Luận văn

Đăng ký bảo hộ nhãn

hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Lời nói đầu

Chưa bao giờ vấn đề thương hiệu lại trở thành một chủ đề thời sự được

các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội thương mại

quan tâm một cách đặc biệt như hiện nay. Nhiều hội thảo, hội nghị đã được tổ

chức, hàng trăm bài báo và cả những trang website thường xuyên đề cập đến

các khía cạnh khác nhau của vấn đề này.

Một trong những khía cạnh được đề cập nhiều nhất có lẽ là tình trạng các

doanh nghiệp Việt Nam bị mất thương hiệu hay nhãn hiệu hàng hoá ở thị

trường nước ngoài, đặc biệt ở thị trường Hoa Kỳ. Chúng ta có thể kể ra hàng

loạt các vụ tranh chấp thương hiệu gần đây như cuộc chiến Catfish giữa các

nhà xuất khẩu cá Tra, cá Basa Việt Nam với Hiệp hội các chủ trại cá nheo Mỹ

(CFA) về việc sử dụng thương hiệu “Catfish” cho các loại cá nói trên của Việt

Nam nhập khẩu vào Mỹ; cuộc chiến của Trung Nguyên đòi lại thương hiệu từ

chính đối tác là Rice Field Corp do họ đã đăng ký nhãn hiệu này trước tại Mỹ;

các nhãn hiệu Vinataba, Vinatea đều đã bị đăng ký sở hữu tại nhiều nước

trong đó có Mỹ.

Những sự kiện đó xảy ra ngay khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được

ký kết và bắt đầu được triển khai đã nhấn mạnh với chúng ta rằng: Hiệp định

có thể mở ra nhiều cơ hội làm ăn cho các doanh nghiệp Việt Nam, song cũng

là khởi đầu của nhiều thách thức mới. Làm ăn với một đối tác đầy tiềm năng

nhưng cũng khó lường như Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt

với không ít khó khăn. Bài học kinh nghiệm đắt giá đầu tiên mà một số doanh

nghiệp Việt Nam gặp phải khi tiếp cận thị trường Mỹ, đó là bài học về đăng

ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Thực tiễn đó khiến chúng ta phải đặt ra câu

2

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ hỏi: Làm thế nào để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trong việc đăng ký bảo

hộ nhãn hiệu hàng hoá tại Mỹ?

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, em đã mạnh dạn chọn

đề tài: “Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ” làm đề

tài khoá luận tốt nghiệp của mình.

Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận

được bố cục thành 3 chương:

Chương I: Nhãn hiệu hàng hoá và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trong

thương mại quốc tế

Chương II: Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa

Kỳ

Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả đăng ký nhãn hiệu hàng

hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Giảng viên - ThS. Phạm Thị

Mai Khanh, người đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Em cũng

xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các bạn đã giúp đỡ trong việc thu

thập tài liệu để hoàn thành khoá luận.

Do những hạn chế về thời gian nghiên cứu, về tài liệu thu thập và khả

năng của người viết, nội dung khoá luận khó tránh khỏi những sai sót và

khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự chỉ dẫn tận tình của các thầy cô

giáo cùng sự góp ý của các bạn.

3

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

 CHƯƠNG I 

NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ VÀ ĐĂNG KÝ NHÃN HIỆU HÀNG

HOÁ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ

1. Khái niệm nhãn hiệu hàng hoá

Trong thương mại quốc tế hiện nay có rất nhiều loại sản phẩm hàng hoá

dịch vụ được lưu thông. Mỗi loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ lại được nhiều

hãng, nhiều công ty của nhiều nước khác nhau trên thế giới sản xuất ra, và

mỗi loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ này lại có những chất lượng rất không

giống nhau. Tuy vậy, người tiêu dùng trên thế giới lại có thể phân biệt được

sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của những công ty khác nhau căn cứ vào nhãn

hiệu hàng hoá của sản phẩm hàng hoá dịch vụ đó. Thí dụ, ô tô là mặt hàng

được nhiều công ty của nhiều nước sản xuất, nhưng người tiêu dùng có thể

phân biệt được chất lượng của từng loại ô tô mang các thương hiệu khác nhau

và xác định được chủng loại xe nào là phù hợp với nhu cầu của mình. Nhãn

hiệu hàng hoá chính là chỉ dẫn ban đầu giúp người tiêu dùng phân biệt được

sản phẩm hàng hoá dịch vụ của những nhà sản xuất kinh doanh khác nhau và

đánh giá được phần nào chất lượng của sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Vậy nhãn

hiệu hàng hoá là gì?

1.1 Định nghĩa nhãn hiệu hàng hoá

4

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Trong thực tế, mỗi quốc gia trên thế giới đều có quy định khác nhau về

nhãn hiệu hàng hoá. Tuy vậy, khi thương mại quốc tế ngày càng phát triển,

chu kỳ sống của hàng hoá dịch vụ bị rút ngắn lại dẫn đến việc xuất hiện ngày

càng nhiều những hàng hoá dịch vụ mới với những chất lượng khác nhau thì

những tranh chấp, xung đột giữa các công ty liên quan đến nhãn hiệu hàng

hoá là điều khó tránh khỏi. Để hạn chế những tranh chấp, xung đột đó cần

phải có những quy định thống nhất về nhãn hiệu hàng hoá trên phạm vi toàn

thế giới.

Tại vòng đàm phán Uruguay của GATT (tiền thân của tổ chức WTO) đã

thông qua Hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) được ký kết vào

ngày 15/04/1994 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1995 cùng với sự ra

đời của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Trong Hiệp định TRIPS, các quốc

gia trên thế giới đã tiến tới một thoả thuận chung nhất về nhãn hiệu hàng hoá

trong thương mại quốc tế. Theo Hiệp định này thì nhãn hiệu hàng hoá được

coi là đối tượng có khả năng bảo hộ là: "bất kỳ một dấu hiệu, hoặc sự kết hợp

nào của những dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của

một doanh nghiệp này với hàng hoá hoặc dịch vụ của những doanh nghiệp

khác. Những dấu hiệu đó (có thể là những ký tự đặc biệt như tên người, chữ

cái, chữ số, yếu tố hình và sự kết hợp màu sắc cũng như sự kết hợp bất kỳ của

những dấu hiệu đó) có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hoá". (Trích

Khoản 1 Điều 15 Mục 2 Hiệp định TRIPS). Do đó, nhãn hiệu hàng hoá là bất

kỳ một dấu hiệu nào hoặc bất kỳ sự kết hợp nào của những dấu hiệu có khả

năng phân biệt hàng hoá hay dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hay

dịch vụ của một doanh nghiệp khác. Dấu hiệu có thể là chữ số, chữ cái, tên

người, yếu tố hình và sự kết hợp màu sắc.

Cũng trên tinh thần của Hiệp định TRIPS, tại Điều 785 Mục I Chương II

Phần VI của Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995 đã ghi rõ: “Nhãn hiệu hàng hoá

5

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá dịch vụ cùng loại của các cơ

sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hoá có thể là từ ngữ, hình

ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu

sắc”.

Theo Luật Lanham Act (Mỹ) thì nhãn hiệu hàng hoá bao gồm từ ngữ,

tên, biểu tượng, hình vẽ hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó nhằm phân biệt

hàng hoá của một người cung cấp với hàng hoá của những người cung cấp

khác. Nhãn hiệu hàng hoá có thể được áp dụng cho hàng hoá, dịch vụ và

những nhãn hiệu xác nhận nguồn gốc, chất lượng, độ nguyên chất nếu chúng

thoả mãn các yêu cầu của một nhãn hiệu (certification marks).

Như vậy, luật của các nước đều thống nhất rằng nhãn hiệu hàng hoá bao gồm cả tên nhãn hiệu (brand name) và dấu hiệu của nhãn hiệu (brand mark)1.

Tên nhãn hiệu là bộ phận của nhãn hiệu mà ta có thể đọc được như: “Dove”,

“Tiger”... Còn dấu hiệu của nhãn hiệu là bộ phận của nhãn hiệu mà ta có thể

nhận biết được, những không thể đọc được, ví dụ như biểu tượng, hình vẽ,

màu sắc, hay kiểu chữ đặc thù. Ví dụ như hình ảnh con chim bồ câu là biểu

tượng cho sản phẩm Dove, con hổ vàng là biểu tượng cho bia Tiger hay hình

ảnh ba hình thoi chụm vào nhau là biểu tượng cho ô tô của hãng Mitsubishi...

Việc gắn tên nhãn hiệu hiện nay đã phổ biến rộng rãi đến mức hầu như

bất kỳ hàng hoá nào cũng đều có nhãn hiệu. Ngoài ra, các nước còn có xu

hướng mở rộng việc bảo hộ đối với các yếu tố cấu thành nhãn hiệu nhằm

nâng cao tính khác biệt của sản phẩm đến mức tối đa có thể. Bất kỳ một đặc

trưng nào của sản phẩm tác động vào giác quan của người tiêu dùng cũng có

thể được coi là một phần của nhãn hiệu, miễn là chúng có tính phân biệt. Do

đó, ngoài tên nhãn hiệu, dấu hiệu nhãn hiệu thì tiếng động, mùi vị riêng biệt

1 Theo: “Marketing căn bản - Marketing essentials” , Philip Kotler. Nhà xuất bản Thống kê, 2002.

6

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ của sản phẩm cũng có thể được đăng ký bản quyền. Tuy nhiên, vấn đề này sẽ

gây nhiều khó khăn cho việc lưu trữ, đối chiếu, kiểm tra khi xảy ra tranh

chấp.

1.2 Phân biệt nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu thương mại và thương hiệu

Theo Hiệp hội nhãn hiệu thương mại quốc tế (International Trademark

Association) thì: “Nhãn hiệu thương mại (trademark) bao gồm những từ ngữ,

tên gọi, biểu tượng hay bất kỳ sự kết hợp nào giữa những yếu tố trên được

dùng trong thương mại để xác định và phân biệt hàng hoá của các nhà sản

xuất hoặc của người bán với nhau và để xác định nguồn của hàng hoá đó”.

Như vậy, khi hàng hoá được lưu thông trên thị trường thì nhãn hiệu hàng

hoá trở thành nhãn hiệu thương mại. Nếu nhãn hiệu thương mại được đăng ký

bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì

người chủ sở hữu có toàn quyền sử dụng nhãn hiệu thương mại đó dưới sự

bảo hộ của luật pháp. Điều đó có nghĩa là người chủ sở hữu có thể sử dụng,

chuyển nhượng, hoặc bán nhãn hiệu thương mại, hay nói cách khác thì chủ sở

hữu có thể định giá đối với nhãn hiệu thương mại của mình. Với ý nghĩa đó,

khái niệm thương hiệu của hàng hoá ra đời và được hiểu là nhãn hiệu hàng

hoá sau khi đã được thương mại hoá, được mua bán trên thị trường. Khi đó,

nhãn hiệu sẽ được gắn thêm biểu tượng đ (registered trademark - nhãn hiệu

thương mại đã được đăng ký).

Ngoài khía cạnh thương mại, thương hiệu của một sản phẩm còn bao

hàm nhiều giá trị khác bởi thương hiệu là cảm nhận tổng thể về chất lượng, uy

tín và giá trị đằng sau một cái tên, một cái logo của doanh nghiệp. Do vậy,

thương hiệu có thể là bất cứ cái gì được gắn liền với sản phẩm hoặc dịch vụ

nhằm làm cho chúng được nhận diện dễ dàng và khác biệt hoá với các sản

phẩm cùng loại.

7

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

2. Một số loại nhãn hiệu hàng hoá

Thông thường, người ta dùng từ trademark để gọi chung cho nhãn hiệu thương mại hàng hoá (trademark - TM) và nhãn hiệu thương mại dịch vụ (servicemark - SM).

Hiện nay chưa có một văn bản pháp luật nào đưa ra một bảng phân loại

nhãn hiệu hàng hoá một cách đầy đủ với ranh giới xác định rõ ràng. Tuy

nhiên, có thể kể ra đây một số loại nhãn hiệu hàng hoá điển hình nhất:

2.1 Nhãn hiệu liên kết

Theo quy định tại Khoản 8 Điều 2 Nghị định 06/2001/NĐ-CP sửa đổi bổ

sung một số điều của Nghị định 63/1996/NĐ-CP quy định chi tiết về sở hữu

công nghiệp thì nhãn hiệu liên kết được hiểu là “các nhãn hiệu hàng hoá

tương tự nhau do cùng một chủ thể đăng ký để dùng cho các sản phẩm, dịch

vụ cùng loại, tương tự nhau hay có liên quan đến nhau, và các nhãn hiệu hàng

hoá trùng nhau do cùng một chủ thể đăng ký để dùng cho các sản phẩm, dịch

vụ tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau”.

2.2 Nhãn hiệu tập thể

Nghị định 63/1996/NĐ-CP đã quy định như sau: “Nhãn hiệu tập thể là

nhãn hiệu hàng hoá được tập thể các cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể

khác cùng sử dụng, trong đó mỗi thành viên sử dụng một cách độc lập theo

quy chế do tập thể đó quy định.”

Hiệp định thương mại Việt - Mỹ cũng nêu lên rằng nhãn hiệu tập thể là

nhãn hiệu dùng chung cho các thành viên của một tổ chức, một nhóm, ví dụ

như Saigon Times Group hay Coop Mart,...

2.3 Nhãn hiệu nổi tiếng

“Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng liên tục cho

những sản phẩm, dịch vụ có uy tín làm cho nhãn hiệu đó được biết đến rộng

8

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ rãi”. (Khoản 10 Điều 2 Nghị định 06/2001/NĐ-CP).

Định nghĩa nêu trên không quy định rõ ràng căn cứ xác định “biết đến

rộng rãi”. Luật pháp quốc tế và Luật của các nước trên thế giới cũng không có

các tiêu chuẩn mang tính “công thức” để xác định nhãn hiệu nổi tiếng. Trên

thực tế, để xác định một nhãn hiệu có nổi tiếng hay không, phải xem xét từng

trường hợp cụ thể dựa trên nhiều căn cứ khác nhau như thời điểm nhãn hiệu

được đăng ký, giá trị thương mại của nhãn hiệu, thị phần của nhãn hiệu,...

Khoản 6 Điều 6 trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ cũng đã đề cập

đến vấn đề này như sau: “Để xác định một nhãn hiệu hàng hoá có phải là nổi

tiếng hay không phải xem xét đến sự hiểu biết về nhãn hiệu hàng hoá đó trong

bộ phận công chúng có liên quan, gồm cả sự hiểu biết đạt được trong lãnh thổ

của Bên liên quan do kết quả của hoạt động khuếch trương nhãn hiệu hàng

hoá này. Không Bên nào được yêu cầu rằng sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng

hoá phải vượt ra ngoài bộ phận công chúng thường tiếp xúc với hàng hoá

hoặc dịch vụ liên quan hoặc yêu cầu rằng nhãn hiệu hàng hoá đó phải được

đăng ký”. Tuy vậy, khái niệm “bộ phận công chúng có liên quan” lại chưa

được nêu rõ trong Hiệp định này.

2.4 Nhãn hiệu chứng nhận

Hiện nay, do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường đã xuất

hiện một loại nhãn hiệu mới là nhãn hiệu chứng nhận. Khái niệm nhãn hiệu

chứng nhận đã được công nhận là nhãn hiệu do người chủ sở hữu cho phép

3. Điều kiện đối với các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá

người khác dùng, chẳng hạn như nhãn hiệu “Hàng Việt Nam chất lượng cao”.

Nhãn hiệu của một hàng hoá, dịch vụ là tên gọi tượng trưng của hàng

hóa dịch vụ đó. Cách thiết kế nhãn hiệu cho một loại hàng hoá dịch vụ rất

phong phú. Không thể kể hết được các loại hình của các loại nhãn hiệu, song

điều đó không có nghĩa là cấu tạo của nhãn hiệu có thể tùy tiện.

9

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 3.1 Các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá được bảo hộ

Phù hợp với tập quán thương mại quốc tế, trong Khoản 1 Điều 6 Nghị

định 63/1996/NĐ-CP đã quy định rõ các dấu hiệu được công nhận dùng làm

nhãn hiệu hàng hoá nếu đáp ứng được đầy đủ các điều kiện sau đây:

a) được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố độc đáo, dễ nhận biết hoặc

từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể độc đáo, dễ nhận biết;

b) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu

hàng hoá của người khác đang được bảo hộ tại Việt Nam (kể cả các nhãn hiệu

hàng hoá đang được bảo hộ theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham

gia);

c) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu

hàng hoá nêu trong đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá đã

nộp cho Cơ quan có thẩm quyền với ngày ưu tiên sớm hơn (kể cả các đơn về

nhãn hiệu hàng hoá được nộp theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham

gia);

d) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu

hàng hoá của người khác đã hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ hiệu lực bảo hộ

nhưng thời gian tính từ khi hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ hiệu lực chưa quá 5

năm, trừ trường hợp hiệu lực bị đình chỉ vì nhãn hiệu hàng hoá không được

sử dụng theo quy định tại điểm c)

e) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu

hàng hoá của người khác được coi là nổi tiếng (theo điều 6 bis Công ước Pari)

hoặc với nhãn hiệu hàng hoá của người khác đã được sử dụng và đã được

thừa nhận một cách rộng rãi;

f) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với tên

thương mại được bảo hộ với tên gọi xuất xứ hàng hoá được bảo hộ;

10

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

g) không trùng với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ hoặc đã được

nộp đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ với ngày ưu tiên sớm hơn;

h) không trùng với một hình tượng, nhân vật đã thuộc quyền tác giả của

người khác trừ trường hợp được người đó cho phép.

3.2 Các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá không được bảo hộ

Khoản 2 Điều 6 Nghị định 63/1996/NĐ-CP đã quy định những dấu hiệu

sau không được bảo hộ với danh nghĩa là nhãn hiệu hàng hoá:

a) dấu hiệu không có khả năng phân biệt, như các hình và hình hình học

đơn giản, các chữ số, chữ cái, các chữ không có khả năng phát âm như một từ

ngữ, chữ nước ngoài thuộc ngôn ngữ không thông dụng trừ trường hợp các

dấu hiệu này đã được sử dụng và đã được thừa nhận một cách rộng rãi;

b) dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của

hàng hoá thuộc bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên,

nhiều người biết đến;

c) dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại, số

lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị mang tính mô tả

hàng hoá, dịch vụ và xuất xứ của hàng hoá, dịch vụ;

d) dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa đảo

người tiêu dùng về xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị của hàng

hoá hoặc dịch vụ;

e) dấu hiệu giống hoặc tương tự với dấu chất lượng, dấu kiểm tra, dấu

bảo hành ... của Việt Nam, nước ngoài cũng như của các tổ chức quốc tế;

g) dấu hiệu, tên gọi (bao gồm cả ảnh, tên, biệt hiệu, bút danh), hình vẽ,

biểu tượng giống hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc

huy, lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân, địa danh, các tổ chức của Việt Nam

cũng như của nước ngoài nếu không được các cơ quan, người có thẩm quyền

tương ứng cho phép.

11

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 4. Chức năng, vai trò của nhãn hiệu hàng hoá

4.1 Đối với người tiêu dùng

Mục tiêu của việc xây dựng nhãn hiệu là nhằm tạo dựng lòng tin và sự

chung thủy của khách hàng đối với các sản phẩm của công ty. Vậy nhãn hiệu

hàng hoá có vai trò như thế nào đối với người tiêu dùng?

Với người tiêu dùng, nhãn hiệu hàng hoá xác định nguồn gốc của sản

phẩm hoặc nhà sản xuất của một sản phẩm và giúp khách hàng xác định nhà sản xuất cụ thể hoặc nhà phân phối nào phải chịu trách nhiệm2. Nhãn hiệu

hàng hoá có ý nghĩa đặc biệt đối với khách hàng. Nhờ những kinh nghiệm đối

với một sản phẩm và chương trình tiếp thị của sản phẩm đó qua nhiều năm,

khách hàng biết đến các nhãn hiệu. Họ tìm ra được nhãn hiệu nào thoả mãn

được nhu cầu của mình còn nhãn hiệu nào thì không. Kết quả là, các nhãn

hiệu là một công cụ nhanh chóng hoặc là cách đơn giản hoá đối với quyết

định mua sản phẩm của khách hàng (xem Hình 1). Đây chính là điều quan

Tìm kiếm thông tin

Đánh giá các lựa chọn

Nhận thức vấn đề

Hành vi sau khi mua

Quyết định mua

Hình 1: Chu trình ra quyết định mua sắm của khách hàng

trọng nhất mà một thương hiệu cũng như công ty được gắn với thương hiệu

đó cần vươn tới.

Nếu khách hàng nhận ra một nhãn hiệu và có một vài kiến thức về nhãn

hiệu đó, họ không phải suy nghĩ nhiều hoặc tìm kiếm, xử lý nhiều thông tin

để đưa ra quyết định về tiêu dùng sản phẩm. Như vậy, từ khía cạnh kinh tế,

thương hiệu cho phép khách hàng giảm bớt chi phí tìm kiếm sản phẩm. Dựa

2 Theo: “Tạo dựng và quản trị thương hiệu. Danh tiếng -Lợi nhuận” - Viện nghiên cứu và đào tạo về quản lý, Nhà xuất bản Lao động xã hội, 2003

12

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ vào những gì họ đã biết về nhãn hiệu - chất lượng, đặc tính của sản phẩm... -

khách hàng hình thành những giả định và kỳ vọng có cơ sở về những gì mà

họ còn chưa biết về nhãn hiệu.

Mối quan hệ giữa thương hiệu và khách hàng có thể được xem như một

kiểu cam kết hay giao kèo. Khách hàng đặt niềm tin và sự trung thành của

mình vào thương hiệu và ngầm hiểu rằng bằng cách nào đó, thương hiệu sẽ

đáp lại và mang lại lợi ích cho họ thông qua tính năng hợp lý của sản phẩm,

giá cả phù hợp, các chương trình tiếp thị, khuyến mại và các hỗ trợ khác. Nếu

khách hàng nhận thấy những ưu điểm và lợi ích từ việc mua thương hiệu

cũng như họ cảm thấy thoả mãn khi tiêu thụ sản phẩm thì khách hàng có thể

tiếp tục mua sản phẩm thương hiệu đó.

Thực chất, các lợi ích này được khách hàng cảm nhận một cách rất đa

dạng và phong phú. Các thương hiệu có thể xem như một biểu tượng mà

khách hàng tự khẳng định giá trị bản thân. Một số thương hiệu gắn liền với

một con người hoặc một mẫu người nào đó để phản ánh những giá trị khác

nhau hoặc những nét khác nhau. Do vậy tiêu thụ sản phẩm được gắn với

những thương hiệu này là một cách để khách hàng có thể giao tiếp với những

người khác, thậm chí với chính bản thân họ - tuýp người mà họ đang hoặc

muốn trở thành. Chẳng hạn, các khách hàng trẻ tuổi trở nên sành điệu, hợp

mốt hơn trong các sản phẩm của Nike, với một số người khác lại mong muốn

hình ảnh một thương nhân năng động và thành đạt với chiếc xe Mercedes đời

mới,...

Thương hiệu còn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc báo hiệu

những đặc điểm và thuộc tính của sản phẩm tới người tiêu dùng. Các nhà

nghiên cứu đã phân loại các sản phẩm và các thuộc tính hoặc các lợi ích kết

hợp của chúng thành ba loại chính: hàng hoá tìm kiếm, hàng hoá kinh nghiệm

và hàng hoá tin tưởng.

13

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Với hàng hoá tìm kiếm, các thuộc tính của sản phẩm có thể được đánh

giá qua sự kiểm tra bằng mắt (Ví dụ: sự cứng cáp, kích cỡ, màu sắc, kiểu

dáng, trọng lượng, và thành phần cấu tạo của một sản phẩm...)

Với hàng hoá kinh nghiệm, các thuộc tính của sản phẩm không thể dễ

dàng đánh giá bằng việc kiểm tra, mà việc thử sản phẩm thật và kinh nghiệm

là cần thiết (Ví dụ: độ bền, chất lượng dịch vụ, độ an toàn, dễ dàng xử lý hoặc

sử dụng...)

Với hàng hoá tin tưởng, các thuộc tính của sản phẩm rất khó có thể biết

được (Ví dụ: chi trả bảo hiểm...) Do việc đánh giá, giải thích các thuộc tính và

lợi ích của sản phẩm là hàng hoá kinh nghiệm và hàng hoá tin tưởng rất khó

nên các thương hiệu có thể là dấu hiệu đặc biệt quan trọng về chất lượng và

các đặc điểm khác để người tiêu dùng nhận biết rõ ràng hơn.

Thương hiệu có thể làm giảm các loại rủi ro khi quyết định mua và tiêu

dùng một sản phẩm như:

 Rủi ro chức năng: Sản phẩm không được như mong muốn.

 Rủi ro vật chất: Sản phẩm đe dọa sức khỏe hoặc thể lực của người sử

dụng hoặc những người khác.

 Rủi ro tài chính: Sản phẩm không tương xứng với giá đã trả.

 Rủi ro xã hội: Sản phẩm không phù hợp với văn hóa, tín ngưỡng,

hoặc chuẩn mực đạo đức xã hội.

 Rủi ro tâm lý: Sản phẩm ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần của người

sử dụng.

 Rủi ro thời gian: Sản phẩm không như mong muốn dẫn đến mất chi

phí cơ hội để tìm sản phẩm khác.

Mặc dù khách hàng có những cách khác nhau để xử lý những rủi ro này,

nhưng chắc chắn có một cách mà họ sẽ chọn, đó là chỉ mua những thương

hiệu nổi tiếng, nhất là những thương hiệu mà họ đã có những kinh nghiệm tốt

14

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ trong quá khứ. Vì vậy, thương hiệu có thể là một công cụ xử lý rủi ro rất quan

trọng (xem thêm Hộp 1).

Như vậy, với khách hàng, ý nghĩa đặc biệt của thương hiệu là có thể làm

thay đổi nhận thức và kinh nghiệm của họ về các sản phẩm. Sản phẩm giống

hệt nhau có thể được khách hàng đánh giá khác nhau tùy thuộc vào sự khác

Hộp 1: Tầm quan trọng của nhãn hiệu hàng hoá

đối với khách hàng và nhà sản xuất

Khách hàng

 Xác định nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm

 Quy trách nhiệm cho nhà sản xuất sản phẩm

 Giảm thiểu rủi ro trong tiêu dùng

 Tiết kiệm chi phí tìm kiếm

 Khẳng định giá trị bản thân

 Yên tâm về chất lượng

Nhà sản xuất

 Công cụ để nhận diện và khác biệt hoá sản phẩm

 Là phương tiện bảo vệ hợp pháp các lợi thế và đặc điểm riêng có

của sản phẩm

 Khẳng định đẳng cấp chất lượng trước khách hàng

 Đưa sản phẩm ăn sâu vào tâm trí khách hàng

 Là nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh

 Là nguồn gốc của lợi nhuận

biệt và uy tín của thương hiệu hoặc các thuộc tính của sản phẩm. Với người

tiêu dùng, thương hiệu làm cho sinh hoạt hàng ngày cũng như cuộc sống của

họ trở nên thuận tiện và phong phú hơn.

15

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 4.2 Đối với doanh nghiệp

Đối với các doanh nghiệp, thương hiệu đóng những vai trò quan trọng.

Về cơ bản, thương hiệu đáp ứng mục đích nhận diện để đơn giản hóa việc xử

lý sản phẩm hoặc truy tìm nguồn gốc sản phẩm cho công ty. Về mặt hoạt

động, thương hiệu giúp tổ chức kiểm kê, tính toán và thực hiện các ghi chép

khác. Thương hiệu đã được bảo hộ cho phép các doanh nghiệp bảo vệ hợp

pháp những đặc điểm và/hoặc hình thức đặc trưng, riêng có của sản phẩm.

