Luận văn: Hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế
lượt xem 49
download
Từ xưa đến nay, dù ở vị trí nào người phụ nữ cũng luôn có những vai trò đặc biệt quan trọng. Trong gia đình, họ là người mẹ, người vợ đảm đang; ngoài xã hội họ là người giỏi dang, tháo vát. Thực tế cho thấy, có không ít những phụ nữ thành đạt trong cuộc sống, trong số đó có một bộ phận không nhỏ những phụ nữ nắm giữ những vị trí quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội… Tuy nhiên, với “thiên chức” làm mẹ, người phụ nữ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn: Hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế
- Trang 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG………………… Luận văn Hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế
- Trang 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ xưa đến nay, dù ở vị trí nào người phụ nữ cũng luôn có những vai trò đặc biệt quan trọng. Trong gia đình, họ là người mẹ, người vợ đảm đang; ngoài xã hội họ là người giỏi dang, tháo vát. Thực tế cho thấy, có không ít những phụ nữ thành đạt trong cuộc sống, trong số đó có một bộ phận không nhỏ những phụ nữ nắm giữ những vị trí quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội… Tuy nhiên, với “thiên chức” làm mẹ, người phụ nữ phải mất khá nhiều thời gian cho việc sinh con và nuôi dạy con. Bên cạnh đó, họ còn phải gánh vác các công việc nội trợ của gia đình, chính vì thế thời gian để họ tiếp cận cơ hội phát triển còn hạn chế. Hiện nay, với xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam đang đứng trước cơ hội hội nhập và phát triển nhưng điều đó cũng đặt ra nhiều thách thức. Những rủi ro của cơ chế kinh tế thị trường có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của đại bộ phận nhân dân. Trong đó, phụ nữ là bộ phận chịu ảnh hưởng nhiều nhất, đặt biệt là phụ nữ nông thôn. Để giúp phụ nữ đối phó những khó khăn này; Nhà nước đã có một số chính sách nhằm hỗ trợ, khuyến khích phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, ổn định cuộc sống và tham gia hoạt động xã hội. Thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên thuộc khu vực duyên hải Nam trung bộ có điều kiện kinh tế – xã hội về cơ bản còn khó khăn. Trong 14 xã, phường của thị xã thì Xuân Bình là một trong những xã có điều kiện kinh tế chậm phát triển, đời sống của người dân trong nhiều năm trở lại đây gặp nhiều khó khăn, đời sống của nhân dân nhìn chung còn thấp. Mặt khác, do điều kiện tự nhiên không được ưu đãi, hàng năm còn chịu nhiều ảnh hưởng của bão lũ, thời tiết bất thường nên hoạt động kinh tế của nhân dân còn gặp nhiều trở ngại. Chính vì lẽ đó, nhu cầu được quan tâm, hỗ trợ để phát triển kinh tế gia đình của người dân nói chung và của phụ nữ nói riêng là rất lớn. Trong những năm qua, chính quyền xã và trực tiếp là Hội liên hiệp phụ nữ xã đã triển khai thực hiện một số chính sách của Nhà nước nhằm hỗ trợ, khuyến khích phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, ổn định cuộc sống và tham gia hoạt động xã hội. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện một số chính sách hỗ trợ phụ nữ vẫn chưa đem lại kết quả như mong muốn. Với tất cả những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế” nhằm tìm hiểu về thực trạng của việc thực hiện chính sách, qua đó chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng và đề xuất một số khuyến nghị góp phần nâng cao hiệu quả của các chính sách n ày. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Nghiên cứu của chúng tôi hướng tới việc tìm hiểu thực trạng về hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế tại xã Xuân Bình, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên; đánh giá, phân tích ch ỉ ra nguyên nhân dẫn đến thực trạng; từ đó đề xuất một số khuyến nghị góp phần nâng cao hiệu quả của các chính sách n ày. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu lý luận về chính sách xã hội và phát triển cộng đồng. - Tìm hiểu thực trạng về hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế tại xã Xuân Bình, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên.
- Trang 3 - Chỉ ra những nguyên nhân của thực trạng trên. - Đề xuất những khuyến nghị góp phần thực hiện các chính sách hiệu quả hơn. 3. Đối tượng, phạm vi và khách thể nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế ở xã Xuân Bình, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trong điều kiện và khả năng nghiên cứu còn hạn chế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu về hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế ở 100 phụ nữ ( ứng với 100 hộ gia đình) ở 05 thôn của xã Xuân Bình, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. 3.3. Khách thể nghiên cứu Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên khách thể là 100 phụ nữ (ứng với 100 hộ gia đình) của xã Xuân Bình, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Cụ thể số lượng như sau: SỐ LƯỢNG MẪU TT THÔN Bình Thạnh 1 35 Thọ Lộc 2 25 Tuyết Diêm 3 15 Quán Đế 4 15 Diêm Trường 5 10 4. Giả thuyết nghiên cứu - Vai trò của phụ nữ nông thôn trong phát triển kinh tế gia đ ình là rất quan trọng. Tuy nhiên, nhiều phụ nữ ở nông thôn ở xã Xuân Bình chưa có công ăn việc làm ổn định, đời sống kinh tế gia đình còn nhiều khó khăn. Trong khi đó, hiệu quả của một số chính sách của Nhà nước nhằm hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế ổn định cuộc sống gia đình còn thấp. - Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng về hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế hiện nay. Trong đó, vửa có nguyên nhân xuất phát từ phụ nữ vừa có nguyên nhân xuất phát từ chính quyền địa phương. - Với những nguồn lực của địa phương: sự quan tâm hỗ trợ của Nhà nước và chính quyền các cấp, nguồn lao động nữ dồi dào, cơ hội việc làm cho lao động nữ từ khu công nghiệp Đông Bắc Sông Cầu, trong tương lai những chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế ở xã Xuân Bình sẽ được phát huy và hiệu quả ngày càng cao, kinh tế của phụ nữ ngày càng phát triển, đời sống của họ ngày càng được cải thiện. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng phương pháp luận Chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp luận Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp trưng cầu ý kiến. - Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu.
- Trang 4 - Phương pháp phỏng vấn. - Phương pháp quan sát. - Phương pháp lân la trò chuyện với người dân. - Phương pháp thống kê toán học, đánh giá qua kết quả thực tế điều tra. 6. Ý nghĩa của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp thêm vào hệ thống cơ sở lý luận của khoa học Chính sách xã hội. Đồng thời sẽ làm tài liệu góp phần phục vụ cho nhu cầu tham khảo, nghiên cứu của sinh viên ngành Công tác xã hội sau này. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu góp phần giúp cho chúng ta có cái nh ìn đầy đủ về thực trạng hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế ở xã Xuân Bình. Từ đó đề xuất những kiến nghị góp phần giúp cho chính quyền địa phương có những định hướng và những giải pháp thực thi những chính sách này đạt hiệu quả cao hơn.
