intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Hoàn thiện chương trình giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:101

221
lượt xem
71
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo dục giáo pháp luật trong các nhà trường, đặc biệt trong các trường cao đẳng kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, góp phần đào tạo nhân lực, hình thành một cách vững chắc những thế hệ công dân - người lao động đáp ứng những yêu cầu của xã hội hiện tại và tương lai. Do đó, hơn 10 năm qua, Đảng và Chính phủ đã ra những nghị quyết, chỉ thị trong đó khẳng định rằng để xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân cần “Đưa việc giáo dục pháp luật...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Hoàn thiện chương trình giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Hoàn thiện chương trình giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay
  2. Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Giáo dục giáo pháp luật trong các nhà trường, đặc biệt trong các trường cao đẳng kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, góp phần đào tạo nhân lực, hình thành một cách vững chắc những thế hệ công dân - người lao động đáp ứng những yêu cầu của xã hội hiện tại và tương lai. Do đó, hơn 10 năm qua, Đảng và Chính phủ đã ra những nghị quyết, chỉ thị trong đó khẳng định rằng để xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân cần “Đưa việc giáo dục pháp luật vào các trường học, các cấp học, từ phổ thông đến đại học, trung học chuyên nghiệp và các trường của các đoàn thể nhân dân…”. Đòi hỏi này chỉ có thể được thực hiện tốt, đầy đủ khi đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật theo tinh thần Chỉ thị số 32 - CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư trung ương Đảng và Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17/1/2003 của Thủ tướng Chính phủ - “Chú trọng việc chuẩn hóa nội dung chương trình, tài liệu, sách giáo khoa giảng dạy pháp luật chính khóa cũng như việc tổ chức các hoạt động giáo dục pháp luật ngoại khóa bằng nhiều hình thức phong phú”. Với tinh thần ấy, các cơ quan chức năng đã phối hợp, từng bước tổ chức triển khai việc đưa giáo dục pháp luật vào các nhà trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, song song với đổi mới các chương trình, mục tiêu ở hệ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Tuy nhiên, cho đến nay chỉ các trường phổ thông có chương trình nội dung giáo dục pháp luật thống nhất trong toàn quốc, một môn học chính khóa - môn “Giáo dục công dân”. Còn trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề chưa xây dựng được chương trình chuẩn quốc gia về giáo dục pháp luật, lúng túng trong việc lựa chọn nội dung, chương trình, sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu, phương pháp cho phù hợp từng loại đối tượng. Việc đào tạo, sử dụng đội ngũ giáo viên giáo dục pháp luật trong các nhà trường còn bất cập. Công tác giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật chưa được chú trọng đúng mức, chưa ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều này đã dẫn đến chất lượng giáo dục pháp luật trong các trường này chưa cao, tình trạng vi phạm pháp luật trong sinh viên vẫn xẩy ra, trình độ hiểu biết pháp luật của sinh viên thấp. Trong khi đó, sự nghiệp giáo dục - đào tạo trong điều kiện đổi mới và hội nhập đòi hỏi công
  3. tác giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật phải được tăng cường thường xuyên và chất lượng cao. Vì vậy việc hoàn thiện chương trình giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật là một yêu cầu bức thiết hiện nay. Xuất phát từ nhận thức đó, tôi chọn đề tài “Hoàn thiện chương trỡnh giỏo dục phỏp luật trong cỏc trường cao đẳng kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay”. 2. Tình hình nghiên cứu Nội dung “giáo dục pháp luật” từ lâu đã được đề cập trong các tài liệu giảng dạy của các trường đại học trong các tài liệu: “giáo trình lý luận về Nhà nước và pháp luật” của Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, “Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và pháp luật”, “Những vấn đề cơ bản về pháp luật” của Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật. Trong những phạm vi và mức độ khác, đã có một số công trình đề tài nghiên cứu khoa học đề cập vấn đề giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật trong nhà trường nói riêng như: “Các luận án phó tiến sỹ khoa học luật” ở nước ta hiện nay của Đinh Xuân Thảo; “ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật ở Việt Nam ” của Nguyễn Đình Lộc; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới. (Đề tài khoa học cấp Bộ năm 1994 của Bộ Tư pháp); “Bàn về giáo dục pháp luật ” của Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai (Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995); “Giáo dục pháp luật cho học sinh trong nhà trường phổ thông ở nước ta hiện nay” của Lê Quý Đình. Nhìn chung, các công trình, bài viết nêu trên đã đề cập từng mặt, từng khía cạnh cả về lý luận và thực tiễn của giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật trong nhà trường nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay, việc tiếp tục nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống về cơ sở lý luận, bản chất, đặc trưng, nội dung, hình thức giáo dục pháp luật, nhất là sự đổi mới và xây dựng chương trình chuẩn giáo dục pháp luật trong cao đẳng kỹ thuật cho phù hợp với giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước vẫn chưa được thực hiện. 3. Mục đích nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và nhu cầu thực tiễn hoàn thiện chương trình giáo dục pháp luật trong nhà trường nói chung, góp phần hoàn
  4. thiện chương trình chuẩn giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật nói riêng ở Việt Nam hiện nay. Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Phân tích làm rõ khái niệm và các tính chất đặc thù của chương trình giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở Việt Nam. - Đánh giá sơ bộ thực trạng về chương trình, nội dung giáo dục pháp luật hiện nay trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở nước ta. - Thử định chuẩn chương trình giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện và thực hiện chương trình chuẩn giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở nước ta hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu về chương trình giáo dục nói chung, chương trình giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật nói riêng, góp phần định hướng hoàn thiện chương trình chuẩn giáo dục pháp luật trong các trường đại học và cao đẳng ở nước ta. 5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan niệm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc đề cao vai trò của pháp luật trong xây dựng Nhà nước pháp quyền; đề cao nhân tố con người, đào tạo con người phát triển toàn diện phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Luận văn kết hợp các phương pháp nghiên cứu biện chứng duy vật, lịch sử, phân tích so sánh, tổng hợp với phương pháp điều tra xã hội học pháp luật, phương pháp thí điểm và phương pháp phân tích tổng hợp để chọn lọc, kế thừa và phát huy những kinh nghiệm cũ và mới trong và ngoài nước. 6. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần nghiên cứu cơ sở lý luận hoàn thiện chương trình chuẩn giáo dục pháp luật trong các trường đại học, cao đẳng. Trên cơ sở khái quát phân tích thực trạng về chương trình giáo dục pháp luật trong một số trường cao đẳng kỹ thuật, nhất là Trường Cao đẳng Công nghiệp Hà Nội, phát hiện và phân tích những điểm chưa hợp lý hiện nay và đề xuất những biện pháp,
  5. phương hướng có thể vận dụng để tiến tới hoàn thiện chương trình tương đối chuẩn về giáo dục pháp luật trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có 3 chương, 9 tiết.
  6. Ch­¬ng 1 CƠ Sở Lý LUậN HOàN THIệN CHƯƠNG TRìNH GIáO DụC PHáP LUậT TRONG CáC TRƯờNG CAO ĐẳNG Kỹ THUậT ở VIệT NAM 1.1 GIáO DụC PHáP LUậT TRONG CáC TRƯờNG CAO ĐẳNG Kỹ THUậT ở NƯớC TA Giáo dục pháp luật là một chương trình giảng dạy và học tập chính khoá trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở nước ta hiện nay. Giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng vừa là hoạt động thực tiễn vừa là một vấn đề khoa học. Do đó, khi bàn về hoàn thiện chương trình giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở nước ta, trước hết phải đề cập cơ sở lý luận của giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật. Trên cơ sở đó, đối chiếu với thực tiễn giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng để rút ra những nét đặc thù của giáo dục pháp luật trong phạm vi nghiên cứu đề tài luận văn. 1.1.1 Giáo dục cao đẳng kỹ thuật trong hệ thống giáo dục quốc dân Nếu không xác định được giáo dục cao đẳng kỹ thuật nằm ở đâu trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta thì không thể xác định được chương trình giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở nước ta nên như thế nào. Vì giáo dục pháp luật được thực hiện đối với toàn dân, ở nhiều cấp độ, với rất nhiều đối tượng hết sức khác nhau, có mục đích và yêu cầu khác nhau. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, trên thực tế, giáo dục pháp luật được thực hiện cả ở cấp giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Vậy giáo dục pháp luật ở các trường cao đẳng phải khác so với giáo dục pháp luật, chẳng hạn ở các trường phổ thông, giáo dục và phổ biến pháp luật cho nông dân trong hợp tác xã, giáo dục ý thức pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người…
  7.  Vị trí và đặc điểm của giáo dục cao đẳng kỹ thuật trong hệ thống giáo dục quốc dân Ngày 2-5-2005, Quốc hội khóa XI, Kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật Giáo dục (sửa đổi). Luật Giáo dục (sửa đổi) sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-2006 (dưới dây xin gọi tắt là Luật Giáo dục). Chương II của Luật Giáo dục qui định cụ thể về hệ thống giáo dục quốc dân nước ta. Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, giáo dục thường xuyên. - Giáo dục mầm non: thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi. - Giáo dục phổ thông: gồm giáo dục tiểu học được thực hiện trong năm năm học, từ lớp một đến lớp năm. Tuổi học sinh vào lớp một là sáu tuổi; giáo dục trung học cơ sở được thực hiện trong bốn năm học, từ lớp sáu đến lớp chín. Học sinh vào lớp sáu phải hoàn thành chương trình tiểu học; giáo dục trung học phổ thông được thực hiện trong ba năm học, từ lớp mười đến lớp mười hai. Học sinh vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có tuổi là mười lăm. - Giáo dục nghề nghiệp: gồm trung cấp chuyên nghiệp được thực hiện từ ba đến bốn năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, từ một đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông; dạy nghề được thực hiện dưới một năm đối với đào tạo nghề trình độ sơ cấp, từ một đến ba năm đối với đào tạo nghề trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng. - Giáo dục thường xuyên: giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống xã hội. - Giáo dục đại học: đào tạo bốn trình độ, bao gồm đào tạo trình độ cao đẳng, đào tạo trình độ đại học, đào tạo trình độ thạc sĩ và đào tạo trình độ tiến sĩ. Xét theo hệ thống giáo dục quốc dân, chúng ta thấy một số đặc điểm sau đây về vị trí của giáo dục cao đẳng:
  8. Thứ nhất, giáo dục cao đẳng thuộc phạm trù giáo dục đại học. Giáo dục đại học từ trước tới nay là một ước mơ cháy bỏng của người Việt Nam. Trở thành sinh viên đại học luôn luôn có trong tiềm thức của người Việt Nam chúng ta, thậm chí có thể nói trở thành một nét văn hoá trong đời sống tinh thần của người Việt. Sự khác biệt cơ bản của giáo dục đại học ở nước ta cũng như ở hầu hết các nước khác trên thế giới so với các bậc khác là ở chỗ: giáo dục đại học có tỷ trọng cao của việc giảng dạy và học tập các nội dung cơ bản và cơ sở lý thuyết các môn khoa học (cả khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ ), đồng thời rèn luyện kỹ năng chuyên môn ở trình độ cao, kết hợp với tính định hướng việc làm của giáo dục dạy nghề (chẳng hạn đại học y khoa, các ngành khoa học chế tạo…). Giáo dục đại học là giáo dục khoa học, hay giảng dạy khoa học. Thứ hai, Giáo dục đại học có sự phân tầng trình độ đào tạo rất rõ ràng. Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tuỳ theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành. Thứ ba, có thể nói rằng giáo dục cao đẳng là giáo dục đại học không hoàn chỉnh. Tại sao lại như vậy? Vì như đã nói ở trên, Luật Giáo dục qui định rằng cao đẳng là một trình độ đào tạo thuộc hệ thống đại học. Hơn nữa, trong thực tiễn, giáo dục đại học ở nước ta từ trước tới nay chỉ có một loại hình trường đại học, đó là trường đại học truyền thống, trong đó có nhiều trường đại học được nâng cấp từ trường cao đẳng. Điều này cũng có thể thấy được rất rõ trên thế giới. ở nhiều nước, giáo dục đại học đều có thể cấp cho người học một hoặc hai học vị. Nếu đại học nào cấp cho người học một học vị thì học vị đó là cử nhân (trước học vị tiến sĩ). ở nhiều nước, giáo dục đại học cấp cho người học hai học vị thì gồm có học vị cử nhân và thạc sĩ (trước học vị tiến sĩ). ở một số nước khác có cấp bằng cao đẳng dành cho giai đoạn một (hai năm ) của đại học. ở Mỹ, trong hệ thống các trường đại học có các trường công lập (State University), trường đại học tư thục (Private University) và trường