Điều đó đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể đầu tư một cách an toàn cho

thương hiệu và thu lợi nhuận từ một tài sản đáng giá.

Ngoài việc mang lại cho sản phẩm những đặc điểm và thuộc tính riêng

có thể phân biệt với các sản phẩm khác, thương hiệu cũng có thể cam kết một

tiêu chuẩn hay đẳng cấp chất lượng của sản phẩm. Lòng trung thành của

khách hàng đối với thương hiệu cho phép các doanh nghiệp dự báo và kiểm

soát thị trường. Hơn nữa, nó tạo nên một rào cản, gây khó khăn cho các doanh

nghiệp khác muốn xâm nhập thị trường. Mặc dù các quy trình sản xuất và

thiết kế sản phẩm có thể dễ dàng bị sao chép lại, nhưng những ấn tượng ăn

sâu trong đầu người tiêu dùng qua nhiều năm về sản phẩm thì không thể dễ

dàng sao chép lại như vậy. Về khía cạnh này, thương hiệu có thể được coi như

một cách thức hữu hiệu để đảm bảo lợi thế cạnh tranh, là tài sản vô giá đối

với các doanh nghiệp. Chính vì thế, các công ty và các tập đoàn lớn trên thế

giới đều đưa ra khẩu hiệu: “The Brand’s the Thing” - “Có thương hiệu là có

tất cả”.

4.3 Đối với quốc gia

Khi nói đến Thuỵ Sỹ, người ta nghĩ ngay đến đồng hồ, nói đến Nhật Bản

người ta nghĩ ngay đến Sony, Honda, Toyota mặc dù đồng hồ không phải là

tất cả nước Thuỵ Sỹ cũng như Sony, Honda, Toyota không phải là tất cả nước

Nhật. Như vậy, việc xây dựng thương hiệu không chỉ thúc đẩy sản phẩm của

16

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ doanh nghiệp mà còn góp phần tạo nên diện mạo quốc gia. Những thương

hiệu mạnh đã quảng bá hình ảnh và trình độ phát triển của nước Nhật, Thuỵ

Sỹ,... đến toàn thế giới .

Những thương hiệu mạnh sẽ đóng vai trò sứ giả để sản phẩm các quốc

gia chiếm lĩnh thị trường thế giới, tạo nên những bước đệm vững chắc góp

phần đưa đất nước hội nhập kinh tế quốc tế.

II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN

HIỆU HÀNG HOÁ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

1. Sự hình thành và phát triển hệ thống luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá

Như đã đề cập ở trên, thương hiệu là một tài sản vô hình có giá trị của

doanh nghiệp.Việc sử dụng đúng đắn chức năng của thương hiệu theo đúng

pháp luật sẽ tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, phát triển sản

xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống,

mọi việc không hoàn toàn diễn ra một cách lành mạnh như vậy. Để đạt được

lợi nhuận nhanh chóng và bằng chi phí rẻ nhất, người ta đã làm giả, hoặc làm

nhái theo các thương hiệu được ưa chuộng, mặc dù các loại này có chất lượng

thấp hơn hàng thật, thậm chí hoàn toàn không có chức năng sử dụng. Điều

này đã xảy ra từ xa xưa, khi bắt đầu xuất hiện việc trao đổi hàng hoá trên trái

đất và cùng với sự phát triển của xã hội, tệ nạn đó ngày càng phát triển về quy

mô và độ tinh vi. Các vụ tranh chấp, kiện cáo về nhãn hiệu tại các tòa án ngày

càng nhiều.

Ban đầu, vấn đề mà các toà án cần phải phán quyết là quyền sở hữu đối

với nhãn hiệu thuộc về ai. Trong các trường hợp này, nguyên tắc thường được

áp dụng là: quyền sở hữu sẽ thuộc về người đầu tiên sử dụng nhãn hiệu hàng

hoá đó. Để xác định ai là người sử dụng đầu tiên, các toà án lập sổ ghi nhãn

hiệu hàng hoá. Lúc đầu các sổ đó chỉ dùng để theo dõi các nhãn hiệu bị tranh

17

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ chấp, sau đó ghi các nhãn hiệu khác chưa bị tranh chấp để đề phòng các tranh

chấp sẽ có trong tương lai. Cuối cùng ngay cả các nhãn hiệu chưa được sử

dụng nhưng chủ nhãn hiệu có ý định sử dụng cũng được ghi nhận vào sổ. Sổ

theo dõi nhãn hiệu hàng hoá dần dần trở thành sổ đăng bạ nhãn hàng, từ đó

hình thành phương thức đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại toà án (thường gọi là

“Nhãn hiệu trình toà”). Tuy nhiên, lúc đó việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá

như vậy được thực hiện theo thông lệ chứ không theo quy định của một văn

bản pháp luật nào.

Luật nhãn hiệu hàng hoá đầu tiên dược hình thành tại Pháp năm 1857.

Tiếp theo là các nước: Italia (1868), Anh (1875), Bỉ (1879), Mỹ (1881), Đức

(1894), Nga (1896) ... Đến nay hầu hết các nước đều đã có luật về nhãn hiệu

hàng hoá. Tuy nhiên, các quy phạm pháp luật này chỉ điều chỉnh vấn đề bảo

hộ thương hiệu trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Trong khi đó, việc tham gia

thương mại quốc tế là một đòi hỏi tất yếu hiện nay đối với các doanh nghiệp

muốn vươn xa và chiếm lĩnh thị trường. Điều đó không chỉ gây khó khăn cho

các doanh nghiệp mà còn cho các quốc gia trong việc kiểm soát việc bảo hộ

nhãn hiệu hàng hoá.

Trước thực tế đó, các Điều ước quốc tế và Điều ước khu vực lần lượt

được ra đời như: Công ước Paris, Thoả ước Madrid, Nghi định thư Madrid,

Quy chế thiết lập nhãn hiệu thương mại cộng đồng Châu Âu... Một mặt, đó là

những căn cứ pháp lý cơ sở để xây dựng và hoàn chỉnh luật bảo hộ nhãn hiệu

hàng hoá ở các nước thành viên, nhưng quan trọng hơn, đó là những đóng

góp để tạo dựng một Hệ thống đăng ký nhãn hiệu trong thương mại quốc tế,

2. Tác dụng của việc đăng ký nhãn hiệu trong thương mại quốc tế

từ đó thúc đẩy tiến trình hội nhập và hình thành nên một thị trường toàn cầu.

2.1 Đối với các doanh nghiệp thương mại nói chung

18

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 2.1.1 Chống lại hành vi giả mạo và cạnh tranh không lành mạnh

Động cơ làm giàu bất hợp pháp, kiến thức pháp luật hạn chế cộng với

những kẽ hở trong khung pháp luật đã dẫn đến một thực tế: Hàng giả hầu như

đã len lỏi vào tận các ngóc ngách của xã hội hay nói cách khác là không có

lĩnh vực nào, ngành hàng nào mà không có đồ giả. Ngay khi một hàng hoá có

uy tín nhất định trên thị trường thì lập tức xuất hiện một loạt các thương hiệu

tương tự, na ná nhằm gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Không chỉ vậy,

nhiều khi các đối thủ cạnh tranh còn sao chép toàn bộ thương hiệu, cả nhãn

sản phẩm của doanh nghiệp để gắn lên hàng hoá của họ. Không chỉ những

hàng hoá tiêu dùng thông thường bị làm giả, còn nhiều thứ giả khác mà hậu

quả gây ra cho người tiêu dùng khó lường hết được như dược phẩm, thực

phẩm, vật liệu xây dựng,... Các loại hàng giả đó xuất hiện trong mọi lĩnh vực

của hoạt động thương mại, từ sản xuất, tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ trong

nước đến hàng hoá xuất nhập khẩu.

Hiện nay, nạn làm hàng giả đang chiếm tỷ lệ lớn, tới 5- 7% giá trị

thương mại toàn cầu, hàng năm gây thiệt hại về mặt kinh tế khoảng 2-3 tỷ Euro3. Tại Việt Nam, theo thống kê của Cục quản lý thị trường, cứ một mặt

hàng mới ra đời sẽ có 10 mặt hàng cùng loại trên thị trường xuất hiện với mẫu

mã giống hệt hoặc tương tự như thế với chất lượng kém hơn và đương nhiên

giá cả cũng thấp hơn giá của hàng chính hiệu. Không chỉ có các sản phẩm

hàng hoá bị làm giả mà ngay cả sản phẩm dịch vụ cũng bị làm giả. Theo ông

Hồ Huy, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Mai Linh cho biết “sự xuất hiện

của hãng giả taxi Mai Linh" đã khiến hãng bị thiệt hại tới 2,7 tỷ đồng trong

một năm. Không riêng taxi Mai Linh mà nhiều hãng taxi có uy tín khác cũng

bị treo biển giả như Festival, Vina, Saigon Tourist,...

3 Theo: “Hội thảo về thực thi quyền Sở hữu trí tuệ” tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh: 27/05/2002- 31/05/2002.

19

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Nạn hàng giả ngày càng trở thành nỗi ám ảnh của các doanh nghiệp làm

ăn chân chính, là một trong những thách thức lớn trên con đường khẳng định

uy tín và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.

Trước tình hình đó, việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá chính là công cụ

hiệu quả để chống lại hành vi giả mạo và cạnh tranh không lành mạnh. Một

nhãn hiệu hàng hoá đã được pháp luật công nhận bảo hộ sẽ cho phép doanh

nghiệp căn cứ vào các công cụ pháp lý có liên quan để bảo vệ quyền lợi của

mình, ngăn chặn có hiệu quả hành vi vi phạm nhãn hiệu hàng hoá đã được

bảo hộ. Vì vậy, để tránh rơi vào tình trạng “ mất bò mới lo làm chuồng”, hay

việc đổ tiền bạc, thời gian cho các vụ kiện tụng, các doanh nghiệp hãy biến

việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu thương mại thành việc làm đầu tiên mỗi khi có

ý định gây dựng một nhãn hiệu hay một mặt hàng nào đó bởi bảo hộ thương

hiệu là bảo vệ chính mình.

2.1.2 Tạo khả năng độc quyền khai thác thương hiệu

Nguyên tắc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá là cho phép chủ sở hữu được độc

quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá đã được bảo hộ nhằm mục đích kinh

doanh. Do đó, một khi chủ sở hữu đăng ký và được bảo hộ nhãn hiệu thì họ sẽ

có quyền gắn nhãn hiệu đó lên hàng hoá, bao bì, giấy tờ giao dịch trong hoạt

động kinh doanh và quảng cáo nhãn hiệu của mình thông qua các phương tiện

thông tin đại chúng như đài, báo, truyền hình, biển quảng cáo... Độc quyền

khai thác nhãn hiệu tạo cho doanh nghiệp khả năng lập chiến lược phân phối

và kiểm soát thị trường cho sản phẩm của mình một cách hợp lý. Tất cả

những hoạt động này sẽ đảm bảo cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp

diễn ra một cách trôi chảy, lành mạnh và đạt hiệu quả cao nhất.

Mặt khác, việc bảo hộ quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá với nội dung

đảm bảo tính độc quyền sử dụng nhãn hiệu sẽ tạo cho doanh nghiệp tâm lý an

toàn. Đồng thời, nó cũng khuyến khích các doanh nghiệp không ngừng hoàn

20

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ thiện sản phẩm, nghiên cứu và phát triển những sản phẩm mới đáp ứng nhu

cầu ngày càng cao của xã hội.

2.1.3 Thúc đẩy hợp tác, liên doanh liên kết và chuyển giao công nghệ

Nhờ giá trị có được từ tiềm năng khai thác thương mại của thương hiệu

trên thị trường mà quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá được xác định giá trị và

trở thành tài sản góp vốn khi liên doanh, liên kết sản xuất, phân phối sản

phẩm. Một số nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam đã được xác định giá trị

tới vài triệu USD và dùng để góp vốn liên doanh như nhãn hiệu Viso cho sản

phẩm bột giặt, P/S cho kem đánh răng,...

Không chỉ được định giá cao trong liên doanh, liên kết, quyền sở hữu

nhãn hiệu hàng hoá còn gắn liền với việc chuyển giao công nghệ. Ở Việt

Nam, rất nhiều trường hợp người nước ngoài đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng

hoá nhằm mục đích chào bán quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá mà họ được

bảo hộ cho các tổ chức sản xuất, kinh doanh của Việt Nam (mua bán Lixăng).

Hiện nay, việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo Lixăng đã bắt đầu hình

thành và đang trở thành một biện pháp hữu hiệu để thúc đẩy sản xuất, đổi mới

công nghệ, đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu ở các nước, nhất

là ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Thái Lan. Năm 1997, số hợp đồng

lixăng đã được đăng ký là 221, trong đó có 26 hợp đồng được ký giữa các

doanh nghiệp Việt Nam, 23 hợp đồng được ký kết giữa các doanh nghiệp nước ngoài và 172 hợp đồng giữa doanh nghiệp Việt Nam với nước ngoài4.

Điều đó chứng tỏ hoạt động sở hữu công nghiệp đã có tác động trực tiếp đến

việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam và giữa các cơ sở

trong nước với nhau.

4 Theo Cục Sở hữu công nghiệp Việt Nam, nay là Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam

21

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Ngoài ra, trong thương mại quốc tế, việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu

hàng hoá còn có thêm các tác dụng sau:

2.1.4 Thâm nhập thị trường nước ngoài dễ dàng

Nền kinh tế toàn cầu đang tiến đến một sân chơi chung với luật lệ hài

hoà và thống nhất. Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong hoạt động

xuất nhập khẩu, hoạt động thương mại quốc tế ngày càng trở nên thông

thoáng. Tuy nhiên, để bảo hộ nền sản xuất nội địa, các nước đều dựng lên các

tiêu chuẩn khéo léo nhằm hạn chế sự xâm nhập của hàng hoá nước ngoài.

Xuất phát từ thực tế đó cộng với ý nghĩa quan trọng của bảo hộ thương hiệu

mà quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá trở thành một trong những rào cản để

thông quan hàng hoá. Các Giấy chứng nhận thương hiệu chỉ có giá trị trong

phạm vi một lãnh thổ nhất định, thông thường là lãnh thổ quốc gia. Khi xuất,

nhập hàng hoá vào một lãnh thổ quốc gia khác, nếu các doanh nghiệp không

quan tâm đến việc mở rộng phạm vi bảo hộ của văn bằng hoặc đăng ký bảo

hộ thương hiệu của mình trên lãnh thổ quốc gia đó, việc lưu thông hàng hoá

có thể bị ngăn cấm hoặc chỉ suôn sẻ sau khi doanh nghiệp đã tốn nhiều công

sức và chi phí. Khi đó, cơ hội kinh doanh và các khoản lợi nhuận có thể đã

tuột khỏi tay doanh nghiệp.

2.1.5 Đứng vững trước rào cản cạnh tranh không lành mạnh tại thị trường nước ngoài

Trong bất kỳ một môi trường kinh doanh nào, hàng hoá của doanh

nghiệp đều phải cạnh tranh với vô vàn hàng hoá cùng loại do các doanh

nghiệp trong nước sản xuất cũng như được nhập khẩu từ nhiều nước khác

nhau. Song mỗi môi trường cạnh tranh có đặc điểm riêng chịu sự điều chỉnh

của một hành lang pháp lý riêng. Quy tắc “đào thải” sẽ dễ dàng loại bỏ doanh

nghiệp nào lơ là với những quy tắc riêng đó. Bởi vậy, thích ứng và đối phó

thành công với hoạt động cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường ngoài

22

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ nước là một thách thức với doanh nghiệp ngay cả khi doanh nghiệp đã tạo

dựng được một thương hiệu uy tín với những sản phẩm có năng lực cạnh

tranh cao.

Pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của các nước có thể khác nhau

nhưng đều đảm bảo quyền lợi chính đáng của chủ sở hữu hợp pháp nhãn hiệu

hàng hoá, đó là quyền yêu cầu bảo vệ quyền lợi khi bị người khác xâm phạm,

quyền sử dụng nhãn hiệu và quyền chuyển giao quyền sở hữu nhãn hiệu hàng

hoá. Do đó, bảo hộ thương hiệu trong thương mại quốc tế mà cụ thể là bảo hộ

thương hiệu trên các thị trường doanh nghiệp hoạt động hoặc có ý định kinh

doanh là một lá chắn vững chắc bảo vệ doanh nghiệp trước những đòn tấn

công khó lường của các đối thủ cạnh tranh.

2.1.6 Góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế

Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đã tham gia các Điều ước quốc

tế về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Thay vì phải đăng ký bảo hộ thương hiệu tại

mỗi nước mà doanh nghiệp có ý định kinh doanh, doanh nghiệp của các nước

thành viên chỉ cần đăng ký tại một địa điểm quy định và Giấy chứng nhận bảo

hộ thương hiệu sẽ có giá trị trong phạm vi lãnh thổ mà Điều ước quốc tế đó có

hiệu lực. Ngoài ra, các Điều ước còn cho phép được bảo hộ nhãn hiệu hàng

hoá ngay cả ở những nước mà doanh nghiệp chưa sẵn sàng kinh doanh. Khi

ấy, bảo hộ thương hiệu trong thương mại quốc tế chính là một trong những

yếu tố gợi mở nhu cầu mở rộng và phát triển kinh doanh trong phạm vi các

quốc gia.

Ngoài ra, việc bảo hộ thương hiệu trong thương mại quốc tế thông qua

các Điều ước quốc tế còn đảm bảo cho quá trình lưu thông hàng hoá giữa các

quốc gia được thông suốt, khắc phục tâm lý e ngại và tạo dựng sự tự tin cho

các doanh nghiệp khi thâm nhập thị trường nước ngoài.

2.2 Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nói riêng

23

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 2.2.1 Khắc phục khả năng tài chính hạn hẹp

Trong thời gian gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam hết sức bàng hoàng

trước hiện tượng một số thương hiệu hàng hoá nổi tiếng của mình bị chính

các đối tác nước ngoài chiếm đoạt bằng cách đăng ký trước nhãn hiệu đó với

cơ quan bảo hộ sở hữu công nghiệp ở nước ngoài. Việc mất nhãn hiệu gây tổn

hại trực tiếp tới tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt

Nam, buộc họ phải từ bỏ thị truờng đó hoặc phải mất công gây dựng lại một

nhãn hiệu khác để thâm nhập thị trường. Còn nếu muốn giành lại nhãn hiệu

của mình, chắc chắn các doanh nghiệp sẽ phải theo đuổi các vụ kiện tụng tốn

kém. Để lấy lại thương hiệu của mình tại Mỹ, Vifon phải mất hơn 1 năm và

chi phí gần 10.000 USD; Vinamilk cũng đã mất khoảng 20.000 USD mới đòi

lại được nhãn hiệu của chính mình,... So với lệ phí đăng ký trung bình

200USD cho một thương hiệu hàng hoá (xét mặt bằng chung trên thế giới) thì

đó là những khoản tiền không nhỏ đối với các doanh nghiệp Việt Nam.

2.2.2 Khắc phục hiểu biết hạn chế về thị trường đối tác

Tâm lý làm ăn nhỏ hẹp, làm riêng lẻ, ngày nào biết ngày đó cộng với khả

năng tài chính hạn chế khiến cho hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam rất

chậm trong việc tiếp cận thông tin và trì hoãn công việc khảo sát, thăm dò thị

trường đối tác. Trong khi đó, Nhà nước ta cũng như bản thân các doanh

nghiệp đều hy vọng tiếp cận với các thị trường xuất khẩu mạnh như Mỹ,

Nhật, Nga, EU,... Chiến đấu được trên những thị trường rộng lớn đó chỉ với

lượng thông tin rất hạn chế là một thách thức lớn với các doanh nghiệp Việt

Nam. Một trong những giải pháp cho vấn đề này chính là đăng ký bảo hộ

thương hiệu - công cụ hữu hiệu đảm bảo một môi trường lành mạnh cho các

hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên mọi thị trường.

2.2.3 Tạo chỗ đứng và nâng cao vị thế của hàng Việt Nam

24

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Hàng Việt Nam hiện xuất khẩu chủ yếu phải qua nước thứ ba, dưới

thương hiệu của nước trung gian. Thế giới chủ yếu biết đến Việt Nam như là

một nước xuất khẩu nông sản nhưng thế giới không thể nhận biết đâu là sản

phẩm sản xuất tại Việt Nam. Đây là một trong những lý do quan trọng giải

thích tại sao sản phẩm Việt Nam dù là đặc sản nhưng vẫn khó xuất khẩu, giá

cả bấp bênh, thu nhập của nông dân có xu hướng giảm. Khi các doanh nghiệp

quan tâm phát triển thương hiệu của riêng mình và đăng ký bảo hộ thương

hiệu đó, họ đã góp phần tạo dựng bộ mặt cho quốc gia.

III. THỰC TRẠNG NHẬN THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP

VIỆT NAM VỀ VIỆC ĐĂNG KÝ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ

1. Thực trạng việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trong nước

Nhìn chung, việc bảo hộ bản quyền nhãn hiệu sản phẩm trên thị trường

Việt Nam trong những năm qua đã thu được một số thành công nhất định. Hệ

thống luật về bản quyền nhãn hiệu sản phẩm được hình thành và phát triển

một cách hoàn thiện hơn đã dần dần đáp ứng được những đòi hỏi của quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, hoạt động đăng ký nhãn hiệu

hàng hoá trên thị trường cũng diễn ra hết sức sôi động. Nhận thức của các

doanh nghiệp về ý nghĩa to lớn của nhãn hiệu ngày càng rõ ràng và cụ thể

hơn. Các doanh nghiệp đã dần dần khắc họa được hình ảnh của mình nhờ chất

lượng, uy tín của sản phẩm. Điều đó được thể hiện rất rõ ở thực tế ngày càng

nhiều các đơn xin đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của các doanh nghiệp gửi tới

Cục sở hữu công nghiệp (nay là Cục sở hữu trí tuệ). Nếu trong suốt thời kỳ

1982-1988, số đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá chỉ có 461 đơn thì con số

khiêm tốn này đã tăng lên một cách rất nhanh chóng và rõ rệt trong những

năm của thập kỷ 90, đặc biệt là năm 1999 với 2380 đơn, năm 2000 là 3483

đơn. Theo thống kê không chính thức của Cục Sở hữu trí tuệ, chỉ riêng 9

25

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ tháng đầu năm 2003, số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá đã lên tới con

số hàng nghìn. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp Việt Nam đã có nhận

thức nhất định về tầm quan trọng của việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá (xem

thêm Hình 2 và Hình 3).

Hình 2: Số đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá 1982- 2002

Số đơn nhón hiệu hàng hoỏ nộp trực tiếp

Năm

Tổng số

1234

487

1482

2360

4617

6136

4131

5633

5441

4810

3642

4166

5882

6345

1982-1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002

Của người Việt Nam 461 255 890 1747 1595 2270 1419 2217 2323 1645 1614 2380 3483 3095 6541

Của người nước ngoài 773 232 592 613 3022 3866 2712 3416 3118 3165 2028 1786 2399 3250 2277

8818

Tổng số

31228

32244

63472

Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam

Mặc dù vậy, phải thừa nhận một thực tế là các doanh nghiệp Việt Nam

còn khá dè dặt trong việc đầu tư xây dựng hình ảnh và nhãn hiệu sản phẩm.

Điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân mà trước hết là do doanh nghiệp,

26

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn chưa nhận thức được đầy đủ về

Hình 3: Số nhãn hiệu hàng hoá đã được đăng ký 1982- 2001

Số nhãn hiệu hàng hoá đã đăng ký

Năm

Tổng số

Của người Việt Nam

Của người nước ngoài

1170

265

380 423 1525

388

1550 688 1913

1487

1821

3308

1359

2137

3532

1744

2342

4086

1627

2965

4592

1383

2548

3931

980

1506

2486

1095

2016

3111

1299

2499

3798

1423

1453

2876

2085

1554

1982-1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001

3639

16846

22664

39510

Tổng số

Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam

những ích lợi mà nhãn hiệu sản phẩm mang lại.

Theo kết quả cuộc khảo sát tiến hành với gần 500 doanh nghiệp trong kế

hoạch thực hiện dự án “Hỗ trợ doanh nghiệp về năng lực xây dựng-quảng bá

thương hiệu” do Sở Thương mại thành phố Hồ Chí Minh và Báo Sài Gòn tiếp

thị tiến hành (tháng 8-11/2002) thì hiện nay, mức chi trung bình cho nhãn hiệu

thương mại của doanh nghiệp nhà nước chỉ là 2,6% doanh số và doanh nghiệp

27

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ tư nhân là 5,4% doanh số5. Tuy các doanh nghiệp đều tỏ ra quan tâm tới vấn

đề này song hầu hết họ coi trọng việc phát triển sản phẩm và tiêu thụ hàng

hơn nhiều so với việc xây dựng nhãn hiệu sản phẩm. Chỉ có 30% doanh

nghiệp nghĩ rằng nhãn hiệu sẽ giúp bán hàng được giá hơn nhiều và đem lại

niềm tự hào cho người tiêu dùng sản phẩm. 16% trong số các doanh nghiệp

có bộ phận chuyên trách về hoạt động marketing; ở một số doanh nghiệp thì

bộ phận này vẫn do giám đốc trực tiếp phụ trách. Có đến 80% doanh nghiệp

không có chức danh quản lý nhãn hiệu (khối doanh nghiệp nhà nước có chức

danh quản lý nhãn hiệu nhiều hơn các doanh nghiệp khác) và 20% số doanh

nghiệp không dành chi phí cho xây dựng thương hiệu. Ngoài ra, một phần ba

số doanh nghiệp được khảo sát không chi cho dịch vụ bên ngoài bởi theo họ

các tổ chức cung cấp dịch vụ không hiểu và chưa đáp ứng được yêu cầu của

doanh nghiệp, không đem lại hiệu quả như họ mong muốn.

Mặt khác, do kiến thức pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của các

chủ doanh nghiệp còn chưa đầy đủ nên khi đăng ký nhãn hiệu hàng hoá còn

gặp nhiều khó khăn (đơn không đúng yêu cầu, bộ hồ sơ không đầy đủ...).

Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp chỉ đi đăng ký lấy lệ mà không tận dụng

2. Thực trạng việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ở thị trường nước ngoài

được hết quyền đối với chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá.

Hàng năm, Cục sở hữu công nghiệp Việt Nam (nay là Cục Sở hữu trí tuệ

Việt Nam) nhận được trực tiếp thông qua thoả ước Madrid hàng nghìn đơn

của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam.

Trong khi đó, số đơn đăng ký của người Việt Nam ra nước ngoài chỉ có hơn

100 đơn. Và trong số 95.000 nhãn hiệu đăng ký bảo hộ tại Cục Sở hữu trí tuệ

Việt Nam chỉ có hơn 20% là của doanh nghiệp Việt Nam. Đa số nhãn hiệu

5 Theo: “Thương hiệu Việt” (Dự án “Hỗ trợ doanh nghiệp về năng lực xây dựng - quảng bá thương hiệu”). Nhà xuất bản trẻ và Câu lạc bộ doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao, 12/2002

28

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ đăng ký lại là của các doanh nghiệp tư nhân, rất ít doanh nghiệp nhà nước

tham gia. Các doanh nghiệp nhà nước ỷ thế được bảo hộ mà không coi trọng

sở hữu thương hiệu của chính mình. Nhiều trường hợp các doanh nghiệp nhà

nước, đặc biệt là các Tổng công ty, không thèm đăng ký sở hữu thương hiệu

ngay trong nước. Đến khi doanh nghiệp muốn đăng ký nhãn hiệu ở nước

ngoài để xuất khẩu thì thường được yêu cầu phải có đăng ký ở trong nước, lúc

đó họ mới vội vã đi đăng ký thương hiệu. Tuy nhiên, thủ tục đăng ký thường

kéo dài hàng năm dẫn đến mất cơ hội làm ăn với nước ngoài.

