intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xây dựng môi trường văn hóa ở Thành Phố Hạ Long

Chia sẻ: Nguyễn Chí Hiếu | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:129

137
lượt xem
38
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chúng ta đang sống ở một thời đại có nhiều biến chuyển lớn lao. Những thay đổi này diễn ra với một gia tốc mạnh mẽ không chỉ trong phạm vi quốc gia, khu vực mà còn mang tính toàn cầu, tất yếu dẫn đến những triển vọng to lớn và cả những thách thức nghiêm trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xây dựng môi trường văn hóa ở Thành Phố Hạ Long

  1. 1 ------
  2. 2 MỞ Đ ẦU ...................................................................................................... 3 Chương 1...................................................................................................... 9 Chương 2.................................................................................................... 46 Chương 3.................................................................................................... 84 KẾT LU ẬN ............................................................................................... 122 DANH MỤ C TÀI LIỆU THAM KH ẢO ................................ ................. 125
  3. 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chúng ta đang sống ở một thời đại có nhiều biến chuyển lớn lao. Những thay đổi này diễn ra với một gia tốc mạnh mẽ không chỉ trong phạm vi quốc gia, khu vực mà còn mang tính toàn cầu, tất yếu dẫn đến những triển vọng to lớn v à cả những thách thức nghiêm trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Phát triển trong thời đại ngày nay đòi hỏi nhìn nhận văn hóa với một nhãn quan mới. Trong vài thập niên trở lại đây, văn hóa có vai trò quan trọng chưa từng thấy trong lịch sử. Sự tiến bộ hay lạc hậu của một quốc gia, sự phát triển hay trì trệ của một dân tộc, sự thành công hay thất bại của một chiến lược phát triển, sự hưng thịnh hay suy vong của một đất nước... đều phụ thuộc vào chỗ văn hóa đã được nhận thức và sử dụng như thế nào trong phát triển kinh tế - xã hội. Đ iều đó chứng tỏ rằng, sự phát triển tiến bộ, bền vững của mỗi quốc gia dân tộc chỉ có thể có được khi nó được tạo lập trong một môi trường văn hóa (MTVH) trong sạch, lành mạnh, phong phú và mang đ ậm truyền thống của dân tộc. Về vấn đề này, ông Federico Mayor - Tổng Giám đốc UNESCO - đ ã lên tiếng cảnh báo: "Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách khỏi môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về kinh tế lẫn văn hóa, và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy giảm rất nhiều" [9, tr. 8]. N hận thức rõ vị trí vai trò quan trọng của MTVH qua tổng kết lịch sử phát triển mấy nghìn năm của dân tộc, kết hợp với nghiên cứu xem xét các yếu tố cơ bản dẫn đến thành công hay thất bại của một số nước trên thế giới, tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) Đ ảng ta khẳng định: "Văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục tiêu và là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội". Theo tinh thần của Nghị quyết, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) mà chúng ta đang tiến hành nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ
  4. 4 nghĩa xã hội (CNXH) đang đặt ra nhiệm vụ cấp bách là xây dựng một xã hội không chỉ có nền kinh tế và khoa học công nghệ phát triển cao, mà cùng với nó phải là một MTVH trong sạch, lành mạnh, thực sự là nguồn năng lượng tinh thần vô giá, là "cái nôi" nuôi dưỡng tâm hồn, phát triển trí tuệ và hình thành nhân cách con người. Nhiệm vụ này hoàn toàn thống nhất với mục tiêu của con đường đi lên CNXH mà Đ ảng ta đã lựa chọn: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [16, tr. 163], ho àn toàn phù hợp với nguyện vọng thiết tha của toàn thể dân tộc ta. Thành tựu lớn lao của chặng đường hơn 15 năm đổi mới to àn diện đất nước càng khẳng định xây dựng MTVH phải trở thành yêu cầu bức thiết và là điều kiện cơ bản đảm bảo cho sự thành công của công cuộc đổi mới, đảm bảo sự phát triển tiến bộ, bền vững của quốc gia dân tộc. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX cũng khẳng định phải phát triển nhanh nhưng bền vững; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; mục tiêu chân - thiện - mỹ là đích vươn tới của văn hóa Việt Nam. Cũng cần phải nghiêm túc thừa nhận rằng, b ên cạnh những thành tựu đáng tự hào mà chúng ta đã đạt được trong công cuộc đổi mới vừa qua, thực trạng MTVH nước ta còn nhiều những hạn chế, bất cập đáng lo ngại: sự gia tăng nhanh chóng của tệ nạn xã hội; sự băng hoại đạo đức, lối sống của một lớp người trong xã hội, đặc biệt là lớp thanh niên trẻ; sự tấn công, phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang làm xói mòn đạo đức, lối sống, phá vỡ thuần phong mỹ tục, chao đ ảo kỷ cương, phép nước... Tất cả dẫn đến nguy cơ nhiễu loạn, ô nhiễm MTVH, cản trở con đường đi lên CNXH ở nước ta. Tuy nhiên, việc xây dựng MTVH đáp ứng những yêu cầu nhiệm vụ của CNH, HĐH đất nước còn là vấn đề khá mới mẻ, chưa được quan tâm nhiều trong hoạt động nghiên cứu khoa học cũng như trong thực tiễn xây
  5. 5 dựng MTVH ở các địa phương cho nên không tránh khỏi những hạn chế, bất cập trong nhận thức và giải quyết vấn đề. H ạ Long (thuộc tỉnh Quảng Ninh) là một thành phố trẻ, một trung tâm du lịch của cả nước, có tầm cỡ thế giới. Đặc biệt, với hệ thống đ ường biển và cảng biển phong phú và thuận lợi, Hạ Long là cửa ngõ giao thông quan trọng của các tỉnh phía Bắc trong giao lưu với các nước trong khu vực và quốc tế. Vì vậy, xây dựng MTVH của thành phố càng là vấn đề cấp thiết và không kém phần khó khăn, phức tạp. Xuất phát từ tình hình đó, tác giả chọn đề tài: "Xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố Hạ Long trong thời kỳ đổi mới hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu V ề vấn đề MTVH và xây dựng MTVH ở nước ta cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu của các tác giả đề cập đến như: Văn hóa - một số vấn đề lý luận của PGS. Trường Lưu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Tác giả đã xem xét MTVH trong mối quan hệ thống nhất hữu cơ với môi trường tự nhiên (MTTN) và môi trường xã hội (MTXH), từ đó đặt ra yêu cầu trong hoạt động xây dựng MTVH cần có sự kết hợp hài hòa, đồng bộ với nhiệm vụ xây dựng MTTN và MTXH nhằm phát triển toàn diện con người, qua đó tác động tới sự phát triển của văn hóa, x ã hội. G S.TS Hoàng Vinh trong cuốn Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng môi trường văn hóa ở n ước ta hiện nay, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1999 nhấn mạnh vai trò của việc tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở - bước đi ban đ ầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc - đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Từ việc đi sâu nghiên cứu khái niệm, bản chất, chức năng của văn hóa, GS.TS Trần Văn Bính trong Đ ề cương bài giảng lý luận văn hóa (cho hệ
  6. 6 đào tạo cao học và nghiên cứu sinh), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000 xem MTVH đ ược hình thành bởi các giá trị mà ho ạt động của con người tạo ra. Trong công trình nghiên cứu Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay từ góc nhìn giá trị học, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002, GS.TS Đỗ Huy đã tiếp cận MTVH theo thước đo giá trị lịch sử - xã hội, làm hiện diện bản chất của MTVH như một di sản có nhiều năng lượng quý hiếm m à tất cả các thế hệ tiếp nối đều phải gìn giữ và sáng tạo tiếp. Từ đó đề ra việc đánh giá MTVH phải được dựa vào một hệ chuẩn nhất định. Tiếp cận văn hóa như một tổng thể chiều sâu, bề rộng, tầm cao của các giá trị mang tính nhân văn, TS. Văn Đức Thanh trong cuốn Về xây dựng môi trường văn hóa cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001 đã đặt ra yêu cầu nhận thức và vận dụng đúng đắn những vấn đề phương pháp luận trong quá trình xây dựng MTVH cơ sở. TS. Trần Lê Bảo và các tác giả của cuốn Văn hóa sinh thái nhân văn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nộ i, 2001 lại xem xét vấn đề văn hóa, MTVH từ góc độ quan hệ hữu cơ của con người với tự nhiên, với môi trường sinh thái (MTST) của nó, coi đó là cơ sở để giải quyết vấn đề MTST - nhân văn, cũng là MTST - x ã hội đang trở nên bức xúc hiện nay. N goài ra, nhiều tác giả không trực tiếp đề cập đến MTVH mà đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về văn hóa như: Văn hóa và đổi mới của Phạm Văn Đồng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Vấn đề văn hóa và phát triển của GS.TS Hoàng Trinh, Nxb Chính trị quốc gia, H à Nội, 1996; Q uản lý hoạt động văn hóa của Nguyễn Văn Hy - Phan Văn Tú - Hoàng Sơn Cường, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1998; Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Những vấn đề văn hóa Việt Nam đương đại của GS.TSKH Bùi Khái Vinh, Nxb Văn hóa
  7. 7 thông tin, Hà Nội, 2001... Đây thực sự là những công trình nghiên cứu có giá trị, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu to àn diện về MTVH. Trong những năm gần đây, đã có một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ nghiên cứu về MTVH ở các lĩnh vực khác nhau và các đ ịa phương khác nhau. Tuy nhiên, MTVH vẫn đang đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn cần giải quyết tiếp và vấn đề "Xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố Hạ Long trong thời kỳ đổi mới hiện nay" chưa có công trình nào đề cập đến. Kế thừa những thành tựu đã đạt được, luận văn này sẽ tập trung đi sâu vào tìm hiểu toàn diện hơn về MTVH và làm rõ những vấn đề đang đặt ra trong việc xây dựng MTVH ở thành phố Hạ Long hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu Mục đích: Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về MTVH, luận văn khảo sát và đánh giá thực trạng MTVH ở thành phố Hạ Long, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu xây dựng MTVH thành phố Hạ Long trong thời kỳ đổi mới hiện nay. N hiệm vụ: - Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận MTVH. - Khảo sát và đánh giá đúng thực trạng MTVH ở thành phố Hạ Long hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu lực, hiệu quả xây dựng MTVH ở thành phố Hạ Long trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chủ yếu tập trung phân tích, đánh giá thực trạng MTVH ở thành phố Hạ Long, từ đó đề ra các giải pháp sát thực, hữu hiệu. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
  8. 8 - Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng về văn hóa và xây dựng MTVH trong thời kỳ đổi mới hiện nay. - Kết hợp các phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử; tiếp thu và sử dụng linh hoạt các phương pháp so sánh, thống kê, điều tra x ã hội học; sử dụng kiến thức liên ngành về văn hóa - môi trường trong quá trình nghiên cứu. 5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài - Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về MTVH và xây dựng MTVH ở nước ta hiện nay. - Phân tích, đánh giá đúng thực trạng MTVH ở thành phố Hạ Long. - Đề xuất một số giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả xây dựng MTVH ở địa phương trong thời kỳ đổi mới hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Luận văn thành công sẽ là đề tài tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy môn Lý luận văn hóa trong hệ thống các trường Đảng địa phương. - Luận văn cung cấp nguồn tư liệu cho các cấp các ngành và chính quyền địa phương tham thảo trong hoạt động lãnh đạo quản lý xây dựng MTVH trên đ ịa bàn thành phố. 7. K ết cấu của luận văn N goài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
  9. 9 Chương 1 MÔI TRƯ ỜNG VĂN HÓA VÀ VAI TRÒ CỦA XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI 1.1. QUAN NIỆM VỀ MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA Nói tới văn hóa là nói tới con người, nói đến việc phát huy những năng lực bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện x ã hội. Nghiên cứu MTVH trên cơ sở phương pháp luận mácxít thực chất là nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa con người với hoàn cảnh. Con người là một thực thể xã hội được hình thành trong những điều kiện hoàn cảnh tự nhiên và xã hội nhất định, trong đó con người không chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh mà còn là kẻ sáng tạo ra hoàn cảnh, là chủ thể tích cực của hoàn cảnh. Mác và Ăngghen đã khẳng định rằng: "Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy" [28, tr. 55]. N hư vậy, xét theo góc độ văn hóa, con người vừa là chủ thể sáng tạo, tích lũy và phát triển văn hóa, vừa là khách thể trong sự tác động trở lại của văn hóa nhằm tạo nên những nhân cách toàn diện. To àn bộ những sản phẩm văn hóa do con người sáng tạo ra bằng tri thức, lao động và tất cả các hoạt động khác của nó hợp thành một "thế giới nhân tạo" phân biệt với thế giới tự nhiên, được gọi là "hệ sinh thái văn hóa". Cùng với hệ sinh thái tự nhiên, h ệ sinh thái văn hóa thường xuyên tác động đến con người, nuôi dưỡng tâm hồn, phát triển trí tuệ và hình thành nhân cách con người. Trong sự tác động qua lại nhiều chiều ấy, "nếu đại tự nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống con người thì văn hóa là cái nôi thứ hai, ở đó toàn bộ đời sống của con người đ ược hình thành, được nuôi d ưỡng và phát triển. Con người không thể tồn tại nếu tách rời đại tự nhiên, cũng như con người không thể thực sự là con người nếu tách rời môi trường văn hóa" [8, tr. 65]. Từ góc độ nghiên cứu một số vấn đề về lý luận và thực tiễn của MTVH, cần thiết phải tìm hiểu các khái niệm văn hóa, MTVH.
  10. 10 1.1.1. Văn hóa và môi trường văn hóa Khái niệm văn hóa V ăn hóa là một thuật ngữ có nội hàm ngữ nghĩa khá phong phú và phức tạp, có nguồn gốc cả ở phương Tây và phương Đông. Ở phương Tây, từ văn hóa x uất hiện rất sớm trong đời sống ngôn ngữ, ban đầu nó là một từ có căn gốc La tinh "colere", sau trở thành "cultura" nghĩa là cày cấy, vun trồng. Về sau, "cultura" được chuyển sang nghĩa rộng hơn là sự vun trồng tinh thần, trí tuệ. Cicéron, nhà chính trị hùng biện thời La Mã (thế kỷ I Tr. CN) từng có câu nói nổi tiếng: "Filosofia cultura animiest" nghĩa là: Triết học là văn hóa (sự vun trồng) tinh thần, chính là nói về quá trình giáo dục, bồi dưỡng về các mặt tinh thần, trí tuệ cho con người. Ở phương Đông, từ văn hóa x uất hiện vào thời Tây Hán. Lưu Hướng (năm 77-6 Tr. CN) trong sách Thuyết Uyển, bài Chỉ Vũ có viết: "Bậc thánh nhân trị thiên hạ, trước dùng văn đức, sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng vũ lực đều để đối phó kẻ bất phục tùng, dùng văn hóa không thay đổi được thì sau đó sẽ chinh phạt" [38, tr. 13]. Ở đây, văn hóa được hiểu như một cách giáo hóa đối lập với vũ lực, theo đó văn hóa là "văn trị giáo hóa" tức là dùng "văn trị" (cái hay cái đẹp) để "giáo hóa" (giáo dục cảm hóa) con người. Như vậy có thể thấy, ngay từ thuở rất xa x ưa, ở cả phương Tây và phương Đông, con người đ ã ý thức được về văn hóa và vai trò của nó đối với việc giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, trí tuệ và tình cảm con người. Mặc dù có mặt rất sớm trong đời sống ngôn ngữ như vậy, nhưng phải đến thế kỷ XVIII, từ văn hóa mới được đưa vào sử dụng như một thuật ngữ khoa học với ý nghĩa: văn hóa là toàn bộ những gì được tạo ra do hoạt động xã hội của con người, nghĩa là văn hóa đối lập với trạng thái tự nhiên. Cuối thế kỷ XIX, sau khi công trình "Văn hóa nguyên thủy" của E.B. Taylor được công bố (1871), ngành khoa học về văn hóa mới chính thức được khẳng định. Tuy nhiên, chỉ đến thế kỷ XX, đặc biệt là những thập niên cuối của thế kỷ, việc nhận thức về văn hóa và vai trò của nó đối với đời sống xã hội mới thực sự được chú ý. Sự phát triển như vũ b ão của khoa học công nghệ khiến con
  11. 11 người tiến nhanh về phía trước với những b ước đi của "người khổng lồ", song bên cạnh đó là sự sụp đổ về mô hình phát triển ở một số quốc gia dân tộc chỉ chú trọng phát triển kinh tế thuần túy, xem nhẹ vai trò của văn hóa đã khiến cho con người bắt đầu nhìn nhận văn hóa với một nhãn quan mới. Văn hóa được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Bằng lập luận của mình, mỗi nhà khoa học đều có sự phân tích, bổ sung thêm, làm cho văn hóa trở thành một đối tượng đặc biệt có nội hàm không ngừng được mở rộng, được nhìn nhận với một thái độ rất văn hóa và cũng rất khoa học. Bởi lẽ đó, cho đến nay, theo thống kê của một nhà dân tộc học người Mỹ, có khoảng hơn 400 định nghĩa về văn hóa. Có thể nói, có bao nhiêu người nghiên cứu văn hóa thì có bấy nhiêu định nghĩa về văn hóa, và việc đưa ra một khái niệm đầy đủ về văn hóa là vô cùng khó khăn. Jacques Dérrida, nhà nghiên cứu văn hóa người Pháp đ ã phải thốt lên: "Văn hóa chính là cái tên mà chúng ta đặt cho điều bí ẩn không cùng với những ai ngày nay đang tìm cách suy nghĩ về nó" [19, tr. 35]. Từ điển Triết học đưa ra định nghĩa: "Văn hóa gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội - lịch sử và tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội... Văn hóa là một hiện tượng lịch sử, phát triển phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội" [43, tr. 1329-1330]. H iện nay UNESCO đang nhìn nhận văn hóa với một ý nghĩa rộng rãi hơn, coi văn hóa như một phức thể - tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức, tình cảm... khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đ ình, xóm làng, vùng miền, quốc gia, x ã hội. Năm 1988, khi phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Tổng giám đốc UNESCO Federico Mayor cũng đưa ra một định nghĩa: "Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của cá nhân và cộng đồng trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc" [9, tr. 23]. Với ý nghĩa đó, văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt động