  9. đại học cộng đồng (Community College). Các trường đại học cộng đồng (còn gọi là trường học hai năm) cung cấp các chương trình đào tạo để cho người học nhận học vị cao đẳng và có thể chuyển thẳng vào năm học thứ ba của các trường đại học 4 năm. Nước Mỹ có tới 2.657 cơ sở đào tạo cấp học vị cao đẳng và 2.819 cơ sở đào tạo cấp học vị cử nhân hoặc học vị cao hơn. Giáo dục đại học ở Mỹ được gọi là giáo dục bậc cao (Higher education). Các trường đại học ở Mỹ được phân thành 7 loại (category): - University nghiên cứu. - University cấp học vị tiến sĩ. - University và college cấp học vị thạc sĩ. - College cấp học vị cử nhân. - Các School hoặc Institute chuyên nghiệp. - Các Schoole kỹ thuật và dạy nghề sau trung học Tóm lại, trong khuôn khổ giáo dục đại học của nhiều nước trên thế giới, cấu thành của chương trình giáo dục đại học mang tính nhiều giai đoạn - cao đẳng -cử nhân - thạc sĩ... Còn hiện nay, nhiều trường chuyên ngành có các chương trình đào tạo cấp học vị chuyển đổi thuộc một nhóm các lĩnh vực đào tạo có quan hệ mật thiết với nhau. Đề cập nội dung trên đây có ý nghĩa quan trọng đối với việc bàn về chương trình giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở nước ta.  Mục tiêu của giáo dục cao đẳng và đại học. Nếu không xác định được mục tiêu của giáo dục đại học nói chung ở nước ta, mục tiêu riêng của giáo dục cao đẳng thì không thể định hướng được nội dung giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở nước ta là gì, chương trình giáo dục pháp luật phải như thế nào, giáo dục pháp luật để làm gì. Mục tiêu cơ bản của giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng đã được định rõ trong nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII và lần thứ sáu khoá IX là: “nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha
  10. gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật; có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ”. Mục đích cao nhất của giáo dục là “đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam ”. Muốn vậy, trước hết phải giáo dục các em sinh viên trở thành những người có lòng yêu nước nồng nàn, “thành những người xứng đáng với nước độc lập, tự do” [39, Tr. 32] tức là giáo dục các em thành những người có nhân cách, có tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp nước ta ghi nhận: “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi d ưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. [19]. - “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. [30, tr. 8]. Mục tiêu nói trên của giáo dục bắt nguồn từ đường lối nhất quán của Đảng ta. Trong cương lĩnh của Đảng Cộng Sản Việt Nam và trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, Đảng ta đã vạch rõ giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Giờ đây, Đảng ta khẳng định một tư duy mới là coi giáo dục, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, quyết tâm đưa sự nghiệp giáo dục,
  11. khoa học và công nghệ phát triển lên tầm cao mới để xây dựng đất nước Việt Nam phồn vinh và hạnh phúc. Trước những thách thức mới của thời đại, đặc biệt là những thách thức do thời đại công nghệ đặt ra, trước những đòi hỏi của việc chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, năng động và hiệu quả hơn, nền giáo dục quốc dân của nước ta nói chung và giáo dục đại học nói riêng đòi hỏi phải có những chuyển biến chiến lược, cơ bản và toàn diện để thật sự cùng với khoa học và công nghệ trở thành quốc sách hàng đầu. Giáo dục đại học nói chung, đào tạo trình độ cao đẳng nói riêng trong hệ thống giáo dục đại học có vai trò cực kỳ quan trọng là đào tạo ra những con người phát triển toàn diện, nhiều người lao động có tri thức, có trí tuệ, có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ, có đủ sức mạnh để cạnh tranh trong quá trình phân công lao động quốc gia và quốc tế. Phát triển giáo dục đại học là biện pháp tốt nhất để phát huy và làm trường tồn những giá trị văn hóa của nhân loại. Một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của giáo dục nói chung, giáo dục cao đẳng và đại học nói riêng là giáo dục nhân cách, phát huy và phát triển hệ thống giá trị của dân tộc; nâng cao dân trí làm cơ sở đào tạo nhân lực và là nguồn gốc để đào tạo bồi dưỡng nhân tài trên nền tảng nhân cách tốt đẹp. Vì giáo dục cao đẳng hay đào tạo trình độ cao đẳng nằm trong phạm trù giáo dục đại học, cho nên mục tiêu của giáo dục cao đẳng phải đáp ứng mục tiêu của giáo dục đại học nói chung. Mục tiêu chung của giáo dục đại học được qui định trong Luật Giáo dục năm 2005 là “đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ”. Nhiệm vụ của đào tạo đại học giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và có kỹ năng thực hành thành thạo, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.
