intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:73

148
lượt xem
59
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Vốn là chìa khoá, là điều kiện hàng đầu của mọi quá trình phát triển. Do vậy, muốn sản xuất kinh doanh phải có vốn. Để quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành một cách bình thường thì vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp hiện nay là phải tổ chức tốt công tác huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả, nói một cách khác là doanh nghiệp phải luôn luôn bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đây là một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính

  1. LUẬN VĂN: Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính
  2. Lời nói đầu 1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài nghiên cứu. Vốn là chìa khoá, là điều kiện hàng đầu của mọi quá trình phát triển. Do vậy, muốn sản xuất kinh doanh phải có vốn. Để quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành một cách bình thường thì vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp hiện nay là phải tổ chức tốt công tác huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả, nói một cách khác là doanh nghiệp phải luôn luôn bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đây là một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp giữ vững được sức mua của đồng vốn trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát và nhiều rủi ro, nâng cao được năng lực hoạt động của đồng vốn đồng thời đánh giá được chất lượng quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp ngày càng vững mạnh trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy các doanh nghiệp không thể không bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đó là một nguyên tắc bất di bất dịch trong nền kinh tế thị trường. Trong những năm cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp ở nước ta, các doanh nghiệp quốc doanh được Nhà nước giao chỉ tiêu, doanh nghiệp lấy việc hoàn thành kế hoạch cấp trên giao làm mục đích sản xuất kinh doanh. Nhà nước bao cấp về mọi mặt như: vốn, giá, thị trường tiêu thụ, lỗ Nhà nước bù... nên các doanh nghiệp quốc doanh không coi việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là trách nhiệm của bản thân mình, mà là của Nhà nước. Doanh nghiệp chỉ chạy đua với thành tích, với chỉ tiêu. Từ khi Nhà nước ta chuyển đổi cơ chế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường lấy doanh lợi làm mục đích sản xuất kinh doanh, nhiều thành phần kinh tế cùng song song tồn tại và cạnh tranh với nhau. Những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì ngày càng đứng vững và phát triển, ngược lại những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, vốn kinh doanh bị mất dần sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, doanh thu không bù đắp đủ chi phí, không thể lập lại được quá trình tái sản xuất dẫn đến nguy cơ bên bờ vực phá sản mà nguyên nhân chủ yếu là do việc tổ chức sử dụng vốn còn nhiều hạn chế. Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn được nhiều doanh nghiệp quan tâm chú ý.
  3. Xuất phát từ vai quan trọng của vốn cố định nói riêng và vốn kinh doanh nói chung, kết hợp với thời gian thực tập tại Công ty In tài chính mà mục đích nghiên cứu của đề tài là đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đề tài lấy vốn cố định làm đối tượng nghiên cứu, lấy tình hình hoạt động thực tế của Công ty In tài chính để làm cơ sở nghiên cứu phân tích. Thời điểm nghiên cứu số liệu lấy thực tế qua 5 năm 1997 - 1998 - 1999 - 2000 - 2001. 3. Kết cấu của chuyên đề. Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục và nhận xét của cơ sở thực tập, nội dung của chuyên đề được trình bày qua 3 chương: Chương 1: Vốn cố định và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường. Chương 2: Thực trạng Hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính Chương 3: Những phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định ở Công ty In tài chính
  4. Chương 1 Vốn cố định và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường 1. Vốn cố định trong các doanh nghiệp 1.1. Khái niệm, đặc điểm của tài sản cố định trong doanh nghiệp Những năm gần đây nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Trong điều kiện đó, các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ ngày càng được mở rộng và phát triển, xuất hiện các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau cùng song song tồn tại, cạnh tranh lẫn nhau và bình đẳng trước pháp luật. Trong nền kinh tế quốc dân thì mỗi doanh nghiệp là một tế bào kinh tế. Doanh nghiệp là một tổ chức được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp có thể thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, lao vụ, dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Để tiến hành sản xuất sản phẩm, mọi doanh nghiệp đều cần phải có hai yếu tố cơ bản, đó là sức lao động và tư liệu sản xuất. Căn cứ vào tính chất và tác dụng khi tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất lại chia ra làm hai bộ phận là đối tượng lao động và tư liệu lao động. Tài sản cố định (TSCĐ) là những tư liệu lao động chủ. Căn cứ vào tính chất và tác dụng khi tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất lại chia ra làm hai bộ phận là đối tượng lao động và tư liệu lao động. Tài sản cố định (TSCĐ) là những tư liệu lao động chủ yếu được tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, các công trình kiến trúc... Đặc điểm chung của các TSCĐ trong doanh nghiệp là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm với vai trò là các công cụ lao động. Trong quá trình đó hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của TSCĐ là không thay đổi, song giá trị của nó lại được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Bộ phận giá trị chuyển dịch này cấu thành một yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi sản phẩm được tiêu thụ.
  5. Trong thực tế, tuỳ theo điều kiện kinh tế, yêu cầu và trình độ quản lý ở từng thời kỳ nhất định mà người ta có những quy định thống nhất và tiêu chuẩn giới hạn của một TSCĐ. Theo chế độ tài chính mới nhất qui định những tư liệu lao động được coi là TSCĐ phải có đủ hai điều kiện sau: - Có thời hạn sử dụng trên một năm. - Có giá trị từ 5 triệu đồng Việt Nam trở lên. Những tư liệu lao động nào không đủ một trong hai điều kiện trên sẽ được coi là công cụ, dụng cụ thuộc tài sản lưu động và do nguồn vốn lưu động tài trợ. Tuy nhiên do yêu cầu của công tác quản lý, trong một số trường hợp có những tư liệu lao động dù giá trị và thời hạn sử dụng không đủ tiêu chuẩn quy định nhưng vấn được coi là TSCĐ của doanh nghiệp như tổ hợp các đồ dùng trong một phòng làm việc một khách sạn... Mặt khác, trong doanh nghiệp có một số khoản chi đầu tư cho sản xuất kinh doanh về tính chất luân chuyển cũng tương tự như TSCĐ vì vậy được coi là các TSCĐ không có hình thái vật chất (TSCĐ vô hình). Ví dụ như các khoản chi đầu tư mua các bằng phát minh sáng chế, các chi phí cho việc nghiên cứu phát triển, nghiên cứu ứng dụng, phát hiện, thăm dò... Từ những nội dung trình bày trên, có thể rút ra định nghĩa về TSCĐ trong doanh nghiệp như sau: Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, giá trị của tài sản cố định không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử dụng đầu tiên mà nó được chuyển dịch dần dần từng phần vào giá thành sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất tiếp theo. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá, những TSCĐ đó không chỉ được biểu hiện dưới hình thái vật chất mà còn dưới hình thái giá trị. Để đầu tư mua sắm TSCĐ, doanh nghiệp cần phải bỏ ra một số vốn nhất định. Vì vậy, số vốn ứng trước xây dựng, mua sắm TSCĐ được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp sản xuất, TSCĐ có nhiều loại khác nhau, mỗi loại lại có những đặc điểm về tính chất kỹ thuật công dụng khác nhau, được sử dụng trong những lĩnh vực hoạt động khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy cần phân loại TSCĐ để có những biện pháp quản lý, sử dụng có hiệu quả hơn.
  6. Phân loại TSCĐ là việc phân chia toàn bộ TSCĐ hiện có của doanh nghiệp theo những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho những yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Thông thường có những cách phân loại TSCĐ chủ yếu sau: 1.1.1. Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện Theo phương pháp này TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại: TSCĐ có hình thái vật chất (TSCĐ hữu hình) và TSCĐ không có hình thái vật chất (TSCĐ vô hình) * TSCĐ hữu hình là những TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, các vật kiến trúc... Những TSCĐ này có thể là từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định trong quá trình sản xuất kinh doanh. * TSCĐ vô hình là những TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí mua bằng phát minh sáng chế hay nhãn hiệu thương mại... Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu đầu tư vào TSCĐ hữu hình và vô hình. Đây là căn cứ quan trọng để xây dựng các quyết định đầu tư hoặc điều chỉnh phương hướng đầu tư cho phù hợp với tình hình thực tế và cũng là căn cứ để đưa ra các biện pháp quản lý tài sản, quản lý vốn, tính toán khấu hao hợp lý. 1.1.2. Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng Theo tiêu thức này, toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành 3 loại: * TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh: là những TSCĐ dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản xuất kinh doanh phụ của doanh nghiệp. * TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng: là những TSCĐ do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp (như các công trình phúc lợi), các TSCĐ sử dụng cho hoạt động đảm bảo an ninh, quốc phòng của doanh nghiệp. * Các TSCĐ bảo quản hộ, gửi hộ, cất giữ hộ Nhà nước: là những TSCĐ doanh nghiệp bảo quản hộ, giữ hộ cho đơn vị khác hoặc cho Nhà nước theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
  7. Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu TSCĐ của mình theo mục đích sử dụng của nó. Từ đó có biện pháp quản lý TSCĐ theo mục đích sử dụng sao cho có hiệu quả nhất. 1.1.3. Phân loại TSCĐ theo công dụng kinh tế Căn cứ vào công dụng kinh tế của TSCĐ, toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp có thể chia thành các loại sau: * Nhà cửa, vật kiến trúc: là những TSCĐ của doanh nghiệp được hình thành sau quá trình thi công xây dựng như: nhà xưởng, trụ sở làm việc, nhà kho, cầu cảng... * Máy móc thiết bị: là toàn bộ các loại máy móc thiết bị dùng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: máy móc thiết bị động lực, máy móc công tác, thiết bị chuyên dùng, những máy móc đơn lẻ. * Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải như: phương tiện đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường không, đường ống và các thiết bị truyền dẫn như hệ thống điện, hệ thống thông tin, đường ống dẫn nước... * Thiết bị, dụng cụ quản lý: là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính, thiết bị điện tử, dụng cụ đo lường, máy hút bụi... * Các loại TSCĐ khác: là toàn bộ các loại TSCĐ khác chưa liệt kê vào 5 loại trên như tác phẩm nghệ thuật tranh ảnh... Cách phân loại này cho thấy công dụng cụ thể của từng loại TSCĐ trong doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, sử dụng TSCĐ, tính toán khấu hao TSCĐ chính xác. 1.1.4. Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng Căn cứ vào tình hình sử dụng TSCĐ, người ta chia TSCĐ của doanh nghiệp thành các loại: * TSCĐ đang sử dụng: là những TSCĐ của doanh nghiệp đang sử dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc phòng của doanh nghiệp. * TSCĐ chưa cần dùng: là những TSCĐ cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp song hiện tại chưa cần dùng, đang được dự trữ để sử dụng sau này.
  8. * TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý: là những TSCĐ không cần thiết hoặc không phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần được thanh lý, nhượng bán để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra ban đầu. Cách phân loại này cho thấy mức độ sử dụng có hiệu quả của TSCĐ của doanh nghiệp như thế nào, đồng thời tạo điều kiện cho việc phân tích, kiểm tra, đánh giá tiềm lực sản xuất cần được khai thác, từ đó có biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng TSCĐ. 1.1.5. Phân loại TSCĐ theo quan hệ sở hữu Theo phương pháp này, TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại: TSCĐ chủ sở hữu (tự có) và TSCĐ thuê ngoài. * TSCĐ chủ sở hữu (tự có) là các TSCĐ được xây dựng, mua sắm và hình thành từ nguồn vốn ngân sách cấp hoặc cấp trên cấp, nguồn vốn vay, nguồn vốn liên doanh, các quỹ của doanh nghiệp và các TSCĐ được tặng, biếu... Đây là những tài sản mà doanh nghiệp có quyền sử dụng lâu dài và được phản ánh trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. * TSCĐ thuê ngoài là TSCĐ đi thuê để sử dụng trong một thời gian nhất định theo hợp đồng đã ký kết gồm: TSCĐ thuê tài chính và TSCĐ thuê hoạt động. Trong đó TSCĐ thuê tài chính cũng được coi như TSCĐ của doanh nghiệp được phản ánh trên bảng cân đối kế toán. Doanh nghiệp có trách nhiệm quản lý, sử dụng và trích khấu hao như các TSCĐ tự có của doanh nghiệp. Còn đối với TSCĐ thuê hoạt động, doanh nghiệp chỉ được quản lý, sử dụng trong thời hạn hợp đồng và phải hoàn trả khi kết thúc hợp đồng. Cách phân loại này giúp cho người quản lý biết được nguồn gốc hình thành các loại TSCĐ để có hướng sử dụng và trích khấu hao đúng, từ đó tổ chức hạch toán TSCĐ được chặt chẽ, chính xác, thúc đẩy việc sử dụng TSCĐ có hiệu quả cao. Trên đây là những đặc điểm và thuộc tính của TSCĐ. Những đặc điểm này sẽ chi phối đặc điểm tuần hoàn của vốn cố định. Từ đó có thể thấy được bản chất vốn cố định và những đặc điểm tuần hoàn của nó. 1.2. Khái niệm, đặc điểm chu chuyển của vốn cố định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc mua sắm xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ hữu hình
  9. và vô hình được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Số vốn này nếu được sử dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ của mình. Là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các TSCĐ nên quy mô của vốn cố định (VCĐ) nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của TSCĐ, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại những đặc điểm kinh tế của TSCĐ trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của VCĐ. Trên ý nghĩa của mối liên hệ đó, có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của VCĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau: - VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm có đặc điểm này là do TSCĐ được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vì thế mà VCĐ - hình thái biểu hiện bằng tiền của nó cũng tham gia vào các chu kỳ sản xuất tương ứng. - VCĐ được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất. Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận VCĐ được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ. - VCĐ sau nhiều chu kỳ sản xuất mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm dần dần tăng lên. Song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại giảm dần xuống cho đến khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất thì VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Những đặc điểm luân chuyển trên đây của VCĐ đòi hỏi việc quản lý VCĐ phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là các TSCĐ của doanh nghiệp. Từ những nội dung phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về VCĐ như sau: Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư, ứng trước về TSCĐ mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng. TSCĐ và VCĐ có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Một cách chung nhất nó quyết định đến trình độ sản xuất của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp ấy có khả năng thực hiện được các mục tiêu của mình trong
  10. hoạt động sản xuất kinh doanh. Quy mô VCĐ càng lớn, trình độ trang bị kỹ thuật TSCĐ của doanh nghiệp càng hiện đại chứng tỏ trình độ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng cao. Chính vì vậy vấn đề đổi mới TSCĐ luôn là một yêu cầu cấp thiết đối với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Để đổi mới TSCĐ, quan trọng nhất là cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ, có sử dụng tốt VCĐ thì mới có điều kiện để đổi mới TSCĐ. 1.3. Khấu hao tài sản cố định. 1.3.1. Hao mòn tài sản cố định. Trong quá trình sử dụng, do chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau, TSCĐ của doanh nghiệp bị hao mòn dưới hai hình thức: Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. a. Hao mòn hữu hình. Hao mòn hữu hình của TSCĐ là sự hao mòn về vật chất và giá trị của TSCĐ trong quá trình sử dụng. Về mặt vật chất đó là sự hao mòn có thể nhận thấy được từ sự thay đổi trạng thái vật lý ban đầu ở các bộ phận, chi tiết TSCĐ dưới sự tác động của ma sát, tải trọng, nhiệt độ, hoá chất ...; sự giảm sút về chất lượng, tính năng kỹ thuật ban đầu trong quá trình sử dụng và cuối cùng không còn sử dụng được nữa. Muốn khôi phục lại giá trị sử dụng của nó phải tiến hành sửa chữa, thay thế. Về mặt giá trị, đó là sự giảm dần giá trị của TSCĐ cùng với quá trình chuyển dịch dần từng phần giá trị hao mòn vào giá trị sản phẩm sản xuất. Nguyên nhân và mức độ hao mòn hữu hình trước hết phụ thuộc vào các nhân tố trong quá trình sử dụng TSCĐ như thời gian và cường độ sử dụng, việc chấp hành các quy phạm pháp luật trong sử dụng và bảo dưỡng TSCĐ. Tiếp đến là các nhân tố về tự nhiên và môi trường sử dụng TSCĐ như nhiệt độ, độ ẩm, tác động của các hoá chất... Ngoài ra mức độ hao mòn hữu hình còn phụ thuộc vào chất lượng chế tạo TSCĐ, ví dụ như chất lượng nguyên vật liệu được sử dụng, công nghệ chế tạo... Việc nhận thức rõ các nguyên nhân ảnh hưởng đến mức hao mòn hữu hình TSCĐ sẽ giúp các doanh nghiệp có biện pháp cần thiết, hữu hiệu để hạn chế nó. b. Hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình của TSCĐ là sự giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản do có những TSCĐ cùng loại nhưng được sản xuất ra với giá rẻ hơn hoặc hiện đại hơn.
  11. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hao mòn vô hình của TSCĐ, không phải do chúng được sử dụng nhiều hay ít trong sản xuất mà là do tiến bộ khoa học kỹ thuật. Trong điều kiện tăng trưởng mạnh mẽ về khoa học công nghệ hiện nay, người ta có thể sản xuất ra được những loại máy móc có tính năng tác dụng như máy cũ nhưng với giá hạ hơn hoặc sản xuất ra những loại máy có cùng giá trị nhưng công suất lớn hơn, chất lượng tốt hơn. Do vậy, những máy móc được sản xuất ở thời gian trước đây sẽ bị “mất giá” so với hiện tại, sự “mất giá” đó chính là hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình còn xuất hiện cả khi chu kỳ sống của sản phẩm nào đó bị chấm dứt làm cho những máy móc để chế tạo ra sản phẩm đó cũng bị lạc hậu, mất tác dụng. Để khắc phục hao mòn vô hình, các doanh nghiệp phải coi trọng đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất, ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ khoa học. Điều đó có ý nghĩa rất quyết định trong việc tạo ra lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường. 1.3.2. Khấu hao TSCĐ và các phương pháp tính khấu hao TSCĐ a. Khấu hao TSCĐ. Để bù đắp giá trị TSCĐ bị hao mòn trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải chuyển dịch dần dần phần giá trị hao mòn đó vào giá trị sản phẩm sản xuất trong kỳ gọi là khấu hao TSCĐ. Vậy khấu hao TSCĐ là việc chuyển dịch phần giá trị hao mòn của TSCĐ trong quá trình sử dụng vào giá trị sản phẩm sản xuất ra theo các phương pháp tính toán thích hợp. Mục đích của khấu hao TSCĐ là nhằm tích luỹ vốn để tái sản xuất giản đơn hoặc tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Bộ phận giá trị hao mòn được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm được coi là một yếu tố chi phí sản xuất sản phẩm biêủ hiện dưới hình thức tiền tệ gọi là tiền khấu hao TSCĐ. Sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, số tiền khấu hao được tích luỹ lại hình thành quỹ khấu hao TSCĐ của doanh nghiệp, quỹ khấu hao dùng để tái sản xuất giản đơn TSCĐ. Song trên thực tế, trong điều kiện tiến bộ về khoa học kỹ thuật, quỹ khấu hao có khả năng tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Khả năng này có thể thực hiện bằng cách: Các doanh nghiệp sẽ sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao được tích luỹ hàng năm như một nguồn tài chính bổ sung cho các mục đích đầu tư phục vụ sản xuất kinh doanh để có doanh lợi (trên nguyên tắc được hoàn quỹ). Hoặc nhờ nguồn này, đơn vị có thể đầu tư đổi mới TSCĐ ở những năm sau trên một quy mô lớn hơn hoặc trang bị máy móc hiện đại
  12. hơn. Trên ý nghĩa đó, quỹ khấu hao còn được coi là một nguồn tài chính quan trọng để tái sản xuất mở rộng TSCĐ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. b. Các phương pháp tính khấu hao TSCĐ Việc tính khấu hao TSCĐ trong các doanh nghiệp có thể được thực hiện theo nhiều phương pháp khác nhau. Thông thường có các phương pháp cơ bản sau: * Phương pháp khấu hao bình quân (hay còn gọi là phương pháp tuyến tính cố định). Đây là phương pháp khấu hao đơn giản nhất, được sử dụng khá phổ biến để tính khấu hao các loại TSCĐ. Theo phương pháp này tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao hàng năm được xác định theo mức không đổi trong suốt thời gian sử dụng TSCĐ. Mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao hàng năm được xác định theo công thức: Gđ MKH = T MKH TKH = T Trong đó: MKH: Mức khấu hao trung bình hàng năm. TKH: Tỷ lệ khấu hao trung bình hàng năm. Gđ: Nguyên giá TSCĐ. T: Thời gian sử dụng của TSCĐ (năm) Nếu doanh nghiệp trích khấu hao hàng tháng thì lấy mức khấu hao hàng năm chia cho 12 tháng. Ưu điểm của phương pháp khấu hao bình quân là tính toán đơn giản, dễ hiểu. Mức khấu hao tính vào giá thành đều đặn làm cho giá thành ổn định. Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm là không phản ánh chính xác mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ vào giá thành sản phẩm trong các thời kỳ sử dụng khác nhau; khả năng thu hồi vốn chậm làm TSCĐ chịu ảnh hưởng bất lợi của hao mòn vô hình. * Phương pháp khấu hao giảm dần. Phương pháp khấu hao này gồm hai phương pháp: Khấu hao theo số dư giảm dần và khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng. - Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần
  13. Thực chất của phương pháp này là số tiền khấu hao hàng năm được tính bằng cách: lấy giá trị còn lại của TSCĐ theo thời hạn sử dụng nhân với tỷ lệ khấu hao không đổi. Như vậy mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao theo thời hạn sử dụng TSCĐ sẽ giảm dần. Công thức tính tỷ lệ khấu hao hàng năm theo thời hạn sử dụng như sau: Gđ . t TKH = 1 - GC Trong đó: TKH: Tỷ lệ khấu hao hàng năm GC: Giá trị còn lại của TSCĐ ở cuối năm tính toán Gđ: nguyên giá của TSCĐ t: Thời điểm của năm cần tính khấu hao - Phương pháp khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng. Theo phương pháp này, số tiền khấu hao hàng năm được tính bằng cách nhân giá trị ban đầu của TSCĐ với tỷ lệ khấu hao giảm dần qua các năm. Tỷ lệ khấu hao này được xác định bằng cách lấy số năm sử dụng còn lại chia cho tổng số thứ tự năm sử dụng. Công thức tính như sau: t TKH = T Trong đó: TKH: Tỷ lệ khấu hao theo năm sử dụng T: Thời gian dự kiến sử dụng TSCĐ t: Thứ tự năm cần tính tỷ lệ khấu hao. Phương pháp khấu hao giảm dần có ưu điểm là phản ánh chính xác hơn mức hao mòn TSCĐ vào giá trị sản phẩm, thu hồi vốn nhanh nên hạn chế được ảnh hưởng của hao mòn vô hình. Tuy nhiên nhược điểm của phương pháp này là việc tính toán mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao hàng năm sẽ phức tạp, số tiền trích khấu hao luỹ kế đến năm cuối cùng cũng chưa đủ bù đắp toàn bộ giá trị đầu tư ban đầu vào TSCĐ. Trên thực tế người ta có thể sử dụng kết hợp phương pháp khấu hao bình quân với phương pháp khấu hao giảm dần bằng cách: trong những năm đầu sử dụng TSCĐ thì áp dụng phương pháp khấu hao giảm dần, còn những năm cuối thì thực hiện phương pháp
  14. khấu hao bình quân. Bằng cách này có thể hạn chế được hao mòn vô hình và số khấu hao luỹ kế đến năm cuối cùng sẽ bù đắp được giá trị ban đầu của TSCĐ. Việc nghiên cứu các phương pháp khấu hao TSCĐ là một căn cứ quan trọng giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn phương pháp khấu hao phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp mình, đảm bảo cho việc thu hồi, bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Đồng thời cũng là căn cứ cho việc lập kế hoạch khấu hao TSCĐ của các doanh nghiệp. 2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. 2.1. Hiệu quả sử dụng vốn cố định (VCĐ). Trong các doanh nghiệp, VCĐ là một bộ phận quan trọng của vốn đầu tư nói riêng và của vốn sản xuất nói chung. Quy mô của VCĐ và trình độ quản lý, sử dụng nó là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp. Do ở một vị trí then chốt và đặc điểm vận động của nó lại tuân theo tính quy luật riêng nên việc quản lý VCĐ được coi là một trọng điểm của công tác tài chính doanh nghiệp. Như đã trình bày ở trên, phải trải qua một thời gian dài VCĐ mới hoàn thành được một vòng luân chuyển. Vấn đề đặt ra thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý doanh nghiệp ở đây là làm thế nào để VCĐ trong suốt thời gian dài tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra được nhiều sản phẩm mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hay nói cách khác là làm thế nào để sử dụng VCĐ một cách có hiệu quả nhằm thực hiện được mục đích kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy hiệu quả sử dụng VCĐ là gì ? Trong các doanh nghiệp nó được đánh giá thông qua các chỉ tiêu nào ? Trước hết nói về hiệu quả sử dụng VCĐ trong doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng VCĐ nói riêng được biểu thị qua mối quan hệ giữa kết quả đạt được trong quá trình sản xuất với chi phí về lao động sống và lao động vật hoá bỏ ra để đạt được kết quả trên. Hiệu quả sản xuất kinh doanh phải bao gồm cả hai mặt: Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Hai mặt này liên quan chặt chẽ với nhau và thể hiện nội dung cơ bản của hiệu quả sản xuất. Trong đó hiệu quả kinh tế là cơ sở vật chất của hiệu quả xã hội, hiệu quả xã hội tạo điều kiện tốt hơn để thu được hiệu quả kinh tế cao hơn.
  15. Như vậy, ta có thể thấy rằng: Hiệu quả sử dụng VCĐ là mối quan hệ giữa kết quả đạt được trong quá trình khai thác sử dụng VCĐ vào sản xuất với số VCĐ đã sử dụng để đạt được kết quả đó. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, bất kỳ một doanh nghiệp nào khi sử dụng vốn vào sản xuất nói chung và VCĐ nói riêng đều phải quan tâm đến hiệu quả nó mang lại. Để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ trong các doanh nghiệp, người ta thường dùng một hệ thống các chỉ tiêu bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu phân tích. Các chỉ tiêu tổng hợp nhằm phản ánh về mặt chất của việc sử dụng VCĐ doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu này, người quản lý có thể so sánh kết quả quản lý giữa kỳ này với kỳ trước, giữa doanh nghiệp mình với các doanh nghiệp khác có quy mô tương tự để rút ra những trọng điểm cần quản lý. Thuộc loại này bao gồm các chỉ tiêu sau: - Hiệu suất sử dụng vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ. Doanh thu ( hoặc doanh thu thuần) trong kỳ Hiệu suất sử dụng vốn cố = định Số vốn cố định bình quân trong kỳ Số vốn cố định bình quân trong kỳ được tính theo phương pháp bình quân số học giữa số vốn cố định ở đầu kỳ và cuối kỳ. Số vốn cố định đầu kỳ + Số vốn cố định cuối kỳ Số vốn cố định bình = quân trong kỳ 2 Trong đó: Số vốn cố định đầu kỳ = Nguyên giá TSCĐ đầu kỳ - Số khấu hao luỹ kế đầu kỳ Số vốn cố định cuối kỳ = Nguyên giá TSCĐ cuối kỳ - Số khấu hao luỹ kế cuối kỳ - Hàm lượng vốn cố định: Chỉ tiêu này là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định. Nó phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần cần bao nhiều đồng vốn cố định. Số vốn cố định bình quân trong kỳ Hàm lượng vốn cố định = Doanh thu ( hoặc doanh thu thuần) trong kỳ - Hiệu quả sử dụng vốn cố định (tỷ suất lợi nhuận vốn cố định): Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ có thể tạo ra bao nhiều đồng lợi nhuận trước thuế (hoặc
  16. sau thuế). Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng và hiệu quả đầu tư cũng như chất lượng sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. Lợi nhuận trước thuế ( hoặc sau thuế) trong kỳ Tỷ suất lợi nhuận vốn = cố định Số vốn cố định bình quân trong kỳ Bên cạnh những chỉ tiêu tổng hợp nêu trên, người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu phân tích để phản ánh từng mặt của việc sử dụng vốn cố định trong kỳ. Thuộc các chỉ tiêu phân tích bao gồm các chỉ tiêu sau: - Hệ số hao mòn TSCĐ: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ trong doanh nghiệp so với thời điểm đầu tư ban đầu. Số tiền khấu hao kuỹ kế Hệ số hao mòn = TSCĐ Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá - Hiệu suất sử dụng TSCĐ: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng TSCĐ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần. DT ( hoặc DT thuần ) trong kỳ Hiệu suất sử = dụng TSCĐ Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ - Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp: Chỉ tiêu này phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa giá trị từng nhóm, loại TSCĐ trong tổng số giá trị TSCĐ của doanh nghiệp ở thời điểm đánh giá. Chỉ tiêu này giúp cho doanh nghiệp đánh giá mức độ hợp lý trong cơ cấu TSCĐ được trang bị ở doanh nghiệp, từ đó có biện pháp đầu tư, điều chỉnh lại cơ cấu TSCĐ nhằm nâng cao hiệu suất sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trên đây là những chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu phân tích chủ yếu nhằm phục vụ cho việc kiểm tra tài chính đối voíư việc sử dụng VCĐ của mỗi doanh nghiệp. Khi đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ cần phải kết hợp các hai loại chỉ tiêu trên để rút ra được những kết luận đúng đắn. Ngoài ra, vì TSCĐ gồm nhiều loại nên phải kết hợp xem xét các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của từng loại cụ thể về mặt hiện vật để đánh giá được toàn diện và chính xác hiệu quả sử dụng VCĐ. Qua phương pháp xác định hiệu quả sử dụng VCĐ trên đây chúng ta thấy rằng: Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ có nghĩa là khai thác một cách triệt để khả năng hiện có của doanh nghiệp, phát huy hết công suất thiết kế của máy móc, thiết bị, tận dụng một cách
  17. tối đa giờ máy... để từ đó tạo ra nhiều sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp làm cho kết quả thu được trên một đồng chi phí về TSCĐ (VCĐ) ngày một tăng. Điều đó có nghĩa là khi hiệu quả sử dụng VCĐ được nâng lên thì với một đồng vốn bỏ ra sẽ cho kết quả nhiều hơn, tốt hơn cho doanh nghiệp. Như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là một trong những phương pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp phải thường xuyên nắm vững tình hình sử dụng VCĐ để đề ra những biện pháp tích cực nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ trong doanh nghiệp. 2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất là vấn đề cần thiết cấp bách, có ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, điều đó xuất phát từ các lý do chủ yếu sau: - Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp với bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Từ góc độ của doanh nghiệp có thể thấy rằng: Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu nhập từ các hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại. Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nói lên kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và là nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất mở rộng. Đặc biệt trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không thì điều quyết định là doanh nghiệp tạo ra được lợi nhuận hay không. Vì thế lợi nhuận được coi là một trong những đòn bẩy quan trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận tác động đến tất cả các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Việc thực hiện được chỉ tiêu lợi nhuận là một điều quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc. Chính vì vậy, sản xuất kinh doanh như thế nào để có lợi nhuận là mục tiêu phấn đấu của tất cả các doanh nghiệp. Để đạt được điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường công tác tổ chức và quản lý sản xuất, trong đó có vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ, có như vậy mới đem lại được lợi nhuận cao, góp phần thúc đẩy doanh nghiệp ngày càng phát triển.
  18. - Xuất phát từ vị trí, vai trò của VCĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. VCĐ của doanh nghiệp là thành phần cơ bản của vốn sản xuất kinh doanh. Nó gắn liền với quy mô hoạt động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đồng thời thể hiện một cách chính xác nhất trình độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của mỗi doanh nghiệp. Do vậy nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ sẽ làm cho hiệu quả sử dụng vốn sản xuất tăng lên. Đó cũng chính là mục tiêu cần đạt tới của việc sử dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Hiệu quả sử dụng VCĐ là chỉ tiêu chất lượng phản ánh tổng hợp những cố gắng, những biện pháp hữu hiệu về kỹ thuật, về tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý doanh nghiệp nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Chất lượng sản xuất cao sẽ thu được nhiều lãi, hoàn vốn nhanh. Đây cũng là mục tiêu phấn đấu của mọi doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là đảm bảo với số vốn hiện có, bằng các biện pháp quản lý và sử dụng tổng hợp nhằm khai thác triệt để mọi khả năng để có thể mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ phải được biểu hiện trên hai khía cạnh: Một là, với số vốn hiện có có thể sản xuất ra được một số lượng sản phẩm lớn hơn trước với chất lượng tốt hơn, giá thành hạ để tăng được lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hai là, đầu tư thêm VCĐ một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất để tăng doanh số tiêu thụ với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng của vốn. Trong điều kiện của cơ chế thị trường, mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp là phải hướng tới lợi nhuận tối đa. Việc hoàn thành kế hoạch sản xuất phải được đặt trên cơ sở hoàn thành kế hoạch lợi nhuận. Vì thế trong điều kiện cơ chế thị trường, chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng và hiệu quả đầu tư cũng như chất lượng sử dụng VCĐ của doanh nghiệp là lợi nhuận. Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là một vấn đề cần thiết và là điểm đầu tiên quyết định sự tồn tại, phát triển của một tổ chức kinh tế trong điều kiện nền kinh tế mới. Đối với nước ta hiện nay, đang trong chặng đường đầu của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo con đường chủ nghĩa xã hội, cơ sở vật chất kỹ thuật được xây dựng và phát triển với tốc độ cao, TSCĐ được huy động vào sản xuất ngày càng nhiều. Vì vậy,
  19. việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ được coi là một trong những nội dung cơ bản của công tác quản lý sản xuất nói chung và kế hoạch sử dụng VCĐ nói riêng. Điều đó xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Để thực hiện nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ, doanh nghiệp cần phải khai thác triệt để khả năng tiềm tàng của TSCĐ, phát huy hết công suất của nó, tận dụng tối đa giờ máy, tăng cường độ làm việc, lựa chọn đầu tư hợp lý... Như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ có tác dụng thúc đẩy năng suất lao động tăng lên, nâng cao trình độ công nghệ sản xuất. Từ đó làm tăng số lượng sản phẩm sản xuất ra trên một đơn vị TSCĐ, giảm lao động vật hoá tiêu hao trong một đơn vị sản phẩm và tiết kiệm lao động sống trong quá trình sản xuất kinh doanh, làm cho giá thành hạ, chất lượng sản phẩm được đảm bảo, công tác tiêu thụ được đẩy mạnh... làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ còn có ý nghĩa thúc đẩy vòng chu chuyển của VCĐ tăng nhanh, tạo điều kiện rút ngắn thời gian hao mòn vô hình và hữu hình, từ đó thúc đẩy nhanh nhịp độ đổi mới TSCĐ theo kịp với tốc độ phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ còn đồng nghĩa với việc mở rộng sản xuất mà không cần bỏ thêm vốn đầu tư xây dựng cơ bản để xây dựng mới TSCĐ. Do đó tiết kiệm được vốn mà vẫn tăng doanh lợi cho doanh nghiệp, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực sự mang lại hiệu quả kinh tế cao và ngày một phát triển. Qua đây chúng ta thấy được việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của nền sản xuất nói chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là rất cần thiết và cấp bách, nhất là đối với các doanh nghiệp Nhà nước bởi các lý do sau: * Thứ nhất: Do tác động của cơ chế mới. Hiện nay các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại phát triển và cạnh tranh với nhau. Khi đó các doanh nghiệp Nhà nước muốn đứng vững trên thị trường thì nhất thiết phải sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, đảm bảo không những duy trì bảo toàn được đồng vốn hiện có mà phải làm cho đồng vốn đó ngày càng tăng lên tức là kinh doanh phải có lãi. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện tốt việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và VCĐ nói riêng. Mặt khác trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý hiện nay các doanh nghiệp thực sự là một đơn vị kinh tế tự chủ, tự tổ chức quá trình sản xuất
  20. kinh doanh, tự tìm hiểu thị trường, tự chủ trong việc tìm đầu vào và đầu ra của sản xuất, tự chịu trách nhiệm trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Do vậy vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và VCĐ nói riêng ngày càng trở nên thiết thực và cấp bách hơn. * Thứ hai: Trong thời gian qua, tình trạng quản lý và sử dụng VCĐ của các doanh nghiệp ở nước ta còn rất thấp, gây ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả sản xuất kinh doanh. Như chúng ta đã biết, để tiến hành sản xuất kinh doanh thì bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần phải có vốn. Trong các doanh nghiệp, vốn được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Đối với nguồn vốn dùng để đầu tư mua sắm TSCĐ bao gồm: - Nguồn vốn pháp định: gồm VCĐ do ngân sách cấp, do cấp trên cấp phát cho doanh nghiệp (đối với các doanh nghiệp Nhà nước). - Nguồn vốn tự bổ sung: được bổ sung từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy định của cơ chế tài chính hoặc quyết định của chủ sở hữu vốn ... dùng để mua sắm, đổi mới máy móc thiết bị. - Nguồn vốn liên doanh: gồm các khoản do các đơn vị tham gia liên doanh góp vốn bằng TSCĐ và góp bằng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã hoàn thành. - Nguồn vốn vay: gồm các khoản vay Ngân hàng, vay các tổ chức kinh tế khác để đầu tư vào TSCĐ, hoặc các khoản huy động được từ phát hành cổ phiếu, trái phiếu... Thực tế trong điều kiện sản xuất chưa phát triển, hiệu quả kinh tế đạt được nhìn chung còn thấp, trình độ quản lý còn non kém, quá trình sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn thì việc bổ sung VCĐ bằng các quỹ của doanh nghiệp còn rất hạn chế. Mặt khác, các doanh nghiệp làm ăn còn kém hiệu quả nên việc liên doanh liên kết và huy động vốn liên doanh của các đơn vị khác sẽ rất khó khăn. Bởi vì khi đem đồng vốn đi góp vốn liên doanh các nhà kinh tế phải phân tích hiệu quả kinh tế của đồng vốn đem đi góp, phân tích tình hình sản xuất của doanh nghiệp định liên doanh làm ăn có hiệu quả hay không? Chính vì vậy mà nguồn VCĐ huy động từ liên doanh hay các nguồn khai thác từ bên ngoài cũng chỉ đạt được ở một mức độ nhất định. Vì vậy nguồn VCĐ của doanh nghiệp chủ yếu là do nguồn vốn Ngân sách cấp. Theo quy định hiện hành thì doanh nghiệp Nhà nước được cấp không VCĐ. VCĐ có vòng luân chuyển chậm (đối với máy móc thiết bị trung bình từ 15 đến 20 năm) do đó làm cho doanh nghiệp không thấy căng thẳng về tài chính dẫn đến tình trạng ít quan tâm đến việc tính toán hiệu quả đầu tư VCĐ đưa đến tình trạng TSCĐ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2