intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN:Kế hoạch hoá nói chung ở việt nam – giảI pháp và kiến nghị.Lời

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:64

67
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

LUẬN VĂN: Kế hoạch hoá nói chung ở việt nam – giảI pháp và kiến nghị .Lời nói đầu Chúng ta đều biết hoạt động của con người, của tập thể hay của một xã hội đều là những hoạt động có ý thức, có tổ chức thể hiên ý đồ chủ quan của con người, của chủ thể hoạt động. Trong quá trình phát triển của mình, xã hội loài người không ngừng nghiên cứu, tìm tòi ra những công cụ, cách thức, phương pháp hành động, nhằm hỗ trợ cho các hoạt động của mình đạt được các mong muốn chủ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN:Kế hoạch hoá nói chung ở việt nam – giảI pháp và kiến nghị.Lời

  1. LUẬN VĂN: Kế hoạch hoá nói chung ở việt nam – giảI pháp và kiến nghị
  2. Lời nói đầu Chúng ta đều biết hoạt động của con người, của tập thể hay của một xã hội đều là nh ững hoạt động có ý thức, có tổ chức thể hiên ý đồ chủ quan của con người, của chủ thể hoạt động. Trong quá trình phát triển của mình, xã hội loài người không ngừng nghiên cứu, tìm tòi ra những công cụ, cách thức, phương pháp hành động, nhằm hỗ trợ cho các hoạt đ ộng của mình đạt được các mong muốn chủ quan một cách tốt nhất, hiệu quả nhất. Kế hoạch hoá là một trong những công cụ như vậy mà con người đã tìm ra. Cùng với sự phát triển liên tục của xã hội loài người, trong các vận động tuyệt đối của thực tế khách quan, kế hoạch hoá cũng không ngừng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển,Kế hoạch hoá, đặt trong bối cảnh của Việt Nam ta hiện nay, khi mà chúng ta đã - đang –tiếp tục thực hiện đổi mới một cách sâu sắc và toàn d iện thì việc đổi mới kế hoạch hoá đặt ra như một nhiệm vụ cấp bách nhất. Đổi mới kế hoạch hoá để đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển, để bắt kịp, thúc đẩy, rút ngắn thời gian phát triển, thực hiện đi tắt đón đầu.Cùng với các xu thể phát triển trong khu vực và trên thế giới như xu thế hội nhập, khu vự hoá, toàn cầu hoá.Thì kế hoạch hoá lại càng cần được đổi mới h ơn bao giờ hết.Nhưng do điều kiện, trong bài viết này chỉ xin được đề cập tới kế hoạch hoá và việc đổi mới nội dung của kế hoạch hoá ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và xin đư ợc nêu ra một số ý kiến đ óng góp cho nhiệm vụ đổi mới kế hoạch hoá nói chung và đôỉ mới nội dung kế hoạch hoá nói riêng.
  3. Phần 1 Lý luận chung về kế hoạch hoá I. một số khái luận chung 1. khái luận chung về kế hoạch Kế hoạch là việc nghiên cứu thực tại khách quan, tìm ra các quy luật khách quan, vận dụng chúng vào việc xác đ ịnh, các mục tiêu mong muốn, Xác định các phương án, cách thức trình tự tiến hành, các bước đi. Nhằm đạt được mục tiêu đã định. Vai trò của kế hoạch là ngiên cứu, dự báo, dự đoán, xây dựng các mục tiêu cũng như các cách thức để đạt mục tiêu và hướng dẫn thực hiện,… có thể nói kế hoạch ra đời từ khi xã hội loài người xuất hiện, tuỳ theo mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử mà kế hoạch được thể hiện ở các hình thức, các nội dung và đi vào giải quyết các mục đích khác nhau. Các kế hoạch đầu tiên của con người là được sử dụng vào giải quyết các vấn đề của chiến tranh, mãi cho tới đầu của thế kỷ 20 lần đầu tiên trong lịch sử loài người các nhà lãnh đạo Liên Xô cũ đem kế hoạch vào giải quyết các vấn đề của kinh tế(1928), và cho tới ngày nay thì kế hoạch được sử dụng làm công cụ giải quyết mọi vấn đề của đời sống xã hội,… 2. khái niệm về kế hoạch hoá kế hoạch hoá là một quá trình, phương thưc quản lý, sự nhận thức các quy luật khách quan của chủ thể quản lý và vận dụng chúng vào việc sử dụng các nguồn lực, phương tiện nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Nó thể hiện ý đồ phát triển chủ quan của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý và ph ương thức tác động để đạt được các mục tiêu
  4. đề ra. Kế hoạch hoá là quá trình gồm nhiều khâu, từ chiến lược phát triển , quy hoạch phát triển tới các chính sách,.. 3. khái luận về Kế hoạch hoá phát triển kinh tế – xã hội a. khái niệm Theo Michael P. Todaro: Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô là một loại hình hoạt động của chính phủ nhằm phối hợp việc ra những squyết đ ịnh tương đối dài hạn về kinh tế và nhằm tác động trực tiếp đối với mức tuyệt đối và mức độ tăng trưởng của những biến số kinh tế chủ yếu, kế hoạch hoá là cơ chế mà nhà nước sử dụng để kiểm soát toàn bộ nền kinh tế…( Michael P. Todaro: Economic Development in the third world, New york, 1989, trang 504 ) Theo cao viết sinh: Kế hoạch hoá phát triển là sự thiết lập mối quan hệ giữa khả năng và mục đ ích nhằm đạt được mục tiêu bằng việc sử dụng có hiệu quả nhất tiềm năng hiện có. Kế hoạch hoá phát triển có đặc thù thể hiện sự cố gắng lựa chọn và xắp xếp, huy động các nguồn khả năng, đưa ra đ ịnh hướng sử dụng thông qua cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất nước. (Cao Viết Sinh: cán bộ thuộc bộ kế hoạch và đầu tư . xem Cao Viết Sinh: Một số suy nghĩ về kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân trong cơ chế thị trường, kỷ yếu hội thảo khoa học về kế hoạch hoá , Hà Nội, 1995).Tóm lại Kế hoạch hoá phát triển là phương thức quản lý của nhà nước bằng mục tiêu(là một loại hình hoạt động có tính chất chủ quan của chính phủ). Nó thể hiện ở việc chính phủ xác định các mục tiêu về kinh tế – xã h ội cần phải hướng tới trong một thời kỳ nhất định và các cách thức để đạt được mục tiêu đó thông qua các chính sách, các biện pháp, các định hướng lớn, các giải pháp.
  5. b. Hệ thống Kế hoạch hoá phát triển kinh tế – xã hội. Hệ thống Kế hoạch hoá phát triển kinh tế – xã hội là tổng thể các bộ phận cấu thành Kế hoạch hoá phát triển kinh tế – xã hội, nhằm thực hiện quá trình quản lý nền kinh tế bằng phương tiện (công cụ) kế hoạch. Tuỳ theo cách tiếp cận mà hệ thống Kế hoạch hoá phát triển kinh tế – xã hội có thể được phân chia thành các bộ phận cấu thành khác nhau: Theo nội dung: Kế hoạch hoá phát triển kinh tế – xã hội được chia ra thành các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (gọi là chiến lược phát triển), các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội(quy hoạch phát triển), các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội(kế hoạch phát triển) với kế hoạch còn đ ược chia ra thành các kế hoach 5 năm và các kế hoạch hàng năm(kế hoạch 1 năm), cuối cùng là các chương trình và các dự án phát triển kinh tế xã hội. Theo phạm vi: ở tầm vĩ mô có các Kế hoạch hoá phát triển có tính chất bao trùm toàn bộ nền kinh tế, có tính chất toàn quốc bao gồm chiến lược phát triển quốc gia, các chiến lược phát triển các ngành, chiến lược phát các lĩnh vực khác nhau,…dưới cấp chiến lược có quy hoạch phát triển cấp quốc gia, các quy hoạch phát triển các vùng khác nhau, quy hoạch phát triển ngành,... tiếp theo các quy hoạch là các kế hoạch như kế hoạch 5năm phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch phát triển hàng năm,…. ở tầm vi mô ta có các chiến lược kinh doanh cấp công ty (chiến lược trọng tâm, chiến lược khác biệt hoá,..) và các kế hoạch kinh doanh,… II. công tác kế hoạch, một công đoạn tất yếu của quy trình quản lý
