intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao lợi nhuận của công ty cổ phần đầu tư Ngọc lâm

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:59

246
lượt xem
78
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trước những cơ hội và thách thức của thị trường, để phát triển doanh nghiệp phải có những chiến lược kinh doanh, quản lý hợp lý. Hoà nhập nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong nền kinh tế đều phải thay đổi mục tiêu lợi nhuận. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì hoạt động sản xuất kinh doanh phải có lãi, lãi là mục tiêu cuối cùng mà các doanh nghiệp cần hướng tới....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao lợi nhuận của công ty cổ phần đầu tư Ngọc lâm

  1. LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao lợi nhuận của công ty cổ phần đầu tư Ngọc lâm
  2. LỜI MỞ ĐẦU Trước những cơ hội và thách thức của thị trường, để phát triển doanh nghiệp phải có những chiến lược kinh doanh, quản lý hợp lý. Hoà nhập nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong nền kinh tế đều phải thay đổi mục tiêu lợi nhuận. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì hoạt động sản xuất kinh doanh phải có lãi, lãi là mục tiêu cuối cùng mà các doanh nghiệp cần hướng tới. Hoạt động sản xuất kinh doanh được coi là có lãi (có hiệu quả kinh tế) khi thu nhập từ các hoạt động sản xuất kinh doanh phải lớn hơn tổng chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra. Có lợi nhuận doanh nghiệp mới có thể mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín thương mại, lợi nhuận và góp phần nâng cao năng suất lao động, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên, là động lực trực tiếp thúc đẩy, khuyến khích tinh thần lao động hăng say, góp phần nâng cao năng suất lao động ngoài ra đảm bảo khả năng thanh toán với nhà nước và các đơn vị kinh tế khác, góp phần quan trọng để tái thiết nền kinh tế quốc dân thông qua việc đóng góp vào ngân sách nhà nước. Như vậy lợi nhuận là động lực, là mục tiêu hàng đầu, là đích cuối cùng mà doanh nghiệp phải hướng tới, nhằm đảm bảo sự sinh tồn, phát triển và thịnh vượng của mình. Mặt khác, lợi nhuận được tạo ra là kết quả tổng hợp của các hoạt động sản xuất kinh doanh cả doanh nghiệp, là kết quả của việc kết hợp hài hoà giữa các khâu, các công đoạn, các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh, là sản phẩm của sự tìm tòi và sáng tạo, mạo hiểm, linh hoạt của các nhà quản trị. Nó đòi hỏi các nhà quản trị doanh nghiệp phải có sự phát triển toàn diện khả năng tư duy, nhạy bén và năng động. Vì vậy đi sâu tìm hiểu nghiên cứu về lợi nhuận giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về các hoạt động của doanh nghiệp về quản trị kinh doanh và đặc biệt là giá trị tài chính sao cho đem lại hiệu quả cao nhất.
  3. Hoạt động sao cho có hiệu quả và tìm mọi biện pháp nhằm tăng lợi nhuận luôn là vấn đề bức bách của các doanh nghiệp. Xuất phát từ suy nghĩ trên và sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Hữu Tài và các cô chú trong ban giám đốc công ty cổ phần đầu tư Ngọc Lâm. Em đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao lợi nhuận tại công ty cổ phần đầu tư Ngọc Lâm.” Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo chuyên đề được kết cấu thành 3 chương: Chương I. Lý luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chương II. Tổng quan và tình hình lợi nhuận của công ty cổ phần đầu tư Ngọc lâm Chương III. Giải pháp nâng cao lợi nhuận của công ty cổ phần đầu tư Ngọc lâm. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG I- Vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1. Khái niệm và nguồn gốc của lợi nhuận: Trước khi nghiên cứu, tìm hiểu nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận ta phải tìm hiều lợi nhuận là gì? Lợi nhuận được hiểu qua các khái niệm sau.
  4. 1.1.Các khái niệm về lợi nhuận. Lợi nhuận là một khái niệm tưởng chừng đơn giản nhưng lại phức tạp. Nói một cách ước lệ tổng thu được từ các hoạt động sản xuất kinh đoanh trừ đi tổng chi phí cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh đó gọi là lợi nhuận. Cách hiểu như vậy thật đơn giản. Nhưng bản thân khái niệm và trong thực tế hình thành nên 1ãi suất không đơn giản chút nào. Khái niệm lợi nhuận là khái niệm mục đích, là khái niệm trọng tâm và là khái niệm phức tạp nhất của kinh doanh. Lợi nhuận chủ yếu là thông qua kinh doanh, nhưng ở mức độ nào đó lợi nhuận cũng có thể không phải từ kinh doanh mà ra; nhưng đó là để chỉ tính trực tiếp hoặc gián tiếp, còn trong tổng thể xã hội thì lợi nhuận chủ yếu được sinh ra trong kinh doanh. Khái niệm lợi nhuận khá phức tạp, để có một khái niệm lợi nhuận như ngày nay chính là sự đấu tranh, nghiên cứu giữa các nhà kinh tế học qua các thời đại. Bởi vậy khi xem xét đánh giá ở các góc độ khác nhau, các thời đại khác nhau mà mỗi nhà kinh tế lại có một cách hiểu khác nhau. Từ xa xưa các nhà kinh tế học cổ điển trước mác khi nhìn nhận lợi nhuận họ đều cho rằng '' cái phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phí sản xuất'' là lợi nhuận. Họ chưa hiểu được nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận được sinh ra từ đâu, mà họ chỉ hiểu được về mặt lượng, chưa hiểu được về mặt chất của 1ợi nhuận. - Theo c. Mác, người có một cái nhìn tinh tế hơn về lợi nhuận dưới góc độ khoa học hơn, ''thì lợi nhuận được hiểu'' là giá trị thặng dư hay cái phần trội 1ên trong toàn bộ giá trị của hàng hoá, trong đó lao động thặng dư hay 1ao động không được trả lương của công nhân đã được vật hoá. Ông đã nhìn lợi nhuận, hiểu được nguồn gốc cũng như bản chất của lợi nhuận. - Các nhà kinh tế học hiện đại như samuesdson và v.D.Nordhous cho rằng ''lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra bằng tổng thu về trừ đi tổng chi ra" hay cụ thể hơn "lợi nhuận được định nghĩa 1à sự chênh lệch giữa tổng thu nhập của doanh nghiệp và tổng chi phí". - Theo david begg, ftaniey fisher và rudigewdoven bush thì "lợi nhuận là lượng dôi ra của doanh thu so với chi phí".
  5. Đối với nước ta hiện nay đứng trên góc độ doanh nghiệp có thể thấy rằng lợi nhuận của quá trình kinh doanh là khơản tiền chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà đoanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu nhập đó từ các hoạt động của doanh nghiệp đưa lại trong khuôn khổ pháp luật quy định. Như vậy đứng về mặt lượng mà xét, thì tất cả các định nghĩa trên đều thống nhất ở một quan điểm " lợi nhuận là số thu dôi ra so với số chi phí bỏ ra". Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, 1à chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là sinh lời. Các doanh nghiệp độc lập trong sản xuất kinh doanh, không ngừng vận động, phát triển, cạnh tranh và lấn át nhau trong nền kinh tế thị trường. Để đứng vững trên thương trường và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của vốn, để có thể tích luỹ vốn, doanh nghiệp phải hoạt động sao cho có hiệu quả cao với lợi nhuận ngày càng lớn. Vì vậy, nâng cao lợi nhuận là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh tế nói chung. - Lợi nhuận chính là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để đạt được doanh thu đó trong một thời kỳ nhất định. Như vậy, để xác định được lợi nhuận là bao nhiêu, người ta căn cứ vào hai yếu tố: + Doanh thu thu được trong kỳ. Chủ yếu là doanh thu bán hàng hoá và cung cấp dịch vụ cho khách hàng + Chi phí bỏ ra để đạt được doanh thu đó trong kỳ, gồm chi phí hoạt động kinh doanh và thuế thu nhập doanh nghiệp - Lợi nhuận của doanh nghiệp nghiệp được biểu thị bằng công thức tổng quát Lợi nhuận = Doanh thu - Chi phí Trong kinh doanh lợi nhuận của doanh nghiệp được tính theo công thức P = TR - (TC - TAX ( To) Trong đó: P: Lợi nhuận của doanh nghiệp thu được từ hoạt động kinh doanh TR: Tổng doanh thu thực hiện dịch vụ, tiêu thu sản phẩm TC: Tổng chi phí bỏ ra để tạo ra khối lượng hàng hoá, dịch vụ đem tiêu thụ
