intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA THƠ CA DÂN TỘC MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI (TỪ 1945 ĐẾN NAY)

Chia sẻ: Orchid_1 Orchid_1 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:105

219
lượt xem
35
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Là một bộ phận hợp thành của nền văn học Việt Nam, thơ ca các dân tộc thiểu số đã có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển chung của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Điều này đã được Nghị quyết Trung ương V (khoá VIII) đánh giá “văn học các dân tộc thiểu số có bước tiến đáng kể. Đội ngũ những nhà văn hoá người dân tộc thiểu số phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, đã có những đóng góp quan trọng vào hầu hết các lĩnh vực văn học...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA THƠ CA DÂN TỘC MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI (TỪ 1945 ĐẾN NAY)

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRỜNG ĐẠI HỌC S PHẠM ------------------------------- NGUYỄN KIẾN THỌ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA THƠ CA DÂN TỘC MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI (TỪ 1945 ĐẾN NAY) LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRỜNG ĐẠI HỌC S PHẠM ------------------------------- NGUYỄN KIẾN THỌ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA THƠ CA DÂN TỘC MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI (TỪ 1945 ĐẾN NAY) CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN THỊ VIỆT TRUNG THÁI NGUYÊN - 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2
  3. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................5 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 5 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 6 3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu .................................................................. 9 3.1. Mục đích .............................................................................................. 9 3.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 10 4. Nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................... 10 5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 11 6. Cấu trúc luận văn ..................................................................................... 11 PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................12 Chƣơng 1. VÀI NÉT VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ XÃ HỘI CỦA DÂN TỘC MÔNG ............................................................................12 1.1. Một số đặc điểm về cộng đồng dân tộc Mông ở Việt Nam .................. 12 1.1.1. Đặc điểm tộc người và điều kiện tự nhiên ..................................... 12 1.1.2. Đặc điểm phong tục tập quán và sinh hoạt cộng đồng .................. 17 1.1.3. Đặc điểm về đời sống tâm linh ....................................................... 24 1.1.4. Đặc điểm về ngôn ngữ, chữ viết ..................................................... 27 1.2. Vài nét về thơ ca dân tộc Mông ............................................................ 30 1.2.1. Thơ ca dân gian .............................................................................. 30 1.2.2. Thơ ca hiện đại ............................................................................... 33 Chƣơng 2. THƠ MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI - BỨC TRANH SINH ĐỘNG VỀ THIÊN NHIÊN, CUỘC SỐNG, CON NGƢỜI CỦA MỘT DÂN TỘC ĐẦY BẢN SẮC .........................41 2.1. Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại ....... 41 2.2. Hình ảnh con người và cuộc sống vùng cao trong thơ dân tộc Mông thời kỳ hiện đại ......................................................................... 46 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3
  4. 2.2.1. Con người dân tộc Mông chân chất, mạnh mẽ và tài hoa ............... 46 2.2.2. Cuộc sống đơn sơ nhưng phong phú và giàu bản sắc ................... 51 Chƣơng 3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ CA DÂN TỘC MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI ..............................62 3.1. Dấu ấn của các thể loại thơ ca dân gian trong thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại........................................................................... 62 3.1.1. Sự vận dụng sáng tạo, hiệu quả vốn tục ngữ, ca dao, dân ca Mông ... 62 3.1.2. Sự vận dụng các hình thức nghệ thuật thơ ca dân gian trong thơ dân tộc Mông thời kỳ hiện đại .................................................. 69 3.2. Ngôn ngữ hình ảnh trong thơ Mông thời kỳ hiện đại ........................... 73 3.2.1. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của đồng bào Mông............................................................... 73 3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu nhạc điệu ............................... 77 3.2.3. Ngôn ngữ, hình ảnh mang sắc thái đặc trưng của dân tộc Mông . 78 3.3. Cấu trúc, nhịp điệu trong thơ Mông thời kỳ hiện đại ........................... 81 3.3.1. Cấu trúc, nhịp điệu chịu ảnh hưởng của thơ ca truyền thống dân tộc Mông ...................................................................... 81 3.3.2. Xu hướng hiện đại trong cấu trúc, nhịp điệu của thơ ca Mông thời kỳ hiện đại............................................................................... 83 3.4. Tư duy, diễn đạt trong thơ Mông thời kỳ hiện đại ............................... 86 3.4.1. Tư duy trực quan hình ảnh ............................................................. 86 3.4.2. Tư duy, diễn đạt mang đậm bản sắc dân tộc Mông ....................... 87 PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................94 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................99 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4
  5. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thơ ca dân tộc Mông là một bộ phận quan trọng trong nền thơ của các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Nó đã góp phần tạo nên sự đa sắc màu cho đời sống thơ ca dân tộc vốn đã rất phong phú và giàu bản sắc. Vì vậy, khi nghiên cứu thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam không thể không nghiên cứu thơ ca dân tộc Mông - tiếng nói văn học của một dân tộc có số cư dân đông vào hàng thứ tám trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam và cũng là một dân tộc có truyền thống văn hoá rất độc đáo và đặc sắc. Trong quá trình nghiên cứu về thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, đã có những tác giả có sự quan tâm đến việc tìm hiểu thơ ca của dân tộc Mông. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc tuyển chọn và giới thiệu thơ của một số tác giả dân tộc Mông trong các tuyển tập thơ ca các dân tộc thiểu số nói chung; hoặc điểm qua tên tuổi của một số nhà thơ người Mông đã phần nào trở nên quen thuộc trong số các nhà thơ dân tộc thiểu số như: Mã A Lềnh, Mùa A Sấu, Hùng Đình Quí… Nhìn chung, tất cả các công trình nghiên cứu, bài viết nói trên - dù trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến thơ ca hiện đại dân tộc Mông - cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ điểm qua, như những nét phác thảo, chưa toàn diện và hệ thống, chưa làm nổi bật được những nét đặc sắc cũng như những đóng góp của thơ ca hiện đại dân tộc Mông đối với nền thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng và nền thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. Do đó, rất cần thiết phải có một công trình nghiên cứu chuyên biệt, nghiên cứu một cách hệ thống và thấu đáo, nhằm chỉ ra những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật, sự vận động và phát triển cũng như những giá trị của thơ ca hiện đại dân tộc Mông trong việc góp phần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5
  6. tạo nên một nền thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng, thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung, phong phú và giàu bản sắc dân tộc. Chính vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Một số đặc điểm của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại (từ 1945 đến nay)” cho luận văn của mình. Vốn là một cán bộ của Trung tâm đào tạo bồi dưỡng cho cán bộ giáo viên các dân tộc tỉnh Thái Nguyên, lại có dịp tiếp xúc nhiều với cộng đồng dân tộc Mông, tôi rất yêu quí và trân trọng những nét đẹp văn hoá mang tính bản sắc và đặc biệt là thơ ca của dân tộc Mông (cả thơ ca truyền thống và thơ ca hiện đại). Vì vậy, nếu đề tài được thực hiện thành công, tôi hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé của mình vào việc chỉ ra được những vẻ đẹp đặc trưng, mới lạ và độc đáo của thơ ca dân tộc Mông. Mặt khác, qua việc thực hiện đề tài, người viết cũng muốn góp thêm một tiếng nói vào việc giữ gìn, bảo tồn những nét đẹp của bản sắc văn hoá dân tộc Mông, cũng như mong muốn thực hiện được chủ trương đưa vào chương trình giảng dạy các tác phẩm văn học dân tộc thiểu số - trong đó có các tác phẩm thơ ca hiện đại dân tộ c Mông- trong nhà trường phổ thông, cao đẳng, đại học hiện nay,đặc biệt là các trường thuộc khu vực miền núi phía Bắc. 2. Lịch sử vấn đề Theo tìm hiểu bước đầu của chúng tôi thì tình hình nghiên cứu về thơ ca dân tộc Mông (cũng như thơ ca các dân tộc thiểu số khác) mới chỉ được bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây. Mặc dù đã có một số thành tựu nhất định nhưng nhìn chung, việc giới thiệu, nghiên cứu và phê bình văn học các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, còn lâm vào tình trạng “rời rạc, lẻ tẻ, chắp vá…” (Lò Ngân Sủn). Một phần do tình trạng “ảnh hưởng của văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số còn khá mờ nhạt trong nhận thức và đánh giá của xã hội” [25;10], dẫn đến nhiều tác giả, tác phẩm chưa được chú ý, “nhiều thực tế phong phú chưa được tổng kết, thậm chí Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6
  7. chưa được tập hợp lại một cách tương đối hệ thống; nhiều vấn đề lí luận và thực tiễn chưa được xới ra xem xét, nghiên cứu chặt chẽ, thấu đáo” (Nguyên Ngọc). Về thơ ca dân tộc Mông nói chung, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu, song chủ yếu là về thơ dân gian với các công trình sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu dân ca Mông như: Dân ca Mèo (Doãn Thanh, Nxb Văn học 1967). Các cuốn sách giới thiệu các tác phẩm văn học dân gian do Ty Văn hoá Thông tin các tỉnh Hà Giang, Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn xuất bản trong khoảng thời gian từ 1971 đến 1978; năm 1984, cuốn Dân ca Mông được tác giả Doãn Thanh biên soạn lại và xuất bản với lời giới thiệu của nhà thơ Chế Lan Viên. Từ 1994 đến nay, Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc lần lượt giới thiệu một số tác phẩm sưu tầm dân ca, tục ngữ, câu đố dân tộc Mông của tác giả Hùng Đình Quí, Hờ A Di, Lê Trung Vũ, đặc biệt là việc xuất bản 6 tập Dân ca HMông do nhà thơ, nhà sưu tầm văn học dân gian Hùng Đình Quí biên soạn. Theo khảo sát của chúng tôi, một công trình nghiên cứu có tính hệ thống, qui mô và toàn diện hơn cả là đề tài, luận văn Thạc sĩ của Hùng Thị Hà: Thơ ca dân gian HMông (2003).[17] Nên có thể nói, thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại là mảng nghiên cứu hiện nay còn bỏ ngỏ, ngoại trừ một số các công trình mang tính chất tập hợp, tuyển chọn và giới thiệu thơ văn các dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc Mông, như: Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945 - 1985 (Nxb Văn hoá, 1981); tuyển tập Thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX (Nxb Văn hoá Dân tộc, 2000); hay các tác phẩm chuyên sâu về nghiên cứu, phê bình văn học các dân tộc thiểu số (ít nhiều có liên quan đến thơ văn hiện đại dân tộc Mông) như: 40 năm văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (Nxb Văn hoá Dân tộc, 1985); Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại của Lâm Tiến (Nxb Văn hoá Dân tộc, 1995); Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu số của Lò Ngân Sủn (Nxb Văn hoá Dân tộc, 2002) …. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7
  8. Một điều dễ nhận thấy là hầu như tất cả các công trình nghiên cứu này chỉ điểm qua mảng văn học dân tộc Mông, đặc biệt là thơ hiện đại như một cách để “nói cho đủ”. Trong đó Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại của nhà nghiên cứu, phê bình văn học Lâm Tiến có thể coi là một công trình nghiên cứu qui mô nhất về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại từ trước cách mạng tháng tám năm 1945 trên cả ba lĩnh vực: Thơ, văn xuôi và kịch. Tuy nhiên, công trình này mới chỉ đi sâu nghiên cứu đánh giá về một số tác giả tác phẩm tiêu biểu của các dân tộc thiểu số xét trên từng giai đoạn lịch sử, chứ chưa phác thảo về diện mạo cũng như chưa đi sâu nghiên cứu về đặc điểm văn học nói chung và thơ ca nói riêng của từng dân tộc. Vì thế, thơ ca hiện đại dân tộc Mông cũng không được đề cập ngoài vài dòng điểm tên các tác giả, tác phẩm nhằm minh hoạ cho việc phân tích, diễn giải một luận điểm nào đó của người viết; cuốn Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu số của Lò Ngân Sủn đi sâu bàn luận thơ ca của các tác giả dân tộc thiểu số. Trong đó, một vài nhà thơ hiện đại dân tộc Mông cũng đôi lần được nhắc đến cùng với những đánh giá, bình xét về đặc điểm thơ của các tác giả này. Năm 2008, Viện Văn học đã nghiệm thu đề tài khoa học Thơ dân tộc ít người giai đoạn 10 năm cuối thế kỷ XX - truyền thống và hiện đại của nhóm tác giả Hà Công Tài, Nguyễn Thị Thanh Lưu, Đỗ Thị Thu Huyền. Lý do mà các tác giả đưa ra khi chọn nghiên cứu đề tài này là, thơ dân tộc ít người giai đoạn 10 năm cuối thế kỷ XX (1990 - 1999) có những thành tựu nhất định, biểu hiện ở việc xuất hiện những “tác giả thật đặc sắc”, đã gây được “những ảnh hưởng không chỉ đến sáng tác văn học dân tộc thiểu số mà cả sáng tác văn học nói chung”. Đây được coi là cơ sở bước đầu để “triển khai nghiên cứu, tổng kết 50 năm xây dựng văn học dân tộc thiểu số (từ sau Cách mạng thành công tháng 8/1945) [59]. Nhìn chung, đây là một công trình nghiên cứu nghiêm túc, công phu và khá toàn diện trong nhìn nhận, đánh giá những thành tựu của thơ ca các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8
  9. dân tộc thiểu số. Đặc biệt là việc bước đầu đánh giá mối quan hệ giữa thơ ca dân gian và thơ ca hiện đại của các dân tộc ít người qua khảo sát hệ thống biểu tượng, cùng với việc giới thiệu một số chân dung tác giả tiêu biểu đại diện cho thơ ca hiện đại các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, do khuôn khổ và nội dung của đề tài, thơ ca hiện đại dân tộc Mông (cũng như một số dân tộc thiểu số khác) chưa được các tác giả xem xét và đánh giá một cách đúng mức. Có thể khẳng định một điều: Tất cả những công trình, bài viết về thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại, cho đến nay mới chỉ dừng lại ở phạm vi nhỏ lẻ, tản mạn (cả dưới góc độ tác phẩm và tác giả), mà chưa đi sâu vào phân tích, đánh giá và chỉ ra những đặc điểm cụ thể về nội dung và nghệ thuật. Vì thế, cũng có thể khẳng định, cho đến nay, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về thơ ca hiện đại dân tộc Mông. Điều đó dẫn tới sự cần thiết về việc phải nghiên cứu văn học Mông nói chung và thơ ca hiện đại Mông nói riêng một cách thấu đáo và nghiêm túc, để thấy được diện mạo thơ ca hiện đại của một dân tộc vốn có truyền thống văn hoá lâu đời, có những bản sắc riêng độc đáo. Mặt khác, đó cũng chính là những động thái hết sức tích cực trong việc góp phần bảo tồn và phát triển một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn hội nhập quốc tế một cách toàn diện hiện nay. 3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích Nghiên cứu đề tài “Một số đặc điểm thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại (từ 1945 đến nay)”- luận văn nhằm chỉ rõ những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ ca hiện đại dân tộc Mông. Đồng thời khẳng định những đóng góp tích cực của thơ ca dân tộc Mông đối với sự phát triển của thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của nền thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9
  10. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Để thực hiện luận văn, chúng tôi đã đọc, tham khảo và nghiên cứu các loại tài liệu sau: - Các tác phẩm thơ của các tác giả dân tộc Mông từ 1945 đến nay. - Một số tác phẩm thơ dân tộc Mông trước 1945, đặc biệt là thơ ca dân gian Mông (để so sánh đối chiếu). - Một số tác phẩm thơ của các dân tộc thiểu số khác nhằm so sánh, đối chiếu, làm nổi bật những đặc điểm riêng biệt của thơ ca hiện đại dân tộc Mông. - Các công trình, bài nghiên cứu về thơ ca dân tộc Mông nói riêng và thơ ca các dân tộc thiểu số nói chung. - Một số tài liệu về lí luận, lí thuyết có liên quan đến đề tài. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn cố gắng làm sáng tỏ và đi đến khẳng định những đặc điểm nổi bật của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại ở hai phương diện cơ bản: - Phản ánh những nét đặc sắc về đời sống văn hoá, tinh thần của dân tộc Mông (thiên nhiên, con người, những phong tục tập quán, sinh hoạt cộng đồng, đời sống tâm linh…) thông qua những sáng tác của các nhà thơ hiện đại dân tộc Mông (trong sự đối chiếu, so sánh với thơ ca hiện đại của các dân tộc anh em khác). - Nghiên cứu một số hình thức nghệ thuật được sử dụng một cách đặc sắc và hiệu quả (ngôn ngữ, hình ảnh thơ, hình thức kết cấu, lối tư duy, diễn đạt…) của các nhà thơ dân tộc Mông. Qua đó, chỉ ra sự kế thừa một cách sáng tạo, độc đáo những giá trị nghệ thuật của thơ ca dân gian, cũng như sự phát triển, sự cách tân của các nhà thơ dân tộc Mông thời kỳ hiện đại. Từ việc nghiên cứu, tìm hiểu những đặc điểm cơ bản của thơ ca dân tộc Mông từ sau 1945 đến nay, luận văn đi đến khẳng định những thành tựu và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10
  11. hạn chế cũng như những đóng góp của thơ ca hiện đại dân tộc Mông đối với thơ các dân tộc thiểu số nói riêng và nền thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện luận văn, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp chính sau: - Phương pháp thống kê, phân loại. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp so sánh, đối chiếu. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành và một số phương pháp tổng hợp khác. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có cấu trúc gồm 3 chương: Chƣơng 1: Một số đặc điểm về đời sống văn hoá xã hội của dân tộc Mông. Chƣơng 2: Thơ Mông thời kỳ hiện đại- bức tranh sinh động về thiên nhiên, cuộc sống, con người của một dân tộc đầy bản sắc. Chƣơng 3: Một số đặc điểm về nghệ thuật của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11
  12. PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 VÀI NÉT VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ XÃ HỘI CỦA DÂN TỘC MÔNG 1.1. Một số đặc điểm về cộng đồng dân tộc Mông ở Việt Nam 1.1.1. Đặc điểm tộc người và điều kiện tự nhiên Dân tộc Mông có tên gọi (bao gồm cả tên tự nhận) là Mông, Na Mẻo, Mèo, Mẹo, Miếu ha, Mán trắng [ 18], là một dân tộc ít người ở Việt Nam với dân số hiện nay khoảng 80 vạn người , cư trú trên 16 tỉnh miền núi phía Bắc, chủ yếu ở các tỉnh : Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái và Cao Bằng. Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc Mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, có số lượng cư dân đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc Việt Nam. Nhìn chung, ý kiến của các nhà nghiên cứu dân tộc học ở Việt Nam về lịch sử hình thành dân tộc Mông là tương đối thống nhất khi cho rằng người Mông di cư vào Việt Nam sớm nhất khoảng 300 năm và muộn nhất là 100 năm về trước. Từ những thế kỷ trước khi di cư đến Việt Nam, Người Hán gọi người Mông là “Mèo”. Tộc danh Mèo theo âm Hán Việt là “Miêu”. Đây là tên gọi một tộc người sớm biết nghề trồng lúa nước ở vùng hồ Bành Lãi và hồ Động Đình (Trung Quốc), lâu dần trở thành tên gọi chính thức [17]. Theo truyền thuyết, tổ tiên của người Mông đã ở vùng hồ Bành Lãi (thuộc Giang Tây) và hồ Động Đình (thuộc Hồ Nam) ở Trung Quốc từ hàng nghìn năm trước công nguyên. Trong suốt hàng chục thế kỷ, người Mông di cư theo hướng Tây - Tây Nam, tập trung đông ở Hồ Nam, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây và trung tâm là Quí Châu (Trung Quốc) trước khi đến Việt Nam. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12
  13. Cũng theo truyền thuyết thì xưa kia, dân tộc Mông cũng có một quốc gia riêng với biểu tượng hình đôi sừng trâu và màu cờ đỏ. Ngày nay, một số vùng người Mông ở Hà Giang, Lào Cai vẫn ít nhiều còn để lại những dấu ấn ấy qua các phong tục, biểu hiện cụ thể ở tấm vải đỏ treo trước cửa nhà; người chết không phân biệt già trẻ đều có tấm vải đỏ che miệng; hình bộ sừng trâu dùng làm chốt cửa trên hai cánh cửa chính của mỗi nhà. Hay như cách đội khăn quấn đầu hình hai sừng trâu của người Mông ở một số vùng hiện nay của Trung Quốc [17;14]. Người Mông đến nước ta có thể gồm nhiều đợt qui mô lớn nhỏ khác nhau: Từ Vân Nam sang, từ Quí Châu qua Vân Nam hoặc Quảng Tây sang cư trú ở các vùng biên giới phía Bắc. Theo các nhà nghiên cứu dựa trên kết quả điền dã dân tộc học ở tại một số vùng người Mông ở Việt Bắc và Tây Bắc, cũng như việc nghiên cứu tình hình biến động của tộc Miêu ở Trung Quốc trong lịch sử, có thể người Mông thiên di đến Việt Nam với ba đợt quy mô lớn [18]. Thời kỳ đầu tiên cách đây trên 300 năm, người Mông từ Quí Châu sang Đồng Văn. Dân ca Mông còn ghi lại: Người HMông ta ở Quí Châu đến Vì người HMông ta không biết chữ Thua kiện người Hán ta mới đi … Tuy nhiên, “thua kiện người Hán” chỉ là một lí do theo cách nói bóng bẩy, nhẹ nhàng của văn học, còn trong thực tế nguyên nhân của đợt thiên di thứ nhất này là do chính sách “cải thổ qui lưu” (tức bỏ chế độ thổ quan, phái các quan lại từ nơi khác đến cai trị trực tiếp) của nhà Minh dẫn đến các phong trào đấu tranh mạnh mẽ và quyết liệt của người Mông. Nhà Minh đã dùng bạo lực để bắt qui phục. Dân ca Mông cũng đã có lúc nói thẳng nguyên nhân của đợt thiên di này: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13
  14. Vì đất nước đại triều nhà Hán chín xèo không chín ké Mẹ cha ta gặp bước loạn li phải đi lưu lạc … Đại triều nhà Hán lòng không tốt. Đợt thiên di thứ hai của người Mông vào Việt Nam cách nay khoảng 200 năm, sau thất bại của phong trào khởi nghĩa của người Mông ở Quí Châu (1776 - 1820). Đợt thiên di đông nhất của người Mông vào nước ta cách đây khoảng từ 120 đến 160 năm; khởi nghĩa Hàm Đồng (năm 1853) dưới sự lãnh đạo của Trương Tú Mi xuất phát từ Đông Nam Quí Châu, sau lan rộng sang Hồ Nam và Vân Nam, kéo dài 18 năm ròng rã. Vương triều Thanh đã tàn sát huỷ diệt những người tham gia khởi nghĩa. Hàng vạn người Mông đã từ Quí Châu (Trung Quốc) di cư sang Hà Giang, Lao Cai, Yên Bái và một số tỉnh thuộc biên giới phía Bắc nước ta. Tuy nhiên, cũng có những ý kiến cho rằng, có thể người Mông di cư sang Việt Nam sớm hơn, cách đây khoảng 400 năm, đời nhà Minh, hoặc xa hơn, những gia đình người Mông đầu tiên đã đến vùng Lao Cai cách đây khoảng trên 600 năm [15]. Đồng bào Mông ở Đồng Văn, Hà Giang còn lưu truyền một bài ca buồn thảm rằng: “Quí Châu là quê hương yêu dấu của người Mèo ta ở. Vì người Mèo ta phải đói rách, vì dân Mèo ta không có chữ nên phải dời quê” . Dấu ấn của các cuộc thiên di còn để lại trong các câu chuyện cổ của người Mông với tất cả sự đắng cay nghiệt ngã đến thê thảm của số phận con người: Chỉ ba hạt ngô làm giống hoặc ba chiếc bánh kê có thể đổi được một cô vợ người Mông . Người Mông vốn có gốc gác là những cư dân trồng lúa nước. Tên gọi “Miêu”( ) theo Hán tự trên có bộ thảo ( ) là cây cỏ, dưới có chữ điền ( ) là ruộng đồng. Điều này phần nào khẳng định người Mông có tổ tiên nguồn cội cư trú ở lưu vực các con sông với nghề trồng lúa. Mặt khác, qua một số truyện cổ và đặc biệt là kho tàng ca dao, dân ca phong phú của người Mông, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14
  15. ta cũng có thể tin rằng người Mông xưa kia vốn cũng sinh sống ở những vùng đất đai có sông ngòi và làm nhiều ruộng. Văn học dân gian truyền thống của người Mông luôn nhắc tới “sông nước”, “thuyền bè”, tới các “đường dài - đường rộng”, “bãi bằng - bãi phẳng”, tới ruộng, tới trâu… như một ước mơ, như một sự phản ánh hiện thực xa xưa với một niềm luyến tiếc, hàm chứa một sự so sánh trong nhận thức với thực tại [77; 6] Đến Việt Nam, với một vùng đất mới, không có chiến tranh sắc tộc, chấm dứt một giai đoạn đằng đẵng của lịch sử gắn liền với những cuộc thiên di đầy nước mắt và máu, người Mông đã tìm thấy một quê hương mới và cuộc sống hứa hẹn những ấm no và hạnh phúc. Những câu chuyện dân gian của người Mông vẫn còn ghi lại: “Việt Nam là nơi đất đai màu mỡ để làm ăn, nơi có quả bí to như cái vạc mà lợn rừng có thể khoét lỗ c hui vào đó đẻ; nó vừa là ổ, vừa là thức ăn cho lợn. Nơi trồng cây lương thực gốc có củ, thân có bắp, ngọn trổ lúa…” [17; 15]. Vì thế mà cùng với quá trình lao động sáng tạo , người Mông đã coi những địa danh như Mèo Vạc, Hà Giang là quê hương thứ hai của mình: Cá bơi ở dưới nước Chim bay ở trên trời Chúng ta sống ở vùng cao Và con chim có tổ Người Mèo ta cũng có quê Quê ta là Mèo Vạc [50] Sau cách mạng tháng Tám, thể theo nguyện vọng của đồng bào, từ “Mèo” được thay thế bằng từ “Mông” (HMông). Đây là một âm tiết phát âm từ âm mũi. Bởi vì trong hệ thống phụ âm tiếng Việt không có âm tố nào ghi âm chính xác được âm tiết trên nên các nhà ngôn ngữ học đã mượn phụ âm “Hm” trong hệ thống phụ âm tiếng Mông để ghi âm từ “HMông”. Do sự phát Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15
  16. âm khó khăn, từ năm 1992 đến nay, Nhà nước ta đã thống nhất phiên âm tên gọi của đồng bào là “Mông” và dùng cách viết “Mông” thay cho H‟Mông. Đây là cách gọi tên và cách ghi danh được người Mông tán thành thay cho cách phát âm là “Hơ-Mông” trước đây làm nhiều người Mông không đồng ý [14]. Ngoài Việt Nam ra, người Mông còn cư trú ở một địa bàn khá rộng lớn thuộc phía Nam Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Miến Điện. Sau 1975, cộng đồng người Mông còn di cư sang sinh sống ở các nước như Mỹ, Pháp, Úc … con số lên tới hàng trăm nghìn người (chủ yếu di cư từ Lào). Hiện nay, Trung Quốc có số lượng người Mông đông đảo hơn cả với hơn 7 triệu người (số liệu thống kê năm 1990) phân bố ở các tỉnh Quí Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây, Hải Nam, Hồ Bắc. Trong 56 dân tộc ở Trung Quốc, dân tộc Mông (Miêu) chỉ đứng sau các dân tộc Hán, Choang, M ãn, Hồi. Trên thực tế cho thấy các cư dân Mông ở Việt Nam vẫn có quan hệ với cư dân đồng tộc các nước khác, đặc biệt là những địa bàn sát biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và Lào [18]. Ở Việt Nam, dân tộc Mông thường cư trú ở độ cao từ 800 đến 1500 mét so với mực nước biển, dọc theo biên giới Trung - Việt và Việt - Lào [57]. Những xóm làng của người Mông, tiếng Mông gọi là “Giao” (Jaol), nơi tập trung đông cũng chỉ dăm chục nóc nhà, còn phần nhiều lẻ tẻ, thường ở trên các triền núi hoặc cao nguyên. Khí hậu mát mẻ về mùa hè nhưng cũng hết sức giá lạnh, khắc nghiệt về mùa đông. Điều kiện đi lại giao lưu rất đỗi khó khăn. Nước phục vụ cho sinh hoạt thiếu thốn, thậm chí khan hiếm. Cho nên, người Mông giỏi canh tác nương rẫy hơn làm ruộng nước. Ở những nới chỉ toàn núi đá như Mèo Vạc (Hà Giang), người dân đưa đất từ nơi khác tới, đổ vào những hốc đá để tra ngô. Sống biền biệt trên các vùng cao quanh năm sương phủ, sự hẻo lánh làm cho đời sống xã hội Mông ch ậm phát triển. Kinh tế hoàn toàn mang tính chất tự cấp tự túc, lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Vì hoàn cảnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16
  17. sống vất vả khó khăn nên trước đây phần lớn đồng bào Mông sống du canh, du cư hoặc đã định cư nhưng còn du canh. Ngày nay, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, cuộc sống của người Mông đã có những bước cải thiện đáng kể. Lịch sử của cộng đồng người Mông ở Việt Nam là lịch sử của những cuộc thiên di, là một bản trường ca đầy bí tráng mà mỗi trang đều được viết lên bằng nước mắt và máu. Lịch sử đau thương và hào hùng cùng với điều kiện sống hết sức khắc nghiệt đã góp phần hun đúc lên một diện mạo tâm hồn Mông với bản lĩnh can trường, dũng cảm đến táo bạo, chai sạn đến chắc nịch như đá núi với một sức chịu đựng bền bỉ dẻo dai hiếm có. Vượt lên trên tất cả lại là một tinh thần lạc quan, phóng túng, đôi khi hồn nhiêm đến độ thơ ngây. Tất cả những đặc điểm đó đã được khúc xạ trong một nền văn học dân gian Mông rất phong phú và đậm đà bản sắc, chi phối mạnh mẽ đến giọng điệu và cảm hứng cũng như nội dung thể hiện của thơ ca hiện đại dân tộc Mông. 1.1.2. Đặc điểm phong tục tập quán và sinh hoạt cộng đồng Căn cứ vào đặc điểm trang phục, ngôn ngữ và ý thức tự nhận của đồng bào, có thể chia người Mông thành 5 ngành: Mông trắng (Mông Đơư), Mông hoa (Mông lềnh), Mông đỏ (Mông si), Mông đen (mông đu) và Mông xanh (Mông sua). Tuy nhiên, một số ý kiến của các nhà nghiên cứu lại cho rằng người Mông về đại thể chỉ được chia thành 4 nhóm chính: Mông Đơ (tức Mông trắng), Mông Lềnh (còn gọi là Mông sí tức Mông hoa), Mông Đu (tức Mông đen có nơi còn gọi là Mông đỏ), Mông Sán (tức Mông Hán - có nơi gọi là Mông xanh). Cách phân nhóm này chủ yếu dựa vào sắc phục của người phụ nữ và sự khác nhau ít nhiều về âm điệu, thổ ngữ [57], [3]. Do liên tục có các cuộc di cư và đại thiên di xuyên quốc gia nên lịch sử của dân tộc mông là lịch sử du canh du cư. Khi thiên di vào Việt Nam, có thể do bản năng tồn tại và do đến muộn, người Mông phải dạt lên các miền núi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 17
  18. cao, hiểm trở và sống tách biệt với các dân tộc khác. Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Trần Hữu Sơn, khi khảo sát địa bàn cư trú của dân tộc Mông ở Lao Cai (năm 1989), trong tổng số 171 xã và thị trấn, có 111 xã có người Mông cư trú. Trong số đó, 34 xã người Mông chiếm 100% dân số; 22 xã người Mông chiếm 51% trở lên. Trong số 523 làng người Mông, có đến 457 số làng có 100% là người Mông, chỉ có 66 làng người Mông sống xen kẽ với các dân tộc khác [ 57; 17]. Sở dĩ có hiện tượng này là vì, theo chúng tôi, người Mông rất coi trọng tín nghĩa và tình cảm cộng đồng, dòng tộc. (Người Mông có câu cửa miệng là “người Mông ta” (pêz HMôngz) hay cách nói “ta cùng một giống lanh với nhau”). Mặt khác, do sự ám ảnh của quá khứ và một tâm lí luôn cảm thấy tự ti vì bị kém cỏi so với dân tộc khác. Cuộc sống khép kín ít giao lưu vừa là hạn chế, lại vừa là sự bảo lưu tốt nhất nền văn hoá truyền thống của dân tộc Mông. Môi trường canh tác chủ yếu của người Mông là nương rẫy, công cụ làm rẫy truyền thống của người Mông là dao, búa, cuốc… phù hợp và thuận tiện cho việc phát nương, tra hạt. Thông thường, nương của người Mông hướng về phía có ánh mặt trời, khi đốt nương bao giờ cũng đốt từ thấp lên cao, lợi dụng sức gió và đi lại thuận tiện. Mặc dù truyền thống canh tác lúa nước đã bị hạn chế rất nhiều do cuộc sống du canh du cư theo các cuộc thiên di, người Môn g vẫn thường tìm đến những thung lũng có nguồn nước để làm ruộng bậc thang cấy lúa. Ngoài ra, người Mông còn có truyền thống làm nghề thủ công khá sớm và tương đối phát triển, nhất là nghề rèn (rèn súng săn, dao búa…). Mặt khác, do sống ở núi cao nên người Mông rất thành thạo trong việc săn bắn, hái lượm. Cũng như các dân tộc khác, người Mông rất coi trọng mối quan hệ gia đình. Đồng bào Mông gọi gia đình là “chúa dỉ” (chuôiz div). Gia đình tồn tại phổ biến dưới các hình thức hai và ba thế hệ. Trong gia đình người Mông, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 18
  19. nam giới được coi trọng và đảm nhiệm các việc lớn như thờ cúng tổ tiên, tham gia các công việc của cộng đồng. Họ chỉ được coi là đã trưởng thành khi có con đầu lòng và được làm lễ đặt tên đệm mới. Phụ nữ Mông là người phải chịu nhiều thiệt thòi hơn cả. Trước đây, những người phụ nữ đi làm dâu, nếu chồng chết phải lấy em trai chồng, bằng không họ sẽ bị tước đoạt toàn bộ của cải, có khi cả con cái. Có lẽ chính vì phải chịu đựng nhiều tệ nạn như tảo hôn, cưỡng hôn, cả cuộc đời bị trói buộc cả thể xác lẫn tâm hồn, hiện tại đau khổ, ai oán, tương lai tối tăm mờ mịt… mà trong những bài ca than thân của kho tàng dân ca Mông có cả một mảng đề tài: Tiếng hát làm dâu (g ầu ua nhéng). Đó là tiếng kêu than, là nước mắt đau thương của người phụ nữ bị đoạ đầy trong đau khổ. Và đây đó, còn là ý thức, phản kháng hoặc lòng phẫn nộ le lói trong những cảnh đời bị hắt hủi, tủi nhục: Năm nay em đi làm dâu Em làm chín thời mười giờ Chẳng có lúc nào nghỉ Trâu măng cày, dây khiếu không biết ải Em đi làm dâu không có mùa nghỉ, chỉ có mùa làm (Dân ca Mông) Tuy nhiên, trong gia đình người Mông, quan hệ vợ chồng luôn được đề cao. Người chồng bao giờ cũng được người vợ chăm sóc chu đáo từ sinh hoạt trong nhà đến các buổi đi nương, đi chợ. Chúng ta đã quá quen thuộc với hình ảnh các phiên chợ vùng cao, trên muôn nẻo đường núi tới chợ, người chồng ngồi thong dong trên lưng ngựa trong khi người vợ cầm đuôi ngựa vượt dốc; hay hình ảnh những người vợ kiên tâm cầm ô che cho chồng ngủ ngay bên vệ đường cho vãn cơn say. Đó chính là những biểu hiện nét đẹp về đạo đức và phẩm hạnh của người phụ nữ Mông, góp phần tạo ra mối chung thuỷ đặc biệt của vợ chồng người Mông từ xưa đến nay. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 19
  20. Ngoài ra, gia đình người Mông còn là một mô i trường để gìn giữ và phát triển văn hoá. Các em bé gái được mẹ, được chị dạy cho thêu thùa từ rất sớm. Lớn lên, biết xe lanh, dệt vải, biết in váy, thêu hoa… Các em trai làm quen với súng săn, bắn nỏ, cưỡi ngựa và cả thổi khèn, thổi sáo… nên họ sớm có đủ năng lực và kinh nghiệm để đảm nhiệm cuộc sống gia đình từ rất sớm. Trong các phong tục tập quán của người Mông thì cuới xin và tang ma để lại những dấu ấn bản sắc mang tính truyền thống của người Mông nhiều hơn cả. Đám cưới của người Mông thường được tổ chức vào mùa xuân hay cuối đông vì đồng bào kiêng những tháng có sấm chớp. Hôn nhân của người Mông cũng tuân theo các bước lễ nghi như dạm hỏi, ăn hỏi (hẹn cưới) và lễ đón dâu. Lễ dạm hỏi bắt buộc phải có hai ông mối thông thạo các bài hát nghi lễ cưới xin, giúp nhà trai sang nhà gái làm các thủ tục dạm hỏi, hẹn ngày đón dâu. Đám cưới của người Mông bao giờ cũng phải có phù rể. Phù rể sẽ cùng chú rể quỳ lạy tổ tiên nhà gái trước khi đi rước dâu. Sau khi hoàn tất các thủ tục, cô dâu được hai người anh em trong gia đình dắt tay ra cửa trao cho người đón dâu. Đám đón dâu đi lẻ về chẵn, theo phong tục người nhà gái không đưa dâu đến nhà trai. Quãng đường đón dâu về dù ngắn hay dài cũng nhất thiết phải nghỉ giữa chừng, ăn cơm nắm do nhà gái đã chuẩn bị sẵn. Cô dâu về tới trước cửa nhà trai còn phải một nghi lễ nhập ma nhà chồng mới được vào cửa. Trước đây, người Mông rất phổ biến phong tục “bắt vợ ”. Khi chàng trai ưng một cô gái nào đó thì tổ chức đón đường, “bắt” cô gái về làm vợ mình. Cô gái bị “bắt” về được nhà trai “dùng gà trống đánh dấu nhập nhà” buộc phải lấy chàng trai cho dù có đồng ý hay không. Trong xã hội cũ, tục “bắt vợ” diễn ra thường là do những gia đình nhà trai có quyền thế ép buộc các cô gái về làm vợ. Khi các cuộc cưỡng hôn này tan vỡ thì thường người con gái chỉ còn biết đến cái chết. Bởi lẽ, sau khi đã bị “nhập ma” nhà trai, cô gái có tự ý bỏ về thì bố mẹ cô cũng không thừa nhận nữa. Ngày nay, ở một số Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1