intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn đề tài: Biện pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học giáo dục của sinh viên Đại học Sư phạm

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:104

756
lượt xem
274
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trước những yêu cầu về phát triển văn hóa xã hội và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX đã giao cho ngành giáo dục nhiệm vụ: “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học…Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên đề cao năng lực tự học tự hoàn thiện”. ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn đề tài: Biện pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học giáo dục của sinh viên Đại học Sư phạm

  1. LUẬN VĂN: Biện pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học giáo dục của sinh viên Đại học Sư phạm
  2. MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Trước những yêu cầu về phát triển văn hóa xã hội và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX đã giao cho ngành giáo dục nhiệm vụ: “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học…Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên đề cao năng lực tự học tự hoàn thiện”. [26, tr109] Với trách nhiệm nặng nề nhưng vô cùng quan trọng đó, các trường đại học đã khẳng định lại mục tiêu của mình là đào tạo các nhà chuyên môn giỏi, có trình độ tri thức khoa học vững vàng, có khả năng tư duy năng động, sáng tạo để giải quyết các vấn đề mà thực tiễn đòi hỏi. Nhằm thực hiện mục tiêu đó, các trường đại học không ngừng tìm tòi các biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo, một trong những biện pháp quan trọng là đưa SV vào hoạt động NCKH. NCKH là một hình thức tổ chức dạy học đặc thù ở đại học có tác dụng giúp SV chủ động học tập, tìm tòi sáng tạo, vừa nắm vững tri thức mới, vừa luyện tập vận dụng các phương pháp nhận thức mới, đồng thời rèn luyện thói quen và hình thành các KNNCKH, nó có tác dụng rất lớn đến quá trình và kết quả học tập của SV. Tuy nhiên, hiện nay việc tổ chức đưa SV vào hoạt động NCKH còn nhiều khó khăn, vướng mắc, các biện pháp tổ chức chưa đạt được hiệu quả cần phải có. Ngày 30 tháng 3 năm 2000, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có quyết định số 08/2000/QĐ-BGD&ĐT ban hành Quy chế NCKH của SV các trường đại học và cao đẳng. Để góp phần đưa quyết định này thành hiện thực trong các trường sư phạm, chúng tôi chọn vấn đề: “ Biện pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học giáo dục của sinh viên Đại học Sư phạm ” làm đề tài nghiên cứu. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất những biện pháp nâng cao chất lượng NCKHGD của SV Đại học Sư phạm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường ĐHSP hiện nay. 3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
  3. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động NCKHGD của SV Đại học Sư phạm. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp nâng cao chất lượng NCKHGD của SV Đại học Sư phạm. 4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC Nếu trong quá trình tổ chức NCKHGD của S V Đại học Sư phạm chú trọng đến việc chuẩn bị tâm lý, gây hứng thú, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng nghiên cứu, tạo điều kiện vật chức và kỹ thuật thuận lợi cùng với việc quy chế hóa hoạt động này thì chất lượng NCKHGD của SV sẽ được nâng lên. 5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về NCKHGD của SV Đại học Sư phạm. 5. 2. Nghiên cứu thực trạng NCKHGD của SV ở trường Đại học Sư phạm phiá Nam. 5.3. Đề xuất những biện pháp cơ bản có cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng NCKHGD của SV. 6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Chúng tôi nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động NCKHGD của SV Đại học Sư phạm. Để thuận lợi cho việc điều tra thực trạng và tiến hành TNSP, chúng tôi chỉ nghiên cứu các trường ĐHSP phía Nam. 7. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7.1. Phương pháp luận Đề tài được nghiên cứu dựa các cơ sở phương pháp luận sau đây: 7.1.1. Lý thuyết hoạt động - nhân cách Lý thuyết hoạt động- nhân cách đã được A.N. Leonchiev giải thích như sau: hoạt động là phương thức tồn tại của chủ thể, là quy luật chung nhất của tâm lý người. “Hoạt động là mối liên hệ thực tế của chủ thể với khách thể mà trong mối liên hệ này hoặc khác, cá nhân cần tiếp thu, ghi nhớ, suy nghĩ và trở thành chăm chỉ. Trong quá trình hoạt động, ở cá nhân xuất hiện tình cảm này hoặc khác, thể hiện phẩm chất, ý chí, hình thành tâm thế, thái độ v.v…”[63, tr305]. Hoạt động là tính tích cực bên trong và bên ngoài của con người được điều chỉnh bởi mục đích tự giác, gắn nhận thức và ý chí. Đối tượng và chủ thể hoạt động là thể thống nhất hữu cơ trong suốt quá trình hoạt động. Vận dụng lý thuyết hoạt động- nhân cách, chúng tôi thấy đưa SV vào hoạt động NCKH sẽ giúp họ luyện tập hình thành năng lực NCKH, tạo ra nội lực, niềm tin và sức mạnh trí tuệ.
  4. 7.1.2. Quan điểm hệ thống- cấu trúc Tiếp cận quan điểm hệ thống- cấu trúc, chúng tôi nhận thấy hoạt động NCKH bao gồm các yếu tố sau đây: - Mục đích của hoạt động NCKHGD - Động cơ của hoạt động NCKHGD, đòi hỏi GV thực hiện các biện pháp nhằm kích thích ở SV sự hứng thú, nhu cầu giải quyết nhiệm vụ NC. - Nội dung NCKHGD được quy định bởi kế hoạch đào tạo, chương trình bộ môn và giáo trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. - Thao tác - hành động của hoạt động NCKH được thực hiện bằng các phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức NCKH. - Kiểm soát - điều chỉnh, đòi hỏi phải tiến hành đồng thời việc kiểm tra giải quyết các nhiệm vụ đề ra từ phía GV và tự kiểm tra của SV. - Đánh giá hiệu quả, đòi hỏi đánh giá của GVvà sự tự đánh giá của SV về kết quả đã đạt được trong quá trình hoạt động NCKH. Tất cả các yếu tố trên đây của hoạt động NCKH đều nằm trong mối liên hệ tác động qua lại theo những quy luật nhất định. 7.1.3. Quan điểm thực tiễn Quan điểm thực tiễn yêu cầu chú ý đến các mặt sau đây: + Việc nghiên cứu các biện pháp phải xuất phát từ sự phân tích tình hình thực tiễn hoạt động NCKHGD. + Chất lượng NCKHGD của SV khi áp dụng các biện pháp đề xuất phải được nâng cao rõ rệt (đo đạc được). + Tính khả thi của các biện pháp không dừng lại ở mô hình lý thuyết mà còn phải tính đến điều kiện đảm bảo khả năng thực hiện được trong hoạt động NCKHGD của SV. 7.2. Phương pháp nghiên cứu 7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu lý thuyết nhằm tìm ra cơ sở lý luận của hoạt động NCKHGD của SV. 7.2.2. Phương pháp điều tra Chúng tôi sử dụng phương pháp điều tra cơ bản, nhằm thu thập thông tin về thực trạng hoạt động NCKHGD của SV ở ĐHSP.TPHCM.
