intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu tại Công ty VINAGIMEX

Chia sẻ: Nguyen Lon | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:86

87
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, kinh tế thị trường là một tất yếu không thể tránh và không nên tránh của bất kì quốc gia nào, dù quốc gia đó đi theo con đường TBCN hay XHCN. Điều cốt yếu ở đây là phải vận dụng kinh tế thị trường sao cho đạt hiệu quả cao nhất, hạn chế tối đa những điểm bất cập mà kinh tế thị trường mang lại, có như vậy mới có thể phát triển bền vững. Cùng với quá trình phân công lao động ngày càng sâu sắc hơn, Thương...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu tại Công ty VINAGIMEX

  1. LUẬN VĂN: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu tại Công ty VINAGIMEX
  2. Lời mở đầu Trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, kinh tế thị trường là một tất yếu không thể tránh và không nên tránh của bất kì quốc gia nào, dù quốc gia đó đi theo con đường TBCN hay XHCN. Điều cốt yếu ở đây là phải vận dụng kinh tế thị trường sao cho đạt hiệu quả cao nhất, hạn chế tối đa những điểm bất cập mà kinh tế thị trường mang lại, có như vậy mới có thể phát triển bền vững. Cùng với quá trình phân công lao động ngày càng sâu sắc hơn, Thương mại quốc tế đã và đang góp phần tích cực cho sự ơphát triển phồn thịnh của mỗi quốc gia, đặc biệt đối với Việt Nam. Muốn đạt được mục tiêu mà đảng và Nhà nước đề ra là đưa nước ta trở thành một nước công nông nghiệp phát triển vào năm 2020, toàn dân, toàn xã hội và trước hết là các doanh nghiệp trong cũng như ngoài quốc doanh phải luôn hoàn thiện mình, không ngừng vươn lên để thực hiện mục tiêu đó. Tuy nhiên, nước ta vẫn còn đang bươc knhững bước đầu tiên của quá trình đổi mới nền kinh tế, do vậy, những vấp ngã cũng như sự thiếu vững vàng là không thể tránh khỏi. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp quốc doanh vẫn còn mang nặng dáng dấp của cơ chế quản lí kinh tế kế hoạch hoá tập trung trì trệ, bảo thủ, công tác quản lí doanh nghiệp còn yếu kém. Hơn nữa, khi Nhà nước còn đang thực hiện cơ chế chuyển đổi nền kinh tế sang cổ phần hoá và tư nhân hoá thì cơ hội cũng nhiều lên và khó khăn cũng càng thêm chồng chất. Nhưng điều đáng mừng là chúng ta đã bắt đầu nhìn thấy những mảng sáng của một nền kinh tế mới. Các doanh nghiệp quốc doanh đã dần nhận ra được những mặt yếu kém của mình và đang nỗ lực khắc phục, hoàn thiện cơ chế quản lí, nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp và chuyển giao công nghệ Việt Nam - VINAGIMEX - là một trong những công ty đi tiên phong trong vấn đề này. VINAGIMEX hoạt động rất mạnh trong lĩnh vực nhập khẩu, do đó, việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của hoạt động này là rất cần thiết.
  3. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác nhập khẩu trong quan hệ thương mại quốc tế, với kiến thức sau bốn năm học tập tại trường và thời gian thực tập tại công ty VINAGIMEX được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo khoa Thương mại và các cán bộ trong công ty, em đã cảm thấy đủ tự tin để nghiên cứu (mot so bien phap nang cao hieu qua hoat dong kinh doanh nhap khau tai cong ty vinagimex). Để hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình với các vấn đề nghiên cứu như sau: 1. Về mặt lí thuyết, hoạt động nhập khẩu bao gồm những nội dung gì ? 2. Thực trạng hoạt động nhập khẩu tại công ty VINAGIMEX có điểm gì nổi bật ? Những điểm mạnh và yếu trong hoạt động nhập khẩu của công ty? 3. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu để thực hiện mục tiêu phương hướng phát triển công ty. Do trình độ lí luận cũng như kinh nghiệm thực tế còn chưa vững và hạn chế, bài viết của em không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong các thầy cô giáo, các cán bộ nhân viên của VINAGIMEX giúp đỡ để em hoàn thiện đề tài.
  4. Chương I. Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu. I. Bản chất kinh tế của Thương mại quốc tế và vấn đề kinh doanh xuất nhập khẩu. 1. Bản chất kinh tế của Thương mại quốc tế. 1.1. Khái niệm. Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế tối đa. Trao đổi hàng hoá là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội va phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giưã những người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Thương mại quốc tế là lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước. Ngày nay, Thương mại quốc tế không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán mà là sự phụ thuộc tất yếu giữa các quốc gia vào phân công lao động quốc tế. Vì vậy phải coi trọng Thương mại quốc tế như là một tiền đề một nhân tố phát triển kinh tế trong nước trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế. Bí quyết thành công trong chiến lựoc phát triển kinh tế của nhiều nước là mở rộng thị trường quốc tế và tăng nhanh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá qua chế biến có hàm lượng kĩ thuật cao. Thương mại quốc tế một mặt, phải khai thác được mọi lợi thế của đất nước phù hợp với xu thế phát triển và quan hệ kinh tế quốc tế. Mặt khác phải tính đến lợi thế tương đối có thể được theo quy luật chi phí cơ hội. Phải luôn luôn tín toán cái có thể thu được so với cái giá phải trả khi tham gia vào buôn bán và phân công lao động quốc tế để có đối sách thích hợp. Vì vậy, để phát triển Thương mại quốc tế có hiệu quả lâu dài cần phải tăng cưòng khả năng liên kết kinh tế sao cho mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn.
  5. Quan hệ kinh tế trong một nước là những mối quan hệ giữa những ngưòi tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông trên cơ sở phân công lao động và chuyên môn hoá trong nước. Quan hệ Thương mại quốc tế thể hiện sự phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế ở trình độ kĩ thuật cao và qui mô lớn. Nó được phát triển trong một môi trường khác hoàn toàn các quan hệ kinh tế trong nước về phương cách giao dịch buôn bán, về luật pháp, về nghiệp vụ… Thị trường thế giới và thị trường dân tộc là những phạm trù kinh tế khác nhau. Vì vậy các quan hệ kinh tế diễn ra giữa các chủ thể trong kinh doanh Thương mại quốc tế mang tính chất kinh tế xã hội hết sức phức tạp, không thể cho phép nghĩ rằng cứ buôn bán trong nước được có nghĩa là buôn bán với nước ngoài cũng thành công. 1.2. Nguồn gốc và lợi ích của Thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những ngưòi sản xuất hàng hoá riêng biệt của từng quốc gia. Thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì một lí do cơ bản là ngoại thuơng mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của một nước. Thương mại quốc tế cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng của sản xuất trong nước khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không buôn bán. Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội. Với tiến bộ khoa học kĩ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu con người này càng một dồi dào, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nứoc ngày càng tăng. Thương mại quốc tế và chuyên môn hoá tăng nhanh đã đặt ra câu hỏi lí do để buôn bán là gì ? Trước hết, thương mại xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa các nước, nên chuyên môn hoá một số mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu
  6. các mặt hàng khác từ nước ngoài mà sản xuất trong nước kém lợi thế thì chắc chắn đem lại lợi nhuận lớn hơn. Sự khác nhau về điều kiện sản xuất ít nhất cũng giải thích được sự hình thành nên Thương mại quốc tế giữa các nước trong kinh doanh các mặt hàng như dầu lửa, lương thực, dịch vụ du lịch… Song như chúng ta đã biết, phần lớn số lượng Thương mại thuộc các mặt hàng không xuất phát từ điều kiện tự nhiên vốn có của sản xuất. Mỹ sản xuất được ôtô tại sao lại phải nhập khẩu ôtô từ Nhật Bản? Làm sao nước ta với xuất phát điểm thấp và chi phí sản xuất hầu như lớn hơn tất cả các mặt hàng của các cường quốc kinh tế lại có thể vẫn duy trì thương mại với các nước đó. Nhà kinh tế học David Ricardo đã trả lời những câu hỏi này. Năm 1817 ông đã chứng minh được rằng chuyên môn hoá quốc tế có lợi cho tất cả các nước và gọi kết quả đó là Qui luật lợi thế tương đối (hay Lí thuyết về lợi thế so sánh). Qui luật này khẳng định nếu mỗi quốc gia chuyên môn hoá sản xuất các mặt hàng mà nước đó có lợi thế tương đối hay có hiệu quả sản xuất cao nhất thì thương mại có lợi cho cả hai nước. Chúng ta bắt đầu với việc chỉ ra những lợi ích của Thương mại quốc tế do sự chênh lệch giữa các quốc gia về chi phí cơ hội. Theo đó Chi phí cơ hội của một mặt hàng là số lượng những mặt hàng khác người ta phải từ bỏ để sản xuất hoặc kinh doanh thêm một đơn vị mặt hàng đó. Giả sử một nền kinh tế khép kín có những nguồn lực nhất định có thể làm ra máy video và áo sơmi. Càng dùng nhiều nguồn lực vào việc làm ra máy video thì càng có ít nguồn lực làm ra áo sơmi. Chi phí cơ hội của máy video là lượng áo sơmi bị hi sinh do dùng vào các nguồn lực vào việc làm ra các máy Vvideo. Chi phí cơ hội cho ta biết chi phí tương đối để làm ra các mặt hàng khác nhau. Sự chênh lệch giưã các nước về chi phí tương đối trong sản xuất quyết định phương thức thương mại quốc tế. Phương thức đó được minh hoạ bằng qui luật lợi thế tưong đối.
  7. Qui luật lợi thế tương đối nói rằng, các nước hay cá nhân nếu chuyên môn hoá trong việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà họ làm ra với chi phí tương đối thấp hơn thì sẽ có lợi ích kinh tế lớn hơn. Qui luật này có thể được giải thích bằng ví dụ sau: M An ỹ h - Yêu cầu lao động cho một đơn vị sản phẩm (Giờ/đơn vị sản phẩm) + Máy Video 30 60 + áo Sơmi 5 6 - Tiền lương theo giờ 6 2 chi phí lao động cho một USD bảng đơn vị sản phẩm + Máy Video + áo Sơmi 18 12 0USD 0 bảng 30 12
  8. USD bảng Giả thiết rằng các công nhân Mỹ kiếm được 6USD một giờ và các công nhân Anh là 2 bảng một giờ. Hai dòng cuối của bảng trên cho thấy chi phí lao động cho một đơn vị của hai loại hàng ở mỗi nước. Nếu không có thương mại quốc tế thì mỗi nước sẽ sản xuất cả hai loại hàng và các chi phí lao động cho một đơn vị sản phẩm này là giá trị nội địa của mỗi sản phẩm bán ra. Chú ý rằng đối với cả hai sản phẩm, yêu cầu lao động cho một đơn vị sản phẩm ở Mỹ là thấp hơn một cách tuyệt đối so với yêu cầu này ở Anh. Nhưng lao động ở Mỹ hiệu quả hơn một cách tương đối về máy video so với áo sơmi. Còn số giờ lao động nhiều gấp đôi ở Anh so với Mỹ để sản xuất ra một máy video, nhưng chỉ cần 6/5 số giờ lao động nhiều hơn để sản xuất ra một áo sơmi. Và chính những chênh lệch tương đối về năng suất này là cơ sở cho thương mại quốc tế. Tuy nhiên, lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo chỉ đề cập đến mô hình đơn giản giữa hai nước, hai hàng hoá và một nguồn lực đầu vào là lao động. Vì thế mô hình của David Ricardo chưa giải thích được một cách rõ ràng nguồn gốc của thương mại quốc tế trong nền kinh tế hiện đại. Hai nhà kinh tế học người Thuỵ Điển đã bổ sung bằng một mô hình mới, trong đó hai ông đề cập đến hai yếu tố đầu vào là lao động và vốn với những giả thiết của mô hình như sau: Có hai quốc gia cùng sản xuất hai loại hàng hoá Xvà Y bằng hai yếu tố sản xuất là Lao động và Vốn với cùng một kĩ thuật công nghệ như nhau. Hàng hoá X là loại hàng hoá sử dụng nhiều lao động và hàng hoá Y là hàng hoá sử dụng nhiều vốn và ở cả hai quốc gia,
  9. không có sự chuyên môn hoá trong sản xuất. Đồng thời thị trường hàng hoá và thị trường các yếu tố sản xuất là các thị trường cạnh tranh hoàn hảo, có sự dịch chuyển linh hoạt của các yếu tố sản xuất trong phạm vi của một quốc gia nhưng không có sự dịch chuyển trong phạm vi quốc tế. Trong mô hình hai ông cũng không xét đến các chi phí vận tải, thuế nhập khẩu hoặc những trở ngại khác cho hoạt động thương mại quốc tế tự do và giả định rằng tài nguyên được sử dụng triệt để ở cả hai quốc gia. Với những giả định như trên mô hình của Hécher- Ohlin phát biểu: Một nước xuất khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất ra nó cần sử dụng nhiều yếu tố rẻ và tương đối sẵn có của nước đó và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó cần nhiều yếu tố đắt và tương đối khan hiếm ở nước đó. Một cách vắn tắt, một nước tương đối giàu lao động sẽ xuất khẩu hàng hoá sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu các hàng hoá sử dụng nhiều vốn. Theo các giả thiết đã trình bày ở trên, quốc gia thứ nhất sẽ xuất khẩu hàng hoá X, vì sản xuất hàng hoá X sử dụng nhiều lao động, mà lao động lại là yếu tố tương đối rẻ và phong phú ở quốc gia thứ nhất. Đồng thời quốc gia thứ hai sẽ xuất khẩu hàng hoá Y vì sản xuất hàng hoá Y sử dụng nhiều yếu tố vốn là yếu tố tương đối sẵn có ở nước thứ hai. Về bản chất học thuyết của Hecsher- Ohlin căn cứ vào sự khác biệt về tính phong phú và giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất, là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về giá cả tương đối của hàng hoá giữa các quốc gia trước khi có thương mại để giải thích nguồn gốc của thương mại quốc tế. Sự khác biệt về giá cả tưong đối của các yếu tố sản xuất và giá cả tương đối của hàng hoá sau đó sẽ được chuyển thành sự khác biệt về giá cả tuyệt đối của hàng hoá. Sự khác biệt về giá cả tuyệt đối của hàng hoá giữa hàng hoá của hai nước là nguyên nhân trực tiếp của Thương mại quốc tế.
  10. 2. Một số vấn đề kinh doanh xuất nhập khẩu. Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân, xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà chủ thể trong nước tham gia xuất nhập khẩu không dễ dàng khống chế đuợc. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ mang lại nhiều lợi ích, song cũng có một số điểm bất lợi. Muốn có hiệu quả cao phải phát triển những thuận lợi và hạn chế tác hại. Những thuận lợi của xuất nhập khẩu đem lại có thể thấy rõ ràng. Bên cạnh đó, xuất nhập khẩu còn có nhiều hạn chế: - Cạnh tranh dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán hàng xuất nhập khẩu. Nếu không có sự kiểm soát của Nhà nước một cách chặt chẽ và kịp thời sẽ gây các thiệt hại khi buôn bán với nước ngoài. Các hiện tượng xấu về kinh tế xã hội: buôn lậu, trốn thuế, ép giá… dễ phát triển. - Cạnh tranh sẽ dẫn đến thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế bằng các biện pháp không lành mạnh như phá hoại cản trở công việc của nhau. Việc quản lí không chỉ đơn thuần tính toán về hiệu quả kinh tế mà còn phải chú trọng tới văn hoá và đaọ đức xã hội. Xuất nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Song mua bán ở đây có những nét riêng phức tạp hơn trong nước như giao dịch với người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỉ trọng lớn, đồng tiền thanh toán bằng ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau phải tuân theo các tập quán quốc tế cũng như địa phương.
  11. Hoạt động xuất nhập khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất nhập khẩu, thương nhân giao dịch, các bước tiến hành giao dịch đàm phán, kí kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành các thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải được nghiên cứu đầy đủ, kĩ lưỡng, đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy đủ kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước. Đối với người tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trước khi bước vào nghiên cứu, thực hiện các khâu nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu hàng hoá, thị hiếu, tập quán tiêu dùng, khả năng mở rộng sản xuất, tiêu dùng trong nước, giá cả, xu hướng biến động của nó. Những điều đó phải trở thành nếp thường xuyên trong tư duy mỗi nhà kinh doanh xuất nhập khẩu để nắm bắt được những cơ hội trong kinh doanh Thương mại quốc tế. II. Nhập khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế. 1. Tính tất yếu khách quan của hoạt động nhập khẩu. Lịch sử đã chứng minh không một quốc gia nào có thể phát triển một cách đơn độc mà phải hoà mình vào nền kinh tế chung- nền kinh tế toàn cầu. Đó chính là sự tham gia vào thương mại quốc tế mà xuất khẩu và nhập khẩu là mặt rất quan trọng. Thương mại quốc tế đã tồn tại đâu đó, ẩn dưói hình thức này hay hình thức khác kể từ những giai đoạn đầu loài người hình thành và phát triển ngày càng hoàn thiện cùng vời sự phát triển của nhân loại, của thế giới và đến thời đại bây giờ, đến những năm đầu của thiên niên kỉ thứ III, thương mại quốc tế hơn bao giờ hết đã khẳng định vai trò của mình. Thương mại quốc tế làm cho các quốc gia ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn về mọi mặt, làm cho con người ngày càng thoả mãn tốt hơn các nhu cầu vật chất và tinh thần của mình. đó là lí do giải thích tại sao từ nhiều thiên niên kỉ trước các đội
  12. thuyền buôn của vương quốc Anh, Tây ban nha, Bồ đào nha… buôn bán khắp năm châu bốn bể để mua các sản vật quí như: Gấm vóc, lụa là, trầm hương, đồi mồi… và xuất đi các vật phẩm tiêu dùng như: Gương lược, công cụ sản xuất… Trong hoạt động này thì cả hai bên mua và bán đều có lợi, đều thoả mãn được nhu cầu tiêu dùng của mình tốt hơn. Và điều này lại một lần nữa khẳng định sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia trên thế giới. Hơn nữa, bất kì một quốc gia nào cũng không chỉ xuất khẩu hoặc nhập khẩu mà phải tiến hành song song. Vì vậy, vị thế của nhập khẩu là không thể chối cãi. Tuy nhiên, vị thế của nó ra sao thì lại phụ thuộc vào tình hình kinh tế cũng như đường lối, chính sách, pháp luật của từng nước. 2. Vai trò của nhập khẩu đối với nền kinh tế. Nằm trong qui luật tất yếu khách quan của Thương mại quốc tế, bản thân nhập khẩu đã có vai trò hết sức to lớn đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Nhập khẩu đảm bảo cung cấp và thoả mãn tốt nhất nhu cầu của nền kinh tế trong nước. Ngoài ra nhập khẩu còn trực tiếp hay gián tiếp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thông qua việc thiết lập các mối quan hệ bạn hàng hay hiện đại hoá các ngành nghề, trang thiết bị sản xuất hàng xuất khẩu. Đối với các nước đang phát triển thì vai trò của hoạt động nhập khẩu là hết sức quan trọng. Nhập khẩu là tác nhân thúc đẩy quá trình tăng trưởng phát triển kinh tế. Đặc biệt là việc nhập khẩu vật tư nguyên liệu phục vụ cho sản xuất tại các nước này, do điều kiện khách quan lịch sử để lại, hầu hết các quốc gia đều có trình độ phát triển tương đối thấp, có sở hạ tầng, trình độ lao động chưa phát triển. Do vậy, trong điều kiện hiện nay để phát triển kinh tế, tất cả các nước đang phát triển đều phải đầu tư trang thiết bị, hiện đại hoá sản xuất. Thông qua nhập khẩu bao gồm cả nhập khẩu máy móc, thiết bị là con đường duy nhất để các nước này đạt được điều đó. Qua hoạt động nhập khẩu, năng lực sản xuất của quốc gia được tăng cường và mở rộng, tận dụng được nguồn nhân công dồi dào. Hơn nữa hoạt động nhập khẩu tuân theo qui luật chuyển dịch cơ cấu đầu tư. Các nước NICs tiếp nhận công
  13. nghệ sản xuất đồ điện tử từ Mỹ, Nhật vào những năm 1980- 1990, công nghệ may mặc, giày da chuyển từ NICs sang Việt Nam, Mãlai, Thái lan… ngoài ra sự thất bại của chiến lược thay thế nhập khẩu ở các nước NICs thời kì đầu công nghiệp hoá đã chỉ ra rằng, để khai thác các lợi thế thì trong chừng mực nào đó lại phụ thuộc vào nhập khẩu. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển lại trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, do vậy hoạt động nhập khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng. Trong vòng hơn mười năm qua (1991- 2002) kinh tế Việt Nam luôn duy trì ở mức tăng trưởng cao, sản xuất công nghiệp luôn tăng trưởng ở mức 15% dến 17%/năm. Bên cạnh đó Việt Nam còn là một nước nông nghiệp nên nhu cầu phân bón, máy móc nông nghiệp khá cao. Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch nhập khẩu của nước ta. Như vậy hoạt động nhập khẩu của nước ta trong vòng hơn mười năm qua đã hoàn thành tốt vai trò của mình. Xét cho cùng, mặc dù luôn hướng tới mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu song cũng phải khẳng định vai trò của hoạt động nhập khẩu. Do vậy, nên có một cách nhìn nhận khoa học đối với hoạt động nhập khẩu và Nhà nước cần có chính sách, biện pháp quản lí hợp lí tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu nhằm đẩy mạnh sản xuất bằng các chính sách thuế, hạn ngạch phù hợp. 3. Vai trò của nhập khẩu đối với doanh nghiệp. Trong thời điểm hiện nay vơí chính sách khuyến khích xuất khẩu của nhà nước hầu hết các doanh nghiệp trong nước chú trọng đến xuất khẩu do vậy dẫn đến đánh giá không đúng vai trò của nhập khẩu. Công ty VINAGIMEX với tính chất và đặc điểm kinh doanh của mình thì nhập khẩu đóng vai trò rất lớn trong sự phát triển. Thực tế cho thấy trong những năm gần đây kim ngạch nhập khẩu của công ty luôn tăng lên và đã đem lại cho công ty nguồn doanh thu, lợi nhuận tăng lên rõ rệt. Nhận thức được điều đó cán bộ ban lãnh đạo công ty luôn đề ra những chiến lược kinh doanh nhập khẩu phù hợp và có khả năng thích ứng cao với mọi biến động của thị trường. Đồng thời, với bất kì một nhà kinh doanh nào thì mục tiêu lợi nhuận cũng
  14. được đặt lên hàng đầu, đó là nguyên tắc bất di bất dịch trong kinh doanh buôn bán làm ăn. Trong khi đó một khi mà lợi ích của công ty phù hợp với lợi ích của quốc gia thì nâng cao vai trò của lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu là vấn đề rất đúng đắn. Chúng ta sẽ làm rõ vấn đề này trong các phần sau. III. Nội dung hoạt động kinh doanh nhập khẩu ở doanh nghiệp. Hoạt động nhập khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ nghiên cứu thị trường, lựa chọn hàng hoá nhập khẩu, đối tác giao dịch, tiến hành đàm phán kí kết hợp đồng, tổ chức thực hiện và thanh toán hợp đồng. Để đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh cần phải nghiên cứu kĩ từng khâu và mối quan hệ giữa chúng trong qui trình nhập khẩu nhằm xây dưng một qui trình nhập khẩu có hiệu quả cao hơn.
  15. 1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu là việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất kì doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thương mại quốc tế. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu là qúa trình điều tra nhu cầu và khả năng nhập khẩu cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm trên thị trường nào đó. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin về các loại hàng hoá dịch vụ, các nguồn cung ứng, khả năng dự trữ, số liệu về mua bán… Từ đó so sánh, phân tích, rút ra kết luận cần thiết cho công tác xâm nhập thị trường. Trong quá trình chuẩn bị giao dịch, vấn đề nghiên cứu thị trường để có một hệ thống thông tin về thị trường đầy đủ, chính xác, kịp thời sẽ làm cơ sở cho doanh nghiệp có những quyết định đúng đắn đáp ứng được tình thế của thị trường. Đồng thời, hệ thống thông tin không những làm cơ sở để doanh nghiệp lựa chọn được các đối tác giao dịch thích hợp mà còn là cơ sở cho quá trình giao dịch, đàm phán, kí kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng sau này có hiệu quả. 1.1. Nghiên cứu thị trường trong nước. Đây chính là việc nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu. Có nghiên cứu thị trường trong nước một cách kĩ lưỡng chặt chẽ thì doanh nghiệp mới nắm bắt được thông tin về nhu cầu, giá cả, chất lượng của hàng hoá, dịch vụ từ đó đề ra các hướng cho hoạt động nhập khẩu. Quá trình nghiên cứu thị trường này bao gồm các bước sau: 1.1.1. Nhận biết mặt hàng nhập khẩu. Mục đích của việc nghiên cứu thị trường mặt hàng nhập khẩu là để tìm ra mặt hàng nhập khẩu mà nhu cầu trong nước đang cần nhưng phải phù hợp với mục tiêu và lợin nhuận của doanh nghiệp. Muốn biết mặt hàng nào đang được khách hàng và người tiêu dùng trong nước đang cần, đang là nhu cầu thiết yếu của thị trường trong nước thì phải tiến hành nghiên cứu khảo sát trên các khía cạnh sau: - Về mặt hàng, phẩm chất, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu…
  16. - Về tình hình tiêu dùng mặt hàng đó ra sao, phải hiểu rõ về tập quán tiêu dùng, thị hiếu và qui luật biến động của quan hệ cung cầu để có thể đáp ứng nhu cầu của thị trường một cách tốt nhất. - Dự đoán về chu kì sống của sản phẩm: Doanh nghiệp phải tìm hiểu được mặt hàng mình định nhập khẩu (có thể là thành phẩm hoặc nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng hoá tiêu thụ trong nước) đang ở giai đoạn nào trong chu kì sống của mặt hàng đó để có quyết định chính xác nhằm nâng cao doanh số cũng như hiệu quả kinh doanh. Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu là bao nhiêu? Thương mại quốc tế do các nước có hệ thống tiền tệ khác nhau nên việc xác định tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu là cần thiết để xem xét kinh doanh có hiệu quả hay không. Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu là tổng số bản tệ thu được khi bỏ ra một đồng ngoại tệ. Nếu tỷ suất này lớn hơn tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và đồng ngoại tệ thì việc nhập khẩu có lãi và ngược lại sẽ bị thua lỗ. 1.1.2. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường. Dung lượng thị trường là một khối hàng hoá được giao dịch trên phạm vi một thị trường nhất định trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Đối với đơn vị kinh doanh nhập khẩu, nghiên cứu dung lượng thị trường cần xác định khả năng cung cấp của thị trường bao gồm việc xem xét đặc điểm, tính chất, khả năng sản xuất hàng thay thế, khả năng lựa chọn mua bán. Dung lượng thị trường là không cố định, nó thay đổi tuỳ theo diễn biến của từng giai đoạn nhất định. Các yếu tố ảnh hưởng tới dung lượng của thị trường có thể chia làm ba loại sau: Thứ nhất là các yếu tố làm dung lượng biến đổi có tính chất chu kì. Đó là sự vận động của tình hình kinh tế và tính chất thời vụ trong sản xuất lưu thông và tiêu dùng.
  17. Thứ hai là các nhân tố ảnh hưởng lâu dài tới sự biến động của thị trường bao gồm những tiến bộ khoa học công nghệ, các chính sách của Nhà nước và các tập đoàn tư bản tài chính lũng đoạn, thị hiếu tập quán tiêu dùng, ảnh hưởng của khả năng sản xuất hàng thay thế. Thứ ba là nhân tố ảnh hưởng tạm thời tới dung lượng thị trường như biến động về kinh tế, chính trị, thiên tai của quốc gia chiếm tỷ trọng lớn trong tổng mức cung và cầu về hàng hoá nhập khẩu hay hiện tượng đầu cơ tích trữ gây đột biến về cung cầu. Khi phân tích sự ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động của dung lượng của thị trường cần phải đánh gía đúng mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, xác định nhân tố nào có quyết định xu hướng vận động của thị trường trong thời gian nghiên cứu, từ đó xác định chính xác nhu cầu nhập khẩu mặt hàng đã lựa chọn. 1.1.3. Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh. Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh cũng nắm vững thông tin số lượng các đối thủ cạnh tranh trong mặt hàng kinh doanh, tình hình hoạt động, tỷ trọng thị trường, thế mạnh, điểm yếu của các đối thủ. Đặc biệt cần nghiên cứu kĩ các chiến lược kinh doanh và khả năng thay đổi chiến lược kinh doanh của đối thủ cạnh tranh. Trong thời gian tới để đưa ra các phương án đối phó tối ưu, hạn chế các điểm mạnh và tận dụng các điểm yếu của đối thủ để vượt lên trên. 1.1.4. Nghiên cứu sự vận động của môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh bao gồm môi trường tự nhiên, văn hoá xã hội, chính trị, pháp luật…Môi trường kinh doanh có tác động rất lớn và chi phối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cần phải tiến hành nghiên cứu sự vận động của nó để nắm bắt quy luật vận động của môi trường kinh doanh để có biện pháp, chính sách phòng ngừa có hiệu quả. 1.2. Nghiên cứu thị trường ngoài nước. Đối với những đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu việc nghiên cứu thị trường ngoài nước có ý nghĩa quan trọng. Trong việc nghiên cứu đó nắm vững những nội
  18. dung về tình hình chính trị, pháp luật, điều kiện Thương mại nói chung, thái độ quan điểm của nước xuất khẩu, điều kiện tín dụng, vận tải, giá cước… Ngoài ra cần phải nghiên cứu dung lượng thị trường và giá cả trên thị trường quốc tế. 1.2.1. Nguồn cung cấp trên thị trường quốc tế. Doanh nghiệp cần nắm vững được tình hình các nguồn cung cấp trên thị trường quốc tế mà doanh nghiệp khả năng giao dịch rồi từ đó nghiên cứu các đặc điểm thị trường các nước trên các phương diện: - Thái độ và quan điểm của các nước cung cấp thể hiện qua các chính sách ưu tiên xuất khẩu hay hạn chế xuất khẩu. - Tình hình chính trị quốc gia đó có ổn định hay không, có tác động đến nguồn cung cấp mặt hàng đó như thế nào ? - Về vị trí địa lí có thuận tiện cho giao dịch mua bán, có đem lại hiệu quả kinh doanh hay không, có tiết kiệm chi phí vận chuyển, bảo hiểm trong quá trình nhập khẩu của doanh nghiệp ? 1.2.2. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường quốc tế. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời thể hiện một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế trên thị trường thế giới. Giá cả không những phản ánh mà còn điều tiết mối quan hệ cung cầu hàng hoá. Việc xác định đúng đắn giá cả trong nhập khẩu có ý nghĩa to lớn với hiệu quả Thương mại quốc tế, cụ thể sẽ làm giảm lượng ngoại tệ chi ra. Vì vậy giá cả là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả của hoạt động ngoại thương. Giá cả trong hoạt động xuất nhập khẩu là giá cả quốc tế. Do vậy để đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh trên thị trường quốc tế và để giá cả thực sự trở thành đòn bẩy trong ngoại thương, phải có biện pháp tính toán giá cả một cách chính xác, khoa học, phải nắm vững được xu hướng vận động của giá cả trên thị trường quốc tế. Nghiên cứu giá cả bao gồm việc nghiên cứu giá cả của từng mặt hàng tại từng thời điểm trên thị trường, xu hướng biến động và nhân tố ảnh hưởng đến giá cả. 2. Lựa chọn đối tác.
  19. Việc nghiên cứu thị trường giáp cho đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu lựa chọn được mặt hàng, thời cơ thuận lợi, lựa chọn phương thức mua bán và điều kiện giao dịch thích hợp. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, kết quả hoạt động kinh doanh còn phụ thuộc vào đối tác giao dịch. Trong những điều kiện như nhau, việc giao dịch với khách hàng cụ thể này thì thành công nhưng với khách hàng khác thì thất bại. Vì vậy một nhiệm vụ quan trọng của đơn vịi kinh doanh là lựa chọn đối tác giao dịch. Mục đích của việc lựa chọn này là tìm người cung ứng khả dĩ, an toàn và có lợi. Trong quá trình lựa chọn đối tác cần nghiên cứu các vấn đề sau: - Khả năng kĩ thuật của người cung ứng: Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến trình độ, mức độ chất lượng, mức độ đồng nhất, độ tin cậy và tính không khuyết tật của hàng hoá được giao với giá cả tối ưu nhất. - Khả năng sản xuất: Qui mô xuất khẩu của nhà cung ứng đảm bảo cung cấp hàng hoá đúng số lượng đúng thời điểm qui định. Khi xem xét phải chú ý đến công suất, chất lượng và điều kiện sản xuất. - Khả năng tài chính: Tiềm lực tài chính của nguồn cung cấp có tầm quan trọng đạc biệt để đánh giá khả năng của người cung cấp trong thực hiện hợp đồng. - Năng lực quản lí của đối tác: Khả năng quản lí có vai trò sống còn trong việc đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp đặc biệt là trong việc thực hiện hợp đồng lớn và sản phẩm phức tạp về kĩ thuật. - Đánh giá mức độ tín nhiệm: Đánh giá khả năng tin cậy và độ tín nhiệm chung của nguồn cung cấp trên thị trường thế giới. Ngoài ra còn phải xem xét thái độ quan điểm kinh doanh của đối tác và tình hình chính trị của nước người cung ứng. Sau khi nghiên cứu doanh nghiệp cần lựa chọn một đối tác phù hợp. 3. Xây dựng phương án kinh doanh. Việc lựa chọn phương án kinh doanh xác định được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp và chỉ đạo các bộ phận đồng bộ thực hiện các chương trình đã đựoc
  20. hoạch định hướng tới đạt mục tiêu của doanh nghiệp. Đồng thời phương án kinh doanh giúp doanh nghiệp giảm được rủi ro và mang lại hiệu quả trong kinh doanh. Việc hoạch định phương án kinh doanh đã thúc đẩy các cấp quản trị hướng tới sự suy nghĩ có hệ thống và dẫn đến sự phối hợp có nỗ lực của các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh được hoàn hảo hơn. Phương án kinh doanh cũng dẫn đến việc triển khai các tiêu chuẩn kiểm tra thực tiễn và các biện pháp tác động làm cho các hoạt động có hiệu quả hơn. Quá trình xây dựng phương án kinh doanh bao gồm các bước sau:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2