Trên thị trường Mỹ, trong vài năm trở lại đây, rất nhiều thương hiệu Việt

Nam đã hoặc đang có nguy cơ mất thương hiệu do bị các công ty nước ngoài

đăng ký trước. Thế nhưng, cho đến tháng 3/2002 mới chỉ có 186 đơn đăng ký

của các nhà xuất khẩu Việt Nam gửi đến Văn phòng Sáng chế và Thương hiệu

Mỹ (USPTO) - con số quá nhỏ bé so với trên 3 triệu nhãn hiệu mà USPTO

đang quản lý. Trong khi đó, năm 92 có 1132 hồ sơ, năm 93 đã có đến 1939 hồ

sơ của các công ty Mỹ đăng ký thương hiệu ở Việt Nam.

Nhìn chung, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn chưa có ý thức

bảo vệ quyền lợi của chính mình. Họ chỉ tập trung vào sản xuất, ký các hợp

đồng xuất khẩu mà chưa lưu tâm đến việc phải làm sao để thương hiệu của

mình được thừa nhận một cách hợp pháp. Chính vì vậy, các nhà sản xuất-xuất

khẩu hiện rất bị động trong việc đăng ký, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ các sản

phẩm của mình. Khi nào sản phẩm đó bị xâm phạm, hoặc nguy cơ mất thương

hiệu cận kề mới vội vã đi đăng ký quyền sở hữu thương hiệu. Khi đó doanh

nghiệp vừa mất thời gian, chi phí, lại phải tham gia quá trình kiện tụng, thiệt

hại có khi lên tới hàng triệu đô la. Và nguy hại hơn là nếu thương hiệu bị mất,

doanh nghiệp sẽ phải đổi tên hoặc chấp nhận mất thị trường. Mặt khác, đa số

các doanh nghiệp không lưu giữ đầy đủ hồ sơ, giấy tờ chứng minh nguồn gốc,

công nghệ sản xuất sản phẩm của mình. Đến khi có hành vi xâm phạm quyền

29

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ sở hữu, muốn chứng minh sản phẩm đó, công nghệ đó là của mình nhưng

đành chịu vì không có đủ tài liệu. Đây chính là một tổn thất không đáng có.

 CHƯƠNG II 

ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ

TẠI THỊ TRƯỜNG HOA KỲ

I. CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ CỦA HOA KỲ VỀ NHÃN HIỆU

HÀNG HOÁ

1. Các Điều ước Quốc tế về nhãn hiệu hàng hoá mà Hoa Kỳ là thành viên6

1.1 Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp

Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp được ký kết ngày

20.3.1883 tại Paris và được xem xét lại tại Brussels năm 1990, tại Washington

năm 1911, tại La Hay năm 1925, tại London năm 1934, tại Lisbon năm 1958,

tại Stockholm năm 1967 và được sửa đổi vào năm 1979. Tính đến nay, Công

ước này đã có 164 thành viên tham gia. Việt Nam và Hoa Kỳ đều là thành

viên của Công ước này.

Các quy định của Công ước Paris đề cập đến 3 vấn đề lớn: (i) nguyên tắc

đối xử quốc gia, (ii) quyền ưu tiên, và (iii) một số nguyên tắc chung đối với

6 Theo: “Các Điều ước Quốc tế về Sở hữu trí tuệ trong quá trình hội nhập”, Cục Sở hữu Công nghiệp Việt Nam (nay là Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam) và Viện Sở hữu trí tuệ Liên bang Thuỵ Sỹ, 2002

30

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp mà các nước thành viên phải tuân

thủ.

1.1.1 Nguyên tắc đối xử quốc gia

Công ước Paris quy định rằng đối với việc bảo hộ sở hữu công nghiệp,

mỗi nước thành viên phải dành cho công dân của các nước thành viên khác sự

bảo hộ tương tự như sự bảo hộ dành cho công dân của nước mình. Chế độ đối

xử quốc gia tương đương cũng phải được dành cho công dân của những nước

không phải là thành viên của Công ước Paris nếu họ cư trú tại một nước thành

viên hoặc họ có cơ sở kinh doanh tại một nước thành viên. Quy định về chế

độ đối xử quốc gia được đặt ra không chỉ nhằm bảo đảm quyền của người

nước ngoài được bảo hộ mà còn đảm bảo rằng họ không bị phân biệt đối xử

theo bất kỳ cách nào liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Các

quy định của luật pháp quốc gia liên quan đến thủ tục xét xử và thủ tục hành

chính, thẩm quyền xét xử, việc lựa chọn địa chỉ giao dịch hoặc chỉ định đại

diện được bảo lưu.

1.1.2 Quyền ưu tiên

Công ước Paris quy định quyền ưu tiên đối với sáng chế, mẫu hữu ích,

nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp. Cụ thể là trên cơ sở một đơn đăng ký

nhãn hiệu hàng hoá hợp lệ đầu tiên đã được nộp tại một trong số các nước

thành viên, trong thời hạn 6 tháng, người chủ sở hữu có thể nộp đơn yêu cầu

bảo hộ tại bất cứ nước thành viên nào khác và các đơn nộp sau sẽ được coi

như là đã được nộp vào cùng ngày với ngày nộp đơn đầu tiên. Nói cách khác,

những đơn nộp sau đó sẽ có quyền ưu tiên đối với các đơn có thể đã được

những người khác nộp trong khoảng thời gian ưu tiên nói trên. Ngoài ra,

những đơn nộp sau dựa trên cơ sở đơn nộp đầu tiên sẽ không bị ảnh hưởng

bởi bất cứ sự kiện nào có thể xảy ra trong khoảng thời gian ưu tiên, chẳng hạn

như việc bán các sản phẩm mang nhãn hiệu được đăng ký... Một trong lợi ích

31

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ thiết thực nhất của quy định này là khi người nộp đơn muốn đạt được sự bảo

hộ ở một số nước, họ không buộc phải nộp đồng thời tất cả các đơn tại các

nước xuất xứ và các nước khác mà có 6 tháng để quyết định xem nên nộp đơn

yêu cầu bảo hộ ở những nước nào và tiến hành thủ tục nộp đơn ở các nước

được chọn lựa.

Việc rút hoặc từ chối đơn đầu tiên không làm mất khả năng được hưởng

quyền ưu tiên của người nộp đơn. Người nộp đơn có thể yêu cầu hưởng quyền

ưu tiên từ nhiều đơn như có thể yêu cầu hưởng quyền ưu tiên từ một phần của

một đơn nộp trước.

1.1.3 Các nguyên tắc chung

Công ước Paris không quy định các điều kiện nộp đơn và đăng ký nhãn

hiệu mà dành việc này cho luật quốc gia của các nước thành viên. Một khi

nhãn hiệu được đăng ký tại một nước thành viên, đăng ký đó sẽ độc lập với

đăng ký có thể có tại bất cứ nước thành viên nào khác, kể cả nước xuất xứ.

Do đó, nếu đăng ký nhãn hiệu bị mất hiệu lực tại một nước thành viên thì

cũng sẽ không ảnh hưởng đến hiệu lực của đăng ký nhãn hiệu đó tại các nước

thành viên khác.

Khi nhãn hiệu đã được đăng ký hợp lệ tại nước xuất xứ, người đăng ký

nhãn hiệu đó có thể nộp đơn bảo hộ tại các nước khác với hình thức ban đầu

của nhãn hiệu đó. Tuy nhiên, đăng ký có thể bị từ chối trong một số trường

hợp nhất định, chẳng hạn như nhãn hiệu có khả năng xâm phạm quyền đã

đăng ký của các bên thứ ba, nhãn hiệu không có khả năng phân biệt, nhãn

hiệu trái với đạo đức hoặc trật tự công cộng hoặc nhãn hiệu có khả năng lừa

dối công chúng. Tại bất kỳ nước thành viên nào, nếu việc sử dụng nhãn hiệu

đã đăng ký là bắt buộc, không thể huỷ bỏ đăng ký sau một thời gian hợp lý và

chỉ trong trường hợp chủ sở hữu không chứng minh được lý do chính đáng

của việc không sử dụng nhãn hiệu.

32

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Mỗi nước thành viên phải từ chối đăng ký, huỷ bỏ đăng ký và cấm sử

dụng các nhãn hiệu là bản sao chép, mô phỏng, hoặc dịch nghĩa có khả năng

gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được cơ quan có thẩm quyền của nước đó coi là

nhãn hiệu nổi tiếng của người khác ở nước đó cho những hàng hoá cùng loại

hoặc tương tự. Thời hạn yêu cầu huỷ bỏ đăng ký nhãn hiệu như vậy không

được ít hơn 5 năm kể từ ngày đăng ký nhãn hiệu. Tuy nhiên, nếu nhãn hiệu

được đăng ký hoặc sử dụng với ý định xấu, sẽ không được hạn chế thời hạn

yêu cầu huỷ bỏ đăng ký hoặc ngăn cấm sử dụng.

Tương tự, mỗi nước thành viên phải từ chối đăng ký hoặc cấm sử dụng

các nhãn hiệu chứa các biểu tượng quốc gia và các dấu hiệu chính thức mà

không được phép, với điều kiện các dấu hiệu, biểu tượng đó đã được thông

báo cho ban thư ký của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới. Quy định tương tự

cũng áp dụng cho huy hiệu, cờ, biểu tượng khác, các chữ viết tắt và tên của

các tổ chức quốc tế liên chính phủ.

Nếu đại lý hoặc người đại diện của chủ nhãn hiệu tại một trong số các

nước thành viên không được phép của chủ nhãn hiệu mà vẫn nộp đơn đăng ký

nhãn hiệu cho chính mình tại nước thành viên khác thì chủ nhãn hiệu có

quyền phản đối việc đăng ký hoặc đề nghị huỷ bỏ đăng ký đó hoặc đề nghị

sang tên đăng ký đó cho mình, trừ trường hợp đại lý hoặc người đại diện đó

biện hộ được cho hành động của mình.

Quy định ân hạn cho việc nộp tiền duy trì hiệu lực quyền sở hữu công

nghiệp cũng được áp dụng cho việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Người nộp

phí gia hạn muộn phải nộp thêm một khoản phí phụ trội nhất định. Các nước

thành viên có nghĩa vụ phải quy định ân hạn ít nhất là 6 tháng kể từ ngày kết

thúc kỳ hạn hiệu lực, nhưng được tự do quy định mức phí phụ trội.

1.2 Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)

33

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập năm 1995 sau khi

kết thúc vòng đàm phán Uruguay trong khuôn khổ Hiệp định chung về thuế

quan và thương mại (GATT). Các thành viên của WTO đã đưa ra một hệ

thống các quy tắc đối với thương mại quốc tế nhằm mục đích tự do hoá và mở

rộng thương mại trên nguyên tắc có đi có lại và cùng có lợi. Hệ thống đó bao

gồm cả các quy tắc về sở hữu trí tuệ.

Nội dung bảo hộ sở hữu trí tuệ được đưa vào GATT là một bằng chứng

thừa nhận mối liên hệ ngày càng tăng giữa sở hữu trí tuệ và thương mại. Việc

bảo hộ sở hữu trí tuệ không thoả đáng bị coi là thực tiễn thương mại thiếu

lành mạnh và là rào cản đối với thị trường tự do và mở cửa. Khi đó, các đối

thủ cạnh tranh không cần đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D) mà có

thể bắt chước, sao chép và bán các sản phẩm với giá rẻ hơn nhiều. Kết quả là

các nhà sản xuất chân chính không có khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận cần

thiết để tiếp tục duy trì hoạt động cải tiến và sáng tạo, bao gồm cả việc tạo ra

các sản phẩm mới. Chừng nào nạn hàng giả, hàng nhái còn phổ biến thì chủ

nhãn hiệu hợp pháp khó có thể kinh doanh có lãi tại thị trường đó.

Thực tế đó của thương mại quốc tế tạo nên sự cần thiết phải hình thành

và phát triển một tư duy mới đối với sở hữu trí tuệ trên góc độ thương mại.

Kết quả là Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở

hữu trí tuệ (TRIPS) được ký kết ngày 15/04/1994 và bắt đầu có hiệu lực từ

ngày 01/01/1995 cùng với sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới

(WTO). Con đường tới WTO và Hiệp định TRIPS bắt đầu từ sau Đại chiến

Thế giới II với việc thành lập GATT nhằm duy trì luật lệ chung về thương mại

quốc tế. Việc bảo hộ sở hữu trí tuệ lần đầu tiên được bàn tới trong chương

trình nghị sự của GATT tại vòng đàm phán về luật chống hàng giả ở Tokyo

năm 1978. Tuy vậy, chỉ đến vòng đàm phán Uruguay của GATT, ý tưởng đó

mới thực sự trở thành hiện thực với việc thông qua Hiệp định TRIPS.

34

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Hiệp định TRIPS thừa nhận tầm quan trọng của việc bảo hộ sở hữu trí

tuệ đối với hoạt động thương mại và đầu tư và các thiệt hại đối với các quyền

lợi thương mại hợp pháp khi quyền sở hữu trí tuệ không được bảo hộ và thực

thi thoả đáng và hiệu quả. Điều 7 của Hiệp định quy định rằng việc bảo hộ và

thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ “góp phần thúc đẩy cải tiến, chuyển giao và

phổ biến công nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và người sử dụng

công nghệ, cũng như lợi ích kinh tế xã hội nói chung và bảo đảm sự cân bằng

giữa quyền và nghĩa vụ”.

Có thể nói Hiệp định TRIPS đã mang lại những thay đổi căn bản trong

lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nói riêng.

Hiệp định đã khẳng định lại và mở rộng các chuẩn mực và quy định của Công

ước Paris và Công ước Berne, làm thay đổi bộ mặt của luật sở hữu trí tuệ.

Ngoài việc đồng nhất hoá về pháp luật, Hiệp định TRIPS còn tiến tới loại bỏ

các quy định về hành chính, thủ tục và về kỹ thuật gây bất lợi cho hoạt động

sở hữu trí tuệ quốc tế. Điều quan trọng hơn cả là đây là Điều ước Quốc tế đầu

tiên quy định hệ thống các hình phạt đối với các thành viên không đảm bảo sự

bảo hộ tối thiểu về quyền sở hữu trí tuệ, kể cả các tiêu chuẩn tối thiểu về

nghĩa vụ thực thi quyền. Các hình phạt này hoàn toàn không có trong Công

ước Paris. Ngoài ra, Hiệp ước TRIPS cũng lần đầu tiên đưa ra một nguyên tắc

mới là nguyên tắc “đối xử tối huệ quốc” (MFN): “bất kỳ một sự ưu tiên, chiếu

cố, đặc quyền hoặc sự miễn trừ nào được một Thành viên dành cho một công

dân của bất kỳ nước nào khác cũng phải được lập tức và vô điều kiện dành

cho công dân của tất cả các Thành viên khác” (Điều 4).

Với mục đích chống hàng giả và bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, Hiệp định

quy định các nguyên tắc tổng quát về thủ tục bảo hộ một cách thoả đáng và

hiệu quả quyền sở hữu công nghiệp tại các nước thành viên. Trong phần III và

IV của Hiệp định TRIPS nêu rõ rằng các nước thành viên phải quy định trong

35

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ luật pháp quốc gia của mình các thủ tục cho phép áp dụng các biện pháp có

hiệu quả đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Các quốc

gia thành viên cũng phải quy định một cơ chế nhằm ngăn chặn các hành vi tái

vi phạm các quyền đó và có nghĩa vụ phải áp dụng cả hai biện pháp nói trên

để tránh các rào cản gây trở ngại cho thương mại hợp pháp và các biện pháp

an toàn đối với việc lạm dụng quyền. Hơn thế, các thủ tục và hình thức quy

định đối với việc bảo hộ quyền phải hợp lý và công bằng, không được “phức

tạp và tốn kém đến mức không cần thiết” và không được “kéo dài một cách

bất hợp lý và không có lý do”. Mặt khác, Hiệp định TRIPS cũng quy định

rằng luật nhãn hiệu hàng hoá quốc gia của các nước thành viên phải quy định

một số thủ tục và các thủ tục này phải được công khai đối với chủ sở hữu

nhãn hiệu. Trong số đó có cơ chế thực thi, chẳng hạn như các thủ tục dân sự,

hình sự và hành chính, bao gồm các biện pháp tạm thời, bồi thường thiệt hại,

tiêu huỷ tang vật vi phạm. Hiệp định cũng đề ra yêu cầu thiết lập các thủ tục

kiểm soát hàng giả tại biên giới.

Về phán quyết của các toà án đối với vi phạm bảo hộ nhãn hiệu hàng

hoá, Hiệp định quy định phải được thể hiện bằng văn bản, có nêu rõ lý do và

được thông báo kịp thời cho các bên. Các phán quyết phải dựa trên các bằng

chứng và các bên nhất thiết phải có một cơ hội để trình bày ý kiến. Mặc dù

các nước thành viên không bắt buộc phải thiết lập một hệ thống xét xử riêng,

song nhất thiết phải quy định các thủ tục xem xét tại toà án tất cả các quyết

định hành chính cuối cùng.

Mối quan hệ ngày càng tăng giữa thương mại và sở hữu trí tuệ đã làm

cho nhiều nước đang phát triển thừa nhận rằng sự sống còn của nền kinh tế

thế giới gắn liền với việc bảo hộ sở hữu trí tuệ. Các nước đang phát triển

mong đợi thời gian kéo dài thi hành Hiệp định TRIPS và sẽ được hưởng lợi từ

việc bảo hộ thông qua hệ thống giải quyết tranh chấp của Hiệp định này. Xét

36

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ trong bối cảnh quan hệ toàn cầu, và xem xét quyền sở hữu trí tuệ là động lực

thúc đẩy đầu tư và thương mại, thì việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung

và bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nói riêng là một chiến lược đúng đắn nhằm

đảm bảo sự phát triển bền vững.

1.3 Hiệp ước Luật nhãn hiệu hàng hoá (Trademark Law Treaty)

Hiệp ước Luật nhãn hiệu hàng hoá được thông qua ngày 27/10/1994 tại

Geneva và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/08/1996. Tính đến nay, Hiệp ước

Luật nhãn hiệu hàng hoá đã có 26 thành viên. Hoa Kỳ đã nộp văn kiện gia

nhập cho Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) vào tháng 5 năm 2000.

Mục đích của Hiệp ước là làm đơn giản hoá và hài hoà hoá các quy định

về thủ tục và yêu cầu hành chính của các hệ thống đăng ký nhãn hiệu hàng

hoá quốc gia và khu vực, tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp đơn và chủ sở

hữu nhãn hiệu hàng hoá.

Các quy tắc của Hiệp ước làm rõ những yêu cầu về thủ tục mà cơ quan

nhãn hiệu hàng hoá được phép hay không được phép đòi hỏi người nộp đơn

hoặc chủ sở hữu nhãn hiệu. Hiệp ước không điều chỉnh những quy định nội

dung về đăng ký nhãn hiệu của luật nhãn hiệu hàng hoá.

Các loại nhãn hiệu hàng hoá thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp ước

Điều 2 Hiệp ước quy định về nhãn hiệu hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ.

Vì vậy, khi tham gia Hiệp ước, Nước thành viên phải có nghĩa vụ đăng ký

nhãn hiệu dịch vụ. Hơn nữa, theo Điều 16, Nước thành viên cũng có nghĩa vụ

tuân thủ các quy định của Công ước Paris liên quan đến nhãn hiệu dịch vụ.

Nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận không thuộc phạm vi điều

chỉnh của Hiệp ước, bởi vì các yêu cầu của các quốc gia đối với việc đăng ký

những nhãn hiệu này rất đa dạng khiến cho việc thống nhất rất khó khăn.

Nhãn hiệu hình nổi và nhãn hiệu vô hình, như nhãn hiệu âm thanh và nhãn

hiệu mùi vị cũng không thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp ước vì không dễ

37

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ dàng tạo mẫu các nhãn hiệu đó bằng phương pháp đồ họa và rất ít luật quốc

gia bảo hộ những nhãn hiệu này.

Những dấu hiệu có thể nhìn thấy được đều phải có khả năng được đăng

ký. Chỉ những Nước thành viên nào chấp nhận đăng ký nhãn hiệu hình khối

mới có nghĩa vụ tuân thủ Hiệp ước đối với nhãn hiệu hình khối.

Yêu cầu đối với Đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá

Điều 3 Hiệp ước gồm toàn bộ danh mục các thông tin mà Cơ quan cấp

đăng ký nhãn hiệu được phép yêu cầu đối với đơn đăng ký nhãn hiệu. Những

thông tin này có thể là tên và địa chỉ của người nộp đơn và của người đại

diện, tuyên bố yêu cầu hưởng quyền ưu tiên đối với đơn được nộp sớm hơn

(nếu có), một hoặc vài mẫu nhãn hiệu tuỳ thuộc nhãn hiệu đó có phải là nhãn

hiệu màu hoặc hình khối hay không, tên của hàng hoá hoặc dịch vụ xếp theo

nhóm của Bảng phân loại Nice, khai báo về dự định sử dụng nhãn hiệu hàng

hoá hoặc về việc sử dụng thực sự. Ngoài những thông tin được quy định theo

Hiệp ước, Cơ quan cấp đăng ký nhãn hiệu không được yêu cầu những thông

tin khác như đăng ký kinh doanh, chứng cứ về việc người nộp đơn đang tiến

hành hoạt động kinh doanh hoặc lĩnh vực kinh doanh liên quan đến hàng hoá

hoặc dịch vụ được liệt kê trong đơn.

Điều 6 Hiệp ước cũng quy định rằng Cơ quan cấp đăng ký nhãn hiệu

phải chấp nhận đơn đăng ký cho nhiều hàng hoá hoặc dịch vụ thuộc nhiều

nhóm khác nhau trong Bảng phân loại Nice và đơn đó phải tương ứng với một

đăng ký duy nhất.

Yêu cầu đối với người đại diện

Điều 4 Hiệp ước cho phép Cơ quan cấp đăng ký nhãn hiệu hàng hoá yêu

cầu người nộp đơn không có cơ sở công nghiệp hoặc thương mại thực sự,

thường trú và đang hoạt động trên lãnh thổ nước đó phải có đại diện và người

đại diện của người nộp đơn phải là người được phép hoạt động đại diện. Theo

38

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ quy định này, giấy uỷ quyền có thể liên quan đến nhiều đơn đăng ký và có thể

dùng cho các đơn đăng ký trong tương lai.

Yêu cầu về ngày nộp đơn

Người nộp đơn hợp lệ có ý nghĩa quan trọng vì quyền phát sinh trên cơ

sở nộp đơn đầu tiên và đó được coi là ngày ưu tiên đối với đơn được nộp sau

ở những nước khác. Điều 5 quy định những thông tin tối đa có thể yêu cầu đối

với việc ghi nhận ngày nộp đơn hợp lệ. Những thông tin này bao gồm các

thông tin về người nộp đơn, thông tin đầy đủ để liên lạc với người nộp đơn

hoặc người đại diện của người nộp đơn, mẫu nhãn hiệu, danh mục hàng hoá

và dịch vụ xin đăng ký nhãn hiệu... Ngoài ra, để ghi nhận ngày nộp đơn hợp

lệ, Cơ quan cấp đăng ký nhãn hiệu có thể yêu cầu nộp lệ phí nếu luật nhãn

hiệu hàng hoá quốc gia có quy định này trước khi tham gia Hiệp ước.

Điều 7 Hiệp ước quy định rằng nếu việc đăng ký một nhãn hiệu bị từ

chối đối với một số hàng hoá hoặc dịch vụ nhất định, người nộp đơn có thể

tách đơn để tránh bị chậm trễ trong việc được đăng ký những nhãn hiệu hàng

hoá hoặc dịch vụ không bị từ chối và vẫn giữ được ngày nộp đơn đầu tiên

hoặc ngày ưu tiên nếu có. Đồng thời, người nộp đơn có thể tiến hành khiếu

nại đối với đơn có hàng hoá hoặc dịch vụ bị từ chối.

Yêu cầu đối với chữ ký của người nộp đơn

Điều 8 Hiệp ước quy định về chữ ký và những dấu hiệu khác cho phép

xác định người đứng tên tài liệu. Không chỉ riêng với chữ ký viết tay, chữ ký

dưới hình thức in, dán tem hoặc đóng dấu cũng có thể được chấp nhận. Điều

quan trọng là Cơ quan cấp đăng ký không được phép yêu cầu xác nhận chữ ký

(hợp pháp hoá, công chứng, hoặc các hình thức xác nhận khác), trừ khi chữ

ký có liên quan đến việc hủy bỏ đăng ký.

Như vậy, nếu đối chiếu các quy định của Hiệp ước với các quy định về

thủ tục liên quan đến nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam có thể thấy rằng hệ

39

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ thống pháp luật của Việt Nam đã bao gồm phần lớn những yêu cầu được Hiệp

ước cho phép, nhưng cũng bao gồm một số điều bị Hiệp ước cấm và thiếu

một số quy định Hiệp ước bắt buộc phải có. Mặc dù về mặt tài chính, việc

tham gia Hiệp ước không tạo ra nghĩa vụ (không phải đóng niêm liễm) và

cũng không đem lại nguồn thu (Hiệp ước không có cơ quan điều hành riêng

và không có các hoạt động dịch vụ). Tuy nhiên, việc tham gia Hiệp ước sẽ

giúp thủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam hoà nhập với quốc tế,

xoá bỏ các thủ tục phiền phức, các yêu cầu hình thức mang tính chất giấy tờ

quan liêu. Nhờ đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp đơn và đại diện sở

hữu công nghiệp, đồng thời giảm cho Cục Sở hữu trí tuệ những thao tác hành

chính vô ích đối với các giấy tờ không cần thiết.

1.4 Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá trong các Hiệp định song phương

Hoa Kỳ đã ký nhiều Hiệp định song phương về bảo hộ nhãn hiệu hàng

hoá với nhiều quốc gia. Song ở đây, chúng ta cần quan tâm đến Hiệp định

thương mại Việt - Mỹ trong đó có Chương II quy định về quyền sở hữu trí

tuệ.

Nguyên tắc đối xử quốc gia

Ngay trong Điều 3 của Chương II đã nêu rõ nguyên tắc đối xử quốc gia

“Mỗi Bên dành cho công dân của Bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn

sự đối xử mà Bên đó dành cho công dân của mình trong việc xác lập, bảo hộ,

hưởng và thực thi tất cả các quyền sở hữu trí tuệ và mọi lợi ích có được từ các

quyền đó”. Đây là nguyên tắc chủ đạo xuyên suốt các quy định trong Hiệp

định thương mại Việt - Mỹ. Tuy nhiên, nếu so sánh với Thông tư của Bộ Tài

Chính số 23TC/TCT ngày 9 tháng 5 năm 1997 hướng dẫn việc thu, nộp phí và

lệ phí sở hữu công nghiệp thì mức thu đối với người nước ngoài thường cao

hơn so với mức thu đối với người Việt Nam. Như vậy, trong thời gian tới, Việt

40

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ Nam sẽ phải có những giải pháp để phù hợp với Hiệp định đã ký kết với Hoa

Kỳ.

Phạm vi bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá

Để bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách đầy đủ và có hiệu

quả, Hiệp định Việt - Mỹ quy định mỗi Bên tối thiểu phải thực hiện theo

Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (bản được sửa đổi năm 1967).

Vì vậy, những nội dung trong Công ước này mặc nhiên được coi là những quy

định mà Hiệp định yêu cầu hai bên phải tuân thủ. Một Bên cũng có thể thực

hiện việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật của riêng

quốc gia mình ở mức độ rộng hơn so với yêu cầu trong Hiệp định nhưng với

điều kiện là việc bảo hộ và thực thi đó không mâu thuẫn với Hiệp định này.

Nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận cũng thuộc phạm

vi bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Trong mọi trường hợp, tính chất của hàng hoá

hoặc dịch vụ không cản trở việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá.

Hệ thống đăng ký nhãn hiệu hàng hoá

 Xét nghiệm đơn

 Thông báo cho người nộp đơn về các lý do từ chối đăng ký nhãn hiệu

hàng hoá

 Cơ hội hợp lý dành cho người nộp đơn trình bày ý kiến về thông báo

đó

 Công bố nhãn hiệu hàng hoá trước hoặc ngay sau khi nhãn hiệu được

đăng ký

 Cơ hội hợp lý dành cho những người có liên quan được yêu cầu huỷ

bỏ hiệu lực đăng ký nhãn hiệu hàng hoá

Thời hạn hiệu lực của đăng ký nhãn hiệu hàng hoá

Khoản 8 Điều 6 Hiệp định Việt - Mỹ ghi rõ: “Mỗi Bên quy định rằng

đăng ký ban đầu của một nhãn hiệu hàng hoá có thời hạn ít nhất 10 năm và

41

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ được gia hạn không hạn chế số lần, mỗi lần gia hạn có thời hạn không ít hơn

10 năm, khi các điều kiện gia hạn được đáp ứng”.

Điều kiện duy trì hiệu lực của việc đăng ký

Khoản 9 Điều 6 Hiệp định ghi rõ: “Mỗi Bên yêu cầu việc sử dụng thực

sự nhãn hiệu hàng hoá là điều kiện để duy trì hiệu lực của việc đăng ký (tuy

nhiên, đây không phải là một điều kiện để được nộp đơn). Việc đăng ký có thể

bị đình chỉ hiệu lực do không sử dụng sau thời gian ít nhất là 3 năm liên tục

không sử dụng, trừ trường hợp chủ nhãn hiệu hàng hoá chứng minh được

rằng việc không sử dụng đó là có lý do chính đáng vì có những cản trở đối với

việc sử dụng đó. Pháp luật phải công nhận những điều kiện phát sinh ngoài ý

muốn của chủ nhãn hiệu cho việc sử dụng nhãn hiệu đó, chẳng hạn như việc

chính phủ hạn chế nhập khẩu hoặc quy định các yêu cầu khác đối với hàng

hoá hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu.”

Như vậy, để tạo vị thế vững chắc trên thị trường Mỹ xuất phát từ khía

cạnh nhãn hiệu hàng hoá, các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải nghiên cứu kỹ

lưỡng Công ước quốc tế Paris 1967 và Hiệp định thương mại Việt- Mỹ để

nắm bắt các tiêu chuẩn cơ bản đối với việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Đồng

thời, các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải đi sâu nghiên cứu các văn bản

pháp luật có liên quan tại Mỹ để tìm hiểu các quy định cụ thể. Tiến tới, khi

những nỗ lực gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam

thành công, Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của Quyền

Sở hữu trí tuệ (TRIPS)- một trong các thành phần cấu thành của các quy định

bắt buộc của WTO, sẽ cùng góp phần tạo dựng một khung pháp lý đảm bảo

thuận lợi và mang lại lợi ích tối đa cho những người chủ đích thực của các

2. Luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của hoa kỳ

thương hiệu Việt Nam trên thị trường Mỹ.

42

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Luật của Hoa Kỳ về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá ra đời từ rất sớm, trong

đó phải kể đến công của những nhà sản xuất vải buồm. Năm 1788, những

người này đã đệ trình yêu cầu lên những nhà lập pháp về việc ban hành pháp

luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Cho đến thời điểm đó, từng bang đã ban hành

những quy định của riêng mình nhưng chỉ giới hạn việc bảo hộ đối với nhãn

hiệu của những hàng hoá được sản xuất và lưu thông trong bang đó. Liên

bang mới chỉ công nhận việc bảo hộ đối với nhãn hiệu của những hàng hoá sẽ

được bán ra nước ngoài hay cho các bộ lạc người da đỏ nhưng chưa dựa trên

cơ sở pháp lý. Lúc đó, pháp luật liên bang điều chỉnh vấn đề bảo hộ nhãn hiệu

hàng hoá chưa được hình thành.

Ngày 3/3/1881, Đạo luật đầu tiên về nhãn hiệu hàng hoá được ban hành

dựa trên Điều khoản về thương mại trong Hiến pháp. Đạo luật này điều chỉnh

việc bảo hộ nhãn hiệu của những hàng hoá tham gia thương mại với nước

ngoài hay các bộ lạc người da đỏ.

Đầu thế kỷ XX, một đạo luật mới được ban hành mang tên Đạo luật

20/2/1905 trong đó mở rộng phạm vi bảo hộ đối với nhãn hiệu của những

hàng hoá được lưu thông giữa các bang. Đạo luật này ra đời thực sự là một

dấu hiệu tích cực. Tính đến năm 1905 đã có 16.224 đơn nộp đăng ký bảo hộ

nhãn hiệu hàng hoá, trong đó 415 nhãn hiệu hiện nay vẫn còn được sử dụng như Pepsi Cola, kem dưỡng da Vaseline, bột mì Pillsbury7

Sau đó, Mỹ ban hành Đạo luật ngày 19/3/1920 mở rộng hơn Đạo luật

1905, cho phép áp dụng một số điều khoản của Công ước bảo hộ nhãn hiệu

hàng hoá và tên thương mại được soạn thảo và ký kết tại thành phố Buenos

Aires, nước Cộng hoà Achentina ngày 20 tháng 8 năm 1910 nhằm điều chỉnh

các vấn đề về xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá theo quy trình đăng

ký bổ sung.

7 Theo: http://www.ggmark.com/trademark

43

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Ngày 5 tháng 7 năm 1946, Đạo luật Lanham (Lanham Act) được thông

qua và đã được tập hợp lại trong hệ thống các Đạo luật do Quốc hội Mỹ ban

hành U.S.Code. Đây là một Đạo luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá có hiệu

lực đến ngày nay.

Đạo luật Lanham ra đời đánh dấu một bước hoàn thiện về pháp luật về

bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá ở Hoa Kỳ. Luật này đã được sửa đổi nhiều lần.

Lần sửa đổi quan trọng nhất vào năm 1988 (Trademark Law Revision Act of

1988). Bổ sung cho đạo luật này, năm 1995, chính quyền Liên bang đã ban

hành một đạo luật về bảo vệ các nhãn hiệu nổi tiếng (well-known marks).

Hiện nay, pháp luật về nhãn hiệu hàng hoá Hoa Kỳ được qui định bởi hai

hệ thống pháp luật Liên bang và pháp luật của từng bang trong Hợp chủng

quốc. Luật liên bang chính là Đạo luật Lanham 1946 cùng với những quy

định sửa đổi bổ sung sau này. Đồng thời, hầu như tất cả các bang đều có

những đạo luật riêng về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá với những quy định không

giống nhau về đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Ngoài ra, với đặc điểm là một

nước theo hệ thống pháp luật bất thành văn (Common Law), ngoài những quy

định trong các văn bản luật (Enacted Law), Luật án lệ (Case Law) cũng là

một nguồn quan trọng cho việc điều chỉnh các quan hệ về quyền sở hữu trí tuệ

nói chung và nhãn hiệu hàng hoá nói riêng.

2.1 Những quy định cơ bản về nhãn hiệu hàng hoá trong Luật Liên bang

2.1.1 Đối tượng được bảo hộ

Như đã nói ở mục 1.1 Chương I, nhãn hiệu hàng hoá bao gồm từ ngữ,

tên, biểu tượng, hình vẽ hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó nhằm phân biệt

hàng hoá của một người cung cấp với hàng hoá của một người cung cấp khác.

Đặc trưng của nhãn hiệu hàng hoá là tính phân biệt của nó (distincness) với

các nhãn hiệu khác. Thông qua bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, pháp luật bảo hộ

uy tín (good will) của chủ nhãn hiệu và lợi ích của người tiêu dùng trước hành

44

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ vi gây nhầm lẫn. Nhãn hiệu hàng hoá được áp dụng cho hàng hoá, dịch vụ và

cả những nhãn hiệu xác nhận nguồn gốc, chất lượng, độ nguyên chất... nếu

chúng thoả mãn các yêu cầu của một nhãn hiệu (certification marks).

Trước đây, đạo luật Lanham quy định rằng nhãn hiệu chỉ được đăng ký

nếu hàng hoá dịch vụ mang nhãn hiệu đó đã được sử dụng trong thực tiễn.

Tuy vậy, trong bản sửa đổi vào năm 1988, đạo luật đã nới lỏng quy định này:

người muốn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá chỉ cần chứng minh được là mình có

ý định sử dụng là đủ (bona fide intent to use).

Để đảm bảo tính phân biệt, nhãn hiệu hàng hoá phải có những dấu hiệu

làm nó biệt lập với nhãn hiệu của người khác. Những nhãn hiệu hàng hoá sau

đây không thuộc đối tượng được bảo hộ:

 Có chứa các nội dung đi ngược lại với đạo đức như: lừa dối, có nội

dung dèm pha, nói xấu người khác dù còn sống hay đã chết, gây tai tiếng cho

các tổ chức, tôn giáo, biểu tượng quốc gia hoặc làm phương hại đến thanh

danh của các tổ chức, cá nhân đó; hoặc bao gồm chỉ dẫn địa lý được sử dụng

kèm hoặc liên quan tới các mặt hàng rượu hoặc bia lại chỉ dẫn đến một nơi

khác không phải là nơi xuất xứ của hàng hoá đó và chỉ dẫn này lần đầu tiên

được sử dụng với mặt hàng rượu bia là vào ngày hoặc một năm sau khi Hiệp

định WTO có hiệu lực đối với nước Mỹ.

 Mang biểu tượng quốc kỳ, biểu tượng của quân đội, biểu tượng của

Hoa Kỳ, của bất kỳ bang nào của Hoa Kỳ hay của bất kỳ một quốc gia nào.

 Mang tên, ảnh, chữ ký của một người còn sống trừ khi có sự chấp

thuận bằng văn bản của người này hoặc mang tên, ảnh, chữ ký của một vị

Tổng thống quá cố của nước Mỹ trong khi phu nhân của ông ta vẫn còn sống,

trừ khi có sự đồng ý bằng văn bản của phu nhân đó.

 Có dấu hiệu tương tự với một dấu hiệu đã được bảo hộ tại Văn phòng

Sáng chế và Thương hiệu Mỹ hay có dấu hiệu, tên thương hiệu trước đây đã

45

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ được dùng ở Mỹ bởi một người khác và vẫn còn đang được sử dụng và nếu

được dùng gắn với hình ảnh của người nộp đơn đăng ký có thể gây nên nhầm

lẫn, lừa dối khách hàng.

 Có dấu hiệu như:

(1) Được sử dụng gắn liền với hàng hoá của người nộp đơn đăng ký chỉ

đơn thuần mang tính mô tả hoặc mô tả sai lệch.

(2) Được sử dụng gắn liền với hàng hoá của người nộp đơn đăng ký

chủ yếu chỉ là hướng dẫn địa lý.

(3) Được sử dụng gắn liền với hàng hoá của người nộp đơn đăng ký

chủ yếu là những hướng dẫn địa lý sai lệch

(4) Gần như là một tên họ

(5) Chỉ đơn thuần mô tả chức năng của hàng hoá.

2.1.2 Phạm vi và thời hạn bảo hộ

Từ sau lần sửa đổi năm 1988, thời hạn bảo hộ của nhãn hiệu hàng hoá

được rút ngắn xuống còn 10 năm (trước đó là 20 năm) kể từ ngày đăng ký.

Thời hạn bảo hộ có thể được gia hạn nhiều lần không hạn chế nếu nhãn hiệu

vẫn được sử dụng trong thực tế.

Đạo luật Lanham Act 1946 điều chỉnh việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá

trong thương mại giữa các bang và trong hoạt động thương mại có yếu tố

nước ngoài. Các nhà xuất khẩu Việt Nam khi đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng

hoá của mình tại Mỹ theo luật này cũng sẽ phải tuân theo các quy định và

được hưởng những quyền lợi như người địa phương.

2.1.3 Nguyên tắc bảo hộ

Nguyên tắc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá theo Luật Lanham là nguyên tắc

sử dụng trước (first to use system). Theo nguyên tắc này, bất kỳ ai sử dụng

trước nhãn hiệu hàng hoá đều có quyền đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Theo đó,

46

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ việc đăng ký một nhãn hiệu tại cơ quan có thẩm quyền chỉ mang tính chất

tuyên bố và có thể bị kiện bởi một chủ nhãn hiệu thực sự.

2.1.4 Hình thức xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá

Cũng giống như luật pháp các nước về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, Luật

Mỹ quy định hình thức xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá là Giấy

chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Giấy chứng nhận do cơ quan Nhà nước cấp là

chứng chỉ duy nhất của Nhà nước xác nhận quyền sở hữu đối với nhãn hiệu

hàng hoá của chủ thể được cấp.

Điều 1075- Đạo luật Lanham Act 1946 quy định: “Giấy chứng nhận

đăng ký nhãn hiệu theo thủ tục đăng ký chính thức do Hợp chủng quốc Hoa

Kỳ cấp, được Văn phòng sáng chế và thương hiệu đóng dấu và Giám đốc văn

phòng ký. Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu này được lưu một bản tại Văn

phòng sáng chế và thương hiệu. Nội dung giấy chứng nhận bao gồm: bản thân

nhãn hiệu, tên của tiểu bang nơi nhãn hiệu được đăng ký theo thủ tục đăng ký

chính thức theo quy định của luật này, ngày đầu tiên sử dụng nhãn hiệu, ngày

đầu tiên sử dụng nhãn hiệu trong thương mại, tên hàng hoá hoặc dịch vụ của

nhãn hiệu được đăng ký, số giấy chứng nhận, ngày cấp giấy chứng nhận, ngày

tháng năm Văn phòng nhận đơn và bất kỳ các điều kiện và hạn chế nào khác

được đưa vào Giấy chứng nhận”.

Ngoài ra, Luật Mỹ còn quy định rất chi tiết và rõ ràng các vấn đề liên

quan tới Giấy chứng nhận ví dụ như những sửa đổi, bổ sung nội dung của

Giấy chứng nhận do lỗi của Văn phòng hoặc lỗi của người đăng ký; giá trị

pháp lý của Giấy chứng nhận; Giấy chứng nhận được cấp cho người được

chuyển nhượng nhãn hiệu hàng hoá đã được đăng ký; đình chỉ, huỷ bỏ, sửa

đổi Giấy chứng nhận; lưu giữ bản sao Giấy chứng nhận làm bằng chứng...

Giấy chứng nhận công nhận sự bảo hộ đối với nhãn hiệu hàng hoá trong phạm

vi toàn Liên bang.

47

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 2.2 Những điểm khác biệt giữa Luật Liên bang và Luật riêng từng bang

Trước khi Điều luật đầu tiên của Liên bang về bảo hộ nhãn hiệu hàng

hoá được chính thức ban hành vào thế kỷ XIX, các bang đã xác định các quy

định pháp luật điều chỉnh việc bảo hộ nhãn hiệu của những hàng hoá được sản

xuất và lưu thông trong bang của mình.

Đến nay hầu như tất cả các bang đều có những đạo luật riêng về bảo hộ

nhãn hiệu hàng hoá với quy định không giống nhau về đăng ký nhãn hiệu

hàng hoá. Song hầu hết những đạo luật này đều phỏng theo Dự luật mẫu về

nhãn hiệu hàng hoá (Model Trademark Bill - MTB) hay Đạo luật thống nhất

về hành vi xâm phạm nhãn hiệu (Uniform Deceptive Trade Practices Act-

UDTPA). MTB cung cấp sự bảo hộ đối với nhãn hiệu hàng hoá nhưng

UDTPA thì không.

Bên cạnh đó, các bang đều ban hành các đạo luật bảo vệ các nhãn hiệu

hàng hoá nổi tiếng (anti additional acts).

Bảo hộ thương hiệu tại mỗi bang đạt được thông qua việc nộp đơn đăng

ký tại Phòng thương hiệu của bang đó. Nhìn chung, chi phí đăng ký bảo hộ

nhãn hiệu theo luật của bang không cao và thủ tục khá rõ ràng minh bạch.

Tuy vậy, những người được bảo hộ thương hiệu của mình theo luật tiểu bang

không được dùng các dấu hiệu công nhận thương hiệu theo luật của Liên bang mà chỉ có thể dùng ký hiệu TM (Trademark) đối với nhãn hiệu hàng hoá hay SM (Servicemark) đối với dịch vụ gắn liền với thương hiệu của mình.

Như vậy, bên cạnh hệ thống đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của Liên bang,

các bang đều có luật lệ và thiết chế đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của riêng

mình. Tuy nhiên, kinh doanh trên một thị trường rộng lớn như nước Mỹ, các

nhà xuất khẩu Việt Nam nên quan tâm đến Hệ thống luật Liên bang để bảo vệ

mình trước các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh, không lường trước

48

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ được và để đạt được tấm hộ chiếu xâm nhập các khu vực thị trường mới dễ

dàng trên đất Mỹ.

Việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá theo Luật Liên bang đem lại

một số lợi ích mà Luật tiểu bang không có8:

 Như đã nói ở trên, Giấy chứng nhận bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của

Liên bang sẽ do Văn phòng sáng chế và thương hiệu (USPTO) cấp và có giá

trị trên 50 bang. Vì vậy, nếu doanh nghiệp có ý định mở rộng phạm vi kinh

doanh trên nhiều bang thì thay vì phải đăng ký nhiều lần tại các bang khác

nhau thì doanh nghiệp chỉ cần đăng ký một lần tại Văn phòng sáng chế và

thương hiệu của Liên bang.

 Khi doanh nghiệp đã được USPTO cấp Giấy chứng nhận đăng ký bảo

hộ nhãn hiệu hàng hoá, doanh nghiệp đó có quyền sử dụng ký hiệu đ sau

hàng hoá hoặc dịch vụ gắn liền với nhãn hiệu đã đăng ký. Trong khi đó, nếu

doanh nghiệp đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại các tiểu bang thì doanh nghiệp đó chỉ được sử dụng ký hiệu TM hoặc ký hiệu SM sau nhãn hiệu của mình.

 Những doanh nghiệp được cấp đăng ký tại Văn phòng sáng chế và

thương hiệu Mỹ thì đương nhiên doanh nghiệp đó có quyền ngăn cản người

khác sử dụng thương hiệu của mình. Việc ngăn cản đó được thực hiện qua hai

cách. Thứ nhất, USPTO sẽ từ chối bảo hộ những thương hiệu giống hoặc

tương tự đến mức gây nhầm lẫn với thương hiệu được bảo hộ. Thứ hai,

thương hiệu đó sẽ được lưu trữ trong các cơ sở dữ liệu, qua các dịch vụ kiểm

tra, các doanh nghiệp khác sẽ tránh dùng những thương hiệu đã được bảo hộ.

Ít doanh nghiệp nào sau khi đã đầu tư rất lớn để gây dựng cho mình một

ngành nghề kinh doanh lại sử dụng một thương hiệu đã được bảo hộ để rồi

phải vướng vào những vụ kiện tụng phức tạp và tốn kém.

8 Theo: "Should I register my mark?”, Basic facts about trademark, United States Patent and Trademark Office - USPTO

49

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

 Ngoài ra, khi có được một Giấy chứng nhận do USPTO cấp sẽ giúp

cho chủ thương hiệu tránh khỏi chi phí và công sức để đưa ra những thủ tục

chứng minh về tính hiệu lực của thương hiệu, quyền sở hữu của mình, việc sử

dụng thương hiệu đó trong kinh doanh giữa các bang... Trong khi nếu thiếu

các bằng chứng đó, chủ thương hiệu rất có thể bị thua kiện.

 Chủ sở hữu của thương hiệu được bảo hộ theo luật Liên bang có thể

nhận được sự trợ giúp vô giá của Hải quan Hoa Kỳ trong việc ngăn cản nhập

khẩu các hàng hóa vi phạm thương hiệu đó. Tuy nhiên, Hải quan Hoa Kỳ

không mặc nhiên có nghĩa vụ đó, trừ khi chủ thương hiệu đã lưu hồ sơ thương

hiệu được bảo hộ hợp pháp của mình tại Hải quan và trong nhiều trường hợp

phải cùng Hải quan theo dõi và chặn đứng các hoạt động nhập khẩu phạm

pháp nêu trên.

II. ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ TẠI HOA KỲ

1. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá trực tiếp tại Hoa Kỳ9

Đạo luật ngày 19/03/1920 có quy định thêm rằng việc xác lập quyền sở

hữu nhãn hiệu hàng hoá có thể tuân theo quy trình đăng ký bổ sung. Như vậy

tính đến nay, ngoài sự duy trì tất yếu của sổ đăng ký chính (Principal

Register), sổ đăng ký bổ sung (Supplemental Register) vẫn tồn tại dành cho

các nhãn hiệu chưa đủ điều kiện đăng ký, chẳng hạn như các nhãn hiệu chỉ

đơn thuần mang ý nghĩa mô tả chủng loại hàng hoá... Khi đó, quyền lợi đạt

được của chủ thương hiệu sẽ ít hơn khi thương hiệu được đăng ký trong sổ

chính thức. Song các nhãn hiệu này sẽ có khả năng được bổ sung vào sổ chính

khi có đủ điều kiện.

9 Theo: Văn phòng Sáng chế và Thương hiệu Hoa Kỳ - United States Patent and Trademark Office (www.uspto.gov)

50

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Bởi vậy, quy trình đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại Hoa Kỳ có thể

được tiến hành theo một trong hai loại quy trình sau:

Quy trình thủ tục chính thức (quy trình thủ tục được quy định từ Điều

1051 đến Điều 1072 Đạo luật Lanham Act 1946) bao gồm các bước:

 Nộp đơn đăng ký và thẩm tra đơn đăng ký

 Chỉ định người đại diện (trong trường hợp người đăng ký không cư

trú và không có trụ sở ở Mỹ)

 Xét nghiệm đơn đăng ký và công bố kết quả xét nghiệm: từ chối đăng

ký đơn không hợp lệ hoặc sửa đổi đơn hay huỷ bỏ đơn

 Công bố trên công báo sở hữu trí tuệ để người có quyền lợi liên quan

có thể phản đối việc đăng ký hoặc yêu cầu huỷ bỏ đăng ký

 Cấp Giấy chứng nhận (trong trường hợp không có người phản đối

hoặc yêu cầu huỷ bỏ)

 Gia hạn Giấy chứng nhận

Quy trình thủ tục bổ sung: Bên cạnh các nhãn hiệu hàng hoá được đăng

ký theo quy trình thủ tục chính thức, Giám đốc Văn phòng Sáng chế và

Thương hiệu Mỹ duy trì quy trình đăng ký quy định trong Điều 1 của Đạo

luật 19/3/1920 như sau: "Đạo luật này có hiệu lực nhằm đảm bảo các điều

khoản của Công ước được ký kết và thông qua tại Buenos Aires - Nước Cộng

hoà Achentina ngày 20/8/1910 về vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá và tên

thương mại và nhằm đảm bảo các mục đích khác”. Như vậy, quy trình thủ tục

bổ sung là quy trình thủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá theo Công ước ký tại

Buenos Aires ngày 20/8/1910.

Tất cả các nhãn hiệu có khả năng phân biệt hàng hoá và dịch vụ của

người đăng ký nhãn hiệu đó với hàng hoá và dịch vụ của người khác và

không được đăng ký theo quy trình thủ tục chính thức đều có thể đăng ký theo

quy trình thủ tục bổ sung với điều kiện là nhãn hiệu hàng hoá đó đã được sử

51

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ dụng một cách hợp pháp vì mục đích thương mại (không dùng cho đăng ký

nhãn hiệu hàng hoá có ý định sử dụng), sử dụng kèm hoặc có liên quan tới

hàng hoá và dịch vụ khác nhưng không phải là các nhãn hiệu thuộc đối tượng

pháp luật Mỹ không bảo hộ (như đề cập ở phần Đối tượng được bảo hộ).

Việc đăng ký được thực hiện khi người xin đăng ký nộp phí và tuân thủ

các quy định cụ thể của Văn phòng Sáng chế và Thương hiệu Hoa Kỳ (United

States Patent & Trademark Office - USPTO). Sau khi người xin đăng ký nộp

đơn đăng ký theo quy trình thủ tục bổ sung và nộp phí, Giám đốc USPTO sẽ

giao trách nhiệm cho xét nghiệm viên phụ trách vấn đề đăng ký nhãn hiệu.

Xét nghiệm viên sẽ xem xét, nghiên cứu và đưa ra quyết định nhãn hiệu hàng hoá đó

có được cấp Giấy chứng nhận hay không.

1.1 Nộp đơn đăng ký và thẩm tra đơn đăng ký

Khi nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá phải lưu ý những điểm như

sau:

1.1.1 Cơ sở nộp đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá10

Đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá chỉ được xem xét nếu thoả mãn

một trong các điều kiện sau:

 Nhãn hiệu đã sử dụng tại Mỹ (use in commerce)

 Nhãn hiệu có ý định sử dụng tại Mỹ (intend to use)

 Nhãn hiệu đã nộp đơn đăng ký tại một nước khác là thành viên của

Công ước Paris hoặc của Hiệp ước nhãn hiệu hàng hoá mà Mỹ công nhận.

1.1.2 Nội dung của đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá11

Nội dung đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ít nhất phải chứa đựng các

thông tin như: chỉ dẫn tên, địa chỉ cư trú, quốc tịch và chữ ký của người nộp

đơn; loại hình công ty và nơi thành lập công ty; danh mục hàng hoá, dịch vụ

10 Theo: “Basis for filing”, Basic facts about trademarks, USPTO 11 Theo: “ What must the application include?”, Basic facts about trademarks, USPTO

52

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ mà người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu cho hàng hoá, dịch vụ đó (được phân

loại theo Bảng phân loại quốc tế); mẫu hình vẽ nhãn hiệu.

Đối với nhãn hiệu đã được sử dụng, đơn đăng ký phải ghi rõ ngày và nơi

sử dụng đầu tiên (ở bất kể nơi nào trên thế giới), ngày sử dụng đầu tiên tại

Mỹ; cách thức sử dụng của nhãn hiệu (chẳng hạn như được gắn trên nhãn của

hàng hoá hay trên các vật phẩm quảng cáo đối với dịch vụ).

Đối với nhãn hiệu có ý định sử dụng, người nộp đơn còn phải có Bản

tuyên bố sử dụng (Statement of Use hay Allegation of Use).

Ngoài ra, người nộp đơn sẽ phải gửi kèm một bản xác minh, trong đó

xác nhận rằng: người nộp đơn có đủ năng lực và điều kiện trở thành chủ sở

hữu của nhãn hiệu hàng hoá được nộp đơn đăng ký, mọi chi tiết nêu ra trong

đơn đăng ký nhãn hiệu đều có thực và chính xác; người nộp đơn phải đưa ra

những cơ sở qua đó khẳng định không ai có quyền sử dụng nhãn hiệu đó vì

mục đích thương mại dưới dạng thức giống hoàn toàn hoặc gần giống với

nhãn hiệu đó nhằm gây nhầm lẫn lừa dối. Trong trường hợp nhiều người cùng

sử dụng nhãn hiệu đó thì người nộp đơn phải đưa ra những ngoại lệ đối với

độc quyền sử dụng nhãn hiệu của mình và phải nêu cụ thể các trường hợp sử

dụng trùng nhãn hiệu, hàng hoá và thị trường ở đó việc sử dụng trùng nhãn

hiệu diễn ra.

Chi phí thụ lý hồ sơ đăng ký là 335 USD đối với một nhóm hàng hoá

dịch vụ. Chi phí này sẽ được hoàn trả cho người nộp đơn nếu đơn đăng ký

nhãn hiệu hàng hoá không đáp ứng đủ một trong các thành phần nêu trên.

