LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Chi nhánh Nam Hà Nội, thực trạng và giải pháp
lượt xem 226
download
Cùng với sự tăng trưởng và phát triển không ngừng của nền kinh tế, nhu cầu vốn đã trở nên vô cùng cấp thiết cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hoạt động của các ngân hàng thương mại đã trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình phát triển đó. Kể từ khi chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Chi nhánh Nam Hà Nội, thực trạng và giải pháp
- LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Chi nhánh Nam Hà Nội, thực trạng và giải pháp
- MỞ ĐẦu 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với sự tăng trưởng và phát triển không ngừng của nền kinh tế, nhu cầu vốn đã trở nên vô cùng cấp thiết cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hoạt động của các ngân hàng thương mại đã trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình phát triển đó. Kể từ khi chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, loại hình, mạng lưới, quy mô hoạt động và năng lực tài chính, góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền. Ngoài hệ thống ngân hàng quốc doanh còn có các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh,… Các nghiệp vụ cũng đổi mới và từng bước hiện đại hóa, tiếp cận với công nghệ và thông lệ quốc tế. Với hoạt động tín dụng và các dịch vụ đa dạng, ngân hàng đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của khách hàng, góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Ngày nay ngân hàng đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên trong bối cảnh môi trường kinh tế vĩ mô đang trong thời kỳ chưa ổn định, môi trường pháp lý đang dần được hoàn thiện nên hoạt động kinh doanh của các NHTM đang gặp rất nhiều khó khăn, nhất là chất lượng tín dụng chưa cao mà biểu hiện là nợ quá hạn, nợ khó đòi còn lớn. Việc phân tích một cách chính xác, khoa học các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng, để từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng vừa mang tính cấp bách vừa mang tính chiến lược lâu dài và được nhiều người quan tâm tới. Nói như vậy bởi lẽ, trong điều kiện hiện nay hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản nhất, chủ yếu nhất trong toàn bộ các hoạt động của NHTM. Hoạt động đó đã tạo ra phần lớn tài sản trong tổng tài sản của các NHTM và là hoạt động tạo ra nguồn thu nhập chính của mỗi NHTM dưới hình thức thu nhập từ lãi cho vay. Tuy nhiên hoạt động này luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, có thể gây tổn thất lớn, dẫn đến mất khả năng thanh toán hay phá sản ngân hàng. Chính vì vậy mà "chất lượng tín dụng" luôn là vấn đề
- "sống, còn" trong hoạt động kinh doanh mà bất cứ ngân hàng nào cũng phải đặc biệt quan tâm trong suốt quá trình tồn tại và phát triển. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) Việt Nam - Chi nhánh Nam Hà Nội là chi nhánh được thành lập từ tháng 05 năm 2001 . Là một chi nhánh mới, lại hoạt động trên địa bàn Thủ đô - Trung tâm kinh tế chính trị của cả nước. Đây vừa là một môi trường hấp dẫn, vừa là tiềm năng lớn trong kinh doanh nhưng đồng thời cũng là một thách thức không nhỏ đối với chi nhánh. Hoạt động trên cùng một địa bàn với nhiều NHTM lớn, sự cạnh tranh trong kinh doanh là không tránh khỏi. Song, kể từ khi thành lập đến nay, Chi nhánh đã từng bước phấn đấu, ngày một hoàn thiện hơn và đạt được nhiều thành tựu đáng kể, có tốc độ phát triển tương đối nhanh về mọi mặt, đã khẳng định được vị trí trên thị trường. Tuy vậy trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội hiện nay hoạt động tín dụng của chi nhánh cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức mới, tiềm ẩn rủi ro lớn trong kinh doanh. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tín dụng, cùng với những kiến thức đã học tập và nghiên cứu tại trường và quá trình làm việc thực tế, tôi quyết định chọn đề tài "Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Chi nhánh Nam Hà Nội, thực trạng và giải pháp" để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài - Nghiên cứu và làm rõ hơn cơ sở lý luận về tín dụng và chất lượng tín dụng của các NHTM trong nền kinh tế thị trường. - Khảo sát một cách toàn diện và có hệ thống về thực trạng chất lượng tín dụng của Chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội trong thời gian qua và kinh nghiệm của một số NHTM các nước trong việc nâng cao chẩt lượng tín dụng. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu:
- + Các lý luận cơ bản về tín dụng và chất lượng tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường. + Thực trạng chất lượng tín dụng cho vay của NHNo&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội. - Phạm vi nghiên cứu: các hoạt động cho vay của NHNo&PTNT Nam Hà Nội trong khoảng thời gian từ 2008 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp thống kê, thu thập tài liệu trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về tín dụng và chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Nam Hà Nội. Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Nam Hà Nội. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 1.1.1. Khái niệm Trong nền kinh tế hàng hóa tiền tệ, do tính chất vận động của các nguồn vốn hàng hóa, tiền tệ và sự độc lập tương đối của tiền tệ, nên tất yếu nảy sinh mâu thuẫn tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn tiền tệ. Để giải quyết căn bản mâu thuẫn đó tín dụng đã xuất
- hiện như là một hiện tượng tất yếu khách quan. Biểu hiện bên ngoài của quan hệ tín dụng trước hết đó là sự chuyển giao quyền sử dụng vốn theo thời hạn giữa chủ thể sở hữu chúng nhưng chưa có nhu cầu sử dụng với chủ thể đang có nhu cầu sử dụng nhưng chưa có đủ khả năng tạo lập. Hay nói một cách cụ thể hơn tín dụng được biểu hiện trước hết là sự vay, mượn tạm thời một số vốn tài sản hàng hóa hay tiền tệ mà qua đó người đi vay có thể có được quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định theo cam kết giữa các bên. Như vậy quan hệ tín dụng là một quan hệ xã hội biểu hiện thông qua các liên hệ về kinh tế, trong đó yếu tố lòng tin được xem như đặc trưng cơ bản nhất. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự hoàn chỉnh của thị trường, từ thấp tới cao quan hệ tín dụng cũng ngày càng phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Trong nền kinh tế thị trường đã và đang tồn tại nhiều hình thức tín dụng như: tín dụng nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng nhà nước, tín dụng ngân hàng và các hình thức tín dụng kết hợp khác... Tuy nhiên tín dụng ngân hàng với các đặc trưng riêng vẫn được coi là hình thức tín dụng cơ bản và giữ vai trò quan trọng nhất trong hệ thống tín dụng. Vậy có thể hiểu: Tín dụng ngân hàng là các quan hệ vay mượn vốn tiền tệ phát sinh giữa các ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả theo thời hạn. 1.1.2. Hoạt động tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường Hoạt động tín dụng luôn được coi là hoạt động cơ bản và bao trùm nhất trong toàn bộ các hoạt động kinh doanh của các NHTM bởi nó là hoạt động tạo ra phần lớn các tài sản của ngân hàng (dưới hình thức các khoản cho vay) và cũng là hoạt động đem lại thu nhập chủ yếu của các NHTM. Tuy nhiên, kinh doanh tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường phải đối mặt với nhiều áp lực như: sự cạnh tranh của thị trường, các yếu tố kinh tế vĩ mô, mức độ hấp thụ vốn, chất lượng của nền kinh tế cùng với nhiều quan hệ xã hội khác,… nên hoạt động tín dụng thường xuyên tiềm ẩn nhiều rủi ro. Bởi mục tiêu cao nhất của mọi chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đều là phải tối đa hóa lợi nhuận, mà một trong các yêu cầu cơ bản nhất để thực hiện mục tiêu đó là phải thỏa mãn nhu cầu vốn kinh doanh. Do đó vì mục tiêu lợi nhuận, các NHTM thường phải tối đa hóa khả năng huy động vốn và cho vay, cũng vì lợi nhuận các khách hàng của NHTM cũng cần thiết tối đa hóa khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên cả
- NHTM và các khách hàng của NHTM đều bị chi phối bởi các yếu tố từ bên trong và các yếu tố từ bên ngoài nền kinh tế, nên nhiều khi trong hoạt động nảy sinh mâu thuẫn trong sử dụng vốn là điều tất yếu sẽ xảy ra. Với chức năng cơ bản là "trung gian tín dụng" của nền kinh tế, các NHTM đã thực hiện giải quyết mâu thuẫn cơ bản đó bằng cách là thực hiện tập trung các nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội, và sử dụng chính các nguồn tiền tệ đó hình thành nên quỹ cho vay để thỏa mãn các nhu cầu vốn tạm thời thiếu cho xã hội. Như vậy, phương châm hoạt động cơ bản của NHTM trong nền kinh tế thị trường là "đi vay để cho vay". 1.1.3. Đặc điểm chủ yếu của tín dụng ngân hàng - Trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian tức là: các ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay. Khi huy động, các ngân hàng sử dụng các hình thức huy động khác nhau để thu hút mọi nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi để tạo lập nguồn vốn kinh doanh, lúc này ngân hàng đóng vai trò là người đi vay lớn nhất trong nền kinh tế. Khi cho vay, các ngân hàng lại dùng chính nguồn vốn đã huy động được để cho vay lại đối với nền kinh tế, lúc này ngân hàng lại đóng vai trò là người cho vay lớn nhất trong nền kinh tế. - Huy động vốn và cho vay của NHTM đều chủ yếu thực hiện dưới hình thức tiền tệ: trong quan hệ tín dụng ngân hàng, các ngân hàng bằng cơ chế thích hợp, huy động các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để tạo ra quỹ cho vay của ngân hàng. Như vậy, tiền ở đây là công cụ thực hiện tín dụng, đó là loại tiền tín dụng hay còn gọi là công cụ lưu thông tín dụng ngân hàng. - Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng độc lập tương đối với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội. Vốn tín dụng là bộ phận không thể thiếu trong quá trình vận động của mọi hoạt động xã hội nói chung và các hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng. Tuy nhiên, do tính độc lập tương đối của tiền tệ trong mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ, cho nên người ta thường quan niệm vốn tín dụng ngân hàng có tính độc lập tương đối với quá trình tái sản xuất xã
- hội. Bởi vì trong quá trình vận động, vốn tín dụng ngân hàng có thể tham gia vào bất cứ một giai đoạn nào của chu kỳ vận động, song dường như đều dễ nhìn thấy đó là ở giai đoạn đầu (dưới hình thức các nhu cầu chi phí bằng tiền) và giai đoạn kết thúc (dưới hình thức các khoản thu nhập bằng tiền của quá trình tái sản xuất). Do đó khi nền kinh tế ở trạng thái cân bằng (cân đối hàng hóa - tiền tệ) nguồn vốn tín dụng vận động theo sự vận động của các nguồn vốn của quá trình tái sản xuất (T - H hoặc H - T). Nhưng khi nền kinh tế phát triển đến một mức nhất định tất yếu nảy sinh mâu thuẫn trong quá trình chu chuyển vốn là nhu cầu vốn bằng tiền không tương thích với nhu cầu hàng hóa trong trao đổi. Khi đó với chức năng "trung gian tín dụng" và với các công cụ huy động vốn, cho vay, thanh toán để góp phần đưa nền kinh tế về trạng thái cân bằng theo các mục tiêu c ơ bản của nền kinh tế trong từng giai đoạn. Do đó, có thể khẳng định sự vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng chịu sự tác động và phụ thuộc vào quá trình vận động của quá trình tái sản xuất xã hội, nhưng có tính độc lập tương đối với quá trình đó. Cho nên trong thực tế tín dụng ngân hàng thường được coi là một công cụ hữu hiệu để thúc đẩy tăng trưởng, hoặc điều chỉnh, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. - Phạm vi hoạt động của tín dụng ngân hàng là toàn bộ nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường hầu như mọi quan hệ trao đổi đều có thể "tiền tệ hóa ", do vậy với công cụ thực hiện chủ yếu là "quyền sử dụng tiền tệ" nên tín dụng ngân hàng có thể tham gia vào mọi quan hệ xã hội. Điều đó được biểu hiện ra bên ngoài là các NHTM có thể thực hiện huy động vốn tiền tệ, cho vay vốn và cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho hầu hết mọi chủ thể trong xã hội. Có nghĩa là tín dụng ngân hàng có thể thỏa mãn nhu cầu sử dụng tiền cho mọi đối tượng, mọi phạm vi, mọi khoảng thời gian của toàn xã hội. Tuy nhiên sự thỏa mãn đó phải nằm trong sự điều chỉnh chung của nhà nước và sự ràng buộc của pháp luật trong từng giai đoạn, tình hình cụ thể của nền kinh tế. 1.1.4. Phân loại tín dụng ngân hàng Trong nền kinh tế hiện đại, các NHTM phân loại tín dụng theo các tiêu thức cơ bản sau: 1.1.4.1. Theo mục đích sử dụng tiền vay Căn cứ vào tiêu thức này người ta chia tín dụng ra thành hai loại:
- - Tín dụng đối với sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại cấp tín dụng cho các đơn vị kinh doanh để tiến hành sản xuất lưu thông hàng hóa. - Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hóa lâu bền như máy giặt, điều hòa, tủ lạnh,… 1.1.4.2. Theo thời hạn sử dụng tiền vay Theo cách này tín dụng ngân hàng được phân làm ba loại: - Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng dưới 1 năm và được sử dụng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp. Nó có thể được vay cho những sinh hoạt cá nhân. - Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 1 - 5 năm. Loại tín dụng này thường được dùng để cung cấp, mua sắm tài sản cố định, cải tiến kỹ thuật công nghệ, mở rộng và xây dựng công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh. - Tín dụng dài hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 5 năm trở lên, loại tín dụng này dùng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản như đầu tư xây dựng các công trình mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn. Tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định và một phần bổ sung cho vốn lưu động thường xuyên 1.1.4.3. Theo hình thức đảm bảo tiền vay Căn cứ vào tiêu thức này, tín dụng được chia thành hai loại: - Đảm bảo bằng tài sản: là loại tín dụng được ngân hàng cung cấp với điều kiện phải có tài sản đảm bảo như thế chấp, cầm cố, hoặc cần có bảo lãnh của người thứ ba. Đối với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng khi vay vốn đòi hỏi phải có tài sản đảm bảo, sự đảm bảo này là căn cứ kinh tế để ngân hàng có thêm một nguồn thu thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn nhằm bù đắp lại khoản tiền vay trong trường hợp người vay không có khả năng trả nợ. - Đảm bảo không bằng tài sản: là loại tín dụng không cần tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc không có sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân
- khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng mà không cần đòi hỏi nguồn thu nợ bổ sung. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng trong việc truy đòi các khoản nợ có vấn đề phát sinh. 1.1.4.4. Theo thành phần kinh tế - Tín dụng đối với thành phần kinh tế nhà nước. - Tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài nhà nước. Ngoài ra tín dụng có thể phân theo: loại tiền, phạm vi quốc gia, cơ cấu vốn tín dụng tham gia, đối tượng tạo lập của vốn vay. 1.1.5. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường Tín dụng là mối quan hệ kinh tế nên tín dụng có tác động nhất định đối với hoạt động kinh tế. Tuy nhiên vai trò của tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào nhận thức và vận dụng quan hệ tín dụng vào xây dựng và quản lý kinh tế của con người. Tín dụng ngân hàng ra đời xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn trong nền kinh tế luôn làm phát sinh hiện tượng có những chủ thể tạm thời thừa vốn và những chủ thể khác tạm thời thiếu vốn. Tín dụng ngân hàng đã giải quyết được mâu thuẫn giữa cung cầu về vốn, là sự cần thiết khách quan phù hợp với sự vận động vốn tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Khối lượng tín dụng ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nền kinh tế, ngày càng giữ vị trí quan trọng đối với lĩnh vực sản xuất và lưu thông hàng hóa cũng như lưu thông tiền tệ. Tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường được cụ thể hóa bằng các vai trò sau đây. 1.1.5.1. Đối với bản thân ngân hàng - Tín dụng là hoạt động chủ yếu mang lại nguồn thu nhập cho ngân hàng. Thu nhập từ hoạt động tín dụng được hình thành chủ yếu bởi chênh lệch giữa lãi cho vay với lãi suất huy động và một số các khoản phí khác theo quy định, khoản thu nhập này là phần thu nhập đáng kể trong tổng thu nhập của các NHTM. Đặc biệt ở các nước chưa có thị trường vốn phát triển thì hoạt động cho vay truyền thống vẫn được coi như hoạt động bao trùm
- nhất trong kinh doanh của NHTM. Do đó thu nhập từ cho vay có thể được xem như khoản thu nhập chính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, Tuy nhiên hoạt động tín dụng lại là hoạt động tiềm ẩn rủi ro lớn nhất trong kinh doanh ngân hàng nên các NHTM thường rất coi trọng và nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng. - Hoạt động tín dụng góp phần đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của ngân hàng, giúp ngân hàng mở rộng đối tượng và phạm vi đầu tư từ đó giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trước hết chúng ta thấy quan hệ tín dụng là quan hệ lớn nhất và quan trọng nhất trong các quan hệ với khách hàng của ngân hàng. Mặt khác thông qua hoạt động tín dụng các ngân hàng có thể tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ tiện ích cung ứng cho chính bản thân họ. Thông qua hoạt động huy động vốn (nhất là hoạt động tiền gửi) ngân hàng có thể tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ tiền tệ như: dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ thu hộ, chi hộ, dịch vụ ủy thác, dịch vụ két sắt,… và các dịch vụ tiền tệ khác có liên quan. Thông qua hoạt động cho vay ngân hàng có thể tạo ra các dịch vụ liên quan như: dịch vụ tư vấn, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ kinh doanh chứng khoán, kinh doanh ngoại tệ,… Nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển thì hầu hết các NHTM đều xây dựng chiến lược phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại để lần lượt thay thế cho các sản phẩm kinh doanh truyền thống, và coi đây là chiến lược kinh doanh chủ yếu nhất trên thị trường. 1.1.5.2. Đối với khách hàng - Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn để quá trình sản xuất được liên tục: Trong nền kinh tế, có nhiều chủ thể kinh tế hoạt động trong nhiều ngành nghề khác nhau, mỗi chủ thể, mỗi ngành kinh tế lại có chu kỳ sản xuất khác nhau, trong khi đó, quá trình tái sản xuất xã hội lại diễn ra liên tục trên cơ sở phân công lao động và hợp tác trong toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, tất yếu xảy ra tình trạng nơi tạm thời thừa vốn, nơi tạm thời thiếu vốn. Với tư cách là trung gian tài chính, các ngân hàng tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, và cho vay đối với các thành phần đang tạm thời thiếu vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục. Điều này có nghĩa là tín dụng ngân hàng là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan trọng góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động theo phương châm "đi vay để cho vay", tín dụng ngân hàng không những đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra bình
- thường, mà còn đẩy nhanh quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa, mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ sản xuất mới, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. - Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh thêm năng động và có hiệu quả hơn: Hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng vận động để phù hợp với những biến động của thị trường. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của mình doanh nghiệp phải đi vay ngân hàng và phải hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định, do đó doanh nghiệp cần tìm hiểu và đầu tư vốn vào những ngành nghề có tỷ suất lợi nhuận cao, qua đó vừa duy trì được hoạt động của mình, vừa hoàn trả được vốn vay ngân hàng. Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển vốn, góp phần thay đổi cơ cấu sản xuất kinh doanh. Tín dụng ngân hàng thực sự là công cụ kinh tế quan trọng góp phần tạo ra các nguồn vốn hỗ trợ hữu hiệu, và các sản phẩm dịch vụ tiện ích phục vụ đắc lực cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời nó cũng là công cụ điều tiết có hiệu quả của nhà nước để tác động vào mọi hoạt động kinh doanh theo các mục tiêu chung của nền kinh tế, từ đó làm cho các hoạt động kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trở nên năng động và linh hoạt hơn. 1.1.5.3. Đối với nền kinh tế Quá trình hình thành và phát triển của tín dụng cho thấy vai trò quan trọng của hoạt động tín dụng trong nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế hiện nay. Hoạt động tín dụng tồn tại khách quan với tư cách là người mở đường, người tham gia quyết định mọi quá trình sản xuất, tập trung nguồn vốn nhàn rỗi ngoài lưu thông dưới dạng tiết kiệm đem lại đầu tư để phục vụ phát triển kinh tế. - Hoạt động tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ có hiệu quả cho nền kinh tế: Là trung gian điều hòa cung cầu về vốn cho nền kinh tế, hoạt động tín dụng là cầu nối giữa các dòng vốn tạm thời thừa với các nhu cầu vốn tạm thời thiếu. Qua thực tế chúng ta có thể nhận thấy khi các quan hệ hàng hóa - tiền tệ ngày càng phát triển thì các quan hệ về tín dụng cũng ngày càng phát triển, ngược lại các quan hệ tín dụng phát triển ngày càng đa dạng và phong phú là điều kiện hỗ trợ và kích thích các quan hệ hàng hóa - tiền tệ cũng phát triển hơn.
- Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh không thể chỉ dựa vào nguồn vốn tự có. Bởi lẽ trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể thừa vốn ở giai đoạn này nhưng lại thiếu vốn ở giai đoạn khác. Trong quá trình chu chuyển vốn đó tình trạng tạm thời thừa và thiếu vốn có thể xuất hiện trong nhiều khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Song xu thế chung cho ta thấy tình trạng thiếu vốn trong ngắn hạn và cả trong dài hạn ở các doanh nghiệp là mang tính phổ biến. Bởi hoạt động tín dụng ngân hàng có tính bao trùm cả xã hội do đó các NHTM có thể "mua về" và "bán ra" với một khối lượng vốn lớn tương đương với cả tổng nguồn vốn đầu tư trong xã hội theo quan hệ cung - cầu vốn tín dụng. Qua đó NHTM có thể tiếp nhận được hầu hết mọi nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong xã hội và lại dùng chính nguồn vốn đó để thỏa mãn các nhu cầu vốn tạm thời thiếu cho chính các chủ thể đó, khi có quan hệ vay vốn với ngân hàng, vì vậy khả năng thỏa mãn các nhu cầu vốn qua kênh tín dụng lớn hơn nhiều so với các kênh phân phối khác. Mặt khác thông qua sự vận dụng lãi suất linh hoạt (cả lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay) và các công cụ khác, tín dụng ngân hàng còn góp phần định hướng đầu tư, xác định hiệu quả kinh doanh một cách cụ thể, giúp cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực quản trị, và có thể lượng hóa rõ hơn các rủi ro có thể xảy ra trong sản xuất kinh doanh. Đồng thời cũng có thể thông qua tín dụng ngân hàng, nhà nước có thể vận dụng nhiều biện pháp ưu đãi cho doanh nghiệp (hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh, cho vay chỉ định,…) để giải quyết các khó khăn về tài chính trong điều kiện nền kinh tế có những biến động lớn. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thị trường vốn ngắn hạn. Thông qua việc huy động vốn và cho vay tín dụng đã góp phần đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn xã hội thông qua việc điều tiết các vốn chậm sang chỗ có vòng chu chuyển vốn nhanh hơn. Đồng thời thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng có thể tạo ra nhiều công cụ lưu thông (như kỳ phiếu ngân hàng) và nhiều dịch vụ tiện ích (chiết khấu, bao thanh toán, bảo lãnh,…) phục vụ đắc lực cho quá trình vận động vốn của mọi chủ thể trên thị trường. Đây là tiền đề quan trọng để phát triển mở rộng thị trường vốn ngắn hạn. - Hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông, đáp ứng các nhu cầu trao đổi:
- Ngân hàng trung ương (NHTW) thông qua quan hệ tín dụng để điều tiết khối lượng cho vay tại các tổ chức tín dụng (TCTD). Với vai trò là người cho vay cuối cùng, việc mở rộng hay thu hẹp cửa sổ chiết khấu sẽ ảnh hưởng đến quy mô tín dụng, từ đó sẽ tác động đến khối lượng cho vay của các TCTD. Thông qua hoạt động tín dụng, NHTW có thể sử dụng NHTM như là chiếc "cầu nối" giữa nhà nước với thị trường thông việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để từ đó có thể điều tiết được khối lượng tiền cung ứng. Đồng thời thông qua hoạt động của NHTM, NHTW có thể thu nhận các dấu hiệu, các thông tin thị trường để từ đó có biện pháp điều chỉnh kịp thời và phù hợp với thực tế về cung - cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong nền kinh tế đang có lạm phát hay bất ổn định. Như vậy, NHNN thông qua cửa sổ chiết khấu đã tác động tới khối lượng cho vay của các TCTD, từ đó quản lý được lượng tiền mặt trong lưu thông nhằm đạt được các mục tiêu như mong muốn. Hoạt động điều tiết được thực hiện bởi việc thực thi chính sách tiền tệ thông qua các công cụ như lãi suất, tái chiếu khấu, hoạt động thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán… Chính phủ có thể kiểm soát được lượng tiền trong lưu thông, kiềm chế lạm phát và ổn định sức mua của đồng tiền. - Tín dụng ngân hàng là góp phần thúc đẩy việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để có thể đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị và khoa học công nghệ thì cần phải có vốn. Việc đầu tư này ngoài nguồn vốn của ngân sách nhà nước (NSNN) thì cũng có một phần vốn đóng góp không nhỏ của các TCTD. Thực tế cho thấy ở các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam thì tín dụng ngân hàng là một công cụ tài trợ đặc biệt quan trọng đối với việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Tín dụng ngân hàng là công cụ thực hiện chính sách xã hội: Các chính sách xã hội có thể được tài trợ bởi phương thức tài trợ không hoàn lại NSNN. Tuy nhiên, phương thức này thường bị hạn chế về quy mô và thiếu hiệu quả và gây lãng phí nguồn lực. Vì thế hiện nay phương thức tài trợ không hoàn lại đã bị thay thế dần bởi phương thức tài trợ có hoàn lại. Thông qua phương thức này, các mục tiêu chính sách
- được đáp ứng một cách chủ động và có hiệu quả hơn. Mặt khác thông qua việc sử dụng các công cụ tín dụng như lãi suất, thời hạn, hạn mức tín dụng,… đã tác động mạnh vào các đối tượng chính sách được tài trợ buộc phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo hoàn trả đúng thời hạn thì kỹ năng lao động của họ cũng được cải thiện từng bước. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho sự ổn định tài chính của các đối tượng chính sách và từng bước làm cho họ có thể tồn tại độc lập với các nguồn tài trợ. - Hoạt động tín dụng ngân hàng thúc đẩy phát triển và mở rộng kinh tế đối ngoại: Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì hoạt động sản xuất hàng hóa càng đa dạng và phong phú. Các doanh nghiệp không chỉ bó hẹp quan hệ kinh doanh trong phạm vi một quốc gia mà đã mở rộng quan hệ với các doanh nghiệp n ước ngoài. Nhờ có hoạt động tín dụng mà cụ thể hơn là bảo lãnh ngân hàng đã tạo cơ hội cho sự phát triển của các doanh nghiệp, nâng cao vị thế của các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế, từ đó mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đa số các NHTM hiện nay đều mở các ngân hàng đại lý bên nước ngoài để phục vụ khách hàng quốc tế trong hoạt động thanh toán thẻ, cho vay cá nhân và các tổ chức nước ngoài. Tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện để nối liền kinh tế của các nước với nhau. Đặc biệt với các nước đang phát triển, tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa đồng thời nhờ nguồn vốn tín dụng bên ngoài để công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Tóm lại, trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển tín dụng ngân hàng luôn được coi là một trong các biện pháp cơ bản để điều hòa các dòng vốn trong xã hội và đáp ứng các yêu cầu trong sử dụng vốn của nền kinh tế. Thực tế cho chúng ta thấy tín dụng ngân hàng thực sự là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, giữa tiêu dùng và sản xuất, giữa trong nước và quốc tế,… Do vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng nói chung, chất lượng tín dụng ngân hàng nói riêng không chỉ là vấn đề quan tâm của các NHTM mà thực sự là vấn đề lớn của cả nền kinh tế trong điều kiện hiện nay. 1.2. NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 1.2.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng ngân hàng
- Chất lượng của hàng hóa là yếu tố cơ bản quyết định đến sự thành công hay thất bại của các nhà sản xuất. Do vậy, để một sản phẩm hàng hóa được thị trường chấp nhận thì sự hấp dẫn về hình thức của sản phẩm như tên gọi, bao bì, nhãn mác,… là điều luôn được người tiêu dùng quan tâm, song điều quan trọng hơn cả đó là chất lượng của sản phẩm. Bởi chất lượng sản phẩm mới thực sự là sự thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng và là cái đích của nhà sản xuất, cung ứng vươn tới để đạt mục tiêu của hoạt động. Như vậy, có thể quan niệm rằng chất lượng của sản phẩm hàng hóa là khả năng thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng đối với sản phẩm mà nhà sản xuất, cung ứng theo mục tiêu định sẵn và đáp ứng được yêu cầu chung của thị trường. Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ nên tất yếu cũng phải quan tâm đến chất lượng sản phẩm của mình, đặc biệt là chất lượng tín dụng. Bởi vì tín dụng là một trong các hoạt động chính của ngân hàng, đem lại phần lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, nên việc đảm bảo chất lượng tín dụng sẽ là vấn đề có tính quyết định đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Vậy, Chất lượng tín dụng là sự thỏa mãn các nhu cầu của các bên liên quan (khách hàng, bản thân ngân hàng và nền kinh tế nói chung) đến hoạt động tín dụng của NHTM. Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (có thể đo lường qua các chỉ tiêu định lượng như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn,…), vừa trừu tượng (có thế được xem xét thông qua những chỉ tiêu định tính như khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế,…). Chất lượng tín dụng không tự nhiên mà có, nó là kết quả của cả một quá trình phối kết hợp hoạt động của ngân hàng và các khách hàng vì một mục đích chung. Do đó để đạt được chất lượng cần có sự quản lý khoa học và chặt chẽ. Đặc biệt là phải có chính sách tín dụng đúng đắn, phù hợp với điều kiện của thị trường trong từng thời kỳ nhất định. Do đó chúng ta có thể nhận thức về chất lượng tín dụng trên nhiều góc độ khác nhau: * Đối với ngân hàng:
- Chất lượng tín dụng trước hết phải nói đến tính an toàn của khoản vay, việc đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đầy đủ và đúng hạn của khách hàng, sau đó là sự mang lại lợi nhuận cho chính bản thân ngân hàng. Điều đó có nghĩa là chất lượng tín dụng phải được thể hiện ở sự gia tăng lợi nhuận, sự tăng trưởng dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng mức quy định và ngày càng giảm, sự cân đối giữa nguồn vốn với dư nợ của ngân hàng, sự hợp lý của cơ cấu tín dụng,… * Đối với khách hàng: Chất lượng tín dụng được hiểu là sự phù hợp của khoản tín dụng với nhu cầu vay vốn của khách hàng tức là khách hàng được vay với lãi suất và kỳ hạn hợp lý. Ngoài ra, thủ tục cho vay đơn giản, đảm bảo tiết kiệm thời gian và chi phí cho khách hàng nhưng vẫn tuân thủ đúng các nguyên tắc và các quy định của pháp luật về tín dụng. * Đối với nền kinh tế: Chất lượng tín dụng thể hiện ở việc tạo ra hiệu quả kinh tế và cải thiện đời sống xã hội. Cụ thể: chất lượng tín dụng được nâng cao phải góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, qua đó tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội, tăng thu nhập cho dân cư, và tăng nguồn thu cho NSNN. Chất lượng tín dụng là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng đối với sự thay đổi của thị trường, phản ánh sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Nâng cao chất lượng tín dụng đồng nghĩa với việc giảm được rủi ro tín dụng, nguồn vốn được sử dụng có hiệu quả, an toàn và lành mạnh, góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng. Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng là vô cùng cần thiết. Tóm lại, để có được chất lượng tín dụng tốt thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt động. Hay nói cách khác, chất lượng tín dụng tương quan tỷ lệ với hiệu quả và độ tin cậy. Hiểu đúng bản chất về chất lượng tín dụng, phân tích đánh giá đúng chất lượng tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân tồn tại về chất lượng sẽ giúp ngân hàng tìm được những biện pháp quản lý thích hợp để nâng cao hiệu quả hoạt động, đứng vững trong nền kinh tế thị trường sôi động và cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
- 1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại Ở bất cứ một lĩnh vực kinh doanh nào, một mức lợi nhuận hứa hẹn càng lớn thì rủi ro tiềm ẩn càng cao, hoạt động trong lĩnh vực tài chính với những đối thủ riêng biệt buộc các ngân hàng phải đối mặt với không ít rủi ro. Vì thế, các NHTM không còn cách nào khác là phải kiểm soát chặt chẽ hiệu quả hoạt động của mình, đặc biệt là vấn đề chất lượng tín dụng. Nâng cao chất lượng tín dụng không chỉ có ý nghĩa lớn lao đối với ngân hàng mà còn đem lại những mặt tích cực cho khách hàng và cho toàn bộ nền kinh tế. Ngân hàng thương mại cũng là một doanh nghiệp, vì thế mục tiêu hoạt động cũng là lợi nhuận, lợi nhuận cao và bền vững luôn là cái đích mà các NHTM hướng tới. Tín dụng là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng, vì vậy muốn tăng trưởng thu nhập, không thể không chú ý đến chất lượng tín dụng. Một chất lượng tín dụng tốt sẽ là cơ sở để mở rộng quy mô tín dụng, tạo đà cho sự tăng trưởng ổn định của ngân hàng. Thêm vào đó sẽ giải quyết tốt mối quan hệ giữa an toàn và sinh lời. Khi nâng cao được chất lượng tín dụng đồng nghĩa với việc sản xuất kinh doanh phát triển, từ đó nâng cao được đời sống vật chất của dân chúng và góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả, kiềm chế và kiểm soát lạm phát. Ngoài ra nâng cao chất lượng tín dụng còn thúc đẩy phát triển các mối quan hệ đối ngoại. Tín dụng có mối quan hệ mật thiết với nền kinh tế xã hội. Để có chất lượng tín dụng tốt ngoài sự nỗ lực của bản thân các NHTM thì đòi hỏi nền kinh tế phải ổn định với các cơ chế chính sách phù hợp, sự phối hợp nhịp nhàng và có hiệu quả giữa các cấp, các ngành tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tín dụng. 1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại 1.2.3.1. Các chỉ tiêu định tính - Để bảo đảm nguyên tắc cho vay, mỗi tổ chức kinh tế hoạt động đều dựa trên một nguyên tắc nhất định. Ngân hàng là một tổ chức kinh tế đặc biệt, hoạt động của nó có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế, xã hội của đất nước, do vậy các nguyên tắc hoạt động của ngân hàng rất chặt chẽ. Với mỗi ngân hàng lại có những nguyên tắc khác nhau. Thực tiễn nguyên tắc cho vay là một yêu cầu quan trọng đối với hoạt động cho vay, là căn cứ
- pháp lý cơ bản để đảm bảo sự hoạt động vững chắc của mọi ngân hàng. Vì vậy để đánh giá chất lượng một khoản vay điều đầu tiên phải xem xét là khoản cho vay đó có đảm bảo nguyên tắc vay hay không. Nguyên tắc cơ bản của cho vay là: + Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận vốn kinh doanh của ngân hàng là nguồn vốn huy động từ nền kinh tế. Nguyên tắc hoàn trả phản ánh đúng bản chất quan hệ tín dụng, tính chất của tín dụng sẽ bị phá vỡ nếu nguyên tắc này không được thực hiện đầy đủ. Nếu trong quá trình hoạt động kinh doanh, các khoản tín dụng mà ngân hàn g đã cung cấp không được hoàn trả đúng hạn nhất định sẽ ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng. Do đó, khách hàng khi vay vốn phải cam kết trả cả gốc và lãi trong một thời hạn nhất định, cam kết này được ghi trong khế ước vay nợ. Tín dụng đúng mục đích không những là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt động của tín dụng. Quan hệ tín dụng phản ánh nhu cầu về vốn và lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng là cơ sở để doanh nghiệp tính toán các yếu tố hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời nó cũng là một trong những yếu tố đảm bảo khả năng trả nợ của ngân hàng. Để thực hiện nguyên tắc này, ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử dụng tiền vay đúng mục đích như đã cam kết trong hợp đồng, bởi vì mục đích đó đã được ngân hàng thẩm định. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, trường hợp khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn. + Người đi vay phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Một trong những yếu tố giúp cho việc thực hiện nguyên tắc này là triển khai cho vay ngân hàng phải xác định chính xác thời hạn cho vay. Thời hạn cho vay được xác định kể từ khi người vay nhận khoản vốn vay đầu tiên cho đến khi người vay trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận cho vay căn cứ vào:
- Chu kỳ sản xuất kinh doanh của người đi vay. Thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư. Khả năng trả nợ của khách hàng. Tính chất thời hạn nguồn vốn hiện có để cho vay của ngân hàng. Thông qua đó sẽ quy định rõ thời hạn khách hàng trả tiền lãi, tiền gốc cho ngân hàng. Việc xác định thời hạn cho vay sẽ gắn liền với trách nhiệm của người vay với khoản vay, buộc họ phải sử dụng vốn vay kinh doanh có hiệu quả trong khoảng thời gian đó. Việc xác định thời hạn cho vay rất quan trọng, nó thể hiện trình độ của cán bộ tín dụng, nó quyết định đến khả năng thu hồi nợ của ngân hàng. Nếu thời hạn cho vay nhỏ hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng thì họ không thể trả nợ đúng hạn vì chu kỳ sản xuất kinh doanh chưa kết thúc, họ chưa có nguồn thu để trả nợ, điều này sẽ gây khó khăn cho khách hàng trong việc trả nợ ngân hàng. Nếu thời hạn cho vay lớn hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh thì cũng không tốt vì khi đã hoàn thành một chu kỳ kinh doanh mà vẫn chưa trả nợ ngân hàng thì rất có thể họ sẽ sử dụng vốn đó vào chu kỳ kinh doanh tiếp theo hoặc một lĩnh vực kinh doanh khác, điều này sẽ gây khó khăn trong việc thu hồi nợ và ngân hàng sẽ bị đọng vốn. Việc trả nợ đúng thời hạn của khách hàng giúp ngân hàng bảo toàn và phát triển vốn, tăng cường hoạt động cho vay. Tuy nhiên trong thực tế do nhiều nguyên nhân khác nhau và do tác động của các hoạt động kinh tế - xã hội có thể dẫn đến việc khách hàng không trả nợ theo thời hạn thỏa thuận. Việc trả nợ không đúng hạn có thể xảy ra hai trường hợp: + Trả trước hạn đã định: có thể do khách hàng kinh doanh tốt sớm thu hồi vốn trả ngân hàng nhưng cũng có thể do khách hàng sau khi vay đã thay đổi ý định sản xuất kinh doanh hoặc vay tiền được ở một nơi khách với lãi suất thấp hơn, cũng có thể do khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích và bị buộc phải hoàn lại vốn vay. + Trả sau thời hạn đã định: khi gần đến kỳ hạn trả nợ, cán bộ tín dụng sẽ gửi giấy báo nợ cho khách hàng. Trường hợp khách hàng gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh do nguyên nhân khách quan đưa lại thì khách hàng sẽ được gân hàng gia hạn nợ sau khi cán bộ
- tín dụng thẩm định lại những nguyên nhân và biện pháp mà khách hàng đưa ra có đúng với thực tế không. Đối với các khoản vay ngắn hạn, thời gian gia hạn nợ không vượt quá một chu kỳ sản xuất kinh doanh và tối đa là 12 tháng, còn các khoản vay trung và dài hạn tối đa không quá 1/2 thời hạn cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Trường hợp khách hàng không trả được nợ do nguyên nhân chủ quan thì sẽ chuyển sang nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn. Như vậy cả hai trường hợp trả nợ trước và sau đều thể hiện chất lượng tín dụng có vấn đề. - Các điều kiện để cho vay: + Người đi vay phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. + Khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời gian cam kết. + Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, không vi phạm pháp luật, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. + Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi có hiệu quả, hoặc có dự án đầu tư phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật. + Thực hiện các quy định để đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam. - Quy trình tín dụng: quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trong việc cấp tín dụng. Quy trình bao gồm 5 bước là lập hồ sơ, phân tích tín dụng, quyết định tín dụng, giải ngân và giám sát thanh lý nợ. Việc xây dựng quy trình tín dụng chặt chẽ và hợp lý, tuân thủ các nguyên tắc cấp tín dụng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản trị, giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn cho ngân hàng, nâng cao doanh lợi cũng như đảm bảo chất lượng tín dụng. - Khả năng thu hút khách hàng: ở đây chính là việc giữ được những khách hàng truyền thống và thu hút được nhiều khách hàng mới đến vay vốn, đồng thời phát triển tốt các quan hệ với khách hàng tiềm năng.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: “Nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng tại Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình”
89 p | 728 | 285
-
Luận văn: Nâng cao chất lượng tín dụng tiêu dùng tại Sở Giao Dịch I Ngân hàng Đầu tư Và Phát triển Việt Nam
10 p | 394 | 149
-
Luận văn: Nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn tại Công ty Tài chính Dầu khí
76 p | 270 | 76
-
Luận văn: Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An
94 p | 203 | 68
-
Luận văn Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam
77 p | 152 | 41
-
Luận văn: "Nâng cao chất lượng giống cây trồng ở Công ty cổ phần giống cây trồng Thanh Hóa"
83 p | 233 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Sở giao dịch
121 p | 27 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Công ty Cổ phần Đầu tư Nước sạch Sông Đà
113 p | 31 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Tháng 8
126 p | 34 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao chất lượng nhân lực tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Eikoh Việt Nam
110 p | 23 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Vinh trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
119 p | 34 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng công chức cấp xã tại huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng
139 p | 19 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng công chức tại Tổng cục Quản lý thị trường
126 p | 25 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng nhân lực tại Công ty Cổ phần Công nghệ Giáo dục Omni School
117 p | 20 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng công chức tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
142 p | 18 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng đội ngũ bác sĩ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hưng Yên
132 p | 22 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên Công ty TNHH Thương mại và Xuất nhập khẩu Hoàng Long
132 p | 17 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng đội ngũ y, bác sĩ tại Bệnh viện đa khoa huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội
135 p | 15 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn