intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN:Một số ý kiến về mở rộng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội qua các loại hình tài khoản tiền gửi.Lời nói đầuTrong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các ngành Ngân hàng nước ta gánh một trọng trách rất nặn

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:75

88
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các ngành Ngân hàng nước ta gánh một trọng trách rất nặng nền. Qua các kỳ Đại hội, Đảng ta đều chú trọng đến vấn đề đổi mới và phát triển nền kinh tế để theo kịp các nước đang phát triển của khu vực, hội nhập với các nước trên thế giới. Việc xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, cộng với chính sác mở cửa, đa phương hoá,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN:Một số ý kiến về mở rộng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội qua các loại hình tài khoản tiền gửi.Lời nói đầuTrong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các ngành Ngân hàng nước ta gánh một trọng trách rất nặn

  1. LUẬN VĂN: Một số ý kiến về mở rộng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội qua các loại hình tài khoản tiền gửi
  2. Lời nói đầu Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các ngành Ngân hàng nước ta gánh một trọng trách rất nặng nền. Qua các kỳ Đại hội, Đảng ta đều chú trọng đến vấn đề đổi mới và phát triển nền kinh tế để theo kịp các nước đang phát triển của khu vực, hội nhập với các nước trên thế giới. Việc xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, cộng với chính sác mở cửa, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế trên thực tế đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế nước ta sang một sắc thái mới trong mấy năm qua. Nền kinh tế thị trường dưới sự chi phối của các quy luật kinh tế và dứoi sự điều tiết của Nhà nước đã từng bước giải quyết được quan hệ cung cầu về hàng hoá và sản phẩm. Thu nhập quốc dân những năm qua tăng trưởng thật đang sản phẩmấn khởi. Khối lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ tăng lên không ngừng. Khối lượng đầu tư và các ngành công nghiệp, nông nghiệp, lâm thuỷ sản tăng mạnh làm thay đổi từng ngày, từng giờ bộ mặt của đất nước. Có được kết quả to lớn đó là do có sự nỗ lực vượt bậc của các ngành, các cấp trong cả nước, trong đó ngành Ngân hàng đóng một phần không nhỏ. Hoạt động của Ngân hàng chủ yếu là cấp tín dụng cho nền kinh tế nên Ngân hàng phải không ngừng nâng cao công tác huy động vốn để đáp ứng được vốn trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, việc huy động vốn của Ngân hàng thương mại còn bị hạn chế, ẩn đọng trong dân còn nhiều. Đây là nguồn vốn trong nước cần được khai thác để đáp ứng nhu cầu vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó Ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng. Vì vậy, trong quá trình thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội tôi đã chọn khoá luận: “Một số ý kiến về mở rộng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội qua các loại hình tài khoản tiền gửi”
  3. Nội dung khoá luận bao gồm : Chương I: Lý luận chung về công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Chương III: Giải pháp và kiến nghị đối với công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Hoàn thành bản khoá luận này xem xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Vũ Thiện Thập, người đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập và viết khoá luận. Em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của Ban lãnh đạo, các cô chú, anh chị cán bộ Phòng Nguồn vốn kinh doanh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
  4. Chương I: Lý luận chung về công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại I. Ngân hàng thương mại và các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại: 1. Vị trí của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế: Ngân hàng được xem là một ngành dịch vụ có từ lâu đời trên thế giới, Ngân hàng ra đời khi sản xuất hàng hoá đã phát triển tới mức nhất định. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ chưa có sản xuất hàng hoá, nền kinh tế mang nặng tính tự cấp, do đó Ngân hàng chưa xuất hiện. Tuy nhiên đã có những mầm mống sơ khai của hoạt động Ngân hàng, đó là cho vay nặng lãi. Khi nền sản xuất phát triển, chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế, theo đó hệ thống Ngân hàng được hình thành. Hoạt động của hệ thống Ngân hàng trong nền kinh tế hàng hoá một mặt phục vụ cho yêu cầu phát triển của nền kinh tế, song mặt khác cũng chính là do mục đích sinh lời của Ngân hàng không ngừng hoàn thiện và phát triển. Lúc đầu, hoạt động Ngân hàng chỉ đơn giả là các dịch vụ đổi tiền, các dịch vụ này rất đơn giản, nó chỉ phù hợp với buổi bình minh của nền sản xuất hàng hoá. Khi nền sản xuất hàng hoá phát triển đến trình độ cao nó đòi hỏi các hình thức dịch vụ Ngân hàng càng phải phong phú, đa dạng, do vậy các hình thức tín dụng và dịch vụ Ngân hàng được phát triển để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền sxhd. Ngày nay kinh tế thị trường là sự phát triển đến trình độ cao của kinh tế hàng hoá. Do đó Ngân hàng càng có vị trí quan trọng. Ngoài chức năng kinh doanh thông thường của mình, Ngân hàng còn là công cụ trong tay Nhà nước để thực thi việc quản lý điều hành nền kinh tế có hiệu quả. 2. Vai trò của Ngân hàng thương mại trong việc phục vụ kinh tế phát triển:
  5. Trong nền kinh tế thị trường với một đặc trưng nổi bật là mức độ tiền tệ hoá ngày càng cao, các mối quan hệ kinh tế, trong đó vốn là yếu tố quyết định phần lớn thành công các mục tiêu phát triển của quốc gia. Trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, doanh nghiệp có mối quan hệ giao dịch, thông qua hệ thống thị trường, môi trường pháp lý, trình độ dân trí, lao động, lĩnh vực đầu tư, công nghệ thiết bị thông tin, thị trường các sản phẩm, thị trường tiền tệ - tài chính. Vậy vấn đề quản trị tài chính, huy động vốn và phát triển vốn được đặt ra với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh sản xuất diễn ra và phát triển không ngừng còn có các mối quan hệ phức tạp đa dạng khác nảy sinh ra trong sự gặp gỡ trực tiếp giữa chủ dư thừa và vốn và thiếu hút vốn đang gặp khó khăn trở ngại. Để giải quyết mối quan hệ ấy đã hình thành một định chế trung gian quan trọng nhất là Ngân hàng thương mại. Như vậy Ngân hàng thương mại là chủ thể kinh doanh thị trường vốn tiền tệ - tín dụng. Đó là yêu cầu khách quan của nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Ngân hàng thương mại ra đời ra đời là một khâu quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế vì nó cung ứng vốn để thực hiện sự nghiệp hiện đại hoá đất nước. Trong thế giới hiện đại Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng nhất trong các định chế tài chính của mỗi nước. Hoạt động của Ngân hàng thương mại đa dạng, phong phú, phạm vi rộng lớn nên có vai trò quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường. Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế, vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Nhà nước trong nền kinh tế. Vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân, giảm nhịp độ tiêu dùng. Để tăng thu nhập quốc dân, tức là mở rộng quy mô chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế cần thiết phải có vốn. Ngân hàng thương mại là chủ thế đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Ngân hàng thương mại đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi tạm
  6. thời được giải pháp ra từ quá trình sản xuất và lưu thông, vốn từ nguồn tiết kiệm của các cá nhân trong xã hội. Bằng nguồn vốn huy động được, các Ngân hàng thương mại cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Như vậy nhờ có hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng phạm vi sản xuất, công nghệ, tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu quả kinh tế. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh... Để đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, các doanh nghiệp không ngừng nâng cao chất lượng lao động, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp. Thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng đáp ứng vốn cho doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, tạo cho doanh nghiệp có chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh. Ngân hàng thương mại đóng vai trò trung gian thanh toán cho các tổ chức kinh tế, cá nhân trong xã hội. Tổ chức công tác thanh toán trong nền kinh tế quốc dân, sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt góp phần tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế. Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Ngân hàng thương mại hoạt động hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của mình sưc thực sự là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán, các Ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thông qua việc cấp các khoản tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế. Ngân hàng thương mại thực hiện việc điều hoà các luồng tiền, tích tụ và phân phối cho các ngành. Với những nội dung hoạt động như vậy, Nhà nước đã sử dụng Ngân hàng thương mại như là một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế. Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với hệ thống tài chính quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường khi các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các nước trên thế giới ngày