  12. Còn đối với hệ cao đẳng, mục đích đào tạo là giúp sinh viên có kiến thức chuyên môn và kỹ thuật thực hành cơ bản để giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào tạo [20]. Yêu cầu đào tạo trình độ cao đẳng là phải bảo đảm cho sinh viên có những kiến thức khoa học cơ bản và kiến thức chuyên môn cần thiết, chú trọng rèn luyện kỹ năng cơ bản và năng lực thực hiện công tác chuyên môn. Vậy giáo dục đại học nói chung, giáo dục cao đẳng nói riêng, có hai mặt cơ bản thể hiện thực chất của chương trình giáo dục: - Một là giáo dục cho sinh viên các trường cao đẳng có được những kiến thức khoa học cơ bản tức là giáo dục khoa học (giáo dục tri thức khoa học cơ bản). - Hai là đào tạo kiến thức chuyên môn, kỹ năng và năng lực thực hiện công tác chuyên môn. Hai mặt này gắn liền mật thiết với nhau làm tiền đề, làm điểm tựa để tiếp cận vấn đề giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật. Vì vậy giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật nên được đặt ra có mức độ và có giới hạn nhất định trong khuôn khổ đào tạo cao đẳng và đại học.  Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục cao đẳng và đại học Hiện nay, nền giáo dục đại học ở nước ta bắt đầu bước vào giai đoạn đổi mới cơ bản và toàn diện. Giai đoạn này dự kiến sẽ được thực hiện từ năm 2006 đến năm 2020. Đây là một chủ chương lớn, chắc chắn sẽ tạo ra một bước ngoặt trong đổi mới chương trình giáo dục cao đẳng và đại học ở nước ta. Chính bối cảnh này đặt ra trước đề tài luận văn một thách thức to lớn là vậy trong bối cảnh mới, chương trình giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở nước ta phải được đặt ra như thế nào? Vì vậy, quán triệt tinh thần đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học trong giai đoạn tới là điều nhất thiết phải được lĩnh hội. Một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học ở nước ta là gắn kết chặt chẽ đổi mới giáo dục với nhu cầu tào đạo nhân lực trình độ cao phục vụ chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, đáp
  13. ứng những đòi hỏi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phù hợp với xu thế phát triển của khoa và công nghệ. Những mục tiêu chung chủ yếu của đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học (trong đó bao hàm đào tạo cao đẳng) là: - Đến năm 2020, giáo dục đại học phải chuyển biến cơ bản về chất lượng và qui mô. - Giáo dục đại học phải có năng lực cạnh tranh cao, thích ứng và hoạt động hiệu quả trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Đạt được trình độ giáo dục đại học tiên tiến trong khu vực. - Đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Những mục tiêu cụ thể của đổi mới giáo dục đại học trong thời gian tới cần phải đạt được là: - Hoàn chỉnh mạng lưới cơ sở giáo dục đại học trên phạm vi toàn quốc. - Có sự phân tầng rõ rệt về chức năng, bảo đảm sự hợp lý cơ cấu trình độ đào tạo, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền, đồng thời phù hợp với qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội của cả nước. - Phát triển các chương trình đào tạo theo hai hướng: nghiên cứu phát triển và nghề nghiệp ứng dụng. - Bảo đảm sự liên thông của các chương trình đào tạo từ trình độ thấp lên trình độ cao hơn. - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học. - Đạt được sự công nhận văn bằng tương đương với văn bằng của các nước trong khu vực và trên thế giới. - Xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế. Theo hướng đó, giáo dục đại học sẽ đổi mới cơ cấu trình độ đào tạo liên quan tới đào tạo trình độ cao đẳng. Các trường cao đẳng kỹ thuật, bản thân nó thiên về hướng đào tạo nghề nghiệp ứng dụng chắc chắn sẽ được ưu tiên mở rộng qui mô,
  14. đổi mới cơ cấu đào tạo theo mô hình đào tạo đại học đa giai đoạn, có qui định thêm các văn bằng, chứng chỉ trung gian. Đồng thời với việc đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, Chính phủ đã khẳng định rõ chủ trương chuyển các cơ sở giáo dục đại học bán công và một số cơ sở giáo dục đại học công lập sang hoạt động theo cơ chế tư thục, phát triển các trường cao đẳng cộng đồng và xây dựng qui chế chuyển tiếp đào tạo với các trường đại học để có thể mở rộng qui mô của loại hình này. Nhà nước cũng sẽ khuyến khích mở cơ sở giáo dục đại học trong các tập đoàn, các doanh nghiệp lớn. Mặt khác, sẽ xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ, tạo điều kiện thuận lợi cho người học tích luỹ kiến thức, dễ dàng chuyển đổi tín chỉ hoặc đào tạo liên thông với các cấp học tiếp theo. Do vậy, nội dung đào tạo đại học và khung chương trình đào tạo đại