- Trang 5 CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Khi nói về phụ nữ, người ta thường nhắc đến cuốn sách “Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế” của Ester Boserup (1970). Theo nh à khoa học nữ này thì cho đến những năm 1970, những nghiên cứu chỉ ra rằng mặc dù phụ nữ thường là những người có đóng góp chính vào năng suất chủ yếu của cộng đồng, nhất là trong nông nghiệp, nhưng những đóng góp của họ không được tính đến trong thống kê quốc dân cũng như trong kế hoạch hoá và thực hiện các dự án phát triển. Cuốn sách của E. Boserup đ ã được coi là lần đầu tiên đặt lại vấn đề trong cách đánh giá về vai trò của phụ nữ, qua cuốn sách của m ình, bà đã chứng minh vai trò kinh tế của phụ nữ thông qua nghiên cứu phụ nữ nông dân vùng Tây Sahara, châu Phi. Một điều mà trước đây, các nhà tạo lập chính sách và trong giới nghiên cứu kể cả những nhà khoa học nữ đã không thấy hết và do vậy không công nhận một cách đúng đắn vai trò kinh tế rất quan trọng của phụ nữ. Ở Việt Nam, công trình nghiên cứu về phụ nữ đầu tiên xuất bản được phát hành rộng rãi và dịch ra nhiều thứ tiếng là cuốn “Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại” của Lê Thị Nhâm Tuyết (1973, 1975). Trong cuốn sách, tác giả đã phân tích những nét cơ bản về các truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đặc biệt về vai trò truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong sản xuất nông nghiệp. Cuốn sách đ ã trình bày nhiều tư liệu có giá trị khoa học, gây tiếng vang trong giới nghiên cứu. Sau gần một phần tư thế kỷ, tác giả cuốn sách “Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại” lại cho xuất bản cuốn “Hình ảnh Phụ nữ Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI”. Như lời giới thiệu cuốn sách của GS. Vũ Khiêu: Cuốn sách này đã thu thập những ý kiến khác nhau xung quanh những vấn đề lớn của người phụ nữ Việt Nam và đặc biệt là giới thiệu các kết quả thu được qua các cuộc điều tra khoa học. Cuốn sách tập trung vào những đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử, trong lao động nghề nghiệp, trong gia đ ình, trong quản lý xã hội. Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, có nhiều cuốn sách xuất bản với nội dung đề cập đến vấn đề phụ nữ với phát triển kinh tế hoặc b àn về phụ nữ với phát triển nông nghiệp, nông thôn. Để tiện theo dõi, chúng tôi chia theo một số chủ đề như sau: Phụ nữ và phân công lao động theo giới: Phân công lao động theo giới trong gia đ ình nông dân (Lê Ngọc Văn, 1999); Phân công lao động trong kinh tế hộ gia đ ình nông thôn - vấn đề giới trong cơ chế thị trường (Vũ Tuấn Huy, 1997); Phân công lao động nội trợ trong gia đ ình (Vũ Tuấn Huy và Deborah Carr, 2000). Phụ nữ với phát triển ngành, nghề: Tìm hiểu cơ cấu kinh tế và khả năng phát triển ngành nghề của phụ nữ nông thôn (Lê Ngọc Lân, 1997); Vấn đề ngành, nghề của phụ nữ nông thôn với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn (Lê Thi, 1999); Phụ nữ nghèo nông thôn trong cơ chế thị trường (Đỗ Thị Bình và Lê Ngọc Lân, 1996); Vấn đề tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao địa vị người phụ nữ hiện nay (Lê Thi, 1991); Lao động nữ di cư từ nông thôn ra thành phố (Hà Thị Phương Tiến - Hà Ngọc Quang, 2000)
- Trang 6 Những công trình trên, tập trung nghiên cứu khá sâu sắc những vấn đề về phụ nữ nhưng chưa có công trình nào thực sự tập trung vào nghiên cứu về hiệu quả của những chính sách hỗ trợ cho phụ nữ ở nông thôn phát triển kinh tế. 2. Các khái niệm 2.1. Chính sách xã hội - Khái niệm: Từ những định nghĩa và phân tích khái niệm về xã hội và chính sách như trên ta có thể đi đến cách tiếp cận sau về chính sách xã hội. “Cái xã hội” dùng trong chính sách xã hội là “cái xã hội” theo nghĩa hẹp. Nó đang được nhiều nhà nghiên cứu thống nhất hiểu như mối quan hệ của con người, của các cộng đồng người thể hiện trên nhiều mặt của đời sống xã hội từ chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng. Đứng trên nhiều góc độ khác nhau, nhiều nhà nghiên cứu có sự nhìn nhận khác nhau về chính sách xã hội, cụ thể như sau: + Chính sách xã hội là công cụ quan trọng của Đảng và Nhà nước để thực hiện và điều chỉnh những vấn đề xã hội đang được đặt ra đối với con người (con người ở đây được xét theo góc độ con người xã hội, chứ không phải là con người kinh tế, hay con người kỹ thuật…) để thỏa mãn hoặc phần nào đáp ứng các nhu cầu cuộc sống chính đáng của con người, phù hợp với các đối tượng khác nhau, trong những trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội của các thời kỳ nhất định, nhằm bảo đảm sự ổn định và phát triển của xã hội…( Phạm Tất Dong - Chính sách xã hội) + “Hiểu theo ý nghĩa khái quát nhất, chính sách xã hội là hệ thống các quan điểm, cơ chế, giải pháp và biện pháp mà Đảng cầm quyền và Nhà nước đề ra tổ chức thực hiện trong thực tiễn đời sống nhằm kiểm soát, điều tiết và giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra trước xã hội” (PGS.TS Phạm Hữu Nghị). + Chính sách xã hội là loại chính sách được thể chế bằng pháp luật của Nhà Nước thành một hệ thống quan điểm, chủ trương, phương hướng và biện pháp để giải quyết những vấn đề xã hội nhất định, trước hết là những vấn đề xã hội liên quan đến công bằng xã hội và phát triển an sinh xã hội, nhằm góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội. (PGS.TS.Lê Trung Nguyệt). + Chính sách xã hội trước hết là một khoa học, chính sách xã hội phải là thành tựu của những sự nghiên cứu nghiêm túc của khoa học xã hội, trả lời những câu hỏi của cuộc sống, ở dạng hoạt động thực tiễn của đặc thù này. Chính sách xã hội cần được xem xét như một lĩnh vực khoa học đặc thù, bám chắc vào sự vận động của thực tiễn, khoa học nghiên cứu về chính sách xã hội cần phải mạnh dạn trả lời những câu hỏi đặt ra từ thực trạng kinh tế xã hội nước ta hiện nay. (GS. Phạm Như Cương). Từ định nghĩa về chính sách xã hội nêu trên có thể thấy rằng khái niệm chính sách xã hội bao gồm những yếu tố cơ bản hợp thành sau đây: Thứ nhất, chủ thể đặt ra chính sách xã hội: tổ chức chính trị lãnh đạo. Ở nước ta là Đảng Cộng sản, Nhà nước và các tổ chức hoạt động xã hội. Thứ hai, nội dung các chính sách xã hội dựa trên những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và thể chế nào? Thứ ba, các đối tượng của các chính sách xã hội (chung, riêng, đặc biệt). Thứ tư, những mục tiêu nhằm đạt tới.