  7. càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì vậy, nền tài chính mỗi nước phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế. Ngân hàng thương mại cùng các hoạt động kinh doanh của mình đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự hoà nhập này. Với các nghiệp vụ kinh doanh như nhận tiền gửi cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ Ngân hàng khác. Ngân hàng thương mại đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng mở rộng thông qua các hoạt động thanh toán kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các Ngân hàng nước ngoài. Hệ thống Ngân hàng thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của hệ thống tài chính thế giới. 3. Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại: 3.1. Nghiệp vụ tài sản nợ và vốn của Ngân hàng: Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại bao gồm các nghiệp vụ sau: 3.1.1. Nghiệp vụ tiền gửi: Đây là nghiệp vụ phản ánh các khoản tiền gửi từ doanh nghiệp vào Ngân hàng để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ đó Ngân hàng thương mại có thể huy động được. Ngoài ra các Ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân hay các hộ gia đình được gửi vào Ngân hàng với mục đích hưởng lãi. 3.1.2. Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: Các Ngân hàng thương mại sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có tính dài hạn, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư các khoản vốn dài hạn của Ngân hàng vào nền kinh tế. Ngoài ra, các nghiệp vụ này còn giúp các Ngân hàng thương mại tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh của mình. 3.1.3. Nghiệp vụ đi vay: Đối với nghiệp vụ này các Ngân hàng thương mại tiến hành tạo vốn cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay Ngân hàng trung ương
  8. dưới hình thức tái chiết khấu hay vay có đảm bảo... nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân Ngân hàng thương mại khi mà họ không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ. 3.1.4. Nghiệp vụ huy động vốn khác: Ngân hàng thương mại có thể tiến hành tạo vốn thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. 3.1.5. Vốn tự có của Ngân hàng: Đây là vốn thuộc sở hữu riêng có của các Ngân hàng. Trong thực tế khoản vốn này không ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt động kinh doanh của bản thân Ngân hàng mang lại. Nó góp một phần đáng kể vào vốn trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại. 3.2. Nghiệp vụ tài sản có: Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích đảm bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các Ngân hàng thương mại. Nội dung của nghiệp vụ bao gồm: 3.2.1. Nghiệp vụ ngân quỹ: Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của Ngân hàng được dùng vào với mục đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc do Ngân hàng trung ương đề ra. 3.2.2. Nghiệp vụ cho vay: Đây là nghiệp vụ tạo khả năng sinh lời chính trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại. Nghiệp vụ này bao gồm các khoản sinh lời của các Ngân hàng thông qua việc cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với nền kinh tế. 3.2.3. Nghiệp vụ đầu tư tài chính: Các Ngân hàng thương mại thực hiện quá trình đầu tư bằng vốn của mình thông qua các hoạt động hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường.
  9. 3.2.4. Nghiệp vụ khác: Bằng các hoạt động khác trên thị trường như: Kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và kim khí, đá quý; thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân quỹ, nghiệp vụ uỷ thác và đại lý; kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm; các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động Ngân hàng như : dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê két... và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, mà các Ngân hàng thu được những khoản lợi nhuận đáng kể. II. Nghiệp vụ huy động vốn của Ngân hàng thương mại và các tài khoản phản ánh nghiệp vụ huy động vốn: 1. Nội dung các loại vốn huy động của Ngân hàng thương mại. 1.1. Vốn huy động: Là giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán và các nghiệp vụ kinh doanh khác được dùng làm vốn kinh doanh. Vốn huy động là công cụ chính đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số nguồn vốn của Ngân hàng, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Đồng thời các Ngân hàng thương mại luôn luôn phải tôn trọng các giới hạn về mức huy động vốn theo quy định của mỗi nước. Ví dụ tại Việt Nam tỷ lệ này là 20 lần so với vốn tự có. Mặc dù phạm vi sử dụng vốn huy động của các Ngân hàng thương mại bị hạn chế so với vốn tự có song nếu các Ngân hàng thương mại sử dụng tốt số vốn này thì không những nguồn lợi của Ngân hàng được tăng lên mà còn tạo cho Ngân hàng có được uy tín ngày càng cao. Qua đó tạo cho Ngân hàng mở rộng được vốn góp phần mở rộng quy mô hoạt động của bản thân Ngân hàng. 1.2. Vốn đi vay: Là quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng thương mại và Ngân hàng Nhà nước trung ương hoặc vay các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng quốc tế. Các
  10. Ngân hàng thương mại sẽ đi vay vốn để bổ sung vào hốn hoạt động của mình khi Ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng hiện có mà vẫn không đủ vốn hoạt động. 1.3. Vốn khác: Trong quá trình làm trung gian thanh toán, Ngân hàng thương mại cũng tạo được một khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán như vốn trên tài khoản tiền gửi mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi bảo chi séc và các khoản tiền phong toả do Ngân hàng chấp nhận các hối phiếu thương mại. 2. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại: Theo giác độ không gian, một Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn trong nước và ngoài nước. Nguồn vốn từ nước ngoài là rất quan trọng. Bằng cách liên doanh, liên kết, mở văn phòng đại diện ở nước ngoài, phát hành trái phiếu ra nước ngoài... các Ngân hàng thương mại có tiềm lực có thể hút vốn từ các Ngân hàng khác, các tổ chức kinh tế nước ngoài,... góp phần đẩy mạnh đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần thấy rõ nguồn vốn trong nước là chủ yếu, nguồn vốn trong nước vừa phong phú, vừa chủ động, lại đang nằm trong tầm tay của các Ngân hàng thương mại. Nguồn trong nước đồng thời cũng là tiền đề, là điều kiện để “đón” các nguồn nước ngoài. Theo đối tượng huy động, một Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn từ các đối tượng sau: - Các tổ chức kinh tế. - Các tầng lớp dân cư. - Vay các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. - Vay Ngân hàng trung ương. Trong đó nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp, dân cư là quan trọng nhất vì nó là nguồn vốn chủ yếu và mang tính lâu dài. Mọi Ngân hàng đều phải biết dựa vào tiết kiệm và tích luỹ của các doanh nghiệp và dân cư. Nguồn vốn huy động từ các tổ
  11. chức tài chính khác, từ NHTW tuy không chiếm tỷ trọng lớn nhunưg nó đáp ứng được những nhu cầu đột xuất về vốn của Ngân hàng. Đứng trên quan điểm của Ngân hàng (người huy động vốn), có thể xếp số vốn Ngân hàng huy động được thành hai loại: - Loại chủ động thu gom: Tiền phát hành tín phiếu Ngân hàng, tínn phiếu cầm cố, trái phiếu Ngân hàng (trong, ngoài nước). - Loại bị động thu gom: các loại tiền ký gửi. Về bản chất hai loại này không có sự khác nhau đáng kể. Tuy nhiên, “chủ động vay vốn” (chủ động thu gom) cũng có một số đặc điểm: + Thông thường, lãi suất “vốn chủ động vay” cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm. + “Vốn chủ động vay” được huy động theo sáng kiến riêng của từng Ngân hàng. Bất cứ một Ngân hàng thương mại nào cũng hoạt động với mục đích chung là vì lợi nhuận và sự tăng trưởng không ngừng của nguồn vốn. Bộ phận chủ yếu nhất trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng là vốn huy động. Do vậy công tác huy động vốn để tạo nguồn cho Ngân hàng là nghiệp vụ quan trọng ảnh hưởng bao trùm lên toàn bộ hoạt động của Ngân hàng. Căn cứ vào một số tiêu thức, người ta chia nghiệp vụ huy động vốn thành các hình thức huy động sau. 2.1. Tiền ký gửi: Tiền ký gửi là một bộ phận tài sản nợ chủ yếu của Ngân hàng thương mại. Tiền ký gửi bao gồm các loại: 2.1.1. Trên tài khoản tiền gửi thanh toán (tiền gửi không kỳ hạn): Là khoản tiền gửi mà người sử dụng có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào và Ngân hàng thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn có mức lãi suất thấp.
  12. Tiền gửi thanh toán được ký thác vào Ngân hàng để thực hiện các khoản chi trả về mua hàng hoá, dịch vụ... Đây không phải là tiền để dành mà là một bộ phận tiền đang chờ thanh toán. 2.1.2. Trên tài khoản tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi được uỷ thác vào Ngân hàng, khách hàng ký thác chỉ được rút khi đến hạn đã thoả thuận. Tuy nhiên, trên thực tế, do phải cạnh tranh để thu hút tiền gửi, các Ngân hàng thường cho phép khách hàng được rút ra trước hạn. Trong trườg hợp này, có thể có hai cách giải quyết: hoặc khách hàng được vay tiền của Ngân hàng, sau đó khi đến hạn rút tiền thì dùng số tiền và lãi nhận được để trả nợ và lãi vay Ngân hàng, hoặc là thoả thuận với Ngân hàng rút tiền ra trước hạn và nhận lãi suất thấp hơn (thường là lãi suất tiền gửi không kỳ hạn). Để tăng cường khả năng huy động nguồn này, các Ngân hàng thương mại thường đưa ra nhiều loại thời hạn khac snhau với các mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng được mọi nhu cầu các các loại khách hàng khác nhau. Thông thường có các loại kỳ hạn sau : 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, 2 năm, 3 năm, 5 năm. Với mỗi thời hạn, Ngân hàng áp dụng một mức lãi suất tương ứng, với nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. 2.1.3. Tiền gửi tiết kiệm: Tiền gửi tiết kiệm được coi là công cụ huy động vốn truyền thống của các Ngân hàng thương mại. ở các nước công nghiệp phát triển, trong các loại tiền gửi vào Ngân hàng thì tiền gửi tiết kiệm đứng vị trí thứ hai về mặt số lượng. Tiền gửi tiết kiệm là khoản để dành của cá nhân được gửi vào Ngân hàng nhằm hưởng lãi theo định kỳ. Nhằm thu hút được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, Ngân hàng thương mại đã đa dạng hoá các hình thức huy động tiết kiệm, bao gồm: - Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn (bao gồm nội và ngoại tệ). Người gửi có thể rút ra một phần hay toàn bộ theo yêu cầu. Tuy nhiên, khác với tiền gửi thanh toán, người gửi không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác.
