intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: KẾT CẤU VẬN LUẬT CỦA THỂ SONG THẤT LỤC BÁT TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN THỂ LOẠI NGÂM KHÚC

Chia sẻ: Carol123 Carol123 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:122

273
lượt xem
57
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thể thơ song thất lục bát (STLB) là một trong những sáng tạo đáng tự hào của văn học trung đại nói riêng và của nền văn học Việt Nam nói chung. Từ bƣớc chập chững, “ngập ngừng” dần dần đi đến ổn định và trở thành một thể thơ cách luật, từ lúc chỉ đƣợc dùng để ngâm nga, ca tụng đến khi trở thành một thể tài hữu hiệu để diễn tả sâu sắc, tinh tế thế giới nội tâm của con ngƣời, STLB đã trải qua hành trình mấy thế kỷ, với sự góp công của biết bao thế hệ thi sĩ....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: KẾT CẤU VẬN LUẬT CỦA THỂ SONG THẤT LỤC BÁT TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN THỂ LOẠI NGÂM KHÚC

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ------------------------- ĐỖ THỊ HƯỜNG KẾT CẤU VẬN LUẬT CỦA THỂ SONG THẤT LỤC BÁT TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN THỂ LOẠI NGÂM KHÚC LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN, NĂM 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ------------------------- ĐỖ THỊ HƯỜNG KẾT CẤU VẬN LUẬT CỦA THỂ SONG THẤT LỤC BÁT TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN THỂ LOẠI NGÂM KHÚC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã Số:60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn:TS.Phạm Thị Phương Thái THÁI NGUYÊN, NĂM 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  3. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1 Lý do khoa học Thể thơ song thất lục bát (STLB) là một trong những sáng tạo đáng tự hào của văn học trung đại nói riêng và của nền văn học Việt Nam nói chung. Từ bƣớc chập chững, “ngập ngừng” dần dần đi đến ổn định và trở thành một thể thơ cách luật, từ lúc chỉ đƣợc dùng để ngâm nga, ca tụng đến khi trở thành một thể tài hữu hiệu để diễn tả sâu sắc, tinh tế thế giới nội tâm của con ngƣời, STLB đã trải qua hành trình mấy thế kỷ, với sự góp công của biết bao thế hệ thi sĩ. Qua khảo sát tình hình nghiên cứu, chúng tôi thấy đã có một số bài viết, công trình khoa học tìm hiểu những vấn đề về đặc trƣng, nguồn gốc và quá trình hoàn thiện thể STLB. Hầu hết ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trƣớc đều đã đƣợc biện giải khá thuyết p hục. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều điểm cần nhìn nhận lại và bàn thêm. Chẳng hạn, đành rằng, ngọn nguồn của thể STLB là văn học dân gian. Nhƣng đó không phải là nguồn gốc duy nhất của thể thơ này. Có thể thoát thai từ câu hát dân gian nhƣng chắc chắn phải nh ờ sự “thi công” của nhiều thế hệ thi sĩ tài hoa, tinh tế thì STLB mới trở thành một thể thơ cách luật, mới có thể tỏa sáng với những tác phẩm Ngâm khúc ở thế kỷ XVIII – XIX. Và nhƣ vậy, sẽ thấy rõ hơn công lao của nhiều thế hệ thi sĩ trong việc tìm tòi và sáng tạo một lối thơ riêng cho dân tộc. Nghiên cứu STLB về kết cấu vậ n luật và tiến trình phát triển từ những dấu hiệu đầu tiên cho đến bƣớc hoàn tất với các khúc ngâm ở thể kỷ XVIII – XIX, không những có dịp bàn thêm về đặc trƣng thể thơ STLB mà còn có thể nhìn nhận quá trình vận động, phát triển của thể thơ STLB từ hình thức đến nội dung nhƣ lẽ tất yếu, nhằm thỏa mãn nhu cầu phản ánh của thời đại. Với những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Kết cấu vận luật của thể song thất lục bát trong tiến trình phát triển thể loại Ngâm khúc”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn -1-
  4. 1.2 Lý do thực tiễn Hiện nay, các tác phẩm viết bằng thể thơ STLB (Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Văn chiêu hồn, Khóc Dương Khuê...) chiếm số lƣợng đáng kể trong chƣơng trình giảng dạy ở các cấp học … Vì vậy, việc tìm hiểu đặc trƣng kết cấu vận luật và tiến trình phát triển thể loại là việc làm cần thiết và hữu ích đối với những ngƣời làm công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học. Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn sẽ trau dồi thêm những kiến thức về thi pháp thể loại, tạo cơ sở chắc chắn về một hƣớng tiếp cận tác phẩm văn chƣơng và góp thêm một tiếng nói nhằm xác định đúng giá trị của tác phẩm văn học trong chƣơng trình giáo dục phổ thông. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Đáp ứng đƣợc nhu cầu tình cảm của con ngƣời trong bối cảnh lịch sử nên ngay từ khi mới ra đời, STLB đã chiếm đƣợc lòng yêu mến của công chúng thƣởng thức văn học. Với tƣ cách là một thể thơ dân tộc, hơn nữa lại là thể loại có thành tựu rực rỡ trong văn học Việt Nam thời trung đại, STLB đã thu hút đƣợc sự quan tâm đánh giá của các nhà nghiên cứu. Từ những thập niên đầu thế kỷ XX đến nay, thể thơ này thực sự trở thành nội dung nghiên cứu, tìm hiểu của các nhà văn học sử học và lý luận thơ ca. 2.1 Về nguồn gốc của thể STLB Do hầu hết các thể thơ, thể văn trong văn học trung đại Việt Nam đều có nguồn gốc từ Trung Quốc nên xung quanh vấn đề nguồn gốc của thể STLB đã có rất nhiều ý kiến tranh luận khác nhau. Có quan điểm cho rằng thể thơ STLB là thể thơ thuần túy của Việt Nam, quan điểm khác lại khẳng đ ịnh thể STLB là một hiện tƣợng lắp ghép giữa cặp thất ngôn của Trung Hoa và cặp lục bát của Việt Nam. Gần đây, hầu hết giới chuyên môn đều thừa nhận STLB là thể thơ của dân tộc ta. Tác giả Bùi Kỷ đã khẳng định đó là “lối văn riêng của ta mà Tàu không có” [44, 82]. Nhà nghiên cứu Phƣơng Lựu cũng tán Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn -2-
  5. đồng quan điểm này. Ông đã khẳng định: “Thể thơ STLB được hình thành trên cơ sở thể lục bát và thể thơ bảy chữ vốn có sẵn trong thơ ca dân gian Việt Nam” [31, 452]. Trong bài viết “Đi tìm ngọn nguồn của cặp thất ngôn trong thể song thất lục bát”, tác giả Phan Diễm Phƣơng đã tiến hành so sánh cấu trúc âm luật của cặp thất ngôn Trung Hoa và cặp thất ngôn Việt Nam để từ đó rút ra kết luận: “Điệu STLB là điệu hoàn toàn Việt Nam” [42, 38]. Sau đó, tác giả đƣa ra cách lí giải và chứng minh thể thơ STLB có ngọn nguồn từ văn học dân gian. Điều này chứng tỏ quan điểm cho rằng thể STLB thuần túy Việt Nam là hoàn toàn chính xác. Không dừng lại ở đó, Phan Diễm Phƣơng tiếp tục làm rõ nguồn gốc của thể thơ này qua bài “ Thử tìm hiểu những điều kiện hình thành hai thể thơ lục bát và Song thất lục bát ”. Từ những căn cứ đầy sức thuyết phục, tác giả thêm một lần nữa khẳng định chắn chắn rằng “ dân tộc Việt có đủ mọi điều kiện để tạo nên thể thơ đó” [43, 33]. Về thời điểm xuất hiện những dòng STLB thành văn, tác giả Phan Diễm Phƣơng, tác giả Ngô Văn Đức đều khẳng định những dòng STLB đầu tiên đƣợc bắt đầu từ tác phẩm “ Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn” của Lê Đức Mao. Tác giả Phan Ngọc lại cho rằng “ Bồ Đề thắng cảnh thi” tƣơng truyền của Lê Thánh Tông mới là tác phẩm khởi thảo của thể STLB. Chính vì vậy, thời điểm xuất hiện thể STLB cũng là vấn đề cần phải xem xét. 2.2 Về đặc trưng kết cấu vận luật của thể STLB Tiếp theo những công trình nghiên cứu về nguồn gốc của thể STLB, các nhà nghiên cứu đã đi vào tìm hiểu đặc trƣng của thể loại này. Một trong những đặc trƣng đó là kết cấu vận luật. Tác giả Dƣơng Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu ngoài việc chỉ ra những đặc điểm hình thức của thể thơ, tác giả còn trình bày một số vấn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn -3-
  6. đề cơ bản về vần luật bằng trắc trong cặp câu thất của thể STLB: “ trừ chữ thứ nhất không kể, muốn đặt tiếng gì cũng được, còn sáu chữ sau chia làm ba đoạn mỗi đoạn hai chữ. Trong câu 7 thì có đoạn đầu trắc trắc; đến câu 7 dưới thì luật trái lại: đoạn đầu bằng bằng” [16, 206]. Những vấn đề mà ông đã đề cập tới sẽ là sự gợi mở cho các tác giả ở giai đoạn sau khi nghiên cứu về đặc trƣng kết cấu vần luật của thể STLB. Viết về thể STLB, trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả cũng đã chỉ ra một số đặc điểm về hình thức, cách gieo vần, nhịp điệu của thể STLB. Nhƣng những nhận định này vẫn mang tính chất khái quát và hết sức sơ lƣợc. Trong cuốn Lí luận văn học, tác giả Phƣơng Lựu chủ yếu tập trung vào tìm hiểu về mặt hình thức của thể thơ STLB: “Song thất lục bát là thể thơ cứ hai dòng bảy chữ (song thất) lại một dòng sáu chữ và một dòng tám chữ “(lục bát)” [31, 452]. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập đến đặc trƣng kết cấu vận luật của thể này. Ông đã chỉ ra cách hiệp vần và phối thanh của thể STLB: “Chữ cuối của dòng bảy thứ nhất hiệp vần với chữ thứ năm của dòng bảy thứ hai. Hai chữ hiệp vần đều thuộc thanh trắc. Chữ thứ bảy của dòng thứ hai hiệp vần với chữ thứ sáu của dòng sáu tiếp theo và đều thuộc thanh bằng….Như vậy, mỗi khổ thơ có một vần chân trắc và ba vần chân bằng…” [31, 452]. Tuy nhiên, những đặc trƣng khác về nhịp điệu, về phép đối… của thể thơ thì chƣa đƣợc các tác giả đề cập tới. Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại đã chú ý hơn tới vấn đề đặc trƣng kết cấu vận luật của thể STLB. Đóng góp của hai tác giả là đã khẳng định thể thơ này là sự tổ hợp của lục bát và thất ngôn. Tuy nhiên, họ cũng mới chỉ đề cập đến đặc trƣng vần luật của thể STLB một cách chung chung, chƣa có sự lí giải cụ thể. Khác với những công trình nghiên cứu đi trƣớc, Lục bát và song thất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn -4-
  7. lục bát (Lịch sử phát triển, đặc trưng thể loại) của Phan Diễm Phƣơng đã chỉ ra cụ thể một số đặc trƣng của thể thơ STLB về: gieo vần, ngắt nhịp, phối thanh điệu… Đồng thời, tác giả cũng đƣa ra cách lí giải về ngọn nguồn của thể thơ lục bát và thể STLB “Đó là hai thể thơ dân tộc, được hình thành trên những điều kiện cụ thể là tiếng Việt và văn hóa Việt, trong mối liên hệ rất mật thiết với văn vần dân gian của dân tộc Việt” [44, 123]. Đây là một công trình có giá trị lớn trong việc làm sáng tỏ đặc trƣng kết cấu vần luật của thể STLB. Tiếp thu thành quả của công trình này chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu và chỉ ra sự vận động về mặt hình thức và mặt nội dung của thể STLB trong tiến trình phát triển của thể loại Ngâm khúc. Tác giả Ngô Văn Đức trong cuốn Ngâm khúc, quá trình hình thành phát triển và đặc trưng thể loại cũng có nói đến thể thơ STLB tr ong tƣơng quan so sánh với thể lục bát và Đƣờng luật. Từ đó, tác giả bƣớc đầu chỉ ra giá trị của thể STLB trong việc diễn tả nội tâm con ngƣời và khẳng định thể thơ này là hình thức tối ƣu của thể loại Ngâm khúc. Nhƣng những vấn đề này vẫn còn rất chung chung, mới chỉ dừng lại ở mức độ đặt vấn đề. Đây là một trong những tiền đề gợi mở để chúng tôi t hực hiện đề tài này. Trong những năm gần đây, giới chuyên môn đã quan tâm nhiều hơn tới đặc trƣng kết cấu vận luật của thể STLB. Nhờ có sự quan tâm này, mà một số vấn đề cơ bản của thể thơ này đã đƣợc giải quyết ở những mức độ khác nhau. Từ đó giúp ta có thể nhận diện thể thơ STLB một cách dễ dàng. 2.3 Lịch sử nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của thể STLB trong Ngâm khúc Vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá những giá trị nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm Ngâm khúc có một lịch sử khá lâu dài, nhƣng việc nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của thể STLB thì lại là vấn đề khá mới mẻ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn -5-
  8. Ở giai đoạn đầu (giữa thế kỷ XX), hầu nhƣ các tác giả mới chỉ tập trung tới việc giới thiệu, khảo đính và giải thích điển cố mà chƣa chú ý đúng mức tới quá trình vận động của thể STLB trong các tác phẩm Ngâm khúc. Có thể kể đến các công trình nhƣ : Chinh phụ ngâm khảo thích và giới thiệu (Nhà xuất bản văn hóa HN 1964) của Lại Ngọc Cang; Cung oán ngâm khúc khảo thích chú giải (Hà Nội 1931) của Đinh Xuân Hội; Cung oán ngâm khúc dẫn giải (Tân Việt Sài Gòn 1953) của Tôn Thất Lƣơng; Cung oán ngâm khúc dẫn giải (Quốc học thƣ xã, HN 1953) của Lê Văn Hòe; Cung oán ngâm khúc hiệu đính chú giải (Bộ giáo dục HN 1957) của Hoàng Ngọc Phách, Lê Thƣớc, Vũ Đình Liên; Cung oán ngâm khúc khảo thích giới thiệu (Nxb văn hóa HN 1959) của Nguyễn Trác và Nguyễn Đăng Châu; Tự tình khúc và Trần tình văn – chú thích và giới thiệu (Nxb văn hóa HN 1958) của Đái Xuân Minh, Nguyễn Tƣờng Phƣợng. Trong các công trình trên, các tác giả tuy đã đƣa ra những nhận xét đánh giá ngắn gọn nhƣng chỉ nhằm thâu tóm đƣợc cái tài, cái thần của tác phẩm về phƣơng diện nội dung chứ không hƣớng vào làm rõ quá trình vận động phát triển của thể STLB trong thể loại Ngâm khúc. Giai đoạn sau (từ thập kỷ 70), các nhà nghiên cứu đã soi chiếu tác phẩm từ những góc độ khác nhau nhƣng chỉ dừng lại ở việc phân tích văn bản hoặc khai thác giá trị của hình tƣợng nghệ thuật. Các công trình này thƣờng có quy mô nhỏ lẻ chƣa thật chuyên sâu nhƣng ở đó đã có những ý kiến mới mẻ. Đó là quan niệm Ngâm khúc nhƣ là một thể loại với những đặc điểm riêng: Thử đặt lại vị trí của Cao Bá Nhạ (Đặng Thị Hảo), Từ bản Nôm mới phát hiện góp phần xác định thêm tác giả và thời điểm ra đời của Ai tư vãn (Nguyễn Cẩm Thúy), Thể loại ngâm và “Cung oán ngâm” của Nguyễn Gia Thiều (N.I.Niculin), Tiếng khóc nhân loại trong tiếng khóc Nguyễn Gia Thiều (Vũ Khiêu), các bài viết của các tác giả Phạm Luận, Đặng Thanh Lê, Nguyễn Lộc… trong các giáo trình văn học Việt Nam về Chinh phụ ngâm khúc và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn -6-
  9. Cung oán ngâm khúc… Những khúc ngâm chọn lọc của Lƣơng Văn Đang, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Lộc.. .Các tác phẩm ở giai đoạn này, tuy đã có bƣớc tiến hơn giai đoạn trƣớc, nhƣng vấn đề về sự vận động của thể STLB vẫn chƣa đƣợc đề cập đến. Cuối thế kỷ XX, trên các tạp chí văn học, đã có một số bài viết về sự vận động và phát triển của thể STLB trong tác phẩm Ngâm khúc. Trong bài nghiên cứu “ Cung oán ngâm khúc trên bƣớc đƣờng phát triển của thể song thất lục bát” của Đặng Thanh Lê đã chỉ ra sự phát triển của STLB “khác với các thể kỷ trước, các tác phẩm song thất lục bát của thế kỷ thứ XVIII đưa thể thơ này vào chức năng phản ánh nội dung tâm trạng có tính chất bi kịch…” [26, 47]. Nhƣng nhận định này mới chỉ đƣợc rút ra từ việc khảo sát một tác phẩm cụ thể nên nó chƣa khách quan và đủ sức thuyết phục. Tác giả Nguyễn Ngọc Quang trong bài viết “ Tìm hiểu quá trình vận động phát triển của thể loại song thất lục bát” trên Tạp chí Văn học số 5 – 2000 đã chỉ ra đƣợc ba giai đoạn phát triển của thể thơ này dựa trên hai căn cứ điều kiện lịch sử và quá trình vận động nội tại của thể thơ STLB. Khi tiến hành nghiên cứu sự vận động của thể thơ ở giai đoạn thứ nhất (Giai đoạn thứ nhất từ trƣớc nửa đầu thế kỷ XVIII), tác giả cũng có đề cập tới sự vận động của thể STLB qua một số tác phẩm Ngâm khúc. Nhƣng tác giả mới chỉ ra sự vận động về mặt hình thức còn sự vận động về mặt nội dung thì chƣa đƣợc nhắc đến. Có thể thấy, từ nửa cuối thế kỷ XX giới chuyên môn đã dành cho thể STLB một sự quan tâm đặc biệt. Vấn đề nguồn gốc ra đời của t hể thơ STLB hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng đây là thể thơ của dân tộc Việt có ngọn nguồn từ văn học dân gian. Song, theo chúng tôi thì thể thơ này có thể còn có ngọn nguồn từ trong văn học viết. Trong lịch sử nghiên cứu về kết cấu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn -7-
  10. vận luật của thể thơ STLB ta thấy đã có một số công trình đề cập đến, nhƣng nghiên cứu về kết cấu vận luật của thể STLB trong tiến trình phát triển của thể loại Ngâm khúc thì cho đến nay vẫn chƣa có công trình nào đề cập đến. Với mong muốn làm sáng rõ bƣớc chuyển biến của thể STLB từ ngâm vịnh đến diễn tả tâm tình của con ngƣời. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Kết cấu vận luật của thể STLB trong tiến trình phát triển của thể loại Ngâm khúc.” Tất cả những công trình nghiên cứu trên đều là những cơ sở quan trọng, những kiến thức quý báu giúp chúng tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện đề tài này. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Để làm rõ tiến trình lịch sử và kết cấu vận luật của thể thơ STLB, chúng tôi tiến hành khảo sát một số khúc Ngâm chọn lọc và những tác phẩm: Hạnh Thiên Trường hành cung của Trần Thánh Tông; Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông; Vịnh Hoa yên tự phú của Huyền Quang; Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi; Tứ thời khúc vịnh của Hoàng Sĩ Khải; Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn của Lê Đức Mao; Bồ Đề thắng cảnh thi (khuyết danh), Thiên Nam minh giám (khuyết danh). Qua đó chỉ ra những tiền lệ cho sự ra đời của thể thơ STLB. Để hiểu rõ giá trị của thể STLB trong việc diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình và thấy đƣợc sự hoàn thiện về diện mạo của thể thơ ở cuối thế kỷ XVIII, chúng tôi tiến hành khảo sát và phân tích một số khổ thơ trong các khúc Ngâm tiêu biểu nhƣ: Bản dịch Nôm Chinh phụ ngâm – tƣơng truyền của Đoàn Thị Điểm (giữa thế kỉ XVIII); Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều (cuối thế kỉ XVIII); Ai tư vãn của Lê Ngọc Hân (cuối thế kỉ XVIII); Văn chiêu hồn của Nguyễn Du (cuối thế kỉ XVIII); Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ (cuối thế kỉ XVIII). Đây là những tác phẩm tiêu biểu có thể đáp ứng yêu cầu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn -8-
  11. lý giải những vấn đề của luận văn ở những góc độ cụ thể khác nhau. Trong số tác phẩm này chúng tôi đặc biệt chú ý đến Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm. Đây là hai tác phẩm có vai trò lớn trong việc hoàn chỉnh thể loại STLB ở văn học trung đại Việt Nam. 4. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở khảo sát tiến trình vận động phát triển của thể STLB trong Ngâm khúc, luận văn bƣớc đầu đi đến kết luận về tiền lệ ra đời của thể STLB; bàn thêm về kết cấu vận luật độc đáo của thể STLB; sự chuyển biến về hình thức và nội dung nhằm đáp ứng nhu cầu biểu đạt. Trên cơ sở đó luận văn sẽ góp thêm lời khẳng định công lao đóng góp của các thế hệ thi sĩ trong quá trình hoàn thiện STLB – một trong những thể thơ dân tộc. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sẽ sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu sau: - Phƣơng pháp khảo sát và thống kê: để có đƣợc những số liệu, chúng tôi đã tiến hành khảo sát những sáng tác của các tác giả theo trình tự thời gian, trong đó có yếu tố vần luật tƣơng đồng với vần luật của STLB. Từ đó bƣớc đầu có ý kiến về tiền lệ ra đời của thể song thất lục bát. - Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu: chúng tôi tiến hành so sánh tác phẩm của các tác giả, đối chiếu giữa các tác phẩm để chỉ ra những bƣớc tiến hay lụi tàn của nó. - Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: phân tích đặc trƣng của thể STLB và từ việc phân tích dẫn chứng để thấy đƣợc sự chuyển biến trong việc ngâm vịnh đến “ngâm buồn” diễn tả nội tâm của con ngƣời. - Phƣơng pháp lịch sử: sự xuất hiện của song thất lục bát gắn liền với một hoàn cảnh xã hội văn hóa cụ thể. Việc vận dụng phƣơng pháp lịch sử để nghiên cứu giúp chúng tôi xác định một cách đúng đắn vị trí, vai trò và những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn -9-
  12. đóng góp của thể thơ STLB trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc. 6. Những đóng góp của luận văn Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn: + Bƣớc đầu chỉ ra những tiền lệ của việc hình thành thể thơ STLB + Làm rõ bƣớc chuyển biến của thể STLB từ ngâm vịnh đến diễn tả tâm tình của con ngƣời. + Góp phần khẳng định công lao của nhiều thế hệ thi sĩ trong việc xây đắp và hoàn thiện một thể thơ dân tộc. + Góp phần làm sáng tỏ thêm những đặc trƣng dân tộc của thể STLB 7. Cấu trúc luận văn Luận văn baogồm 3 phần: Phần mở đầu gồm 6 phần: 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4. Mục đích nghiên cứu 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 6. Đóng góp của luận văn 7. Cấu trúc luận văn Phần nội dung gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1. Kết cấu vận luật của thể song thất lục bát Chương 2. Những cơ sở hình thành thể song thất lục bát Chƣơng 3. Sự chuyển biến từ ngâm vịnh đến diễn tả nội tâm Phần kết luận. Tài liệu tham khảo Phụ lục Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn - 10 -
  13. PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1: KẾT CẤU VẬN LUẬT CỦA THỂ SONG THẤT LỤC BÁT 1.1 Một số khái niệm liên quan đến đề tài 1.1.1 Khái niệm loại thể và thể loại 1.1.1.1 Loại thể Trong cuốn phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo loại thể) nhà xuất bản Giáo dục đã đƣa ra cách hiểu về loại thể văn học : “loại thể văn học là một vấn đề thuộc hình thức nghệ thuật của văn học có liên quan khăng khít đến nội dung” [6, 3]. Về quan niệm cụ thể với từng thuật ngữ chúng ta rất khó thống nhất và cũng rất khó có một ranh giới rạch ròi tuyệt đối. Khi nói loại ta cũng hay nói “loại thể”, khi nói thể ta lại hay nói “thể loại”. Việc gọi tùy tiện nhƣ vậy sẽ làm rối khái niệm. Các nhà nghiên cứu đã chia tác phẩm văn học thành các loại và các thể (hoặc thể loại, thể tài). Loại rộng hơn thể, thể nằm trong loại. Nhƣng cũng có trƣờng hợp thể có thể thuộc về nhiều loại ví nhƣ thơ ta có: thơ tự sự, thơ trữ tình, kịch thơ. Vì vậy, chúng ta không nên đi tìm ranh giới tuyệt đối giữa các loại thể. Theo tác giả Trần Thanh Đạm sự phân chia loại thể văn học gồm có hai mức độ: loại và thể “Theo chúng tôi nên dùng thuật ngữ loại thể bao gồm loại (loại hình) và thể (hay chỉ thể tài)” [17, 9]. Dựa vào các phƣơng thức sáng tác mà ngƣời ta phân chia thành các loại thể văn học khác nhau. Theo tác giả Trần Thanh Đạm: “tiêu chuẩn và căn cứ hợp lí nhất để phân chia loại thể văn học chính là phương thức kết cấu tác phẩm văn học, trước hết là kết cấu hình tượng hoặc hệ thống hình tượng của tác phẩm” [17, 7]. Nhƣ vậy có nghĩa là muốn phân chia loại thể chúng ta cần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn - 11 -
  14. chú ý tới sự cấu tạo bên trong và hình tƣợng văn học chứ không phải chỉ dựa vào một số biểu hiện về hình thức bên ngoài. Khi đi vào vấn đề loại thể, thế giới tầng bậc của nó và thiên về cấu trúc hình thức thể hiện, ta có ba loại: tự sự, trữ tình, kịch và từng loại có từng thể nhỏ. Cụ thể: Loại tự sự: Là loại tác phẩm dùng lời kể tái hiện lại những việc làm, biến cố nhằm dựng lại một dòng đời nhƣ đang diễn ra một các h khách quan, qua đó bày tỏ một cách hiểu và một thái độ nhất định. Tác phẩm đó bao giờ cũng phải có một sự kiện (một câu chuyện) làm nòng cốt, trong đó có những sự việc đang diễn ra có sự tham gia của con ngƣời với những hoạt động ngôn ngữ, tính cách… của họ trong mối quan hệ với hoàn cảnh, xã hội và trong mối quan hệ lẫn nhau. Loại tác phẩm tự sự bao gồm: thần thoại, sử thi, truyện cổ tích, truyện cƣời, ngụ ngôn, truyện thơ, tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, kí sự, bút kí… Loại trữ tình: Là loại tác phẩm văn học thông qua sự bộc lộ tình cảm của tác giả mà phản ánh hiện thực, đó là sự bộc lộ trực tiếp những tƣ tƣởng cảm xúc của tâm hồn con ngƣời đối với thế giới. Loại tác phẩm trữ tình bao gồm: thơ trữ tình, thơ trào phúng, ca dao trữ tình, các khúc ngâm, tùy bút, trƣờng ca hiện đại. Phú, văn tế, thơ ca trù cũng có thể xem là dạng đặc biệt của tác phẩm trữ tình. Loại kịch: Là loại nghệ thuật sân khấu, mang tính chất tổng hợp của nhiều loại hình nghệ thuật nhƣ: văn học, âm nhạc, hội họa …Kịch là phƣơng thức đặc biệt để tái hiện hiện thực cuộc sống và biểu hiện tƣ tƣởng nhà văn, tức là phản ánh và biểu hiện bằng ngôn ngữ và hành động trực tiếp của nhân vật trong các tình huống của cuộc sống. Loại tác phẩm kịch bao gồm: bi kịch, hài kịch, kịch, kịch thơ, các kịch bản chèo, tuồng cải lƣơng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn - 12 -
  15. Nhƣ vậy, muốn nắm đƣợc những đặc điểm chung của thể loại cụ thể trƣớc tiên ta phải xác định đƣợc thể loại ấy nó nằm trong loại nào để từ đó có hƣớng tiếp cận phù hợp. 1.1.1.2 Thể loại Nói tới thể loại văn học là đề cập tới “Dạng thức của tác phẩm văn học, được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử của văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của mối quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng đời sống ấy” [17, 299]. Bất cứ một tác phẩm văn học nào cũng luôn đƣợc xem xét và xác định xem nó thuộc thể loại nào, bởi lẽ không có tác phẩm nào lại tồn tại ngoài hình thức quen thuộc của t hể loại. Mỗi thể loại thể hiện một kiểu quan hệ đối với cuộc sống và đối với ngƣời đọc, tức là một kiểu quan hệ giao tiếp. Giáo sƣ Trần Đình Sử cũng đã có lần nhận xét đó là kiểu quan hệ giao tiếp kép: Vừa giao tiếp với ngƣời đọc lại vừa giao tiếp với đời. Qua giao tiếp với cuộc sống trong tác phẩm, tác giả và ngƣời đọc hiểu nhau. Từ thời Arixtot đến nay, ngƣời ta vẫn thống nhất phân loại tác phẩm văn học thành ba loại hình (phƣơng thức phản ánh) là: tự sự, trữ tình, kịch. Đây là ba phƣơng thức cơ bản nhất của phản ánh hiện thực cuộc sống và biểu hiện nội tâm của tác giả. Mỗi phƣơng thức phản ánh lại bao gồm nhiều loại mà “trong lòng mỗi loại và trên biên giới của các loại sẽ nảy sinh rất nhiều thể khác nhau của sự sáng tác văn học” [7, 9]. Ví dụ: ở phƣơng t hức trữ tình có thơ trữ tình và văn xuôi trữ tình. Mỗi loại lại chia ra làm nhiều thể và thể loại là cấp độ nhỏ hơn nằm trong loại. Cùng một loại nhƣng ta có các thể loại khác nhau. Chẳng hạn, trong loại tự sự có tự sự dân gian và tự sự cổ trung đại và hiện đại. Trong tự sự dân gian lại chia thành: thần thoại, truyền thuyết, cổ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn - 13 -
  16. tích, ngụ ngôn, truyện cƣời. Thể loại văn học phản ánh những khuynh hƣớng lâu dài và hết sức bền vững trong sự phát triển văn học. Mỗi loại hình văn học đều có cách thức riêng để xây dựng hình tƣợng phản ánh hiện thực đời sống và tâm tƣ tình cảm. Nhƣng nếu cùng một thể loại thì những tác phẩm đó ngoài những điểm khác biệt sẽ có sự tƣơng đồng. V í nhƣ truyện ngắn của Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên Hồng… có thể có nội dung truyện khác nha u nhƣng ý thức phản ánh khách quan chân thực cuộc sống của con ngƣời bằng những chất liệu phong phú của cuộc sống xã hội, cách kể chân thực những sự kiện của các tác giả…thì tƣơng đối giống nhau . Nhà nghiên cứu văn học Nga Bakhtin đã nói: “Mỗi thể loại (nhất là những thể loại lớn) thể hiện một thái độ thẩm mĩ đối với hiện thực, một cách cảm thụ nhìn nhận, giải minh về thế giới và con người. Thể loại là vị trí nhớ siêu cá nhân của nghệ thuật với tích lũy, đúc kết những kinh nghiệm nhận thức thẩm mĩ thế giới” [1, 125]. Tác phẩm văn học là sự thống nhất và quy định lẫn nhau của các yếu tố chủ đề, đề tài, tƣ tƣởng nhân vật, cảm hứng, hình thức nhân vật, hình thức lời văn và kết cấu. Sự thống nhất này bao giờ cũng phải đƣợc thực hiện theo những quy luật nhất định. Trong quá trình sáng tác, tác giả dùng các phƣơng thức chiếm lĩnh đời sống khác nhau để thể hiện quan điểm thẩm mĩ của mình đối với hiện thực và mang những khả năng khác nhau để tái hiện đời sống. Từ đó tác giả có những cách thức xây dựng hình tƣợng nghệ thuật phù hợp với thể loại văn học mà mình đã chọn. Sự xuất hiện các thể loại văn học trong lịch sử là cả một quá trình. Vì vậy, thể loại văn học là một phạm trù mang tính lịch sử mà nó chỉ xuất hiện ở những giai đoạn phát triển nhất định của văn học, sau đó thƣờng xuyên biến đổi và thay thế nhau. Khi nghiên cứu thể loại bao giờ chúng ta cũng phải đặt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn - 14 -
  17. nó trong những điều kiện lịch sử cụ thể, có nhƣ vậy ta mới lí giải đƣợc sự thay đổi của thể loại không phải là ngẫu nhiên mà nó có cơ sở. 1.1.2 Khái niệm thể thơ Qua khảo sát của chúng tôi, hiện nay các nhà nghiên cứu chƣa có một định nghĩa thật đầy đủ về khái niệm thể thơ. Nhƣng từ những khái niệm riêng lẻ về các thể thơ cụ thể, chúng tôi mạnh dạn đƣa ra cách hiểu của mình về khái niệm thể thơ nhƣ sau: Thể thơ là cách thức làm thơ. Hay nói cách khác, cách thức tổ chức ngôn từ khác nhau sẽ tạo nên những bài thơ khác nhau xét về hình thức biểu đạt. Thông thƣờng cách đặt tên các thể thơ luôn gắn với đặc điểm cơ bản của thể thơ đó. Hay đó chính là cách gọi tên cách thức để tạo ra bài thơ xét về mặt hình thức. Ví dụ: Thể thơ lục bát: Là thể thơ có cấu trúc trên 6, dƣới 8 (lục bát), bắt đầu bằng câu 6, tiếp là câu 8, cứ thế diễn đạt cho đến hết ý; thể song thất lục bát: Là thể thơ cách luật có hai câu trê n đều 7 tiếng (song thất), hai câu dƣới là câu lục và câu bát ( lục bát), mỗi khổ thơ 4 câu và cứ thế trình tự diễn đạt cho đến hết ý. Thể thơ đƣợc nhận diện qua các tiêu chí cơ bản sau: + Số chữ trong một câu thơ + Số câu trong một khổ thơ + Số câu thơ trong một bài thơ + Cách gieo vần + Cách phối thanh B- T + Cách ngắt nhịp + Cách tạo phép đối VD: Thể STLB: Là thể thơ cách luật của Việt Nam có những đặc điểm sau: - Hai câu trên đều 7 tiếng, hai câu dƣới là câu lục và câu bát. Mỗi khổ thơ 4 câu và cứ thế d iễn đạt cho hết ý. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn - 15 -
  18. - Nhịp điệu: Hai câu thất có nhịp 3/4 hoặc 3/2/2. Câu sáu có nhịp 3/3 hoặc 2/2/2. Câu tám có nhịp 4/4 hoặc 2/2/2/2 - Cách gieo vần: Tiếng thứ 7 câu thất trên và tiếng thứ 5 câu thất dƣới hiệp vần lƣng với nhau. Tiếng thứ 7 câu thất dƣới có vần chân với tiếng thứ 6 câu lục. Câu 8 chữ gieo vần nhƣ thơ lục bát. - Thơ STLB có thể dùng lối bình đố i ở hai câu 7 tiếng, tiểu đối trong câu 6 và trong câu 8. Song cách đối nhau không phải là bắt buộc nhƣ trong thơ Đƣờng luật. Tuy nhiên, tầm quan trọng của các tiêu chí có thể khác nhau ở những dạng bài thơ khác nhau. Chẳng hạn, khi nhận diện thể thơ lục bát và song thất lục bát thì tiêu chí về số lƣợng chữ trong một câu thơ, số câu thơ trong một khổ là quan trọng nhất. Sau đó mới đến các tiêu chí về cách gieo vần và ngắt nhịp. Ví nhƣ, thể STLB có quy định chặt chẽ về số câu thơ trong một khổ (4 câu) nhƣng thể lục bát lại không có quy định chặt chẽ nhƣ vậy. Hay trong thể STLB ngoài câu lục và câu bát còn có hai câu thất mở đầu mỗi đoạn. 1.1.3 Khái niệm thể loại Ngâm khúc Các thể tài Ngâm, Khúc, Ca, Hành, Thán, Vãn…có nguồn gốc từ Trung Hoa đƣợc du nhập vào nƣớc ta từ bao giờ đến nay vẫn chƣa có tài liệu để xác định một cách chính xác. Chúng ta chỉ biết rằng qua quá trình giao lƣu văn hóa thì các thể tài trong văn học Trung Quốc đã du nhập vào Việt Nam. Khoảng thế kỉ XV nƣớc ta có tác phẩm Cung oán ngâm của Thái Thuận làm theo thể thất ngôn bát cú bằng chữ Hán. Đến khoảng đầu thế kỉ XVIII bên cạnh những tác phẩm Khúc làm theo nguyên mẫu chuẩn mực của Trung Hoa thì nƣớc ta đã có những tác phẩm trƣờng thiên với dung lƣợng hàng trăm câu thơ nhƣ: Tứ thời khúc vịnh (340 câu thơ), Thiên Nam minh giám (940 câu thơ). Nếu nhƣ những ngày đầu ta thấy Khúc kết hợp với Vịnh thì từ giữa thế kỉ XVIII Khúc đã kết hợp với Ngâm làm thành thể loại Ngâm khúc. Với tác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn - 16 -
  19. phẩm Cung oán ngâm khúc Đặng Trần Côn – bản dịch nôm tƣơng truyền của Đoàn Thị Điểm (viết bằng chữ nôm và thể song thất lục bát) đã đƣa thể loại Ngâm khúc ở nƣớc ta lên đỉnh cao. Tuy có chịu sự ảnh hƣởng của những thể tài từ Trung Quốc nhƣng Ngâm khúc của ta vẫn mang những sắc thái riêng của dân tộc. Nếu nhƣ trong văn học Trung Hoa tâm trạng của nhân vật trữ tình chỉ là những khoảnh khắc cô đơn thoáng qua thì tâm trạng của nhân vật trữ tình trong các tác phẩm Ngâm khúc là tâm trạng buồn sầu, đau đớn đƣợc miêu tả trên một diện rộng với nhiều cung bậc khác nhau. Ngâm khúc thƣờng xoay quanh những con ngƣời bất hạnh mà thƣờng là những ngƣời phụ nữ. Tác phẩm Ngâm khúc thƣờng đƣợc dùng để điễn tả tâm trạng u buồn nỗi giận hờn ai oán của con ngƣời trƣớc những cảnh ngộ của cuộc đời. “Để tải trở một nội dung lớn như vậy cần phải có những áng thơ trường thiên để cho nó đến được và thấm sâu vào tâm hồn công chúng độc giả người Việt Nam, cần phải viết bằng ngôn ngữ dân tộc để phản ánh tâm trạng chung của nhân vật trữ tình là buồn rầu, đau đớn…” [9, 15]. Đồng thời những tác phẩm Ngâm khúc cũng rất chú trọng tới việc khai thác âm thanh và nhịp điệu của ngôn ngữ. Chính vì vậy sau một thời gian dài gia công sáng tác các tác giả dân gian đã lựa chọn thể thơ song thất lục bát – thể thơ dân tộc đế sáng tác tác phẩm Ngâm khúc. Bởi lẽ chỉ có thể thơ song thất lục bát mới đáp ứng đƣợc những yêu cầu của thể loại Ngâm khúc đề ra. Và cũng chính thể STLB đã giúp Ngâm khúc có sức xuyên thấm mạnh mẽ vào lòng ngƣời đọc. Do xuất phát từ các góc độ khác nhau mà các nhà nghiên cứu đã đƣa ra khá nhiều định nghĩa về Ngâm khúc. Các cách định nghĩa ít nhiều có sự khác nhau nhƣng đều nêu lên đƣợc tiêu chí cơ bản của thể loại Ngâm khúc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn - 17 -
  20. Dƣơng Quảng Hàm định nghĩa về thể loại này nhƣ sau: “Ngâm là một bài văn tả những tình cảm ở trong lòng, thứ nhất là những tình buồn, sầu đau, thương. Các Ngâm khúc trong văn ta vẫn làm theo thể song thất lục bát” [15, 139]. Nhóm biên soạn Những khúc ngâm chọn lọc cho rằng: “Ngâm khúc là những tác phẩm hoàn toàn trữ tình – có thể gọi là những trường thiên trữ tình được viết bằng thể song thất lục bát” [12, 14]. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học các tác giả cho rằng: “Ngâm khúc: thể thơ trữ tình dài hơi thường được làm theo thể song thất lục bát để ngâm nga than vãn nhằm bộc lộ những tâm trạng, tình cảm buồn phiền đau xót triền miên day dứt. Vì vậy thể Ngâm khúc thường được gọi là thán hay vãn” [16, 137]. Tác giả Ngô Văn Đức trong đề tài cấp bộ Nghiên cứu đặc trưng thi pháp của thể loại thơ trữ tình Ngâm khúc khẳng định: “Ngâm khúc là ca khúc trữ tình dài hơi phản ánh tâm trạng bi kịch của con người đã có ý thức về cá nhân trong một giai đoạn lịch sử nhất định được viết bằng ngôn ngữ dân tộc (chữ nôm) và thể thơ song thất lục bát” [9, 17]. Có thể thấy đây là một định nghĩa tƣơng đối đầy đủ và khá chặt chẽ về thể loại Ngâm khúc. Nhìn chung ta có thể hiểu Ngâm khúc là những ca khúc trữ tình trƣờng thiên phản ánh những bi kịch không thể giải quyết đƣợc trong đời sống nội tâm của con ngƣời, trong một giai đoạn lịch sử nhất định đƣợc viết bằng thể STLB và chủ yếu bằng ngôn ngữ dân tộc. Qua khảo sát một số khúc ngâm ta thấy phạm vi cuộc sống mà Ngâm khúc lựa chọn để phản ánh là thế giới tâm trạng của những số phận nhỏ bé trong xã hội. Bao trùm lên toàn bộ khúc ngâm là âm hƣởng buồn bã về sự mất mát tuyệt vọng đến chán chƣờng. Các nhân vật trữ tình tuy mỗi ngƣời một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn - 18 -
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2