1.1.3 Người có quyền nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá12

Người có quyền nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hóa là bất kỳ người

nào là chủ sở hữu thực sự của nhãn hiệu đã được sử dụng trong thương mại

12 Theo: “ Name of the applicant”, Basic facts about trademarks, USPTO

53

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ hoặc là người có ý định sử dụng nhãn hiệu đó trong thương mại với điều kiện

người đó phải đáp ứng đủ yêu cầu đã nêu trong nội dung của bản xác minh.

Người nộp đơn cũng có thể là người đại diện của chủ sở hữu thực sự của

nhãn hiệu cần đăng ký.

1.2 Chỉ định người đại diện13

Người chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá có thể tự mình nộp đơn tại Văn

phòng sáng chế và thương hiệu Mỹ. Tuy nhiên, nếu người chủ sở hữu nhãn

hiệu hàng hoá không cư trú tại Mỹ thì phải chỉ định một người đại diện có cư

trú tại Mỹ (domestic representative) để tiến hành nộp đơn và các thủ tục khác

có liên quan. Khi đó, tên và địa chỉ của người nộp đơn phải được ghi là của

người đại diện và Văn phòng chỉ có nghĩa vụ liên lạc với người đại diện đó và

không có nghĩa vụ phải giới thiệu người đại diện cho chủ sở hữu nhãn hiệu

hàng hoá.

1.3 Xét nghiệm đơn đăng ký và công bố kết quả xét nghiệm14

Khi nhận được đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, Văn phòng sáng chế và

thương hiệu sẽ kiểm tra các tài liệu trong danh mục đã ghi trong tờ khai, đánh

dấu xác nhận ngày đơn đến, ghi nhận những sai khác giữa danh mục tài liệu

ghi trong tờ khai và số liệu thực có trong đơn.

Văn phòng sẽ không tiếp nhận đơn nếu đơn nhãn hiệu có một trong các

thiếu sót sau:

 Đơn thiếu một trong các tài liệu bắt buộc phải có. Tài liệu bắt buộc

gồm đơn và bản xác minh cùng các chứng từ pháp lý chứng minh cho các sự

kiện nêu trong bản xác minh.

13 Theo: “ Must I hire an attorney?”, Basic facts about trademarks, USPTO 14 Theo: “What does the USPTO do?”, Basic facts about trademarks, USPTO

54

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

 Loại Giấy chứng nhận yêu cầu được cấp không phù hợp với nhãn

hiệu hàng hoá được nêu trong đơn.

 Đơn không có chữ ký và (hoặc) bị tẩy xoá, sửa chữa nghiêm trọng.

Nếu đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá đã được coi là hợp lệ, Văn phòng

sáng chế và thương hiệu sẽ tiến hành xét nghiệm đơn. Việc xét nghiệm đơn

của Mỹ được tiến hành theo một trong hai loại quy trình thủ tục, đó là quy

trình thủ tục chính thức và quy trình thủ tục bổ sung.Trong mỗi loại quy trình

thủ tục của Mỹ, đơn đều được xét nghiệm căn cứ vào hai tiêu chí là hình thức

và nội dung. Hai tiêu chí này sẽ được xét đồng thời với nhau.

Ngay khi người nộp đơn nộp phí đăng ký thì Giám đốc USPTO sẽ phân

công xét nghiệm viên chịu trách nhiệm về quy trình xem xét, cấp văn bản bảo

hộ cho nhãn hiệu hàng hoá đó. Xét ngiệm viên sẽ tiến hành kiểm tra nội dung,

hình thức của đơn và ra quy định xem người nộp đơn có đáp ứng đủ các yêu

cầu không.

Đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá sẽ được xét nghiệm trong vòng sáu

tháng kể từ ngày nộp đơn. Một trong những căn cứ quan trọng là hồ sơ lưu trữ

những đơn đăng ký và Giấy chứng nhận theo luật Liên bang đang có hiệu lực.

Nếu nhãn hiệu hàng hoá trùng với nhãn hiệu hàng hoá của một đơn đăng ký

hay một Giấy chứng nhận trước thì đơn đăng ký sẽ bị từ chối. Ngoài ra xét

nghiệm viên còn dựa vào nhiều căn cứ khác để xét nghiệm đơn.

Nếu không có bất kỳ sửa đổi, bổ sung hay phản đối nào đưa ra trong thời

hạn xét nghiệm, đơn sẽ được chuyển sang công bố trên Công báo sở hữu công

nghiệp để bất kỳ bên thứ ba nào có quyền và lợi ích liên quan có thể phản đối

việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Thông thường, sau 3-4 tháng kể từ khi được

duyệt, đơn sẽ được công bố trên Công báo.

Trong trường hợp đơn không được tiếp nhận, xét nghiệm viên có nhiệm

vụ thông báo bằng văn bản cho người nộp đơn đồng thời nêu rõ lý do. Đối với

55

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ những vấn đề nhỏ, chủ đơn đăng ký có thể trực tiếp liên lạc qua điện thoại để

sửa đổi. Khi thông báo từ chối đơn được gửi đến chủ đơn, chủ đơn có sáu

tháng để sửa đổi bổ sung theo đúng yêu cầu. Nếu sau sáu tháng, chủ đơn

không trả lời, đơn đăng ký sẽ tự động bị huỷ bỏ.

Nếu chủ đăng ký sửa đổi lại đơn theo đúng yêu cầu của xét nghiệm viên

đúng thời hạn, xét nghiệm viên sẽ cho phép đơn đăng ký được công bố trên

Công báo chính thức của USPTO.

Nếu vẫn còn vấn đề tồn tại hoặc xét nghiệm viên chưa hài lòng với khắc

phục chủ đơn đăng ký đưa ra, xét nghiệm viên sẽ đưa ra thông báo cuối cùng.

Tương tự như trên, chủ đơn có tiếp sáu tháng kể từ ngày thông báo cuối cùng

được đưa ra để hoặc sửa đổi bổ sung hoặc kiện lên Uỷ ban xét xử và khiếu nại

thương hiệu về thông báo của xét nghiệm viên. Trong thời hạn sáu tháng này,

nếu chủ đơn không trả lời, đơn cũng sẽ tự động bị huỷ bỏ. Phí đăng ký sẽ

không được hoàn trả trong trường hợp đơn bị huỷ bỏ.

Sau khi công bố trên Công báo, nếu không có phản đối, nhãn hiệu nộp

đơn trên cơ sở đã sử dụng hoặc đã đăng ký tại một nước khác sẽ được cấp

Giấy chứng nhận. Những đơn nộp trên cơ sở đã nộp tại một nước khác sẽ

được cấp văn bằng khi và chỉ khi đơn đó đã được cấp Giấy chứng nhận tại

nước nộp đơn cơ sở. Nếu nộp đơn trên cơ sở dự định sử dụng tại Mỹ, Văn

phòng sáng chế và thương hiệu Mỹ sẽ ra thông báo về việc chấp nhận đơn.

Người nộp đơn theo đó sẽ có thời hạn tối đa là ba năm để nộp bằng chứng sử

dụng nhãn hiệu tại Mỹ. Khi bằng chứng sử dụng nhãn hiệu tại Mỹ được nộp

và được cơ quan đăng ký chấp thuận trong thời hạn nộp đăng ký, nhãn hiệu

đó sẽ được cấp Giấy chứng nhận. Như vậy thời gian đăng ký nhãn hiệu hàng

hoá tại Mỹ kể từ khi nộp đơn đến cấp văn bằng phụ thuộc vào cơ sở nộp đơn

và xét nghiệm đơn.

56

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Sau khi được đăng ký, nhãn hiệu được công bố công khai, mọi doanh

nghiệp khác được coi như phải biết đã tồn tại nhãn hiệu này, vì thế không thể

viện dẫn lý do không biết để biện bạch cho những vi phạm của mình.

1.4 Thể thức khiếu nại

Trong trường hợp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá bị từ chối đăng ký

hoặc từ chối chấp nhận đơn, người nộp đơn có quyền nộp đơn khiếu nại lên

Uỷ ban Xét xử và Khiếu nại thương hiệu (Trademark Trial and Appeal Board

- TTAB). Khi đó người nộp đơn không có quyền khuyến nghị lên Giám đốc

USPTO (việc khuyến nghị lên Giám đốc chỉ được thực hiện khi có các vấn đề

nảy sinh liên quan tới quy trình thủ tục của các điều khoản mang tính chuyên

môn quy định trong Đạo luật về nhãn hiệu hàng hoá (Trademark Act) hoặc

Quy tắc thực hành nhãn hiệu hàng hoá (Trademark Rules of Practice).

Hình thức khiếu nại: Việc khiếu nại sẽ phải làm bằng văn bản gọi là đơn

khiếu nại. Nội dung đơn khiếu nại ghi rõ:

 Họ tên, địa chỉ người khiếu nại.

 Số ngày ký quyết định cuối cùng của xét nghiệm viên hoặc thông báo

từ chối đơn.

 Số đơn nhãn hiệu yêu cầu cấp Giấy chứng nhận

 Tên danh mục hàng hoá mang nhãn hiệu đó.

 Nội dung khiếu nại, lý lẽ dẫn chứng cho việc khiếu nại

 Đề nghị cụ thể của người khiếu nại

Khi nộp đơn, người khiếu nại sẽ phải nộp phí (trung bình là 400 USD).

Việc nộp đơn và phí phải thực hiện trong vòng sáu tháng từ ngày có quyết

định từ chối của xét nghiệm viên. Nếu quá thời hạn trên, đơn nhãn hiệu sẽ bị

huỷ bỏ.

Ngoài ra, người nộp đơn còn phải lập bộ hồ sơ khiếu nại gồm đơn đăng

ký thương hiệu, các chứng từ có liên quan chứng minh cho lý lẽ đã nêu trong

57

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ đơn khiếu nại. Hồ sơ khiếu nại phải được lập trong vòng sáu mươi ngày kể từ

ngày phát sinh khiếu nại. Nếu quá thời hạn trên TTAB sẽ từ chối đơn khiếu

nại

Thủ tục khiếu nại: Đơn khiếu nại và hồ sơ khiếu nại được gửi cho phòng

nhân sự của USPTO và phòng nhân sự sẽ chuyển lên TTAB.

Sau khi nhận được hồ sơ khiếu nại, TTAB sẽ gửi hồ sơ cho xét nghiệm

viên. Sau sáu mươi ngày nhận được hồ sơ của người khiếu nại, xét nghiệm

viên phải lập hồ sơ trả lời về quyết định của mình với TTAB và gửi một bản

copy cho người khiếu nại. Hồ sơ trả lời khiếu nại của xét nghiệm viên được

gửi kèm với hồ sơ của người khiếu nại mà xét nghiệm viên được TTAB gửi,

cả hai bộ hồ sơ này đều được gửi lại cho TTAB.

Hồ sơ trả lời của xét nghiệm viên phải chính xác, nêu ra được các lý do

chính đáng cho quyết định từ chối đơn nhãn hiệu, yêu cầu của xét nghiệm

viên đối với người nộp đơn và các bằng chứng ủng hộ cho quyết định đó.

Trong trường hợp người nộp đơn đưa ra bằng chứng mới cho việc khiếu

nại của mình trong bộ hồ sơ khiếu nại thì xét nghiệm viên sẽ từ chối, không

công nhận bằng chứng đó bởi vì hồ sơ phải được hoàn tất trước khi đi khiếu

nại. Trong trưòng hợp này, xét nghiệm viên phải nhanh chóng phản đối các

bằng chứng mới vào bộ hồ sơ khiếu nại, nếu không TTAB sẽ coi như không

phản đối.

Trong quá trình lập hồ sơ trả lời, nếu xét nghiệm viên thấy việc xem xét

lại quyết định của mình là cần thiết thì xét nghiệm viên sẽ trình yêu cầu xem

xét lại vụ việc thay vì lập hồ sơ trả lời. Nếu TTAB đồng ý với yêu cầu của xét

nghiệm viên, TTAB sẽ ấn định lại thời hạn nộp hồ sơ trả lời của xét nghiệm

viên.

58

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Tuy nhiên yêu cầu khôi phục lại thẩm quyền xem xét lại quyết định

nhằm đưa ra các chứng cứ mới phải có lý do chính đáng và có các bằng

chứng kèm theo các chứng cứ mới được đưa ra.

Sau khi xét nghiệm viên gửi hồ sở trả lời tới TTAB, người nộp đơn có

quyền bày tỏ ý kiến của mình với hồ sơ trả lời. Ý kiến của người nộp đơn

phải được đưa ra trong vòng 20 ngày kể từ ngày hồ sơ trả lời của xét nghiệm

viên được gửi đến. Người nộp đơn nên gửi hai bản trình bày ý kiến, một cho

TTAB, một cho xét nghiệm viên.

Sau khi nghiên cứu văn bản trình bày ý kiến của người nộp đơn, xét

nghiệm viên có thể trả lời miệng những vấn đề đưa ra hay bằng văn bản trình

bày ý kiến của người nộp đơn.

Nếu sau khi xem xét hồ sơ khiếu nại và văn bản trình bày ý kiến của

người nộp đơn, xét nghiệm viên thấy quyết định từ chối chấp nhận đơn hoặc

từ chối cấp Giấy chứng nhận của mình là thiếu cơ sở thì xét nghiệm viên có

thể rút lại quyết định từ chối và đưa ra quyết định thông qua đơn nhãn hiệu để

công bố trên báo của USPTO. Việc xét lại phải được thông báo cho TTAB và

người nộp đơn, bất kỳ lúc nào trước khi TTAB ra quyết định và xử lý khiếu

2. Đăng ký nhãn hiệu hàng hoá qua Internet vào thị trường Hoa Kỳ

nại.

2.1 Quy trình đăng ký nhãn hiệu hàng hoá qua Internet

Nhu cầu đăng ký thương hiệu tại Mỹ ngày càng trở nên cấp thiết, nhất là

khi hàng loạt nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam bị “chiếm

dụng” và đăng ký trước tại thị trường này. Một giải pháp khả thi là đăng ký

thương hiệu sản phẩm qua Intetnet tại địa chỉ www.uspto.gov. Tuy khá mới

mẻ, nhưng trong thời kỳ tới, đây sẽ là một phương pháp rất hiệu quả giúp các

doanh nghiệp trong nước vươn tới thị trường Hoa Kỳ.

59

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Địa chỉ www.uspto.gov. là trang web của Văn phòng sáng chế và

thương hiệu Hoa Kỳ (UPSTO), cho phép các doanh nghiệp trên thế giới đăng

ký nhãn hiệu sản phẩm tại thị trường Hoa Kỳ. Trong trang web này có Hệ

thống đăng ký thương hiệu điện tử e-TEAS (Trademark Electronic

Application System) chuyên cho quá trình đăng ký nhãn hiệu qua mạng.

Giai đoạn chuẩn bị

Để đăng ký nhãn hiệu hàng hoá qua mạng, điều đầu tiên doanh nghiệp

cần là trình độ ngoại ngữ. Mọi thủ tục và phương thức đăng ký đều khá phức

tạp. Nếu không thạo ngoại ngữ, doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiếu khó khăn. Thứ

hai, doanh nghiệp cần phải có một tài khoản tín dụng quốc tế để thanh toán

chi phí thực hiện thủ tục đăng ký. Số tiền cần thiết trong tài khoản có thể lên

tới 2 đến 3 ngàn USD.

Giai đoạn bắt đầu

Bước một, cần phải xác định nhãn hiệu muốn đăng ký, có chữ và biểu

tượng của nhãn hiệu sản phẩm. Màu sắc của nhãn hiệu rất quan trọng vì đây

là một trong những đặc điểm chính của thương hiệu. Bước thứ hai, cần kiểm

tra xem nhãn hiệu mình muốn đăng ký đã có chưa và có nhãn hiệu nào tương

tự không. e-TEAS sẽ cung cấp một Hệ thống tìm kiếm TESS (Trademark

Electronic Search System), cho phép tra cứu tất cả các thương hiệu từng

đăng ký tại Mỹ, cũng như tình trạng hiệu lực của mỗi thương hiệu. Tại hệ

thống này, bất cứ ai cũng có thể tìm hiểu về từng nhãn hiệu hàng hoá đã và

đang đăng ký, chủ sở hữu và các thông tin liên quan khác. Các doanh nghiệp

có tiếng tại Việt Nam rất nên kiểm tra qua hệ thống này xem nhãn hiệu của

mình đã bị trở thành của kẻ khác hay chưa? Chẳng hạn, khi thử tra nhãn hiệu

Phở Hoà, có tới 4-5 nhãn hiệu đã đăng ký, trong đó có cả một hàng phở của

người Việt tại Mỹ. Nhưng khi gặp trực tiếp chủ Phở Hoà chính hiệu tại TP.

60

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ HCM, chủ quán cho biết chưa từng nghĩ đến việc đăng ký tại Mỹ vì ngay tại

thành phố cũng không ít Phở Hoà rồi.

Giai đoạn nước rút

USPTO chấp nhận các loại thẻ tín dụng VISA, MasterCard,

Discover, và American Express. Do đó, để có thể trả tiền, doanh nghiệp

cần phải có một trong các tài khoản tín dụng này. Một thương hiệu có thể có

nhiều sản phẩm hoặc dịch vụ, và mỗi sản phẩm và dịch vụ này có mức phí thụ

lý hồ sơ là 335 USD. Đây là chi phí xử lý hồ sơ đăng ký và không được hoàn

lại nếu việc đăng ký không được chấp thuận.

Để chuẩn bị nội dung đăng ký, doanh nghiệp cần xác định tên thương

hiệu, loại hàng hoá (dịch vụ) và biểu tượng thương hiệu. Các biểu tượng phải

để ở định dạng ảnh JPG và được gửi kèm trong mẫu đăng ký. Sau khi nhập

các thông tin vào mẫu đăng ký, bao gồm cả tên và biểu tượng của thương

hiệu, người đăng ký sẽ phải trả khoản chi phí 335 USD trên.

Một mẫu đăng ký thương hiệu hợp lệ phải có ít nhất các thành phần sau:

 Tên của người xin đăng ký.

 Tên và địa chỉ liên hệ (gồm cả email, số điện thoại).

 Một bức ảnh mẫu của nhãn hiệu cần đăng ký.

 Cước phí thụ lý hồ sơ đăng ký của ít nhất một sản phẩm, dịch vụ.

Nếu không đáp ứng đủ một trong những thành phần trên, UPSTO sẽ trả

lại hồ sơ (nếu đăng ký qua đường bưu điện) và trả lại phí thụ lý hồ sơ. Sau khi

gửi hồ sơ đăng ký và thanh toán phí thụ lý, trong vòng 24 giờ, USPTO sẽ gửi

mail xác nhận, thông báo hồ sơ đăng ký và tên thương hiệu có hợp lệ không.

Nếu hợp lệ, người đăng ký sẽ nhận được một số đăng ký và ngày nhận hồ sơ.

Người đăng ký cần xem lại các thông tin của mình và xác nhận trở lại với

USPTO. Khi hồ sơ đăng ký đã thoả mãn các yêu cầu tối thiểu và nhận được

một ngày nộp hồ sơ, phí thụ lý hồ sơ sẽ không trả lại cho người đăng ký.

61

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Giai đoạn tự kiểm tra

Khi hồ sơ được nhận, thời gian chờ đăng ký (pending) bắt đầu được tính.

Người đăng ký có thể vào mục Check trademark status (TARR) để theo dõi

xem hồ sơ của mình đã được xử lý đến đâu. Tuy nhiên, USPTO yêu cầu

những người mới đăng ký nên chờ sau 25 ngày mới kiểm tra hồ sơ của mình.

Đây là thời gian để các thông tin về hồ sơ được cập nhật vào cơ sở dữ liệu của

USPTO. Khi nhãn hiệu đã có trong cơ sở dữ liệu, (bất kể đang chờ đăng ký hay đã được đăng ký), người chủ nhãn hiệu đã có quyền in ký hiệu TM (Trademark) hoặc SM (Servicemark) vào tên sản phẩm, dịch vụ của mình. Tuy

nhiên chỉ những thương hiệu (nhãn hiệu đã được đăng ký) mới được sử dụng ký hiệu 

cùng với sản phẩm.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là nhãn hiệu đã được đăng ký. Hồ

sơ sẽ được thẩm tra để thụ lý. USPTO sẽ kiểm tra xem thương hiệu đó có

trùng hoặc vi phạm với các thương hiệu đã được đăng ký hay không. Trong

quá trình này, hồ sơ có thể bị thẩm tra loại bỏ do không hợp lệ trong quá trình

thẩm định.

Sau khi hồ sơ được chuyển đến luật sư thẩm tra, quá trình thẩm tra sẽ

kéo dài trong nhiều tháng, trung bình khoảng một năm. Trong thời gian này,

nếu luật sư thẩm tra quyết định rằng nhãn hiệu không thể đăng ký, người này

sẽ phải trả lời các lý do vì sao hồ sơ đăng ký bị từ chối. Nếu có sửa đổi nhỏ

nào cần thực hiện trong hồ sơ, luật sư thẩm tra sẽ liên hệ với người đăng ký

qua điện thoại hoặc email. Trong vòng 6 tháng, nếu người đăng ký không trả

lời luật sư, hồ sơ và nhãn hiệu sẽ bị huỷ bỏ.

Trong thời gian thẩm tra hồ sơ, USPTO sẽ gửi một Thông báo công bố

nhãn hiệu (Notice of publication) đến người đăng ký và bắt đầu thời hạn

công bố. Trong vòng 30 ngày kể từ ngày công bố rộng rãi, bất kỳ một thành

phần kinh tế nào thấy có thể bị ảnh hưởng quyền lợi vì nhãn hiệu này có

62

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ quyền phản đối đăng ký hoặc kéo dài thời gian phản đối có hiệu lực. Nếu

không có phản đối nào hoặc phản đối thất bại, hồ sơ đăng ký sẽ được chuyển

sang quá trình đăng ký tiếp theo. Nếu sản phẩm của thương hiệu đã có trên thị

trường, một Chứng nhận đăng ký thương hiệu (Certificate of

Registration) sẽ được cấp cho người đăng ký sau 12 tuần kể từ ngày có

Thông báo công bố nhãn hiệu. Nếu chưa có sản phẩm để sử dụng thương

hiệu này, người đăng ký sẽ nhận được Thông báo công nhận thương hiệu

cũng sau 12 tuần. Trong vòng 3 năm, nếu không có sản phẩm để sử dụng

thương hiệu, USPTO sẽ huỷ bỏ thương hiệu này.

Trên đây chỉ là sơ bộ quá trình đăng ký thương hiệu qua Internet, trong

quá trình khai hồ sơ và đăng ký còn rất nhiều khái niệm cần phải xác định.

Chính vì thế các nhãn hiệu thường cần phải thuê luật sư Mỹ để đăng ký,

chẳng hạn như nhãn hiệu cà phê Trung Nguyên của Việt Nam. Tuy nhiên, các

doanh nghiệp hoàn toàn có thể đăng ký qua Internet mà không cần đến luật

sư. Vấn đề là ở chỗ hiểu biết về luật pháp Mỹ của doanh nghiệp Việt Nam

vẫn chưa nhiều. Hơn nữa, việc thanh toán qua mạng dường như không được

đảm bảo lắm, khi mà hình thức này còn khá mới mẻ ở Việt Nam.

2.2 Một số điểm cần lưu ý15

2.2.1 Yêu cầu đối với thời gian điền vào mẫu đăng ký

Thời gian điền vào mẫu đăng ký tối đa là 60 phút. Thời gian bắt đầu tính

khi người đăng ký nhãn hiệu hàng hoá điền bất kỳ một ký tự đầu tiên nào vào

mẫu đăng ký. Nếu quá 60 phút, đăng ký đó sẽ không được coi là hợp lệ và

người đăng ký sẽ phải điền lại từ đầu. Chính vì thế, các doanh nghiệp cần

tham khảo mẫu đăng ký để có những thông tin cần thiết trước khi tiến hành

điền vào mẫu đăng ký.

15 Theo: “e-TEAS Tech Info”, e-TEAS Important Notice, USPTO

63

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

2.2.2 Phí đăng ký nhãn hiệu hàng hoá

Mặc dù mỗi đơn chỉ được đăng ký cho một mẫu nhãn hiệu nhưng nhãn

hiệu đó có thể dùng cho nhiều loại hàng hoá dịch vụ. Phí đăng ký cho mỗi

loại hàng hoá dịch vụ là 335 USD. Ngoài ra, riêng đối với hàng hoá có ý định

sử dụng, khi người xin đăng ký gửi Bản tuyên bố sử dụng (Allegation of Use)

phải nộp thêm 100 USD đối với mỗi loại hàng hoá dịch vụ.

Ngay sau khi nộp đơn đăng ký, nếu đơn đăng ký đó không đáp ứng đủ

các yêu cầu, USPTO sẽ trả lại ngay đơn đăng ký kèm theo khoản phí. Tuy

nhiên, nếu đơn đăng ký thoả mãn các yêu cầu chủ yếu và bắt đầu được thẩm

định, số tiền đó sẽ không được hoàn trả lại ngay cả khi đơn đăng ký không

được chấp nhận.

2.2.3 Yêu cầu đối với mẫu ảnh gửi kèm

Đối với mẫu ảnh gửi kèm, USPTO có các yêu cầu sau:

 Định dạng ảnh: JPG hoặc GIF. Tuy nhiên, ảnh động ở dạng GIF

không được chấp nhận.

 Kích thước của mẫu nhãn hiệu không được lớn hơn 81/2x11 inch (~

21.59x27.94 cm).

 Dung lượng của mẫu nhãn hiệu không được quá 2 megabytes.  Mẫu nhãn hiệu không được chứa các ký tự như TM, SM, đ

2.2.4 Yêu cầu đối với chữ ký

Trong đơn đăng ký điện tử, người đăng ký không cần phải có chữ ký như

thông thường. Người đăng ký có thể lấy bất kỳ một ký tự nào hoặc sự kết hợp

của các ký tự, con số hay thậm chí là các dấu câu để thay cho chữ ký của

mình. Điều quan trọng là các ký tự này phải được đặt giữa hai dấu gạch chéo

“/”. Chẳng hạn, những chữ ký sau đây được coi là hợp lệ: /john doe/, /huy

nguyen/, /544-4925/...

64

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 2.2.5 Yêu cầu đối với thời gian tiến hành lệnh thanh toán

Hệ thống đăng ký điện tử có thể được truy cập 24/24 giờ vào tất cả các

ngày trong tuần, cho phép các doanh nghiệp có thể đăng ký nhãn hiệu hàng

hoá ngay cả khi không phải là giờ làm việc chính thức của Văn phòng sáng

chế và thương hiệu Hoa Kỳ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần lưu ý rằng hệ

thống đăng ký điện tử này lại không cho phép thực hiện lệnh thanh toán từ 12

giờ sáng đến 4 giờ sáng các ngày Chủ nhật (thời gian được tính theo giờ của

miền đông nước Mỹ).

Như vậy, mặc dù trình tự đăng ký nhãn hiệu hàng hoá qua Internet được

hướng dẫn một cách rất cụ thể, tường tận trong trang web của Văn phòng

sáng chế và thương hiệu Hoa Kỳ nhưng các doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp

rất nhiều khó khăn khiến cho số đăng ký nhãn hiệu hàng hoá bằng con đường

này còn quá khiêm tốn và hiệu quả chưa cao.

65

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

 CHƯƠNG III 

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO HỘ

NHÃN HIỆU HÀNG VIỆT NAM TẠI THỊ TRƯỜNG HOA KỲ

I. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP

VIỆT NAM KHI TIẾN HÀNH ĐĂNG KÝ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ

TẠI HOA KỲ

Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết ngày 13/07/2000 và chính

thức có hiệu lực vào ngày 10/01/2001 đã đánh dấu một bước phát triển mới

trong quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước. Hiệp định thương mại Việt -

Mỹ có hiệu lực ngay lập tức đã đem lại điều kiện cạnh tranh công bằng cho

hàng hoá Việt Nam trên đất Mỹ. Điều này đã được thể hiện rõ ngay trong

Điều 3 của Chương II “Mỗi Bên dành cho công dân của Bên kia sự đối xử

không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Bên đó dành cho công dân của mình

trong việc xác lập, bảo hộ, hưởng và thực thi tất cả các quyền sở hữu trí tuệ và

mọi lợi ích có được từ các quyền đó”. Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam

hoàn toàn có thể được hưởng quyền và nghĩa vụ bình đẳng như các doanh

nghiệp Mỹ khi đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường này.

Ngoài ra, với trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển như hiện

nay, các doanh nghiệp Việt Nam có thể tiến hành đăng ký nhãn hiệu hàng hoá

qua Internet. Tuy hình thức đăng ký này chưa được phổ biến song đây là một

66

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ hình thức có thể giúp doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và chi phí liên

lạc. Điều cần thiết là doanh nghiệp phải tìm được đại diện cho mình tại Mỹ để

nắm bắt thông tin dễ dàng hơn. Khi đó, mọi liên lạc giữa doanh nghiệp với

người đại diện tại Mỹ và giữa người đại diện với Văn phòng sáng chế và

thương hiệu Mỹ đều diễn ra dưới hình thức thư điện tử (email). Do vậy,

doanh nghiệp có thể có được những thông tin chính xác và có thể sửa đổi một

cách kịp thời bản đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trong trường hợp bản đăng ký

đó không hợp lệ.

Mặc dù có những thuận lợi nhất định khi đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại

Mỹ, song trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam còn gặp rất nhiều rào cản.

Trong thời gian vừa qua, chúng ta đã chứng kiến nhiều vụ tranh chấp thương

hiệu diễn ra trên thị trường Mỹ như vụ tranh chấp thương hiệu Catfish, Trung

Nguyên, Petro Vietnam, Vifon, Vinataba. Vinatea,... Sau đây chúng ta sẽ xem

xét hai vụ tranh chấp thương hiệu lớn, gây ra sự hoang mang lo ngại cho giới

kinh doanh và cũng là bài học đắt giá cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt

1. Thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam bị mất thương hiệu trên thị trường Hoa Kỳ

Nam.

1.1 Cuộc chiến thương hiệu cá da trơn Catfish

Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá basa, cá tra (là hai loại cá da trơn) sang

Mỹ từ năm 1997 và dần dần thâm nhập và tạo được chỗ đứng trên thị trường

nhờ chất lượng tốt, giá rẻ hơn cá da trơn nội địa của Mỹ. Trong hai năm 1999-

2000, lượng cá tra, cá basa Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ tăng khá nhanh

(chiếm từ 2% đến 3% tổng sản lượng cá da trơn tiêu thụ ở thị trường này). Đó

là lý do làm cho các nhà nuôi cá nheo Mỹ lo ngại. Vì vậy, ngay từ cuối năm

2000, thông qua báo chí, Mỹ bắt đầu cố tình đưa những thông tin sai lệch để

bôi xấu cá tra, cá basa Việt Nam. Một trong những nội dung nguy hiểm được

Hiệp hội các chủ trại cá nheo Mỹ (CFA) hoạch định trong chiến dịch của họ là

67

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ tiến hành vận động gây áp lực, lôi kéo nghị sỹ của các bang có nghề nuôi cá

nheo, huy động mọi lực lượng các cơ quan lập pháp và hành pháp tạo ra sự hỗ

trợ để tấn công các sản phẩm cá da trơn của Việt Nam nhập khẩu. Một trong

các luận điểm mà các chủ trại cá nheo Mỹ đưa ra là, sản phẩm cá da trơn Việt

Nam do cũng được gọi là Catfish nên đã tạo sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng

Mỹ và như vậy vô hình chung đã làm lợi theo uy tín của cá nheo Mỹ.

Với những lập luận đưa ra, đầu tháng 2/2001, họ bắt đầu một chiến dịch

quảng cáo kéo dài 9 tháng, tiêu tốn 5,2 triệu USD do Viện cá nheo Mỹ (TCI)

phát động và được CFA tài trợ để chống lại việc nhập khẩu cá tra và cá basa Việt Nam.

Về phía mình, các doanh nghiệp Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc

quyết định số 178/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và các Quyết định

của Bộ thuỷ sản, Bộ Thương mại về việc ghi nhãn mác hàng hoá. Trên tất cả

các bao bì của sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu đều ghi rõ dòng chữ “Product of

Vietnam” (Sản phẩm của Việt Nam) hay “Made in Vietnam” (Sản xuất tại

Việt Nam) và thực hiện việc ghi đầy đủ cả tên khoa học lẫn tên thương mại

theo đúng quy định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền của Mỹ là

Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đối với các sản phẩm xuất

khẩu vào thị trường Mỹ.

Việc Mỹ ban hành các đạo luật cản trở việc nhập khẩu Catfish của các

nước trong đó có Việt Nam đã dựng lên một rào cản thương mại, trái với tinh

thần Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, ảnh hưởng xấu đến việc làm và đời

sống của hàng vạn gia đình khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

Việt Nam hoàn toàn có thể khiếu nại lên toà án có thẩm quyền của Mỹ,

Uỷ ban thương mại Mỹ (ITC) hoặc Đại diện thương mại Mỹ (USTR) để đòi

lại những quyền lợi mình được hưởng căn cứ vào điều 2.6B Chương 1,

Thương mại hàng hoá tại Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, theo đó “các Bên

đảm bảo không ban hành hoặc áp dụng những quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật

68

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ nhằm tạo ra sự trở ngại đối với thương mại quốc tế hoặc bảo vệ sản xuất trong

nước”.

Tuy nhiên, một điểm khá thú vị trong vụ việc này là những tranh cãi đã

làm cho cá basa của Việt Nam trở nên nổi tiếng. Nhờ đó, ngày càng có nhiều

người Mỹ biết đến cá basa Việt Nam và tiêu dùng loại cá này. Từ tháng

9/2001, Việt Nam không còn dùng thương hiệu Catfish cho cá da trơn khi bán

vào thị trường Mỹ, mà dùng tên gọi cá basa và cá tra. Câu lạc bộ doanh

nghiệp cá tra và cá basa đã chính thức nhờ White & Case - một công ty có

tiếng của Mỹ - xúc tiến thủ tục đăng ký bảo hộ thương hiệu cá tra và cá basa ở

thị truờng này.

Có thể dễ dàng nhận thấy rằng hành động của phía Mỹ rất vô lý, mang

tính bảo hộ mậu dịch không công bằng, trái với luận cứ khoa học cũng như

trái với thông lệ quốc tế và chính sách tự do thương mại mà chính Mỹ đang

theo đuổi. Song câu hỏi đặt ra là: Liệu cuộc chiến nhãn mác này có xảy ra

không, nếu cá basa Việt Nam đã xây dựng và đăng ký bảo hộ một thương hiệu

cho mình và tìm cách chiếm lĩnh thị trường bằng thương hiệu đó?.

1.2 Vụ tranh chấp thương hiệu cà phê Trung Nguyên

Được thành lập năm 1996, cà phê Trung Nguyên lúc khởi đầu cũng chỉ ở

quy mô nhỏ. Tuy vậy, với quán cà phê trên đường Nguyễn Kiệm (quận Phú

Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh) vào năm 1987, cà phê đã gây ấn tượng

mạnh với cư dân đô thị vốn nghiền cà phê này. Với 9 loại cà phê do Trung

Nguyên sản xuất và được pha chế theo cách riêng đã nhanh chóng giúp doanh

nghiệp mở rộng hệ thống đại lý lên gần 400 quán cà phê trong nước, theo

hình thức chuyển nhượng quyền kinh doanh thương hiệu. Hình thức nhượng

quyền này cũng được phát triển ra nước ngoài. Cà phê Trung Nguyên đã xuất

hiện tại Singapore, Nhật, Hồng Kông, Trung Quốc, Australia...

69

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Tuy nhiên, do không quan tâm đầy đủ đến việc đăng ký bảo hộ thương

hiệu, nhãn hiệu Trung Nguyên đã phải gánh chịu hậu quả khá nặng nề trong

việc mở rộng kinh doanh tại Mỹ.

Tháng 7/2000, Trung Nguyên và Rice Field Corp. (ở tiểu bang

California) tiếp xúc với nhau lần đầu tiên và hai bên đàm phán việc nhập khẩu

cà phê Trung Nguyên vào Mỹ. Tháng 1/2001, hợp đồng đầu tiên được ký kết

và cà phê Trung Nguyên xuất hiện ở quốc gia này. Đầu năm 2002, thêm một

hợp đồng nữa được ký, cà phê Trung Nguyên tiếp tục đi Mỹ. Đến lúc này,

Trung Nguyên mới nghĩ đến chuyện đăng ký bảo hộ thương hiệu tại Mỹ,

nhưng thật bất ngờ, từ 11/2000 (tức chỉ sau 3 tháng kể từ lần tiếp xúc đầu tiên

giữa hai bên), Rice Field Corp. đã nộp hồ sơ đăng ký bảo hộ với cơ quan chức

năng của Mỹ đối với những thương hiệu: “Trung Nguyên-Cà phê hàng đầu

Buôn Ma Thuột” và nhãn hiệu “Trung Nguyên” (bằng Tiếng Việt). Tháng

8/2001, Trung Nguyên lập tức khẩn trương nộp hồ sơ đăng ký với nhãn hiệu

“Trung Nguyên-nguồn cảm hứng sáng tạo mới” (bằng Tiếng Anh) và yêu cầu

tuyên bố vô hiệu đối với hồ sơ của Rice Field Corp... Công ty cà phê Trung

Nguyên đã nhờ các luật sư tiến hành nộp đơn khiếu nại và đưa ra những bằng

chứng quan trọng nhất, chứng tỏ sở hữu bản quyền nhãn hiệu hàng hoá của

mình là chính đáng. Trong số các bằng chứng quan trọng nhất là Giấy phép

kinh doanh của công ty này được cấp vào năm 1996, các nhãn hiệu của Trung

Nguyên và biển hiệu đã được sử dụng tại Việt Nam, danh sách gần 400 quán

cà phê tồn tại và hoạt động theo nhượng quyền kinh doanh của Trung Nguyên

và các thị trường nước ngoài của công ty này. Ngoài ra còn có bằng chứng về

doanh thu ròng hàng năm từ việc bán các sản phẩm và nhượng quyền kinh

doanh của công ty này từ năm 1997 đến 2001. Thiệt hại ước tính của Trung

Nguyên trong vụ việc này lên đến gần 1 triệu USD, bao gồm các khoản phí

thuê luật sư và thiệt hại do chiến lược kinh doanh mở rộng tại thị trường Mỹ

70

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ bị chậm lại (theo hợp đồng được soạn thảo cuối năm 2001, công ty cà phê

Trung Nguyên sẽ là công ty đầu tiên của Việt Nam chuyển nhượng thương

hiệu sang Mỹ với giá khoảng 100.000 USD/bang/đối tác trong vòng 3 năm).

Đây là bài học đắt giá đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi muốn mở rộng

thị trường tại Hoa Kỳ.

1.3 Vụ tranh chấp thương hiệu PetroVietnam

PetroVietnam là một doanh nghiệp lớn nhất ngành dầu khí Việt Nam

hoạt động ở ba lĩnh vực chính: xuất khẩu dầu thô, hợp tác thăm dò khai thác

dầu khí trong nước và bán các sản phẩm từ dầu khí. Dầu thô không cần

thương hiệu. Việc thăm dò khai thác dầu khí chỉ thực hiện ở trong nước, cũng

không cần thương hiệu. Vậy chỉ còn phần sản phẩm từ dầu thô như xăng, dầu

nhớt... được bán và xuất khẩu dưới thương hiệu PetroVietnam.

Tổng công ty PetroVietnam có chiến lược khuếch trương và đưa những

sản phẩm này sang Mỹ và các nước trong khu vực. Tuy vậy, vào tháng

7/2002, trang web của Văn phòng Sáng chế và Thương hiệu Mỹ

http://tarr.uspto.gov. thông báo, nhãn hiệu PetroVietnam vừa được một công

ty có tên NGUYENLAI, địa chỉ 11215 PACIFIC HWY SW LAKEWOOD,

WA 98499 (Mỹ) đăng ký tại Mỹ. Theo tìm hiểu của các phóng viên VASC

Orient, tuy đơn đăng ký này chưa được chấp nhận nhưng nếu không có những

biện pháp kịp thời thị thương hiệu của PetroVietnam sẽ bị mất ở nước ngoài.

Khi phóng viên của VASC Orient gọi điện cho doanh nghiệp, trợ lý của

Tổng giám đốc Nguyễn Xuân Nhậm hoàn toàn bất ngờ với thông tin trên. Bản

thâm Ông Nhậm cho biết Ông vẫn chưa hay biết gì về chuyện này và giới

thiệu phóng viên của VASC Orient với Ban Công nghệ thông tin của Tổng

công ty. Tuy nhiên, Ban Công nghệ thông tin của PetroVietnam cũng chưa hề

biết đến việc này.

71

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Trước tình hình đó, Ban giám đốc của PetroVietnam đã gấp rút tiến hành

các hoạt động để đối phó với vụ đánh cắp thương hiệu này. Một lãnh đạo của

Tổng công ty cho biết, PetroVietnam đã chuẩn bị một chiến lược để bảo vệ

thương hiệu của mình. Theo Công ty tư vấn luật Pham & Associates, việc đối

phó với công ty NGUYENLAI không khó khăn bỏi công ty này đã đăng ký

nhãn hiệu giống hệt với PetroVietnam cả về hình lẫn chữ. NGUYENLAI sẽ

gặp khó khăn ngay khi PetroVietnam lên tiếng. Theo họ, có ba cách để đối

phó với việc bị đánh cắp thương hiệu này:

Cách thứ nhất, ít tốn kém nhất nhưng cũng lâu nhất, đó là không hành

động gì, để NGUYENLAI tự động bị huỷ thương hiệu vì công ty đó phải

chứng minh được thương hiệu này đã được chính họ sử dụng, nếu không đưa

được bằng chứng sử dụng thương hiệu ba lần (6 tháng một lần) thì sẽ bị rút

thương hiệu. Tuy nhiên, cách này hơi mạo hiểm bởi NGUYENLAI có thể đưa

ra những bằng chứng không đúng sự thật và thời gian có thể kéo dài đến 3

năm.

Cách thứ hai là tranh tụng và thuê luật sư trong nước. Theo luật gia

Khánh Toàn, Giám đốc Công ty luật Pham & Associates, luật sư trong nước

có đủ khả năng để thực hiện vụ kiện đòi thương hiệu nhưng một khó khăn là

những hoạt động hành lang (lobby) các doanh nghiệp Việt Nam chưa quen và

chưa có kinh nghiệm tại Mỹ.

Cách thứ ba là tranh tụng và thuê luật sư Mỹ. Các luật sư sẽ giúp

PetroVietnam bác bỏ thương hiệu do NGUYENLAI đăng ký, sau đó đăng ký

thương hiệu PetroVietnam của Tổng công ty dầu khí Việt Nam. Cách này

chắc chắn nhất nhưng cũng rất tốn kém.

Nhãn hiệu PetroVietnam hiện mới bị công ty NGUYENLAI đăng ký ở

giai đoạn 1 do đó có thể xử lý việc xâm hại này bằng cách thuê luật sư của

Mỹ. Để giành lại thương hiệu PetroVietnam công ty cũng phải làm theo hai

72

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ bước, bước thứ nhất là bác bỏ nhãn hiệu PetroVietnam của công ty

NGUYENLAI và bước thứ hai là đăng ký nhãn hệu PetroVietnam của Tổng

công ty dầu khí Việt Nam.

1.4 Các vụ tranh chấp thương hiệu khác

Nhìn vào nhãn hiệu Bia Sài Gòn, mọi người dân Việt Nam và du khách

nước ngoài từng đến Việt Nam và thưởng thức qua loại bia này đều biết đó là

sản phẩm của công ty Bia Sài Gòn. Thế nhưng, hãy dè chừng vì sang Mỹ lại

không phải thế. Nhãn hiệu Bia Sài Gòn thuộc sở hữu của công ty Heritage

Beverage Company Inc. - một Công ty Mỹ 100% và chẳng có bất cứ liên hệ

nào với công ty Bia Sài Gòn. Nếu công ty Bia Sài Gòn muốn bán bia Sài Gòn

trên đất Mỹ thì họ phải xin phép Heritage Beverage Company Inc. vì nhãn

hiệu Bia Sài Gòn đã được Công ty này đăng ký với cơ quan chức năng của

Mỹ và được bảo hộ.

Nhiều nhãn hiệu đã thành danh ở Việt Nam như Vĩnh Hảo, Saigon

Export... đã bị các công ty Mỹ “hớt tay trên” đăng ký bảo hộ trên thị trường

Mỹ. Các sản phẩm của những công ty này nếu muốn vào thị trường Mỹ buộc

phải xin phép các công ty Mỹ!

Ngành dệt may, mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, hiện có nhiều

thương hiệu nổi tiếng đã bị mất trên thị trường Mỹ. Ông Nguyễn Đình Tường,

Phó Tổng giám đốc Công ty may Việt Tiến cho biết, các nhãn hiệu VTEC của

Công ty may Việt Tiến cũng như các nhãn hiệu khác của các công ty trong

ngành như May 10, Dệt Thành Công, Dệt Phong Phú... sẽ khó giữ được

“nguyên bản” như vẫn đang gọi tại thị trường Việt Nam nếu muốn xuất khẩu

sang Mỹ. Nguyên do là nhãn hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam đang bán

được hàng vào thị trường Mỹ đã được những công ty có đầu óc nhạy bén với

thị trường đăng ký sở hữu với các cơ quan chức năng của Mỹ theo luật pháp

Mỹ. Hơn thế nữa, các nhãn hiệu này đang được những người chủ sở hữu rao

73

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ bán trên mạng công khai mà đích nhằm tới chẳng phải ai xa lạ mà chính là

những doanh nghiệp sinh ra nhãn hiệu đó nhưng chậm làm “giấy khai sinh”.

Nếu muốn chuộc lại thương hiệu, có lẽ Công ty may Việt Tiến phải mất đến

450.000 USD, Dệt Thành Công bỏ ra khoảng 230.000 USD, Dệt Phong Phú

cũng chừng 300.000 USD. Việt Tiến đang chi khoảng 4500 USD cho việc

đăng ký hàng loạt các nhãn hiệu của mình tại thị trường Mỹ. Hiện công việc

đang tiến triển tốt và việc đăng ký sở hữu công nghiệp sẽ có tác dụng hỗ trợ

mạnh mẽ cho xúc tiến đưa hàng Việt Tiến vào thị trường Mỹ nhiều hơn.

Dù đã được chuẩn bị khá kỹ lưỡng, Vinamilk vẫn phải lao vào cuộc kiện

tụng ở cả tòa trong nước và nước ngoài vì tranh chấp với một đối tác nước

ngoài trong vấn đề bản quyền nhãn hiệu trên một số sản phẩm xuất khẩu sang

thị trường Mỹ và đã mất khoảng 20.000 USD để lấy lại thương hiệu của

mình.

Những thành viên của Hội nước mắm Phú Quốc đi tới nhiều siêu thị

trên đất Mỹ đã không khỏi kinh ngạc trước sự tràn ngập sản phẩm nước mắm

mang nhãn hiệu Phú Quốc. Chỉ có điều đó là nước mắm Phú Quốc... của Thái

Lan! Từ tháng 2/1998, nhãn hiệu nước mắm Phú Quốc đã bị công ty Kim

Seng tại California đăng ký và được công nhận vào tháng 5/1999. Chủ tịch

Hội sản xuất nước mắm Phú Quốc Nguyễn Thị Tịnh cho biết: “ Với sự hỗ trợ

của văn phòng quốc gia liên ngành rượu cognac Pháp, chúng tôi đang hoàn tất

các thủ tục bảo hộ ở Pháp. Sau đó nước mắm Phú Quốc sẽ đăng ký bảo hộ ở

EU & Mỹ”.

Từ các vụ tranh chấp thương hiệu nêu trên đã chứng tỏ Hoa Kỳ là một

thị trường hoàn toàn mới mẻ với hệ thống pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu hàng

hoá khá phức tạp đã khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam gặp phải rất nhiều

2. Những tồn tại trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

khó khăn.

74

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 2.1 Nhận thức của doanh nghiệp về nhãn hiệu và đăng ký nhãn hiệu

Theo nghiên cứu của một công ty tư vấn, 60% người tiêu dùng trên thế

giới quan tâm đến thương hiệu khi mua sắm. Nhưng hiện nay, các doanh

nghiệp Việt Nam mới chỉ đầu tư cho thương hiệu khoảng 2,6% doanh số.

Trong khi đối với các công ty nước ngoài, con số này là 7-10%. Hầu hết các

doanh nghiệp coi trọng việc phát triển sản phẩm và tiêu thụ hàng hoá hơn nhiều so với việc xây dựng nhãn hiệu sản phẩm.16

Doanh nghiệp Việt Nam đang tiến theo đúng quy luật của các nước trên

thế giới để đạt dần đến một độ ổn định chung về chất lượng. Vấn đề cạnh

tranh về chất lượng vì thế không còn là ưu tiên số một, mà là cạnh tranh về

thương hiệu, về giá cả, về dịch vụ hậu mãi và phân phối sản phẩm. Song các

doanh nghiệp Việt Nam dường như còn xa lạ với việc xây dựng, khuếch

trương một thương hiệu của riêng mình. Từ đó dẫn đến việc các doanh nghiệp

không có ý thức bảo vệ thương hiệu mặc dù đó là thành quả mà doanh nghiệp

không dễ dàng tạo dựng được. Hậu quả là hàng loạt các tên tuổi hàng hoá có

tiếng của nước ta đã bị “nẫng tay trên”.

Từ nhận thức trên dẫn đến việc chiến lược bảo hộ thương hiệu của các

doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa được chú ý đúng mức. Hiện nay các doanh

nghiệp Việt Nam thường chờ cho đến khi có thị trường xuất khẩu rồi mới

đăng ký thương hiệu. Đối với công ty nước ngoài thì quy trình này diễn ra

theo chiều ngược lại; ít nhất là sáu tháng đến một năm trước khi đưa hàng hoá

vào thị trường Việt Nam hay bất kỳ một thị trường nào, họ đã tiến hành đăng

ký nhãn hiệu. Theo số liệu thống kê, trong giai đoạn từ 1982-2001, Cục Sở

hữu công nghiệp Việt Nam (nay là Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam) đã nhận

được 56.366 đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trong đó có tới 30.972 đơn là

16 Theo: “Thương hiệu Việt” (Dự án “Hỗ trợ doanh nghiệp về năng lực xây dựng - quảng bá thương hiệu”). Nhà xuất bản trẻ và Câu lạc bộ doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao, 12/2002

75

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ của người nước ngoài (chiếm hơn 50%). Nhiều hãng nước ngoài đã đăng ký

vào Việt Nam hàng trăm đơn như hãng Unilever (Anh&Hà Lan) có tới 696

nhãn hiệu đã đăng ký bảo hộ. Nếu vào trang chủ của USPTO

(www.uspto.gov.) chúng ta sẽ thấy có 168 hồ sơ đăng ký nhãn hiệu hàng hoá

mà người đăng ký có địa chỉ tại Việt Nam. Nếu so với trên 3 triệu nhãn hiệu

mà USPTO đang quản lý thì con số này thật nhỏ bé. Trong khi đó, Trung

Quốc, Thái Lan và các nước Đông Nam Á khác cùng sản xuất và xuất khẩu

sang Mỹ các mặt hàng tương tự Việt Nam đã đăng ký khá nhiều các đối tượng

sở hữu công nghiệp tại Mỹ.

2.2 Tâm lý lo ngại thủ tục khó khăn và tốn kém

Nhiều doanh nghiệp phàn nàn rằng, họ đang “đau đầu” khi phải bỏ ra

một khoản tiền lớn để đăng ký thương hiệu ở một số thị trường mục tiêu vì tại

thời điểm này, đăng ký chỉ để giữ chỗ, nhưng nếu không đăng ký thì sẽ có

nguy cơ mất thương hiệu. Với một số doanh nghiệp Nhà nước, các Giám đốc

còn ngần ngại hơn, vì đầu tư cho thương hiệu là một khoản đầu tư khá lớn

nhưng sau thời gian dài mới nhìn thấy lợi ích cụ thể. Ông Trần Việt Hùng -

Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ nhận xét: “Hầu hết các doanh nghiệp Việt

Nam cứ xuất khẩu chán chê rồi mới đăng ký nhãn hiệu hoặc chỉ làm một cách

sơ sài rồi không theo đuổi đến cùng. Hậu quả là xảy ra các tranh chấp về nhãn

hiệu hàng hoá và cuối cùng lại ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu”. Vì vậy,

Ông Hùng cũng đưa ra lời khuyên: “Tốt nhất là các doanh nghiệp nên đăng

ký nhãn hiệu hàng hoá trước khi xuất hàng vào thị trường Mỹ. Như vậy, các

doanh nghiệp Việt nam mới có thể giữ gìn, phát triển uy tín, thị phần của nhãn

hiệu cũng như sẵn sàng đối phó với các tranh chấp và vi phạm nhãn hiệu của mình tại thị trường đầy rủi ro này”17.

17 Theo: “Doanh nghiệp Việt Nam cần hiểu đúng việc đăng ký nhãn hiệu tại Mỹ”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư www.mpi.gov.vn ngày14/08/2003

76

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 2.3 Hiểu biết hạn chế về luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của Hoa Kỳ

Có thể nhận thấy rằng, chỉ sau khi hàng chục thương hiệu hàng hoá bị

mất tại các thị trường lớn, các doanh nghiệp Việt Nam mới quan tâm tìm hiểu

đến luật pháp quốc tế có liên quan. Dường như chỉ lúc này các Công ty tư vấn

luật sở hữu trí tuệ mới thực sự cảm nhận được vai trò của mình. Công ty Luật

gia Phạm, một công ty tư vấn luật có nhiều kinh nghiệm từng giúp Vifon đòi

lại sở hữu bản quyền thương hiệu đang tư vấn cho hàng loạt các Công ty vào

thị trường Mỹ. Công ty đang tiếp nhận hàng loạt các đơn của các Công ty có

tầm cỡ như Mỹ phẩm Sài Gòn, Việt Tiến... để có thể giúp các Công ty này

đăng ký sở hữu bản quyền tại Mỹ.

Rõ ràng con đường vào Mỹ của hàng Việt Nam và các doanh nghiệp Việt

Nam trên bình diện sở hữu công nghiệp thật cam go. Các cơ quan chức năng

Nhà nước cũng như các doanh nghiệp hẳn đã tiếp thu được những bài học cần

thiết để đi tới loại bỏ những rào cản trong tiến trình Việt Nam hội nhập kinh tế

quốc tế.

II. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO HỘ

NHÃN HIỆU HÀNG VIỆT NAM TẠI THỊ TRƯỜNG HOA KỲ

1. Đối với các cơ quan chức năng của Nhà nước

1.1 Tích cực chỉ đạo công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của Hoa Kỳ

Như đã phân tích ở trên, Hệ thống luật sở hữu trí tuệ trong đó có nhãn

hiệu hàng hoá của Mỹ rất phức tạp. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp nhiều

khó khăn trong việc nghiên cứu và rất cần sự giúp đỡ từ phía Nhà nước. Để

hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực này, Nhà nước cần tổ chức các khoá

đào tạo, các lớp tập huấn hay hội nghị, hội thảo về hệ thống pháp luật nhãn

hiệu hàng hoá của Mỹ nhằm nâng cao hiểu biết của các doanh nghiệp về khía

77

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ cạnh pháp lý trong kinh doanh với Mỹ. Đồng thời, Nhà nước cần khuyến

khích các Cơ quan, Bộ, Ngành liên quan và các cá nhân xuất bản và lưu hành

những ấn phẩm hay băng đĩa về vấn đề này dưới dạng sách hay những bài

viết trên báo, tạp chí hay đĩa hình... nhằm tạo ra nguồn thông tin phong phú

và chính xác cho các doanh nghiệp tham khảo. Mặt khác, Nhà nước cũng có

thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp thông qua việc cung cấp một số địa chỉ tư

vấn pháp luật đáng tin cậy.

1.2 Tuyên truyền về vai trò của thương hiệu và bảo hộ thương hiệu

Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng bị mất thương hiệu ở nước ngoài

là bởi các doanh nghiệp Việt Nam còn xem nhẹ thương hiệu và đăng ký bảo hộ thương

hiệu.

Việc tuyên truyền về thương hiệu trước hết phải làm cho các nhà lãnh

đạo doanh nghiệp hiểu rằng: thương hiệu cũng là một bộ phận cấu thành trong

tài sản của doanh nghiệp, do đó cần chăm lo cho loại tài sản này không những

không bị hao mòn mà ngày càng tăng thêm giá trị.

Việc tuyên truyền đó có thể được thực hiện thông qua các kênh thông tin

đại chúng, các buổi hội thảo, các cuộc gặp gỡ giữa cơ quan quản lý Nhà nước

và doanh nghiệp hay giữa các doanh nghiệp với nhau.

Trong năm 2002, tại thành phố Hồ Chí Minh đã diễn ra một cuộc hội

thảo về luật pháp, chính sách, và quản lý về Sở hữu trí tuệ do Cục sở hữu

công nghiệp Việt Nam và Viện Sở hữu trí tuệ quốc tế tổ chức với sự tham gia

của hơn 100 chuyên gia Việt Nam và quốc tế. Hội thảo nhằm làm rõ tầm quan

trọng của việc thực thi quyền Sở hữu trí tuệ, giới thiệu những thành phần

chính của các tiêu chuẩn Sở hữu trí tuệ quốc tế và trao đổi kinh nghiệm giữa

hai bên về việc thực thi bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ trong quá trình thực thi

Hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ .

78

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Hy vọng rằng, trong tương lai sẽ có nhiều những cuộc hội thảo tương tự,

qua đó các doanh nghiệp sẽ chủ động thấy được sự cần thiết phải bảo hộ

thương hiệu của mình - vấn đề quan tâm không chỉ của doanh nghiệp Việt

Nam mà cũng là của các doanh nghiệp Mỹ và doanh nghiệp của tất cả các

nước tham gia vào thương mại quốc tế.

1.3 Tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp về vấn đề thông tin

Thực tế cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam không hề biết nhãn hiệu

của mình đã bị đăng ký bảo hộ ở nước ngoài cho đến khi chính họ bị phía

nước ngoài đệ đơn kiện đòi bồi thường thiệt hại do “sử dụng nhãn hiệu trái

phép” hoặc không được xuất khẩu vào thị trường đó vì nhãn hiệu đã bị đăng

ký. Nếu như thông tin được cập nhật, chắc hẳn chiến lược giành lại thương

hiệu của doanh nghiệp sẽ được tiến hành kịp thời do đó sẽ dễ dàng hơn, tránh

cho doanh nghiệp mất những cơ hội kinh doanh quý giá.

Với vai trò hoạt động vĩ mô, ở tầm quốc gia, việc tập trung hỗ trợ các

doanh nghiệp có được nhiều thông tin, thông tin chính xác, nóng hổi có lẽ sẽ

là một sự hỗ trợ hữu hiệu và mang tính khả thi. Cần mở những trang web cập

nhật các thông tin xung quanh cuộc chiến thương hiệu với những chuyên

mục: Tin tức, Chuyên đề, Diễn đàn, Hỗ trợ, Liên kết... Hiện nay, những thông

tin đó thường được nằm rải rác trong các trang báo điện tử dẫn đến các thông

tin được truy cập không hệ thống, không được sắp xếp và phân tích trong

từng tiêu đề riêng biệt, hiệu quả mang lại không cao. Việc nắm bắt những

thông tin rời rạc đó sẽ khó tạo thành một “cú huých” tạo nên sự chuyển biến

trong nhận thức và hành động của các doanh nghiệp Việt Nam đối với việc

bảo hộ thương hiệu của mình.

Chính phủ cũng cần phải có các Văn phòng xúc tiến thương mại tại các

nước và các khu vực thị trường xuất khẩu tiềm năng nhất của doanh nghiệp.

Đây sẽ là cầu nối giữa doanh nghiệp với mọi thông tin cập nhật nhất trong đó

79

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ có thông tin về sở hữu trí tuệ. Theo ý kiến của nhiều doanh nghiệp, việc tổ

chức các Hội chợ thông tin sẽ là một giải pháp hữu hiệu để các doanh nghiệp

có cơ hội tiếp cận với nguồn thông tin trên các khu vực thị trường nước ngoài

một cách toàn diện nhất. Hội chợ sẽ quy tụ những chuyên gia kinh tế có kinh

nghiệm làm việc lâu năm ở nước ngoài, tham gia đóng góp về hiện trạng

chung của thị trường nước ngoài.

Song song với việc tổ chức các Hội chợ thông tin là việc tổ chức các

buổi hội thảo chuyên đề thương hiệu và bảo vệ thương hiệu tại Mỹ, tạo điều

kiện cho doanh nghiệp hai nước có cơ hội được trực tiếp gặp gỡ nhau nhằm

trao đổi những thông tin cần thiết về luật pháp cũng như tình hình bảo hộ

nhãn hiệu hàng hoá ở mỗi nước. Các doanh nghiệp Việt Nam chắc chắn sẽ có

những kinh nghiệm bổ ích trong việc xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu hàng

hoá và bảo vệ quyền đó một cách hiệu quả nhất trên đất Mỹ.

Ngoài ra thông qua Thương vụ của Việt Nam tại Hoa Kỳ, Bộ Thương

mại phải thu thập và phổ biến thông tin về thị trường Mỹ cho các doanh

nghiệp. Đồng thời với những thông tin về thị trường như nhu cầu, đặc điểm,

tính chất của hàng hoá. Bộ Thương mại và Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ

nên chăng hãy quan tâm đến khía cạnh thương hiệu - niềm tự hào của mỗi

doanh nghiệp và hình ảnh của một quốc gia.

1.4 Xây dựng luật thương mại điện tử

Môi trường kinh doanh hiện nay mỗi lúc một sôi động và biến đổi không

ngừng. Xu hướng phát triển mới trên thế giới hiện nay là kinh doanh thương

mại điện tử và Việt Nam cũng không thể đứng ngoài xu thế đó. Tuy cơ sở vật

chất hạ tầng cho công nghệ thông tin của Việt Nam còn thiếu thốn song các

doanh nghiệp cũng đã bắt đầu tham gia vào hệ thống thương mại điện tử. Ở

thành phố Hồ Chí Minh cũng đã thí điểm mô hình hệ thống Chính phủ điện

tử khi cho phép mọi cá nhân và tổ chức được phép đăng ký kinh doanh thông

80

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ qua mạng máy tính... Internet là một kênh truyền thông mới rất hữu ích cho

các doanh nghiệp trong việc giới thiệu và quảng bá những nhãn hiệu sản

phẩm tới các khách hàng ở cả trong và ngoài nước. Doanh nghiệp có thể liên

hệ nhanh chóng với khách hàng và giới thiệu được ngay những sản phẩm,

dịch vụ của mình. Ngoài ra, doanh nghiệp còn có thể tìm hiểu mọi thông tin

cần thiết trên Internet hay thậm chí có thể đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của

mình thông qua mạng Internet.

Như vậy một yêu cầu cấp bách đặt ra là Nhà nước cần phải xây dựng hệ

thống luật thương mại điện tử để kịp thời điều chỉnh hoạt động kinh doanh

mới mẻ này. Khi đã có luật cụ thể và rõ ràng thì cũng cần có các văn bản

hướng dẫn đầy đủ và chi tiết việc thực hiện và xử lý những trường hợp vi

phạm. Có sớm hoàn chỉnh hệ thống thương mại điện tử ở Việt Nam thì các

doanh nghiệp mới có thể quảng bá các nhãn hiệu sản phẩm của mình một

cách có hiệu quả trên Internet và nhanh chóng hội nhập với bước phát triển

của kinh tế toàn cầu.

1.5 Các biện pháp khác

Ngoài các biện pháp nói trên, Nhà nước cũng cần đẩy mạnh hơn nữa sự

đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ các chuyên gia luật Sở

hữu trí tuệ. Họ phải là nhưng người tinh thông về luật pháp Sở hữu trí tuệ

quốc tế và quốc gia, nắm bắt kịp thời và chính xác các thông tin cũng như

phải có vốn ngoại ngữ phong phú để có thể bảo vệ các doanh nghiệp Việt Nam trong

các cuộc chiến pháp lý.

Cuối cùng, Việt Nam cần gia nhập các tổ chức như WIPO, tiến tới là

Hiệp ước luật nhãn hiệu hàng hoá và Hiệp định TRIPS – những Tổ chức và

Điều ước quốc tế mà Mỹ đều là thành viên. Cơ chế đảm bảo thực thi rất

nghiêm ngặt và có hiệu quả của các tổ chức này sẽ bảo vệ các doanh nghiệp

Việt Nam trong giai đoạn ban đầu đầy thử thách.

81

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 2. Đối với các doanh nghiệp

2.1 Nâng cao nhận thức về sức mạnh thương hiệu và bảo vệ thương hiệu

Trong thời gian qua, các cơ quan chuyên trách cũng đã có nỗ lực tuyên

truyền cho doanh nghiệp về sức mạnh của giá trị thương hiệu nhưng thực tiễn

cho thấy hiệu quả đạt được vẫn chưa được tương xứng. Phải nhận thấy rằng

công tác tuyên truyền đó sẽ chỉ phát huy hiệu quả khi chính bản thân mỗi

doanh nghiệp tự nỗ lực trang bị cho mình những kiến thức cần thiết về giá trị

của thương hiệu và việc bảo vệ thương hiệu.

Thứ nhất, bản thân doanh nghiệp phải tìm hiểu tầm quan trọng của việc

xây dựng nhãn hiệu đối với việc thu hút khách hàng cũng như đối với việc

phát triển kinh doanh của công ty. Có hiểu được ý nghĩa và sức mạnh của

nhãn hiệu trong cạnh tranh thì doanh nghiệp mới mạnh dạn đầu tư cho xây

dựng chiến lược nhãn hiệu lâu dài và nhất quán.

Càng ngày, nhu cầu của khách hàng ngày càng nâng cao và họ không chỉ

dừng lại ở mức thoả mãn với chất lượng sử dụng của bản thân sản phẩm mà

cao hơn nữa, họ đòi hỏi sản phẩm ấy phải đáp ứng được những nhu cầu về

mặt cảm xúc của họ. Một sản phẩm với nhãn hiệu nổi tiếng không chỉ hứa

hẹn mang lại cho khách hàng sự đảm bảo về mặt chất lượng mà còn đem lại

cho họ cảm giác được tôn trọng, được quan tâm. Chính vì thế doanh nghiệp

không nên lơ là vai trò khác biệt hoá của nhãn hiệu trong chiến lược kinh

doanh của mình.

Thứ hai, khi đã hiểu được vai trò quan trọng của nhãn hiệu sản phẩm

trong cạnh tranh thì doanh nghiệp phải tích cực học hỏi những kiến thức về

xây dựng, tôn tạo nhãn hiệu cũng như cách thức quản lý nhãn hiệu sản phẩm.

Doanh nghiệp có thể tham gia các lớp tập huấn về kỹ năng xây dựng, tôn tạo

và quảng bá nhãn hiệu, chịu khó quan sát học hỏi kinh nghiệm của những

người đi trước, rút ra những bài học từ thành công hay thất bại của họ. Những

82

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ buổi hội thảo chuyên đề về thương hiệu và nhãn hiệu hàng hoá, các buổi thảo

luận ý kiến hay trao đổi kinh nghiệm là những dịp hết sức bổ ích giúp doanh

nghiệp tự nâng cao kiến thức cho mình.

Thứ ba, xây dựng một nhãn hiệu sản phẩm nổi bật đòi hỏi phải có chiến

lược nhất quán và lâu dài chứ không thể làm trong một sớm một chiều. Vì

vậy, doanh nghiệp cần có kế hoạch đầu tư lâu dài và phù hợp với tiềm năng

của chính mình. Đầu tư cho nhãn hiệu sản phẩm là phải đầu tư đồng bộ cả về

vốn, đội ngũ nhân lực, trình độ chuyên nghiệp, quản lý tổ chức... Tuy nhiên,

khi bắt tay vào xây dựng nhãn hiệu cho một hay một nhóm sản phẩm, doanh

nghiệp phải tính toán tỷ lệ đầu tư cho nhãn hiệu trên tổng doanh thu là bao

nhiêu và chiến lược ấy dự kiến sẽ kéo dài trong bao lâu. Có dự tính trước

những điều này doanh nghiệp mới hoạch định được chiến lược cụ thể và thực

hiện thành công.

Việc trang bị những kiến thức cơ bản về nhãn hiệu phải được quán triệt

từ các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đến từng nhân viên trong doanh nghiệp

thông qua các cuộc họp, hội thảo, các buổi trao đổi ngay tại doanh nghiệp

hoặc các phương tiện thông tin của doanh nghiệp như tạp chí của doanh

nghiệp, trang web của doanh nghiệp... sao cho thương hiệu - hình ảnh của

doanh nghiệp luôn luôn được giữ gìn, bồi đắp và hoàn thiện ở tất cả các khâu

trong quá trình hoạt động của công ty: marketing, nghiên cứu và phát triển

sản phẩm, sản xuất, lưu thông, phân phối... Ngoài ra, cũng cần bổ sung chức

năng quản lý thương hiệu trong doanh nghiệp, có thể bằng việc thành lập bộ

phận quản trị thương hiệu. Bộ phận này sẽ quyết định chiến lược phát triển,

quảng bá và bảo vệ thương hiệu.

Khi nhận thức của doanh nghiệp được nâng cao cũng có nghĩa doanh

nghiệp đã tin yêu, tự hào về thương hiệu riêng của mình và sẽ có những hành

động cần thiết để bảo vệ giá trị đó.

83

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ 2.2 Chủ động tiếp cận các thông tin, đặc biệt là các thông tin pháp lý

Theo đó, các doanh nghiệp cần theo dõi các hành vi lạm dụng thương

hiệu của mình trên các ấn phẩm, báo chí, tivi, đài phát thanh, các hội chợ triển

lãm trong và ngoài nước. Các doanh nghiệp nên đặc biệt quan tâm các thông

tin pháp luật nhãn hiệu hàng hoá bởi luật pháp của Mỹ rất phức tạp mà người

Mỹ khi kinh doanh gắn rất sát với luật lệ. Doanh nghiệp Việt Nam thiếu kinh

nghiệm và hiểu biết rất dễ bị chèn ép. Ngoài ra, am hiểu về luật lệ Mỹ sẽ giúp

doanh nghiệp tránh phải mất tiền vì những sơ suất khi đăng ký, sử dụng, duy

trì nhãn. Doanh nghiệp có thể thuê luật sư tư vấn để tránh những rủi ro và bất

đồng. Tuy nhiên, chi phí trả cho luật sư rất cao (thường khoảng 250 - 500

USD/giờ, còn để thuê một luật sư theo đến hết một vụ kiện phải tiêu tốn

khoảng 30.000- 50.000 USD). Như vậy, muốn sử dụng luật sư có hiệu quả,

bản thân doanh nghiệp cũng phải am hiểu ít nhiều về luật lệ Mỹ để khi mời

luật sư thì đảm bảo thời gian làm việc ngắn nhất nhưng hiệu quả cao. Với

kinh phí eo hẹp của mình thì có lẽ đối với các doanh nghiệp Việt Nam, nên

khai thác triệt để các kênh thông tin cơ bản để hiểu càng nhiều về thị trường

và luật pháp Mỹ càng tốt.

2.3 Quan tâm đến việc đăng ký bảo hộ thương hiệu ở nước ngoài

Hãy tuân thủ nguyên tắc chiến lược "thương hiệu đi trước hàng hoá".

Các doanh nghiệp cần phải nhanh chóng khắc phục thói quen đưa hàng hoá ra

thị trường rồi mới tính đến thương hiệu. Luật nhãn hiệu của Mỹ cho phép

người nộp đơn lựa chọn một trong hai hình thức: nộp đơn trên cơ sở "dự định

sử dụng" nhãn hiệu, hoặc nộp đơn trên cơ sở “nhãn hiệu đã sử dụng trong

thực tế". Do đó, những doanh nghiệp có ý định và khả năng xuất khẩu hàng

mang nhãn hiệu của mình sang Mỹ trong một vài năm tới thì có thể tiến hành

nộp đơn ngay từ bây giờ trên "cơ sở dự định sử dụng" để giành lấy ngày ưu

tiên sớm cho mình. Trong trường hợp này, ngoài các khoản phí phải trả cho

84

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ việc nộp đơn thông thường, thì doanh nghiệp phải trả khoản phí cho việc gia

hạn thời gian để đưa hàng hoá vào thị trường Mỹ. Cần lưu ý rằng, thời gian

gia hạn tối đa là 3 năm (theo luật Mỹ và Hiệp định thương mại Việt- Mỹ), sau

đó nếu không đưa được hàng vào Mỹ thì đơn nhãn hiệu hàng hoá sẽ bị từ chối

(coi như đơn chưa được nộp ).

2.4 Lưu trữ đầy đủ bằng chứng sử dụng thương hiệu trong hoạt động thương mại

Doanh nghiệp cũng cần lưu trữ đầy đủ các bằng chứng sử dụng thương

hiệu trong hoạt động thương mại. Khi gặp tình trạng tranh chấp thương hiệu,

doanh nghiệp có thể sử dụng các bằng chứng thương hiệu đã được sử dụng và

thừa nhận rộng rãi từ trước để giành quyền về mình, ví như mẫu bao bì có ghi

ngày sản xuất từ trước, Giấy chứng nhận đăng ký chất lượng vệ sinh và an

toàn thực phẩm, kết quả doanh số, mạng lưới đại lý, số lần và chi phí với mẫu

quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, hợp đồng, hoá đơn, vận

đơn... Ngoài ra, việc lưu trữ các bằng chứng sử dụng thương hiệu ngay từ đầu

sẽ giúp cho việc xin công nhận nhãn hiệu nổi tiếng sau này dễ dàng hơn, từ đó

sẽ tạo nhiều thuận lợi cho việc bảo hộ và việc xét cấp bằng bảo hộ cho các

nhãn hiệu khác.

2.5 Các biện pháp ngăn ngừa tranh chấp nhãn hiệu

Khi ký kết các hợp đồng xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam nên thận

trọng đưa điều khoản về nhãn hiệu sản phẩm vào tất cả các hợp đồng đại lý,

liên doanh liên kết, trong quan hệ công ty mẹ - công ty con. Điều này ngoài

tác dụng tránh xảy ra tranh chấp nhãn hiệu trong tương lai còn giúp doanh

nghiệp phân chia phạm vi trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên trong hợp

đồng một cách rõ ràng.

Các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần phải nghiên cứu kỹ trước khi bắt

tay làm ăn với bất kỳ đối tác nào để chắc chắn rằng mình đang làm ăn với một

85

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ đối tác có năng lực, đáng tin cậy. Để có thêm thông tin về đối tác tương lai,

các doanh nghiệp hãy tìm tới các cơ quan đầu mối thương mại của Mỹ và Việt

Nam để nhờ họ kiểm tra giúp độ tin cậy của đối tác.

Mặt khác, để những khách hàng nước ngoài có thêm thông tin về sản

phẩm của mình, các doanh nghiệp Việt Nam nên có chính sách yểm trợ dựa

trên các phương pháp quảng bá nhãn hiệu chủ yếu sau:

Quảng cáo (Advertising): Thông tin về nhãn hiệu sản phẩm được giới

thiệu gián tiếp tới những khách hàng tiềm năng. Đây là hình thức quảng bá

nhãn hiệu phổ biến nhất và cũng dễ dàng áp dụng để giúp thiết lập ý niệm về

nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể lựa chọn các

phương tiện quảng cáo khác nhau cho nhãn hiệu sản phẩm của mình:

 Quảng cáo trên các phương tiện truyền thông (Media advertising):

qua tivi, radio, báo chí để xây dựng hình ảnh và những thông điệp riêng của

nhãn hiệu sản phẩm - Đây là những phương tiện có phạm vi ảnh hưởng và tác

động mạnh tới khách hàng song đòi hỏi chi phí cao và tần suất lớn.

 Quảng cáo trực tiếp (Direct response advertising): thông qua thư từ,

điện thoại, tờ rơi, Internet - thông tin về nhãn hiệu và sản phẩm được truyền

trực tiếp tới khách hàng mục tiêu song chi phí còn cao.

 Quảng cáo nơi công cộng (Place advertising): sử dụng panô, áp

phích, băng rôn, xe buýt, bảng điện tử, các đồ dùng hàng ngày như tủ, bàn

ghế, ô dù có in nhãn hiệu sản phẩm... Hình thức này hiệu quả cao do truyền

được thông tin về nhãn hiệu tới được nhiều người.

 Quảng cáo tại điểm bán (Point-of-Purchase advertising): sử dụng các

phương tiện tivi, video ngay tại nơi bán hàng để tác động trực tiếp tới người

mua.

86

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Hội chợ, triển lãm (Trade fair and Exhibition): Doanh nghiệp có thể

vừa trực tiếp bán hàng và giới thiệu nhãn hiệu sản phẩm, thu hút đông khách

hàng và nhận được phản hồi trực tiếp.

Khuyến mại kênh phân phối (Trade Promotion): Doanh nghiệp có thể

áp dụng các hình thức khuyến khích kênh phân phối trung gian thông qua

hình thức bán hàng, phối hợp quảng cáo, trình diễn sản phẩm, hỗ trợ trưng

bày

Khuyến mãi người mua (Consumer Promotion): áp dụng các hình thức

bán hạ giá, tặng hàng mẫu, tặng phiếu giảm giá... để khuyến khích khách mua

sản phẩm mang nhãn hiệu của doanh nghiệp.

Marketing sự kiện và tài trợ (Event marketing and sponsorship): Tài

trợ cho các sự kiện văn hoá, xã hội, giáo dục, thể thao... để quảng bá nhãn

hiệu sản phẩm và xây dựng uy tín cho doanh nghiệp.

Quan hệ công chúng (Public relations): Thiết lập các mối quan hệ với

giới truyền thông, các tổ chức xã hội, các cơ quan Nhà nước.. để tạo điều kiện

khuếch trương nhãn hiệu của mình.

Xây dựng văn hoá doanh nghiệp (Enterprise culture): Xây dựng hình

ảnh chung cho doanh nghiệp và đội ngũ nhân viên, tác phong làm việc, tôn

chỉ phục vụ khách hàng v.v. để tạo uy tín chung cho toàn doanh nghiệp, khi

đó sẽ có ảnh hưởng tích cực tới từng nhãn hiệu hàng hoá.

Để tôn tạo nhãn hiệu sản phẩm một cách có hiệu quả, doanh nghiệp cần

phải phối hợp các hình thức quảng bá trên một cách có chọn lọc. Chọn lọc ở

đây hiểu theo nghĩa là phải lựa chọn lấy loại hình quảng bá phù hợp nhất với

đối tượng khách hàng mục tiêu, với bản thân sản phẩm và khả năng tài chính

của doanh nghiệp mà vẫn đem lại hiệu quả cao. Các doanh nghiệp khi phối

hợp các phương pháp quảng bá nhãn hiệu sản phẩm cũng nên chú ý nhấn

mạnh vào hình thức trọng tâm và hỗ trợ bằng các hình thức còn lại chứ không

87

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ sử dụng dàn trải toàn bộ các hình thức yểm trợ trong một khoảng thời gian

nhất định. Trong thời gian dài thì doanh nghiệp có thể thay đổi phương pháp

cho linh động và thích hợp với tình hình thực tế phát triển nhãn hiệu sản

phẩm của mình.

2.6 Nâng cao trình độ ngoại ngữ, vi tính của các doanh nhân

Trong điều kiện hội nhập nền kinh tế như hiện nay, hai công cụ không

thể thiếu đối với mỗi doanh nhân thành đạt là ngoại ngữ và vi tính. Có được

hai công cụ hữu ích này, các doanh nghiệp có thể tiếp cận với thế giới bên

ngoài và không bị tụt hậu. Mặt khác, điều đó cũng có thể giúp cho các doanh

nghiệp có thể tự mình đăng ký nhãn hiệu hàng hoá qua Internet vào thị trường

Hoa Kỳ.

Kết luận

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đăng ký bảo hộ nhãn hiệu

hàng hoá, nhất là ở thị trường nước ngoài, hiểu biết được pháp luật của nước

sở tại để có thể tiến hành đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá ở các thị trường

88

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ đó đồng thời áp dụng nguyên tắc chiến lược “thương hiệu đi trước hàng hoá”

nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình và dần dần xây dựng được

uy tín cho nhãn hiệu của mình; đó chính là điều mà chúng ta chờ đợi, mong

mỏi ở các doanh nghiệp Việt Nam.

Các doanh nghiệp có làm được điều đó không, nhất là tại thị trường Mỹ,

nơi mà nhiều cơ hội đang mở ra cùng với những thuận lợi mà Hiệp định

thương mại Việt- Mỹ đem lại? Câu trả lời nằm ở nỗ lực bản thân từng doanh

nghiệp và cao hơn nữa là sức mạnh của tinh thần đoàn kết dân tộc.

Mặc dù còn rất nhiều khó khăn phải vượt qua, nhưng chúng ta đều hy

vọng trong thời gian tới, với sự quan tâm của Chính phủ và các Bộ, ngành,

các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thể giải quyết có hiệu quả tình trạng mất

thương hiệu tại thị trường nước ngoài, tạo cơ sở và điều kiện vững chắc để

phát triển phát triển thương hiệu Việt không chỉ ở thị trường Hoa Kỳ mà còn

ở những thị trường tiềm năng khác nữa.

89

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Phụ lục

PHỤ LỤC I: CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN THƯƠNG

HIỆU QUỐC GIA “VIETNAM VALUE INSIDE”

Thương hiệu quốc gia (hay còn gọi là nhãn sản phẩm quốc gia) là loại

thương hiệu dùng cho sản phẩm của một nước, do tổ chức xúc tiến thương

mại của nước đó chủ trì phát hành nhằm quảng bá hình ảnh quốc gia thông

qua sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Ở Việt Nam, Cục xúc tiến thương mại -

Bộ thương mại đã xây dựng chương trình “Thương hiệu quốc gia Việt Nam”

để giúp đưa thương hiệu Việt Nam ra thị trường thế giới.

Chương trình thương hiệu quốc gia của Việt Nam cho phép doanh

nghiệp được dán biểu trưng với tựa đề tiếng Anh “Vietnam Value Inside”

(Giá trị Việt Nam) trên các sản phẩm của mình nếu các sản phẩm đó đã có

thương hiệu riêng và đạt được các tiêu chí về chất lượng do chương trình quy

định. Như vậy, bên cạnh thương hiệu riêng của sản phẩm, các doanh nghiệp

đủ tiêu chuẩn sẽ được dán thêm biểu trưng của thương hiệu quốc gia cho sản

phẩm của mình. Cùng với việc sử dụng nhãn “Vietnam Value Inside”, các

doanh nghiệp còn được quảng bá rộng rãi tại các nước nhập khẩu chủ chốt

thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, ấn phẩm quảng cáo,

truyền hình... để các nhà nhập khẩu và người tiêu dùng nước ngoài biết đến

những giá trị tiềm ẩn trong hàng hoá của Việt Nam.

