intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

luận văn: LỊCH SỬ BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN ỦY SƠN DƯƠNG TỈNH TUYÊN QUANG (1946 – 2006)

Chia sẻ: Nguyễn Thị Bích Ngọc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:112

95
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Công tác Tuyên giáo là một bộ phận cấu thành của công tác xây dựng Đảng, chiếm vị trí quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Nếu cán bộ đảng viên tư tưởng không nhất trí thì khác nào "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược". Như vậy thì không thể làm được cách mạng"

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: luận văn: LỊCH SỬ BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN ỦY SƠN DƯƠNG TỈNH TUYÊN QUANG (1946 – 2006)

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM -------------------------------- ĐỖ ĐỨC VỴ LỊCH SỬ BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN ỦY SƠN DƢƠNG TỈNH TUYÊN QUANG (1946 – 2006) LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC Thái Nguyên – Năm 2007 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------------------------------- ĐỖ ĐỨC VỴ LỊCH SỬ BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN ỦY SƠN DƢƠNG TỈNH TUYÊN QUANG (1946 – 2006) Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam Mã số : 60.22.54 LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC Tiến sĩ Nguyễn Xuân Minh Thái Nguyên – Năm 2007 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Lý do chọn đề tài 5 2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề 6 3 Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ đề tài 7 4 Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 7 5 Đóng góp của Luận văn 8 6 Kết cấu của Luận văn 9 Chƣơng mở đầu: SƠN DƢƠNG - MẢNH ĐẤT VÀ CON NGƢỜI 10 Chƣơng 1: TỔ TUYÊN TRUYỀN VÀ CỔ ĐỘNG HUYỆN UỶ SƠN DƢƠNG TRONG THỜI KÌ ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG CHIẾN, KIẾN QUỐC (1941-1954) 17 1.1 CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỔ ĐỘNG GÓP PHẦN GÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO CÁCHMẠNGVÀ KHỞINGHĨA GIÀNH CHÍNHQUYỀN (1941 - 1945) 17 1.2 TỔ TUYÊN TRUYỀN VẬN ĐỘNG HUYỆN UỶ SƠN DƢƠNG RA ĐỜI PHỤC VỤ CÔNG CUỘC KHÁNG CHIẾN, KIẾN QUỐC (1945 - 1954) 22 Chƣơng 2: BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN UỶ SƠN DƢƠNG TRONG THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƢỚC (1954 - 1975) 33 2.1 BAN TUYÊN HUẤN PHỤC VỤ CÔNG CUỘC KHÔI PHỤC KINH TẾ, CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1954-1965) 33 2.2 BAN TUYÊN GIÁO TRONG THỜI KÌ VỪA SẢN XUẤT VỪA CHIẾN ĐẤU, XÂY DỰNG HẬU PHƢƠNG, CHI VIỆN TIỀN TUYẾN (1966-1975) 42 Chƣơng 3: BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN UỶ SƠN DƢƠNG TRONG THỜI KÌ CÙNG CẢ NƢỚC THỰC HIỆN 2 NHIỆM VỤ CHIẾN LƢỢC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1975- 1986) 54 3.1 BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN ỦY TRONG THỜI KÌ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ TỔ CHỨC LẠI SẢN XUẤT, THAM GIA BẢO VỆ BIÊN GIỚI (1975-1980) 54 3 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  4. 3.2 BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN ỦY PHỤC VỤ NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, HOÀNTHÀNHNHIỆMVỤHUYỆNHẬUPHƢƠNGCỦATỈNHTIỀNTUYẾN (1981-1986) 58 Chƣơng 4: BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN UỶ SƠN DƢƠNG TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG ( 1986 - 2006 ) 64 4.1 BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN ỦY SƠN DƢƠNG TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU THỰC HIỆN ĐƢỜNG LỐI ĐỔI MỚI (1986 - 1996) 64 4.2 BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN ỦY SƠN DƢƠNG TRONG GIAI ĐOẠN ĐẨY MẠNH THỰC HIỆNĐƢỜNGLỐIĐỔIMỚI,TIẾNHÀNHCÔNGNGHIỆPHÓA,HIỆNĐẠIHOÁ(1996-2006) 79 KẾT LUẬN 101 TÀI LIỆU THAM KHẢO 107 4 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  5. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Công tác Tuyên giáo là một bộ phận cấu thành của công tác xây dựng Đảng, chiếm vị trí quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Nếu cán bộ đảng viên tư tưởng không nhất trí thì khác nào "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược". Như vậy thì không thể làm được cách mạng" [41, tr.288]. Trong tiến trình phát triển của lịch sử cách mạng dân tộc, Sơn Dƣơng là nơi có vị trí chiến lƣợc quan trọng, là vùng đất hội tụ các điều kiện “thiên thời, địa lợi và nhân hoà”. Đặc biệt, trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc những năm giữa thế kỉ XX, Sơn Dƣơng đã trở thành một trong những trung tâm căn cứ địa cách mạng, nơi sống và làm việc nhiều năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nƣớc, Quân đội, Mặt trận… Thành tựu to lớn mà nhân dân các dân tộc Sơn Dƣơng đã giành đƣợc 60 năm qua (1946 - 2006) trƣớc hết là có đƣờng lối đúng đắn, sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quan tâm sâu sắc, chỉ đạo sát sao, thiết thực, cụ thể của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Sơn Dƣơng đối với công tác Tuyên giáo. Lịch sử Ban Tuyên giáo Huyện uỷ Sơn Dƣơng (1946 - 2006) là lịch sử 60 năm của Ban đã cùng nhân dân các dân tộc trong huyện đấu tranh giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện uỷ Sơn Dƣơng, Ban Tuyên giáo đã phát huy truyền thống quê hƣơng cách mạng lập nên những thành tích đáng tự hào, góp phần đƣa Sơn Dƣơng trở thành Huyện Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân. Đồng thời, Ban Tuyên giáo đã cùng Đảng bộ và nhân dân trải qua chặng đƣờng gian nan thử thách 5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  6. xây dựng chủ nghĩa xã hội, từng bƣớc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, huyện mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nghiên cứu lại quá trình xây dựng và trƣởng thành của Ban Tuyên giáo Huyện uỷ Sơn Dƣơng 60 năm qua là việc làm cần thiết mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn, là cơ sở cho các thế hệ lãnh đạo và cán bộ Ban ôn lại và phát huy sức mạnh truyền thống, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng. Xuất phát từ những lí do nêu trên, chúng tôi chọn “Lịch sử Ban Tuyên giáo Huyện uỷ Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang (1946 - 2006)”, làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Sử học. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Công tác Tuyên giáo là một trong những đề tài thu hút các nhà nghiên cứu khoa học. Đến nay đã có tới hàng trăm công trình nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau đƣợc xuất bản. Liên quan đến đề tài có tính chất định hƣớng cho việc nghiên cứu là các văn kiện và nghị quyết của Đảng ở Trung ƣơng và địa phƣơng, đặc biệt là các văn kiện Đại hội Đảng từ Hội nghị thành lập Đảng (3-2-1930) đến Đại hội X. Một số công trình nghiên cứu, tập san, báo cáo của các phòng, ban đƣợc ấn hành trong thời gian từ năm 1946 đến năm 2006 đã đề cập tới sự phát triển của công tác Tuyên giáo trên địa bàn Sơn Dƣơng. Trong đó, đáng chú ý là các công trình: "Lịch sử Đảng bộ huyện Sơn Dương 1941 – 2000”, Huyện uỷ Sơn Dƣơng xuất bản năm 2005; tập ca khúc “Về với Sơn Dương” do Huyện uỷ Sơn Dƣơng phối hợp với Hội Nhạc sĩ Việt Nam phát hành năm 2005; cuốn “Truyền thống ngành Văn hóa - Thông tin – Thể thao huyện Sơn Dương 1945 – 2005” do Trung tâm Văn hóa - Thông tin - Thể thao huyện Sơn Dƣơng xuất bản 2007; cuốn “Bác Hồ với Sơn Dương - Sơn Dương với Bác Hồ” do Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Sơn Dƣơng xuất bản 2007. 6 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  7. Các công trình nêu trên tập trung làm rõ sự phát triển của công tác Tuyên giáo trong huyện Sơn Dƣơng. Đặc biệt cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Sơn Dương 1941 – 2000” và các báo cáo tổng kết hằng năm của Đảng bộ, của các ban xây dựng Đảng, của Uỷ ban nhân dân huyện đã phác hoạ rõ nét về quá trình phát triển của công tác Tuyên giáo trong 60 năm qua. Các công trình nêu trên là những nguồn tƣ liệu quý giá giúp chúng tôi thực hiện thành công đề tài Luận văn này. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ đề tài 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về quá trình ra đời và trƣởng thành của Ban Tuyên giáo Huyện uỷ Sơn Dƣơng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: huyện Sơn Dƣơng (tỉnh Tuyên Quang), gồm 32 xã và 1 thị trấn. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu từ năm 1946 đến 2006. Tuy nhiên, để làm rõ quá trình ra đời và phát triển Ban Tuyên giáo Huyện uỷ Sơn Dƣơng, Luận văn cũng đề cập đến công tác Tuyên giáo của cả nƣớc nói chung, tỉnh Tuyên Quang nói riêng và mở rộng thời gian trƣớc khi Ban Tuyên giáo đƣợc thành lập. 3.3 Nhiệm vụ của đề tài: - Khái quát điều kiện tự nhiên, xã hội và truyền thống cách mạng của huyện Sơn Dƣơng trƣớc năm 1946. - Phân tích những chuyển biến công tác Tuyên giáo của huyện Sơn Dƣơng trong 60 năm phát triển từ năm 1946 đến năm 2006, nêu rõ những thành tích đã đạt đƣợc và tồn tại cần khắc phục trong tình hình mới hiện nay. - Đề xuất những giải pháp bƣớc đầu nhằm tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng, phát triển công tác Tuyên giáo huyện Sơn Dƣơng trong thời kì hiện nay. 7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  8. 4. Nguồn tƣ liệu, phƣơng pháp nghiên cứu. 4.1 Nguồn tư liệu: Thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng: - Những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên giáo. - Những văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nƣớc, của các cấp uỷ Đảng về công tác tuyên giáo. - Các báo cáo tổng kết, các sách, biểu bảng thống kê của các ban, ngành ở địa phƣơng về công tác tuyên giáo. - Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các tài liệu thu thập đƣợc từ điều tra, điền dã, phỏng vấn lấy ý kiến của các bậc lão thành cách mạng, lãnh đạo huyện đƣơng chức, sƣu tầm các hình ảnh có liên quan để làm cho nội dung Luận văn thêm phong phú, sinh động. - Do công tác bảo quản chƣa tốt, tài liệu bị mục nát, một số tài liệu bị thất lạc nên trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi gặp không ít khó khăn. Mặc dù đã rất cố gắng khai thác nhiều nguồn tƣ liệu, tiến hành so sánh, đối chiếu, phân tích để có đƣợc kết quả tin cậy, nhƣng chắc chắn Luận văn còn có nhiều thiếu sót. 4.2 Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp lịch sử kết hợp với phƣơng pháp lôgíc là chủ yếu. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phƣơng pháp thống kê, so sánh, phƣơng pháp định lƣợng toán học, phƣơng pháp điều tra, điền dã. 5. Đóng góp của Luận văn - Đây là công trình đầu tiên trình bày có hệ thống, chân thực quá trình ra đời và phát triển của Ban Tuyên giáo Huyện uỷ Sơn Dƣơng trong 60 năm (1946-2006). 8 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  9. - Trên cơ sở đó, Luận văn đánh giá những thành tích của Ban Tuyên giáo Huyện uỷ Sơn Dƣơng, đồng thời cũng mạnh dạn chỉ ra những hạn chế và một số kiến nghị giải pháp cần khắc phục. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho Đảng bộ huyện Sơn Dƣơng trong việc xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên giáo tại địa phƣơng, là tƣ liệu giảng dạy lịch sử địa phƣơng cho các trƣờng phổ thông ở huyện Sơn Dƣơng, tỉnh Tuyên Quang; đồng thời góp phần giáo dục truyền thống, nâng cao lòng tự hào cho các thế hệ cán bộ làm công tác Tuyên giáo của Huyện uỷ Sơn Dƣơng. 6. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn đƣợc xây dựng thành 5 chƣơng: Chƣơng mở đầu: SƠN DƢƠNG - MẢNH ĐẤT VÀ CON NGƢỜI Chƣơng 1: TỔ TUYÊN TRUYỀN VÀ CỔ ĐỘNG HUYỆN UỶ SƠN DƢƠNG TRONG THỜI KÌ ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG CHIẾN, KIẾN QUỐC ( 1941 - 1954 ) Chƣơng 2: BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN UỶ SƠN DƢƠNG TRONG THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƢỚC (1954 - 1975 ) Chƣơng 3: BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN UỶ SƠN DƢƠNG TRONG THỜI KÌ CÙNG CẢ NƢỚC THỰC HIỆN HAI NHIỆM VỤ CHIẾN LƢỢC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ( 1976 - 1986 ) Chƣơng 4: BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN UỶ SƠN DƢƠNG TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG ( 1986 - 2006 ) 9 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  10. Chƣơng mở đầu SƠN DƢƠNG - MẢNH ĐẤT VÀ CON NGƢỜI Sơn Dƣơng là một huyện miền núi và trung du nằm ở phía nam tỉnh Tuyên Quang. Phía bắc giáp huyện Yên Sơn; phía nam và phía tây - nam giáp ba huyện Đoan Hùng, Phong Châu (Phú Thọ), Lập Thạch (Vĩnh Phúc); phía đông giáp hai huyện Đại Từ, Định Hóa (Thái Nguyên). Toàn huyện có tổng diện tích tự nhiên là 789,26 km2; trong đó, đất nông nghiệp có 195,77 km2 (chiếm 24,8%), đất lâm nghiệp có 396,81 km2 (chiếm 50,27%), còn lại 24,93% là các loại đất khác [57]. Đây là vùng đất có địa hình tƣơng đối phức tạp và đƣợc chia thành hai vùng khá rõ nét. Vùng cao phía bắc chiếm khoảng 50% diện tích toàn huyện, giao thông đi lại khó khăn, dân cƣ thƣa, chủ yếu là đồng bào dân tộc ít ngƣời. Phía nam huyện là vùng đồi núi thấp và các soi bãi rộng màu mỡ cùng các thung lũng ven các con sông lớn nhƣ sông Lô, sông Phó Đáy. Đây là vùng đất giàu tiềm năng kinh tế, cƣ dân chủ yếu là ngƣời Kinh, Tày, Cao Lan, Dao... kinh tế chủ yếu dựa vào cây lƣơng thực, cây công nghiệp, chăn nuôi và khai thác khoáng sản. Sơn Dƣơng có nhiều sông, suối, ngòi. Lớn nhất là sông Lô chảy qua địa phận huyện, phân cách với các huyện bạn. Sông Phó Đáy, cùng hàng chục suối ngòi khác, nhƣ: Suối Lê, Ngòi Thia, Ngòi Khổng, Ngòi Xoan, Ngòi Lẹm... tạo thành một mạng lƣới dày đặc. Hệ thống sông ngòi của Sơn Dƣơng có giá trị lớn về cung cấp nƣớc, thuỷ sản phục vụ đời sống, sản xuất và thuỷ điện. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 230C, lƣợng mƣa khoảng trên 1.600 mm. Mùa mƣa, từ tháng 6 đến tháng 10, thƣờng hay bị ảnh lớn của gió bão, lũ quét. Do diện tích tự nhiên chủ yếu là đồi núi, nên Sơn Dƣơng có hệ động, thực vật tƣơng đối phong phú, đa dạng. Trƣớc đây, rừng Sơn Dƣơng có nhiều loại gỗ tốt nhƣ đinh, lim, sến, táu, nghiến, lát... các loại tre, nứa, song, mây, 10 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  11. cùng các loài dƣợc liệu nhƣ sa nhân, ba kích, thục, sâm... và nhiều loại muông thú: hổ, báo, trăn, lợn rừng... Lòng đất Sơn Dƣơng chứa nhiều khoáng sản: thiếc, đồng, chì, vônphram... Là vùng đất lâu đời thuộc lãnh thổ Việt Nam, từ xa xƣa Sơn Dƣơng đã là nơi cƣ trú của các bộ lạc ngƣời cổ đại. Nhờ những thành tựu mới của ngành Khảo cổ học, hiện nay trên vùng đất Sơn Dƣơng đã phát hiện nhiều di vật của cƣ dân từ thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt minh chứng cho dòng chảy liên tục của lịch sử trên mảnh đất Sơn Dƣơng. Năm 2003, tại thôn Văn Sòng xã Thiện Kế, nhân dân đã đào đƣợc chiếc trống đồng Đông Sơn, có niên đại cách đây khoảng 4.000 năm [19, tr.45]. Cũng thời gian đó, nhân dân thôn Bắc Hoàng, thị trấn Sơn Dƣơng đào đƣợc chiếc trống đồng có niên đại cách ngày nay khoảng 2.000 năm 1 [24, tr.33]. Địa danh và địa giới của vùng đất này trải qua các thời kì đã có nhiều lần thay đổi. Từ khi xuất hiện nền Văn minh sông Hồng của ngƣời Việt cổ đến thế kỉ XV, nơi đây đƣợc gọi là châu Để Giang; Để là Đáy, Giang là Sông, tức là châu Sông Đáy - vùng đất chạy dọc theo Sông Đáy. Đến thế kỉ XVI, dƣới thời nhà Lê, châu Để Giang đƣợc đổi tên thành châu Sơn Dƣơng; Sơn là núi, Dƣơng là ánh sáng lúc mặt trời mọc lên - dịch nghĩa là Mặt trời mọc trên đỉnh núi. Từ năm 1888 trở về trƣớc, Sơn Dƣơng thuộc về phủ Đoan Hùng, trấn Sơn Tây. Đầu năm 1888, vua Hàm Nghi ra đạo dụ tách châu Sơn Dƣơng từ phủ Đoan Hùng, nhập vào thừa tuyên Tuyên Quang [1, tr.17]. Về dân số và dân tộc, từ thời kì dựng nƣớc vùng đất này là địa bàn cƣ trú của ngƣời Việt cổ. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, đồng bào các dân tộc khác đã đến khai phá, canh tác vùng đất dọc theo lƣu vực sông Lô, sông Phó 1 Hiện nay, việc tìm thấy những chiếc trống đồng Đông Sơn tại Sơn Dƣơng còn có ý kiến khác nhau của các nhà khoa học về nguồn gốc xuất xứ. Có giả thuyết nêu lên đó là do quá trình giao thoa, trao đổi văn hóa; cũng có ý kiến cho rằng đó là nơi sản xuất ra những chiếc trống đồng. 11 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  12. Đáy. Đến năm 2006, dân số toàn huyện là 38.058 hộ, với 171.479 nhân khẩu [56]. Sơn Dƣơng có 9 dân tộc: Kinh, Tày, Sán Chay, Nùng, Dao, Sán Dìu, Mông, Hoa, Mƣờng sinh sống gắn bó, đoàn kết trong 33 xã, thị trấn: Trung Yên, Minh Thanh, Tân Trào, Bình Yên, Lƣơng Thiện, Tú Thịnh, Thị trấn Sơn Dƣơng, Hợp Thành, Kháng Nhật, Hợp Hòa, Thiện Kế, Ninh Lai, Tuân Lộ, Thanh Phát, Thƣợng Ấm, Vĩnh Lợi, Cấp Tiến, Phúc Ứng, Sơn Nam, Đại Phú, Phú Lƣơng, Tam Đa, Hào Phú, Hồng Lạc, Sầm Dƣơng, Lâm Xuyên, Văn Phú, Vân Sơn, Đông Lợi, Chi Thiết, Đồng Quý, Quyết Thắng, Đông Thọ [50]. Qua hàng ngàn năm chinh phục thiên nhiên, đức tính cần cù, lòng dũng cảm, sự sáng tạo của nhân dân Sơn Dƣơng đã đƣợc hun đúc. Bằng sức lực, trí tuệ của mình, đồng bào các dân tộc đã biến núi rừng hoang vu thành những đồng ruộng bậc thang tƣơi tốt, biến đầm lầy gò bãi thành những tràn ruộng, ao hồ để phát triển trồng trọt và chăn nuôi. Ngoài ra, những nghề thủ công cũng đƣợc phát triển nhƣ: khai thác chế biến nông lâm sản và dƣợc liệu, dệt vải, thổ cẩm từ sợi lanh, sợi bông, thêu, nhuộm, chế tạo công cụ lao động, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt từ đồng, sắt, song mây, tre, nứa, đồ trang sức bằng vàng, bạc, đá quý. Từ tiến trình dựng nƣớc và giữ nƣớc, từ lao động và chiến đấu, với tình yêu quê hƣơng đất nƣớc, đôi bàn tay cần cù, khéo léo và tâm hồn trong sáng, nhạy cảm, nhân dân các dân tộc Sơn Dƣơng đã sáng tạo, gìn giữ và làm giàu lên kho tàng văn hóa của mình. Đó là những làn điệu: sli, lƣợn, páo dung, sình ca, lễ cấp sắc; hoặc những đƣờng nét hoa văn duyên dáng, tinh xảo trên những tấm thổ cẩm, trên trang phục, hàng mây tre đan và đồ trang sức. Mặt khác, sự giao lƣu văn hoá với các miền đã tạo thành đời sống văn hoá tinh thần hết sức phong phú, đa dạng của nhân dân các dân tộc Sơn Dƣơng. Do nằm ở vị trí chiến lƣợc quan trọng, từ xa xƣa nhân dân Sơn Dƣơng đã luôn sát cánh cùng nhân dân cả nƣớc đứng lên chiến đấu chống kẻ thù xâm lƣợc phƣơng Bắc, bảo vệ chủ quyền độc lập dân tộc. Đồng thời, nhân dân các 12 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  13. dân tộc trong huyện cũng luôn thể hiện rõ tinh thần đấu tranh, chống chế độ phong kiến phản động, hà khắc, bảo thủ lạc hậu, giành lại tự do cho mình. Trong thế kỉ XI, nhân dân trong huyện đã cùng đội quân của Lý Thƣờng Kiệt tập kích vào đất Tống, phá vỡ bƣớc đầu kế hoạch xâm lƣợc của quân giặc, đẩy kẻ thù vào thế bị động và tạo ra nhiều điều kiện có lợi để đánh bại kẻ thù khi chúng kéo quân sang xâm lƣợc nƣớc ta. Thời nhà Trần, trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai, nhân dân Sơn Dƣơng đã cùng đội quân của Chiêu Văn vƣơng Trần Nhật Duật chiến đấu anh dũng, lập nhiều chiến công vang dội có ý nghĩa chiến lƣợc, góp phần đánh đuổi 50 vạn quân xâm lƣợc ra khỏi bờ cõi Tổ quốc. Đời Lê - Mạc, hai anh em Vũ Công Uyển, Vũ Công Mật tập hợp nông dân đứng lên chống chế độ phong kiến phản động hà khắc. Năm 1789, nhân dân các dân tộc trong huyện đã hoà vào phong trào Tây Sơn, tham gia chặn đánh quân giặc Thanh do Tôn Sỹ Nghị cầm đầu trên đƣờng chúng tháo chạy về nƣớc. Cuối thế kỉ XIX, mặc dù triều đình nhà Nguyễn bạc nhƣợc đầu hàng quân Pháp, nhƣng cùng với nhân dân cả nƣớc, các dân tộc Sơn Dƣơng vẫn liên tục nổi dậy đấu tranh chống lại sự áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và bè lũ tai sai. Ngày 31-5-1884, thực dân Pháp đem quân chiếm đóng Tuyên Quang. Nhân dân Sơn Dƣơng bị đặt dƣới ách cai trị của bọn đế quốc, phong kiến. Chúng thiết lập chính sách cai trị hà khắc, tƣớc đoạt quyền tự do, dân chủ tối thiếu của nhân dân. Chúng cƣớp đoạt ruộng đất nông dân để lập đồn điền, biến ngƣời dân thành tá điền làm thuê cho chúng. Những đồn điền bao la, nhƣ: Roayđơba, Anbe, chúa đất Khôi… cƣớp đoạt của nông dân hàng ngàn mẫu đất, đồng thời là hang ổ của bọn phản động, thổ phỉ và khét tiếng dã man đã gây ra biết bao nỗi đau khổ cho nhân dân trong huyện. 13 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  14. Với tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc, không khuất phục trƣớc áp bức, bất công, các cuộc đấu tranh của nhân dân tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Hƣởng ứng phong trào Cần vƣơng, nhân dân các dân tộc huyện Sơn Dƣơng đã tích cực tham gia khởi nghĩa vũ trang dƣới sự chỉ huy của các tù trƣởng, thủ lĩnh trong vùng. Phong trào đấu tranh của nông dân Yên Thế (1884 - 1913) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo cũng đƣợc nhân dân Sơn Dƣơng hƣởng ứng mạnh mẽ, lôi cuốn sự tham gia của hàng ngàn nông dân thuộc các xã: Hồng Lạc, Văn Phú, Vân Sơn, Đông Lợi, Phú Lƣơng, Tam Đa, Lâm Xuyên… [14, tr.18]. Đầu thế kỉ XX, nhân dân các xã Lâm Xuyên, Hào Phú, Hồng Lạc, Tân Trào, Bình Yên, Kỳ Lâm, Thƣợng Ấm, Thiện Kế...[22, tr.19], bằng nhiều hình thức, đã liên tiếp nổi dậy chống các hành động lấn chiếm ruộng đất và chế độ bóc lột dã man của thực dân Pháp và tay sai. Nhìn chung, các cuộc đấu tranh nổ ra lẻ tẻ, manh động và bị thất bại. Song, nó đã thể hiện truyền thống yêu nƣớc, chí khí quật cƣờng của nhân dân các dân tộc Sơn Dƣơng trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Đồng thời, các cuộc đấu tranh giai đoạn này cũng báo hiệu một phong trào cách mạng to lớn sẽ nổ ra khi có đƣờng lối lãnh đạo đúng đắn. Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Từ đây, một phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ trong cả nƣớc. Sẵn có tinh thần yêu nƣớc, yêu quê hƣơng làng bản từ ngàn xƣa để lại, nhân dân các dân tộc huyện Sơn Dƣơng một lòng một dạ đi theo Đảng, quyết tâm đánh đuổi quân xâm lƣợc, giành lại độc lập, tự do. Cũng nhƣ cả nƣớc, thực dân Pháp áp đặt ách thống trị vô cùng tàn bạo tại Sơn Dƣơng. Chúng thiết lập hệ thống đồn bốt dày đặc nhằm đàn áp phong trào nổi dậy của quần chúng, bảo vệ các cơ quan thống trị. Chính sách cai trị hà khắc, khai thác bóc lột dã man của đế quốc, phong kiến làm cho đời sống nhân dân ngày càng cơ cực. Nhân dân ta phải gánh chịu một chế độ tô, thuế 14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  15. hết sức dã man, với nhiều loại khác nhau: thuế thân, thuế điền, thuế thổ trạch, tô liên đới 1… Đời sống vô cùng khổ cực là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những cuộc đấu tranh của nhân dân Sơn Dƣơng liên tiếp nổ ra. Đặc biệt là cuộc đấu tranh chống thu thuế, chống thu tô liên đới của hàng trăm nông dân Khe Thuyền, Văn Phú ngày 7-11-1936, do thầy giáo Nhạ 2 và Lý Tàng chỉ huy giành đƣợc thắng lợi, đã có tiếng vang và ảnh hƣởng khắp cả vùng [27, tr.21]. Đầu năm 1940, dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, cơ sở cách mạng đã đƣợc gây dựng ở khắp các địa phƣơng trong tỉnh Tuyên Quang. Ở các xã vùng phía nam huyện Sơn Dƣơng, các cán bộ của Đảng đã về hoạt động tuyên truyền vận động nhân dân làm cách mạng đánh đuổi quân xâm lƣợc và bè lũ tay sai bán nƣớc. Tháng 6-1940, Đào Văn Thại (tức Lê Đồng) đã về hoạt động tại vùng Khổng Xuyên, Văn Phú, Đông Lợi... Nhờ sự che chở, giúp đỡ của nhân dân, đồng chí đã liên tiếp tổ chức các buổi lễ ăn thề tại Kim Xuyên, Gò Kiêu, Núi Lịch tuyên truyền, vận động, giác ngộ cho nhân dân về tinh thần yêu nƣớc, lòng căm thù đế quốc phong kiến, chống sự áp bức của chủ đồn điền [12, tr.9]. Công tác tuyên truyền vận động luôn đƣợc coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cán bộ cách mạng cũng nhƣ các tổ chức quần chúng. Các hình thức tuyên truyền đƣợc vận dụng hết sức khéo léo, linh hoạt, đa dạng và phong phú: tổ chức 1 Tô liên đới là hành động thâm độc của bọn chủ đất. Gia đình nào gặt trƣớc, làng xã phải thu đủ số lƣợng thóc khô, sạch đóng nộp lên cho bọn chủ đất. Sau đó, làng xã phải tự thu lại thóc của các nhà gặt sau trả lại cho những gia đình gặt trƣớc đã phải nộp cho chủ đất. 2 Đầu năm 1936, thầy giáo Nhạ đến dạy học tại Khe Thuyền, Văn Phú. Vừa dạy học, thầy giáo Nhạ vừa tuyên truyền vận động nhân dân làm cách mạng, chống bọn chủ đồn điền Roayđơba, chúa đất Khôi, nhất là việc bày cách cho nhân dân chống thu thuế, chống thu tô liên đới của bọn địa chủ. Ngay sau khi cuộc đấu tranh dành đƣợc thắng lợi thì không ai hay biết thầy giáo Nhạ đi đâu và làm gì nữa. Hiện nay, Ban Tuyên giáo và Đảng uỷ xã Văn Phú chƣa sƣu tầm xác định chính xác đƣợc thầy giáo Nhạ có phải là đảng viên Đảng cộng sản Đông Dƣơng đƣợc cử về nơi đây hoạt động cách mạng hay không. 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  16. nói chuyện, đọc sách báo cách mạng, học thuộc lòng trƣớc rồi truyền khẩu trong một vài ngƣời, đến tuyên truyền theo từng nhóm, tổ... Các tờ báo của Đảng đƣợc chuyển từ miền xuôi lên đã góp phần tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho nhân dân. Nhờ có sự lƣu hành sách báo của Đảng và sự vận động tích cực, khéo léo của cán bộ cách mạng, nhân dân bƣớc đầu đƣợc giác ngộ về quyền lợi giai cấp, quyền lợi dân tộc, thấy rõ tội ác của kẻ thù, nỗi nhục của ngƣời dân mất nƣớc, đồng thời cũng hiểu đƣợc đƣờng lối và phƣơng thức đấu tranh cách mạng. Lúc này, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra ngày càng ác liệt. Trƣớc tình hình đó, Trung ƣơng Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đã quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, tập hợp lực lƣợng chuẩn bị khởi nghĩa từng phần, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nƣớc. Xác định rõ trách nhiệm lớn lao, công tác tuyên truyền, vận động của huyện Sơn Dƣơng tiếp tục động viên hun đúc ngọn lửa yêu nƣớc của đồng bào toàn huyện quyết tâm đứng lên đi theo Đảng làm cách mạng, giành lấy độc lập tự do về mình. 16 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  17. Chƣơng 1 TỔ TUYÊN TRUYỀN VÀ CỔ ĐỘNG HUYỆN UỶ SƠN DƢƠNG TRONG THỜI KÌ ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG CHIẾN, KIẾN QUỐC (1941 - 1954) 1.1. CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỔ ĐỘNG GÓP PHẦN GÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO CÁCH MẠNG VÀ KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1941 - 1945) Ngày 22-9-1940, phát xít Nhật nổ súng tấn công quân Pháp tại Lạng Sơn, chính thức xâm lƣợc Đông Dƣơng. Thực dân Pháp hèn nhát nhanh chóng đầu hàng nhục nhã [40, tr.345]. Chớp thời cơ, đêm ngày 27-9-1940, nhân dân Bắc Sơn (Lạng Sơn), dƣới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phƣơng đã nổi dậy khởi nghĩa, chặn đánh quân Pháp, đánh chiếm đồn Mỏ Nhài, làm chủ châu lị và các vùng trong châu. Cả Pháp và Nhật đều hoảng sợ trƣớc lực lƣợng cách mạng nên đã cấu kết với nhau, tiến hành khủng bố phong trào cách mạng Bắc Sơn. Chúng đốt phá làng bản, bắn giết nhân dân, dìm cuộc khởi nghĩa trong biển máu. Tuy vậy, một bộ phận lực lƣợng vũ trang đã đƣợc Đảng ta duy trì và phát triển thành Đội Cứu quốc quân [10, tr.34]. Tháng 11-1941, thực hiện sự phân công của Xứ ủy Bắc Kì, Nguyễn Cao Đàm - Chính trị chỉ đạo viên Đội Cứu quốc quân cùng Phƣơng Cƣơng, Phúc Quyền, Nhì Phung... đã vƣợt vòng vây của địch đến gây dựng cơ sở cách mạng mới ở vùng ven chân núi Hồng, thuộc các xã Lƣơng Thiện, Bình Yên, Tân Trào, Trung Yên, Minh Thanh huyện Sơn Dƣơng và các huyện xung quanh [15, tr.23]. Trong điều kiện dân cƣ chủ yếu là đồng bào Dao, trình độ dân trí thấp, còn chịu ảnh hƣởng nặng nề của các tập tục mê tín, song có truyền thống yêu nƣớc, 17 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  18. đoàn kết, cán bộ Cứu quốc quân đã vận dụng một cách khéo léo mối quan hệ họ hàng thân tộc, đồng niên, cùng cảnh ngộ để tuyên truyền giác ngộ đồng bào theo Việt Minh làm cách mạng, đóng vai thầy cúng, cán bộ Cứu quốc quân khéo léo đƣa nội dung hoạt động của Mặt trận Việt Minh vào các bài cúng. Khi đã giác ngộ, những quần chúng tốt đƣợc kết nạp vào Việt Minh qua các buổi lễ uống máu ăn thề theo phong tục địa phƣơng. Nhờ có những hình thức khéo léo, linh hoạt nhƣ vậy, phong trào cách mạng nhanh chóng phát triển trong các vùng đồng bào dân tộc. Những năm 1942 - 1943, đƣờng lối cách mạng của Đảng tiếp tục đƣợc cán bộ cách mạng tuyên truyền mạnh mẽ vào các vùng trong huyện. Phong trào Việt Minh phát triển nhanh chóng, các cuộc đấu tranh chống bắt phu, bắt lính, chống thuế... nổ ra ở nhiều nơi. Các xã: Trúc Khê, Phƣợng Liễn, Lũng Tẩu, Khuổi Kịch, Ngòi Nho, Khuôn Đào, Ao Búc... đã có Ban Việt Minh [13, tr.9]. Tại các cuộc mít tinh của nhân dân, cán bộ cách mạng đã diễn thuyết vạch rõ tội ác của giặc và phổ biến điều lệ, chính sách của Mặt trận Việt Minh. Cán bộ cách mạng cũng sử dụng những hình thức tuyên truyền vận động phù hợp với tâm lí của đồng bào nhƣ dựa vào quan hệ họ hàng, láng giềng, tuổi tác, phong tục tập quán... Tháng 11-1943, cán bộ Việt Minh hoạt động tại vùng xung quanh núi Hồng đã họp bàn việc mở rộng cơ sở cách mạng. Sau đó, Phân khu Nguyễn Huệ đƣợc thành lập. Sơn Dƣơng đƣợc chọn là trung tâm chỉ huy của Phân khu Nguyễn Huệ, nơi đặt đại bản doanh của cơ quan Khu uỷ và nơi đóng quân của Trung đội Cứu quốc quân III, làm nòng cốt cho công tác vũ trang, tuyên truyền cách mạng [21, tr.41]. Dƣới sự chỉ đạo trực tiếp của Khu uỷ Nguyễn Huệ, phong trào cách mạng đã hình thành và phát triển ở khắp các vùng nông thôn trong huyện Sơn Dƣơng. Phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển thành cao trào, trọng 18 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  19. tâm của các hoạt động cách mạng là chuẩn bị lực lƣợng khởi nghĩa để giành chính quyền về tay nhân dân. Đáp ứng đòi hỏi của phong trào cách mạng đang lên rất cao, tháng 10-1944, Xứ ủy Bắc kì quyết định tổ chức vƣợt ngục cho 12 đảng viên cộng sản 1 đang bị địch giam giữ tại nhà tù Chợ Chu (Định Hóa, Thái Nguyên). Cuộc vƣợt ngục thành công, các ông: Song Hào, Trần Thế Môn, Lê Hiến Mai, Tạ Xuân Thu, Chu Quý Lƣơng và Trần Tùng đƣợc phân công về Phân khu Nguyễn Huệ, trực tiếp hoạt động cách mạng tại Sơn Dƣơng [60, tr.66]. Đây là điều kiện vô cùng thuận lợi về mọi mặt cho phong trào cách mạng của huyện, đặc biệt là trên lĩnh vực tuyên truyền vận động nhân dân tiếp tục đứng lên đi theo Đảng làm cách mạng, đánh đuổi quân thù xâm lƣợc. Công tác tuyên truyền vận động ở Sơn Dƣơng thời kì này tập trung phát động khí thế đấu tranh của quần chúng nhân dân qua các hình thức phong phú, đa dạng, nhƣ tổ chức mít tinh, triển lãm tranh ảnh, kẻ vẽ khẩu hiệu phục vụ cách mạng. Ngoài việc tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân, các cán bộ cách mạng còn chú trọng vận động, khơi dậy tinh thần yêu nƣớc của binh lính ngƣời Việt trong hàng ngũ địch, đặc biệt là binh lính đóng tại hai đồn Đăng Châu và Thiện Kế. Vừa tuyên truyền vận động vừa kiểm soát khống chế, trong quá trình xây dựng cơ sở và cao trào tổng khởi nghĩa, ta đã phân hoá đƣợc binh lính, chính quyền tay sai địch ở tất cả các xã trong huyện. Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Ban Thƣờng vụ Trung ƣơng Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12-3-1945), quyết định phát động cao trào cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân. 1 Đó là: Song Hào, Trần Thế Môn, Lê Hiến Mai, Tạ Xuân Thu, Chu Quý Lƣơng, Trần Tùng, Nhị Quý, Vũ Phong, Hoàng Bá Sơn, Phạm Ngọc Bổng, Trung Đình và Nguyễn Cao. 19 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  20. Ngày 10-3-1945, tại Sơn Dƣơng, nhận thấy thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền đã chín muồi, Khu uỷ Phân khu Nguyễn Huệ họp dƣới sự chủ trì của Song Hào1, đã quyết định chọn Thanh La (nay là xã Minh Thanh) làm nơi khởi nghĩa giành chính quyền đầu tiên trong cả vùng. Đêm 10-3-1945, ta đã giải phóng hoàn toàn xã Thanh La. Thừa thắng, quân cách mạng tiến về giải phóng đồn Đăng Châu, huyện lị Sơn Dƣơng và các xã lân cận. Ngay sau khi Đăng Châu đƣợc giải phóng, Phân khu uỷ Nguyễn Huệ tổ chức mít tinh tại Đình Thanh La, tuyên bố thành lập châu Tự Do và Uỷ ban cách mạng lâm thời Châu. Đây là huyện đầu tiên trong cả nƣớc đã giành đƣợc chính quyền cách mạng về tay nhân dân [59, tr.19]. Sau khi khởi nghĩa Thanh La thắng lợi, đồn Đăng Châu bị tiêu diệt, châu Tự Do đƣợc thành lập, phong trào cách mạng phát triển cực kì nhanh chóng. Từ châu Tự Do, các đoàn quân khởi nghĩa đƣợc lệnh toả đi giải phóng các nơi, nhƣ: Đại Từ, Định Hóa, Yên Sơn, Chiêm Hóa, Nà Hang, Phù Ninh, Đoan Hùng… Đầu tháng 5-1945, dƣới sự chỉ huy của Lê Dục Tôn, Hoàng Bắc Dũng, Kim Ngọc, quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn vùng trung và hạ huyện Sơn Dƣơng, chính quyền cách mạng các xã nhanh chóng đƣợc thành lập. Ngày 15-5- 1945, quân cách mạng tổ chức cuộc mít tinh lớn tại thôn Đồng Khuôn, xã Phú Lƣơng; Lê Dục Tôn thay mặt Khu uỷ Phân khu Nguyễn Huệ đã tuyên bố thành lập châu Kháng Địch, bao gồm trung, hạ huyện Sơn Dƣơng và một phần Đoan Hùng, Phù Ninh (Phú Thọ), Lập Thạch (Vĩnh Phúc) 2 [17, tr.41]. Đến đây, công cuộc vận động cách mạng giải phóng đầy hi sinh, gian khổ đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi toàn huyện. Lúc này, Song Hào giữ chức vụ Bí thƣ Khu uỷ Phân khu Nguyễn Huệ. Trụ sở cơ 1 quan Khu uỷ Nguyễn Huệ đóng tại thôn Ao Búc, xã Trung Yên, huyện Sơn Dƣơng. 2 Ban châu Kháng Địch do Trần Tiến Thanh làm Chủ tịch. 20 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2