  6. 1.Khái luận chung về quản lý Quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý vào đối tượng quản lý. Về cơ bản ta có quy trình quản lý như sau
  7. Các tác động nhiễu Cơ chế Chủ thể đối tượng quản lý quản lý quản lý Chủ thể quản lý tác động trực tiếp vào đối tượng của quản lý thông qua cơ chế quản lý (được thể hiện trên sơ đồ bằng các đường mũi tên nét liền). Ngược lại đối tượng của quản lý cũng có các thông tin phản hồi lại với chủ thể quản lý( được biểu hiện thông qua các đường mũi tên có nét đ ứt). đứng trên góc độ toàn nền kinh tế thì đối tượng quản lý là các đơn vị kinh tế, các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế, cụ thể là các cá nhân, các tổ chức kinh tế như các công ty, các tập đoàn,.. còn chủ thể của quản lý ở đây là nhà nước. Tác động nhiễu là các tác động nằm ngoài cơ chế quản lý, các tác động nhiễu này do những đ iều kiện khách quan đem lại, đó là các tác động gián tiếp,…
  8. 2. Quy trình quản lý Có thể có các cách xác định quy trình quản lý khác nhau, tuy nhiên ở đây xin được đề cập một các xác định như sơ đồ sau: a. Xác định mục tiêu: để trả lời cho câu hỏi: chúng ta muốn làm gì?, chúng ta có thể làm gì?, chúng ta nên làm gì?. Việc trả lời các câu hỏi này sẽ cho chúng ta thấy được trạng thái mong muốn đạt được trong tương lai, nghĩa là chỉ ra cái đích cần đạt được trong tương lai với các điều kiện cụ thể, sẵn có và có thể sử dụng vào việc đạt được trạng thái mong muốn trong tương lai. Xác đ ịnh mục tiêu là khâu đầu tiên của quá trình quản lý và đây là khâu có tính chất quyết đ ịnh nhất trong quy trình quản lý, vì nó là c ơ sở là căn cứ đ ể xác định các bước tiếp theo của quy trình quản lý. Việc xác đ ịnh mục tiêu sai lệch, không chính xác s ẽ kéo theo cả quy trình quản lý kém hiệu quả, không hiêụ quả, thậm chí còn phản hiệu quả. để xác đ ịnh mục tiêu chủ yếu có hai căn cứ: căn cứ vào ý muốn chủ quan của chủ thể quản lý, cho phép chúng ta trả lời cho câu hỏi chúng ta muốn gì?. c ăn cứ vào điều kiện cụ thể về nguồn lực, về năng lực, trình độ phát triển săn có,.. cho phép chúng ta xác đ ịnh được câu hỏi chúng ta có thể làm gì?. khi xác định mục tiêu thì yêu cầu phải chỉ ra một cách rõ ràng phần định tính và định lượng của mục tiêu, mục tiêu phải có tính chất khả thi nghĩa là việc đạt được mục tiêu (cả về mặt lượng lẫn mặt chất) phải nằm trong khả năng sẵn có và sẽ có của các nguồn lực trong hiện tại… b.tổ chức : tổ chức là việc thực hiện các tác động, các phương thức tác động, xây dựng các chỉ tiêu biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng – thực hiện cách thức phân bổ nguồn lực, các chính sách hoạt đ ộng, xây dựng thực hiện các cam kết giữa nhà nước (chủ thể quản lý) với các đơn vị kinh tế (các doanh nghiệp,…). Mục đích trả lời các câu hỏi: làm như thế nào? làm khi nào?, và ai làm?.
  9. c. kiểm tra: kiểm tra là quá trình theo dõi hoạt động của hệ thống quản lý, theo dõi cả chủ thể quản lý lẫn đối tượng của quản lý. Nhằm thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu, phát hiện các biến động, tìm ra các biến động thuận lợi hoặc bất lợi để có thể kịp thời điều chỉnh. d. điều chỉnh : thông qua công tác kiểm tra, giám sát chủ thể quản lý ra quyết định có hay không việc điều chỉnh? Và điều chỉnh như thế nào?. trên thực tế để đạt được mục tiêu thì người ta có thể thực hiện hai hướng điều chỉnh sau: điều chỉnh tích cực là việc kiểm tra lại khâu tổ chức, xem xét và ra quyết đ ịnh đ iều chỉnh ở khâu này; điều chỉnh tiêu cực là việc điều chỉnh mục tiêu. thông thường người ta e. hạch toán: là việc đánh giá kết quả của quá trình quản lý một cách toàn diện nghĩa là đánh giá kết quả bằng hiệu quả kinh tế – xã hội. Kết luận: Hoạt động kế hoạch là hoạt đ ộng có mặt ở trong các khâu của quá trình quản lý, đặc biệt là ở khâu xác định mục tiêu và khâu tổ chức. III. nội dung kế hoạch hoá Cùng với quá trình phát triển của kinh tế – xã hội, kế hoạch hoá cũng ngày càng phát triển, ngày càng được đổi mới một cách toàn diện hơn. công tác kế hoạch lần đầu tiên được áp dụng vào phát triển kinh tế ở liên xô (cũ) với kế hoạch 5 năm lần thứ nhất(1928 – 1932). Kể từ đó tới nay công tác kế hoạch đã trải qua rất nhiều lần sửa đổi
  10. cho phù hợp với từng giai đoạn cụ thể, ở từng quốc gia nhất định. Cho tới nay thì công tác kế hoạch không chỉ dừng lại ở các kế hoạch, mà nó đã được phát triển, hoàn thiện thành một hệ thống bao gồm nhiều nội dung gọi là hệ thống kế hoạch hoá và được áp dụng vào việc phát triển một cách toàn diện, các mặt của đời sống kinh tế - x ã hội của một quốc gia. Có nhiều cách để chia nội dung của kế hoạch hoá khác nhau. Tuy nhiên ở đây xin được trình bày nội dung của kế hoạch hoá theo cách của nhà kế hoạch người mỹ Killick, theo ông thì nội dung của kế hoạch hoá bao gồm: 1. Xây dựng các mục tiêu chiến lược Căn cứ vào đường lối phát triển của đất nươc đã được vạch ra, căn cứ vào quan điểm, mục tiêu chính trị các nhà kế hoach sẽ xây dựng các mục tiêu phát triển tầm chiến lược, các mục tiêu tổng quát, mục tiêu mang tính toàn cục như các mục tiêu về phát triển kinh tế, về phát triển an ninh quốc phòng, về văn hoá giáo dục,…trong đó đặc biệt nhấn mạnh vào các mục tiêu về phát triển kinh tế – xã hội trong tương lai của một đất nước, tương ứng với hệ thống các mục tiêu là hệ thống các chỉ tiêu. Việc xây dựng các mục tiêu này có thể do các nhà lãnh đạo, các nhà chính trị đặt ra yêu cầu, cũng có thể do các nhà kế hoạch xây dựng sau đó trình cho các nhà lãnh đạo – chính trị xét duyệt. Yêu cầu với các mục tiêu là số lượng mục tiêu phải phù hợp (phải tính đến sự lồng ghép các mục tiêu), đảm bảo tính khoa học, lôgic trong hệ thống các mục tiêu và đưa các mục tiêu ra theo cây mục tiêu.. 2. Xây dựng các chỉ tiêu phát triển cụ thể để thực hiện được các mục tiêu phát triển thì trước hêt phải cụ thể hoá các mục tiêu thông qua các chỉ tiêu phát triển. Nghĩa là các chỉ tiêu là hình thức cụ thể của các mục tiêu. tuỳ theo các tiêu thức khác nhau mà người ta có thể phân chia các chỉ tiêu thành các loại khác nhau.
  11.  Theo tính chất của các chỉ ta có các nhóm chỉ tiêu: nhóm chỉ tiêu mang tính pháp lệnh, là các chỉ tiêu thể hiện sự tác động trực tiếp của nhà nước tới nền kinh tế, thể hiện sự quản lý vĩ mô của nhà nước với nền kinh tế,…; nhóm chỉ tiêu hướng dẫn, thể hiện sự tác động gián tiếp, mang tính chất gợi ý, đ ịnh hướng, tính dự báo. Thông qua chỉ tiêu hướng dẫn các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế tự điều chỉnh các mục tiêu riêng của mình cho phù hợp, cụ thể là thông qua các chỉ tiêu này các đơn vị kinh tế tự đ iều hành, điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh của mình cho đúng hư ớng, đúng quỹ đạo của sự phát triển,..  Dựa vào nội dung của các chỉ tiêu: ta có hai loại chỉ tiêu c ơ bản, chỉ tiêu kinh tế và chỉ tiêu xã hội. Các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng GDP, tỷ lệ c ơ cấu ngành,…; các chỉ tiêu về xã hội như tỷ lệ người biết chữ, tỷ lệ người qua đại học,… Theo toàn b ộ quá trình phát triển thì tỷ lệ các chỉ tiêu kinh tế tăng trong giai đoạn đầu và giảm ở giai đoạn sau, còn tỷ lệ các chỉ tiêu về xã hội thường bị coi nhẹ trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển và tăng dần theo sự phát triển. Hiện nay tỷ lệ của các chỉ tiêu xã hôi sẽ có xu thế tăng dần, ngược lại tỷ lệ của các chỉ tiêu về kinh tế giảm dần theo đúng quan điểm coi