  5. 7.2.3. Phương pháp quan sát sư phạm Chúng tôi xác định mục tiêu quan sát là những biểu hiện của nhận thức, thái độ và hành vi của SV trong các hình thức hoạt động nghiên cưú khoa học. 7.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm Chúng tôi tiến hành phân tích chất lượng các sản phẩm NCKHGD của SV với các nội dung sau: - Năng lực vận dụng các PPNC. - Các KNNCKH như soạn thảo phiếu điều tra, xây dựng giả thuyết thực nghiệm, tra cứu tài liệu, trích dẫn tài liệu, vẽ sơ đồ, biểu đồ… - Kết quả đề tài NCKHGD về điểm số, nội dung và hình thức. 7.2.5. Phương pháp chuyên gia Chúng tôi lấy ý kiến chuyên gia về các nội dung sau: - Đánh giá hoạt động NCKHGD của SV : - Xác định các trọng số đo kĩ năng NCKHGD của SV qua các sản phẩm cụ thể. - Quy trình thực nghiệm khoa học. 7.2.6. Phương pháp xử lý kết quả nghiên cứu bằng toán thống kê Trong đề tài chúng tôi thể hiện kết quả nghiên cứu dưới dạng tần số, tần suất. Các biến định tính và định lượng được xử lý với chương trình SPSS for Windows 12.0 Một số công thức toán thống kê được sử dụng trong đề tài: Chi bình phương (X2) - - Kiểm nghiệm tương quan bằng bảng phân phối t (student) - Kiểm nghiệm F - Tương quan nhị phân (Biseral Correlation) - Hệ số tương quan tuyến tính, ký hiệu r (còn gọi hệ số tương quan Pearson) - Hệ số tương quan thư hạng, ký hiệu R (còn gọi là hệ số tương quan Spearman), - Thống kê tần số, tỷ lệ %. 8. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Về lý luận: - Hệ thống hoá cơ sở lý luận về các biện pháp nâng cao chất lượng NCKHGD
  6. của SV Đại học Sư phạm. - Xác định cấu trúc họat động NCKHGD của SV . Về thực tế: - Nghiên cứu thực trạng hoạt động NCKHGD của SV ở các trường Đại học Sư phạm phía Nam, phát hiện những nguyên nhân và hiệu quả của các biện pháp đó. - Xây dựng quy trình rèn KNNCKHGD cho SV qua các hình thức tổ chức dạy học: seminar, BTMH, KLTN. - Xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng NCKHGD qua các kĩ năng nghiên cứu trong các sản phẩm seminar, BTMH, KLTN.
  7. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NHỮNG BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC CỦA SINH VIÊN 1.1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NCKH của SV là một hoạt động không thể thiếu trong quá trình đào tạo ở các trường cao đẳng, đại học. Đây cũng là hình thức tổ chức dạy học đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo của nhà trường. Chính vì thế, việc tổ chức, rèn luyện cho SV kỹ năng hoạt động NCKH đã trở thành vấn đề cấp thiết thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học giáo dục trong và ngoài nước. 1.1.1. Ở nước ngoài Trong các trường cao đẳng, đại học ở Liên Xô trước đây, người ta coi luận văn, khoá luận tốt nghiệp của sinh viên là hình thức NCKH ở mức độ cao. Từ những góc độ khác nhau của quan điểm này, các giả đã chú ý đến những nội dung sau đây: a) Về tác dụng và tầm quan trọng của NCKH thông qua việc làm niên luận, khoá luận Năm 1971, Lubixưna M.T và Gơrôxepxki. A.A trong “Tổ chức công việc tự học của SV” [34] cho rằng: Khóa luận tốt nghiệp của SV đại học là một trong những hình thức hoàn thiện về mặt đào tạo khoa học cho SV, đây là hình thức tự học, tự nghiên cứu độc lập có hiệu quả thiết thực đối với việc nâng cao trình độ tay nghề ở người SV. Chú ý đến hứng thú và kĩ năng ứng dụng tri thức của sinh viên, năm 1979 Ackhanghenxki S.I trong “Những bài giảng về lý luận dạy học ở Đại học” [1] cho rằng: Một trong những con đường để phát triển hứng thú nhận thức và kỹ năng ứng dụng tri thức của SV là các bài kiểm tra, các khóa luận, những trắc nghiệm chuyên môn. Theo tác giả: “khóa luận, đồ án tốt nghiệp là công trình độc lập cuối cùng của SV trong năm học cuối”. Khóa luận tốt nghiệp là công trình khoa học độc đáo, trình bày một trong những vấn đề cấp thiết của ngành chuyên môn nào đó mà SV nghiên cứu. Năm 1982, Zinôviev S.I trong “Quá trình dạy học ở trường Đại học Xô Viết” [124] đã nhấn mạnh ý nghĩa của niên luận, khóa luận đối với quá trình đào tạo. Cũng theo tác giả khi thực hiện niên luận, khoá luận thì mức độ độc lập và tập dượt NCKH của SV được nâng dần lên qua đó giúp họ có những quan điểm, thái độ đối với những tác phẩm khoa học và những phẩm chất, năng lực của người NCKH cũng được hình thành. Mặt khác để SV thành công trong NCKH, tác giả cũng quan tâm đến các vấn đề
  8. giúp họ giải quyết khó khăn khi chọn đề tài, xây dựng cấu trúc của công trình nghiên cứu. b) Về tổ chức và phương pháp NCKH Năm 1972 P.T.Prikhodko trong tác phẩm “Tổ chức và phương pháp công tác NCKH” [77] đã giới thiệu những nét đặc trưng cơ bản về phương pháp nghiên cứu của các công trình khoa học, để giúp cho các cán bộ NCKH mới vào nghề và các chuyên gia nâng cao trình độ nghiên cứu. Năm 1983, G.I.Ruravin trong “Các phương pháp nghiên cứu khoa học” [85], ở một khía cạnh khác, tác giả chú ý phân tích những biện pháp, phương tiện và phương pháp nhận thức nhằm thu được tri thức mới trong khoa học. Như vậy, các tác giả trong những tài liệu nêu trên đã đặt vấn đề quan trọng việc thực hiện niên luận, khóa luận tốt nghiệp của SV. Họ đều coi đây là những công việc tập dượt NCKH và cũng là những công trình độc lập trong quá trình đào tạo, nhờ đó mà SV có khả năng học tập suốt đời. Theo họ, NCKH là một hoạt động để nâng cao chất lượng đào tạo các chuyên gia, các cán bộ khoa học phù hợp với yêu cầu của nền sản xuất và khoa học hiện đại. Tuy nhiên một số vấn đề như cách tổ chức, phương pháp rèn KNNC, cách kiểm tra đánh giá và những điều kiện khác để thực hiện việc NCKH của SV các tác giả đề cập tới nhưng còn ở mức độ chung chung và khái quát. Ở một số nước khác, hoạt động NCKH của SV các trường cao đẳng, đại học cũng được nhiều nhà khoa học giáo dục quan tâm. Các tác giả đã đề cập đến những vấn đề sau đây: c) Về những kĩ năng cụ thể để giúp sinh viên trong quá trình NCKH Ở Hoa Kỳ, năm 1963 Francesco Cordasco và Elliots S.M.Galner trong “Rescarch and Report Writing” [15], đã chỉ dẫn những kỹ năng cụ thể để SV thực hiện công trình nghiên cứu như lựa chọn đề tài, cách sử dụng thư viện, thu thập và cấu trúc tài liệu, các kỹ thuật kết cấu bản báo cáo nghiên cứu… tài liệu giúp SV tránh được những sai sót khi tập dượt nghiên cứu. d)Về việc lập kế hoạch NCKH Ở Singapore, năm 1983 Keith Howard và John A.Sharp đã biên soạn tài liệu: “ The management of a student research project” [131] nhằm giúp SV biết cách quản lý kế hoạch nghiên cứu. Theo các tác giả nếu SV quản lý được kế hoạch nghiên cứu thì họ sẽ làm chủ công trình của mình và tất nhiên sẽ tránh được những khó khăn, vấp váp khi
  9. nghiên cứu. Các tác giả đã trình bày trong tài liệu những vấn đề về nghiên cứu, chọn lựa và đánh giá, xây dựng kế hoạch cho một đề tài nghiên cứu, tập hợp và phân tích dữ liệu, xử lý KQNC. Năm 1990, Gary Anderson (New York), trong “Fundamentals of educational Research” [126], đã giúp SV và những người nghiên cứu ở mọi lĩnh vực có thể xây dựng được cho mình một kế hoạch nghiên cứu với những phương pháp cần thiết. Trong tài liệu tác giả đặt trọng tâm vào việc giới thiệu các các nguyên tắc, các phương pháp cũng như những công cụ, kỹ thuật cần thiết khi nghiên cứu giáo dục. Phương pháp nghiên cứu đượctác giả quan tâm là phương pháp mô tả, thử nghiệm. e) Về những vấn đề lý thuyết trong NCKH Năm 1996, Brian Allison (Singapore) trong “Research skills for students - National institute of education” [125] đã cung cấp cho SV những lý thuyết về những KNNC, như kỹ năng tiến hành một cuộc điều tra mẫu, thiết kế một bảng câu hỏi và những kỹ thuật khi sử dụng phương pháp phỏng vấn... h) Về các phương pháp điều tra và đo lường Sổ tay quốc tế Educational Research, Methodology and Measurement [133] do John P. Keeves, Australia, tổng chủ biên (1996) là một cuốn tài liệu có giá trị trên 1000 trang. Trong tài liệu này, tập thể tác giả đã giới thiệu các quá trình và phương pháp nghiên cứu giáo dục, đặc biệt là các thủ tục và kỹ thuật nghiên cứu, đo lường, sử dụng máy tính và các thiết bị kỹ thuật trong NCKHGD. 1.1.2. Ở trong nước Có khá nhiều bài viết được đăng trên báo và tạp chí về chủ đề NCKH, tuy nhiên trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi quan tâm đến hai nội dung có liên quan là lý luận về NCKHGD và hoạt động NCKHGD của sinh viên. a) Các bài viết về lý luận NCKHGD có thể kể ra là: Bản chất của nghiên cứu khoa học, Nguyễn Trọng Hoàng [44]; Phương pháp mô hình trong KHGD, Nguyễn Hữu Long [65]; Những nguyên lý cơ bản của phương pháp học Mác- Lênin về nghiên cứu khoa học giáo dục, Nguyễn Trọng Hoàng [46]; Tìm hiểu một số phương pháp tiếp cận nghiên cứu khoa học giáo dục, Thái Duy Tuyên [104]; Những phẩm chất và năng lực cơ bản cần cho công tác nghiên cứu khoa học” Nguyễn Trọng Hoàng [45],và Chọn đề tài nghiên cứu khoa học” Nguyễn Trọng Hoàng [47] … b) Các bài viết về NCKHGD của sinh viên có hai nội dung đáng quan tâm: một