  12. 12 nào của con người, dù đó là hoạt động sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần, hay trong quan hệ giao tiếp ứng xử xã hội, trong thái độ đối với thiên nhiên. Ở Việt Nam nước ta, văn hóa từ danh từ chuyển hóa thành thuật ngữ đa nghĩa cả trong ngôn ngữ thường ngày lẫn trong luận điểm khoa học. Xa xưa, ông cha ta dùng từ "văn hiến" thay cho từ văn hóa như hiện nay và nội hàm của nó cũng chưa mở rộng như các giai đoạn sau này. Từ đời Lý (1010), người Việt đã tự hào nước mình là một "văn hiến chi bang". Đến đời Lê (thế kỷ XV), danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi đã khẳng định: "Duy ngã Đ ại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang" (Duy nước Đại Việt ta thực sự là một nước văn hiến). Từ "văn hiến" mà Nguyễn Trãi dùng ở đây là một khái niệm rộng chỉ một nền văn hóa cao, trong đó nếp sống tinh thần, đạo đức được chú trọng. N ăm 1942, tại "Mục đọc sách" viết xen trong bản thảo "Nhật ký trong tù", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa hết sức xác đáng: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa" [30, tr. 431]. Với định nghĩa này, Hồ Chí Minh bằng cách tiếp cận biện chứng đã nắm bắt trạng thái vận động và cả trạng thái tĩnh của văn hóa. Học giả Đào Duy Anh trong cuốn Việt Nam văn hóa sử cương cũng đưa ra một nhận định mang dáng nét tương đồng với quan niệm của Hồ Chủ tịch: "Hai tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương tiện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: "Văn hóa tức là sinh hoạt"" [2, tr. 13]. N hững năm gần đây, nghiên cứu văn hóa thực sự trở thành một môn khoa học tại Việt Nam. Một số học giả tập trung nghiên cứu về văn hóa tiếp tục đưa ra các quan niệm của mình về văn hóa. Trên cơ sở phân tích các định nghĩa về văn hóa, PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa: "Văn hóa
  13. 13 là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình" [42, tr. 27]. Đ ịnh nghĩa này đã nêu bật bốn đặc trưng quan trọng của văn hóa là: tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử, tính nhân sinh. N goài ra, một số các định nghĩa khác của GS. H à Văn Tấn, GS. Trần Quốc V ượng, GS. Hoàng Vinh, GS. Trần Văn Bính, PGS. Trường Lưu... cũng là những đóng góp quan trọng bổ sung cho nhận thức chung về văn hóa. Mặc dù đứng ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau nên cách giải thích, cách quan niệm cũng khác nhau song nhìn chung, đ ại đa số các nhà nghiên cứu văn hóa đều quan niệm văn hóa gắn với con người, là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra, trở thành bộ phận cơ bản trong xã hội. Tóm lại, văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt có tính ngành nghề. Đó là hoạt động nhằm phát huy những năng lực bản chất của con người, vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ. Văn hóa là hoạt động nhằm tạo ra những giá trị, những chuẩn mực xã hội. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân và hoạt động có hướng đích nhằm đạt tới một giá trị nào đó trong xã hội. Văn hóa là "thiên nhiên thứ hai", là "cái nôi' nuôi dưỡng tâm hồn và hình thành nên phẩm giá con người. Một không gian văn hóa lành mạnh bao gồm toàn bộ những sản phẩm, hành đ ộng, khuôn mẫu ứng xử... chứa đựng hệ thống giá trị nhân văn và vốn kinh nghiệm xã hội, sẽ tạo thành "môi trường văn hóa" lành mạnh nuôi dưỡng đời sống tinh thần con người, phát triển con người ngày càng hoàn thiện về mọi mặt. Đây chính là cơ sở lý luận quan trọng để tiếp cận, nghiên cứu về MTVH. Khái niệm môi trường văn hóa Trước đây ở nước ta, một số khái niệm liên quan đến môi trường như: môi trường sống, môi trường tự nhiên, môi trường xã hội... thường được dùng phổ biến để chỉ phạm vi những điều kiện thiết yếu cho sinh vật (trong đó có
  14. 14 con người) tồn tại và phát triển. Từ Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) của Đảng Cộng sản Việt Nam, một thuật ngữ mới là "môi trường văn hóa" bắt đầu xuất hiện, được đông đảo mọi người tiếp nhận và nhanh chóng thu hút sự tập trung chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Đây thực sự là vấn đề mới mẻ trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, cho đến nay chưa có được một quan niệm thống nhất. Từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, khái niệm "môi trường" mới chỉ được tiếp cận ở góc độ khoa học tự nhiên thuần túy ở phương Tây nên môi trường chỉ được coi là những gì thuộc về tự nhiên hay thế giới vật chất bao quanh con người như không khí, đất, nước, các loài sinh vật v.v... Quan niệm này trở thành khá phổ biến ở nhiều nước trên thế giới trong suốt một thời gian dài. Ở Việt Nam những năm gần đây, quan niệm này vẫn còn tồn tại trong giới nghiên cứu khoa học. Tạp chí Cộng sản số 19/1996 đưa ra quan niệm: "Môi trường là tổng hợp các điều kiện cư trú về tự nhiên và sinh thái của con người, của một hay nhiều loài đ ộng vật, thực vật hoặc sinh vật", từ đó dẫn đến quan niệm về bảo vệ môi trường là "tổng hợp các biện pháp nhằm quản lý, duy trì, sử dụng hợp lý, phục hồi, nâng cao hiệu quả sử dụng môi trường tự nhiên giúp cho cuộc sống của con người và thiên nhiên có sự hài hòa, phù hợp" [44, tr. 58]. Qua đó có thể thấy, khái niệm môi trường bị đồng nhất (hoặc lẫn lộn) với khái niệm MTTN, MTST. Thực ra, nhìn nhận vấn đề ở tầm khái quát có thể thấy khái niệm "môi trường" chỉ một phạm vi rất rộng lớn. Theo định nghĩa của UNEP (chương trình môi trường của Liên hợp quốc) thì: "Môi trường là thế giới mà chúng ta đang sống trong đó"; trong quan niệm của nhà nghiên cứu Ấn Độ Suriyakuran, "môi trường có thể được xác định như là tổng di sản hành tinh và tổng số của tất cả các tài nguyên" [31, tr. 25]. Michel Batisse, nhà nghiên cứu người Pháp nổi tiếng về môi trường và tài nguyên thiên nhiên đ ã khẳng định: "Môi trường không chỉ bó hẹp ở
  15. 15 những không gian đ ược gọi là tự nhiên và đ ã bị biến đổi ít nhiều qua các thời kỳ m à còn bao gồm cả những không gian nhân tạo làm thành khung cảnh cho cuộc sống của hầu hết mọi người" [29, tr. 47-48]. Trên cơ sở những quan niệm về môi trường theo nghĩa rộng mà các nhà nghiên cứu đã đưa ra, PGS. Trường Lưu khái quát lại: "Về một định nghĩa chung nhất thì môi trường là những gì gắn chặt và bao quanh con người" [27, tr. 241]. Tập hợp tất cả các ý kiến trên, có thể rút ra nhận định: Môi trường là một khái niệm "mở", nó bao gồm "mọi thứ quanh ta", "có liên quan mật thiết với ta". Đó là những yếu tố tự nhiên hay nhân tạo, thuộc phạm trù vật chất hay tinh thần, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của con người và xã hội. Theo đó có thể hiểu, môi trường sống của con người không chỉ là MTTN và MTXH, đó là còn là MTVH - môi trường sống đặc biệt chỉ có ở cộng đồng người. Các yếu tố này có quan hệ hữu cơ mật thiết với nhau, đan xen vào nhau tạo nên điều kiện sống và điều kiện phát triển của cá nhân và của x ã hội. Như vậy, MTVH chính là một bộ phận của môi trường sống của con người, nhưng nó không tồn tại tự thân m à nó chính là kết quả của sự "đan bện" rất phức tạp và đa d ạng giữa các hệ môi trường với nhau, tạo nên một môi trường đặc biệt riêng có ở con người, gắn với cuộc sống của con người, còn gọi là môi trường nhân văn (MTNV). K hái niệm MTVH lần đầu tiên được đề cập đến trong tác phẩm "Sinh thái nhân văn" năm 1975 của Giáo sư sinh - nhân chủng học người Pháp Georges Olivier, trong đó MTVH hay MTNV được tạo nên bởi "sự tác động của con người tới con người" và "tổ chức xã hội của chúng ta", còn "sự tác động của con người với tự nhiên cũng như sản phẩm từ nền công nghiệp đương nhiên đã có và phải có" [20, tr. 10]. Theo ý nghĩa này, MTVH là khái niệm mang tính đa phương, đa diện: MTVH là không gian văn hóa chứa đựng các mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, con người với xã hội, con người với con người.
  16. 16 Theo quan niệm của nhà nghiên cứu Xô viết GS.TS Triết học A.I.Ác- nôn-đốp , MTVH là "tổng thể ổn định những yếu tố vật thể và nhân cách, nhờ đó các cá thể tác động lẫn nhau. Chúng ảnh hưởng tới hoạt động khai thác v à sáng tạo giá trị văn hóa, tới nhu cầu tinh thần, hứng thú và định hướng giá trị của họ. Môi trường văn hóa không chỉ là tổng hợp những yếu tố văn hóa vật thể mà còn có những con người hiện diện văn hóa" [1, tr. 75]. Ở Việt Nam những năm gần đây, MTVH trở thành vấn đề bức xúc, thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên c ứu. Xuất phát từ những mục đích nghiên cứu khác nhau, các nhà nghiên cứu đề cập và tiếp cận MTVH từ các góc độ và cấp độ cũng khác nhau. Trong công trình nghiên cứu khoa học "Nuôi dưỡng giá trị văn hóa trong nhân cách người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam" của Bộ Quốc phòng, "môi trường văn hóa là tổng hòa những thành tố vật chất và tinh thần tương đối ổn định, trong một thời gian và không gian cụ thể, ở đó các cá nhân tác động đến nhau, con người là yếu tố quan trọng nhất của môi trường văn hóa" [46, tr. 32]. Từ góc độ lãnh đạo, quản lý, các tác giả của cuốn sách "Quản lý hoạt động văn hóa" năm 1998 nhận định: "Môi trường văn hóa là một tổng thể các sản phẩm văn hóa, chương trình văn hóa, hành vi văn hóa, thiết chế, phương tiện và cảnh quan văn hóa... mà cá