- Trang 7 Hay nói cách khác là cần trả lời bốn câu hỏi sau: Ai đặt ra chính sách xã hội? Đặt chính sách xã hội cho ai? Nội dung của các chính sách xã hội là gì? Chính sách xã hội nhằm mục đích gì? Như vậy, có thể coi chính sách xã hội là sự tổng hợp các phương thức, các biện pháp của Nhà nước, của các đảng phái và những tổ chức chính trị khác, nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước về kinh tế, văn hoá, xã hội … Chính sách xã hội là sự cụ thể hoá và thể chế hoá bằng pháp luật những chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. - Đặc trưng của chính sách xã hội: Chính sách xã hội bao giờ cũng liên quan trực tiếp đến con người, bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, lấy con người và các nhóm người làm đối tượng tác động để hoàn thiện và phát triển con người, hình thành các chuẩn mực xã hội và giá trị xã hội. Chính sách xã hội mang tính xã hội, nhân văn sâu sắc, bởi mục tiêu cơ bản của nó là hiệu quả xã hội, góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội, bảo đảm cho mọi người sống trong nhân ái, bình đẳng và công bằng. Chính sách xã hội của Nhà nước thể hiện trách nhiệm xã hội cao, tạo điều kiện, cơ hội như nhau để mọi người phát triển và hòa nhập vào cộng đồng. Sự đầu tư của nhà nước, sự trợ giúp của cộng đồng không phải là sự bao cấp hay cứu tế xã hội theo kiểu ban ơn, mà là trách nhiệm của toàn xã hội, là sự đầu tư cho phát triển. Hiệu quả của chính sách xã hội là ổn định xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm công bằng xã hội. Để thực hiện chính sách xã hội đạt đúng các mục tiêu, đối tượng và hiệu quả phải có những điều kiện đảm bảo ở mức cần thiết để chính sách đi vào cuộc sống. Chính sách xã hội phải được kế hoạch hóa bằng các chương trình, dự án có mục tiêu, hình thành các qu ỹ xã hội, phát triển hệ thống sự nghiệp hoặc dịch vụ xã hội, tăng cường lực lượng cán sự xã hội. Chính sách xã hội còn có đặt trưng quan trọng là tính kế thừa lịch sử. Ở Việt Nam, một chính sách xã hội đi vào được lòng người, sát với dân là một chính sách mang bản sắc dân tộc Việt Nam, kế thừa và phát huy được tryền thống đạo đức, nhân văn sâu sắc của dân tộc ta. Đặc biệt là lòng yêu nước, cần cù chịu khó, tính cộng đồng cao, đùm bọc lẫn nhau, uống nước nhớ nguồn… - Phân loại chính sách xã hội: Có thể phân chia chính sách xã hội theo những cách khác nhau, về cơ bản có hai loại như sau: * Hệ thống các chính sách tác động vào các nhóm xã hội đặt thù: Theo tuổi tác: có chính sách xã hội với người già, trẻ em, thanh niên; Theo giới tính: có chính sách đối với phụ nữ; Theo nghề nghiệp: có chính sách đối với thợ mỏ, giáo viên, công nhân, thợ thủ công… Theo sắc tộc: có chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số, người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
- Trang 8 Theo tôn giáo: có chính sách đối với đồng bào theo đạo Thiên chúa, Tin lành, Phật giáo, Cao đài, Hòa hảo… Theo trình độ học vấn: có chính sách xã hội đối với những người có trình độ học vấn cao, những tài năng khoa học và những người còn đang ở trình độ học vấn thấp. * Hệ thống chính sách xã hội tác động vào quá trình sản xuất và tái sản xuất: Đây là những công cụ trực tiếp điều chỉnh quan hệ lợi ích giữa người với người, giữa các nhóm, các tập đoàn xã hội với nhau, bao gồm: Chính sách dân số: có tính quốc gia và tính toàn cầu vì mức tăng trưởng dân số, cơ cấu và phân bố của dân cư có ảnh hưởng đến phát triển kinh tế và mức sống của nhân dân. Do vậy, chính sách xã hội phải tác động vào cả ba quá trình này. Ví dụ như chính sách kế hoạch hóa gia đình, chính sách di dân và phát triển vùng kinh tế mới, chính sách định canh - định cư… Chính sách việc làm: liên quan và qu yết định đời sống của tất cả dân cư, là một trong những yếu tố cơ bản tạo ra ổn định hay bất ổn định của xã hội. Thông thường, nếu tỷ lệ thất nghiệp ở mức 4 - 5% thì được coi là xã hội ổn định; từ 6 - 9% có nguy cơ khủng hoảng; nếu trên 10% thì xã hội đang có nhiều cấp bách cần phải giải quyết. Ví dụ chính sách cho vay vốn giải quyết việc làm, chính sách dạy nghề, chính sách đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài… Chính sách bảo hộ lao động: nhằm đề phòng và giải quyết bớt hậu quả rủi ro do tai nạn xãy ra, bao gồm các chính sách bảo đảm an to àn như giảm độc hại, giảm tiếng ồn, chống nóng, …và các chính sách đối với người lao động bị mắc các bệnh nghề nghiệp, bị thương tật hay bị chết. Chính sách tiền lương: nhằm đảm bảo mức thu nhập hợp lý và bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động. Việc quy định mức lương tối thiểu như thế nào để vừa có thể tái sản xuất sức lao động, vừa bảo đảm cho người lao động sống bằng nghề nghiệp của mình, đồng thời có sự đãi ngộ thỏa đáng đối với những người có chuyên môn giỏi, tay nghề cao. Ngoài ra, cần có chính sách hợp lý để điều tiết thu nhập, không để mức thu nhập ch ênh lệch quá lớn nếu chỉ dựa vào cơ may nghề nghiệp hay địa vị xã hội ( Chính sách thuế đối với những người có thu nhập cao). Chính sách phúc lợi xã hội: là phần bổ sung quan trọng nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội. Các chính sách này tạo ra những điều kiện chung, thuận lợi cho việc nghĩ ngh ơi, vui chơi, giải trí bằng hoạt động văn hóa, thể thao của các tầng lớp nhân dân ( các khu công viên, các tổ hợp văn hóa thể thao, nhà trẻ, mẫu giáo, các nhà an dưỡng…). Chính sách bảo hiểm xã hội: nhằm đảm bảo sự công bằng thu nhập cho người lao động và gia đình họ trong các trường hợp người lao động bị đau ốm, thai sản, hết tuổi lao động, bị chết hoặc bị tai nạn lao động, bị bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, gặp rủi ro hoặc các khó khăn khác. Ví dụ bảo hiểm lao động, bảo hiểm nghề nghiệp; bảo hiểm kinh doanh; bảo hiểm y tế; bảo hiểm tài sản và phương tiện…
- Trang 9 Chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công: là truyền thống và đạo lý “ uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam. Chính sách cứu trợ xã hội: hướng vào việc trợ giúp những người gặp phải rủi ro, bất hạnh, thiệt thòi trong cuộc sống, đặc biệt là người già cô đơn, trẻ mồ côi, người khuyết tật, người bị bệnh tâm thần, người gặp phải thiên tai bất trắc. Mục đích của chính sách này là giúp họ khôi phục sản xuất, ổn định đời sống, giữ được mức sinh hoạt tối thiểu cần thiết để vượt qua những khó khăn. Chính sách giáo dục: Giáo dục là ngành đặc biệt cung cấp nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, nhất là trong giai đoạn cách mạng khoa học công nghệ hiện nay. Vì vậy, chính sách xã hội không thể không ưu tiên cho giáo dục. Chính sách đầu tư phát triển giáo dục (xây dựng trường sở, phòng nghiên cứu, thí nghiệm…); chính sách tiền lương cho giáo viên, cấp học bổng cho sinh viên, học sinh tài năng, trợ giúp học sinh ngh èo vượt khó, chính sách giáo dục miền núi,… 2.2. Phát triển cộng đồng - Định nghĩa: Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về phát triển cộng đồng ( PTCĐ ) Theo quan điểm của Liên hợp quốc năm 1956: “Những tiến trình qua đó nỗ lực của dân chúng kết hợp với nỗ lực của chính quyền để cải thiện các điều kiện kinh tế, x ã hội, văn hóa của các cộng đồng và giúp các cộng đồng này hội nhập vào đời sống quốc gia gọi là PTCĐ ”. Còn theo Murray và Ross đã đưa ra định nghĩa PTCĐ như sau:“Tổ chức cộng đồng (TCCĐ) là một tiến trình qua đó một cộng đồng nhận rõ nhu cầu, mục tiêu của mình, sắp xếp các nhu cầu và mục tiêu này, phát huy sự tự tin và ý muốn thực hiện chúng, tìm đến tài nguyên (bên trong hoặc bên ngoài) để giải quyết nhu cầu hay mục tiêu ấy.Thông qua đó sẽ phát huy thái độ và kỹ năng hợp tác với nhau trong cộng đồng ” Một định nghĩa gần đây phản ánh xu hướng mới nhất của PTCĐ là : “ Phát triển cộng đồng là một tiến trình giải quyết vấn đề qua đó cộng đồng được tăng sức mạnh bởi các kiến thức và kỹ năng phát hiện nhu cầu và vấn đề, ưu tiên hóa chúng, huy động tài nguyên để giải quyết chúng. PTCĐ không phải là một cứu cánh mà là một kỹ thuật, nó nhằm vào tăng sức mạnh cho các CĐ để tự quyết định về sự phát triển của mình và sự định hình của tương lai mình. Mục đích cuối cùng của PTCĐ là sự tham gia chủ động với tư cách tập thể của người dân vào sự phát triển ”. Qua các khái niệm ta có thể thấy rằng về cơ bản mục đích của PTCĐ là : - Củng cố các thiết chế tạo điều kiện cho chuyển biến xã hội và sự tăng trưởng. - Bảo đảm sự tham gia tối đa của người dân vào tiến trình của sự phát triển. - Đẩy mạnh công bằng xã hội bằng cách tạo điều kiện cho các nhóm thiệt thòi nhất được nêu lên nguyện vọng của mình và tham gia vào các ho ạt động phát triển. - Tiến trình phát triển cộng đồng: Mục tiêu cuối cùng của PTCĐ là giúp cho cộng đồng đi từ thực trạng yếu kém để phát triển, đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Để đạt được mục tiêu đó PTCĐ phải có một tiến trình với từng bước đi cụ thể.
- Trang 10 Sơ đồ thể hiện Tiến trình PTCĐ: CĐ tự lực CĐ yếu CĐ thức CĐ tăng kém tỉnh năng lực Tăng Tự tìm Hình Huấn cường hiểu và Phát huy thành luyện động lực tiềm phân các nhóm năng tích liên kết Chương trình hành động chung có lượng giá + Bước 1: Thức tỉnh cộng đồng Trước tiên cộng đồng cần được giúp đỡ để tự tìm hiểu và phân tích nhằm biết rõ những vấn đề của cộng đồng, những nguyên nhân và hậu quả do các vấn đề gây ra. Bên cạnh đó người dân cũng tự nhận ra những tài nguyên, tiềm năng, khó khăn, thuận lợi từ cộng đồng để có cơ sở giải quyết vấn đề. Điều quan trọng là cộng đồng cần nhận ra sự hợp tác của chính mình là yếu tố quyết định trong việc thay đổi tình trạng yếu kém hiện tại. + Bước 2: Tăng năng lực cộng đồng Cộng đồng nhận ra những gì mình có mà chưa sử dụng như đất đai, cơ sở vật chất, nhân tài, kinh nghiệm, … và những nguồn hỗ trợ từ bên ngoài như kiến thức kỹ thuật, chuyên môn, nguồn vốn vay, … Để sử dụng và quản lý những nguồn lực này cộng đồng cần được hỗ trợ tăng khả năng, kiến thức để cùng hành động bằng các hình thức học tập, huấn luyện… + Bước 3 : Cộng đồng tự lực Mục đích cuối cùng của PTCĐ là thông qua các tác động từ bên ngoài, với nội lực được phát huy và tăng cường, cộng đồng sẽ trở thành cộng đồng tự lực. Cộng đồng tự lực không có nghĩa là mọi khó khăn, khủng hoảng không còn nữa mà mỗi lần gặp khó khăn cộng đồng có thể tự huy động tài nguyên bên trong và bên ngoài đ ể giải quyết vấn đề. Qua mỗi lần như vậy cộng đồng sẽ tăng trưởng, tự lực hơn. Trong thực tiễn PTCĐ, tiến trình này không phải lúc nào cũng cứng nhắc trong cách áp dụng, mà điều quan trọng là tác viên PTCĐ phải thực sự vì cộng đồng, vì sự phát triển, linh hoạt nhưng cũng phải đảm bảo được các nguyên tắc cơ bản, các bước đi cơ bản của quá trình đó.
- Trang 11 - Nguyên tắc trong phát triển cộng đồng: Trong PTCĐ cần đảm bảo 10 nguyên tắc cơ bản sau: Bắt đầu từ nhu cầu, tài nguyên và khả năng của người dân. Tin tưởng vào dân, vào khả năng thay đổi và phát triển của họ. Đáp ứng nhu cầu và mối quan tâm bức xúc hiện tại của họ. Khuyến khích người dân cùng thảo luận, lấy quyết định chung, hành động chung để họ đồng hóa mình với những chương trình hành động đó. Bắt đầu từ những hành động nhỏ để dẫn đến những thành công nhỏ. Vận động thành lập nhóm nhỏ để thực hiện dự án, không chỉ để giải quyết được một vấn đề cụ thể, mà còn để củng cố, làm vững mạng tổ chức tự nguyện của người dân. Khi tổ chức cần cung cấp nhiều cơ hội để người dân tương trợ lẫn nhau và phát sinh các hoạt động chung, qua đó các th ành viên vừa đạt được cảm xúc tự hoàn thành nhiệm vụ vừa góp phần cải thiện an sinh cho nhóm, cả hai điều này đều quan trọng như nhau. Quy trình : “Hành động - Suy ngẫm rút kinh nghiệm - Hành động mới” cần áp dụng để tiến đến những chương trình hành động chung lớn hơn, trình độ quản lý cao hơn. Nếu điều hành có hiệu quả, giải quyết mâu thuẫn theo nhóm là dịp để tổ chức nhóm trưởng thành. Thiết lập mối liên kết với các tổ chức khác để có th êm hỗ trợ và hợp tác với nhau. 2.3. Một số khái niệm liên quan - Khái niệm phát triển kinh tế nông thôn: Phát triển kinh tế nông thôn là một quá trình tất yếu cải thiện một cách bền vững về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn. Quá trình này, trước hết chính là sự nổ lực người dân nông thôn với sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức xã hội khác. - Khái niệm phát triển kinh tế hộ gia đình: Phát triển kinh tế hộ gia đình là việc hộ gia đình áp dụng các kỹ thuật tiến bộ và học tập mô hình sản xuất giỏi hợp với khả năng lao động và điều kiện đất đai hiện có của gia đình để sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, vươn lên thoát nghèo góp phần xây dựng quê hương đất nước giàu đẹp. 3. Lý thuyết ứng dụng (Thuyết vai trò) Thuyết vai trò được ra đời với sự đóng góp lớn của khoa học xã hội học và tâm lí học ( Trean, 1971; Davis, 1986). Thuyết vai trò được đánh giá là phương pháp tiếp cận hiệu quả đối với việc hiểu biết về con người và xã hội, vì vậy, người ta đề cập tới nhiều khái niệm liên quan. Đó là những khái niệm: Mơ hồ trong vai trò: là hoàn cảnh một cá nhân gặp phải khó khăn khi quyết định vai trò nào nên làm. Xung đột vai trò: xảy ra khi một cá nhân đối phó với sự căng thẳng vì cá nhân đó chưa đủ khả năng để thực hiện hoặc đáp ứng các đòi hỏi của vai trò đó.
- Trang 12 Sợ hãi vai trò: nói đến những khó khăn có thể nhận thấy trong việc hoàn thành bổn phận của vai trò, khi mà sự căng thẳng được cảm nhận giữa hai vai trò cạnh tranh nhau, sự căng thẳng trong sợ hãi vai trò thường chỉ xuất hiện từ một vai trò. Thuyết này cho rằng vì mỗi cá nhân thường chiếm giữ các vị trí nào đó trong xã hội và tương ứng với các vị trí đó là các vai trò. Vai trò bao gồm một chuỗi các chuẩn mực như là một bản kế hoạch để chỉ đạo hành vi. Những vai trò chỉ ra cụ thể cách thức nhằm đạt được mục tiêu và hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời cũng chỉ ra những nội dung hoạt động cần thiết đòi hỏi phải có trong một bối cảnh hoặc tình huống có sẵn. Thuyết cũng cho rằng, một phần các hành vi xã hội hàng ngày quan sát được chỉ đơn giản là các việc mà con người phải thực hiện trong vai trò của họ. Ngoài ra, thuyết cũng khẳng định, hành vi con người chịu sự chỉ đạo của những mong muốn của cá nhân họ hoặc từ mong muốn của những người khác. Những mong muốn cho mỗi vai trò thì khác nhau nhưng phù hợp với vai trò mà cá nhân thực hiện hoặc trình diễn trong cuộc sống hàng ngày của họ. Đồng thời, thuyết còn đề cập, với cùng một hành vi, có thể chấp nhận ở vai trò này nhưng lại không được chấp nhận ở vai trò kia. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng thuyết này nhằm chỉ ra rằng mỗi phụ nữ trong nhóm đều có các vị trí khác nhau với các vai trò tương ứng. Nếu đánh giá đúng khả năng và tạo điều kiện phù hợp để họ phát huy hết khả năng với đúng vai trò của họ thì kết quả công việc của họ mang lại rất cao. 4. Vai trò của lao động nữ trong phát triển kinh tế nông thôn ở Việt Nam Việt Nam là một nước nông nghiệp với 76,5% dân số sống ở nông thôn. Vì vậy, trong quá trình phát triển đất nước thì phát triển nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ rất quan trọng. Để có thể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, b ên cạnh các chủ trương, chính sách xã hội phù hợp, cần có những nguồn lực hỗ trợ cho quá trình thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn như tài chính, kỹ thuật - công nghệ... Đặc biệt phải kể đến một nguồn lực quan trọng, đó là nguồn nhân lực, chủ thể của quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. Nói đến chủ thể của quá trình này, không thể không nhấn mạnh đến nguồn nhân lực nữ ở nông thôn. Phụ nữ nông thôn có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đất nước. Là một lực lượng chủ yếu trong nông nghiệp và chiếm đông đảo trong nguồn nhân lực của đất n ước, nhưng phụ nữ nông thôn còn gặp nhiều khó khăn so với nam giới nông thôn và phụ nữ đô thị. Theo số liệu từ Tổng điều tra dân số năm 2009, phụ nữ chiếm 50,5% số người hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp (năm 1989 tỷ lệ n ày là 60%). Trong tổng lực lượng lao động nữ, có 68% là hoạt động trong nông nghiệp, tỷ lệ n ày đối với nam giới là 58%. Vai trò của phụ nữ trong sản xuất nông nghiệp càng trở nên quan trọng hơn trong quá trình chuyển đổi kinh tế, với sự tham gia của lao động nữ vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng trong khi lao động nam giảm dần. Thời kỳ 1993 - 1998, số nam giới tham gia hoạt động nông nghiệp mỗi năm giảm 0,9%. Trong giai đoạn hiện nay, 92% số người mới gia nhập lĩnh vực nông nghiệp là phụ nữ, vì nam giới chuyển sang các hoạt động p hi nông nghiệp. Hiện tượng thay đổi này dẫn đến xu hướng là nữ giới tham gia nhiều hơn trong hoạt động nông nghiệp. Họ đóng góp công sức trong việc thực hiện các hoạt động kinh tế tạo ra thu nhập của gia đình, ổn định cuộc sống và góp phần vào sự phát triển của xã hội.