học, trong đó có đào tạo trình độ cao đẳng sẽ phải cơ cấu lại theo các cấp học cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp. Giáo dục đại học còn sẽ được triển khai việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài, trước mắt là bằng tiếng Anh; nâng cao chất lượng các chương trình đào tạo và nghiên cứu có sức thu hút người nước ngoài và tiếp thu có chọn lọc các chương trình đào tạo tiên tiến trên thế giới; đạt được thoả thuận về tương đương chương trình đào tạo với các cơ sở giáo dục quốc tế. Những mục tiêu nói trên tất nhiên phải được quán triệt trong chương trình đào tạo cao đẳng kỹ thuật, trong đó có chương trình giáo dục pháp luật ở các trường này. Trong bối cảnh đó, với tinh thần và nội dung của những mục tiêu như đã nêu trên, Luật Giáo dục ghi nhận: đào tạo trình độ cao đẳng giúp cho sinh viên có kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành cơ bản để giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành đào tạo và đào tạo những người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, ý thức phục vụ nhân dân có kiến thức và năng lực thực hành
  15. nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, cần phải nói thêm về giáo dục là gì? ở nước ta, các hoạt động giáo dục được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý cơ bản như thế nào? Có nhiều cách phân tích khác nhau trong nhân thức về giáo dục. Trong luận văn này, trên cơ sở tập hợp và phân tích nhiều ý kiến khác nhau về giáo dục, khái niệm giáo dục được hiểu như sau: - Giáo dục là hoạt động có mục đích, có chương trình, tác động vào con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ tri thức khoa học chuyên môn và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp và lối sống, chuẩn bị cho đối tượng của giáo dục tham gia lao động, đi vào đời sống xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Giáo dục là hoạt động tất yếu của phát triển xã hội loài người, là một bộ phận cơ bản của quá trình tái sản xuất mở rộng lao động xã hội. Theo khái niệm rộng, giáo dục bao gồm cả đào tạo, cung cấp các nguồn nhân lực cần thiết cho từng lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội. ủy ban quốc tế và giáo dục thế kỷ xã hội đã đưa ra triết lý giáo dục về xây dựng xã hội học tập, trong đó nền giáo dục của thời đại ngày nay phải dựa trên bốn yêu cầu về học tập là học để biết, học để làm việc, học để xây dựng nhân cách và học để chung sống với đồng loại. Do vậy, chủ trương của Đảng và Nhà nước là đa dạng hóa các loại hình đào tạo đáp ứng không chỉ cho nhu cầu nhà nước mà cho toàn xã hội, người đi học phải đóng học phí, bãi bỏ chế độ phân phối học sinh tốt nghiệp đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp dạy nghề cho phép và mở rộng từng bước các trường ngoài công lập như bán công, dân lập, tư thục các trường liên doanh với các tổ chức quốc tế và các hãng 100% đầu tư vốn từ nước ngoài, đây được coi là một bước chuyển quan trọng của quản lý phát triển giáo dục đào tạo ở Việt Nam. Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của các loại hình trường, cơ sở giáo dục và đào tạo ngoài công lập từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học đã mang một diện mạo mới cho sự phát triển và giáo dục Việt nam không chỉ ở khía cạnh đa dạng loại hình, huy
  16. động thêm nguồn lực xã hội cho sự phát triển giáo dục, mà còn tạo tiền đề để thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh cho giáo dục, từng bước hình thành nền giáo dục và đào tạo có định hướng tiên tiên và hiện đại trong phát triển nguồn nhân lực. Việc thực hiện chúng phải nhằm hoan thành các mục tiêu quốc gia cũng như mục tiêu của từng địa phương. Điều này đến nay vẫn đang trong quá trình phân cấp theo ngành dọc và phân cấp theo chiều ngang nhằm tiến tới một sự phân định ranh giới rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm, ý thức chung về thực hiện tốt các mục tiêu quốc gia. Để có thể thực hiện thành công các chương trình giáo dục và đào tạo, Bộ giáo dục và Đào tạo có những bộ phận cấu thành liên kết chặt chẽ: xây dựng chương trình học, đào tạo giáo viên, quy chế thi tuyển, mạng lưới thông tin theo ngành dọc, kế hoạch hóa và tiếp nhận các thông tin phản hồi. Về nguyên lý giáo dục, nền giáo dục nước ta là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Nền giáo dục nước ta được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Đường lối ấy được thể chế hóa thành luật như Luật Giáo dục đã ghi “Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại. Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng”. 1.1.2 Giáo dục pháp luật trong trường cao đẳng kỹ thuật Giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng rõ ràng là một môn học thuộc phần giáo dục đại cương. Thực chất của giáo dục pháp luật là giảng dạy chính khoá về pháp luật cho sinh viên cao đẳng. Vậy nên quan niệm và giới giới hạn chương trình giáo dục pháp luật trong trường cao đẳng kỹ thuật như thế nào? nên có một chương trình giảng dạy qui mô như thế nào với tính cách là giáo dục hay giảng dạy pháp luật?. Yêu cầu này có phải là yêu cầu đích thực hay không, hay chỉ là mầu mè? còn thực tiễn thì quan
  17. niệm giống như giáo dục luân lý chung chung, trừu tượng? có cũng được, mà không có cũng được? Dĩ nhiên nếu không thực hiện chương trình giáo dục pháp luật trong trường cao đẳng, chúng ta vẫn đào tạo được những nhà chuyên môn, kỹ thuật giỏi. Vậy thì ý nghĩa của giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật là ở đâu?  Giáo dục pháp luật là giáo dục cái gì? Giáo dục pháp luật là giáo dục cái gì? câu hỏi tưởng như rất khôi hài. Nhưng rất ít khi chúng ta xác định được giáo dục pháp luật trong trường cao đẳng là giáo dục cái gì? - Là giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật? - Là giáo dục ý thức công dân? - Là tuyên truyền và phổ biến rộng rãi pháp luật? - Là giáo dục đạo đức hay là giáo dục chính trị? Trong sách báo và trong thực tiễn hiện nay đang tồn tại một số quan niệm khác nhau về giáo dục pháp luật. Thứ nhất, có người cho rằng giáo dục pháp luật là một bộ phận của giáo dục chính trị, tư tưởng và giáo dục đạo đức. Điều đó có nghĩa là nếu tiến hành giáo dục chính trị, tư tưởng hay đạo đức tốt thì trên thực tế có thể đạt được sự tôn trọng pháp luật ở người lao động. Hay nói cách khác, sự hình thành ý thức pháp luật ở quần chúng lao động được xem như là “sản phẩm phụ” của quá trình giáo dục chính tri, giáo dục đạo đức. Quan niệm như vậy là coi nhẹ giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật, không được đúng vai trò, vị trí của nó trong toàn bộ quá trình đào tạo cao đẳng, nhất là trong bối cảnh đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học. Thứ hai, một quan niệm khác coi giáo dục pháp luật là việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật bằng các hình thức và phương thức khác nhau để mọi người chấp hành, làm theo pháp luật. Thứ ba, lại có một quan niệm khác là chỉ nhấn mạnh và xem những yếu tố khách quan như điều kiện kinh tế - xã hội, thể chế chính trị và pháp luật nhà nước,
  18. môi trường giáo dục... là nhân tố quyết định vấn đề giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho công dân, do đó thường coi nhẹ giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng. Thứ tư, một số người lại có quan niệm rằng điều kiện kinh tế thấp kém, kỷ cương pháp luật bị buông lỏng, đạo đức và lối sống trong xã hội xuống cấp như hiện nay thì giáo dục pháp luật không thể đạt được mục đích mong muốn. Những quan niệm phiến diện trên đây có tác động không nhỏ đến việc triển khai và nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật. Khi nghiên cứu khái niệm giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật, về mặt phương pháp luận, trước hết phải xuất phát từ khái niệm chung về giáo dục đại học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục cao đẳng kỹ thuật cần được xét trên cả hai phương diện: - Giáo dục đại học theo nghĩa bậc học. - Giáo dục cao đẳng theo nghĩa một trình độ đào tạo của bậc đại học . Mặt khác, giáo dục pháp luật cần dựa trên cơ sở lý luận về giáo dục hiểu theo nghĩa rộng - tức là quá trình tác động của tất cả những điều kiện khách quan và chủ quan (chế độ kinh tế - xã hội, thể chế chính trị - pháp luật, trình độ dân trí nói chung, môi trường sống...) đến ý thức và đời sống tinh thần của con người. Xuất phát từ khái niệm chung về giáo dục, chúng ta thấy giáo dục pháp luật là hình thức giáo dục cụ thể, là “cái riêng, cái đặc thù” trong mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục nói chung. Giáo dục pháp luật với tư cách một bộ phận của giáo dục, vừa mang những nét chung của quá trình giáo dục, sử dụng các hình thức và phương pháp của quá trình giáo dục nói chung, vừa có những nét đặc thù. ở cấp đào tạo đại học, cao đẳng như đã nói ở trên, giáo dục pháp luật thuộc phần giáo dục đại cương, vì thế trước hết, như một môn học chính khoá, nó phải được giảng dạy nội dung cơ bản và cơ sở lý thuyết về pháp luật, nhằm hình thành tri thức ở trình độ cao đẳng về pháp luật, hình thành tình cảm, lòng tin đối với pháp luật (mục đích cảm xúc) và xây dựng thói quen thực hiện hành vi hợp pháp (mục đích hành vi).
  19. Giáo dục pháp luật có nội dung riêng, đó là sự tác động có định hướng cơ bản là chuyền tải tri thức lý luận và thực tiễn về hai hiện tượng nhà nước và pháp luật. Giáo dục pháp luật với ý nghĩa là một một dạng giáo dục đặc thù, một môn học có vị trí độc lập tương đối, được hiểu là hoạt động cung cấp tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm, thái độ đúng đắn đối với pháp luật một cách có định hướng, có tổ chức, có chủ định nhằm mục tiêu chung là tác động tới việc hình thành tri thức pháp luật, cảm xúc và lòng tin vào pháp luật, làm cơ sở cho hành vi và lối sống theo pháp luật của mọi công dân.  Mục đích của giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật Giáo dục pháp luật trong trường cao đẳng kỹ thuật được thực hiện thông qua việc tổ chức hoạt động giảng dạy và học tập về luật học, trong đó giảng viên giảng giải cặn kẽ, có mục đích, có hệ thống nội dung cơ bản và cơ sở lý thuyết về luật pháp và thực tiễn của đời sống pháp luật, cung cấp cho sinh viên những kiến thức khoa học cơ bản về pháp luật, nhằm làm cho sinh viên có hiểu biết nhất định một số vấn đề lý luận cơ bản nhất về nhà nước và pháp luật hình thành tri thức pháp luật, ý thức trách nhiệm, văn hóa pháp luật, làm cơ sở cho hành vi xử sự phù hợp với quy định pháp luật, góp phần đào tạo lên độ ngũ kỹ sư kỹ thuật trong tương lai. Xác định mục đích giáo dục pháp luật cho sinh viên là một vấn đề quan trọng hàng đầu đối với việc xây dựng chương trình nội dung giáo dục pháp luật và toàn bộ công tác tổ chức thực hiện. Thực tiễn trong thời gian vừa qua cho thấy việc xác định mục đích giáo dục pháp luật cho sinh viên chưa được cụ thể và thống nhất, tính định hướng chưa rõ ràng và phần nhiều bị động. Có thể thấy rõ điều đó trong việc xây dựng chương trình, xác định các hình thức giáo dục pháp luật, trong việc tạo lập các điều kiện vật chất bảo đảm cho công tác giáo dục pháp luật đạt kết quả. Vấn đề then chốt nhất trong việc xác định mục đích của giáo dục pháp luật cho sinh viên là phải căn cứ vào mục đích và yêu cầu của đào tạo cao đẳng, xuất phát từ hiện thực khách quan, phù hợp với đối tượng sinh viên tránh khuynh hướng áp đặt chủ quan, những căn cứ đó có thể là: - Phải xuất phát từ nhu cầu giáo dục và đào tạo toàn diện cho sinh viên.
  20. - Phải xuất phát từ thực trạng tình hình hiểu biết pháp luật và ý thức tôn trọng pháp luật của sinh viên hiện nay rất thấp, tri thức pháp luật của họ hầu nh ư không đáng kể. - Phải xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi. Việc xác định mục đích của giáo dục pháp luật sẽ quy định việc xác định hình thức, phương tiện, phương pháp và nội dung của giáo dục, đồng thời còn giúp cho việc xác định hiệu quả của quá trình giáo dục. Không dựa vào mục đích của giáo dục pháp luật, chẳng những không thể đánh giá mà còn không thể tiến hành tìm kiếm các chỉ số xác định hiệu quả của giáo dục pháp luật. Với ý nghĩa như vậy, mục đích của giáo dục pháp luật được xác định như trên là phù hợp, đáp ứng được các nhu cầu của xã hội ta, phù hợp với thực tiễn để có khả năng trở thành hiện thực và giúp ích cho việc đánh giá, nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật ở nước ta trong từng thời kỳ. Mục đích của việc giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng là hình thành ở sinh viên ý thức pháp luật, làm cơ sở cho sự hình thành hành vi và thói quen hành vi phù hợp với các chuẩn mực pháp luật. Hình thành ở sinh viên tình cảm và thái độ đúng đắn đối với pháp luật, lòng tin vào pháp luật. Có tri thức về pháp luật chưa có nghĩa là đã có tình cảm đúng đắn và lòng tin vào pháp luật. Đó mới chỉ là cơ sở nhận thức tạo niềm tin bên trong ở mỗi sinh viên. Do vậy, việc biến nhận thức thành niềm tin, động cơ bên trong cho sinh viên là yêu cầu quan trọng. Thiếu tự tin, thiếu tình cảm sẽ không tạo ra được các hành vi hợp pháp và khả năng chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh. Trong hệ thống các mục đích của giáo dục pháp luật thì mục đích hình thành hành vi hợp pháp cho sinh viên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, suy cho đến cùng kết quả của giáo dục pháp luật được biểu hiện ở ứng xử theo pháp luật của mọi sinh viên. Đây chính là cái đích cần đạt được của giáo dục pháp luật. Giáo dục các hành vi hợp pháp là giáo dục để hình thành ở sinh viên thói quen tuân theo pháp luật. Thói quen phần lớn là kết quả của niềm tin bên trong và sự tự ý thức sâu sắc
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2