intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: Một số vấn đề về xây dựng và thực hiện kế hoạch về tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của công ty xây lắp- Vật tư- Vận tải sông Đà 12

Chia sẻ: Nguyen Bao Ngoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:66

117
lượt xem
32
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong nền kinh tế thị trường tiêu thụ sản phẩm giữ vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hoá. Qua tiêu thụ, sản phẩm chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ và kết thúc một vòng luân chuyển vốn. Có tiêu thụ sản phẩm mới có vốn để tiến hành tái sản xuất mở rộng tăng nhanh tốc luân chuyển vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hiện...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: Một số vấn đề về xây dựng và thực hiện kế hoạch về tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của công ty xây lắp- Vật tư- Vận tải sông Đà 12

  1. Luận văn Một số vấn đề về xây dựng và thực hiện kế hoạch về tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của công ty xây lắp- Vật tư- Vận tải sông Đà 12
  2. LỜI NÓI ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường tiêu thụ sản phẩm giữ vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hoá. Qua tiêu thụ, sản phẩm chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ và kết thúc một vòng luân chuyển vốn. Có tiêu thụ sản phẩm mới có vốn để tiến hành tái sản xuất mở rộng tăng nhanh tốc luân chuyển vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hiện nay các doanh nghiệp đang phải đối diện với môi trường kinh doanh biến động không ngừng, diễn biến phức tạp và chiều rủi ro. Áp lực cạnh tranh ngày càng tăng, thị trường đầu ra của sản phẩm sản xuất bị thu hẹp. Công tác tiêu thụ sản phẩm gặp rất nhiều khó khăn trở ngại, sự duy trì và giữ vững tốc độ tiêu thụ, khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường của các sản phẩm sản xuất trở nên mong manh. Trong bối cảnh đó, hoạt động nghiên cứu thị trường, phân tích khả năng tiềm lực của doanh nghiệp để đưa ra hững định hướng tốt cho tiêu thu sản phẩm là vô cùng cần thiết. Đó là công việc và kết quả của quá trình lập và thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được thị trường tiêu thụ. Khối lượng sản phẩm, qui cách mẫu mã chủng loại từ đó có kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp. Giúp doanh nghiệp huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực chủ động ứng phó với những thay đổi trên thị trường. Như vậy lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quan trọng với công tác tiêu thụ sản phẩm bởi kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh phải xem xét nghiên cứu vận dụng khoa học về lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Hiểu được lý luận về lập kế hoạch tiêu thụ sẽ giúp cho doanh nghiệp ra những quyết định đúng đắn cho định hướng tiêu thụ sản phẩm, cũng như quyết định đúng đắn cho sản xuất kinh doanh đảm bảo cho ổn định và phát triển. Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu lý thuyết về lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cùng với tìm hiểu thực tế tại công ty Xây lắp- Vật tư- Vận tải sông Đà 12. Em nghiên cứu về vấn đề này trong giới hạn đề tài: “ Một số vấn đề về xây dựng và thực hiện kế hoạch về tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của công ty xây lắp- Vật tư- Vận tải sông Đà 12”
  3. PHẦN I LÝ LU ẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC KẾ HAỌCH TIÊU THỤ SẢN P HẨM CỦA DOANH NGHIỆP. I. TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ Ý NGHĨA CỦA KẾ HOẠCH TIÊU THỤ SẢN PHẨM 1. Sự cần thiết và ý nghĩa của tiêu thụ sản phẩm. 1.1. Sự cần thiết của tiêu thụ sản phẩm. Đặc trưng lớn nhất của tiêu thụ hàng hoá là sản phẩm được sản xuất để trao đổi, lưu thông, phân phối ra đến tay người tiêu dùng. Quá trình tái sản xuất mở rộng bao gồm bốn khâu: Sản xuất - Trao đổi- Phân phối- Tiêu dùng. Các khâu này có quan hệ mật thiết tương hỗ nhau, nếu một khâu được tiến hành tốt sẽ thúc đẩy tích cực những khâu kia. Trao đổi, phân phối là khâu nằm trong hoạt động thương mại đầu ra của doanh nghiệp sản xuất. Hoạt động này là tất yếu khách quan, một doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại và phát triển mở rộng được khi sản phẩm sản xuất ra được người tiêu dùng chấp nhận trả một khoản tiền để có được sản phẩm đó. Tức là doanh nghiệp thực hiện tiếp quá trình sản xuất (H’- T’). Chỉ khi doanh nghiệp bán được hàng thu được tiền thì mới xây dựng kế hoạch cho quá trình tái sản xuất. Như vậy hoạt động thương mại là không thể thiếu trong mỗi doanh nghiệp sản xuất. Tiêu thụ sản phẩm là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động thương mại trong doanh nghiệp. Đó là lĩnh vực hoạt động động trên thị trường sản phẩm- hoạt động bán hàng. Tiêu thụ sản phẩm là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng làm cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục. Tiêu thụ sản phẩm là khâu thực hiện giá trị của sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng về số lượng, chất lượng, chủng loại, qui cách, phương thức vận chuyển, thời hạn giao hàng, phương thức thanh toán. Tiêu thụ sản phẩm là tổng thể các biện pháp về mặt tổ chức, kinh tế và kế hoạch nhằm thực hiện việc nghiên cứu và nắm bắt nhu cầu thị trường, tổ chức sản xuất tiếp cận sản phẩm, chuẩn bị hàng hoá và suất bán theo yêu cầu của khách hàng với chi phí kinh doanh nhỏ nhất. Những nguyên tắc cơ bản trong tiêu thụ sản phẩm là: nhận thức và thoả mãn đầy đủ nhu cầu của khách hàng đảm bảo tính liên tục trong quá trình tiêu thụ sản phẩm sản xuất là vô cùng cần thiết, nếu thiếu nó doanh nghiệp không thể tồn tại. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phảiluông tìm hiểu đưa ra những biện pháp tốt nhất để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm sao cho tổng lượng tiền tệ bỏ ra để có được sản phẩm phải nhỏ hơn tổng lượng tiền tệ thu về từ hoạt động bán (T’ >T). Đó là điều kiện cơ bản đảm bảo tái sản xuất mở rộng.