con người là động lực và là mục tiêu cuối cùng của sự phát triển. Dựa vào hình thức biểu hiện của các chỉ tiêu thì có các chỉ tiêu hiện vật và các chỉ tiêu về giá trị. Cùng với quá trình đ ổi mới kế hoạch thì tỷ lệ giữa các chỉ tiêu hiện vật với các chỉ tiêu giá trị cũng được thay đổi theo. Xu hướng là giảm dần tới mức tối đa các ch ỉ tiêu hiện vật, mang tính hiện vật và tăng dần các chỉ tiêu giá trị. 3. Xây dựng kế hoạch toàn diện, bao trùm mọi lĩnh vực Để đáp ứng đ ược những đòi h ỏi của sự phát triển, đáp ứng nguyên tắc tính hệ thống trong kế hoạch hoá thì phải có kế hoạch toàn diện, các kế hoạch toàn diện bao chùm toàn bộ nền kinh tế, bao chùm nên mọi mặt của đời sống xã hội. Các kế hoạch này
  12. hợp thành một hệ thống kế hoạch toàn diện, gồm kế hoạch quốc gia, các kế hoạch của từng ngành, từng địa phương, từng lĩnh vực,.. 4. Xây dựng các chương trình dự án phát triển Th ực chất của việc xây dựng và thực hiện các chương trình- dự án là cách thức để triển khai kế hoạch. Để bảo đảm cho việc triển khai kế hoạch đòi hỏi số lượng chương trình của dự án phù hợp, không nên quá nhiều cũng như quá ít, phải tính đến lợi ích và chi phí của việc lồng ghép các chương trình dự án. Tìm ra các khâu yếu có liên quan đến việc quyết định sự phát triển. 5. Xây dựng các chính sách phát triển Để thực hiện các chiến lược , các kế hoạch, các qui hoạch và các chương trình - dự án thì phải tạo ra một khung, môi trường thực hiện, xây dựng các nguyên tắc thực hiện, nghĩa là xây dựng các chính sách, giải pháp và pháp luật. Để bảo đảm cho việc thực hiện thì phải tạo các khung bản nhằm hướng dẫn thực hiện một cách rõ ràng, cụ thể, giản đơn,…bảo đảm tính thống nhất của các chính sách, giải pháp hợp lôgic, không chồng chéo không mâu thuẫn. Thực tế cho thấy trong những năm trước khi đổi mới cụ thể là trước những năm 1990, do chưa có tầm nhìn, chiến lược phát triển cũng như việc qui hoạch không được xây dựng- thực hiện một cách đồng bộ, dẫn đ ến việc chồng chéo trong các mục tiêu phát triển của kế hoạch hoá, dẫn đến đưa ra các chính sách không ăn khớp - hỗ trợ cho nhau, thậm chí còn trái ngược mâu thuẫn nhau. Sự phát triển của các địa phương không ăn nh ịp với nhau dẫn đến nhiều chính sách- giải pháp chồng chéo mâu
  13. thuẫn thậm chí bài trừ lẫn nhau. Vậy đòi hỏi phải bảo đảm tính ổn định tương đối cho các chính sách- giải pháp, bảo đảm tính logic, tính hệ thống, tính phù hợp kịp thời sửa đổi…
  14. Phần II Đổi mới về nội dung của công tác kế hoạch ở Việt Nam A. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở Việt Nam và nội dung của kế hoạch hoá I. Khái luận chung về nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung 1. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung Có lẽ chúng ta đều thấy rằng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung là nền kinh tế trong đó việc giải quyết các vấn đề lớn của một nền kinh tế như sản xuất cái gì? sản xuất cho ai?, sản xuất như thế nào?, và sản xuất ở đâu? đều được Nhà n ước quyết đ ịnh và điều hành trực tiếp bằng kế hoạch pháp lệnh và thông qua kế hoạch pháp lệnh. 2. Đặc điểm của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. a.Về vấn đề sở hữu: tồn tại hai hình thức sở hữu: sở hữu công (sở hữu toàn dân) và sở hữu tập thể, Nhà nước không công nhận bất kỳ một hình thức sở hữu nào khác hai hình thức sở hữu trên. Trong nền kinh tế chỉ tồn tại thành phần kinh tế hợp tác xã và kinh tế quốc doanh. Do nóng vội xây dựng hình thức sản xuất Xã hội chủ nghĩa. Chúng ta
  15. không ngừng thực hiện xây dựng, hình thành, duy trì và củng cố hai hình thức sở hữu trên trong một hời gian tương đối dài… b.Về cơ chế điều hành sản xuất: thực hiện c ơ chế tập trung, việc xây dựng, thực hiện các kế hoạch đều được quyết định một cách trực tiếp từ trên xuống theo kiểu mệnh lệnh. Như vậy trong vấn đề sản xuất cái gi? không được thực hiện thông qua việc thoả thuận giữa người mua và người bán, mà người bán (người sản xuất) trực tiếp quyết định, nghĩa là thực hiện bán cái mình có chứ không bán cái người mua cần. (sự lựa chọn đa dạng của nggười mua không được đáp ứng, không kích thích được nhu cầu tiêu dùng của con người phát triển),… Dẫn đến tồn tại một sức ì lớn trong nền kinh tế. c. Nhà nước không công nhận c ơ chế thị trường (thực hiện phân phối theo tem phiếu, cấp phát…), dẫn đến thị trường không phát triển, thông tin thị trường không chính xác (b ị bóp méo )… 3. một số nhận xét Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chúng ta hiểu sai, hiểu chưa đúng, chưa đầy đủ về chủ nghĩa mac - lênin dẫn đến trong thực hiện chúng ta làm không đúng, thậm chí còn vi phạm các quy luật khách quan, các nguyên lý, nguyên tắc của chủ nghĩa mác. Hậu quả là chúng ta lâm vào khủng hoảng kinh tế trong nhiều năm của thập kỷ 80 (cụ thể là chúng ta đã lâm vào khủng hoảng thiếu). Xin đơn cử một số dẫn chứng, theo chủ nghĩa mác - lênin thì sự vật hiện tượng là thống nhất của các mặt đối lập, vậy nếu ta coi vấn đề sở hữu là sự vật hiện tượng thì nếu tồn tại hình thức sở hữu công thì tất yếu phải tồn tại sở hữu tư với tư cách là một mặt đối lập tạo thành sở hữu. Vấn đề không phải là loại trừ bất kỳ một hình thức sở hữu nào trong hai hình thức trên mà vấn đề chỉ là tỷ lệ giữa chúng là bao nhiêu?.
  16. Trong quá trình đ i lên chủ nghĩa xã hội chúng ta đã xem nhẹ vấn đề “ lợi ích”, đây là vấn đề then chốt, vấn đề của mọi vấn đề. Có tính chất quyết định nhất đối với mọi hoạt động của con người. Có thể nhận thấy rằng lợi ích được biểu hiện trên hai phương diện c ơ bản, một là trên phương diện vật chất: thì lợi ích được biểu hiện tập trung ở lợi ích kinh tế, lợi ích kinh tế là lợi ích của các lợi ích xét về phương diện vật chất,…; hai là trên phương diện tinh thần: thể hiện ở độ thoả dụng, thoả mãn mà con người có thể nhận được về mặt tinh thần, đáp ứng được những đòi hỏi về tinh thần của con người,… đối với bất kỳ một cá nhân nào thì lợi ích về mặt vật chất bao giờ cũng phai được đáp ứng trước (có trước) nó đáp ứng trước hết là nhu cầu về vật chất thiết yếu của con người ( nhu cầu về ăn, mặc,….) , sau đó mới xuất hiện, tồn tại và phát triển về lợi ích tinh thần, đến lượt mình thì lợi về mặt tinh thần xuất hiện và phát triển và có tác đ ộng ngược trở lại lợi ích về mặt vật chất, có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến lợi ích về mặt vật chất,…. Xin đươc bàn thêm một chút về vấn đề này trên thực tế và xin dẫn chứng một thực tế là trong việc khuyến khích cán bộ đi công tác ở những nơi xa các trung tâm, xa thành phố. Một câu hỏi đặt ra là tại sao hầu hết mọi người không muốn đi công tác ở những nơi xa những trung tâm? câu trả lời thực sự là đ ơn giản khi chúng ta đứng trên quan đ iểm về lợi ích như đã được đề cập ở trên, nghĩa là lý do con người ta không thích công tác xa các trung tâm vì khi công tác ở các trung tâm họ nhận được không chỉ đơn thuần là lợi ích kinh tế mà họ còn nhận được lợi ích tinh thần mà các lợi ích này chỉ ở các trung tâm của sự phát triển mới có, bên cạnh đó các chính sách của Nhà nước chỉ đáp ứng được về lợi ích kinh tế cho họ khi họ công tác xa thành phố,... Tuy nhiên chúng ta không nên r ơi vào chủ nghĩa lợi ích, mà ở đ ây chỉ x in được đưa ra để xem xét vấn đề lợi ích như một vấn đề chính, vấn đề cơ sở của hầu hết các vấn đề trong hoạt động của con người,… vì lợi ích kinh tế và địa vị xã hội sẽ quyết đ ịnh việc con người ta nói gì và làm gì. về vấn đề này người Trung Quốc đã từng nói “ không có bạn mãi mãi, không có thù mãi mãi mà chỉ có lợi ích của con người là mãi mãi.”. Liên quan trực tiếp đến vấn đề lợi ích là vấn đề “nhu cầu”, thống nhất giữa lợi ích với nhu cầu tạo nên con người trong mối quan hệ tổng hoà. Nhu cầu được thoả mãn bằng – thông qua lợi ích, nhu cầu của con người là cái động nhất, cái căn bản nhất của con người , mọi hoạt động của con người suy cho cùng đều
  17. nhằm mục đích đem lại lợi ích để thoả mãn nhu cầu của mình, cũng nh ư vấn đề lợi ích vấn đề về nhu cầu cũng được biểu hiện trên phương diện vật chất và phương diện tinh thần. Nhu cầu của con người là cái vượt trước vĩnh viễn, do đó lơi ích của con người là mãi mãi,… Lợi ích và nhu cầu là vấn đề rất rộng, có liên quan (trực tiếp, gián tiếp ) tới rất nhiều vấn đề của đời sống xã hội và ở đây ch ỉ xin đề cập tới hai vấn đề này trên phương diện phục vụ cho bài viết này. II. Nội dung của công tác kế hoạch trong nền kinh tế tập trung 1. Kế hoạch dài hạn Kế hoạch dài hạn có thể hiểu là việc căn cứ vao đường lối phát triển, căn cứ vào các quan điểm phát triển xây dựng các mục tiêu phát triển có tính chất to lớn, toàn cục của một quộc gia trong một thời gian dài (thường từ 10 tới 20 năm) và các giải pháp, biện pháp, các chính sách nhằm đ ạt được mục tiêu đã đề ra Đất nước ta kể từ khi dành lại được độc lập thì đảng và nhà nước ta xác đ ịnh con đường đi là đi lên chủ nghĩa xã hội. Căn c ứ vào đường lối chung đó để xác định các mục tiêu phát triển cho một thời kỳ dài, như th ực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá, trong đó ưu tiên phát triển công nghiệp nặng,… đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội… Kế hoạch dài hạn là cơ s ở, là căn cứ, làm xuất phát điểm cho việc xây dựng, thực hiện, quản lý kế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm ( kế hoạch 1 năm). kế hoạch dài hạn
  18. còn là một b ước cụ thể hoá các quan điểm phát triển, cụ thể hoá đường lối phát triển, là một phương tiện nhằm đạt được quan hệ sản xuất mong muốn,… 2. Kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm Kế hoạch trung hạn (kế hoạch 5 năm) là việc cụ thể hoá của kê hoạch dài hạn, nó thể hiện ý đồ phát triển của một đất nước trong thơi gian 5 năm, cùng với cách thức để đạt được mục tiêu đề ra. Phạm vi kế hoạch: Phạm vi kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm chỉ bao quát khu vực kinh tế Nhà nước, bao gồm hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh về sản xuất, cung cấp đầu vào cho sản xuất, tiêu thụ sản phẩm,…được giao từ TW xuống các bộ, ngành, địa phương, đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc khu vực kinh tế Nhà n ước,.. Về nội dung kế hoạch: do điều kiện khó khăn của đất nước (chiến tranh tàn phá,..) nên nội dung của kế hoạch xác định củng cố quốc phòng an ninh, sản xuất, cung ứng, vận chuyển với bất kỳ giá nào,….kế hoạch là kế hoạch pháp lệnh, nghĩa là việc xây dựng, thực hiện, quản lý kế hoạch được thực hiện thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh, kế hoạch xem nhẹ quy luật khách quan,…xét về hệ thống các mục tiêu: giống như kế hoạch dài hạn, các chỉ tiêu hoàn toàn là các chỉ tiêu về mặt hiện vật, và mang nặng tính chất pháp lệnh, tính chủ quan dẫn tới tính khả thi của mục tiêu rất thấp, nghĩa là việc đưa ra các ch ỉ tiêu xa rời với đ iều kiện cụ thể của đất nước (điều kiện cụ thể của Việt Nam trong thời gian ngay sau khi độc lập là một n ước với nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, chủ yếu là sản xuất nhỏ,…), ở đây một lần nữa ta lại thây rất rõ ràng rằng việc trả lời câu hỏi: chúng ta đang ở đâu? ở mức độ nào của sự phát triển? đối với chúng ta có lẽ còn là một câu hỏi bỏ ngỏ, chưa được trả lời. Dẫn tới việc xây dựng kế hoạch chỉ c ăn cứ vào ý muốn chủ quan, chỉ căn cứ vào câu hỏi chúng ta muốn gì?. hậu quả là việc thực hiện kế hoạch thường không đạt mục tiêu, cụ thể là trong các kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976 – 1980)
  19. và kế hoạch 5 năm lần thứ 3 ( 1981 – 1985) hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều không đạt được. Về qui trình lập kế hoạch hàng năm được thực hiện theo kiểu hai “ lên ba xuống”nghĩa là trung ương giao số kiểm tra xuống các bộ, ngành, các địa phương, các đơn vị đâu mối kế hoạch để xây dựng kế hoạch; Dự thoả kế hoạch đ ược gửi lên trung ương và tiến hành bảo vệ kế hoạch; trung ương giao kế hoạch đã được bảo vệ xuống cho đơn vị đầu mối hoàn chỉnh; Gửi kế hoạch đã hoàn chỉnh lên trung ương để tổng hợp; trung ương giao kế hoạch chính thức cho đơn vị đầu mối kế hoạch. Thực chất của việc lập kế hoạch là phép “ cộng” đơn thuần các kế hoạch từ cấp dưới gửi lên, không có căn cứ khoa học như các phân tích tổng hợp, các dự báo phát triển,.. cũng như không có tính chất “ đàm thoại”, tính “ thương thảo” giữa chủ thể quản lý( nhà nước) với các cấp thực hiện kế hoạch ( đối tượng của quản lý), kế hoạch được quyết định chủ yếu là ro các nhà lãnh đạo chính trị. Do đó câu h ỏi: có thể sản xuất đ ược gì? không được trả lời, hoặc trả lời không đúng,.. Kế hoạch 5 năm là cơ sở, là căn cứ xây dựng thực hiện kế hoạch hàng năm, trên cơ sở kế hoạch 5 năm giao trực tiếp cho các bộ, ngành, các địa phương các chỉ tiêu hiện vật (các chỉ tiêu pháp lệnh) phải thực hiện trong năm, căn cứ vào các chỉ tiêu này thì các bộ, ngành,… trực tiếp giao con số cho các cơ sở sản xuất,.. Ngoài ra kế hoạch 5 năm còn là một bước cụ thể hoá kế hoạch dài hạn, cụ thể hoá các quan đ iển phát triển, cụ thể hoá đường lối phát triển,… Kế hoạch hàng năm là việc cụ thể kế hoạch 5 năm theo kiểu phân chia, chia nhỏ kế hoạch 5 năm ra thực hiện,…
  20. B. nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và nội dung của kế hoạch hoá I. nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 1. Khái luận nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam (về phương diện lý luận ) là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, trong đó việc giả quyết các vấn đề lớn của nền kinh tế như sản xuất cái gì?, sản xuất như nào?, sản xuất cho ai?, sản xuất ở đâu? được quyết định bởi thị trường, thông qua các quy luật của thị trường nh ư quy luật cung cầu, quy luật giá trị, … 2. đặc điểm - Vế vấn đề sở hữu, chúng ta thực hiện nền kinh tế đa thành phần ứng với mỗi thành phần là một loại hình sở hữu khác nhau như sở hữu Nhà nước, sở hữu tư nhân, s ở hữu tập thể,…như vậy thông qua việc nhận thức lại, nhận thức đúng chúng ta đã thực hiện đúng với thực tế đòi h ỏi cho sự phát triển hơn ít nhất là trong vấn đề sở hữu,.. - Về vai trò của Nhà nước, Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế, thực hiện phát triển thị trường cũng như thực hiện các giải pháp – b iện pháp thúc đẩy, khuyến khích thị trường, cơ chế thị trường phát triển. Tạo ra một cơ chế: Nhà nước điều tiết thị trường và thị trường điều tiết sản xuất, Nhà nước thực hiện đ iều tiết thị trường thông qua các công cụ quản lý vĩ mô như lu ật pháp, các chính sách, kế hoạch hoá (một công cụ duy nhất tác động mền dẻo vào nền kinh tế,..),…Thị trường thực hiện giải quyết các vấ n đề lớn của nền kinh tế thông qua các quy luật của thị trường,…
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0