- Trang 13 CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA PHỤ NỮ XÃ XUÂN BÌNH 1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu Xuân Bình là xã nằm ở phía Bắc của thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Phía Bắc giáp xã Xuân Lộc và đầm Cù Mông, Phía Nam giáp xã Xuân Cảnh, Phía Tây giáp xã Xuân Phương và thị xã Sông Cầu, Phía Đông giáp xã Xuân Hoà, xã Xuân Cảnh và Đầm Cù Mông. Tổng diện tích tự nhiên là 5105 ha, trong đó: đất sản xuất nông nghiệp: 3.222,47 ha, đất sản xuất làm muối: 135,9 ha, đất phi nông nghiệp: 389,53 ha, đất chưa sử dụng: 1353,4 ha. Có tuyến Quốc lộ 1A chạy dọc qua với chiều dài khoảng 6km và một đường liên xã đã được nâng cấp trải mặt nhựa nên tương đối thuận lợi cho việc đi lại cho bà con nhân dân, ngoài ra mạng lưới giao thông dần được nâng cấp với khoảng 6km bêtông giao thông nông thôn đã được xây dựng với chương trình nhà nước và nhân dân cùng làm, đây cũng là điều kiện thuận lợi để phục vụ nhu cầu đi lại và lưu thông hàng hoá giữa các xã và huyện. Địa hình xã Xuân Bình tương đối phức tạp, phía Tây Nam là núi. Độ dốc trung bình khoảng 4o và thấp dần từ Tây sang Đông với kiểu địa hình tương đối bằng phẳng, phía Đông là đầm Cù Mông. Độ cao trung bình 50m; có khí hậu nhiệt đới gió mùa, hai mùa rõ rệt trong năm, mùa khô từ tháng 01 đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12, lượng mưa thường tập trung vào mùa mưa (chiếm khoảng 76% tổng lượng mưa trong năm). Toàn xã được chia thành 5 thôn với 2112 hộ dân và 9187 nhân khẩu, trong đó nam là 4128 nhân khẩu, nữ là 5059 nhân khẩu. UBND xã nằm ở thôn Bình Thạnh. Tổng số lao động trên địa bàn có 4133 lao động (LĐ), trong đó nam có 2216 LĐ; nữ có 1917LĐ. Trong đó có hơn 2/3 sống bằng nghề nông nghiệp, 1/3 còn lại hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp – dịch vụ và một số lĩnh vực khác. Công tác giáo dục – đào tạo nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực luôn được chú trọng, việc phổ cập giáo dục đúng độ tuổi được quan tâm, trường lớp được đầu tư tu bổ khang trang và đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học của nhà trường. Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được đảm bảo, nhất là công tác phòng bệnh, phòng dịch được thực hiện tốt. Công tác tuyên truyền thông tin, văn hóa, thể thao được đầu tư đúng mức. Đời sống tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo được tôn trọng và giám sát chặt chẽ. An ninh, chính trị của xã cơ bản được ổn định, các ban ngành đoàn thể hoạt động tương đối vững vàng, tệ nạn xã hội bị đẩy lùi, công tác quốc phòng luôn được giữ vững. Kết cấu hạ tầng và các công trình phúc lợi trong xã từng bước được chỉnh trang, xây dựng mới đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Toàn xã có 1 trường Trung học phổ thông đang xây dựng, 1 trường Trung học cơ sở, 3 trường Tiểu học, một số cơ sở giáo dục mẫu giáo và mầm non; có một trạm y tế và phòng khám khu vực phía bắc thị xã Sông Cầu, đường giao thông từng bước được bêtông hóa, … 2. Một số kết quả kinh tế – xã hội xã Xuân Bình đạt được trong thời gian qua 2.1. Về lĩnh vực kinh tế * Sản xuất nông – lâm - ngư nghiệp: - Nông nghiệp:
- Trang 14 Năm 2006, hồ chứa nước Xuân Bình hoàn thành đưa vào sử dụng diện tích lúa tăng vụ 3 chiếm khoảng 70 ha, do đó đã nâng sản lượng lúa bình quân lên 30 - 45 tạ/ha. Hiện nay đã được nhân rộng giống lúa mới, có năng suất cao để sản xuất. Mặc khác một số diện tích năng suất thấp chuyển sang trồng cây ăn quả và các loại cây khác; vận động nhân dân chuyển 1,5 ha sang trồng rau các loại đã đem lại hiệu quả tăng gấp 2 lần so với sản xuất lúa. Bên cạnh đó, việc tiến hành sản xuất xen canh trên một số diện tích lúa 1 vụ trồng các loại: đậu xanh, đậu phộng, m è…đem lại hiệu quả cho người nông dân góp phần tăng thu nhập. Trong 5 năm, đã trồng được 75,22 ha đào (điều) cao sản với 65 hộ tham gia, bên cạnh đó vận động nhân dân chăm sóc vườn đào cao sản có tại địa phương. Đồng thời chăm sóc và bảo vệ phòng trừ dich bệnh bọ cánh cứng diện tích dừa hiện có, đến nay đ ã giảm, dừa đang dần hồi phục và phát triển cho quả đạt 50% tổng lượng quả hàng năm. - Lâm nghiệp: Đến năm 2010, toàn xã có 1001 hộ tham gia trồng rừng phát triển nhất là khu vực phía tây của xã với diện tích trồng rừng là 2200ha. - Chăn nuôi: Hiện nay, đàn heo toàn xã có 4000 con, 100% heo hướng nạc, đàn bò có 1400 con, bò lai sind có 250 con chiếm tỷ lệ 19,26%, đàn gia cầm trên địa bàn xã phát triển ổn định không có dịch cúm xảy ra. - Sản xuất muối: Thời tiết diển biến thất thường, trong 05 năm sản xuất hiệu quả ch ưa cao. Được nhà nước đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng làm các cống thoát lũ nhờ đó những năm sau các tuyến đê bao không bị xói lỡ, chi phí đầu tư đầu vụ giảm rất nhiều, tiết kiệm cho Hợp tác xã muối và nhân dân sản xuất muối khoảng 100 - 120 triệu đồng trên năm, năng suất sản lượng muối cũng tăng lên. Tổng sản lượng hàng năm 15.000 tấn/ 17.000 tấn, đạt 88,5% hàng năm, giá muối bình quân tương đối cao do vậy đời sống diêm dân có bước cải thiện và nâng lên. - Nuôi trồng thủy hải sản: Tổng diện tích ao nuôi tôm sú tại địa phương là 41ha. Năm 2009, th ả nuôi 32,67/ 41 ha tổng sản lượng 20 tấn. Giá tôm sú không cao nên lợi nhuận từ nuôi tôm không hiệu quả, nhân dân đang tận dụng các diện tích ao hồ có nguồn nước sâu nuôi một số loài thủy sản khác như: cá mú, cá dìa, ghẹ…để hiệu quả kinh tế cao hơn. Vận động nhân dân nuôi tôm xen canh trên một số diện tích sản xuất muối khi mãn vụ. * Tiểu thủ công nghiệp - thương mại - dịch vụ: Năm 2008, được sự hỗ trợ của vốn làng nghề cấp tỉnh, đầu tư xây dựng sân phơi, kho phục vụ cho sản xuất thảm cước xơ dừa lúc đầu hoạt động có hướng phát triển, về sau sản phẩm sản xuất tại địa phương không đảm bảo chất lượng cạnh tranh với thị trường bên ngoài nên hiện nay đang tạm dừng sản xuất. Thực hiện chỉ đạo của cấp trên năm 2008 tiến hành bàn giao hệ thống lưới điện tại địa phương cho ngành điện quản lý và đang chỉ đạo giải thể hợp tác xã điện theo quy định. Bên cạnh đó nhiều thành phần kinh tế khác bỏ vốn ra mở nhiều trại mộc dân d ụng để sản xuất đồ gỗ, đến nay toàn xã có 4 cơ sở sản xuất đồ gỗ dân dụng, đặc biệt là doanh