  6. TAX: Thuế các loại cuả doanh nghiệp trng kỳ kinh doanh To: Tổn thất hoặc thu nhập ngoài hoạt động cơ bản. 1.2. Tìm hiểu nguồn gốc lợi nhuận. Các nhà kinh tế học thuộc nhiều trường phái khác nhau đã đưa ra nhiều ý kiến tranh luận khác nhau về nguồn gốc của lợi nhuận ở các góc độ và quan điểm riêng của họ. - Theo phái trọng thương họ cho rằng ''lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh vực lưu thông". - Theo phái trọng nông mà đại biểu nổi tiếng là kênê lại cho rằng ''giá trị thặng dư hay sản phẩm thuần túy là quà tặng vật chất của thiên nhiên và ngành nông nghiệp là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm thuần tuý". - Theo phái cổ điển, nổi tiếng như adam smith là người đầu tiên tuyên bố rằng "lao động là nguồn gốc sinh ra giá trị và giá trị thặng dư'' và chính ông lại khẳng định "giá trị thặng dư bao gồm tiền công, lợi nhuận và địa tô". Còn david ricarddo thì 1ại cho rằng ''giá trị do lao động của công nhân tạo ra là nguồn gốc sinh ra tiền lương cũng như 1ợi nhuận và địa tô". Như vậy cả smith và ricarđđo đều nhầm lẫn giữa giá trị thặng dư với lợi nhuận. Kế thừa những gì tinh tế nhất do các nhà kinh tế học tư sản để lại, kết hợp với việc nghiên cứu sâu sắc nền kinh tế sản xuất tư bản chủ nghĩa, đặc biệt 1à nhờ có lý luận vô giá về giá trị hàng hoá sức lao động nên c. Mác đã đưa ra một số kết luận một cách đứng đắn và khoa học: Ông cho rằng "giá trị thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, như vậy mang hình thái biến tướng là lợi nhuận thuần tuý". Dựa vào lý luận về lợi nhuận của c.Mác, kinh tế học hiện đại đã phân tích khá sâu sắc về nguồn 1ợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận luôn là mục tiêu, 1à cái đích mà các nhà doanh nghiệp phải có chiến lược và mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn cụ thể. Doanh nghiệp nào cũng luôn hướng tới làm sao thu được lợi nhuận cao nhất nếu có thể trong điều kiện cho phép. Do vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải biết nhìn nhận mình, phải nhìn thấy những cơ hội mà người khác bỏ qua, phải luôn
  7. có chiến lược chính sách nghiên cứu phát hiện ra sản phẩm mới, tìm ra phương pháp sản xuất mới tốt hơn để có chi phí thấp nhất hoặc phải liều lĩnh mạo hiểm. Nói chung tiến hành tốt tất cả các hoạt động, các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhằm tối thiểu hoá chi phí, tối đa hóa lợi nhuận, chính là góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng thực tế lợi nhuận kinh tế còn được xem như một phần thưởng dành cho các doanh nghiệp có khả năng và sẵn sàng tiến hành các hoạt động sáng tạo, đổi mới và mạo hiểm để tổ chức kinh doanh những thứ mà thị trường cần và đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Ngoài ra, cũng có những doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao hơn nhờ kiểm sơát, tổ chức và quản lý tốt các quá trình, các sản phẩm hoặc các thị trường đặc biệt, tình hình về một loại hàng hoá và dịch vụ thuộc thế mạnh của hãng. Như vậy nguồn gốc của lợi nhuận trong doanh nghiệp bao gồm: - Thu nhập mặc nhiên của các nguồn 1ực mà các doanh nghiệp đã đầu tư kinh doanh; - Phần thưởng cho sự mạo hiểm, sáng tạo đổi mới trong doanh nghiệp - Thu nhập độc quyền. 2. Vai trò và kết cấu của lợi nhuận trong doanh nghiệp a). Vai trò của lợi nhuận trong doanh nghiệp Các doanh nghiệp tiến hành hàng loạt các hoạt động sản xuất kinh doanh là để tìm kiếm lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là mục tiêu của kinh doanh, là thước đo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh đoanh, là động 1ực kinh tế thúc đẩy các đoanh nghiệp cũng như mỗi người lao động không ngừng sử đụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Để tiến hành hoạt động kinh doanh, cung cấp hàng hoá dịch vụ đáp ứng nhu cầu của thị trường và người tiêu dung, thì nhà sản xuất phải bỏ ra những chi phí nhất định để phục vụ cho quá trình kinh doanh. Họ phải thuê đất đai, lao động và tiền vốn để mua các nguồn lực cho sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ. Họ mong muốn hàng hóa dịch vụ của họ được mua với giá ít nhất là đủ để bù đắp lại phần chi phí mà họ bỏ ra, có nghĩa là giá bán thấp nhất là tại điểm hoà vốn.
  8. Ngoài ra người sản xuất kinh doanh nào mà chẳng muốn có phần thừa ra để mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh, nộp thuế, trả cổ tức, thưởng cho các nhà quản lý, cho công nhân viên và cho cổ động. Ngược lại khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh mà không có lợi nhuận thì họ cũng không sẵn sàng cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho thị trường và người tiêu dùng như họ mong muốn. Do đó lợi nhuận đóng một vai trò khá quan trong đối với tất cả các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Trong mỗi giai đoạn khác nhau, trong từng điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp mà đặt ra mục tiêu lợi nhuận khác nhau, nhưng cuối cùng đều hướng tới mục tiêu đó là lợi nhuận. Chính vì vậy động cơ lợi nhuận là một bộ phận hợp thành quyết định tạo ra sự thắng lợi của thị trường sản phẩm, cũng như đối với chính doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả của quy trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kể từ khi bắt đầu tìm kiếm nhu cầu thị trường, nghiên cứu thị trường, phân đoạn thị trường, cho đến khi chuẩn bị sản xuất kinh doanh, tổ chức bán hàng hoá, dịch vụ theo giá cả thị trường. Nó phản ánh cả về mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh. Kinh doanh tốt sẽ cho lợi nhuận nhiều; khi có 1ợi nhuận nhiều sẽ tạo khả năng tái đầu tư, tái sản xuất mở rộng, phát triển quy mô sản xuất kinh doanh cả về chiều rộng và chiều sâu, tiếp tục phát triển quá trình sản xuất có hiệu quả cao hơn. Ngược 1ại, làm ăn kém tất yếu sẽ dẫn đến thua lỗ và phá sản. Vì vậy có thể nói lợi nhuận tối đa là mục tiêu hàng đầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khắc nghiệt. Muốn tồn tại và phát triển được thì hoạt động sản xuất kinh doanh phải có lợi nhuận, có nghĩa là phải sinh lời. Lợi nhuận của doanh nghiệp 1à bộ phận quan trọng của thu nhập thuần tuý của doanh nghiệp, là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước và 1à cơ sở để tăng thu nhập quốc dân của mỗi nước. Như vậy ở khía cạnh này ta lại thấy được vai trò của lợi nhuận không những quan trọng đối với bản thân doanh nghiệp- Có lợi nhuận thì mới tái sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, phát triển đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến, để luôn tạo ra được sản phẩm mới
  9. đáp ứng nhu cầu, cũng như thị hiếu của người tiêu dùng, tăng sức cạnh tranh, tạo uy tín thương mại, đồng thời bổ sung các nguồn quỹ phúc lợi khen thưởng, quỹ nguồn vốn kinh doanh, nâng cao đời sống của người lao động- Mà nó còn giữ vai trò quan trọng đối với xã hội. Lợi nhuận góp phần vào việc nộp thuế thu nhập cho ngân sách nhà nước thông qua việc doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, là nguồn tích luỹ cơ bản để phát triển nền kinh tế xã hội. Lợi nhuận của doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật khác như chỉ tiêu về đầu tư, sản xuất, sử dụng các đầu vào, chỉ tiêu chi phí và giá thành, chỉ tiêu các đầu ra và các chính sách tài chính quốc gia. .. Trong những năm vừa qua từ khi chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước, môi trường hoạt động của các doanh nghiệp có nhiều thay đổi. Nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách, chủ chương nhằm tạo hành lang pháp lý, tạo sân chơi bình đẳng, khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Nhà nước đã buộc các doanh nghiệp thực hiện nguyên tắc hạch toán kinh tế độc lập, lấy thu bù chi và có lãi theo chế độ chính sách và pháp luật hiện hành. Thực tế cho thấy khi chuyển đổi nền kinh tế, có rất nhiều doanh nghiệp đã năng động, linh hoạt, kịp thời thích nghi với điều kiện môi trường kinh doanh mới, tự khẳng định mình và đứng vững trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt. Các doanh nghiệp này luôn quan tâm đến hiệu quả sản xuất, tìm kiếm lợi nhuận ngạch, lấy lợi nhuận làm mục tiêu và động lực cho sự tồn tại và phát triển của mình. Ngược lại có nhiều các doanh nghiệp từ nhỏ đến lớn biến mất trọng cuộc cạnh tranh trên thương trường do không tìm được phương án sản xuất kinh doanh đầu tư thích hợp, không có hiệu quả, lúng túng trong việc tháo gỡ khó khăn, khó thích nghi với cơ chế thị trường, do ảnh hưởng nhiều của phong cách kinh đoanh cũ, tâm lý ỷ 1ại, trông chờ vào nhà nước, kém năng động, linh hoạt trước những biến đổi của thị trường. Hậu quả làm cho các doanh nghiệp này làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài triền miên, thậm chí cờn đẫn đến phải ngừng sản xuất, giải thể doanh nghiệp. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho xã hội- Người lao động không có việc 1àm, đời sống gặp nhiều khó khăn nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội.
  10. Như vậy trong điều kiện hiện nay đối với các doanh nghiệp vấn đề lợi nhuận không chỉ là mục tiêu hàng đầu mà còn là điều kiện quyết định sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp mà là cơ sở phát triển nền kinh tế xã hội. b). Kết cấu của lợi nhuận trong doanh nghiệp Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển, tối đa hoá lợi nhuận thì các doanh nghiệp không chỉ tiến hành sản xuất kinh doanh một loại hàng hoá nhất định mà các doanh nghiệp luôn đa dạng hoá các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Điều đó có nghĩa là hoạt động của các doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng. Các doanh nghiệp không chỉ tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh các loại hàng hoá, dịch vụ theo đúng ngành nghề kinh doanh mà với nguồn vốn có hạn doanh nghiệp phải sử dụng tối đa nguồn vốn và đem lại hiệu quả cao nhất. Vì thế mà các doanh nghiệp còn tiến hành nhiều hoạt động khác mang tính chất không thường xuyên và không chủ yếu. Đó là các hoạt động tài chính và các hoạt động bất thường. Để xác định được hiệu quả của từng hoạt động, doanh nghiệp phải xác định được các chỉ tiêu thu nhập và chi phí của từng mảng tương ứng. Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ 1à tổng của các bộ phận lợi nhuận theo từng mảng hoạt động. Lợi nhuận của doanh nghiệp thường được cấu thành bởi ba bộ phận lợi nhuận sau đây: - Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh đoanh. - Lợi nhuận từ hoạt động tài chính - Lợi nhuận bất thường. Tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng 1ợi nhuận doanh nghiệp có sự khác nhau glữạ các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác nhau và thuộc môi trường kinh tế khác nhau. Điều này được thể hiện như sau: Thứ nhất: Cơ cấu 1ợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh thông thường khác với doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, tín dụng, ngân hàng. Với các doanh nghiệp thông thường hoạt động tài chính tách biệt với hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong cơ cấu của lợi nhuận doanh nghiệp thông thường thì lợi
  11. nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là bộ phận lợi nhuận chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ lợi nhuận. Khác với các doanh nghiệp thông thường thì các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tài chính, tín dụng ngân hàng chỉ gồm hai bộ phận lợi nhuận- Đó là lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. Ở các doanh nghiệp này hoạt động tài chính cũng là hoạt động tái sản xuất kinh đoanh của họ, bởi lẽ họ thực hiện chức năng kinh doanh mặt hàng đặc biệt- Kinh doanh tiền tệ. Thứ hai: Trong môi trường kinh tế khác nhau, các doanh nghiệp cùng loại có sự khác biệt về tỷ trọng trong các bộ phận 1ợi nhuận trong tổng lợi nhuận của mình. Điều này phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hay môi trường kinh doanh của đoanh nghiệp. Mặt khác nó còn biểu hiện ở chức năng, nhiệm vụ của doanh nghiệp hoạt động theo phạm vi ngành nghề hoạt động của mình hay không, có đủ uy tín cũng như nguồn vốn để đầu tư vào từng lĩnh vực hay không. Những lĩnh vực khác nhau đem lại hiệu quả sẽ dẫn đến cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp khác nhau. Nhưng trong nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ cao với thị trường vốn phát triển ở trình độ cao và hoàn chỉnh, các hoạt động tài chính năng động, hiệu quả thì hoạt động tài chính của doanh nghiệp cũng sẽ phát triển với các hoạt động đa dạng về đầu tư tài chính. Khi đó lợi nhuận đem lại từ hoạt động tài chính sẽ chiếm tỷ trọng đáng kể không kém gì lợi nhuận đem lại từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại trong một nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ thấp, thị trường vốn chưa phát triển hoàn hảo, hoạt động của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán chưa hơàn thiện, chưa phát triển và phổ biến trong các doanh nghiệp thì mảng hoạt động tài chính trong doanh nghiệp còn hạn chế. Doanh nghiệp không có cơ hội đầu tư tài chính, thậm chí không có khả năng về vốn để thực hiện các hoạt động đầu tư tài chính đó. Trong trường hợp này, 1ợi nhuận hoạt động kinh doanh 1uôn từ hoạt động sản xuất kinh doanh có ý nghĩa quyết định đến tính hiệu quả trong hoạt động của toàn doanh nghiệp.
  12. Tóm lại, cơ cấu lợi nhuận của dơanh nghiệp thông thường được cấu thành từ ba bộ phận 1ợi nhuận bao gồm lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, từ hoạt động tài chính và từ hoạt động bất thường. Nhưng nhìn chung lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh (đối với các ngân hàng tổ chức tín dụng là lợi nhuận từ hoạt động tài chính) luôn luôn chiếm một tỷ trọng 1ớn và có ý nghĩa quyết định trong tổng 1ợi nhuận doanh nghiệp. Về nguyên tắc, khi phân tích lợi nhuận của đoanh nghiệp, chúng ta phải phân tích một cách chính xác khách quan từng bộ phận cấu thành 1ợi nhuận của doanh nghiệp, từ đó mới đánh giá một cách chính xác tình hình tăng giảm 1ợi nhuận của công ty trong từng mảng, lĩnh vực kinh doanh, đồng thời mới thấy được các nhân tố ảnh hưởng tới 1ợi nhuận của doanh nghiệp; giúp nhà doanh nghiệp đánh giá được tình hình sử dụng vốn cũng như hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp vào lĩnh vực nào là có hiệu quả nhất, lĩnh vực nào nên đầu tư mở rộng hay không nên đầu tư để tối đa hoá lợi nhuận. Nhưng trong điều kiện đặc thù, đôi khi nguyên tắc đó có thể bị phá vỡ. Điều kiện đó 1à phân tích lợi nhuận thực hiện với doanh nghiệp kinh doanh thông thường trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển ở trình độ thấp thì hoạt động của doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính còn rất hạn chế, cũng như ở phạm vi hẹp với lợi nhuận ít. Còn lợi nhuận ở hoạt động bất thường thì ít quan trọng, giống như bản chất của nó. Hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động chủ đạo, lợi nhuận hoạt động kinh doanh là lợi nhuận cơ bản của doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, cấu thành của lợi nhuận, là nguồn thu nhập chủ yếu của doanh nghiệp. Trong điều kiện đó, sẽ thiết thực khi tiến hành phân tích lợi nhuận doanh nghiệp chủ yếu dựa trên bộ phận 1ợi nhuận kinh doanh nhằm tìm ra giải pháp tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. II- PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH LỢI NHUẬN Vậy lợi nhuận thực hiện trong kỳ là kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm lợi nhuận hoạt động kinh doanh, lợi nhuận hoạt động tài chính, lợi nhuận hoạt động bất thường. LỢI NHUẬN DOANH NGHIỆP = LN HĐ KD + LN HĐ TC + LN BT
  13. Muốn xác định được lợi nhuận của doanh nghiệp chính xác và đầy đủ ta phải xác định được đầy đủ và chính xác doanh thu và chi phí của doanh nghiệp theo từng hoạt động kinh doanh thì mới cho ta được một kết quả hoạt động kinh doanh trong kỳ chính xác. Nếu không xác định chính xác và đầy đủ các khoản chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ thì có thể dẫn đến tình trạng lãi giả, lỗ thật. Nhưng chi phí lại là một phạm trù phức tạp, nó đòi hỏi phải có phương pháp tập hợp một cách khoa học và chính xác để không dẫn đến tính nhầm hay bỏ sót. Do vậy có thể nói chi phí kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng toàn bộ các hao phí về vật chất, về lao động mà doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Các chi phí này phát sinh thường xuyên và gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đặc điểm chi phí sản xuất là phát sinh hàng ngày, gắn liền với từng vị trí sản xuất, từng sản phẩm, từng 1oại hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như từng lĩnh vực hoạt động, vì thế việc tính toán phải được thực hiện trong khoảng thời gian nhất định, không phân biệt sản phẩm hoàn thành hay chưa hoàn thành mà phân bổ theo tiêu thức hợp lý mà xác định được kết quả kinh doanh trong kỳ chính xác. 1. Xác định lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận thu được do tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh được xác định là chênh 1ệch giữa doanh thu bán hàng thuần với tổng chi phí tương ứng với số sản phẩm hàng hoá lao vụ đã tiêu thụ. Nó được thể hiện qua công thức. LN =  QiPi - (QiZi + QiCPi + Qi Ti) =  QiPi-Fi Trong đó: - LN là lợi nhuận của hoạt động sản xuất kinh doanh - Qi, là khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ, - Pi là giá bán đơn vị - Fi 1à chi phí kinh doanh.
  14. - CPi là chi phí quản lý và chi phí bán hàng - Zi 1à giá vốn hay giá thành sản phẩm. - Ti 1à thuế doanh thu (VAT), thuế tiêu thụ đặc biệt. Tổng Giá Chi Chi Lợi Hàng Thuế doanh Giảm giá vốn phí phí nhuận = - - bán bị - doanh thu - - - thu bán hàng bán hàng bán quản hđsxkd trả lại (vat, ttđb) hàng bán hàng lý LNHĐSXKD = DT thuần - Giá vốn hàng bán - Chi phí bán - Chi phí quản lý LNHĐSXKD = Lãi gộp - Chi phí bán hàng - Chi phí quản lý - Doanh thu từ hoạt động kinh doanh là toàn bộ tiền bán sản phẩm, hàng hoá, cung ứng địch vụ sau khi trừ các khoản doanh thu bán hàng bị trả lại, gíảm giá hàng bán và được khách hàng chấp nhận thanh toán. * Xác định doanh thu thuần: DT thuần từ HĐSXKD = Tổng DT từ HĐSXKD - Tổng các khoản giảm trừ - Doanh thu thuần là số chênh 1ệch giữa doanh thu bán hàng với các khoản giảm trừ. - Tổng doanh thu (doanh thu bán hàng) là tổng số giá trị được thực hiện do việc bán hàng hoá, sản phẩm cung ứng lao vụ, dịch vụ cho khách hàng trong một thời kỳ nhất định. - Tổng các khoản giảm trừ + Giảm giá hàng bán là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn hay hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém phẩm chất, không đúng quy cách, giảm giá hàng bán gồm 3 bộ phận.
  15. + Bớt giá là số tiền thưởng cho khách hàng tính trên giá bán thông thường do mua một khối lượng lớn hàng hoá trong một đợt. + Hồi khấu là số tiền thưởng cho khách hàng do một khoảng thời gian nhất định đã mua một khối lượng lớn hàng hoá (tính theo tổng số hàng đã mua trong thờl gian đó). + Giảm giá thực sự là số tiền phải giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn hay hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém phẩm chất, không đúng quy cách, giao sai thời gian, địa điểm quy định. Bớt giá và hồi khấu mặc dù làm giảm doanh thu thuần nhưng có tác dụng khuyến khích người mua, tăng được sản lượng hàng hoá bán ra, do đó xét tổng thể sẽ góp phần tăng lợi nhuận. Đối với các khoản giảm trừ giá thực sự, cần giảm tới mức tối đa bởi vì khoản này phản ánh những mặt khiếm khuyết của doanh nghiệp trong việc chỉ đạo tiến hành hoạt động kinh doanh, quản lý chất lượng... + Doanh thu hàng bán bị trả lại phản ánh doanh thu của số hàng đã tiêu thụ bị trả 1ại trong kỳ. Hàng bị trả lại thường là hàng kém phẩm chất, không đảm bảo chất lượng hoặc giao không đúng chủng loại, thời gian, giao thừa. Nhân tố này phản ánh những yếu kém của doanh nghiệp trong việc quản lý chất lượng cũng như tổ chức tiêu thụ. + Thuế tiêu thụ phải nộp (thuế tiêu thụ, thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế vat, thuế xuất khẩu) cũng là nhân tố 1àm giảm doanh thu và do đó làm giảm 1ợi nhuận. Tuy nhiên đây là nhân tố khách quan do nhà nước quy định. * Xác định tổng chi phí: Tổng chi phí tương ứng với lượng hàng hoá, sản phẩm, lao vụ, dịch vụ tiêu thụ trong kỳ được xác định. - Chi phí bán hàng phân bổ cho lượng Chi phí bán Chi phí quản lý doanh Tổng chi Trị giá = + hàng phân bổ + nghiệp phân bổ cho phí vốn cho lượng tiêu lượng hàng tiêu thụ
  16. thụ - Trị giá vốn hàng tiêu thụ +Trong trường hợp doanh nghiệp là đơn vị thương mại Là trị giá mua của hàng tiêu thụ cùng với phí mua phân bổ cho hàng tiêu thụ. Chi phí trực tiếp thu mua Giá vốn hàng Giá mua của quan sơ chế, vận chuyển = + tiêu thụ hàng đã tiêu thụ phân bổ cho lượng hàng đã tiêu thụ + Trong trường hợp doanh nghiệp là đơn vị sản xuất kinh doanh dịch vụ Giá vốn hàng bán là giá thành sản xuất thực tế (còn gọi là giá thành công xưởng thực tế) Giá thành sản xuất Số lượng đơn vị Giá vốn hàng = một đơn vị sản X sản phẩm đã tiêu tiêu thụ phẩm thụ Trong đó giá thành sản xuất đơn vị được xác định thông qua quá trình hạch toán giá thành sản xuất. Giá thành sản xuất bao gồm 3 yếu tố chi phí- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. - Chi phí bán hàng là khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ trong kỳ. Nó bao gồm chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, chi phí nhân công của bộ phận bán hàng, chi phí khấu hao tscđ dùng trong bộ phận bán hàng, các chi phí khác, quảng cáo tiếp thị, chào hàng. .. Nhằm mục đích thúc đẩy việc tiêu thụ hàng hoá dịch vụ. - Chi phí quản lý doanh nghiêp là những chi phí có liên quan tới việc tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh đoanh và quản lý hành chính. Đây là những chi phí chi cho bộ phận gián tiếp trong doanh nghiệp. Trong điều kiện bình
  17. thường, những khoản chi phí này tương đối ổn định qua các thời kỳ kinh doanh. Tuy nhiên để phản ánh đúng quá trình lợi nhuận, chi phí quản lý doanh nghiệp cũng được phân bổ tương ứng cho lượng hàng hoá đã tiêu thụ. Như vậy, để xác định 1ợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chúng ta phải căn cứ vào toàn bộ số liệu trên sổ sách kế toán của kỳ sản xuất. Vấn đề này đòi hỏi, kế toán phải tiến hành tập hợp toàn bộ thu chi một cách chính xác nếu không thì việc xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bị sai lệch, không phản ánh đúng thực trạng kinh đoanh của doanh nghiệp và việc lãi giả 1ỗ thật ở doanh nghiệp rất có thể xảy ra mà không thể nhận biết chính xác được. 2. Xác định lợi nhuận từ hoạt động tài chính Lợi nhuận từ hoạt động tài chính là lợi nhuận thu được từ các hoạt động như tham gia góp vốn liên doanh, hoạt động đầu tư, mua bán chứng khoán ngắn, dài hạn, cho thuê tài sản, các hoạt động đầu tư khác, do chênh lệch lãi tiền gửi ngân hàng và 1ãi tiền vay ngân hàng, cho vay vốn, bán ngoại tệ, hoàn nhập khoản dự phòng giảm giá chứng khoán... Lợi nhuận từ hoạt động tài chính được xác định bằng chênh lệch giữa thu nhập hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính. Tổng số thu nhập Tổng số chi phí Lợi nhuận từ hoạt = thuần từ hoạt động tài - thuộc hoạt động tài động tài chính chính chính - Thu nhập thuần từ hoạt động tài chính là những khoản thu do hoạt động đầu tư tài chính hoặc kinh doanh về vốn đưa lại bao gồm các khoản thu, góp vốn liên doanh, mua bán chứng khoán ngắn dài hạn, cho thuê tài sản, các hoạt động đầu tư khác. - Chi phí hoạt động tài chính là những chi phí cho các hoạt động đầu tư tài chính và các chi phí liên quan đến các hoạt động về vốn gồm chi phí về góp vốn liên doanh không tính vào trị giá vốn góp; lỗ liên doanh; lỗ do bán chứng khoán; chi phí đầu tư tài chính; các khoản chiết khấu bán hàng thực sự đồng ý cho khách hàng
  18. được hưởng hiện nay theo quy định của bộ tài chính ban hành mới được áp dụng vào năm 2000- Khoản chiết khấu này được hoạch toán vào tài khoản 811; chi phí hoạt động tài chính; chi phí liên quan tới vay vốn. .. 3. Xác định lợi nhuận từ hoạt động bất thường (Thu nhập đặc biệt) Lợi nhuận hoạt động bất thường là khoản thu mà doanh nghiệp không dự tính trước hoặc những khoản thu bất thường không xảy ra một cách đều đặn thường xuyên, các khoản thu của doanh nghiệp có thể do chủ quan của doanh nghiệp hay khách quan đưa tới bao gồm: + Thu về thanh lý, nhượng, bán TSCĐ + Thu tiền được phạt do vi phạm hợp đồng + Thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý xoá sổ. + Thu khoản thu nhập kinh dơanh của năm trước bị bỏ sót hay quên chưa ghi sổ, năm nay mới phát hiện ra. + Hoàn nhập dự phòng, giảm giá, hàng tồn kho và phải thu khó đòi. Chi phí bất thường là những khoản lỗ do các nghiệp vụ riêng biệt với những hoạt động thông thường của doanh nghiệp. Những khoản chi phí bất thường có thể do nguyên nhân khách quan hoặc nguyên nhân chủ quan đưa tới bao gồm: + Giá trị còn lại của TSCĐ khi thanh lý, nhượng, bán. + Chi phí thanh lý, nhượng bán TSCĐ + Tiền bị phạt do vi phạm hợp đồng. + Bị phạt thuế, nộp thuế. + Các khoản chi phí kế toán ghi nhầm hay bỏ sót khi vào sổ. + Chênh lệch phải thu khó đòi và dự phòng phải thu khó đòi (không đủ hoặc khoản thu khó đòi mất ngay chắc chắn chưa lập dự phòng). Lợi nhuận Tổng số thu nhập Tổng chi phí hoạt = - bất thường hoạt động bất động bất thường
  19. thường Nhìn chung việc xác định thu nhập và chi phí của hoạt động tài chính và hoạt động bất thường tương đối đơn giản hơn nhiều so với hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó chỉ đơn thuần là các dòng tiền không thường xuyên. Mọi phát sinh thu nhập chi phí của hoạt động này được hạch toán gọn trong một kỳ kinh doanh. Việc xác định lợi nhuận của doanh nghiệp trong một kỳ kinh đoanh phải xuất phát từ việc xác định lợi nhuận bộ phận của doanh nghiệp. Nhưng doanh nghiệp là một bộ phận độc lập với môi trường và thống nhất trong nội bộ, bởi vậy việc phân bổ chi phí chung cũng như việc phân định chi phí riêng cho từng bộ phận hoạt động thực sự là công việc khó khăn nhất trong việc xác định lợi nhuận. Nếu không sẽ dẫn tới sự phản ánh không trung thực chi phí sản xuất kinh doanh (trùng lặp hoặc bỏ sót) làm sai lệch chỉ tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. 4.Tỷ suất lợi nhuận Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp nói lên kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng không vì thế mà nó là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh và cũng không thể chỉ dùng nó để so sánh hiệu quả của các đoanh nghiệp với nhau, bởi vì: - Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố: nhân tố chủ quan, nhân tố khách quan và có sự bù trừ lẫn nhau. - Các doanh nghiệp cùng loại nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận thu được khác nhau. Ở những doanh nghiệp lớn, vốn lớn thì lợi nhuận lớn; nhưng chưa thể kết luận rằng sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp có quy mô nhỏ vốn ít hơn lại có lợi nhuận thấp. Do vậy không nên đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp bằng một chỉ tiêu lợi nhuận mà phải sử dụng nhiều chỉ tiêu khác. Vì vậy để đánh giá so sánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, ngoài chỉ tiêu 1ợi nhuận tuyệt đối, còn phải dùng chỉ tiêu lợi nhuận tương đối, đó là tỷ suất lợi nhuận (hoặc doanh lợi) Tỷ suất lợi nhuận cao cho thấy hiệu quả kinh tế cao và ngược lại. Hơn nữa tỷ suất lợi nhuận còn cho hai mặt.
  20. + Một là tổng lợi nhuận tạo ra các tác động của toàn bộ chi phí đã bỏ ra là tốt hay xấu. + Hai là lợi nhuận tạo ra trên một đơn vị chi phí cao hay thấp. Do yêu cầu nghiên cứu phân tích và đánh giá khác nhau đối với từng doanh nghiệp mà có nhiều phương pháp tính tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Sau đây là một số chỉ tiêu phổ biến thường sử dụng để đánh giá hiệu quả SXKD của doanh nghiệp: - Tỷ suất doanh lợi tiêu thụ sản phẩm Lợi nhuận sau thuế Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = x 100% Doanh thu Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế (thu nhập sau thuế) cho doanh thu. Nó phản ánh số lợi nhuận sau thuế trong một trăm đồng doanh thu. Tỷ suất lợi nhuận càng cao thì chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả tốt, chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là hợp lệ và ngược lại Nếu đem so sánh tỷ suất doanh lợi tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp với ngành mà thấy kém hơn thì điều đó có nghĩa là doanh nghiệp đang bán sản phẩm với giá thấp hoặc là chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cao hơn so với các doanh nghiệp khác cùng ngành (dẫn đến giá thành sản phẩm cao khiến cho lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm xuống) - Tỷ suất lợi nhuận chi phí Là chỉ tiêu tương đối, phản ánh số lợi nhuận thu được khi bỏ ra 1 đồng chi phí, được xác định bằng cách chia tổng lợi nhuận (sau thuế) cho tổng chi phí kinh doanh trong kỳ Tổng lợi nhuận trong kỳ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2