  13. - Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn (bao gồm nội và ngoại tệ). Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn có mức lãi suất cao hơn sao với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Thông thường cũng có các kỳ hạn như 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm , 2 năm, 3 năm, 5 năm. - Tiền gửi tiết kiệm được đảm bảo bằng vàng: Trong nền kinh tế có lạm phát, dân chúng không thích gửi tiền nội tệ vào Ngân hàng vì sợ vốn và lãi không đảm bảo giá trị như họ giữ vàng. Chính vì lẽ đó hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm đảm bảo bằng vàng là một trong những biện pháp phần nào đáp ứng được yêu cầu đó. Người gửi tiết kiệm bảp đảm bằng vàng không những bảo toàn được giá trị tài sản của mình mà còn được nhận một phần lãi từ phía ngân hàng. - Tiết kiệm xây dựng nhà ở : đây là một loại tiết kiệm nhằm hỗ trợ người dân sớm có nhà, để rút ngắn thời gian chờ đợi đủ vốn, góp phần thực hiện chính sách về nhà ở của Đảng và Nhà nước. Do vậy cũng khuyến khích được phần nào người dân gửi tiền vào ngân hàng. Về mặt chuyên môn, ngân hàng đòi hỏi phải báo trước việc rút tiền gửi có kỳ hạn ít nhất là 7 ngày, nhưng trong thực tế sự giới hạn này thường không được áp dụng. Không có hình phạt nào ngoài hình thức giảm lãi suất được áp dụng cho các trường hợp rút tiền tiết kiệm trước hạn. 2.2. Các loại tài khoản tiền gửi phản ánh nghiệp vụ huy động vốn: Trong hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam , vốn giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Vốn không chỉ là cơ sở để Ngân hàng thương mại tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình, còn là phương tiện kinh doanh chính và còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng thương mại. Chính vì vậy các Ngân hàng thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng nguồn vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình. Khả năng mở rộng nguồn vốn từ tài khoản tiền gửi là vấn đề đang được mọi người làm công tác Ngân hàng đặc biệt quan tâm. Nhằm đa dạng hoá các loại nguồn vốn, khai thác nguồn vốn rẻ, chi phí thấp, mở rộng đầu tư vốn, đảm bảo an toàn và hiệu quả, nâng cao vị thế Ngân hàng trên thương trường.
  14. 2.2.1. Tài khoản tiền gửi không kỳ hạn (Tài khoản tiền gửi thanh toán). Đây là loại tài khoản dùng để hạch toán các nguồn tiền gửi vào Ngân hàng để thực hiện các khoản chi trả về hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế, cá nhân trong xã hội. Tài khoản tiền gửi thuộc loại này được thể hiện dưới hai hình thức: Tài khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế và tài khoản tiền gửi tư nhân. Tính chất tài khoản này chủ yếu dùng để tổ chức thực hiện thanh toán qua Ngân hàng thông qua lĩnh vực thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng trong phạm vi số dư có, thể hiện trên tài khoản. Khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng, giao cho Ngân hàng bảo quản và tiến hành về mặt kỹ thuật nghiệp vụ chi trả theo lệnh của khách hàng. Số dư trên tài khoản này cũng được Ngân hàng trả lãi. Ngân hàng được phép sử dụng số dư để làm nguồn vốn đầu tư ngắn hạn. Đây là một trong những nguồn vốn giá rẻ góp phần làm giảm chi phí đầu vào trong hạch toán kinh doanh Ngân hàng. Trong công tác kinh doanh, các Ngân hàng thương mại luôn tim mọi biện pháp khơi tăng nguồn vốn này, bằng cách cải tiến thủ tục mở tài khoản tiền gửi tư nhân, sử dụng công nghệ tổ chức thanh toán nhanh gọn chính xác an toàn. 2.2.2. Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn: Đây là những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của khách hàng được gửi vào Ngân hàng trong một thời gian được xác định trước khách hàng mở tài khoản tiền gửi này chủ yếu là các tổ chức kinh tế có khoản tiền tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng đến gửi vào một thời hạn nhất định để hưởng lãi cao hơn. Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn của khách hàng có sự thoả thuận của Ngân hàng và khách hàng về thời gian gửi. Khách hàng cam kết không rút tiền trước hạn. Nếu khách hàng rút tiền trước hạn sẽ không được hưởng lãi hoặc lãi suất thấp hơn rất nhiều so với lãi suất đã gửi.