- Trang 15 nghiệp sản xuất gỗ Long Biên sản xuất ổn định tạo việc làm cho trên 100 lao động tại địa phương có việc làm ổn định. Hoạt động thương mại - dịch vụ 5 năm qua có phát triển nhưng không đáng kể, đa phần hộ kinh doanh cố định tập trung tại chợ Xuân Lộc. Đến nay to àn xã có khoảng 130 hộ kinh doanh cố định và một số cơ sở tập thể, cá thể hoạt động dịch vụ phục vụ riêng vật tư nông nghiệp, thuốc trừ sâu, phân bón, sản xu ất nông cụ…từng bước đang phát triển. 2.2. Về văn hóa- xã hội - Công tác giáo dục: Quy mô giáo dục ngày càng tăng và có bước đầu tư, hiện tại trên địa bàn toàn xã có 1 trường THCS, 03 trường Tiểu học, 1 trường Mẫu giáo và một trường Mầm non tư thục, cơ sở vật chất của các trường cơ bản đảm bảo cho việc dạy và học. Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, giáo viên được nâng cao. Cuộc vận động “ hai không” trong ngành giáo dục có sự chuyển biến tích cực. Cơ sở vật chất phục vụ cho ngành giáo dục của xã ngày càng được mở rộng. Trong 5 năm bằng nhiều nguồn vốn đã xây dựng mới 13 phòng học. Trong đó trung học cơ sở 4 phòng, Tiểu học 6 phòng, Mẫu giáo 3 phòng, hàng năm vận động học sinh vào lớp 1 đạt 100%, tỷ lệ học sinh tăng hàng năm và tỷ lệ khá giỏi đạt cao, cụ thể: + Tỷ lệ học sinh khá giỏi THCS năm 2005 - 2006 đạt 45,7%, cuối năm 2008 - 2009 đạt 43,98%. + Tỷ lệ học sinh khá giỏi ở Tiểu học năm 2005 - 2006 đạt 37,2 %, cuối năm 2007 - 2008 đạt 49,6%. Xã giữ vững chuẩn quốc gia về Phổ cập giáo dục (PCGD) tiểu học đúng độ tuổi và PCGD trung học cơ sở. - Công tác y tế - dân số - Kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ): Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được quan tâm, nhất là công tác phòng bệnh, phòng dịch, do đó trong 5 năm không xảy ra dịch bệnh trên địa bàn xã. Song song với công tác phòng bệnh ngành y tế xã phối hợp với các ban ngành thường xuyên vận động nhân dân thực hiện các chương trình y tế quốc gia. Bình quân tỷ lệ trẻ em được tiêm phòng 7 loại vắc xin đạt 95% chỉ tiêu hàng năm. Trạm y tế được tách ra khỏi phòng khám khu vực Xuân Bình được sự quan tâm của thị xã và phòng y tế đã hoán đổi cơ sở nơi làm việc với Hợp tác xã nông nghiệp đã phát huy và tạo điều kiện cho nhân dân khám chữa bệnh kịp thời, do đó chất lượng khám và chữa bệnh ngày càng được nâng lên. Khám chữa bệnh bằng Đông - Tây y kết hợp của Hội đồng y khoa bước đầu có hiệu quả. Công tác dân số - KHHGD có nhiều chuyển biến tích cực, số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại, hiện tại đạt trên 85%. Do đó trong 5 năm tỷ lệ phát triển dân số của xã giảm dần và còn 1% năm 2010, tỷ lệ sinh con thứ 3 từ 20% giảm xuống còn 14,2%, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng 19,4 %. Triển khai tốt công tác và thực hiện các chiến dịch chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS) - KHHGĐ, các hoạt động y tế quốc gia, các phong trào bảo vệ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho b à mẹ và trẻ em được chú trọng. - Công tác văn hóa - tuyên truyền thông tin, thể dục thể thao: Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “ To àn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Đến nay toàn xã đã có 5/5 thôn là thôn văn hóa và xã đã được công nhận là xã
- Trang 16 văn hóa năm 2008. Số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa ngày càng tăng bình quân hộ gia đình đạt gia đình văn hóa hàng năm trên 85% so với số hộ toàn xã. Cụ thể cuối năm 2009 có 1704 hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa tăng 87,2%. Nhờ làm tốt công tác vận động tuyên truyền trong nhân dân thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Các biểu hiện m ê tín dị đoan và các thủ tục lạc hậu trong nhân dân được giảm dần. Đời sống văn hóa từng b ước hình thành, đi vào cuộc sống của nhân dân nhất là vấn đề ma chay, cưới hỏi… Bên cạnh việc xây dựng đời sống văn hóa, các hoạt động thể dục thể thao dần dần phát triển. Hàng năm vào diệp kỷ niệm các ngày lễ lớn, Đảng ủ y chỉ đạo Ủy ban xã tổ chức các giải bóng chuyền cấp xã, các thôn đều có các đội tham gia. Đồng thời xã cử các đoàn văn nghệ, TDTT, vận động viên tham gia giải do thị xã tổ chức như: giải bóng chuyền cấp thị xã, lễ hội sông nước Tam Giang, và các hoạt động thể dục thể thao khác do thị xã tổ chức…Trong 5 năm xã đạt được nhiều giải thưởng của thị xã. Đài truyền thanh của xã được đầu tư, nghiệm thu và đưa vào sử dụng tạo điều kiện thuận lợi cho việc tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật nhà nước tại địa phương. - Giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa: Công tác giải quyết việc làm, giúp nhau làm kinh tế gia đình thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo có tiến bộ. Tuy là một xã thuần nông lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp còn rất nhiều, xã chủ động vận động nhân dân khôi phục các ngành nghề truyền thống như: làm bún, bánh hỏi, bánh tráng…Đặc biệt gần đây khu công nghiệp Đông bắc Sông Cầu phát triển nhân có phần tăng thêm. Công tác đào tạo nghề như: thú y, mộc, nề…150 lao động góp phần tích cực trong việc ổn định đời sống trong từng gia đ ình. Bên cạnh đó hàng năm xã xây dựng các dự án cho vay vốn phát triển chăn nuôi gia cầm gia súc nhất là đàn heo và đàn bò để tăng thu nhập cho nhân dân. Hàng năm được sự hỗ trợ của ngân hàng chính sách thị xã các đoàn thể của xã đã thành lập các dự án cho vay vốn hỗ trợ việc làm và các kênh khác và giải quyết được 1500 lao động trong 5 năm. Song song công tác giúp nhau làm kinh tế để cải thiện đời sống nhân trong to àn xã. Xã còn quan tâm chú trọng phong trào đền ơn đáp nghĩa. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để giúp đỡ các gia đình chính sách, hộ gia đình neo đơn không nơi nương tựa, hộ nghèo phấn đấu vươn lên ngang mức sống trung bình trong toàn xã. Trong 5 năm chỉ đạo các ban ngành đoàn thể của xã phối hợp với Uỷ ban vận động xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa 40,922/50 triệu đồng đạt 81,8%, xây dựng và sữa chữa nhà tình nghĩa gồm 9/5 đạt tỷ lệ 180%. Mặc khác kết hợp các nguồn vốn cấp trên đã hỗ trợ vốn cho các đối tượng hộ nghèo có nhà tạm bợ dột nát trong 5 năm đã xây dựng 80 nhà tình thương. Ngoài ra xã vận động nhân dân quên góp làm công tác nhân đ ạo và khắc phục bão lụt… 2.3. Về quốc phòng - an ninh Công tác QP - AN có nhiều chuyển biến tích cực các phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc (ANTQ), phong trào phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy và các tệ nạ xã hội khác từng bước được hình thành và phát triển sâu rộng trong quần chúng nhân dân, đã gắn kết phong trào nhân dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu
- Trang 17 dân cư. Nhờ vậy những mâu thuẫn nhỏ trong nhân dân đ ã được giải quyết ngay tại cơ sở, tạo sự đoàn kết, tình làng nghĩa xóm giúp đỡ lẫn nhau cùng nhau xây dựng và phát triển kinh tế gia đình. Trong 5 năm xã đã được UBND Tỉnh, Công an tỉnh và UBND thị xã tặng bằng khen và giấy khen phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc. Công tác quốc phòng thường xuyên được cũng cố. Hằng năm Đảng ủy đã triển khai nhiệm vụ công tác quốc phòng trong năm, UBND xã đã tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết. Các phương án tác chiến trị an, phương án phòng chống cháy nổ, phòng chống bão lụt, giảm nhẹ thiên tai thường xuyên được cũng cố và bổ sung. Năm 2008 diễn tập theo kế hoạch CT 02 được Bộ chỉ huy quân sự thị xã đánh giá xếp loại khá. Giao quân hàng năm đạt 100% chỉ tiêu thị xã giao. 2.4. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nhiệm kỳ 5 năm (2011 – 2015) * Mục tiêu tổng quát: Tập trung khai thác tiềm năng và lợi thế tại địa phương , phát huy nội lưc hiện có và tranh thủ các nguồn lực hỗ trợ b ên ngoài để đầu tư phát triển kinh tế, đưa Xuân Bình phát triển bền vững.Trước mắt những năm đầu tiên phát triển nông nghiệp làm nền tảng cho những năm tiếp theo, đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ theo hướng CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn. Đẩy mạnh các hoạt động xã hội hóa về giáo dục, y tế, văn hóa- xã hôi, từng bước giải quyết có hiệu quả, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo cho nhân dân và giải quyết các vấn đề bức xúc đang đặt ra giữ vững ổn định và trật tự ổn định xã hội, tăng cường công tác quốc phòng. Tiếp tục cuộc vận động chỉnh đốn Đảng và “ Học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý điều hành của UBND xã, đỏi mới phương thức hoạt động của Mặt trận và cac đoàn thể nhằm đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ mới. * Các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2015: - Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2015 là 11 triệu đồng. - Sản lượng muối đạt bình quân hàng năm là 17.000 tấn. - Sản lượng tôm thịt hàng năm là 30 tấn. - Thu ngân sách tăng bình quân hàng năm 10% đến 15%; đến năm 2015 đạt 750 triệu đồng. - Xây dựng đường bê tông dài 4,5 km. - Tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2015 còn 5,63 %. - Huy động quỹ “ Đền ơn đáp nghĩa” 50 triệu đồng, quỹ “ Ngày vì người nghèo” 60 triệu đồng. - Tỷ lệ phát triển dân số giữ ở mức 1%, - Hàng năm huy động 100% trẻ em đúng độ tuổi đến trường bậc tiểu học, 98% - 100% lên lớp bậc tiểu học, 95% - 98% xét tốt nghiệp Trung học cơ sở. Giữ vững tiêu chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và tiến tới phổ cập GDTHCS. - Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi cuối năm 2015 còn 13,4 %. - Tỷ lệ sinh con thứ 3 cuối năm 2015 còn 8,2%. - Hàng năm xây dựng 5/5 thôn văn hóa, gia đình văn hóa đạt 80 – 85%, xã đạt xã văn hóa, cơ quan văn hóa.
- Trang 18 - Phấn đấu 100% cơ quan, đoàn thể trong sạch vững mạnh toàn diện 3. Diện mạo lao động nữ nông thôn ở xã Xuân Bình 3.1. Độ tuổi So với một số xã lân cận trong huyện thì xã Xuân Bình là một trong những xã có tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi lao động khá cao. Bảng 1: Tỷ lệ các độ tuổi Biểu đồ thể hiện độ tuổi phụ nữ xã Xuân Bình Độ tuổi Tỷ lệ (%) Từ 18 đến 30 16 Từ 31 đến 45 60 T ư 18 - 30 ̀ T ư 31 - 45 ̀ Từ 46 đến 55 19 T ư 46 - 55 ̀ Trên 55 Từ 56 trở lên 5 Tổng 100 Như vậy, trong số 100 phụ nữ được điều tra có 60% phụ nữ ở độ tuổi từ 31 đến 45; 19% ở độ tuổi từ 46 đến 55; 16% ở độ tuổi từ 18 đến 30, 5% ở độ tuổi từ 56 trở lên. Với con số này, có thể nhận thấy rằng nguồn lao động nữ của địa phương khá dồi dào; họ sẽ là một nguồn lực lớn góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. 3.2. Trình độ học vấn Trong những năm gần đây, chính quyền địa phương xã Xuân Bình rất quan tâm đến vấn đề giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho địa phương. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau dẫn đến trình độ học vấn của người dân nói chung và của phụ nữ nói riêng chưa tiến bộ như mong muốn. Bảng 2: Trình độ học vấn tTrình độ học vấn Tỷ lệ (%) Tốt nghiệp tiểu học 48 Tốt nghiệp THCS 10 Tốt nghiệp THPT 8 Tốt nghiệp TC – CĐ – ĐH 5 Ý kiến khác 29 Tổng 100 Qua bảng số liệu trên, ta thấy trình độ học vấn của lao động nữ ở xã Xuân Bình là quá thấp. Lao động nữ ở đây chủ yếu có trình độ học vấn là tốt nghiệp tiểu học (48%), trung học cơ sở là 10% còn tốt nghiệp trung học phổ thông và các bậc cao hơn là rất thấp. Ngoài ra còn một số lượng không nhỏ lao động nữ qua điều tra cho thấy họ không được học và chưa tốt nghiệp tiểu học (29%). Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, bên cạnh những nguyên nhân về kinh tế thì các quan niệm, sự nhìn nhận chưa đúng về khả năng và vai trò của phụ nữ đối với sự phát triển xã hội là một trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề này. Đây sẽ là một trong những trở ngại lớn để phụ nữ tiếp cận các chính sách của Nhà nước.
- Trang 19 3.3. Cơ cấu nghề nghiệp của lao động nữ Trong những năm trở lại đây, cùng với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước thì cơ cấu nghề nghiệp của xã Xuân Bình nói chung đã có nhiều sự thay đổi rõ rệt. Đặc biệt là cơ cấu nghề nghiệp dành riêng cho lao động nữ. Nếu như trước đây, lao động nữ chủ yếu tập trung vào những ngành nghề như nông nghiệp, những nghề thủ công truyền thống … thì giờ đây, phụ nữ đã tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có dịch vụ, công nghiệp, hành chính nhà nước. Kết quả điều tra cho thấy: Bảng 3: Cơ cấu nghề nghiệp lao động nữ Nghề nghiệp Tỷ lệ (%) Làm nông 40 Công nhân 11 Làm nghề thủ công truyền thống 4 Buôn bán 20 Cán bộ - công chức 4 Nghề khác 21 Tổng 100 Số phụ nữ làm nghề nông (trồng trọt, chăn nuôi và làm muối) chiếm 40%; công nhân làm tại các xưởng ở khu công nghiệp chiếm 11%, hoạt động dịch vụ (buôn bán nhỏ) chiếm 20%; làm nghề thủ công tru yền thống chiếm 4% và 4% phụ nữ có nghề nghiệp là cán bộ công chức. Ngoài ra, có 21% phụ nữ đang hoạt động với những công việc khác nhau như: làm tóc, làm mướn lưu động, may, nội trợ… Biểu đồ thể hiện cơ cấu nghề nghiệp của lao động nữ 45 40 35 30 25 20 Nghề 15 nghiêp̣ 10 5 0 Lam ̀ Thu ̉ Can bô ́ ̣ Nghề Công Buôn ban ́ khac ́ nông nhân công - công truyên ̀ ch ưc ́ thông ́ 4. Thực trạng việc làm của phụ nữ xã Xuân Bình 4.1. Vấn đề thu nhập Thu nhập là nhân tố cơ bản có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống của con người. Trong những năm qua, nhờ sự quan tâm chu đáo của chính quyền địa phương các cấp mà đời sống của người dân xã Xuân Bình đã có nhiều chuyển biến tích cực về mọi mặt.
- Trang 20 Tuy nhiên, so với mặt bằng chung của toàn thị xã thì mức thu nhập của người dân xã Xuân Bình nói chung còn ở mức thấp, trong đó đặc biệt phải kể đến thu nhập của phụ nữ. Bảng 4: Thu nhập bình quân Mức thu nhập bình quân Tỷ lệ (%) Dưới 5 trăm ngàn đồng 33 Từ 5 trăm đến dưới 1 triệu đồng 29 Từ 1 triệu đến dưới 2 triệu đồng 28 Từ 2 triệu đồng trở lên 10 Tổng 100 Thực tế, qua kết quả điều tra bằng bảng hỏi kết hợp với các cuộc phỏng vấn sâu cho thấy rằng: đa số phụ nữ có thu nhập dưới 1 triệu đồng (chiếm tới 62%), trong đó có đến 33% phụ nữ có thu nhập dưới 5 trăm ngàn đồng. Con số đó tập trung chủ yếu vào những phụ nữ làm nông, làm mướn lưu động, một bộ phận phụ nữ chưa có việc làm chỉ ở nhà lo nội trợ và những phụ nữ có con nhỏ. Số phụ nữ có mức thu nhập từ 1 triệu đến dưới 2 triệu đồng chiếm 28%, đó là những phụ nữ làm công nhân và buôn bán nhỏ. Những phụ nữ có thu nhập từ 2 triệu đồng trở lên chiếm một tỷ lệ tương đối khiêm tốn 10%, chủ yếu ở những phụ nữ là cán bộ – công chức, một số ít làm công nhân và những phụ nữ có sự kết hợp nhiều công việc trong quá trình phát triển kinh tế (ví dụ như vừa làm ruộng vừa buôn bán, vừa buôn bán vừa chăn nuôi…) Với mức thu nhập như trên, rõ ràng nó chưa thể đáp ứng một cách đầy đủ cho đời sống của chị em phụ nữ ở xã Xuân Bình hiện nay. Kết quả thu thập còn cho thấy: có 51% phụ nữ cho rằng với mức thu nhập này thì việc trang trãi cuộc sống còn thiếu và rất thiếu thốn, trong đó rất thiếu thốn chiếm 15%. Số người trả lời có mức sống vừa đủ và dư dả chiếm tỷ lệ 49% (trong đó có 2% là dư dả). Tuy nhiên, qua ý kiến của đa số các phụ nữ, chúng tôi nhận ra rằng mức sống của họ có được như thế chủ yếu phụ thuộc vào thu nhập của chồng, con. Ví dụ như khi được hỏi về thu nhập và mức sống có phụ nữ cho biết: “Mình có con nhỏ, đâu có thời gian làm gì ra tiền. Cũng nhờ ảnh (chồng) đi làm thợ vôi, tiền công cũng được trên dưới 2 triệu nên đắp qua lại, chi tiêu cũng vừa đủ”. Hay: “ Cô ở nhà mở quán cũng gọi là buôn bán cho vui, một ngày bán cũng được vài ba chai nước chứ không lời lãi gì nhiều, phần lớn là thằng con trai nó chu cấp, nhờ đó mà cuộc sống cũng không thiếu thốn gì!..” Cũng qua đó, chúng ta thấy, đời sống của phụ nữ nông thôn còn phụ thuộc nhiều, họ không có nhiều điều kiện để phát triển, để vươn lên khẳng định mình. 4.2. Thời gian lao động chính của phụ nữ Trải qua các giai đoạn lịch sử, dù ở chế độ xã hội nào phụ nữ cũng luôn có những đóng góp nhất định cho sự phát triển chung của toàn xã hội. Trong thực tế, ở hầu hết những công việc mà phụ nữ đang đảm nhận tốn khá nhiều thời gian và công sức. Tuy nhiên, xã hội vẫn chưa nhìn nhận và trả công xứng đáng cho họ. Đây cũng chính là nguyên nhân cản trở sự phát triển của phụ nữ nói chung và đặc biệt là phụ nữ nông thôn nói riêng. Là một xã thuần nông với 77,7% lao động nông nghiệp nên phụ nữ xã Xuân Bình cũng có những đặc điểm tương tự. Bên cạnh đó, do điều kiện kinh tế – xã hội của xã Xuân Bình còn khó khăn nên đòi hỏi người phụ nữ phải đầu tư nhiều thời gian và công sức cho công việc của mình.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: Phân tích quá trình hoạt động và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động bán hàng ở công ty TNHH Nguyễn Trần
32 p | 388 | 125
-
Luận văn tốt nghiệp "Phương hướng và một số biện pháp nâng cao hiệu quả của công tác quản lý vốn sản xuất kinh doanh Công ty 20 - Tổng cục hậu cần"
82 p | 264 | 100
-
Luận văn: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực ở Cảng Khuyến Lương
61 p | 176 | 54
-
Luận văn: Thực trạng và một số phương pháp đánh giá hiệu quả tài chính, kinh tế xã hội của dự án xây dựng: ứng dụng dự án xây dựng tổ hợp nhà cao tầng của Công ty Xây dựng Công trình Văn hoá
76 p | 167 | 44
-
Luận văn: Thực trạng và một số biện pháp nâng cao công tác quản lý và hiệu lực quản lý của công ty xây lắp vật liệu xây dựng
77 p | 169 | 37
-
Luận văn "Phương hướng và một số biện pháp nâng cao hiệu quả của công tác quản lý vốn sản xuất kinh doanh Công ty 20 - Tổng cục hậu cần"
88 p | 117 | 32
-
Luận Văn: Thực trạng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện kế hoạch chiến lược của Công ty Cổ Phần Đại Thắng
45 p | 145 | 31
-
Luận văn: Thực trạng và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại
74 p | 149 | 28
-
Luận văn: Thực trạng và một giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHCT Hà Nam trong giai đoạn từ năm 1999 đến năm 2001
115 p | 101 | 27
-
Luận Văn: Thực trạng và một số biện pháp nhằm gắn sản xuất với thị trường của công ty Thương mại và dược phẩm Như Thuỷ
68 p | 117 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý tài nguyên và môi trường: Đánh giá thực trạng sử dụng đất nông nghiệp và hiệu quả của các loại hình sử dụng đất chính tại huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
103 p | 26 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Nông nghiệp: Đánh giá hiệu quả của một số chế phẩm thảo dược trong điều trị hội chứng hô hấp (HCHH) trên gà tại Thừa Thiên Huế
73 p | 31 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu hiệu quả của biện pháp sinh học phòng trừ dịch hại cam Cao Phong, Hòa Bình
104 p | 46 | 8
-
Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp xây dựng số 2 - p5
12 p | 76 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ, Truyền thông đại chúng, Luận văn Thạc sĩ Truyền thông đại chúng: Hiệu quả chương trình thời sự truyền hình của Đài Phát thanh - Truyền hình Tuyên Quang
121 p | 18 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Đánh giá hiệu quả của một số mô hình rừng trồng kinh tế tại lâm trường Phúc Tân tỉnh Thái Nguyên
135 p | 21 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu kết cấu và hiệu quả của một số loại hình canh tác ở huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình
116 p | 13 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn