intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng CTVĐND của Đảng bộ tỉnh Cà Mau thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:108

59
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong lịch sử dân tộc, giai cấp nông dân Việt Nam có vai trò rất quan trọng. Nông dân là lực lượng hùng hậu, chủ yếu trên mặt trận chống đế quốc, phong kiến, giành chính quyền và giữ vững nền độc lập, tự do của dân tộc. Họ là những người đầu tiên khai phá đất đai, mở mang bờ cõi, lập nên non sông đất nước Việt Nam hôm nay. Từ xa xưa, các triều đại phong kiến đã nhìn thấy vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân. Vì thế, các triều...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng CTVĐND của Đảng bộ tỉnh Cà Mau thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước

  1. LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng CTVĐND của Đảng bộ tỉnh Cà Mau thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong lịch sử dân tộc, giai cấp nông dân Việt Nam có vai trò rất quan trọng. Nông dân là lực lượng hùng hậu, chủ yếu trên mặt trận chống đế quốc, phong kiến, giành chính quyền và giữ vững nền độc lập, tự do của dân tộc. Họ là những người đầu tiên khai phá đất đai, mở mang bờ cõi, lập nên non sông đất nước Việt Nam hôm nay. Từ xa xưa, các triều đại phong kiến đã nhìn thấy vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân. Vì thế, các triều đại phong kiến đã có nhiều biện pháp thu phục, lôi cuốn nông dân. Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, khi xác định lực lượng của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ "công nông là gốc của cách mạng". Người đánh giá rất cao vai trò của nông dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn luôn coi trọng công tác vận động nông dân. Đảng ta nhận thức rằng nước ta là nước nông nghiệp, tỷ lệ nông dân chiếm phần lớn trong dân cư, làm tốt công tác vận động nông dân có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về công tác dân vận, trong đó có công tác vận động nông dân, Đảng bộ Cà Mau ngay từ khi mới thành lập đã chú trọng vận động, thu hút các tầng lớp nông dân tham gia các phong trào cách mạng. Trải qua các cuộc kháng chiến chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc, nông dân Cà Mau cùng với nhân dân cả nước đã đóng góp một phần rất lớn công sức của mình vào thắng lợi chung của dân tộc. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, đặc biệt là sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn, công tác vận động nông dân (CTVĐND) của Đảng bộ tỉnh Cà Mau có những tiến bộ nhất định. Kết quả là đã thu hút nông dân vào công cuộc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng trên địa bàn tỉnh. Song, bên cạnh những thành tựu đạt được, CTVĐND của Đảng bộ tỉnh Cà Mau trong thời gian qua, nhất là những năm gần đây còn những hạn chế, khuyết
  3. điểm. Nội dung, hình thức và phương pháp vận động nông dân còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới. Không ít cấp ủy đảng, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của nông dân, nông nghiệp, nông thôn, chưa thật sự coi trọng CTVĐND. Điều này làm cho phong trào nông dân của tỉnh phát triển chưa mạnh, đời sống nông dân còn nhiều khó khăn, chậm được khắc phục, tình hình nông thôn ở Cà Mau đang có những diễn biến phức tạp. Một số nơi lòng tin của nông dân đối với tổ chức đảng, chính quyền giảm sút nghiêm trọng. Trước thực trạng ấy, để nâng cao đời sống nông dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, đòi hỏi Đảng bộ tỉnh Cà Mau cần nhanh chóng khắc phục những hạn chế trong CTVĐND. Chính vì vậy, việc phân tích đúng tình hình, luận giải những vấn đề bức xúc đang đặt ra trong nông thôn Cà Mau, đề ra những giải pháp có tính khả thi nhằm góp phần nâng cao chất lượng CTVĐND của Đảng bộ tỉnh Cà Mau thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là rất cần thiết và cấp bách. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề nông dân và CTVĐND đã thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến vấn đề nông dân và CTVĐND. Tuy nhiên, tùy từng góc độ và phạm vi nghiên cứu mà các công trình khoa học có những cách tiếp cận, giải quyết khác nhau. Xoay quanh vấn đề nông dân và CTVĐND có một số công trình, bài viết đáng chú ý sau: - "Công tác vận động nông dân của Đảng bộ tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ khoa học Lịch sử của Giang Văn Phục, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000. - "Một số vấn đề về công tác vận động nông dân ở nước ta hiện nay" của Ban Dân vận Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
  4. - "Công tác vận động nông dân của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước", Luận án tiến sĩ Lịch sử của Lê Kim Việt, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002. - "Nâng cao chất lượng công tác vận động nông dân của các Đảng bộ xã ở tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ khoa học Lịch sử của Phạm Đức Hóa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003. - "Nông nghiệp và nông thôn trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hợp tác hóa, dân chủ hóa" của Vũ Oanh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. - "Giai cấp nông dân là lực lượng hùng hậu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn" của Nguyễn Đức Triều, Báo Nhân dân, ngày 9-10-2000. - "Hội Nông dân với nhà nông" của Mạnh Hà, Báo Hà Nội mới, ngày 1-8- 2001. - "Chính sách và giải pháp cho nông dân, nông nghiệp và nông thôn hiện nay" của Nguyễn Thanh Bạch, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, 1-1999. - "Thực trạng và giải pháp xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn hiện nay" của Nguyễn Sinh Cúc, Tạp chí Cộng sản, số 25-2002. - "Một số vấn đề về lao động và việc làm trong nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay" của Phạm Xuân Dũng, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 6-2000. Ngoài những công trình, bài viết trên còn có một số cô ng trình, bài viết liên quan đến nông dân và CTVĐND. Nhìn chung, các công trình, các bài viết nêu trên đề cập đến các khía cạnh khác nhau, với mức độ khác nhau có liên quan đến CTVĐND. Nhiều công trình đã giải quyết tương đối toàn diện vấn đề lý luận trong CTVĐND hoặc nêu lên thực trạng CTVĐND trên phạm vi của một địa phương. Song, chưa có công trình nào nghiên cứu về CTVĐND của Đảng bộ tỉnh Cà Mau thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích
  5. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát thực tế, luận văn đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao chất lượng CTVĐND của Đảng bộ tỉnh Cà Mau thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. 3.2. Nhiệm vụ - Làm rõ cơ sở lý luận, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về vấn đề nông dân và CTVĐND. - Đánh giá đúng thực trạng nông dân và CTVĐND của Đảng bộ tỉnh Cà Mau, tìm ra một số nguyên nhân của thực trạng ấy. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng CTVĐND của Đảng bộ tỉnh Cà Mau thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. 3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là CTVĐND của Đảng bộ tỉnh Cà Mau, mà trực tiếp là của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp ở Cà Mau. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn bao gồm các chủ trương, nghị quyết của Đảng bộ tỉnh và tổ chức đảng các cấp trong CTVĐND từ khi đổi mới đất nước đến nay và từ nay đến năm 2010. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận của luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng ta và các Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Cà Mau về CTVĐND. - Cơ sở thực tiễn của luận văn là tình hình nông dân, nông thôn và thực trạng CTVĐND của Đảng bộ tỉnh Cà Mau trong thời gian qua. Đồng thời, luận văn cũng căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Cà Mau trong công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của tỉnh. - Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn là kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, kết hợp chặt chẽ phương pháp lịch sử với lôgíc, phân tích và tổng hợp. Đồng thời luận văn cũng sử dụng phương pháp khảo sát thực tế, xử lý số liệu thống kê. 5. Đóng góp mới của luận văn
  6. Qua nghiên cứu, luận văn làm rõ bối cảnh, điều kiện và đặc điểm của CTVĐND Cà Mau trước yêu cầu nhiệm vụ mới, chỉ ra những căn cứ khoa học- thực tiễn của việc nâng cao chất lượng CTVĐND của Đảng bộ tỉnh Cà Mau trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. 6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Ban dân vận, Hội nông dân các cấp ở tỉnh Cà Mau trong CTVĐND. Đồng thời có thể phục vụ cho việc học tập, giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện của tỉnh Cà Mau. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
  7. Chương 1 Công tác vận động nông dân của Đảng bộ tỉnh Cà Mau - Những vấn đề lý luận và thực tiễn 1.1. Nông dân và công tác vận động nông dân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Cà Mau 1.1.1. Vai trò và đặc điểm của nông dân Cà Mau 1.1.1.1. Vai trò của nông dân Cà Mau - Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, nông dân Cà Mau là lực lượng chủ lực quân trên mặt trận chống xâm lược, bảo vệ quê hương, là chỗ dựa tin cậy của Đảng và chính quyền địa phương. Tỉnh Cà Mau - Vùng đất cuối cùng cực Nam của Tổ quốc, là nơi từng có vai trò quan trọng trong những cuộc đấu tranh liên tục chống thù trong giặc ngoài. Bao thế hệ nông dân đã từng ủng hộ và tham gia hùng binh Tây Sơn, nghĩa quân Nguyễn Trung Trực, Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự ngày xưa, cho đến du kích Tân Hưng tây, khởi nghĩa Hòn Khoai, cảm tử quân bảo vệ Mặt trận Tân Hưng và đánh tàu Tây trên kinh xáng Mương Điều... Tháng 1 năm 1930, chi bộ đảng đầu tiên được thành lập ở thị trấn Cà Mau (thuộc An Nam Cộng sản Đảng). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông dân Cà Mau đã hòa nhập vào phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của các lực lượng yêu nước khác, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc. Trong thời kỳ chống thực dân Pháp, cũng như trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là một căn cứ địa quan trọng của vùng Tây Nam bộ. Các cơ quan lãnh đạo của khu Tây Nam bộ, của Trung ương và các khu, tỉnh bạn gắn bó với nơi đây cùng chung sức bảo tồn, xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng. Nhiều cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước như đồng chí Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt... đã từng hoạt động ở mảnh đất thân thương này. Nông dân Cà Mau vốn có truyền thống quật khởi, được tôi luyện trong quá trình chiến đấu gian khổ, bền bỉ do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
  8. Minh vĩ đại lãnh đạo. Nối chí cha ông, phát huy truyền thống yêu nước, nông dân Cà Mau đã góp biết bao sức người, sức của cung ứng cho các chiến trường. Hình ảnh những người mẹ, chị, vợ hàng ngày gói bánh tét, bánh dừa... chở trên những con xuồng ba lá tiếp tế cho những anh bộ đội đã phần nào nói lên điều đó. Trong kháng chiến chống Mỹ, sự hy sinh của người dân Cà Mau thật to lớn. Sự hy sinh đó được nhà văn Nguyễn Tuân cô đúc bằng hình ảnh: Không ngày nào không có những giọt máu hòa vào những lòng kênh nước mặn. Đặc biệt Cà Mau là nơi có phong trào du kích rộng lớn, đã xây dựng các đơn vị chủ lực chiến đấu cho miền Tây Nam bộ, góp phần tạo nên những "quả đấm" vũ trang, thúc đẩy phong trào chính trị, binh vận... dồn địch vào thế bất lợi. Cũng như thực dân Pháp, Mỹ - Diệm biết rõ Cà Mau là vùng đất cách mạng lâu đời. Dân Cà Mau là dân Cụ Hồ, đi theo Đảng và sống chết vì lý tưởng hòa bình, thống nhất đất nước, giải phóng dân tộc. Cho nên, vừa ký Hiệp định Giơnevơ chưa ráo mực, chúng đã tăng cường lực lượng đánh vào vùng giải phóng Cà Mau và tiến hành nhiều chiến dịch lớn như "Thoại Ngọc Hầu", "Trương Tấn Bửu"... Tàn bạo nhất là chúng thực hiện Luật 10/59 "đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật", trên thực tế là chống cộng, đánh vào nhân dân và những người kháng chiến. Đồng thời, chúng còn thành lập các tổ chức phản động để kìm dân và đàn áp phong trào cách mạng. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, quân dân Cà Mau phát huy truyền thống quật khởi đứng lên dùng bào lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành thắng lợi to lớn trong phong trào đồng khởi của tỉnh nhà vào cuối năm 1959. Cùng với lực lượng vũ trang của miền, lực lượng vũ trang địa phương của tỉnh, trong đó tuyệt đại đa số là con em nông dân đã góp sức làm nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công mùa xuân Mậu Thân 1968 và chiến thắng lịch sử 30 tháng 4 năm 1975. Thắng lợi của đại thắng mùa xuân năm 1975 là thắng lợi vĩ đại của toàn dân tộc, trong đó có sự đóng góp to lớn của Đảng bộ và quân dân Cà Mau. Đó là thắng lợi của ý chí, niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, thắng lợi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và sự
  9. thông minh sáng tạo, lòng dũng cảm phi thường của Đảng bộ và quân dân Cà Mau, trong đó nông dân Cà Mau có vai trò quan trọng. - Trong công cuộc đổi mới và trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nông dân Cà Mau là lực lượng quan trọng xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nông dân Cà Mau từ bao đời nay không những kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống ngoại xâm, viết nên những trang sử oanh liệt của dân tộc, mà còn cần cù, kiên nhẫn, sáng tạo trong lao động sản xuất. Họ không chỉ có vai trò quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, mà còn đóng góp rất to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước cũng như trong quá trình thực hiện CNH, HĐH đất nước hiện nay. Trong những năm đổi mới, nông dân Cà Mau đã ra sức khắc phục hậu quả của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp và mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ đã tỏ ra lạc hậu với sự phát triển của xã hội. Có thể nói chính sức mạnh của trí tuệ, của sự sáng tạo và tính năng động của nông dân Việt Nam nói chung, trong đó có nông dân Cà Mau trong việc thử nghiệm mô hình kinh tế và cách quản lý mới trong nông nghiệp đã tạo tiền đề góp phần cho việc đổi mới các quyết sách có tính cách mạng của Đảng và Nhà nước, của các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương. Trong những năm qua, kinh tế nông nghiệp, nông thôn đóng góp lớn cho nền kinh tế tỉnh. Xuất khẩu gạo, đặc biệt là thủy hải sản chiếm phần rất lớn trong cơ cấu kinh tế. Đó là tiền đề quan trọng về vốn cho CNH, HĐH. Ngoài ra, nông nghiệp, nông thôn và nông dân còn là thị trường lớn tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp và ứng dụng khoa học - công nghệ. Nông dân là lực lượng xung kích trên mặt trận kinh tế, tiến công vào khoa học kỹ thuật, vào đói nghèo và lạc hậu. Với tinh thần cần cù, chịu khó và sáng tạo trong lao động, nông dân Cà Mau đã hăng hái đi đầu trong sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần to lớn vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Kinh tế nông nghiệp nông thôn chiếm hơn 70% GDP của toàn tỉnh. Năm 2004, sản lượng lương thực của tỉnh đạt 400.000 tấn, giảm 450.000 tấn so với năm 2000. Sản lượng giảm là do chuyển phần lớn diện tích trồng lúa sang nuôi tôm. Tuy sản lượng lương thực có
  10. giảm nhưng vẫn đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm cho tỉnh. Thủy hải sản năm 2004 đạt 241.000 tấn, đóng góp quan trọng vào GDP của tỉnh. Nông dân là lực lượng đi đầu trong phong trào "xóa đói giảm nghèo". Với tinh thần tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, nhiều hộ khá, giàu đã giúp đỡ hộ nghèo, bày cách làm ăn, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi. Nhiều người còn cho hộ nghèo mượn vốn, thậm chí cho mượn đất canh tác. Chính vì thế những hộ nông dân trước kia vốn khó khăn, nghèo túng nay đã vươn lên thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh: năm 1997 là 27%, năm 2001 là 12%, đến nay còn 8% (tính theo tiêu chí cũ). Tỷ lệ hộ dân có nhà ở kiên cố, bán kiên cố trên 50%. Những mái nhà tranh, nhà lá đang dần được thay thế bằng những nhà ngói khang trang, làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt nông thôn Cà Mau. Phong trào "đền ơn đáp nghĩa" cũng được nông dân tham gia mạnh mẽ. Đánh giá kết quả phong trào "đền ơn đáp nghĩa" trong thời gian qua, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ XII khẳng định: Nông dân cùng với các giai tầng khác trong xã hội ở Cà Mau đã đóng góp gần 15 tỷ đồng, cùng với nguồn đầu tư của Nhà nước xây dựng trên 2.200 ngôi nhà tình nghĩa, 365 hộ được cất nhà tình thương, góp phần giải quyết khó khăn về nhà ở, chăm sóc, phụng dưỡng chu đáo hơn đời sống thương binh, gia đình liệt sĩ, mẹ Việt Nam anh hùng và người có công với nước [11, tr.26]. Nông dân Cà Mau là lực lượng quan trọng góp phần giữ vững và bảo tồn những giá trị văn hóa dân tộc. Những điệu hò, điệu lý, đặc biệt là đờn ca tài tử, hát vọng cổ, cải lương được họ sáng tạo, giữ gìn và không ngừng phát huy loại hình nghệ thuật này. Có thể nói không ai ở Cà Mau, nhất là những người nông dân mà không biết hát vọng cổ. Họ là những nghệ nhân dân gian giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Nam bộ, góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam. Trong điều kiện tình hình chính trị trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, nhất là sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô sụp đổ, khi các thế lực thù địch đang tìm mọi cách chống phá cách mạng nước ta, tình hình chính trị ở nông thôn Cà Mau vẫn ổn định. Nông dân vẫn là lực lượng tin cậy của đảng bộ, chính quyền trong
  11. tỉnh. Nông dân vẫn là lực lượng to lớn chủ yếu tham gia xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ an ninh Tổ quốc. Nhiều phong trào của thanh niên nông thôn tham gia xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, tổ tự quản, lực lượng dân phòng, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội... đã cùng bà con nông dân xây dựng xóm, ấp, khu dân cư an toàn, giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn nông thôn. Những thành tựu trong phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và những đóng góp to lớn của nông dân trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong những năm đổi mới đã góp phần đưa Cà Mau cùng với cả nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị và không ngừng phát triển về kinh tế. Bước sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, giai cấp nông dân Cà Mau vẫn giữ vai trò quan trọng. Có tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đạt kết quả thì tỉnh mới có điều kiện để thúc đẩy CNH, HĐH trên các lĩnh vực khác. Tình hình nông thôn Cà Mau có ổn định và phát triển thì kinh tế - xã hội của tỉnh mới phát triển ổn định. Trong thời kỳ CNH, HĐH từ nay đến năm 2010, nông dân vẫn là lực lượng lao động đông đảo, cung cấp nguồn lực lao động cho các ngành kinh tế khác. Nông nghiệp, nông thôn vẫn là thị trường quan trọng tiêu thụ sản phẩm công nghiệp, là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm cho nhân dân trong tỉnh. 1.1.1.2. Đặc điểm của nông dân Cà Mau Cũng như nông dân Nam bộ, nông dân Cà Mau vừa có đặc điểm chung của nông dân Việt Nam, vừa có những nét riêng. Do tính chất, đặc điểm về địa lý tự nhiên, do phong tục tập quán và những giá trị văn hóa riêng, có thể khái quát một số đặc điểm cơ bản của nông dân Cà Mau như sau: - Nông dân Cà Mau có tinh thần cần cù, chịu khó trong lao động, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống. Cũng như nông dân ở nhiều nơi, nông dân Cà Mau cần cù, chịu khó trong lao động. Thiên nhiên Cà Mau có nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn, khắc nghiệt. Điều này đã hình thành ở người nông dân tính cần cù, chịu khó, chịu
  12. khổ. Họ mong muốn có cuộc sống yên bình, đủ ăn, đủ mặc, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Trước khi cách mạng thành công, ước mơ giản dị đó của người nông dân Cà Mau cũng không có được. Dưới sự áp bức, bóc lột của thực dân và địa chủ, người dân Cà Mau, hầu hết là bần cố nông phải sống cuộc đời tối tăm, dốt nát. Sống trên đồng ruộng trù phú, màu mỡ, lao động đầu tắt mặt tối mà vẫn thiếu ăn, thiếu mặc. Biết bao nhiêu người đã phải chết dần, chết mòn, chết oan uổng trong đồn điền của địa chủ thực dân, phong kiến. Thiếu ăn, người tá điền phải đi vay, vay rồi không có tiền trả cho chúng phải làm tôi mọi suốt đời hoặc phải bán vợ, đợ con. Bệnh không có tiền mua thuốc uống, chết không có đất chôn. Cuộc sống quanh năm thật cơ cực, không ra kiếp người. Cà Mau là vùng đất trẻ mới được mở mang khai khẩn cách đây khoảng trên 300 năm. Vào thế kỷ XVII, XVIII về cơ bản, đây là vùng đất còn hoang dã, sình lầy, với rừng thiêng nước mặn, cá sấu, muỗi mòng, rắn rết... Khung cảnh thiên nhiên cây cối sầm uất, nguy hiểm, là môi trường vô cùng lạ lùng, bí hiểm và đầy đe dọa, gây ra nỗi khiếp sợ cho những lưu dân mới đến đây lập nghiệp: "Đến đây đất nước lạ lùng (Nghe) con chim kêu cũng phải sợ, (thấy) con cá vẫy vùng cũng phải kinh". Hoặc: Chèo ghe sợ sấu cắn chưn Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma". Đối diện với một môi trường thiên nhiên vừa có nhiều thuận lợi, đất đai màu mỡ, vừa có nhiều khó khăn như vậy, những lớp lưu dân đầu tiên đã phải đổ nhiều mồ hôi và cả máu để khai khẩn đất đai, xây dựng và bảo vệ xóm làng. Trong cuộc chống chọi với thiên nhiên đầy gian khổ, nguy nan, họ đã đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, từ đó tình hữu ái giai cấp giữa những người lao động đã hình thành, tạo nhân tố bền vững của tình đoàn kết, của cộng đồng các dân tộc ở Cà Mau trong các thời kỳ lịch sử. - Nông dân Cà Mau có lòng yêu nước nồng nàn, gắn bó với Đảng, với Bác Hồ:
  13. Giai cấp nông dân Việt Nam nói chung, đặc biệt là giai cấp nông dân Cà Mau có lòng yêu nước nồng nàn. Họ là những người gắn bó với làng xóm, quê hương sâu sắc, gắn bó với mảnh đất mà cha ông đã đổ bao mồ hôi, cả xương máu để khai phá, gìn giữ. Những lưu dân phiêu bạt về đất Cà Mau tuy nghèo khổ, nhưng rất dũng cảm, có nghị lực, nghĩa khí và lòng tự tin, không bao giờ khuất phục trước cường quyền, luôn căm thù bọn áp bức, bóc lột, bọn cướp nước cũng như bọn bán nước và cương quyết đấu tranh cho chính nghĩa, cho độc lập tự do. Người Cà Mau, chủ yếu là nông dân mang ý chí quật khởi và tinh thần thượng võ của dân tộc, là những con người chân thành, trọng nghĩa, đầy lòng nhân ái. Những phẩm chất tốt đẹp mang tính truyền thống này đã được kế thừa và phát huy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chính vì lẽ đó mà người dân Cà Mau từ trước đến nay không những cần cù, kiên nhẫn, sáng tạo trong lao động sản xuất, dũng cảm chinh phục thiên nhiên mà còn kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống áp bức, bóc lột, chống ngoại xâm, viết lên những trang sử oai hùng. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, Đảng đã giải phóng cho nông dân Cà Mau khỏi lầm than, áp bức của đế quốc và phong kiến. Nông dân Cà Mau có được đời sống ấm no như hôm nay là nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ. Vì vậy, nông Cà Mau hết lòng, hết dạ trung thành với sự nghiệp cách mạng, xả thân chiến đấu, lập nên biết bao kỳ tích anh hùng hơn 70 năm qua, góp phần cùng cả nước giành độc lập, tự do và tiến lên xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu đẹp, văn minh. - Nông dân Cà Mau có tâm hồn phóng khoáng, trọng tình nghĩa, có tư duy kinh tế thị trường năng động, dám nghĩ, dám làm: Do đặc điểm địa lý, kết cấu làng xã của vùng nông thôn Nam bộ mà nông dân Cà Mau có điểm khác so với nông dân Bắc bộ và Trung bộ. ở Bắc bộ, nông dân sống theo kết cấu làng xã bền chặt, sống trong luỹ tre làng, cộng với thiên nhiên khắc nghiệt, đất đai chật hẹp nên nông dân Bắc bộ có tâm lý "tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn", tiết kiệm, có tư tưởng khép kín và tính cố kết làng xã khá bền
  14. chặt. Khác với nông dân Bắc bộ, Trung bộ, nông dân Nam bộ nói chung, đặc biệt là nông dân Cà Mau, sống trong điều kiện thiên nhiên có nhiều thuận lợi, đất đai màu mỡ, tôm cá dồi dào, họ sống theo sông ngòi, kênh rạch, với môi trường mênh mông sông nước nên họ có tâm hồn khoáng đạt, "chịu chơi". Khi có khách đến nhà họ sẵn sàng tiếp đãi từ sáng đến tối mà quên thời gian, thể hiện đúng phong cách "đã làm thì làm hết mình, đã chơi là chơi đến sáng". Điều này cũng có tính lịch sử của nó. Bởi vì từ đầu thế kỷ XVII, nhiều dân nghèo người Việt ở Bắc bộ và Trung bộ, phần lớn là nông dân vì không chịu nổi ách áp bức, bóc lột tàn bạo và những cuộc chiến tranh dai dẳng của hai tập đoàn phong kiến Trịnh, Nguyễn đã phải rời bỏ quê cha đất tổ, tiến dần về phương Nam tìm đường sinh sống. Họ đã đến vùng đất Nam bộ lập các cộng đồng dân cư ngày nay. Chính điều đó cộng với sự ưu đãi của thiên nhiên làm cho họ là những người thích tự do, không khuất phục trước cường quyền nhưng cũng rất trọng tình, trọng nghĩa khí. Do đất rộng, lại nhiều kênh rạch, nông dân Cà Mau sống phân rải và thưa thớt. Vì vậy, mức độ cố kết cộng đồng dân cư lỏng lẻo, phong tục tập quán không nặng nề, ràng buộc như nông dân ở Bắc hay Trung bộ. Họ yêu thích tính cách tự do, mộc mạc. Họ không thích màu mè, chải chuốt trong lời ăn tiếng nói, không câu nệ, không thích những hình thức lễ nghi ràng buộc. Đây là đặc điểm đáng chú ý khi tiến hành CTVĐND. Đặc điểm này đòi hỏi cán bộ làm CTVĐND phải vất vả hơn những nơi khác, tần suất tiếp xúc với nông dân phải nhiều hơn, phải lăn lộn với phong trào, phải hòa đồng, cởi mở với bà con nông dân. Đồng thời do tính cách tự do, không thích câu nệ của họ, nên phương pháp vận động nông dân không được áp đặt, dùng mệnh lệnh đối với nông dân, mà phải gợi mở, vận động, thuyết phục họ. Trong sinh hoạt văn hóa, người dân Cà Mau có tâm hồn bay bổng, sáng tác những lời ca, tiếng hát, hò, vè ca ngợi lao động, chống thiên tai, thú dữ và ngoại xâm... như hò đối đáp, cổ nhạc... tiêu biểu là bản vọng cổ của cụ Cao Văn Lầu thuộc lớp cư dân đến vùng đất trẻ bán đảo Cà Mau đầu thế kỷ XX. "Dạ cổ Hoài Lang" của
  15. cụ Cao Văn Lầu là điệu cổ nhạc đặc sắc ở Nam Bộ. Bản vọng cổ ra đời được người dân Cà Mau sử dụng thành thạo và tự hào về sản phẩm bản địa của mình, góp phần vào kho tàng văn hóa Việt Nam. Đặc biệt là truyện cười bác Ba Phi được lan truyền rộng rãi, đã tạo cho cuộc sống vui tươi, thoải mái trong lao động của người dân vùng đất mới này. Do sớm tiếp xúc với kinh tế thị trường lại không phải chịu nhiều tác động của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, nên người nông dân Cà Mau có tư duy kinh tế nhanh nhạy, năng động. Họ là những người dám nghĩ dám làm, không khuất phục trước khó khăn. Từ kinh nghiệm thực tiễn, nếu thấy làm có hiệu quả là họ làm ngay, không ngần ngại. Những năm trước, có những vùng chuyên trồng lúa, chưa chuyển dịch sang nuôi tôm, nhưng thấy trồng lúa thu nhập không bằng nuôi tôm nên họ đã tìm mọi cách cho nước mặn vào nuôi tôm, kết quả đạt rất khả quan, đời sống của nông dân ở vùng đó đã nâng lên rõ rệt. Vài năm gần đây, tình hình nuôi tôm thiên nhiên gặp nhiều khó khăn nên nông dân Cà Mau đã tìm mô hình mới. Đó là mô hình nuôi tôm sú công nghiệp. Sản xuất theo mô hình này đòi hỏi vốn lớn, kỹ thuật cao. Song, quyết là làm, họ đã mạnh dạn vay vốn, không ngừng học tập kỹ thuật vận dụng vào sản xuất, kết quả là nhiều hộ nông dân đã giàu lên từ mô hình sản xuất này. Dám nghĩ, dám làm là một điểm mạnh của nông dân Cà Mau. Để phát huy điểm mạnh này, các cấp ủy đảng, chính quyền cần hỗ trợ mạnh mẽ về vốn, kỹ thuật cho nông dân. Có như vậy mới phát huy được tiềm năng trong nông dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, cũng như nông dân Việt Nam nói chung, nông dân Cà Mau cũng chịu ảnh hưởng khá nặng nề lối tư duy theo kinh nghiệm, tư tưởng trông chờ ỷ lại, dựa vào thiên nhiên. Nhận thức về kinh tế thị trường của họ cũng còn hạn chế. Nhìn chung, trình độ học vấn của nông dân Cà Mau còn thấp, thiếu kiến thức khoa học kỹ thuật. Vì vậy, việc áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất còn hạn chế. Trong lao động cũng như trong việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước còn thể hiện tính tùy tiện, thiếu triệt để, ý thức pháp luật chưa cao. Điển
  16. hình như vừa qua có không ít hộ khi thu hoạch đã bơm tạp chất vào tôm, làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng đến việc xuất khẩu tôm ở Cà Mau. Điều này đòi hỏi CTVĐND phải tích cực trong việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao trình độ mọi mặt cho nông dân, nhằm làm cho họ tạo ra những sản phẩm có chất lượng, có sức cạnh tranh cao. Đây cũng là điểm hạn chế của nông dân Việt Nam nói chung, của nông dân Cà Mau nói riêng. Vận động nông dân không thể không tính đến đặc điểm này. Cà Mau là tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc cùng sinh sống, nhưng chủ yếu là dân tộc Kinh, Hoa, Khơme. Trình độ học vấn giữa các dân tộc còn thấp và không đều nhau. Tập tính của các dân tộc là không giống nhau. Vì vậy, khi tiến hành CTVĐND phải tính đến những yếu tố này. Cán bộ nông vận phải là người hiểu được tâm tư, phong tục, tập quán của nông dân các nhóm dân tộc. Đặc biệt là phải biết tiếng dân tộc. Có như vậy mới gần gũi, vận động, thuyết phục được họ. 1.1.2. Công tác vận động nông dân của Đảng bộ Cà Mau đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh 1.1.2.1. Chất lượng công tác vận động nông dân của Đảng bộ tỉnh Cà Mau - quan niệm và tiêu chí đánh giá - Quan niệm về công tác vận động nông dân của Đảng: Công tác dân vận là một trong những vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã đặt lên hàng đầu nhiệm vụ tập hợp tất cả lực lượng nông dân, không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân để thực hiện những mục tiêu của cách mạng. Theo Từ điển tiếng Việt - Tường giải và liên tưởng định nghĩa công tác dân vận là "công tác tuyên truyền, tổ chức, động viên và lãnh đạo quần chúng trong một cuộc đấu tranh" [64, tr.213]. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, "Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho" [50, tr.698].
  17. Từ những quan niệm trên, có thể thấy công tác dân vận là sự kết hợp giữa công tác tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục với công tác tổ chức, xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng phong trào quần chúng. Công tác dân vận thực chất là xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng, của giai cấp vô sản trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình. Trong công tác dân vận nói chun g, vận động nông dân là một bộ phận rất quan trọng, vì nước ta là nước nông nghiệp, gần 80% dân số là nông dân. Đảng muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, muốn lãnh đạo toàn xã hội phải tiến hành CTVĐND. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Vận động nông dân là phải vận thế nào để toàn thể nông dân động, nghĩa là: làm cho nông dân hiểu rõ quyền lợi của dân tộc và của giới mình; làm cho nông dân vào Hội nông dân cứu quốc cho đông để phấn đấu cho mục đích của mình và tích cực tham gia công cuộc kháng chiến kiến quốc [50, tr.711]. Từ những dẫn giải nêu trên, có thể hiểu: CTVĐND của Đảng là một hoạt động nhằm tuyên truyền, giáo dục, nâng cao giác ngộ cách mạng, ý thức chính trị cho nông dân; tập hợp, thu hút nông dân và tổ chức các phong trào nông dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; là quá trình xác lập mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và giai cấp công nhân với giai cấp nông dân. - Quan niệm về công tác vận động nông dân của Đảng bộ tỉnh Cà Mau. Trên cơ sở hiểu CTVĐND của Đảng nêu trên, có thể hiểu CTVĐND của Đảng bộ tỉnh Cà Mau là hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp nhằm tuyên truyền giáo dục, nâng cao giác ngộ cách mạng, ý thức chính trị cho nông dân; tập hợp, thu hút nông dân và tổ chức các phong trào nông dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, của tổ chức đảng và chính quyền địa phương, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh. Từ những phân tích trên, có thể thấy nội hàm khái niệm CTVĐND bao gồm: - Hoạt động tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, nâng cao giác ngộ cách mạng, ý thức chính trị cho nông dân.
  18. - Tập hợp, thu hút nông dân vào các tổ chức cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa tổ chức đảng với giai cấp nông dân. - Tổ chức các phong trào hành động cách mạng của nông dân thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trên địa bàn tỉnh. - Công tác vận động nông dân là trách nhiệm chủ yếu và trực tiếp của các cấp ủy, tổ chức đảng. Bởi vì, theo Lênin, công tác dân vận nói chung, CTVĐND nói riêng "là trách nhiệm của toàn thể những người Dân chủ xã hội". Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: "Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ Đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh...) đều phải phụ trách dân vận" [50, tr.699]. Đối với đảng bộ tỉnh Cà Mau, vận động nông dân là trách nhiệm chủ yếu của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể và đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nông thôn. Các cấp ủy, tổ chức đảng ở địa phương phải lãnh đạo chặt chẽ hệ thống chính trị tiến hành CTVĐND, thường xuyên chăm lo CTVĐND. Hiện nay, ở nước ta cũng như ở Cà Mau, để tiến hành CNH, HĐH đất nước, để khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững chắc thì CTVĐND còn là trách nhiệm của các doanh nghiệp, các hội nghề nghiệp, của giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức. Mối quan hệ giữa Đảng với giai cấp nông dân phụ thuộc vào chất lượng CTVĐND của các cấp ủy, tổ chức đảng và toàn bộ hệ thống chính trị; phụ thuộc vào sự đúng đắn của chủ trương, đường lối, chính sách đối với nông dân, nông nghiệp, nông thôn. * Chất lượng CTVĐND của Đảng bộ tỉnh Cà Mau là kết quả tổng hợp chất lượng của nhiều hoạt động, bao gồm công tác tuyên truyền, giáo dục; công tác tổ chức phong trào cách mạng của nông dân; phương thức lãnh đạo, chỉ đạo; năng lực định hướng chính trị và việc hoạch định các chủ trương, đường lối, chính sách của các cấp ủy, tổ chức đảng đối với nông dân, nông nghiệp, nông thôn. Như vậy, chất lượng CTVĐND của Đảng bộ tỉnh Cà Mau phụ thuộc vào chất lượng hoạt động của từng tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp mà trước hết
  19. phụ thuộc vào chất lượng lãnh đạo của từng cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, phụ thuộc vào chất lượng hoạt động của bộ máy chính quyền, của các đoàn thể nhân dân và phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Cho nên, đánh giá chất lượng CTVĐND của các cấp ủy, tổ chức đảng ở tỉnh Cà Mau chính là đánh giá vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng đối với chính quyền, các đoàn thể nhân dân trong quá trình tiến hành CTVĐND ở mỗi địa phương. Phải căn cứ vào chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nông thôn. * Tiêu chí đánh giá chất lượng CTVĐND của Đảng bộ tỉnh Cà Mau: - Một là, chỉ tiêu đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn và đời sống của nông dân được nâng lên. Đây là tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng CTVĐND của các cấp ủy, tổ chức đảng ở Cà Mau. Bởi vì suy cho cùng, chất lượng CTVĐND là phải cuốn hút được nông dân vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân. Nông dân chỉ tin Đảng, đi theo Đảng khi Đảng chăm lo lợi ích, mang lại cuộc sống ấm no cho họ. - Hai là, quy mô, chất lượng và kết quả phong trào nông dân trong tỉnh. Nhiệm vụ của CTVĐND là phải thu hút rộng rãi mọi lực lượng nông dân tạo thành lực lượng cách mạng rộng lớn. Tập hợp mọi lực lượng nông dân là nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của tổ chức đảng và chính quyền các cấp ở địa phương. Một khi lực lượng nông dân tham gia phong trào càng đông đảo, tích cực thì đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, cũng như những chủ trương của tổ chức đảng và chính quyền địa phương đối với vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn càng được thực hiện có hiệu quả. Khi nông dân càng tích cực, tự giác tham gia phong trào thì kinh tế - xã hội càng phát triển; tình hình chính trị càng ổn định. Để nông dân tích cực và tự giác tham gia phong trào cách mạng, tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự tích cực tuyên truyền vận động, thuyết phục họ, phải chăm lo lợi ích cho họ... Như vậy, chất lượng của phong trào nông dân là tiêu chí đánh giá chất lượng CTVĐND của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng.
  20. - Ba là, sự chuyển biến tích cực trong nhận thức, thái độ chính trị, niềm tin của nông dân đối với đảng bộ và chính quyền trong tỉnh. Tiêu chí này là thước đo quan trọng chất lượng, hiệu quả CTVĐND của các cấp ủy, tổ chức đảng ở địa phương. Bởi vì, mục đích của CTVĐND là làm cho nông dân có giác ngộ cách mạng cao, thật sự tin vào Đảng và chính quyền, gắn bó với Đảng. Chỉ có sự giác ngộ cao, có niềm tin vững chắc vào Đảng, chính quyền, nông dân mới tự nguyện, hăng hái thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của tổ chức đảng, chính quyền địa phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: "Vận động nông dân là phải vận thế nào để toàn thể nông dân động". Điều này có nghĩa, đánh giá kết quả CTVĐND phải căn cứ vào sự chuyển biến tích cực cả về nhận thức, thái độ, niềm tin, sự giác ngộ chính trị của nông dân. Đó là cơ sở vững chắc để đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, của Nhà nước trở thành hiện thực, là nhân tố quan trọng góp phần ổn định chính trị và sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. - Bốn là, quyền làm chủ thực sự của nông dân được đảm bảo. Đây là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng CTVĐND của cấp ủy, tổ chức đảng ở Cà Mau. Quyền làm chủ của nhân dân là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Nhà nước ta. Bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nông dân vừa là trách nhiệm, vừa là mục tiêu phấn đấu của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân. Bảo đảm và phát huy quyền làm chủ thực sự của nông dân là nhằm phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nông dân trong việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, của chính quyền. Đánh giá chất lượng CTVĐND của Đảng nói chung, của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng ở Cà Mau phải căn cứ vào việc nông dân có thực sự được làm chủ hay không. 1.1.2.2. Vị trí, tầm quan trọng của công tác vận động nông dân trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Cà Mau Công tác vận động nông dân có vị trí đặc biệt, là một bộ phận quan trọng trong công tác dân vận của Đảng. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, coi đó là điều kiện tiên quyết để giai cấp vô sản giành thắng lợi. Vì vậy, giai cấp công nhân mà đại diện
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2