intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: Định hướng chiến lược đầu tư phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2010

Chia sẻ: Nguyen Bao Ngoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:87

102
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hơn 15 năm đổi mới không phải là một thời gian quá dài, song Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển đáng kể. Nền kinh tế sau khi chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã trở nên linh hoạt hơn, nhanh chóng thích nghi với những điều kiện mới, với những đòi hỏi phát triển của đất nước. Minh chứng cho sự đổi mới này là việc duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm luôn ở mức 7-8%, đời sống nhân dân được cải thiện rõ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: Định hướng chiến lược đầu tư phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2010

  1. Luận văn Định hướng chiến lược đầu tư phát triển ngành Dệt - May Việt Nam đến năm 2010 -1-
  2. LỜI MỞ ĐẦU Hơn 15 năm đổi mới không phải là một thời gian quá dài, song Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển đáng kể. Nền kinh tế sau khi chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã trở nên linh hoạt hơn, nhanh chóng thích nghi với những điều kiện mới, với những đòi hỏi phát triển của đất nước. Minh chứng cho sự đổi mới này là việc duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm luôn ở mức 7-8%, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, mức độ hội nhập quốc tế được tăng cường, môi trường đầu tư trong nước được cải thiện không ngừng... Tuy nhiên, đây mới chỉ là giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Để bắt kịp trình độ của các nước tiên tiến chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa, tập trung mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, đặc biệt là đầu tư phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn. Với mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, Đảng và Nhà nước đã xác định Dệt - May là một trong những ngành mũi nhọn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngành đã khẳng định được vai trò quan trọng của mình bằng thành tựu luôn luôn đứng thứ hai về kim ngạch xuất khẩu qua các năm. Để xứng đáng với vị trí của mình, ngành Dệt - May Việt Nam đã có những nỗ lực không ngừng trong thời gian qua. Tuy nhiên, để có được sự bứt phá cần thiết nhằm "tăng tốc" phát triển, Ngành Dệt - May cần tiếp tục được đầu tư mạnh mẽ bởi hiện trạng của Ngành không đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Đây là lý do em chọn đề tài "Định hướng chiến lược đầu tư phát triển ngành Dệt - May Việt Nam đến năm 2010" cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Đề tài được thực hiện với mục đích nghiên cứu lý luận và ứng dụng vào thực tiễn ngành Dệt - May Việt Nam, từ đó đề xuất ra các quan điểm, ph ương pháp cho đầu tư phát triển ngành này. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê mô tả, suy luận logic... Kết cấu đề tài bao gồm những phần sau: - Lời mở đầu. -2-
  3. - Chương I: ý nghĩa của việc định hướng chiến lược đầu tư phát triển ngành Dệt - May. - Chương II: Thực trạng đầu tư của ngành Dệt - May Việt Nam giai đoạn 1995 - 2002. - Chương III: Phương hướng và giải pháp đầu tư cho phát triển ngành Dệt - May Việt Nam đến năm 2010. - Kết luận. Đề tài này được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Ts. Lê Huy Đức, giảng viên khoa Kế hoạch và phát triển - trường Đại học Kinh tế quốc dân; cô Nguyễn Thị Luận, Phó Ban Kỹ thuật Đầu tư - Tổng công ty Dệt - May Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn. -3-
  4. Chương I: Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM I. ĐẦU TƯ VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN. 1. Khái niệm. a) Khái niệm Thuật ngữ “đầu tư” (investment) có thể được hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ ra”, “sự hy sinh”. Từ đó, có thể coi đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những cái ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Tuy nhiên, một số hành động nếu xem xét trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị thì là hành động đầu tư, nhưng nếu xét trên giác độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả các hành động này đều đem lại lợi ích cho nền kinh tế và được coi là đầu tư. Các hoạt động như gửi tiết kiệm, mua cổ phần, mua hàng tích trữ không hề làm tăng tài sản (tài chính, vật chất, trí tuệ...) cho nền kinh tế. Các hành động này thực chất chỉ là việc chuyển giao quyền sử dụng tiền, quyền sở hữu cổ phần và hàng hoá từ người này sang người khác, và do đó chỉ làm cho số tiền thu về của người đầu tư lớn hơn só tiền mà họ đã bỏ ra. Giá trị tăng thêm của người đầu tư ở đây lại chính là giá trị mất đi của quỹ tiết kiệm (lãi suất phải trả), của cổ đông đã bán lại cổ phần (lợi tức cổ phần), của người mua hàng (với giá cao). Tài sản của nền kinh tế trong trường hợp này không có sự thay đổi một cách trực tiếp. Các hoạt động bỏ tiền xây dựng thêm kho chứa nguyên vật liệu, phát hành chứng khoán để xây dựng thêm một phân xưởng mới, mua sắm trang thiết bị máy móc cho sản xuất, tổ chức báo cáo khoa học đã làm tăng thêm các tài sản vật chất ( xây thêm kho chứa nguyên vật liệu, thêm một phân xưởng mới...), tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực (bồi dưỡng giáo viên) cho nền kinh tế. Các hoạt động này được gọi là đầu tư phát triển hay đầu tư trên giác độ nền kinh tế. Như vậy, đầu tư phát triển là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho chủ thể đầu tư (cho nền kinh tế). Các hoạt động mua bán, phân phối lại, chuyển giao tài sản hiện có giữa các cá nhân, các tổ chức không phải là đầu tư đối với nền kinh tế. -4-
  5. b) Bản chất của các loại đầu tư trong phạm vi quốc gia Từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể phân biệt các loại đầu tư sau đây: Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, các nhân đầu tư. Công ty mở sòng bạc để phục vụ nhu cầu giải trí của người đến chơi nhằm thu lợi nhuận cho công ty thì đây lại là đầu tư phát triển nếu được nhà nước cho phép và tuân theo đầy đủ các quy chế hoạt động do nhà nước quy định để không gây ra các tệ nạn xã hội. Với sự hoạt động của hinh thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng. Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư. Để giảm độ rủi ro, họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung. Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động là hoạt động đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ -5-
  6. tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Loại đầu tư này được gọi chung là đầu tư phát triển. 2. Vai trò của đầu tư phát triển. a) Đối với nền kinh tế * Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch chuyển sang D’) kéo sản lượng cần bằng tăng theo từ Q 0 - Q1 và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng từ P0 - P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 - E1. Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt đông thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên (đường S dịch chuyển sang S’), kéo theo sản lượng tiềm năng tăng từ Q1 - Q2, và do đó giá cả sản phẩm giảm từ P1 - P2. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. P S S’ E1 P1 P0 E0 P2 E2 D D’ Q0 Q1 Q2 Q -6-
  7. *Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá của các hàng hoá có liên quan tăng (giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư) dến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Khi giảm đầu tư cũng có tác động hai mặt, nhưng theo chiều hướng ngược lại so với các tác động trên đây. Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần nhận thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. *Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vốn đầu tư ICOR = Kết quả nghiên cứu Mức tăng GDP của các nhà kinh tế cho thấy muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15 - 25% so với GDP tuỳ thuộc vào hệ số ICOR của mỗi nước. Từ đó suy ra: Vốn đầu tư Mức tăng GDP = ICOR -7-
  8. Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5 - 7 do thừa vốn, thiếu lao động, vón được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ 2 - 3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngàng, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất. Do đó, ở các nước phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp. *Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. *Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Việt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc.Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản đẻ có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. -8-
  9. b) Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ. Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Để tạo dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất- kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang tồn tại. Sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất - kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất - kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư. Đối với các cơ sở hoạt động không vì mục đích lợi nhuận đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất - kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư. 3. Các loại hoạt động đầu tư Hoạt động đầu tư được phân thành rất nhiều loại, tuỳ thuộc vào tiêu thức đánh giá nó. Sau đây là một số tiêu thức phân loại chủ yếu: a) Theo bản chất của các đối tượng đầu tư Hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư cho các đối tượng vật chất (đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng, máy móc thiết bị...), cho các đối tượng tài chính (đầu tư tài sản tài chính như mua cổ phiếu, trái phiếu, và các chứng khoán khác...) và đầu tư cho các đối tượng phi vật chất (đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế...). Trong các loại đầu tư trên đây, đầu tư đối tượng vật chất là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế, đầu tư tài chính là điều kiện quan trọng để thu hút mọi nguồn vốn từ mọi tầng lớp dân cư cho đầu tư các đối tượng vật chất, còn đầu tư -9-
  10. tài sản trí tuệ và các nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao. b) Theo cơ cấu tái sản xuất Có thể phân loại hoạt động đầu tư thành đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Trong đó đầu tư chiều rộng vốn lớn để khê đọng lâu, thời gian thực hiện đầu tư và thời gian cần hoạt động để thu hồi vốn đủ lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Còn đầu tư theo chiều sâu đòi hỏi khối lượng vốn ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư không lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng. c) Theo phân cấp quản lý Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo Nghị định 42/CP ngày 16 tháng 7 năm 1996 phân thành 3 nhóm A, B và C tuỳ theo tính chất và quy mô của dự án, trong đó nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định, nhóm B và C do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định. d) Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư Có thể phân chia các hoạt động đầu tư thành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (kỹ thuật và xã hội)... Các hoạt động đầu tư này có quan hệ tương hỗ với nhau. Chẳng hạn đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao; còn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đến lượt mình lại tạo tiềm lực cho đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và các hoạt động đầu tư khác. e) Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư Các hoạt động đầu tư được phân chia thành: - Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định. - Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có, duy trì sự hoạt động của cơ sở vật chất kỹ thuật không thuộc các doanh nghiệp. - 10 -
  11. Đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành, đầu tư vận hành tạo điều kiện cho các kết quả của đầu tư cơ bản phát huy tác dụng. Không có đầu tư vận hành thì kết quả của đầu tư cơ bản không hoạt động được, ngược lại không có đầu tư cơ bản thì đầu tư thì đầu tư vận hành chẳng để làm gì. Đầu tư cơ bản thuộc loại đầu tư dài hạn, đặc điểm kỹ thuật của quá trình thực hiện đầu tư để tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định là phức tạp, đòi hỏi số vốn lớn, thu hồi lâu. Đầu tư vận hành chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư, đặc điểm kỹ thuật của quá trình thực hiện đầu tư không phức tạp. Đầu tư vận hành cho các cơ sở sản xuất kinh doanh có thể thu hồi nhanh sau khi đưa các kết quả đầu tư nói chung vào hoạt động. f) Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội Có thể phân hoạt động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thành đầu tư thương mại và đầu tư sản xuất. Đầu tư thương mại là loại hoạt động đầu tư mà thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn đầu tư ngắn, vốn vận động nhanh, độ mạo hiểm thấp do trong thời gian ngắn tính bất định không cao, lại dễ dự đoán và dự đoán dễ đạt độ chính xác cao. Đầu tư sản xuất là loại đầu tư dài hạn (5, 10, 20 năm hoặc lâu hơn), vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm, thời igan thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, vì tính kỹ thuật của hoạt động đầu tư phức tạp, phải chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tương lai không thể dự đoán hết và dự đoáng chính xác được (về nhu cầu, giá cả đầu vào và đầu ra, cơ chế chính sách, tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật, thiên tai, sự ổn định chinh trị,...). Loại đầu tư này phải được chuẩn bị kỹ, phải cố gắng dự đoán những gì có liên quan đến kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư trong tương lai xa; xem xét các biện pháp xử lý khi các yếu tố bất định xảy ra để đảm bảo thu hồi đủ vốn và có lãi khi hoạt động đầu tư kết thúc, khi các kết quả đầu tư đã hoạt động hết đời của mình. Trong thực tế, người có tiền thích đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh thương mại. Tuy nhiên, trên giác độ xã hội, loại hoạt động đầu tư này không tạo ra của cải vật chất cụ thể một cách trực tiếp, những giá trị tăng do hoạt động đầu tư đem lại chỉ là sự phân phối lại htu nhập giữa các ngành, các địa phương, các tầng lớp dân cư trong xã hội. Do đó, trên giác độ điều tiết vĩ mô, nhà nước thông qua các - 11 -
  12. cơ chế chính sách của mình làm sao đẻ hướng được các nhà đầu tư không chỉ đầu tư vào lĩnh vực thương mại mà cả vào lĩnh vực sản xuất, theo các định hướng và mục tiêu đã dự kiến trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong cả nước. g) Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra của các kết quả đầu tư Dựa vào tiêu thức này có thể phân chia hoạt động đầu tư thành đầu tư ngắn hạn (như đầu tư thương mại) và đầu tư dài hạn (các lĩnh vực đầu tư sản xuất, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng...). h) Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, hoạt động đầu tư có thể phân chia thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp Đầu tư gián tiếp là loại đầu tư trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành quản lý quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Đó là việc các chính phủ thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp cho các chính phủ của các nước khác vay để phát triển kinh tế xã hội; là việc các cá nhân, các tổ chức mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái phiếu... để hưởng lợi tức (gọi là đầu tư tài chính). Đầu tư trực tiếp là loại đầu tư mà trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp lại được phân thành hai loại: đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển. - Đầu tư dịch chuyển là loại đầu tư trong đó người có tiền mua lại một số cổa phần đủ lớn để nắm quyền chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, việc đầu tư không làm gia tăng tìa sản của doanh nghiệp, mà chỉ thay đổi quyền sở hữu các cổ phần của doanh nghiệp. - Đầu tư phát triển là loại đầu tư trong đó người đầu tư bỏ vốn đầu tư để tạo nên những năng lực sản xuất phục vụ mới (về cả lượng và chất). Đây là loại đầu tư để tái sản xuất mở rộng, là biện pháp chủ yếu để cung cấp việc làm cho người lao động, là tiền đề để thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch. Chính sự điều tiết của bản thân thị trường và các chính sách khuyến khích đầu tư của nhà nước sẽ hướng việc sử dụng vốn của các nhà đầu tư theo định hướng của nhà nước, từ đó tạo nên được một cơ cấu đầu tư phục vụ cho việc - 12 -
  13. hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý, có nghĩa là người có vốn sẽ không chỉ đầu tư cho lĩnh vực thương mại mà cả cho lĩnh vực sản xuất, không chỉ đầu tư tài chính, đầu tư chuyển dịch mà cả đầu tư phát triển. i) Theo nguồn vốn - Vốn huy động trong nước (vốn tích luỹ của ngân sách, của doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân cư). - Vốn huy động từ nước ngoài (vốn đầu tư gián tiếp, trực tiếp). Phân loại này cho thấy tình hình huy động vốn từ mỗi nguồn và vai trò của mỗi nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của từng ngành, từng địa phương và toàn bộ nền kinh tế. j) Theo vùng lãnh thổ Dựa vào tiêu thức này có thể phân đầu tư thành đầu tư theo tỉnh, theo vùng kinh tế của đất nước. Cách phân loại này phản ánh tình hình đầu tư của từng tỉnh, từng vùng kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương. Ngoài ra, để đáp ứng yêu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế người ta còn phân chia đầu tư theo quan hệ sở hữu, theo quy mô và theo nhiều tiêu thức khác. II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGÀNH DỆT - MAY TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM 1. Định hướng chiến lược của Đảng về phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn trong giai đoạn CNH-HĐH đất nước. a) Định hướng các ngành trọng điểm của đất nước Trước hết, để xác định được các ngành trọng điểm chúng ta cần phải dựa vào một số tiêu thức cơ bản. Đây là những tiêu thức có liên quan đến yêu cầu tận dụng các nguồn lực, hiệu quả sử dụng vốn, bước chuyển bắt buộc do chu kỳ sản phẩm quy định và đến định hướng tăng trưởng xuất khẩu. Cụ thể sẽ căn cứ vào: - Lợi thế về các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Xét theo chỉ số trữ lượng tài nguyên tính trên đầu người (chỉ số để đo độ giàu có về nguồn tài nguyên), cần phải nhìn nhận một cách đúng đắn rằng nước ta không phải là một nước giàu, kể - 13 -
  14. cả khi so sánh với nhiều nước trong khu vực. Song trong bối cảnh phát triển cụ thể của đất nước (so sánh tương quan các loại nguồn trong khuôn khổ nước ta) cũng như trong sự so sánh với các nước khác, vẫn có thể chỉ ra một số nguồn được coi là lợi thế phát triển. Những nguồn đó là: dầu khí, cơ sở nông nghiệp nhiệt đới với tiềm năng đa canh và trồng lúa nước, quặng apatit, quặng sắt và nhôm, nguồn nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng. Đây là cơ sở đầu tiên để lựa chọn và xác định các ngành trọng điểm. - Lợi thế về nguồn nhân lực. Nước ta là một nước đông dân nên nguồn lao động rất dồi dào và rẻ. Đây là một lợi thế phát triển to lớn, đặc biệt yếu tố con người ngày càng đóng vai trò là yếu tố quyết định tăng trưởng và phát triển. Nhưng bên cạnh đó chúng ta phải đối mặt với một thực tế là nguồn lao động quá nhiều dẫn đến dư thừa quá mức. Vấn đề thiếu công ăn việc làm gây nên một áp lực lớn cho xã hội. Bởi vậy, việc tạo ra chỗ làm để tận dụng nguồn lao động dư thừa này cũng là một vấn đề cấp bách đang đặt ra cho toàn xã hội. - Chỉ số ICOR thấp (hiệu quả sử dụng đồng vốn đầu tư cao). Tiêu thức này là tổ hợp cả hai tiêu thức nói trên. Nó là tiêu thức tinh lọc số ngành được chọn là ngành trọng điểm theo trật tự ưu tiên của các ngành được lựa chọn theo hai tiêu thức trên. - Định hướng tăng trưởng xuất khẩu. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam với một thị trường nội địa lớn, việc thúc đẩy sự phát triển mang tính ưu tiên của một số ngành sản xuất thay thế nhập khẩu là bắt buộc. Trước tiên chúng ta cần phải đáp ứng nhu cầu nội địa, từ đó tạo ra cơ sở vững chắc để hướng ra xuất khẩu, đối mặt với cuộc cạnh tranh quốc tế khốc liệt. Trên đây là bốn tiêu thức để xác định các ngành trọng điểm và xếp hạng trật tự ưu tiên của chúng theo mức độ thoả mãn bốn tiêu chuẩn đó. Theo đó những ngành sau được coi là ngành trọng điểm: - Nông nghiệp (bao gồm ngành trồng trọt và chăn nuôi). - Khai thác dầu khí. - Sản xuất vật liệu xây dựng (xi măng, gạch, ngói, kính xây dựng). - Sản xuất phân bón hoá học (phân đạm, phân lân). - Lắp ráp ô tô. - 14 -
  15. b) Các ngành mũi nhọn, những ngành đi tiên phong trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Các tiêu thức đánh giá ngành mũi nhọn. - Trước tiên cần nói rằng về cơ bản, ngành mũi nhọn phải là ngành đáp ứng các tiêu thức đặt ra cho ngành trọng điểm. Nhưng nó khác ngành trọng điểm ở chỗ: - Có những tiêu thức đặt ra nghiêm ngặt hơn (định hướng xuất khẩu, chỉ số ICOR thấp), có những tiêu thức không đòi hỏi độ nghiêm ngặt cao (định hướng sử dụng nguồn lực tự nhiên). - Ngoài ra, ngành mũi nhọn còn phải đáp ứng một số yêu cầu khác mang tính đặc trưng: tạo sức thúc đẩy cho quá trình đổi mới công nghệ - kỹ thuật trong nền kinh tế. Trật tự các tiêu thức chính để xác định ngành mũi nhọn sẽ là: + Định hướng công nghệ - kỹ thuật tiên tiến. + Định hướng xuất khẩu. + Định hướng sử dụng các lợi thế về nguồn, chú trọng nguồn lao động. + Chỉ số ICOR thấp. Bốn tiêu thức này có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau. Tất cả chúng đều hướng tới những mục tiêu dài hạn của nền kinh tế: tăng trưởng nhanh với hiệu quả sử dụng vốn cao, tăng nguồn thu nhập ngoại tệ (được coi là nguồn lực khan hiếm nhất hiện nay), tạo nhiều công ăn việc làm theo định hướng tăng trưởng đã lựa chọn (định hướng tăng trưởng xuất khẩu). Tuy nhiên, ngành mũi nhọn, trong sự phân biệt với ngành trọng điểm, còn nhằm một mục tiêu thậm chí còn dài hạn hơn: định hướng công nghệ - kỹ thuật cho toàn bộ nền kinh tế, tạo cơ sở dài hạn cho sự nghiệp tăng trưởng theo định hướng xuất khẩu của nền kinh tế. Đây được coi là tiêu thức chủ yếu nhất để xác định tư cách ngành mũi nhọn trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Trên đây là những tiêu thức chính xác định các ngành mũi nhọn. Dựa vào đó, danh sách các ngành mũi nhọn trong định hướng xuất khẩu được đưa ra như sau: - Lĩnh vực khai thác và chế biến thuỷ sản. - 15 -
  16. - Ngành Dệt - May. - Ngành hoá dầu. - Ngành lắp ráp điện tử. Tính chất mũi nhọn của ngành Dệt - May được luận giải ở hai tiêu chuẩn chính là năng lực tạo công ăn việc làm cao và khả năng mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn. Bên cạnh đó, việc ưu tiên phát triển ngành này còn phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu đang diễn ra trong khu vực. Hiện nay, các cường quốc xuất khẩu hàng may mặc trong khu vực cũng như trên thế giới là Thái Lan và Trung Quốc. Thái Lan đang từng bước phải nhường thị trường cạnh tranh này vì chi phí lao động tăng lên. Việt Nam có điều kiện tốt nhất để trở thành cường quốc mới trong lĩnh vực này do chi phí lao động thấp và các cơ sở thị trường đã được chuẩn bị và tiếp cận. Việc lựa chọn may gia công xuất khẩu trong bối cảnh đó cho phép thu hút mạnh mẽ nguồn vốn và kỹ thuật của các nước đang có nhu cầu chuyển giao cơ cấu. 2. Vai trò của ngành Dệt-May. Ngành Dệt - May đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Nó là một trong những ngành truyền thống của nhân dân ta. Từ những công việc trồng dâu, nuôi tằm, xe sợi, dệt vải chủ yếu bằng những công cụ thô sơ, đến nay chúng ta đã có hẳn một ngành công nghiệp dệt may trong đó phân ra gồm công nghiệp Dệt và công nghiệp May. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, ngành Dệt - May Việt Nam ngày càng khẳng định vị trí then chốt của mình trong nền kinh tế. Nó đóng một vai trò to lớn trong vấn đề giải quyết việc làm, góp phần giảm tình trạng thất nghiệp đang lan tràn hiện nay; thu hút nguồn vốn lớn, đầu tư phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước; thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đem lại một nguồn thu lớn cho ngân sách. a) Giải quyết việc làm Vai trò này được thể hiện dựa trên cơ sở một đặc điểm nổi bật nhất của ngành dệt may: là ngành thu hút nhiều lao động, phần lớn là lao động phổ thông. Với đặc điểm này, việc chú trọng phát triển ngành Dệt - May ở nước ta là hoàn toàn hợp lý. Nó góp phần thu hút một số lượng lớn lao động dư thừa trong nền kinh tế (chủ yếu là lao động ở nông thôn), giải quyết phần nào nạn thất nghiệp mà kéo theo đó là các tệ nạn xã hội, những bất ổn về an ninh trật tự. Không - 16 -
  17. những thế, khi có việc làm đời sống của người lao động sẽ được cải thiện, mức sống khá hơn của người dân cũng sẽ góp phần làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế. Ngày nay, hầu hết các nước phát triển nắm giữ những khâu quan trọng, những khâu đòi hỏi trình độ công nghệ cao trong ngành công nghiệp dệt may. Theo sự phân công lao động quốc tế các nước đang phát triển đảm nhiệm phần gia công, ráp nối nguyên phụ liệu, những công việc không đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao nhưng cần một lượng lao động lớn. Bởi vậy, phát triển ngành dệt may ở một nước đông dân mà lại có gần 80% lao động trong nông nghiệp như Việt Nam là hoàn toàn hợp lý. b) Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Dệt - May là một ngành, một bộ phận cấu thành của nền công nghiệp Việt Nam. Sự phát triển của công nghiệp Dệt - May có tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng kinh tế Việt Nam. Ngành Dệt - May phát triển kéo theo sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác. Trước tiên là việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở một số vùng trồng nguyên liệu phục vụ cho dệt may như đay, bông, dâu, tằm... Do đó, nó đòi hỏi ngành nông nghiệp phát triển theo chiều hướng phá vỡ thế độc canh, chỉ trồng cây lương thực, hoa mầu. Sau đó là tác động đến việc phát triển những ngành nghề sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành may, và ngành cơ khí cung cấp máy móc thiết bị cho ngành Dệt - May. Từ đó ngành góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế các vùng. Vùng có ngành Dệt - May phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành sản xuất phụ trợ cho ngành Dệt - May và cả những ngành sử dụng sản phẩm của Dệt - May như giày da, nội thất, xây dựng... từ đó tăng tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế. Bên cạnh đó, ngành Dệt - May cũng thúc đẩy các ngành khác phát triển như điện, hoá chất, bưu điện, vận tải,... Ngành Dệt - May là ngành đang có tốc độ tăng trưởng cao, lại rất hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài nên cơ cấu thành phần thay đổi theo hướng gia tăng tỷ lệ khu vực kinh tế phi quốc doanh. Tuy vậy, khu vực kinh tế quốc doanh sẽ không vì thế mà mất đi vị trí trung tâm của mình, tiêu biểu là sự phát triển ngày càng lớn mạnh của Tổng công ty Dệt - May Việt Nam. - 17 -
  18. c) Thoả mãn nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, đóng góp nguồn thu cho ngân sách Nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển, đời sống nhân dân ngày càng khá hơn, nhu cầu của người dân bây giời không chỉ là ăn no, mặc đủ mà còn phải ăn ngon, mặc đẹp. Nắm bắt được điều này ngành Dệt - May Việt Nam đã và đang nỗ lực đổi mới nhằm đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng. Mặc dù hàng ngoại trên thị trường nội địa vẫn còn nhiều nhưng hàng dệt may Việt Nam đang dần dần khẳng định được vị trí của mình trong lòng người tiêu dùng. Trong xu thế hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, mỗi quốc gia đều tìm thấy những lợi thế so sánh của mình trên trường quốc tế và triệt để tận dụng những lợi thế đó. Với những đặc trưng của mình, ngành Dệt - May Việt Nam đã vươn lên là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực, đóng góp đáng kể vào quá trình tăng trưởng kinh tế và mở rộng các mối quan hệ thương mại của Việt Nam với khu vực và thế giới. Ngành đã đẩy mạnh xuất khẩu theo hình thức gia công hoặc xuất khẩu trực tiếp (FOB) với nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản, EU, Mỹ, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc... trong đó có các nước Đông Âu là thị trường truyền thống của Dệt - May Việt Nam. Hiện nay, ngành đang tiếp tục duy trì các thị trường vốn có và tích cực tìm kiếm, thâm nhập, mở rộng thêm các thị trường mới. Kết quả mà ngành Dệt - May đạt được là ngành hiện có quan hệ buôn bán với khoảng 200 công ty thuộc hơn 40 quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Với khuynh hướng phát triển đúng đắn của mình, tốc độ tăng trưởng của ngành Dệt - May luôn ở mức cao với giá trị xuất khẩu tăng nhanh và tương đối ổn định. Xuất khẩu của ngành Dệt - May chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của các ngành kinh tế, là ngành xuất khẩu lớn thứ hai, chỉ sau dầu khí (giai đoạn 1995 -2000 tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt - May là 17,4 %). Ngành đã đóng góp một lượng ngoại tệ đáng kể cho ngân sách quốc gia, tạo đà phát triển cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Như vậy, có thể khẳng định rằng ngành Dệt - May Việt Nam có một vai trò to lớn đối với quá trình phát triển của đất nước, thể hiện ở những đóng góp của ngành cho nền kinh tế trong hiện tại cũng như tương lai. - 18 -
  19. III. VÌ SAO PHẢI CÓ CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT-MAY VIỆT NAM GIAI ĐOẠN ĐẾN NĂM 2010. Thứ nhất, Ngành Dệt - May là một ngành mũi nhọn trong quá trình công nghiệp hoá đất nước. Dựa vào các tiêu thức đánh giá ngành trọng điểm mũi nhọn đã được nêu ở trên, ngành Dệt - May được coi là một ngành mũi nhọn của đất nước trong quá trình CNH - HĐH. Dệt - May là một ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động nhất. Hiện nay, ước tính có khoảng gần 1100 doanh nghiệp dệt may trong toàn ngành và hàng chục ngàn cơ sở nhỏ khác, thu hút một lực lượng lao động hơn 1.600.000 người, chiếm khoảng 22,7% lao động công nghiệp toàn quốc. Theo chiến lược tăng tốc phát triển ngành Dệt - May, đến năm 2005 và 2010, lực lượng lao động ngành Dệt - May sẽ tăng lên tương ứng là 3.000.000 và 4.000.000 người, đó là chưa kể một lực lượng lao động khá lớn thu hút vào lĩnh vực phát triển cây bông và trồng dâu nuôi tằm (ước tính lượng lao động này hiện nay khoảng 70.000 người, năm 2005 khoảng 180.000 người và năm 2010 khoảng 450.000 người). Bên cạnh đó ngành Dệt - May là ngành có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm luôn đạt mức cao, kim ngạch xuất khẩu cao, chỉ đứng thứ hai sau dầu khí: năm 2000 ước tính KNXK của ngành đạt gần 2000 triệu USD, năm 2005 ước đạt 4000 - 5000 triệu USD, năm 2010 khoảng 7000 - 8000 triệu USD. Thông qua việc xuất khẩu, ngành Dệt - May góp phần vào công cuộc hội nhập vào nền kinh tế thế giới và nền kinh tế khu vực, đồng thời mang về một khoản thu ngoại tệ lớn cho đất nước đóng góp vào tích luỹ tư bản cho quá trình CNH - HĐH đất nước. Nhưng để có được những kết quả này, ngành phải chịu một áp lực cạnh tranh rất cao trên thị trường quốc tế, phải đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe mà các đối tác nước ngoài đưa ra. Bởi vậy, ngành Dệt - May cần phải được đầu tư thích đáng để có thể trụ vững và phát triển không ngừng trên thị trường quốc tế. Thứ hai, Thực trạng đầu tư của ngành Dệt - May không đáp ứng được đòi hỏi của thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài. - 19 -
  20. Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều cạnh tranh bình đẳng. Ngành Dệt - May Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Hàng Dệt - May Việt Nam muốn tồn tại được phải có sức cạnh tranh cao. Tuy nhiên, đất nước thực hiện đường lối mở cửa để hội nhập, hàng ngoại tràn vào ồ ạt từ nhiều luồng rất khó kiểm soát với giá thành rẻ, mẫu mã phong phú. Người tiêu dùng là người quyết định cuối cùng đối với việc tiêu thụ sản phẩm, họ có quyền chọn những sản phẩm theo sở thích, phù hợp với túi tiền. Bởi vậy sản phẩm của ngành Dệt - May Việt Nam đang phải cạnh tranh gay gắt với sản phẩm dệt may của các nước trong khu vực ngay tại thị trường trong nước. Bên cạnh đó, sản phẩm của ngành còn vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt và những đòi hỏi khắt khe của thị trường nước ngoài. Nhưng có một thực tế đáng buồn là quy mô của ngành còn nhỏ bé, thiết bị công nghệ phần lớn là lạc hậu. Chúng ta có một ngành May năng động với một ngành Dệt kém hiệu quả, xuất khẩu hàng đạt kim ngạch cao nhưng chủ yếu là làm gia công, ngành Dệt vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu, phụ liệu ngành May cũng chưa tự đáp ứng được ... Những chi tiết cụ thể về thực trạng đầu tư của ngành Dệt - May Việt Nam sẽ được phân tích rõ ở phần sau, nhưng chúng ta cần thấy rõ ràng là nhu cầu đầu tư của ngành Dệt - May là rất lớn và bức thiết. Vì vậy, để có thể tồn tại và phát triển được trong bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay, ngành cần bám sát thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu, tập trung đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, đào tạo cán bộ quản lý, kỹ thuật, công nhân lành nghề... Thứ ba, Ngành Dệt - May Việt Nam còn phải nhập nguyên liệu là chủ yếu. Một cuộc hội thảo về phát triển ngành công nghiệp Dệt - May trong bối cảnh hội nhập do cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Trường Đại học Kinh tế Quốc dân phối hợp tổ chức vào ngày 26/3/2003 đã đưa ra một thực trạng đáng lo ngại của ngành Dệt - May Việt Nam. Tại cuộc hội thảo này, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Bùi Xuân Khu đã cho rằng một trong những nguyên nhân chính khiến ngành công nghiệp dệt may yếu kém là vì nguyên liệu chủ yếu còn phải nhập khẩu, đặc biệt là nguyên liệu cho ngành dệt. Cụ thể hiện nay ngành Dệt - May Việt Nam vẫn phải nhập khẩu 100% sơ, 85% bông, 100% hoá chất, thuốc nhuộm... Thực trạng này đặt ra cho chúng ta một câu hỏi là tại sao chúng ta không tự cung ứng đầu vào cho ngành Dệt - May, trong khi điều kiện về phát triển nguồn nguyên liệu này là hoàn toàn có thể. Chúng ta có đủ điều kiện về đất - 20 -
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0