intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Một số vấn đề về huy động vốn trong nước cho đầu tư phát triển ở Việt Nam

Chia sẻ: Nguyenn Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:31

152
lượt xem
38
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nguồn vốn và khả năng khai thác các nguồn vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam là một vấn đề quan trọng cho nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn phát triển. Song phát triển thế nào để theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa và phù hợp với nền kinh tế nước ta hiện nay là một vấn đề quan trọng. Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào vốn trong nước, bởi lẽ chỉ có vốn trong nước mới tạo ra một động lực thực sự thúc đảy nền kinh tế đi theo...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Một số vấn đề về huy động vốn trong nước cho đầu tư phát triển ở Việt Nam

  1. LUẬN VĂN: Một số vấn đề về huy động vốn trong nước cho đầu tư phát triển ở Việt Nam
  2. Lời cả m ơn Nguồn vốn và khả năng khai thác các nguồn vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam là một vấn đề quan trọng cho nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn phát triển. Song phát triển thế nào để theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa và phù hợp với nền kinh tế n ước ta hiện nay là một vấn đề quan trọng. Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào vốn trong nước, bởi lẽ chỉ có vốn trong nước mới tạo ra một động lực thực sự thúc đảy nền kinh tế đi theo đúng hướng đồng thời không bị lệ vào kinh tế các nước khác cũng như không bị ảnh hưởng bởi các biến động về kinh tế - chính trị - xã hội của thế giới . Nhưng muốn có vốn phải huy động vốn , huy động vốn trong nước ta thời gian qua đã và đang là một vấn đề có nhiều bức xúc và được nhiều người quan tâm.Với lòng mong mỏi được đóng góp một phần công sức của mình vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước em xin tham gia một phần ý kiến nhỏ bé của mình vào đề tài này. Để có thể lựa chọn và hoàn thành đề tài này em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng -Tài chính đã hướng dẫn cho chúng em một danh mục các đề tài hay. Mục lục Mở đầu Nội dung Chương I . cơ sở lí luận về vai trò của vốn trong nước với đầu tư phát triển.
  3. 1. Khái niệm về vốn trong nước 2. Lí luận chung về vai trò của vốn trong nước 3. Thực tiễn về vai trò của vốn trong nước đối với đầu tư phát triển. Chương II . tổng quan tình hình huy động vốn trong nước cho đầu tư phát triển . 1.Nguồn lực tài chính. 1.1. Nguồn vốn Nhà nước. 1.1.1. Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước. doanh. 1.1.1.Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. 1.1.2. Nguồn vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước. 1.2. Nguồn vốn dân cư 1.2.1.Nguồn vốn cá nhân, hộ gia đình 1.2.2 .Nguồn vốn của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh . 2. Nguồn lực khác. 2.1. Nguồn lực lao động 2.2. Nguồn lực tự nhiên. 2.3.Vật tư kĩ thuật, cơ sở hạ tầng vật chất xã hội. Chương III . các biện pháp tăng cường huy động vốn trong nước ở Việt Nam. 1. Tiết kiệm, tích luỹ. 1.1. Khuyến khích tiết kiệm 1.2. Khuyến khích các doanh nghiệp tự tích lũy 2.Phát triển các công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. 2.1. Phát triển các công ty cổ phần. 2.2. Phát triển thị trường chứng khoán. 2.3. Tăng cường sự tương tác, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển giữa công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. 3. Đổi mới hoạt động của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian 4. Đa dạng hoá các định chế tài chính trung gian. 4.1.Quỹ đầu tư. 4.2. Các tổ chức tín dụng thuê mua
  4. 4.3.Các công ty bảo hiểm 5. Hoàn thiện khung pháp lí , cải thiện đồng nhất môi trường kinh doanh. 6. Các biện pháp khác. 6.1. Hỗ trợ huy động vốn đầu tư tư nhân 6.2. Tăng khả năng huy động vốn từ ngân sách Nhà nước 6.3. Nhà nước mở đường trong đầu tư 6.4. Phát triển nguồn lực lao động 6.5. Thị trường hoá các tiềm lực trong nước 6.6. Phát triển cơ sở hạ tầng. 6.7. Phát hành công trái, trái phiếu Chính phủ bằng đồng Việt Nam. 6.8. Huy động các nguồn lực tự nhiên vào phát triển kinh tế - xã hội. Kết luận
  5. Mở đầu Vốn đầu tư là động lực vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Các nhà kinh tế đã chứng minh được mối quan hệ tốc độ tăng trưởng và vốn đầu tư bằng cách lượng hoá các chỉ số . Vì vậy vốn được coi là một vấn đề cực kì quan trọng và cấp bách, nhất là đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn công nghiêp hoá - hiện đại hoá . Để duy trì những thành quả đã đạt được của nền kinh tế và thúc đẩy nền kinh tế đi lên thì không thể bỏ qua vai trò của vốn dặc biệt là vốn trong nước vì nó có ý nghĩa quyết định hướng phát triển của đất nước và tạo ra sự vững chắc độc lập của nền kinh tế . Nhưng huy động vốn ở đâu, như thế nào để đạt hiệu quả còn đang là vấn đề phức tạp, nhất là với nước ta khi mà nền kinh tế còn chưa phát triển, người dân còn có thói quen giữ tiền tại nhà không dám đầu tư ... Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này em đã lựa chọn đề tài " Một số vấn đề về huy động vốn trong nước cho đầu tư phát triển ở Việt Nam " . Trong đề án này em xin trình bày một số vấn đề quan trọng về huy động vốn mà đang được nhiều người quan tâm. Trọng tâm của đề án là các biện pháp huy động để đạt hiệu quả tối đa trên nguồn vốn hiện có của đất nước. Bên cạnh đó còn có các phần khái quát về vai trò của vốn trong nước và tình hình huy động vốn nước ta hiện nay. Nội dung của đề án gồm ba chương : Chương I : Cơ sở lí luận về vai trò vốn trong nước đối với đầu tư phát triển. Chương II : Tổng quan tình hình huy động vốn trong nước cho đầu tư phát triển. Chương III : Các biện pháp tăng cường huy động vốn trong nước ở Việt Nam. Nội dung Chương I . cơ sở lí luận về vai trò của vốn trong nước với đầu tư phát triển. 1. Khái niệm về vốn trong nước Hiện nay các nhà kinh tế còn có rất nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm vốn nh ưng về cơ bản thì vốn (theo nghĩa nghĩa rộng) được hiểu không chỉ là tiền tệ mà còn bao gồm cả vật tư kĩ thuật, đất đai, lao động và cả các nguồn lực tự nhiên khác ...
  6. Vốn trong nước là bao gồm tất cả nguồn lực tài chính và các nguồn lực khác của quốc gia đó. Nhưng tầm quan trọng của vốn trong nước không phải ai cũng hiểu được một cách đầy đủ, để có thể hiểu được vấn đề này chúng ta cần phải hiểu được lí luận về vai trò của nguồn vốn mà các nhà kinh tế đã dày công nghiên cứu cũng như thấy được thực tiễn về vai trò của vốn trong nước. 2. Lí luận chung về vai trò của vốn trong nước Vốn là một trong số các nhân tố sản xuất có tầm quan trọng quyết định đối với hoạt động của một nền kinh tế . Vốn là tiền đề tạo ta các nguồn lực khác để phát triển kinh tế - xã hội. Trong hoạt động kinh tế, vốn là một nhân tố không thể thiếu được. Trong điều kiện hiện nay vốn càng có ý nghĩa hết sức to lớn. Trình độ khoa học và công nghệ hiện đại đòi hỏi một khối lợng vốn rất lớn trong hoạt động kinh tế, và cũng nhờ đó mà sức sản xuất và của cải vật chất của xã hội tăng lên đáng kể. Một nước có thể bị hạn chế về tài nguyên, song nền kinh tế vẫn có thể phát triển mạnh mẽ nhờ khối lượng vốn lớn với trình độ công nghệ hiện đại. Ngược lại, đất nước có thể có tài nguyên phong phú, lao động dồi dào, nhưng thiếu vốn, thiếu cơ sở vật chất, kĩ thuật hiện đại thì sẽ khó có điều kiện để khai thác và sử dụng các nguồn tiềm năng trong nước, do đó ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay của các quan hệ kinh tế quốc tế, đối với một quốc gia thiếu vốn không phải là khó khăn không giải quyết được. Nhu cầu về vốn có thể được đáp ứng từ nhiều nguồn như tự cấp vốn hoặc thu hút những nguồn vốn khác nhau thông qua hoạt động của hệ thống tài chính. Ngày nay, điều kiện quốc tế đã mở ra những khả năng to lớn để huy động nguồn vốn từ bên ngoài. Nhưng xét về tổng thể lâu dài để có thể phát triển một cách độc lập và vững mạnh thực sự, không bị lệ thuộc vào nước khác, ít bị chủ nghĩa tư bản lũng đoạn cũng như không bị ảnh hưởng bởi những biến động về kinh tế - chính trị trên thế giới thì sự phát triển phải dựa trên cơ sở đảm bảo độc lập dân tộc, tự chủ của quốc gia, do đó phải dựa vào sức mình là chính tức là phải dựa vào nguồn vốn trong nước. Sử dụng vốn trong nước còn có lợi thế là hoàn toàn làm chủ được trong công cuộc đầu tư vào các lĩnh vực mũi nhọn vốn là ưu thế lâu dài của mỗi nước, đặc biệt là có thể kiểm soát được các nghành công nghiệp quốc phòng.
  7. Từ đó ta thấy được vốn trong nước là điều kiện tiên quyết trước tiên để phát triển kinh tế nhất là trong bối cảnh nước ta nền kinh tế còn kém phát triển, khả năng tích luỹ còn thấp thì việc tăng cường huy động các nguồn vốn trong nước càng có ý nghĩa quan trọng. 3. Thực tiễn về vai trò của vốn trong nước đối với đầu tư phát triển. Kinh nghiệm cho thấy, các nước NIC sở dĩ đạt được kết quả như ngày nay là do nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất là biết lấy nguồn vốn trong nước là chính. Chẳng hạn, năm 1962 vốn trong nước của Hàn Quốc chỉ mới chiếm 30% tổng số vốn đầu tư thì đến giữa năm 70 vốn trong nước đã chiếm gần 100% tổng số vốn đầu tư của nền kinh tế quốc dân. Trên thế giới chưa có nước nào dựa vào nguồn vốn nước ngoài là chính mà công nghiệp hoá thành công. Đúng là các nguồn vốn nước ngoài rất quan trọng, nhất là đối với những nớc lạc hậu kém phát triển, nguồn vốn tích luỹ trong nước còn thấp như nước ta. Nhưng nguồn vốn bên trong vẫn giữ vai trò quyết định, vì những nguồn vốn bên ngoài dù lớn đến mấy, nếu không có nguồn đầu tư quan trọng từ bên trong thì nguồn vốn từ bên ngoài không được sử dụng một cách có hiệu quả. Mặt khác, tốc độ thu hút và thực hiện đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài trong những năm qua cho thấy việc huy động nguồn vốn này cũng không dễ dàng. Vốn viện trợ thường không thường xuyên và có những ràng buộc nhất định, đôi khi còn tuỳ thuộc vào quan hệ chính trị giữa các nước . Vốn vay cũng không đơn giản và còn phải tính đến khả năng hoàn trả chưa kể còn có những khoản lãi lớn. Đối với loại vốn này người vay thường phải chấp nhận nhiều điều kiện bất lợi như phải mua các thiết bị và công cụ lao động của nước cho vay, thường là lạc hậu so với công nghệ hiện đại, hoặc phải thuê chuyên gia của nước cho vay lắp đặt, hướng dẫn vận hành với tiền công rất cao ... Trong nhiều trường hợp, vốn vay đã gây hậu quả nặng nề cho nền kinh tế. Kinh nghiệm cảu Braxin và nhiều nước khác đã cho chúng ta nhiều bài học bổ ích về việc vay vốn nước ngoài. Tình hình vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, cần phải cân nhắc kĩ lưỡng khi gọi đầu tư nước ngoài. Trong các dự án đầu tư thì chủ yếu là của các nước NIC , các công ty lớn chưa nhiều và phần lớn vẫn tập trung ở thành phố và các nghành dịch vụ, du lịch, khách sạn. Còn ở các khu vực và nghành đang
  8. cần vốn đầu tư nước ngoài thì quá ít chẳng hạn như các dự án về nông - lâm - ngư nghiệp. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong những năm qua đã thu được những kết quả đáng khích lệ và phải đẩy mạnh hơn nữa . Nhưng dù có thể đạt được tỉ lệ cao hơn trong thời gian tới thì nguồn vốn trong nước vẫn giữ vai trò quyết định trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiêp hoá - hiện đại hoá đất nước.
  9. Chương II . tổng quan tình hình huy động vốn trong nước cho đầu tư phát triển . 2. Nguồn lực tài chính. 2.1. Nguồn vốn Nhà nước. 1.1.1. Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước. * Thực trạng huy động vốn từ ngân sách Nhà nước. - Mặc dù ngân sách Nhà nước luôn trong tình trạng căng thẳng nhưng hàng năm ngân sách Nhà nước vẫn cố gắng dành trên dưới 20% chi ngân sách cho xây dựng cơ bản. Hiện nay việc huy động nguồn vốn này tập trung chủ yếu vào đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hoá, xã hội, phát triển nông lâm nghiệp, an ninh quốc phòng, đầu tư hỗ trợ vốn doanh nghiệp Nhà nước và quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, làm nguồn vốn mở đường thu hút các nguồn vốn khác. Các dự án từ phần vốn này cũng chủ yếu là các dự án giao thông, thủy lợi, trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, bảo tồn thiên nhiên, giáo dục y tế. Phúc lợi công cộng, nghiên cứu khoa học, quốc phòng an ninh, công trình văn hóa xã hội.Tỉ trọng chi cho đầu tư phát triển trong tổng chi ngân sách Nhà nước trong những năm gần đây đã tăng khá song vẫn còn thấp chỉ đạt khoảng 23%, Tỉ lệ đầu tư từ ngân sách Nhà nước so với GDP mới chỉ đạt khoảng 6.6% không kể khấu hao. - Đầu tư từ ngân sách Nhà nước hiện nay tuy có hiệu quả hơn trước đây, đã tạo ra dược nhiều công trình quan trọng cho đất nước song vẫn còn một số tình trạng yếu kém. Đó là sự dàn trải đầu tư cho nhiều công trình ở nhiều nghành trên phạm vi cả nước nhất là những công trình thuộc nhóm C với khá nhiều vốn bị "chôn" vào các công trình dở dang và nhất là còn tình trạng yếu kém trong quản lí gây thất thoát vốn do nạn tham nhũng. * Khả năng huy động vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Trong những năm gần đây quy mô ngân sách Nhà nước không ngừng tăng lên nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau nhưng chủ yếu qua huy động thuế và phí ( chiếm trên 90% các khoản thu ngân sách Nhà nước ), tỉ lệ động viên GDP vào ngân sách Nhà nước cũng tăng ( trên 20% GDP ). Song nhiều nguồn thu như thu từ đất đai nhà ở, dịch vụ công ích còn để thất thoát và lãng phí lớn. Vì vậy nguồn đầu tư từ đây sẽ không phải là nguồn đầu tư chủ yếu mà chỉ mang
  10. tính chất định hướng đầu tư vào các công trình trọng diểm và làm vốn mở dường thu hút các nguồn vốn khác đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh. 1.1.2. Nguồn vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước. Hiện nay các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đang nắm giữ những nghành then chốt nhất trong nền kinh tế song nguồn vốn của các doanh nghiệp Nhà n ước có tỉ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội còn thấp ước khoảng 15%. Nguồn vốn đầu tư ban đầu và các nguồn vốn cấp bổ sung chủ yếu dược rót từ ngân sách Nhà nước với lượng khá lớn song tình trạng phân tán vốn ngân sách vào nhiều doanh nghiệp vẫn còn, dẫn đến không tích tụ tập trung. Đã vậy số vốn thực hoạt động ( vốn chủ sở hữu trừ đi số vốn không hoạt động như tài sản cố định chưa cần dùng, nợ khó đòi, nợ phải thu ) của doanh nghiệp vẫn còn rất thấp. Nguồn từ khấu hao cơ bản để lại và lợi nhuận sau thuế cũng rất thấp. Thêm nữa tình trạng nợ nhiều và chiếm dụng vốn lớn còn làm cho vòng quay vốn lưu động giảm xuống.. Theo số liệu của tổng cục quản lý và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp, tổng số nợ phải thu của DNNN là 91.079 tỷ đồng, bằng khoảng 4 lần vốn lưu động của họ, trong đó nợ khó đòi là 2.096 tỷ đồng, bằng khoảng 9,2% vốn lưu động. Vốn vay nhiều, lãi suất tín dụng cao, tiền lãi phải trả lớn, năm 2000 số lãi phải trả là 4.852 tỷ đồng, chiếm 2,2% tổng chi phí của các doanh nghiệp và bằng 37% tổng số lợi nhuận của các DNNN trong năm. Nguyên nhân của sự yếu kém kể trên là do hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, đánh giá tài sản cố định chưa đúng, khấu hao chưa hết, đầu tư cho thiết bị quá thấp, dây chuyền thiết bị công nghệ thiếu đồng bộ, chắp vá và còn lạc hậu, đội ngũ cán bộ thiếu trình độ năng lực quản lí ... Tuy nhiên mấy năm gần đây, các DNNN đã mở rộng cả về số lượng và qui mô cũng như đã hướng đầu tư hơn theo chiều sâu và mở rộng kinh doanh Số lượng DNNN đến cuối năm 2000 được ghi nhận là 6.480 trong đó số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng và doanh nghiệp có số công nhân dưới 100 người đang giảm dần, trong khi số doanh nghiệp có số vốn trên 1 tỷ đồng và có số công nhân trên 500 người đang tăng lên. Số vốn của các doanh nghiệp tự đầu tư trong năm 2000 là 2.500 tỷ đồng ( chỉ chiếm 3,2% tổng số vốn của DNNN). 1.2. Nguồn vốn dân cư 1.2.1.Nguồn vốn cá nhân, hộ gia đình
  11. Theo các chuyên gia kinh tế, nguồn vốn trong dân cư hiện có khoảng 6 - 8 tỉ USD, qua diều tra của bộ kế hoạch và đầu tư, tổng cục thống kê cho thấy lượng vốn huy động từ các cá nhân, hộ gia đình thường qua các hình thức sau: - Huy động qua tiền gửi tiết kiệm, gửi không kì hạn, kì phiếu , trái phiếu của các tổ chức tín dụng với các mức lãi suất khác nhau và cũng khá hấp dẫn, thường là cao hơn mức lạm phát và mới đây là gửi tiền vào Quỹ tiết kiệm bưu điện. Do đó đây là hình thức được lựa chọn phổ biến và rộng rãi nhất ở nước ta. - Huy động qua trái phiếu Kho bạc Nhà nước . Hình thức này mới xuất hiện ở nước ta từ năm 1992 đến nay. Loại trái phiếu này có lãi suất cao nhất, cao hơn cả lãi suất tiền gửi ngân hàng cùng kì hạn lại đảm bảo nhất. Đây là điều khác hẳn so với các nước và thông lệ quốc tế. Đồng thời trái phiếu không phải phát hành qua Sở giao dịch chứng khoán mà do Kho bạc Nhà nước trực tiếp bán lẻ ra công chúng. Do đó, đây cũng là hình thức được đông đảo dân chúng lựa chọn. - Đầu tư, hùn vốn kinh doanh nhưng chủ yếu là đầu tư ngắn hạn .. . - Mua cổ phiếu của các công ty. Tuy nhiên hình thức này không mang tính chất phổ biến, chỉ tập trung ở một phạm vi hẹp nào đó, do số lượng các công ty này chưa nhiều, làm ăn chưa có uy tín và người dân chưa quen với việc mua cổ phiếu trong các công ty cổ phần mà chủ yếu là cán bộ và công nhân trong doanh nghiệp cổ phần hoá, hoặc những người có thu nhập cao ... - Ngoài các hình thức huy động vốn trên còn có một số hình thức khác song vẫn còn một lượng lớn người dân để tại nhà cho tiện chi tiêu sử dụng hoặc mua vàng đôla cất giữ đặc biệt là trong những thời điểm lạm phát tăng cao hoặc tỉ giá biến động. Đây là hình thức phổ biến nhất ở Việt Nam nhất là những người kinh doanh hoặc bán buôn bán lẻ, còn hình thức mua vàng thường phổ biến ở những người già. Hình thức này chiếm 44% tiền để dành của dân. 1.2.2 .Nguồn vốn của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh . Nhờ chính sách đổi mới kinh tế, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần nên nhiều doanh nghiệp ngaòi quốc doanh ( như công ty trách nhiệm hữu han, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân ) đã dược hình thành, tập hợp được một lực lượng vốn ngày càng lớn cả số lượng và về chất lượng góp phần cải thiện điều kiện đời sống của nhân dân, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng , giải quyết công ăn ăn việc làm cho xã hội tăng thu
  12. nhập lao động , tăng mức nộp ngân sách, tăng khả năng thu hút vốn. Hiện nay tỉ trọng của nguồn vốn này trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội khá cao ( khoảng 30% ) và có tốc độ tâng tương đối nhanh ( trên 10% ) . Tuy vậy về quy mô các doanh nghiệp này còn nhỏ, công nghệ còn lạc hậu, hầu như không liên doanh liên kết được với nhau, khoảng 50% số doanh nghiệp không được mở rộng đầu tư chỉ có 36% tăng vốn điều lệ 1 đến 2 lầnvà 5% tăng trên 2 lần. Theo ước tính nguồn vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có khoảng trên 30 nghìn tỉ đồng nhưng hiện mới huy động được khoảng 70% tổng nguồn vốn. Phần còn lại do chưa có biện pháp thu hút tốt nên đã được dùng để mua vàng, đôla tích trữ hoặc mua các đồ dùng đắt tiền, lâu bền mà chưa dành cho đầu tư tăng trưởng. Ngoài ra, việc đầu tư cũng chưa được định hướng tốt. Phần nhiều còn dành cho việc xây dựng nhà cửa, khách sạn mini hoặc đất đai với mục đích đầu cơ tích trữ hay giữ tiền. 2. Nguồn lực khác. 2.3. Nguồn lực lao động Số người trong độ tuổi lao động nước ta hiện nay có khoàng 40 triệu. Tốc độ tăng nguồn lao động cũng rất cao nhưng chất lượng lao động chưa cao.Mặc dù chất lượng lao động của nước ta ngày càng được nâng cao, lực lượng lao động có kĩ rhuật ngày càng tăng song vẫn có gần 90% lao động không có trình độ chuyên môn kĩ thuật, lao động kĩ thuật chỉ chiếm trên10%, trong số đó chỉ có 20% trinh độ đại học trở lên Lực lượng lao động kĩ thuật đã ít nhưng việc huy động vào các vùng và các nghành cũng chưa hợp lí, tập trung quá mức ở các cơ quan trung ương và thành phố, trong khi đó ở các địa phương nhất là các tỉnh miền núi cao nguyên lực lượng lao động kĩ thuật chiếm rất ít. Lực lượng lao động trong các nghành kinh tế quốc dân và các nghành sản xuất chủ yếu có tỉ trọng lao động kĩ thuật còn chưa cao. Với một nguồn lao động phong phú và giá nhân công rẻ như nước ta hiện nay là một thuận lợi lớn song lao động thiếu kĩ thuật lại là một khó khăn đáng lo ngại. Vì vậy việc huy động nguồn lực lao động vào các nghành vùng cho đầu tư phát triển sản xuất như thế nào cũng cần phải được quan tâm thích đáng.
  13. 2.4. Nguồn lực tự nhiên. Nước ta nằm ở rìa bán đảo Đông Nam á có nhiều tài nguyên thiên nhien về năng lượng nhiên liệu, khoáng sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, tài nguyên đất thuận lợi cho phát triển công nghiệp, nông-lâm-ngư nghiệp. Song việc huy động các tài nguyên này vào phát triển kinh tế xã hội thật sự chưa được quan tâm đúng mức. Trong nông nghiệp còn chưa có những chính sách tốt để huy động tối đa những nguồn lực tự nhiên, trong công nghiệp do trình độ thấp nên nhiều tài nguyên chưa được khai thác , sử dụng 2.3.Vật tư kĩ thuật, cơ sở hạ tầng vật chất xã hội. Đây là nguồn lực mang tính chất cơ sở nền tảng để công nghiêp hoá - hiện đại hoá vì chúng ta có xây dựng, bố trí cơ cấu cơ sở hạ tầng vật chất xã hội theo đúng hướng phục vụ cho mục tiêu đất nước chúng ta mới có dược những cơ sở vững chắc để phát triển kinh tế. Cơ sở hạ tầng vật chất xã hội là lĩnh vực cần nhiều vốn song lại thu hồi vốn chậm nên có ít dự án đầu tư nước ngoài do đó cần phải dựa vào vốn đầu tư trong nước. Hiện nay cơ sở hạ tầng vật chất xã hội ở nước ta còn chưa được tốt, hệ thống giao thông ahưa thật sự phát triển hoặc phát triển chậm so với yêu câuc phát triển của kinh tế - xã hội, hệ thống nhà xưởng bến bãi kho tàng còn yếu kém, mạng lưới y tế giáo dục cũng như nhiều cơ sở hạ tầng khác cũng còn ở mức thấp chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của kinh tế - xã hội. Chương III . các biện pháp tăng cường huy động vốn trong nước ở Việt Nam. 1. Tiết kiệm, tích luỹ. 1.1. Khuyến khích tiết kiệm Nền kinh tế nước ta có bước khởi đầu rất thấp, thu nhập bình quân đầu người hiện nay khoảng 400 USD một năm, cơ sở vật chất kĩ thuật kinh tế xã hội của đất nước nhìn chung còn lạc hậu, nghèo nàn do vậy đòi hỏi chúng ta phải coi trong tiết kiệm. Để có thể khuyến khích người dân tiết kiệm Nhà nước cần có các biện pháp như: - Gương mẫu trong tiết kiệm chi triêu công cộng để người dân tin rằng nguồn vốn của mình được Chính phủ sử dụng có hiệu quả, giảm tối đa các khoản chi chưa thật bức xúc, nhanh chóng đổi mới bộ máy quản lí Nhà nước ở các cấp, tinh giản biên chế để giảm
  14. khoản chi nuôi bộ máy Nhà nước quá cồng kềnh, đồ sộ mà hiệu lực chưa cao như hiện nay, đẩy mạnh chống hiện tượng thất thoát, lãng phí , tham nhũng ... - Tạo cho nhân dân thói quen tiết kiệm bằng một số biện pháp khuyến khích hay bắt buộc hoặc hạn chế chi tiêu của nhân dân như khuyến khích cán bộ công nhân viên giữ lại một phần lương tiết kiệm hay bắt buộc, với môt số đối tượng phải giữ lại một tỉ lệ lương vào quỹ dự phòng ( ở Singapo nộp 40% lương vào quỹ dự phòng ) . Đặc biệt là đánh thuế cao vào những hàng hoá xa xỉ nhập từ nước ngoài hoặc các nơi kinh doanh dịch vụ giải trí đắt tiền chưa phù hợp với thu nhập người dân nói chung hoặc một số dịch vụ tuy là mang tính chất giải trí song nó lại là không cần thiết và không có những tác động tốt đến nghỉ ngơi giải trí của dân cư. - Duy trì lạm phát ở mức thấp, giữ tỉ giá ổn định để đảm bảo cho người dân an tâm khi gửi tiền hay đầu tư bởi lẽ nếu đồng tiền bất ổn định, người dân sẽ thích mua vàng đôla để cất trữ hơn là đầu tư , tiết kiệm. 1.2. Khuyến khích các doanh nghiệp tự tích lũy Trước hết doanh nghiệp phải tự mình tạo lập và phát triển nguồn vốn tự có bằng cách trích từ lợi nhuận thu được chứ không phải là đòi hỏi cấp thêm vốn vì thua lỗ. Mặt khác việc phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp phải dựa trên nguyên tác bảo toàn vốn, tránh hiện tượng lãi giả lỗ thật ăn cả vào vốn và cuối cùng không đủ để tái đầu tư giản đơn phục chế tài sản ban đầu.Để khuyến khích cũng các doanh nghiệp tự tích luỹ thì cần phải - Có các cơ chế thích hợp để các doanh nghiệp hùn vốn hoặc vay vốn của nhau trên thị trường đặc biệt là với các doanh nghiệp nhỏ điều này sẽ tạo ra một lượng vốn lớn để các doanh nghiệp tham gia đầu tư phát triển. - Có các quy định cụ thể cho phép các doanh nghiệp bán các tài sản hoặc quyền sử dụng đất đai mà doanh nghiệp sử dụng không hiệu quả để có thêm vốn đầu tư trang thiết bị hiện đại . - Mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp theo h ướng cơ cấu lại vốn sản xuất và tài sản của doanh nghiệp một cách hợp lí, tính đủ giá trị quyền sử dụng đất vào vốn và tài sản tại doanh nghiệp. - Cho phép các doanh nghiệp được khấu hao nhanh để tạo vốn cho tái đầu tư là điều kiện để đổi mới công nghệ, đầu tư vào chiều sâu, hạ giá thành sản phẩm để tăng tích luỹ ở giai đoạn kế tiếp.
  15. - Sắp xếp cho các doanh nghiệp theo hướng hợp nhất các đơn vị làm ăn có hiệu quả để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh đồng thời nâng cao chất lượng quản lí để đủ sức cạnh tranh với các nước trên thế giới. 3. Phát triển các công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. 2.1. Phát triển các công ty cổ phần. Công ty cổ phần sẽ là một hình thức huy động vốn phổ biến nhất trong tương lai, là chủ thể quan trọng để hình thành nên thị trường vốn song hiện nay việc thành lập các công ty cổ phần cũng như thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta diễn ra còn rất chậm. Vì vậy chúng ta cần cấp thiết đẩy mạnh cổ phần hoá nhất là các công ty cổ phần đại chúng có phát hành cổ phiếu trái phiếu. Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước cũng là để tăng vốn đầu tư mới cho doanh nghiệp đồng thời làm tăng thu ngân sách Nhà nước. Hiện nay tuy môi trường thể chế cần thiết đã hình thành, nhưng còn thiếu cụ thể trên nhiều phương diện, đôi khi còn mâu thuẫn nhau. Để giải quyết những tồn tại đó, không nên làm theo cách " sai đâu sửa đó ", " vừa làm vừa sửa " mà nên làm một cách cơ bản, có triết lí và có hệ thống từ đầu: * Nhà nước cần hiểu rõ điều mà các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu khi đưa ra phương án sản xuất kinh doanh đó là làm sao mở rộng và đa dạng hoá nghành nghể, đa dạng hoá các phương thức tiếp cận thị trường và cung ứng hàng hoá, đa dạng hoá các dịch vụ trước và sau bán hàng, nâng cao mức lợi nhuận và mức lãi cổ đông. Nếu điều đó không được quan tâm đến mà chỉ chú trọng các khoản thuế và đóng góp, đề ra các thủ tục và cơ chế (mà có thể là gây rắc rối hơn, giải quyết yêu cầu chậm hơn và vòng vèo hơn) ... thì cổ phần hoá sẽ không thể có nhiều sức hấp dẫn và cũng chẳng có cơ sở để tăng nguồn thu. * Tạo môi trường luật pháp cho các công ty cổ phần phát triển.Sửa đổi các quy định về thành lập công ty cổ phần, cơ chế phát hành cổ phiếu ban đầu khi thành lập và phát hành cổ phiếu để gọi thêm vốn đầu tư, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn các phương thức phát hành cổ phiếu, cải tiến cơ chế mua bán, chuyện nhượng cổ phiếu. * Đẩy mạnh tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước một cách hợp lí. Đối với những doanh nghiệp Nhà nước đã và đang cổ phần hoá, Nhà nước chỉ nên nắm đa số hay tỉ lệ khống chế cổ phần đặc biệt. Phần còn lại dược bán cho ngưòi lao động trong doanh
  16. nghiệp hoặc cho các tổ chức cá nhân ngoài doanh nghiệp, nhưng tốt nhất là các cán bộ công nhân trong doanh nghiệp đó cùng đấu thầu các cổ phần ngoài cổ phần khống chế của Nhà nước. Số cổ phần của Nhà nước thì cho những người này vay theo lãi suất quy định. Trên cơ sở cổ phần mà thành lập hội đồng quản trị gồm những người mua cổ phiếu và đại diện của tổng cục quản lí vốn, tài sản của doanh nghiệp Nhà nước.Theo mô hình này, đại diện của Nhà nước không nên chiếm quá 1/3 để các thành viên của doanh nghiệp có thể chủ động trong kinh doanh. Nhà nước nên thực hiên việc bảo lãnh toàn bộ hoặc bảo lãnh ban đầu cho một số các doanh nghiệp Nhà n ước đủ điều kiện phát hành trái phiếu trong nước và phát hành ra nước ngoài để tăng khả năng thu hút vốn trên thị trường. * Sớm ổn định và phát triển thị trường chứng khoán. * Đặc biệt cần có sự phối hợp gữa Nhà nước và doanh nghiệp để nghiên cứu thực tế tình hình Việt Nam nhằm đưa ra các biện pháp thích ứng cho công ty cổ phần hoạt động và phát triển tốt trong những bước sơ khai này sao cho công ty cổ phần thực sự là nơi thu hút vốn đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau, tạo ra sự tin tưởng cho các nhà đầu tư để khuyến khích họ đầu tư. 2.2. Phát triển thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán sẽ là một nơi huy động vốn tốt nhất trong tương lai. Việc thành lập thị trường chứng khoán là một nhu cầu cấp bách song không có nghĩa là bằng mọi giá phải cho ra ngay một thị trường chứng khoán hoàn chỉnh mà không dựa trên nền tảng vốn có của nền kinh tế. Sự nôn nóng xây dựng thị trường chứng khoán thoát ly khỏi các yếu tố tiên quyết sẽ dẫn đến đổ vỡ thất bại. Đây là bài học kinh nghiệm mà nhiều nước đi trước đã gặp phải, nước ta đi sau cần chú ý rút kinh nghiệm. Hiện nay về cơ bản thị trường chứng khoán đã tạo được cơ sở hạ tầng ban đầu cho định hướng của thị trường chứng khoán và đã thu hút được khá nhiều nhà đầu tư song vẫn còn nhiều những khó khăn. Các loại chứng khoán trên thị trường còn ít cả về chủng loại và giá trị niêm yết. Tác dụng thúc đảy huy động vốn qua thị trường chứng khoán chưa cao, việc cung cấp các thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác quản lí của Chính phủ chưa kịp thời, can thiệp qua sâu làm ảnh hưởng đến tính linh hoạt của thị trường.Hệ thống trang bị kĩ thuật để vận hành thị trường chứng khoán chưa đồng bộ. Vậy muốn thị trường chứng khoán phát triển thì cần phải:
  17. * Thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhằm tạo ra một nền kinh tế phát triển bền vững. Trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng, nhu cầu đầu tư sẽ tăng, từ đó sẽ xuất hiện các công cụ nợ đa dạng về thời gian đáo hạn và tạo ra cơ chế cạnh tranh về lãi suất mới đưa đến sự hình thành lãi suất thị trường, làm cho thị trường vốn sôi động. Mục tiêu là trong giai đoạn đầu của thị trường chứng khoán Việt Nam, trái phiếu Chính phủ sẽ đóng vai trò chủ đạo nhưng trên thực tế hiện nay thì giới đầu tư lại quay lưng với trái phiếu Chính phủ. Vậy để đưa trái phiếu Chính phủ vào giao dịch và đóng vai trò chủ đạo thì phải giữ cho nền kinh tế phát triển ổn định bền vững để cho lãi suất trái phiếu Chính phủ luôn phù hợp với tộc độ tăng trưởng tạo sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. * Tăng cung chứng khoán bằng cách nới lỏng điều kiện niêm yết: Để khắc phục tình trạng chứng khoán trên thị trường ít cả về số lượng, chủng loại lẫn giá trị nên chăng xem xét nới lỏng điều kiện để công ty cổ phần được niêm yết trên thị trường chứng khoán chẳng hạn như giảm bớt vốn điều lệ trong điều kiện phát hành chứng khoán bởi lẽ hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện cho các công ty cổ phần niêm yết dễ dàng hơn tại trung tâm giao dịch chứng khoán, đẩy mạnh phát triển các loại chứng khoán khác như trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, đặc biệt là trái phiếu của các ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng ... có như vậy mới giảm được áp lực thiếu cung chứng khoán. * Phát triển thêm các hiệp hội kinh doanh chứng khoán và các công ty xếp hạng tín nhiệm. Sự ra đời của hiệp hội là cần thiết và đóng vai trò quan trọng làm nhiệm vụ dẫn đường, phối hợp hành động với các cơ quan quản lí Nhà nước hoàn thiện cơ chế chính sách pháp luật, nhằm đưa hệ thống các tổ chức trung gian trên thị trường tiếp cận với các tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, hướng tới sự phát triển bền vững của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên để Hiệp hội kinh doanh chứng khoán có thể ra đời, cần phải có những điều kiện nhất định, trong đó quan trọng nhất là các tiêu chuẩn về pháp lí cũng như sự hình thành và phát triển của các tổ chức tham gia trên thị trường chứng khoán. Mặt khác cần sớm cho ra đời các công ty xếp hạng tín nhiệm. Thông qua các công ty này mà nhà đầu tư có cái nhìn chính xác hơn về tình hình công ty muốn đầu tư. Hoạt động của các công ty xếp hạng sẽ tạo áp lực làm cho các công ty được nêm yết làm ăn một cách đàng hoàng minh bạch trong các hoạt động kinh doanh của mình.
  18. * Khẩn trương xây dựng thị trường phi tập trung để giao dịch các cổ phiếu chưa đủ điều kiện niêm yết. Việc xây dựng và phát triển thị trường này sẽ tạo điều kiện cho tất cả các công ty cổ phần có thể tham gia. Đây nguồn rất lớn, góp phần làm giảm áp lực thiếu cung trên thị trường. Tuy nhiên để hình thành và phát triển thị trường này cần phải giải quyết một số khó khăn về cơ sở vật chất , quy trình nghiệp vụ, đào tạo cán bộ, lựa chọn " hàng hoá" và phổ cập kiến thức cho công chúng. Ngoài ra còn cần có sự hỗ trợ của Nhà nước về mặt các văn bản pháp luật bởi lẽ thị trường này còn qua xa lạ đối với nước ta. * Đẩy nhanh việc hình thành và phát triển hệ thông các trung gian tài chính hoạt động trên thị trường chứng khoán, nhất là loại hình quỹ đầu tư chứng khoán nhằm nâng cao khả năng thu hút các nhà đầu tư nhỏ, các nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm tham gia thị trường chứng khoán. * Phát triển các công ty cổ phần. * Tăng cường công tác quản lí của Nhà nước trên khía cạnh đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư, xử lí nghiêm những trường hợp mua bán nội gián, lũng đoạn thị trường ... tiến tới giảm bớt các biện pháp hành chính để quản lí thị trường. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác thông tin bao gồm cả việc đào tạo, phổ biến kiến thức về chứng khoán, thị trường chứng khoán, đầu tư chứng khoán... cho công chúng và cung cấp thông tin của các công ty niêm yết, tạo sự minh bạch cho thị trường chứng khoán. 2.3. Tăng cường sự tương tác, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển giữa công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là thị trường vốn dài hạn cho các công ty cổ phần. Có các công ty cổ phần mà không có thị trường chứng khoán thì cũng như có sản phẩm mà không biết nhur cầu sẽ biến động như thế nào, không biết có nên sản xuất nữa hay không , rút cuộc sản phẩm cũng không thành hàng hoá được, và lại có nguy cơ quay về nền kinh tế tự cung tự cấp, do vậy cần phải tăng cường sự thúc đẩy phát triển lẫn nhau giữa chúng. Để đạt được điều này thì cần phải: - Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về lợi ích của việc phát hành chứng khoán ra công chúng trong các doanh nghiệp cổ phần nhất là những doanh nghiệp Nhà nước còn đang tiến hành cổ phần hoá chậm - Làm đa dạng các loại hình doanh nghiệp cổ phần hoá không chỉ với các doanh nghiệp Nhà nước mà còn với cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khác
  19. - Có chính sách thuế ưu đãi hợp lí với công ty niêm yết để khuyến khích các doanh nghiệp đã đủ điều kiện niêm yết nhanh chóng đưa cổ phần lên tham gia vào trung tâm giao dich chứng khoán. 3. Đổi mới hoạt động của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian Trong các kênh huy động vốn hiện nay , huy động vốn qua hệ thống các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian là quan trọng nhất. Trong điều kiện hiện nay khi mà thị trường chứng khoán hầu như chưa hoạt động thì cần phải đặt nhiệm vụ huy động vốn qua các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian là nhiệm vụ trung tâm của ngân hàng. Đây là cầu nối gữa người có vốn và người cần vốn, đồng thời là nhân tố kích thích tích luỹ, đầu tư. Để việc huy động vốn thông qua các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian có hiệu quả đặc biệt là tạo sự tin cậy trong đảm bảo an toàn , bí mật nguồn vốn cho người gửi cần phải giải quyêt các vấn đề : - Về lãi suất huy động vốn : cần diều chỉnh lãi suất thích hợp theo giá cả thị trường trên cơ sở lãi suất tiết kiệm bao giờ cũng lớn hơn tỉ lệ lạm phát để đảm bảo lãi suất thực dương ( song tất nhiên phải lớn hơn lãi suất huy động đảm bảo sinh lời cho ngân hàng ). Mặt khác lãi suất dài hạn bao giờ cũng phải cao hơn lãi suất ngắn hạn. Về mức lãi suất cụ thể cần khắc phục một số bất hợp lí trong lãi suất trần và lãi suất sàn hiện nay. Thực hiện cơ chế điều hành theo hướng lãi suất tự do (lãi suất thoả thuận), trước tiên là trong một số nghành, lĩnh vực nhằm tạo ra sự linh hoạt trong hoạt động của các ngân hàng , đặc biệt là trong xử lí mối quan hệ giữa lãi suất và thời hạn. - Về hình thức huy động vốn : các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian cần mở rộng nhiều hình thức huy động vốn như phát hành kì phiếu ngân hàng , thực hiện tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm học đường , tiết kiệm mua nhà , mua ô tô, trái phiếu dài hạn bằng cả nội tệ và ngoại tệ... Ngân hàng trung ương có thể cho phép triển khai thí diểm trước một số hình thức mới ở một số ngân hàng thương mại nào đó, sau đó cho triển khai rộng nhằm thích ứng từng bước với tâm lí, tập quán và trình độ dân trí ở nước ta. Riêng tín dụng ngân hàng có vị trí hết sức quan trọng trong huy động vốn nên bản thân hoạt động tín dụng cần dược xem xét kĩ , chỉnh sửa để gắn chặt với các dạng hình đầu tư chẳng hạn đầu tư thông qua tín dụng thương mại , tín dụng giữa các doanh nghiệp với nhau, với dân và tín dụng của nhiều mối quan hệ khác. Vì vậy cần phát triển tín dụng
  20. ngân hàng đa dạng rộng khắp thuộc đủ mọi thành phần kinh tế từ nông thôn đến thành thị để tín dụng đến dược cả những vũng xa xôi. - Về thủ tục hành chính và đội ngũ cán bộ: Đổi mới cải cách các thủ tục hành chính, nâng cao trình độ phẩm chất của các cán bộ ngân hàng đâp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong nền kinh tế thị trường tạo sự thoải mái cho khách hàng khi tham gia vào các dịch vụ của ngân hàng. - Giữa các ngân hàng thương mại nên phối hợp với nhau tạo sự linh hoạt trong việc điều hoà nguồn vốn trong toàn hệ thống ngân hàng, không nên diều hành theo hình thức giao chỉ tiêu huy động vốn tại chỗ hay kế hoạch điều hoà vốn cho từng chi nhánh một cách cứng nhắc. Ngân hàng nên tạo ra sự an tâm cho người gửi cả về vốn lẫn lãi như sử dụng chế độ bảo hiểm vốn .. . 4. Đa dạng hoá các định chế tài chính trung gian. Các định chế tài chính trung gian cũng là một hình thức huy động vốn không kém phần quan trọng bên cạnh hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian. ở nước ta một số định chế tài chính đã khá phát triển như bảo hiểm, công ty xổ số, quỹ hội từ thiện.. . nhưng cũng có một số định chế chưa thực sự phát triển mà diển hình nhất là quỹ đầu tư. 4.1.Quỹ đầu tư. 4.1.1. Lợi ích của các quỹ đầu tư Quỹ đầu tư là một định chế mới đối với Việt Nam song nó sẽ là một trong những nguồn cung ứng vốn quan trọng cho nhiều dự án đầu tư phát triển của Nhà nước, doanh nghiệp quốc doanh, các tập doàn kinh tế, công ty liên doanh, công ty cổ phần.. . trong tương lai. Quỹ đầu tư là một mô hình có nét đặc thù khác với các dịnh chế tài chính trung gian khác, tuy nó cũng là một loại doanh nghiệp được xếp vào loại tài chính-ngân hàng và thuộc nhóm các định chế tài chính trung gian phi ngân hàng . Quỹ đầu tư là loại trung gian tài chính chuyên môn hoá trong lĩnh vực đầu tư hay nói cách khác nó là doanh nghiệp chuyên kinh doanh vốn trung và dài hạn d ưới hình thức đầu tư trung và dài hạn : nó đóng vai trò gạch nối giữa cung và cầu vốn .
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2