  15. Khách hàng không được sử dụng số dư trên tài khoản này để thanh toán với bất kỳ một hình thức nào. Ngân hàng thương mại sử dụng số dư trên tài khoản này để làm nguồn vốn đầu tư ngắn, trung và dài hạn tuỳ theo thời hạn của từng tài khoản tiền gửi dài hay ngắn. 2.2.3. Tài khoản tiền gửi tiết kiệm: Là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân, được gửi vào tài khoản tại Ngân hàng phục vụ cho việc tích luỹ tiền tệ hoặc đầu tư tiết kiệm. Đã từ lâu tài khoản tiền tệ là công cụ huy động vốn chủ yếu của Ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận thu nhập bằng tiền của cá nhân chưa sử dụng, được tích luỹ gửi vào tài khoản tại Ngân hàng để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân và được hưởng lãi. Ngân hàng thường khuyến khích khách hàng gửi tiền tiết kiệm đều đặn và rút vào một thời điểm nhất định hay một mục đích xác định. Tài khoản tiền gửi tiết kiệm gồm hai loại: - Tài khoản tiền gửi không kỳ hạn. - Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn. a. Tài khoản tiền gửi tiền tệ không kỳ hạn: Đây là loại tài khoản tiết kiệm của khách hàng mà số tiền tích luỹ từ thu nhập bằng tiền của cá nhân không xác định số tiền gửi và ngày đến hạn. Thực chất đây là loại tài khoản tiền gửi tiết kiệm thông thường. Cá nhân có thể gửi và rút bất kể lúc nào, số tiền bao nhiêu cần cần định trước. Tuy nhiên, số dư tài khoản tiền gửi này thường không lớn nhưng có ưu điểm hơn tài khoản giao dịch thanh toán là số dư ít biến động. Đây cũng là nguồn vốn huy động giá rẻ, góp phần làm giảm chi phí đầu vào của Ngân hàng thương mại. Ngân hàng sử dụng nguồn vốn này đầu tư ngắn hạn làm tăng lợi nhuận cho Ngân hàng. b. Tài khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
  16. ở Việt Nam chúng ta, hiện nay tài khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn đang được sử dụng rộng rãi trong công tác huy động vốn của Ngân hàng và chủ yếu huy động trong tầng lớp dân cư. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là khoản tiền của các cá nhân tích luỹ được đem gửi vào tài khoản với thời hạn đã định trước nhằm mục đích tích luỹ và hưởng lãi suất cao hơn. Thời hạn áp dụng với tài khoản tiền gửi tiết kiệm thường từ 3 tháng đến 1 năm với lãi suất quy định theo từng thời hạn cụ thể. Về nguyên tắc, khách hàng đã gửi tiền vào tài khoản này sẽ không được rút ra trước hạn cả gốc và lãi. Tuy nhiên trong thực tế để tăng sức cạnh tranh trong thu hút tiền gửi của một số Ngân hàng vẫn cho phpe khách hàng được rút trước hạn, không được hưởng lãi hoặc lãi suất thấp hơn nhiều so với lãi suất gửi ban đầu. Đây là nguồn vốn tiềm tàng của Ngân hàng, cho nên các Ngân hàng thương mại luôn quan tâm cải tiến các tài khoản với phương thức huy động phong phú, đa dạng với mức lãi suất hợp lý vừa đảm bảo phục vụ mục đích kinh doanh của Ngân hàng và thoả mãn nhu cầu tốt nhất cho khách hàng gửi tiền. Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng, huy động vốn thông qua tài khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, giúp cho các nhà kinh doanh Ngân hàng hoạch định được các chiến lược huy động nguồn vốn đáp ứng nhu cầu mục đích sử dụng vốn trong từng giai đoạn, từng chương trình với mức lãi suất và thời hạn cụ thể, góp phần tích cực trong lĩnh vực tạo lợi nhuận cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 2.2.4. Tài khoản vãng lai: Là tài khoản nhận tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng, thông qua tài khoản này Ngân hàng cung cấp các dịch vụ thanh toán thu hộ, chi hội, dịch vụ rút tiền, chuyển tiền hộ khách hàng... Các tài khoản vãng lai luôn duy trì một số dư, trừ khi việc rút tiền có sự thoả thuận trước về giới hạn số tiền mà khác hàng được rút ra từ tài khoản thấu chi mặc dù khoản thấu chi này có thể được khách hàng dùng tới hay không.
  17. Các chi phí cùa Ngân hàng có thể được tính khi tài khoản hoạt động, dựa trên cơ sở số lượng giao dịch thông qua tài khoản. Nhưng thực tế hầu hết các Ngân hàng đưa ra loại tài khoản vãng lai trên số dư có. Những người có tài khoản vãng lai được sử dụng hầu hết các dịch vụ của Ngân hàng. 2.2.5. Tài khoản kỳ phiếu, trái phiếu: ở Việt Nam, hình thức phát hành các chứng chỉ tiền gửi đó chính là phát hành kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích. Được hạch toán thông qua tài khoản tiền gửi có kỳ hạn của khách hàng . Tài khoản kỳ phiếu chứng chỉ tiền gửi được mở ra trong các đợt huy động vốn mang tính chất định kỳ, khi nào có nhu cầu vốn đột xuất, hay khi có chương trình sử dụng vốn vào một mục đích nào đó. Lãi suất trên tài khoản huy động vốn này thường cao hơn lãi suất các nguồn vốn huy động khác và không được duy trì thường xuyên. Tuy mới được sử dụng trong ít năm gần đây, song hình thức huy động vốn này ngày càng phát huy vai trò trong việc tạo vốn của các Ngân hàng. Tài khoản tiền gửi trái phiếu: Đây là tài khoản dùng để hạch toán số tiền vay nợ dài hạn trên thị trường vốn do các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn. Trái phiếu được phát hành với mức lãi suất và thời hạn cố định. Mức lãi suất này được xác định theo mức lãi suất trên thị trường vốn tại các thời điểm phát hành. Huy động vốn thông qua tài khoản tiền gửi trái phiếu đã giúp các Ngân hàng thương mại chủ động trong việc huy động vốn để thực hiện các dự án đầu tư trung, dài hạn. Nguồn vốn này mang tính ổn định cao về thời gian sử dụng và lãi suất đầu tư. III. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng huy động vốn. 1. Chính sách lãi suất cạnh tranh: Lãi suất là yếu tố hàng đầu mà người gửi tiền quan tâm đến vì vậy muốn thu hút được vốn huy động, các Ngân hàng phải đưa ra các mức lãi suất kích thích trả chongười gửi tiền thoả đáng, nếu không nói là tốt hơn các Ngân hàng khác. Đặc biệt
  18. trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ dù cho những khác biệt tương đối nhro về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy người gửi tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ một công cụ mà họ đang có sang tiết kiệm hoặc đầu tư hay từ một tổ chức tín dụng này sang một Công ty hoặc một tổ chức tín dụng khác. Tuy vậy cạnh tranh bằng lãi suất là cạnh tranh có giới hạn. Một Ngân hàng nếu không bị khống chế bởi lãi suất huy động “trần” và lãi suất cho vay “sàn” của NHTW, thì cũng bị khống chế bởi chính lợi nhuận và sự tồn tại của Ngân hàng. 2. Các dịch vụ do Ngân hàng cung ứng: Để phát huy được hết khả năng của các khoản tiền gửi, Ngân hàng đưa ra một phạm vi dịch vụ cho vay rộng lớn cùng với sự phát triển không ngừng mạng lưới cung cấp các dịch vụ và nới rộng các chức năng khác của mình để đáp ứng các nhu càu dịch vụ phụ trợ của khách hàng chẳng hạn dịch vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu của khách hàng, ký phát thư bảo lãnh, chuyển đổi tiền tệ từ loại này sang loại khác, bố trí thời gian tiếp khác phù hợp.... Hoạt động Ngân hàng là kinh doanh kiếm lời và cạnh tranh ngày càng tăng giữa các Ngân hàng với nhau. Bởi cạnh tranh tăng lên, nên hoạt động Ngân hàng vấp phải khó khăn ngày càng nhiều trong việc tìm kiếm lợi nhuận. Nguyên nhân đó khiến các Ngân hàng không ngừng tìm tòi những hình thức dịch vụ mới nhằm mở rộng kinh doanh. Một Ngân hàng có dịch vụ tốt, đa dạng hiển nhiên có nhiều lợi thế hơn các Ngân hàng có các dịch vụ hạn chế. Khác với cạnh tranh về lãi suất, cạnh tranh về dịch vụ Ngân hàng là cạnh tranh không có giới hạn. Trong nền kinh tế hiện đại, các Ngân hàng cạnh tranh với nhau chủ yếu bằng con đường này. 3. Chính cách khách hàng: Trong công tác khách hàng, Ngân hàng thường chia khách hàng ra làm nhiều loại để có cách thức đối xử phù hợp. Với những khách hàng lâu năm giao dịch thường xuyên, có số dư tiền gửi lớn, được Ngân hàng tín nhiệm, thì Ngân hàng sẽ có một chính sách ưu đãi về lãi suất, kỳ hạn củamón vay, cũng như thực hiện việc xét thưởng đối tác, có như vậy Ngân hàng mới có khả năng thu hút khách hàng và tăng nhanh khả năng hoạt động vốn của mình. 4. Công nghệ Ngân hàng.
  19. Trong cạnh tranh, các Ngân hàng không ngừng đổi mới công nghệ, bởi lẽ, các dịch vụ, đặc biệt các dịch vụ về chuyên môn Ngân hàng sẽ được đa dạng, chất lượng ngày càng tôt shơn, đảm bảo các loại dịch vụ được cung ứng nhanh chóng, an toàn và hiệu quả. Tất nhiên với công nghệ Ngân hàng tiên tiến sẽ giúp Ngân hàng phục vụ được khách hàng một cách tốt hơn, chỗ đứng của Ngân hàng đó trên thị trường sẽ vững vàng hơn thì sẽ có nhiều khách hàng biến đến Ngân hàng đó (công nghệ cao có khả năng giúp cho Ngân hàng đó có khả năng thanh toán nhanh, thủ tục ít rườm rà). Điều này cũng làm cho khả năng huy động vốn của Ngân hàng cũng dễ dàng hưon. 5. Chính sách cán bộ: Một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có tinh thần trách nhiệm, được bố trí công việc phù hợp với năng lực, đoàn kết thân thiện, luôn luôn là nền tảng của sự thành công. Nói chung, người ta đều mong muốn giao dịch kinh doanh với một hãng bề thế với các nhân viên dễ mến lịch sủ và có kiến thức. 6. Chính sách tiếp thị: Là sản phẩm của cạnh tranh và hệ quả của sự nghiên cứu tìm tòi các dịch vụ mới - các Ngân hàng trơ rnên quan tâm nhiều hơn đến lĩnh vực tiếp thị (Marketing). Tiếp thị không đơn giản chỉ là vấn đề bán ra một sản phẩm nào đó, mà đây là cả một quá trình phát hiện, tìm kiếm khách hàng để tạo ra những sản phẩm thích hợp cho họ, thuyết phục họ “mua” chúng thay vào việc “mua” những sản phẩm có chức năng tương tự do người khác cung cấp. Một trong những biện pháp thuyết phục các Ngân hàng hiện đang làm đó là quảng cáo. Trong hoạt động Ngân hàng hiện đại, quảng cáo được chú ý và có một chi phí nhất định dành cho công tác này. 7. Địa điểm: Đây cũng là một yếu tố hết sức quan trọng ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của một Ngân hàng thương mại. Một Ngân hàng nằm ở trung tâm thương mại của thành phố,có vị trí địa lý tốt và an ntoàn cho khách hàng của mình sẽ có khả năng thu hút được nhiều khách hàng hơn. 8. Uy tín hoặc mức độ thâm niên của một Ngân hàng.
  20. IV. Vai trò của công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước: Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp cho nền kinh tế, trong khi nguồn vốn của Ngân hàng thương mại chủ yếu là nguồn huy động vốn. Vì vậy có thể nói công tác huy động vốn có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là cơ sở để Ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình. Không những thế, công tác huy động vốn tác động việc thu hẹp hay mở rộng khối lượng cấp tín dụng của Ngân hàng cho nền kinh tế. Theo giác độ không gian, một Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn từ trong nước và nước ngoài. ý kiến hiện nay của các nhà kinh tế là : “Đối với Việt Nam, nguồn vốn nước ngoài là rất quan trọng, nguồn vốn trong nước đóng vai trò chủ yếu. Thật vậy, trong giai đoạn bước đầu xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, khôn gthể không cần những cú “hích” từ bên ngoài. Bằng cách liên doanh liên kết mở văn phòng đại diện ở nước ngoài, phát hành trái phiếu ra nước ngoài... Các Ngân hàng có thể thu hút vốn từ các Ngân hàng, các tổ chức tín dụng quốc tế... góp phần đẩy mạnh đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên cũng cần phải quán triệt rằng nguồn vốn trong nước là chủ yếu cần được khai thác kịp thời. Nguồn trong nước vừa là tiền đề vừa là điều kiện để có thể chấp nhận nguồn vốn từ nước ngoài. Mục tiêu của giai đoạn 1991 - 2000 đối với nước ta là phải tăng trưởng kinh tế nó đòi hỏi nhiều yếu tố nhân lực, tài lực, tài nguyên... trong đó nhân lực và tài lực có ý nghĩa quyết định. Theo kinh nghiệm của các nước, 2 yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế là vốn và con người trong đó riêng yếu tố vốn góp vào sự phát triển là từ 30 - 50%. Để đạt được GDP năm 2000 so với năm 1990 gấp 2 đến 2,5 lần thì nền kinh tế cần có tốc độ tăng trưởng từ 8 - 10%/năm. Như vậy theo tính toán của Bộ Tài chính trong chính sách tài chính quốc gia giai đoạn 1997 - 2000 đất nước cần 40 đến 41 tỷ USD. Trong đó khoảng 50% là vốn huy động từ trong nước và 50% là huy động từ trong nước và 50% là huy động từ nước ngoài.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0