  4. 1.2. Tiêu thụ sản phẩm trong cơ chế thị trường và cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Ứng với mỗi cơ chế quản lý kinh tế công tác tiêu thụ sản phẩm được thực hiện bằng các hình thức khác nhau. Trong cơ chế quản lý kinh tế tập trung, vấn đề tiêu thụ sản phẩm được thực hiện hết sức đơn giản. Nhà nước cấp chỉ tiêu cung ứng vật tư cho các đơn vị sản xuất theo số lượng đã xác định trước. Các cơ quan hành chính can thiệp rất sâu vào nghiệp vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, những lại không chụ trách nhiệm về các quyết định của mình. Quan hệ giữa các ngành chủ yếu là quan hệ dọc, được kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát giao nộp sản phẩm hiện vật. Các doanh nghiệp chủ yếu được thực hiện chức năng sản xuất, việc đảm bảo các yếu tố vật chất đầu vào như: nguyên vật liệu, nhiên liệu... được cấp trên bao cấp theo các chỉ tiêu cấp phát. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong thời kỳ này chủ yếu là giao nộp sản phẩm cho các đơn vị theo giá cả do nhà nước đã định sẵn. Do không có môi trường cạnh tranh chất lượng hàng hoá ngày càng giảm sút, mẫu mã kiểu dáng ngày càng đơn điệu. Như vậy trong nền kinh tế tập trung khi mà ba vấn đề cơ bản: sản xuất cái gì? bao nhiêu? cho ai? đều do nhà nước quyết định thì tiêu thụ sản phẩm chỉ là việc tổ chức bán sản phẩm hàng hoá sản xuất ra theo kế hoạch và giá cả được ấn định từ trước. Nhà nước DN cung DNSX DNTM Người ứng vật tiêu dùng tư. Sơ đồ 1. Quan hệ thương mại của doanh nghiệp sản xuất trong cơ chế KHH tập trung. Trong nền kinh tế thị trường, tiêu thụ là mục đích cơ bản của sản xuất hàng hoá, là công việc hàng ngày của doanh nghiệp. Nhà nước định hướng hoạt động cho các doanh nghiệp và tổ chức thị trường. Doanh nghiệp phải tự giải quyết quá trình tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra, tức là phải thực hiện các hoạt động tiêu thụ trên thị trường thích ứng.
  5. Doanh nghiệp Nhà Thị trường các Thị trường hàng nước yếu tố sản xuất hoá sản phẩm Doanh nghiệp Sơ đồ 2: QHTM của DNSX trong cơ chế thị trường. Trong thời này tiêu thụ sản phẩm được hiểu theo nghĩa rộng hơnlà một quá trình kinh tế bao gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu khách hàng tổ chức sản xuất đến việc xúc tiến bán hàng... nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất. Lúc này tiêu thụ sản phẩm gắn giữa người sản xuất với người tiêu dùng, nó giúp cho người sản xuất nắm bắt kịp thời những thông tin phản hồi để tổ chức sản xuất với số lượng chất lượng và thời gian hợp lý. Đồng thời khách hàng được tìm hiểu kỹ về hàng hoá tăng khả năng thoả mãn nhu cầu. Tuy nhiên trong cơ chế thị trường việc tiêu thụ sản phẩm là không hề đơn giản, sản xuất đã khó nhưnh tiêu thụ sản phẩm lại càng khó hơn. Vì thế tiêu thụ được sản phẩm phải huy động sử dụng nhiều công cụ , biện pháp khác nhau, lựa chọn giải pháp tối ưu. Vấn đề này thực hiện sao cho trang trải được các khoản chi phí, bảo đảm kinh doanh có lãi là rất khó hiện nay. Chuyển sang cơ chế quản lý mới, quyền tự chủ của các doanh nghiệp sản xuất (DNSX) được mở rộng. Về nguyên tắc, doanh nghiệp hoạt động theo các tín hiệu của thị trường. Doanh nghiệp không chỉ chịu trách nhiệm với sự tồn tại và phát triển của nó, mà còn có trách nhiệm đóng góp vào sự phát triển của toàn xã hội. Trong quá trình ấy, không ít doanh nghiệp tỏ rõ khả năng thích ứng của mình nhưng cũng còn nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn lúng túng trong sản xuất kinh doanh. Thị trường tiêu thụ sản phẩm là một trong những khó khăn của DNSX. Sản xuất sản phẩm ra không tiêu thụ được gây sự ách tắc trong kinh doanh. Thực tế tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp nước ta gặp rất nhiều khó khăn do những nguyên nhân sau: - Sản phẩm kém chất lượng. - Sản phẩm không phù hợp với thị hiến tiêu dùng và xu thế biến đổi thị hiến tiêu dùng. - Giá bán cao không phù hợp với khả năng của người tiêu dùng. - Người tiêu dùng chưa thực sự hiểu sản phẩm của doanh nghiệp hay sản phẩm chưa tiếp cận tới người tiêu dùng. - Sức tiêu thụ kém, tốc độ tiêu thụ chậm. - Dịch vụ bán hàng tồi.
  6. - Hàng ngoại nhập lậu, trốn thuế, hàng giả. - Thiếu chính sách hữu hiệu của nhần nước để đảm bảo sản xuất trong nước... Thực tế đặt ra nhiều vấn đề mà doanh nghiệp cần phải quan tâm tích cực nghiên cứu thị trường, xây dựng kế hoạch tiêu thụ tổ chức mạng lưới bán hàng, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ trước, trong và sau bán hàng. Đó là vấn đề cấp bách luôn đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp trong quá trình tiêu thụ sản phẩm. Như vậy chuyển sang cơ chế thị trường các doanh nghiệp luôn phải đối đầu với môi trường kinh doanh biến động không ngừng, diễn biến phức tạp là có nhiều rủi ro. Áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng và con đường đi lên phía trước của các doanh nghiệp có nhiều trướng ngại. Khâu tiêu thụ sản phẩm. Thị trường tiêu thụ sản phẩm đang được coi là một trong những khó khăn hàng đầu hiện nay của các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất phải tự chịu trách nhiệm với tất cả các quyết định SXKD của mình. 1.3. Ý nghĩa của tiêu thụ sản phẩm. Theo nghĩa hẹp, tiêu thụ sản phẩm là quá trình chuyển giao sản phẩm hàng hoá đến khách hàng và nhận tiền từ họ. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thường được hiểu theo nghĩa rộng. Đó là một quá trình từ tìm hiểu nhu cầu của khác hàng trên thị trường tổ chức mạng lưới tiêu thụ, xúc tiến bán hàng với hàng loạt hoạt động hỗ trợ. Quá trình này nhằm đảm bảo các yêu cầu cơ bản như: tăng thị phần của doanh nghiệp, tăng doanh thu và lợi nhuận, tăng tài sản vô hình, phục vụ khách hàng. Như vậy quá trình tiêu thụ không những ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà nó còn có ý nghĩa quan trọng tới toàn bộ quá trình tái sản xuất - xã hội. Trước hết tiêu thụ sản phẩm sẽ do doanh nghiệp kiểm tra, đánh giá lại sản phẩm, từ đó có giải pháp khắc phục nhược điểm và nâng cao ưu điểm cho quá trình tái sản xuất. Sức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện uy tín của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, sự thích ứng với nhu cầu người tiêu dùng và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ. Do đó tiêu thụ sản phẩm phản ánh đầy đủ những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp. Thứ hai tiêu thụ sản phẩm gắn người sản xuất với người tiêu dùng, nó giúp các nhà sản xuất hiểu thêm về kết quả sản xuất của mình cũng như nhu cầu của khách hàng. Về phương diện xã hội thì tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa trong việc cân đối cung cầu vì nền kinh tế quốc dân là một tổng thể thống nhất với cân bằng, những tương quan tỷ lệ nhất định. Sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ được tức là sản xuất đang diễn ra một cách bình thường trôi chảy, tránh được sự mất cân đối, giữ được bình ổn trong xã hội. Đồng thời tiêu thụ sản phẩm
  7. giúp các đơn vị xác định phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất cho giai đoạn tiếp theo. Thông qua tiêu thụ sản phẩm dự đoán được nhu cầu tiêu dùng của xã hội nói chung và từng khu vực nói riêng đối với từng loại sản phẩm. Tóm lại tiêu thụ có ý nghĩa quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó thể hiện ở những điểm cơ bản như: quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp xác định được kết quả sản xuất, tránh ùn tắc vốn, định mức dự trữ đảm bảo quá trình lưu thông được liên tục, góp phần đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế xã hội. 2. Sự cần thiết và ý nghĩa của quá trình tiêu thụ sản phẩm. 2.1. Sự cần thiết của quá trình tiêu thụ sản phẩm. Kế hoạch là một công cụ quản lý đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử phát triển xã hội. Nhưng thực sự nổi bật và là công cụ quản lý chủ yếu với hệ thống xã hội chủ nghĩa. Kế hoạch hoá giúp các nhà nước xã hội chủ nghĩa điều hành tổng thể nền kinh tế quốc dân. Do ảnh hưởng của thời kỳ lịch sử với sự áp dụng thái quá kế hoạch hoá đã làm cho công cụ này trở thành kìm hãm sự phát triển. Tuy nhiên nó vẫn là thành tựu to lớn của chủ nghĩa xã hội. Nhở đó mà các nước xã hội chủ nghĩa đã có những thành công trong các lĩnh vực kinh tế, công nghệ khoa học, giáo dục và đời sống, nhất là khắc phục hậu quả sau chiến tranh. Nhà nước sử dụng công cụ này đã tập trung được nguồn lực vào các lĩnh vực cần thiết, góp phần ổn định và phát triển nhanh chóng. Ngày nay, khi nghiên cứu về kế hoạch hoá người ta không thể phủ nhận vai trò vô cùng quan trọng của nó. Vì nó là hoạt động có ý thức của con người. Đó là biểu hiện của những đặc trưng cơ bản sau: Trước khi con người bắt tay vào làm việc gì đó đã hình dung ra được kết quả của công việc đó rồi. Chẳng hạn như: Để sản xuất ra cái máy nào đó người ta đã biết được cái máy đó như thế nào. + Mọi hoạt động của con người đều có mục tiêu rõ ràng. + Người ta luôn tìm cách giải quyết công việc một cách nhanh nhất, những đem lại hiệu quả cao. Kế hoạch hoá tuân theo quá trình tư duy lôgíc của con người. Đó là việc chuẩn bị trước tất cả các điều kiện cần thiết để tiến hành công việc sao cho đạt được kết quả như mong muốn. Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tùy theo ngành nghề kinh doanh, đặc điểm sản xuất cũng như những mục tiêu đặt ra. Doanh nghiệp phải hình thành, phải hoạch đinh ra những công đoạn, cách thức tổ chức, tiến hành công việc ở mỗi công đoạn khác nhau. Đó là cơ sở cho các hoạt động khi chính thức bước sản xuất kinh doanh. Mặt khác doanh nghiệp bao gồm các thành viên khác nhau từ người quản lý đến đội ngũ công nhân.
  8. Các thành viên này phải có sự liệ kết chặt chẽ thông qua công việc họ làm. Muốn vậy họ phải nắm được mục tiêu của công việc là gì, các cách thức tiến hành như thế nào, trình tự tiến hành,... Tất cả những vấn đề đặt ra là nhiệm vụ cũng như nội dung của công tác kế hoạch hoá. Vậy kế hoạch hoá hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp là một tất yếu khách quan. Kế hoạch hoá hoạt động kinh doanh một doanh nghiệp là kế hoạch hoá các khâu, các bộ phận, các lĩnh vực hợp thành của quá trình kinh doanh. Ví dụ như: kế hoạch hoá lao động, kế hoạch hoá vật tư, kế hoạch hoá tiêu thụ sản phẩm, kế hoạch hoá sản xuất,... Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là một bộ phận hợp thành kế hoạch sản xuất kinh doanh. Nó có một quan hệ mật thiết với các kế hoạch khác. Chẳng hạn như: kế hoạch vật tư, kế hoạch sản xuất,... Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là vô cùng cần thiết. Bởi tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh, nó xác định kết quả kinh doanh và quyết định đến quá trình tái sản xuất. Việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được thị trường tiêu thụ, khối lượng sản phẩm, qui cách mẫu mã, chủng loại từ đó có kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp. Hơn nữa vấn đề lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm còn giúp cho quá trình thị trường được đẩy nhanh làm tăng vòng quay vốn kinh doanh giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm vốn. Một định hướng cụ thể sẽ giúp cho công việc được tiến hành có cơ sở, có sự so sánh, đánh giá và kiểm nghiêm qua đó mà tìm cách thích ứng với thị trường. Đó là tầm quan trọng cũng như sự cần thiết của kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. 2.2. Ý nghĩa của kế hoạch tiêu thụ sản phẩm: Việc tiêu thụ sản phẩm là một vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp nó quyết định việc mở rộng và phát triển của doanh nghiệp. Tiêu thụ tốt thì phải làm tốt công tác lập kế hoạch tiêu thụ có thế thì doanh nghiệp mới hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch nhà nước giao cho và cũng thông qua kế hoạch tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp biết được khả năng tiêu thụ sản phẩm của mình như thế nào. * Ý nghĩa: - Kế hoạch tiêu thụ bảo đảm cho doanh nghiệp chủ động ứng phó với những thay đổi trên thị trường. - Kế hoạch tiêu thụ phát triển sản phẩm huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. - Nó là công cụ quả lý của doanh nghiệp và để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của các bộ phận ở doanh nghiệp. Mặt khác việc lập kế hoạch tiêu thụ giúp cho doanh nghiệp thực hiện tiêu thụ sản phẩm tốt hơn, và xác định các nguồn năng lực tiềm tàng về vật
  9. tư kỹ thuật lao động, nguồn vốn có thể huy động trong năm kế hoạch. Từ đó doanh nghiệp thực thiện tốt hơn công tác tiêu thụ sản phẩm, làm tăng doanh số bán, giúp doanh nghiệp tăng vị thế trên thương trường, phạm vi thị trường rộng khắp và qui mô lớn. Nhờ vậy việc tiêu thụ sản phẩm phải được thực hiện theo một kế hoạch hợp lý thì các doanh nghiệp sẽ bán được nhiều hàng hơn, được nhiều người biết đến hơn. Kế hoạc tiêu thụ có ý nghĩa quan trọng góp phần vào việc làm cho quá trình kinh doanh diễn ra liên tục, có hiệu quả, nhờ có kế hoạch thị trường mà doanh nghiệp chủ động bán ký kết các đợn hợp đồng kinh tế. Mặt khác nhờ có lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm thì các doanh nghiệp mới biết được việc tiêu thụ sản phẩm của mình so với kế hoạch đã được chưa để còn có hướng phấn đấu. Lập kế hoạch tiêu thụ giúp cho tổ chức tốt hoạt động thị trường nhằm tạo ra các ưu thế trong cạnh tranh nhằm mở rộng và chiếm lĩnh thị trường, bằng việc sử dụng các phương thức thị trường và giá bán hợp lý, tổ chức tốt hoạt động quảng cáo, xúc tiến và yểm trợ bán hàng cho doanh nghiệp có thể tạo ra các ưu thế trong cạnh tranh mở rộng thị trường hiện tại và chiếm lĩnh phát triển các thị trường mới. Thông qua kế hoạch tiêu thụ khuyến khích các nhà lãnh đạo thường xuyên suy nghĩ đến triển vọng của công ty, nó đảm bảo phối hợp ăn ý hơn những nỗ lực của công ty nó xây dựng những chỉ tiêu hoạt động để sau này làm căn cứ kiểm tra đánh giá, buộc công ty phải xác định rõ ràng phương hướng mục tiêu kinh doanh, chiến lược kinh doanh cụ thể, nó đảm bảo cho công ty có khả năng đối phó với những biến động bất ngờ, nó thể hiện cụ thể hơn mối quan hệ qua lại giữa chức trách nhiệm vụ của tất cả những người có trách nhiệm trong công ty. Hơn nữa lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm còn là cơ sở để lập các kế hoạch khác trong công ty. Như vậy lập kế hoạch tiêu thụ là một quá trình quản lý nhằm tạo ra và duy trì sự ăn khớp về kế hoạch giữa các mục tieu của công ty, tiềm năng của nó và những cơ hội trong lĩnh vực Marketing. Nó dựa vào chức năng, nhiệm vụ, khả năng sản xuất kinh doanh của công ty cũng như các đối thủ cạnh tranh. Lập kế hoạch tiêu thụ đó là định hướng cho hoạt động thị trường của công ty cho một thời kỳ nhất định, tháng, quí, năm với những giải pháp nhằm thực hiện những mục tiêu đề ra, mục tiêu đó là bán hết hàng sản xuất ra tránh tồn kho hàng hoá và làm thế nào để phục vụ kịp thời nhu cầu của khách hàng, tránh tình trạng hàng hoá sản xuất ra lúc thì không bán hết, lúc thì không có để bán cho khách hàng. Tóm lại: tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quan trọng nó ảnh hưởng đến thành công hay thất bại của công tác tiêu thụ sản phẩm, có lập kế hoạch tiêu thụ thì doanh nghiệp mới có khả năng nắm bắt được nhu cầu thị trường và
  10. chủ động đối phó với những diễn biến phức tạp để chuẩn bị kế hoạch sản xuất hợp lý nhằm phục vụ nhu cầu khách hàng một cách hợp lý, đem lại lợi nhuận kinh doanh cao. Vì vậy trong mỗi doanh nghiệp cần chú trọng hơn với công tác lập kế hoạch tiêu thụ, có thể thành lập riêng một đội ngũ chuyên lập kế hoạch sao cho hợp lý chính xác, tạo tiêu đề thực sự vững chắc cho công tác tiêu thụ sản phẩm. II. Nội dung và trình tự xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. 1. Nội dung và các chỉ tiêu của kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Muốn cho hoạt động này được tiến hành tốt thì hoạch định một chương trình cụ thể làm cơ sở để thực hiện. Đó là kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Nó bao gồm các nội dung sau. Kế hoạch khách hàng. Trong những năm gần đây khách hàng là đối tượng luôn được các doanh nghiệp đưa lên hàng đầu trước khi bước vào sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó. Vì khách hàng sẽ là người trả lời kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, họ quyết định đến sự tồn tại của doanh nghiệp. Do đó khi xây dựng kế hoạch khách hàng phải nghiên cứu để hiểu rõ tâm lý, thị hiến của người tiêu dùng. Mỗi doanh nghiệp đều có đối tượng khách hàng rất đa dạng. Xác định đúng đắn tiêu chí phân loại khách hàng có ý nghĩa với doanh nghiệp để định hướng nhóm khách hàng chủ yếu, thứ yếu, nhóm khách hàng hiện hữu và nhóm khách hàng tiềm năng. Kế hoạch khách hàng là tập trung vào nhóm khách hàng chủ yếu của doanh nghiệp. Ở đây kế hoạch cần chỉ ra nhu cầu của khách hàng trên các vùng địa lý khác nhau tập hợp các nhu cầu đó xem có phù hợp với khả năng, tiềm lực mà công ty có thể thể đáp ứng được hay không. Tức là doanh nghiệp phải chỉ ra nhóm khách hàng mục tiêu, nhóm khách hàng tiềm năng. Trong trường hợp công ty có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng ngay trong thời gian tới thì tiến hành của hàng động nhằm thoả mãn nhu cầu đó. Ngoài ra công ty có thể dùng biện pháp quảng cáo, khuyến trương, khuyến vào, tiếp thị để thu hút những khách hàng tiềm năng. Với khẩu hiệu “khác hàng luôn đúng”, kết hợp với tiềm năng của công ty. Kế hoạch khách hàng phải chỉ ra được nhóm khách hàng cần được đáp ứng trong thời gian tới, và phương hướng thu hút thêm khách hàng mới có thể trong thời gian tới. Kế hoạch thị trường. Thị trường của doanh nghiệp là nơi mà doanh nghiệp có thể đem sản phẩm sản xuất của mình ra trao đổi, lưu thông, bán để thu lại khoản tiền, sau khi đã trừ đi tổng chi phí để có sản phẩm và chi phí bán hàng còn lại một khoản dôi ra đó là lợi nhuận. Như vậy thị trường quyết định đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu sản phẩm sản xuất ra đem bán hết