  10. là khẳng định tầm quan trọng của NCKHGD trong sinh viên, hai là đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả của các hoạt động này. Theo hướng thứ nhất có thể kể đến “Hoạt động nghiên cứu khoa học của SV” [86], Nguyễn Thạc. Theo tác giả “công tác nghiên cứu khoa học của sinh viên là phương pháp có hiệu quả nhất trong việc đào tạo những người chuyên gia mới có chất lượng ở đại học”. Nguyễn Cảnh Toàn trong tuyển tập tác phẩm “Tự giáo dục, tự học, tự nghiên cứu” cũng đã nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của NCKH và NCKHGD đối với trường sư phạm. Đặc biệt tác giả nhấn mạnh đến trách nhiệm của người thầy ở đại học là phải gây hứng thú tập dượt, tìm tòi, nghiên cứu cho SV [93 ]. Theo hướng đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả của các hoạt động NCKHGD của sinh viên, các tác giả cho rằng: cần đưa vào quá trình học tập các yếu tố nghiên cứu do sinh viên thực hiện như viết các bản tóm tắt chuẩn bị cho seminar, làm bài tập lớn, viết khóa luận [86}, cần đào tạo một cách cơ bản và có hệ thống về phương pháp nghiên cứu khoa học ngay từ năm thứ nhất cho sinh viên vì sinh viên “thường rất thụ động và phụ thuộc nhiều vào người hướng dẫn”, bỏ phí nhiều thời gian và công sức do không hiểu đầy đủ cách tổ chức và phương pháp nghiên cứu khoa học [43]. Phan Huy Lê trong bài viết “Việc bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu khoa học cho SV đại học” [60], đã đề xuất cách bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu cho sinh viên khi giảng dạy là “kết hợp giảng kiến thức với phương pháp đưa đến kiến thức đó” để qua bài giảng sinh viên không chỉ nâng cao kiến thức mà còn được rèn luyện tư duy, bồi dưỡng phương pháp khoa học”. Ngoài ra, còn có một số bài viết khác như: “Công tác nghiên cứu khoa học với việc nâng cao chất lượng đào tạo” [76] của Nguyễn Tấn Phát; “Đưa kết quả NCKHGD vào thực tiễn trường học” [70] của Hà Thế Ngữ. Tác giả đã cho rằng việc đưa kết quả NCKHGD vào thực tiễn trường học là một vấn đề quan trọng của phương pháp luận GDH. Giải quyết đúng đắn vấn đề này sẽ thúc đẩy sự phát triển KHGD, đem lại những tiến bộ vững chắc cho công tác dạy học và giáo dục, đồng thời nâng cao hiệu quả kinh tế của NCKHGD. Năm 1974, Hà Thế Ngữ- Đức Minh- Phạm Hoàng Gia, biên soạn tài liệu “Bước đầu tìm hiểu phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục” [71 ]. Đây là tài liệu đầu tiên ở trong nước gợi ý về cách thức NCKHGD nhằm phục vụ đông đảo giáo viên và cán bộ giáo dục đang nghiên cứu nâng cao chất lượng hoạt động dạy học, giáo dục và quản lý,
  11. chỉ đạo giáo dục. Năm 1981, Phạm Minh Hạc và nhiều tác giả khác đã biên soạn “Phương pháp luận khoa học giáo dục” [35], tài liệu được xuất bản trước Hội thảo lần thứ II của đề tài nghiên cứu tập thể về Phương pháp luận và Phương pháp NCKHGD. Nội dung tài liệu trình bày có tính chất đặt vấn đề đối với NCKHGD trong thực tiễn ở nước ta, những vấn đề cơ bản của phạm trù và một số chuyên ngành KHGD… Năm 1992, Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức có giáo trình “Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục”[50]. Các tác giả đã trình bày những khái niệm chung về PPLKHGD, những nguyên tắc PPL và một số vấn đề có tính chất PPL của KHGD, các PPNCKHGD và các giai đoạn nghiên cứu một đề tài KHGD. Năm 1995, Lê Tử Thành với giáo trình “Logic học và phương pháp luận nghiên cứu khoa học” [88 ], đã đáp ứng phần nào nhu cầu của SV, học viên cao học về kiến thức và biết cách tiến hành việc NCKH hợp lý, hiệu quả. Năm 1995, Nguyễn Văn Lê, trong tài liệu “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học” [59] đã giúp học viên biết cách chọn đề tài, chuẩn bị nghiên cứu và có kiến thức về các phương pháp dùng để nghiên cưú khoa học. Năm 1995, tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa với “Phương pháp và kỹ thuật trong nghiên cưú xã hội” [67] đã giới thiệu với SV một số vấn đề, phương pháp và kỹ thuật cơ bản trong việc thu thập và phân tích các dữ kiện xã hội, tác giả chú trọng hơn các phương pháp và kỹ thuật trong nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng. Năm 1996-1997, Phạm Viết Vượng biên soạn 2 giáo trình “Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục” [120] và “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học” [119], nhằm cung cấp cho SV, học viên những kiến thức chung về ph ương pháp luận, phương pháp, cấu trúc công trình nghiên cưú khoa học, các giai đoạn tiến hành một đề tài NCKHGD và những vấn đề về KNNCKHGD để giúp họ thực hiện được công trình NCKH. Năm 1997, Hoàng Đức Nhuận với “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học và phương pháp luận nghiên cứu khoa học giáo dục” [72] đã cung cấp cho SV và học viên cao học những vấn đề chung về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. Năm 1999, Vũ Cao Đàm trong giáo trình “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học” [23], đã trình bày những kiến thức về phương pháp luận, cấu trúc một công trình NCKH, vấn đề khoa học được trình bày theo một mối liên hệ logic với ý tưởng khoa
  12. học và những hướng dẫn cụ thể cho những người mới bước vào nghiên cứu, đặc biệt lưu ý tới các đối tượng là SV và nghiên cứu sinh. Năm 1999, Phạm Trung Thanh trong tài liệu “Phương pháp học tập nghiên cứu của SV cao đẳng đại học” [87] đã nhấn mạnh việc tập dượt NCKH là một nhiệm vụ quan trọng cuả SV ở trường cao đẳng, đại học, tác giả cũng đề cập đến các hình thức NCKH của SV như làm tiểu luận, khóa luận, luận văn hoặc tham gia nghiên cứu tập thể về một đề tài nào đó cùng thầy cô hoặc do thầy cô hướng dẫn. Ngoài ra tác giả cũng nêu một cách sơ lược về quy trình thực hiện các hình thức nghiên cứu cũng như những đòi hỏi về phẩm chất của SV khi tham gia NCKH. Năm 2001, Phạm Văn Quyết và Nguyễn Quý Thanh trong tài liệu: “Phương pháp nghiên cứu xã hội học” [83] trình bày rất chi tiết những vấn đề về phương pháp luận nhận thức xã hội học, về cách thiết kế một nghiên cứu xã hội học, cũng như những quy tắc, những phương pháp, những cách thức, thủ tục cần thiết cho việc thực hiện nghiên cứu xã hội. Có thể nói rằng, trong những giáo trình đã nêu, các tác giả đều tập trung vào việc cung cấp cho SV kiến thức về phương pháp luận, PPNC, quy trình thực hiện và KNNCKH nói chung và NCKHGD nói riêng, trên cơ sở đó họ có thể tổ chức và thực hiện công trình NCKH của mình. Các tài liệu đã phần lớn đáp ứng được yêu cầu đào tạo của các trường cao đẳng, đại học và yêu cầu của người NCKH. Các luận văn thạc sĩ của Nguyễn Lệ Thuỷ, Nguyễn Thị Hảo (1986), Cao Thị Thu Hằng (2000), Nông Thị Hạnh (2000), đã tiến hành khảo sát thực trạng NCKHGD của SV các trường Cao đẳng, Đại học sư phạm để trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng NCKHGD của SV. Cụ thể: Nguyễn Thị Hảo với đề tài “Tìm hiểu quá trình hình thành kĩ năng nghiên cứu khoa học giáo dục cho SV các trường Đại học sư phạm” [39], đã đề xuất các biện pháp hình thành cho SV KNNCKHGD, đó là: - Dạy lý thuyết về phương pháp NCKHGD. - Tổ chức cho SV thực hiện các bài tập sáng tạo, là phương pháp cơ bản nhất để hình thành cho SV hệ thống KNNC. Nguyễn Lệ Thuy [90], với đề tài “Tìm hiểu tổ chức thực hiện khóa luận, luận văn tốt nghiệp đại học ở khoa Tâm lý – Giáo dục trường Đại học Sư phạm Hà Nội”, đã đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng NCKHGD của SV, đó là:
  13. - Tổ chức rèn KNNCKHGD cho SV sư phạm trong suốt 4 năm học. - Tiến hành các hình thức bồi dưỡng rèn luyện KNNCKH có hệ thống. - Tạo điều kiện về kinh phí tối thiểu dành cho SV NCKH. Nông Thị Hạnh [38] trên cơ sở khảo sát thực trạng NCKHGD của SV trường Cao đẳng sư phạm Cao Bằng đã đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng NCKHGD của SV, đó là: - Đưa hoạt động NCKHGD vào chương trình đào tạo. - Cần bồi dưỡng nhận thức đúng đắn về vai trò của việc NCKHGD cho học sinh, SV. - Bồi dưỡng lý luận NCKHGD cho học sinh, SV. - Bồi dưỡng cho học sinh, SV một hệ thống kĩ năng NCKH. - Tổ chức cho học sinh, SV NCKHGD làm khóa luận, luận văn tốt nghiệp. - Tổ chức các hoạt động đa dạng “SV NCKH” trong phạm vi của trường và liên kết giữa các trường bạn. Cao Thị Hằng [40], cũng trên cơ sở khảo sát thực trạng NCKHGD của SV trường cao Đẳng sư phạm Hải Dương đã đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng NCKHGD của SV, đó là: - SV cần phải nâng cao ý thức thái độ đối với hoạt động NCKH. - Bồi dưỡng KNNCKH cho SV. - Giáo viên không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, kinh nghiệm hướng dẫn khoa học. - Tăng cường hướng dẫn SV thực hiện các bài tập sáng tạo. - Nhà trường cần quan tâm, động viên khuyến khích SV NCKH, tạo điều kiện về cơ sở vật chất, nguồn tài liệu kinh phí tối thiểu cho hoạt động NCKH của SV. Sau khi đề xuất một số biện pháp, tác giả tiến hành thử nghiệm biện pháp “Rèn luyện kĩ năng nghiên cứu khoa học giáo dục cho SV theo hình thức lớp-nhóm-cá nhân”. Như vậy, theo những hướng nghiên cứu riêng của mình, các tác giả đều lấy việc khảo sát thực tế NCKHGD ở các địa phương bằng phương pháp điều tra thực tế để qua đó đưa ra những nhận xét về: -Nhận thức của cán bộ hướng dẫn, SV về tầm quan trọng của công tác NCKH nói chung và NCKHGD nói riêng. - Các loại đề tài và số lượng SV tham gia NCKHGD.
  14. - Các hình thức NCKHGD của SV. - Mức độ thành thạo và chưa thành thạo về các KNNCKHGD của SV. - Điểm số SV đạt được qua sản phẩm nghiên cứu. - Những thuận lợi và khó khăn khi SV tham gia NCKH. Trên cơ sở thực trạng, các tác giả đưa ra các biện pháp để nâng cao chất lượng NCKH nói chung và rèn KNNCKHGD nói riêng cho SV. Ngoài các công trình nêu trên, về mặt pháp quy, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có những văn bản sau: Quy chế về việc làm khóa luận, luận văn tốt nghiệp ở các trường đại học sư phạm theo quyết định số 3047/ĐTBĐ, ngày 15/12/1984 [8] và kèm theo đó là thông tư số 30, ngày 17/12/1984 [9], hướng dẫn thực hiện quy chế nêu trên. Thông tư đã hướng dẫn cụ thể các trường về: - Mục đích, ý nghĩa và tinh thần thực hiện quy chế. - Tổ chức, điều kiện và chế độ thực hiện quy chế. - Yêu cầu về nội dung và hình thức của khoá luận, luận văn. - Nhiệm vụ của người hướng dẫn. - Đánh giá, cho điểm. - Chính sách đối với giáo sinh. Quyết định 2677/GD-ĐT, ngày 3/12/1993, chương trình phần giáo dục cốt lõi chuyên nghiêp [10], đã quy định về mục đích, yêu cầu và nội dung của học phần PPNC KHGD. Quyết định số 08/2000/QĐ của BGD &ĐT, ngày 30/3/2000 [11] về việc ban hành quy chế về NCKH của SV các trường đại học và cao đẳng trong cả nước. Quyết định có 4 chương và 14 điều, gồm những nội dung về quy định chung, vấn đề quản lý NCKH của SV, trách nhiệm, quyền lợi của SV tham gia NCKH và cán bộ h ướng dẫn, các điều khoản thi hành về NCKH của SV. Công văn số 7483/KHCN, ngày 30/7/200 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tổ chức xét tặng giải thưởng “SV nghiên cứu nghiên cứu khoa học” trong các trường đại học và các học viện [12]. Nội dung công văn gồm các tiêu chuẩn chấm điểm công trình, phương pháp đánh giá, xếp giải các công trình NCKH của SV, phân cấp việc đánh giá, xếp giải đối với 2 đại học quốc gia và các cơ sở. Trên đây là những chỉ đạo cụ thể của Bộ Giáo dục & Đào tạo về NCKH của SV
  15. ở tất cả các khâu nhằm giúp các nhà quản lý, cán bộ hướng dẫn và SV thực hiện đúng các yêu cầu đối với công tác NCKH, rất cần thiết để nâng cao chất lượng NCKH của SV trong các trường cao đẳng, đại học. Điểm lại công trình của những người đi trước, chúng tôi thấy các tác giả (cả trong và ngoài nước) đều đã đề cập đến 4 vấn đề sau: Một là tầm quan trọng của NCKH và cách tổ chức cho SV NCKH. Hai là về lý luận, các tác giả ngoài nước (từ những năm 60 - 70 của thế kỷ XIX) đã đi trước các tác giả ở Việt Nam trong việc cung cấp phương pháp luận và phương pháp NCKH. Ở Việt Nam khoảng 10 năm gần đây, khi công tác NCKH được chú ý hơn trong các trường đại học và đặc biệt là khi việc đào tạo Sau đại học được mở rộng thì mới có nhiều tài liệu hướng dẫn NCKH ra đời, sâu sắc về nội dung và đa dạng về thể loại. Ba là về thực trạng hoạt động NCKHGD của SV còn gặp nhiều khó khăn, như ít được cung cấp kiến thức về cơ sở lí luận NCKH, ít có cơ hội để vận dụng vì vậy chất lượng NCKHG còn rất thấp. Bốn là về các biện pháp để nâng cao chất lượng NCKHGD trong SV, ngoài các văn bản pháp quy mang tính bắt buộc của Bộ Giáo dục & Đào tạo, một số luận văn thạc sĩ đã đề xuất 4 nhóm biện pháp sau: + Tạo điều kiện cơ sở vật chất cho SV NCKH. + Trang bị cho SV lí luận về NCKHGD, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của NCKHGD. + Tổ chức cho SV tham gia các hoạt động sáng tạo một cách có hệ thống trong suốt 4 năm ở đại học. + Xây dựng đội ngũ cán bộ hướng dẫn NCKH. Tuy nhiên, trong khuôn khổ giới hạn của một luận văn thạc sĩ, hay một bài báo khoa học, các tác giả chỉ mới dừng lại ở mức độ đề xuất vấn đề, hoặc thử nghiệm ở phạm vi nhỏ ; cũng chưa có một luận án nào nghiên cứu các biện pháp để nâng cao chất lượng NCKHGD trong SV một cách sâu sắc về lý luận kèm theo thực nghiệm sư phạm trên diện rộng. Tóm lại, qua tất cả các văn bản và công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước có thể thấy rằng: những vấn đề về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu về cơ bản đã được giải quyết. Những thành tựu nghiên cứu của các tác giả
  16. về những vấn đề trên đã góp phần rất lớn cho quá trình NCKH nói chung và cho SV các trường cao đẳng, đại học nói riêng. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động NCKHGD của SV, chúng ta cần tăng cường hơn nữa các biện pháp cụ thể và khả thi, phù hợp với thực tế dạy và học của các trường cao đẳng, đại học ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đây cũng chính là vấn đề mà đề tài hướng đến nhằm giải quyết những yêu cầu cấp thiết đó. 1.2. KHÁI NIỆM CÔNG CỤ 1.2.1 Nghiên cứu khoa học của S V 1.2.1.1 Nghiên cứu khoa học Có khá nhiều định nghĩa về NCKH, sau đây là một số định nghĩa tiêu biểu: “NCKH là một quá trình nghiên cứu hiện thực khách quan, phát hiện ra những hiểu biết mới có tính quy luật, có tính chân lý hoặc tìm ra được những quy luật mới, chân lý mới trong hiện thực đó”. “NCKH là phát hiện những hiện tượng, sự việc mới có tính chân lý trong hiện thực hoặc khám phá những quy luật, nguyên lý mới trong hiện thực đó”, Hà Thế Ngữ [71, tr10]. “ NCKH là hoạt động nhận thức có đặc trưng tạo ra giá trị nhận thức mới trước đó chưa ai biết… để giải quyết những mâu thuẫn giữa một bên là những điều chưa ai biết mới nẩy sinh và một bên là những hiểu biết đã có. Những giá trị nhận thức mới đó sẽ giúp loài người đi sâu vào bản chất, quy luật của thế giới và do đó nâng cao năng lực nhận thức và cải tạo thế giới của loài người và năng lực tập thể của xã hội. NCKH có tác dụng bổ sung, hoàn chỉnh và phát triển khoa học”, Nguyễn Trọng Hoàng [44]. “NCKH là một hoạt động xã hội hướng vào việc tìm kiếm những điều mà khoa học chưa biết hoặc phát hiện ra bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới hoặc là sáng tạo phương pháp mới, phương tiện kỹ thuật mới để cải tạo thế giới”, Vũ Cao Đàm [23]. “NCKH là một hoạt động đặc biệt của con người. Đây là hoạt động có mục đích, có kế hoạch, được tổ chức chặt chẽ của một đội ngũ các nhà khoa học với những phẩm chất đặc biệt, được đào tạo ở trình độ cao”, Phạm Viết Vượng [120, tr21]. “NCKH là một hoạt động có hệ thống nhằm đạt được đến sự hiểu biết có kiểm chứng” Dương Thiệu Tống, [95, tr 221]. Như vậy, các tác giả ở trên đã đưa ra những định nghiã khác nhau về NCKH, tựu chung các định nghĩa đều phản ánh được các đặc điểm sau: - NCKH là một hoạt động nhận thức được tổ chức có hệ thống của con người. - NCKH nhằm phát hiện tri thức mới về bản chất, quy luật của thế giới khách quan. - Kết quả NCKH được thực tiễn chứng minh và có vai trò cải tạo thực tiễn. 1.2.1. 2 Nghiên cứu khoa học của SV NCKH của SV là con đường tìm kiếm những tri thức mới một cách độc lập, tự giác, đòi hỏi SV tư duy độc lập và tự chủ. Vì vậy mà tri thức họ tiếp thu được trở nên sâu sắc và vững chắc. Song điều quan trọng hơn là qua hoạt động NCKH SV được cung cấp kiến thức về phương pháp để đạt được những tri thức đó.Hoạt động NCKH của SV
  17. có bản chất sáng tạo, song đặc điểm sáng tạo của SV có tính chủ quan và khách quan: - Sáng tạo như là một sự khám phá cho riêng mình. - Sáng tạo như là sự khám phá cho người khác. Hoạt động nghiên cứu của SV có 2 mức độ: - Mức độ một là học nghiên cứu, gồm các hình thức sau: + Thu thập thông tin chuẩn bị cho bài học, hình thức này gắn với tự học. +Thực hiện BTMH. + Thực hiện khoá luận tốt nghiệp + Hội thi Olympic khoa học - Mức độ hai là NCKH tham gia đề tài với giáo viên, bao gồm: + Tham gia soạn thảo các phiếu điều tra + Tham gia cùng điều tra, khảo sát + Tham gia xử lý số liệu + Tham gia seminar Là một hình thức tổ chức dạy học ở đại học, NCKH của SV đặc điểm về mục dích, nội dung, hình thức: Về mục đích : - Góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. - Tiếp cận và vận dụng các phương pháp nghiên cưú khoa học. - Giải quyết một số vấn đề về khoa học và thực tiễn. Để thực hiện được mục đích trên, NCKH của S V phải phù hợp với khả năng và nguyện vọng, nội dung của chương trình đào tạo và một số đòi hỏi của thực tiễn của xã hội., định hướng của khoa học và công nghệ Ngoài ra NCKH không ảnh hưởng đến học tập chính khóa của SV. Về nội dung và hình thức NCKH : - Nghiên cứu những vấn đề thuộc lĩnh vực được đào tạo. - Tham gia triển khai áp dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh, đời sống và an ninh quốc phòng. - Tham gia vào các hội nghị, hội thảo khoa học, hội thi sáng tạo khoa học cộng nghệ tuổi trẻ, thông tin khoa học công nghệ, câu lạc bộ khoa Với những đặc diểm nêu trên, NCKHGD của SV bắt đầu từ việc xác định tên đề tài và kết thúc bằng việc phát hiện ra những hiểu biết mới, rút ra những kết luận khoa học
  18. đúng đắn. Qua đó, SV dần dần nắm vững những phương pháp nhận thức khoa học, hình thành nên nhu cầu, hứng thú NCKH. 1.2.2 NCKHGD của SINH VIÊN - Khoa học giáo dục Một cách chung nhất có thể hiểu khoa học giáo dục là khoa học nghiên cưú về lĩnh vực giáo dục. Sau đây là mốt số định nghĩa tiêu biểu: Theo viện sĩ Phạm Minh Hạc “KHGD là một bộ phận của hệ thống khoa học nghiên cứu về con người bao gồm Giáo dục học, Giáo dục học bộ môn, TLH lứa tuổi, TLH dạy học, Sinh lí học lứa tuổi” [35, tr8]. Theo Nguyễn Sinh Huy “KHGD là khoa học về giáo dục hay khoa học nghiên cưú về giáo dục” [57, tr31]. Bàn về KHGD, Hà Thế Ngữ [71] cho rằng “KHGD là một bộ phận của KHXH” và “KHGD Marx – Lênin là một bộ phận hợp thành không thể chia cắt được của chủ nghĩa Marx- Lênin về xã hội và hoạt động sáng tạo cuả con người”. Theo ông, KHGD là khoa học nghiên cưú về quá trình giáo dục và đào tạo con người dưới những tác động có mục đích của xã hội và vì sự phát triển của xã hội. Dương Thiệu Tống trong tác phẩm: “Suy nghĩ về văn hoá, giáo dục Việt Nam” [95, tr 219] có đưa ra định nghĩa: “KHGD là khoa học nghiên cứu các vấn đề giáo dục nhằm phát hiện ra quy luật khách quan, khái quát lên thành những lĩnh vực giáo dục khác nhau nhằm giải thích hoặc tiên đoán các hiện tượng giáo dục mới và giải quyết các vấn đề do thực tiễn giáo dục đề ra. Đồng thời, KHGD luôn có mối liên hệ mật thiết với các khoa học tự nhiên và xã hội”. NCKHGD của SINH VIÊN Ý nghiã của nghiên cứu khoa học giáo dục đối với SV ĐHSP Nhiệm vụ của trường ĐHSP là đào tạo SV thành đội ngũ giáo viên tương lai. Việc tổ chức cho SV tham gia NCKHGD đảm bảo nguyên tắc “học đi đôi với hành”, “lí luận gắn liền với thực tiễn”, thực hiện qui luật “biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo”. NCKHGD giúp SV: Vận dụng kiến thức KHGD vào kiến thức KH cơ bản. - Thâm nhập thực tiễn và tiếp cận đối tượng giáo dục. - Rèn luyện năng lực tư duy khoa học, đặc biệt là tư duy sáng tạo, óc thông minh. - Hình thành và rèn luyện kĩ năng sư phạm, kĩ năng NC. - Rèn luyện phẩm chất nhân cách người giáo viên tương lai. - Biết lựa chọn, xác định và xây dựng nội dung, phương pháp, phương tiện, hình - thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng và điều kiện giáo dục, dạy học. Phát triển khả năng tự học, tự giáo dục, tự nghiên cứu suốt đời. - Nhiệm vụ của các trường đại học sư phạm, không chỉ đào tạo đội ngũ giáo viên
  19. có trình độ về chuyên môn mà còn rèn luyện cho họ khả năng tư duy, giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra, có năng lực tự học, tự nghiên cứu, năng lực hiểu và cảm hóa học sinh trong quá trình giáo dục và dạy học. Nói cách khác, người SV Sư phạm phải được bồi dưỡng về kiến thức khoa học cơ bản, chuyên ngành và kiến thức KHGD. Do đó, việc cung cấp cho SV hệ thống kiến thức KHGD là một trong những nội dung cơ bản của các trường Sư phạm. Tuy nhiên, kiến thức KHGD chỉ có thể được đào sâu, mở rộng và phát triển khi người học tích cực, chủ động tham gia vào hoạt động NCKHGD. Vì vậy, các trường Sư phạm có nhiệm vụ tổ chức cho SV NCKHGD nhằm hình thành và rèn luyện cho họ thói quen và kĩ năng NCKH để phục vụ cho sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo của đất nước. Các hình thức nghiên cứu KHGD của SV - Viết thu hoạch sau khi đọc các tác phẩm KHGD. - Seminar. - Thu hoạch sau đợt thực hành, thực tập sư phạm. - Bài tập nghiên cứu môn học. - Khóa luận tốt nghiệp. - SV tham gia nghiên cứu các đề tài khoa học với tổ bộ môn. - Tham dự các hội nghị khoa học. - Hội nghị NCKH của SV. 1.2.3. Chất lượng nghiên cứu khoa học của sinh viên 1.2.3.1 Chất lượng : Có rất nhiều định nghĩa về chất lượng, sau đây là một số dịnh nghiã tiêu biểu: Theo từ điển triết học [106]: chất và lượng – hai phạm trù triết học phản ánh những mặt quan trọng của hiện thực khách quan. Chất là tính quy định của một sự vật khiến cho nó là sự vật này, chứ không phải là sự vật khác, và khác các sự vật khác. Chất của sự vật không phải là quy về từng đặc tính của nó. Nó gắn với sự vật như một tổng thể, bao quát tòan bộ sự vật và không tách ra khỏi sự vật. Do đó, khái niệm chất là gắn liền với sự tồn tại của sự vật. Lượng là một tính quy định của sự vật mà nhờ đó ta có thể phân chia nó thành những bộ phận cùng loại và có thể tập hợp các bộ phận đó lại làm một. Tính cùng loại (tương tự, giống nhau) của các bộ phận hay của các sự vật là dấu hiệu tiêu biểu của lượng. Lượng không gắn chặt với sự tồn tại của sự vật, lượng được đặc trưng bằng mối quan hệ bên ngoài với bản chất của sự vật.
  20. Như vậy ở góc độ là phạm trù triết học ta có thể hiểu chất lượng như sau: Chất lượng là tổng hợp những thuộc tính của sự vật chỉ rõ nó là cái gì, làm cho nó có tính ổn định tương đối và phân biệt nó với các sự vật khác. Chất lượng là tính quy định khách quan của sự vật, nó biểu hiện ra ngoài thông qua các thuộc tính, chất lượng là cái liên kết lại làm thành các thuộc tính của sư vật, xác định tính chủ thể, toàn vẹn của nó. Sự thay đổi chất lượng kéo theo sự thay đổi sự vật về căn bản. Chất lượng của sự vật bao giờ cũng gắn liền với tính quy định về số lượng của nó và không thể tồn tại ngoài tính quy định ấy. Mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất của chất lượng và số lượng. Về phương diện triết học số lượng bao giờ cũng được hiểu như là số lượng của chất lượng nào đó chính vì thế cần lưu ý trước tiên tới các loại cứ liệu: - Thể hiện phạm vi mức độ của chất lượng. - Cho thấy xu hướng phát triển có thể đạt tới ranh giới chuyển hóa thành chất khi định tính. Đỗ Thiết Thạch, trong tài liệu Quản lý chất lượng đào tạo Đại học- Trường CBQL Giáo dục và Đào tạo II, [89] đã quan niệm về chất lượng như sau: Chất lượng là một phạm trù phức tạp và phụ thuộc nhiều vào quan niệm của chủ thể liên quan đến sản phẩm. Sản phẩm là kết quả của các hoạt động, các quá trình. Sản phẩm có thể là hữu hình hay vô hình. Theo nghĩa tuyệt đối: Chất lượng là tổng thể những tính chất, thuộc tính cơ bản của sự vật, sự việc làm cho sự vật, sự việc này phân biệt với sự vật, sự việc khác. Chất lượng là cái làm nên phẩm chất, giá trị của sự vật, là cái tạo nên bản chất sự vật, làm cho sự vật này khác sự vật kia. Chất lượng là mức hoàn thiện, là đặc trưng so sánh, đặc trưng tuyệt đối, dấu hiệu đặc thù, các dữ liệu, các thông số cơ bản. Chất lượng thể hiện ở các khía cạnh: sự xuất chúng, tuyệt vời, ưu tú xuất sắc, hoàn hảo, sự phù hợp, thích hợp, sự thể hiện giá trị, sự biến đổi về chất. Theo nghĩa tương đối thì một sản phẩm, một hành động hay một quá trình được coi là có chất lượng, khi chúng đạt được những chuẩn mực nhất định theo quy ước trước.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2