nhân tiếp xúc trong suốt đời mình và có ảnh hưởng qua lại với m ình" [24, tr. 77]. Mới đây, xuất phát từ quan điểm giá trị học, GS.TS Đỗ Huy cho rằng: "Môi trường văn hóa gắn với toàn bộ hoạt động người. Các lớp và không gian của môi trường gắn liền với sự đối tượng hóa các năng lực bản chất của con người..." [23, tr. 24]. Từ đó, tác giả đi đến kết luận: "Môi trường văn hóa chính là sự vận động của các quan hệ của con người trong các quá trình sáng tạo, tái tạo, đánh giá, lưu giữ và hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của mình" [23, tr. 35-36]. Như vậy, có thể hiểu MTVH là tổng hòa các giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần tác động đến con người và cộng đồng trong
  17. 17 một không gian và thời gian xác định, ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách, lối sống của cá nhân và cộng đồng. Theo ý nghĩa này, MTVH đồng nghĩa với MTNV, bởi theo TS. Vũ Hào Quang, MTNV chính là "những điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội xung quanh con người, có tác động trực tiếp tới sự hình thành phát triển nhân cách của cá thể, lối sống của các nhóm xã hội cũng như của toàn thể xã hội" [34, tr. 3-4]. MTVH chính là dạng "môi trường sống đặc biệt" chỉ có ở cộng đồng người. Và nếu tiếp cận văn hóa như sự phát triển những "giá trị người" theo cái chân - thiện - m ỹ trong tiến trình lịch sử thì môi trường sống của con người bao quát toàn bộ MTXH và những gì thuộc MTTN nhưng được con người "nhân hóa", "văn hóa hóa", "thẩm mỹ hóa". Mặc dù góc độ nghiên cứu, cấp độ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và cách diễn giải về MTVH khác nhau nhưng các tác giả đều đi đến khẳng định MTVH là một bộ phận quan trọng không thể thiếu đ ược trong môi trường sống của con người. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng để phân tích khái niệm cũng rất đa dạng, song nhìn chung, quan niệm về MTVH của các tác giả mang tính đồng thuận, đồng chiều, không có sự đối lập, mâu thuẫn, phủ định nhau. Tuy nhiên, để nắm được một cách đầy đủ bản chất của MTVH, cần đối chiếu, so sánh và phân biệt khái niệm MTVH với một số khái niệm khác có liên quan. Lâu nay, văn hóa được coi là "thiên nhiên thứ hai" do con người tạo nên, là "cái nôi" nuôi dưỡng đời sống tinh thần, tình cảm con người. Gần đây, khi khái niệm MTVH xuất hiện, người ta cũng gọi MTVH là "cái nôi" nuôi dưỡng tinh thần và phát triển nhân cách con người. Đó không phải là những cách hiểu thiếu chiều sâu dẫn đến sự lẫn lộn, không phân biệt hoặc đồng nhất hai khái niệm này. Nguyên do là ở chỗ giữa hai khái niệm "văn hóa" và "môi trường văn hóa" có những nét tương đồng. Nếu văn hóa là "sự phát huy các năng lực
  18. 18 bản chất của con người, là sự thể hiện đầy đủ nhất chất người nên văn hóa trở thành năng lực tinh thần đặc biệt, giúp con người hoàn thiện nhân cách, tâm hồn, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của con người" [8, tr. 65], thì một khi đ ã hình thành, văn hóa lại tạo ra môi trường sống, MTVH của con người, góp phần quan trọng trong việc hình thành con người như m ột thực thể văn hóa. Trong mối quan hệ nhiều chiều của môi trường sống đến con người, văn hóa và MTVH đều là những nhân tố có ảnh hưởng, tác động quan trọng đến phát triển toàn diện con người. Bên cạnh những nét tương đồng, có thể nhận thấy giữa văn hóa và MTVH có những sự khác biệt tương đ ối để phân định, không thể đồng nhất. Văn hóa hàm chứa một ý nghĩa rất rộng lớn. Văn hóa được nhìn nhận là trình độ, năng lực bản chất người, là hoạt động sáng tạo và sản phẩm (giá trị) sáng tạo của con người. Văn hóa vừa tiềm ẩn trong con người, vừa được thể hiện ra thế giới xung quanh con người. Còn MTVH lại chính là một bộ phận của môi trường sống được "nhân hóa", "văn hóa hóa", "thẩm mỹ hóa"..., là sự biểu hiện văn hóa của con người ra bên ngoài cùng với con người hoạt động văn hóa. Hơn thế nữa, văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng định hướng, chi phối bản chất, trình độ phát triển của MTVH, bởi theo GS.TS Trần Văn Bính, "văn hóa không dừng lại ở các hoạt động. Các hoạt động sẽ tạo ra các giá trị. Giá trị là hạt nhân tạo nên văn hóa, là hòn đá thử vàng để phân biệt các hoạt động văn hóa với các hoạt động phản văn hóa. Các giá trị này đến lượt nó lại hình thành nên khái niệm mà ta gọi là môi trường văn hóa" [8, tr. 67]. Trong mối quan hệ với con người, MTVH giữ vai trò khách thể, là cái "bao quanh" con người, tác động trở lại con người một cách khách quan. Con người là yếu tố quan trọng, giữ vai trò chủ thể của văn hóa. Văn hóa luôn luôn vận động biến đổi. Thông qua sự vận động và phát triển của văn hóa, MTVH luôn luôn được bồi đắp các giá trị mới, đó là các giá trị nhân văn, nhân bản, hiện đại, đảm bảo cho sự phát triển tiếp nối các giá trị truyền thống, tạo ra
  19. 19 tính đa dạng, linh hoạt của MTVH. "Môi trường văn hóa là thành quả kết tinh của một thời đại cụ thể" [23, tr. 67], song nó không đơn thuần chỉ là sản phẩm của nền văn hóa trong xã hội hiện tại mà còn là sự phát triển tiếp nối của truyền thống dân tộc, của hệ thống các giá trị, các chuẩn mực đạo đức, pháp luật, các phương thức hoạt động, khuôn mẫu ứng xử... được các thế hệ liên tục nuôi dưỡng và bồi đắp thêm, đã định hình và tương đối ổn định trong suốt tiến trình vận động và phát triển nền văn hóa dân tộc. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, MTVH là một bộ phận quan trọng, một phương diện cốt lõi của văn hóa, phản ánh bản chất, trình độ phát triển của nền văn hóa trong một xã hội cụ thể. Theo quan điểm giá trị học, MTVH là tổng thể các giá trị tinh thần "bao quanh con người". Chất lượng của MTVH trong từng giai đoạn lịch sử nhất định là yếu tố quyết định sự phát triển con người, phát triển xã hội trong giai đoạn lịch sử ấy. Trong thực tế, MTVH đ ược biểu hiện như sự đan xen phức hợp giữa MTTN và MTXH. Không nên lẫn lộn hay đồng nhất MTVH với MTXH mặc dù chúng có quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động hữu cơ với nhau: "Môi trường xã hội nói chung, trong đó bao gồm nhiều yếu tố văn hóa, hay môi trường văn hóa cũng đồng thời là môi trường x ã hội nếu hiểu văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội" [27, tr. 241]. Có nghĩa là, MTXH và MTVH vừa thống nhất hữu cơ, vừa khu biệt theo cơ chế tổ chức. Cũng không nên quan niệm MTVH, do chỗ là tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra nên nó biệt lập, tách rời MTTN. Đến đây có thể thấy rõ, sự phân định môi trường sống của con người ra thành ba lĩnh vực: MTTN, MTXH, MTVH như trên chỉ có tính tương đối. MTVH là một lĩnh vực riêng có trong môi trường sống của con người, nó có tính độc lập tương đối với quy luật vận động và phát triển mang tính đặc thù. Sự "đan bện" phức hợp giữa ba hình thái môi trường này sẽ tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện con người.
  20. 20 Trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại, con người ngày càng được tạo điều kiện để phát huy năng lực hoạt động sáng tạo của mình nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao của xã hội. Xã hội càng phát triển thì phạm vi của MTVH càng rộng mở và càng có tác động tích cực đến đời sống con người và xã hội. MTVH hình thành nên những biểu trưng giá trị cho con người và cộng đồng, xác định nội dung tư tưởng, điều chỉnh nhu cầu và nguyện vọng, định hướng cho mọi hoạt động sáng tạo trong xã hội hướng tới chân - thiện - mỹ. Nói cách khác, MTVH là tổng hòa các điều kiện vật chất, tinh thần, hoàn cảnh, tổng hòa các mối quan hệ xã hội có ảnh hưởng, tác động đến sự phát triển và hoàn thiện nhân cách, phát triển năng lực sáng tạo của con người. Vì lẽ đó, xem xét con người không bao giờ được tách rời khỏi mối quan hệ với ba hình thái môi trường nêu trên. Và, thực hiện nhiệm vụ xây dựng MTVH ở nước ta phải dựa trên cơ sở kết hợp đồng bộ, hài hòa và chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng MTTN và MTXH thực sự phong phú, trong sạch, lành mạnh. Xây dựng MTVH là phải giải quyết tốt các mối quan hệ giữa con người với xã hội, con người với tự nhiên và con người với con người. "Môi trường văn hóa của chúng ta là môi trường mà ở đó con người giao tiếp với tự nhiên, phát triển hài hòa với tự nhiên. Môi trường văn hóa của chúng ta là môi trường mà ở đó con người được sống bình đẳng, tự do và hạnh phúc, và bộ giá trị chân - thiện - mỹ là hướng vận động cơ bản" [23, tr. 25]. Trên cơ sở những phân tích lý giải trên, có thể rút ra một khái niệm chung về MTVH như sau: Môi trường văn hóa là tổng hòa các yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể bao quanh con người, có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đối với con người trong một không gian và thời gian xác định, có ảnh hưởng tác động đến sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người, phù hợp với sự vận động và phát triển của đời sống xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2