  11. trên thị trường thì chứng tỏ rằng sản phẩm đã được thị trường chấp nhận còn ngược lại thị trường không chấp nhận sẽ dẫn tới ứ đọng hàng hoá không tiêu thụ được dẫn đến doanh nghiệp đến bờ vực của sự phá sản. Việc lập kế hoạch thị trường tức là chỉ ra những thị trường mà sản phẩm của công ty có thể chiếm lĩnh. Đó là thị trường trọng điểm ngoài ra còn có thể mở rộng ra với những thị trường mới. Khi đã xác định rõ thị trường cho doanh nghiệp. Do yếu tố cạnh tranh là không thể tránh khỏi trong nền kinh tế thị trường. Nên để đảm bảo có thị trường vững chắc phải thường xuyên tổ chức nghiên cứu thị trường với các nội dung như: cung cầu, giá cả, các đối thủ cạnh tranh... từ đó có thể đưa ra những chiến dịch quảng cáo, tiếp thị. Kế hoạch tiếp thị cũng được đưa ra. Với thị trường truyền thống có thể lựa chọn kế hoạch tiếp thị mở rộng thị trường hoặc kế hoạch tiếp thị phòng ngự, bảo vệ thị trường với thị trường mới phải có kế hoạch tiếp thị mở cửa thị trường. Kế hoạch sản phẩm. Trên cơ sở ngành nghề sản xuất kinh doanh chính của công ty và tiềm năng có thể khai thác. Công ty nên sản xuất sản phẩm với khối lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào. Trong năm tới nên thay đổi mẫu mã qui cách, màu sắc... sản phẩm như thế nào để phù hợp với thị trường và nhu cầu của khách hàng. Với một bảng phân tích sản phẩm qua các thời kỳ tiêu thụ trước kết hợp với những biến động của môi trường kinh doanh cộng với khả năng hiện tạicủa công ty có thể cho ra dời những sản phẩm như thế nào. Kế hoạch hoá kết quả tiêu thụ. Tất cả các kế hoạch trên đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là kết quả tiêu thụ. Một loạt các chỉ tiêu có thể được đưa ra như: tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường của công ty (thị phần của công ty). Nhóm khách hàng mà công ty có thể đáp ứng nhu cầu tổng doanh thu bán hàng, chi phí phải bỏ ra cho các hoạt động tiêu thụ sản phẩm, tổng lợi nhuận có thể đạt được, số lượng sản phẩm cần cho sự trữ để chuẩn bị cho kỳ tiêu thụ tiếp theo. Với kết quả tiêu thụ đã được thực hiện ở kỳ trước, cộng với khả năng có thể tiêu thụ ở kỳ này. Một kế hoạch cho kết quả tiêu thụ ở kỳ này sẽ hoàn toàn được xác định. Dựa vào các báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo tài chính năm thực hiện. Công ty có thể đưa ra các chỉ tiêu cụ thể như: năm kế hoạch công ty phải thực hiện các nội dung sau: - Tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường năm nay tăng so với 20% năm trước. - Tổng doanh thu bán hàng tăng 15% so với năm trước. - Lợi nhuận thực hiện tăng 15% so với năm trước. - Chi phí thực hiện giảm 20% so với năm trước. - Nộp ngân sách tăng 5% so với năm trước. - Thay đổi, cải tiến về mặt kỹ thuật, công nghệ dây chuyền sản xuất để giảm giá bán 3%...
  12. Ngoài ra việc lập kế hoạch dựa trên mối liên quan giữa các chỉ tiêu với nhau. Chẳng hạn như đạt mức lợi nhuận bằng 20% doanh thu số bán, muốn vậy phải tăng ngân sách cho tiêu thụ là 2% doanh số bán... Bằng cách này người lập kế hoạch sẽ so sánh được chi phí bỏ ra để có được một khoản lợi nhuận. Nếu chi phí bỏ ra ít để giành lại khoản lợi nhuận lớn thì sẽ quyết định thực hiện. Kế hoạch tiêu thụ của doanh nghiệp được xác định theo từng thời gian nhất định: tháng, quí, năm. Là các chỉ tiêu có thể tính bằng hai cách là thước đo hiện vật hay thước đo giá trị. Theo thước đo hiện vật, kế hoạch tiêu thụ phản ánh số lượng sản phẩm của mỗi loại thị trường chấp nhận theo đơn vị đo lường phù hợp như: (mét, kg, tấn, cái, hộp...) Đây chính là căn cứ để tính mức thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong xã hội, thước đo hiện vật có nhược điểm là không cho phép tổng hợp được kết quả sản xuất kinh doanh là khi doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng có tính chất không so sánh được. Theo thước đo giá trị kế hoạch tiêu thụ phản ánh giá trị tổng khối lượng sản phẩm thị trường (tổng doanh thu) cũng như giá trị khối từng loại sản phẩm thị trường để biểu hiện giá trị của sản phẩm thị trường ta dùng giá cả của nó. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trướn hết phụ thuộc vào số lượng sản phẩm và giá bán. Như vậy trong kế hoạch tiêu thụ giá bán cũng là một dung quan trọng. Chính sách giá cho mỗi sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Công thức tổng quát: Doanh thu = Khối lượng sản phẩm tiêu thụ x giá bán đơn vị. DT = QiGi Trong đó: Qi là khối lượng hàng hoá tiêu thụ theo giá Gi. Để xác định lượng hàng hoá tiêu thụ được trong kỳ, người ta căn cứ vào lượng hàng hoá sản xuất kỳ lượng tồn kho đầu kỳ và lượng dự trữ cuối kỳ. QKH = Tđk + XKH - DCK Trong đó: QKH: Lượng hàng hoá tiêu thụ trong kế hoạch. Tđk : Lượng hàng tồn kho đầu kỳ. XKH: Lượng hàng sản xuất trong kỳ. DCK: Dự trữ cuối kỳ. Để đảm bảo tiêu thụ được diễn ra liên tục, thường xuyên ở kỳ kế hoạch phải xác định được lượng hàng dự trữ cho kỳ sau. Có rất nhiều cách xác định lượng hàng dự trữ. Nhưng cách tính theo phương pháp thống kê kinh nghiệm được áp dụng tương đối đơn giản: DK/h = Db/c (1 + h) Trong đó: DK/h: Dự trữ một mặt hàng kỳ kế hoạch Db/c: Dự trữ một mặt hàng kỳ báo cáo.
  13. h: Tỷ lệ tăng giảm dự trữ kỳ kế hoạch so với kỳ báo cáo. 2. Trình tự tiến hành lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là một loại kế hoạch hoạt động của doanh nghiệp sản xuất được dùng một là để thực hiện những mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp đề ra trong thời gian nhất định: năm, quí, tháng. Nó có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình thực hiện các hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Việc lập kế hoạch theo một trình tự nhất định, thông qua các giai đoạn khác nhau, nhưng có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau. Điều này sẽ tạo ra một kế hoạch mang tính khoa học lôgíc tăng độ trung thực và chính xác, đem lại hiệu quả thực hiện cao. Thông thường một kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được thiết lập qua các bước sau: Bước 1: Thu nhập phân tích và sử lý dữ liệu. Trong giai đoạn này công việc phải làm là rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới toàn bộ quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm.. Nhưng thông tin cần thu nhập và xử lý bao gồm các thông tin bên trong nội bộ doanh nghiệp và các thông tin bên ngoài thị trường. Trong nội bộ doanh nghiệp thu nhập các thông tin từ các bản báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo hoạt động tài chính của năm báo cáo, bản kê khai các sản phẩm sản xuất kinh doanh. Qua đó xác định được năng lực (khả năng hiện tại của doanh nghiệp) và năng lực tiềm tàng trong tương lai về tất cả các lĩnh vực như: nguồn nhân lực, kỹ thuật và công nghệ sản xuất, vốn, các sản phẩm có thể sản xuất. - Thu thập thông tin từ bên ngoài thị trường bao gồm các thông tin về nhu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm, các đối thủ cạnh tranh, khả năng diễn thay đổi, tâm lý thị hiếu người tiêu dùng hay cả những vấn đề về môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một thông tin quan trọng nữa là môi trường kinh doanh của những nhà cung ứng đầu vào cho doanh nghiệp. Những thông tin trên có thể thu thập qua sách báo, tạp chí chuyên ngành, các phương tiện thông tin đại chúng, nói chuyện với khách hàng những nhà cung ứng, nhà phân phối và những người khác không phải là những nhân viên biên chế trong công ty. Công ty có thể khuyến khích những người phân phối bán lẻ và những người đồng minh khác thông báo cho mình những tin tức quan trọng. Ngoài ra có thể mua thông tin từ những người cung cấp thông tin thường ngày ở bên ngoài. Công ty có thể xây dựng một đội ngũ chuyên trách về thu thập và phổ biến thông tin hàng ngày. Các thông tin thu thập được phải tạo điều kiện dễ dàng cho các nhà quản trị ra được những quyết định cơ bản. Một vấn đề nữa trong bước này là công ty cần phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch của năm xây dựng kế hoạch. Từ đó sẽ có những đánh giá nhận xét, rút kinh nghiệm làm cơ sở cho xây dựng kế hoạch năm tiếp theo.
  14. Bước 2: Xác định mục tiêu và nội dung cơ bản của kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Căn cứ vào các thông tin đã được phân tích và xử lý ở bước một, công ty phải xác định các mục tiêu mà công ty cần phải thực hiện trong năm kế hoạch. Các mục tiêu này phải phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của công ty cũng như các điều kiện khác về môi trường tiêu thụ, khả năng thực tế của công ty. Các mục tiêu có thể là: duy trì và mở rộng thị trường truyền thống, xâm nhập thị trường, tăng sản lượng, tối đa hóa doanh số, tối đa hóa lợi nhuận hay tiêu thụ hết hàng ứ đọng,... Một mục tiêu kế hoạch đúng đắn khi nó đảm bảo tính cụ thể, định hướng, tính khả thi và tính hệ thống. Sau khi đã xác định được các mục tiêu, công ty bắt đầu đi vào lập kế hoạch cho tiêu thụ sản phẩm. Căn cứ vào những thông tin thu thập được, những mục tiêu cụ thể đã đề ra, công ty tiến hành xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm với sự hỗ trợ của các phòng ban, cán bộ, nhân viên lập kế hoạch dự thảo trình lên cấp trên. Nếu dự thảo được chấp nhận công ty phải chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện kế hoạch. Bước 3: Sau khi nhận được kế hoạch chính thức doanh nghiệp cần phải tiến hành các công việc sau: - Tổ chức kiểm tra, đánh giá thực hiện và có những điều chỉnh (nếu cần). - Phân chia kế hoạch theo từng quý, từng tháng. - Tổ chức hội nghị công nhân viên phổ biến nhiệm vụ, kế hoạch. Giao nhiệm vụ và trách nhiệm đến mỗi cán bộ, công nhân viên thực thi kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. 3. Căn cứ và phương pháp xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm: 3.1. Căn cứ lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm: Để lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm đúng đắn, khoa học và thực tế, doanh nghiệp cần phải dựa vào những tiêu thức nhất định có liên quan đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Đó là việc xác định các căn cứ và dựa vào đó để tiến hành lập kế hoạch phù hợp. Doanh nghiệp cần phải dựa vào căn cứ chủ yếu sau: - Nhu cầu thị trường về sản phẩm của doanh nghiệp đã xác định, bao gồm sản phẩm, chất lượng, sản lượng và cơ cấu giá cả và thời gian đáp ứng; kể cả hiện tại và xu thế vận động của nó trong tương lai. Đaay là căn cứ tương đối quan trọng có ý nghĩa quyết định đến tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. - Phương án kinh doanh mà doanh nghiệp đã chọn, đặc biệt là chương trình sản xuất để triển khai thực hiện phương án kinh doanh. - Chiến lược và chính sách kinh doanh của doanh nghiệp với tư cách là quan điểm chỉ đạo nguyên tắc chi phối các hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
  15. - Các đơn hàng, hợp đồng tiêu thụ đã được ký kết với khách hàng. Đây là các văn bản có tính pháp quy, cần được tuân thủ một cách nghiêm ngặt để đảm bảo thực hiện mục tiêu nhiệm vụ và uy tín của doanh nghiệp với khách hàng. - Đối thủ cạnh tranh cũng là yếu tố quan trọng trong tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải thường xuyên so sánh sản phẩm, giá cả, ... với các đối thủ gần guic để dành thế chủ động trong hoạt động kinh doanh. - Các căn cứ khác cũng được tính tới khi xây dựng kế hoạch tiêu thụ là: dự kiến về tăng chi phí cho hoạt động Marketing bán hàng, sự thay đổi về tổ chức các kênh phân phối, khả năng thu hút thêm khách hàng mới, khả năng mở rộng địa bàn tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, những chính sách điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với các loại sản phẩm mà doanh nghiệp dự kiến bán,... 3.2. Phương pháp lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm: Có nhiều phương pháp để tiến hành xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cũng như các kế hoạch khác nói chung như phương pháp cân đối,phương pháp quan hệ động, phương pháp tỷ lệ cố định, phương pháp kinh tế. Trong những phương pháp trên phương pháp cân đối được coi là phương pháp chủ yếu, tiến hành theo trình tự: tính toán các yếu tố theo nhu cầu và theo khả năng, so sánh giữa nhu cầu và khả năng theo quan điểm toàn diện, tích cực từ đó xác định kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp. III. Nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp: Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm sẽ được kiểm nghiệm bởi thực tế. Đó là quá trình triển khai và thực hiện kế hoạch. Quá trình này có thể được thực hiện tốt, đạt hoặc vượt kế hoạch đặt ra. Nhưng cũng có thể các chỉ tiêu được thực hiện thấp hơn nhiều so với kế hoạch đề ra. Nừu như kế hoạch đã được coi là tương đối chính xác và sát với diễn biến thực tế thì rõ ràng trong quá trình thực hiện kế hoạch sẽ có nhiều nhân tố tác động đến làm thay đổi các chỉ tiêu. Các nhân tố này có thể là trong nội tại doanh nghiệp hoặc do môi trường kinh doanh bên ngoài (nhân tố chủ quan hoặc khách quan). 1. Nhân tố chủ quan: Chủ thể thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm chính là đội ngũ thực hiện công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Tuy nhiên nó đòi hỏi phải có mối liên kết hỗ trợ nhau trong quá trình thực hiện giữa các phòng ban, tổ chức, các nhân viên. Do mỗi phòng ban, cá nhân phụ trách cũng như chịu trách nhiệm khác nhau về phần công việc của mình nhưng họ đều phải hướng đến các đích cuối cùng là mục tiêu của công ty đã được đặt ra trong kế hoạch kinh doanh. Như vậy một trong những yếu tố ảnh hưởng đến kế hoạch tiêu thụ là tổ chức mối quan hệ với nhau trong công ty chưa được tốt.
  16. Điều này sẽ dẫn đến ai làm việc ấy và không có sự thống nhất, đoàn kết cùng hướng đến mục tiêu của công ty. Một nhân tố nữa là ngày từ khi triển khai thực hiện kế hoạch, công ty không giao trách nhiệm cụ thể đến từng đơn vị hoạt động hay đến cá nhân cụ thể, không cho họ thấy rõ trách nhiệm của họ trong quá trình thực hiện kế hoạch, không đề ra chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Tất cả những điều này dẫn đến tình trạng làm việc không nghiêm túc, thờ ơ với công việc. Hệ thống phương tiện giao thông, vận tải dùng trong lưu chuyển hàng hóa ít hay, lạc hậu dẫn đến phân phối không hợp lý, không đúng thời điểm cần thiết. Do dây chuyền sản xuất sản phẩm sản xuất ra không đạt yêu cầu. Đội ngũ cán bộ, nhân viên kém linh hoạt, không giành được thế chủ động tròn ký kết các hựp đồng tiêu thụ. Vốn ít, không đủ cho chi phí quảng cáo, khuyến mãi, tiếp thị, các hoạt động nhằm mở rộng thị trường, thu hút thêm khách hàng mới sẽ không thành công. Coi kế hoạch là chuẩn nên trong quá trình thực hiện luôn lấy kế hoạch để áp đặt đi trái ngược lại với diễn biến của môi trường kinh doanh. Các dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng chưa được tổ chức tốt, chưa chiếm được lòng tin của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Nhân viên bán thể hiện yếu kém ở khâu giao tiếp, hiểu biết về kỹ thuật hoặc coi thường khẩu hiệu “khách hàng là thượng đế”, không đề cao phương châm “khách hàng luôn luôn đúng”. 2. Nhân tố khách quan: Môi trường kinh doanh mà mối một chủ thể tồn tại trong nó đều chịu sự chi phối và ảnh hưởng mạnh mẽ. Nếu một công ty nắm chắc được môi trường kinh doanh của mình sẽ chắc chắn hơn tròn việc đảm bảo các mục tiêu đã đề ra trong chiến lược kinh doanh. Nhưng môi trường kinh doanh là luôn biến động việc nắm bắt là rất khó khăn và phức tạp đòi hỏi phải thường xuyên liên tục. Khi thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm tức là doanh nghiệp tổ chức các hoạt động cần thiết để thực hiện công việc tiêu thụ sản phẩm. Đây là một quá trình, nó hoàn thành kế hoạch hay không phụ thuộc và chịu ảnh hưởng không ít của các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh. - Sự thay đổi đột ngột trong thị hiếu người tiêu dùng sẽ dẫn đến sự biến động về nhu cầu hàng hóa của công ty. - Sự xuất hiện các đối thủ cạnh tranh với những sản phẩm hoàn toàn có khả năng thay thế, với giá rẻ hơn. - Khủng hoảng kinh tế, lạm phát dẫn đến đời sống dân cư giảm sút. Do đó sẽ giảm sức tiêu thụ.
  17. - Nguồn lực khan hiếm, chi phí giành cho khai thác cao ép ác nhà cung ứng nguyên - nhiên vật liệu, vật tư đẩy giá lên cao làm cho giá hàng hóa cao không phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng. - Do sự thay đổi luật pháp trong kinh doanh, có thể mặt hàng mà doanh nghiệp đang kinh doanh bị hạn chế hoặc bị đánh thuế cao hơn. Tóm lại: trong quá trình thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp luôn phải đối đầu với các nhân tố gây tác động xấu đến kết quả. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn nghiên cứu, phân tích và xác định được các nhân tố ảnh hưởng để từ đó có thể biến nó trở thành những ảnh hưởng có ích hoặc hạn chế các tác động xấu của nó. Một điều căn bản là kế hoạchkế hoạch chỉ là định hướng tốt còn thực hiện kế hoạch thì phải thực sự linh hoạt tùy vào từng thời điểm kinh doanh. Phần II: Thực trạng xây dựng và thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm sản xuất công nghiệp của công ty xây lắp vật tư vận tải sông Đà. I. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty xây lắp vật tư - vận tải sông Đà 12: 1. Một số nét khái quát về công ty: 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển: Công ty xây lắp vật tư - vận tải sông Đà 12 là một đơn vị trực thuộc Tổng công ty xây dựng thủy điện sông Đà. Tiền thân công ty được thành lập theo quyết định số 217 BXD/ TCCB ngày 01/02/1980, tên công ty là Công ty cung ứng vật tư thuộc Tổng công ty xây dựng sông Đà. Qua quá trình sản xuất và kinh doanh được Bộ xây dựng bổ sung chức năng và nhiệm vụ, đổi tên và thành lập lại theo Nghị định 388/ HĐBT tại quyết định số 135 A- BXD-TCLĐ ngày 26/03/1993 tên công ty là Công ty vật tư thiết bị và được đổi tên thành Công ty xây lắp - vật tư - vận tải sông Đà 12 theo quyết định số 04/ BXD - TCLĐ ngày 02/01/1999. Quá trình sản xuất kinh doanh của công ty trải qua những giai đoạn nhất định, đánh dấu sự phát triển mở rộng và sự thích nghi với môi trường kinh doanh củ doanh nghiệp. Giai đoạn từ 1980-1990, nhiệm vụ chủ yếu là tiếp nhận vật tư, thiết bị nhập ngoại của công trường từ Hải Phòng, vận chuyển về sông Đà sau đó tổ chức bảo quản và cấp phát theo yêu cầu của sản xuất của công trường, đồng thời cung ứng kịp thời các vật tư - thiết bị trong cả nước đã đảm bảo tiến độ thi công của công trường. Những sản phẩm chủ yếu được hoàn thành trong giai đoạn này là: - Tiếp nhận, vận chuyển thiết bị từ Hải Phòng - Sông Đà: 247.925 tấn 207.470 m2 - Sản xuất cửa 47.400 m3 - Xẻ gỗ - Cung ứng xi măng 108. 000 tấn 4.850.000.000 đ ồng - Gia công
  18. Trong giai này công ty không ngừng bổ sung và tăng tốc độ phát triển vốn bình quân 20%  30%/ năm. Thực hiện nghĩa vụ đốivới Nhà nước đầy đủ. Giai đoạn từ 1990 - 1995: trong giai đoạn này do sự biến động mạnh của môi trường kinh doanh, chịu tác động của nền kinh tế thị trường nên hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty bị tác động mạnh. Trước tình hình đó Công ty không ngừng đầu tư đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng sang kinh doanh các ngành nghề khác với sự cho phép của Bộ xây dựng. Sang năm 1999, Công ty tiếp tục đầu tư, huy động thêm vốn phát triển sản xuất kinh doanh. Ngày 02/01/1999 theo Quyết định số 04/BXD - TCLĐ, công ty được đổi tên thành Công ty xây lắp inH viênật tư - vận tải sông Đà 12, đặt trụ sở chính tại G9 Thanh Xuân Nam - Thanh Xuân- Hà Nội, và có các chi nhánh tại Hòa Bình, Quảng Ninh, Hải Phòng. Tiếp tục sản xuất kinh doanh những lĩnh vực trước đó đồng thời xác định được nhu cầu của thị trường đến cuối năm 1999, công ty chú trọng đến phát triển sản xuất công nghiệp mà sản phẩm chính là xi măng, vỏ bao và cột điện li tâm với sự cố gắng nỗ lực của công ty và sự giúp đỡ của Tổng công ty, công ty đã đạt được những kết quả đáng kể đứng vững trong các ngành nghề kinh doanh. Tính đến cuối năm 2001, tổng vốn kinh doanh của công ty là 41,3 tỷ đồng, trong đó vốn cố định là 32,3 tỷ đồng, vốn lưu động là 9 tỷ đồng. Tổng doanh thu năm 2001 là 300.800 tỷ đồng, đạt 94% kế hoạch, lợi nhuận là 4,482 tỷ đồng đạt 96% kế hoạch. Công ty có hơn 2000 cán bộ, công nhân viên, 140 kỹ sư, 1178 công nhân lành nghề. Đời sống của cán bộ công nhân viên không ngừng được cải thiện. Việc làm đủ và ổn định, mức thu nhập của người lao động khá đã tạo được niềm tin gắn bó của công nhân viên chức với đơn vị. Thu nhập bình quân của một công nhân viên chức là 704.000 đồng. đồ thị 1.2. Chức năng và nhiệm vụ của công ty: Căn cứ Quyết định số 1468/BXD - TCCB ngày 11/10/1979 của Bộ xây dựng quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Tổng công ty xây dựng sông Đà. Căn cứ Quyết định số 217/BXD-TCCB ngày 01/02/1980 Bộ xây dựng thành lập Công ty cung ứng vật tư trực thuộc Tổng công ty xây dựng thủy điện sông Đà. Theo Quyết định số 04/BXD-TCLĐ ngày 02/01/1999 và giấy phép kinh doanh số: 109967 ngày 16/01/1999 của Ủy ban kế hoạch thành phố Hà Nội. Công ty phải thực hiện những chức năng và nhiệm vụ sau:
  19. - Tổ chức sản xuất, ký kết các hợp đồng xây dựng các công trình thủy lợi, thủy điện, công trình công nghiệp, công cộng, nhà ở và xây dựng khác, công trình giao thông bưu điện, đường dây tải điện và trạm biến thế đến 200 KV, cầu đường, bến cảng và sân bay, xây lắp hệ thống cấp thoát nước công nghiệp và dân dụng. - Tổ chức các hoạt động sửa chữa, gia công cơ khí, sản xuất phụ tùng, phụ kiện kim loại cho xây dựng gia công chế biến gỗ dân dụng và xây dựng. - Tổ chức sản xuất các loại vật liệu xây dựng, xi măng bao bì, cột điện li tâm. - Thực hiện các hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy, bộ. - Tổ chức các hoạt động kinh doanh vật tư, thiết bị, xi măng, than mỏ, xăng dầu mỡ, kinh doanh nhà ở. - Xuất nhập khẩu thiết bị, xe máy, vật liệu xây dựng, phương tiện vận tải nguyên nhiên vật liệu phục vụ nhu cầu sản xuất của Tổng công ty. - Sử dụng có hiệu quả các nguồn cốn tài chính, vốn hiện vật dược Tổng công ty phân giao, thực hiện đúng đắn chế độ hạch toán kinh tế và kinh doanh, đảm bảo nghĩa vụ nộp thuế, lãi, lợi nhuận, khấu hao,... theo đúng chỉ tiêu kế hoạch và những quy định của Nhà nước và của Tổng công ty. - Tổ chức quản lý, sử dụng chặt chẽ và hợp lý các máy móc thiết bị và các phương tiện vận tải nhằm sử dụng hết năng lực xe máy, thiết bị và giảm thấp cước phí vận chuyển. - Nghiên cứu cải tiến tổ chức sản xuất kinh doanh, thực hiện triệt để chế độ trả lương theo sản phẩm nhằm không ngừng nâng cao năng suất lao động và tăng thu nhập hợp lý cho công nhân viên chức. - Tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng về chính trị, kỹ thuật chuyên môn và quản lý kinh tế cho cán bộ công nhân viên theo chỉ tiêu về kế hoạch Tổng công ty giao. - Tổ chức bảo vệ chính trị, bảo vệ kinh tế và giữ gìn an ninh trật tự trong công ty, tổ chức huấn luyện lực lượng tự vệ và thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ, chính sách nghĩa vụ quân sự của Nhà nước. - Tổ chức chăm lo cải thiện đời sống vật chất và văn hóa, chăm lo cải thiện điều kiện làm việc cho cán bộ công nhân trong công ty. 1.3. Cơ cấu tổ chức của công ty: Trải qua quá trình hình thành và phát triển với sự kiểm nghiệm thực tế cho đến nay công ty đã hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý theo mô hình trực tuyến chức năng. Giám đốc là người đứng đầu trong công ty, chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc Tổng công ty về việc tổ chức và chỉ đạo thực hiện mọi nhiệm vụ kế hoạch sản xuất kinh doanh. Giúp giám đốc công ty trong công tác chỉ đạo và quản lý có các phó giám đốc phụ trách các lĩnh vực thuộc chức năng và nhiệm vụ của công ty. Tiếp đó là các phòng ban
  20. chức năng. Chịu trách nhiệm tổ chức sản xuất kinh doanh là các xí nghiệp trực thuộc công ty.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1