Chương trình thương hiệu quốc gia được thực hiện qua 3 giai đoạn:

 Giai đoạn I (2003): Chính thức phát động chương trình tại hội chợ

Vietnam Expo 2003 (tháng 4/2003).

 Giai đoạn II (2004): Hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp tham gia

trên diện rộng. Lấy Hội chợ Thương mại ASEAN 2004 sẽ được tổ chức tại Hà

90

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ Nội làm trung tâm năm 2004, là cơ hội để quảng bá Nhãn sản phẩm quốc gia

Vietnam Value Inside trong khu vực ASEAN.

 Giai đoạn III (2005-2010): Khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao

chất lượng, tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận và thâm nhập thị trường

nước ngoài. Lấy Triển lãm thế giới AICHI 2003 (triển lãm lớn nhất thế giới tổ

chức 4 năm/lần) tại Nhật Bản làm điểm mốc để quảng bá mạnh mẽ Nhãn sản

phẩm quốc gia Vietnam Value Inside ra thị trường thế giới, đưa ra hình ảnh

một Việt Nam đang ngày càng đổi mới, hiện đại hoá với một nền sản xuất đã

và đang phát triển mạnh mẽ.

Chương trình thương hiệu quốc gia được xây dựng nhằm mục đích:

 Tăng cường sự nhận biết của các nhà nhập khẩu trên thị trường thế

giới đối với các sản phẩm mang nhãn hiệu Việt Nam, làm cho nhà nhập khẩu

và người tiêu dùng nước ngoài có thái độ nhìn nhận tích cực hơn, có lòng tin

vào sản phẩm và nhà sản xuất Việt Nam, từ đó có thiện cảm và ưa chuộng

hàng Việt Nam hơn. Mục đích cuối cùng là tạo ý thích và thói quen mua hàng

mang nhãn Việt Nam.

 Nâng cao sức cạnh tranh cho các thương hiệu Việt Nam trong quá

trình hội nhập.

 Xây dựng hình ảnh về Việt Nam là một quốc gia có uy tín xuất khẩu

hàng hoá và dịch vụ đa dạng phong phú với chất lượng cao.

 Xây dựng một tiềm thức trong giới kinh doanh xuất khẩu luôn hướng

về chất lượng sản phẩm (cả hàng hoá và dịch vụ) và độ tin cậy cao trong kinh

doanh.

 Quảng bá cho các tiêu chuẩn quốc tế và sự cần thiết của việc áp dụng

tiêu chuẩn quốc tế trong cộng đồng kinh doanh Việt Nam.

91

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

 Góp phần tạo thêm giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu của Việt

Nam, tạo thế cạnh tranh bền vững...

 Đưa nhãn Vietnam Value Inside vào năm 2010 trở thành một công cụ

Marketing hữu hiệu cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế

giới và thị trường trong nước, giúp doanh nghiệp Việt Nam từng bước đi vào

thị trường thế giới với thương hiệu riêng, đầy niềm tin và kiêu hãnh.

 Nhãn sản phẩm quốc gia sẽ có tác dụng nâng cao hình ảnh Việt Nam,

tăng thêm uy tín, niềm tự hào và sức hấp dẫn cho đất nước, con người Việt

Nam, góp phần khuyến khích du lịch và thu hút đầu tư nước ngoài.

 Xây dựng một liên minh chặt chẽ giữa cơ quan xúc tiến thương mại

quốc gia với các doanh nghiệp, hướng tới hoạt động xúc tiến thương mại

mang tính cộng đồng.

 Khuyến khích xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chế biến, giảm tỷ

trọng xuất khẩu nguyên liệu thô.

 Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu và thiết lập

mạng lưới tiêu thụ cho các sản phẩm mang thương hiệu riêng của mình.

Phạm vi áp dụng của chương trình này: các doanh nghiệp được lựa

chọn từ những ngành Việt Nam có khả năng cạnh tranh và có sản phẩm thoả

mãn các yêu cầu sau:

 Là thành phẩm hoàn chỉnh, có chất lượng cao, đã có thương hiệu

riêng của mình, có thị trường trong nước và xuất khẩu ổn định.

 Là sản phẩm xuất khẩu mang thương hiệu có xuất xứ Việt Nam (được

đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại Việt Nam).

 Đã được cấp đăng ký chất lượng ISO, HACCP hoặc đạt chất lượng

tiêu chuẩn Việt Nam và các tiêu chuẩn do cơ quan quản lý chuyên ngành đề

ra.

92

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

 Có thiết kế mẫu mã đẹp.

 Đã xuất khẩu liên tục trong 3 năm.

 Doanh nghiệp có chương trình duy trì và cải tiến chất lượng đối với

mọi mặt hàng.

Bên cạnh các tiêu chí về chất lượng sản phẩm như trên, các doanh

nghiệp được phép sử dụng nhãn “Thương hiệu quốc gia” trước tiên phải là

những doanh nghiệp được lựa chọn từ các ngành Việt Nam có khả năng cạnh

tranh, từ các ngành mũi nhọn của đất nước.

Quyền lợi đối với các doanh nghiệp được chấp nhận tham gia chương

trình mang nhãn “Thương hiệu quốc gia”: (1) được phép dán nhãn “Vietnam

Value Inside”, (2) được tư vấn và trợ giúp xây dựng kế hoạch phát triển

thương hiệu xuất khẩu, (3) được hỗ trợ trong hoạt động quảng bá tại thị trường

quốc tế trong khuôn khổ chương trình “Vietnam Value Inside”, (4) được ưu

tiên trong quá trình lựa chọn đơn vị tài trợ tham gia các hội chợ trong nước và

quốc tế và các chương trình xúc tiến thương mại do Cục xúc tiến thương mại

chủ trì, (5) đặc biệt là được hỗ trợ 50% phí quảng cáo trên các ấn phẩm báo

chí, truyền hình và truyền thanh... do chương trình thực hiện.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp khi tham gia chương trình cần tuân thủ

đầy đủ các nghĩa vụ như: Cam kết đảm bảo chất lượng đúng tiêu chí của

chương trình, đảm bảo không làm giả, làm nhái nhãn, thường xuyên nâng cao

chất lượng, thiết kế phát triển sản phẩm mới và tổ chức quản lý, kinh doanh

theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam và quốc tế, mọi hoạt động của

doanh nghiệp phải đảm bảo giữ gìn và phát huy hình ảnh và uy tín quốc gia.

Nếu không thực hiện đúng, các doanh nghiệp sẽ bị đình chỉ ngay lập tức

quyền sử dụng nhãn sản phẩm quốc gia đồng thời phải bồi thường mọi thiệt

hại nếu có...

93

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Sự thành công của chương trình này phụ thuộc vào cố gắng của Chính

phủ, các cơ quan chức năng ở tất cả các cấp, các tổ chức xúc tiến thương mại

Việt Nam và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.

PHỤ LỤC 2: 10 THƯƠNG HIỆU GIÁ TRỊ NHẤT THẾ GIỚI NĂM 200318

18 Theo: Interbrand/Business Week

94

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Công ty mẹ

Tên thương hiệu

Xếp hạn g

Giá trị thương hiệu năm 2001 (tỷ USD)

Giá trị thương hiệu năm 2002 (tỷ USD)

Giá trị thương hiệu năm 2003 (tỷ USD)

Coca-Cola Company

68,95

69,64

70,45

1

COCA-COLA

Microsoft Group

65,07

64,09

65,17

2 MICROSOFT

52,75

51,19

51,77

3

IBM

International Business Machines Corp.

42,40

41,31

42,34

4 GE

General Electric Company

Intel Corp.

34,67

30,86

31,11

5

INTEL

Nokia Corp.

35,04

29,97

29,44

6

NOKIA

32,59

29,26

28,04

7

DISNEY

Walt Disney Company

McDonald’s Corp.

25,29

26,38

24,07

8 McDONALD’S

22,05

24,15

22,18

9 MARLBORO

Philip Morris Companies Inc.

21,73

21,01

21,37

10 MERCEDES

Daimler Chrysler AG

PHỤ LỤC 3: THOẢ ƯỚC NICE VỀ PHÂN LOẠI QUỐC TẾ ĐỐI VỚI

95

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

HÀNG HOÁ VÀ DỊCH VỤ VÌ MỤC ĐÍCH ĐĂNG KÝ NHÃN HIỆU

HÀNG HOÁ (1957)

Hàng hoá

Nhúm 1: Sản phẩm hoá học cho công nghiệp, nhiếp ảnh cũng như nông

nghiệp, nghề làm vườn và lâm nghiệp.

Nhúm 2: Thuốc màu, sơn, vecni; chất chống gỉ và chất bảo quản gỗ; thuốc

nhuộm, thuốc cắt màu; nhựa kim loại dạng thô

Nhúm 3: Chất tẩy trắng và cỏc chất khỏc dễ giặt

Nhúm 4: Dầu và mỡ cụng nghiệp

Nhúm 5: Các sản phẩm dược, thú y và vệ sinh

Nhúm 6: Kim loại thường và hợp kim của chỳng

Nhúm 7: Mỏy và mỏy cụng cụ

Nhúm 8: Cụng cụ và dụng cụ cầm tay thao tỏc thủ cụng

Nhúm 9: Thiết bị và dụng cụ khoa học, hàng hải, trắc địa, điện, nhiếp ảnh

điện ảnh, quang học.

Nhúm 10: Thiết bị và dụng cụ giải phẫu, y tế, nha khoa và thỳ y, chân tay,

mắt và răng giả; dụng cụ chỉnh hỡnh; vật liệu khõu vết thương

Nhúm 11: Thiết bị dùng để chiếu sáng, sưởi nóng, sinh hơi nước, nấu nướng

làm lạnh, sấy khô, thông gió, phân phối nước và thiết bị vệ sinh

Nhúm 12: Xe cộ; phương tiện giao thông trên bộ, trên không hoặc dưới nước

Nhúm 13: Vũ khớ bắn nổ; ngũi nổ và đạn dược; chất nổ; pháo hoa

Nhúm 14: Kim loại quý và cỏc hợp kim của chỳng, cỏc sản phẩm làm từ kim

loại này hoặc bọc bằng kim loại này mà khụng được xếp ở các nhóm khác; đồ

trang sức, đồ kim hoàn, đá quý; đồng hồ và dụng cụ đo thời gian

Nhúm 15: Dụng cụ õm nhạc

96

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ Nhúm 16: Giấy, các tông và sản phẩm bằng vật liệu này mà không được xếp

trong các nhóm khác; ấn phẩm; vật liệu để đóng sách; ảnh chụp; văn phũng

phẩm; keo dỏn dựng cho văn phũng hoặc dựng cho gia đỡnh; vật liệu dựng

cho cỏc nghệ sĩ; bỳt lụng; mỏy chữ và đồ dùng văn phũng (khụng kể đồ gỗ);

đồ dùng giảng dạy và học tập (không kể máy moác dùng cho mục đích thân);

chất dẻo để bao gói (không được xếp ô những nhóm khác); bài lá; chữ in; chữ

in đúc

Nhúm 17: Cao su, nhựa pec-ca, gôm, amiang, mi-ca và các sản phẩm làm từ

loại vật liệu này và không được xếp ở nhóm khác; bán thành phẩm bằng chất

dẻo; vật liệu để lèn chặt, bịt kín, cách ly; ống mềm phi kim loại

Nhúm 18: Rương hũm va li và tỳi du lịch; ô lọng và gậy chống; roi và yên

cương; da động vật.

Nhúm 19: Vật liệu xõy dựng phi kim loại; ống cứng phi kim loại dựng cho

xõy dựng; asphan, hắc ớn, bi tum; cỏc cụng trỡnh, cấu kiện phi kim loại vận

chuyển được; đài kỷ niệm phi kim loại

Nhúm 20: Đồ gỗ, gương, khung ảnh; sản phẩm bằng gỗ, li-e lau sậy….

Nhúm 21: Dụng cụ và đồ chứa dùng cho gia đỡnh và bếp nỳc (khụng làm

bằng kim loại quý và khụng được mạ bằng những kim loại ấy)

Nhúm 22: Dây, dây thừng, lưới, vải bạt, buồm, bao, túi (không được xếp vào

Nhóm khỏc)

Nhúm 23: Các loại sợi dùng để dệt

Nhúm 24: Vải và hàng dệt không xếp vào các nhóm khác; khăn chải bàn và

lau giường

Nhúm 25: Quần ỏo, giày dộp và mũ nún

Nhúm 26: Đăng ten và đồ thuê, ruy băng và dải; khuy, khuy bấm….

Nhúm 27: Thăm, chiếu, nệm chùi chân, vải sợi và các vật liệu trải sàn khác

giấy dán tường (trừ loại làm bằng hàng dệt)

97

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ Nhúm 28: Trũ chơi, đồ chơi; dụng cụ thể dục thể thao không xếp trong các

nhóm khác; đồ trang hoàng cây noel

Nhúm 29: Thịt, cá, gia cầm và thú săn…

Nhúm 30: Cà phờ, chố, ca cao, đường, gạo, bột sắn, bột cọ, chất thay thế cà

phê

Nhúm 31: Sản phẩm và hạt của nông nghiệp, nghề làm vườn và lâm nghiệp

không xếp vào các nhóm khác

Nhúm 32: Bia, nước khoáng, nước ga và cá loại đồ uống không có cồn;

Nhúm 33: Đồ uống có cồn

Nhúm 34: Thuốc lá, vật dụng cho người hút thuốc, diêm

Dịch vụ

Nhúm 35: Quảng cáo, quản lý kinh doanh, quản lý văn phũng

Nhúm 36: Bảo hiểm, tài chính, tiền tệ, bất động sản

Nhúm 37: Sửa chữa, lắp đặt

Nhúm 38: Viễn thụng

Nhúm 39: Vận tải

Nhúm 40: Xử lý vật liệu

Nhúm 41: Giáo dục, đào tạo, giải trí, các hoạt động thể thao và văn hoá

Nhúm 42: Cung cấp thực phẩm và đồ uống; chỗ ở tạm bợ, chăm sóc sức

khoẻ, vệ sinh và sắc đẹp; các dịch vụ thú y và nông nghiệp; các dịch vụ pháp

lý; nghiờn cứu khoa học và cụng nghệ; chương trỡnh mỏy tớnh (phần mềm);

cỏc dịch vụ khụng thể phõn loại vào cỏc nhúm khỏc.

98

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Tài liệu tham khảo

I. CÁC VĂN BẢN LUẬT

1. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 1995

2. Nghị định số 63/1996/NĐ-CP quy định chi tiết về Sở hữu công nghiệp

3. Nghị định số 06/2001/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định

63/1996/NĐ-CP quy định chi tiết về Sở hữu công nghiệp

4. Công ước Stockholm về việc thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới

(1976)

5. Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (1883)

6. Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ

của Tổ chức thương mại thế giới WTO - TRIPS (1994)

7. Hiệp ước Luật nhãn hiệu hàng hoá (1994)

8. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (2000)

9.

Đạo luật LanHam Act 1946 (The Lanham Act of 1946).

10. Thoả ước Nice về phân loại quốc tế đối với hàng hoá và dịch vụ vì mục đích

đăng ký nhãn hiệu hàng hoá (1957)

II. TẠP CHÍ THƯƠNG MẠI

11. Số 33 tháng 9/2003 - Phan Lê. Cần phân biệt nhãn hiệu hàng hoá với thương

hiệu

12. Số 32 tháng 8/2003 - Đoàn Tất Thắng. Những vấn đề đặt ra đối với việc đăng

ký nhãn hiệu Việt Nam ở nước ngoài

13. Số 32 tháng 8/2003 - Trịnh Phát Hiệp. Thương hiệu có nội hàm rộng hơn

nhãn hiệu

14. Số 32 tháng 8/2003 - Nguyễn Thanh Bình. Cơ chế thực thi quyền sở hữu trí

tuệ Hoa Kỳ

15. Số 30 tháng 8/2003 - H.T. Nhanh chóng ban hành Pháp lệnh thương mại điện

tử

99

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

16. Số 30 tháng 8/2003 - Nguyễn Như Tiến. Các biện pháp phòng chống rủi ro

trong thương mại điện tử

17. Số 25 tháng 7/2003 - Đoàn Thắng. Đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ở Hoa Kỳ

III. BÁO THƯƠNG MẠI

18. Số 91 (1126) 15/8/03 - Xây dựng thương hiệu đẳng cấp với giải pháp thị

trường

19. Số 84 (1119) 22/7/03 - Tên miền - Giải pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trên

Internet

20. Số 83 (1113) 18/7/03 - Các doanh nghiệp cần xây dựng và bảo vệ nhãn hiệu

hàng hoá của mình

21. Số 81 (1116) 11/7/03 - Làm thế nào để được bảo hộ thương hiệu tại Mỹ?

22. Số 81 (1116) 11/7/03 - Thương hiệu Việt trong quá trình hội nhập AFTA

23. Số 78 (1113) 1/7/03 - Đăng ký nhãn hiệu ở nước ngoài là bảo vệ lợi ích quốc

gia

24. Số 75 (1109) 24/6/03 - Không để xảy ra ùn tắc trong hoạt động đăng ký nhãn

hiệu hàng hoá

IV. CÁC TRANG WEB

25. http://www.uspto.gov (Văn phòng Sáng chế và thương hiệu Hoa Kỳ) 26. http://www.wipo.org (Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới)

27. http://www.mpi.gov.vn (Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam)

28. http://www.vietnamembassy-usa.org (Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ)

29. http://www.vcci.com.vn (Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam)

30. http://www.intelproplaw.com (Dữ liệu luật về Sở hữu trí tuệ của USPTO)

31. http://www.luatgiapham.com (Công ty Tư vấn và Đại diện Sở hữu trí tuệ)

32. http://www.wincolaw.com.vn (Công ty Tư vấn và Đại diện Sở hữu trí tuệ)

33. http://www.ageless.com.vn (Công ty Tư vấn và Đại diện Sở hữu trí tuệ) 34. http://www.invenco.vnn.vn (Công ty Tư vấn và Đại diện Sở hữu trí tuệ) 35. http://www.thuonghieuviet.com.vn (Chương trình triển lãm thương hiệu

Việt)

36. http://www.sgtt.com.vn (Báo Sài Gòn tiếp thị)

100

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

37. http://www.vneconomy.com.vn (Báo Thời báo Kinh tế Việt Nam)

V. SÁCH

38. Tạo dựng và quản trị thương hiệu. Danh tiếng - Lợi nhuận. Viện nghiên cứu

và đào tạo về quản lý, NXB Lao động xã hội, Hà Nội 2003

39. Thương hiệu Việt (Dự án “Hỗ trợ doanh nghiệp về năng lực xây dựng -

quảng bá thương hiệu”), NXB Trẻ và Câu lạc bộ Doanh nghiệp Hàng Việt Nam

chất lượng cao, Hà Nội 12/2002

40. 99 Câu hỏi về nhãn hàng hoá và nhãn hiệu hàng hoá. Viện nghiên cứu và đào

tạo về quản lý, NXB Lao động xã hội, Hà Nội 2001

41. Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ. PGS. TS. Võ Thanh Thu, Nguyễn

Cương, Nguyễn Thị Mỵ, NXB Thống Kê, Hà Nội 2001

42. Chiến lược quản lý nhãn hiệu. Thanh Hoa, NXB Thanh Niên, Hà Nội 2000

43. Các thông tin khái quát mà các doanh nhân cần biết về sở hữu trí tuệ. Dự án

EC - Vietnam về sở hữu trí tuệ, Cục Sở hữu công nghiệp Việt Nam, Hà Nội 2000

44. Marketing căn bản - Marketing essentials. Philip Kotler, NXB Thống Kê, Hà

Nội 1999

VI. TÀI LIỆU KHÁC

45. Tài liệu “Hội thảo về thực thi quyền Sở hữu trí tuệ” tại Hà Nội và TP. Hồ Chí

Minh 27/05/2002-31/05/2002.

46. Tài liệu “Hội thảo khu vực Asian của WIPO về Bảo hộ quốc tế Nhãn hiệu

hàng hoá” tại Hà Nội 23/10/2001.

47. Tài liệu “Hội thảo Đưa các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia vào pháp

luật Việt Nam” tại Hà Nội 3-14/12/2000.

101

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

Mục lục

Lời nói đầu ................................................................................................ 1

CHƯƠNG I: NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ VÀ ĐĂNG KÝ NHÃN HIỆU HÀNG

HOÁ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ ..................................................... 3

I. Khái quát chung về nhãn hiệu hàng hoá ..................................................... 3

1. Khái niệm nhãn hiệu hàng hoá ................................................................. 3

1.1 Định nghĩa nhãn hiệu hàng hoá............................................................................ 3

1.2 Phân biệt nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu thương mại và thương hiệu .............5

2. Một số loại nhãn hiệu hàng hoá ..................................................................... 6

2.1 Nhãn hiệu liên kết ................................................................................................ 6

2.2 Nhãn hiệu tập thể ................................................................................................. 7

2.3 Nhãn hiệu nổi tiếng .............................................................................................. 7

2.4 Nhãn hiệu chứng nhận ............................................................................. 8

3. Điều kiện đối với các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá .................. 8

3.1 Các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá được bảo hộ................................... 8

3.2 Các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá không được bảo hộ ................... 9

4. Chức năng, vai trò của nhãn hiệu hàng hoá ........................................... 10

4.1 Đối với người tiêu dùng ...................................................................................... 10

4.2 Đối với doanh nghiệp ......................................................................................... 14

102

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

4.3 Đối với quốc gia .................................................................................... 14

II. Tầm quan trọng của việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá trong thương

mại quốc tế ..................................................................................................... 15

1. Sự hình thành và phát triển hệ thống luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá 15

2. Tác dụng của việc đăng ký nhãn hiệu trong thương mại quốc tế ........... 16

2.1 Đối với doanh nghiệp thương mại nói chung .................................................... 16

2.1.1 Chống lại hành vi giả mạo và cạnh tranh không lành mạnh ...... 16

2.1.2 Tạo khả năng độc quyền khai thác thương hiệu ......................... 18

2.1.3 Thúc đẩy hợp tác, liên doanh liên kết và chuyển giao công nghệ 18

2.1.4 Thâm nhập thị trường nước ngoài dễ dàng ................................ 19

2.1.5 Đứng vững trước rào cản cạnh tranh không lành mạnh tại thị

trường nước ngoài ............................................................................... 20

2.1.6 Góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế ........................ 20

2.2 Đối với các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu nói riêng ............................ 21

2.2.1 Khắc phục khả năng tài chính hạn hẹp ...................................... 21

2.2.2 Khắc phục hiểu biết hạn chế về thị trường đối tác ...................... 21

2.2.3 Tạo chỗ đứng và nâng cao vị thế của hàng Việt Nam ................. 22

III. Thực trạng nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam về việc đăng ký

nhãn hiệu hàng hoá ............................................................................... 22

1. Thực trạng việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trong nước ...................... 22

2. Thực trạng việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ở thị trường nước ngoài . 25

CHƯƠNG II: ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ TẠI THỊ

TRƯỜNG HOA KỲ ........................................................................................... 27

I. Các quy định pháp lý của Hoa Kỳ về nhãn hiệu hàng hoá ......................... 27

1. Các Điều ước quốc tế về nhãn hiệu hàng hoá mà Hoa Kỳ là thành viên 27

1.1 Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp .................................................. 27

103

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

1.2 Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ

............................................................................................................................ 30

1.3 Hiệp ước Luật nhãn hiệu hàng hoá ................................................................... 33

1.4 Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá trong các Hiệp định song phương ............ 36

2. Luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của Hoa Kỳ ........................................ 38

2.1 Những quy định cơ bản về nhãn hiệu hàng hoá trong Luật Liên bang ......... 40

2.1.1 Đối tượng được bảo hộ ............................................................... 40

2.1.2 Phạm vi và thời hạn bảo hộ ........................................................ 41

2.1.3 Nguyên tắc bảo hộ ...................................................................... 42

2.1.4 Hình thức xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá ................ 42

2.2 Những điểm khác biệt giữa Luật riêng từng bang và Luật Liên bang .......... 43

II. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại Hoa Kỳ ...................................... 45

1. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá trực tiếp tại Hoa Kỳ ..................... 45

1.1 Nộp đơn đăng ký và thẩm tra đơn đăng ký ............................................... 47

1.1.1 Cơ sở nộp đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá ................... 47

1.1.2 Nội dung của đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ......................... 47

1.1.3 Người có quyền nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ............... 48

1.2 Chỉ định người đại diện ..................................................................................... 49

1.3 Xét nghiệm đơn đăng ký và công bố kết quả xét nghiệm ................................. 49

1.4 Thể thức khiếu nại ............................................................................................. 51

2. Đăng ký nhãn hiệu hàng hoá qua Internet vào thị trường Hoa Kỳ ........ 54

2.1 Quy trình đăng ký nhãn hiệu hàng hoá qua Internet ....................................... 54

2.2 Một số điểm cần lưu ý ............................................................................ 57

CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO

HỘ NHÃN HIỆU HÀNG VIỆT NAM TẠI THỊ TRƯỜNG HOA KỲ ............ 60

104

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ

I. Một số điểm cần lưu ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi tiến hành

đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại Hoa Kỳ ................................................... 60

1. Thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam bị mất thương hiệu trên thị trường

Hoa Kỳ ........................................................................................................ 61

1.1 Cuộc chiến thương hiệu cá da trơn Catfish ........................................................... 61

1.2 Vụ tranh chấp thương hiệu cà phê Trung Nguyên ................................................. 63

1.3 Vụ tranh chấp thương hiệu PetroVietnam ............................................................. 64

1.4 Các vụ tranh chấp thương hiệu khác ..................................................................... 66

2. Những tồn tại trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị

trường Hoa Kỳ ........................................................................................ 68

2.1 Nhận thức của doanh nghiệp về nhãn hiệu và đăng ký nhãn hiệu ................... 68

2.2 Tâm lý lo ngại thủ tục khó khăn và tốn kém ..................................................... 69

2.3 Hiểu biết hạn chế về luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của Hoa Kỳ .................. 70

II. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ nhãn hiệu hàng Việt Nam

tại thị trường Hoa Kỳ .................................................................................. 70

1. Đối với các cơ quan chức năng của Nhà nước ........................................ 70

1.1 Tích cực chỉ đạo công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật về bảo hộ nhãn

hiệu hàng hoá của Hoa Kỳ ....................................................................................... 70

1.2 Tuyên truyền về vai trò của thương hiệu và bảo hộ thương hiệu ..................... 71

1.3 Tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp về vấn đề thông tin ................................... 72

1.4 Xây dựng hệ thống luật thương mại điện tử ..................................................... 73

1.5 Các biện pháp khác ............................................................................................ 74

2. Đối với các doanh nghiệp ........................................................................ 74

2.1 Nâng cao nhận thức về sức mạnh thương hiệu và bảo hộ thương hiệu ........... 74

2.2 Chủ động tiếp cận các thông tin, đặc biệt là các thông tin pháp lý .................. 76

2.3 Quan tâm đến việc đăng ký bảo hộ thương hiệu ở nước ngoài ........................ 77

2.4 Lưu trữ đầy đủ bằng chứng sử dụng thương hiệu trong hoạt động thương mại 77

2.5 Các biện pháp ngăn ngừa tranh chấp nhãn hiệu hàng hoá .............................. 78

2.6 Nâng cao trình độ ngoại ngữ, vi tính của các doanh nhân ................................ 80

105

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ Kết luận .................................................................................................... 81

Phụ lục ...................................................................................................... 82

Tài liệu tham khảo ................................................................................ 90

106

Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT