số thành công nhất định. Hệ
thống luật về bản quyền nhãn hiệu sản phẩm được hình thành và phát triển
một cách hoàn thiện hơn đã dần dần đáp ứng được những đòi hỏi của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, hoạt động đăng ký nhãn hiệu
hàng hoá trên thị trường cũng diễn ra hết sức sôi động. Nhận thức của các
doanh nghiệp về ý nghĩa to lớn của nhãn hiệu ngày càng rõ ràng và cụ thể
hơn. Các doanh nghiệp đã dần dần khắc họa được hình ảnh của mình nhờ chất
lượng, uy tín của sản phẩm. Điều đó được thể hiện rất rõ ở thực tế ngày càng
nhiều các đơn xin đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của các doanh nghiệp gửi tới
Cục sở hữu công nghiệp (nay là Cục sở hữu trí tuệ). Nếu trong suốt thời kỳ
1982-1988, số đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá chỉ có 461 đơn thì con số
khiêm tốn này đã tăng lên một cách rất nhanh chóng và rõ rệt trong những
năm của thập kỷ 90, đặc biệt là năm 1999 với 2380 đơn, năm 2000 là 3483
đơn. Theo thống kê không chính thức của Cục Sở hữu trí tuệ, chỉ riêng 9
25
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ tháng đầu năm 2003, số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá đã lên tới con
số hàng nghìn. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp Việt Nam đã có nhận
thức nhất định về tầm quan trọng của việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá (xem
thêm Hình 2 và Hình 3).
Hình 2: Số đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá 1982- 2002
Số đơn nhón hiệu hàng hoỏ nộp trực tiếp
Năm
Tổng số
1234
487
1482
2360
4617
6136
4131
5633
5441
4810
3642
4166
5882
6345
1982-1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Của người Việt Nam 461 255 890 1747 1595 2270 1419 2217 2323 1645 1614 2380 3483 3095 6541
Của người nước ngoài 773 232 592 613 3022 3866 2712 3416 3118 3165 2028 1786 2399 3250 2277
8818
Tổng số
31228
32244
63472
Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam
Mặc dù vậy, phải thừa nhận một thực tế là các doanh nghiệp Việt Nam
còn khá dè dặt trong việc đầu tư xây dựng hình ảnh và nhãn hiệu sản phẩm.
Điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân mà trước hết là do doanh nghiệp,
26
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn chưa nhận thức được đầy đủ về
Hình 3: Số nhãn hiệu hàng hoá đã được đăng ký 1982- 2001
Số nhãn hiệu hàng hoá đã đăng ký
Năm
Tổng số
Của người Việt Nam
Của người nước ngoài
1170
265
380 423 1525
388
1550 688 1913
1487
1821
3308
1359
2137
3532
1744
2342
4086
1627
2965
4592
1383
2548
3931
980
1506
2486
1095
2016
3111
1299
2499
3798
1423
1453
2876
2085
1554
1982-1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
3639
16846
22664
39510
Tổng số
Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam
những ích lợi mà nhãn hiệu sản phẩm mang lại.
Theo kết quả cuộc khảo sát tiến hành với gần 500 doanh nghiệp trong kế
hoạch thực hiện dự án “Hỗ trợ doanh nghiệp về năng lực xây dựng-quảng bá
thương hiệu” do Sở Thương mại thành phố Hồ Chí Minh và Báo Sài Gòn tiếp
thị tiến hành (tháng 8-11/2002) thì hiện nay, mức chi trung bình cho nhãn hiệu
thương mại của doanh nghiệp nhà nước chỉ là 2,6% doanh số và doanh nghiệp
27
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ tư nhân là 5,4% doanh số5. Tuy các doanh nghiệp đều tỏ ra quan tâm tới vấn
đề này song hầu hết họ coi trọng việc phát triển sản phẩm và tiêu thụ hàng
hơn nhiều so với việc xây dựng nhãn hiệu sản phẩm. Chỉ có 30% doanh
nghiệp nghĩ rằng nhãn hiệu sẽ giúp bán hàng được giá hơn nhiều và đem lại
niềm tự hào cho người tiêu dùng sản phẩm. 16% trong số các doanh nghiệp
có bộ phận chuyên trách về hoạt động marketing; ở một số doanh nghiệp thì
bộ phận này vẫn do giám đốc trực tiếp phụ trách. Có đến 80% doanh nghiệp
không có chức danh quản lý nhãn hiệu (khối doanh nghiệp nhà nước có chức
danh quản lý nhãn hiệu nhiều hơn các doanh nghiệp khác) và 20% số doanh
nghiệp không dành chi phí cho xây dựng thương hiệu. Ngoài ra, một phần ba
số doanh nghiệp được khảo sát không chi cho dịch vụ bên ngoài bởi theo họ
các tổ chức cung cấp dịch vụ không hiểu và chưa đáp ứng được yêu cầu của
doanh nghiệp, không đem lại hiệu quả như họ mong muốn.
Mặt khác, do kiến thức pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của các
chủ doanh nghiệp còn chưa đầy đủ nên khi đăng ký nhãn hiệu hàng hoá còn
gặp nhiều khó khăn (đơn không đúng yêu cầu, bộ hồ sơ không đầy đủ...).
Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp chỉ đi đăng ký lấy lệ mà không tận dụng
2. Thực trạng việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ở thị trường nước ngoài
được hết quyền đối với chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá.
Hàng năm, Cục sở hữu công nghiệp Việt Nam (nay là Cục Sở hữu trí tuệ
Việt Nam) nhận được trực tiếp thông qua thoả ước Madrid hàng nghìn đơn
của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam.
Trong khi đó, số đơn đăng ký của người Việt Nam ra nước ngoài chỉ có hơn
100 đơn. Và trong số 95.000 nhãn hiệu đăng ký bảo hộ tại Cục Sở hữu trí tuệ
Việt Nam chỉ có hơn 20% là của doanh nghiệp Việt Nam. Đa số nhãn hiệu
5 Theo: “Thương hiệu Việt” (Dự án “Hỗ trợ doanh nghiệp về năng lực xây dựng - quảng bá thương hiệu”). Nhà xuất bản trẻ và Câu lạc bộ doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao, 12/2002
28
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ đăng ký lại là của các doanh nghiệp tư nhân, rất ít doanh nghiệp nhà nước
tham gia. Các doanh nghiệp nhà nước ỷ thế được bảo hộ mà không coi trọng
sở hữu thương hiệu của chính mình. Nhiều trường hợp các doanh nghiệp nhà
nước, đặc biệt là các Tổng công ty, không thèm đăng ký sở hữu thương hiệu
ngay trong nước. Đến khi doanh nghiệp muốn đăng ký nhãn hiệu ở nước
ngoài để xuất khẩu thì thường được yêu cầu phải có đăng ký ở trong nước, lúc
đó họ mới vội vã đi đăng ký thương hiệu. Tuy nhiên, thủ tục đăng ký thường
kéo dài hàng năm dẫn đến mất cơ hội làm ăn với nước ngoài.
Trên thị trường Mỹ, trong vài năm trở lại đây, rất nhiều thương hiệu Việt
Nam đã hoặc đang có nguy cơ mất thương hiệu do bị các công ty nước ngoài
đăng ký trước. Thế nhưng, cho đến tháng 3/2002 mới chỉ có 186 đơn đăng ký
của các nhà xuất khẩu Việt Nam gửi đến Văn phòng Sáng chế và Thương hiệu
Mỹ (USPTO) - con số quá nhỏ bé so với trên 3 triệu nhãn hiệu mà USPTO
đang quản lý. Trong khi đó, năm 92 có 1132 hồ sơ, năm 93 đã có đến 1939 hồ
sơ của các công ty Mỹ đăng ký thương hiệu ở Việt Nam.
Nhìn chung, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn chưa có ý thức
bảo vệ quyền lợi của chính mình. Họ chỉ tập trung vào sản xuất, ký các hợp
đồng xuất khẩu mà chưa lưu tâm đến việc phải làm sao để thương hiệu của
mình được thừa nhận một cách hợp pháp. Chính vì vậy, các nhà sản xuất-xuất
khẩu hiện rất bị động trong việc đăng ký, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ các sản
phẩm của mình. Khi nào sản phẩm đó bị xâm phạm, hoặc nguy cơ mất thương
hiệu cận kề mới vội vã đi đăng ký quyền sở hữu thương hiệu. Khi đó doanh
nghiệp vừa mất thời gian, chi phí, lại phải tham gia quá trình kiện tụng, thiệt
hại có khi lên tới hàng triệu đô la. Và nguy hại hơn là nếu thương hiệu bị mất,
doanh nghiệp sẽ phải đổi tên hoặc chấp nhận mất thị trường. Mặt khác, đa số
các doanh nghiệp không lưu giữ đầy đủ hồ sơ, giấy tờ chứng minh nguồn gốc,
công nghệ sản xuất sản phẩm của mình. Đến khi có hành vi xâm phạm quyền
29
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ sở hữu, muốn chứng minh sản phẩm đó, công nghệ đó là của mình nhưng
đành chịu vì không có đủ tài liệu. Đây chính là một tổn thất không đáng có.
CHƯƠNG II
ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ
TẠI THỊ TRƯỜNG HOA KỲ
I. CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ CỦA HOA KỲ VỀ NHÃN HIỆU
HÀNG HOÁ
1. Các Điều ước Quốc tế về nhãn hiệu hàng hoá mà Hoa Kỳ là thành viên6
1.1 Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp
Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp được ký kết ngày
20.3.1883 tại Paris và được xem xét lại tại Brussels năm 1990, tại Washington
năm 1911, tại La Hay năm 1925, tại London năm 1934, tại Lisbon năm 1958,
tại Stockholm năm 1967 và được sửa đổi vào năm 1979. Tính đến nay, Công
ước này đã có 164 thành viên tham gia. Việt Nam và Hoa Kỳ đều là thành
viên của Công ước này.
Các quy định của Công ước Paris đề cập đến 3 vấn đề lớn: (i) nguyên tắc
đối xử quốc gia, (ii) quyền ưu tiên, và (iii) một số nguyên tắc chung đối với
6 Theo: “Các Điều ước Quốc tế về Sở hữu trí tuệ trong quá trình hội nhập”, Cục Sở hữu Công nghiệp Việt Nam (nay là Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam) và Viện Sở hữu trí tuệ Liên bang Thuỵ Sỹ, 2002
30
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp mà các nước thành viên phải tuân
thủ.
1.1.1 Nguyên tắc đối xử quốc gia
Công ước Paris quy định rằng đối với việc bảo hộ sở hữu công nghiệp,
mỗi nước thành viên phải dành cho công dân của các nước thành viên khác sự
bảo hộ tương tự như sự bảo hộ dành cho công dân của nước mình. Chế độ đối
xử quốc gia tương đương cũng phải được dành cho công dân của những nước
không phải là thành viên của Công ước Paris nếu họ cư trú tại một nước thành
viên hoặc họ có cơ sở kinh doanh tại một nước thành viên. Quy định về chế
độ đối xử quốc gia được đặt ra không chỉ nhằm bảo đảm quyền của người
nước ngoài được bảo hộ mà còn đảm bảo rằng họ không bị phân biệt đối xử
theo bất kỳ cách nào liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Các
quy định của luật pháp quốc gia liên quan đến thủ tục xét xử và thủ tục hành
chính, thẩm quyền xét xử, việc lựa chọn địa chỉ giao dịch hoặc chỉ định đại
diện được bảo lưu.
1.1.2 Quyền ưu tiên
Công ước Paris quy định quyền ưu tiên đối với sáng chế, mẫu hữu ích,
nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp. Cụ thể là trên cơ sở một đơn đăng ký
nhãn hiệu hàng hoá hợp lệ đầu tiên đã được nộp tại một trong số các nước
thành viên, trong thời hạn 6 tháng, người chủ sở hữu có thể nộp đơn yêu cầu
bảo hộ tại bất cứ nước thành viên nào khác và các đơn nộp sau sẽ được coi
như là đã được nộp vào cùng ngày với ngày nộp đơn đầu tiên. Nói cách khác,
những đơn nộp sau đó sẽ có quyền ưu tiên đối với các đơn có thể đã được
những người khác nộp trong khoảng thời gian ưu tiên nói trên. Ngoài ra,
những đơn nộp sau dựa trên cơ sở đơn nộp đầu tiên sẽ không bị ảnh hưởng
bởi bất cứ sự kiện nào có thể xảy ra trong khoảng thời gian ưu tiên, chẳng hạn
như việc bán các sản phẩm mang nhãn hiệu được đăng ký... Một trong lợi ích
31
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ thiết thực nhất của quy định này là khi người nộp đơn muốn đạt được sự bảo
hộ ở một số nước, họ không buộc phải nộp đồng thời tất cả các đơn tại các
nước xuất xứ và các nước khác mà có 6 tháng để quyết định xem nên nộp đơn
yêu cầu bảo hộ ở những nước nào và tiến hành thủ tục nộp đơn ở các nước
được chọn lựa.
Việc rút hoặc từ chối đơn đầu tiên không làm mất khả năng được hưởng
quyền ưu tiên của người nộp đơn. Người nộp đơn có thể yêu cầu hưởng quyền
ưu tiên từ nhiều đơn như có thể yêu cầu hưởng quyền ưu tiên từ một phần của
một đơn nộp trước.
1.1.3 Các nguyên tắc chung
Công ước Paris không quy định các điều kiện nộp đơn và đăng ký nhãn
hiệu mà dành việc này cho luật quốc gia của các nước thành viên. Một khi
nhãn hiệu được đăng ký tại một nước thành viên, đăng ký đó sẽ độc lập với
đăng ký có thể có tại bất cứ nước thành viên nào khác, kể cả nước xuất xứ.
Do đó, nếu đăng ký nhãn hiệu bị mất hiệu lực tại một nước thành viên thì
cũng sẽ không ảnh hưởng đến hiệu lực của đăng ký nhãn hiệu đó tại các nước
thành viên khác.
Khi nhãn hiệu đã được đăng ký hợp lệ tại nước xuất xứ, người đăng ký
nhãn hiệu đó có thể nộp đơn bảo hộ tại các nước khác với hình thức ban đầu
của nhãn hiệu đó. Tuy nhiên, đăng ký có thể bị từ chối trong một số trường
hợp nhất định, chẳng hạn như nhãn hiệu có khả năng xâm phạm quyền đã
đăng ký của các bên thứ ba, nhãn hiệu không có khả năng phân biệt, nhãn
hiệu trái với đạo đức hoặc trật tự công cộng hoặc nhãn hiệu có khả năng lừa
dối công chúng. Tại bất kỳ nước thành viên nào, nếu việc sử dụng nhãn hiệu
đã đăng ký là bắt buộc, không thể huỷ bỏ đăng ký sau một thời gian hợp lý và
chỉ trong trường hợp chủ sở hữu không chứng minh được lý do chính đáng
của việc không sử dụng nhãn hiệu.
32
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Mỗi nước thành viên phải từ chối đăng ký, huỷ bỏ đăng ký và cấm sử
dụng các nhãn hiệu là bản sao chép, mô phỏng, hoặc dịch nghĩa có khả năng
gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được cơ quan có thẩm quyền của nước đó coi là
nhãn hiệu nổi tiếng của người khác ở nước đó cho những hàng hoá cùng loại
hoặc tương tự. Thời hạn yêu cầu huỷ bỏ đăng ký nhãn hiệu như vậy không
được ít hơn 5 năm kể từ ngày đăng ký nhãn hiệu. Tuy nhiên, nếu nhãn hiệu
được đăng ký hoặc sử dụng với ý định xấu, sẽ không được hạn chế thời hạn
yêu cầu huỷ bỏ đăng ký hoặc ngăn cấm sử dụng.
Tương tự, mỗi nước thành viên phải từ chối đăng ký hoặc cấm sử dụng
các nhãn hiệu chứa các biểu tượng quốc gia và các dấu hiệu chính thức mà
không được phép, với điều kiện các dấu hiệu, biểu tượng đó đã được thông
báo cho ban thư ký của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới. Quy định tương tự
cũng áp dụng cho huy hiệu, cờ, biểu tượng khác, các chữ viết tắt và tên của
các tổ chức quốc tế liên chính phủ.
Nếu đại lý hoặc người đại diện của chủ nhãn hiệu tại một trong số các
nước thành viên không được phép của chủ nhãn hiệu mà vẫn nộp đơn đăng ký
nhãn hiệu cho chính mình tại nước thành viên khác thì chủ nhãn hiệu có
quyền phản đối việc đăng ký hoặc đề nghị huỷ bỏ đăng ký đó hoặc đề nghị
sang tên đăng ký đó cho mình, trừ trường hợp đại lý hoặc người đại diện đó
biện hộ được cho hành động của mình.
Quy định ân hạn cho việc nộp tiền duy trì hiệu lực quyền sở hữu công
nghiệp cũng được áp dụng cho việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Người nộp
phí gia hạn muộn phải nộp thêm một khoản phí phụ trội nhất định. Các nước
thành viên có nghĩa vụ phải quy định ân hạn ít nhất là 6 tháng kể từ ngày kết
thúc kỳ hạn hiệu lực, nhưng được tự do quy định mức phí phụ trội.
1.2 Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)
33
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập năm 1995 sau khi
kết thúc vòng đàm phán Uruguay trong khuôn khổ Hiệp định chung về thuế
quan và thương mại (GATT). Các thành viên của WTO đã đưa ra một hệ
thống các quy tắc đối với thương mại quốc tế nhằm mục đích tự do hoá và mở
rộng thương mại trên nguyên tắc có đi có lại và cùng có lợi. Hệ thống đó bao
gồm cả các quy tắc về sở hữu trí tuệ.
Nội dung bảo hộ sở hữu trí tuệ được đưa vào GATT là một bằng chứng
thừa nhận mối liên hệ ngày càng tăng giữa sở hữu trí tuệ và thương mại. Việc
bảo hộ sở hữu trí tuệ không thoả đáng bị coi là thực tiễn thương mại thiếu
lành mạnh và là rào cản đối với thị trường tự do và mở cửa. Khi đó, các đối
thủ cạnh tranh không cần đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D) mà có
thể bắt chước, sao chép và bán các sản phẩm với giá rẻ hơn nhiều. Kết quả là
các nhà sản xuất chân chính không có khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận cần
thiết để tiếp tục duy trì hoạt động cải tiến và sáng tạo, bao gồm cả việc tạo ra
các sản phẩm mới. Chừng nào nạn hàng giả, hàng nhái còn phổ biến thì chủ
nhãn hiệu hợp pháp khó có thể kinh doanh có lãi tại thị trường đó.
Thực tế đó của thương mại quốc tế tạo nên sự cần thiết phải hình thành
và phát triển một tư duy mới đối với sở hữu trí tuệ trên góc độ thương mại.
Kết quả là Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ (TRIPS) được ký kết ngày 15/04/1994 và bắt đầu có hiệu lực từ
ngày 01/01/1995 cùng với sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Con đường tới WTO và Hiệp định TRIPS bắt đầu từ sau Đại chiến
Thế giới II với việc thành lập GATT nhằm duy trì luật lệ chung về thương mại
quốc tế. Việc bảo hộ sở hữu trí tuệ lần đầu tiên được bàn tới trong chương
trình nghị sự của GATT tại vòng đàm phán về luật chống hàng giả ở Tokyo
năm 1978. Tuy vậy, chỉ đến vòng đàm phán Uruguay của GATT, ý tưởng đó
mới thực sự trở thành hiện thực với việc thông qua Hiệp định TRIPS.
34
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Hiệp định TRIPS thừa nhận tầm quan trọng của việc bảo hộ sở hữu trí
tuệ đối với hoạt động thương mại và đầu tư và các thiệt hại đối với các quyền
lợi thương mại hợp pháp khi quyền sở hữu trí tuệ không được bảo hộ và thực
thi thoả đáng và hiệu quả. Điều 7 của Hiệp định quy định rằng việc bảo hộ và
thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ “góp phần thúc đẩy cải tiến, chuyển giao và
phổ biến công nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và người sử dụng
công nghệ, cũng như lợi ích kinh tế xã hội nói chung và bảo đảm sự cân bằng
giữa quyền và nghĩa vụ”.
Có thể nói Hiệp định TRIPS đã mang lại những thay đổi căn bản trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nói riêng.
Hiệp định đã khẳng định lại và mở rộng các chuẩn mực và quy định của Công
ước Paris và Công ước Berne, làm thay đổi bộ mặt của luật sở hữu trí tuệ.
Ngoài việc đồng nhất hoá về pháp luật, Hiệp định TRIPS còn tiến tới loại bỏ
các quy định về hành chính, thủ tục và về kỹ thuật gây bất lợi cho hoạt động
sở hữu trí tuệ quốc tế. Điều quan trọng hơn cả là đây là Điều ước Quốc tế đầu
tiên quy định hệ thống các hình phạt đối với các thành viên không đảm bảo sự
bảo hộ tối thiểu về quyền sở hữu trí tuệ, kể cả các tiêu chuẩn tối thiểu về
nghĩa vụ thực thi quyền. Các hình phạt này hoàn toàn không có trong Công
ước Paris. Ngoài ra, Hiệp ước TRIPS cũng lần đầu tiên đưa ra một nguyên tắc
mới là nguyên tắc “đối xử tối huệ quốc” (MFN): “bất kỳ một sự ưu tiên, chiếu
cố, đặc quyền hoặc sự miễn trừ nào được một Thành viên dành cho một công
dân của bất kỳ nước nào khác cũng phải được lập tức và vô điều kiện dành
cho công dân của tất cả các Thành viên khác” (Điều 4).
Với mục đích chống hàng giả và bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, Hiệp định
quy định các nguyên tắc tổng quát về thủ tục bảo hộ một cách thoả đáng và
hiệu quả quyền sở hữu công nghiệp tại các nước thành viên. Trong phần III và
IV của Hiệp định TRIPS nêu rõ rằng các nước thành viên phải quy định trong
35
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ luật pháp quốc gia của mình các thủ tục cho phép áp dụng các biện pháp có
hiệu quả đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Các quốc
gia thành viên cũng phải quy định một cơ chế nhằm ngăn chặn các hành vi tái
vi phạm các quyền đó và có nghĩa vụ phải áp dụng cả hai biện pháp nói trên
để tránh các rào cản gây trở ngại cho thương mại hợp pháp và các biện pháp
an toàn đối với việc lạm dụng quyền. Hơn thế, các thủ tục và hình thức quy
định đối với việc bảo hộ quyền phải hợp lý và công bằng, không được “phức
tạp và tốn kém đến mức không cần thiết” và không được “kéo dài một cách
bất hợp lý và không có lý do”. Mặt khác, Hiệp định TRIPS cũng quy định
rằng luật nhãn hiệu hàng hoá quốc gia của các nước thành viên phải quy định
một số thủ tục và các thủ tục này phải được công khai đối với chủ sở hữu
nhãn hiệu. Trong số đó có cơ chế thực thi, chẳng hạn như các thủ tục dân sự,
hình sự và hành chính, bao gồm các biện pháp tạm thời, bồi thường thiệt hại,
tiêu huỷ tang vật vi phạm. Hiệp định cũng đề ra yêu cầu thiết lập các thủ tục
kiểm soát hàng giả tại biên giới.
Về phán quyết của các toà án đối với vi phạm bảo hộ nhãn hiệu hàng
hoá, Hiệp định quy định phải được thể hiện bằng văn bản, có nêu rõ lý do và
được thông báo kịp thời cho các bên. Các phán quyết phải dựa trên các bằng
chứng và các bên nhất thiết phải có một cơ hội để trình bày ý kiến. Mặc dù
các nước thành viên không bắt buộc phải thiết lập một hệ thống xét xử riêng,
song nhất thiết phải quy định các thủ tục xem xét tại toà án tất cả các quyết
định hành chính cuối cùng.
Mối quan hệ ngày càng tăng giữa thương mại và sở hữu trí tuệ đã làm
cho nhiều nước đang phát triển thừa nhận rằng sự sống còn của nền kinh tế
thế giới gắn liền với việc bảo hộ sở hữu trí tuệ. Các nước đang phát triển
mong đợi thời gian kéo dài thi hành Hiệp định TRIPS và sẽ được hưởng lợi từ
việc bảo hộ thông qua hệ thống giải quyết tranh chấp của Hiệp định này. Xét
36
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ trong bối cảnh quan hệ toàn cầu, và xem xét quyền sở hữu trí tuệ là động lực
thúc đẩy đầu tư và thương mại, thì việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung
và bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nói riêng là một chiến lược đúng đắn nhằm
đảm bảo sự phát triển bền vững.
1.3 Hiệp ước Luật nhãn hiệu hàng hoá (Trademark Law Treaty)
Hiệp ước Luật nhãn hiệu hàng hoá được thông qua ngày 27/10/1994 tại
Geneva và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/08/1996. Tính đến nay, Hiệp ước
Luật nhãn hiệu hàng hoá đã có 26 thành viên. Hoa Kỳ đã nộp văn kiện gia
nhập cho Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) vào tháng 5 năm 2000.
Mục đích của Hiệp ước là làm đơn giản hoá và hài hoà hoá các quy định
về thủ tục và yêu cầu hành chính của các hệ thống đăng ký nhãn hiệu hàng
hoá quốc gia và khu vực, tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp đơn và chủ sở
hữu nhãn hiệu hàng hoá.
Các quy tắc của Hiệp ước làm rõ những yêu cầu về thủ tục mà cơ quan
nhãn hiệu hàng hoá được phép hay không được phép đòi hỏi người nộp đơn
hoặc chủ sở hữu nhãn hiệu. Hiệp ước không điều chỉnh những quy định nội
dung về đăng ký nhãn hiệu của luật nhãn hiệu hàng hoá.
Các loại nhãn hiệu hàng hoá thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp ước
Điều 2 Hiệp ước quy định về nhãn hiệu hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ.
Vì vậy, khi tham gia Hiệp ước, Nước thành viên phải có nghĩa vụ đăng ký
nhãn hiệu dịch vụ. Hơn nữa, theo Điều 16, Nước thành viên cũng có nghĩa vụ
tuân thủ các quy định của Công ước Paris liên quan đến nhãn hiệu dịch vụ.
Nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận không thuộc phạm vi điều
chỉnh của Hiệp ước, bởi vì các yêu cầu của các quốc gia đối với việc đăng ký
những nhãn hiệu này rất đa dạng khiến cho việc thống nhất rất khó khăn.
Nhãn hiệu hình nổi và nhãn hiệu vô hình, như nhãn hiệu âm thanh và nhãn
hiệu mùi vị cũng không thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp ước vì không dễ
37
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ dàng tạo mẫu các nhãn hiệu đó bằng phương pháp đồ họa và rất ít luật quốc
gia bảo hộ những nhãn hiệu này.
Những dấu hiệu có thể nhìn thấy được đều phải có khả năng được đăng
ký. Chỉ những Nước thành viên nào chấp nhận đăng ký nhãn hiệu hình khối
mới có nghĩa vụ tuân thủ Hiệp ước đối với nhãn hiệu hình khối.
Yêu cầu đối với Đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
Điều 3 Hiệp ước gồm toàn bộ danh mục các thông tin mà Cơ quan cấp
đăng ký nhãn hiệu được phép yêu cầu đối với đơn đăng ký nhãn hiệu. Những
thông tin này có thể là tên và địa chỉ của người nộp đơn và của người đại
diện, tuyên bố yêu cầu hưởng quyền ưu tiên đối với đơn được nộp sớm hơn
(nếu có), một hoặc vài mẫu nhãn hiệu tuỳ thuộc nhãn hiệu đó có phải là nhãn
hiệu màu hoặc hình khối hay không, tên của hàng hoá hoặc dịch vụ xếp theo
nhóm của Bảng phân loại Nice, khai báo về dự định sử dụng nhãn hiệu hàng
hoá hoặc về việc sử dụng thực sự. Ngoài những thông tin được quy định theo
Hiệp ước, Cơ quan cấp đăng ký nhãn hiệu không được yêu cầu những thông
tin khác như đăng ký kinh doanh, chứng cứ về việc người nộp đơn đang tiến
hành hoạt động kinh doanh hoặc lĩnh vực kinh doanh liên quan đến hàng hoá
hoặc dịch vụ được liệt kê trong đơn.
Điều 6 Hiệp ước cũng quy định rằng Cơ quan cấp đăng ký nhãn hiệu
phải chấp nhận đơn đăng ký cho nhiều hàng hoá hoặc dịch vụ thuộc nhiều
nhóm khác nhau trong Bảng phân loại Nice và đơn đó phải tương ứng với một
đăng ký duy nhất.
Yêu cầu đối với người đại diện
Điều 4 Hiệp ước cho phép Cơ quan cấp đăng ký nhãn hiệu hàng hoá yêu
cầu người nộp đơn không có cơ sở công nghiệp hoặc thương mại thực sự,
thường trú và đang hoạt động trên lãnh thổ nước đó phải có đại diện và người
đại diện của người nộp đơn phải là người được phép hoạt động đại diện. Theo
38
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ quy định này, giấy uỷ quyền có thể liên quan đến nhiều đơn đăng ký và có thể
dùng cho các đơn đăng ký trong tương lai.
Yêu cầu về ngày nộp đơn
Người nộp đơn hợp lệ có ý nghĩa quan trọng vì quyền phát sinh trên cơ
sở nộp đơn đầu tiên và đó được coi là ngày ưu tiên đối với đơn được nộp sau
ở những nước khác. Điều 5 quy định những thông tin tối đa có thể yêu cầu đối
với việc ghi nhận ngày nộp đơn hợp lệ. Những thông tin này bao gồm các
thông tin về người nộp đơn, thông tin đầy đủ để liên lạc với người nộp đơn
hoặc người đại diện của người nộp đơn, mẫu nhãn hiệu, danh mục hàng hoá
và dịch vụ xin đăng ký nhãn hiệu... Ngoài ra, để ghi nhận ngày nộp đơn hợp
lệ, Cơ quan cấp đăng ký nhãn hiệu có thể yêu cầu nộp lệ phí nếu luật nhãn
hiệu hàng hoá quốc gia có quy định này trước khi tham gia Hiệp ước.
Điều 7 Hiệp ước quy định rằng nếu việc đăng ký một nhãn hiệu bị từ
chối đối với một số hàng hoá hoặc dịch vụ nhất định, người nộp đơn có thể
tách đơn để tránh bị chậm trễ trong việc được đăng ký những nhãn hiệu hàng
hoá hoặc dịch vụ không bị từ chối và vẫn giữ được ngày nộp đơn đầu tiên
hoặc ngày ưu tiên nếu có. Đồng thời, người nộp đơn có thể tiến hành khiếu
nại đối với đơn có hàng hoá hoặc dịch vụ bị từ chối.
Yêu cầu đối với chữ ký của người nộp đơn
Điều 8 Hiệp ước quy định về chữ ký và những dấu hiệu khác cho phép
xác định người đứng tên tài liệu. Không chỉ riêng với chữ ký viết tay, chữ ký
dưới hình thức in, dán tem hoặc đóng dấu cũng có thể được chấp nhận. Điều
quan trọng là Cơ quan cấp đăng ký không được phép yêu cầu xác nhận chữ ký
(hợp pháp hoá, công chứng, hoặc các hình thức xác nhận khác), trừ khi chữ
ký có liên quan đến việc hủy bỏ đăng ký.
Như vậy, nếu đối chiếu các quy định của Hiệp ước với các quy định về
thủ tục liên quan đến nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam có thể thấy rằng hệ
39
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ thống pháp luật của Việt Nam đã bao gồm phần lớn những yêu cầu được Hiệp
ước cho phép, nhưng cũng bao gồm một số điều bị Hiệp ước cấm và thiếu
một số quy định Hiệp ước bắt buộc phải có. Mặc dù về mặt tài chính, việc
tham gia Hiệp ước không tạo ra nghĩa vụ (không phải đóng niêm liễm) và
cũng không đem lại nguồn thu (Hiệp ước không có cơ quan điều hành riêng
và không có các hoạt động dịch vụ). Tuy nhiên, việc tham gia Hiệp ước sẽ
giúp thủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam hoà nhập với quốc tế,
xoá bỏ các thủ tục phiền phức, các yêu cầu hình thức mang tính chất giấy tờ
quan liêu. Nhờ đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp đơn và đại diện sở
hữu công nghiệp, đồng thời giảm cho Cục Sở hữu trí tuệ những thao tác hành
chính vô ích đối với các giấy tờ không cần thiết.
1.4 Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá trong các Hiệp định song phương
Hoa Kỳ đã ký nhiều Hiệp định song phương về bảo hộ nhãn hiệu hàng
hoá với nhiều quốc gia. Song ở đây, chúng ta cần quan tâm đến Hiệp định
thương mại Việt - Mỹ trong đó có Chương II quy định về quyền sở hữu trí
tuệ.
Nguyên tắc đối xử quốc gia
Ngay trong Điều 3 của Chương II đã nêu rõ nguyên tắc đối xử quốc gia
“Mỗi Bên dành cho công dân của Bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn
sự đối xử mà Bên đó dành cho công dân của mình trong việc xác lập, bảo hộ,
hưởng và thực thi tất cả các quyền sở hữu trí tuệ và mọi lợi ích có được từ các
quyền đó”. Đây là nguyên tắc chủ đạo xuyên suốt các quy định trong Hiệp
định thương mại Việt - Mỹ. Tuy nhiên, nếu so sánh với Thông tư của Bộ Tài
Chính số 23TC/TCT ngày 9 tháng 5 năm 1997 hướng dẫn việc thu, nộp phí và
lệ phí sở hữu công nghiệp thì mức thu đối với người nước ngoài thường cao
hơn so với mức thu đối với người Việt Nam. Như vậy, trong thời gian tới, Việt
40
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ Nam sẽ phải có những giải pháp để phù hợp với Hiệp định đã ký kết với Hoa
Kỳ.
Phạm vi bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá
Để bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách đầy đủ và có hiệu
quả, Hiệp định Việt - Mỹ quy định mỗi Bên tối thiểu phải thực hiện theo
Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (bản được sửa đổi năm 1967).
Vì vậy, những nội dung trong Công ước này mặc nhiên được coi là những quy
định mà Hiệp định yêu cầu hai bên phải tuân thủ. Một Bên cũng có thể thực
hiện việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật của riêng
quốc gia mình ở mức độ rộng hơn so với yêu cầu trong Hiệp định nhưng với
điều kiện là việc bảo hộ và thực thi đó không mâu thuẫn với Hiệp định này.
Nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận cũng thuộc phạm
vi bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Trong mọi trường hợp, tính chất của hàng hoá
hoặc dịch vụ không cản trở việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá.
Hệ thống đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
Xét nghiệm đơn
Thông báo cho người nộp đơn về các lý do từ chối đăng ký nhãn hiệu
hàng hoá
Cơ hội hợp lý dành cho người nộp đơn trình bày ý kiến về thông báo
đó
Công bố nhãn hiệu hàng hoá trước hoặc ngay sau khi nhãn hiệu được
đăng ký
Cơ hội hợp lý dành cho những người có liên quan được yêu cầu huỷ
bỏ hiệu lực đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
Thời hạn hiệu lực của đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
Khoản 8 Điều 6 Hiệp định Việt - Mỹ ghi rõ: “Mỗi Bên quy định rằng
đăng ký ban đầu của một nhãn hiệu hàng hoá có thời hạn ít nhất 10 năm và
41
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ được gia hạn không hạn chế số lần, mỗi lần gia hạn có thời hạn không ít hơn
10 năm, khi các điều kiện gia hạn được đáp ứng”.
Điều kiện duy trì hiệu lực của việc đăng ký
Khoản 9 Điều 6 Hiệp định ghi rõ: “Mỗi Bên yêu cầu việc sử dụng thực
sự nhãn hiệu hàng hoá là điều kiện để duy trì hiệu lực của việc đăng ký (tuy
nhiên, đây không phải là một điều kiện để được nộp đơn). Việc đăng ký có thể
bị đình chỉ hiệu lực do không sử dụng sau thời gian ít nhất là 3 năm liên tục
không sử dụng, trừ trường hợp chủ nhãn hiệu hàng hoá chứng minh được
rằng việc không sử dụng đó là có lý do chính đáng vì có những cản trở đối với
việc sử dụng đó. Pháp luật phải công nhận những điều kiện phát sinh ngoài ý
muốn của chủ nhãn hiệu cho việc sử dụng nhãn hiệu đó, chẳng hạn như việc
chính phủ hạn chế nhập khẩu hoặc quy định các yêu cầu khác đối với hàng
hoá hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu.”
Như vậy, để tạo vị thế vững chắc trên thị trường Mỹ xuất phát từ khía
cạnh nhãn hiệu hàng hoá, các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải nghiên cứu kỹ
lưỡng Công ước quốc tế Paris 1967 và Hiệp định thương mại Việt- Mỹ để
nắm bắt các tiêu chuẩn cơ bản đối với việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Đồng
thời, các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải đi sâu nghiên cứu các văn bản
pháp luật có liên quan tại Mỹ để tìm hiểu các quy định cụ thể. Tiến tới, khi
những nỗ lực gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam
thành công, Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của Quyền
Sở hữu trí tuệ (TRIPS)- một trong các thành phần cấu thành của các quy định
bắt buộc của WTO, sẽ cùng góp phần tạo dựng một khung pháp lý đảm bảo
thuận lợi và mang lại lợi ích tối đa cho những người chủ đích thực của các
2. Luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của hoa kỳ
thương hiệu Việt Nam trên thị trường Mỹ.
42
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Luật của Hoa Kỳ về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá ra đời từ rất sớm, trong
đó phải kể đến công của những nhà sản xuất vải buồm. Năm 1788, những
người này đã đệ trình yêu cầu lên những nhà lập pháp về việc ban hành pháp
luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Cho đến thời điểm đó, từng bang đã ban hành
những quy định của riêng mình nhưng chỉ giới hạn việc bảo hộ đối với nhãn
hiệu của những hàng hoá được sản xuất và lưu thông trong bang đó. Liên
bang mới chỉ công nhận việc bảo hộ đối với nhãn hiệu của những hàng hoá sẽ
được bán ra nước ngoài hay cho các bộ lạc người da đỏ nhưng chưa dựa trên
cơ sở pháp lý. Lúc đó, pháp luật liên bang điều chỉnh vấn đề bảo hộ nhãn hiệu
hàng hoá chưa được hình thành.
Ngày 3/3/1881, Đạo luật đầu tiên về nhãn hiệu hàng hoá được ban hành
dựa trên Điều khoản về thương mại trong Hiến pháp. Đạo luật này điều chỉnh
việc bảo hộ nhãn hiệu của những hàng hoá tham gia thương mại với nước
ngoài hay các bộ lạc người da đỏ.
Đầu thế kỷ XX, một đạo luật mới được ban hành mang tên Đạo luật
20/2/1905 trong đó mở rộng phạm vi bảo hộ đối với nhãn hiệu của những
hàng hoá được lưu thông giữa các bang. Đạo luật này ra đời thực sự là một
dấu hiệu tích cực. Tính đến năm 1905 đã có 16.224 đơn nộp đăng ký bảo hộ
nhãn hiệu hàng hoá, trong đó 415 nhãn hiệu hiện nay vẫn còn được sử dụng như Pepsi Cola, kem dưỡng da Vaseline, bột mì Pillsbury7
Sau đó, Mỹ ban hành Đạo luật ngày 19/3/1920 mở rộng hơn Đạo luật
1905, cho phép áp dụng một số điều khoản của Công ước bảo hộ nhãn hiệu
hàng hoá và tên thương mại được soạn thảo và ký kết tại thành phố Buenos
Aires, nước Cộng hoà Achentina ngày 20 tháng 8 năm 1910 nhằm điều chỉnh
các vấn đề về xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá theo quy trình đăng
ký bổ sung.
7 Theo: http://www.ggmark.com/trademark
43
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Ngày 5 tháng 7 năm 1946, Đạo luật Lanham (Lanham Act) được thông
qua và đã được tập hợp lại trong hệ thống các Đạo luật do Quốc hội Mỹ ban
hành U.S.Code. Đây là một Đạo luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá có hiệu
lực đến ngày nay.
Đạo luật Lanham ra đời đánh dấu một bước hoàn thiện về pháp luật về
bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá ở Hoa Kỳ. Luật này đã được sửa đổi nhiều lần.
Lần sửa đổi quan trọng nhất vào năm 1988 (Trademark Law Revision Act of
1988). Bổ sung cho đạo luật này, năm 1995, chính quyền Liên bang đã ban
hành một đạo luật về bảo vệ các nhãn hiệu nổi tiếng (well-known marks).
Hiện nay, pháp luật về nhãn hiệu hàng hoá Hoa Kỳ được qui định bởi hai
hệ thống pháp luật Liên bang và pháp luật của từng bang trong Hợp chủng
quốc. Luật liên bang chính là Đạo luật Lanham 1946 cùng với những quy
định sửa đổi bổ sung sau này. Đồng thời, hầu như tất cả các bang đều có
những đạo luật riêng về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá với những quy định không
giống nhau về đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Ngoài ra, với đặc điểm là một
nước theo hệ thống pháp luật bất thành văn (Common Law), ngoài những quy
định trong các văn bản luật (Enacted Law), Luật án lệ (Case Law) cũng là
một nguồn quan trọng cho việc điều chỉnh các quan hệ về quyền sở hữu trí tuệ
nói chung và nhãn hiệu hàng hoá nói riêng.
2.1 Những quy định cơ bản về nhãn hiệu hàng hoá trong Luật Liên bang
2.1.1 Đối tượng được bảo hộ
Như đã nói ở mục 1.1 Chương I, nhãn hiệu hàng hoá bao gồm từ ngữ,
tên, biểu tượng, hình vẽ hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó nhằm phân biệt
hàng hoá của một người cung cấp với hàng hoá của một người cung cấp khác.
Đặc trưng của nhãn hiệu hàng hoá là tính phân biệt của nó (distincness) với
các nhãn hiệu khác. Thông qua bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, pháp luật bảo hộ
uy tín (good will) của chủ nhãn hiệu và lợi ích của người tiêu dùng trước hành
44
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ vi gây nhầm lẫn. Nhãn hiệu hàng hoá được áp dụng cho hàng hoá, dịch vụ và
cả những nhãn hiệu xác nhận nguồn gốc, chất lượng, độ nguyên chất... nếu
chúng thoả mãn các yêu cầu của một nhãn hiệu (certification marks).
Trước đây, đạo luật Lanham quy định rằng nhãn hiệu chỉ được đăng ký
nếu hàng hoá dịch vụ mang nhãn hiệu đó đã được sử dụng trong thực tiễn.
Tuy vậy, trong bản sửa đổi vào năm 1988, đạo luật đã nới lỏng quy định này:
người muốn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá chỉ cần chứng minh được là mình có
ý định sử dụng là đủ (bona fide intent to use).
Để đảm bảo tính phân biệt, nhãn hiệu hàng hoá phải có những dấu hiệu
làm nó biệt lập với nhãn hiệu của người khác. Những nhãn hiệu hàng hoá sau
đây không thuộc đối tượng được bảo hộ:
Có chứa các nội dung đi ngược lại với đạo đức như: lừa dối, có nội
dung dèm pha, nói xấu người khác dù còn sống hay đã chết, gây tai tiếng cho
các tổ chức, tôn giáo, biểu tượng quốc gia hoặc làm phương hại đến thanh
danh của các tổ chức, cá nhân đó; hoặc bao gồm chỉ dẫn địa lý được sử dụng
kèm hoặc liên quan tới các mặt hàng rượu hoặc bia lại chỉ dẫn đến một nơi
khác không phải là nơi xuất xứ của hàng hoá đó và chỉ dẫn này lần đầu tiên
được sử dụng với mặt hàng rượu bia là vào ngày hoặc một năm sau khi Hiệp
định WTO có hiệu lực đối với nước Mỹ.
Mang biểu tượng quốc kỳ, biểu tượng của quân đội, biểu tượng của
Hoa Kỳ, của bất kỳ bang nào của Hoa Kỳ hay của bất kỳ một quốc gia nào.
Mang tên, ảnh, chữ ký của một người còn sống trừ khi có sự chấp
thuận bằng văn bản của người này hoặc mang tên, ảnh, chữ ký của một vị
Tổng thống quá cố của nước Mỹ trong khi phu nhân của ông ta vẫn còn sống,
trừ khi có sự đồng ý bằng văn bản của phu nhân đó.
Có dấu hiệu tương tự với một dấu hiệu đã được bảo hộ tại Văn phòng
Sáng chế và Thương hiệu Mỹ hay có dấu hiệu, tên thương hiệu trước đây đã
45
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ được dùng ở Mỹ bởi một người khác và vẫn còn đang được sử dụng và nếu
được dùng gắn với hình ảnh của người nộp đơn đăng ký có thể gây nên nhầm
lẫn, lừa dối khách hàng.
Có dấu hiệu như:
(1) Được sử dụng gắn liền với hàng hoá của người nộp đơn đăng ký chỉ
đơn thuần mang tính mô tả hoặc mô tả sai lệch.
(2) Được sử dụng gắn liền với hàng hoá của người nộp đơn đăng ký
chủ yếu chỉ là hướng dẫn địa lý.
(3) Được sử dụng gắn liền với hàng hoá của người nộp đơn đăng ký
chủ yếu là những hướng dẫn địa lý sai lệch
(4) Gần như là một tên họ
(5) Chỉ đơn thuần mô tả chức năng của hàng hoá.
2.1.2 Phạm vi và thời hạn bảo hộ
Từ sau lần sửa đổi năm 1988, thời hạn bảo hộ của nhãn hiệu hàng hoá
được rút ngắn xuống còn 10 năm (trước đó là 20 năm) kể từ ngày đăng ký.
Thời hạn bảo hộ có thể được gia hạn nhiều lần không hạn chế nếu nhãn hiệu
vẫn được sử dụng trong thực tế.
Đạo luật Lanham Act 1946 điều chỉnh việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá
trong thương mại giữa các bang và trong hoạt động thương mại có yếu tố
nước ngoài. Các nhà xuất khẩu Việt Nam khi đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng
hoá của mình tại Mỹ theo luật này cũng sẽ phải tuân theo các quy định và
được hưởng những quyền lợi như người địa phương.
2.1.3 Nguyên tắc bảo hộ
Nguyên tắc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá theo Luật Lanham là nguyên tắc
sử dụng trước (first to use system). Theo nguyên tắc này, bất kỳ ai sử dụng
trước nhãn hiệu hàng hoá đều có quyền đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Theo đó,
46
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ việc đăng ký một nhãn hiệu tại cơ quan có thẩm quyền chỉ mang tính chất
tuyên bố và có thể bị kiện bởi một chủ nhãn hiệu thực sự.
2.1.4 Hình thức xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá
Cũng giống như luật pháp các nước về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, Luật
Mỹ quy định hình thức xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá là Giấy
chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Giấy chứng nhận do cơ quan Nhà nước cấp là
chứng chỉ duy nhất của Nhà nước xác nhận quyền sở hữu đối với nhãn hiệu
hàng hoá của chủ thể được cấp.
Điều 1075- Đạo luật Lanham Act 1946 quy định: “Giấy chứng nhận
đăng ký nhãn hiệu theo thủ tục đăng ký chính thức do Hợp chủng quốc Hoa
Kỳ cấp, được Văn phòng sáng chế và thương hiệu đóng dấu và Giám đốc văn
phòng ký. Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu này được lưu một bản tại Văn
phòng sáng chế và thương hiệu. Nội dung giấy chứng nhận bao gồm: bản thân
nhãn hiệu, tên của tiểu bang nơi nhãn hiệu được đăng ký theo thủ tục đăng ký
chính thức theo quy định của luật này, ngày đầu tiên sử dụng nhãn hiệu, ngày
đầu tiên sử dụng nhãn hiệu trong thương mại, tên hàng hoá hoặc dịch vụ của
nhãn hiệu được đăng ký, số giấy chứng nhận, ngày cấp giấy chứng nhận, ngày
tháng năm Văn phòng nhận đơn và bất kỳ các điều kiện và hạn chế nào khác
được đưa vào Giấy chứng nhận”.
Ngoài ra, Luật Mỹ còn quy định rất chi tiết và rõ ràng các vấn đề liên
quan tới Giấy chứng nhận ví dụ như những sửa đổi, bổ sung nội dung của
Giấy chứng nhận do lỗi của Văn phòng hoặc lỗi của người đăng ký; giá trị
pháp lý của Giấy chứng nhận; Giấy chứng nhận được cấp cho người được
chuyển nhượng nhãn hiệu hàng hoá đã được đăng ký; đình chỉ, huỷ bỏ, sửa
đổi Giấy chứng nhận; lưu giữ bản sao Giấy chứng nhận làm bằng chứng...
Giấy chứng nhận công nhận sự bảo hộ đối với nhãn hiệu hàng hoá trong phạm
vi toàn Liên bang.
47
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 2.2 Những điểm khác biệt giữa Luật Liên bang và Luật riêng từng bang
Trước khi Điều luật đầu tiên của Liên bang về bảo hộ nhãn hiệu hàng
hoá được chính thức ban hành vào thế kỷ XIX, các bang đã xác định các quy
định pháp luật điều chỉnh việc bảo hộ nhãn hiệu của những hàng hoá được sản
xuất và lưu thông trong bang của mình.
Đến nay hầu như tất cả các bang đều có những đạo luật riêng về bảo hộ
nhãn hiệu hàng hoá với quy định không giống nhau về đăng ký nhãn hiệu
hàng hoá. Song hầu hết những đạo luật này đều phỏng theo Dự luật mẫu về
nhãn hiệu hàng hoá (Model Trademark Bill - MTB) hay Đạo luật thống nhất
về hành vi xâm phạm nhãn hiệu (Uniform Deceptive Trade Practices Act-
UDTPA). MTB cung cấp sự bảo hộ đối với nhãn hiệu hàng hoá nhưng
UDTPA thì không.
Bên cạnh đó, các bang đều ban hành các đạo luật bảo vệ các nhãn hiệu
hàng hoá nổi tiếng (anti additional acts).
Bảo hộ thương hiệu tại mỗi bang đạt được thông qua việc nộp đơn đăng
ký tại Phòng thương hiệu của bang đó. Nhìn chung, chi phí đăng ký bảo hộ
nhãn hiệu theo luật của bang không cao và thủ tục khá rõ ràng minh bạch.
Tuy vậy, những người được bảo hộ thương hiệu của mình theo luật tiểu bang
không được dùng các dấu hiệu công nhận thương hiệu theo luật của Liên bang mà chỉ có thể dùng ký hiệu TM (Trademark) đối với nhãn hiệu hàng hoá hay SM (Servicemark) đối với dịch vụ gắn liền với thương hiệu của mình.
Như vậy, bên cạnh hệ thống đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của Liên bang,
các bang đều có luật lệ và thiết chế đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của riêng
mình. Tuy nhiên, kinh doanh trên một thị trường rộng lớn như nước Mỹ, các
nhà xuất khẩu Việt Nam nên quan tâm đến Hệ thống luật Liên bang để bảo vệ
mình trước các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh, không lường trước
48
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ được và để đạt được tấm hộ chiếu xâm nhập các khu vực thị trường mới dễ
dàng trên đất Mỹ.
Việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá theo Luật Liên bang đem lại
một số lợi ích mà Luật tiểu bang không có8:
Như đã nói ở trên, Giấy chứng nhận bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của
Liên bang sẽ do Văn phòng sáng chế và thương hiệu (USPTO) cấp và có giá
trị trên 50 bang. Vì vậy, nếu doanh nghiệp có ý định mở rộng phạm vi kinh
doanh trên nhiều bang thì thay vì phải đăng ký nhiều lần tại các bang khác
nhau thì doanh nghiệp chỉ cần đăng ký một lần tại Văn phòng sáng chế và
thương hiệu của Liên bang.
Khi doanh nghiệp đã được USPTO cấp Giấy chứng nhận đăng ký bảo
hộ nhãn hiệu hàng hoá, doanh nghiệp đó có quyền sử dụng ký hiệu đ sau
hàng hoá hoặc dịch vụ gắn liền với nhãn hiệu đã đăng ký. Trong khi đó, nếu
doanh nghiệp đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại các tiểu bang thì doanh nghiệp đó chỉ được sử dụng ký hiệu TM hoặc ký hiệu SM sau nhãn hiệu của mình.
Những doanh nghiệp được cấp đăng ký tại Văn phòng sáng chế và
thương hiệu Mỹ thì đương nhiên doanh nghiệp đó có quyền ngăn cản người
khác sử dụng thương hiệu của mình. Việc ngăn cản đó được thực hiện qua hai
cách. Thứ nhất, USPTO sẽ từ chối bảo hộ những thương hiệu giống hoặc
tương tự đến mức gây nhầm lẫn với thương hiệu được bảo hộ. Thứ hai,
thương hiệu đó sẽ được lưu trữ trong các cơ sở dữ liệu, qua các dịch vụ kiểm
tra, các doanh nghiệp khác sẽ tránh dùng những thương hiệu đã được bảo hộ.
Ít doanh nghiệp nào sau khi đã đầu tư rất lớn để gây dựng cho mình một
ngành nghề kinh doanh lại sử dụng một thương hiệu đã được bảo hộ để rồi
phải vướng vào những vụ kiện tụng phức tạp và tốn kém.
8 Theo: "Should I register my mark?”, Basic facts about trademark, United States Patent and Trademark Office - USPTO
49
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Ngoài ra, khi có được một Giấy chứng nhận do USPTO cấp sẽ giúp
cho chủ thương hiệu tránh khỏi chi phí và công sức để đưa ra những thủ tục
chứng minh về tính hiệu lực của thương hiệu, quyền sở hữu của mình, việc sử
dụng thương hiệu đó trong kinh doanh giữa các bang... Trong khi nếu thiếu
các bằng chứng đó, chủ thương hiệu rất có thể bị thua kiện.
Chủ sở hữu của thương hiệu được bảo hộ theo luật Liên bang có thể
nhận được sự trợ giúp vô giá của Hải quan Hoa Kỳ trong việc ngăn cản nhập
khẩu các hàng hóa vi phạm thương hiệu đó. Tuy nhiên, Hải quan Hoa Kỳ
không mặc nhiên có nghĩa vụ đó, trừ khi chủ thương hiệu đã lưu hồ sơ thương
hiệu được bảo hộ hợp pháp của mình tại Hải quan và trong nhiều trường hợp
phải cùng Hải quan theo dõi và chặn đứng các hoạt động nhập khẩu phạm
pháp nêu trên.
II. ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ TẠI HOA KỲ
1. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá trực tiếp tại Hoa Kỳ9
Đạo luật ngày 19/03/1920 có quy định thêm rằng việc xác lập quyền sở
hữu nhãn hiệu hàng hoá có thể tuân theo quy trình đăng ký bổ sung. Như vậy
tính đến nay, ngoài sự duy trì tất yếu của sổ đăng ký chính (Principal
Register), sổ đăng ký bổ sung (Supplemental Register) vẫn tồn tại dành cho
các nhãn hiệu chưa đủ điều kiện đăng ký, chẳng hạn như các nhãn hiệu chỉ
đơn thuần mang ý nghĩa mô tả chủng loại hàng hoá... Khi đó, quyền lợi đạt
được của chủ thương hiệu sẽ ít hơn khi thương hiệu được đăng ký trong sổ
chính thức. Song các nhãn hiệu này sẽ có khả năng được bổ sung vào sổ chính
khi có đủ điều kiện.
9 Theo: Văn phòng Sáng chế và Thương hiệu Hoa Kỳ - United States Patent and Trademark Office (www.uspto.gov)
50
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Bởi vậy, quy trình đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại Hoa Kỳ có thể
được tiến hành theo một trong hai loại quy trình sau:
Quy trình thủ tục chính thức (quy trình thủ tục được quy định từ Điều
1051 đến Điều 1072 Đạo luật Lanham Act 1946) bao gồm các bước:
Nộp đơn đăng ký và thẩm tra đơn đăng ký
Chỉ định người đại diện (trong trường hợp người đăng ký không cư
trú và không có trụ sở ở Mỹ)
Xét nghiệm đơn đăng ký và công bố kết quả xét nghiệm: từ chối đăng
ký đơn không hợp lệ hoặc sửa đổi đơn hay huỷ bỏ đơn
Công bố trên công báo sở hữu trí tuệ để người có quyền lợi liên quan
có thể phản đối việc đăng ký hoặc yêu cầu huỷ bỏ đăng ký
Cấp Giấy chứng nhận (trong trường hợp không có người phản đối
hoặc yêu cầu huỷ bỏ)
Gia hạn Giấy chứng nhận
Quy trình thủ tục bổ sung: Bên cạnh các nhãn hiệu hàng hoá được đăng
ký theo quy trình thủ tục chính thức, Giám đốc Văn phòng Sáng chế và
Thương hiệu Mỹ duy trì quy trình đăng ký quy định trong Điều 1 của Đạo
luật 19/3/1920 như sau: "Đạo luật này có hiệu lực nhằm đảm bảo các điều
khoản của Công ước được ký kết và thông qua tại Buenos Aires - Nước Cộng
hoà Achentina ngày 20/8/1910 về vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá và tên
thương mại và nhằm đảm bảo các mục đích khác”. Như vậy, quy trình thủ tục
bổ sung là quy trình thủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá theo Công ước ký tại
Buenos Aires ngày 20/8/1910.
Tất cả các nhãn hiệu có khả năng phân biệt hàng hoá và dịch vụ của
người đăng ký nhãn hiệu đó với hàng hoá và dịch vụ của người khác và
không được đăng ký theo quy trình thủ tục chính thức đều có thể đăng ký theo
quy trình thủ tục bổ sung với điều kiện là nhãn hiệu hàng hoá đó đã được sử
51
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ dụng một cách hợp pháp vì mục đích thương mại (không dùng cho đăng ký
nhãn hiệu hàng hoá có ý định sử dụng), sử dụng kèm hoặc có liên quan tới
hàng hoá và dịch vụ khác nhưng không phải là các nhãn hiệu thuộc đối tượng
pháp luật Mỹ không bảo hộ (như đề cập ở phần Đối tượng được bảo hộ).
Việc đăng ký được thực hiện khi người xin đăng ký nộp phí và tuân thủ
các quy định cụ thể của Văn phòng Sáng chế và Thương hiệu Hoa Kỳ (United
States Patent & Trademark Office - USPTO). Sau khi người xin đăng ký nộp
đơn đăng ký theo quy trình thủ tục bổ sung và nộp phí, Giám đốc USPTO sẽ
giao trách nhiệm cho xét nghiệm viên phụ trách vấn đề đăng ký nhãn hiệu.
Xét nghiệm viên sẽ xem xét, nghiên cứu và đưa ra quyết định nhãn hiệu hàng hoá đó
có được cấp Giấy chứng nhận hay không.
1.1 Nộp đơn đăng ký và thẩm tra đơn đăng ký
Khi nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá phải lưu ý những điểm như
sau:
1.1.1 Cơ sở nộp đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá10
Đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá chỉ được xem xét nếu thoả mãn
một trong các điều kiện sau:
Nhãn hiệu đã sử dụng tại Mỹ (use in commerce)
Nhãn hiệu có ý định sử dụng tại Mỹ (intend to use)
Nhãn hiệu đã nộp đơn đăng ký tại một nước khác là thành viên của
Công ước Paris hoặc của Hiệp ước nhãn hiệu hàng hoá mà Mỹ công nhận.
1.1.2 Nội dung của đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá11
Nội dung đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ít nhất phải chứa đựng các
thông tin như: chỉ dẫn tên, địa chỉ cư trú, quốc tịch và chữ ký của người nộp
đơn; loại hình công ty và nơi thành lập công ty; danh mục hàng hoá, dịch vụ
10 Theo: “Basis for filing”, Basic facts about trademarks, USPTO 11 Theo: “ What must the application include?”, Basic facts about trademarks, USPTO
52
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ mà người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu cho hàng hoá, dịch vụ đó (được phân
loại theo Bảng phân loại quốc tế); mẫu hình vẽ nhãn hiệu.
Đối với nhãn hiệu đã được sử dụng, đơn đăng ký phải ghi rõ ngày và nơi
sử dụng đầu tiên (ở bất kể nơi nào trên thế giới), ngày sử dụng đầu tiên tại
Mỹ; cách thức sử dụng của nhãn hiệu (chẳng hạn như được gắn trên nhãn của
hàng hoá hay trên các vật phẩm quảng cáo đối với dịch vụ).
Đối với nhãn hiệu có ý định sử dụng, người nộp đơn còn phải có Bản
tuyên bố sử dụng (Statement of Use hay Allegation of Use).
Ngoài ra, người nộp đơn sẽ phải gửi kèm một bản xác minh, trong đó
xác nhận rằng: người nộp đơn có đủ năng lực và điều kiện trở thành chủ sở
hữu của nhãn hiệu hàng hoá được nộp đơn đăng ký, mọi chi tiết nêu ra trong
đơn đăng ký nhãn hiệu đều có thực và chính xác; người nộp đơn phải đưa ra
những cơ sở qua đó khẳng định không ai có quyền sử dụng nhãn hiệu đó vì
mục đích thương mại dưới dạng thức giống hoàn toàn hoặc gần giống với
nhãn hiệu đó nhằm gây nhầm lẫn lừa dối. Trong trường hợp nhiều người cùng
sử dụng nhãn hiệu đó thì người nộp đơn phải đưa ra những ngoại lệ đối với
độc quyền sử dụng nhãn hiệu của mình và phải nêu cụ thể các trường hợp sử
dụng trùng nhãn hiệu, hàng hoá và thị trường ở đó việc sử dụng trùng nhãn
hiệu diễn ra.
Chi phí thụ lý hồ sơ đăng ký là 335 USD đối với một nhóm hàng hoá
dịch vụ. Chi phí này sẽ được hoàn trả cho người nộp đơn nếu đơn đăng ký
nhãn hiệu hàng hoá không đáp ứng đủ một trong các thành phần nêu trên.
1.1.3 Người có quyền nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá12
Người có quyền nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hóa là bất kỳ người
nào là chủ sở hữu thực sự của nhãn hiệu đã được sử dụng trong thương mại
12 Theo: “ Name of the applicant”, Basic facts about trademarks, USPTO
53
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ hoặc là người có ý định sử dụng nhãn hiệu đó trong thương mại với điều kiện
người đó phải đáp ứng đủ yêu cầu đã nêu trong nội dung của bản xác minh.
Người nộp đơn cũng có thể là người đại diện của chủ sở hữu thực sự của
nhãn hiệu cần đăng ký.
1.2 Chỉ định người đại diện13
Người chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá có thể tự mình nộp đơn tại Văn
phòng sáng chế và thương hiệu Mỹ. Tuy nhiên, nếu người chủ sở hữu nhãn
hiệu hàng hoá không cư trú tại Mỹ thì phải chỉ định một người đại diện có cư
trú tại Mỹ (domestic representative) để tiến hành nộp đơn và các thủ tục khác
có liên quan. Khi đó, tên và địa chỉ của người nộp đơn phải được ghi là của
người đại diện và Văn phòng chỉ có nghĩa vụ liên lạc với người đại diện đó và
không có nghĩa vụ phải giới thiệu người đại diện cho chủ sở hữu nhãn hiệu
hàng hoá.
1.3 Xét nghiệm đơn đăng ký và công bố kết quả xét nghiệm14
Khi nhận được đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, Văn phòng sáng chế và
thương hiệu sẽ kiểm tra các tài liệu trong danh mục đã ghi trong tờ khai, đánh
dấu xác nhận ngày đơn đến, ghi nhận những sai khác giữa danh mục tài liệu
ghi trong tờ khai và số liệu thực có trong đơn.
Văn phòng sẽ không tiếp nhận đơn nếu đơn nhãn hiệu có một trong các
thiếu sót sau:
Đơn thiếu một trong các tài liệu bắt buộc phải có. Tài liệu bắt buộc
gồm đơn và bản xác minh cùng các chứng từ pháp lý chứng minh cho các sự
kiện nêu trong bản xác minh.
13 Theo: “ Must I hire an attorney?”, Basic facts about trademarks, USPTO 14 Theo: “What does the USPTO do?”, Basic facts about trademarks, USPTO
54
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Loại Giấy chứng nhận yêu cầu được cấp không phù hợp với nhãn
hiệu hàng hoá được nêu trong đơn.
Đơn không có chữ ký và (hoặc) bị tẩy xoá, sửa chữa nghiêm trọng.
Nếu đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá đã được coi là hợp lệ, Văn phòng
sáng chế và thương hiệu sẽ tiến hành xét nghiệm đơn. Việc xét nghiệm đơn
của Mỹ được tiến hành theo một trong hai loại quy trình thủ tục, đó là quy
trình thủ tục chính thức và quy trình thủ tục bổ sung.Trong mỗi loại quy trình
thủ tục của Mỹ, đơn đều được xét nghiệm căn cứ vào hai tiêu chí là hình thức
và nội dung. Hai tiêu chí này sẽ được xét đồng thời với nhau.
Ngay khi người nộp đơn nộp phí đăng ký thì Giám đốc USPTO sẽ phân
công xét nghiệm viên chịu trách nhiệm về quy trình xem xét, cấp văn bản bảo
hộ cho nhãn hiệu hàng hoá đó. Xét ngiệm viên sẽ tiến hành kiểm tra nội dung,
hình thức của đơn và ra quy định xem người nộp đơn có đáp ứng đủ các yêu
cầu không.
Đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá sẽ được xét nghiệm trong vòng sáu
tháng kể từ ngày nộp đơn. Một trong những căn cứ quan trọng là hồ sơ lưu trữ
những đơn đăng ký và Giấy chứng nhận theo luật Liên bang đang có hiệu lực.
Nếu nhãn hiệu hàng hoá trùng với nhãn hiệu hàng hoá của một đơn đăng ký
hay một Giấy chứng nhận trước thì đơn đăng ký sẽ bị từ chối. Ngoài ra xét
nghiệm viên còn dựa vào nhiều căn cứ khác để xét nghiệm đơn.
Nếu không có bất kỳ sửa đổi, bổ sung hay phản đối nào đưa ra trong thời
hạn xét nghiệm, đơn sẽ được chuyển sang công bố trên Công báo sở hữu công
nghiệp để bất kỳ bên thứ ba nào có quyền và lợi ích liên quan có thể phản đối
việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Thông thường, sau 3-4 tháng kể từ khi được
duyệt, đơn sẽ được công bố trên Công báo.
Trong trường hợp đơn không được tiếp nhận, xét nghiệm viên có nhiệm
vụ thông báo bằng văn bản cho người nộp đơn đồng thời nêu rõ lý do. Đối với
55
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ những vấn đề nhỏ, chủ đơn đăng ký có thể trực tiếp liên lạc qua điện thoại để
sửa đổi. Khi thông báo từ chối đơn được gửi đến chủ đơn, chủ đơn có sáu
tháng để sửa đổi bổ sung theo đúng yêu cầu. Nếu sau sáu tháng, chủ đơn
không trả lời, đơn đăng ký sẽ tự động bị huỷ bỏ.
Nếu chủ đăng ký sửa đổi lại đơn theo đúng yêu cầu của xét nghiệm viên
đúng thời hạn, xét nghiệm viên sẽ cho phép đơn đăng ký được công bố trên
Công báo chính thức của USPTO.
Nếu vẫn còn vấn đề tồn tại hoặc xét nghiệm viên chưa hài lòng với khắc
phục chủ đơn đăng ký đưa ra, xét nghiệm viên sẽ đưa ra thông báo cuối cùng.
Tương tự như trên, chủ đơn có tiếp sáu tháng kể từ ngày thông báo cuối cùng
được đưa ra để hoặc sửa đổi bổ sung hoặc kiện lên Uỷ ban xét xử và khiếu nại
thương hiệu về thông báo của xét nghiệm viên. Trong thời hạn sáu tháng này,
nếu chủ đơn không trả lời, đơn cũng sẽ tự động bị huỷ bỏ. Phí đăng ký sẽ
không được hoàn trả trong trường hợp đơn bị huỷ bỏ.
Sau khi công bố trên Công báo, nếu không có phản đối, nhãn hiệu nộp
đơn trên cơ sở đã sử dụng hoặc đã đăng ký tại một nước khác sẽ được cấp
Giấy chứng nhận. Những đơn nộp trên cơ sở đã nộp tại một nước khác sẽ
được cấp văn bằng khi và chỉ khi đơn đó đã được cấp Giấy chứng nhận tại
nước nộp đơn cơ sở. Nếu nộp đơn trên cơ sở dự định sử dụng tại Mỹ, Văn
phòng sáng chế và thương hiệu Mỹ sẽ ra thông báo về việc chấp nhận đơn.
Người nộp đơn theo đó sẽ có thời hạn tối đa là ba năm để nộp bằng chứng sử
dụng nhãn hiệu tại Mỹ. Khi bằng chứng sử dụng nhãn hiệu tại Mỹ được nộp
và được cơ quan đăng ký chấp thuận trong thời hạn nộp đăng ký, nhãn hiệu
đó sẽ được cấp Giấy chứng nhận. Như vậy thời gian đăng ký nhãn hiệu hàng
hoá tại Mỹ kể từ khi nộp đơn đến cấp văn bằng phụ thuộc vào cơ sở nộp đơn
và xét nghiệm đơn.
56
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Sau khi được đăng ký, nhãn hiệu được công bố công khai, mọi doanh
nghiệp khác được coi như phải biết đã tồn tại nhãn hiệu này, vì thế không thể
viện dẫn lý do không biết để biện bạch cho những vi phạm của mình.
1.4 Thể thức khiếu nại
Trong trường hợp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá bị từ chối đăng ký
hoặc từ chối chấp nhận đơn, người nộp đơn có quyền nộp đơn khiếu nại lên
Uỷ ban Xét xử và Khiếu nại thương hiệu (Trademark Trial and Appeal Board
- TTAB). Khi đó người nộp đơn không có quyền khuyến nghị lên Giám đốc
USPTO (việc khuyến nghị lên Giám đốc chỉ được thực hiện khi có các vấn đề
nảy sinh liên quan tới quy trình thủ tục của các điều khoản mang tính chuyên
môn quy định trong Đạo luật về nhãn hiệu hàng hoá (Trademark Act) hoặc
Quy tắc thực hành nhãn hiệu hàng hoá (Trademark Rules of Practice).
Hình thức khiếu nại: Việc khiếu nại sẽ phải làm bằng văn bản gọi là đơn
khiếu nại. Nội dung đơn khiếu nại ghi rõ:
Họ tên, địa chỉ người khiếu nại.
Số ngày ký quyết định cuối cùng của xét nghiệm viên hoặc thông báo
từ chối đơn.
Số đơn nhãn hiệu yêu cầu cấp Giấy chứng nhận
Tên danh mục hàng hoá mang nhãn hiệu đó.
Nội dung khiếu nại, lý lẽ dẫn chứng cho việc khiếu nại
Đề nghị cụ thể của người khiếu nại
Khi nộp đơn, người khiếu nại sẽ phải nộp phí (trung bình là 400 USD).
Việc nộp đơn và phí phải thực hiện trong vòng sáu tháng từ ngày có quyết
định từ chối của xét nghiệm viên. Nếu quá thời hạn trên, đơn nhãn hiệu sẽ bị
huỷ bỏ.
Ngoài ra, người nộp đơn còn phải lập bộ hồ sơ khiếu nại gồm đơn đăng
ký thương hiệu, các chứng từ có liên quan chứng minh cho lý lẽ đã nêu trong
57
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ đơn khiếu nại. Hồ sơ khiếu nại phải được lập trong vòng sáu mươi ngày kể từ
ngày phát sinh khiếu nại. Nếu quá thời hạn trên TTAB sẽ từ chối đơn khiếu
nại
Thủ tục khiếu nại: Đơn khiếu nại và hồ sơ khiếu nại được gửi cho phòng
nhân sự của USPTO và phòng nhân sự sẽ chuyển lên TTAB.
Sau khi nhận được hồ sơ khiếu nại, TTAB sẽ gửi hồ sơ cho xét nghiệm
viên. Sau sáu mươi ngày nhận được hồ sơ của người khiếu nại, xét nghiệm
viên phải lập hồ sơ trả lời về quyết định của mình với TTAB và gửi một bản
copy cho người khiếu nại. Hồ sơ trả lời khiếu nại của xét nghiệm viên được
gửi kèm với hồ sơ của người khiếu nại mà xét nghiệm viên được TTAB gửi,
cả hai bộ hồ sơ này đều được gửi lại cho TTAB.
Hồ sơ trả lời của xét nghiệm viên phải chính xác, nêu ra được các lý do
chính đáng cho quyết định từ chối đơn nhãn hiệu, yêu cầu của xét nghiệm
viên đối với người nộp đơn và các bằng chứng ủng hộ cho quyết định đó.
Trong trường hợp người nộp đơn đưa ra bằng chứng mới cho việc khiếu
nại của mình trong bộ hồ sơ khiếu nại thì xét nghiệm viên sẽ từ chối, không
công nhận bằng chứng đó bởi vì hồ sơ phải được hoàn tất trước khi đi khiếu
nại. Trong trưòng hợp này, xét nghiệm viên phải nhanh chóng phản đối các
bằng chứng mới vào bộ hồ sơ khiếu nại, nếu không TTAB sẽ coi như không
phản đối.
Trong quá trình lập hồ sơ trả lời, nếu xét nghiệm viên thấy việc xem xét
lại quyết định của mình là cần thiết thì xét nghiệm viên sẽ trình yêu cầu xem
xét lại vụ việc thay vì lập hồ sơ trả lời. Nếu TTAB đồng ý với yêu cầu của xét
nghiệm viên, TTAB sẽ ấn định lại thời hạn nộp hồ sơ trả lời của xét nghiệm
viên.
58
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Tuy nhiên yêu cầu khôi phục lại thẩm quyền xem xét lại quyết định
nhằm đưa ra các chứng cứ mới phải có lý do chính đáng và có các bằng
chứng kèm theo các chứng cứ mới được đưa ra.
Sau khi xét nghiệm viên gửi hồ sở trả lời tới TTAB, người nộp đơn có
quyền bày tỏ ý kiến của mình với hồ sơ trả lời. Ý kiến của người nộp đơn
phải được đưa ra trong vòng 20 ngày kể từ ngày hồ sơ trả lời của xét nghiệm
viên được gửi đến. Người nộp đơn nên gửi hai bản trình bày ý kiến, một cho
TTAB, một cho xét nghiệm viên.
Sau khi nghiên cứu văn bản trình bày ý kiến của người nộp đơn, xét
nghiệm viên có thể trả lời miệng những vấn đề đưa ra hay bằng văn bản trình
bày ý kiến của người nộp đơn.
Nếu sau khi xem xét hồ sơ khiếu nại và văn bản trình bày ý kiến của
người nộp đơn, xét nghiệm viên thấy quyết định từ chối chấp nhận đơn hoặc
từ chối cấp Giấy chứng nhận của mình là thiếu cơ sở thì xét nghiệm viên có
thể rút lại quyết định từ chối và đưa ra quyết định thông qua đơn nhãn hiệu để
công bố trên báo của USPTO. Việc xét lại phải được thông báo cho TTAB và
người nộp đơn, bất kỳ lúc nào trước khi TTAB ra quyết định và xử lý khiếu
2. Đăng ký nhãn hiệu hàng hoá qua Internet vào thị trường Hoa Kỳ
nại.
2.1 Quy trình đăng ký nhãn hiệu hàng hoá qua Internet
Nhu cầu đăng ký thương hiệu tại Mỹ ngày càng trở nên cấp thiết, nhất là
khi hàng loạt nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam bị “chiếm
dụng” và đăng ký trước tại thị trường này. Một giải pháp khả thi là đăng ký
thương hiệu sản phẩm qua Intetnet tại địa chỉ www.uspto.gov. Tuy khá mới
mẻ, nhưng trong thời kỳ tới, đây sẽ là một phương pháp rất hiệu quả giúp các
doanh nghiệp trong nước vươn tới thị trường Hoa Kỳ.
59
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Địa chỉ www.uspto.gov. là trang web của Văn phòng sáng chế và
thương hiệu Hoa Kỳ (UPSTO), cho phép các doanh nghiệp trên thế giới đăng
ký nhãn hiệu sản phẩm tại thị trường Hoa Kỳ. Trong trang web này có Hệ
thống đăng ký thương hiệu điện tử e-TEAS (Trademark Electronic
Application System) chuyên cho quá trình đăng ký nhãn hiệu qua mạng.
Giai đoạn chuẩn bị
Để đăng ký nhãn hiệu hàng hoá qua mạng, điều đầu tiên doanh nghiệp
cần là trình độ ngoại ngữ. Mọi thủ tục và phương thức đăng ký đều khá phức
tạp. Nếu không thạo ngoại ngữ, doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiếu khó khăn. Thứ
hai, doanh nghiệp cần phải có một tài khoản tín dụng quốc tế để thanh toán
chi phí thực hiện thủ tục đăng ký. Số tiền cần thiết trong tài khoản có thể lên
tới 2 đến 3 ngàn USD.
Giai đoạn bắt đầu
Bước một, cần phải xác định nhãn hiệu muốn đăng ký, có chữ và biểu
tượng của nhãn hiệu sản phẩm. Màu sắc của nhãn hiệu rất quan trọng vì đây
là một trong những đặc điểm chính của thương hiệu. Bước thứ hai, cần kiểm
tra xem nhãn hiệu mình muốn đăng ký đã có chưa và có nhãn hiệu nào tương
tự không. e-TEAS sẽ cung cấp một Hệ thống tìm kiếm TESS (Trademark
Electronic Search System), cho phép tra cứu tất cả các thương hiệu từng
đăng ký tại Mỹ, cũng như tình trạng hiệu lực của mỗi thương hiệu. Tại hệ
thống này, bất cứ ai cũng có thể tìm hiểu về từng nhãn hiệu hàng hoá đã và
đang đăng ký, chủ sở hữu và các thông tin liên quan khác. Các doanh nghiệp
có tiếng tại Việt Nam rất nên kiểm tra qua hệ thống này xem nhãn hiệu của
mình đã bị trở thành của kẻ khác hay chưa? Chẳng hạn, khi thử tra nhãn hiệu
Phở Hoà, có tới 4-5 nhãn hiệu đã đăng ký, trong đó có cả một hàng phở của
người Việt tại Mỹ. Nhưng khi gặp trực tiếp chủ Phở Hoà chính hiệu tại TP.
60
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ HCM, chủ quán cho biết chưa từng nghĩ đến việc đăng ký tại Mỹ vì ngay tại
thành phố cũng không ít Phở Hoà rồi.
Giai đoạn nước rút
USPTO chấp nhận các loại thẻ tín dụng VISA, MasterCard,
Discover, và American Express. Do đó, để có thể trả tiền, doanh nghiệp
cần phải có một trong các tài khoản tín dụng này. Một thương hiệu có thể có
nhiều sản phẩm hoặc dịch vụ, và mỗi sản phẩm và dịch vụ này có mức phí thụ
lý hồ sơ là 335 USD. Đây là chi phí xử lý hồ sơ đăng ký và không được hoàn
lại nếu việc đăng ký không được chấp thuận.
Để chuẩn bị nội dung đăng ký, doanh nghiệp cần xác định tên thương
hiệu, loại hàng hoá (dịch vụ) và biểu tượng thương hiệu. Các biểu tượng phải
để ở định dạng ảnh JPG và được gửi kèm trong mẫu đăng ký. Sau khi nhập
các thông tin vào mẫu đăng ký, bao gồm cả tên và biểu tượng của thương
hiệu, người đăng ký sẽ phải trả khoản chi phí 335 USD trên.
Một mẫu đăng ký thương hiệu hợp lệ phải có ít nhất các thành phần sau:
Tên của người xin đăng ký.
Tên và địa chỉ liên hệ (gồm cả email, số điện thoại).
Một bức ảnh mẫu của nhãn hiệu cần đăng ký.
Cước phí thụ lý hồ sơ đăng ký của ít nhất một sản phẩm, dịch vụ.
Nếu không đáp ứng đủ một trong những thành phần trên, UPSTO sẽ trả
lại hồ sơ (nếu đăng ký qua đường bưu điện) và trả lại phí thụ lý hồ sơ. Sau khi
gửi hồ sơ đăng ký và thanh toán phí thụ lý, trong vòng 24 giờ, USPTO sẽ gửi
mail xác nhận, thông báo hồ sơ đăng ký và tên thương hiệu có hợp lệ không.
Nếu hợp lệ, người đăng ký sẽ nhận được một số đăng ký và ngày nhận hồ sơ.
Người đăng ký cần xem lại các thông tin của mình và xác nhận trở lại với
USPTO. Khi hồ sơ đăng ký đã thoả mãn các yêu cầu tối thiểu và nhận được
một ngày nộp hồ sơ, phí thụ lý hồ sơ sẽ không trả lại cho người đăng ký.
61
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Giai đoạn tự kiểm tra
Khi hồ sơ được nhận, thời gian chờ đăng ký (pending) bắt đầu được tính.
Người đăng ký có thể vào mục Check trademark status (TARR) để theo dõi
xem hồ sơ của mình đã được xử lý đến đâu. Tuy nhiên, USPTO yêu cầu
những người mới đăng ký nên chờ sau 25 ngày mới kiểm tra hồ sơ của mình.
Đây là thời gian để các thông tin về hồ sơ được cập nhật vào cơ sở dữ liệu của
USPTO. Khi nhãn hiệu đã có trong cơ sở dữ liệu, (bất kể đang chờ đăng ký hay đã được đăng ký), người chủ nhãn hiệu đã có quyền in ký hiệu TM (Trademark) hoặc SM (Servicemark) vào tên sản phẩm, dịch vụ của mình. Tuy
nhiên chỉ những thương hiệu (nhãn hiệu đã được đăng ký) mới được sử dụng ký hiệu
cùng với sản phẩm.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là nhãn hiệu đã được đăng ký. Hồ
sơ sẽ được thẩm tra để thụ lý. USPTO sẽ kiểm tra xem thương hiệu đó có
trùng hoặc vi phạm với các thương hiệu đã được đăng ký hay không. Trong
quá trình này, hồ sơ có thể bị thẩm tra loại bỏ do không hợp lệ trong quá trình
thẩm định.
Sau khi hồ sơ được chuyển đến luật sư thẩm tra, quá trình thẩm tra sẽ
kéo dài trong nhiều tháng, trung bình khoảng một năm. Trong thời gian này,
nếu luật sư thẩm tra quyết định rằng nhãn hiệu không thể đăng ký, người này
sẽ phải trả lời các lý do vì sao hồ sơ đăng ký bị từ chối. Nếu có sửa đổi nhỏ
nào cần thực hiện trong hồ sơ, luật sư thẩm tra sẽ liên hệ với người đăng ký
qua điện thoại hoặc email. Trong vòng 6 tháng, nếu người đăng ký không trả
lời luật sư, hồ sơ và nhãn hiệu sẽ bị huỷ bỏ.
Trong thời gian thẩm tra hồ sơ, USPTO sẽ gửi một Thông báo công bố
nhãn hiệu (Notice of publication) đến người đăng ký và bắt đầu thời hạn
công bố. Trong vòng 30 ngày kể từ ngày công bố rộng rãi, bất kỳ một thành
phần kinh tế nào thấy có thể bị ảnh hưởng quyền lợi vì nhãn hiệu này có
62
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ quyền phản đối đăng ký hoặc kéo dài thời gian phản đối có hiệu lực. Nếu
không có phản đối nào hoặc phản đối thất bại, hồ sơ đăng ký sẽ được chuyển
sang quá trình đăng ký tiếp theo. Nếu sản phẩm của thương hiệu đã có trên thị
trường, một Chứng nhận đăng ký thương hiệu (Certificate of
Registration) sẽ được cấp cho người đăng ký sau 12 tuần kể từ ngày có
Thông báo công bố nhãn hiệu. Nếu chưa có sản phẩm để sử dụng thương
hiệu này, người đăng ký sẽ nhận được Thông báo công nhận thương hiệu
cũng sau 12 tuần. Trong vòng 3 năm, nếu không có sản phẩm để sử dụng
thương hiệu, USPTO sẽ huỷ bỏ thương hiệu này.
Trên đây chỉ là sơ bộ quá trình đăng ký thương hiệu qua Internet, trong
quá trình khai hồ sơ và đăng ký còn rất nhiều khái niệm cần phải xác định.
Chính vì thế các nhãn hiệu thường cần phải thuê luật sư Mỹ để đăng ký,
chẳng hạn như nhãn hiệu cà phê Trung Nguyên của Việt Nam. Tuy nhiên, các
doanh nghiệp hoàn toàn có thể đăng ký qua Internet mà không cần đến luật
sư. Vấn đề là ở chỗ hiểu biết về luật pháp Mỹ của doanh nghiệp Việt Nam
vẫn chưa nhiều. Hơn nữa, việc thanh toán qua mạng dường như không được
đảm bảo lắm, khi mà hình thức này còn khá mới mẻ ở Việt Nam.
2.2 Một số điểm cần lưu ý15
2.2.1 Yêu cầu đối với thời gian điền vào mẫu đăng ký
Thời gian điền vào mẫu đăng ký tối đa là 60 phút. Thời gian bắt đầu tính
khi người đăng ký nhãn hiệu hàng hoá điền bất kỳ một ký tự đầu tiên nào vào
mẫu đăng ký. Nếu quá 60 phút, đăng ký đó sẽ không được coi là hợp lệ và
người đăng ký sẽ phải điền lại từ đầu. Chính vì thế, các doanh nghiệp cần
tham khảo mẫu đăng ký để có những thông tin cần thiết trước khi tiến hành
điền vào mẫu đăng ký.
15 Theo: “e-TEAS Tech Info”, e-TEAS Important Notice, USPTO
63
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
2.2.2 Phí đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
Mặc dù mỗi đơn chỉ được đăng ký cho một mẫu nhãn hiệu nhưng nhãn
hiệu đó có thể dùng cho nhiều loại hàng hoá dịch vụ. Phí đăng ký cho mỗi
loại hàng hoá dịch vụ là 335 USD. Ngoài ra, riêng đối với hàng hoá có ý định
sử dụng, khi người xin đăng ký gửi Bản tuyên bố sử dụng (Allegation of Use)
phải nộp thêm 100 USD đối với mỗi loại hàng hoá dịch vụ.
Ngay sau khi nộp đơn đăng ký, nếu đơn đăng ký đó không đáp ứng đủ
các yêu cầu, USPTO sẽ trả lại ngay đơn đăng ký kèm theo khoản phí. Tuy
nhiên, nếu đơn đăng ký thoả mãn các yêu cầu chủ yếu và bắt đầu được thẩm
định, số tiền đó sẽ không được hoàn trả lại ngay cả khi đơn đăng ký không
được chấp nhận.
2.2.3 Yêu cầu đối với mẫu ảnh gửi kèm
Đối với mẫu ảnh gửi kèm, USPTO có các yêu cầu sau:
Định dạng ảnh: JPG hoặc GIF. Tuy nhiên, ảnh động ở dạng GIF
không được chấp nhận.
Kích thước của mẫu nhãn hiệu không được lớn hơn 81/2x11 inch (~
21.59x27.94 cm).
Dung lượng của mẫu nhãn hiệu không được quá 2 megabytes. Mẫu nhãn hiệu không được chứa các ký tự như TM, SM, đ
2.2.4 Yêu cầu đối với chữ ký
Trong đơn đăng ký điện tử, người đăng ký không cần phải có chữ ký như
thông thường. Người đăng ký có thể lấy bất kỳ một ký tự nào hoặc sự kết hợp
của các ký tự, con số hay thậm chí là các dấu câu để thay cho chữ ký của
mình. Điều quan trọng là các ký tự này phải được đặt giữa hai dấu gạch chéo
“/”. Chẳng hạn, những chữ ký sau đây được coi là hợp lệ: /john doe/, /huy
nguyen/, /544-4925/...
64
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 2.2.5 Yêu cầu đối với thời gian tiến hành lệnh thanh toán
Hệ thống đăng ký điện tử có thể được truy cập 24/24 giờ vào tất cả các
ngày trong tuần, cho phép các doanh nghiệp có thể đăng ký nhãn hiệu hàng
hoá ngay cả khi không phải là giờ làm việc chính thức của Văn phòng sáng
chế và thương hiệu Hoa Kỳ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần lưu ý rằng hệ
thống đăng ký điện tử này lại không cho phép thực hiện lệnh thanh toán từ 12
giờ sáng đến 4 giờ sáng các ngày Chủ nhật (thời gian được tính theo giờ của
miền đông nước Mỹ).
Như vậy, mặc dù trình tự đăng ký nhãn hiệu hàng hoá qua Internet được
hướng dẫn một cách rất cụ thể, tường tận trong trang web của Văn phòng
sáng chế và thương hiệu Hoa Kỳ nhưng các doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp
rất nhiều khó khăn khiến cho số đăng ký nhãn hiệu hàng hoá bằng con đường
này còn quá khiêm tốn và hiệu quả chưa cao.
65
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
CHƯƠNG III
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO HỘ
NHÃN HIỆU HÀNG VIỆT NAM TẠI THỊ TRƯỜNG HOA KỲ
I. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM KHI TIẾN HÀNH ĐĂNG KÝ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ
TẠI HOA KỲ
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết ngày 13/07/2000 và chính
thức có hiệu lực vào ngày 10/01/2001 đã đánh dấu một bước phát triển mới
trong quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước. Hiệp định thương mại Việt -
Mỹ có hiệu lực ngay lập tức đã đem lại điều kiện cạnh tranh công bằng cho
hàng hoá Việt Nam trên đất Mỹ. Điều này đã được thể hiện rõ ngay trong
Điều 3 của Chương II “Mỗi Bên dành cho công dân của Bên kia sự đối xử
không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Bên đó dành cho công dân của mình
trong việc xác lập, bảo hộ, hưởng và thực thi tất cả các quyền sở hữu trí tuệ và
mọi lợi ích có được từ các quyền đó”. Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam
hoàn toàn có thể được hưởng quyền và nghĩa vụ bình đẳng như các doanh
nghiệp Mỹ khi đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường này.
Ngoài ra, với trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển như hiện
nay, các doanh nghiệp Việt Nam có thể tiến hành đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
qua Internet. Tuy hình thức đăng ký này chưa được phổ biến song đây là một
66
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ hình thức có thể giúp doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và chi phí liên
lạc. Điều cần thiết là doanh nghiệp phải tìm được đại diện cho mình tại Mỹ để
nắm bắt thông tin dễ dàng hơn. Khi đó, mọi liên lạc giữa doanh nghiệp với
người đại diện tại Mỹ và giữa người đại diện với Văn phòng sáng chế và
thương hiệu Mỹ đều diễn ra dưới hình thức thư điện tử (email). Do vậy,
doanh nghiệp có thể có được những thông tin chính xác và có thể sửa đổi một
cách kịp thời bản đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trong trường hợp bản đăng ký
đó không hợp lệ.
Mặc dù có những thuận lợi nhất định khi đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại
Mỹ, song trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam còn gặp rất nhiều rào cản.
Trong thời gian vừa qua, chúng ta đã chứng kiến nhiều vụ tranh chấp thương
hiệu diễn ra trên thị trường Mỹ như vụ tranh chấp thương hiệu Catfish, Trung
Nguyên, Petro Vietnam, Vifon, Vinataba. Vinatea,... Sau đây chúng ta sẽ xem
xét hai vụ tranh chấp thương hiệu lớn, gây ra sự hoang mang lo ngại cho giới
kinh doanh và cũng là bài học đắt giá cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt
1. Thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam bị mất thương hiệu trên thị trường Hoa Kỳ
Nam.
1.1 Cuộc chiến thương hiệu cá da trơn Catfish
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá basa, cá tra (là hai loại cá da trơn) sang
Mỹ từ năm 1997 và dần dần thâm nhập và tạo được chỗ đứng trên thị trường
nhờ chất lượng tốt, giá rẻ hơn cá da trơn nội địa của Mỹ. Trong hai năm 1999-
2000, lượng cá tra, cá basa Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ tăng khá nhanh
(chiếm từ 2% đến 3% tổng sản lượng cá da trơn tiêu thụ ở thị trường này). Đó
là lý do làm cho các nhà nuôi cá nheo Mỹ lo ngại. Vì vậy, ngay từ cuối năm
2000, thông qua báo chí, Mỹ bắt đầu cố tình đưa những thông tin sai lệch để
bôi xấu cá tra, cá basa Việt Nam. Một trong những nội dung nguy hiểm được
Hiệp hội các chủ trại cá nheo Mỹ (CFA) hoạch định trong chiến dịch của họ là
67
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ tiến hành vận động gây áp lực, lôi kéo nghị sỹ của các bang có nghề nuôi cá
nheo, huy động mọi lực lượng các cơ quan lập pháp và hành pháp tạo ra sự hỗ
trợ để tấn công các sản phẩm cá da trơn của Việt Nam nhập khẩu. Một trong
các luận điểm mà các chủ trại cá nheo Mỹ đưa ra là, sản phẩm cá da trơn Việt
Nam do cũng được gọi là Catfish nên đã tạo sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng
Mỹ và như vậy vô hình chung đã làm lợi theo uy tín của cá nheo Mỹ.
Với những lập luận đưa ra, đầu tháng 2/2001, họ bắt đầu một chiến dịch
quảng cáo kéo dài 9 tháng, tiêu tốn 5,2 triệu USD do Viện cá nheo Mỹ (TCI)
phát động và được CFA tài trợ để chống lại việc nhập khẩu cá tra và cá basa Việt Nam.
Về phía mình, các doanh nghiệp Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc
quyết định số 178/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và các Quyết định
của Bộ thuỷ sản, Bộ Thương mại về việc ghi nhãn mác hàng hoá. Trên tất cả
các bao bì của sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu đều ghi rõ dòng chữ “Product of
Vietnam” (Sản phẩm của Việt Nam) hay “Made in Vietnam” (Sản xuất tại
Việt Nam) và thực hiện việc ghi đầy đủ cả tên khoa học lẫn tên thương mại
theo đúng quy định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền của Mỹ là
Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đối với các sản phẩm xuất
khẩu vào thị trường Mỹ.
Việc Mỹ ban hành các đạo luật cản trở việc nhập khẩu Catfish của các
nước trong đó có Việt Nam đã dựng lên một rào cản thương mại, trái với tinh
thần Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, ảnh hưởng xấu đến việc làm và đời
sống của hàng vạn gia đình khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Việt Nam hoàn toàn có thể khiếu nại lên toà án có thẩm quyền của Mỹ,
Uỷ ban thương mại Mỹ (ITC) hoặc Đại diện thương mại Mỹ (USTR) để đòi
lại những quyền lợi mình được hưởng căn cứ vào điều 2.6B Chương 1,
Thương mại hàng hoá tại Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, theo đó “các Bên
đảm bảo không ban hành hoặc áp dụng những quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật
68
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ nhằm tạo ra sự trở ngại đối với thương mại quốc tế hoặc bảo vệ sản xuất trong
nước”.
Tuy nhiên, một điểm khá thú vị trong vụ việc này là những tranh cãi đã
làm cho cá basa của Việt Nam trở nên nổi tiếng. Nhờ đó, ngày càng có nhiều
người Mỹ biết đến cá basa Việt Nam và tiêu dùng loại cá này. Từ tháng
9/2001, Việt Nam không còn dùng thương hiệu Catfish cho cá da trơn khi bán
vào thị trường Mỹ, mà dùng tên gọi cá basa và cá tra. Câu lạc bộ doanh
nghiệp cá tra và cá basa đã chính thức nhờ White & Case - một công ty có
tiếng của Mỹ - xúc tiến thủ tục đăng ký bảo hộ thương hiệu cá tra và cá basa ở
thị truờng này.
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng hành động của phía Mỹ rất vô lý, mang
tính bảo hộ mậu dịch không công bằng, trái với luận cứ khoa học cũng như
trái với thông lệ quốc tế và chính sách tự do thương mại mà chính Mỹ đang
theo đuổi. Song câu hỏi đặt ra là: Liệu cuộc chiến nhãn mác này có xảy ra
không, nếu cá basa Việt Nam đã xây dựng và đăng ký bảo hộ một thương hiệu
cho mình và tìm cách chiếm lĩnh thị trường bằng thương hiệu đó?.
1.2 Vụ tranh chấp thương hiệu cà phê Trung Nguyên
Được thành lập năm 1996, cà phê Trung Nguyên lúc khởi đầu cũng chỉ ở
quy mô nhỏ. Tuy vậy, với quán cà phê trên đường Nguyễn Kiệm (quận Phú
Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh) vào năm 1987, cà phê đã gây ấn tượng
mạnh với cư dân đô thị vốn nghiền cà phê này. Với 9 loại cà phê do Trung
Nguyên sản xuất và được pha chế theo cách riêng đã nhanh chóng giúp doanh
nghiệp mở rộng hệ thống đại lý lên gần 400 quán cà phê trong nước, theo
hình thức chuyển nhượng quyền kinh doanh thương hiệu. Hình thức nhượng
quyền này cũng được phát triển ra nước ngoài. Cà phê Trung Nguyên đã xuất
hiện tại Singapore, Nhật, Hồng Kông, Trung Quốc, Australia...
69
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Tuy nhiên, do không quan tâm đầy đủ đến việc đăng ký bảo hộ thương
hiệu, nhãn hiệu Trung Nguyên đã phải gánh chịu hậu quả khá nặng nề trong
việc mở rộng kinh doanh tại Mỹ.
Tháng 7/2000, Trung Nguyên và Rice Field Corp. (ở tiểu bang
California) tiếp xúc với nhau lần đầu tiên và hai bên đàm phán việc nhập khẩu
cà phê Trung Nguyên vào Mỹ. Tháng 1/2001, hợp đồng đầu tiên được ký kết
và cà phê Trung Nguyên xuất hiện ở quốc gia này. Đầu năm 2002, thêm một
hợp đồng nữa được ký, cà phê Trung Nguyên tiếp tục đi Mỹ. Đến lúc này,
Trung Nguyên mới nghĩ đến chuyện đăng ký bảo hộ thương hiệu tại Mỹ,
nhưng thật bất ngờ, từ 11/2000 (tức chỉ sau 3 tháng kể từ lần tiếp xúc đầu tiên
giữa hai bên), Rice Field Corp. đã nộp hồ sơ đăng ký bảo hộ với cơ quan chức
năng của Mỹ đối với những thương hiệu: “Trung Nguyên-Cà phê hàng đầu
Buôn Ma Thuột” và nhãn hiệu “Trung Nguyên” (bằng Tiếng Việt). Tháng
8/2001, Trung Nguyên lập tức khẩn trương nộp hồ sơ đăng ký với nhãn hiệu
“Trung Nguyên-nguồn cảm hứng sáng tạo mới” (bằng Tiếng Anh) và yêu cầu
tuyên bố vô hiệu đối với hồ sơ của Rice Field Corp... Công ty cà phê Trung
Nguyên đã nhờ các luật sư tiến hành nộp đơn khiếu nại và đưa ra những bằng
chứng quan trọng nhất, chứng tỏ sở hữu bản quyền nhãn hiệu hàng hoá của
mình là chính đáng. Trong số các bằng chứng quan trọng nhất là Giấy phép
kinh doanh của công ty này được cấp vào năm 1996, các nhãn hiệu của Trung
Nguyên và biển hiệu đã được sử dụng tại Việt Nam, danh sách gần 400 quán
cà phê tồn tại và hoạt động theo nhượng quyền kinh doanh của Trung Nguyên
và các thị trường nước ngoài của công ty này. Ngoài ra còn có bằng chứng về
doanh thu ròng hàng năm từ việc bán các sản phẩm và nhượng quyền kinh
doanh của công ty này từ năm 1997 đến 2001. Thiệt hại ước tính của Trung
Nguyên trong vụ việc này lên đến gần 1 triệu USD, bao gồm các khoản phí
thuê luật sư và thiệt hại do chiến lược kinh doanh mở rộng tại thị trường Mỹ
70
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ bị chậm lại (theo hợp đồng được soạn thảo cuối năm 2001, công ty cà phê
Trung Nguyên sẽ là công ty đầu tiên của Việt Nam chuyển nhượng thương
hiệu sang Mỹ với giá khoảng 100.000 USD/bang/đối tác trong vòng 3 năm).
Đây là bài học đắt giá đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi muốn mở rộng
thị trường tại Hoa Kỳ.
1.3 Vụ tranh chấp thương hiệu PetroVietnam
PetroVietnam là một doanh nghiệp lớn nhất ngành dầu khí Việt Nam
hoạt động ở ba lĩnh vực chính: xuất khẩu dầu thô, hợp tác thăm dò khai thác
dầu khí trong nước và bán các sản phẩm từ dầu khí. Dầu thô không cần
thương hiệu. Việc thăm dò khai thác dầu khí chỉ thực hiện ở trong nước, cũng
không cần thương hiệu. Vậy chỉ còn phần sản phẩm từ dầu thô như xăng, dầu
nhớt... được bán và xuất khẩu dưới thương hiệu PetroVietnam.
Tổng công ty PetroVietnam có chiến lược khuếch trương và đưa những
sản phẩm này sang Mỹ và các nước trong khu vực. Tuy vậy, vào tháng
7/2002, trang web của Văn phòng Sáng chế và Thương hiệu Mỹ
http://tarr.uspto.gov. thông báo, nhãn hiệu PetroVietnam vừa được một công
ty có tên NGUYENLAI, địa chỉ 11215 PACIFIC HWY SW LAKEWOOD,
WA 98499 (Mỹ) đăng ký tại Mỹ. Theo tìm hiểu của các phóng viên VASC
Orient, tuy đơn đăng ký này chưa được chấp nhận nhưng nếu không có những
biện pháp kịp thời thị thương hiệu của PetroVietnam sẽ bị mất ở nước ngoài.
Khi phóng viên của VASC Orient gọi điện cho doanh nghiệp, trợ lý của
Tổng giám đốc Nguyễn Xuân Nhậm hoàn toàn bất ngờ với thông tin trên. Bản
thâm Ông Nhậm cho biết Ông vẫn chưa hay biết gì về chuyện này và giới
thiệu phóng viên của VASC Orient với Ban Công nghệ thông tin của Tổng
công ty. Tuy nhiên, Ban Công nghệ thông tin của PetroVietnam cũng chưa hề
biết đến việc này.
71
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Trước tình hình đó, Ban giám đốc của PetroVietnam đã gấp rút tiến hành
các hoạt động để đối phó với vụ đánh cắp thương hiệu này. Một lãnh đạo của
Tổng công ty cho biết, PetroVietnam đã chuẩn bị một chiến lược để bảo vệ
thương hiệu của mình. Theo Công ty tư vấn luật Pham & Associates, việc đối
phó với công ty NGUYENLAI không khó khăn bỏi công ty này đã đăng ký
nhãn hiệu giống hệt với PetroVietnam cả về hình lẫn chữ. NGUYENLAI sẽ
gặp khó khăn ngay khi PetroVietnam lên tiếng. Theo họ, có ba cách để đối
phó với việc bị đánh cắp thương hiệu này:
Cách thứ nhất, ít tốn kém nhất nhưng cũng lâu nhất, đó là không hành
động gì, để NGUYENLAI tự động bị huỷ thương hiệu vì công ty đó phải
chứng minh được thương hiệu này đã được chính họ sử dụng, nếu không đưa
được bằng chứng sử dụng thương hiệu ba lần (6 tháng một lần) thì sẽ bị rút
thương hiệu. Tuy nhiên, cách này hơi mạo hiểm bởi NGUYENLAI có thể đưa
ra những bằng chứng không đúng sự thật và thời gian có thể kéo dài đến 3
năm.
Cách thứ hai là tranh tụng và thuê luật sư trong nước. Theo luật gia
Khánh Toàn, Giám đốc Công ty luật Pham & Associates, luật sư trong nước
có đủ khả năng để thực hiện vụ kiện đòi thương hiệu nhưng một khó khăn là
những hoạt động hành lang (lobby) các doanh nghiệp Việt Nam chưa quen và
chưa có kinh nghiệm tại Mỹ.
Cách thứ ba là tranh tụng và thuê luật sư Mỹ. Các luật sư sẽ giúp
PetroVietnam bác bỏ thương hiệu do NGUYENLAI đăng ký, sau đó đăng ký
thương hiệu PetroVietnam của Tổng công ty dầu khí Việt Nam. Cách này
chắc chắn nhất nhưng cũng rất tốn kém.
Nhãn hiệu PetroVietnam hiện mới bị công ty NGUYENLAI đăng ký ở
giai đoạn 1 do đó có thể xử lý việc xâm hại này bằng cách thuê luật sư của
Mỹ. Để giành lại thương hiệu PetroVietnam công ty cũng phải làm theo hai
72
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ bước, bước thứ nhất là bác bỏ nhãn hiệu PetroVietnam của công ty
NGUYENLAI và bước thứ hai là đăng ký nhãn hệu PetroVietnam của Tổng
công ty dầu khí Việt Nam.
1.4 Các vụ tranh chấp thương hiệu khác
Nhìn vào nhãn hiệu Bia Sài Gòn, mọi người dân Việt Nam và du khách
nước ngoài từng đến Việt Nam và thưởng thức qua loại bia này đều biết đó là
sản phẩm của công ty Bia Sài Gòn. Thế nhưng, hãy dè chừng vì sang Mỹ lại
không phải thế. Nhãn hiệu Bia Sài Gòn thuộc sở hữu của công ty Heritage
Beverage Company Inc. - một Công ty Mỹ 100% và chẳng có bất cứ liên hệ
nào với công ty Bia Sài Gòn. Nếu công ty Bia Sài Gòn muốn bán bia Sài Gòn
trên đất Mỹ thì họ phải xin phép Heritage Beverage Company Inc. vì nhãn
hiệu Bia Sài Gòn đã được Công ty này đăng ký với cơ quan chức năng của
Mỹ và được bảo hộ.
Nhiều nhãn hiệu đã thành danh ở Việt Nam như Vĩnh Hảo, Saigon
Export... đã bị các công ty Mỹ “hớt tay trên” đăng ký bảo hộ trên thị trường
Mỹ. Các sản phẩm của những công ty này nếu muốn vào thị trường Mỹ buộc
phải xin phép các công ty Mỹ!
Ngành dệt may, mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, hiện có nhiều
thương hiệu nổi tiếng đã bị mất trên thị trường Mỹ. Ông Nguyễn Đình Tường,
Phó Tổng giám đốc Công ty may Việt Tiến cho biết, các nhãn hiệu VTEC của
Công ty may Việt Tiến cũng như các nhãn hiệu khác của các công ty trong
ngành như May 10, Dệt Thành Công, Dệt Phong Phú... sẽ khó giữ được
“nguyên bản” như vẫn đang gọi tại thị trường Việt Nam nếu muốn xuất khẩu
sang Mỹ. Nguyên do là nhãn hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam đang bán
được hàng vào thị trường Mỹ đã được những công ty có đầu óc nhạy bén với
thị trường đăng ký sở hữu với các cơ quan chức năng của Mỹ theo luật pháp
Mỹ. Hơn thế nữa, các nhãn hiệu này đang được những người chủ sở hữu rao
73
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ bán trên mạng công khai mà đích nhằm tới chẳng phải ai xa lạ mà chính là
những doanh nghiệp sinh ra nhãn hiệu đó nhưng chậm làm “giấy khai sinh”.
Nếu muốn chuộc lại thương hiệu, có lẽ Công ty may Việt Tiến phải mất đến
450.000 USD, Dệt Thành Công bỏ ra khoảng 230.000 USD, Dệt Phong Phú
cũng chừng 300.000 USD. Việt Tiến đang chi khoảng 4500 USD cho việc
đăng ký hàng loạt các nhãn hiệu của mình tại thị trường Mỹ. Hiện công việc
đang tiến triển tốt và việc đăng ký sở hữu công nghiệp sẽ có tác dụng hỗ trợ
mạnh mẽ cho xúc tiến đưa hàng Việt Tiến vào thị trường Mỹ nhiều hơn.
Dù đã được chuẩn bị khá kỹ lưỡng, Vinamilk vẫn phải lao vào cuộc kiện
tụng ở cả tòa trong nước và nước ngoài vì tranh chấp với một đối tác nước
ngoài trong vấn đề bản quyền nhãn hiệu trên một số sản phẩm xuất khẩu sang
thị trường Mỹ và đã mất khoảng 20.000 USD để lấy lại thương hiệu của
mình.
Những thành viên của Hội nước mắm Phú Quốc đi tới nhiều siêu thị
trên đất Mỹ đã không khỏi kinh ngạc trước sự tràn ngập sản phẩm nước mắm
mang nhãn hiệu Phú Quốc. Chỉ có điều đó là nước mắm Phú Quốc... của Thái
Lan! Từ tháng 2/1998, nhãn hiệu nước mắm Phú Quốc đã bị công ty Kim
Seng tại California đăng ký và được công nhận vào tháng 5/1999. Chủ tịch
Hội sản xuất nước mắm Phú Quốc Nguyễn Thị Tịnh cho biết: “ Với sự hỗ trợ
của văn phòng quốc gia liên ngành rượu cognac Pháp, chúng tôi đang hoàn tất
các thủ tục bảo hộ ở Pháp. Sau đó nước mắm Phú Quốc sẽ đăng ký bảo hộ ở
EU & Mỹ”.
Từ các vụ tranh chấp thương hiệu nêu trên đã chứng tỏ Hoa Kỳ là một
thị trường hoàn toàn mới mẻ với hệ thống pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu hàng
hoá khá phức tạp đã khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam gặp phải rất nhiều
2. Những tồn tại trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
khó khăn.
74
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 2.1 Nhận thức của doanh nghiệp về nhãn hiệu và đăng ký nhãn hiệu
Theo nghiên cứu của một công ty tư vấn, 60% người tiêu dùng trên thế
giới quan tâm đến thương hiệu khi mua sắm. Nhưng hiện nay, các doanh
nghiệp Việt Nam mới chỉ đầu tư cho thương hiệu khoảng 2,6% doanh số.
Trong khi đối với các công ty nước ngoài, con số này là 7-10%. Hầu hết các
doanh nghiệp coi trọng việc phát triển sản phẩm và tiêu thụ hàng hoá hơn nhiều so với việc xây dựng nhãn hiệu sản phẩm.16
Doanh nghiệp Việt Nam đang tiến theo đúng quy luật của các nước trên
thế giới để đạt dần đến một độ ổn định chung về chất lượng. Vấn đề cạnh
tranh về chất lượng vì thế không còn là ưu tiên số một, mà là cạnh tranh về
thương hiệu, về giá cả, về dịch vụ hậu mãi và phân phối sản phẩm. Song các
doanh nghiệp Việt Nam dường như còn xa lạ với việc xây dựng, khuếch
trương một thương hiệu của riêng mình. Từ đó dẫn đến việc các doanh nghiệp
không có ý thức bảo vệ thương hiệu mặc dù đó là thành quả mà doanh nghiệp
không dễ dàng tạo dựng được. Hậu quả là hàng loạt các tên tuổi hàng hoá có
tiếng của nước ta đã bị “nẫng tay trên”.
Từ nhận thức trên dẫn đến việc chiến lược bảo hộ thương hiệu của các
doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa được chú ý đúng mức. Hiện nay các doanh
nghiệp Việt Nam thường chờ cho đến khi có thị trường xuất khẩu rồi mới
đăng ký thương hiệu. Đối với công ty nước ngoài thì quy trình này diễn ra
theo chiều ngược lại; ít nhất là sáu tháng đến một năm trước khi đưa hàng hoá
vào thị trường Việt Nam hay bất kỳ một thị trường nào, họ đã tiến hành đăng
ký nhãn hiệu. Theo số liệu thống kê, trong giai đoạn từ 1982-2001, Cục Sở
hữu công nghiệp Việt Nam (nay là Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam) đã nhận
được 56.366 đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trong đó có tới 30.972 đơn là
16 Theo: “Thương hiệu Việt” (Dự án “Hỗ trợ doanh nghiệp về năng lực xây dựng - quảng bá thương hiệu”). Nhà xuất bản trẻ và Câu lạc bộ doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao, 12/2002
75
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ của người nước ngoài (chiếm hơn 50%). Nhiều hãng nước ngoài đã đăng ký
vào Việt Nam hàng trăm đơn như hãng Unilever (Anh&Hà Lan) có tới 696
nhãn hiệu đã đăng ký bảo hộ. Nếu vào trang chủ của USPTO
(www.uspto.gov.) chúng ta sẽ thấy có 168 hồ sơ đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
mà người đăng ký có địa chỉ tại Việt Nam. Nếu so với trên 3 triệu nhãn hiệu
mà USPTO đang quản lý thì con số này thật nhỏ bé. Trong khi đó, Trung
Quốc, Thái Lan và các nước Đông Nam Á khác cùng sản xuất và xuất khẩu
sang Mỹ các mặt hàng tương tự Việt Nam đã đăng ký khá nhiều các đối tượng
sở hữu công nghiệp tại Mỹ.
2.2 Tâm lý lo ngại thủ tục khó khăn và tốn kém
Nhiều doanh nghiệp phàn nàn rằng, họ đang “đau đầu” khi phải bỏ ra
một khoản tiền lớn để đăng ký thương hiệu ở một số thị trường mục tiêu vì tại
thời điểm này, đăng ký chỉ để giữ chỗ, nhưng nếu không đăng ký thì sẽ có
nguy cơ mất thương hiệu. Với một số doanh nghiệp Nhà nước, các Giám đốc
còn ngần ngại hơn, vì đầu tư cho thương hiệu là một khoản đầu tư khá lớn
nhưng sau thời gian dài mới nhìn thấy lợi ích cụ thể. Ông Trần Việt Hùng -
Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ nhận xét: “Hầu hết các doanh nghiệp Việt
Nam cứ xuất khẩu chán chê rồi mới đăng ký nhãn hiệu hoặc chỉ làm một cách
sơ sài rồi không theo đuổi đến cùng. Hậu quả là xảy ra các tranh chấp về nhãn
hiệu hàng hoá và cuối cùng lại ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu”. Vì vậy,
Ông Hùng cũng đưa ra lời khuyên: “Tốt nhất là các doanh nghiệp nên đăng
ký nhãn hiệu hàng hoá trước khi xuất hàng vào thị trường Mỹ. Như vậy, các
doanh nghiệp Việt nam mới có thể giữ gìn, phát triển uy tín, thị phần của nhãn
hiệu cũng như sẵn sàng đối phó với các tranh chấp và vi phạm nhãn hiệu của mình tại thị trường đầy rủi ro này”17.
17 Theo: “Doanh nghiệp Việt Nam cần hiểu đúng việc đăng ký nhãn hiệu tại Mỹ”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư www.mpi.gov.vn ngày14/08/2003
76
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 2.3 Hiểu biết hạn chế về luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của Hoa Kỳ
Có thể nhận thấy rằng, chỉ sau khi hàng chục thương hiệu hàng hoá bị
mất tại các thị trường lớn, các doanh nghiệp Việt Nam mới quan tâm tìm hiểu
đến luật pháp quốc tế có liên quan. Dường như chỉ lúc này các Công ty tư vấn
luật sở hữu trí tuệ mới thực sự cảm nhận được vai trò của mình. Công ty Luật
gia Phạm, một công ty tư vấn luật có nhiều kinh nghiệm từng giúp Vifon đòi
lại sở hữu bản quyền thương hiệu đang tư vấn cho hàng loạt các Công ty vào
thị trường Mỹ. Công ty đang tiếp nhận hàng loạt các đơn của các Công ty có
tầm cỡ như Mỹ phẩm Sài Gòn, Việt Tiến... để có thể giúp các Công ty này
đăng ký sở hữu bản quyền tại Mỹ.
Rõ ràng con đường vào Mỹ của hàng Việt Nam và các doanh nghiệp Việt
Nam trên bình diện sở hữu công nghiệp thật cam go. Các cơ quan chức năng
Nhà nước cũng như các doanh nghiệp hẳn đã tiếp thu được những bài học cần
thiết để đi tới loại bỏ những rào cản trong tiến trình Việt Nam hội nhập kinh tế
quốc tế.
II. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO HỘ
NHÃN HIỆU HÀNG VIỆT NAM TẠI THỊ TRƯỜNG HOA KỲ
1. Đối với các cơ quan chức năng của Nhà nước
1.1 Tích cực chỉ đạo công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của Hoa Kỳ
Như đã phân tích ở trên, Hệ thống luật sở hữu trí tuệ trong đó có nhãn
hiệu hàng hoá của Mỹ rất phức tạp. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp nhiều
khó khăn trong việc nghiên cứu và rất cần sự giúp đỡ từ phía Nhà nước. Để
hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực này, Nhà nước cần tổ chức các khoá
đào tạo, các lớp tập huấn hay hội nghị, hội thảo về hệ thống pháp luật nhãn
hiệu hàng hoá của Mỹ nhằm nâng cao hiểu biết của các doanh nghiệp về khía
77
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ cạnh pháp lý trong kinh doanh với Mỹ. Đồng thời, Nhà nước cần khuyến
khích các Cơ quan, Bộ, Ngành liên quan và các cá nhân xuất bản và lưu hành
những ấn phẩm hay băng đĩa về vấn đề này dưới dạng sách hay những bài
viết trên báo, tạp chí hay đĩa hình... nhằm tạo ra nguồn thông tin phong phú
và chính xác cho các doanh nghiệp tham khảo. Mặt khác, Nhà nước cũng có
thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp thông qua việc cung cấp một số địa chỉ tư
vấn pháp luật đáng tin cậy.
1.2 Tuyên truyền về vai trò của thương hiệu và bảo hộ thương hiệu
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng bị mất thương hiệu ở nước ngoài
là bởi các doanh nghiệp Việt Nam còn xem nhẹ thương hiệu và đăng ký bảo hộ thương
hiệu.
Việc tuyên truyền về thương hiệu trước hết phải làm cho các nhà lãnh
đạo doanh nghiệp hiểu rằng: thương hiệu cũng là một bộ phận cấu thành trong
tài sản của doanh nghiệp, do đó cần chăm lo cho loại tài sản này không những
không bị hao mòn mà ngày càng tăng thêm giá trị.
Việc tuyên truyền đó có thể được thực hiện thông qua các kênh thông tin
đại chúng, các buổi hội thảo, các cuộc gặp gỡ giữa cơ quan quản lý Nhà nước
và doanh nghiệp hay giữa các doanh nghiệp với nhau.
Trong năm 2002, tại thành phố Hồ Chí Minh đã diễn ra một cuộc hội
thảo về luật pháp, chính sách, và quản lý về Sở hữu trí tuệ do Cục sở hữu
công nghiệp Việt Nam và Viện Sở hữu trí tuệ quốc tế tổ chức với sự tham gia
của hơn 100 chuyên gia Việt Nam và quốc tế. Hội thảo nhằm làm rõ tầm quan
trọng của việc thực thi quyền Sở hữu trí tuệ, giới thiệu những thành phần
chính của các tiêu chuẩn Sở hữu trí tuệ quốc tế và trao đổi kinh nghiệm giữa
hai bên về việc thực thi bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ trong quá trình thực thi
Hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ .
78
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Hy vọng rằng, trong tương lai sẽ có nhiều những cuộc hội thảo tương tự,
qua đó các doanh nghiệp sẽ chủ động thấy được sự cần thiết phải bảo hộ
thương hiệu của mình - vấn đề quan tâm không chỉ của doanh nghiệp Việt
Nam mà cũng là của các doanh nghiệp Mỹ và doanh nghiệp của tất cả các
nước tham gia vào thương mại quốc tế.
1.3 Tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp về vấn đề thông tin
Thực tế cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam không hề biết nhãn hiệu
của mình đã bị đăng ký bảo hộ ở nước ngoài cho đến khi chính họ bị phía
nước ngoài đệ đơn kiện đòi bồi thường thiệt hại do “sử dụng nhãn hiệu trái
phép” hoặc không được xuất khẩu vào thị trường đó vì nhãn hiệu đã bị đăng
ký. Nếu như thông tin được cập nhật, chắc hẳn chiến lược giành lại thương
hiệu của doanh nghiệp sẽ được tiến hành kịp thời do đó sẽ dễ dàng hơn, tránh
cho doanh nghiệp mất những cơ hội kinh doanh quý giá.
Với vai trò hoạt động vĩ mô, ở tầm quốc gia, việc tập trung hỗ trợ các
doanh nghiệp có được nhiều thông tin, thông tin chính xác, nóng hổi có lẽ sẽ
là một sự hỗ trợ hữu hiệu và mang tính khả thi. Cần mở những trang web cập
nhật các thông tin xung quanh cuộc chiến thương hiệu với những chuyên
mục: Tin tức, Chuyên đề, Diễn đàn, Hỗ trợ, Liên kết... Hiện nay, những thông
tin đó thường được nằm rải rác trong các trang báo điện tử dẫn đến các thông
tin được truy cập không hệ thống, không được sắp xếp và phân tích trong
từng tiêu đề riêng biệt, hiệu quả mang lại không cao. Việc nắm bắt những
thông tin rời rạc đó sẽ khó tạo thành một “cú huých” tạo nên sự chuyển biến
trong nhận thức và hành động của các doanh nghiệp Việt Nam đối với việc
bảo hộ thương hiệu của mình.
Chính phủ cũng cần phải có các Văn phòng xúc tiến thương mại tại các
nước và các khu vực thị trường xuất khẩu tiềm năng nhất của doanh nghiệp.
Đây sẽ là cầu nối giữa doanh nghiệp với mọi thông tin cập nhật nhất trong đó
79
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ có thông tin về sở hữu trí tuệ. Theo ý kiến của nhiều doanh nghiệp, việc tổ
chức các Hội chợ thông tin sẽ là một giải pháp hữu hiệu để các doanh nghiệp
có cơ hội tiếp cận với nguồn thông tin trên các khu vực thị trường nước ngoài
một cách toàn diện nhất. Hội chợ sẽ quy tụ những chuyên gia kinh tế có kinh
nghiệm làm việc lâu năm ở nước ngoài, tham gia đóng góp về hiện trạng
chung của thị trường nước ngoài.
Song song với việc tổ chức các Hội chợ thông tin là việc tổ chức các
buổi hội thảo chuyên đề thương hiệu và bảo vệ thương hiệu tại Mỹ, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp hai nước có cơ hội được trực tiếp gặp gỡ nhau nhằm
trao đổi những thông tin cần thiết về luật pháp cũng như tình hình bảo hộ
nhãn hiệu hàng hoá ở mỗi nước. Các doanh nghiệp Việt Nam chắc chắn sẽ có
những kinh nghiệm bổ ích trong việc xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu hàng
hoá và bảo vệ quyền đó một cách hiệu quả nhất trên đất Mỹ.
Ngoài ra thông qua Thương vụ của Việt Nam tại Hoa Kỳ, Bộ Thương
mại phải thu thập và phổ biến thông tin về thị trường Mỹ cho các doanh
nghiệp. Đồng thời với những thông tin về thị trường như nhu cầu, đặc điểm,
tính chất của hàng hoá. Bộ Thương mại và Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ
nên chăng hãy quan tâm đến khía cạnh thương hiệu - niềm tự hào của mỗi
doanh nghiệp và hình ảnh của một quốc gia.
1.4 Xây dựng luật thương mại điện tử
Môi trường kinh doanh hiện nay mỗi lúc một sôi động và biến đổi không
ngừng. Xu hướng phát triển mới trên thế giới hiện nay là kinh doanh thương
mại điện tử và Việt Nam cũng không thể đứng ngoài xu thế đó. Tuy cơ sở vật
chất hạ tầng cho công nghệ thông tin của Việt Nam còn thiếu thốn song các
doanh nghiệp cũng đã bắt đầu tham gia vào hệ thống thương mại điện tử. Ở
thành phố Hồ Chí Minh cũng đã thí điểm mô hình hệ thống Chính phủ điện
tử khi cho phép mọi cá nhân và tổ chức được phép đăng ký kinh doanh thông
80
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ qua mạng máy tính... Internet là một kênh truyền thông mới rất hữu ích cho
các doanh nghiệp trong việc giới thiệu và quảng bá những nhãn hiệu sản
phẩm tới các khách hàng ở cả trong và ngoài nước. Doanh nghiệp có thể liên
hệ nhanh chóng với khách hàng và giới thiệu được ngay những sản phẩm,
dịch vụ của mình. Ngoài ra, doanh nghiệp còn có thể tìm hiểu mọi thông tin
cần thiết trên Internet hay thậm chí có thể đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của
mình thông qua mạng Internet.
Như vậy một yêu cầu cấp bách đặt ra là Nhà nước cần phải xây dựng hệ
thống luật thương mại điện tử để kịp thời điều chỉnh hoạt động kinh doanh
mới mẻ này. Khi đã có luật cụ thể và rõ ràng thì cũng cần có các văn bản
hướng dẫn đầy đủ và chi tiết việc thực hiện và xử lý những trường hợp vi
phạm. Có sớm hoàn chỉnh hệ thống thương mại điện tử ở Việt Nam thì các
doanh nghiệp mới có thể quảng bá các nhãn hiệu sản phẩm của mình một
cách có hiệu quả trên Internet và nhanh chóng hội nhập với bước phát triển
của kinh tế toàn cầu.
1.5 Các biện pháp khác
Ngoài các biện pháp nói trên, Nhà nước cũng cần đẩy mạnh hơn nữa sự
đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ các chuyên gia luật Sở
hữu trí tuệ. Họ phải là nhưng người tinh thông về luật pháp Sở hữu trí tuệ
quốc tế và quốc gia, nắm bắt kịp thời và chính xác các thông tin cũng như
phải có vốn ngoại ngữ phong phú để có thể bảo vệ các doanh nghiệp Việt Nam trong
các cuộc chiến pháp lý.
Cuối cùng, Việt Nam cần gia nhập các tổ chức như WIPO, tiến tới là
Hiệp ước luật nhãn hiệu hàng hoá và Hiệp định TRIPS – những Tổ chức và
Điều ước quốc tế mà Mỹ đều là thành viên. Cơ chế đảm bảo thực thi rất
nghiêm ngặt và có hiệu quả của các tổ chức này sẽ bảo vệ các doanh nghiệp
Việt Nam trong giai đoạn ban đầu đầy thử thách.
81
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 2. Đối với các doanh nghiệp
2.1 Nâng cao nhận thức về sức mạnh thương hiệu và bảo vệ thương hiệu
Trong thời gian qua, các cơ quan chuyên trách cũng đã có nỗ lực tuyên
truyền cho doanh nghiệp về sức mạnh của giá trị thương hiệu nhưng thực tiễn
cho thấy hiệu quả đạt được vẫn chưa được tương xứng. Phải nhận thấy rằng
công tác tuyên truyền đó sẽ chỉ phát huy hiệu quả khi chính bản thân mỗi
doanh nghiệp tự nỗ lực trang bị cho mình những kiến thức cần thiết về giá trị
của thương hiệu và việc bảo vệ thương hiệu.
Thứ nhất, bản thân doanh nghiệp phải tìm hiểu tầm quan trọng của việc
xây dựng nhãn hiệu đối với việc thu hút khách hàng cũng như đối với việc
phát triển kinh doanh của công ty. Có hiểu được ý nghĩa và sức mạnh của
nhãn hiệu trong cạnh tranh thì doanh nghiệp mới mạnh dạn đầu tư cho xây
dựng chiến lược nhãn hiệu lâu dài và nhất quán.
Càng ngày, nhu cầu của khách hàng ngày càng nâng cao và họ không chỉ
dừng lại ở mức thoả mãn với chất lượng sử dụng của bản thân sản phẩm mà
cao hơn nữa, họ đòi hỏi sản phẩm ấy phải đáp ứng được những nhu cầu về
mặt cảm xúc của họ. Một sản phẩm với nhãn hiệu nổi tiếng không chỉ hứa
hẹn mang lại cho khách hàng sự đảm bảo về mặt chất lượng mà còn đem lại
cho họ cảm giác được tôn trọng, được quan tâm. Chính vì thế doanh nghiệp
không nên lơ là vai trò khác biệt hoá của nhãn hiệu trong chiến lược kinh
doanh của mình.
Thứ hai, khi đã hiểu được vai trò quan trọng của nhãn hiệu sản phẩm
trong cạnh tranh thì doanh nghiệp phải tích cực học hỏi những kiến thức về
xây dựng, tôn tạo nhãn hiệu cũng như cách thức quản lý nhãn hiệu sản phẩm.
Doanh nghiệp có thể tham gia các lớp tập huấn về kỹ năng xây dựng, tôn tạo
và quảng bá nhãn hiệu, chịu khó quan sát học hỏi kinh nghiệm của những
người đi trước, rút ra những bài học từ thành công hay thất bại của họ. Những
82
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ buổi hội thảo chuyên đề về thương hiệu và nhãn hiệu hàng hoá, các buổi thảo
luận ý kiến hay trao đổi kinh nghiệm là những dịp hết sức bổ ích giúp doanh
nghiệp tự nâng cao kiến thức cho mình.
Thứ ba, xây dựng một nhãn hiệu sản phẩm nổi bật đòi hỏi phải có chiến
lược nhất quán và lâu dài chứ không thể làm trong một sớm một chiều. Vì
vậy, doanh nghiệp cần có kế hoạch đầu tư lâu dài và phù hợp với tiềm năng
của chính mình. Đầu tư cho nhãn hiệu sản phẩm là phải đầu tư đồng bộ cả về
vốn, đội ngũ nhân lực, trình độ chuyên nghiệp, quản lý tổ chức... Tuy nhiên,
khi bắt tay vào xây dựng nhãn hiệu cho một hay một nhóm sản phẩm, doanh
nghiệp phải tính toán tỷ lệ đầu tư cho nhãn hiệu trên tổng doanh thu là bao
nhiêu và chiến lược ấy dự kiến sẽ kéo dài trong bao lâu. Có dự tính trước
những điều này doanh nghiệp mới hoạch định được chiến lược cụ thể và thực
hiện thành công.
Việc trang bị những kiến thức cơ bản về nhãn hiệu phải được quán triệt
từ các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đến từng nhân viên trong doanh nghiệp
thông qua các cuộc họp, hội thảo, các buổi trao đổi ngay tại doanh nghiệp
hoặc các phương tiện thông tin của doanh nghiệp như tạp chí của doanh
nghiệp, trang web của doanh nghiệp... sao cho thương hiệu - hình ảnh của
doanh nghiệp luôn luôn được giữ gìn, bồi đắp và hoàn thiện ở tất cả các khâu
trong quá trình hoạt động của công ty: marketing, nghiên cứu và phát triển
sản phẩm, sản xuất, lưu thông, phân phối... Ngoài ra, cũng cần bổ sung chức
năng quản lý thương hiệu trong doanh nghiệp, có thể bằng việc thành lập bộ
phận quản trị thương hiệu. Bộ phận này sẽ quyết định chiến lược phát triển,
quảng bá và bảo vệ thương hiệu.
Khi nhận thức của doanh nghiệp được nâng cao cũng có nghĩa doanh
nghiệp đã tin yêu, tự hào về thương hiệu riêng của mình và sẽ có những hành
động cần thiết để bảo vệ giá trị đó.
83
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 2.2 Chủ động tiếp cận các thông tin, đặc biệt là các thông tin pháp lý
Theo đó, các doanh nghiệp cần theo dõi các hành vi lạm dụng thương
hiệu của mình trên các ấn phẩm, báo chí, tivi, đài phát thanh, các hội chợ triển
lãm trong và ngoài nước. Các doanh nghiệp nên đặc biệt quan tâm các thông
tin pháp luật nhãn hiệu hàng hoá bởi luật pháp của Mỹ rất phức tạp mà người
Mỹ khi kinh doanh gắn rất sát với luật lệ. Doanh nghiệp Việt Nam thiếu kinh
nghiệm và hiểu biết rất dễ bị chèn ép. Ngoài ra, am hiểu về luật lệ Mỹ sẽ giúp
doanh nghiệp tránh phải mất tiền vì những sơ suất khi đăng ký, sử dụng, duy
trì nhãn. Doanh nghiệp có thể thuê luật sư tư vấn để tránh những rủi ro và bất
đồng. Tuy nhiên, chi phí trả cho luật sư rất cao (thường khoảng 250 - 500
USD/giờ, còn để thuê một luật sư theo đến hết một vụ kiện phải tiêu tốn
khoảng 30.000- 50.000 USD). Như vậy, muốn sử dụng luật sư có hiệu quả,
bản thân doanh nghiệp cũng phải am hiểu ít nhiều về luật lệ Mỹ để khi mời
luật sư thì đảm bảo thời gian làm việc ngắn nhất nhưng hiệu quả cao. Với
kinh phí eo hẹp của mình thì có lẽ đối với các doanh nghiệp Việt Nam, nên
khai thác triệt để các kênh thông tin cơ bản để hiểu càng nhiều về thị trường
và luật pháp Mỹ càng tốt.
2.3 Quan tâm đến việc đăng ký bảo hộ thương hiệu ở nước ngoài
Hãy tuân thủ nguyên tắc chiến lược "thương hiệu đi trước hàng hoá".
Các doanh nghiệp cần phải nhanh chóng khắc phục thói quen đưa hàng hoá ra
thị trường rồi mới tính đến thương hiệu. Luật nhãn hiệu của Mỹ cho phép
người nộp đơn lựa chọn một trong hai hình thức: nộp đơn trên cơ sở "dự định
sử dụng" nhãn hiệu, hoặc nộp đơn trên cơ sở “nhãn hiệu đã sử dụng trong
thực tế". Do đó, những doanh nghiệp có ý định và khả năng xuất khẩu hàng
mang nhãn hiệu của mình sang Mỹ trong một vài năm tới thì có thể tiến hành
nộp đơn ngay từ bây giờ trên "cơ sở dự định sử dụng" để giành lấy ngày ưu
tiên sớm cho mình. Trong trường hợp này, ngoài các khoản phí phải trả cho
84
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ việc nộp đơn thông thường, thì doanh nghiệp phải trả khoản phí cho việc gia
hạn thời gian để đưa hàng hoá vào thị trường Mỹ. Cần lưu ý rằng, thời gian
gia hạn tối đa là 3 năm (theo luật Mỹ và Hiệp định thương mại Việt- Mỹ), sau
đó nếu không đưa được hàng vào Mỹ thì đơn nhãn hiệu hàng hoá sẽ bị từ chối
(coi như đơn chưa được nộp ).
2.4 Lưu trữ đầy đủ bằng chứng sử dụng thương hiệu trong hoạt động thương mại
Doanh nghiệp cũng cần lưu trữ đầy đủ các bằng chứng sử dụng thương
hiệu trong hoạt động thương mại. Khi gặp tình trạng tranh chấp thương hiệu,
doanh nghiệp có thể sử dụng các bằng chứng thương hiệu đã được sử dụng và
thừa nhận rộng rãi từ trước để giành quyền về mình, ví như mẫu bao bì có ghi
ngày sản xuất từ trước, Giấy chứng nhận đăng ký chất lượng vệ sinh và an
toàn thực phẩm, kết quả doanh số, mạng lưới đại lý, số lần và chi phí với mẫu
quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, hợp đồng, hoá đơn, vận
đơn... Ngoài ra, việc lưu trữ các bằng chứng sử dụng thương hiệu ngay từ đầu
sẽ giúp cho việc xin công nhận nhãn hiệu nổi tiếng sau này dễ dàng hơn, từ đó
sẽ tạo nhiều thuận lợi cho việc bảo hộ và việc xét cấp bằng bảo hộ cho các
nhãn hiệu khác.
2.5 Các biện pháp ngăn ngừa tranh chấp nhãn hiệu
Khi ký kết các hợp đồng xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam nên thận
trọng đưa điều khoản về nhãn hiệu sản phẩm vào tất cả các hợp đồng đại lý,
liên doanh liên kết, trong quan hệ công ty mẹ - công ty con. Điều này ngoài
tác dụng tránh xảy ra tranh chấp nhãn hiệu trong tương lai còn giúp doanh
nghiệp phân chia phạm vi trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng một cách rõ ràng.
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần phải nghiên cứu kỹ trước khi bắt
tay làm ăn với bất kỳ đối tác nào để chắc chắn rằng mình đang làm ăn với một
85
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ đối tác có năng lực, đáng tin cậy. Để có thêm thông tin về đối tác tương lai,
các doanh nghiệp hãy tìm tới các cơ quan đầu mối thương mại của Mỹ và Việt
Nam để nhờ họ kiểm tra giúp độ tin cậy của đối tác.
Mặt khác, để những khách hàng nước ngoài có thêm thông tin về sản
phẩm của mình, các doanh nghiệp Việt Nam nên có chính sách yểm trợ dựa
trên các phương pháp quảng bá nhãn hiệu chủ yếu sau:
Quảng cáo (Advertising): Thông tin về nhãn hiệu sản phẩm được giới
thiệu gián tiếp tới những khách hàng tiềm năng. Đây là hình thức quảng bá
nhãn hiệu phổ biến nhất và cũng dễ dàng áp dụng để giúp thiết lập ý niệm về
nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể lựa chọn các
phương tiện quảng cáo khác nhau cho nhãn hiệu sản phẩm của mình:
Quảng cáo trên các phương tiện truyền thông (Media advertising):
qua tivi, radio, báo chí để xây dựng hình ảnh và những thông điệp riêng của
nhãn hiệu sản phẩm - Đây là những phương tiện có phạm vi ảnh hưởng và tác
động mạnh tới khách hàng song đòi hỏi chi phí cao và tần suất lớn.
Quảng cáo trực tiếp (Direct response advertising): thông qua thư từ,
điện thoại, tờ rơi, Internet - thông tin về nhãn hiệu và sản phẩm được truyền
trực tiếp tới khách hàng mục tiêu song chi phí còn cao.
Quảng cáo nơi công cộng (Place advertising): sử dụng panô, áp
phích, băng rôn, xe buýt, bảng điện tử, các đồ dùng hàng ngày như tủ, bàn
ghế, ô dù có in nhãn hiệu sản phẩm... Hình thức này hiệu quả cao do truyền
được thông tin về nhãn hiệu tới được nhiều người.
Quảng cáo tại điểm bán (Point-of-Purchase advertising): sử dụng các
phương tiện tivi, video ngay tại nơi bán hàng để tác động trực tiếp tới người
mua.
86
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Hội chợ, triển lãm (Trade fair and Exhibition): Doanh nghiệp có thể
vừa trực tiếp bán hàng và giới thiệu nhãn hiệu sản phẩm, thu hút đông khách
hàng và nhận được phản hồi trực tiếp.
Khuyến mại kênh phân phối (Trade Promotion): Doanh nghiệp có thể
áp dụng các hình thức khuyến khích kênh phân phối trung gian thông qua
hình thức bán hàng, phối hợp quảng cáo, trình diễn sản phẩm, hỗ trợ trưng
bày
Khuyến mãi người mua (Consumer Promotion): áp dụng các hình thức
bán hạ giá, tặng hàng mẫu, tặng phiếu giảm giá... để khuyến khích khách mua
sản phẩm mang nhãn hiệu của doanh nghiệp.
Marketing sự kiện và tài trợ (Event marketing and sponsorship): Tài
trợ cho các sự kiện văn hoá, xã hội, giáo dục, thể thao... để quảng bá nhãn
hiệu sản phẩm và xây dựng uy tín cho doanh nghiệp.
Quan hệ công chúng (Public relations): Thiết lập các mối quan hệ với
giới truyền thông, các tổ chức xã hội, các cơ quan Nhà nước.. để tạo điều kiện
khuếch trương nhãn hiệu của mình.
Xây dựng văn hoá doanh nghiệp (Enterprise culture): Xây dựng hình
ảnh chung cho doanh nghiệp và đội ngũ nhân viên, tác phong làm việc, tôn
chỉ phục vụ khách hàng v.v. để tạo uy tín chung cho toàn doanh nghiệp, khi
đó sẽ có ảnh hưởng tích cực tới từng nhãn hiệu hàng hoá.
Để tôn tạo nhãn hiệu sản phẩm một cách có hiệu quả, doanh nghiệp cần
phải phối hợp các hình thức quảng bá trên một cách có chọn lọc. Chọn lọc ở
đây hiểu theo nghĩa là phải lựa chọn lấy loại hình quảng bá phù hợp nhất với
đối tượng khách hàng mục tiêu, với bản thân sản phẩm và khả năng tài chính
của doanh nghiệp mà vẫn đem lại hiệu quả cao. Các doanh nghiệp khi phối
hợp các phương pháp quảng bá nhãn hiệu sản phẩm cũng nên chú ý nhấn
mạnh vào hình thức trọng tâm và hỗ trợ bằng các hình thức còn lại chứ không
87
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ sử dụng dàn trải toàn bộ các hình thức yểm trợ trong một khoảng thời gian
nhất định. Trong thời gian dài thì doanh nghiệp có thể thay đổi phương pháp
cho linh động và thích hợp với tình hình thực tế phát triển nhãn hiệu sản
phẩm của mình.
2.6 Nâng cao trình độ ngoại ngữ, vi tính của các doanh nhân
Trong điều kiện hội nhập nền kinh tế như hiện nay, hai công cụ không
thể thiếu đối với mỗi doanh nhân thành đạt là ngoại ngữ và vi tính. Có được
hai công cụ hữu ích này, các doanh nghiệp có thể tiếp cận với thế giới bên
ngoài và không bị tụt hậu. Mặt khác, điều đó cũng có thể giúp cho các doanh
nghiệp có thể tự mình đăng ký nhãn hiệu hàng hoá qua Internet vào thị trường
Hoa Kỳ.
Kết luận
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
hàng hoá, nhất là ở thị trường nước ngoài, hiểu biết được pháp luật của nước
sở tại để có thể tiến hành đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá ở các thị trường
88
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ đó đồng thời áp dụng nguyên tắc chiến lược “thương hiệu đi trước hàng hoá”
nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình và dần dần xây dựng được
uy tín cho nhãn hiệu của mình; đó chính là điều mà chúng ta chờ đợi, mong
mỏi ở các doanh nghiệp Việt Nam.
Các doanh nghiệp có làm được điều đó không, nhất là tại thị trường Mỹ,
nơi mà nhiều cơ hội đang mở ra cùng với những thuận lợi mà Hiệp định
thương mại Việt- Mỹ đem lại? Câu trả lời nằm ở nỗ lực bản thân từng doanh
nghiệp và cao hơn nữa là sức mạnh của tinh thần đoàn kết dân tộc.
Mặc dù còn rất nhiều khó khăn phải vượt qua, nhưng chúng ta đều hy
vọng trong thời gian tới, với sự quan tâm của Chính phủ và các Bộ, ngành,
các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thể giải quyết có hiệu quả tình trạng mất
thương hiệu tại thị trường nước ngoài, tạo cơ sở và điều kiện vững chắc để
phát triển phát triển thương hiệu Việt không chỉ ở thị trường Hoa Kỳ mà còn
ở những thị trường tiềm năng khác nữa.
89
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Phụ lục
PHỤ LỤC I: CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN THƯƠNG
HIỆU QUỐC GIA “VIETNAM VALUE INSIDE”
Thương hiệu quốc gia (hay còn gọi là nhãn sản phẩm quốc gia) là loại
thương hiệu dùng cho sản phẩm của một nước, do tổ chức xúc tiến thương
mại của nước đó chủ trì phát hành nhằm quảng bá hình ảnh quốc gia thông
qua sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Ở Việt Nam, Cục xúc tiến thương mại -
Bộ thương mại đã xây dựng chương trình “Thương hiệu quốc gia Việt Nam”
để giúp đưa thương hiệu Việt Nam ra thị trường thế giới.
Chương trình thương hiệu quốc gia của Việt Nam cho phép doanh
nghiệp được dán biểu trưng với tựa đề tiếng Anh “Vietnam Value Inside”
(Giá trị Việt Nam) trên các sản phẩm của mình nếu các sản phẩm đó đã có
thương hiệu riêng và đạt được các tiêu chí về chất lượng do chương trình quy
định. Như vậy, bên cạnh thương hiệu riêng của sản phẩm, các doanh nghiệp
đủ tiêu chuẩn sẽ được dán thêm biểu trưng của thương hiệu quốc gia cho sản
phẩm của mình. Cùng với việc sử dụng nhãn “Vietnam Value Inside”, các
doanh nghiệp còn được quảng bá rộng rãi tại các nước nhập khẩu chủ chốt
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, ấn phẩm quảng cáo,
truyền hình... để các nhà nhập khẩu và người tiêu dùng nước ngoài biết đến
những giá trị tiềm ẩn trong hàng hoá của Việt Nam.
Chương trình thương hiệu quốc gia được thực hiện qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn I (2003): Chính thức phát động chương trình tại hội chợ
Vietnam Expo 2003 (tháng 4/2003).
Giai đoạn II (2004): Hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp tham gia
trên diện rộng. Lấy Hội chợ Thương mại ASEAN 2004 sẽ được tổ chức tại Hà
90
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ Nội làm trung tâm năm 2004, là cơ hội để quảng bá Nhãn sản phẩm quốc gia
Vietnam Value Inside trong khu vực ASEAN.
Giai đoạn III (2005-2010): Khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao
chất lượng, tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận và thâm nhập thị trường
nước ngoài. Lấy Triển lãm thế giới AICHI 2003 (triển lãm lớn nhất thế giới tổ
chức 4 năm/lần) tại Nhật Bản làm điểm mốc để quảng bá mạnh mẽ Nhãn sản
phẩm quốc gia Vietnam Value Inside ra thị trường thế giới, đưa ra hình ảnh
một Việt Nam đang ngày càng đổi mới, hiện đại hoá với một nền sản xuất đã
và đang phát triển mạnh mẽ.
Chương trình thương hiệu quốc gia được xây dựng nhằm mục đích:
Tăng cường sự nhận biết của các nhà nhập khẩu trên thị trường thế
giới đối với các sản phẩm mang nhãn hiệu Việt Nam, làm cho nhà nhập khẩu
và người tiêu dùng nước ngoài có thái độ nhìn nhận tích cực hơn, có lòng tin
vào sản phẩm và nhà sản xuất Việt Nam, từ đó có thiện cảm và ưa chuộng
hàng Việt Nam hơn. Mục đích cuối cùng là tạo ý thích và thói quen mua hàng
mang nhãn Việt Nam.
Nâng cao sức cạnh tranh cho các thương hiệu Việt Nam trong quá
trình hội nhập.
Xây dựng hình ảnh về Việt Nam là một quốc gia có uy tín xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ đa dạng phong phú với chất lượng cao.
Xây dựng một tiềm thức trong giới kinh doanh xuất khẩu luôn hướng
về chất lượng sản phẩm (cả hàng hoá và dịch vụ) và độ tin cậy cao trong kinh
doanh.
Quảng bá cho các tiêu chuẩn quốc tế và sự cần thiết của việc áp dụng
tiêu chuẩn quốc tế trong cộng đồng kinh doanh Việt Nam.
91
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Góp phần tạo thêm giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu của Việt
Nam, tạo thế cạnh tranh bền vững...
Đưa nhãn Vietnam Value Inside vào năm 2010 trở thành một công cụ
Marketing hữu hiệu cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế
giới và thị trường trong nước, giúp doanh nghiệp Việt Nam từng bước đi vào
thị trường thế giới với thương hiệu riêng, đầy niềm tin và kiêu hãnh.
Nhãn sản phẩm quốc gia sẽ có tác dụng nâng cao hình ảnh Việt Nam,
tăng thêm uy tín, niềm tự hào và sức hấp dẫn cho đất nước, con người Việt
Nam, góp phần khuyến khích du lịch và thu hút đầu tư nước ngoài.
Xây dựng một liên minh chặt chẽ giữa cơ quan xúc tiến thương mại
quốc gia với các doanh nghiệp, hướng tới hoạt động xúc tiến thương mại
mang tính cộng đồng.
Khuyến khích xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chế biến, giảm tỷ
trọng xuất khẩu nguyên liệu thô.
Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu và thiết lập
mạng lưới tiêu thụ cho các sản phẩm mang thương hiệu riêng của mình.
Phạm vi áp dụng của chương trình này: các doanh nghiệp được lựa
chọn từ những ngành Việt Nam có khả năng cạnh tranh và có sản phẩm thoả
mãn các yêu cầu sau:
Là thành phẩm hoàn chỉnh, có chất lượng cao, đã có thương hiệu
riêng của mình, có thị trường trong nước và xuất khẩu ổn định.
Là sản phẩm xuất khẩu mang thương hiệu có xuất xứ Việt Nam (được
đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại Việt Nam).
Đã được cấp đăng ký chất lượng ISO, HACCP hoặc đạt chất lượng
tiêu chuẩn Việt Nam và các tiêu chuẩn do cơ quan quản lý chuyên ngành đề
ra.
92
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Có thiết kế mẫu mã đẹp.
Đã xuất khẩu liên tục trong 3 năm.
Doanh nghiệp có chương trình duy trì và cải tiến chất lượng đối với
mọi mặt hàng.
Bên cạnh các tiêu chí về chất lượng sản phẩm như trên, các doanh
nghiệp được phép sử dụng nhãn “Thương hiệu quốc gia” trước tiên phải là
những doanh nghiệp được lựa chọn từ các ngành Việt Nam có khả năng cạnh
tranh, từ các ngành mũi nhọn của đất nước.
Quyền lợi đối với các doanh nghiệp được chấp nhận tham gia chương
trình mang nhãn “Thương hiệu quốc gia”: (1) được phép dán nhãn “Vietnam
Value Inside”, (2) được tư vấn và trợ giúp xây dựng kế hoạch phát triển
thương hiệu xuất khẩu, (3) được hỗ trợ trong hoạt động quảng bá tại thị trường
quốc tế trong khuôn khổ chương trình “Vietnam Value Inside”, (4) được ưu
tiên trong quá trình lựa chọn đơn vị tài trợ tham gia các hội chợ trong nước và
quốc tế và các chương trình xúc tiến thương mại do Cục xúc tiến thương mại
chủ trì, (5) đặc biệt là được hỗ trợ 50% phí quảng cáo trên các ấn phẩm báo
chí, truyền hình và truyền thanh... do chương trình thực hiện.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp khi tham gia chương trình cần tuân thủ
đầy đủ các nghĩa vụ như: Cam kết đảm bảo chất lượng đúng tiêu chí của
chương trình, đảm bảo không làm giả, làm nhái nhãn, thường xuyên nâng cao
chất lượng, thiết kế phát triển sản phẩm mới và tổ chức quản lý, kinh doanh
theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam và quốc tế, mọi hoạt động của
doanh nghiệp phải đảm bảo giữ gìn và phát huy hình ảnh và uy tín quốc gia.
Nếu không thực hiện đúng, các doanh nghiệp sẽ bị đình chỉ ngay lập tức
quyền sử dụng nhãn sản phẩm quốc gia đồng thời phải bồi thường mọi thiệt
hại nếu có...
93
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Sự thành công của chương trình này phụ thuộc vào cố gắng của Chính
phủ, các cơ quan chức năng ở tất cả các cấp, các tổ chức xúc tiến thương mại
Việt Nam và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.
PHỤ LỤC 2: 10 THƯƠNG HIỆU GIÁ TRỊ NHẤT THẾ GIỚI NĂM 200318
18 Theo: Interbrand/Business Week
94
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Công ty mẹ
Tên thương hiệu
Xếp hạn g
Giá trị thương hiệu năm 2001 (tỷ USD)
Giá trị thương hiệu năm 2002 (tỷ USD)
Giá trị thương hiệu năm 2003 (tỷ USD)
Coca-Cola Company
68,95
69,64
70,45
1
COCA-COLA
Microsoft Group
65,07
64,09
65,17
2 MICROSOFT
52,75
51,19
51,77
3
IBM
International Business Machines Corp.
42,40
41,31
42,34
4 GE
General Electric Company
Intel Corp.
34,67
30,86
31,11
5
INTEL
Nokia Corp.
35,04
29,97
29,44
6
NOKIA
32,59
29,26
28,04
7
DISNEY
Walt Disney Company
McDonald’s Corp.
25,29
26,38
24,07
8 McDONALD’S
22,05
24,15
22,18
9 MARLBORO
Philip Morris Companies Inc.
21,73
21,01
21,37
10 MERCEDES
Daimler Chrysler AG
PHỤ LỤC 3: THOẢ ƯỚC NICE VỀ PHÂN LOẠI QUỐC TẾ ĐỐI VỚI
95
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
HÀNG HOÁ VÀ DỊCH VỤ VÌ MỤC ĐÍCH ĐĂNG KÝ NHÃN HIỆU
HÀNG HOÁ (1957)
Hàng hoá
Nhúm 1: Sản phẩm hoá học cho công nghiệp, nhiếp ảnh cũng như nông
nghiệp, nghề làm vườn và lâm nghiệp.
Nhúm 2: Thuốc màu, sơn, vecni; chất chống gỉ và chất bảo quản gỗ; thuốc
nhuộm, thuốc cắt màu; nhựa kim loại dạng thô
Nhúm 3: Chất tẩy trắng và cỏc chất khỏc dễ giặt
Nhúm 4: Dầu và mỡ cụng nghiệp
Nhúm 5: Các sản phẩm dược, thú y và vệ sinh
Nhúm 6: Kim loại thường và hợp kim của chỳng
Nhúm 7: Mỏy và mỏy cụng cụ
Nhúm 8: Cụng cụ và dụng cụ cầm tay thao tỏc thủ cụng
Nhúm 9: Thiết bị và dụng cụ khoa học, hàng hải, trắc địa, điện, nhiếp ảnh
điện ảnh, quang học.
Nhúm 10: Thiết bị và dụng cụ giải phẫu, y tế, nha khoa và thỳ y, chân tay,
mắt và răng giả; dụng cụ chỉnh hỡnh; vật liệu khõu vết thương
Nhúm 11: Thiết bị dùng để chiếu sáng, sưởi nóng, sinh hơi nước, nấu nướng
làm lạnh, sấy khô, thông gió, phân phối nước và thiết bị vệ sinh
Nhúm 12: Xe cộ; phương tiện giao thông trên bộ, trên không hoặc dưới nước
Nhúm 13: Vũ khớ bắn nổ; ngũi nổ và đạn dược; chất nổ; pháo hoa
Nhúm 14: Kim loại quý và cỏc hợp kim của chỳng, cỏc sản phẩm làm từ kim
loại này hoặc bọc bằng kim loại này mà khụng được xếp ở các nhóm khác; đồ
trang sức, đồ kim hoàn, đá quý; đồng hồ và dụng cụ đo thời gian
Nhúm 15: Dụng cụ õm nhạc
96
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ Nhúm 16: Giấy, các tông và sản phẩm bằng vật liệu này mà không được xếp
trong các nhóm khác; ấn phẩm; vật liệu để đóng sách; ảnh chụp; văn phũng
phẩm; keo dỏn dựng cho văn phũng hoặc dựng cho gia đỡnh; vật liệu dựng
cho cỏc nghệ sĩ; bỳt lụng; mỏy chữ và đồ dùng văn phũng (khụng kể đồ gỗ);
đồ dùng giảng dạy và học tập (không kể máy moác dùng cho mục đích thân);
chất dẻo để bao gói (không được xếp ô những nhóm khác); bài lá; chữ in; chữ
in đúc
Nhúm 17: Cao su, nhựa pec-ca, gôm, amiang, mi-ca và các sản phẩm làm từ
loại vật liệu này và không được xếp ở nhóm khác; bán thành phẩm bằng chất
dẻo; vật liệu để lèn chặt, bịt kín, cách ly; ống mềm phi kim loại
Nhúm 18: Rương hũm va li và tỳi du lịch; ô lọng và gậy chống; roi và yên
cương; da động vật.
Nhúm 19: Vật liệu xõy dựng phi kim loại; ống cứng phi kim loại dựng cho
xõy dựng; asphan, hắc ớn, bi tum; cỏc cụng trỡnh, cấu kiện phi kim loại vận
chuyển được; đài kỷ niệm phi kim loại
Nhúm 20: Đồ gỗ, gương, khung ảnh; sản phẩm bằng gỗ, li-e lau sậy….
Nhúm 21: Dụng cụ và đồ chứa dùng cho gia đỡnh và bếp nỳc (khụng làm
bằng kim loại quý và khụng được mạ bằng những kim loại ấy)
Nhúm 22: Dây, dây thừng, lưới, vải bạt, buồm, bao, túi (không được xếp vào
Nhóm khỏc)
Nhúm 23: Các loại sợi dùng để dệt
Nhúm 24: Vải và hàng dệt không xếp vào các nhóm khác; khăn chải bàn và
lau giường
Nhúm 25: Quần ỏo, giày dộp và mũ nún
Nhúm 26: Đăng ten và đồ thuê, ruy băng và dải; khuy, khuy bấm….
Nhúm 27: Thăm, chiếu, nệm chùi chân, vải sợi và các vật liệu trải sàn khác
giấy dán tường (trừ loại làm bằng hàng dệt)
97
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ Nhúm 28: Trũ chơi, đồ chơi; dụng cụ thể dục thể thao không xếp trong các
nhóm khác; đồ trang hoàng cây noel
Nhúm 29: Thịt, cá, gia cầm và thú săn…
Nhúm 30: Cà phờ, chố, ca cao, đường, gạo, bột sắn, bột cọ, chất thay thế cà
phê
Nhúm 31: Sản phẩm và hạt của nông nghiệp, nghề làm vườn và lâm nghiệp
không xếp vào các nhóm khác
Nhúm 32: Bia, nước khoáng, nước ga và cá loại đồ uống không có cồn;
Nhúm 33: Đồ uống có cồn
Nhúm 34: Thuốc lá, vật dụng cho người hút thuốc, diêm
Dịch vụ
Nhúm 35: Quảng cáo, quản lý kinh doanh, quản lý văn phũng
Nhúm 36: Bảo hiểm, tài chính, tiền tệ, bất động sản
Nhúm 37: Sửa chữa, lắp đặt
Nhúm 38: Viễn thụng
Nhúm 39: Vận tải
Nhúm 40: Xử lý vật liệu
Nhúm 41: Giáo dục, đào tạo, giải trí, các hoạt động thể thao và văn hoá
Nhúm 42: Cung cấp thực phẩm và đồ uống; chỗ ở tạm bợ, chăm sóc sức
khoẻ, vệ sinh và sắc đẹp; các dịch vụ thú y và nông nghiệp; các dịch vụ pháp
lý; nghiờn cứu khoa học và cụng nghệ; chương trỡnh mỏy tớnh (phần mềm);
cỏc dịch vụ khụng thể phõn loại vào cỏc nhúm khỏc.
98
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Tài liệu tham khảo
I. CÁC VĂN BẢN LUẬT
1. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 1995
2. Nghị định số 63/1996/NĐ-CP quy định chi tiết về Sở hữu công nghiệp
3. Nghị định số 06/2001/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định
63/1996/NĐ-CP quy định chi tiết về Sở hữu công nghiệp
4. Công ước Stockholm về việc thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới
(1976)
5. Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (1883)
6. Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
của Tổ chức thương mại thế giới WTO - TRIPS (1994)
7. Hiệp ước Luật nhãn hiệu hàng hoá (1994)
8. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (2000)
9.
Đạo luật LanHam Act 1946 (The Lanham Act of 1946).
10. Thoả ước Nice về phân loại quốc tế đối với hàng hoá và dịch vụ vì mục đích
đăng ký nhãn hiệu hàng hoá (1957)
II. TẠP CHÍ THƯƠNG MẠI
11. Số 33 tháng 9/2003 - Phan Lê. Cần phân biệt nhãn hiệu hàng hoá với thương
hiệu
12. Số 32 tháng 8/2003 - Đoàn Tất Thắng. Những vấn đề đặt ra đối với việc đăng
ký nhãn hiệu Việt Nam ở nước ngoài
13. Số 32 tháng 8/2003 - Trịnh Phát Hiệp. Thương hiệu có nội hàm rộng hơn
nhãn hiệu
14. Số 32 tháng 8/2003 - Nguyễn Thanh Bình. Cơ chế thực thi quyền sở hữu trí
tuệ Hoa Kỳ
15. Số 30 tháng 8/2003 - H.T. Nhanh chóng ban hành Pháp lệnh thương mại điện
tử
99
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
16. Số 30 tháng 8/2003 - Nguyễn Như Tiến. Các biện pháp phòng chống rủi ro
trong thương mại điện tử
17. Số 25 tháng 7/2003 - Đoàn Thắng. Đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ở Hoa Kỳ
III. BÁO THƯƠNG MẠI
18. Số 91 (1126) 15/8/03 - Xây dựng thương hiệu đẳng cấp với giải pháp thị
trường
19. Số 84 (1119) 22/7/03 - Tên miền - Giải pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trên
Internet
20. Số 83 (1113) 18/7/03 - Các doanh nghiệp cần xây dựng và bảo vệ nhãn hiệu
hàng hoá của mình
21. Số 81 (1116) 11/7/03 - Làm thế nào để được bảo hộ thương hiệu tại Mỹ?
22. Số 81 (1116) 11/7/03 - Thương hiệu Việt trong quá trình hội nhập AFTA
23. Số 78 (1113) 1/7/03 - Đăng ký nhãn hiệu ở nước ngoài là bảo vệ lợi ích quốc
gia
24. Số 75 (1109) 24/6/03 - Không để xảy ra ùn tắc trong hoạt động đăng ký nhãn
hiệu hàng hoá
IV. CÁC TRANG WEB
25. http://www.uspto.gov (Văn phòng Sáng chế và thương hiệu Hoa Kỳ) 26. http://www.wipo.org (Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới)
27. http://www.mpi.gov.vn (Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam)
28. http://www.vietnamembassy-usa.org (Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ)
29. http://www.vcci.com.vn (Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam)
30. http://www.intelproplaw.com (Dữ liệu luật về Sở hữu trí tuệ của USPTO)
31. http://www.luatgiapham.com (Công ty Tư vấn và Đại diện Sở hữu trí tuệ)
32. http://www.wincolaw.com.vn (Công ty Tư vấn và Đại diện Sở hữu trí tuệ)
33. http://www.ageless.com.vn (Công ty Tư vấn và Đại diện Sở hữu trí tuệ) 34. http://www.invenco.vnn.vn (Công ty Tư vấn và Đại diện Sở hữu trí tuệ) 35. http://www.thuonghieuviet.com.vn (Chương trình triển lãm thương hiệu
Việt)
36. http://www.sgtt.com.vn (Báo Sài Gòn tiếp thị)
100
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
37. http://www.vneconomy.com.vn (Báo Thời báo Kinh tế Việt Nam)
V. SÁCH
38. Tạo dựng và quản trị thương hiệu. Danh tiếng - Lợi nhuận. Viện nghiên cứu
và đào tạo về quản lý, NXB Lao động xã hội, Hà Nội 2003
39. Thương hiệu Việt (Dự án “Hỗ trợ doanh nghiệp về năng lực xây dựng -
quảng bá thương hiệu”), NXB Trẻ và Câu lạc bộ Doanh nghiệp Hàng Việt Nam
chất lượng cao, Hà Nội 12/2002
40. 99 Câu hỏi về nhãn hàng hoá và nhãn hiệu hàng hoá. Viện nghiên cứu và đào
tạo về quản lý, NXB Lao động xã hội, Hà Nội 2001
41. Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ. PGS. TS. Võ Thanh Thu, Nguyễn
Cương, Nguyễn Thị Mỵ, NXB Thống Kê, Hà Nội 2001
42. Chiến lược quản lý nhãn hiệu. Thanh Hoa, NXB Thanh Niên, Hà Nội 2000
43. Các thông tin khái quát mà các doanh nhân cần biết về sở hữu trí tuệ. Dự án
EC - Vietnam về sở hữu trí tuệ, Cục Sở hữu công nghiệp Việt Nam, Hà Nội 2000
44. Marketing căn bản - Marketing essentials. Philip Kotler, NXB Thống Kê, Hà
Nội 1999
VI. TÀI LIỆU KHÁC
45. Tài liệu “Hội thảo về thực thi quyền Sở hữu trí tuệ” tại Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh 27/05/2002-31/05/2002.
46. Tài liệu “Hội thảo khu vực Asian của WIPO về Bảo hộ quốc tế Nhãn hiệu
hàng hoá” tại Hà Nội 23/10/2001.
47. Tài liệu “Hội thảo Đưa các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia vào pháp
luật Việt Nam” tại Hà Nội 3-14/12/2000.
101
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Mục lục
Lời nói đầu ................................................................................................ 1
CHƯƠNG I: NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ VÀ ĐĂNG KÝ NHÃN HIỆU HÀNG
HOÁ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ ..................................................... 3
I. Khái quát chung về nhãn hiệu hàng hoá ..................................................... 3
1. Khái niệm nhãn hiệu hàng hoá ................................................................. 3
1.1 Định nghĩa nhãn hiệu hàng hoá............................................................................ 3
1.2 Phân biệt nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu thương mại và thương hiệu .............5
2. Một số loại nhãn hiệu hàng hoá ..................................................................... 6
2.1 Nhãn hiệu liên kết ................................................................................................ 6
2.2 Nhãn hiệu tập thể ................................................................................................. 7
2.3 Nhãn hiệu nổi tiếng .............................................................................................. 7
2.4 Nhãn hiệu chứng nhận ............................................................................. 8
3. Điều kiện đối với các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá .................. 8
3.1 Các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá được bảo hộ................................... 8
3.2 Các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá không được bảo hộ ................... 9
4. Chức năng, vai trò của nhãn hiệu hàng hoá ........................................... 10
4.1 Đối với người tiêu dùng ...................................................................................... 10
4.2 Đối với doanh nghiệp ......................................................................................... 14
102
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
4.3 Đối với quốc gia .................................................................................... 14
II. Tầm quan trọng của việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá trong thương
mại quốc tế ..................................................................................................... 15
1. Sự hình thành và phát triển hệ thống luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá 15
2. Tác dụng của việc đăng ký nhãn hiệu trong thương mại quốc tế ........... 16
2.1 Đối với doanh nghiệp thương mại nói chung .................................................... 16
2.1.1 Chống lại hành vi giả mạo và cạnh tranh không lành mạnh ...... 16
2.1.2 Tạo khả năng độc quyền khai thác thương hiệu ......................... 18
2.1.3 Thúc đẩy hợp tác, liên doanh liên kết và chuyển giao công nghệ 18
2.1.4 Thâm nhập thị trường nước ngoài dễ dàng ................................ 19
2.1.5 Đứng vững trước rào cản cạnh tranh không lành mạnh tại thị
trường nước ngoài ............................................................................... 20
2.1.6 Góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế ........................ 20
2.2 Đối với các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu nói riêng ............................ 21
2.2.1 Khắc phục khả năng tài chính hạn hẹp ...................................... 21
2.2.2 Khắc phục hiểu biết hạn chế về thị trường đối tác ...................... 21
2.2.3 Tạo chỗ đứng và nâng cao vị thế của hàng Việt Nam ................. 22
III. Thực trạng nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam về việc đăng ký
nhãn hiệu hàng hoá ............................................................................... 22
1. Thực trạng việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trong nước ...................... 22
2. Thực trạng việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ở thị trường nước ngoài . 25
CHƯƠNG II: ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ TẠI THỊ
TRƯỜNG HOA KỲ ........................................................................................... 27
I. Các quy định pháp lý của Hoa Kỳ về nhãn hiệu hàng hoá ......................... 27
1. Các Điều ước quốc tế về nhãn hiệu hàng hoá mà Hoa Kỳ là thành viên 27
1.1 Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp .................................................. 27
103
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
1.2 Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
............................................................................................................................ 30
1.3 Hiệp ước Luật nhãn hiệu hàng hoá ................................................................... 33
1.4 Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá trong các Hiệp định song phương ............ 36
2. Luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của Hoa Kỳ ........................................ 38
2.1 Những quy định cơ bản về nhãn hiệu hàng hoá trong Luật Liên bang ......... 40
2.1.1 Đối tượng được bảo hộ ............................................................... 40
2.1.2 Phạm vi và thời hạn bảo hộ ........................................................ 41
2.1.3 Nguyên tắc bảo hộ ...................................................................... 42
2.1.4 Hình thức xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá ................ 42
2.2 Những điểm khác biệt giữa Luật riêng từng bang và Luật Liên bang .......... 43
II. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại Hoa Kỳ ...................................... 45
1. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá trực tiếp tại Hoa Kỳ ..................... 45
1.1 Nộp đơn đăng ký và thẩm tra đơn đăng ký ............................................... 47
1.1.1 Cơ sở nộp đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá ................... 47
1.1.2 Nội dung của đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ......................... 47
1.1.3 Người có quyền nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ............... 48
1.2 Chỉ định người đại diện ..................................................................................... 49
1.3 Xét nghiệm đơn đăng ký và công bố kết quả xét nghiệm ................................. 49
1.4 Thể thức khiếu nại ............................................................................................. 51
2. Đăng ký nhãn hiệu hàng hoá qua Internet vào thị trường Hoa Kỳ ........ 54
2.1 Quy trình đăng ký nhãn hiệu hàng hoá qua Internet ....................................... 54
2.2 Một số điểm cần lưu ý ............................................................................ 57
CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO
HỘ NHÃN HIỆU HÀNG VIỆT NAM TẠI THỊ TRƯỜNG HOA KỲ ............ 60
104
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ
I. Một số điểm cần lưu ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi tiến hành
đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại Hoa Kỳ ................................................... 60
1. Thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam bị mất thương hiệu trên thị trường
Hoa Kỳ ........................................................................................................ 61
1.1 Cuộc chiến thương hiệu cá da trơn Catfish ........................................................... 61
1.2 Vụ tranh chấp thương hiệu cà phê Trung Nguyên ................................................. 63
1.3 Vụ tranh chấp thương hiệu PetroVietnam ............................................................. 64
1.4 Các vụ tranh chấp thương hiệu khác ..................................................................... 66
2. Những tồn tại trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị
trường Hoa Kỳ ........................................................................................ 68
2.1 Nhận thức của doanh nghiệp về nhãn hiệu và đăng ký nhãn hiệu ................... 68
2.2 Tâm lý lo ngại thủ tục khó khăn và tốn kém ..................................................... 69
2.3 Hiểu biết hạn chế về luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của Hoa Kỳ .................. 70
II. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ nhãn hiệu hàng Việt Nam
tại thị trường Hoa Kỳ .................................................................................. 70
1. Đối với các cơ quan chức năng của Nhà nước ........................................ 70
1.1 Tích cực chỉ đạo công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật về bảo hộ nhãn
hiệu hàng hoá của Hoa Kỳ ....................................................................................... 70
1.2 Tuyên truyền về vai trò của thương hiệu và bảo hộ thương hiệu ..................... 71
1.3 Tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp về vấn đề thông tin ................................... 72
1.4 Xây dựng hệ thống luật thương mại điện tử ..................................................... 73
1.5 Các biện pháp khác ............................................................................................ 74
2. Đối với các doanh nghiệp ........................................................................ 74
2.1 Nâng cao nhận thức về sức mạnh thương hiệu và bảo hộ thương hiệu ........... 74
2.2 Chủ động tiếp cận các thông tin, đặc biệt là các thông tin pháp lý .................. 76
2.3 Quan tâm đến việc đăng ký bảo hộ thương hiệu ở nước ngoài ........................ 77
2.4 Lưu trữ đầy đủ bằng chứng sử dụng thương hiệu trong hoạt động thương mại 77
2.5 Các biện pháp ngăn ngừa tranh chấp nhãn hiệu hàng hoá .............................. 78
2.6 Nâng cao trình độ ngoại ngữ, vi tính của các doanh nhân ................................ 80
105
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ Kết luận .................................................................................................... 81
Phụ lục ...................................................................................................... 82
Tài liệu tham khảo ................................................................................ 90
106
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT